TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH -...

251
TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH (QUA CÁC PHẠM TRÙ MÀ NGƯỜI ĐÃ SỬ DỤNG) Tác giả: TS HOÀNG TRUNG LỜI NÓI ĐẦU Chúng ta đều biết, trên cơ sở nhận thức một cách sâu sắc vị trí và vai trò của đạo đức trong xã hội nói chung, trong sự nghiệp cách mạng nói riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có ý thức rất sớm về việc xây dựng đạo đức cách mạng. Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Người luôn luôn nói đến việc tuyên truyền, giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta. Người coi đạo đức là cái gốc, là nền tảng của người cách mạng, là nguồn nước làm cho tinh thần cách mạng không bao giờ cạn. Người thường nói, đối với con người, sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa, người cách mạng phải có đạo đức cách mạng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng. Bởi lẽ, sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp rất khó khăn, to lớn và lâu dài, đòi hỏi sự phấn đấu không ngừng của mỗi người, và hơn nữa, của nhiều thế hệ nối tiếp nhau. Thực tiễn cách mạng ở nước ta hơn 70 năm qua đã chứng minh tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng là nguồn

Transcript of TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH -...

Page 1: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINHTƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH

(QUA CÁC PHẠM TRÙ MÀ NGƯỜI ĐÃ SỬ DỤNG)

Tác giả: TS HOÀNG TRUNG

LỜI NÓI ĐẦU

Chúng ta đều biết, trên cơ sở nhận thức một cách sâu sắc vị trí và vai

trò của đạo đức trong xã hội nói chung, trong sự nghiệp cách mạng nói riêng,

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có ý thức rất sớm về việc xây dựng đạo đức cách

mạng. Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Người luôn luôn nói đến việc

tuyên truyền, giáo dục đạo đức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta. Người

coi đạo đức là cái gốc, là nền tảng của người cách mạng, là nguồn nước làm

cho tinh thần cách mạng không bao giờ cạn. Người thường nói, đối với con

người, sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa, người cách mạng

phải có đạo đức cách mạng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng. Bởi

lẽ, sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội là

sự nghiệp rất khó khăn, to lớn và lâu dài, đòi hỏi sự phấn đấu không ngừng

của mỗi người, và hơn nữa, của nhiều thế hệ nối tiếp nhau.

Thực tiễn cách mạng ở nước ta hơn 70 năm qua đã chứng minh tư

tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng là nguồn sức mạnh tinh thần vĩ đại

cho nhân dân ta làm nên Cách mạng tháng Tám thành công, kháng chiến

chống Pháp và chống Mỹ thắng lợi, giải phóng miền Nam, thống nhất đất

nước, đem lại độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân.

Trong gần 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước theo định

hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã giành được nhiều thành tựu đáng kể.

Song, bên cạnh những mặt tích cực do công cuộc đổi mới đem lại, còn có

những vấn đề làm cho chúng ta phải băn khoăn, lo lắng. Đó là sự suy thoái

đạo đức trong xã hội. Các tệ nạn tham nhũng, làm ăn phi pháp, buôn lậu diễn

Page 2: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

ra ở nhiều nơi. Nhiều cán bộ, đảng viên không giữ được phẩm chất đạo đức

đã thoái hóa, biến chất. Trước tình trạng “suy thoái về đạo đức, lối sống ở

một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức, có

quyền”, nếu chúng ta không dựa trên nền tảng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh

để khắc phục tình trạng đó, thì sự nghiệp đổi mới mà chúng ta đang tiến hành

sẽ vấp phải những trở ngại khó lường.

Gần đây, tại Hội nghị Trung ương sáu (lần 2), Đảng ta đã đi đến một

quyết định đặc biệt quan trọng: Tiến hành cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn

Đảng, tự phê bình và phê bình 30 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí

Minh. Một trong những yêu cầu cần phải đạt được trong cuộc vận động này

là: “Bồi dưỡng tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh trong toàn Đảng, toàn quân,

toàn dân, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về đạo đức, lối sống, làm cho Đảng

gắn bó máu thịt với nhân dân, Đảng - dân một ý chí, thực hiện lời dạy của

Bác “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”.

Xuất phát từ thực tiễn cách mạng nước ta hiện nay, có thể nói, việc

nghiên cứu, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng đạo đức của

Người nói riêng lù một yêu cầu cấp bách, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn lớn

lao.

Sau Đại hội VII, chúng ta đã có chương trình nghiên cứu tư tưởng Hồ

Chí Minh. Song, theo nhận định của Ban chủ nhiệm chương trình cũng như

của các chủ nhiệm đề tài thuộc chương trình này, thì cho đến nay, việc

nghiên cứu mới chỉ đạt được kết quả bước đầu, công việc nghiên cứu thường

phải tiến hành thường xuyên và lâu dài.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng đạo đức là một trong những lĩnh

vực được nghiên cứu nhiều nhất. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có công

trình nghiên cứu chuyên sâu về đạo đức cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí

Minh qua các phạm trù mà Người đã sử dụng.

Việc nghiên cứu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh qua các phạm trù mà

Người đã sử dụng, sắp xếp các phạm trù ấy thành một hệ thống, theo chúng

Page 3: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

tôi, là việc làm cần thiết, giúp cho chúng ta hiểu sâu thêm tư tưởng đạo đức

của Người, nhất là giá trị khoa học của tư tưởng này.

Trong khoa học, các phạm trù là công cụ nhận thức. Hồ Chí Minh

không có chủ định viết một công trình khoa học nghiên cứu về đạo đức,

những di sản lý luận mà Người để lại cho thấy, Người đã sử dụng hàng loạt

khái niệm, phạm trù mà chúng ta khai thác, sắp xếp lại thì đó là một công việc

có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi

mới ở nước ta hiện nay, đặc biệt là trong cuộc vận động xây dựng, chính đốn

Đảng mà chúng ta đang tiến hành.

Nghiên cứu tư tưởng đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh qua các phạm

trù mà Người đã sử dụng, sắp xếp các phạm trù ấy thành hệ thống, góp phần

làm rõ thêm tư tưởng đạo đức cùa Người để trên cơ sở đó, khẳng định ý

nghĩa của việc kế thừa, vận động và phái triển tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh

trước yêu cầu lý luận và thực tiễn đang đặt ra trong công cuộc đổi mới ở

nước ta hiện nay, đó là mục đích của chuyên khảo này.

Để đạt được mục đích ấy, trong chuyên khảo này, chúng tôi tập trung

giải quyết các nhiệm vụ sau:

- Một là, chỉ ra những phạm trù đạo đức cơ bản mà Hồ Chí Minh đã sử

dụng, làm rõ nội dung của chúng và lý giải vì sao Hồ Chí Minh lại sử dụng các

phạm trù ấy với những nội dung đó.

- Hai là, chỉ ra giá trị tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong thực tiền

cách mạng nước ta.

- Ba là, làm rõ ý nghĩa lý luận và thực tiễn của việc kế thừa, vận dụng

và phát triển tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới ở nước

ta hiện nay.

Nhân đây, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới GS-TS Lê Sỹ

Thắng đã có nhiều ý kiến đóng góp sâu sắc trong quá trình hoàn tất bản thảo

để xuất bản. Tác giả cũng xin chân thành cảm ơn Hội đồng Khoa học Viện

Triết học, cảm ơn GS-TS Nguyễn Trọng Chuẩn (Chủ tịch Hội đồng), GS, Viện

Page 4: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

sỹ Nguyễn Duy Quý, GS Vũ Khiêu, GS Trần Thành, PGS-TS Đặng Hữu Toàn

cùng toàn thể các thành viên trong Hội đồng về những đóng góp quý giá trong

học thuật. Tác giả xin chân thành cảm ơn Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hồ

Chí Minh đã biên tập và cho xuất bản cuốn sách này.

TP. Hồ Chí Minh, ngày 01/01/2005

TÁC GIẢ

Chương 1. HỒ CHÍ MINH VÀ CUỘC CÁCH MẠNG TRÊN LĨNH VỰC ĐẠO ĐỨC Ở VIỆT NAM

Đáp ứng yêu cầu của thực tiễn cách mạng trong thời đại mới, phù hợp

với tiến trình phát triển nền đạo đức mới của dân lộc ta dưới ánh sáng của

chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã thực hiện một cuộc cách mạng trên

lĩnh vực đạo đức.

Các nhà nghiên cứu của chúng ta đã chỉ ra đầy đủ và sâu sắc các điều

kiện khách quan và chủ quan đưa đến vai trò lịch sử của Hồ Chí Minh trong

việc tiếp thu, truyền bá và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực

tiễn cách mạng Việt Nam. Cũng đã có một số công trình đề cập đến vai trò

lịch sử của Người trong việc thực hiện cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức.

Nối tiếp các nhà nghiên cứu đi trước, dưới đây chúng tôi tập trung giải quyết

các vấn đề sau đây:

- Tư tưởng đạo đức truyền thống dân tộc và sự bất cập của nó trong

thời đại mới.

- Những tư tưởng đạo đức cơ bản của C. Mác, Ph. Ănghen và V.I.

Lênin - nguồn gốc lý luận của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.

- Về khái niệm “Đạo đức cách mạng” mà Hồ Chí Minh đã sử dụng.

- Tư tưởng của Hồ Chí Minh về vị trí của đạo đức và mối quan hệ giữa

đức và tài.

Page 5: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

I. TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG VÀ SỰ BẤT CẬP CỦA NÓ TRONG THỜI ĐẠI MỚI

1. Tư tưởng đạo đức truyền thống dân tộc trong thời kỳ phong kiến

Xây dựng đạo đức là nhu cầu tất yếu, khách quan của bất cứ xã hội

nào. Việt Nam cũng như mọi dân tộc khác luôn coi trọng đạo đức và có truyền

thống đạo đức của mình. Tuy nhiên, coi trọng đạo đức đến đâu, chú trọng đến

những nội dung nào của đạo đức, đề cao những phạm trù nào, đặt đạo đức

trên cơ sở thế giới quan nào thì lại tuỳ thuộc vào các điều kiện iịch sử cụ thể

của mỗi dân tộc. Ngay đối với một dân tộc, các vấn đề kể trên cũng được giải

quyết một cách khác nhau trong những thời điểm lịch sử khác nhau.

Đặc điểm nổi bật của lịch sử Việt Nam là: Nước ta xuất hiện sớm và

trong suốt quá trình tồn tại, phát triển phải thường xuyên chống thiên tai và sự

xâm lược của những nước mạnh hơn nhiều lần. Để chiến thắng trong các

cuộc chiến tranh đó, dân tộc ta phải phát huy tối đa yếu tố tinh thần, trong đó

đạo đức giữ vai trò hết sức quan trọng. Chính quá trình ấy đã hình thành ở

nước ta một truyền thống hết sức quý báu là coi trọng đạo đức.

Sự coi trọng và đề cao đạo đức được thể hiện rõ trong nhiều dẫn

chứng lịch sử, từ Hai Bà Trưng cho đến các văn thân, sỹ phu yêu nước, các

anh hùng, liệt sĩ hữu danh và vô danh suốt từ thời kỳ Bắc thuộc cho đến thế

kỷ XX. Các nhà chính trị, tư tưởng, văn hoá của dân tộc ta trong suốt thời kỳ

phong kiến cũng đã nói nhiều, viết nhiều về đạo đức. Có thế nói rằng, trong di

sản văn chương bác học mà ngày nay chúng la còn lưu giữ được, các tác

phẩm giành riêng cho đạo đức chiếm vị trí hàng đầu, đời nào cũng có. Thời

Trần, tác phẩm “Khóa hư lục” (tác phám nghiên cứu Phật học của Trần Thái

Tông) đã dành phần lớn số trang cho việc khắc phục các tệ nạn phi đạo đức

do ngũ quan gây ra (bệnh của mắt, của tai...) và đề xướng những quan điểm

đạo đức theo quan niệm của Phật giáo đã thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước

của thời đại lúc bấy giờ. Sang thời Lê, Nguyễn Trãi đã mở đầu bài “Bình Ngô

đại cáo” bằng hai phạm trù đạo đức: nhân, nghĩa. Ông đã viết thay Lê Thái Tổ

Page 6: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

bài “Hậu tư huấn" (Bài dạy con), trong đó đạo đức chiếm một ví trí quan trọng.

Ngoài ra, trong hơn 50 bài thơ nôm tập hợp trong “Bảo kính cánh giới”,

Nguyễn Trãi đã đề cập đến những vấn đề thuộc nhân sinh quan và đạo đức.

Thế kỷ thứ XVIII có tác phẩm “THÁNH MÔ HIỀN PHẠM” (nêu những

gương đạo đức, những quy phạm đạo đức) của Lê Quý Đôn. Đặc biệt, Ngô

Thì Nhậm đã để lại một tác phẩm đồ sộ chuyên bàn về đạo đức là “XUÂN

THU QUẢN KIẾN”. Tác phẩm này mở đầu bằng câu định nghĩa về Đạo: "Đạo

có gì khác đâu, trung hiếu mà thôi vậy”. Tiếp đó, trong suốt tác phẩm, Ngô Thì

Nhậm đã bàn về trung hiếu qua những sự kiện lịch sử của nước Lỗ.

Đến thế kỷ thứ XIX, ở nước ta đã xuất hiện nhiều bài thơ văn của các

lãnh tụ kháng chiến như Phan Đình Phùng, Nguyễn Quang Bích, Nguyễn

Xuân Ôn. v.v. bàn về đạo làm người, về lẽ sống chết, về các phạm trù đạo

đức như trung hiếu...

Trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, các tác phẩm như “Lục Vân Tiên”,

“Ngư Tiều vấn đáp”, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”, v.v. đều có đề cập tới các

vấn đề đạo đức.

Thời kỳ này còn có các tác phẩm “CẦN KIỆM VỰNG BIÊN” của

Nguyễn Đức Đạt, “TỪ THỤ YẾU QUY” của Đặng Huy Trứ, “CƯ GIA KHUYẾN

GIỚI TẮC” của Đặng Xuân Bảng, v.v. Như vậy có thể thấy rằng cha ông ta

thời phong kiến đã hết sức coi trọng đạo đức.

Trong văn học dân gian có rất nhiều những câu tổng kết có giá trị như

là những mệnh đề về đạo lý. Chẳng hạn như “Cái nết đánh chết cái đẹp”,

“Khen nết hay làm, không khen nết hay ăn”. Đó là chúng ta còn chưa kể đến

những hình tượng, văn học và các truyền thuyết lịch sử gắn bó rất chặt chẽ

với quan niệm đạo đức của dân tộc. Có thể nói, chính hoàn cảnh lịch sử như

chúng tôi phân tích ở trên đã quy định rằng nội dung cơ bản, xuyên suốt lịch

sử truyền thống đạo đức của dân tộc ta là chủ nghĩa yêu nước, là tinh thần

cộng đồng.

Page 7: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Đúng như Hồ Chí Minh đã tổng kết: Lẽ sống của dân tộc ta là “KHÔNG

CÓ GÌ QUÝ HƠN ĐỘC LẬP TỰ DO”. Lẽ sống này được thể hiện một cách

tuyệt vời qua hình tượng cậu bé làng Gióng: Khi có giặc ngoại xâm thì vươn

vai đứng dậy, trở thành người khổng lồ để giết giặc cứu nước, sau đó thì bay

thẳng về trời, không màng đến danh lợi nơi trần gian. Còn có thể bắt gặp lẽ

sống ấy trong “Hịch tướng sĩ” của Trần Hưng Đạo: “Ta thường tới bữa quên

ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ giận chưa xả

thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù, dẫu cho trăm thây này phơi ngoài nội

cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa cũng nguyện xin làm”, trong tấm gương

Lê Lai vì nước mà đổi áo bào chết thay cho Lê Lợi, và biết bao tấm gương hi

sinh vì nước, vì độc lập tự do của Tổ quốc suốt từ thời Hai Bà Trưng cho đến

các lãnh tụ nghĩa quân cuối thế kỷ XIX. Đương nhiên, còn phải kể đến hàng

triệu liệt sĩ vô danh như các anh hùng liệt sĩ mà Nguyễn Đình Chiểu ca ngợi

trong “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”.

Về tinh thần cộng đồng, chúng ta tự hào có truyền thuyết Âu Cơ là một

dẫn chứng nói lên tinh thần gắn bó chặt chẽ hết mức, tinh thần đoàn kết dân

tộc. Cùng với “bọc trăm trứng” của bà Âu Cơ còn có truyền thuyết của các

dân tộc ít người chung sống trên mảnh đất Việt Nam. Ngoài ra, còn có hàng

loạt câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ nói về tinh thần cộng đồng ấy. Chẳng

hạn:

“Bầu ơi thương lấy bí cùng,

Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”, v.v.

Đã có truyền thống chung cho cả dân tộc, nhưng trong chế độ phong

kiến nước ta, cũng như trong bất kỳ xã hội có sự phân chia giai cấp nào khác,

đạo đức là có tính giai cấp. Trong xã hội phong kiến Việt Nam luôn tồn tại

những quan điểm đạo đức khác nhau của các giai cấp, các tầng lớp xã hội,

các thế lực khác nhau. Trong giai cấp phong kiến cũng có tầng lớp yêu nước,

tiến bộ, lại có tầng lớp phản động, bảo thủ. Bởi vậy, cũng đã từng diễn ra

những cuộc đấu tranh giữa tư tưởng yêu nước, thương dân, nhân ái với các

quan điểm bảo thủ, phản động. Trong lịch sử Việt Nam không có truyền thống

Page 8: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

bút chiến mà một trong những nguyên nhân là do nghề in không phát triển,

không có các phương tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên, trong phạm vi có

thể nói là rất riêng, trong phạm vi thư từ, thơ ca, ở nước ta cũng đã có những

cuộc tranh luận về đạo đức, tập trung chủ yếu chung quanh các phạm trù

trung hiếu. Đó là những cuộc tranh luận giữa Ngô Thì Nhậm và Trần Danh

Án, giữa Phan Văn Trị và Tôn Thọ Tường, giữa văn thân Nghệ Tĩnh và Tự

Đức. Ngô Thì Nhậm đã bỏ vương triều Lê Trịnh mà bản thân ông cùng dòng

họ suốt đời chịu ơn sâu nặng để đi theo và tận lực phục vụ vua Quang Trung.

Do hành động đó, Trần Danh Án đã phê phán Ngô Thì Nhậm là bất trung, bất

hiếu (ông đã đứng trên quan điểm bảo thủ để phê phán Ngô Thì Nhậm), ở

nước ta cũng đã có nhiều người sử dụng thơ văn để lột trần chân tướng phản

nước hại dân, bất trung, bất hiếu. Đó là sự phê phán tên phản quốc Tôn Thọ

Tường, khi tên này dùng thơ văn đê biện minh cho hành động xấu xa của

hắn. Di sản thơ văn của Phan Đình Phùng. Nguyễn Quang Bích, Nguyễn

Xuân Ôn vào nửa thế kỷ XIX cũng đã để lại cho chúng ta những trang bác bỏ

các luận điểm phản quốc, những quan điểm lệch lạc về trung hiếu của những

kẻ làm tay sai cho chủ nghĩa thực dân.

Từ thế kỷ XVIII, chế độ phong kiến Việt Nam đã lâm vào khủng hoảng

hết sức sâu sắc, các cuộc khới nghĩa của nông dân liên tục diễn ra suốt thế

kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX. Trước tình hình đó, một số sĩ phu, như Nguyễn

Hữu Cầu, Cao Bá Quát... đã có những quan điểm, hành động bác bỏ quan

niệm chính thống, một chiêu về trung hiếu bằng hành động lãnh đạo các cuộc

khởi nghĩa của nông dân chống lại triều đình.

Có thể nói dân tộc la là một dân tộc có truyền thống coi trọng đạo đức,

biết lấy tinh thần yêu nước, tinh thần cộng đồng dân tộc và tinh thần nhân văn

làm nền tảng cơ bản để xây dựng quan hệ và hành vi đạo đức. Tuy nhiên,

đến cuối thế kỷ XIX, khi mà hệ tư tưởng phong kiến nói chung và những kinh

nghiệm lịch sử đã được tổng kết trong sự nghiệp giải phóng và bảo vệ Tổ

quốc không còn đủ sức đáp ứng yêu cầu của thực tiễn bảo vệ Tổ quốc trong

thời đại mới, thì các tư tưởng đạo đức thuộc về hệ tư tưởng phong kiến cũng

Page 9: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

trở nên bất cập trong thời đại mới. Thực tiễn giải phóng dân tộc đòi hỏi đạo

đức truyền thống cũng phải được nâng lên một tầm cao mới.

Đầu thế kỷ XX, cùng với nhu cầu phải tìm ra một hệ tư tưởng mới cao

hơn hệ tư tưởng phong kiến, soi sáng con đường cứu nước thì nhu cầu về

một cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức cũng trở nên cấp thiết.

Thế hệ sĩ phu yêu nước hồi đầu thế kỷ trong khi tiếp thu ảnh hướng

của một số học thuyết tư sản cũng đã đưa ra một số tư tưởng mới. Dưới đây

chúng tôi sẽ đề cập đến những vấn đề này.

2. Tư tưởng đạo đức của thế hệ sỹ phu yêu nước đầu thế kỷ XX

Ở nước ta, thế hệ sỹ phu yêu nước đầu thế kỷ XX đã tỏ ra rất say mê

đối với một số học thuyết tư sản mà tân thư và tân văn đưa vào, nổi bật là tư

tưởng dân chủ và tiến hoá luận, trong đó có thuyết cạnh tranh sinh tồn.

Một số vấn đề đạo đức cũng đã được thế hệ sỹ phu yêu nước này đề

cập đến trong các trước tác của mình. Chẳng hạn, Phan Bội Châu đề cập đến

phạm trù đạo đức truyền thống qua việc xây dựng những hình tượng văn học

mang phẩm chất anh hùng, yêu nước, thương dân trong các tác phẩm như

“TRÙNG QUANG TÂM SỬ” và các tác phẩm về các anh hùng, liệt sĩ trong

lịch sử dân tộc và trong phong trào cứu nước hồi đầu thế kỷ. Cũng như Phan

Chu Trinh, khi sử dụng phạm trù mới “Công đức”, Phan Bội Châu giải thích

rằng: “Công đức” là nền đạo đức quan tâm đến các lợi ích chung, đặt lợi ích

chung lên trên lợi ích riêng. “Công đức” là phạm trù được sử dụng trong tân

thư thuộc hệ tư tưởng tư sản.

Tư tưởng về đạo đức của thế hệ hai cụ Phan còn thể hiện rõ ở tấm

gương hy sinh oanh liệt của nhiều liệt sĩ thời bấy giờ.

Tuy nhiên, ngay cả Phan Bội Châu cũng chưa dành cho đạo đức một

bài viết riêng hoặc một chương, tiết nào trong các tác phẩm của ông. Chỉ có

riêng Phan Chu Trinh là đã viết một chuyên đề về đạo đức. Tính đến thời

điểm năm 1925 thì bài diễn thuyết “ĐẠO ĐỨC VÀ LUÂN LÝ ĐÔNG TÂY” của

ông tại Sài Gòn đêm 19/11/1925 là tài liệu nổi bật, có thể gọi là tiêu biểu hồi

Page 10: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

đầu thế kỷ bàn về đạo đức và luân lý. Do vị trí của nó quan trọng như vậy,

dưới đây chúng tôi xin giới thiệu về bài viết kể trên:

Trong bài diễn thuyết này, Phan Chu Trinh đã gộp các khái niệm “đạo

đức” và “luân lý” thành một khái niệm “đạo đức luân lý”. Bởi, với ông, “đạo

đức gồm cả luân lý mà luân lý chỉ là một phần trong đạo mà thôi”. Tuy nhiên,

ông cũng phân biệt đạo đức với luân lý. Ông cho rằng đạo đức không bao giờ

thay đổi, vì nó là đạo làm người, mà đạo làm người thì ở đâu và bao giờ cũng

vậy, ở đâu và bao giờ cũng là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cần, kiệm: còn luân lý

thì mỗi nơi, mỗi thời một khác.

Theo Phan Chu Trinh, luân lý đã tiến triển từ gia đình luân lý sang quốc

gia luân lý rồi đến xã hội luân lý. Gia đình luân lý bó hẹp trong quan hệ gia

đình: quốc gia luân lý phân biệt rành rọt vua và nước, coi trọng nền dân chủ

và coi chế độ quân chủ là không chính đáng.

Vẫn theo Phan Chu Trinh, sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, tất cả

các nước, dù là thua trận hay thắng trận, đều “khốn khổ”, cho nên các nhà

“đại chính trị”, “đại triết học”, “đại giáo dục” “đều biết rằng cái thời đại quốc gia

đã qua không thể duy trì lại được nữa, đành phải bỏ mà tiến lên thời đại xã

hội vậy... “Phong trào xã hội bây giờ cuồn cuộn như nước nguồn đang đổ, thì

làm sao ngăn lại được nữa. Cuộc đại thắng của xã hội luân lý sau này cũng là

việc dĩ nhiên”.

“Phong trào xã hội” mà Phan Chu Trinh nói đến ở đây dường như là

ông muốn nói đến cách mạng xã hội chủ nghĩa và gắn bước tiến từ “quốc gia

luân lý” lên “xã hội luân lý” với bước tiến tất yếu từ xã hội dân chủ sang xa hội

xã hội chủ nghĩa.

“Xã hội luân lý” là cái gì? - Phan Chu Trinh giải thích rằng, nó “không

phải là cái luân lý cường quyền của chính phủ đối với dân. cũng không phải là

sức mạnh của nước nọ đối với nước kia, mà chính là trong nước thì lấy người

này đối với người kia, suy rộng ra thế giới thì lấy người đối với loài người”.

Page 11: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Đọc câu vừa được trích dẫn, có thể nghĩ rằng Phan Chu Trinh nói đến

đạo đức, luân lý xã hội chủ nghĩa; nhưng khi đọc đoạn dưới đây thì chúng ta

lại thấy dường như Phan Chu Trinh nói đến đạo đức, luân lý trong xã hội tư

sản: “Muốn cho dễ hiểu, trong cả nước người này đối với người kia nghĩa là:

người có giúp cho người không, người mạnh giúp cho người yếu như là bên

nước họ mấy nhà giầu bỏ tiền lập nhà thương, trường học cho con nhà

nghèo, những kẻ đi đường thấy người yếu bị đè nén thì hết sức bênh vực,

v.v...”. Rõ ràng, những việc mà Phan Chu Trinh vừa điểm tới đều xẩy ra ở xã

hội tư sản và không có gì gắn bó với đặc trưng chủ nghĩa xã hội. Có thể là

điều kiện diễn thuyết hợp pháp dưới sự giám sát chặt chẽ của bọn thực dân

đã buộc Phan Chu Trinh không thể nói về các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội,

cũng có thể là Phan Chu Trinh không có được nhận thức đầy đủ về chủ nghĩa

xã hội. Dẫu sao, điều quan trọng cần phải ghi nhận là ông đã khẳng định sự

tồn tại của xã hội luân lý - một nền luân lý cao hơn cái mà ông gọi là quốc gia

luân lý và đồng nhất (cái quốc gia luân lý ấy) với nền luân lý tư sản.

Trong bài diễn thuyết, Phan Chu Trinh còn đề cập đến nhiều vấn đề

khác, như: vị trí, vai trò của đạo đức, luân lý: thực trạng đạo đức, luân lý dân

tộc: thực trạng đạo đức luân lý Âu châu, sự khác biệt giữa đạo Khổng - Mạnh

với quan điểm của các hủ nho Việt Nam và sự tương đồng giữa đao Khổng -

Mạnh với đạo đức luân lý châu Âu dân chủ: vấn đề kế thừa truyền thống đạo

đức dân tộc và tiếp thu đạo đức, luân lý Âu châu...

Về vị trí, vai trò của đạo đức, Phan Chu Trinh viết: “...Từ xưa đến nay,

bất cứ dân tộc nào, bất luận quốc gia nào, dầu vàng, dầu trắng, dầu yêu, dầu

mạnh, đã đứng cạnh tranh hơn thua với các dân tộc trên thế giới thì chẳng

những nhờ có sức mạnh mà thôi, mà phải ngờ có đạo đức làm gốc (chúng tôi

nhấn mạnh - HT) nữa: nhất là dân tộc nào bị té nhào xuống, nay muốn đứng

lên khỏi người đè lên trên, thì lại vẫn phải có một cái nền đạo đức vững chặt

hơn các dân tộc đương giầu mạnh hơn mình”.

Như vậy, có thể thấy, trong đoạn trích dẫn bên trên, Phan Chu Trinh

trước hết khẳng định vai trò của đạo đức. Nổi bật ở đây - cũng là cái riêng

Page 12: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

của Phan Chu Trinh - là ở chỗ, ông đã xem xét vai trò của đạo đức đối với

vận mệnh của dân tộc, nhất là vận mệnh của các dân tộc bị áp bức trong thời

buổi cạnh tranh tư bản chủ nghĩa.

Ở đây, có thể thấy, Phan Chu Trinh có tầm nhìn xa, vượt qua tầm nhìn

truyền thống thường chỉ xem xét vai trò của đạo đức đối với các cá thể con

người (tuy vẫn đặt tu thân trong quan hệ với tề gia, trị quốc, bình thiên hạ).

Và, nhất quán với cách xem xét trên, Phan Chu Trinh coi tình trạng suy sụp,

trì trệ của đạo đức là nguyên nhân dẫn đến việc nước ta mất, dân ta hèn yếu;

vì vậy phải ra sức bồi đắp nền đạo đức của dân tộc. Ông viết: “Nước ta mất

cũng vì mất đạo đức luân lý, bị nước khác khinh bỉ dày xéo cũng vì mất đạo

đức luân lý, vì vậy ta phải sửa đổi, bồi đắp nền đạo đức luân lý của ta lên”.

Tư tưởng quan trọng nhất của Phan Chu Trinh về vị trí và vai trò của

đạo đức, luân lý là sự khẳng định rằng đạo đức là gốc (so với sức mạnh) của

vận mệnh dân tộc. Đây là một chân lý phổ biến mà ở nước ta, Phan Chu

Trinh là người đầu tiên phát biểu dưới dạng lý luận.

Về thực trạng dân tộc (vào thời điểm 1925), Phan Chu Trinh cho rằng

luân lý đang ở tình trạng “đổ nát”, “gia đình luân lý của nước nhà ngày nay

truỵ lạc”, “con người tập nhiễm thói nô lệ từ tấm bé”, vẫn theo Phan Chu

Trinh, ở nước ta không có quốc gia luân lý, dân ta không biết dân quyền là gì,

nghĩa vụ là gì, dân ta cũng không biết ái quốc là gì, chỉ biết vua mà không biết

nước, chỉ biết nghĩa tôn quân mà không biết nghĩa ái quốc.

Sự đánh giá của Phan Chu Trinh tuy có giá trị thức tỉnh lòng yêu nước

và có những điểm đúng, nhưng không khỏi có những điểm sai, phiến điện.

Và, phù hợp với đường lối chính trị căn bản của ông, Phan Chu Trinh đã tập

trung mũi nhọn phê phán vào chế độ chuyên chế của vua quan. Ông viết: “Cái

nền luân lý ở Á Đông như nước ta ngày nay đổ nát như thế, là bởi các nhà

vua chuyên chế làm sai hết đạo Khổng Mạnh mà ra”. Phối hợp với sự chuyên

chế của vua quan phong kiến là sự chuyên chế, độc đoán, sự giáo dục sai lạc

của nhà trường Nho học và bọn hủ nho: “Chẳng những vua quan chuyên chế

mà thôi, lại lập mưu kéo cả kẻ làm cha, làm chồng vào cái cạm bẫy ấy nữa,

Page 13: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

để tiện cho việc chuyên chế của bọn họ. Một bọn hủ nho mắc cạm, còn vẽ rắn

thêm chân vào, đem những tư tưởng rất nông nổi truyền bá ra để trói buộc

nhân gian”.

Phan Chu Trinh hoàn toàn đúng khi phân biệt nho học của Khổng Tử

và Mạnh Tử với tư tưởng của bọn hủ nho. Ông cũng đúng khi bênh vực

những tư tưởng tích cực của học thuyết Khổng - Mạnh mà ông trích dẫn, như

tư tưởng đòi từ vua đến dân thường ai cũng phải lấy tu thân làm gốc, tư

tưởng đòi cả dân và vua đều phải có đạo đức trong quan hệ với nhau, dân thì

phải yêu kính vua như cha mẹ, vua thì phải thương dân như con đẻ. Nổi bật

là mệnh đề “dân vi quý, quân vi khinh”. Mặt khác, trong một chừng mực nào

đó, Phan Chu Trinh còn “hiện đại hoá” tư tưởng Khổng - Mạnh, khi nhận xét

rằng trong học thuyết ấy có các tư tưởng bình đẳng, dân chủ, v.v... của xã hội

tư sản. Ông viết: “Văn minh Âu châu bây giờ có trái gì với đạo Khổng - Mạnh

đâu” và “… đem văn minh Âu châu về đã không hại gì mà lại còn làm cho rõ

ràng thêm đạo Khổng - Mạnh ra”.

Loại trừ những gì là cực đoan trong việc đồng nhất học thuyết Khổng -

Mạnh với hệ tư tướng tư sản, giá trị tư tướng Phan Chu Trinh là ở chổ, tại

nước ta, ông là một trong những người đầu tiên đặt ra và giải quyết trên tinh

thần yêu nước và tiến bộ vấn đề giao lưu văn hóa Đông - Tây trong lĩnh vực

đạo đức, luân lý. Phương hướng cơ bản mà ông chỉ ra là cần phải tiếp thu

văn minh phương Tây và kế thừa di sản văn hoá của dân tộc.

Về vấn đề kế thừa di sản văn hoá của dân tộc, Phan Chu Trinh viết:

“Phàm đã là dân tộc sinh toàn trên hoàn vũ, đã có một cái lịch sử chính đáng,

thì phải giữ gìn những sự vẻ vang trong lịch sử của dân tộc mình, nghĩa là gìn

giữ lấy những đức tính hay tính tốt mấy trăm ngàn năm cha ông để lại, khiến

cho nước nào, dân tộc nào đối với mình cũng đem lòng kính trọng. Nói tóm lại

là cái tinh chất của dân tộc đã trải lâu năm kết tinh lại... mãi không mòn...

đánh không bể thì mới gọi là đạo đức được”.

Có thể nói, Phan Chu Trinh đã đúng khi giải quyết như trên vấn đề kế

thừa tinh hoa truyền thống đạo đức dân tộc. Quan trọng hơn, ông đã gợi mở

Page 14: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

vấn đề phải nâng truyền thống lên một trình độ mới và cao hơn về chất để

theo kịp các nước Âu châu, kể cả theo kịp trình độ mà ông gọi là “xã hội luân

lý” mà chúng tôi đã có dịp phân tích bên trên. Ở đây, chúng ta gặp phạm trù

CÔNG ĐỨC. Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, từ thế kỷ XIX trở về trước, có

phạm trù Đức: công đức được Phan Chu Trinh và thế hệ sĩ phu yêu nước tiếp

thu từ tân thư, tân văn. Công lao của Phan Chu Trinh là ở chỗ, tại Việt Nam,

ông là người đầu tiên trình bày nội hàm của phạm trù ấy, hơn nữa đã đưa vào

nội hàm của phạm trù, dù là buộc phải che dấu hay do nhận thức chưa chính

xác, hình bóng của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô.

Phan Chu Trinh chỉ ra rằng, công đức ra đời cùng với bước tiến từ

“quốc gia luân lý” sang “xã hội luân lý”, tuy nhiên, do có mâu thuẫn trong

chính quan niệm của ông về “xã hội luân lý” nên trong quan niệm của ông về

“công đức” cũng có mâu thuẫn giữa tính chất xã hội chủ nghĩa và tính chất

dân chủ tư sản. Dẫu sao, trong một ý tứ rất ngắn gọn mà Phan Chu Trinh đã

viết “Có công đức biết giữ lợi chung” - chúng ta có thể thấy thấp thoáng phạm

trù “đạo đức xã hội chủ nghĩa” mà Hồ Chí Minh sử dụng sau này.

* * *

Tóm lại, trong hơn 20 năm đầu thế kỷ XX, tư tưởng đạo đức, luân lý

Việt Nam nằm trong sự chuyển biến từ hệ tư tưởng phong kiến lướt qua hệ tư

tưởng tư sản để rồi tiến đến tiếp thu hệ tư tưởng vô sản.

Trong sự chuyển biến nói trên, cả ở hệ tư tưởng nói chung lẫn ở bình

diện tư tưởng đạo đức, luân lý nói riêng. Phan Chu Trinh là người có những

đóng góp nổi bật so với thế hệ sĩ phu yêu nước mà cùng với Phan Bội Châu,

ông là đại biểu.

Nói riêng lĩnh vực tư tưởng đạo đức, luân lý, bài diễn thuyết trong đêm

19/11/1925 là tác phẩm duy nhất của cả bản thân ông lẫn thế hệ sĩ phu bàn

về đề tài đạo đức, luân lý. Tuy là duy nhất, nhưng tác phẩm này có giá trị lý

luận và thực tiễn, mang tính thời sự nóng hổi vào lúc đương thời.

Page 15: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Có thể nói, công lao của Phan Chu Trinh là ở chỗ, ông đã đặt ra những

vấn đề rất cơ bản và nêu lên một số kiến giải mà cho đến nay, những kiến

giải đó vẫn còn có giá trị.

Phan Chu Trinh đã thực hiện một bước tiến có giá trị khoa học trong

tiến trình phát triển tư tưởng đạo đức của dân tộc. Tuy nhiên, không thể đánh

giá rằng ông đã thực hiện một cuộc cách mạng trong lĩnh vực này. Sở dĩ như

vậy là do địa vị mờ nhạt của hệ tư tưởng tư sản (mà Phan Chu Trinh tiếp thu

và thể hiện trong tư tưởng của ông về đạo đức, luân lý) trong lịch sử và lịch

sử tư tưởng Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX, do những thiếu sót, những mâu

thuẫn bên trong tư tưởng của ông, và quan trọng hơn cả, do tư tưởng của

ông không được đưa vào thực tiễn cách mạng.

Ở Việt Nam, sứ mệnh tiến hành một cuộc cách mạng triệt để trong thực

tiễn cũng như trong lý luận, trong toàn bộ hệ tư tưởng cũng như trong lĩnh

vực đạo đức đã được lịch sử giao cho Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.

II. NHỮNG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC CỦA C. MÁC, PH. ĂNGGHEN VÀ V.I. LÊNIN - NGUỒN GỐC LÝ LUẬN CỦA TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH

Sự ra đời của giai cấp công nhân và cuộc đấu tranh của nó chống lại

giai cấp tư sản là tiền đề kinh tế - xã hội đưa đến sự ra đời của chủ nghĩa

Mác. Khi sáng lập ra học thuvết khoa học và cách mạng của mình, các nhà

kinh điển của chủ nghĩa Mác đã dựa trên thế giới quan duy vật biện chứng và

duy vật lịch sử để thực hiện cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức.

Muốn hiểu cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức mà Hồ Chí Minh đã

thực hiện ở Việt Nam thì trước hết, phải hiểu cuộc cách mạng mà C. Mác, Ph.

Ăngghen và V.I. Lênin đã thực hiện trên lĩnh vực này.

Khi xác định nguồn gốc của đạo đức, C. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng:

Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội và biến đổi

theo sự biến đổi của tồn tại xã hội. Những thời đại lịch sử khác nhau có

những yêu cầu đạo đức khác nhau và do vậy, muốn tìm hiểu một hiện tượng

Page 16: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

đạo đức không thể dừng lại ở chỗ giải thích nội dung khái niệm của nó, mà

phái đi sâu tìm hiểu nguồn gốc xã hội, đặc điểm kinh tế, cơ sở giai cấp, nghĩa

là tìm hiểu tồn tại xã hội đã sản sinh ra hiện tượng đạo đức ấy.

Ph. Ăngghen đã khẳng định: “Xét cho đến cùng, mọi học thuyết về đạo

đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội

lúc bấy giờ”.

Theo C. Mác và Ph. Ăngghen, mọi học thuyết đạo đức đã có từ trước

đến nay đều mang tính giai cấp. Trong xã hội cận đại, các giai cấp phong

kiến, tư sản và vô sản, mỗi giai cấp đều có nền đạo đức của mình. “Con

người dù tự giác hay không tự giác, rút cuộc đều rút ra những quan niệm đạo

đức riêng của mình từ những quan hệ thực tiễn đang làm cơ sở cho vị trí giai

cấp của mình, tức là từ những quan hệ kinh tế trong đó người ta sản xuất và

trao đổi”.

Không những có sự khác nhau về đạo đức giai cấp mà còn có sự khác

nhau về đạo đức dân tộc và thời đại: “Từ dân tộc này sang dân tộc khác, từ

thời đại này sang thời đại khác. Nhưng quan niệm về thiện và ác đã biến đổi

nhiều đến mức chúng thường trái ngược hẳn nhau”.

Trong quá trình phát triển, đạo đức cũng như mọi hình thái ý thức xã

hội khác, luôn có tính độc lập tương đối. Những giai cấp mới thường mượn

những quan niệm đạo đức của thời đại trước, gạt bỏ những cái gì không phù

hợp, giữ lại những cái gì có ích, phù hợp với những quan hệ kinh tế mới, với

lợi ích của giai cấp mình. Nếu những điều kiện kinh tế mới có những điểm

tương đồng với những quan hệ kinh tế trước đây thì một số quy tắc, chuẩn

mực đạo đức cũ được giữ lại trong điều kiện xã hội mới.

C. Mác và Ph. Ăngghen đã kiên quyết gạt bỏ những học thuyết đạo đức

có tính chất tôn giáo, duy tâm, những học thuyết đạo đức được rút ra từ một

nguồn gốc phi lịch sử: từ thượng đế, từ ý niệm tuyệt đối, từ ý thức, từ một tính

người trừu tượng...

Page 17: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Ngay từ tác phẩm đầu tiên của mình. C. Mác đã tấn công vào mọi quan

điểm triết học duy tâm và từ đó phê phán sâu sắc các học thuyết đạo đức tôn

giáo. Trong luận án tiến sĩ, ở phần “Đạo đức học của Epiquya”. C. Mác đã

đem hết nhiệt tình ca ngợi chủ nghĩa vô thần ở nhà triết học cổ đại này. Công

lao của Epiquya, theo C. Mác, là ở chỗ, ông khẳng định cái thiện không phải

bắt nguồn từ thế giới bên kia, mà là sản phẩm của trái đất, của xã hội loài

người. Tuy nhiên, C. Mác cũng đã phê phán khuyết điểm của Epiquya là đã

tuyên truyền cho một thứ đạo đức thoát ly hiện thực xã hội.

Đánh giá công lao của Hêghen trong lĩnh vực đạo đức. C. Mác cho

rằng: Hêghen đã trình bày những phạm trù đạo đức, đặc biệt là cái thiện và

cái ác, trong những mâu thuẫn nội tại và sự chuyên hoá giữa chúng với nhau.

Hêghen đã nhận thấy quá trình phát triển của lịch sử và trong những điều kiện

cụ thể, cái ác có thể trở thành cái thiện và cái thiện có thể trở thành cái ác.

Mặt khác, C. Mác cũng cho rằng những thiếu sót cơ bản của đạo đức

học Hêghen là ở chỗ, Hêghen đã quan niệm đạo đức như là một ý niệm độc

lập đối với thế giới khách quan, đối với những quan hệ xã hội thực tế và do

vậy ông đã đi đến chỗ thần bí hoá các quan hệ xã hội.

Ph. Ăngghen đã dành cả ba chương trong tác phẩm nổi tiếng “Chống

Đuyrinh” để bác bỏ quan điểm duy tâm của Đuyrinh và trình bày quan điểm

duy vật về đạo đức.

Khi phê phán những quan điểm đạo đức tôn giáo, C. Mác và Ph.

Ăngghen đã chứng minh rằng trong suốt thời kỳ lịch sử xã hội có giai cấp, đạo

đức tôn giáo đã phản ánh sự thống trị của quan hệ chiếm hữu tư nhân dưới

những hình thức khác nhau: nô lệ, phong kiến và tư sản. Theo hai ông,

những nguyên tắc xã hội, kể cả những nguyên tắc đạo đức của tôn giáo, đều

bào chữa cho chủ nghĩa nô lệ cổ đại, khuyến khích sự nô dịch trung cổ và khi

cần thiết đã bênh vực sự áp bức giai cấp vô sản. Các ông kiên quyết bác bỏ

tư tưởng phản động của Hêghen trong việc bào chữa cho chế độ thối nát của

nhà nước Phổ và quan niệm nhà nước ấy như là sự thể hiện hoàn thiện nhất

của “Ý niệm đạo đức”. Trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”. Ph. Ăngghen đã chỉ

Page 18: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

ra rằng, một nền đạo đức thực sự có tính nhân đạo, đặt trên sự đối lập giai

cấp chỉ có thể có được khi đã mất đi trong thực tế sự đối lập giai cấp và sự

đối lập giai cấp trong thực tế ấy cũng mất đi trong hồi ức của loài người, của

con người. Ph. Ăngghen viết: “Một đạo đức thực sự có tính người đứng trên

những đối lập giai cấp và trên mọi hồi ức về những đối lập ấy, chỉ có thể có

được ở một trình độ phát triển của xã hội, trong đó người ta không những đã

thắng được những đối lập giai cấp mà còn quên được những đối lập ấy trong

đời sống thực tiễn”.

Khi kế thừa các quan điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen về đạo đức.

V.I. Lênin đã tập trung vào các vấn đề đạo đức trong sự nghiệp xây dựng chủ

nghĩa xã hội. Ông đã đấu tranh chống lại các quan điểm đạo đức phản động,

duy tâm và những quan điểm hư vô chủ nghĩa từ bỏ việc kế thừa di sản đạo

đức của quá khứ, hoặc duy vật tầm thường phủ nhận vai trò của đạo đức, chỉ

đề cao vai trò của kinh tế.

V.I. Lênin khẳng định vai trò của đạo đức và sự ra đời, tồn tại tất yếu

của đạo đức cộng sản chủ nghĩa: luận điểm này gắn bó chặt chẽ với tư tưởng

đề cao vai trò của con người.

V.I. Lênin luôn nhấn mạnh rằng giá trị đạo đức là ở chỗ, nó phục vụ cho

tiến bộ xã hội, cho hạnh phúc của con người. Đặc biệt là từ khi thực hiện

chính sách kinh tế mới, V.I. Lênin đã đề cập đến một số chuẩn mực đạo đức

cơ bản trong giai đoạn cách mạng mới. Trong số các chuẩn mực đạo đức cơ

bản ấy, ông đặc biệt nhấn mạnh sự trung thành với lý tưởng, với sự nghiệp

cách mạng xã hội chủ nghĩa, với hạnh phúc của con người. Ông nêu lên một

chuẩn mực đạo đức cụ thể là: học tập. Ông luôn đòi hỏi cán bộ, đảng viên,

nhân dân phải ra sức học tập kỹ thuật ở các chuyên gia và khiêm tốn tránh

bệnh kiêu ngạo cộng sản. V.I. Lênin nhắc nhở, học phải có chất lượng, phải

biết hấp thụ kiến thức, phải biết tiêu hoá, vận dụng các kiến thức vào thực tế.

Ông yêu cầu những người cộng sản không được “sợ học”, phải học các

chuvên gia tư sản, vì lúc mới giành được chính quyền, khoa học Kỹ thuật,

nghệ thuật đều nằm trong tay các chuyên gia, mà người cộng sản thì lại

Page 19: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

không có kiến thức cần thiết về các lĩnh vực ấy. Khi học các chuyên gia tư

sản, người cộng sản phải bằng cách này hay cách khác làm tốt hơn họ để

thúc đẩy sự phát triển công nghiệp, nông nghiệp. Theo ông, vấn đề là ở chỗ:

“Hãy làm tốt hơn các chuyên gia tư sản làm việc bên cạnh mình, hãy biết

dùng cách này hay cách khác mà đẩy mạnh nông nghiệp, công nghiệp lên,

mà phát triển sự trao đổi giữa nông nghiệp và công nghiệp. Chớ nên suy tính

về “học phí”, chớ có sợ phải trả đắt, miễn là thu được kết quá tốt”.

V.I. Lênin cho rằng, một nội dung lớn trong việc giáo dục cho các thế hệ

thanh thiếu niên là đạo đức cộng sản. Ông khẳng định: “Phải làm việc cho

toàn bộ sự nghiệp giáo dục, rèn luyện và dạy dỗ thanh niên ngày nay trở

thành sự nghiệp giáo dục đạo đức cộng sản trong thanh niên”.

Không chỉ lên án thói kiêu ngạo cộng sản, V.I. Lênin còn kiên quyết

chống các tệ nạn quan liêu và tham ô.

Có thể nói, khi xây dựng những tư tưởng cơ bản của đạo đức cộng sản

chủ nghĩa, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã đứng trên quan điểm

duy vật biện chứng để khẳng định rằng đạo đức tư sản nhất định sẽ bị thay

thế cùng với sự diệt vong của chế độ tư bản và rằng thắng lợi của đạo đức

cộng sản chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử, hợp với tự nhiên. Khi phát triển

những tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen về đạo đức, V.I. Lênin đã đưa ra

một kiểu đạo đức hoàn toàn mới - đạo đức của giai cấp công nhân. Đây là

một kiểu đạo đức hoàn toàn độc lập với mọi kiểu đạo đức của giai cấp bóc lột.

Ông viết: “Chúng ta nói rằng đạo đức của chúng ta hoàn toàn phụ thuộc vào

lợi ích đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản. Đạo đức của chúng ta là từ

những lợi ích của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản mà ra... Cuộc

đấu tranh giai cấp còn tiếp tục, và nhiệm vụ của chúng ta là làm cho tất cả

mọi lợi ích phải phục tùng cuộc đấu tranh này. Và đạo đức cộng sản của

chúng ta cũng phải phục tùng nhiệm vụ này. Chúng ta nói rằng: “đạo đức đó

là những gì góp phần phá hủy xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết

tất cả những người lao động xung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã

hội mới của những người cộng sản”.

Page 20: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Đạo đức cộng sản là đạo đức phục vụ cuộc đấu tranh ấy, là đạo đức

nhằm đoàn kết những người lao động chống mọi sự bóc lột. chống mọi chế

độ tư hữu nhỏ, vì chế độ tư hữu nhỏ trao cho một cá nhân thành quả lao động

do toàn xã hội sáng tạo ra.

V.I. Lênin cũng cho rằng cái gì phục vụ cho thắng lợi của chủ nghĩa

cộng sản cái ấy là đạo đức. Cơ sở nền tảng của đạo đức cộng sản là cuộc

đấu tranh đẽ củng cố và hoàn thành công cuộc xây dựng chủ nghĩa cộng sán.

Nền đạo đức cộng sản chủ nghĩa ấy đã khẳng định chủ nghĩa tập thể với

phương châm mỗi người vì tất cả, tất cả vì mỗi người, đối lập với chủ nghĩa vị

kỷ của đạo đức tư sản.

Đạo đức chủ nghĩa cộng sản ấy sẽ trở thành nền đạo đức có ý nghĩa

phổ biến toàn nhân loại khi không còn hệ thống tư bản chủ nghĩa và nói

chung không còn giai cấp nữa. “Đạo đức nào là chân chính? Không có đạo

đức nào là chân chính cả, nếu nói theo nghĩa tuyệt đối cuối cùng; nhưng tất

nhiên, thứ đạo đức hiện nay đang tiêu biểu cho sự lật đổ hiện tại, biểu hiện

cho lợi ích của tương lai. tức là đạo đức vô sản - là thứ đạo đức có một số

lượng nhiều nhất những nhân tố hứa hẹn một sự tồn tại lâu dài”.

Trong lịch sử, dân tộc và giai cấp luôn gắn liền với nhau. Mỗi một thời

đại lịch sử có một giai cấp tiên tiến, đại biểu cho dân tộc và thống trị dân tộc.

Đạo đức có tính giai cấp, tính dân tộc, tính thời đại... Đạo đức do tồn tại

xã hội quyết định mà tồn tại xã hội luôn biến đổi nên đạo đức cũng biến đổi.

