Tự do hóa tài chính ở VN- tính chuyển đổi đồng tiền
-
Upload
kelangthang27 -
Category
Documents
-
view
1.152 -
download
0
Transcript of Tự do hóa tài chính ở VN- tính chuyển đổi đồng tiền
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN LÝ THUYẾT
1.1. Tài chính kiềm chế.
1.1.1. Tài chính kiềm chế là gì?
Tài chính kiềm chế là một cơ chế tài chính được đặc trưng hóa bởi sự can thiệp
quá mức của nhà nước vào các hoạt động và các quá trình tài chính. Trong đó, nhà nước
sẽ ấn định những mức lãi suất trần, trực tiếp điều tiết quá trình phân phối tín dụng bằng
các quyết định hành chính nhiều hơn là thông qua cơ chế thị trường, ưu tiên cho khu vực
kinh tế nhà nước và đặt ra các tỷ lệ dự trữ bắt buộc quá cao và kiểm soát chặt chẽ nguồn
vốn trong và ngoài nước.
1.1.2. Hậu quả của tài chính kiềm chế.
Tài chính kiềm chế áp dụng mức lãi suất thấp sẽ khuyến khích đầu tư, từ đó sẽ
thúc đẩy tăng trưởng. Tuy nhiên, nó gây ra không ít những hạn chế về tăng trưởng kinh tế
cũng như sự mất ổn định kinh tế vĩ mô như:
Tài chính kiềm chế áp dụng mức lãi suất thấp sẽ khuyến khích đầu tư, từ đó sẽ
thúc đẩy tăng trưởng. Tuy nhiên, nó gây ra không ít những hạn chế về tăng trưởng kinh tế
cũng như sự mất ổn định kinh tế, tiềm năng tài chính không được sử dụng và đầu tư vào
sản xuất bởi vì lãi suất thấp thì công chúng sẽ không muốn gởi tiết kiệm mà sẽ hiện vật
hóa dưới dạng vàng, đá quý, ngoại tệ mạnh, hàng hóa tiêu dùng. Vì vậy, gây ra tình trạng
thiếu vốn đầu tư, khan hiếm hàng hóa giả tạo, mất cân đối nghiêm trọng trên thị trường
hàng hóa.
Cầu về vốn vượt xa khả năng của các nguồn cung cấp nên các danh mục đầu tư có
tỷ suất lợi nhuận cao phải hủy bỏ hoặc sử dụng vốn từ các thị trường ngầm.
Ngân sách nhà nước luôn phải bao cấp và thiếu hụt vì các doanh nghiệp nhà nước
luôn được ưu tiên vay vốn với lãi suất bao cấp dẫn tới luôn ỷ lại, không sản xuất và kinh
doanh có hiệu quả.
Hệ thống tài chính không được phát triển và không thể thực hiện được những chức
năng trong việc điều tiết và tạo vốn thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Thị trường tài chính có thể không có hoặc manh mún, phân tán và đầy rủi ro, lạm
phát và tỷ giá biến động không thể kiểm soát được.
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 1/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
1.2. Tự do hóa tài chính
1.2.1. Tự do hóa tài chính là gì?
Tự do hóa tài chính là quá trình giảm thiểu và cuối cùng là hủy bỏ sự kiểm soát
của Nhà nước đối với hoạt động của hệ thống tài chính quốc gia, làm cho hệ thống này
hoạt động tự do hơn và hiệu quả hơn theo quy luật thị trường.
Tự do hóa tài chính được chia làm hai cấp độ:
Tự do hóa tài chính nội địa: Bằng cách xóa bỏ sự kiểm soát lãi suất và phân bổ tín
dụng
Tự do hóa tài chính quốc tế: Loại bỏ kiểm soát vốn và các hạn chế trong quản lý
ngoại hối.
Bản chất của tự do hóa tài chính là hoạt động tài chính theo cơ chế nội tại vốn có
của thị trường và chuyển vai trò điều tiết tài chính từ chính phủ sang thị trường, mục tiêu
là tìm ra sự phối hợp có hiệu quả giữa Nhà nước và thị trường trong việc thực hiện các
mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế – xã hội.
1.2.2. Lợi ích của tự do hóa tài chính
Nhìn từ góc độ kinh tế, hoạt động tài chính cũng giống như các hoạt động trao đổi
mua bán các hàng hoá và dịch vụ khác, có thể có những tác động tích cực đến thu nhập
và sự tăng trưởng của tất cả các đối tác tham gia. Lợi ích của việc tự do hoá các hoạt
động thương mại trong lĩnh vực dịch vụ tài chính có thể có được nhìn nhận trên một số
khía cạnh sau:
Tự do hoá tài chính sẽ tăng thêm áp lực cạnh tranh làm cho khu vực dịch vụ tài
chính hoạt động có hiệu quả và ổn định hơn, đồng thời giúp các tổ chức tài chính nội địa
có điều kiện cải thiện năng lực quản lý.
Tự do hoá tài chính sẽ làm tăng thêm chất lượng các dịch vụ tài chính được cung
cấp (do sự độc quyền bị loại bỏ). Người tiêu dùng có thể được hưởng những sản phẩm
dịch vụ mới, đa dạng, tiện ích với chi phí và thời gian ít nhất.