Đạo đức cộng sản tương lai cũng biến đổi nên không có đạo đức chân chính

theo nghĩa tuyệt đối cuối cùng.

Sự hấp dẫn của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với Hồ Chí Minh là ở lý

tưởng giải phóng triệt để con người mà trước hết, là giải phóng giai cấp vô

sản và nhân dân lao động; rằng sự giải phóng con người phải do chính con

người đảm nhiệm và quần chúng nhân dân là người làm nên lịch sử. Hồ Chí

Minh thấm nhuần sâu sắc tư tưởng biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin,

điều đó đã giúp Người tránh được cái nhìn siêu hình và phiến diện mà nhiều

người mắc phải; đồng thời còn đem lại cho tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh sự

Page 21: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

thể hiện đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giữa Tổ quốc và

nhân loại, giữa cá nhân và xã hội, giữa truyền thống và hiện đại, giữa hôm

nay và ngày mai.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức nói chung, cũng như những phạm

trù đạo đức mà Người sử dụng nói riêng, đã được thực hiện dưới ánh sáng

của thế giới quan Mác - Lênin, của tư tưởng đạo đức cộng sản.

III. VỀ KHÁI NIỆM “ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG” MÀ HỒ CHÍ MINH ĐÃ SỬ DỤNG

Tiếp thu các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, kế thừa và phát

triển một cách sáng tạo tư tưởng của đạo đức của C. Mác, Ph. Ăngghen và

V.I. Lênin, ở Hồ Chí Minh đã hình thành những tư tưởng về đạo đức cách

mạng. Ngay từ đầu, Hồ Chí Minh đã đánh giá cao vai trò của đạo đức trong

sự nghiệp cách mạng. Theo Người, đạo đức là một điều kiện cần thiết để duy

trì và phát triển đời sống xã hội. Chân lý đó đúng với mọi thời đại và mọi hoàn

cảnh. Tuy nhiên, trong sự nghiệp cách mạng của Việt Nam, đạo đức đã nổi

lên như một yêu cầu đầu tiên và quan trọng bậc nhất để tiến hành thắng lợi

sự nghiệp cách mạnsg Trong hoàn cảnh đất nước thấp kém và kinh tế và cơ

sở vật chất sự nghiệp cách mạng là vô cùng khó khăn. Không có tiền của,

không có vũ khí. Cách mạng trước hết dựa vào con người, con người với hai

bàn tay không, nhưng con người ấy lại có một tiềm năng vô tận về sức mạnh

tinh thần, có những phẩm chất đạo đức mà sự nghiệp cách mạng Việt Nam

đang đòi hỏi.

Sức mạnh của đạo đức cách mạng là ở chỗ nó phải tự xóa bỏ đi những

gì đã lỗi thời và phát huy mạnh mẽ những tiềm năng tinh thần, những phẩm

chất đạo đức đang tồn tại; đưa những khả năng chưa có điều kiện chủ quan

để trở thành hiện thực. Cho nên, đối với Hồ Chí Minh, phát huy sức mạnh đạo

đức, đồng thời phải tạo ra một sự chuyển biến trong truyền thống đạo đức ở

Việt Nam, tạo được bước ngoặt lịch sử trong sự phát triển những truyền

thống ấy. Hồ Chí Minh không chấp nhận nguyên vẹn những phẩm chất đạo

Page 22: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

đức coi là truyền thống, mà trên cơ sở của thực tiễn cách mạng. Người xây

dựng một kiểu đạo đức đối lập lại với đạo đức cũ, bởi “đạo đức cũ như người

đầu ngược xuống đất, chân chổng lên trời”. Phải đặt lại nền đạo đức đó, dựng

ngược thứ đạo đức đó lên, tạo ra một thứ đạo đức mới, có thể nói đây là một

cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức.

Sự nghiệp cách mạng đòi hỏi phải có con người cách mạng với tinh

thần cách mạng, đặc biệt là với đạo đức cách mạng. Cho nên đạo đức cách

mạng là bước ngoặt lớn nhất, bước ngoặt căn bản trong lịch sử đạo đức Việt

Nam, trong truyền thống đạo đức Việt Nam. Đạo đức này phải phục vụ cho sự

nghiệp cách mạng và bản thân nó cũng phải tạo cho mình một chuyển biến

cách mạng.

Cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức là một cuộc biến đổi về chất

lượng của truyền thống đạo đức, là một sự phủ định biện chứng đối với đạo

đức cũ. Nó đặt lại vấn đề đạo đức cũ cương quyết xóa đi những cái đã lỗi

thời, tấn công và xóa bỏ đạo đức phong kiến, không chấp nhận thứ đạo đức

phục vụ cho chế độ phong kiến, quan liêu, độc đoán, không chấp nhận một

lòng trung thành tuyệt đối với chế độ phong kiến và vua quan phong kiến. Cái

mà đạo đức phong kiến tôn thờ chính là cái mà Hồ Chí Minh lật đổ một cách

triệt để, là cái không những chiến đấu với chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa

phong kiến, mà còn lật đổ chế độ ấy, xóa bỏ vị trí độc tôn của vua chúa phong

kiến để đặt vào đó vị trí của quần chúng nhân dân, tạo điều kiện cho quần

chúng nhân dân từ chỗ bị áp bức và bị thống trị trở thành người chủ của đất

nước.

Đạo đức cách mạng không chỉ xóa bỏ sự bất bình đẳng về xã hội, xóa

bỏ tôn ti trật tự phong kiến, đưa nhân dân lao động từ chỗ bị khinh ghét trở

thành con người đáng yêu và đáng kính nhất, mà còn xóa bỏ sự bất bình

đẳng nam nữ, xóa bỏ mọi sự bất công đối với người phụ nữ trong gia đình và

ngoài xã hội. Đạo đức cách mạng phá tan mọi ràng buộc của gia đình, mở

rộng cửa để người phụ nữ vốn sống như kẻ nô lệ trong gia đình trở thành

Page 23: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

người cùng với nam giới là chủ thể của sự nghiệp cách mạng, chủ thể của

đất nước.

Đạo đức cách mạng phá tan sự ràng buộc, sự nô dịch về tinh thần mà

xã hội phong kiến và chế độ thực dân đã tạo ra, bởi cách mạng giải phóng

cho con người về kinh tế, về chính trị thì cũng đồng thời giải phóng cho con

người về mặt đạo đức. Từ những nhân tố lạc hậu trong tôn giáo, trong đạo

đức, trong giao tiếp, trong phong tục tập quán, đạo đức cách mạng đem lại

cho con người những nhận thức thực sự khoa học về những điều mà mình

cần phải làm đối với bản thân cũng như đối với gia đình và xã hội nên yếu tố

chính trị, yếu tố tự giác mang một ý nghĩa quyết định trong đạo đức cách

mạng.

Trên cơ sở xóa bỏ những sự ràng buộc của đạo đức cũ đối với sự

nghiệp cách mạng, và đối với con người cách mạng, Hồ Chí Minh nêu lên

những nội dung mới mẻ và phong phú trong tư tưởng và hành vi đạo đức của

người cách mạng. Đạo đức cách mạng chứa đựng sự tinh lọc truyền thống

đạo đức của dân lộc, tinh hoa văn hoá, truyền thống đạo đức và bản chất

nhân văn của dân tộc, và của nhân loại, trong đó thành phần bản chất chủ

đạo là tư tưởng, quan điểm đạo đức của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Hồ Chí Minh đã sử dụng các thuật ngữ sau đây để chỉ nền đạo đức ấy:

"đạo đức mới", "đạo đức cách mạng", "đạo đức xã hội chủ nghĩa", "đạo đức

cộng sản", "đạo đức tập thể", "đạo đức cách mạng của giai cấp vô sản", "đạo

đức vô sản", "đạo đức vĩ đại", "đạo đức cách mạng cao cả nhất". Đạo đức mà

Hồ Chí Minh thường nói tới là đạo đức của người cách mạng Việt Nam, của

cán bộ, đảng viên và của nhân dân Việt Nam.

Gọi là "đạo đức mới", bởi vì nó chưa hề xuất hiện trong lịch sử, nó chỉ

hình thành và phát triển cùng với tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất

nước ta. Gọi là "đạo đức cách mạng" vì đó là đạo đức phục vụ cách mạng,

đạo đức mà người cách mạng cần phải có, và vì đó là đạo đức được nảy sinh

và phát triển trong cách mạng. Đạo đức cách mạng là đạo đức vĩ đại vì: "nó

không phải vì danh vọng của cá nhân mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân

Page 24: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

tộc, của loài người". Gọi là “đạo đức tập thể” vì đó là đạo đức của chủ nghĩa

tập thể, đạo đức của con người biết đặt lợi ích chung của tập thể của xã hội

lên trên lợi ích của cá nhân mình. Đó là đạo đức "mỗi người vì mọi người, mọi

người vì mỗi người".

Đạo đức mới, đạo đức xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên nền tảng

của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nhằm đem lại lợi ích chung cho

quần chúng nhân dân lao động. Đạo đức mới là đạo đức chiến đấu vì sự

nghiệp giải phóng của dân tộc, vì sự tiến bộ của cả nhân loại, vì tự do và

hạnh phúc của mỗi con người.

Đạo đức cũ là đạo đức phong kiến, đạo đức tư sản, tiểu tư sản, đạo

đức của người sản xuất nhỏ được xác lập trên nền tảng của chế độ tư hữu

chỉ nhằm mục đích đem lại lợi ích cho gia đình, cho cá nhân, đối lập với lợi

ích của nhân dân lao động. Hồ Chí Minh cho rằng trong các nước xã hội chủ

nghĩa thì mọi người công dân phải có đạo đức xã hội chủ nghĩa, tức là "đoàn

kết chặt chẽ, tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, ra sức góp phần làm cho

nước mạnh dân giàu, phát triển thuần phong mỹ tục". "Đạo đức xã hội chủ

nghĩa không phải ở đâu cũng biểu hiện giống nhau", nước ta từ sản xuất nhỏ,

nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, "đạo đức xã hội chủ

nghĩa là cần kiệm xây dựng nước nhà. Mọi người thi đua theo cách xã hội

chủ nghĩa, lao động theo xã hội chủ nghĩa".

Đạo đức mới, đạo đức cách mạng khác hẳn với đạo đức cũ. Điều này

đã được Hồ Chí Minh nói rõ: "Có người cho đạo đức cũ và đạo đức mới

không có gì khác nhau. Nói như vậy là lầm to. Đạo đức cũ và đạo đức mới

khác nhau nhiều. Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất, chân chổng

lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu

ngửng lên trời. Bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm, chính nhưng

không bao giờ làm mà lại bắt nhân dân phải tuân theo để phụng sự quyền lợi

cho chúng. Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm

gương cho nhân dân theo để lợi cho nước, cho dân".

Page 25: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Ở đạo đức phong kiến, nhân dân là kẻ thấp hèn, chỉ đáng cho người

"quân tử" dạy dỗ sai khiến. Điều này hoàn toàn trái ngược với đạo đức cách

mạng. Hồ Chí Minh không bao giờ tự đặt mình vào một địa vị tối cao, mà luôn

luôn xác định mình là người đầy tớ trung thành, là người con hiếu thảo của

nhân dân. Trong Di chúc, Người căn dặn: "Phải giữ gìn Đảng ta thật trong

sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của

nhân dân".

Đạo đức cách mạng đối lập với đạo đức tư sán. Đạo đức tư sản là kiểu

đạo đức được xây dựng trên cơ sở của chủ nghĩa cá nhân. Trong xã hội tư

bản, chủ nghĩa cá nhân tư sản là nguyên tắc cơ bản của đạo đức.

Tố cáo đế quốc Pháp đã giết hại 8 vạn người Việt Nam, song để bảo vệ

quyền lợi ích kỷ của mình, chúng lại tự xưng là đã tiến hành cuộc "chiến tranh

bảo vệ tự do và công lý". Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Để che đậy sự xấu xa của

chế độ bóc lột, đầy tội ác, chủ nghĩa tư bản thực dân luôn luôn trang điểm cho

cái huy chương mục nát của nó bằng những châm ngôn lý tưởng: Bác ái,

Bình đẳng...".

Hồ Chí Minh coi đạo đức là cái gốc, cái nền tảng của người cách mạng.

Theo Hồ Chí Minh thì đối với con người, sức có mạnh mới gánh được nặng

và đi được xa, người cách mạng phải có đạo đức cách mạng mới hoàn thành

nhiệm vụ cách mạng. Bởi sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sự

nghiệp cách mạng rất khó khăn, to lớn và lâu dài, đòi hỏi sự phấn đấu không

ngừng của mỗi người, hơn nữa của nhiều thế hệ nối tiếp nhau.

Nhận thức sâu sắc vai trò quan trọng của đạo đức cách mạng trong sự

nghiệp giải phóng dân tộc, trong tác phẩm "Đường cách mệnh", Hồ Chí Minh

đã dành trang đầu tiên để nói về tư cách người cách mệnh. Ngườii yêu cầu

khi bước vào con đường cách mệnh thì trước hết người cách mạng phải có

đạo đức. Người nêu rõ: người cách mạng phải biết “hy sinh”, "ít lòng ham

muốn về vật chất", không ngại gian khổ hy sinh, thậm chí có thể phải hy sinh

tính mạng của mình cho sự nghiệp chung. Người cách mạng phải luôn đặt lợi

ích của cách mạng, của nhân dân lên trên lợi ích của cá nhân. Gặp trường

Page 26: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

hợp lợi ích cá nhân mâu thuẫn với lợi ích chung thì phải biết đặt lợi ích chung

lên trên, tuyệt đối khống được làm ngược lại. Người cách mạng phái rất

khiêm tốn. "không hiếu danh, không kiêu ngạo". "cả quyết sửa lỗi mình", "cẩn

thận mà không nhút nhát", luôn suy nghĩ kỹ trước khi làm - nếu thấy đúng thì

phải quyết tâm làm và phải dám chịu trách nhiệm trước việc mình làm.

Qua mỗi chặng đường lịch sử, tuỳ theo từng thời kỳ cách mạng, từng

bước phát triển của thực tiễn. Người đã đề ra những yêu cầu đạo đức sát

hợp để mọi người phấn đấu nhằm hoàn thành nhiệm vụ ngày càng nặng nề,

khó khăn phức tạp hơn.

Vào tháng 10 năm 1947, một trong nhũng thời điểm khó khăn phức tạp

của thời kỳ kháng chiến chống Pháp, để giáo dục cán bộ đảng viên về đạo

đức cách mạng. Người viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” để khẳng định vai

trò của đạo đức cách mạng: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước,

không có nnuồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo.

Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng

không lãnh đạo được nhân dân".

Năm 1955, trong bài "Đạo đức cách mạng". Người viết: “Quyết tâm giúp

đỡ loài người ngày càng tiến bộ và thoát khỏi ách áp bức, bóc lột, luôn luôn

giữ vững tinh thần chí công vô tư - đó là đạo đức cách mạng”.

Năm 1958, khi miền Bắc bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội,

miền Nam vẫn đang tiến hành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân,

khi viết về đạo đức cách mạng. Người lại khẳng định: "Làm cách mạng để cải

tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang; nhưng nó cũng là

một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ.

Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có

đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng

vẻ vang".

Ngày 3/2/1969, nhân kỷ niệm ngày thành lập Đảng, Hồ Chí Minh viết

bài "Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân", trong đó

Người đã phê phán bệnh cá nhân chủ nghĩa: Có quét sạch chủ nghĩa cá nhân

Page 27: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

mới nâng cao được đạo đức cách mạng mới bồi dưỡng được tư tưởng tập

thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và kỷ luật: có chống chủ nghĩa cá nhân

mới ngăn chặn được sự tấn công của tư tưởng tư sản và các nọc độc do đạo

đức tư sản gây ra. Cuối cùng, trong Di chúc mà mỗi câu chữ đều mang nặng

tình thương bao la, chí nghĩa chí tình của một chủ nghĩa nhân văn sâu sắc.

Hồ Chí Minh đã căn dặn chúng ta không ngừng nâng cao đạo đức của Đảng

cầm quyền và của đảng viên, cán bộ.

Nghiên cứu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh chúng ta thấy, Hồ Chí Minh

xem xét đạo đức của tất cả mọi đối tượng cán bộ, đảng viên, công nhân,

nông dân, lực lượng vũ trang, trí thức, nhi đồng, v.v... Song, cái được Người

đề cập nhiều nhất vẫn là đạo đức của cán bộ, đảng viên, vì theo quan điểm

của Người, trong điều kiện Đảng cầm quyền, cán bộ đảng viên là cái dây

chuyền của bộ máy - Nếu dây chuyền không tốt, động cơ máy dù có tốt, máy

cũng không vận hành được; cán bộ là người đem chính sách của chính phủ

thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì dù chính sách hay cũng không thi

hành được.

Tùy theo từng đối tượng, từng thời điểm và tùy theo yêu cầu của nhiệm

vụ cách mạng mà Hồ Chí Minh xác định nội dung đạo đức cách mạng:

Đối với người cán bộ, đạo đức cách mạng có thể tóm tắt là: "Nhận rõ

phải, trái. Giữ vững lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân. Mọi

việc thành hay là bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách

mạng hay là không".

Người cán bộ phải "Học để tu dưỡng đạo đức cách mạng. Có đạo đức

cách mạng thì mới hy sinh tận tụy với cách mạng, mới lãnh đạo được quần

chúng đưa cách mạng tới thắng lợi hoàn toàn". Cán bộ của Đáng, của Nhà

nước... "cần phải xung phong gương mẫu trong sản xuất và công tác, hết

lòng hết sức phục vụ nhân dân, luôn luôn trau dồi đạo đức cách mạng, cần

kiệm, liêm chính".

Đối với đảng viên, đạo đức cách mạng là: "Bất kỳ khó khăn đến mức

nào cũng kiên quyết làm đúng chính sách và nghị quyết của Đảng, làm gương

Page 28: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

mẫu cho quần chúng. Mọi đảng viên phải nâng cao tinh thần trách nhiệm

trước nhân dân, trước Đảng, phải ngăn ngừa và kiên quyết chống lại chủ

nghĩa cá nhân.... Đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào, người

đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết. Nếu khi lợi ích của

Đảng và lợi ích của cá nhân mâu thuẫn với nhau, thì lợi ích cá nhân phải tuyệt

đối phục tùng lợi ích của Đảng".

"Đạo đức cách mạng là hòa mình với quần chúng thành một khối, tin

quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng". "Mọi đảng

viên đều phải ra sức học tập chủ nghĩa Mác-Lênin... nâng cao đạo đức cách

mạng, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân... cần kiệm xây dựng

nước nhà...".

Đối với Đoàn thanh niên, đạo đức cách mạng là: "Bất kỳ ở cương vị

nào, bất kỳ làm công việc gì, đều không sợ khó, không sợ khổ, đều một lòng

một dạ phục vụ lợi ích chung của giai cấp, của nhân dân, đều nhằm mục đích

xây dựng chủ nghĩa xã hội". "Đạo đức cách mạng là đạo đức tập thể, nó phải

đánh thắng và tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân".

Phát biểu tại buổi lễ phong quân hàm cấp tướng cho một số cán bộ cao

cấp trong quân đội. Người yêu cầu "Để lãnh đạo quân đội tiến bộ không

ngừng, các đồng chí phải trau dồi đạo đức cách mạng, khiêm tốn, giản dị, gần

gũi quần chúng và gương mẫu về mọi mặt. Dù ở cương vị nào chúng ta cũng

đều phải cố gắng để xứng đáng là người đầy tớ trung thành và tận tụy của

nhân dân".

Cán bộ và chiến sỹ "phải trau dồi đạo đức cách mạng, đoàn kết, khiêm

tốn, hết lòng vì Đảng, vì dân".

Đối với công nhân: Đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân là đạo

đức chân chính, đạo đức tiến bộ của loài người, bởi nó phục vụ cho hạnh

phúc của nhân dân, được hình thành trong đấu tranh cách mạng.

Công nhân là người chủ của nước nhà nên "phải hiểu tương lai của

công nhân và tương lai của xí nghiệp phải dính liền. Công nhân phái hiểu xí

Page 29: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

nghiệp là của mình, làm chủ nước nhà là nói chung, làm chủ xí nghiệp là nói

riêng, xí nghiệp có phát triển, tương lai của công nhân mới tiến lên. Công

nhân phải hiểu lao động là vẻ vang. Trước kia ta lao động cho tư bản, phong

kiến, đế quốc... bây giờ lao động cho ta. Bất cứ làm nghề gì có ích cho nước

nhà, cho nhân dân. cho giai cấp đều là vẻ vang.... mỗi một công nhân phải tự

nguyện tự giác giữ kỷ luật lao động... Muốn giữ vững kỷ luật lao động phải có

tinh thần hăng hái, có tính sáng tạo", "phải sản xuất cho nhiều, cho tốt, cho

rẻ".

Đối với các cháu thiếu niên nhi đồng: "Đạo đức cộng sản chủ nghĩa đối

với các cháu không giống như đối với người lớn. Ví dụ như đối với người

nông dân tập thể, thì là sản xuất cho nhiều, cho tốt... Thầy giáo thì dạy cho

tốt, cho dễ hiểu, đạo đức cộng sản chủ nghĩa đối với các cháu là chăm học,

giúp người lớn, đoàn kết, có kỷ luật

Đạo đức mới kế thừa và phát triển đạo đức cũ trên tinh thần phủ định

biện chứng. Nó kế thừa những tinh hoa, nét đẹp của truyền thống đạo đức

dân tộc và nhân loại. Nền đạo đức ấy ngày càng phát triển cùng với sự vận

động và phát triển của thực tiễn cách mạng Việt Nam. Trong quá trình hình

thành và phát triển của nó, đạo đức mới vẫn thường xen kẽ với những tàn dư

của đạo đức cũ. Điều này không có gì là lạ, bởi chúng ta đang ở trong quá

trình vừa xóa bỏ cái cũ, vừa xây dựng cái mới từ gốc đến ngọn. Theo Hồ Chí

Minh, muốn xác lập đạo đức cách mạng phải đấu tranh không khoan nhượng

với tàn dư xấu của đạo đức cũ và xóa bỏ tập quán lỗi thời, mà biểu hiện nguy

hiểm nhất là chủ nghĩa cá nhân.

Để xác lập đạo đức cách mạng, và giáo dục, rèn luyện đạo đức cách

mạng cho các cán bộ, đảng viên và nhân dân ta, Hồ Chí Minh đã phê phán,

bác bỏ, đấu tranh chống lại các tư tưởng, quan điểm tiêu cực, lạc hậu, bảo

thủ, phản động. Và bao giờ Người cũng luôn luôn tập trung, tập trung nhiều

nhất vào việc phê phán, lên án chủ nghĩa cá nhân. Dưới đây là những tư

tưởng chính của Người về vấn đề này.

Page 30: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Chủ nghĩa cá nhân trái ngược với đạo đức cách

mạng", cái gì trái với đạo đức cách mạng đều là chủ nghĩa cá nhân". "Chú

nghĩa cá nhân là trái ngược với chú nghĩa tập thể". Chủ nghĩa cá nhân là

"việc gì cũng chỉ lo cho lợi ích của mình riêng, không quan tâm đến lợi ích

chung của tập thể. Miễn là mình béo, mặc thiên hạ gầy". "Chủ nghĩa cá nhân

là một thứ rất gian xảo, xảo quyệt nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc. Mà

ai cũng biết rằng, xuống dốc thì dễ hơn lên dốc. Vì thế mà càng nguy hiểm"...;

ở nông thôn: "Tự tư tự lợi, chỉ nghĩ đến lợi riêng của mình, không chăm lo

việc chung của hợp tác xã đó là cá nhân chủ nghĩa. Chí công vô tư, coi hợp

tác xã như nhà mình, là tư tuởng xã hội chủ nghĩa".

Chủ nghĩa cá nhân thể hiện ra từng nơi, từng lúc khác nhau và tùy trình

độ, cương vị công tác, từng đối tượng khác nhau:

Đối với cán bộ quân sự, chính trị, hành chính, chuyên môn, chú nghĩa

cá nhân biểu hiện ở chỗ: "Ngày thường thì kỷ luật kém, Khi có vấn đề nghiêm

trọng thì hoang mang". "Lúc tính toán công việc, thì đặt lợi ích của cá nhân

mình, của nhóm mình lên trên lợi ích chung".

Đối với hộ đội phòng không, biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân là tranh

công đổ lỗi “khi máy bay rơi ai cũng báo mình bắn, khi bắn không rơi lại đổ lỗi

cho nhau”.

Đối với trí thức, "cái gì cũng chỉ biết có mình và gia đình mình, chứ ít

khi nghĩ đến cái gia đình lớn là dân tộc". "Làm việc gì cũng thiếu kiên quyết.

Lúc vui hứng lên thì làm. Nếu gặp trở ngại hay thất hại thì thụt lùi, vì không

kiên quyết nên dễ lung lay".

Do chủ nghĩa cá nhân mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ

hoá, lãng phí xa hoa, thích địa vị quyền hành, tự cao, tự đại, coi thường tập

thể, xem khinh quần chúng, xa rời thực tế, không có tinh thần phấn đấu vươn

lên, không chịu khó học tập. "kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành

đúng đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước, làm hại đến lợi ích

của cách mạng, của nhân dân".

Page 31: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Vì chưa gột sạch chủ nghĩa cá nhân mà "có đảng viên còn "kể công"

với Đảng. Có ít nhiều thành tích thì họ muốn Đảng "cám ơn" họ, họ đòi ưu

đãi, danh dự và địa vị. Họ đòi hưởng thụ. Nếu không thỏa mãn yêu cầu của

họ thì họ oán trách Đảng. cho rằng họ "không có tiền đồ", họ "bị hy sinh", rồi

dần dần họ xa rời Đảng, thậm chí phá hoại chính sách và kỷ luật của Đảng".

Người bị chủ nghĩa cá nhân chi phối thường dễ nhìn lệch vấn đề, trong

công tác cách mạng thường nhấn mạnh khó khăn của mình, coi nhẹ khó khăn

của ncười khác hay của Đảng, đối với mình thì chỉ thấy thành tích, đối với

người khác thì chỉ thấy khuyết điểm.

Hồ Chí Minh đã nhiều lần phân tích, phê phán tác hại của chủ nghĩa cá

nhân. Người chỉ ra rằng chủ nghĩa cá nhân thứ "bệnh mẹ" đẻ ra nhiều thứ

"bệnh con" rất nguy hiểm như "tham ô", "lãng phí", "ích kỷ", "lười biếng", "hiếu

danh", "thiếu kỷ luật", "óc hẹp hòi", "óc lãnh tụ” và các tệ nạn "quan liêu",

"ham chuộng hình thức", v.v.

Do chủ nghĩa cá nhân mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức kỷ luật, “Chỉ

thấy lợi ích riêng của mình, không thấy lợi ích chung của tập thể, về vật chất

thì chỉ muốn hưởng thụ, công việc làm thì không dám xung phong”, muốn địa

vị cao nhưng lại sợ trách nhiệm nặng. Đối với cán bộ quân đội, thì chỉ vì chủ

nghĩa cá nhân mà sinh ra thiếu kiên quyết chấp hành mệnh lệnh, do đó "đáng

lẽ thắng to thì chỉ dành được thắng nhỏ, và thắng rồi không phát triển được".

Đối với công an, chủ nghĩa cá nhân là "so bì đãi ngộ: lương thấp, cao,

quần áo đẹp, xấu, là uể oải, muốn nghỉ ngơi, hưởng thụ, an nhàn", "sợ khó,

sợ khổ, tự do chủ nghĩa, vui thì làm, không vui thì không làm".

Đối với sinh viên, "chủ nghĩa cá nhân đẻ ra tư tưởng danh lợi, chỉ muốn

làm ông này, ông khác, bà nàv, bà khác"; "khinh lao động chân tay", "sợ khó

nhọc và sợ khổ".

Những người nặng chủ nghĩa cá nhân thì khi "việc gì họ cũng nghĩ đến

lợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo "mình vì mọi người" mà chỉ

muốn "mọi người vì mình". Họ trở thành những kẻ nhỏ bé tầm thường với

Page 32: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

những tính toán quanh quẩn về khôn - dại. được - mất, thiệt - hơn của riêng

mình trong các quan hệ xã hội. Họ trở nên xa lạ đối với những người xung

quanh. Danh lợi, địa vị đã làm cho họ bị mê muội, có khi quên cả lẽ phải và

tình thương vốn là giá trị tốt đẹp của cuộc sống.

Nhấn mạnh sự nguy hại của chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chi Minh luôn nhắc

nhở phải kiên quyết đấu tranh khắc phục nó. Đó là vì nó trái với đạo đức cách

mạng, che lấp đạo đức cách mạng, ngăn trở chúng ta một lòng, một dạ đấu

tranh cho sự nghiệp cách mạng.

Với cách nhìn cách mạng và biện chứng, ngay từ năm 1925, trong

chương trình huấn luyện cán bộ cách mạng đầu tiên. Hồ Chí Minh đã nói về

tư cách người cách mạng. Người nêu lên tư tưởng về lòng trung thành với sự

nghiệp cách mạng, về cần kiệm liêm chính, chí công vô tư và đề phòng lòng

ham muốn về vật chất, thói hiếu danh, kiêu ngạo. Sau Cách mạng tháng Tám.

Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền, nhiều cán bộ đảng viên đã giữ những

cương vị cao thấp khác nhau trong bộ máy của Đảng và Nhà nước. Hồ Chí

Minh đã lưu ý đến những sai phạm mà các cán bộ đảng viên có chức, có

quyền thường mắc phải. Người đã nhiều lần phân tích, phê phán chủ nghĩa

cá nhân, và cho rằng "Sinh trưởna trong xã hội cũ, chúng ta ai cũng mang

trong mình hoặc nhiều hoặc ít vết tích xấu xa của xã hội đó về tư tưởng, về

thói quen. Vết tích xấu nhất và nguy hiểm nhất của xã hội cũ đó là chủ nghĩa

cá nhân". "Đảng ta không phải trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra. Vì

vậy, tuy nói chung, thì phần nhiều đảng viên là những phần tử tốt, nhưng vẫn

có một số chưa bỏ hết những thói xấu tự tư, tự lợi, kiêu ngạo, xa hoa, v.v..

Những thói xấu đó có đã lâu, nhất là trong 80 năm nô lệ. Những thói xấu đó,

họ mang từ xã hội vào Đảng", "cũng như những người hùng ngày lội bùn, mà

trên mình họ có hơi bùn, có vết bùn. Như thế thì có gì là kỳ quái? Vì lội bùn thì

nhất định có hơi hùn. Cần phải tắm rửa lâu mới sạch".

Tại lớp chỉnh huấn cán hộ các cơ quan Trung ương tháng 6/1953, lúc

kiểm thảo cán bộ mắc nhiều khuyết điểm. Hồ Chí Minh nói rằng: "Điều đó

Page 33: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

không có là lạ. Nếu cán hộ hoàn toàn không có khuyết điểm mới là điều lạ. Vì

sao?

- Vì đã lâu chúng ta sinh trưởng dưới chế độ nô lệ của thực dân và

phong kiến, bị văn hoá giáo dục thực dân phong kiến thấm vào đã sâu. Nó

làm cho nhiều người tê mê quên cả nhân dân, quên cả Tổ quốc. Nó làm cho

những bệnh thối nát, hủ bại (như chủ nghĩa cá nhân, tự tư, tự lợi, tham ô,

lãns phí...) ăn sâu vào con người như những bệnh kinh niên", cán bộ từ trong

xã hội cũ mà ra nên không khỏi ít nhiều mang thói xấu đó.

Cách mạng tháng Tám thành công, chúng ta mới thoát khỏi vòng tối

tăm bước lên đường sáng sủa. Nhưng, từ chỗ tối bước sang chỗ sáng không

khỏi có người hoa mắt, choáng váng. Từ địa vị nô lệ bước lên địa vị chủ nhân

không khỏi có người chưa quen gánh vác, chưa hiểu mình là người chủ gánh

vác trách nhiệm, thiếu lòng tự tin. Vả lại, cho đến nay, sự giáo dục của Đảng

và Chính phủ còn nhiều thiếu sót. Vì những lẽ đó mà cán bộ còn mắc nhiều

khuyết điểm. Cũng do việc giáo dục còn sơ sài, thiếu sót vì vậy một số cán bộ

còn mang nặng thái độ làm thuê, thiếu tinh thần làm chủ tập thể. Ở nông thôn

"Có hai con đường làm ăn tập thể và riêng lẻ thì cũng có hai tư tưởng: tư

tưởng xã hội chủ nghĩa và tư tưởng cá nhân chủ nghĩa". Hai tư tưởng đó đấu

tranh với nhau. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa có đánh thắng tư tưởng chủ nghĩa

cá nhân thì hợp tác xã mới phát triến tốt. Như vậy, có thể nói từ rất sớm, Hồ

Chí Minh đã lên án chủ nghĩa cá nhân và lãnh đạo cuộc đấu tranh chống căn

bệnh phổ biến và nguy hiểm này. Người cũng đã gợi ra các biện pháp chống

căn bệnh ấy.

Theo Hồ Chí Minh, muốn đánh thắng kẻ thù là chủ nghĩa đế quốc thì

trước hết phải thắng kẻ thù bên trong của mỗi chúng ta là chủ nghĩa cá nhân.

Người phân biệt rõ "chủ nghĩa cá nhân" với "lợi ích cá nhân". Đấu tranh

chống chủ nghĩa cá nhân không phải là "giày xéo lên lợi ích cá nhân. Mỗi

người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và

của gia đình. Nếu những lợi ích cá nhân đó không trái với lợi ích của tập thể

thì không phải là xấu. Người còn khẳng định: "Không có chế độ nào tôn trọng

Page 34: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó

được thoả mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa". Người

luôn luôn khuyên chúng ta chú ý cả hai mặt: quét sạch chủ nghĩa cá nhân và

nâng cao đạo đức cách mạng. Hai mặt đó liên quan chặt chẽ với nhau, tiêu

diệt cái lạc hậu để xây dựng cái tiến bộ, không quét sạch chủ nghĩa cá nhân

thì không nâng cao được đạo đức cách mạng và có nâng cao đạo đức cách

mạng mới chiến thắng được chủ nghĩa cá nhân.

Cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân được khảo nghiệm một cách

gay gắt nhất là vào những lúc cách mạng gặp khó khăn, khi lợi ích bản thân

mâu thuẫn với lợi ích tập thể hoặc mâu thuẫn với lợi ích chính đáng của

người khác. Những lúc như vậy càng phải tăng cường đấu tranh với chính

mình để khắc phục chủ nghĩa cá nhân.

IV. TƯ TƯỞNG CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VỊ TRÍ CỦA ĐẠO ĐỨC VÀ MỐI QUAN HỆ ĐỨC-TÀI

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã

đặc biệt chú trọng đến sự nghiệp xây dựng, rèn luyện đạo đức cách mạng

cho mỗi người, mỗi tập thể và cho toàn thể dân tộc chúng ta.

Ngay từ năm 1925, bài đầu tiên mà Người giảng cho lớp học trò đầu

tiên của Người là bài giảng về tư cách người cách mạng.

Năm 1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ Việt Nam Dân chủ

Cộng hoà, Người đã đề nghị “mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân

dân bằng cách thực hiện: CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH” để “làm cho dân tộc

chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động”. Tiếp đó,

trong thư gửi UBND các kỳ, tỉnh, huyện và làng, Người viết: “Các cơ quan của

Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là

để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ

dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật. Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức

làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính

dân, thì dân mới yêu ta, kính ta”.

Page 35: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Đầu năm 1947, Hồ Chí Minh viết tác phẩm hỏi đáp về "Đời sống mới”,

“để giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân thực hiện lối sống mới, đạo đức

mới nói chung, thực hiện cần kiệm liêm chính nói riêng”. Người khẳng định:

“Nếu mọi người đều cố gắng làm đúng đời sống mới, thì dân tộc nhất định sẽ

phú cường”.Tháng 10/1947, Người lại viết tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”,

trong đó có phần quan trọng nói về tư cách và đạo đức cách mạng. Người

căn dặn phải rèn luyện đạo đức cách mạng, ra sức chống những thói hư tật

xấu.

Đầu năm 1955, sau khi Chính phủ từ Việt Bắc về tiếp quản thủ đô Hà

Nội, Hồ Chí Minh đã viết bài “Đạo đức công dân” in trên báo Nhân Dân để

giáo dục nhân dân làm tròn nghĩa vụ của người công dân, người chủ nước

nhà. Tiếp theo đó, Người viết bài “Đạo đức cách mạng” để phê phán những

biểu hiện về suy thoái về đạo đức của một số cán bộ, đảng viên đã “quên mất

tác phong gian khổ phấn đấu... xa rời Đảng, xa rời quần chúng. Dần dần họ

mất cả tư cách và đạo đức người cách mạng, sa vào tham ô hủ bại và biến

thành người có tội với Đảng, với Chính phủ, với nhân dân. Sau đó, Người viết

luôn bài báo “Tự phê bình và phê bình” mà Người coi là “vũ khí sắc bén nhất”,

“giúp cho cán bộ, đảng viên” sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm, tiến

bộ không ngừng.

Năm 1958, Hồ Chí Minh viết tác phẩm “Đạo đức cách mạng”. Trong đó

Người nêu lên bản chất và nội dung của đạo đức cách mạng, đạc trưng của

chủ nghĩa cá nhân và phương pháp rèn luyện đạo đức cách mạng, đấu tranh

chống chủ nghĩa cá nhân.

Năm 1961, phục vụ cho việc chỉnh huấn cán bộ, đảng viên. Hồ Chí

Minh có bài nói chuyện về vấn đề “xây dựng những con người XHCN” với

luận điểm quan trọng là “muốn xây dựng CNXH trước hết cần có con người

XHCN”.

Tháns 6 năm 1968, Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến về việc xuất bản loại

sách “Người tốt việc tốt”. Người cho rằng đó là "phương pháp lấy quần chúng

giáo dục quần chúng rất sinh động và có sức thuyết phục rất lớn".

Page 36: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Ngày 3/2/1969, kỷ niệm ngày thành lập Đảng, Hồ Chí Minh viết hài

“Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân", trong đó

Người phê phán bệnh cá nhân chủ nghĩa.

Cuối cùng, trong Di chúc để lại cho chúng ta trước khi trở về cõi vĩnh

hằng. Hồ Chí Minh đã dặn lại Đảng ta cần phái giữ gìn đạo đức cách mạng và

chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên và thanh niên nói chung.

Chẳng những thế, tư tưởng của Người về đạo đức cách mạng còn hiện diện

trong tất cả các vấn đề, trong mỗi dòng chữ mà Người đã để lại cho chúng ta,

khi nói về nhân dân, về quyết tâm kháng chiến chống MỸ đến thắng lợi hoàn

toàn, về phong trào cộng sản thế giới, về việc riêng của Người, cũng như về

điều mong muốn cuối cùng của Người.

Có thể kết luận rằng, từ bài giảng đầu tiên đến lời dạy cuối cùng, trong

gần nửa thế kỷ, Hồ Chí Minh đã thường xuyên dành cho việc xây dựng, rèn

luyện đạo đức cách mạng vị trí ưu tiên hàng đầu trong toàn bộ sự nghiệp của

Người. Và, như nhân dân ta, dân tộc ta và bạn bè khắp năm châu bốn biển

của chúng ta thừa nhận: Bản thân Hồ Chí Minh là tấm gương sáng, nổi bật

trong thời đại hiện nay về đạo đức cách mạng.

* * *

Vấn đề đặt ra là: Vì sao Hồ Chí Minh lại đặc biệt chú trọng đến đạo

đức?

Nhiều nhà nghiên cứu đã rất có lý khi nêu bật ảnh hưởng của truyền

thống coi trọng đạo đức của dân tộc. Đúng là như vậy. Dân tộc ta có truyền

thống coi trọng đạo đức. Điều này thể hiện rõ rệt trong tất cả mọi lĩnh vực của

đời sống quá khứ, từ lao động sản xuất, chiến đấu, bảo vệ và xây dựng đất

nước, đến lối sống, nếp sống, phong tục tập quán, giáo dục, học tập và sáng

tác văn học, nghệ thuật. Không chỉ Nho giáo mà cả Phật giáo, Công giáo (từ

thế kỷ XVI trở đi) và các tôn giáo, tín ngưỡng khác đã góp phần tạo nên

truyền thống nói trên. Suốt cả một nghìn năm, trong đó có năm trăm năm giữ

địa vị độc tôn trong hệ tư tưởng chính thống. Nho giáo mà tự bản thân nó là

một học thuyết chính trị - đạo đức đã có ảnh hưởng lâu dài, sâu đậm nhất đối

Page 37: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

với truyền thống coi trọng đạo đức của dân tộc ta. Tuy nhiên, truyền thống coi

trọng đạo đức của dân tộc ta bắt nguồn trước tiên từ lịch sử lâu đời, lặp đi lặp

lại nhiều lần của thực liễn lao động sản xuất hầu như thuần tuý nông nghiệp

trong điều kiện thiên nhiên hết sức khắc nghiệt và trong thực tiễn phải lấy yếu

thắng mạnh trong suốt một nghìn năm Bắc thuộc, tiếp đó là trong các cuộc

chiến tranh bao vệ Tổ quốc từ thời Ngô Quyền đến thế kỷ XIX (và cho đến

thời hiện đại cũng vậy). Thực tiễn lao động sản xuất và chiến đấu chống

ngoại xâm đó đã đòi hỏi phải phát huy đến mức cao nhất yếu tố tinh thần,

trước hết là phẩm chất đạo đức của người chiến sĩ yêu nước. Không có sức

mạnh đạo đức, không thể lao động cần cù, tiêu dùng tiết kiệm, không thể gắn

bó với cộng đồng, nhường cơm sẻ áo cho nhau khi gặp thiên tai, địch hoạ,

không thể đáp ứng các yêu cầu rất cao, trong những khoảng thời gian rất dài

của sự nghiệp đấu tranh vũ trang để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.

Thực tiễn sản xuất và chiến đấu ấy luôn đòi hỏi dân tộc ta phải nhận thức rõ

tầm quan trọng hàng đầu của đạo đức, ra sức xây dựng truyền thống đạo đức

của dân tộc. Trong truyền thống đạo đức này, tất yếu có những nét riêng so

với các quan niệm về đạo đức của các học thuyết, tôn giáo từ bên ngoài vào.

Trong khi không xem nhẹ ảnh hưởng sâu đậm của các học thuyết và

tôn giáo từ bên ngoài vào, trong khi khẳng định sự thâm nhập lẫn nhau giữa

cái bản địa và cái ngoại lai, có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng truyền

thống đạo đức dân tộc là cái giữ vị trí chủ đạo và đóng vai trò to lớn trong tư

tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.

Tuy nhiên, truyền thống chưa phải là tất cả. Cùng thừa hưởng truyền

thống của dân tộc, hơn nữa lại là những đại nho, nhưng thế hệ sĩ phu yêu

nước hồi đầu thế kỷ chưa có được sự nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò của

đạo đức trong sự nghiệp cứu nước. Tính từ năm 1925 trở về trước, dường

như chỉ có duy nhất chuyên luận của Phan Chu Trinh mà chúng tôi đã giới

thiệu ở phần trên, còn thì không có chuyên luận nào của bất kỳ ai khác – kể

cả Phan Bội Châu - bàn về đạo đức. Như vậy, còn phải có những nguyên

nhân khác mà chúng ta phải tìm đến để trả lời câu hỏi đã được nêu ra. Đó là:

Page 38: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Hơn các thế hệ cha ông, Hồ Chí Minh có được nhận thức khoa học,

sâu sắc về tính chất cực kỳ khốc liệt, lâu dài, gian khổ của sự nghiệp cách

mạng Việt Nam thời hiện đại. Trong phạm vi của cuộc đấu tranh giải phóng và

bảo vệ Tổ quốc, nhận thức này ở Hồ Chí Minh khởi đầu từ trình độ hiểu biết

về chủ nghĩa thực dân, và chủ nghĩa đế quốc, Các thế hệ Việt Nam từ nửa

cuối thế kỷ XIX đến các sĩ phu yêu nước hồi đầu thế kỷ XX đều bất lực, sai

lầm trong việc nhận thức về kẻ thù của dân tộc. Với kiến thức được nhà

trường Nho học, kể cả được “tân thư” trang bị cho, họ vẫn không đủ sức hiểu

được kẻ thù mới lạ mà lần đầu tiên ta gặp phải. Một cách tất yếu, họ không

thể hiểu bản chất của chúng. Họ vừa khộng hiểu đầy đủ sức mạnh vừa không

thấy, hoặc không thấy đầy đủ chỗ yếu của chúng. Kết quả là họ đã phạm sai

lầm trong đường lối, chính sách, chủ trương. Đồng thời, họ đã rơi vào chỗ

hoặc là tuyệt vọng, thất bại chủ nghĩa, hoặc là mơ hồ, ảo tưởng, không nhận

thức được đầy đủ tính chất của cuộc đấu tranh đánh đuổi kẻ thù thốns trị dân

tộc. Đã vậy, dẫu là nhà nho, kể cả đại nho, họ vẫn không thể thấy hết vị trí,

vai trò quan trọng, có ý nghĩa quyết định của đạo đức trong cuộc đấu tranh

sinh tử với kẻ thù.

Với Hồ Chí Minh thì khác, Người đã trực tiếp quan sát, tự mình cảm

nhận, dày công nghiên cứu, vừa được chủ nghĩa Mác - Lênin soi sáng lại vừa

có trí tuệ thiên tài. Với các cương vị đã trải qua là người dân mất nước, người

làm thuê cùng khổ, người chiến sĩ cộng sản, người lãnh đạo trong phong trào

giải phóng thuộc địa thế giớ, cuối cùng là người đứng đầu Đảng và Nhà nước

có trong tay những thông tin cập nhật nhất. Hồ Chí Minh hiểu hơn ai hết về

chủ nghĩa thực dân và về chủ nghĩa đế quốc nói chung, chủ nghĩa đế quốc

Pháp và Mỹ nói riêng.

Chúns ta đều biết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” của Người,

về tác phám này, tác giả bộ “Lịch sử Viêt Nam”, tập II viết: “Tiếp theo bộ “Tư

bản” thiên tài của C. Mác làm sáng tỏ quy luật phát sinh, phát triển của chủ

nghĩa tư bản, những mâu thuẫn ngày càng gay gắt và sự diệt vong tất yếu

của nó về mặt lịch sử, tiếp theo tác phẩm bất hủ của V.I Lênin "Chủ nghĩa đế

Page 39: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

quốc - Giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản" vạch trần tính chất ăn bám,

thối nát của chủ nghĩa đế quốc, đêm trước của cuộc cách mạng xã hội chủ

nghĩa, tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” của Nguyễn Ái Quốc tập

trung phơi bày bộ mặt dã man, tàn bạo của chủ nghĩa thực dân - con đẻ của

chủ nghĩa tư bán đế quốc và chỉ ra con đường đấu tranh nhằm tiêu diệt nó…

Sau “Bản án chế độ thực dân Pháp”, Hồ Chí Minh tiếp tục thường

xuyên theo dõi, nghiên cứu sâu sắc và viết về chủ nghĩa thực dân, đế quốc,

chỉ rõ bản chất và các âm mưu, thủ đoạn cụ thể của chúng trong từng thời

điểm, từng địa bàn cụ thể. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, bằng sự

từng trải của bản thân tại chính các nước Pháp, Mỹ, Anh, Đức và tại hầu khắp

các nước thuộc địa, bằng việc kịp thời tổng kết kinh nghiệm hai cuộc kháng

chiến thần thánh của nhân dân ta (cho đến năm người tạ thế), ở cương vị

lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước và dân tộc. Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc

bản chất hiếu chiến, ngoan cố, tàn bạo, xảo quyệt của chủ nghĩa thực dân, đế

quốc Pháp và Mỹ. Đồng thời, Người hiểu sâu sắc thế phải lấy yếu đánh mạnh

chống lại cả kẻ thù có vũ khí nguyên tử. Người hiểu rõ ưu thế tuyệt đối của

sức mạnh vật chất, của khoa học, công nghệ chiến tranh của kẻ thù. Chính vì

vậy, Người hiểu sâu sắc và khẳng định tính chất lâu dài, khốc liệt, gian khổ,

đòi hỏi phải hy sinh nhiều người, nhiều của mới có thể đi đến thắng lợi hoàn

toàn mà Người luôn tin tưởng và khẳng định.

Từ sau khi miền Bắc được giải phóng, bước vào thời kỳ quá độ lên

CNXH, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ đặc điểm của con đường đi lên chủ nghĩa xã

hội tại nước ta: Do chỗ phải xuất phát từ nền kinh tế nhỏ, chủ yếu là nông

nghiệp lạc hậu, lại phải kết hợp hai chiến lược là vừa xây dựng chủ nghĩa xã

hội vừa tiến hành chiến tranh giải phóng miền Nam, cách mạng xã hội chủ

nghĩa ở miền Bắc, tất yếu cũng là hết sức gian khổ, lâu dài, đòi hỏi nhiều hy

sinh to lớn về người, về của. Từ năm 1965 đến 1972 chúng ta lại phải đánh

trả và chiến thắng chiến tranh phá hoại mà kẻ thù đã sử dụng hầu như tất cả

các loại vũ khí cho đến lúc bấy giờ là tối tân nhất của chúng, chỉ trừ có vũ khí

nguyên tử, công cuộc xây dựng đất nước ở miền Bắc càng khó khăn, gian

Page 40: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

khổ gấp bội. Ngoài ra, Hồ Chí Minh cũng luôn luôn chỉ ra rằng, do bản chất

của nó, chủ nghĩa xã hội là một cuộc cách mạng triệt để chưa từng có trong

lịch sử, bởi vậy, nó luôn đòi hỏi phải có những con người mới. Đó là những

con người được rèn luyện toàn diện về tinh thần và thể chất, trước hết là về

tư tưởng. Như chúng ta đều biết, Hồ Chí Minh từng dạy: “Muốn có chủ nghĩa

xã hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa...”

Khẳng định con người vừa là động lực vừa là mục tiêu của cách mạng.

Hồ Chí Minh thường xuyên chỉ rõ rằng, sự nghiệp "trồng người" cũng như

phục vụ con người tất yếu phải trải qua một cuộc đấu tranh cách mạng không

kém phần lâu dài, gay go, quyết liệt trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa.

Có thể nói, nhận thức sâu sắc về thực tiễn cách mạng Việt Nam là một

trong những nguyên nhân chủ yếu đưa đến việc Hồ Chí Minh coi trọng vị trí,

vai trò của đạo đức. Trong vấn đề này, Hồ Chí Minh còn xuất phát từ nhận

thức khoa học sâu sắc về vị trí, vai trò của yếu tố tinh thần trong các điều kiện

lịch sử cụ thể của thực tiễn cách mạng.

Tổ tiên chúng ta thuở xưa cũng từ kinh nghiệm lịch sử đã nhận thức

được chân lý mà Nguyễn Trãi trình bày trong Bình Ngô đại cáo, rằng: “Lấy đại

nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo!”.

Tuy nhiên, phải đến Hồ Chí Minh, việc coi trọng yếu tố tinh thần, phát

huy đến mức tối đa sức mạnh tinh thần, chuyển hoá sức mạnh tinh thần

thành sức mạnh vật chất để chiến thắng kẻ thù mới có cơ sở thế giới quan và

phương pháp luận khoa học ngang tầm thời đại. Đứng vững trên lập trường

duy vật biện chứng, Hồ Chí Minh đã bác bỏ cách hiểu thô thiển chỉ nhấn

mạnh yếu tố vật chất mà coi nhẹ yếu tố tinh thần. Người nhấn mạnh: “Có

người nói: lúc này mà xem trọng tinh thần, tư tưởng là không duy vật biện

chứng. Các cô, các chú có biết vì sao mà cách mạng của ta thành công

không? Vì tinh thần! Lúc bấy ciờ thực dân phong kiến có quân đội, cảnh sát,

chính quyền tất cả. Đảng ta chỉ có hai bàn tay không. Vậy vì sao ta thành

công? Vì ta đoàn kết! Lấy gì mà đoàn kết? — Lấy tinh thần! Trong kháng

chiến, địch có hải, lục, không quân, ta thì về hải quân, không quân không có

Page 41: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

mà ngay lục quân thì súng đủ các loại: súng kíp, súng Nhật, súng Mỹ, súng

Pháp, đạn cũng lung tung, thuốc men không có, cán bộ thì từ du kích mà ra.

Vậy vì sao ta thắng lợi? Vì ta đoàn kết! Vì sao ta đoàn kết? Là do tinh thần!

Các đồng chí chúng ta hoạt động cách mạng trong thời kỳ bí mật, khi bị

địch bắt được, nó treo, nó kẹp, nó tra tấn, nó bắn, nhưng nhất định không

khai, chẳng những không nói mà còn chửi vào mặt nó. Đấy là vật chất hay

tinh thần?

Trong kháng chiến có chiến sĩ lấy thân mình lấp lỗ châu mai, hay ngay

ở Hải Phòng có mấy người mà đánh được trường bay Cát Bi, thì đó là tinh

thần hay vật chất? - Tinh thần!”.

Còn một nguyên nhân nữa, cũng rất quan trọng, đưa đến việc Hồ Chí

Minh nhấn mạnh vị trí, vai trò của đạo đức. Đó là: Hơn ai hết, và trước tất cả

mọi người, ngay lập tức sau khi Cách mạng tháng Tám thành công. Người đã

thấy và đề phòng nguy cơ cán bộ, đảng viên thoái hoá trong điều kiện có

chức, có quyền. Suốt từ ấy cho đến khi tạ thế, Người thường xuyên cảnh

báo, nhắc nhở chúng ta về vấn đề này.

Thực tiễn lịch sử đã chứng minh rằng quyền lực, nhất là khi coi nó là

tuyệt đối, có khả năng làm thoái hoá con người, kể cả những người từng là

lãnh tụ cao nhất của phong trào, từng có cống hiến và uy tín lớn nhất, từng rất

có nghĩa, có tình. Thực tiễn lịch sử cũng đã chứng minh rằng nhan sắc, tiền

tài, danh lợi và các cám dỗ vật chất khác trong thời bình có thể quật ngã

những người từng được coi là mạnh hơn nhà tù, máy chém, pháo bầy, bom

rải thảm và mọi mưu ma, chước quỷ của kẻ thù.

Có thể khẳng định mà không sợ sai lầm rằng, ở nước ta, không một ai

thuộc thế hệ từ các đại nho hồi đầu thế kỷ trở về trước hiểu sâu bằng Hồ Chí

Minh nguy cơ quyền lực làm hư hỏng con người trong điều kiện hoà bình xây

dựng đất nước. Sở dĩ như vậy, là vì các sĩ phu yêu nước hồi đầu thế kỷ

không có chính quyền trong khi đó chính quyền phong kiến thì còn rất xa mới

có sức mạnh toàn diện và tổng hợp như chính quyền cách mạng của chúng

ta. Mặt khác, các thế hệ tổ tiên của chúng ta không có mảy may kiến thức về

Page 42: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

tính chất lâu dài, gian khổ, khó khăn, quyết liệt, về những thử thách nhiều khi

đòi hỏi con người phải có gan vàng, dạ sắt mới vượt qua được trong sự

nghiệp xây dựng một đất nước nghèo nàn, lạc hậu tiến lên dân giàu, nước

mạnh, xã hội công bằng văn minh trong thời đại ngày nay.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí của đạo đức đã trở nên hoàn chỉnh

trong những lời dạy của Người về mối quan hệ đức - tài:

Thời Cổ đại ở Trung Quốc, phái Mặc Gia đưa ra thuyết Thượng hiền,

tôn trọng người hiền tài. Theo thuyết này, cai trị nước phải là người hiền tài;

không phân biệt quý tộc, thường dân, ai tài thì được cử làm quan, quan dốt

kém thì phế bỏ. Không để cho người cai trị không nổi trăm người làm quan

cai trị nghìn người, không nên dựa vào dòng dõi hoặc là mặt mũi sáng sủa để

chọn quan, có thể chọn quan trong số những người làm nghề nông, hoặc

trong xưởng thợ nếu họ có đủ đức tài. Trong xã hội, từ thiên tử đến quan lại

đều do mọi người chọn ra và đó là những người hiền tài, phải lao động cùng

với mọi người giống như vua Vũ thời xưa vác gậy đi khắp nơi để điều chỉnh

sông ngòi.

Về việc dùng người, Mặc Tử cho rằng bậc "Vương công đại nhân" trị vì

đất nước phải tôn trọng người hiền tài. Tôn trọng người hiền tài là cốt lõi của

chính trị: "Người sang và trí tuệ cầm quyền cai trị kẻ ngu và bần tiện thì đất

nước thịnh trị. Còn kẻ ngu và bần tiện cầm quyền cai trị người sang và trí tuệ

thì đất nước loạn". Mặt khác, quan điểm dùng người của Mặc gia có yếu tố

duy tâm tôn giáo khi thừa nhận vai trò của Trời trong việc giám sát mọi hoạt

động của con người, ban phúc cho người tốt, giáng họa cho kẻ xấu.

Khổng Tử quan niệm người cầm quyền phải có đức, có tài, không cần

tính đến đẳng cấp xuất thân của họ. Ông nhận xét rằng sở dĩ Trọng Cung

không được đắc dụng chỉ vì ông này thuộc tầng lớp thường dân. Theo ông,

Trọng Cung không những xứng đáng được cử làm quan, mà thậm chí còn có

thể làm vua được. Vì một ông vua đồng thời cũng phải là một người thầy của

dân, phái là người nhân đức nhất trong những người nhân đức. Ông vẫn

Page 43: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

thường nghĩ: Làm chính trị mà có đức nhân là đã đứng vào vị trí của sao Bắc

đẩu, là vị trí mà tất cả các vì sao khác đều phải chầu về.

Khổng Tử cho rằng người cầm quyền phải làm gương cho dân, phải "tu

thân", xem xét hàng ngày mình có làm được những điều đạo quy định hay

không, sau đó mới "Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ".

Khổng Tử quan niệm dùng người thì phải trọng dụng những kẻ hiền

năng, chọn những người tài đức làm những việc ích nước lợi dân và phải tiến

cử những công dân có tài đức mà đang còn ẩn dật. Đánh giá một người nào

đó là quân tử hay tiểu nhân thì phải quan sát hành động của họ, xem hành

động ấy có phù hợp với lời nói của họ hay không và phải nhìn vào công việc

của họ, xét lý do làm việc của họ, thái độ của họ (Luận ngữ).

Mạnh Tử, người phát triển học thuyết của Khổng Tử, cho rằng phải

nghe dư luận để chọn hiền tài. Ông nói: "Nếu khắp nước, người ta đều cho

rằng người nào đó là trang hiền tài, chừng ấy mình mới quan sát. Khi đã nhận

thấy quả thật là trang hiền tài, chừng đó mình mới cử dùng".

Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng cán bộ là then chốt của sự thành bại

trong công cuộc cách mạng và xây dựng xã hội mới. Tài, Đức là tiêu chuẩn

cơ bản để lựa chọn cán bộ. Sau khi Cách mạng tháng Mười Nga thành công,

căn cứ vào thực tiễn lúc bấy giờ, Lênin đã nêu lên những tiêu chuẩn lựa chọn

"những người thật sự có tài tổ chức, những người có bộ óc sáng suốt và có

bản lĩnh tháo vát trong thực tiễn, những người vừa trung thành với chủ nghĩa

xã hội lại vừa có năng lực. Chỉ có những người như thế chúng ta mới đề bạt

lên những chức vụ lãnh đạo lao động của nhân dân, lên những chức vụ lãnh

đạo quản lý, sau khi đã thử thách họ hàng chục lần bằng cách cho họ đảm

nhận từ những nhiệm vụ đơn giản nhất đến những nhiệm vụ khó khăn nhất".

Trong thực tế, những người "trung thành với chủ nghĩa xã hội", "có bán lĩnh",

"có bộ óc sáng suốt", "có năng lực" mà Lênin nêu ra chính là những người có

cả Đức và Tài.

Hồ Chí Minh đã có những chỉ dẫn phong phú về mối quan hệ giữa tài

và đức trong việc giáo dục, đào tạo, rèn luyện và sử dụng con người. Luôn

Page 44: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

luôn gắn tài với đức. Người thường dùng từ ghép: "bậc tài đức", "kẻ hiền

năng", "tài khác nhau nhưng ai giữ được đạo đức đều là người cao thượng".

Giữa tài và đức thì theo Hồ Chí Minh, đức là gốc, là nền tảng, "Có tài phải có

đức, có tài không có đức, tham ô, hủ hóa có hại cho nước". "Có tài mà không

có đức ví như một anh làm kinh tế, tài chính rất giỏi nhưng lại đi đến thụt két

thì chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã hội, mà còn có hại cho xã

hội nữa". Còn người "có đức mà không có tài ví như ông Bụt không làm hại

gì, nhưng cũng không lợi gì cho loài người". Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, mối

quan hệ giữa "chính trị và chuyên môn", giữa "hồng và chuyên" cũng là mối

quan hệ giữa Đức và Tài. Người cho rằng "chính trị là linh hồn, chuyên môn là

cái xác. Có chuyên môn mà không có chính trị thì chỉ còn cái xác không hồn.

Phải có chính trị trước, rồi có chuyên môn". "Chính trị là đức, chuyên môn là

tài. Có tài mà không có đức là hỏng".

Đề cao đức trong mối quan hệ đức - tài, song Hồ Chí Minh cũng luôn

khẳng định khi mối quan hệ đó phát triển đến mức cao, thì tài và đức hòa vào

nhau làm một, tài trở thành đức. Những người có tài năng giỏi mà đem tài

năng đó cống hiến cho xã hội, góp phần làm cho xã hội phát triển thì tài ấy là

đức.

Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, đức không phải là cái mang tính

bẩm sinh, cũng không phải chỉ là ý thức "chỉnh tâm, tu thân", mà là cái luôn

phải được trau dồi qua đấu tranh, rèn luyện hàng ngày, trong hoạt động thực

tiễn, trong đấu tranh giai cấp, giải phóng dân tộc, xây dựng xã hội mới công

bằng, văn minh. Đức là cái nền cho tài năng nảy nở và phát triển. Bởi thế,

theo Người, "không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được

nhân dân".

Với quan niệm nhất quán đó về mối quan hệ đức - tài, khi nói về công

tác lựa chọn và sử dụng nhân tài. Hồ Chí Minh cho rằng việc đề ra tiêu chuẩn

cán bộ không được dựa trên ý muốn chủ quan của mình, mà phải xuất phát

từ thực liễn, từ những yêu cầu của cách mạng. Tiêu chuẩn chung nhất mà

người cán bộ phải có là phẩm chất chính trị và năng lực lãnh đạo mà Người

Page 45: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

thường gọi là đức và tài. Giữa đức và tài, Người thường nêu đức trước rồi

đến tài.

Người cán bộ cách mạng cần có phẩm chất đạo đức tốt nhưng đồng

thời phải có tài. Người cán bộ có tài mà thiếu đức thường gây ra những tác

hại không nhỏ. Những người tài giỏi, có học vấn cao đến đâu mà thiếu đạo

đức thì không nên giao cho họ những việc quốc gia đại sự. Tài năng, thông

minh hơn người nhưng nóng nảy, thô lỗ, tự tư, tự lợi thì cái tài ấy có thể sẽ

biến thành "tai họa". Những người đức nhỏ mà ở ngôi cao sẽ gây tai họa cho

thiên hạ.

Hồ Chí Minh không chỉ đưa ra những tiêu chuẩn chung nhất trong việc

lựa chọn nhân tài, lựa chọn cán bộ, mà Người còn nêu lên những tiêu chuẩn

riêng cho cán bộ ở từng ngành. Mỗi người cán bộ dù làm công tác gì, ở

cương vị nào cũng đều có thể tìm thấy những tiêu chuẩn để tu dưỡng, rèn

luyện, để phấn đấu vươn lên.

Trong thời kỳ kháng chiến kiến quốc, Người nêu lên sáu tư cách của

người làm tướng là: "Trí, nhân, dũng, tín, liêm, trung". Trong sáu tư cách đó

có một điểm thuộc về tài năng, một điểm thuộc về tinh thần, còn bốn điểm

thuộc về đạo đức. Qua đó chúng ta thấy, Người luôn coi trọng phẩm chất đạo

đức của người làm tướng.

Những đại biểu quốc hội, những nhân viên trong Chính phủ, những cán

bộ trong các đoàn thể, theo Người, "phải là những người có tài, có đức...". "Ai

cũng phải thực hành bốn chữ: Cần, kiệm, liêm, chính" và câu châm ngôn "Chí

công vô tư".

Năm 1959, nói chuyện tại lớp học chính trị của giáo viên, Người chỉ rõ:

"Giáo viên phải chú ý cả tài cả đức, tài là văn hóa, chuyên môn, đức là chính

trị. Muốn cho học sinh có đức thì giáo viên phải có đức". Thầy cô giáo "phải

gương mẫu", "phải dạy cho học sinh yêu nước, yêu nhân dân, yêu lao động,

yêu chủ nghĩa xã hội". "Trẻ em như cái gương trong sáng, thầy tốt thì ảnh

hưởng tốt, thầy xấu thì ảnh hưởng xấu. Cho nên phải chú ý giáo dục chính trị,

tư tưởng trước, chính thầy giáo, cô giáo cũng phải tiến bộ về tư tưởng".

Page 46: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Về những tiêu chuẩn chung của người cán bộ, Hồ Chí Minh cho rằng

có những nội dung chung cho mọi thời kỳ cách mạng, như lòng trung thành

với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của nhân dân, tinh thần trách nhiệm cao,

không ngừng học tập và rèn luyện để nâng cao trình độ nhằm hoàn thành các

nhiệm vụ được giao... Trong từng giai đoạn của cách mạng, tùy theo tình hình

cụ thể, tiêu chuẩn đó lại được Người bổ sung cho phù hợp với những yêu cầu

của nhiệm vụ chính trị đang đặt ra. Điều đó cho thấy quan điểm lịch sử cụ thể

và quan điểm phát triển đã được thể hiện rất rõ trong tiêu chuẩn cán bộ mà

Người đã vạch ra.

Chẳng hạn, khi nói về phẩm chất đạo đức của người cán bộ, đảng viên

khi Đảng trở thành Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh đòi hỏi cán bộ, đảng viên

phải kiên quyết chống ba thứ "giặc nội xâm" là tham ô, lãng phí, quan liêu,

phải nêu gương giải quyết tốt mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập

thể. Về năng lực, để bảo vệ chính quyền cách mạng và xây dựng xã hội mới.

Người đòi hỏi mọi cán bộ đều phải có những hiểu biết mới, phải có kiến thức

kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật, kiến thức quản lý kinh tế, quản lý xã hội.

Người chỉ rõ: Ngày nay, Đảng yêu cầu cán bộ và đảng viên chẳng những

thành thạo về chính trị mà còn phải giỏi về chuyên môn. Cán bộ ai lãnh đạo

trong ngành hoạt động nào thì phải biết chuyên môn về ngành đó.

Để xác định đúng phẩm chất, năng lực của mỗi con người cần phải

xem xét thái độ của họ đối với bản thân, với người khác và với công việc.

Đối với bản thân, người cán bộ phải có các đức tính cần, kiệm, liêm,

chính, không hiếu danh, vì có lòng hám danh vọng, địa vị thì khi phụ trách có

thể lôi kéo người này, người khác, ưa thì kéo vào, không ưa thì tìm cách đẩy

ra. Phải "không kiêu ngạo", "Nếu có tính tự kiêu thì dù tài giỏi vô cùng như

ông Chu Công, thì tài giỏi ấy cũng vất đi". Người cho rằng chỉ với những

người mà "lời nói luôn đi đôi với việc làm", "ít lòng ham muốn về vật chất", thì

giàu sang mới không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ

không thể khuất phục.

Page 47: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Đối với mọi người: "Với từng người thì khoan thứ, với đoàn thể thì

nghiêm, có lòng bày vẽ cho người, trực mà không táo bạo", gắn bó với quần

chúng, biết mình, biết người. Biết vì Đảng, vì dân mà tiến cử, cất nhắc người

tốt, tránh người xấu, đề phòng người gian, chân thành, khiêm tốn và thật thà,

đoàn kết với những người khác.

Đối với công việc: "Xem xét hoàn cảnh kỹ càng, quyết đoán dũng cảm,

phục tùng đoàn thể". Thạo về chính trị, giỏi về chuyên môn, không sợ khó

khăn, nguy hiểm, không tự đặt mình cao hơn tổ chức, không đứng ngoài kỷ

luật.

Muốn đánh giá đúng con người, Hồ Chí Minh đòi hỏi người đánh giá

phải đủ tư cách, không đủ tư cách thì không thể đánh giá được. Người coi đó

là vấn đề lương tâm và danh dự. Người cho rằng: “Đã không tự biết mình thì

khó mà biết người, vì vậy muốn biết đúng sự phải trái ở người ta, thì trước

phải biết đúng sự phải trái của mình. Nếu không biết sự phải trái của mình, thì

chắc không thể nhận rõ người cán bộ tốt hay xấu”.

Qua thực tiễn hoạt động cách mạng và kinh nghiệm công tác của mình.

Hồ Chí Minh khẳng định: Để đánh giá đúng một con người, phải kết hợp trí

tuệ minh mẫn với tâm trong sáng. Người nhận xét cán bộ lãnh đạo của ta

thường phạm những "chứng bệnh" cố hữu khi đánh giá cấp dưới của mình.

Đó là những căn bệnh:

1. "Tự cao tự đại.

2. Ưa người ta nịnh mình,

3. Do lòng yêu, ghét của mình mà đối với người.

4. Đem một cái khuôn khổ nhất định, chật hẹp mà lắp vào tất cả mọi

người khác nhau".

Nếu ai đã "Phạm một trong bốn chứng bệnh đó thì cũng như mắt đã

mang kính có màu, không bao giờ thấy rõ cái mặt thật của những cái mình

trông".

Page 48: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Hồ Chí Minh yêu cầu phải “khéo dùng cán bộ”, đặt người đúng việc, vì

việc mà đặt người, chứ không phải vì người mà đặt việc, nghĩa là “nồi tròn úp

vuông tròn", chứ không thể “nồi tròn úp vung vuông”, Hồ Chí Minh thường căn

dặn “Người đời ai cũng có chỗ hay chỗ dở. Ta phải đùng chỗ hay của người

và giúp người chữa chỗ dở. Dùng người cũng như dùng gỗ. Người thợ khéo

thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong đều tuỳ chỗ mà dùng được”.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ đức - tài và vấn đề lựa chọn, sử

dụng con người đang có ý nghĩa thời sự đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta

hiện nay. Công cuộc đổi mới chỉ có thể giành được thắng lợi nếu chúng ta

làm tốt công tác tổ chức cán hộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh, theo đường lối

chủ trương của Đảng. Hiện nay, bên cạnh những nơi làm tốt công tác cán bộ

"tùy tài mà sử dụng". vẫn còn có nhũng nơi chưa công tâm, chưa sử dụng

đúng cán bộ. Nguyên nhân là do vẫn còn phạm những khuyết điểm mà Hồ

Chí Minh đã phê phán như:

1. Ham dùng người bà con, anh em quen biết, bầu bạn, cho họ là chắc

chắn hơn người ngoài.

2. Ham dùng những kẻ khéo nịnh hót mình mà chán ghét những người

chính trực.

3. Ham dùng những người tính tình hợp với mình, mà tránh những

người tính tình không hợp với mình.

Kết quả là:

"Vì những bệnh đó, kết quả những người kia đã làm bậy, mình cũng cứ

bao dung che chở, khiến cho chúng càng ngày càng hư hỏng. Đối với những

người chính trực thì bới lông tìm vết để trả thù. Như thế cố nhiên là hỏng cả

công việc của Đảng, hỏng cả danh giá của người lãnh đạo".

Đánh giá đúng cán bộ, sử dụng đúng tài, đức của cán bộ coi "cán bộ là

cái gốc của mọi công việc" làm tốt vấn đề tổ chức cán bộ, đó cũng là công

việc gốc để đưa đất nước tiến vững chắc trên con đường công nghiệp hóa,

hiện đại hóa.

Page 49: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

* * *

Dân tộc ta là một dân tộc có truyền thống coi trọng đạo đức, biết lấy

tinh thần yêu nước, tinh thần cộng đồng dân tộc và tinh thần nhân văn làm

nền tảng cơ bản để xây dựng quan hệ và hành vi đạo đức. Tuy nhiên, đến

cuối thế kỉ XIX, khi mà hệ tư tưởng phong kiến nói chung và những kinh

nghiệm lịch sử đã được tổng kết trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo

vệ Tổ quốc không còn đủ sức đáp ứng yêu cầu của thực tiễn bảo vệ tổ quốc

trong thời đại mới, thì các tư tưởng đạo đức thuộc về hệ tư tưởng phong kiến

cũng trở nên bất cập trong thời đại mới. Thực tiễn giải phóng dân tộc đòi hỏi

đạo đức truyền thống cũng phải được nâng lên một tầm cao mới.

Đầu thế kỉ XX, cùng với nhu cầu phải tìm ra một hệ tư tưởng mới cao

hơn hệ tư tưởng phong kiến, soi sáng con đường cứu nước thì nhu cầu về

một cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức cũng trở nên cấp thiết. Thế hệ sỹ

phu yêu nước hồi đầu thế kỷ trong khi tiếp thu ảnh hưởng của một số học

thuyết tư sản cũng đã đưa ra một số tư tưởng mới.

Trong hơn 20 năm đầu thế kỷ XX, tư tưởng đạo đức, luân lý Việt Nam

nằm trong sự chuyển biến từ hệ tư tưởng phong kiến lướt qua hệ tư tưởng tư

sản, để rồi tiến đến tiếp thu hệ tư tưởng vô sản. Trong sự chuyển biến nói

trên, cả hệ tư tưởng nói chung lẫn ở bình diện tư tưởng đạo đức, luân lý nói

riêng, Phan Chu Trinh là người có những đóng góp nổi bật so với thế hệ sỹ

phu yêu nước mà cùng với Phan Bội Châu, ông là đại biểu.

Ở nước ta, tiến trình phát triển của xã hội có những điều kiện lịch sử

riêng biệt, xã hội Việt Nam chưa trải qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa, trong khi

chế độ phong kiến đã hết vai trò lịch sử, chủ nghĩa tư bản chưa ra đời thì ở

phương Tây chủ nghĩa tư bản đã chuyển từ tiến bộ sang phản động. Giai cấp

tư sản đã mất hết tư cách là động lực tiến bộ, không còn là giai cấp trung tâm

của thời đại. Do những hạn chế về nhận thức, tất cả những nhà yêu nước

chuyển sang lập trường dân chủ tư sản đều không hiểu được rằng trong thời

đại mới giai cấp đứng ở trung tâm quyết định phương hướng, nội dung phát

triển của thời đại đó là giai cấp vô sản. Chính vì thế học thuyết dân chủ tư sản

Page 50: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

không thể là lý luận có thể giải phóng được các dân tộc bị áp bức và nhân loại

cần lao, cho nên sự thất bại của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh... cũng có

nghĩa là sự phá sản và bất lực của lý luận dân chủ tư sản và tư tưởng đạo

đức tư sản ở nước ta.

Với việc xây dựng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật

lịch sử, C. Mác, Ph. Ăngghen đã đặt cơ sở khoa học cho việc tìm hiểu, nghiên

cứu và giải quyết mọi vấn đề của đời sống xã hội, trong đó có những vấn đề

của đạo đức.

Khi bàn về các kiểu đạo đức trong thời đại mới, Ph. Ăngghen đã nêu

lên ba thứ đạo đức phong kiến, tư sản và vô sản, ba thứ đạo đức ấy tiêu biểu

cho ba thời đại khác nhau: phong kiến, tư sản và chủ nghĩa xã hội. Đạo đức

tư sản nhất định sẽ bị diệt vong cùng với sự diệt vong của chế độ tư sản và

thắng lợi của đạo đức cộng sản chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử, hợp với tự

nhiên.

Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo tư tưởng đạo đức Mác -

Lênin và trên cơ sở hệ thống tư tưởng đạo đức đã hình thành hàng nghìn

năm nay, Người đã thực hiện cuộc cách mạng về đạo đức ở nước ta. Khái

niệm “đạo đức cách mạng”, mà tại Việt Nam Hồ Chí Minh là người đầu tiên

xác lập, có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, cũng như có tính chiến đấu cao

chống lại các quan điểm sai trái, lỗi thời của đạo đức cũ mà tiêu điểm là chủ

nghĩa cá nhân. Bắt đầu từ việc giải quyết một cách chính xác vị trí, vai trò của

đạo đức và mối quan hệ đức - tài. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã và đang soi sáng

cho sự nghiệp xây dựng, rèn luyện và sử dụng con người nói chung cũng như

cho chính sách cán bộ nói riêng.

Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng là lý luận soi

đường cho một cuộc cách mạng về đạo đức ở nước ta. Muốn lĩnh hội sâu sắc

cuộc cách mạng này, cần phải nhận thức về các phạm trù đạo đức mà Người

đã sử dụng.

Page 51: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Chương 2. VỀ CÁC PHẠM TRÙ ĐẠO ĐỨC MÀ HỒ CHÍ MINH ĐÃ SỬ DỤNG

Các phạm trù đạo đức là những khái niệm có ngoại diện rộng lớn, khái

quát toàn bộ các vấn đề và các hiện tượng đạo đức xã hội. Chúng là những

công cụ nhận thức các vấn đề và các hiện tượng ấy. Chúng giúp cho con

người có các tiêu chuẩn để nhận thức, đánh giá, tu dưỡng trong lĩnh vực đạo

đức cá nhân và xã hội.

Như chúng ta đều biết, Hồ Chí Minh đã sử dụng một loạt phạm trù đạo

đức truyền thống trong sự nghiệp xây dựng đạo đức mới cho dân tộc chúng

ta. Đối với từng phạm trù, Người thường có sự giảng giải và giảng giải một

cách dễ hiểu, tuỳ theo từng đối tượng cụ thể.

Bản thân Người đã không sắp xếp các phạm trù ấy thành một hệ thống,

nhưng để thuận lợi trong việc tiếp thu và truyền bá tư tưởng của Người, một

việc sắp xếp như vậy là rất nên làm.

Trong chuyên khảo này, trật tự mà chúng tôi thực hiện là đi từ những

phạm trù chung nhất mà các nhà đạo đức học thường xác định đến các phạm

trù thuộc lĩnh vực các chuẩn mực đạo đức mà Hồ Chí Minh đã sử dụng.

Với chú ý làm nổi bật đặc điểm tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, chúng

tôi chỉ tập trung vào những phạm trù chủ yếu mà Hồ Chí Minh đã sử dụng.

I. VỀ CÁC PHẠM TRÙ CHỦ YẾU MÀ HỒ CHÍ MINH ĐÃ SỬ DỤNG

1. Thiện - Ác

Thiện và ác là hai trong những phạm trù cơ bản của đạo đức học, dùng

để đánh giá đạo đức của hành vi con người. “THIỆN” là sự đánh giá khẳng

định đối với hành vi phù hợp với nguyên tắc và qui phạm đạo đức của một xã

hội hoặc một giai cấp nhất định. “ÁC” là sự đánh giá phủ định đối với hành vi

trái với nguyên tắc và qui phạm đạo đức của một xã hội hoặc một giai cấp

nhất định. Trong văn hiến cổ của Trung Quốc đã có cặp phạm trù này. Quẻ

Page 52: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

"Đại hữu" trong sách "Châu Dịch" có câu: "Quân tử dĩ ách ác dương thiện"

(người quân tử lấy việc ngăn chặn cái ác và phát huy cái thiện), có nghĩa là

người có học thức và có tu dưỡng cần ngăn chặn hành vi không đạo đức và

xúc tiến hành vi đạo đức. Trong văn từ Hy Lạp và La tinh, "thiện" là từ "dũng

cảm" (agatho và bokuo) mà ra, "ác" là từ "yếu đuối" (kako và main) mà ra.

Thiện và ác là quan hệ đối lập thống nhất, chúng tồn tại trong sự so sánh và

phát triển trong sự đấu tranh. Ở phương Tây cổ đại, nhà triết học duy tâm

khách quan Platon đã cho rằng: Con người phải biết sống thiện. Chính

Thượng đế đã đem lại cho con người điều thiện. Do đó con người phải biết

vâng lệnh Thượng đế để sống thiện và làm điều thiện.

Nhà triết học Arixtốt quan niệm rằng: Lòng tốt của con người là ở thiện

tâm, thiện ý.

Đến thế kỷ XVII – XVIII, nhà triết học duy vật người Anh là Hốpxơ cho

rằng bản chất của con người là ích kỷ và cá nhân chủ nghĩa. Con người ai

cũng có khát vọng, nhu cầu riêng và vì có tính ích kỷ mà trước quyền lợi của

mình, người ta có thể chà đạp lên người khác. Ông khẳng định: Con người là

một động vật độc ác ranh ma hơn cả chó sói và rắn. Vì lợi ích ích kỷ của mình

mà người này chống lại người kia, từ đó sinh ra chiến tranh, gây ra sự đau

khổ và chết chóc. Theo ông, ngay cả chân lý khẳng định tổng 3 góc của một

tam giác bằng hai góc vuông nếu như mâu thuẫn với lợi ích của một ai đó

đang cầm quyền thì mọi sách vở hình học cũng sẽ bị đốt hết.

Ở phương Đông, Khổng Tử, người sáng lập ra đạo Nho, thường nói

nhiều đến nhân nghĩa. Ông cho rằng con người phải trọng nhân nghĩa. Việc

gì mình muốn, thì làm cho người, cái mà mình không muốn thì đừng làm cho

người. Bản tính con người lúc mới sinh ra thì ai cũng giống nhau. “Tính tương

cận, tập tương viễn” nhưng do tập quán, tập tục, tập luyện, tức là do sự giáo

dục từ trong gia đình đến ngoài xã hội mà tập tính của các cá nhân lại dần

dần khác xa nhau, khiến có người thiện và kẻ ác, có người cao thượng và kẻ

đê hèn.

Page 53: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Đề cập đến thiện, ác, Mạnh Tử quan niệm: Tính con người ta vốn là

thiện: “Nhân chi sơ tính bổn thiện”. Tính thiện do Trời phú. Người ta sinh ra ai

cũng có sẵn các đức tính: nhân, nghĩa, lễ, trí và có hiếu với cha mẹ. Ông lập

luận rằng: Đứa trẻ ẵm ngửa đã biết yêu bố mẹ, khi lớn lên biết kính trọng anh

nó, đó là điều tất nhiên. Lòng biết thương xót, xấu hổ, cung kính, phải trái

người ta đều có, lòng biết thương xót là nhân, lòng biết xấu hổ là nghĩa, lòng

biết cung kính là lễ, lòng biết phải trái là trí. Những điều nhân, nghĩa, lễ, trí

không phải từ bên ngoài rèn luyện cho ta mà ở trong con người của ta vốn có

những điều đó... Người ta ai cũng có tính thiện, thường thương xót những

người hoạn nạn rủi ro, không may. Bản tính của con người vẫn hướng về

điều lành, cũng như nước chảy xuống chỗ thấp. Con người chẳng ai là không

có tính thiện, cũng như nước chẳng bao giờ lại không chảy xuống chỗ thấp.

Tuân Tử coi bản tính tự nhiên của con người vốn là ác. "Nhân chi sơ

tính bổn ác", bởi con người sinh ra vốn sẵn có lòng ham lợi và dục vọng. Để

thoả mãn những ham muốn, dục vọng, con người phải hành động thuận theo

tính tự nhiên của mình nên dẫn đến tình trạng chiến tranh, tranh giành, cướp

đoạt của nhau. Mặt khác, ông cũng cho rằng bằng biện pháp giáo dục có thể

chuyển tính ác của con người thành tính thiện. Theo ông, ai cũng có thể tạo

ra được tính thiện. Cách tạo này giống như cây cong được kéo thẳng ra.

Song muốn kéo thẳng cây cong ra thì trước hết phải hơ nóng, phải có khuôn

uốn. Tính của con người cũng vậy, muốn có điều thiện phải có thầy, có phép

dạy bảo thì mới có lễ nghĩa, thiên hạ mới yên ổn. Với quan niệm như vậy,

chúng ta thấy Tuân Tử rất chú ý đến vấn đề giáo dục, đến vai trò của người

thầy. Mặt khác, do quan niệm tính người vốn là ác nên ông chủ trương dùng

hình pháp để trị nước và ông coi hình pháp là cái gốc của thiên hạ, là cái để

ngăn cấm những điều bạo ngược, để răn đe những điều chưa xảy ra.

Phái Pháp gia cho rằng bản tính con người là ác, không thể dùng giáo

dục để cảm hoá được ai cả mà phải dùng pháp lệnh hình phạt để trừng trị.

Trong việc trị nước đừng trông mong gì nhân dân làm điều thiện. "Nếu trông

mong nhân dân làm điều thiện thì khắp nước không tìm được mười người".

Page 54: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Bởi, như Hàn Phi Tử từng nhấn mạnh, bản tính con người là: "Hễ thấy yên ổn

và lợi lộc thì kéo đến, mà thấy nguy hiểm và thiệt hại thì bỏ đi".

Quan niệm bản chất con người là ác, Hàn Phi Tử đề cao pháp trị: "Hình

nghiêm và nặng là cái dân ghét, nhưng nhờ đó mà nước trị; thương xót trăm

họ làm nhẹ hình phạt là cái dân thích nhưng vì đó mà nước nguy".

Các tôn giáo đều quan niệm thiện như là những hành động từ bi, bác

ái, là cái đem lại điều tốt đẹp cho con người. Trong giáo lý các tôn giáo đều

đề cao tính thiện, đều khuyên con người sống nhẫn nhục, từ bỏ mọi lạc thú ở

trần gian, biết sợ hãi trước các lực lượng siêu tự nhiên. Không tin vào sức

mạnh kỳ diệu của con người, đồng thời tôn giáo cũng nêu lên những hình

phạt rùng rợn ở địa ngục đối với những ai gây tội ác trên trần thế. Những lời

khuyên của tôn giáo có tác dụng như một chiếc phanh hãm, ngăn ngừa con

người làm điều ác.

Học thuyết của đạo Phật khuyên con người suy nghĩ thiện và làm theo

điều thiện, thương người, vị tha, giúp người trong lúc hoạn nạn, mặt khác đạo

Phật quan niệm cuộc đời của con người trong vòng số kiếp: kiếp này là quả

của kiếp trước và lại là nhân của kiếp sau. Mỗi một con người tu nhân, tích

đức ở kiếp này thì đời sau thiện báo, còn đời này làm điều ác thì đời sau ác

báo ("Thiện giả thiện báo, ác giả ác báo").

Ở nước ta, trong quan niệm đạo đức truyền thống, thiện là tất cả cái tốt

lành, không gian ác, không hung dữ, là chăm chỉ cần cù. là sống có tình

nghĩa, vì lợi ích của Tổ quốc, của tập thể mà hy sinh lợi ích cá nhân. Sống

thiện là sống theo những chuẩn mực đạo lý của dân tộc, chú trọng cái tâm,

cái đức, ác là những cái không phù hợp các chuẩn mực đạo đức đã được xã

hội thừa nhận. Quan niệm thiện và ác ở nước ta chịu ảnh hưởng nhiều tư

tưởng triết lý phương Đông, trước hết là Nho giáo và Phật giáo. Từ xưa đã có

những chuyện hướng con người làm điều thiện tránh điều ác (Tấm Cám.

Thạch Sanh,...). Kết thúc một câu chuyện thường là cái thiện thắng cái ác.

Nghiên cứu lịch sử xã hội loài người, Ph. Ăngghen đã từng nhận xét

lằng: "Từ dân tộc này sang dân tộc khác, từ thời đại này sang thời đại khác,

Page 55: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

những quan niệm về thiện và ác đã biến đổi nhiều đến mức chúng thường trái

ngược hẳn nhau". Theo đó, quan niệm về thiện và ác mang tính lịch sử cụ

thể, nhiều khi có những cái đối với dân tộc này là thiện nhưng đối với dân tộc

khác lại là ác.

Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp đều xuất phát từ lợi ích của mình

mà đưa ra những nguyên tắc, qui phạm đạo đức làm tiêu chuẩn cho hành vi

và đánh giá thiện ác.

Trong nhiều bài nói và bài viết của mình. Hồ Chí Minh đã đề cập tới các

phạm trù: thiện và ác. Theo Người, cái thiện không chỉ là thiện đối với mỗi cá

nhân khác và không chí là tình thương đối với những người bất hạnh, mà còn

là lòng yêu nước và tình thương đồng bào, là sự nghiệp giải phóng dân tộc,

đánh đuổi quân xâm lược (những kẻ đại diện cho cái ác), đem lại hạnh phúc

cho nhận dân.

Hồ Chí Minh đã viện dẫn lịch sử tiến hoá nhân loại, lịch sử cách mạng

Việt Nam và rất nhiều câu danh ngôn trong các kinh điển của Nho giáo để

trình bày quan điểm đạo đức của mình. Chẳng hạn câu: "Nhân chi sơ, tính

bản thiện" (Tam Tự Kinh).

Người nói: "Thiện nghĩa là tốt đẹp, vẻ vang. Trong xã hội không gì tốt

đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân". "Theo nghĩa rộng thì cả

thế giới và trong một nước có thiện và có ác. Theo nghĩa hẹp thì trong bản

thân và tư tưởng của mỗi người cũng có thiện và có ác". Nhà nước xã hội chủ

nghĩa và dân chủ nhân dân chỉ lo làm lợi cho nhân dân... Thế là thiện". "Tư

bản, đế quốc và phong kiến chỉ lo bóc lột nhân dân, thậm chí gây chiến tranh

giết hại nhân dân... Thế là ác... Nói về mỗi một người chúng ta, nếu hết lòng

hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, thế là thiện. Nếu chỉ lo cho lợi

ích riêng của mình, không lo đến lợi ích chung của nước nhà, của dân tộc, thế

là ác. Thực hành chí công vô tư, cần, kiệm, liêm chính thế là thiện. Nếu phạm

phải quan liêu, mệnh lệnh, tham ô, lười biếng thế là ác". Thiện là "làm đúng

chính sách của Đảng, phục vụ quyền lợi đại đa số nhân dân (công, nông)...

để lợi ích cách mạng, nhân dân lên trên hết, trước hết; trái lại là cái ác".

Page 56: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Theo Hồ Chí Minh. “Mỗi con người đều có cái thiện và cái ác trong

lòng”, nhưng "hiền, dữ phải đâu là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên".

"Quá khứ, hiện tại và tương lai của mọi người không phải luôn giống nhau".

Xem xét cán bộ "Không chỉ xem một việc, một lúc mà phải xem toàn cả lịch

sử, toàn cả công việc của họ...". "Người ở đời ai cũng có chỗ tốt và chỗ xấu.

Ta phải khéo nâng cao chỗ tốt, khéo sửa chữa chỗ xấu cho họ". "Phải biết

làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nẩy nở như hoa mùa xuân và phần

xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với những người

có thói hư tật xấu... ta cũng phải giúp đỡ họ tiến bộ bằng cách làm cho các

phần thiện trong con người nẩy nở để đẩy lùi cái ác, chứ không phải dập cho

tơi bời".

Cách giải quyết vấn đề thiện và ác trên nền tảng khoan dung là tư

tưởng nhân đạo sâu sắc ở Hồ Chí Minh. Xuất phát từ quan điểm coi con

người là vốn quí nhất, Hồ Chí Minh đã nói rằng: "Vì sự nghiệp trăm năm trồng

người". Hướng vào cái thiện để khuyến khích cái thiện và diệt trừ cái ác,

ngoài lòng khoan dung, Hồ Chí Minh đã hướng vào việc xây dựng một nhà

nước pháp quvền. Người lên án mạnh mẽ nạn tham nhũng, những việc làm

cậy quyền, cậy thế, hủ hoá tư túi của nhiều cán bộ cách mạng và đối với

những người như thế. "Nếu không sửa chữa, Chính phủ sẽ không khoan

dung, còn dùng pháp luật mà trị". Người kiên quyết yêu cầu "Pháp luật phải

thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề

nghiệp gì". Người khẳng định qui luật: "thiện và ác là hai cái mâu thuẫn, luôn

luôn đấu tranh gay gắt với nhau. Cuộc đấu tranh ấy phải trường kỳ và gian

khổ, nhưng cuối cùng thì ác nhất định bại, thiện nhất định thắng".

Hồ Chí Minh vạch rõ rằng trong xã hội tuy có trăm công nghìn việc,

song những việc ấy có thể chia làm hai thứ "việc chính và việc tà. Chính

nghĩa là thẳng thắn, đúng đắn. Điều gì không thẳng thắn, đúng đắn tức là tà".

Làm việc chính là người thiện, làm việc tà là người ác". Người khuyên mọi

người vì "việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng

tránh".

Page 57: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Để cho thiện thắng ác “Phải học tập, học tập trong việc làm hàng ngày,

trong việc lớn cũng như trong việc nhỏ, việc cao cũng như việc thấp. Phải

nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và áp dụng vào công tác hàng ngày”.

Ngày nay, trong cơ chế thị trường, quan niệm về thiện cũng có biến đổi.

"Thiện giờ đây chính là việc thực hiện "dân giàu, nước mạnh, xã hội công

bằng, văn minh". Tất cả những gì phục vụ và bảo đảm cho việc thực hiện mục

tiêu đó đều là thiện. Ngược lại, cái gì cản trở, bất lợi cho quá trình đó thì coi là

ác". Trong cơ chế thị trường thì việc làm giàu cho cá nhân một cách chân

chính được coi là thiện, là một việc đáng khuyến khích. Việc quan tâm chính

đáng đến lợi ích cá nhân người lao động là động lực thúc đẩy mọi thành viên

trong xã hội phát huy hết mọi năng lực sáng tạo của mình, là cái thiện phù

hợp với xu thế vận động và phát triển của lịch sử xã hội.

2. Hạnh phúc

Hạnh phúc là một phạm trù cơ bản của đạo đức học, sở dĩ như vậy là

vì ngoại diện của nó bao gồm tất cả mọi người. Mọi người, ai cũng mưu cầu

hạnh phúc: nhưng quan niệm về hạnh phúc và về con đường để đạt đến hạnh

phúc là rất khác nhau; trong mối quan hệ chặt chẽ với các phạm trù lẽ sống

và nghĩa vụ, những quan niệm ấy chi phối ý thức đạo đức, quan hệ đạo đức

và hành vi của con người.

Hạnh phúc, đó là hiện thực cuộc sống vật chất và tinh thần, hiện thực

các mối quan hệ gia đình và xã hội của con người, được con người cảm

nhận, đánh giá: sự cảm nhận và đánh giá ấy tác động trực tiếp tâm trạng của

con người khi cảm nhận một cách tổng quát về cuộc sống của bản thân.

Trong lịch sử xã hội loài người có rất nhiều quan niệm khác nhau về

hạnh phúc. Những sự khác biệt ấy bị qui định bởi thế giới quan, nhân sinh

quan, lẽ sống, tuổi tác, hoàn cảnh lịch sử của con người.

Trong lịch sử loài người từ xưa đến nay đã từng tồn tại nhiều quan

niệm khác nhau về hạnh phức.

Page 58: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Các nhà triết học duy vật cổ đại, chẳng hạn như Đêmôcrít, cho rằng

hạnh phúc là ở sự thanh thản trong tâm hồn, được tự do. Mục tiêu của con

người là hướng tới tự do và hạnh phúc, nhưng hạnh phúc không chỉ là ở sự

giàu có, chỉ có người nào biết bằng lòng với sự hưởng lạc vừa phải thì mới có

thể được hạnh phúc.

Nhà triết học Epiquya nói cụ thể hơn: Hạnh phúc của con người là sức

khoẻ, do đó con người cần phải biết giữ gìn sức khỏe để có thể vượt qua

được nỗi bất hạnh. Trong các hoạt động của con người nên dừng ở mức vừa

phải, không thái quá.

Các nhà triết học duy vật Pháp thế kỷ XVI - XVII thì lại cho rằng hạnh

phúc là sự thoả mãn những nhu cầu cá nhân về vật chất và tinh thần, là sự

giàu có.

Các tôn giáo tiêu biểu như đạo Phật, đạo Cơ đốc, đạo Hồi đều quan

niệm hạnh phúc và ý nghĩa cuộc sống là ở thế giới bên kia (ở cõi Niết bàn,

trên Thượng giới và ở kiếp sau) chứ không phải ở trần thế này, vì cuộc sống

của con người ở trần gian chỉ là ngắn ngủi, đầy rẫy những bất công, khổ ải và

tai hoạ. Sự giàu nghèo của mỗi người là do tiền định của Thượng đế. Để đạt

được hạnh phúc, con người phải nhẫn nhục chịu đựng cực khổ và làm điều

thiện. Lý tưởng của những người theo các tôn giáo là làm sao thoát khổ, có

được sự bù đắp ở thế giới mai sau mà kiếp này không đạt được. Các nhà triết

học cổ đại ở Trung Quốc như Khổng Tử. Mạnh Tử đều quan niệm hạnh phúc

là do mệnh trời quyết định. Tư tưởng này đã ảnh hưởng đến quan niệm của

các nhà nho Việt Nam. Chính Nguyễn Du cũng đã từng quan niệm:

"Cho hay muôn sự tại trời

Trời kia đã bắt làm người có thân

Bắt phong trần phải phong trần

Cho thanh cao mới được phần thanh cao".

Các quan niệm về hạnh phúc trên đây đều không đúng về mặt tư tưởng

cũng như về mặt khoa học. Những quan niệm đó hướng con người đi vào

Page 59: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

chủ nghĩa khắc kỷ, khổ hạnh, yên phận với kiếp tôi đòi. Lý thuyết của những

quan niệm đó nhằm bảo vệ cho quyền lợi, địa vị của giai cấp thống trị bóc lột.

Khác với quan niệm của chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo cho rằng hạnh

phúc của con người như một định mệnh có sẵn, cón người sướng hay khổ,

hạnh phúc hay bất hạnh là do sự tiền định của Thượng đế. Đạo đức học Mác-

Lênin cho rằng nguồn gốc của hạnh phúc là do quá trình hoạt động thực tiễn

của con người. Đó là lao động sản xuất, đấu tranh giai cấp, giải phóng dân

tộc, đấu tranh cho hoà bình và thực nghiệm, thí nghiệm. Con người tạo ra

những giá trị mới về vật chất cũng như tinh thần để đáp ứng nhu cầu của xã

hội. Hạnh phúc không phải tự nhiên mà có, nó chỉ có thể trở thành hiện thực

khi mọi người thực hiện lời Mác dạy: "Hạnh phúc là đấu tranh". Đấu tranh

chống áp bức bóc lột, chống cái ác, chống bất công lạc hậu và bảo thú, xây

dựng một xã hội công bằng, văn minh không còn người bóc lột người. Để đạt

đến hạnh phúc, nhiều khi con người phải chịu đựng sự gian khổ hy sinh vì

hạnh phúc lâu dài và vì hạnh phúc lớn lao của xã hội.

Hạnh phúc có tính lịch sử cụ thể vì mỗi một thời kỳ lịch sử con người

sống trong những hoàn cảnh khác nhau đều có quan niệm khác nhau về hạnh

phúc. Trong xã hội cộng sản nsuyên thuỷ, công cụ sản xuất thô sơ, sản xuất

chưa đủ tiêu dùng, mức sống còn thấp cho nên quan niệm về hạnh phúc của

ncười nguyên thủy rất đơn giản như đủ ăn, được sống yên ổn. Trong xã hội

có giai cấp, có áp bức và bóc lột, người lao động quan niệm về hạnh phúc là

thoát khỏi những áp bức bất công, họ mơ ước được sống tự do bình đẳng.

Trong xã hội đó tuyệt đại bộ phận quần chúng nhân dân lao động bị áp bức

không thể tìm thấy hạnh phúc thực sự và vì không thấy được hạnh phúc trong

đời sống thực tế hàng ngày, người ta phải tìm trong giả tưởng, đó là tôn giáo.

Trong xã hội tư bản quan niệm về hạnh phúc của giai cấp tư sản là sự hưởng

lạc tối đa, sự giàu có. Trong thực tế với lao động lương thiện người lao động

không thể làm giàu được. Việc tôn thờ sự giàu có của xã hội tư bản chỉ là sự

biện minh cho chế độ bóc lột, thống trị của giai cấp tư sản.

Page 60: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, hạnh phúc của con người là mọi người

đều lao động, được cống hiến nhiều cho xã hội và được sống trong một xã

hội thật sự có tự do, bình đẳng, giàu mạnh và văn minh.

Đạo đức học Mác-Lênin còn quan niệm hạnh phúc của cá nhân gắn

liền với hạnh phúc xã hội; con người chỉ có hạnh phúc khi làm tròn nghĩa vụ

đối với xã hội, hạnh phúc xã hội được biểu hiện thông qua những thành viên

của nó, qua hạnh phúc của gia đình. "Người nào đó đem lại hạnh phúc cho

nhiều người thì người đó là hạnh phúc nhất" (C. Mác). Chính vì vậy, khi chọn

nghề, Mác đã chọn cho mình cái nghề được cống hiến nhiều nhất cho nhân

loại.

Hạnh phúc gắn liền với nhu cầu của con người. Trong hệ thống những

nhu cầu của con người nổi bật lên những nhu cầu về vật chất như ăn, mặc,

ở... và những nhu cầu về tinh thần như về chân lý, tri thức, tình cảm, đạo đức,

thẩm mỹ... Con người cảm thấy hạnh phúc khi thỏa mãn những nhu cầu đó.

Nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần luôn gắn bó với nhau. Nhu cầu về vật

chất là tiền đề để có hạnh phúc, nhưng nhu cầu về tinh thần bao giờ cũng

được đánh giá cao hơn nhu cầu vật chất (đây là nhu cầu mang tính người). Vì

lý tưởng cao cả mà người cách mạng sẵn sàng từ bỏ lợi ích vật chất, tự

nguyện hy sinh, đấu tranh cho độc lập tự do của dân tộc, hạnh phúc của nhân

dân.

Hạnh phúc theo quan điểm của Hồ Chí Minh không chỉ là hạnh phúc

của cá nhân, của gia đình mà còn là hạnh phúc của dân tộc, của nhân dân.

Đó là hạnh phúc "ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành", là

hạnh phúc được sống trong độc lập, tự do. Vì thế mà khẩu hiệu của nước ta

và lý tưởng của nhân dân ta do Hồ Chí Minh nêu lên là: Độc lập, Tự do, Hạnh

phúc, theo thứ tự mang tính qui luật: có độc lập mới có tự do; có độc lập tự do

mới có hạnh phúc. Người còn nói: "Không có gì quí hơn độc lập tự do". "Nếu

nước độc lập rồi mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập

cũng chẳng có nghĩa lý gì". "Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân

cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì". Người coi hạnh

Page 61: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

phúc là biểu hiện giá trị của độc lập, tự do, vì theo người "Dân chỉ biết giá trị

của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ". Độc lập, tự do, bình

đẳng là lý tưởng chung của nhân dân các nước, của nhân dân Pháp, nhân

dân Bắc Phi, nhân dân Việt Nam. "Quyền độc lập tự do ở nước nào cũng vậy,

đều do xương máu của những nghĩa sĩ, và đoàn kết của toàn quốc dân mà

xây dựng nên". Đối với nước ta bị đế quốc Pháp xâm lược và thống trị thì “Sự

tự do, bình đẳng phải cách mệnh mà lấy lại”. Và "Làm sao cách mệnh rồi thì

quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế

mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc".

Lý tưởng độc lập tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân đã trở

thành một niềm đam mê mãnh liệt, một mục đích quán xuyến suốt cuộc đời

của Hồ Chí Minh: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi

của Tỗ quốc và hạnh phúc của nhân dân. Những lúc tôi phải ẩn nấp nơi núi

non hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo, là vì mục đích đó”. Mục

đích đó cũng là lẽ sống của Người, gắn liền với Người trong mỗi lời nói và

mỗi việc làm. Đối với kẻ thù, Người chỉ có một ý nghĩ: "Hễ còn một tên lính

thực dân trên đất nước Việt Nam, thì Việt Nam cứ đánh, đánh cho đến thắng

lợi hoàn toàn, đánh cho đến độc lập và thống nhất thật sự". Trong hoàn cảnh

đất nước tạm thời bị chia cắt, quyết tâm của Người vẫn trước sau như một:

"Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam, sông có thể cạn, núi có thể mòn,

song chân lý đó không bao giờ thay đổi".

Vì đâu mà Hồ Chí Minh lại có một ý chí không gì lay chuyển nổi như

vậy? Đó là do sự thôi thúc của tình cảm cách mạng, lòng yêu nước, thương

dân sống trong cảnh cơ cực lầm than. Ra đi tìm đường cứu nước, Người đã

tiếp thu được chủ nghĩa Mác-Lênin, nắm bắt được qui luật phát triển của xã

hội, qui luật của chiến tranh và cách mạng cho nên Người luôn tin tưởng vào

thắng lợi của cách mạng. Những năm tháng bị tù đày, bị kết án tử hình, phải

trải qua nhiều nhà tù của đế quốc thực dân nhưng không uy võ nào khuất

phục được Người. "Thân thể ở trong lao" nhưng tinh thần của Người vẫn ở

ngoài lao hướng về Tổ quốc với tinh thần lạc quan cách mạng. Những ngày ở

Page 62: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Pắc Bó, bệnh nặng tưởng khó lòng qua nổi, ý chí chiến đấu dành độc lập tự

do của Người được biểu hiện qua lời chỉ thị "Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới,

dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng kiên quyết

giành cho được độc lập".

Với tư tưởng chỉ đạo đó, nhân dân ta đã tiến hành cuộc tổng khởi nghĩa

tháng Tám thắng lợi, giành được độc lập cho dân tộc, nhân dân ta từ người

nô lệ trở thành người chủ của đất nước.

Từ sản xuất nhỏ tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư

bản chủ nghĩa, để có hạnh phúc chúng ta phải lao động, phải tăng gia sản

xuất và thực hành tiết kiệm. Người nói "Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là

nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta", "Tăng gia sản xuất và thực

hành tiết kiệm là con đường đi đến xây dựng thắng lợi chú nghĩa xã hội, xây

dựng hạnh phúc cho nhân dân. Tăng gia sản xuất là tay phải của hạnh phúc,

tiết kiệm là tay trái của hạnh phúc". Trong Di chúc, Người nêu rõ: "Điều mong

muốn cuối cùng của tôi là toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây

dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu

mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới".

Quan niệm của Hồ Chí Minh về hạnh phúc của cá nhân Người là quan

niệm của bậc đại nhân. Quan niệm như vậy mang lại cho bản thân Người một

niềm đại hạnh phúc. Không gia đình nhỏ, Người có gia đình lớn: Đảng, dân

tộc, thế giới những người cùng khổ. Không có con, Người coi tất cả thanh

niên Việt Nam là con của Người (Thư gửi bác sĩ Vũ Đình Tụng), v.v. Ngược

lại, Người được cả dân tộc và nhân loại cần lao yêu thương, tôn kính.

3. Nhân - Nghĩa

"Nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm" là một cụm phạm trù luân lý đạo đức, xuất

hiện trong tác phẩm của Hồ Chí Minh. Người nói: "Người đảng viên, người

cách mạng thực hiện được chí công vô tư thì ngày càng có các tính tốt và tính

tốt ấy gồm có năm điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm".

Page 63: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Xét về lịch sử, mỗi khái niệm trong phạm trù này đều đã xuất hiện trong

các tác phẩm của nhà nho, nhưng liên kết năm khái niệm đó lại thành một

cụm từ đi liền nhau thì chỉ thấy trong tác phẩm của Hồ Chí Minh, ở các tác

phẩm của Nho gia thường thấy năm yếu tố "nhân, nghĩa, lễ, trí, tín" đi liền

nhau thành "ngũ thường". Hồ Chí Minh đã tách ba yếu tố tích cực nhất trong

"ngũ thường" là "nhân, nghĩa, trí" đem kết hợp với hai yếu tố "dũng, liêm"

thành ra “nhân, nghĩa, trí, dũng, liê” và xem như là những yếu tố đạo đức cần

thiết của người cách mạng.

Như vậy, có thể nói, Hồ Chí Minh không những đã kế thừa được các

khái niệm vốn có của các bậc tiền bối mà còn bổ sung nội dung mới cho

chúng, làm cho chúng phù hợp với yêu cầu của thời đại mới.

* Phạm trù Nhân

Sách “Luận ngữ” ghi chép lời nói của Khổng Tử có 109 lần đề cập đến

"nhân" với nhiều nghĩa khác nhau. Đại khái là: Nhân là yêu người (nhân giả,

ái nhân), là cái gì mình mong muốn thì làm cho người (Kỉ dục lập nhi lập

nhân, kỉ dục đạt nhi đạt nhân), là ép buộc mình trở về điều lễ (Khắc kỉ phục lễ

ví nhân)...

Khổng Tử nói về nhân trước hết là nhằm vào các đối tượng trong ngũ

luân, nhấn mạnh trung với vua, hiếu với cha mẹ.

"Thương người" là một đức tính lớn mà dân tộc nào tự mình cũns có,

duy ở mỗi dân tộc nó biểu hiện cụ thể khác nhau, tùy theo điều kiện lịch sử.

Từ xa xưa, trong dân gian Việt Nam đã có những câu: "Thương người

như thể thương thân". "Người trong một nước phải thương nhau cùng". Lòng

thương người, yêu đồng loại, sống đoàn kết, giúp đỡ nhau, “lá lành đùm lá

rách” là đạo lý truyền thống của người Việt Nam. Con người có nhân là con

người đạo đức nhất (ở lâu mới biết con người có nhân). Tiêu chuẩn sống của

con người là: "ở cho có đức, có nhân".

Do hoàn cảnh thực tể của Việt nam mà hiểu chữ nhân và những phạm

trù đạo đức khác của Nho giáo không hoàn toàn giống các sách Luận ngữ,

Page 64: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Mạnh Tử. Khái niệm nhân ái của Nho giáo khi đi vào tâm tư của người Việt

thành ra yêu đồng bào, yêu Tổ quốc. Có biết yêu tha thiết đồng bào mình thì

mới biết yêu nhân loại, căm thù giặc ngoại xâm.

Cụ Phạn Bội Châu, trong "Bài hát về nhân ái", đã viết:

"Có nhân ái mới ra nhân chủng,

Nếu bất nhân là giống chim muông.

Làm người ta phải hiểu ta,

Có lòng trắc ẩn mới ra con người.

Yêu già, yêu trẻ, yêu bạn lứa, yêu giống nòi".

Nguyễn Trãi, trong "Bình Ngô đại cáo", vì thương dân, căm thù giặc

ngoại xâm đã viết:

"Thui dân đen trên lò bạo ngược,

Hãm con đỏ dưới hố tai ương

Dối trời lừa người, kế gian đủ muôn nghìn khóe...

Chặt hết trúc Nam Sơn chẳng đủ ghi tội ác

Thần người đều giận, trời đất chẳng dung tha".

Khi nói về nhân, trước hết Hồ Chí Minh nói về tình cảm sâu sắc của

người cách mạng là tận trung với nước, tận hiếu với dân. Cũng như các

phạm trù khác của Nho giáo. Hồ Chí Minh khai thác những mặt tích cực làm

thay đổi chất của phạm trù nhân, khác với cách hiểu của các nhà nho phong

kiến.

Diễn đại tư tưởng của Nho giáo về nhân, Hồ Chí Minh cho rằng: "Nhân

là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí và đồng bào. Vì thế mà kiên

quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng, đến nhân dân. Vì

thế mà sẵn lòng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên

hạ. Vì thế mà không ham giàu sang, không e cực khổ, không sợ oai quyền.

Page 65: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Những người đã không ham, không e, không sợ gì thì việc gì, là việc phải họ

đều làm được.

Ở đây, Hồ Chí Minh đã vận dụng các đạo lý của Khổng Tử "Nhân ái

nhân", nhân là yêu thương con người và "phù nhân giả", nhân là giúp đỡ mọi

người. Trong thời đại ngày nay, nhân là yêu thương con người, cũng là yêu

thương đồng chí, đồng bào. Khi Đảng ta đại biểu cho lợi ích của nhân dân,

muốn thực hiện được điều nhân phải có "dũng" mới có thể kiên quyết chống

lại những việc gây hại đến Đảng, đến nhân dân. Trong "Nhân" có cả sự hy

sinh sẵn sàng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ.

Vào năm 1956, phát biểu tại Trường Đại học Nhân dân Hà Nội, phạm

trù nhân lại được Hồ Chí Minh quan niệm: "Nhân" nghĩa là nhân dân. Trong

bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh

bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân". Đây là một điều khá mới mẻ, Hồ Chí

Minh dùng phạm trù Dân để định nghĩa phạm trù Nhân.

Đề cao vai trò đoàn kết trở thành sức mạnh của nhân dân trước đây,

khi phê phán quan điểm "chỉ có súng mới giành được chính quyền", Hồ Chí

Minh đã khẳng định: "Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng

không chống lại".

Đối với cán bộ lãnh đạo, nhất là cán bộ quân sự. Hồ Chí Minh cho rằng:

"Nhân là phải có lòng bác ái - yêu nước, yêu đồng bào, yêu bộ đội của mình".

"Tướng là kẻ giúp nước, tướng giỏi (đủ cả nhân, trí, dũng, nghiêm) thì nước

mạnh. Tướng xoàng thì nước hèn". Trong quân đội, "nhiệm vụ của người

tướng là phải: trí, dũng, nhân, tín, liêm, trung... nhân là phải thương yêu cấp

dưới, phải đồng cam cộng khổ với họ. Đối với địch hàng, ta phải khoan dung".

Người dạy: "Nước lấy dân làm gốc. Trong công cuộc kháng chiến kiến quốc,

lực lượng chính là ở dân". Vậy người tướng cầm quân phải toàn tâm, toàn ý

vì nhân dân phục vụ, bởi vì nhân dân là nền tảng, là cha mẹ của bộ đội. Biết

dựa vào dân mà đánh giặc. Trong mối quan hệ đồng chí, cán bộ phải biết

thương yêu, chăm sóc bộ đội. "Bộ đội chưa ăn cơm, cán bộ không được kêu

mình đói, bộ đội chưa đủ áo mặc, cán bộ không được kêu mình rét, bộ đội

Page 66: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

chưa có chỗ ở, cán bộ không được kêu mình mệt". Đối với kẻ địch, nhân là

biết thắng địch bằng nhân nghĩa, biết "phá được địch mà không phải đánh",

biết khoan dung đối với những kẻ đầu hàng, biết coi trọng công tác binh vận,

địch vận vừa là sách lược, vừa có tính chiến lược trong chiến tranh nhân dân.

Nghiên cứu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, đồng chí Trường Chinh có

nhận xét: “Một điểm nổi bật trong đạo đức của Hồ Chí Minh là lòng thương

người. Nhưng đây không phải là lòng thương người siêu giai cấp, trừu tượng

mà tình thương giai cấp đối với công nhân, tình thương yêu vô cùng rộng lớn

đối với nhân dân lao động, đối với những người cùng khổ”.

Lòng thương người của Hồ Chí Minh đối với đồng bào là lòng thương

yêu sâu sắc như ruột thịt. Người nói: "Một ngày đồng bào còn chịu khổ là một

ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên". Câu nói đó bộc lộ tâm trạng của

Người, một tình cảm ruột thịt bao bọc trăm họ của đại gia đình".

Lòng thương người, thương yêu đồng bào ở Hồ Chí Minh gắn liền với

việc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng nhân dân khỏi

bị áp bức bóc lột, tin tưởng vào khả năng chiến đấu của nhân dân. Vào

những năm 1926 - 1927, Hồ Chí Minh đòi hỏi các chiến sỹ cộng sản chẳng

những học tập lý luận mà còn phải đi vào quần chúng, vào xí nghiệp, hầm

mỏ, đổn điền, nông thôn... lao động cùng với họ, thông cảm nỗi khốn cùng

của công nông và nhân đó đem lý luận cách mạng truyền bá vào công nông,

tổ chức cơ sở đảng cách mạng trong công nông, lãnh đạo họ làm cách mạng.

Tình thương yêu nhân dân của các chiến sỹ cộng sản được quần chúng đáp

lại: quần chúng nuôi giấu, che chở cán hộ, chiến sỹ cộng sản. Cho nên các

đảng không phải Đảng cộng sản thời kỳ đế quốc thống trị bị tiêu diệt, còn

Đảng cộng sản thì sống mãi và được nhân dân đùm bọc làm nên kỳ tích Cách

mạng tháng Tám, giải phóng được dân tộc, giải phóng được nhân dân.

* Phạm trù Nghĩa

Sách "Luận ngữ" có 24 chỗ nói tới "Nghĩa". Theo đó, "Nghĩa" có nghĩa

là hợp lý, hợp với đạo nghĩa, như cho rằng điều "tín" gần với "nghĩa" (tín cận

ư nghĩa), sai khiến dân cũng phải có nghĩa (sử dân dã nghĩa). Sách Mạnh Tử

Page 67: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

có 108 chỗ nói tới Nghĩa, với các nội dung như cái hợp với đạo và lý là nghĩa,

là đạo lý, chính lý... Khổng Tử nói nhiều đến nhân, ít nói đến nghĩa, nhưng cả

cuộc đời ông luôn hành động theo nghĩa. "Nghĩa" theo quan niệm của Khổng

Tử là lẽ phải, đường hay, việc đúng, thấy việc gì phải đáng làm thì làm, không

hề mưu tính đến lợi ích cá nhân. Việc nên làm mà không làm là bất nghĩa,

việc không nên làm mà làm là cũng bất nghĩa. Khổng Tử khuyên người ta nên

như "những cây tùng, cây bách chẳng đổi màu xanh nhũng năm trời rét"

(Luận ngữ), đã theo điều nhân nghĩa thì phải khắc phục mọi khó khăn, gian

khổ, không bao giờ dao động và phái kiên trì đến chết. Theo ông, "Bậc quân

tử làm việc cho đời, không có việc gì mà người ấy cố ý làm, không có việc gì

người ấy cố ý bỏ, hễ hợp nghĩa thì làm" (Luận ngữ - Lý nhân).

Chữ "Nghĩa" trong Nho giáo là lẽ phải, đường hay, việc đúng. Nhưng

không phải rằng người Việt mới biết "vì nghĩa" từ ngày có chữ nghĩa. Đối với

người Việt Nam thì cái nghĩa lớn nhất là cứu nước, mà dân ta thường gọi là

đại nghĩa. Như vậy tiếp thu quan niệm của Nho giáo về nghĩa, ông cha ta đã

biết xuất phát từ lợi ích xã hội, không vì phú quý danh lợi mà bỏ việc nghĩa,

làm điều phi nghĩa. Trong đời sống lịch sử, trong đời sống hàng ngày ở nước

ta, không có đức tính nào phổ biến hơn "vì nghĩa". "Vì nghĩa" là một đức tính

lớn của người Việt.

Ở Việt Nam thời kỳ chống quân Nguyên, Yết Kiêu là một nhân vật điển

hình vì nghĩa với Trần Quốc Tuấn. Truyện Lục Vân Tiên cũng là truyện điển

hình vì nghĩa, phản ánh chân thật tâm hồn của người Việt Nam. Trong lịch sử

nước ta đã từng có nhiều người làm việc nghĩa cứu nước mà không kể đến

thành bại như Trương Định, Hồ Huấn Nghiệp, Hoàng Hoa Thám... Trong các

tác phẩm của Nguyễn Trãi, khái niệm được nói nhiều nhất là nhân nghĩa.

"Nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi trước hết là một đường lối chính trị, một chính

sách cứu nước và dựng nước. Nó được sử dụng trong cuộc kháng chiến

chống giặc, được dùng làm vũ khí để phê phán luận điệu của giặc, đồng thời

cũng được vận dụng trong xây dựng hòa bình, được coi là công cụ để tuyên

dương việc làm của nghĩa quân Lam Sơn và sau đó là của triều Lê Sơ".

Page 68: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Nguyễn Trãi đã vận dụng sáng tạo quan điểm nhân nghĩa của Nho giáo

vào thực tiễn Việt Nam để phục vụ cho lợi ích của đất nước và đem lại cho nó

một nội dung tích cực, đáp ứng yêu cầu của lịch sử. Nhân nghĩa ở đây là phải

"khử bạo", phải tiến hành một cuộc chiến tranh để giành độc lập. "Nhân" là

yêu nước, "nghĩa" là điều nên làm. Đối tượng của nhân ở đây là quần chúng

nhân dân. "Dân đen, con đỏ" đang bị áp bức. Nhân đối với dân, nghĩa đối với

nước: càng nhân tức là càng yêu dân tha thiết, thì càng phải nghĩa tức là phải

chiến đấu để giải phóng nhân dân.

"Nghĩa" trong các tác phẩm của Hồ Chí Minh có nội dung phù hợp với

lợi ích của Đảng, của nhân dân. Người nói: "Nghĩa là ngay thẳng, không có tư

tâm, không làm việc bậy, không có việc gì phải dấu Đảng. Ngoài lợi ích của

Đảng, không có lợi ích riêng phải lo toan. Lúc Đảng giao cho việc, thì bất kỳ to

nhỏ, đều ra sức làm cẩn thận. Thấy việc phải thì làm, thấy việc phải thì nói.

Không sợ người ta phê bình mình, mà phê hình người khác cũng luôn luôn

đúng đắn".

Nghĩa cũng tức là chính, và như Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Chính tức là

việc phải dù nhỏ cũng làm, việc trái dù nhỏ cũng tránh". "Chính nghĩa là

không tà, nghĩa là thẳng thắn, đúng đắn. Điều gì không đúng đắn, thẳng thắn,

tức là tà". "Làm việc chính là người thiện làm việc tà là người ác".

Tháns 3/1951, trong bài phát biểu nhân dịp lễ ra mắt Đảng Lao động

Việt Nam. Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của

giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nghĩa là những người thợ thuyền,

dân cày và lao động trí óc kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận

tâm, tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân. Những người mà:

"Giàu sang không thể quyến rũ,

Nghèo khó không thể chuyển lay

Uy lực không thể khuất phục."

Tóm lại. Nhân - Nghĩa là các phạm trù đạo đức của truyền thống tư

tưởng phương Đông, nhưng với Hồ Chí Minh, chúng đã được cải tạo, nâng

Page 69: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

cao và trở thành một kết cấu mới, một nội dung mới, có tác dụng giáo dục cán

bộ cách mạng, làm cho họ trung thành và tận tụy với sự nghiệp của Đảng,

của nhân dân.

Ngày nay, mặt trái của nền kinh tế thị trường đang nuôi dưỡng chủ

nghĩa cá nhân và lối sống thực dụng đang làm ảnh hưởng mạnh tới lòng nhân

ái trong con người, trong tình hình ấy thì việc khơi dậy tình người, lòng yêu

thương giúp đỡ lẫn nhau có ý nghĩa nhất định góp phần hạn chế những suy

thoái đạo đức trong xã hội.

4. Trung - Hiếu

Trung và Hiếu vốn là hai phạm trù được Hồ Chí Minh sử dụng cặp đôi

với nhau: “Trung với nước, hiếu với dân” hoặc “Trung với Đảng, hiếu với

dân”. Theo đó, trong sách này, chúng tôi xem xét hai phạm trù ấy gắn liền với

nhau. Sỡ dĩ như vậy là vì trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nước và dân, Đảng và

dân, Nhà nước và dân gắn bó với nhau không thể tách rời.

So với phạm trù đã được trình bày ở trên, các phạm trù trung, hiếu

cũng như các phạm trù cần, kiệm, liêm, chính sẽ được trình bày sau tiểu tiết

này cổ ngoại diện hẹp hơn. Tuy nhiên, chúng cũng khái quát những hiện

tượng và những vấn đề xã hội của hầu như là toàn thể dân tộc trong suối

thực tiễn cách mạng. Chúng cũng là những công cụ dùng để nhận thức, đánh

giá hành vi và quan hệ của con người Việt Nam trong cả chiều dài của cuộc

cách mạng trong suốt thời hiện đại.

Trung và Hiếu trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc và Việt Nam

- Về Trung:

"Trung" là khái niệm chính trị và đạo đức, xuất hiện trong các tác phẩm

kinh điển của nhà nho và thường được dùng để chỉ hành động hết lòng với

vua, vì vậy có khái niệm "Trung quân" (Trung với vua). Trung quân còn có khi

có nội hàm là chỉ hết lòng với một ông vua mà mình thờ, vì vậy có câu: "Trung

thần bất sự nhị quân" (người bề tôi trung không thờ hai vua). Có khi quyền lợi

Page 70: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

của ông vua thống nhất với quyền lợi của dân tộc thì "trung" đó cũng đồng

thời là trung với nước.

Trong mối quan hệ quân - thần (vua tôi), Khổng Tử thấy mỗi bên đều có

trách nhiệm với nhau, đều có cách đối xử cần thiết và cách đối xử của bên

này là điều kiện để bên kia có cách đối xử tương ứng. Khổng Tử nói: "Quân

sử thần dĩ lễ, thần sự quán dĩ trung" (nhà vua sai khiến bề tôi thì dùng lễ, bề

tôi phụng sự nhà vua thì giữ đạo trung), ở đây có hệ quả là vua giữ lễ với bề

tôi thì bề tôi phải trung với vua, ngược lại vua không giữ lễ với bề tôi thì bề tôi

không nhất thiết phải trung với vua. Trung đó là có điều kiện...

Khổng Tử cho rằng nguyên nhân dẫn đến loạn lạc thời Xuân Thu là do

vua không ra vua, bề tôi không ra bề tôi, đưa đến tình hình tranh giành địa vị

của nhau, vương hầu lấn át quyền thiên tử. Muốn cho thiên hạ thái bình, theo

chủ trương của Khổng Tử, phải thực hiện chính danh, sao cho vua phải ra

vua, quan phải ra quan. Phát triển tư tưởng đó, Mạnh tử cho rằng trong xã hội

có năm mối quan hệ chính (mỗi quan hệ là một luân) gọi là ngũ luân: vua –

tôi, cha – con, chồng - vợ, anh – em, bè - bạn. Mỗi mối quan hệ ấy có những

chuẩn riêng cho từng đối tượng, mỗi bên là một danh, khi mang danh nào thì

phải thực hiện cho được những điều mà danh đó quy định. Nhà tư tưởng

đứng trên lập trường tích cực thì yêu cầu vua minh, tôi trung, cha hiền, con

thảo, anh tốt, em ngoan, bề trên rộng rãi, bề dưới kính thuận.

Khổng Tử không chủ trương ngu trung, không bắt buộc bề tôi phải phục

tùng bề trên vô điều kiện như nội dung "trung" của các nhà nho sau này. Đối

với Khổng Tứ và Mạnh Tử thì mối quan hệ trong ngũ luân là mối quan hệ hai

chiều. Quân có nhân thì thần mới trung, phụ có từ thì tử mới hiếu. "Vua khiến

bề tôi phải giữ lễ phép, bề tôi thờ vua thì phải hết lòng".

Khổng Tử đòi hỏi vua phải là một bậc minh quân, một tấm gương sáng

về đạo đức, biết trọng người tài, rộng lượng với bề tôi. Khổng Tử chống việc

coi trọng ngôi vua chỉ vì theo huyết thống, dòng tộc, ông yêu cầu vua phải là

người tài đức, đức tài thể hiện ở chỗ vua phải đảm báo cho dân được no ấm,

phải xây dựng được lực lượng quân đội hùng mạnh và đặc biệt phải chiếm

Page 71: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

được lòng tin của dân. Vua phải biết làm cho dân giàu và phải biết giáo hoá

dân. Dân đối với vua phải như đối với cha mẹ mình. Mạnh Tử và Tuân Tử

đều cho rằng trung không phải là tuyệt đối, khi vua không ra vua thì thần dân

không nhất thiết phải trung. Khi bàn về đạo vua tôi trong quan hệ ứng xử,

Mạnh Tử nói với Tề Tuyên Vương: "Vua mà coi bề tôi như tay chân, ắt bề tôi

sẽ coi vua như bụng dạ, vua mà coi bề tôi như chó ngựa ắt bề tôi sẽ coi vua

như kẻ qua đường, vua mà coi bề tôi như bùn rác ắt bề tôi sẽ coi vua như kẻ

cướp, người thù".

Mạnh Tử cho rằng vua và bề tôi phải có nghĩa với nhau, vua có nghĩa

với bề tôi và bề tôi có nghĩa với vua, vì chữ nghĩa mà hai bên kết hợp lại.

Mạnh Tử còn nêu: Bề tôi có thể giết vua nếu vua đó là hôn quân như Thành

Thang người sáng lập ra nhà Thương, vốn là bề tôi của vua Kiệt, nhưng đã

giết vua Kiệt vì ông vua này hung bạo. Việc làm của Thành Thang không bị

ghép vào tội bất trung, không bị xem là nghịch thần. Vua Vũ giết vua Trụ cũng

vậy. Điều kiện trung ở đây là vua phải ra vua, làm đúng chức trách và nhiệm

vụ của vua. Khổng Tử đã từng nói: "Quân quân" nehĩa là vua phải ra vua.

Phát triển quan điểm của Khổng Tử. Tuân Tử cho rằng người làm tôi có bốn

hạng: có bậc đại trung, có bậc thứ trung, có bậc hạ trung, có kẻ quốc tặc. Lấy

đức mà báo đáp vua để hoà được vua đó là đại trung; lấy đức để sửa lỗi của

vua mà giúp vua ấy là bậc thứ trung; lấy điều phải mà can ngăn điều trái, làm

vua giận ấy là bậc hạ trung; không lo đến sự vinh nhục cứa vua không lo đến

nước hay hay dở, chỉ thâu hợp cẩu, dung để giữ lấy lợi lộc, nuôi lấy sự giao

bè kết đảng, ấy là quốc tặc [Thần đạo-XIII].

Đến chế độ phong kiến trung ương tập quyền thì tình hình có khác, nhà

vua và triều thần đều cần người bề tôi tuyệt đối phục tùng vua, trung thành

với vua vô điều kiện "Quân vi thần cương" (nhà vua là cương lĩnh của bề tôi).

Trung ở đây là tuyệt đối nghe theo và trung thành với vua mà mình theo.

"Quân sử thần tử, thần bất tử bất trung", bề trên có tàn bạo bất nhân, hoang

dâm thì bên dưới vẫn phải tuyệt đối phục tùng. Tính chất trung đó được đạo

Page 72: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

đức và pháp luật xác nhận và trở thành cơ sở tư tưởng cho việc đánh giá đạo

đức và xây dựng pháp luật, bảo đảm sự trung thành của một ông vua.

Trong lịch sử xã hội phong kiến phương Đông đã có biết bao người

chết cho sự nghiệp của một ông vua. Việc làm đó do tư tưởng trên chi phối,

đồng thời nó cũng làm cho tư tưởng trên mang ý nghĩa hiện thực và được

củng cố.

Ở Việt Nam, quan niệm về trung lúc triều đại đang lên thì gắn liền với

lòng yêu nước, với lợi ích của dân tộc. Trong thời kỳ dựng nước, quan hệ vua

tôi là quan hệ giữa quần thần với người lãnh đạo của mình. Họ cùng chung

một lý tưởng yêu nước, chống ngoại xâm, giành độc lập cho dân tộc.

Trong lịch sử, "các triều đại từ nhà Trần trở về trước đều kiên quyết

chống xâm lăng bảo vệ nền độc lập dân tộc. Đứng đầu đất nước, đối mặt với

các cuộc xâm lược của các nhà Nam Hán, Tống và Nguyên - Mông, Ngô

Vương Quyền, Lê Đại Hành và các hoàng đế triều Lý, triều Trần đã thực sự là

những anh hùng dân tộc, xứng đáng là những biểu tượng rực rỡ của quốc

gia, linh hồn của các cuộc kháng chiến thần thánh. Vào các triều đại kể trên,

vua đại diện cho nước, trung vua là yêu nước, yêu nước phải trung vua, trung

vua và yêu nước không mâu thuẫn với nhau".

Đến nhà Hồ, Hồ Quí Ly và Hồ Hán Thương đều bị giặc bắt, do đó vấn

đề trung vua hay yêu nước đã được đặt ra, trước hết là với người khoa giáp

và những người đã từng làm quan với nhà Hồ. Đối với Nguyễn Trãi - từng

đậu Thái học sinh và chịu ân sủng của nhà Hồ - tình hình càng gay cấn hơn

bởi thân phụ ông bị bắt sang Trung Quốc. Với ông, không chỉ có vấn đề

"trung" mà còn có vấn đề "hiếu". Nguyễn Trãi đã đặt nước cao hơn vua, cha,

lấy cứu nước làm trung, thương dân làm hiếu. Ông thuộc số những người

đầu tiên và là người tiêu biểu nhất mở đường giải quyết một cách đúng đắn

vấn đề trung vua, yêu nước khi hai lĩnh vực này không nhất trí với nhau.

Sau Nguyễn Trãi hơn ba trăm năm, vấn đề trung vua hay yêu nước lại

được đặt ra với các sĩ phu Bắc Hà khi Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc diệt họ

Trịnh. Vấn đề càng nóng bỏng khi Lê Chiêu Thống rước quân xâm lược Mãn

Page 73: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Thanh vào trong nước. Lịch sử đã ghi lại những điển hình như Lý Trần Quán

tự chôn sống mình chết theo chúa Trịnh; mặt khác, như Ngô Thì Nhậm mà

dòng họ đời đời hưởng nhiều ân huệ của triều đình Lê - Trịnh và bản thân

ông cũng từng là sủng thần của nhà Chúa, đã bất chấp miệng lưỡi của các hủ

nho, quay về với Nguyễn Huệ, cống hiến xuất sắc cho sự nghiệp tiêu diệt đạo

quân xâm lược của Tôn Sĩ Nghị và cho sự nghiệp ngoại giao thắng lợi hết

sức vẻ vang của hoàng đế Quang Trung.

"Như vậy là từ thời Nguyễn Trãi đến thời Ngô Thì Nhậm, đã xuất hiện

và được củng cố thành truyền thống tư tưởng đất nước cao hơn vua, lấy yêu

nước thay cho trung vua mỗi khi vua không còn dại diện cho lợi ích của nước

và do đó, giữa trung vua và yêu nước có mâu thuẫn với nhau".

Đến nửa cuối thế kỷ XIX, vấn đề trung vua, yêu nước lại nổi lên. Các

lãnh tụ hưởng ứng chiếu cần vương của Hàm Nghi đều có lòng trung vua rất

sâu đậm, ở họ, "trung vua" thống nhất với "yêu nước". Trung vua là có điều

kiện: vua phải trung với nước. Họ không thừa nhận tên vua Đồng Khánh mà

giặc Pháp dựng lên. Với Phan Đình Phùng, ngọn cờ cần vương không hạ

xuống khi Hàm Nghi bị bắt.

Với Phan Chu Trinh, Ngô Đức Kế thì bệ hạ đã thành hạ bệ. Trương

Định đã "theo bụng dân" cưỡng lại chỉ dụ bãi binh của Tự Đức và nhận chức

Bình Tây đại nguyên soái của nhân dân trao cho.

Như vậy. "Truyền thống Việt Nam, theo Hồ Chí Minh, là "trung với

nước, hiếu với dân". Tư tưởng chủ yếu của người Việt Nam không phải là

trung quân, mà là yêu nước, vua đến rồi đi, triều đại dựng lên rồi đổ xuống,

còn vĩnh viễn là đất nước của nhân dân, cho nên lời dạy "trung với nước, hiếu

với dân" của Hồ Chí Minh đi vào tâm trí mỗi người chúng ta một cách rất tự

nhiên".

- Về Hiếu:

"Hiếu" là một phạm trù chính trị - đạo đức quan trọng của phương

Đông. Nó được hình thành trong gia đình, ở mối quan hệ cha mẹ - con cái,

Page 74: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

nêu lên nghĩa vụ của con cái đối với cha mẹ. Dưới chế độ mẫu hệ, người ta

chưa biết đến hiếu. Dưới chế độ thị tộc phụ hệ, người ta cũng chưa biết đến

hiếu. Khái niệm hiếu chỉ xuất hiện dưới chế độ chủ nô, khi người ta có ý thức

về dòng giống.

Ở phương Đông, "hiếu" xuất hiện đầu tiên ở Trung Quốc, trong thời kỳ

chủ nô và phát triển trong thời kỳ phong kiến. Các sách:"Thượng Thư", "Kinh

Thư", "Luận ngữ", "Mạnh tử"... đều đề cập đến chữ hiếu. Đặc biệt là cuốn

"Hiếu Kinh" do các thế hệ học trò của Tăng Sâm sưu tầm và biên tập, các

quan điểm về hiếu của nhà nho, cũng như các câu chuyện điển hình về hiếu

để người đời noi theo. Vào khoảng thời Nguyên (thế kỷ 13 - 14) có người biên

tập cuốn "Nhị thập tứ hiếu" nêu ra 24 câu chuyện điển hình về hiếu, về sau

xuất hiện các cuốn như "Nhị thập tứ hiếu đồ thi"... để nêu gương cho đời.

Người ta phải liên tục nhấn mạnh hiếu, vì hiếu là điều kiện để duy trì

quan hệ gia đình dưới chế độ phong kiến tông pháp. Bố mẹ nào cũng cần đến

những đứa con có hiếu, triều đại nào cũng cần đến gia đình có những người

con có hiếu. Mặt khác, hiếu tuy cần như vậy nhưng để thực hiện được nó

không phải là dễ dàng. Nhà nho đã phú cho nó những yêu cầu rất cao mà chỉ

ai có hết lòng hết sức thì mới thực hiện được.

"Hiếu" trong quan niệm của nhà nho có nội dung nhiều mặt. Trước hết,

đó là con cái phải phụng dưỡng bố mẹ khi già và tế tự họ khi mất. Khổng Tử

nói: "Sống thì phải phụng dưỡng thân thể, chết thì an táng theo lễ" [Luận

ngữ]; như vậy có nghĩa là: phận làm con phải có hiếu với cha mẹ không

những lúc còn sống mà cả khi cha mẹ đã mất. Khổng Tử cho rằng nuôi cha

mẹ thì phải kính chứ không kính thì không phải là hiếu... đến như giống chó

ngựa đều có người nuôi. Nuôi mà không kính thì lấy đâu mà phân biệt. Vậy

nuôi cha mẹ cốt ở lòng thành kính, dẫu phải "ăn gạo xấu, uống nước lã mà

làm cho cha mẹ được vui, ấy gọi là hiếu".

Thứ đến là người con phải có khả năng và điều kiện kế tục sự nghiệp

của cha. Cha học hành giỏi, đỗ đạt cao, làm quan to, con cũng phải phấn đấu

được như thế. Có như thế mới là nhà có phúc. Cha có con trai thì con cũng

Page 75: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

phải có con trai, nghĩa là ông phải có cháu trai, nếu không như thế là nhà vô

phúc. Mạnh Tử nói: “Bất hiếu thì có ba điều, nặng nhất là không có con nối

dõi”. Ở đây có phần là do quá chú trọng đến dòng dõi tông tộc, do quá kém

cỏi trong việc hiểu biết sinh lý con người, nên có nhận định mang tính dã man

trên.

Thứ ba là không làm trái lời cha. Chế độ phụ quyền tạo cho người cha

có ảo tưởng là chân lý thuộc về mình, con cái bao giờ cũng phải nghe theo.

Phương pháp tư duy "pháp cổ" (bắt chước người xưa), lấy việc bắt chước

các thế hệ cha anh làm lẽ phải, đã là cơ sở đế cha yêu cầu con làm theo

mình, nghe theo mình. Khổng Tử nói: "Khi cha mình còn sống, mình nên xem

xét chí hướng. Khi cha thác, mình nên quan sát những việc làm của người.

Cha mất trong ba năm mà mình chẳng đổi đạo nghệ của cha, đó mới gọi là

hiếu". Đến đời Hán, tư tưởng "tam cương" của Đổng Trọng Thư, trong đó qui

định cha là cương lĩnh của con, rồi đến thời Tống, Trình Di yêu cầu: "Cha

muốn con chết, con không thể không chết" đã đưa tư tưởng nhà nho đến chỗ

cực đoan, làm mất phẩm cách bình thường của con người.

Xét trong quá trình lịch sử thì "hiếu" của nhà nho là như vậy. Nhưng

công bằng mà nói, trong giai đoạn đầu của Nho giáo, quan niệm về "hiếu" của

họ có những nét tích cực nhất định. Chẳng hạn Khổng Tử nói: "Trong khi cha

mẹ còn sống, phận làm con chớ đi chơi xa. Nếu đi chơi đâu thì thưa trước

cho cha mẹ biết" (phụ mẫu tại, bất viễn du, du tất hữu phương). Khi cha mẹ

làm điều gì trái đạo thì con phải dùng cách ôn hoà mà can ngăn. Nếu cha mẹ

không nghe, thì lại tỏ lòng cung kính và hiếu thảo, rồi dần dần lựa cách mà

nói cho cha mẹ biết lẽ phải sửa đổi lại (Luận ngữ - Lý nhân IV)... Đó là những

nét nhân văn mà xã hội nào cũng cần, thời nào cũng cần.

Đánh giá học thuyết Nho giáo về chữ hiếu, Tôn Trung Sơn cho rằng:

“So với các dân tộc khác, quan niệm về hiếu của dân tộc ta đã tiến bộ hơn họ

rất xa... Bởi vậy, chỉ nói đối với vấn đề hiếu, mặc dù là những nước văn minh

nhất trên thế giới ngày nay, không có một quốc gia nào mà người dân của họ

Page 76: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

có được một khái niệm hoàn toàn giống như đồng bào ta. Như vậy vấn đề

hiếu càng không thể không cần và càng phải bảo tồn”.

Truyền thống hiếu của nhà nho để lại cho ngày nay không thuần một

chiều, mà có cả tích cực và tiêu cực, cái nọ đan xen cái kia. Trước hiện tượng

đó, muốn kế thừa thì phải có phê phán và nếu có phê phán thì không gạt bỏ

hết tất cả. Những yếu tố hợp lý đó khi được cải tạo, kế thừa sẽ có ích cho

việc giáo dục con người ngày nay.

Hồ Chí Minh là người mẫu mực trong việc làm này. Nghiên cứu về tư

tưởng hiếu, trung của Người, chúng ta sẽ thấy rõ điều trên.

- Trung - Hiếu trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh đã gọt bỏ nội dung cũ của Nho giáo là trung với vua và

đưa vào đó nội dung mới: Trung là trung với nước, ở Người, chữ hiếu không

còn bó hẹp trong phạm vi trọn đạo làm con đối với cha mẹ mình, mà đây là

hiếu thảo với nhân dân, vì nhân dân mà phục vụ, không chỉ thương yêu cha

mẹ mình mà còn phải thương yêu cha mẹ người. Người khẳng định: "Người

kiên quyết cách mạng nhất lại là người đa tình chí hiếu nhất. Vì sao? Nếu

không làm cách mạng thì chẳng những bố mẹ mình mà hàng triệu bố mẹ

người khác cũng bị đế quốc phong kiến dày vò". "Mình không những cứu bố

mẹ mình mà còn cứu bố mẹ người khác, bố mẹ của cả nước nữa".

Chính với ý nghĩa rộng lớn ấy, "hiếu thảo" vẫn gắn liền với "hiếu trung",

như bức điện của Hồ Chí Minh gửi họ Nguyễn Sinh sau khi nghe tin anh ruột

qua đời đã viết: "Một người con đã hy sinh tình nhà vì phải lo việc nước".

Tuỳ theo từng đối tượng mà Hồ Chí Minh xác định nội dung trung, hiếu

cho phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng.

Đối với lực lượng vũ trang, Người đã khẳng định bản chất đạo đức

cách mạng của quân đội ta. Quân đội ta là quân đội anh hùng của một dân

tộc anh hùng... Quân đội ta anh dũng trong kháng chiến mà cũng anh dũng

trong hoà bình... Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến

đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào

Page 77: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng...

Cán bộ và chiến sĩ thương yêu nhau như ruột thịt, chia sẻ ngọt bùi, quân với

dân như cá với nước.

Ngày 26/5/1946, lần đầu tiên Ngưừi đưa khẩu hiệu sáu chữ vàng:

"Trung với nước, hiếu với dân" ghi trên lá cờ trao tặng Trường Võ bị Trần

Quốc Tuấn (trường sĩ quan đầu liên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà)

nhân dịp khai giảng khoá I và cũng là chung cho cá toàn dân.

Nội dung cơ bản của "hiếu với dân" theo tư tưởng Hồ Chí Minh là: quân

đội ta là của nhân dân, bộ đội ta là con em của nhân dân, từ nhân dân mà ra,

cho nên phải chiến đấu hi sinh quên mình vì nhân dân. Người nhắc nhớ quân

đội ta phải bám sát lấy dân, rời dân ra nhất định thất hại. Vì chiến tranh ngày

nay phức tạp và hết sức khó khăn, nếu không dùng loàn lực của nhân dân thì

không thể dành được thắng lợi. Cuộc kháng chiến của ta thực sự là cuộc

chiến tranh nhân dân, vì vậy bộ đội lực lượng vũ trang phải dựa vào dân để

đánh giặc, đổ tồn tại. Muốn dựa vào dân, bám chắc lấy dân "phải làm cho dân

tin, dân phục, dân yêu".

Đối với cán hộ cao cấp trong quân đội, Người dạy: "Tướng là kẻ giúp

nước, tướng giỏi (đủ cả: trí, tín, nhân, dũng, nghiêm) thì nước mạnh. Tướng

xoàng thì nước hèn... biết sức ta, biết sức địch thì trăm trận đều thắng. Biết

sức ta, mà không biết sức địch thì một thắng một bại. Không biết ta, không

biết địch thì trận nào cũng thua". Trong quân đội, nhiệm vụ của người tướng

là phải: "trí, dũng, nhân, tín, liêm, trung... Trung là trung thành tuyệt đối với Tổ

quốc, với nhân dân, với cách mạng, với Đảng".

Sáu chuẩn mực đạo đức mà mọi cán hộ quân sự đều phải có, mỗi

chuẩn mực có những nội dung riêng, nhưng tất cả đều liên hệ với nhau, trong

đó chữ trung là nền tảng. Trung với nước, hiếu với dân đã tạo nên sức mạnh

vô địch của quân đội nên khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh

thắng.

Đối với công an nhân dân, ngay trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

Hồ Chí Minh đã khẳng định rõ bản chất của công an nhân dân: "Công an của

Page 78: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

ta là công an nhân dân, vì nhân dân mà phục vụ và dựa vào dân mà làm

việc". Để làm rõ bản chất của người công an nhân dân, Người phân biệt công

an ta với công an đế quốc: "Công an nhân dân hoàn toàn khác công an đế

quốc. Công an đế quốc là nanh vuốt của đế quốc đế hà hiếp, áp bức đa số

nhân dân... chúng nó là bọn đầu trâu mặt ngựa... Công an nhân dân phải thực

sự phục vụ nhân dân". Và Người khẳng định tiếp: "Làm công tác chính quyền,

ở công an hay ở quân đội, đều là làm đầy tớ cho nhân dân cả, vì chính quyền

dân chủ, có nghĩa là chính quyền do người dân làm chủ". Muốn hoàn thành

nhiệm vụ của mình, công an nhân dân “phải dựa vào dân, không được xa rời

dân. Nếu không thể thì sẽ bị thất bại. Khi nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành

công nhiều, giúp đỡ ta ít thì thành công ít, giúp đỡ ta hoàn toàn thì thắng lợi

hoàn toàn”. Công an phải nắm vững đường lối, thấu suốt chính sách của

Đảng và Chính phủ. Đó là yêu cầu quan trọng hàng đầu để bảo đảm công an

nhân dân tuyệt đối trung thành với Đảng.

Hồ Chí Minh nêu lên sáu điều đạo đức, tư cách mà người công an cách

mạng cần phải có và phải giữ cho đúng. Đó là:

"Đối với tự mình, phai cần, kiệm, liêm, chính.

Đối với đồng sự, phải thân ái, giúp đỡ.

Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành.

Đối với nhân dân, phải kính trọng lễ phép.

Đối với công việc, phải tận tụy.

Đối với địch, phải kiên quyết, khôn khéo".

Ngoài ra, mỗi công an viên khi đóng quân ở chổ nào thì cần "dạy cho

dân ở đó giữ bí mật. Và tự mình phải luôn luôn giữ lễ phép. Tránh hách dịch".

Những điều Hồ Chí Minh nêu ra đến nay vẫn còn như mới mẻ, vì hiện

nay một số cán bộ, chiến sĩ công an còn có thái độ cửa quyền, hách dịch đối

với nhân dân, thậm chí còn vi phạm đến tài sản của nhân dân.

Page 79: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Đối với thanh niên, Hồ Chí Minh yêu cầu “Thanh niên phải luôn luôn rèn

luyện đạo đức cách mạng... Trọn đời trung thành với sự nghiệp cách mạng,

với Tổ quốc, với Đảng, với giai cấp.

Trong thư gửi thanh niên ngày 2/9/1965. Người căn dặn thanh niên:

"Phải luôn nâng cao chí khí cách mạng "trung với nước, hiếu với dân, nhiệm

vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh

thắng". Không sợ gian khổ, hy sinh, hăng hái thi đua tăng gia sản xuất và anh

dũng chiến đấu, xung phong đi đầu trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước".

Đối với các thầy cô giáo, Hồ Chí Minh dạy: “Thầy và trò phải luôn nêu

cao tinh thần yêu Tổ quốc, yêu chủ nghĩa xã hội, tăng cường tình cảm cách

mạng đối với công nông, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng, triệt

để tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng nhận bất kỳ nhiệm vụ nào

mà Đảng và nhân dân giao cho... Dù khó khăn gian khổ đến đâu cũng phải

tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt".

Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà

ra đời, chế độ phong kiến thống trị hàng ngàn năm và chế độ thực dân của đế

quốc Pháp hơn 80 năm trên đất nước ta bị lật đổ. Chính quyền mới thành lập

là kết quả của quá trình đấu tranh cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh

đạo của Đảng.

Trong bức thư của Uỷ ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng ngày

17/10/1945, Hồ Chí Minh đã viết: "Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của

Chính phủ từ toàn quốc cho đến làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để

gánh vác việc chung cho dân chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ

dưới chính quyền thống trị của Pháp, Nhật.

Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân ta phải hết

sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta".

"Công bộc" của dân mà Người viết nghĩa là đầy tớ của dân. Người xưa

thường dùng chữ công bộc để nói: quan là công bộc của dân. Vận dụng vào

thời nay, Hồ Chí Minh nói "Chính phủ là công bộc của dân" cũng là đầy tớ của

Page 80: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

dân. Người phê bình sáu khuyết điểm của một số cán bộ chính quyền là: trái

phép, cậy thế, hủ hoá, tự túng, kiêu ngạo. Người nêu rõ mối quan hệ giữa

chính quyền và nhân dân: "Chế độ ta là chế độ dân chủ, nhân dân là chủ".

Chính phủ "là đầy tớ chung của dân", từ Chủ tịch toàn quốc đến làng đều là

đầy tớ của nhân dân chứ không phải là quan cách mạng. Nhân dân có quyền

đôn đốc và phê bình Chính phủ. Chính phủ thì từ việc to đến việc nhỏ đều

nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân. Nhân dân lại có nhiệm vụ giúp

đỡ Chính phủ... làm đúng chính sách của Chính phủ, để Chính phủ làm tròn

phận sự mà nhân dân đã giao phó cho. Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có

quyền đuổi Chính phủ".

Đối với Đảng, để xứng đáng là người lãnh đạo. Người luôn giáo dục

cán bộ, đảng viên, yêu cầu họ thấm nhuần đạo đức cách mạng, nâng cao

trình độ và năng lực để làm tròn nhiệm vụ. Một trong những lời dạy quan

trọng mà Người nhắc đi nhắc lại nhiều lần, nhất là từ khi Đảng ta trở thành

một Đảng cầm quyền, đó là: "Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phái xứng

đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân".

Lãnh đạo nhân dân và làm người đầy tớ trung thành của nhân dân

quan hệ chặt chẽ với nhau trên cơ sở thống nhất để thực hiện bằng được

đường lối, nhiệm vụ của Đảng. Có lãnh đạo tốt mới làm đầy tớ tốt, bởi lẽ có

lãnh đạo tốt mới làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân,

làm cho dân giàu, nước mạnh. Nhiệm vụ làm người đầy tớ trung thành của

nhân dân thể hiện trước hết ở chính ngay trong nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng.

Đó là mục tiêu phấn đấu của Đảng, trách nhiệm của Đảng đối với nhân dân.

Để xứng đáng là người đầy tớ trung thành của nhân dân, Đảng phải

vạch ra đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn đem lại lợi ích cho nhân

dân. Mọi tổ chức Đảng, các cấp lại phải luôn quan tâm đến đời sống vật chất

và văn hoá của nhân dân từ những việc nhỏ đến việc lớn. Phải luôn ghi nhớ

lời căn dặn của Người: "Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là

Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân

ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi". Trong Di chúc, Người căn dận Đáng ta "cần

Page 81: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế văn hoá. nhằm không ngừng

nâng cao đời sống nhân dân".

Thấm nhuần lời dạy của Người trong giai đoạn cả nước vừa xây dựng

chủ nghĩa xã hội, vừa bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Đại hội Đảng toàn

quốc lần thứ V Đảng đã nêu rõ: Mọi cán bộ, đảng viên phải nghiêm chỉnh

chấp hành điều lệ Đảng, phấn đấu rèn luyện về mọi mặt để thực sự xứng là

người lãnh đạo và người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

5. Cần - Kiệm - Liêm - Chính, Chí công vô tư

* về Cần, Kiệm, Liêm, Chính

"Cần kiệm liêm chính" là một cụm khái niệm chỉ những đức tính cần

thiết của những người có trách nhiệm trong chính quyền các thời. Chúng

thuộc phạm trù luân lý đạo đức.

"Cần, kiệm, liêm, chính" vốn có trong các tác phẩm của nhà nho dưới

thời kỳ phong kiến, về sau được các nhà tư tưởng tư sản phương Đông kế

thừa và sử dụng, rồi cũng được các nhà tư tưởng vô sản phương Đông kế

thừa, cải tạo, nâng cao và phát huy. Chúng cũng thường được xuất hiện

trong các tác phẩm của Hồ Chí Minh. Do lập trường giai cấp của các nhà tư

tưởng khác nhau mà nội dung của chúng đã có sự biến đổi nhiều.

Về Cần: Khái niệm này lần đầu tiên xuất hiện trong "Luận ngữ", cuốn

sách ghi chép lời nói của Khổng Tử, nhưng ở đó chưa có sự giải thích.

Chương "Vi tử" sách "Luận ngữ" có đề cập đến một nghĩa: “Tứ thể bất cần,

ngũ cốc bất phân” (chân tay không ra sức, không phân biệt được năm loại

lương thực), ở sách "Xuân Thu tả truyện" nội dung của "Cần" có hai nghĩa,

nghĩa thứ nhất là tận tâm, tận lực: nghĩa thứ hai là đối xử trọng hậu, ví như

nói: "Tề phương cần ngã" (phía Tề đối xử trọng hậu với ta). Sách "Thuyết văn

giải tự" (thời Hán) đã giải thích “Cần” là lao động khó nhọc. Sách này nói:

"Cần giả, hữu sự tắc thụ chi" (người có đức tính cần khi có việc thì nhận lấy

làm ngay) và chú thích: "Chấp bạo nhục chi sự dã" (đón lấy sự khó nhọc).

"Cần" tức là "làm việc, làm lụng", là "siêng năng, làm việc có năng suất cao".

Page 82: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Cần trong lao động sản xuất, xưa gọi là "cần lao";

Cần trong việc học hành, xưa gọi là "cần học";

Cần trong việc hành chính, cai trị, xưa gọi là "cần chính";

Cần trong vô luận nghề nghiệp, chức trách gì xưa gọi là "cần nghiệp".

"Cần là một đạo lý. Thứ nhất là phải tính xa, việc gì nên lo sớm, việc gì

nên làm sớm đều phải lo liệu trước. Nếu đợi nước đến chân mới nhảy thành

ra vội vã, sai sót thì chẳng tránh khỏi hao phí. Thứ hai là phải thức khuya dậy

sớm, như vậy thì một ngày mà làm được công rưỡi. Còn ngủ sớm dậy muộn

thì một ngày chỉ được nửa công. Chưa kể đến đạo trời thường đền bù cho

người chăm chỉ và trừng phạt kẻ lười nhác, mà ngay trong cuộc sống hiện tại

hơn kém nhau cũng đã khác. Thứ ba là phải chịu đựng được mọi phiền hà,

chịu được khổ. Nếu không vậy, một việc làm không được đến nơi đến chốn

sẽ bị tổn thất, hư hao. Việc gì đáng tự tay làm thì phải tự làm lấy, dự kiến phải

làm xong ngày nào thì phải hoàn thành trong ngày ấy".

Nhân dân nước nào cũng cần cù, ở nước ta, một nước đất không lộng,

thiên nhiên khắc nghiệt, lại phải luôn luôn chống giặc ngoại xâm nên nhân

dân ta từ nghìn xưa đã có truyền thống lao động cần cù. Vừa sản xuất, vừa

chiến đấu. "Các triều đại độc lập thịnh trị đều lấy chữ "cần" làm phương châm

chỉ đạo". Các ông vua sáng nghiệp, nhất là các vị nào nhờ khởi nghĩa của

nhân dân mà được thiên hạ thì trong lúc đầu thường chú ý đến cần kiệm và

cần chính (cần trong việc hành chính, cai trị), quý trọng sức lao khổ của dân.

Một tờ chiếu của Lê Thái Tổ (do Nguyễn Trãi soạn) có đoạn răn các quan

đừng hoang phí sức dân, đừnc xa hoa: "Xây cung thất đẹp, dựng lâu đài cao,

thì gây nên thói tục xa hoa. Theo ý mình mà ức lòng người thì trăm họ oán

giận. Trẫm rất thẹn thùng về điều đó, thườnc nghĩ rằng những cái gì quy mô

lớn lộng lẫy đều là tổn phí sức lao khổ của dân. Cứ ở yên như cũ còn không

kham thay, vậy mà văn võ thần liêu định làm đủ những lễ nghi đăng điệu, yến

hạ, thật là không hợp ý trẫm". Bài chiếu đã nhắc nhỏ đức cần kiệm, lại nhắc

nhở đức cần chính: "Nay, từ các đại thần tổng quản cho đến đội trưởng cùng

các quan ở viện, sảnh, cục, phàm người có chức vụ coi quân, trị dân, đều

Page 83: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

phải theo phép công bang, làm việc cần mẫn, thờ vua thì hết trung, đối dân thì

hết hòa, bỏ thói tham ô, trừ tệ lười biếng. Bè đảng riêng tây phải chấm dứt,

thái độ cố phạm phải chừa, coi công việc quốc gia là việc của mình, lấy điều

lo của sinh dân mà làm điều lo của thiết kỷ".

Hồ Chí Minh đã bổ sung thêm nội dung và mở rộng thêm đối tượng

thực hiện, dùng vào việc dạy cán bộ và nhân dân của mình. Người nói: "Cần

là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai". Chữ cần chẳng những có nghĩa

hẹp như “Tay siêng làm thì hàm siêng nhai”, mà còn có nghĩa rộng là "Mọi

người đều phải Cần, cả nước đều phải Cần". Cả nhà siêng năng thì chắc ấm

no, cả làng siêng năng thì làng phồn thịnh, cả nước siêng năng thì nước

mạnh giàu. Cần là "Luôn luôn cố gắng, luôn luôn chăm chỉ, cả năm, cả đời.

Nhưng không làm quá trớn. Phải biết nuôi dưỡng tinh thần và lực lượng của

mình để làm việc cho lâu dài", là "Thi đua sản xuất cho mau, cho tốt, cho

nhiều". "Cần tức là tăng năng suất trong công tác, bất kỳ công tác gì". "Chữ

cần có hai ý nghĩa: một ý nghĩa là làm việc phải cần cù siêng năng; chớ lười

biếng, chớ ăn thật làm dối. Một ý nghĩa nữa là phải tìm mọi cách để ít người

mà làm được nhiều việc. Ví dụ: một người mà làm việc bằng hai, ba người,

muốn như thế thì phải cải tiến công việc". "Điều rất quan trọng nữa là phải

quản lý lao động cho tốt, công việc phải sắp đặt cho hợp lý".

Cần và chuyên phải đi đôi với nhau. "Chuyên nghĩa là dẻo dai, bền bỉ".

Nếu không chuyên, nếu một ngày cần mà mười ngày không cần thì cũng vô

ích.

Đối lập với cần, với siêng năng là lười biếng. Lười biếng là kẻ địch của

chữ cần, cũng là kẻ địch của dân tộc, người lười biếng là có tội với Tổ quốc,

với đồng bào. Muốn chữ cần có nhiều kết quả hơn thì phải có kế hoạch cho

mọi công việc, nghĩa là phải tính toán cẩn thận, sắp đặt gọn gàng... Cụ Mạnh

Tử có nói: "Người thợ muốn làm khéo thì trước phải sắp sẵn công cụ của

mình"... Vì vậy siêng năng và kế hoạch phải đi đôi với nhau. Kế hoạch lại phải

đi đôi với phân công... Người nào có năng lực làm việc gì thì đặt vào việc ấy...

Page 84: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Tóm lại. "Cần" trong tư tưởng Hồ Chí Minh là siêng năng, chăm chỉ, biết

tính toán, có kế hoạch và biết động viên mọi người cùng thực hiện.

Về Kiệm: Khái niệm "Kiệm" trong thư tích cổ vốn có nghĩa là "ước", tiết

chế để không lãng phí. Sách "Kinh Lễ" của nhà nho nói: "Quốc xã tắc thị chi dĩ

kiệm" (trong nước lãng phí thì đề ra chữ kiệm). Các sách khác của nhà nho

cũng đề cập đến khái niệm này, như sách "Thuyết văn giải tự" giải thích rằng:

"ước giả, triền thúc dã, kiệm giã, bất cảm phóng xỉ chi ý" (ước là bó buộc,

kiệm có ý là không dám phóng tay lãng phí), hoặc sách "Nhan thị gia huấn"

mục "trị giả" nói: "kiệm giả, tỉnh ước vi lề chi vị" (kiệm là lấy dè sẻn làm điều

lỗ). Sách “Đại học” có câu "Làm cho nhiều, tiêu thì ít, làm chóng tiêu chậm tức

là đầy đủ". "Nghèo trở nên đủ, đủ trở nên giàu, giàu thì giàu thêm". Khổng Tử

nói: "Người sản xuất nhiều, người tiêu xài ít. Làm ra mau, dùng đi chậm thì

của cải luôn luôn đầy đủ". Giữ mình cẩn trọng, tiết kiệm tiêu dùng để nuôi

dưỡng cha mẹ, như thế là biết đạo hiếu đẻ, biết trọng lễ nghĩa. Các sách "Tu

thân", "Tề gia" khác của nhà nho, mỗi khi nói tới việc sử dụng tiền của thường

dạy cho con người phải kiệm.

Sách "Từ thụ yếu quy" của Đặng Huy Trứ viết: "Đó là biết quý trọng ngũ

cốc, giảm việc xây dựng, bớt ăn ngon, ngừa xa hoa, tiết chế tiêu pha, không

ham đồ chơi lạ, chớ gây ra mầm kiện cáo".

Cần cù và tiết kiệm, đó là truyền thống quý báu của dân tộc ta. Nguyễn

Trãi trong bài dạy "Cần", dạy "Kiệm" cho con đã viết:

"Tay ai thì lại làm nuôi miệng.

Làm biếng ngồi ăn lở núi non."

"Áo mặc miễn cho ấm cật.

Cơm ăn chẳng lọ kém mùi ngon".

Cụ Phan Bội Châu khi về già thường làm thơ dạy đạo đức cổ truyền

cho thanh niên. Bài "Cần kiệm là nguồn gốc bể nhân ái" có đoạn:

"Hỡi người có trí

Page 85: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Nên kiệm nên cần...

Xưa vua Hạ Vũ

Trị thủy tám năm

Một tấc quang âm

Quý hơn thước ngọc

Người ta phải học

Các bậc thánh hiền

Muôn sự làm nên

Chữ cần cốt nhất."

Trong các bậc thánh hiền nêu gương cần kiệm, cụ Phan Bội Châu có

kể đến Lênin:

"Như ông Lênin

Tài cao hơn chúng

Ăn theo lao động

Mặc theo thợ thuyền

Vải mốc bánh đen

Vì ai cơ khổ

Việc gì không khó

Cốt nhất hay cần

Của không sợ bần...

Cốt mình hay kiệm..."

Hồ Chí Minh khi kế thừa khái niệm "kiệm" đã làm cho nó có một nội

dung mới mẻ và toàn diện. Người cho rằng "kiệm" không phải chỉ là tiết kiệm

tiền của mà còn tiết kiệm thời gian. "kiệm" muốn có kết quả phải đi liền với

"cần", "kiệm" không phải chỉ cần cho một người, mà cần cho cả một phong

trào, một đất nước. Kiệm là “tiết kiệm, không xa xĩ, không hoang phí, không

Page 86: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

bừa bãi”, "là thi đua tiết kiệm không lãng phí, quý trọng của công", "là không

lãng phí thì giờ của cải của mình và của nhân dân".

Cần và kiệm phải đi đôi với nhau như hai chân của một con người.

"Cần mà không kiệm thì làm chừng nào, xào chừng ấy. Cũng như một cái

thùng không có đáy, nước đổ vào chừng nào chảy ra hết chừng ấy, không lại

hoàn không".

Nếu chỉ kiệm mà không cần thì "Sản xuất được ít không đủ dùng",

"không tăng thêm không phát triển được. Mà vật gì đã không tiến, tức phải

thoái. Cũng như cái thùng chỉ đựng một ít nước, không tiếp tục đổ thêm vào,

lâu ngày chắc nước đó sẽ hao bớt dần, cho đến khi khô kiệt". Thời giờ cũng

cần tiết kiệm như của cải. Của cải ta tiêu hết còn có thể làm thêm. Khi thời

giờ đã qua rồi, không bao giờ kéo nó trở lại được...

Tiết kiệm không phải là bủn xỉn. "Khi không nên tiêu xài, thì một đồng

xu cũng không tiêu. Khi có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ

quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của cũng vui lòng. Như thế mới

đúng là kiệm", “Việc đáng tiêu mà không tiêu, là bún xỉn.,thứ không phải là

kiệm”.

Hồ Chí Minh đã làm phong phú thêm khái niệm "kiệm". "Nói chung tiết

kiệm cái gì? Tiết kiệm sức người như dân công, tiết kiệm tiền, tiết kiệm của.

Mọi thứ đều phải tiết kiệm, tăng gia mà không tiết kiệm thì vô ích. Tiết kiệm

mà không tăng gia thì lấy gì mà tiết kiệm? Mục đích tiết kiệm không phải là

bớt ăn, mà là thêm ăn, làm cho bộ đội no. Nói chung các cơ quan đều phải

tiết kiệm... phải sắp xếp cho gọn gàng, hợp lý, mọi người đều có công việc

thiết thực". "Muốn tiết kiệm thời giờ thì mọi việc (học tập, công tác, khai hội...)

đều phải chuẩn bị sẵn sàng đầy đủ. Khi làm việc, khi học tập, khi bàn bạc phải

có tinh thần phụ trách, phải giữ vững thời giờ đã định. Làm được như vậy thì

khỏi hấp tấp vội vã, mà tinh thần khoan khoai, tiết kiệm được thời giờ, công

việc sẽ rất trôi chảy". Với quan niệm đó. Người luôn nhắc nhở chúng ta phải

hết sức cần kiệm "Cần để nâng cao không ngừng năng suất lao động. Kiệm

để tích trữ thêm vốn, mở rộng sản xuất". "Kiệm mà không cần thì cũng vô ích.

Page 87: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Cần mà không kiệm tay không lại hoàn không". "Chúng ta phải kiệm, phải

cần, thì nước mới mạnh, thì dân mới giàu".

Nước ta còn nghèo, chúng ta đi vào xây dựng chủ nghĩa xã hội với nền

kinh tế lạc hậu, điểm xuất phát rất thấp, lại phải chịu đựng những hy sinh to

lớn trong chiến tranh. Muốn tiến lên chủ nghĩa xa hội, muốn cải thiện đời sống

thì chúng ta phải cần, phải kiệm, phải chống lười biếng, chống lãng phí.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã lao động hết sức cố gắng

để đảm bảo no ấm cho mọi người và xây dựng đất nước như ngàv nay.

Nhưng nếu chúng ta chỉ biết lao động mà khônh thực hành tiết kiệm thì không

thể có tiền của để mở mang công nghiệp, nông nghiệp và văn hóa, đồng thời

đối phó với thiên tai, địch họa. Chúng ta được sự giúp đỡ của nhiều nước

nhưng công cuộc xây dựng đất nước phải dựa vào sự "tự lực cánh sinh" là

chủ yếu. Một người tiết kiệm và tất cả mọi người đều phải tiết kiệm, chúng ta

sẽ bớt được rất nhiều sự hoang phí vô ích và dành được tiền của rất lớn cho

nước nhà.

Với tinh thần cần kiệm. Người luôn nhắc nhở cán bộ và nhân dân phải

triệt để chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Người coi nó là "kẻ thù khá nguy

hiểm, vì nó không mang gươm súng mà nó nằm trong các tổ chức của ta, để

làm hỏng công việc của ta". Người đã phân tích rất rõ: "Tham ô, lãng phí và

bệnh quan liêu, dù cố ý hay không cũng là bạn đồng minh của thực dân và

phong kiến. Vì nó làm chậm trễ công cuộc kháng chiến và kiến quốc của ta.

Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá

hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính".

Trong bài nói chuyện với đồng bào và cán bộ tỉnh Bắc Giang (1961).

Người khẳng định: "Nhân dân là người chủ nước nhà... Đã làm chủ, thì mọi

người, mọi dân tộc phải chung sức làm cho dân giàu, nước mạnh, làm cho

đời sống của nhân dân được cải thiện không ngừng, làm cho con cháu ta

ngày càng sung sướng. Muốn như thế, thì mọi người phải thực hiện khẩu

hiệu cần, kiệm xâv dựng nước nhà. Tức là mọi người phải thi đua, tăng gia

sản xuất và thực hành tiết kiệm. Cần và kiệm phải đi đôi với nhau

Page 88: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Về Liêm: Liêm vốn là một phẩm chất cần có của người làm quan,

không dựa vào quyền thế, địa vị để bòn rút của công và vơ vét của dân. Sách

“Luận ngữ” và sách "Mạnh Tử" đều nói tới khái niệm này. Cụ Khổng Tử nói:

"Người mà không liêm không bằng súc vật". Cụ Mạnh Tử nói: "Ai cũng tham

lợi thì nước sẽ nguy". Chu Hy đời Tống khi giải thích về khái niệm "Liêm" của

sách "Mạnh Tử" có nói: "Liêm, hữu phân biện, bất cẩu thủ dã" (Liêm là có

phân biệt rõ, không lấy một cách cẩu thả).

Đặng Huy Trứ cho rằng làm quan trước hết là làm nô bộc cho dân, cho

nước. Khi tự coi mình là "con của thứ dân" (thứ dân chi tử), và nguyện suốt

đời làm "khuyển mã" của dân (khuyển mã ngô sinh tứ thập niên), ông đã đưa

ra một quan niệm xử thế "không chăm sóc nổi dân thì chớ ra làm quan". Quan

niệm sống ấy đã từng được ông gửi trong những vần thơ:

"Mình thiệt, lợi dân, Dân gắn bó

Đẽo dân, mình béo, Dân câm hờn

Hờn căm, gắn bó tùy ta cả

Duy chữ thanh. Thanh đối thế nhân".

Trong ba chữ răn mình của nhà quan, ông cho rằng chữ thứ nhất là

“thanh”. Thanh là liêm khiết giữ mình, không lấy của ai mảy may. Ông viết:

Thạch Độc Tử nói: "Thanh là điều quan lại phải thực hiện. Của cái đối với

người ta như dầu mỡ đối với đồ vật. Đã giây bẩn thì không thể gội sạch.

Huống chi ta lấy một thì dưới lấy mười, ta lấy mười thì dưới lấy hàng nghìn.

Ta được vừa miệng thì dân bị hút máu. Ta được bảnh bao thân hình thì dân

bị lột da. Ta được đầy túi thì dân phải bán nhà, đợ ruộng. Ta có cái khoản đãi

bạn bè thì vợ con của dân chỉ còn cháo. Nghĩ như thế, há lại không giữ chữ

thanh liêm hay sao?. Người làm quan mọi thứ của cái phi nghĩa đều không

nhận thì mới có thể đạt được chữ thanh.

Từ kinh nghiệm làm quan và hiểu biết thực tiễn của đời sống, Đặng

Huy Trứ đã nhận thấy mối quan hệ giữa những người làm quan với nhữns

người dân dược biểu hiện qua các mối ứng xử của kẻ cho và người nhận.

Page 89: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Cho và nhận, những giao tiếp rất đời thường đôi khi được giấu mình trong lớp

vỏ tưởng chừng không đáng để tâm. "Tiền trầu thuốc" - như cách gọi đương

thời (mà ngày nay được gọi là tiền cà phê), nhưng nó có đủ sức gặm nhấm,

công phá, làm ruồng nát và sụp đổ một cơ chế nhà nước. Thực chất đó chính

là nạn tham nhũng, hối lộ - một căn bệnh gần như kinh niên và khó miễn dịch

đối với mọi bộ máy quan chức nhà nước.

Hồ Chí Minh kế thừa và phát huy khái niệm này cho phù hợp với yêu

cầu mới của cách mạng. Người nói: "Liêm là trong sạch, không tham lam.

Ngày xưa dưới chế độ phong kiến, những người làm quan không đục khoét

dân thì gọi là liêm, chữ liêm ấy theo nghĩa hẹp". “Ngày nay, nước ta là Dân

chủ Cộng hòa, chữ liêm có nghĩa rộng hơn là: Mọi người đều phải liêm”.

"Liêm lức là không tham ô và luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của công và

của nhân dân".

Chữ liêm phải đi đôi với chữ kiệm. "Có kiệm mới liêm được, vì xa xỉ mà

sinh tham lam". "Tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon,

sống yên ổn đều là bất liêm". Do bất liêm mà đi đến tội ác, trộm cắp. Công

khai hay bí mật, trực tiếp hay gián tiếp, bất liêm tức là trộm cắp.

Hồ Chí Minh đã mở rộng khái niệm liêm, gắn liêm với kiệm, xem kiệm là

điều kiện để thực hiện liêm. Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ phải thực hành chữ

liêm trước để làm kiểu mẫu cho dân và Người khẳng định rằng: "Một dân tộc

biết cần, kiệm, biết liêm là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là

một dân tộc văn minh tiến bộ". Dân tộc ta đang kháng chiến và kiến quốc,

chẳng những chúng ta phải cần kiệm mà còn phải thực hành chữ liêm.

Về Chính: Chính là thẳng, là chính trực, chính đáng, đúng với chức vụ,

không thiên lệch, tà vạy. Khái niệm "chính" vốn xuất hiện trong các tác phẩm

cổ điển của nhà nho, "Kinh Thư", "Luận ngữ", "Kinh Lễ"... đều nói tới, ở đây,

chính có nghĩa là thẳng, không xiên vẹo, gỗ muốn làm thẳng thì dùng cây

mực (Kinh Thư); người mà thẳng thắn mẫu mực gọi là "tiên chính" (Kinh Lỗ),

làm đúng chức vụ gọi là "Chính danh" (Luận ngữ)...

Page 90: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển khái niệm trên, Người nói: "Chính

nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đúng đắn. Điều gì không đúng đắn,

thẳng thắn tức là tà": "Là việc phải thì dù nhỏ cũng làm, việc trái thì dù nhỏ

cũng tránh". Cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính. Như một cây cần có gốc rễ,

lại cần có nhành, lá, hoá, quả mới là hoàn toàn. Một người phải cần, kiệm,

liêm, nhưng cần phải chính mới là người hoàn toàn.

Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh rằng chữ "chính" phải được thực hiện trên

cả ba mặt xử thế là: "Mình đối với mình, đối với người, và mình đối với công

việc".

Đối với mình: "Chớ tự kiêu, tự đại". Tự kiêu, tự đại là thoái bộ. Phải

"luôn luôn cầu tiến bộ, tự kiêm điểm, tự phê bình, những lời mình đã nói,

những việc mình đã làm, để phát triển điều hay, sửa đổi khuyết điểm của

mình", "Tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác chính. Mình mà

không chính, mà muốn người khác chính là vô lý".

Đối với người, "Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng,

bạn bè. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người. Trừ bọn

Việt gian bán nước, bọn phát xít thực dân... phải kiên quyết đánh đổ, đối với

tất cả những người khác thì phải yêu quý kính trọng giúp đỡ... Thái độ phải

chân thành, khiêm tốn, phải thật thà đoàn kết. Phải học người và giúp người

tiến tới."

Đối với việc: "Phải để công việc nước lên trên, trước việc tư, việc nhà.

Đã phụ trách việc gì thì quyết tâm làm cho kỳ được, cho đến nơi, đến chốn,

không sợ khó nhọc, không sợ nguy hiểm... Việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng

làm. Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh."

Ở Người, khái niệm "chính" đã được giải thích một cách rõ ràng. Người

đã nêu cơ sở của nó và điều kiện để thực hiện nó.

Trong các sách kinh điển của nhà nho, các khái niệm cần, kiệm, liêm,

chính thường xuất hiện lẻ tẻ, từng khái niệm một, chưa có sự gắn bó với

nhau. Ở Hồ Chí Minh, bốn phạm trù kể trên được gắn bó với nhau trong một

Page 91: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

cụm từ. Bốn chữ: cần, kiệm, liêm, chính đi liền với nhau mà nội dung của

chúng còn được mở rộng và nâng cao. Người đã lấy đó làm cơ sở để giáo

dục cán bộ và nhân dân. Bốn đức cần, kiệm, liêm, chính có mối quan hệ biện

chứng với nhau: "Muốn tăng gia sản xuất, mọi người phải cần, phải kiệm.

Không cần thì phí thời giờ nhiều mà sản xuất được ít. Không kiệm thì làm

được bao nhiêu, dùng hết bấy nhiêu, rút cục cũng như sản xuất ít. Tăng gia

sản xuất ích riêng cho mình mà cũng ích chung cho cả nước. Nếu không có

tinh thần liêm và chính, nếu tham lam ích kỷ, thì không thể phát đạt việc tăng

gia sản xuất. Vì vậy, tăng gia sản xuất và đời sống mới phải đi đôi với nhau,

không thể lìa nhau". Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở phải coi đạo đức là

gốc của người cách mạng, của con người; phải thực hành cần, kiệm, liêm,

chính.

Căn cứ vào yêu cầu của thực tiễn cách mạng và đặc điểm của từng

ngành, từng lĩnh vực công tác, các khái niệm cần, kiệm, liêm, chính luôn

được Hồ Chí Minh sử dụng đúng nơi, đúng lúc, phù hợp với từng đối tượng.

Đối với mỗi người, phẩm chất này có hay không, có nhiều hay có ít đều được

thể hiện qua hoạt động thực tiễn trong đời công cũng như đời tư, trong sinh

hoạt cũng như trong những công việc người đó làm.

* Đối với những người trong các công sở

Theo Hồ Chí Minh, những người này đều có nhiều hoặc ít quyền hành,

nếu không giữ đúng cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành

sâu mọt của dân. Đối với những người này, Hồ Chí Minh giải thích nội dung

của cần, kiệm, liêm, chính như sau:

+ Cần là làm việc phải đến đúng giờ, chớ đến trễ, về sớm. Làm cho

chóng, cho chu đáo. Việc ngày nào nên làm xong ngày ấy, chớ để đến ngày

mai. Phải nhớ rằng dân đã lấy tiền mồ hôi, nước mắt để trả lương cho ta

trong những thì giờ đó. Ai lười biếng tức là lừa gạt dân. "Cần, anh em viên

chức phải tận tâm làm việc, một người làm bằng hai, ba người. Và phải tôn

trọng kỷ luật. Anh em phải theo nguyên tắc là có việc mới cần đến người, chứ

không phải là có sẵn người nên phải tìm việc cho làm".

Page 92: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

+ Kiệm: "Giấy, bút, vật liệu đều tốn tiền của chính phủ, tức là của dân,

ta cần phải tiết kiệm. Nếu một miếng giấy nhỏ đủ viết thì chớ dùng một tờ to.

Một cái phong bì có thể dùng tới hai, ba lần. Mỗi ngày, công sở cả nước dùng

hàng mấy vạn tờ giấy và phong bì. Nơi nào cũng tiết kiệm một chút thì trong

một năm đỡ được hàng vạn tấn giấy, tức là hàng triệu đồng bạc. Các vật liệu

khác cũng vậy, nhờ các công sở tiết kiệm mà lợi cho dân rất nhiều. "Kiệm,

phải biết tiết kiệm đồng tiền kiếm được cũng như các vật liệu và đồ dùng

trong các sở. Rút bớt hết những sự gì không cần thiết, chớ phao phí giấy má

và các thứ của công. Phao phí những thứ đó tức là phao phí mồ hôi nước

mắt của dân nghèo... Có cần, có kiệm, không tiêu đến nhiều tiền, anh em viên

chức mới có thể trở nên liêm, chính để cho người ngoài kính nể được".

+ Liêm: "Những người ở các công sở, từ làng cho đến Chính phủ trung

ương đều để tìm dịp phát tài, hoặc xoay tiền của Chính phủ, hoặc khoét đục

của nhân dân. Đến khi lộ ra, bị phạt thì mất hết cả danh giá mà của phi nghĩa

đó cũng không được hưởng. Vì vậy, những người trong công sở phải lấy chữ

liêm làm đầu."

+ Chính: "Mình là người làm việc công, phải có công tâm. Chớ đem của

công dùng vào việc tư. Chớ đem người tư làm việc công. Việc gì cũng phải

công bình, chính trực, không nên vì tư ân, tư huệ hoặc tư thù, tư oán. Mình có

quyền dùng người thì phải dùng những người có tài năng, làm việc được.

Chớ vì bà con, bầu bạn mà kéo vào chức nọ chức kia. Chớ vì sợ mất địa vị

mà dìm những kẻ có tài năng hơn mình. Phải trung thành với Chính phủ, với

đồng bào. Chớ lên mặt làm quan cách mệnh".

* Đối với cán bộ lãnh đạo

Hồ Chí Minh yêu cầu phải "Thi đua thực hành cần, kiệm, liêm, chính",

hết lòng phục vụ nhân dân. Cán bộ Đảng, cán bộ chính quyền không phải là

làm quan cách mạng, ăn trên ngồi trước... mà đều là đầy tớ của nhân dân và

phải cần, kiệm, liêm, chính.

Người lãnh đạo phải có đức cần, phải siêng năng, chăm chỉ, cố gắng

dẻo dai. Có đức cần thì việc gì dù khó khăn mấy cũng làm được như tục ngữ

Page 93: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

có câu "Nước chảy đá mòn", "Kiến tha lâu cũng đầy tổ", dao năng mài thì sắc,

cũng như siêng học thì mau hiểu biết, siêng nghĩ ngợi thì hay có sáng kiến.

Siêng làm và biết làm thì nhất định thành công, siêng hoạt động thì khoẻ

mạnh. Ngược lại với cần là lười biếng. Bệnh lười biếng mà người cán bộ phải

tránh là: "Tự cho mình là cái gì cũng giỏi, việc gì cũng biết. Làm biếng học hỏi,

làm biếng suy nghĩ. Việc dễ thì giành lấy cho mình, việc khó thì đem cho

người khác. Gặp việc nguy hiểm thì tìm cách trốn tránh".

Người lãnh đạo phải nêu gương kiệm, nhất là trong hoàn cảnh nhà còn

nghèo, không được xa xỉ hoang phí. Tuy nhiên, tiết kiệm không phải là bủn

xỉn. Khi không nên tiêu xài thì một hạt gạo, một đồng xu cũng không tiêu. Khi

có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào Tổ quốc thì dù hao bao công, tốn

bao nhiêu của cũng vui lòng. Việc đáng tiêu mà không tiêu là bủn xỉn, dại dột

chứ không phải là kiệm. Người lãnh đạo phải biết tiết kiệm thời giờ, sức lao

động và tiền của của nhân dân. Tiết kiệm là kiên quyết chống xa xỉ. Việc đáng

làm trong một giờ mà kéo đến hai, ba giờ là xa xỉ. Việc đáng tiêu một đồng

mà tiêu hai, ba đồng là xa xỉ. Hao phí vật liệu là xa xỉ. Ăn sang mặc đẹp trong

lúc nhiều đồng bào đang thiếu cơm, thiếu áo là xa xỉ. Vì vậy, xa xỉ là có tội với

Tổ quốc, với đồng bào.

Để được nhân dân kính trọng, người lãnh đạo phải sống liêm khiết,

trong sạch. Giữ được chữ liêm đối với người lãnh đạo không phải là dễ dàng.

Tham tiền, tham của, tham danh đều là bất liêm. Chỉ có một thứ ham là ham

học, ham làm, ham tiến bộ. Ngược lại với liêm là tham ô, là ăn cắp của công

làm của tư, đục khoét nhân dân. Tham ô là trộm cướp, là kẻ thù của nhân

dân. "Muốn được dân tin, dân phục, dân yêu, cán bộ phải tự mình làm đúng

đời sống mới. Nghĩa là phải siêng năng, tiết kiệm, trong sạch, chính đáng.

Nếu không thực hành bốn điều đó mà muốn được lòng dân thì cũng như bắc

dây leo trời". "Lúc này, đồng bào làm đổ mồ hôi, nước mắt, lo tăng gia sản

xuất để giúp Chính phủ, giúp chiến sỹ, một người làm để nuôi mấy người. Lại

có những đồng bào tản cư thiếu thốn mọi mặt.... Vì vậy, ta phải ra sức tiết

kiệm. Hoang phí là một tội ác". "Có tiết kiệm, không hoang phí xa xỉ thì mới

Page 94: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

giữ được liêm khiết, trong sạch. Nếu hoang phí, xa xỉ thì ắt phải tìm cách xoay

tiền. Do đó mà sinh ra hủ bại, nhũng lạm, giả dối, thậm chí làm chợ đen chợ

đỏ, thụt két buôn lậu. Có cần mới kiệm. Có cần, kiệm, liêm mới chính".

Đã cần, kiệm, liêm, người lãnh đạo còn phải thực hiện chính mới là đầy

đủ. Chính nghĩa là không tà, là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân; cái gì

trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân là tà. Người lãnh đạo phải ra sức

phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.

Cần, kiệm, liêm, chính cũng được xem là "đạo đức của người quân

nhân cách mạng". Khi dặn cán bộ, bộ đội chuẩn bị vào tiếp quản thủ đô, Hồ

Chí Minh nói: Muốn giữ vững nhân cách, tránh khỏi hủ hóa, thì phải luôn luôn

thực hiện bốn chữ mà Người thường nói, đó là cần, kiệm, liêm, chính. "Quân

đội phải siêng tập, siêng đánh... binh sỹ phải tiết kiệm đạn dược, mỗi viên đạn

là một tên thù". "Bộ đội có hàng mấy vạn người. Nếu mọi người tiết kiệm một

chút, sản xuất một chút góp lại sẽ thành một con số rất to". "Tướng sỹ trước

trận, đồng bào ở hậu phương, ai nấy đều phải đoàn kết chặt chẽ, cố gắng làm

đúng bốn chữ cần, kiệm, liêm, chính thì cuộc trường kỳ kháng chiến của ta

nhất định vững vàng".

* Đối với các cháu bé

Hồ Chí Minh có lời khuyên:

"Bé thì phải học, lớn thì hành,

Với dân, đảng, nước, dạ trung thành;

Kiệm cần, dũng cảm và liêm chính.

Chớ phụ ông Lương dạy dỗ mình"

Trong thư "Gửi thanh niên và nhi đồng, toàn quốc nhân dịp tết sắp đến"

(1946). Người khuyên các cháu qua năm mới phải xung phong thực hành

"đời sống mới", phải siêng học, siêng làm, phải tiết kiệm.

- Việc nên làm (như ủng hộ kháng chiến, tăng gia sản xuất) thì ta không

chờ ai nhắc nhủ.

Page 95: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

- Việc niên tránh (như tự tư, tự lợi) thì ta không đợi ai ngăn ngừa.

Năm mới, chúng ta phải thực hành đời sống mới để trở nên những

công dân mới, xứng đáng với nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa".

* Đối với phụ nữ

Bác có bài thơ tặng, khuyên thực hiện cần, kiệm, liêm, chính:

“Năm mới Bính Tuất

Phụ nữ đồng bào

Phải gắng làm sao

Xây đời sống mới

Việc thành là bởi

Chúng ta siêng mẫn

Vậy nên chữ cẩn

Ta thực hành trước

Lại phải kiệm ước

Cần, kiệm, liêm, chính”

Tóm lại, Hồ Chí Minh đã sử dụng những khái niệm Cần, Kiệm, Liêm,

Chính, Chí công vô tư của đạo đức phương Đông và đạo đức truyền thống

Việt Nam. Người đã giữ lại những gì tốt đẹp của quá khứ, lọc bỏ những gì

không còn phù hợp và đưa vào những nội dung mới của sự nghiệp giải phóng

dân tộc và xây dựng đất nước. Mỗi chữ cần, kiệm, liêm, chính đều được

Người giải thích rất rõ, cụ thể và dễ hiểu với mọi người. Nếu những phẩm

chất này cần thiết đối với người Việt Nam khi đất nước còn nghèo, còn chiến

tranh thì lại càng cần thiết khi đất nước phát triển, xây dựng hòa bình. Vì đây

không phải chỉ là yêu cầu về đạo đức, mà còn là yêu cầu của chính sự phát

triển kinh tế, ở nước ta hiện nay, những hiện tượng tiêu cực như tham nhũng,

hối lộ, lãng phí của công, lợi dụng chức quyền để tạo cho mình những đặc

Page 96: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

quyền, đặc lợi, lợi dụng sơ hở trong quản lý kinh tế để móc ngoặc, đầu cơ,

buôn lậu, sống xa hoa, trụy lạc... đã trở thành tệ nạn ngày càng phát triển ở

một bộ phận không ít cán bộ, đảng viên. Những vụ án điển hình đã được báo

chí đăng tải rộng rãi và các cơ quan pháp luật đã xét xử hàng tháng trời như

vụ Vũ Xuân Trường; vụ nhà máy dệt Nam Định, Tamexco, Tân Trường Sanh,

Minh Phụng - Epco, phá rừng Tánh Linh... Trong số các bị cáo có những cán

bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất. Nguyên nhân là do xa rời các giá trị đạo

đức cách mạng mà trước hết là các đức tính cần, kiệm, liêm, chính, làm giảm

sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng và đối với chế độ.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban chấp hành Trung ương

Đảng khóa VIII cũng đã nêu: "... Tăng cường giáo dục, rèn luyện phẩm chất

đạo đức, lối sống của cán bộ đảng viên. Các tổ chức Đảng phải thường

xuyên giáo dục, quản lý, kiểm tra cán bộ, đảng viên về đạo đức, lối sống. Cán

bộ, đảng viên phải tự giác rèn luyện đạo đức, lối sống cần, kiệm, liêm, chính,

chí công vô tư; gương mẫu giữ gìn phẩm chất người chiến sỹ cộng sản, đề

cao tinh thần đoàn kết, chống chủ nghĩa cá nhân, chấp hành nghiêm Điều lệ

Đảng và pháp luật Nhà nước...". Cuộc vận động và chỉnh đốn Đảng ngày nay

chính là để thực hiện những lời dạy của Bác Hồ. Trong tình hình hiện nay, khi

đất nước bước vào thời kỳ đổi mới với nền kinh tế thị trường, khi Đảng cầm

quyền, đảng viên đảm nhận tất cả các chức vụ quan trọng, chủ chốt của bộ

máy nhà nước, thì việc rèn luyện phẩm chất đạo đức theo cần, kiệm, liêm,

chính mà Hồ Chí Minh đã dạy là cần thiết. Có cần, kiệm, liêm, chính mới xứng

đáng là đảng viên cộng sản, mới được quần chúng nhân dân tin yêu tín

nhiệm, mới có thể huy động nhân dân làm mọi việc có lợi cho đất nước.

Trong thực tế cuộc sống, ai cũng có nhu cầu nhất định về vật chất và

tinh thần cho bản thân và gia đình. Nhưng nếu không có sự tự điều chỉnh để

nhu cầu hợp lý trở thành những đòi hỏi phi lý và nhu cầu vật chất chính đáng

trở thành ham muốn quá đáng, hơn nữa không còn là phương tiện mà trở

thành mục đích, dục vọng của cuộc sống thì con người sẽ thoái hóa, biến

chất nhanh chóng. Vì thế, khi đã trau dồi các đức tính cần, kiệm, liêm, chính

Page 97: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

trở thành những phẩm chất tự nhiên của mình thì con người sẽ có khả năng

tự điều chỉnh nhu cầu và hành vi của mình một cách hợp đạo đức. Người cán

bộ cách mạng phải luôn trực diện giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến lợi

ích, nếu xa vời các đức tính ấy rất dễ bị sa ngã, hủ bại.

* Về Chí công vô tư

"Chí công vô tư" trong gốc chữ Hán còn gọi là "Đại công vô tư", là một

khái niệm luân lý đạo đức được khái quát lên từ ý nghĩ và hành động của con

người hết lòng vì sự nghiệp chung của xã hội, không quản đến sự riêng tư

của mình, đồng thời đó cũng là một phẩm chất đạo đức mà xã hội yêu cầu có

ở con người có chức trách trong chính quyền. "Chí công vô tư" đối lập với

"Chiếm công vi tư" là hành vi lạm dụng, chiếm đoạt, lấy cắp của công để làm

của riêng, thu lợi cho cá nhân mình; là một biểu hiện có tính bản chất của tệ

tham nhũng. Ngay từ cuối thời kỳ xã hội công xã nguyên thủy, chiếm công vi

tư là một trong những nguyên nhân làm cho xã hội loài người phân chia thành

kẻ giàu, người nghèo, phân chia thành giai cấp đối kháng.

Ở nước ta, dưới chế độ cũ, hàng ngũ quan lại lừ triều đình đến tỉnh

huyện và bọn cường hào ở xã thôn đã dùng quyền hành và mưu chước

chiếm đoạt nhiều tài sản của xã hội, của nhân dân để làm giàu. Thủ đoạn

chiếm công vi tư đã bị nhân dân ta vạch trần:

"Trống chùa ai đánh thì thùng

Của chung ai khéo vẫy vùng làm riêng".

Do "khéo vẫy vùng" biến của chung thành của riêng, bọn quan lại,

cường hào đã đủ "vinh thân, phì gia".

Hồ Chí Minh đã kế thừa khái niệm Chí công vô tư. Có lúc Người dùng

riêng, có lúc Người dùng chung với cụm từ "Cần, kiệm, liêm, chính" thành

"Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư".

Hồ Chí Minh xem chí công vô tư là đạo đức của người cách mạng.

Người nói: Anh hùng liệt sỹ là những người "đã vì dân, vì Đảng mà oanh liệt

hy sinh, đã nêu gương chói lọi của đạo đức cách mạng chí công vô tư cho tất

Page 98: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

cả chúng ta học tập". Người cũng xem chí công vô tư là đạo đức của con

người xã hội chủ nghĩa. Người nói: "Con người xã hội chủ nghĩa là con người

có đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, một lòng một dạ phục vụ

nhân dân, phục vụ cách mạng". "Đem lòng chí công vô tư mà đối với người,

với việc. Ham làm những việc ích quốc lợi dân, không ham địa vị và công

danh, phú quý. Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ mình trước, khi hưởng

thụ thì mình nên đi sau".

Tóm lại, ở Hồ Chí Minh, chí công vô tư có nghĩa là hết lòng vì sư

nghiệp của cách mạng, của nhân dân, không tính toán đến sự được mất của

cá nhân.

Trong những năm chiến tranh giải phóng dân tộc, trong tác phẩm "Sửa

đổi lối làm việc", để giáo dục cán bộ đảng viên, Hồ Chí Minh đã viết: "Người

đảng viên, người cán bộ muốn trở nên người cách mạng chân chính, không

có gì là khó cả. Điều đó hoàn toàn do lòng mình mà ra. Lòng mình chỉ biết vì

Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào thì mình sẽ tiến đến chỗ chí công vô tư, mình

đã chí công vô tư thì khuyết điểm sẽ càng ngày càng ít, mà những tính tốt

như sau ngày càng thêm". "Nói tóm tắt, tính tốt ấy gồm có năm điều: nhân,

nghĩa, trí, dũng, liêm". Người nêu rõ: "Trong Đảng ta còn có những người

chưa học được, chưa làm được bốn chữ "chí công vô tư", cho nên mắc phải

chứng chủ nghĩa cá nhân".

Nói về tư cách và bổn phận của người đảng viên, Người đòi hỏi mỗi

đảng viên, trước hết là mỗi cán bộ phải thật thà tự phê bình, tự sửa chữa

những khuyết điểm của mình. Đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết.

Kiên quyết chống bệnh tự mãn, tự túc, tự tư, tự lợi, kiêu ngạo, ba hoa. Phải

thực hiện khẩu hiệu "Chí công vô tư, cần kiệm liêm chính".

Đối với các cán bộ ủy ban địa phương, Người nhắc nhở: "Muốn cho

dân yêu, muốn được lòng dân, việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì

có hại cho dân phải hết sức tránh. Phải chú ý giải quyết hết các vấn đề, dù

khó đến đầu mặc lòng, những vấn đề quan hệ tới đời sống của dân... Phải đặt

quyền lợi của dân trên hết thảy, phải có một tinh thần chí công vô tư". "Các

Page 99: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

đồng chí phải theo sát hoàn cảnh, đi sát với dân chúng. Phải đem cả lòng vì

nước, vì dân, chí công vô tư, cần kiệm liêm chính mà làm cho ba tỉnh ta mau

tiến bộ". Trong thư gửi Hội nghị tư pháp toàn quốc (1948), Người nhắc nhở:

"Các bạn là những người phụ trách thi hành pháp luật. Lẽ tất nhiên các bạn

cần phải nêu cao cái gương "Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư" cho nhân

dân noi theo". Đối với cán bộ kinh tế tài chính phụ trách nhiều tiền của của

nhân dân: "Phải trau dồi đạo đức cách mệnh: chí công vô tư, cần kiệm liêm

chính. Một lòng một dạ phụng sự tổ quốc, phụng sự nhân dân, phụng sự

kháng chiến. Dùng cách thật thà tự phê bình và phê bình, để tẩy trừ những

thói tham ô lãng phí và bệnh quan liêu, để cùng nhau liến bộ".

Trong cách dùng người, dùng cán bộ, Hồ Chí Minh đòi hỏi người lãnh

đạo phải có một lấm lòng "độ lượng", phải "chí công, vô tư", phải có tinh thần

rộng rãi để gần gũi người mình không ưa, kiên trì giúp đỡ người kém, phải có

bản lĩnh vững vàng, tránh sự bao vây cơ hội, phải vui vẻ thân mật để đồng chí

dễ gần... Không có thành kiến khiến cho cán bộ khỏi bị bỏ rơi, không để cán

bộ có ý hoang mang, sợ hãi, buồn rầu, uất ức. Lãnh đạo khéo dùng người thì:

"tài nhỏ có thể hóa ra tài to. Lãnh đạo không khéo tài to cũng hóa ra tài nhỏ".

Trên đây là những tư tưởng, quan điểm có tính định hướng trong cách dùng

cán bộ của Hồ Chí Minh.

Chí công vô tư trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay được hiểu với

nghĩa là quyền lợi và nghĩa vụ của mọi người bao giờ cũng gắn với xã hội,

không tách rời, cô lập một cách tuyệt đối khỏi lợi ích xã hội. Hoạt động của cá

nhân phải trên cơ sở nền tảng của xã hội, vì xã hội trong đó có quyền lợi trực

tiếp của bản thân mình. Trong từng nhiệm vụ cụ thể, mọi người phải đặt lợi

ích chung của tập thể, của quốc gia, của dân tộc lên trên lợi ích cá nhân

mình. Cán bộ, đảng viên không được vì quyền lợi (nhất là quyền lợi không

chính đáng) của riêng bản thân mình mà vi phạm đến lợi ích tập thể, lợi ích

quốc gia... Chí công vô tư với nghĩa như vậy vẫn phải là nội dung giáo dục và

xây dựng đạo đức mới cho cán bộ, đảng viên.

6. Trí - Dũng

Page 100: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

* Phạm trù Trí

Khổng Tử người sáng lập ra đạo nho rất trọng “trí”, nên trong sách

Luận ngữ chữ “trí” được đề cập khá nhiều ở những tình huống khác nhau.

Theo Khổng Tử thì: “Trí được hiểu là sự minh mẫn, sáng suốt của con người

để có thể phân biệt được kẻ chính, người tà”; gần người nhân đức, ghét kẻ tà

ác; theo lẽ phải làm việc nghĩa không mê tín một cách mù quáng, “trí là biết

người”.

Trí phải gắn liền với nhân, nghĩa - người nhân phải là người có trí, trí

tuệ có minh mẫn sáng suốt thì có thể mới hiểu biết được đạo lý, xét đoán

được sự việc, phân biệt được chính tà, thi hành được điều nhân.

Muốn có trí thì phải học, vì trí không phải tự nhiên mà có, nó là cả một

quá trình học hỏi không ngừng, không học thì dù thiện tâm đến đâu cũng bị

cái ngu dốt, cái lầm lạc biến chất. Cho nên, muốn trở thành người có nhân thì

phải học. Chính Khổng Tử là người đã nêu tấm sương sáng về sự hiếu bọc:

“học mà không chán, dạy người mà không mỏi” (Luận ngữ - Thuật nhi - 2).

Nhưng học những gì? Khổng Tử chỉ đóng khung trí trong việc học tập sách

vở của ông, học tập những lời nói và việc làm của cổ nhân, những điều trung

hiếu, nhân nghĩa, lễ, trí, tín... nên những người đào tạo thiếu tri thức khoa học

để vận dụng vào thực tiễn như lao động sản xuất, lý giải về thiên nhiên...

Kế thừa tư tưởng của Khổng Tử, Mạnh Tử cũng đề cao trí nhưng phát

triển nó theo chiều hướng duy tâm. Mạnh Tử cho rằng con người ta sinh ra ai

cũng có năng lực nhận biết phải trái, lòng biết phải trái là đầu mối của điều trí,

theo ông có những việc người ta không cần học mà cũng làm được gọi là

“lương năng” và có những điều người ta không cần suy nghĩ cũng biết gọi là

“lương tri”. Tất cả những điều nhân, nghĩa, lễ, trí không phải do từ bên ngoài

đem lại cho ta mà ở trong con người của ta vốn có sẵn những điều đó.

Mạnh Tử rất coi trọng người lao động trí óc, ông cho vạn nghề đều

kém, chỉ có nghề đọc sách là cao quý và ông cho rằng người lao tâm là người

đáng quý và sẽ trị người lao lực, người lao lực bị người trị, kẻ bị người trị thì

nuôi người, kẻ trị người thì được người nuôi. “Nếu không có người quân tử

Page 101: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

lấy ai trị kẻ thôn quê, nếu không có người thôn quê, lấy ai nuôi người quân

tử”. Quan niệm này thực chất là bảo vệ quyền lợi cho giai cấp thống trị, coi

khinh nhân dân lao động, coi thường lao động chân tay. Theo Mạnh Tử đối

với người cầm quyền thì phải có ba đức không thể thiếu là: Nhân, lễ, trí, nếu

không đủ những đức đó thì dân chẳng những không tin mà còn không phục.

“Trí” trong tác phẩm Hồ Chí Minh có nội dung là: “Không có việc tư túi

nó làm mù quáng, cho nên đầu óc trong sạch, sáng suốt, dễ hiểu lý luận, dễ

tìm phương hướng, biết xem người, biết xét việc. Vì vậy mà biết làm việc có

lợi, tránh việc có hại cho Đảng, biết vì Đảng mà cất nhắc người tốt, đề phòng

người gian”.

Vận dụng chữ Trí trong đạo làm tướng của Nho giáo khi nói chuyện với

các cán bộ trong quân đội, Hồ Chí Minh giảng giải: “Trí là sáng suốt, biết địch,

biết mình, biết người tốt thì nâng đỡ, biết người xấu thì không dùng, biết cái

tốt của mình mà phát triển lên, biết cái xấu của mình để mà tránh”. “Trí là phải

có óc sáng suốt để nhìn mọi việc, để suy xét địch cho đúng”. Biết được thiên

thời, địa lợi, nhân hoà là thuộc về trí của người làm tướng. “Thiên thời không

quan trọng bằng địa lợi, mà địa lợi không quan trọng bằng nhân hoà. Nhân

hoà là quan trọng hơn hết”, “Nhân hoà là tất cả mọi người đều nhất trí”. Muốn

đạt được “nhân hoà”, Hồ Chí Minh nhắn nhủ người làm tướng rằng “có đồng

cam cộng khổ với binh sỹ thì khi dẫn họ đi đâu, dù nguy hiểm mấy họ cũng

vui lòng đi, khi bảo họ đánh họ sẽ hăng hái đánh”. Có đồng cam cộng khổ thì

mới có đồng tâm nhất trí, tức “nhân hoà”. Nhân hoà là biểu tượng của nhân trí

dũng liêm.

Trong Di chúc, Hồ Chí Minh nhắc nhở đến việc giáo dục cho thế hệ

tương lai đạo đức cách mạng “vừa hồng, vừa chuyên”. “Hồng” và “chuyên” có

nghĩa là đạo đức phải gắn liền với trí tuệ, tuy nhiên giữa hai cái đó thì đạo

đức vẫn là gốc; nói cách khác, người có đạo đức là người trí tuệ, còn người

có trí tuệ chưa hẳn là người đạo đức. Vì vậy, một trong những yêu cầu rèn

luyện đạo đức cách mạng là phải học tập, trước hết là học tập lý luận Mác-

Lênin, lý luận phải đem ra thực hành, thực hành phải nhằm theo lý luận. Hồ

Page 102: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Chí Minh cho rằng không chịu học tập hoặc học tập qua loa, hình thức, học

để trang sức, chứ không để vân dụng vào công việc cách mạng, đó cũng là

chủ nghĩa cá nhân. Trong bài: “Đạo đức cách mạng” Hồ Chí Minh viết: “Cách

mạng tiến lên mãi, Đảng tiến lên mãi, cho nên người cách mạng cũng phải

tiến lên mãi”.

* Về phạm trù Dũng.

Sách “Luận ngữ” có tới 16 chỗ nói tới “dũng”. “Dũng” ở đó có nghĩa là

không sợ “Dũng giả bất cụ” (Người có dũng thì không sợ sệt), có nghĩa là

dám làm việc nghĩa: “Kiến nghĩa bất vi vô dụng giả” (Thấy việc nghĩa mà

không làm thì không phải là dũng).

Dũng theo quan niệm của Khổng Tử là lòng can đảm, là sức mạnh để

làm chủ tình thế, dám xả thân vì nhân nghĩa chứ không ỷ vào sức mạnh, vào

bạo lực mà hành động tàn ác, bất chấp đạo lý như bọn bạo chúa, bạo thần,

tặc tử đã làm. Khổng Tử yêu cầu mọi người phải đạt được ba đức tính toàn

vẹn của con người là trí, nhân, dũng. Theo Khổng Tử, biết được ba điều ấy

thì biết cách để sửa mình, sửa người và sửa thiên hạ (Trung dung).

Khổng Tử đặt dũng trong mối quan hệ với trí là nhân, muốn hành động

dũng cảm phải gắn liền với tình cảm sâu sắc goị là nhân và thôi thúc bởi một

tính tự giác gọi là trí. Theo ông, người có dũng chưa hẳn đã có lòng nhân,

song người có nhân không thể thiếu dũng. Ông nói: "Người có nhân thì có

lòng dũng cảm, người dũng cảm chưa chắc đã có nhân” (Luận ngữ). Người

nhân có dũng không phải là người thấy được cái ác mà không ra tay trừng trị,

thấy người gặp nạn mà bó tay ngồi nhìn để được yên thân, Người nhân có

dũng sẽ sẵn sàng hành động vì đại nghĩa, vì lẽ công bằng, thà: “Vì nhân mà

sát thân chứ không vì giữ mạng sống của mình mà hại đến đức nhân” (Luận

ngữ).

Nghiên cứu nội dung phạm trù “Dũng” của Khổng tử ta có thấy những

nhân tố hợp lý. Chữ “dũng" để chỉ những hành động táo bạo, hy sinh, không

sự khó khăn, gian khổ, bởi vậy mọi giai cấp đều quan tâm đến chữ “dũng”, ca

ngợi những con người dũng cảm, bảo vệ cho lợi ích của giai cấp mình. Dưới

Page 103: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

thời phong kiến đã có nhiều tấm gương được ca ngợi về hành động dũng

cảm vì nghĩa trung quân: Giới Tử Thôi xẻo thịt đùi nấu cháo cho vua. Dự

Nhượng nuốt than báo thù cho chủ, Phàn Ô Kỳ tự dâng đầu mình, Yêu Ly giết

vợ con và chặt tay để chết cho chủ... Tư tưởng hết lòng thờ vua, chúa đã ăn

sâu vào mọi tầng lớp trong xã hội phong kiến.

Dân tộc ta suốt mấy nghìn năm lịch sử đã từng phát huy những nhân tố

hợp lý của chữ “dũng” để chống giặc ngoại xâm phong kiến phương Bắc và

đế quốc Pháp, Mỹ sau này, giữ vững nền độc lập cho dân tộc.

“Dũng” trong tác phẩm Hồ Chí Minh có nghĩa là "dũng cảm, gan góc,

gặp việc phải có gan làm, thấy khuyết điểm cỏ gan sửa chữa, cực khổ khó

khăn có gan chịu đựng, có gan chống lại những sự vinh hoa, phú quý không

chính đáng. Nếu cần, có gan hy sinh cả tính mệnh cho Đảng, cho Tổ quốc,

không bao giờ rụt rè, nhút nhát”.

Hồ Chí Minh không chỉ nêu yêu cầu “có gan” sửa lỗi mình đối với từng

người mà vận dụng vào thời đại ngày nay, Người còn nêu chung đối với cả

Đảng ta: "Nói về Đảng, một Đảng mà dấu giếm khuyết điểm của mình là một

Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ

những cái đó, vì đâu mà có những khuyết điểm đó, xét hoàn cảnh sinh ra

khuyết điểm đó, rồi tìm mọi cách sửa chữa khuyết điểm đó, như thế mới là

một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu người cán bộ quân sự phải có dũng,

“Dũng là phải mạnh dạn, quả quyết nhưng không phải làm liều. Phải có kế

hoạch, rồi kiên quyết làm ngay. Nguy hiểm cũng phải làm. Nghĩa là phải có

lòng dũng cảm trong công việc”. "Dũng là không được nhút nhát, phải can

đảm, dám làm những việc đáng làm, dám đánh những trận đáng đánh".

Dũng cảm là đức tính hàng đầu của người cán bộ quân sự. Nếu không

có đức tính ấy không thể hoàn thành nhiệm vụ chỉ huy bộ đội đánh giặc, kiên

quyết tiến công, chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng.

* * *

Page 104: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Nhà thơ Viên Ưng (Trung Quốc) đã viết về Hồ Chí Minh: “Người là bậc

đại trí, đại nhân, đại dũng”. Người đã phát huy truyền thống đạo đức phương

Đông là trí, nhân, dũng trên cơ sở hoàn toàn mới. Cơ sở hoàn toàn mới đó

chính là sự nghiệp cách mạng vĩ đại của nhân dân ta, của chủ nghĩa Mác -

Lênin, tư tưởng tiên tiến của thời đại. Theo quan niệm mới của chúng ta hiện

nay, không có trí nào sáng suốt bằng chủ nghĩa Mác-Lênin, không có nhân

nào rộng lớn bằng tình cảm của giai cấp công nhân và không có dũng nào

mãnh liệt bằng hành động của người chiến sỹ cộng sản.

II. NHẬN XÉT CHUNG VỀ CÁC PHẠM TRÙ ĐẠO ĐỨC MÀ HỒ CHÍ MINH ĐÃ SỬ DỤNG

Trước hết, có thể nói rằng, cuộc cách mạng mà Hồ Chí Minh đã thực

hiện trên lĩnh vực đạo đức được thể hiện trong toàn bộ tư tưởng đạo đức của

Người, cũng như trong các phạm trù đạo đức mà Người đã sử dụng.

Trong khi khẳng định Hồ Chí Minh là người đã thực hiện các cuộc cách

mạng trên lĩnh vực đạo đức ở nước ta và Người đã sử dung các phạm trù để

trình bày tư tưởng đạo đức của mình, chúng tôi không có ý nói rằng Hồ Chí

Minh là một nhà đạo đức học.

Dưới ánh sáng của thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa

Mác - Lênin nói chung, cũng như của các tư tưởng về đạo đức cộng sản chủ

nghĩa, Hồ Chí Minh đã kế thừa một cách biện chứng tinh hoa tư tưởng truyền

thống của dân tộc cũng như của nhân loại, trong đó có các phạm trù đạo đức

truyền thống. Người không có ý định nghiên cứu đạo đức như nhà đạo đức

học, mà chỉ đưa nội dung tư tưởng cách mạng vào các phạm trù đạo đức

truyền thống sao cho thích hợp với các đối tượng giáo dục rèn luyện cụ thể

trong những hoàn cảnh không gian và thời gian cụ thể.

Mục đích mà Người nhằm không phải là giải quyết các vấn đề của đạo

đức học, mà là giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho các chiến sĩ yêu

nước nói riêng và cho nhân dân ta nói chung, để tiến hành cuộc cách mạng

dân tộc dân chủ nhân dân rồi tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất

Page 105: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

nước ta. Hồ Chí Minh đã kế thừa các phạm trù đạo đức truyền thống như:

trung, hiếu, nhân, nghĩa, trí, dũng, v.v.

Trong khi kế thừa các phạm trù của tư tưởng đạo đức truyền thống, Hồ

Chí Minh đã loại bỏ các phạm trù tiêu cực, lạc hậu trong thời đại mới. Chẳng

hạn, Người không bao giờ đề cập đến các phạm trù tam cương, tam tòng...

Người cũng không sử dụng phạm trù "công đức" mà thế hệ hai cụ Phan đã

sử dụng nhưng chưa được xác lập vững chắc. Mặt khác, Người đã bổ sung

vào hệ thống các phạm trù truyền thống một số phạm trù mới, là "đạo đức

cách nạng."

Cuộc cách mạng mà Hồ Chí Minh đã thực hiện trên lĩnh vực đạo đức

được thể hiện trong toàn bộ tư tưởng đạo đức của Người, cũng như trong

các phạm trù đạo đức mà Người sử dụng.

Dưới ánh sáng thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác -

Lênin nói chung, của tư tưởng về đạo đức cộng sản chủ nghĩa nói riêng, có

thể khẳng định, Hồ Chí Minh đã kế thừa một cách biện chứng tinh hoa tư

tưởng truyền thống dân tộc cũng như của nhân loại, trong đó có các phạm trù

đạo đức truyền thống. Người không có ý định nghiên cứu đạo đức như nhà

đạo đức học, mà chỉ đưa nội dung tư tưởng cách mạng vào các phạm trù đạo

đức truyền thống, đồng thời cải tạo các phạm trù đó sao cho thích hợp với

yêu cầu và hoàn cảnh xã hội mới.

Những phạm trù đạo đức mà Hồ Chí Minh sử dụng là một hệ thống

xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam, từ giải phóng dân tộc đến xây

dựng đất nước. Do mỗi giai đoạn có mục tiêu cụ thể, nhất là giai đoạn hiện

nay, khi đất nước đứng trước những thử thách và thời cơ mới, vấn đề đạo

đức cách mạng cũng cần phải được quán triệt trên tinh thần đổi mới nhận

thức cho phù hợp với yêu cầu của giai đoạn cách mạng hiện nay.

Page 106: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Chương 3. VẤN ĐỀ KẾ THỪA TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

I. GIÁ TRỊ CÓ Ý NGHĨA CHIẾN LƯỢC CỦA TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH TRONG THỰC TIỄN CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của

Đảng, nhân dân ta đã "quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn" và

đã dành được toàn thắng. Đế quốc Mỹ đã phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta

đã được thống nhất. Đồng bào Nam Bắc đã sum họp một nhà. Nhân dân ta

đã góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc và phong trào

cách mạng thế giới.

Làm theo lời dạy của Hồ Chí Minh, cả một phong trào thi đua yêu nước

rộng lớn của nhân dân ta đã dâng lên mạnh mẽ trên cả nước. Trong thanh

niên, đó là phong trào "Ba sẵn sàng". Trong phụ nữ là phong trào "Ba đảm

đang". Trong nông dân là phong trào "Vững tay cày, chắc tay súng". Trong

ngành giáo dục là phong trào "Thi đua dạy tốt và học tốt". Trong thiếu nhi là

phong trào "Cháu ngoan Bác Hồ, thực hiện năm điều Bác Hồ dạy". Trong

quân đội là phong trào "Trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng

hoàn thành...". Trong toàn dân, ở miền Bắc là phong trào "Mỗi người làm việc

bằng hai để đền đáp cho đồnc bào miền Nam ruột thịt", ở miền Nam đó là

phong trào toàn dân "Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào".

Thắng lợi lịch sử năm 1975 cũng là thắng lợi lịch sử của tư tưởng đạo

đức Hồ Chí Minh được các thế hệ Việt Nam yêu nước và cách mạng thấm

nhuần, đưa vào thực tiễn suốt hơn nửa thế kỷ đấu tranh đầy gian khổ, khó

khăn, phải vượt qua muôn trùng thử thách của tù đày, máy chém, trong, đó có

30 năm đấu tranh ác liệt chống lại và đánh bại hai đế quốc lớn mạnh.

Từ sau ngày đất nước được độc lập, thống nhất đến nay, thấm nhuần

tư tưởng "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" nhân dân ta tiếp tục hy sinh,

chiến đấu giữ vững biên giới phía Bắc và phía Tây Nam, giúp nhân dân

Page 107: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng và làm nghĩa vụ quốc tế của mình. Các

cán bộ, chiến sỹ trong các lực lượng vũ trang và an ninh đã và đang kiên

cường canh giữ từng tấc đất, biển trời của Tổ quốc, nêu cao những phẩm

chất đạo đức cách mạng của "anh bộ đội cụ Hồ", dù còn tại ngũ hay đã về

hưu. Gắn bó với họ, là các bà mẹ Việt Nam anh hùng và những người vợ

thuỷ chung, cao cả, đảm việc nước, giỏi việc nhà, trong đó có những người

đã chờ chồng suốt cả tuổi xuân, nay lại vẫn âm thầm nuôi dưỡng thương

binh.

Mấy năm gần đây, phong trào đền ơn đáp nghĩa mà hơn 30 năm trước

đây chính Hồ Chí Minh từng gợi ý rằng: "Đối với những người con trung hiếu

ấy, Chính phủ và đồng bào phải báo đáp thế nào cho xứng đáng", đã được

hưởng ứng sâu rộng. Từ 15/5/1992 (ngày ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam phát động phong trào) đến nay, trong cả nước đã trao tặng

nhiều chục ngàn ngôi nhà tình nghĩa và nhiều chục ngàn sổ tiết kiệm mà tổng

số tiền lên đến nhiều chục tỷ đồng. Như vậy, truyền thống đạo đức "Ăn quả

nhớ kẻ trồng cây" vẫn bền vững.

Từ khi phong trào cứu giúp nhũng người bất hạnh ra đời đã nở rộ

những "tấm lòng từ thiện" trên khắp mọi miền đất nước, kể cả trong đồng bào

Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài. Như vậy, có thể nói, truyền thống

đạo đức "thương người như thể thương thân" vẫn được duy trì.

Từ khi chúng ta tiến hành công cuộc Đổi mới đến nay, trước sự cám dỗ

của đồng tiền và hàng tiêu dùng cao cấp, trong sự chênh lệch một trời một

vực về mức thu nhập và mức sống so với những kẻ làm giàu không chính

đáng - buôn lậu, tham nhũng, hàng chục triệu công nhân viện chức, cán bộ và

chiến sỹ vẫn giữ gìn đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, người thì

vững vàng trên tuyến đầu Tổ quốc hay trên mặt trận an ninh, người thì lao

động quên mình trên các công trường và làm nên những kỳ công sáng chói

như các nhà máy thủy điện, các công trình dầu khí, đường dây tải điện 500

kw, năng suất, sản lượng nông nghiệp và các thành quả trên mặt trận văn

hóa, khoa học và giáo dục.

Page 108: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Đã xuất hiện nhiều tấm gương anh dũng hy sinh xương máu và tính

mệnh cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong nhân dân. Đã xuất hiện những tấm

gương bất khuất, kiên quyết và kiên trì đấu tranh chống bọn lâm tặc, bọn

buôn lậu, bọn tội phạm và những kẻ có chức có quyền thoái hoá, tiếp tay cho

chúng. Rõ ràng, từ sau khi Hồ Chí Minh qua đời cho đến hôm nay, lĩnh vực

đạo đức mà Hồ Chí Minh và Đảng ta đã dầy công chăm chút vẫn góp phần

quan trọng trong mỗi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Trong Di chúc, Hồ Chí Minh đã căn dặn Đảng phải một lòng một dạ

phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, "phải xứng đáng là

người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân", phải "giữ gìn

Đảng ta thật trong sạch", "giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn

con ngươi của mắt mình", "phải có tình đồng chí yêu thương nhau", phải

"thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và

phê bình", "mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách

mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư".

Thực hiện lời dạy thiêng liêng của Người, Đảng đã giữ vững được đạo

đức cách mạng của bản thân trước những thử thách khắc nghiệt của lịch sử

sau khi chiến thắng hoàn toàn đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của nó. Trước hết

là thử thách của căn bệnh "kiêu ngạo cộng sản" do vinh quang của chiến

thắng mang lại, đã giữ vững đức tính khiêm tốn mà cứ sau mỗi thắng lợi Hồ

Chí Minh lại nhắc nhở. Tiếp đó, Đảng ta đã vượt qua thử thách của tình hình

khủng hoảng, đứng bên bờ vực thẳm của nền kinh tế - xã hội bên trong đất

nước và trước sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu.

Đọc lại những lời dạy bảo và việc làm của Hồ Chí Minh, những điều

Người nói về Đảng trong Di chúc, chúng ta bỗng cảm thấy dường như Người

đã nhìn thấu tương lai, thấy trước nguy cơ mà các Đảng Cộng sản cầm

quyền có thể mắc phải.

Đối chiếu với lời dạy của Người và với tình hình đen tối đã xảy ra tại

một số Đảng anh em, chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định rằng: Nền tảng

đạo đức mà Hồ Chí Minh xây dựng, và vun đắp trọn đời đã tạo cho Đảng ta

Page 109: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

một nền tảng vững chắc, dẫu rằng hiện tượng suy thoái đạo đức trong Đảng

là có thật. May sao, nhờ có nền tảng đạo đức vững chắc - công lao này trước

hết thuộc về Hồ Chí Minh và toàn Đảng - Đảng ta đã vượt qua được các thử

thách hết sức cam go, đã lấy dân làm gốc, giữ vững được đoàn kết nội bộ...

Tóm lại, Đảng ta đã giữ vững được bản chất cách mạng và khoa học của

mình.

Thắng lợi bước đầu quan trọng của sự nghiệp đổi mới có nhiều nguyên

nhân mà mỗi nguyên nhân ấy đều cần phải được phân tích đầy đủ. Tuy

nhiên, có thể nói một cách khái quát rằng thắng lợi ấy được bắt đầu từ việc

Đảng ta đã thực hiện một sự tự phê bình nghiêm túc mà nội dung cơ bản là

từ bỏ tư duy cũ và xác lập tư duy mới về chủ nghĩa xã hội, công khai thừa

nhận sai lầm, khuyết điểm, kể cả những sai lầm có liên quan đến đường lối

cách mạng. Một sự tự phê bình như vậy vừa là một sinh hoạt chính trị mác xít

vừa là một hành vi đạo đức cách mạng phù hợp với Di chúc của Chủ tịch Hồ

Chí Minh. Chính vì kiên định đi theo ngọn cờ của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư

tưởng Hồ Chí Minh mà từ khi ra đời đến nay, Đảng ta đã vượt qua được

muôn trùng khó khăn gian khổ, bao giờ cũng vươn lên ngang tầm đòi hỏi của

thực tiễn cách mạng, đoàn kết được toàn thể dân tộc chung quanh khối liên

minh công nông, tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của các nước anh em, bè

bạn và nhân dân toàn thế giới, đánh thắng tất cả mọi kẻ thù, hoàn thành một

cách hết sức vẻ vang các nhiệm vụ mà lịch sử trao cho. Tóm lại, Đảng ta và

duy nhất chỉ có Đảng luôn luôn xứng đáng, mãi mãi xứng đáng là người lãnh

đạo của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam.

Như vậy, cần phải tiếp tục sự nghiệp giáo dục và rèn luyện đạo đức

cho mỗi con người, mỗi đảng viên, và cho toàn Đảng. Đó là sự nghiệp của Hồ

Chí Minh và Đảng từng bền bĩ thực hiện trong hơn nửa thế kỷ vừa qua. Sự

nghiệp này không phải là biện pháp tình thế mà là một nhiệm vụ cơ bản, tất

yếu, phải làm thường xuyên. Trong tình hình có biểu hiện suy thoái đạo đức

phổ biến hiện nay, nó càng có tính cấp bách.

Page 110: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

II. TÌNH TRẠNG SUY THOÁI ĐẠO ĐỨC TRONG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY

Khẳng định bản chất cách mạng và khoa học của tư tưởng đạo đức Hồ

Chí Minh, chúng ta đồng thời liên hệ với tình hình hiện nay ở nước ta. Chúng

ta cần phải thấy hết các khuyết điểm về phương diện đạo đức trong xã hội,

trong cơ quan nhà nước, trong cán bộ đảng viên hiện nay. Lần theo sự đánh

giá của các Đại hội Đảng, từ Đại hội lần thứ IV đến nay, chúng ta có thể có

những nhận định khái quát về vấn đề này.

1. Sự đánh giá của Đảng về đạo đức xã hội qua các thời kỳ

Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung Ương Đảng tại Đại hội lần

thứ IV cho thấy rằng cùng với khí phách anh hùng trong chiến lược tấn công,

cùng với các thắng lợi của cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975,

cùng với niềm tự hào chính đáng và niềm vui vô tận là một tình hình có thể

nói là tốt đẹp về mặt đạo đức. Các khuyết điểm được đề cập đến chỉ là: "Cần

nhấn mạnh một khuyết điểm nặng trong quản lý kinh tế là lối quản lý quan

liêu, hành chính, xem nhẹ hiệu quả, năng suất và chất lượng.... Báo cáo cũng

đã dùng cụm từ "những biểu hiện tiêu cực" trong câu "công tác tư tưởng thiếu

sắc bén, chưa phê phán kịp thời những biểu hiện tiêu cực". Cụm từ "các mặt

tiêu cực" cũng đã được dùng khi nói về tình hình xây dựng Đảng: "việc tự phê

bình và phê bình để ngăn ngừa và đấu tranh chống các mặt tiêu cực chưa

được thực hiện đúng mức". Cũng đã có tín hiệu cho thấy rằng vào thời điểm

1976, khi diễn ra đại hội lần thứ IV của Đảng, cũng đã có những đảng viên

thoái hoá, biến chất: "... Mặt khác, phải kiên quyết và kịp thời loại ra khỏi

Đảng những phần tử thoái hoá, biến chất, những kẻ đã mất hết tinh thần

chiến đấu cách mạng, những phần tử chui vào Đảng để mưu lợi ích riêng,

những kẻ lợi dụng chức quyền để ức hiếp quần chúng, xâm phạm tài sản xã

hội chủ nghĩa, những kẻ chia rẽ, bè phái". Tóm lại, qua câu chữ và cách thức

mà báo cáo chính trị đề cập đến, tình hình đạo đức trong xã hội cũng như

trong cán bộ, đảng viên tuy có điểm này điểm khác cần phải lưu ý để chấn

chỉnh, nhưng chưa phải là nghiêm trọng.

Page 111: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Đến Đại hội V, tính từ "kéo dài" đã được thêm vào cụm từ "những biểu

hiện tiêu cực" trong câu "trong đời sống kinh tế, văn hoá, trong nếp sống và

an toàn xã hội, có những biểu hiện tiêu cực kéo dài". Thực tế của các biểu

hiện tiêu cực ấy không còn chỉ là "những phần tử" (thuật ngữ mà báo cáo

chính trị tại Đại hội IV sử dụng) mà đã là "một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể

cả một số cán bộ phụ trách ở các cấp, các ngành". Hơn nữa, trong bộ phận

cán bộ, đảng viên sa vào các biểu hiện tiêu cực còn có cả một số cán bộ

trung, cao cấp: "Thời gian qua, trong lúc cả đội ngũ đông đảo tiến lên phấn

đấu quên mình vì sự nghiệp cao cả của Đảng, của Tổ quốc thì một bộ phận

cán bộ, đảng viên sa sút phẩm chất. Điều đáng chú ý là trong bộ phận ấy đã

có một số cán bộ cấp cao và cấp trung, những đảng viên đã lăn lộn nhiều

năm trong đấu tranh chống địch, kể cả từ trước Cách mạng tháng Tám và

trong kháng chiến chống Pháp".

Tính từ Đại hội Đảng lần thứ IV đến Đại hội Đảng lần thứ VI, nước ta

đã trải qua 10 năm xây dựng trong hoà bình với chế độ bao cấp kéo dài,

khủng hoảng sâu sắc về mặt kinh tế, xã hội. Từ đó, đạo đức xã hội, trong đó

có đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên có hiện tượng suy thoái thêm

một bước nữa so với tình hình mà Đại hội Đảng lần thứ VI đã ghi nhận: "Vấn

đề đạo đức xã hội đang được đặt ra một cách cấp bách. Trong xã hội ta đang

diễn ra cuộc đấu tranh giữa hai lối sống: lối sống có lý tưởng, lành mạnh,

trung thực, sống bằng lao động của mình, có ý thức tôn trọng và bảo vệ của

công, chăm lo lợi ích của tập thể và của đất nước, với lối sống thực dụng, dối

trá, ích kỷ, ăn bám, chạy theo đồng tiền.

Đến đại hội VII thì tình hình thoái hoá về đạo đức đã nghiêm trọng hơn.

Những biểu hiện tiêu cực đã bộc lộ rõ. Giờ đây các biểu hiện ấy đã được

điểm danh rõ: giảm sút ý chí chiến đấu, tham nhũng, lấy cắp của công, ăn hối

lộ, buôn lậu, xa dân... Lần đầu tiên, hiện tượng "phai nhạt lý tưởng" được ghi

nhận. Cũng là lần đầu tiên trong báo cáo của Đảng đã chỉ đích danh những

đơn vị, cơ quan hoạt động sản xuất, kinh doanh, kể cả một số cơ quan bảo vệ

pháp luật, cơ quan Đảng và đoàn thể. Báo cáo xây dựng Đảng và sửa đổi

Page 112: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

điều lệ Đảng của Ban chấp hành Trung ương khóa VI tại Đại hội viết: "Nhiều

đảng viên giảm sút ý chí chiến đấu, một bộ phận đã tha hoá, tham nhũng, xa

dân, làm giảm sút nghiêm trọng uy tín của Đảng và "nhiều đảng viên giảm sút

ý chí chiến đấu, phai nhạt lý tưởng, không phát huy được vai trò tích cực

trong quần chúng, tình trạng cán bộ, đảng viên vi phạm các nguyên tắc quản

lý hoặc lợi dụng những sơ hở trong quy chế quản lý để lấy cắp của công, ăn

hối lộ, buôn lậu, làm giàu bất chính, vi phạm đạo đức, lối sống cách mạng có

chiều hướng tăng lên, nhất là trong cán bộ hoạt động sản xuất kinh doanh,

quản lý nhà nước và ngay cả một số cơ quan bảo vệ pháp luật, cơ quan đảng

và đoàn thể". Cần lưu ý rằng vào thời điểm này - sau 5 năm được thực hiện,

nền kinh tế thị trường đã in dấu ấn của nó vào mặt tiêu cực của đạo đức, về

vấn đề này, Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Trung Ương Đảng đã chỉ ra

như sau: "Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành

phần, vận động theo cơ chế thị trường, bên cạnh những mặt tích cực, đã xuất

hiện nhiều biểu hiện tiêu cực mới mà chúng ta chưa lường hết, chậm phát

hiện và chưa xử lý tốt. Đó là lối làm ăn chạy theo lợi nhuận bất kể giá nào,

dẫn đến vi phạm pháp luật, lừa đảo, hối lộ, làm hàng giả, buôn lậu trốn thuế

xâm phạm nghiêm trọng tài sản xã hội chủ nghĩa và của công dân... Đó là xu

hướng... thương mại hoá tràn lan, xâm nhập vào cả cơ quan văn hoá, y tế,

giáo dục, nội chính...; kỷ luật, kỷ cương và pháp luật không nghiêm, bất công

xã hội tăng lên."

Đại hội Đảng lần thứ VIII đã chỉ ra rằng chúng ta chưa ngăn chặn được

các hiện tượng tiêu cực mà Đại hội VII đã vạch rõ. Đại hội cũng đã chỉ tên các

lĩnh vực mà ở đó, các hiện tượng tiêu cực là nghiêm trọng, kéo dài: "Tình

hình xã hội còn nhiều tiêu cực và nhiều vấn đề phải giải quyết. Nạn tham

nhũng, buôn lậu, lãng phí của công chưa ngăn chặn được. Tiêu cực trong bộ

máy nhà nước, đảng và đoàn thể, trong các doanh nghiệp nhà nước, nhất là

trên các lĩnh vực nhà đất, xây dựng cơ bản, hợp tác đầu tư, thuế, xuất nhập

khẩu và cả trong hoạt động của nhiều cơ quan thi hành pháp luật... nghiêm

trọng kéo dài...". Riêng trong Đảng thì: "Một bộ phần không nhỏ cán bộ, đảng

viên thiếu tu dưỡng bản thân, phai nhạt lý tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý

Page 113: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

chí, kém ý thức kỷ luật, sa đoạ về đạo đức và lối sống" và: "Điều đáng lo ngại

là không ít cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng tha hoá về phẩm

chất, đạo đức...".

Gần đây nhất, Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban chấp hành Trung ương

Đảng khóa VIII đã chỉ rõ "sự suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận

cán bộ, đảng viên thật sự đang là vấn đề bức xúc nhất đối với xã hội ta hiện

nay. Nó ảnh hưởng trực tiếp tới bản chất của Đảng, làm giảm sút lòng tin của

nhân dân, tổn thương mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, hạ thấp sức chiến

đấu và vai trò lãnh đạo của Đảng.

Trong diễn văn tại lễ Kỷ niệm 109 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh

và 30 năm thực hiện Di chúc của Người, sau khi khẳng định "Trong những

năm qua, cùng với những thành tựu quan trọng mà nhân dân ta đã giành

được, Đảng đã có bước trưởng thành mới về chính trị, tư tưởng và tổ chức,

đa số cán bộ đảng viên giữ được phẩm chất cách mạng", Tổng Bí thư Lê Khả

Phiêu đã một lần nữa chỉ ra rằng: "Có một bộ phận cán bộ, đảng viên suy

thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống". Đồng chí Tổng Bí thư cũng đã

chỉ ra và phê phán biểu hiện cụ thể của sự suy thoái kể trên. Đó là sự giảm

sút ý chí, phai nhạt lý tưởng, dao động về con đường xây dựng chủ nghĩa xã

hội, vi phạm pháp luật, làm việc cầm chừng, thiếu tinh thần đồng cam cộng

khổ chỉ lo vun vén cá nhân, tham nhũng, hối lộ, đặc quyền đặc lợi, cục bộ địa

phương, cơ hội, luồn lách, chỉ coi trọng lợi ích vật chất mà xem nhẹ giá trị tinh

thần, nặng về lợi ích thực dụng trước mắt, xem nhẹ lợi ích cơ bản và lâu dài,

xa dân, quan liêu, đại khái, hống hách, sách nhiễu, không tôn trọng nhân dân,

không lấy kết quả chăm lo đời sống nhân dàn làm thước đo sự lãnh đạo và

phẩm chất của mình, xa hoa, phung phí tiền của, bỏ mặc tài sản của công

mất mát, hư hỏng và bị phá hoại, mất cảnh giác trước các thủ đoạn chống

phá của các thế lực thù địch, mất đoàn kết nghiêm trọng kéo dài ở một số cấp

uỷ, địa phương...

Nguyên nhân của sự suy thoái đạo đức trong Đảng, Nhà nước và xã

hội:

Page 114: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

+ về khách quan:

- Sự sụp đổ ở Liên Xô cũ và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã

gây xáo động lớn về tư tưởng, tình cảm trong cán bộ, đảng viên và nhân dân

- Các thế lực thù địch ráo riết thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình”,

bằng mọi thủ đoạn tinh vi, thâm độc làm tha hoá cán bộ, đảng viên hòng thực

hiện những âm mưu, ý đồ chính trị đen tối của chúng

- Cơ chế thị trường và sự hội nhập quốc tế, bên cạnh những tác động

tích cực to lớn, cũng đã bộc lộ mặt trái của nó, ảnh hưởng tiêu cực đến ý thức

tư tưởng, đạo đức, lối sống của nhân dân ta.

- Nước ta còn nghèo, nhu cầu văn hoá của nhân dân rất lớn nhưng khả

năng đáp ứng còn hạn chế do thiếu những điều kiện và phương tiện vật chất

cần thiết.

+ về chủ quan:

- Trong điều kiện mới, một bộ phận cán bộ, đảng viên chạy theo chủ

nghĩa cá nhân, sống buông thả, thiếu tự giác rèn luyện, tu dưỡng, trong khi đó

sự giáo dục, quản lý, kiểm tra của các tổ chức đảng, trước hết các chi bộ và

cấp uỷ lại lỏng lẽo, đồng thời chưa có những quy chế để nhân dân tham gia

giám sát, giáo dục cán bộ, đảng viên.

- Trong khi tập trung sức vào nhiệm vụ kinh tế, Đảng chưa lường hết

những tác động tiêu cực, từ đó chưa đặt đúng vị trí của văn hoá, chưa coi

trọng công tác giáo dục về tư tưởng, đạo đức và lôi sống, thiếu các biện pháp

cần thiêt trên cả hai mặt “xây” và “chống” trên lĩnh vực văn hoá.

- Việc xử lý những phần tử thoái hoá biến chất trong Đảng và bộ máy

nhà nước chưa nghiêm. Tinh thần tự phê bình và phê bình sa sút ở nhiều cấp

bộ Đảng. Nội dung giáo dục tư tưởng, chính trị trong sinh hoạt Đảng và các

đoàn thể còn yếu. Những điều đó làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào đội

ngũ cán bộ, nhưng Trung ương và Bộ Chính trị, Chính phủ chưa có những

biện pháp khắc phục hữu hiệu

Page 115: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

- Chưa có cơ chế và chính sách phát huy nội lực của nhân dân; chưa

tạo được phong trào quần chúng mạnh mẽ tham gia phát triển văn hoá, xây

dựng nếp sống văn minh, bảo vệ văn hoá dân tộc. Chưa coi trọng bồi dưỡng,

giáo dục và phát huy khả năng của tuổi trẻ là lực lượng chính, là đối tượng

chủ yếu của hoạt động văn hoá.

Tóm lại, dõi theo nhận định của các đại hội Đảng từ lần thứ IV cho đến

nay, có thể thấy quá trình diễn biến ngày một nghiêm trọng của sự suy thoái

đạo đức trong cán bộ, đảng viên chúng ta. Đến đây, cần phải trả lời một câu

hỏi: Trong sự suy thoái nhiều dạng, nhiều vẻ như đã xảy ra, chủ nghĩa cá

nhân mà Hồ Chí Minh từng thường xuyên lên án, bác bỏ đã biểu hiện như thế

nào, giữ vị trí ra sao, đã được Đảng ta đánh giá, nhận xét và có thái độ như

thế nào?

2. Góp phần nhận diện chủ nghĩa cá nhân trong sự suy thoái đạo đức

2.1. Sự hình thành của một loại hình chủ nghĩa cá nhân có những đặc trưng riêng, mang dấu ấn của thời kỳ bao cấp.

Chế độ bao cấp từng là cần thiết trong thời chiến tranh. Chủ nghĩa yêu

nước trong đó chủ nghĩa anh hùng cách mạng của toàn thể dân tộc đã hạn

chế mặt tiêu cực của chế độ ấy. Nhưng, chế độ bao cấp kéo dài quá lâu sau

chiến tranh đã đưa đến những hậu quả rất tai hại trong các lĩnh vực của đời

sống xã hội. Trong lĩnh vực đạo đức, đó là sự hình thành của một loại hình

chủ nghĩa cá nhân có những đặc trưng riêng. Cũng có thể diễn đạt một cách

khác: Chủ nghĩa cá nhân cố hữu đã mang thêm những đặc trưng mới in đậm

dấu ấn chế độ bao cấp.

Xét về mặt bản chất thì mọi thứ chủ nghĩa cá nhân tư sản, tiểu tư sản

hay chủ nghĩa cá nhân do chế độ bao cấp đẻ ra - đều là phi đạo đức, đều có

đặc trưng cơ bản là vì lợi ích của riêng cá nhân mà xâm phạm lợi ích của

cộng đồng, tập thể và các cá nhân khác, bằng mọi thủ đoạn bất chính và bất

lương. Tuy nhiên mỗi thứ chủ nghĩa cá nhân lại sinh ra từ những điều kiện cụ

thể và có những màu sắc riêng. Nếu chủ nghĩa cá nhân tư sản sinh ra từ sự

Page 116: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

tôn thờ và chạy theo lợi nhuận, vì lợi ích mà bất chấp đạo lý, thực hiện một lối

sống sa đọa cực kỳ xa hoa, trên mồ hôi, nước mắt và sự bần cùng hoá tuyệt

đối và tương đối của người lao động, nếu chủ nghĩa cá nhân tiểu tư sản sinh

ra từ địa vị trung gian của những người có địa vị kinh tế và xã hội "thường

thường bậc trung" luôn muốn cố vươn lên cao hơn nhưng cũng luôn đứng

trước nguy cơ rơi xuống thấp hơn, do đó có những đặc trưng là dao động về

mặt chính trị, v.v... thì chủ nghĩa cá nhân trước thời đổi mới lại gắn liền với

chế độ bao cấp.

Dưới chế độ bao cấp cũ, những ai được Nhà nước giao cho quản lý và

phân phối dưới hình thức này hay hình thức khác của cải vật chất và tinh thần

đều trở thành những người có quyền lực. Quyền lực ấy càng trở nên to lớn

trong điều kiện kinh tế nghèo nàn. Thế là đã hình thành trong xã hội một tình

hình thường xuyên căng thẳng: bên cầu phải lệ thuộc vào bên cung, phải

giành giật với nhau, còn bên cung thì thường ban phát theo lối cửa quyền và

trước khi bán thì phải giành lấy phần nhiều, phần hơn, phần tốt cho bản thân

và người thân, người có thế, "nhất thân, nhì thế" là như vậy.

Cơ chế bao cấp đã sinh ra các tệ nạn tham ô, móc ngoặc... ở một phía

và sự lệ thuộc, sự tranh giành theo nguyên tắc "mạnh được yếu thua" và

"chân chính thì thiệt, gian dối thì hơn" ở phía khác. Năm này qua năm khác,

các tệ nạn kể trên ăn sâu vào tâm lý và nếp sống xã hội. Thay cho các

nguyên lý "Mình vì mọi người, mọi người vì mình" là nguyên lý "Mỗi người

phải tự lo cho mình, thượng đế lo cho tất cả". Đó chính là "chủ nghĩa cá nhân"

- con đẻ của cơ chế bao cấp mà chúng ta chỉ xem xét lướt qua và chỉ ở góc

độ đạo đức mà thôi. Những giá trị đạo đức truyền thống như lòng vị tha, tình

nhân ái, v.v. đã bị xói mòn một cách phổ biến và buộc phải dấu mình.

Gắn liền với tác động của thời bao cấp, còn phải tính tới ảnh hưởng

của chiến tranh lâu dài đối với đạo đức xã hội.

Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, cả dân tộc tạ đã được thế giới ca

ngợi là anh hùng và coi là "Lương tâm của thời đại". Hy sinh tất cả vì độc lập,

tự do của Tổ quốc kết hợp với phong trào giải phóng dân tộc thế giới vì hoà

Page 117: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

bình và tiến bộ của loài người, là phẩm chất đạo đức của Hồ Chí Minh đã nêu

gương, truyền bá và được các thế hệ mang tên Người thể hiện trong suốt ba

mươi năm chiến tranh chính nghĩa vừa qua. Trong chiến tranh, vì con người,

dân tộc ta đã không tiếc máu xương - đó là một chủ nghĩa nhân đạo cao cả,

cũng là sự bảo vệ nhân quyền sáng ngời chính nghĩa. Nhưng chiến tranh

cũng lại làm cho một số người trở nên chai sạn. Họ hầu như không còn xúc

động khi thấy máu chảy. Họ trở nên hung hãn. Hung hãn là biểu hiện thiếu

đạo đức và kém văn hoá. Và, trong thực tế, đã có nhiều biểu hiện hết sức

nghiêm trọng, mất cả tính người, trong các vụ đâm chém nhau, giết nhau, ở

đâu cũng có. Tình hình càng trở nên tồi tệ vì có một thời gian khá dài trước

đây nếu pháp luật đã tập trung sức lực và đã thành công mỹ mãn trong việc

bảo vệ an ninh chính trị, thì lại không có sự quan tâm cần thiết đến an toàn xã

hội và kỷ cương trong quan hệ giữa người với người.

Chiến tranh tàn phá đất nước. Nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp và

sản xuất nhỏ vốn đã nghèo lại nghèo thêm. Vì thắng lợi cuối cùng và với hy

vọng ở tương lai, cả dân tộc đã vui lòng lấy tiếng hát át tiếng bom và thắt lưng

buộc bụng. Nhưng cuối cùng, với hậu quả của chiến tranh, những sự bất hợp

lý của chế độ bao cấp, từng là thiết yếu trong chiến tranh, nhưng đã kéo dài

hàng chục năm sau khi thắng lợi, đã tạo nên một thực trạng bức bối phổ biến,

trong đó có sự xuống cấp của đạo đức. Đến lượt nó, sự xuống cấp của đạo

đức lại góp phần làm cho xã hội càng bức bối thêm.

Lý tưởng giải phóng dân tộc thống nhất với lý tưởng xã hội chủ nghĩa

đã nâng truyền thống đạo đức Việt Nam lên tầm chủ nghĩa anh hùng cách

mạng mang đậm tính chất chủ nghĩa anh hùng, tập thể chắp cánh cho các cá

nhân anh hùng trung với nước, hiếu với dân. Nhưng hậu quả của chiến tranh,

những mặt hỏng trong thực hiện xây dựng chủ nghĩa xã hội và các thể chế

không thích hợp mà nguồn gốc tư tưởng là tư duy sai lầm về chủ nghĩa xã hội

lại sản sinh ra một thứ chủ nghĩa cá nhân phát triển dưới tác động của chế độ

bao cấp được duy trì quá lâu, khi nó không còn thích hợp nữa, trong tình

Page 118: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

trạng quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ và có những yếu tố vượt

quá xa trình độ của lực lượng sản xuất.

Và thế là, tuy đã chấm dứt khi đất nước bước sang nền sản xuất hàng

hoá vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định

hướng xã hội chủ nghĩa, chế độ bao cấp cũ đã để lại cho thời kỳ đổi mới di

sản vật chất và tinh thần, thành tựu và khiếm khuyết của nó. Trong các khiếm

khuyết ấy, có chủ nghĩa cá nhân như đã được phân tích. Từ sau chiến tranh,

một đặc trưng chính của chủ nghĩa cá nhân là sư giành giật rất quyết liệt các

lợi ích vật chất vốn rất thiếu thốn trong tình trạng cung không đủ sức đáp ứng

và chỉ đáp ứng nhỏ giọt cho cầu. Sự giành giật rất quyết liệt như vậy đã kéo

liền theo nó nạn tham ô, "móc ngoặc", kèn cựa địa vị để "tiến khả dĩ vinh thân

phì gia", "thoái khả dĩ có sẵn cơ ngơi vững chắc khi không còn quyền lực

nữa". Có nghĩa là chủ nghĩa cá nhân thời bao cấp cũ đã chứa đựng sẵn

những yếu tố giúp cho nó dễ "hoà nhập" vào nền kinh tế thị trường và phát

triển mạnh mẽ trong nền kinh tế thị trường.

Chủ nghĩa cá nhân thời bao cấp đã phát triển trong thời kinh tế thị

trường. Tình hình này đã được các Đại hội Đảng từ lần thứ V đến nay ghi

nhận.

Đại hội Đảng lần thứ V đã chỉ ra rằng sự sa sút về phẩm chất, lối sống

và tác phong thường xuất phát từ chủ nghĩa cá nhân. Đại hội cũng đã vạch ra

tác hại của nó: "Sự sa sút về phẩm chất, sự thoái hoá trong lối sống, quan

liêu hoá trong tác phong thường xuất phát từ chủ nghĩa cá nhân... Chủ nghĩa

cá nhân cùng những ảnh hưởng của tư tưởng tư sản và của chủ nghĩa thực

dân kiểu mới đã làm mất ý chí chiến đấu của nhiều cán bộ, đảng viên, họ làm

sai chính sách, bỏ nhiệm vụ, thậm chí đi vào buôn bán kiếm lời, tham gia bóc

lột, tham ô, ăn hối lộ, chiếm đoạt của công, thông đồng với gian thương, ăn

chơi trụy lạc, v.v....

Vì vậy, "phải nâng cao nhiệt tình cách mạng chống sa đoạ về phẩm

chất, chống chủ nghĩa cá nhân, tư lợi cá nhân...".

Page 119: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Đại hội VI đánh giá: "Mười năm qua, trên 19 vạn đảng viên, trong đó

một phần khá lớn là những người phạm sai lầm về phẩm chất, đạo đức, đã bị

đưa ra khỏi đảng; có những người đã phải truy tố trước pháp luật. Việc thi

hành kỷ luật vẫn chưa nghiêm, đến nay nhiều người không đủ tư cách đảng

viên vẫn còn ở trong Đảng. Phải làm trong sạch Đảng, trước hết loại bỏ ngay

những phần tử thoái hóa biến chất".

Đại hội kêu gọi "Mỗi người cộng sản chúng ta phải suốt đời học tập, noi

gương đạo đức, tác phong của Bác Hồ... nâng cao đạo đức cách mạng,

chống chủ nghĩa cá nhân, xứng đáng là người lãnh đạo và người đầy tớ thật

trung thành của nhân dân".

Cán bộ lãnh đạo phải gương mẫu trong lối sống. Người có chức vụ

càng cao thì yêu cầu về sự gương mẫu càng lớn. Không ai có quyền tự ban

cho mình những đặc quyền đặc lợi...

Đảng viên phải suy nghĩ và hành động vì lý tưởng cộng sản chủ nghĩa,

vì lợi ích của cách mạng; chống chủ nghĩa cơ hội dưới nhiều hình thức,

chống chủ nghĩa cá nhân..., chống tham nhũng, đặc quyền đặc lợi.

Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (1994) đã tổng kết

bốn nguy cơ:

- Chệch hướng xã hội chủ nghĩa;

- Nạn tham nhũng và tệ quan liêu;

- "Diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch.

Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII đã xác định rằng

cần phải chống chủ nghĩa cá nhân: "Rèn luyện đạo đức cách mạng và lối

sống lành mạnh, chống lãng phí, tham nhũng và làm ăn phi pháp. Chống chủ

nghĩa cá nhân, vô kỷ luật, độc đoán, chuyên quyền, cục bộ, bè phái....

Đại hội VIII đã đánh giá rằng chủ nghĩa cá nhân rất nặng: "Một số cán

bộ và cấp uỷ chưa tôn trọng và thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ,

Page 120: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

bệnh quan liêu, độc đoán, cục bộ, địa phương, kèn cựa, địa vị cá nhân chủ

nghĩa rất nặng. Không ít nơi nội bộ mất đoàn kết nghiêm trọng.

Chủ nghĩa cá nhân thời kinh tế thị trường tiếp nối hầu như tất cả mọi

biểu hiện xấu xa của chủ nghĩa cá nhân thời bao cấp cũ. Nó đẩy các biểu

hiện ấy lên những mức độ nghiêm trọng nhất, gây nên những tác hại to lớn

nhất. Mặt khác, phù hợp với mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, nó có những

biểu hiện mới mà nghiêm trọng nhất là nạn tham nhũng. Có thể nói rằng,

tham nhũng là nơi tụ hội của hàng loạt tội lỗi khác: quan liêu, lãng phí, áp bức

quần chúng, vi phạm pháp luật, sa đoạ về lối sống, v.v...

Chủ nghĩa cá nhân không chỉ đưa đến nạn tham nhũng. Nó còn là

nguồn gốc của mọi sự sa đoạ, thoái hoá về chính trị, đạo đức của nhiều cán

bộ, đảng viên, đưa đến những tổn thất vô cùng to lớn cho Đảng, cho đất

nước và nhân dân. Nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã từng viết về chủ

nghĩa cá nhân như sau: "Bốn nguy cơ của cách mạng nước nhà đã được Hội

nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng Cộng sản Việt Nam

chỉ rõ, bao trùm lên trên bốn nguy cơ đó là chủ nghĩa cá nhân (được nhấn

mạnh trong nguyên văn). Chủ nghĩa cá nhân đang có chiều hướng phát triển,

biểu hiện muôn hình muôn vẻ trong các doanh nghiệp, các cơ quan nhà

nước, làm tổn hại không nhỏ đến sự đoàn kết, đến tài sản của nhà nước và

kiềm chế sự phát triển của đất nước, làm giảm niềm tin của nhân dân đối với

Đảng và Nhà nước, làm nản lòng một số nhà đầu tư nước ngoài".

Một đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa cá nhân thời hiện đại là ở chỗ nó

thấm đậm tính chất thực dụng. Tính chất thực dụng này là chị em ruột của

nguyên tắc "trả tiền ngay" của thị trường tư bản chủ nghĩa. Nếu trong thời bao

cấp chủ nghĩa cá nhân thường phải tự dấu mình dưới các chiêu bài đạo lý thì

giờ đây nó trắng trợn tính phản lợi nhuận, lợi kỷ mà chủ thể của nó thu được

qua từng mối quan hệ, qua từng "phi vụ" cụ thể. Sự thâm nhập của chủ nghĩa

cá nhân vào chủ nghĩa thực dụng của chủ nghĩa thực dụng vào chủ nghĩa cá

nhân đánh dấu đặc trưng nổi bật nhất của chủ nghĩa cá nhân hiện đại.

Page 121: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Nền kinh tế thị trường đã trao cho nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân

cán bộ, đảng viên, viên chức những tài sản và quyền lực vô cùng lớn chưa

từng có trong thời kinh tế kế hoạch hoá và cơ chế bao cấp trước kia. Những

quyền lực như vậy không chỉ bó hẹp ở phạm vi bên trong đất nước mà còn

được mở rộng ra phạm vi đối ngoại. Bằng tiền hoặc tính ra tiền mặt, người ta

có quyền ký những quyết định liên quan đến hàng tỷ, hàng chục tỷ, hàng trăm

tỷ, hàng nhiều nghìn, nhiều chục nghìn tỷ đồng. Nói theo ngôn ngữ dân gian,

người ta có thể mua hoặc bán cả cầu Thăng Long. Nhưng đó mới chỉ là ngôn

ngữ được hình thành cách đây vài ba chục năm. Ngày nay, thực tế cho thấy

rằng người ta có thể bán cả một thị trường cho nước ngoài, mặc cho cả một

ngành sản xuất trong nước bị phá sản.

Từ nhiều năm nay, đã xuất hiện và được lưu truyền câu: "Hy sinh đời

bố, củng cố đời con". Người ta ra sức tham nhũng buôn lậu, ăn cắp của công,

ăn cướp của dân, móc ngoặc với bọn gian thương, bọn tội phạm để làm giàu

thật nhanh, thật nhiều, phân tán tài sản cho con cháu. Trót lọt và "hạ cánh an

toàn" thì vẫn leo lẻo dạy người khác liêm khiết, bằng không thì sẵn sàng vào

tù, khi đó sẽ dùng tiền mua chuộc cán bộ quản giáo để được sống ung dung,

thậm chí "vương giả" trong tù và cùng lắm thì chịu chết cho vợ con vẫn giàu

sang phú quý.

Về bản chất, chủ nghĩa cá nhân thời kinh tế thị trường không khác gì

chủ nghĩa cá nhân thời bao cấp mà Hồ Chí Minh từng tập trung lên án một

cách thường xuyên và không khoan nhượng. Trước kia, cũng như hiện nay,

nó đều thuộc phạm trù đạo đức phi vô sản, đặc trưng xuyên suốt của nó là chỉ

lo đến lợi ích của cá nhân, không chỉ đặt lợi ích của cá nhân lên trên lợi ích

của tập thể, của cộng đồng dân tộc, đất nước, của Đảng, mà còn sẵn sàng

vứt bỏ lý tưởng cách mạng, vất bỏ lợi ích của Đảng, của đất nước, của dân

tộc, của tập thể..., để vơ vét, thu vén được nhiều nhất cho cá nhân.

Tóm lại, dựa vào Văn kiện các Đại hội Đảng từ lần thứ IV đến Hội nghị

Ban chấp hành Trung ương lần thứ sáu (lần 2) khóa VIII, có nghĩa là, trong

khoảng hơn 20 năm, từ khi đất nước được hoàn toàn giải phóng qua thời kỳ

Page 122: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

duy trì nền kinh tế kế hoạch hoá và cơ chế bao cấp, tiếp đó là thời kỳ đổi mới,

thực hiện nền kinh tế thị trường (mỗi một trong hai thời kỳ này đều có độ dài

hơn mười năm), chúng ta có thể vạch lại những nét chủ yếu của tiến trình đạo

đức xã hội và đạo đức của cán bộ, đảng viên, và kèm theo tiến trình ấy là

những kết luận, những bài học chủ yếu như dưới đây:

- Một là: Nhận xét của Đại hội IV cho thấy rằng: Mặc dù chiến tranh hết

sức quyết liệt, nhân dân ta phải hy sinh nhiều của, nhiều người,... thế nhưng

đã không hề có tình trạng suy thoái về đạo đức, nếu không muốn nói rằng

tình hình đạo đức là tốt đẹp. Thuở ấy, con người Việt Nam mới đức độ biết

bao! Bài học có thể rút ra là: Chủ nghĩa yêu nước và lý tưởng xã hội chủ

nghĩa, một khi ăn sâu vào tư tưởng, tình cảm của con người thì nâng con

người lên những tầm cao về đạo đức cách mạng và về chủ nghĩa anh hùng

cách mạng. Vấn đề đối với chúng ta ngày nay là: Trong cơ chế thị trường, chủ

nghĩa yêu nước, và lý tưởng xã hội chủ nghĩa có còn phát huy sức mạnh

trong sự nghiệp xây dựng đạo đức mới và khắc phục tình trạng suy thoái về

đạo đức hay không? Nếu có, thì phải có những biện pháp gì?

- Hai là: Từ sau Đại hội IV cho đến nay, sự suy thoái về đạo đức ngày

càng trầm trọng thêm, lưu ý rằng suy thoái này đã xảy ra từ trong thời kỳ bao

cấp chứ không phải chỉ đến thời kỳ kinh thế thị trường mới xảy ra. Dẫu sao,

từ khi chuyển sang kinh tế thị trường thì tốc độ suy thoái nhanh chóng đạt đến

điểm báo động khẩn cấp; hơn nữa, trong sự suy thoái kể trên, có những biểu

hiện chưa từng có trong thời kỳ bao cấp (ví dụ: nạn buôn lậu ma túy, tự chạy

theo lợi nhuận, coi lợi nhuận là trên hết...).

- Ba là: Môi trường kinh doanh trong cơ chế thị trường đã khiến cho

nhiều hành vi trái đạo đức của con người Việt Nam xuất hiện, thậm chí trong

chừng mực nào đó có những phát triển đáng lo ngại. Vì vậy, việc tạo môi

trường trong sáng, hành lang pháp lý, hệ thống pháp luật, chuẩn mực đạo

đức... là những nhân tố có ý nghĩa quan trọng trong việc kế thừa và phát huy

đạo đức cách mạng trong tình hình mới.

2.2. Các biện pháp chống chủ nghĩa cá nhân

Page 123: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

- Phải ra sức tăng cường ý áo dục toàn Đảng về lý tưởng cộng sản chủ

nghĩa, về đường lối, chính sách của Đảng, về nhiệm vụ và đạo đức của người

đảng viên.

Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc giác ngộ cách mạng cho đảng viên

bằng con đường học tập lý luận. Năm 1925, tại Quảng Châu (Trung Quốc),

Người đã mở những lớp huấn luyện chính trị cho cán bộ của Việt Nam Thanh

niên cách mạng đồng chí Hội. Những bài giảng của Người sau đó được in lại

thành cuốn "Đường cách mệnh". Người xác định yêu cầu và phương pháp

học tập lý luận là phải liên hệ lý luận với thực tiễn. Người phê phán hiện

tượng kém lý luận, khinh lý luận và nhất là lý luận suông trong cán bộ, đảng

viên. Người nói: Có kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sáng,

một mắt mờ", "Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế, lý luận mà không

áp dụng vào thực tế là lý luận suông".

Về nội dung giáo dục cán bộ đảng viên Người quan tâm, nhiều đến vấn

đề giáo dục đạo đức cách mạng. Người cách mạng phải có đạo đức. "Đạo

đức cách mạng không phải trên trời sa xuống, nó do đấu tranh rèn luyện bền

bỉ hàng ngày mà phát triển, mà củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng,

vàng càng luyện càng trong".

- Thực hành tự phê bình và phê bình trong Đảng

Theo Hồ Chí Minh, phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của

đồng chí mình. Tự phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của mình.

Tự phê bình và phê bình đi đôi với nhau. Mục đích là làm cho mọi người học

ưu điểm của nhau và giúp nhau sửa chữa những khuyết điểm. Giúp nhau tiến

bộ. Phê bình để đoàn kết, làm tròn nhiệm vụ cách mạng, do đó thái độ phải

thật thà trung thực, phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm. Đồng thời chớ

dùng những lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc. Phê bình việc làm chứ không

phải phê bình người. Những người bị phê bình thì phải vui lòng nhận để sửa

đổi, không nên vì phê bình mà nản chí, hoặc oán ghét. "Khuyết điểm cũng

như chứng bệnh. Phê bình cũng như uống thuốc. Sợ phê bình cũng như có

Page 124: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

bệnh mà dấu bệnh, không dám uống thuốc. Để đến nỗi bệnh ngày càng nặng,

không chết cũng la lết quả dưa".

Hồ Chí Minh khẳng định, tự phê bình và phê bình là một vũ khí sắc bén

của Đảng để làm cho đảng viên tiến bộ, làm cho Đảng ngày càng mạnh.

Người nói: "Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ

những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết

điểm đó, rồi tìm hiểu mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một

Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính". Người còn nói: "Lênin nói

rằng chỉ có hai hạng người không mắc khuyết điểm: là đứa bé còn ở trong

bụng mẹ và người chết đã bỏ vào quan tài. Có hoạt động thì khó tránh khỏi

khuyết điểm. Nhưng khi có khuyết điểm thì phải thật thà tự phê bình, hoan

nghênh người khác phê bình mình và kiên quyết sửa chữa. Chủ nghĩa cá

nhân không dám tự phê bình, không muốn người ta phê bình mình, không

kiên quyết sửa chữa. Vì vậy mà thoái bộ, chứ không tiến bộ được".

Người khuyên mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự

phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt. Tự phê bình và phê bình

cốt phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm, để tư tưởng và hành động

được đúng hơn và tốt hơn, để làm việc có hiệu quả hơn.

Việc phê bình phải từ trên xuống và từ dưới lên. Cấp trên phê bình

chưa đủ, đồng chí, đồng sự phê bình chưa đủ, phải hoan nghênh quần chúng

phê bình nữa, thì sự phê bình mới hoàn toàn đúng.

Phê bình, tự phê bình muốn có kết quả thật sự cần phải gắn liền với

việc mở rộng và phát huy dân chủ, phải có sự lãnh đạo sáng suốt của cấp

trên. Dân chủ được mở rộng và phát huy sẽ tạo ra một bầu không khí tin cậy,

tôn trọng và thương yêu nhau, mạnh dạn nói thẳng nói thật, "Thấy việc phải

thì làm, thấy việc trái thì nói", "Gặp việc phải có gan làm, thấy khuyết điểm có

gan sửa chữa". Vì thiếu dân chủ của lãnh đạo nên khi phê bình thường có

tình trạng dè dặt e ngại, không dám phê bình, nhất là đối với cấp trên; không

phải vì họ không có ý kiến mà họ nghĩ rằng "nói ra cấp trên cũng không nghe,

không xét, có khi lại bị "trù" là khác... Họ cứ để trong lòng rồi sinh ra uất ức,

Page 125: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

chán nản, rồi sinh ra thói: "Không nói trước mặt, chỉ nói sau lưng", "Trong

Đảng im tiếng, ngoài Đảng nhiều mồm", sinh ra thói "thậm thà thậm thụt và

những thói xấu khác".

Biện pháp quan trọng để mở rộng và phát huy dân chủ trong phê bình,

tự phê bình là cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cao cấp phải làm gương trước,

đảng viên phải gương mẫu "Đảng viên đi trước, làng nước theo sau". Phê

bình, tự phê bình phải được tiến hành từ trên xuống và từ dưới lên, phải mở

rộng phong trào phê bình, tự phê bình ở các cơ quan, các đoàn thể, trên các

báo chí cho đến nhân dân. Đảng viên, cán bộ phải là những tấm gương để xã

hội soi mình, gương càng sáng, càng trong con người càng soi tỏ bộ mặt của

mình để tẩy rửa "vết nhơ".

Tự phê bình và phê bình là vũ khí sắc bén, là quy luật phát triển đối với

mỗi cán bộ, đảng viên, đối với các tổ chức Đảng và bộ máy nhà nước. Hồ Chí

Minh đã vận dụng sáng tạo và thành công trong việc xây dựng Đảng ta thành

một Đảng Cộng sản chân chính, vững vàng trước những thử thách lớn, đưa

cách mạng Việt Nam vượt qua nhiều khó khăn đi từ thắng lợi này đến thắng

lợi khác. Đánh giá quá trình hoạt động của Đảng, Hồ Chí Minh viết: "Trong

bao nhiêu năm hoạt động bí mật, dù bị thực dân khủng bố gắt gao và Đảng ta

gặp rất nhiều khó khăn, nguy hiểm nhưng Đảng ta ngày càng phát triển, càng

mạnh mẽ và đã lãnh đạo nhân dân làm cách mạng thành công, kháng chiến

thắng lợi. Đó là vì Đảng ta khéo dùng cái vũ khí sắc bén phê bình và tự phê

bình".

Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh ở nơi nào tự phê bình

và phê bình lặng xuống thì ở đó chủ nghĩa cá nhân có điều kiện phát triển.

- Chế độ sinh hoạt của chi bộ phải nghiêm túc. Kỷ luật của Đảng phải

nghiêm minh. Công tác kiểm tra của Đảng phải chặt chẽ.

Vấn đề kiểm tra và kỷ luật Đảng là vấn đề đặc biệt quan trọng đối với

Đảng trong giai đoạn cầm quyền.

Page 126: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm đến vấn đề kiểm tra, kỷ luật trong

công tác xây dựng Đảng. Người nói: "Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành

công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi

lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài thì chính sách

đúng mấy cũng vô ích".

Có tăng cường công tác kiểm tra thì mới giữ nguyên được kỷ luật

Đảng, mới bảo đảm đường lối, chủ trương, nghị quyết thực hiện một cách

đầy đủ và đúng đắn, mới bảo đảm được sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn

xã hội. Có kiểm tra mới biết được năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới

giúp đỡ họ sửa chữa kịp thời. Người nói: “Hiện nay nhiều nơi cán bộ lãnh đạo

chỉ lo khai hội và thảo nghị quyết, đánh điện và gửi chỉ thị, sau đó, thì họ

không biết gì đến những nghị quyết đó đi đến đâu, có những khó khăn trở

ngại gì, dân chúng có ra sức tham gia hay không. Họ quên mất kiểm tra. Đó là

một sai lầm rất to. Vì thế mà "đầy túi quần thông báo, đầy túi áo chỉ thị" mà

công việc vẫn không chạy".

Đối tượng của công tác kiểm tra Đảng phải là toàn diện, kiểm tra việc

và kiểm tra người trong việc chấp hành nghị quyết, chỉ thị, điều lệ của Đảng...

Người yêu cầu công tác kiểm tra phải chú trọng tính chính xác, công minh,

khách quan. Người làm công tác kiểm tra phải có phẩm chất, năng lực, có uy

tín, tinh thần trách nhiệm, không mắc bệnh quan liêu, đại khái". Ai đi kiểm tra

việc gì, nơi nào, nếu có sơ suất thì người ấy phải chịu trách nhiệm", Người

cho rằng: "Kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết... kiểm soát phải

có hệ thống, phải thường làm... kiểm soát có hai cách, một là từ trên xuống.

Tức là người lãnh đạo kiểm soát kết quả những công việc của cán bộ mình.

Một cách nữa là, từ dưới lên. Tức là quần chúng và cán bộ kiểm soát sự sai

lầm của lãnh đạo và bày tỏ cải cách sửa chữa sự sai lầm đó".

Kết quả của công tác kiểm tra là làm cho mỗi cán bộ, đảng viên được

kiểm tra xong càng tốt lên, tổ chức Đảng nơi ấy được trong sạch và vững

mạnh.

Page 127: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Kiểm tra bao giờ cũng đi liền với kỷ luật trong Đảng. Hồ Chí Minh cho

rằng: "Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến hành thì chỉ như một người.

Đó là nhờ có kỷ luật". "Sức mạnh vô địch của Đảng là ở tinh thần kỷ luật tự

giác, ý thức tổ chức nghiêm chỉnh của cán bộ và đảng viên". Chúng ta phải

làm theo lời dạy của Lênin "giữ gìn sự thống nhất của Đảng như con ngươi

của mắt. Phải hết lòng tôn trọng tập thể, phát huy dân chủ nội bộ, tuyệt đối

chống được độc đoán cá nhân... tự cho phép mình đứng ngoài kỷ luật. Càng

có công lao, càng phái khiêm tốn. Chớ vì có ít nhiều công lao mà sinh bệnh

công thần, kèn cựa, địa vị".

Kỷ luật của Đảng trước hết là buộc mọi cán bộ, đảng viên và tổ chức

Đảng phải trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin. Chấp hành và thực hiện tốt

cương lĩnh, chủ trương, chính sách của Đảng; chế độ sinh hoạt của chi bộ

phải nghiêm túc. Đối với những đảng viên không gương mẫu, không chấp

hành nghị quyết của Đảng, làm mất đoàn kết nội bộ, xa rời quần chúng, làm

trái ngược với đường lối chính sách của Đảng, quan liêu mệnh lệnh, Hồ Chí

Minh yêu cầu "Đảng cần phải thi hành kỷ luật nghiêm khắc những cán bộ sai

lầm đó "bất kỳ họ ở cương vị nào".

Nói chung đối với mọi người, Hồ Chí Minh cho rằng "giáo dục là chính,

nhưng đối với những kẻ ngoan cố, không chịu sửa đổi thì chính quyền phải

dùng pháp luật". Pháp luật là pháp luật của nhân dân, dùng để ngăn cản

những hành động có hại cho nhân dân, để bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân

dân.

Coi trọng vấn đề kiểm tra kỷ luật Đảng đảm bảo cho Đảng vững mạnh

làm tròn nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. Tại Đại hội Đảng toàn quốc

lần thứ V, Đảng ta khẳng định: "Sau Đại hội này phải kiên quyết đưa ra càng

sớm càng tốt khỏi hàng ngũ của Đảng tất cả những kẻ cơ hội, những người

tê liệt ý chí cách mạng, những kẻ bóc lột, buôn lậu, đầu cơ tham ô, hối lộ, ức

hiếp quần chúng", "bất kỳ người đó giữ cương vị gì". "Trong Đảng, trong bộ

máy nhà nước, kỷ luật phải bình đẳng không ngoại lệ với bất kỳ ai. Khen

thưởng phải kịp thời và công bằng. Càng giữ chức vụ cao, càng được rèn

Page 128: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

luyện lâu năm trong Đảng, nếu phạm kỷ luật thì việc thi hành kỷ luật phải

nghiêm khắc".

- Mỗi cán bộ, đảng viên phải cố gắng học tập rèn luyện, nâng cao trình

độ hiểu biết để làm tốt mọi nhiệm vụ.

Theo Hồ Chí Minh, học tập gắn liền với thực hành là một phương pháp

rất quan trọng để khỏi phạm sai lầm, khuyết điểm, học để sửa chữa tư tưởng,

tu dưỡng đạo đức, học để tin tưởng, học để hành.

Việc học tập lý luận Mác - Lênin, theo Hồ Chí Minh, là rất quan trọng.

Người khẳng định: "Có học tập, lý luận Mác Lênin mới củng cố được đạo đức

cách mạng, giữ vững lập trường...". Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là học tập

cái tinh thần xử trí mọi việc đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học

tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách

sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm, lý luận đi đôi

với thực tiễn. Học và hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là để "sống với nhau có tình

có nghĩa". "Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình nghĩa thì sao

gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin". Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin không phải là

"thuộc sách làu làu, cụ Mác nói thế này, cụ Lênin nói thế kia" nhưng cách

mạng phân công cho việc gì lại không làm tròn. Người nhắc nhở cán bộ, đảng

viên phải "khắc phục bệnh giáo điều, đồng thời phải đề phòng chủ nghĩa xét

lại".

- Kết hợp giữa đạo đức và pháp luật

“Đức trị” và “pháp trị” vốn là hai tư tưởng, hai khuynh hướng trong văn

hóa trị nước của nhân loại đã xuất hiện rất sớm từ thời cổ đại ở phương Đông

cũng như ở phương Tây. Ở phương Đông trong thời kỳ phong kiến, từng có

lúc xuất hiện sự đấu tranh giữa hai đường lối trị nước. Đó là đường lối của

phái Pháp gia và đường lối của phái Nho gia. Phái Pháp gia chủ trương

“Pháp trị” nghĩa là dùng pháp luật để trị nước, còn phái Nho gia thì chủ trương

“Lễ trị", có nghĩa là dùng Lễ, dùng đức để giáo hoá con người trong xã hội.

Page 129: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Trong thực tế lịch sử, các triều đại phong kiến Việt Nam cũng như

Trung Quốc, bên ngoài thì phê phán Pháp trị, nhưng bên trong vẫn dùng

đường lối của phái này. Họ đã kết hợp Lễ trị với Pháp trị. Lễ trị để khuyên

người ta tuân theo pháp luật, Pháp trị là để răn đe người ta chớ có phạm

pháp.

Vận dụng phép biện chứng mácxit trong việc nhận thức lịch sử xã hội,

Hồ Chí Minh đã có những quan điểm đúng đắn về mối quan hệ giữa đạo đức

và pháp luật. Người luôn luôn chú trọng giáo dục đạo đức và cũng không

ngừng nâng cao vai trò, sức mạnh của pháp luật; tuỳ theo hoàn cảnh và đối

tượng cụ thể có lúc Người nhấn mạnh khía cạnh này hay khía cạnh khác.

Chỉ hơn một tháng sau Tuyên ngôn độc lập, trong thư gửi uỷ ban nhân

dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, Hồ Chí Minh đã phê phán một số cán bộ sai

lầm về đạo đức cách mạng, những lỗi lầm chính là: trái phép, cậy thế, hủ hoá,

tư túng, chia rẻ, kiêu ngạo và Người nhấn mạnh: “Ai đã phạm những lỗi lầm

trên thì phải hết sức sữa chữa, nếu không tự sửa chữa thì Chính phủ sẽ

không khoan dung”.

Đi đôi với việc giáo dục đạo đức, Người kịp ban hành pháp luật. Ngày

23-11-1945, Người ban hành sắc lệnh số 64 thiết lập Ban thanh tra đặc biệt

và Toà án đặc biệt để xét xử cán bộ các cấp phạm tội. Tiếp đó ngày 26-1-

1946 Người ký Quốc lệnh nêu rõ 10 điểm thưởng và 10 điểm phạt cho quân

dân biết, những tội nên tránh, những việc nên làm, khép tội “trộm cắp của

công sẽ bị xử tử”.

Hồ Chí Minh đòi hỏi pháp luật phải nghiêm minh, phải thẳng tay trừng

trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì, “thưởng

phạt nghiêm minh thì nhân dân mới yên ổn, kháng chiến mới thắng lợi, kiến

quốc mới thành công”. Người hết lòng thương yêu, dạy bảo cán bộ, nhưng ai

lợi dụng tình thương của Người làm hại đến tính mạng và tài sản của nhân

dân, làm mất thanh danh, uy tín của Đảng và Nhà nước thì dù họ có là cán bộ

cao cấp, kỳ cựu gì đi nữa vẫn phải đem ra xét xử theo pháp luật. Trong thực

tế, Người đã xét xử nghiêm khắc, đúng tội hai cán bộ cao cấp đã vi phạm đạo

Page 130: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

đức cách mạng là Trần Dụ Châu và Trương Việt Hùng. Trong suốt 24 năm

lãnh đạo đất nước, trong hoàn cảnh đất nước có nhiều khó khăn, kháng chiến

chông Pháp, chống Mĩ, xây dựng CNXH ở miền Bắc, Hồ Chí Minh đã trực tiếp

chỉ đạo soạn thảo hai bản Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959, đã chỉ đạo xây

dựng 16 đạo luật và đã ký trên 1390 sắc lệnh và văn bản dưới luật.

Ngày nay, nền kinh tế thị trường đang đẩy mạnh sản xuất phát triển,

mức sống của dân ngày càng được nâng lên; nhưng mặt trái của cơ chế thị

trường đang tạo ra những xu hướng ích kỷ, chăm lo lợi ích cá nhân, hiện

tượng suy thoái về đạo đức ngay trong đội ngũ cán bộ của Đảng, cũng như

những hiện tượng coi thường pháp luật đang diễn ra khá phổ biến đã khiến

cho tình hình xã hội trở nên phức tạp, có kẻ được giao cho nhiệm vụ chống

ma tuý như Vũ Xuân Trường lại trở thành kẻ buôn ma tuý, Phùng Long Thất

được giao nhiệm vụ chống buôn lậu lại trở thành kẻ buôn lậu; Phạm Nhật

Hồng, Nguyễn Ngọc Bích cùng các quan chức khác ngành ngân hàng được

Nhà nước tin cậy giao giữ két bạc lại thông đồng với bọn lừa đảo để chiếm

đoạt tiền bạc của Nhà nước.

Thực tế đất nước ta trong những năm gần đây đã chứng minh tính

đúng đắn của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và pháp luật. Tư tưởng của

Người về sự kết hợp thống nhất biện chứng giữa “đức trị” và “pháp trị” vẫn

đang tiếp tục soi sáng chúng ta trên con đường xây dựng một nhà nước pháp

quyền Việt Nam mạnh mẽ, nhà nước của dân, do dân, và vì dân. Cho nên

trong Báo cáo chính trị tại Đại hội VIII của Đảng có nhấn mạnh: “Tăng cường

pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước và pháp quyền Việt Nam.

Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo

đức.

III. TÍNH CẤP BÁCH CỦA VIỆC GIÁO DỤC, RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

Ngày nay, nước ta đã trở thành một nước độc lập, thống nhất, hòa

bình, cả nước đang tiến lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều mà Hồ

Page 131: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Chí Minh cho là: "Không có gì quý hơn" - đó là "Độc lập", "Tự do" hoàn toàn

cho Tổ quốc - đã trở thành sự thực. Nếu như trước đây trong hoàn cảnh

chiến tranh, quan hệ quốc tế của nước ta còn hạn chế thì ngày nay, trong thời

kỳ mở cửa, nước ta đang trở thành bạn của tất cả các nước trên thế giới.

Đổi mới là vấn đề sống còn, là xu thế tất yếu của cuộc sống. Ngay từ

năm 1927, Hồ Chí Minh đã nói "cách mạng là phá cái cũ, đổi ra cái mới, phá

cái xấu, đổi ra cái tốt", và "trong thế giới này cái gì cũng biến hóa, tư tưởng

con người cũng biến hóa". Người luôn luồn ủng hộ cái mới, đồng thời phê

phán những đầu óc bảo thủ" trước làm như thế nào sau cứ làm thế, không

chịu nghĩ ra cái mới, nghĩ đến cái mới là ngại... xã hội bây giờ ngày một phát

triển, tư tưởng hành động cũng phải phát triển"... "nếu cứ giữ nguyên cái nếp

cũ, không thay đổi, là không đi đến đâu cả".

Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, thực hiện chính sách

Đổi mới của Đảng, đời sống kinh tế và xã hội đã có những thành tựu đáng

mừng, đời sống nhân dân được nâng lên, cao hơn trước đây, cái ăn, cái mặc,

cái ở, các tiện nghi... đều tăng lên về số lượng và chất lượng. Đất nước đã

bước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội.

Tuy nhiên, những mặt trái của kinh tế thị trường cũng tạo ra cơ hội

thuận lợi cho những hiện tượng tiêu cực nảy sinh. Đó là nạn tham nhũng,

buôn lậu, bất chấp đạo lý và pháp luật để làm giàu bất chính. Sự biến chất

của một số cán bộ, đảng viên đang làm siảm sút uy tín của Đảng, của Nhà

nước, gây ảnh hưởng xấu trong nhân dân. Kinh tế thị trường kích thích mặt

tiêu cực trong tính người, dẫn đến sự tham lam, vơ vét, vì lợi quên nghĩa, coi

tiền bạc là trên hết, không ít người quan niệm "mọi chuyện do đồng tiền quyết

định".

Chính trong lúc này, chúng ta càng thấy rõ vai trò của đạo đức, càng

thấm thía những lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh trong những năm trước

đây. Mục tiêu của sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay là: "Dân giàu, nước

mạnh, xã hội công bằng và văn minh". Mục tiêu đó cũng nằm trong lý tưởng

cách mạng, lý tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong khẩu hiệu "Việt Nam hòa

Page 132: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh" mà Người đã nêu lên, trong

niềm tin của Người là kháng chiến thành công, chúng ta sẽ xây dựng lại đất

nước ta "đàng hoàng hơn, to đẹp hơn".

Vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức là tư tưởng để thực hiện "Độc

lập - Tự do - Hạnh phúc", thực hiện một nước "Việt Nam hòa bình, thống

nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh", cũng là tư tưởng để thực hiện mục tiêu

"dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh".

Trước đây, trong thời kỳ cả nước làm cách mạng giải phóng dân tộc,

cán bộ, đảng viên và nhân dân ta đã phải thực hiện đạo đức cách mạng

"Trung với nước, hiếu với dân", "cần, kiệm, liêm, chính"..., thì ngày nay vẫn

cần, thậm chí càng phải thực hiện đạo đức cách mạng đó, bởi lẽ ngày nay kẻ

thù của nhân dân ta đang tìm mọi cách để lật đổ chế độ xã hội ở nước ta,

biến nước ta thành một nước theo chế độ tư bản chủ nghĩa bằng cách thực

hiện "chiến lược diễn biến hòa bình" rất tinh vi và hết sức nguy hiểm. Hơn

bao giờ hết, cán bộ đảng viên lại càng phải "trung với nước, hiếu với dân",

"cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư".

* * *

Suốt trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh và

Đảng ta luôn luôn coi trọng đạo đức và thường xuyên chăm lo giáo dục đạo

đức cách mạng. Khi đặt vấn đề phải tăng cường giáo dục đạo đức cách mạng

cho cán bộ, đảng viên, đồng chí Lê Duẩn cũng đã từng chỉ rõ rằng: "Chủ yếu

là do tình hình cách mạng của cả nước đòi hỏi, chứ không phải chỉ vì một số

người nào đó bê tha. hư hỏng mà đổ ra yêu cầu nâng cao phẩm chất đạo

đức... Tình hình và nhiệm vụ cách mạng của nước ta hiện nay đòi hỏi chính ta

phải nói nhiều đến phẩm chất đạo đức của ncười cộng sản. Đó không những

là vấn đề cấp bách hiện nay do tình hình đòi hỏi mà còn là vấn đề thường

xuyên cần phải giáo dục, cần phải nói đi, nói lại mãi, từ đây đến chủ nghĩa

cộng sản".

Phải giáo dục, phải nói đi nói lại mãi, vì để cái tạo xã hội cũ, xây dựng

xã hội mới công bằng, tốt đẹp hơn thì mỗi đảng viên, cán bộ phải thường

Page 133: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

xuyên rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức của mình nhằm đáp ứng yêu

cầu của nhiệm vụ trong từng giai đoạn cách mạng. Mỗi bước tiến lên của

cách mạng đều mang nội dung thử thách phẩm chất và năng lực của người

cán bộ, đảng viên, nội dung nâng cao sức sống của Đảng và đào thải những

thành viên thoái hóa, biến chất, không đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ

cách mạng.

Thực tiễn cách mạng nước ta đã chứng minh vấn đề giáo dục, đào tạo

vừa có ý nghĩa cấp thiết vừa có ý nghĩa lâu dài trong tất cả các thời kỳ của

cách mạng. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng suy thoái về

đạo đức hiện nay là: sự lơ là đạo đức, "buông lỏng việc bồi dưỡng lý tưởng

cách mạng và đạo đức xã hội chủ nghĩa cho thế hệ trẻ", "chưa chú ý đúng

mức vấn đề giáo dục, rèn luyện phẩm chất chính trị và đạo đức đối với cán

bộ, đảng viên". Việc coi nhẹ giáo dục đạo đức thể hiện ở hai mặt: trước hết,

bỏ qua tầm quan trọng của giáo dục đạo đức, cho rằng chỉ cần kinh tế phát

triển thì trình độ đạo đức xã hội tự nhiên sẽ cũng được nâng cao, chỉ cần giáo

dục đạo đức cho quần chúng còn cán bộ, đảng viên thì không cần; thứ hai,

đạo đức có khuynh hướng tách rời thực tế khá nghiêm trọng thiếu tính hiện

thực, nội dung trống rỗng, hình thức đơn điệu.

Cần lưu ý rằng không phải cứ kinh tế phát triển là đạo đức cách mạng

tự động được nâng lên. Không phải cứ đời sống vật chất được cải thiện thì

sự sa đọa về lối sống, xuống cấp về đạo đức được tự động khắc phục. Cho

nên, cùng với việc phát triển kinh tế - xã hội, chúng ta phải đẩy mạnh việc

giáo dục cũng như giáo dục đạo đức cách mạng trong cán bộ, đảng viên và

nhân dân. Trong việc giáo dục đạo đức cách mạng phải chú trọng tới việc

định hướng, hướng dẫn các quan niệm đúng về các giá trị đạo đức. Việc giáo

dục đạo đức cách mạng phải được thực hiện theo nhiều kênh, nhiều biện

pháp, nhiều hình thức kết hợp với các phương tiện thông tin đại chúng khác

nhau hình thành dư luận xã hội ủng hộ cái đúng, phê phán cái sai. Giáo dục

phải có tính hiện thực, căn cứ vào hiện thực xã hội của thời kỳ mở cửa, tích

cực tìm tòi phương hướng, lấy giáo dục dạo đức làm khâu quan trọng để

Page 134: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

nâng cao trình độ đạo đức xã hội. Nội dung giáo dục phải thiết thực, cụ thể,

tránh khuôn sáo, máy móc, qua thực tiễn giáo dục không ngừng cải tiến và

hoàn thiện hình thức và nội dung giáo dục. Chỉ có như vậy mới có thể làm

cho sự biến đổi đạo đức xã hội theo kịp nhịp bước của thời đại, từng bước

thích ứng với nhu cầu hiện thực của thời kỳ mở cửa. Mặt khác, cần coi trọng

việc bồi dưỡng tố chất đạo đức cơ bản để thúc đẩy hình thành môi trường

đạo đức lành mạnh bao gồm: lấy phong cách của Đảng để lôi kéo phong cách

quần chúng, tăng cường xây dựng nền hành chính trong sạch, nêu gương tốt

của cán bộ và đảng viên, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng đạo đức.

Đối tượng của giáo dục đạo đức cách mạng không chỉ là cán bộ, đảng

viên mà phải là toàn thể nhân dân. Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ

VI đã nhấn mạnh: "Vấn đề đạo đức xã hội đang được đặt ra một cách cấp

bách. Trong xã hội ta đang diễn ra cuộc đấu tranh giữa hai lối sống: lối sống

có lý tưởng, lành mạnh, trung thực, sống bằng lao động của mình, có ý thức

tôn trọng vào bảo vệ của công, chăm lo lợi ích của tập thể và của đất nước,

với lối sống thực dụng, dối trá, ích kỷ, ăn bám, chạy theo đồng tiền... Các lực

lượng làm công tác tư tưởng phái tích cực tham gia cuộc đấu tranh này, lên

án, vạch trần bản chất thối nát của lối sống cũ, khẳng định mạnh mẽ và truyền

bá rộng rãi những giá trị đạo đức mới, thúc đẩy quá trình hình thành lối sống

mới".

Phủi nghiêm khắc phê phán các lối sống lạc hậu, sai trái, phát huy, kế

thừa những tinh hoa của dân tộc, vận dụng thích hợp với tình hình thực tế

hiện nay để giáo dục và xây dựng con người xã hội chủ nghĩa. Cần nêu bật

đường lối và phương pháp đúng đắn của Đảng và Hồ Chí Minh trong việc vận

dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về đạo đức cách mạng vào thực tế xã

hội Việt Nam để xây dựng nền kinh tế mới, nền văn hóa mới với những con

người có đạo đức, có phẩm chất cao quý, tận tụy phục vụ nhân dân, phục vụ

Tổ quốc.

Khi còn sống, Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở: "Đạo đức cách mạng

không phải ở trên trời sa xuống, nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày

Page 135: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng

luyện càng trong". Cho nên, đi đôi với việc giáo dục cách mạng thì mỗi cán

bộ, đảng viên phải luôn luôn tự mình trau dồi, rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất

đạo đức cách mạng. Phải từng bước khắc phục những nguyên nhân trực tiếp

làm nảy sinh tệ nạn tham nhũng, quan liêu, cũng như sự sa đọa về lối sống

và đạo đức. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, chủ nghĩa cá nhân của cán hộ,

đảng viên sẽ đem lại những nguy cơ khó lường và những hậu quả tai hại.

Về vấn đề này, tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa IX, Chủ tịch nước Lê

Đức Anh đã viết trong báo cáo của mình: "... Chúng ta đã tự khẳng định mình

bằng những thành tựu đạt được trong 5 năm qua, những năm đầy sóng gió,

song chúng ta vẫn còn những khuyết điểm nội tại có chiều hướng gia tăng,

nếu không ngăn chặn kịp thời sẽ trở thành nguy cơ...

Vì vậy. "chúng ta phải tìm mọi biện pháp để đẩy lùi và loại trừ chủ nghĩa

cá nhân trong Đảng, trong bộ máy nhà nước, trong các doanh nghiệp nhà

nước thì mới đẩy lùi được mọi nguv cơ, mới hoàn thành được sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa và mới đưa đất nước tiến đến mục tiêu đã

định".

Tự rèn luyện mình tức là đấu tranh chống những tư tưởng xấu, những

thói quen xấu, lạc hậu trong bản thân mỗi người để xây dựng những bản chất

tốt đẹp, phù hợp với quy luật tiến hóa của xã hội.

Việc tự rèn luyện mình và cải tạo xã hội có quan hệ mật thiết với nhau:

cải tạo xã hội có tác dụng cải tạo bản thân, và cải tạo bản thân là góp phần

cải tạo xã hội. Trong mối quan hệ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi trọng mặt tự

rèn luyện, mặt tự cải tạo bản thân mình. Lênin khi nói đến vấn đề giáo dục

đạo đức cộng sản cũng đã khẳng định vai trò của việc tự giáo dục thành

những người cộng sản.

Đúng là phải làm như vậy, bởi vì mỗi con người chúng ta không ai hoàn

thiện cả, dù không sinh ra từ xã hội cũ thì cũng không tránh khỏi việc chịu ảnh

hưởng ít nhiều của những tàn dư tư tưởng phong kiến, tư bản.

Page 136: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Cuộc đấu tranh khắc phục mặt xấu, phát huy mặt tốt trong mỗi con

nguời chúng ta không thể tách rời sự giáo dục của Đảng, không thể không

chịu tác động giáo dục của xã hội thông qua dư luận, nhưng chủ yếu vẫn là

diễn ra trong mỗi con người. Hành vi đạo đức tùy thuộc vào trình độ giác ngộ

của mỗi người. Vì sao cùng một hoàn cảnh xã hội giống nhau, cùng một cuộc

sống như nhau mà có người giữ được phẩm chất đạo đức, có người lại thoái

hóa biến chất. Những tính toán cá nhân của mỗi người chẳng khác nào như

kẻ địch len lỏi trong lòng mình. Chỉ có bản thân mình phát hiện ra nó và đấu

tranh khắc phục nó. Có thể nói lòng mình là cửa ải cuối cùng quyết định hành

vi đạo đức. Lòng mình trong sáng mới có được động cơ và tình cảm cách

mạns đúng. Muốn làm được điều đó phải tự rèn luyện mình, tự xây dựng cho

mình một bản lĩnh vững vàng, một ý thức tự giác cao mới xử lý đúng được

những hành vi đạo đức trong bất kỳ hoàn cảnh nào, lúc thuận lợi cũng như

lúc khó khăn. Khi lòng đã đen tối, tính toán cá nhân, ích kỷ thì làm sao xây

dựng được đạo đức cách mạng.

Tự mình đấu tranh, tự rèn luyện để khắc phục chủ nghĩa cá nhân, xây

dựng chủ nghĩa lập thể, chí công vô tư, mình vì mọi người là trách nhiệm

thường xuyên của mỗi cán bộ, đảng viên, có làm được điều đó mới tạo nên

sức mạnh lôi cuốn quần chúng đi theo Đảng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc đến một phương pháp giáo dục

quan trọng là sức mạnh của sự nêu gương. Người luôn luôn làm gương trước

cho mọi người noi theo. Người cho rằng: Lấy gương người tốt, việc tốt để

hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng

Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống

mới.

Thấm nhuần và quán triệt tư tưởng của Hồ Chí Minh trong mọi hoạt

động của mình, Đảng ta luôn nhấn mạnh vấn đề rèn luyện phẩm chất cách

mạng của đảng viên, coi đó là một yếu tố rất quan trọng để bảo đảm cho

đường lối của Đảng được thực hiện tốt và để giữ vững uy tín của Đảng, về

công tác xây dựng Đảng, Đảng ta chỉ rõ: Đã là đảng viên thì phải phấn đấu

Page 137: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

không mệt mỏi cho lý tưởng, sẵn sàng hy sinh vì lý tưởng, phải sống trong

sạch, phải là người tiêu biểu nhất cho con người mới xã hội chủ nghĩa. Người

cộng sản phải là tấm gương sáng để quần chúng noi theo. Cán bộ, đảng viên

từ uỷ viên Trung ương Đảng đến mọi đảng viên ở cơ sở phải là những chiến

sĩ tiên phong, gương mẫu về mọi mặt để tập hợp được quần chúng thực hiện

các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Những điều trình bày trên chỉ có thể trở thành hiện thực khi mỗi cán bộ,

đảng viên tự giác rèn luyện mình và như vậy, sự nghiệp đổi mới, mới giữ

được định hướng xã hội chủ nghĩa.

IV. VẤN ĐỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO THANH NIÊN, SINH VIÊN HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH

Việc bồi dưỡng thế hệ nối tiếp cho thế hệ hiện tại để xây dựng và bảo

vệ đất nước là một quy luật tất yếu cho sự tồn tại của các quốc gia, các dân

tộc.

Đối với Hồ Chí Minh, việc bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là

một vấn đề mà suốt cuộc đời Người hết sức quan tâm.

Ngay từ những năm 1920 - 1930, khi bắt đầu cuộc vận động cách

mạng ở nước ta, trong "Thư gửi thanh niên Việt Nam", Hồ Chí Minh đã thấy

thanh niên là lực lượng cứu nguy cho dân tộc Việt Nam nói riêng và Đông

Dương nói chung, Người coi việc thức tỉnh tinh thần vêu nước của tầng lớp

thanh niên là một yêu cầu cấp bách. Người nói: "Hỡi Đông Dương đáng

thương hại: Người sẽ chết mất, nếu đám thanh niên sớm già của Người

không sớm hồi sinh".

Vào năm 1925, Người tổ chức ra "Việt Nam Thanh niên Cách mạng

Đồng chí Hội, nhằm tập hợp những thanh niên yêu nước có xu hướng cộng

sản chủ nghĩa, thực hiện nhiệm vụ kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong

trào công nhân và phong trào yêu nước, tiến tới thành lập Đảng.

Page 138: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công lập nên nước Việt Nam Dân

chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh đã vạch rõ: Thanh niên là người chủ tương lai

của nước nhà. Người động viên thanh niên đứng lên làm chủ đất nước hăng

hái tham gia ba nhiệm vụ cấp bách lúc đó là: diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt

giặc ngoại xâm.

Hồ Chí Minh thường nói rằng: "Thanh niên là một bộ phận quan trọng

của dân tộc. Dân tộc bị nô lệ thì thanh niên cũng bị nô lệ. Dân tộc được giải

phóng, thanh niên mới được tự do. Vì vậy thanh niên phải hăng hái tham gia

cuộc đấu tranh của dân tộc".

Hồ Chí Minh yêu cầu thanh niên thực hiện tốt mấy điều sau đây để

xứng đáng là người chủ của một nước xã hội chủ nghĩa:

"Phải thấm nhuần đạo đức cách mạng tức là khiêm tốn, đoàn kết, thực

hành chủ nghĩa tập thể, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau, người tiên tiến thì giúp

đỡ người kém, người kém phải cố gắng để tiến lên, ra sức cần kiệm xây

dựng nước nhà.

- Phải nghiêm khắc chống chủ nghĩa cá nhân như tự tư tự lợi, tự kiêu

tự mãn, chỉ tham việc gì có danh tiếng, xem khinh những công việc bình

thường. Phải chống tham ô, lãng phí.

- Phải cố gắng học hỏi để không ngừng nâng cao trình độ chính trị, văn

hóa và kỹ thuật để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân".

Sinh thời, Hồ Chí Minh thường nói: "Bác rất yêu quý thanh niên", và

Người thường giải thích: Thanh niên tượng trưng cho sức sống của cuộc đời,

cái đẹp của đất nước và tinh thần của dân tộc, "Một năm khởi đầu từ mùa

xuân, một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội". Vì thế

lòng yêu nước, tình cảm thương dân của Người gắn liền với sức sống của

nhân dân là thanh niên. "Thanh niên là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ

thanh niên già... xung phong trong công cuộc phát triển kinh tế và văn hóa

trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thanh niên là lực lượng cơ bản

trong bộ đội, công an, dân quân tự vệ... Trong mọi công việc, thanh niên thi

Page 139: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

đua thực hiện khẩu hiệu: "Đâu cần, thanh niên có, việc gì khó, thanh niên

làm".

Thực tiễn cách mạng Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp,

chống Mỹ xâm lược và xây dựng Tổ quốc đã chứng tỏ lực lượng to lớn và

vững chắc của thanh niên. Trên bất cứ mặt trận nào thanh niên cũng nêu cao

chí khí cách mạng "Trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn

thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng".

Ngày nay, thanh niên là nguồn lực quan trọng của sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thanh niên là những người chủ, là lực

lượng xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sự nghiệp đổi

mới có thành công hay không, đất nước bước vào thế kỷ XXI có xứng đáng

trong cộng đồng thế giới hay không, cách mạng Việt Nam có vững bước theo

con đường xã hội chủ nghĩa hay không phần lớn tuỳ thuộc vào lực lượng

thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên.

Hội nghị lần thứ 7 BCH TW khóa VII khẳng định: "Công nghiệp hóa,

hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản

xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ

công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công

nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển

của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động

xã hội cao". Như vậy để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

phải đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, do đó giáo dục và đào tạo phải trở

thành quốc sách hàng đầu. Trong giáo dục - đào tạo phải đặc biệt quan tâm

đến thanh niên...

Sinh viên là một bộ phận ưu tú trong tầng lớp thanh niên. Được học tập

và rèn luyện để trở thành những trí thức tương lai, họ có khả năng tiếp thu

những thành tựu mới của khoa học - công nghệ tiến tiến, có thể đưa nước ta

"đi tắt", "đón đầu" để hội nhập với khu vực và quốc tế.

Trong toàn bộ sự nghiệp giáo dục nói chung, thì việc giáo dục đạo đức

cho sinh viên có ý nghĩa vô cùng quan trọng, bởi nó là cơ sở nền tảng, hình

Page 140: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

thành con người mới vừa hồng vừa chuyên. Chính vị trí của nó, mà giáo dục

phải là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân ta, trong đó vai trò của nhà trường

nói chung và trường đại học nói riêng là hết sức quan trọng. Tuy nhiên, để

hoàn thành nhiệm vụ cao cả đó đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa nhà

trường, gia đình và các đoàn thể xã hội.

Sự nghiệp giáo dục - đào tạo nói chung, cũng như giáo dục đạo đức nói

riêng được Hồ Chí Minh quan tâm một cách toàn diện. Người đặc biệt chú

trọng đến thế hệ trẻ mầm non của đất nước, nhất là thanh niên, học sinh và

sinh viên. Ngay từ buổi đầu khi cách mạng còn gặp nhiều khó khăn, để chuẩn

bị lực lượng, Người đã tổ chức mở nhiều trường, lớp huấn thị cho thanh niên

về bản lĩnh về đạo đức của người chiến sĩ cách mạng. Cách mạng tháng Tám

thành công, thời kỳ mới đã mở ra với những nhiệm vụ mới. Người nhấn mạnh

đến việc dạy và học, đức và tài: "Dạy cũng như học phải chú trọng cả tài lẫn

đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc rất quan trọng. Nếu không có

đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng. Đạo đức cách mạng là triệt để

trung thành với cách mạng, một lòng một dạ phục vụ nhân dân".

Để thực hiện tốt sự nghiệp giáo dục đào tạo, thì vai trò của thầy cô

giáo, có ý nghĩa đặc biệt, Người nói: "Giáo viên phải chú ý cả tài, cả đức, tài

là văn hóa, chuyên môn, đức là chính trị. Muốn cho học sinh có đức thì giáo

viên phải có đức" bởi tư cách của người thầy có ảnh hưởng rất lớn đối với

học sinh, sinh viên: "Trẻ em như cái gương trong sáng, thầy tốt thì ảnh hưởng

tốt, thầy xấu thì ảnh hưởng xấu".

Mặc dù trong những năm cả nước có chiến tranh ác liệt, điều kiện kinh

tế hết sức khó khăn, gian khổ, song Người vẫn hết sức quan tâm, theo dõi và

ra lời kêu gọi: "Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học

tốt".

Về vai trò, vị trí của sự nghiệp giáo dục, Người chỉ rõ: "Các ngành, các

cấp Đảng và chính quyền địa phương phải thật sự quan tâm hơn nữa đến sự

nghiệp này, phải chăm sóc nhà trường về mọi mặt, đẩy sự nghiệp giáo dục

của ta lên những bước phát triển mới".

Page 141: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Trong hơn mười năm đổi mới, đường lối của Đảng đã đi vào cuộc

sống, đất nước đã đạt được nhiều thành tựu trong kinh tế, đời sống nhân dân

được cải thiện, đất nước đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế. Những thành

tựu đạt được trong sự nghiệp đổi mới đã góp phần củng cố niềm tin đối với

xã hội nói chung và của sinh viên nói riêng về vai trò lãnh đạo của Đảng, uy

tín của Đảng được nâng cao. Các yếu tố đạo đức truyền thống như lòng yêu

nước, cần cù, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa, hiếu học, không

cam chịu nghèo khó, thua kém các nước trên thế giới đã thúc đẩy sinh viên

trong quá trình học tập, tiếp cận những cái mới, cái hiện đại và sáng tạo mà

thế hệ cha anh trước đây chưa có điều kiện để thực hiện ước mơ của mình.

Hơn nữa, với các chính sách kinh tế đúng đắn của Đảng và Nhà nước

như "Trợ cấp xã hội". "Quỹ trợ giúp sinh viên nghèo học giỏi", chính sách trợ

cấp học bổng cho "sinh viên con em thương binh, liệt sĩ"... đã góp phần khơi

dậy lòng nhân ái, lối sống và tình cảm đẹp trong sinh viên, tăng thêm sự tin

tưởng vào bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội mới. Bên cạnh đó, sự phát triển

của kinh tế thị trường đòi hỏi sinh viên phải năng động, nhạy cảm: chính vì

vậy nhiều sinh viên đã khắc phục khó khăn, tích cực học lập, với phương

châm giỏi một nghề biết nhiều nghề, phù hợp theo yêu cầu của kinh tế thị

trường, bước đầu đã dấy lên phong trào tự học, tự rèn trong sinh viên, khởi

đầu một sự tốt đẹp trong học tập và nghiên cứu khoa học trong sinh viên.

Những thành quả trên đây đã tạo lập được ý thức, trách nhiệm, tích

cực phấn đấu, nhiều đoàn viên, thanh niên, sinh viên tha thiết, mong muốn

thực hiện nguyện vọng cao cả của mình là được đứng vào hàng ngũ Đảng,

được đóng góp nhiều hơn cho sự nghiệp xây dựng đất nước, phấn đấu, góp

phần thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn

minh.

Tuy nhiên, trong sự phát triển của kinh tế thị trường, bên cạnh những

mặt tích cực, còn có những mặt tiêu cực, hạn chế nhất định như: phân hóa

giàu nghèo, tâm lý sùng bái đồng tiền, trọng lợi khinh nghĩa, làm nỗi dậy chủ

nghĩa cá nhân, nảy sinh lối sống thực dụng, bất chấp đạo lý, các tệ nạn xã hội

Page 142: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

như buôn lậu, tham nhũng, làm giàu bất chính ngày càng nhiều v.v... Sự tác

động của kinh tế thị trường còn dẫn đến những thay đổi trong quan niệm về

đạo đức, về lối sống, coi nặng giá trị vật chất, kinh tế, coi nhẹ các giá trị tinh

thần, xã hội. Những tiêu cực do cơ chế thị trường nẩy sinh đang lan vào các

trường đại học, cao đẳng, đã ảnh hưởng không tốt đến các hoạt động của

nhà trường, làm giảm sút chất lượng học tập và đạo đức, lối sống trong một

bộ phận sinh viên. Chẳng hạn, hiện tượng xin điểm, mua điểm khá phổ biến,

việc đánh giá kết quả học tập không còn nghiêm túc, khách quan, nguy hại

hơn nữa là sự xói mòn, xuống cấp đạo đức, phẩm chất của một bộ phận sinh

viên.

Vấn đề kỷ cương học tập, nhất là trong thi và kiểm tra đang là vấn đề

đáng lo ngại, bởi nó ảnh hưởng rất lớn không chỉ đến chất lượng học tập, mà

cả việc thực hiện công bằng trong các nhà trường. Tại Hội nghị hiệu trưởng

và bí thư Đảng uỷ các trường đại học năm 1993, Bộ trưởng Trần Hồng Quân

nêu rõ: "Điều đáng nói nhất ở đây là tình trạng thiếu kỷ cương ở nhiều trường

trong quá trình thi và kiểm tra với nhiều biểu hiện tiêu cực của cả thầy và trò

(thi và kiểm tra hộ, ra đề thi theo nội dung phụ đạo, xin và cho điểm...), đang

gây nhiều phản ứng trong sinh viên và xã hội".

Sự thiếu kỷ cương trong dạy và học ở các trường hiện nay là một trong

những nguyên nhân làm cho các tiêu cực trong học tập và thi cử của sinh

viên tăng lên. Hiện tượng quay cóp, thi hộ không chỉ từng môn học, mà cả thi

tuyển sinh quốc gia xảy ra khá phổ biến, ngày càng trở nên tinh vi, phức tạp.

Nhiều phương tiện kỹ thuật hiện đại như máy photocopy, máy ghi âm, máy bộ

đàm, máy nhắn tin... đều được sinh viên sử dụng vào việc gian lận trong thi

cử. Trong những quán photocopy năm nào cũns vậy, cứ gần sát ngày thi đều

trong tình trạng quá tải. Sinh viên không còn thấy hổ thẹn, e ngại khi giải thích

lý do về nhữns tài liệu thu lại cực kỳ nhỏ. Thật đáng buồn khi có người cho

rằng: Sinh viên có hơn 1001 cách quay thì giám thị cũng phải nghĩ ra ngần ấy

cách đối phó. Đó là cuộc chạy đua vô lý, song có thực và căng thẳng từ nhiều

năm nay. Có người dí dỏm nói vui: "thí sinh ngày càng thông minh", "giám thị

Page 143: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

phải nhanh tay lẹ mắt". Thực tế, nhiều sinh viên lười học nhưng tài xoay nên

kết quả điểm thi vẫn cao, đây là nỗi day dứt của các thầy, cô giáo, là nỗi bất

bình của những bạn trẻ trung thực, là nỗi sốt ruột của nhiều nhà khoa học

trong sự nghiệp đào tạo thế hệ tương lai về năng lực và nhân cách của họ,

những người làm chủ đất nước.

Việc giáo dục lòng nhân ái cho sinh viên, giáo dục cho các em có nhận

thức, tình cảm và thái độ đúng đắn trong quan hệ với mọi người, từ trong gia

đình ra ngoài xã hội chưa được chú trọng một cách đầy đủ. Nếu trong trường

học "chúng ta chỉ dạy cho học sinh một số kiến thức, mà không dạy cho các

em lòng thương người thì đó là một điều tai hại. Học sinh ở trường liệu về

nhà có biết thương cha mẹ, thương anh em không? Ngoài xã hội liệu có

thương yêu bạn bè, kính già, yêu trẻ, quý trọng người lao động không? Đến

khi ra trường, liệu các em có đủ nhân phẩm để làm người hay không? Đó là

mối lo âu của các bậc cha mẹ và đó cũng là những đòi hỏi mà nhà trường và

thầy giáo phải suy nghĩ và giải đáp. Một điều đáng lo ngại là trong chương

trình giáo dục hiện nay không chú trọng đầy đủ đến luân lý, đến đạo đức.

Điều đó cần phải được sửa chữa".

Điều đáng nói, trong chương trình giảng dạy ở các trường đại học, các

môn khoa học lý luận Mác - Lênin là những môn trang bị thế giới quan, nhân

sinh quan, xây dựng niềm tin lý tưởng cho sinh viên. Trước những biến động

phức tạp của thế giới ý thức học tập của sinh viên mang tính chất đối phó, thụ

động. Chính vì vậy mà đứng trước những khó khăn phức tạp của cuộc sống,

nhiều sinh viên không đủ bản lĩnh để giữ vững phẩm chất chính trị của mình,

có trường hợp bị tha hóa bởi những hiện tượng tiêu cực của xã hội. Một số

thiếu tự tin trở về với tập tục cũ như thờ cúng, bói toán, cầu mong trước khi đi

thi được thần thánh phù hộ để "Thi đi mà không thi lại".

Từ thực trạng trên, có thể nêu lên những nguyên nhân chủ yếu sau

đây:

- Chưa chú trọng đúng mức việc kết hợp giáo dục đạo đức giữa nhà

trường và ngoài xã hội... Lĩnh vực giáo dục đào tạo chưa được coi trọng một

Page 144: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

cách đầy đủ, có phần thiên lệch dạy "chữ" ít, "dạy nghề" chưa chú trọng, "dạy

người" thiếu "tiên học lễ, hậu học văn".

- Thiếu kỷ cương trong công tác đào tạo nói chung, dạy và học ở các

trường nói riêng, nhất là vấn đề kỷ cương trong thi và kiểm tra, đánh giá kết

quả học tập của sinh viên.

- Công tác tổ chức quản lý xã hội, quản lý kinh tế còn nhiều thiếu sót, tệ

nạn xã hội còn nhiều, tham nhũng trở thành "quốc nạn" có ở mọi ngành, mọi

cấp không chỉ làm thất thoát nền kinh tế, mà còn tác động, ảnh hưởng, làm

tha hóa đạo đức xã hội, ảnh hưởng đến sinh viên.

- Mặt trái của cơ chế thị trường tác động, sự đan xen giữa giá trị đạo

đức cũ và đạo đức mới, giữa cái đã biến đổi với những cái chưa kịp biến đổi

cho phù hợp đã dẫn đến sự sai lầm trong việc lựa chọn các giá trị đạo đức

của sinh viên.

- Do âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch chống chủ

nghĩa xã hội. Trong nhiều năm qua, các thế lực thù địch đã tìm mọi cách gieo

rắc trons sinh viên lối sống thực dụng, ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa, sùng bái

đồng tiền làm xói mòn lòng tin của sinh viên đối với Đảng, với lý tưởng cộng

sản chủ nghĩa.

Trước thực trạng suy thoái đạo đức của sinh viên hiện nay, việc giáo

dục đạo đức cho sinh viên, làm cho họ có đủ đức tài (trong đó đức là gốc) đáp

ứng nhu cầu của thực tiễn xây dựng đất nước là một trong những vấn đề cấp

bách, đảm bảo cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội khỏi bị chệch

hướng.

Giáo dục dạo đức cho sinh viên, học sinh là trách nhiệm của toàn xã

hội, trong đó nhà trường có một trách nhiệm hết sức nặng nề, vì đó là nơi đào

tạo những công dân và cán bộ tốt, những người chủ tương lai tốt của nước

nhà.

* Những định hướng về giáo dục đạo đức cho sinh viên hiện nay

Page 145: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ "giáo dục phải phục vụ đường lối chính trị

của Đảng và Chính phủ, gắn liền với sản xuất và đời sống của nhân dân. Học

phải đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tế "giáo dục phải toàn diện".

Người dạy: "Trong việc giáo dục và học tập phải chú trọng đủ các mặt: đạo

đức cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động và sản

xuất".

Trong giai đoạn hiện nay, cùng với quá trình chuyển từ cơ chế kế

hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường, các quan hệ xã hội, đặc biệt là

các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức cũng có sự dịch chuyển giá trị của nó.

Mặc dù nhiều chuẩn mực truyền thống vẫn còn nguyên giá trị, song những giá

trị ấy lại dễ bị hiểu nhầm, xuyên tạc. Ngược lại, có những cái phản giá trị đạo

đức truyền thống, chỉ mới vừa được du nhập lại được ngộ nhận, được coi là

"chuẩn mực mới", "giá trị mới". Do đó, việc giáo dục đạo đức cho sinh viên

hiện nay cần tập tung vào những vấn đề sau đây:

Giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong quá trình

đổi mới, nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là những yếu tố "bất biến", trong

sự nghiệp đổi mới hiện nay ở nước ta. Do đó phải kiên định xây dựng lòng

yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội cho sinh viên. Phải làm cho sinh viên ý thức

được rằng sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay là nhằm thực hiện bằng

được các yếu tố bất biến kể trên. Cơ chế thị trường là phương tiện để thực

hiện mục tiêu Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Kế thừa và phát huy những giá trị, chuẩn mực đạo đức truyền thống,

đạo đức cách mạng. Trong các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt

Nam, yêu nước là giá trị cao nhất, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử

Việt Nam. Hồ Chí Minh nói: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước, đó là

một truyền thống quý báu của la. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm

lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng to lớn và

mạnh mẽ, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm và khó khăn, nó nhấn chìm tất cả bè

lũ cướp nước và bán nước". Ngày nay yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội, yêu

Page 146: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

nhân dân. Trong cơ chế thị trường, khi mà các quan hệ xã hội của con người

đang có nguy cơ bị đồng tiền làm tha hóa, thì việc xây dựng lòng yêu nước,

yêu chủ nghĩa xã hội là một việc cấp bách, thiết thực, soi sáng cho sinh viên

định hướng các giá trị nhân cách, phẩm giá, giúp cho họ ngăn ngừa những

sai lệch chuẩn mực đạo đức do mặt trái của cơ chế thị trường mang lại.

Trong giai đoạn hiện nay, lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội mang

một nội dung mới so với trước đây. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ,

yêu nước là "Sẵn sàng đi bất cứ nơi nào, làm bất cứ việc gì khi Tổ quốc cần

đến", "Tất cả để đánh tháng giặc Mỹ xâm lược". Ngày nay, trong nền kinh tế

thị trường, lòng yêu nước thể hiện năng động sáng tạo, biết làm giàu một

cách chính đáng, theo sự qui định của pháp luật. Phải xuất phát từ lợi ích của

đất nước để định hướng hoạt động của bản thân mình, không vì lợi ích cá

nhân mà làm thiệt hại đến lợi ích chung của xã hội. Yêu nước là trung thành

với Tổ quốc. Trong lịch sử nhà nước phong kiến. Việt Nam đã từng lấy chữ

trung (trung quân) làm tiêu chuẩn số một trong việc bồi dưỡng và sử dụng

nhân tài. Ngày nay, trong bối cảnh quốc tế giao lưu, mở rộng thì trung với

nước lại càng quan trọng, vì thiếu nó thì nhân tài sẽ không đứng vững nổi

trước mọi sự cám dỗ, mua chuộc của bên ngoài và khi đó, tài càng cao thì

họa càng lớn.

Giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối

chủ trương, chính sách của Đảng, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng

Hồ Chí Minh trở thành tư tưởng chủ đạo, thành niềm tin chân lý trong thế hệ

trẻ. Xây đựng bản lĩnh chính trị cho sinh viên là để cho họ có thể ứng phó với

mọi biến đổi phức tạp của cuộc sống, làm chủ tương lai, làm chủ sự nghiệp

của mình.

Phải giáo dục cho sinh viên luôn có ý thức tự lực, tự cường, chủ động

trong học tập, nghiên cứu khoa học, học tập để phục vụ Tổ quốc, phục vụ

nhân dân, không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt đáp ứng yêu cầu nhiệm

vụ trong giai đoạn cách mạng mới, không chấp nhận sự nghèo đói, không làm

giàu bất chính, chống chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, hẹp hòi.

Page 147: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Giáo dục lòng nhân ái (hay tinh thần nhân đạo xã hội chủ nghĩa) cho

sinh viên vì lòng thương người là đạo lý của cuộc sống, là đạo lý làm người.

"Thương người như thể thương thân"là nét đẹp truyền thống của dân tộc, đức

tính "Thương người" của người Việt Nam ta không phải xuất phát từ Nho giáo

hay Phật giáo, mà xuất phát từ chính cuộc Sống của người Việt Nam và gắn

liền với lịch sử dân tộc Việt Nam. Lòng nhân ái theo quan điểm Hồ Chí Minh

là: tình thương giai cấp đối với công dân, tình thương yêu vô cùng rộng lớn

đối với nhân dân lao động, đối với người cùng khổ.

Ngày nay, nền kinh tế thị trường đang nuôi dưỡng chủ nghĩa cá nhân

và lối sống thực dụng, lấy đồng tiền làm giá trị cao nhất; quan hệ giữa người

với người theo lối "trả tiền ngay không cần tình nghĩa" đang gậm nhấm dần

những giá trị tốt đẹp của dân tộc, làm khô héo lòns nhân ái trons con người.

Trong tình hình ấy thì việc khơi dậy tình người, lòng yêu thương và giúp đỡ

lẫn nhau rõ ràng là có ý nghĩa nhất định góp phần đẩy lùi những ô nhiễm của

xã hội, làm cân bằng trạng thái tinh thần của môi trường sống.

Để khắc phục những khiếm khuyết, hạn chế những hiện tượng tiêu

cực, ngành giáo dục đào tạo phải xây dựng một hệ thống pháp quy tốt để vừa

giữ nghiêm kỷ cương phép nước, vừa bảo vệ sự trong sáng của nếp sống

văn hóa Việt Nam. Phải hình thành các hệ thống tổ chức và cơ chế đặc biệt

để kiểm tra chất lượng, chống các tệ nạn tiêu cực, ngăn chặn và đẩy lùi các

hành vi phi đạo đức, phi giáo dục như mua bằng, bán điểm, gian lận trong thi

cử.

Để đảm bảo chất lượng học tập phải loại trừ những tiêu cực trong thi

cử, các hành vi sai phạm phải được xử lý công minh, kịp thời, tạo điều kiện

thuận lợi cho việc ăn, ở, học tập của sinh viên trong nhà trường, cần phải có

các phương tiện phục vụ cho việc nghiên cứu, học tập của sinh viên, phải có

mức thu học phí phù hợp với từng đối tượng; đổi mới phương pháp dạy và

học đại học; tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, pháp luật, đạo đức cho

sinh viên; đưa môn đạo đức học vào giảng dạy... trong các trường đại học và

phổ thông". "Đạo đức học cần phải trở nên một ngành khoa học xã hội mà

Page 148: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

những người có trách nhiệm phải đi sâu nghiên cứu chuyên cần hơn nữa. Nó

cũng phải trở thành một môn khoa học không thể thiếu được trong các trường

đại học và giáo dục phổ thông". Có như vậy, cùng với các môn khoa học

khác, đạo đức học mới tham gia một cách tích cực trong việc định hướng giá

trị đạo đức cho sinh viên, phát triển truyền thống đạo đức dân tộc.

* * *

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức là nguồn sức mạnh tinh thần vĩ đại

cho nhân dân ta làm nên cuộc Cách mang tháng Tám thành công, kháng

chiến chống Pháp, chống Mỹ thắng lợi, giải phóng miền Nam thống nhất đất

nước.

Trong hơn mười năm Đổi mới, đường lối của Đảng đã đi vào cuộc

sống, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu kinh tế, đời sống nhân dân

được cải thiện, đất nước đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Những

thành tựu đạt được trong sự nghiệp Đổi mới đã góp phần củng cố niềm tin

của nhân dân về vai trò lãnh đạo của Đảng, uy tín của Đảng được nâng cao.

Tuy nhiên, những mặt trái của kinh tế thị trường cũng tạo ra cơ hội cho

những hiện tượng tiêu cực nảy sinh. Đó là nạn tham nhũng, buôn lậu, bất

chấp đạo lý và pháp luật để làm giàu bất chính. Sự biến chất của một số cán

bộ, đảng viên đang làm giảm sút uy tín của Đảng, của Nhà nước, gây ảnh

hưởng xấu trong nhân dân. Kinh tế thị trường kích thích chủ nghĩa cá nhân

phát triển, không ít người vì lợi, quên nghĩa, coi đồng tiền là trên hết. Chủ

nghĩa cá nhân thời kinh tế thị trường nối tiếp hầu như tất cả mọi biểu hiện xấu

xa của chủ nghĩa cá nhân thời bao cấp cũ, gây nên những tác hại to lớn và

nghiêm trọng nhất là nạn tham nhũng. Tham nhũng và tệ quan liêu đã trở

thành một trong bốn nguy cơ của đất nước, là môi trường tốt cho các thế lực

thù địch thực hiện "diễn biến hòa bình".

Ngày nay, trên đất nước ta vẫn còn có những mặt trận mà cuộc đấu

tranh giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu, giữa cái thiện và cái ác, giữa cái hợp

pháp và cái phạm pháp, giữa lối sống có lý tưởng, lành mạnh, trung thực,

thủy chung với lối sống thực dụng, dối trá ích kỷ, ăn bám, chạy theo đồng

Page 149: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

tiền... đang diễn ra gay go, gian khổ và lâu dài, đòi hỏi phải có đạo đức cách

mạng mới thắng được.

Mục tiêu của sự nghiệp cách mạng, của công cuộc Đổi đổi mới mà

Đảng ta đề ra là "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn

minh". Mục tiêu đó nằm trong lý tưởng cách mạng, lý tưởng đạo đức của Hồ

Chí Minh, trong khẩu hiệu: "Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ

và giàu mạnh" mà Người đã nêu lên, trong niềm tin của Người là thắng giặc

Mỹ ta sẽ xây dựng lại đất nước ta "đàng hoàng hơn, to đẹp hơn".

Trước đây, trong thời kỳ cả nước làm cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ

nhân dân, giải phóng đất nước, cán bộ, đảng viên và nhân dân ta phải thực

hiện đạo đức cách mạng Trung với nước, hiếu với dân, cần kiệm liêm chính...

thì ngày nay vẫn cần, thậm chí càng phải thực hiện đạo đức cách mạng đó.

Bởi lẽ ngày nay, kẻ thù của nhân dân ta đang tìm mọi cách để lật đổ chế độ

xã hội ở nước ta, biến nước ta thành một nước theo chế độ tư bản chủ nghĩa

bằng cách thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình" rất tinh vi và nguy hiểm.

Hơn bao giờ hết, cán bộ, đảng viên lại càng phải "Trung với nước, hiếu với

dân". "Cần kiệm liêm chính chí công vô tư"..., ra sức thực hiện "chống tham ô,

chống lãng phí, chống quan liêu". Hơn bao giờ hết, chúng ta phải thực hiện

lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc: "chăm lo giáo dục đạo đức

cách mạng" cho đoàn viên, thanh niên, đào tạo họ thành những người thừa

kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên".

THAY LỜI KẾT LUẬN

Kinh nghiệm lịch sử của bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, cũng

như kinh nghiệm đấu tranh giành lại và bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng Tổ

quốc trong thời hiện đại đã khẳng định rằng đạo đức là một trong những nhân

tố hàng đầu, có ý nghĩa sống còn đối với dân tộc Việt Nam chúng ta.

Để dựng nước và giữ nước trong điều kiện đất không rộng, người

không đông, lại phải nhiều phen đấu tranh để lật đổ ách thống trị, có khi kéo

Page 150: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

dài cả ngàn năm, cũng như để đánh bại các cuộc xâm lược vũ trang, các âm

mưu thôn tính, nô dịch của những kẻ thù lớn mạnh, giầu có hơn mình gấp

bội, dân tộc ta đã phải thường xuyên phát huy đến tối đa các yếu tố tinh thần,

chuyển hoá chúng thành sức mạnh vật chất để chiến thắng.

Đạo đức là một trong các yếu tố cơ bản tạo nên sức mạnh tinh thần

của dân tộc ta. Cốt lõi của đạo đức truyền thống là lòng trung thành với Tổ

quốc và dân tộc. Trong thời phong kiến, trung với nước thống nhất với trung

với vua, tuy nhiên trung với vua là có điều kiện, điều kiện ấy là vua phải trung

với nước. Tư tưởng đạo đức truyền thống của dân tộc ta đặt nước cao hơn

vua, xoay quanh phạm trù "trung" với nội hàm như vậy và một loạt phạm trù

khác thuộc hệ tư tưởng phong kiến. Các phạm trù đạo đức ấy được xác lập

trên cơ sở chủ nghĩa yêu nước gắn bó chặt chẽ với lòng thương dân và lòng

nhân ái truyền thống qua các cuộc đấu tranh, thành văn hay không thành văn,

bác bỏ các quan điểm tư tưởng phản đạo đức của bọn xâm lược và của bè lũ

bán nước. Chúng còn xác lập sự giao lưu văn hoá của dân tộc ta với phương

Bắc, qua đó dân tộc ta đã chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Trung Quốc, nổi

bật là ảnh hưởng của Nho giáo, nhưng vẫn giữ được bản sắc của mình. Nói

tóm lại, các phạm trù đạo đức mà ngày nay chúng ta đang sử dụng trong

tiếng nói và chữ viết, từ rất lâu đã là những phạm trù của đạo đức Việt Nam.

Ngày nay chúng ta cần phải kế thừa chúng, đưa vào nội hàm của chúng tinh

hoa tư tưởng đạo đức truyền thống của dân tộc, tư tưởng đạo đức của chủ

nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.

Sự nghiệp Đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, sự nghiệp

củng cố quốc phòng và giữ vững an ninh của Tổ quốc còn kéo dài. Định

hướng xã hội chủ nghĩa là bất biến. Sự thống nhất giữa dộc lập dân tộc và

chủ nghĩa xã hội là bất biến. Đại đoàn kết dân tộc xung quanh khối liên minh

công nhân - nông dân - trí thức dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân là

bất biến. Chính sách đối ngoại hoà bình, hữu nghị, tiến bộ là bất biến. Bởi

vậy, trong lĩnh vực đạo đức, nhiệm vụ xây dựng đạo đức cách mạng dưới ánh

sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là bất biến. Như

Page 151: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

vậy, các phạm trù cơ bản của đạo đức cách mạng Việt Nam với nội hàm của

chúng như đã được chỉ ra tại chương 2 là bất biến. Chắc chắn là cùng với

tiến trình cách mạng, chúng có thể được làm cho sâu sắc, phong phú thêm,

dẫu sao bản chất cách mạng và dân tộc của chúng ta sẽ trường tồn cùng với

sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.

Vấn đề vừa cấp bách vừa lâu dài hiện nay trong lĩnh vực đạo đức vẫn

là đấu tranh cho thắng lợi của đạo đức cách mạng trong nhận thức, tình cảm,

ý chí cũng như trong hành động của con người Việt Nam, trước hết là của

đông đảo đảng viên và đoàn viên thanh niên.

Đối với chúng ta, trong thời đại ngày nay, đạo đức cách mạng đồng

nghĩa với đạo đức Hồ Chí Minh. Bởi vậy, cần phải tiếp tục tuyên truyền, giáo

dục tư tưởng Hồ Chí Minh một cách sâu rộng và thường xuyên. Cần phải làm

cho các phạm trù đạo đức mà Người đã sử dụng ngày càng trở nên phổ biến,

ngày càng tỏa rộng, ăn sâu vào tâm thức và đời sống hàng ngày của con

người Việt Nam.

Trong số các phạm trù đạo đức mà Người đã sử dụng có các phạm trù

"tình" và "nghĩa". Phạm trù "nghĩa" đã được Người sử dụng rất sớm. Với

phạm trù "tình" (đi liền với phạm trù "nghĩa") thì mãi đến đầu tháng 6 năm

1968 Người mới sử dụng trong buổi làm việc với một số cán bộ Ban Tuyên

huấn Trung ương Đảng về việc làm và xuất bản loại sách Người tốt Việc tốt.

Nếu nhớ lại quan hệ giữa một số nước anh em và giữa đồng chí với nhau hồi

bấy giờ, nếu đối chiếu với tình hình phụ tình bạc nghĩa trong các mối quan hệ

xã hội của những phần tử thoái hoá, biến chất, thì những điều Hồ Chí Minh

từng phát biểu trong buổi làm việc nói trên vừa sâu sắc vừa có ý nghiã thời

sự biết bao: "Nhân dân ta từ tâu đã sống với nhau có tình có nghĩa... Từ khi

có Đảng ta lãnh đạo và giáo dục, tình nghĩa ấy càng cao đẹp hơn, trở thành

tình nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà. Hiểu

chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao

nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác

- Lênin được".

Page 152: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

Phái chăng tình hình thực tế hiện nay vẫn đang đòi hỏi chúng ta phải

dành cho các phạm trù "tình", "nghĩa" (hoặc "tình nghĩa" viết liền nhau) vị trí là

các phạm trù cơ bản trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, giống như vị trí đã

được dành cho các phạm trù trung, hiếu, cần, kiệm, liêm, chính, v.v... đã

được trình bày ở trên.

Thời gian gần đây, nhiều nhà trường đã nêu cao khẩu hiệu tiên học lễ,

hậu học văn. Việc này dường như đã có tác dụng tốt. Tuy nhiên, sẽ là thiếu

sót nếu chúng ta không đồng thời tiếp tục đề cao và phổ biến sâu rộng hơn

các khẩu hiệu “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, "Trung với nước, hiếu

với dân” và "Sống và làm việc theo gương Bác Hồ vĩ đại".

Tóm lại, tình hình và nhiệm vụ hiện nay đòi chúng ta hết sức quan tâm

đến việc giáo dục, rèn luyện đạo đức, sao cho các thế hệ Việt Nam hiện tại và

tương lai, trước hết là các thế hệ đảng viên và thanh, thiếu niên thấm nhuần

và làm theo tư tưởng đạo đức cách mạng, cũng là tư tưởng đạo đức Hồ Chí

Minh. Và, muốn vậy, cần phải tiếp tục dày công, bền bỉ tuyên truyền, giáo dục

ngày càng sâu rộng các phạm trù đạo đức mà Người đã sử dụng. Đồng thời,

cần phải kiên quyết, thường xuyên đấu tranh chống lại các quan điểm tư

tưởng và hành vi thiếu đạo đức, phản đạo đức mà biểu hiện tập trung là chủ

nghĩa cá nhân.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Đào Duy Anh. Từ điển Hán - Việt. Nxb TP. Hồ Chí Minh 1993.

[2] Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh. Bác Hồ thời niên

thiếu, Nxb Sự thật. Hà Nội 1989.

[3] Báo Nhân Dân, số ra ngày 03-4-1997.

[4] Hoàng Chí Bảo, Tìm hiểu tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh. Tạp

chí Lịch sử Đảng 3/1996. tr. 12-15.

Page 153: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

[5] Nguyễn Đức Bình. Đẩy mạnh việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập tư

tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành

động của Đảng tư, tạp chí Nghiên cứu lý luận 10/1998. tr. 3-8.

[6] Nguyễn Sỹ Cẩn, Nho giáo và tư tưởng nhân nghĩa đầu thế kỷ XV.

tạp chí Triết học 1/1979.

[7] Trần Đình Châu. Tư tưởng nhân văn trong di sản quân sự Hồ Chí

Minh, Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội 1999.

[8] Trường Chinh, Hồ Chủ tịch lãnh tụ kính yêu của giai cấp công nhân

và nhân dân Việt Nam. Nxb Sự thật. Hà Nội 1975.

[9] Nguyễn Trọng Chuẩn. Ý nghĩa thời sự của tư tưởng Hồ Chí Minh về

việc đào tạo thế hệ cách mạng cho đời sau, tạp chí Khoa học xã hội 41/1999.

tr. 47.

[10] Thành Duy. Tấm gương "Sống, chiến đấu, lao động và học tập"

của Bác đối với việc bồi dưỡng lý tưởng cách mạng và đạo đức xã hội chủ

nghĩa cho thế hệ trẻ, tạp chí Triết học 3/1985, tr. 103-112.

[11] Thành Duy, Vấn đề nghiên cứu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh -

nguồn gốc và bản chất, tạp chí Triết học 3/1993. tr. 27-32.

[12] Thành Duy (chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội 1996.

[13] Thành Duy, Tư tưởnq Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng với việc

xây dựng đạo đức đội ngũ cán bộ ngày nay, tạp chí Quốc phòng toàn dân

8/1997, tr. 24-26.

[14] Thành Duy. Hồ Chí Minh về vai trò của đạo đức trong sự nghiệp

cách mạng Việt Nam, tạp chí Thông tin lý luận 6/1999, tr.8-11.

[15] Thành Duy, Vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng trong xây dựng,

chỉnh đốn Đảng, tạp chí Thông tin lý luận 2/2000, tr. 12-16

Page 154: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

[16] Đảng Cộns sản Việt Nam - Ban chấp hành Trung ương - Tiểu ban

tổng kết xây dựng Đảng, Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng thời kỳ

1975 - 1995, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1997.

[17] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng 1930 - 1945, Ban nghiên

cứu lịch sử Đảng Trung ương xuất bản (3 tập), Hà Nội 1997.

[18] Đảng Cộng sản Việt Nam. Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành

Trung ương Đảng tại Đại hội Đại biêu toàn quốc lần thứ IV. Nxb Sự thật, Hà

Nội 1977.

[19] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần

thứ V (3 tập), Nxb Sự thật, Hà Nội 1982.

[20] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần

thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội 1987.

[21] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần

thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội 1991.

[22] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị Đại biểu toàn quốc

giữa nhiệm kỳ khóa VII. Nhà máy in Trần Phú - TP. Hồ Chí Minh 1994.

[23] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp

hành Trung ương Khóa 7, Nhà máy in Trần Phú - TP. HỒ Chí Minh 1994.

[24] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1996.

[25] Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong

thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nxb Sự thật, Hà Nội 1991.

[26] Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp

hành Trung ương Đảng khóa VIII, Ban Tư tưởng - Văn hóa Thành uỷ Thành

phố Hồ Chí Minh ấn hành 1998.

[27] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu (lần 2),

Ban chấp hành Trung ương khóa VIII. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1999.

Page 155: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

[28] Đảng Cộng sản Việt Nam. Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết Hội nghị

lần thứ 6 (lần 2) Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII. Ban Tư tưởng -

Văn hóa Trung Ương (dành cho báo cáo viên). Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

1999.

[29] Phạm Văn Đồng. Chủ tịch Hồ Chí Minh, tinh hoa và khí phách của

dân tộc, lương tâm của thời đại, Nxb Sự thật. Hà Nội 1970.

[30] Phạm Văn Đồng. Hồ Chí Minh - Hình ảnh dân tộc, tinh hoa thời đại,

Nxb Sự thật. Hà Nội 1974.

[31] Phạm Văn Đồng. Hồ Chí Minh, một con người, một dân tộc, một

thời đại, một sự nghiệp. Nxb Sự thật, Hà Nội 1990.

[32] Phạm Văn Đồng. Hồ Chí Minh, quá khứ, hiện tại, tương lai, gồm 2

tập. Nxb Sự thật, Hà Nội 1991.

[33] Phạm Văn Đồng, Những nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí

Minh, Nxb Chính trị quốc gia. Hà Nội 1998.

[34] Epghinhi Cabêlep, Đồng chí Hồ Chí Minh, gồm 2 lập, Nxb Thanh

niên, Hà Nội 1985.

[35] Gbandzeladze, Đạo đức học, gồm 2 tập, Nxb Giáo dục, Hà Nội

1985.

[36] Võ Nguyên Giáp, Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng

con người mới, Tạp chí Cộng sản 6/1990, tr. 1-8.

[37] Võ Nguyên Giáp, Tư tưởng Hồ Chí Minh - quá trình hình thành và

phát triển, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1993.

[38] Võ Nguyên Giáp, Tư tưởng Hồ Chí Minh - quá trình hình thành và

nội dung cơ bản, (Thồng tin chuyên đề, phần 2: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,

Trung tâm Thông tin tư liệu, Vụ quản lý đào tạo, Học viện Chính trị Quốc gia

Hồ Chí Minh xuất bản), Hà Nội, 1994.

Page 156: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

[39] Võ Nguyên Giáp, Một số nội dung trong tư tưởng nhân văn, đạo

đức, văn hóa Hồ Chí Minh, Tạp chí Cộng sản 9/1997, tr.3-9.

[40] Trần Văn Giàu, Đạo đức Nho giáo và đạo đức truyền thống Việt

Nam, Tạp chí Triết học 1/1978.

[41] Trần Văn Giàu, Giá trị tinh thần trong truyền thống Việt Nam, Nxb

Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1980.

[42] Trần Văn Giàu, Trong dòng chủ lưu của văn học Việt Nam: Tư

tưởng yêu nước, Nxb Văn nghệ TP Hồ Chí Minh,1983.

[43] Trần Văn Giàu, Mấy vấn đề cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh:

nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, tập 2, Viện Hồ Chí Minh xuất bản, 1993, tr.

1-5.

[44] Trần Văn Giàu, Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam,

Nxb TP Hồ Chí Minh, 1993.

[45] Trần Văn Giàu, Sự hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997.

[46] Dương Phú Hiệp, Sự hình thành và phát triển nhân cách người

Việt Nam trong điều kiện chuyển từ nền kỉnh tế bao cấp sang nền kinh tế thị

trường, Tạp chí Triết học 4/1992, tr. 8-11.

[47] Nguyễn Hòai, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn nhận và giáo dục thanh

niên, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội 5/1985, tr.57-65.

[48] Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Phân viện Hà Nội, Tư

tưởng Hồ Chí Minh; tập bài giảng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995.

[49] Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Phân viện TP Hồ Chí

Minh, Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ và công tác cán bộ

trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997.

[50] Lê Văn Hoè, Bước đầu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về hiếu trị,

đức trị, Tạp chí Nghiên cứu lý luận số 10/1999, tr. 17

Page 157: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

[51] Hội thảo quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân

tộc, nhà văn hóa lớn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990.

[52] Hội nghị quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Anh hùng giải phóng dân

lộc, danh nhân văn hóa (1990), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

[53] Đỗ Huy (1985), Chủ tịch nồ Chí Minh với sự nghiệp đào tạo, rèn

luyện người thanh niên kiểu mới, tạp chí Triết học, Số 2, tr. 29 - 48.

[54] Nguyễn Văn Huyên (1996), Cội nguồn và bản chất tư tưởng nhân

văn Hồ Chí Minh, tạp chí Triết học, số 4, tr. 3-5.

[55] Trần Đình Huỳnh chủ biên (1996), Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh

về Đảng cầm quyền, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

[56] Trần Đình Hượu (1984), Mấy ý hiến bàn về nghiên cứu Nho giáo

tạp chí Nghiên cứu nghệ thuật, số 1, 2, 3.

[57] Trần Đình Hượu (1993), Con người Việt Nam với truyền thống văn

hóa Nho giáo hoá, tạp chí Khoa học xặ hội, Số 17, tr. 69 -72.

[58] Trần Đình Hượu (1995), Đến hiện đại từ truyền thống, NXB Văn

hóa Thông tin, Hà Nội.

[59] Phạm Khiêm Ích (1983), Hệ thống phạm trù đạo đức mácxit phải là

hệ thống mở, tạp chí Triết học, số 1.

[60] Vũ Ngọc Khánh. Minh triết Hồ Chí Minh, NXB Văn hóa Thông tin,

Hà Nội.

[61] Vũ Khiêu chủ biên (1974), Đạo đức mới, NXB Khoa học Xã hội, Hà

Nội.

[62] Vũ Khiêu (1975), Quan hệ giữa đạo đức và tài năng ở Hồ Chí

Minh, tạp chí Triết học, số 1, tr.3 -22.

[63] Vũ Khiêu (1978), Mấy vấn đề đạo đức cách mạng, NXB TP.HCM.

Page 158: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

[64] Vũ Khiêu (1990), Mấy vấn đề tại Hội nghị khoa học (Trích báo cáo

tổng kết Hội thảo quốc tế: Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân

tộc, danh nhân văn hóa). NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 426-431.

[65] Vũ Khiêu chủ biên (1992), Nho giáo xưa và nay, NXB Khoa học Xã

hội, Hà Nội.

[66] Vũ Khiêu chủ biên (1993), Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, truyền

thống dân tộc và nhân loại, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

[67] Vũ Khiêu (1995), Đức trị và Pháp trị trong Nho giáo, NXB Khoa học

Xã hội, Hà Nội.

[68] Vũ Khiêu chủ biên (1995), Nho giáo và đạo đức, NXB Khoa học Xã

hội, Hà Nội.

[69] Vũ Khiêu chủ biên, Nho giáo và gia đình, NXB Khoa học Xã hội, Hà

Nội.

[70] Vũ Khiêu (1996), Bàn về văn hiến Việt Nam (3 tuyển tập), NXB

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

[71] Vũ Khiêu (1997), Nho giáo và phát triển ở Việt Nam, NXB Khoa

học Xã hội, Hà Nội.

[72] Trần Hậu Kiêm - chủ biên (1993), Các dạng đạo đức xã hội (Tài

liệu học tập trong các trường đại học và cao đẳng), NXB Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

[73] Trần Hậu Kiêm - chủ biên (199?), Hỏi đáp về đạo đức học, NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[74] Trần Hậu Kiêm - chủ biên (1996), Giáo trình dạo đức học, NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[75] Nguyễn Thế Kiệt (1999), Tìm hiểu tư tưỏng đức trị trong Nho giáo,

tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 10, tr.46.

[76] Trần Trọng Kim (1992), Nho giáo, NXB TP.HCM.

Page 159: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

[77] Đặng Xuân Kỳ (1985), Học tập tác phong của Bác Hồ, tạp chí Cộng

sản, số 5, tr.70-75.

[78] Đặng Xuân Kỳ (1994), Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, tạp chí

Cộng sản, số 5, tr. 15-20.

[79] Đặng Xuân Kỳ - chủ biên (1997), Phưmg pháp và phong cách Hồ

Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

[80] Đặng Xuân Kỳ (1999), Di chúc của Bác Hồ soi sáng công cuộc đổi

mới hiện nay, tạp chí Lịch sử Đảng, Số 8, tr.3-8.

[81] Vũ Kỳ (1993), Bác Hồ căn dặn cán bộ, đảng viên phải thật sự thấm

nhuần và thực hành đạo đức cách mạng, tạp chí Tư tưởng Văn hóa, số 5, tr.

3-5.

[82] Tương Lai (1983), Chủ động và tích cực xây dựng đạo đức mới,

NXB Sự thật, Hà Nội.

[83] Tương Lai (1984), Cách đặt vấn đề và cách “giải quyết vấn đề” về

đạo đức mới - đạo đức của người lao động làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa,

tạp chí Triết học, Số 2, tr. 3-22.

[84] Tương Lai - chủ biên (1996), Những nghiên cứu xã hội học về gia

đình Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

[85] Phùng Hữu Lan, Bàn về Mạnh Tử (bản dịch đánh máy Viện Thông

tin Khoa học Xã hội).

[86] Nguyễn Hiến Lê (1995), Giản Chi - Hàn Phi Tử, NXB Văn hóa

Thông tin, Hà Nội.

[87] V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tr.35, NXB Tiến bộ, Matxcơva.

[88] V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tr.41, NXB Tiến bộ, Matxcơva.

[89] V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tr.43, NXB Tiến bộ, Matxcơva.

[90] V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tr.45, NXB Tiến bộ, Matxcơva.

Page 160: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

[91] Nguyễn Bá Linh (199?), Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, tạp chí

Lịch sử Đảng, số..., tr.33-36.

[92] Nguyễn Bá Linh (1990), Bác Hồ sống mãi với non sông, NXB Sự

thật, Hà Nội.

[93] Nguyễn Bá Linh (1995), Tư tưởng Hồ Chí Minh một số nội dung cơ

bản (tái bản lần thứ tư), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[94] Nguyễn Văn Linh (1990), Lời chào của Tổng bí thư Ban chấp hành

Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (Hội thảo quốc tế: Chủ tịch Hồ Chí

Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn), NXB Khoa học Xã hội,

Hà Nội, tr. 9-10.

[95] Nguyễn Văn Linh (1990), Chủ tịch Hồ Chí Minh, một chiến sỹ đấu

tranh không mệt mỏi cho hoà bình và hữu nghị, một nhà tư tưởng và văn hóa

lớn, một nhân cách cao đẹp, một hình mẫu sáng ngời về con người mới của

hiện tại và tương lai, Báo Hà Nội mới, ngày 19-5-1990.

[96] Nguyễn Văn Linh (1993), cần tiếp tục nâng cao nhận thức về tư

tưởng Hồ Chí Minh (trích), Báo Sài Gòn giải phóng, ngày 12/5.

[97] Nguyễn Văn Linh (1994), Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã và

đang soi đường thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Thời báo Kinh tế Việt

Nam (đặc san), Số 8, tr.1-3.

[98] Luận ngữ (1992), Dịch giả Lê Phục Thiện, NXB Văn học, Hà Nội.

[99] Cao Văn Lượng (1999), Hồ Chí Minh với vấn đề nâng cao đạc đức

cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, ngăn chặn sự thoái hóa, biến chất

của một bộ phận cán bộ, đảng viên, tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Số 5, tr.3.

[100] Trường Lưu - chủ biên (1998), Văn hóa đạo đức và tiến bộ xã hội,

NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

[101] C. Mác và Ph. Ăngghen (1994), Toàn tập, Tập 20, NXB Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

Page 161: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

[102] Hồ Chí Minh. Toàn tập, (từ tập 1 đến tập 12). Nxb Chính trị Quốc

gia, Hà Nội 1995 - 1996.

[103] Đỗ Mười. Lý tưởng của thanh niên Việt Nam trong sự nghiệp đổi

mới xây dựng và bảo vệ Tố quốc, Nxb Thanh niên, Hà Nội 1995.

[104] Nguyễn Chí Mỳ, Chủ nghĩa cá nhân và cuộc đấu tranh để khắc

phục nó, tạp chí Cộng sản 6/1989.

[105] Nguyễn Chí Mỳ (chủ biên), Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức

trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản

lý ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1999.

[106] Lê Hữu Nghĩa, Bước đầu tìm hiểu tư tưởng Triết học Hồ Chí

Minh, tạp chí Triết học 2/1996, tr. 11-15.

[107] Nguyễn Thế Nghĩa, Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và công

cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, tạp chí Triết học 10/1999, tr. 13.

[108] Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, (gồm 3 tập), Viện Hồ Chí Minh

thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh 1993.

[109] Vũ Oanh, Mấy vấn đề về xây dựng Đảng vững mạnh đáp ứng yêu

cầu nhiệm vụ mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1999.

[110] Đào Phan, Đạo Khổng trong văn Bác Hồ, Nxb Văn hóa thông tin

1996.

[111] Lê Khả Phiêu, Học tập, rèn luyện tư tưởng và đạo đức cách

mạng, thực hiện thắng lợi cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tạp chí

Khoa học xã hội 40/1999, tr. 9- 14.

[112] Bùi Đình Phong, Hồ Chí Minh với vấn đề gia đình, tạp chí Lịch sử

Đảng 4/1996, tr. 20 - 22.

[113] Bùi Đình Phong, về quan điểm kế thừa, đổi mới của Hồ Chí Minh,

tạp chí Thông tin lý luận 5/1999, tr. 12 - 16.

[114] Nguyễn Thu Phong (Hồng Vũ), Tính thiện trong tư tưởng Đông

phương, Nxb Văn hóa, Hà Nội 1996.

Page 162: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

[115] Nguyễn Trọng Phúc, Vài suy nghĩ nhân đọc lại các bài nói, bài viết

của Bác Hồ về đạo đức cách mạng, tạp chí Cộng sản 12/1999, tr. 19-22.

[116] Nguyễn Văn Phúc, Đạo đức học Mác - Lênin (Bài giảng dành cho

nghiên cứu sinh và cao học ngành triết học), Viện Triết học, Hà Nội 1997.

[117] Đạm Phương, Giáo dục nhi đồng, Nxb trẻ, TP. Hồ Chí Minh 1995.

[118] Đỗ Nguyên Phương, Nâng cao đạo đức nghề nghiệp của người

thầy thuốc, tạp chí Cộng sản 7/1997, tr. 19-21.

[119] Đào Duy Quát, Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh với sự nghiệp dân

giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, tạp chí Lịch sử Đảng 4/ 1995,

tr. 29 - 30.

[120] Nguyễn Duy Quý. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và cuộc vận

động xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Triết học

10/ 1999, tr. 5 - 7.

[121] Trần Xuân Sầm. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về thương yêu

và phê bình cán bộ trong cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay,

tạp chí Lịch sử Đảng 8/1999, tr. 15.

[122] Phạm Côn Sơn, Đạo nghĩa trong gia đình, Nxb Thanh Hóa 1997.

[123] Tôn Trung Sơn, Chú nghĩa Tam dân, Viện Thông tin Khoa học xã

hội, Hà Nội 1995.

[124] Sự phản bội của Goócbachốp (nhiều tác giả). Nxb Công an Nhân

dân, Hà Nội 1999.

[125] Trần Trọng Tân, Về đạo đức và sự tu dưỡng của đảng viên chúng

ta, tạp chí Khoa học xã hội 40/ 1999. tr. 15.

[126] Nguyễn Chí Thanh. Chống chủ nghĩa cá nhân, Nxb Sự thật, Hà

Nội 1978.

[127] Song Thành, Tư duy Hồ Chí Minh - cơ sở khoa học và thực tiễn,

tạp chí Lịch sử Đảng 3/ 1992. tr. 7-11.

Page 163: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

[128] Song Thành, Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, Khái niệm hệ

thống, tạp chí Cộng sản 1/1993. tr. 51 - 54.

[129] Song Thành (chủ biên), Một số vấn đề phương pháp luận và

phương pháp nghiên cứu về Hồ Chí Minh. Nxb Chính trị Quốc gia. Hà Nội

1997.

[130] Song Thành. Hồ Chí Minh - nhà văn hóa kiệt xuất. Nxb Chính trị

quốc gia. Hà Nội 1999.

[131] Lê Ngọc Thắng, về tư tưởng Hồ Chí Minh đối với phụ nữ. tạp chí

Cộng sản 10/1997, tr 22.

[132] Lê Sĩ Thắng. Chủ tịch Hồ Chí Minh và sự vận dụng chủ nghĩa

Mác - Lênin soi sáng con đường cách mạng, tạp chí Triết học 1/1990. tr. 8-9.

[133] Lê Sĩ Thắng, Góp phần tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội 1991.

[134] Lê Sĩ Thắng, Mấy đặc điểm trong phương pháp tư duy của Hồ

Chí Minh, tạp chí Triết học 2/1992, tr. 7-10.

[135] Lê Sĩ Thắng (chủ biên), Nho giáo tại Việt Nam, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội 1994.

[136] Lê Sĩ Thắng (chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và

về chính sách xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1996.

[137] Lê Sĩ Thắng. Lịch sử tư tưởng Việt Nam, t. 2. Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội 1997.

[138] Mạch Quang Thắng (chủ hiên), Một số chuyên đề về môn học tư

tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1996.

[139] Nguyễn Thế Thắng, Đánh giá cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh,

tạp chí Xây dựng Đảng số 5/1997. tr. 1-2.

[140] Lê Thi (chủ biên). Gia đình Việt Nam ngày nay, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội 1996.

Page 164: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

[141] Lê Thi, Mấy vấn đề phương pháp luận của tác phẩm "Đường

cách mệnh" của Hồ Chủ Tịch, tạp chí Triết học 1/1980, tr. 22-45.

[142] Lê Thi, Tìm hiểu tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Mình về vấn đề bồi

dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, tạp chí Triết học 2/1985, tr. 15.

[143] Nguyễn Đăng Thục. Lịch sử tư tưởng Việt Nam (gồm 6 tập), Nxb

Thành phố Hồ Chí Minh 1992.

[144] Nguyễn Tài Thư (chủ biên). Lịch sử tư tưởng Việt Nam, t. 1, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội 1993.

[145] Nguyễn Tài Thư, Nho học và Nho học ở Việt Nam, Một số vấn đề

lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1997.

[146] Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ

tịch (tái bản), Nxb Sự thật, Hà Nội 1976.

[147] Vũ Tinh, Đạo đức học phương Đônng cổ đại, Nxb Chính trị Quốc

gia, Hà Nội 1998.

[148] Đặng Hữu Toàn, Định hướng giá trị đạo đức trong bối cảnh phát

triển kinh tế thị trường, tạp chí Khoa học xã hội 40/ 1999, tr. 35.

[149] Nguyễn Khánh Toàn, Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là

một việc rất quan trọng và rất cần thiết (Hồ Chí Minh), tạp chí Triết học

2/1985, tr. 3.

[150] Nguyễn Khánh Toàn (chủ biên). Lich sử Việt Nam, gồm 2 tập,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1989.

[151] Nguyễn Trãi, Toàn tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1969.

[152] Phan Chu Trinh, Đạo đức và luân lý Đồng - Tây, tạp chí Nghiên

cứu lịch sử số 66/1964. tr. 22 - 24, tr. 31.

[153] Hoàng Trung, Phạm trù "Đạo đức cách mạng" trong tư tưởng Hồ

Chí Minh, tạp chí Triết học 5/1996, tr. 18.

Page 165: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

[154] Hoàng Trung, Ôn lại những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về

chống tham nhũng, tạp chí Khoa học xã hội 36/1998, tr. 16.

[155] Hoàng Trung, Mối quan hệ đức - tài và vấn đề lựa chọn, sử dụng

nhân tài trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tạp chí Khoa học xã hội 37/1998, tr.

173.

[156] Hoàng Trung, Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về vấn đề giáo dục,

rèn luyện đạo đức trong nền kinh tế thị trường, tạp chí Triết học 5/1998, tr. 27

[157] Hoàng Trung, Đóng góp của Phan Chu Trinh trong tiến trình tư

tưởng đạo đức Việt Nam hồi đầu thế kỷ, tạp chí Triết học 6/1999. tr. 45 - 47.

[158] Hoàng Trung, Vài suy nghĩ về giáo dục đạo đức cho sinh viên, Kỷ

yếu hội thảo khoa học "Giữ gìn bản sắc dân tộc trong giảng dạy và học tập ở

Trường Đại học Kinh tế TP. Ho Chí Minh" TP. Hồ Chí Minh 1999.

[159] Hoàng Trung (2000), Vì sao Hồ Chí Minh coi trọng đạo đức, tạp

chí Triết học, số 4, tr. 19-22.

[160] Hoàng Trung (2001), Quan điểm đạo đức Mác - Lênin - Cơ sở

hình thành tư tưởng đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh, Tạp chí KHXH, số 49,

tr.29-35.

[161] Hoàng Trung (2002), Phạm trù Trung - Hiếu trong triết lý phương

Đông và tư tưởng Hồ Chí Minh với vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng hiện

nay, Tạp chí Cộng sản số 26, tr. 18-23

[162] Hoàng Trung (2002), Nghị quyết Trung ương V Khóa IX và tư

tưởng Hồ Chí Minh về chống chủ nghĩa cá nhân. Sách “Công tác tư tưởng và

giảng dạy lý luận trong các trường đại học và cao đẳng hiện nay”, Nxb Tổng

hợp TP Hồ Chí Minh, tr. 135-162

[163] Hoàng Trung (2005), Một số suy nghĩ về cải tiến phương pháp,

nâng cao chất lượng giảng dạy môn triết học. Sách “Cải tiến phương pháp

giảng dạy tại trường Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh”, Nxb Tổng hợp TP Hồ

Chí Minh, tr.146-156.

Page 166: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

[164] Hoàng Trung (2007), Góp phần tìm hiểu Nghị quyết Đại hội X của

Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng. Sách “Đổi mới giảng

dạy các môn khoa học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh theo tinh thần

văn kiện Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam”, Nxb Tổng hợp TP Hồ Chí

Minh, tr.295-301.

[165] Hoàng Trung (2009), cần, kiệm, liêm, chính trong triết lý phương

Đông và tư tưởng Hồ Chí Minh với vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng hiện

nay. Sách “Tư tưởng Hồ Chí Minh - Lý luận và thực tiễn”, Nxb Thanh niên, tr.

131- 146.

[166] Hoàng Trung (2009), Góp phần tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về

đạo đức cách mạng trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”. Sách “Tư tưởng

Hồ Chí Minh - Lý luận và thực tiễn”, Nxb Thanh niên, tr. 203-210.

[167] Hoàng Tùng, Cán bộ đầy tớ của dân, tạp chí Cộng sản 10 /19971

tr. 14—15.

[168] Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, truyền thống dân tộc và nhân loại

(Chương trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh), Nxb Khoa học xã hội, Hà

Nội 1993.

[169] Tư tưởng Hồ Chí Minh và thời đại, (Nhiều tác giả), Ban Khoa học

xã hội Thành ủy TP. Hồ Chí Minh 1992.

[170] Unesco, Nghị quyết kỉ niệm 100 danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh

tại Liền hiệp quốc, tháng 5/ 1989.

[171] Unesco, Hội thảo Quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh (Trích tham

luận của Đại biểu quốc tế), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1990.

[172] Viện Thông tin khoa học xã hội, Những vấn đề đạo đức trong điều

kiện kinh tế thị trường (từ góc nhìn của các nhà khoa học Trung Quốc), Hà

Nội 1996.

[173] Viện Triết học, Mác - Ăngghen - Lênin, Bàn về đạo đức, Nhà máy

in Thống nhất, Hà Nội, 1972.

Page 167: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

[174] Viện Triết học, Đảng ta bàn về đạo đức, 1973.

[175] Viện Văn hóa (Bộ Văn hóa), Bàn về lối sống và nếp sống Xã hội

chủ nghĩa, Trần Độ (chủ biên), Nxb Văn hóa, Hà Nội 1985.

MỤC LỤCLời nói đầu

Chương 1. HỒ CHÍ MINH VÀ CUỘC CÁCH MẠNG TRÊN LĨNH VỰC ĐẠO ĐỨC Ở VIỆT NAM.

I. Tư đạo đức truyền thống dân tộc và sự bất cập của nó trong thời đại

mới

II. Những tư tưởng đạo đức cơ bản của C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I.

Lênin - nguồn gốc lý luận của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh

III. Về khái niệm “Đạo đức cách mạng” mà Hồ Chí Minh đã sử dụng

IV. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về vị trí của đạo đức và mối quan hệ

Đức - Tài

Chương 2. VỀ CÁC PHẠM TRÙ ĐẠO ĐỨC MÀ HỒ CHÍ MINH ĐÃ SỬ DỤNG

I. Về các phạm trù chủ yếu mà Hồ Chí Minh đã sử dụng

II. Nhận xét chung về các phạm trù đạo đức mà Hồ Chí Minh đã sử

dụng

Chương 3. VẤN ĐỀ KẾ THỪA TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

I. Giá trị có ý nghĩa chiến lược của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong

thực tiễn cách mạng Việt Nam

II. Tình trạng suy thoái đạo đức trong đội ngũ cán hộ, đảng viên hiện

nay

Page 168: TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/510.TuTuongDaoDucHoChiMinh.d…  · Web viewVề tinh thần cộng ... còn có hàng loạt câu

III. Tính cấp bách của việc giáo dục, rèn luyện đạo đức trong nền kinh

tế thị trường....

IV. Vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên, sinh viên hiện

nay theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh

Tài liệu tham khảo

---//---

TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH(QUA CÁC PHẠM TRÙ MÀ NGƯỜI ĐÃ SỬ DỤNG)

Tác giả: TS HOÀNG TRUNG

NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH

KP 6, p. Linh Trung, Q. Thủ Đức, TPHCM.

Số 3 Công trường Quốc tế, Q.3, TPHCM

ĐT: 38239172, 38239170 | Fax: 38239172

Email: [email protected]

Chịu trách nhiệm xuất bản: TS HUỲNH BÁ LÂN

Tổ chức bản thảo và chịu trách nhiệm về tác quyền:

HOÀNG TRUNG

Biên tập: NGUYỄN HUỲNH

Sửa bản in: TRẦN VĂN THẮNG

Trình bày bìa: XUÂN THẢO

In 1.000 cuốn khổ 14,5 x 20,5cm. Số đăng ký kế hoạch xuất bản:

191-2010/CXB/430-08/ĐHQGTPHCM. Quyết định xuất bản số: 77/QĐ-

ĐHQGTPHCM/TB cấp ngày 16/3/2010 của NXB ĐHQGTPHCM. In tại Công ty

In Hưng Phú. In xong và nộp lưu chiểu tháng 3 năm 2010.