Tự do hoá các dịch vụ tài chính đem đến nhiều cơ hội cho việc chuyển giao công
nghệ và làm giảm thiểu những rủi ro có tính hệ thống.
Tự do hoá các dịch vụ tài chính tạo điều kiện cho việc thiết lập một chính sách
kinh tế vĩ mô có hiệu quả hơn phù hợp với những điều kiện trong một nền kinh tế mở,
trên cơ sở đó thực hiện phân phối nguồn lực một cách có hiệu quả trên cơ sở khai thác tối
đa lợi thế kinh tế trong nước và thế giới.
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 2/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
1.2.3. Mặt trái của tự do hóa tài chính
Tiềm năng lợi ích của tự do hoá tài chính là rất lớn, tuy nhiên tự do hoá tài chính
cũng cố những mặt trái nhất thiết phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, đặc biệt trong điều
kiện xu thế tự do hoá tài chính cũng mới chỉ dừng lại ở những bước đi ban dầu. Những
hạn chế của tự do hoá tài chính thông thường được nhìn nhận trên hai gốc độ:
Thứ nhất: Tự do hoá tài chính có thể làm tăng thêm khả năng gây ra khủng hoảng
tài chính nếu tiến trình tự do hoá được thực hiện một cách nôn nóng, sai trình tự hoặc
thiếu đồng bộ trong các biện pháp quản lý vĩ mô ở cả cấp độ quốc gia và quốc tế.
Thứ hai: Tài chính thường được coi là công cụ quản lý chiến lược và là lĩnh vực
đặc biệt cần được nắm giữ bởi Nhà nước để tập trung thực hiện những mục đích quan
trọng của một quốc gia. Việc mở cửa thị trường tài chính có thể có nguy cơ làm xao
nhãng hoặc thiếu tập trung trong việc điều hành thực hiện những mục tiêu của nhà nước
vì các tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài sẽ không quan tâm đến một mục đích nào khác
hơn là mục đích lợi nhuận. Đặc biệt, trong điều kiện hệ thống tài chính nội địa có khả
năng cạnh tranh kém, nền tài chính có nguy cơ bị thống trị bởi các tổ chức, doanh nghiệp
tài chính nước ngoài thì quyền lực kiểm soát, khống chế và điều khiển thị trường tài
chính của Nhà nước sẽ dần bị thu hẹp lại, và do đó có thể phương hại đến mục tiêu chiến
lược của quốc gia. Hơn nữa, việc mở cửa thị trường tài chính nếu không được chuẩn bị
kỹ lưỡng có thể sẽ dẫn đến nhiều hiện tượng tiêu cực, thiếu lành mạnh như lừa đảo, phá
sản, đổ vỡ... gây thiệt hại đến lợi ích của người tiêu dùng.
1.2.4. Lộ trình tự do hóa tài chính
Tự do hóa tài chính được tiến hành sau tự do hóa thương mại. Lộ trình tự do hóa
tài chính trải qua những bước sau:
Bước 1: Cải tiến và hiện đại hóa ngân hàng, đây là điều kiện cần thiết để phát triển
cơ sở hạ tầng trên thị trường tài chính.
Bước 2: Tự do hóa hoàn toàn lãi suất và thực hiện chính sách tỷ giá thả nổi có sự
quản lý của nhà nước.
Tự do hóa lãi suất là một phần quan trọng của tự do hóa tài chính, bản chất của tự
do hóa lãi suất chính là cơ chế điều hành lãi suất hoàn toàn để cho cung cầu vốn trên thị
trường xác định lãi suất cân bằng. Ngân hàng trung ương chỉ can thiệp bằng các công cụ
để điều hành theo định hướng.
Tự do hóa lãi suất gắn liền với cải cách cơ cấu, bao gồm: Cơ cấu lại các khoản nợ
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 3/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
khó đòi, tiến hành tư nhân hóa một số ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, áp dụng các
chính sách kích thích cạnh tranh lành mạnh trong khu vực ngân hàng.
Chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý là xây dựng một hành lang tỷ giá cho phép tỷ
giá giao động trong một khoảng giới hạn nhất định xung quanh tỷ giá chính thức của
ngân hàng trung ương.
Bước 3: Tự do hóa các giao dịch trên tài khoản vãng lai, xóa bỏ hoàn toàn cơ chế
phân bổ quota và những rào cản khác trong giao dịch vãng lai.
Bước 4: Từng bước tự do hóa các giao dịch trên tài khoản vốn.
Tự do hóa giao dịch vốn là quá trình dỡ bỏ dần những hạn chế đối với các giao
dịch này như xóa bỏ hoàn toàn những quy định hạn chế tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu của các
nhà đầu tư nước ngoài. Cho phép các nhà đầu tư nước ngoài chuyển vốn về nước với các
khoản đầu tư dài hạn-ngắn hạn thông qua hệ thống ngân hàng Việt Nam. Cho các doanh
nghiệp trong nước tự do tiếp cận với các nguồn vốn quốc tế thông qua phát hành cổ phiếu
– trái phiếu.
Đối với người dân tự do hóa nguồn vốn cho phép họ thực hiện các hoạt động ở
nước ngoài như mở tài khoản ngân hàng, tham gia các hoạt động đầu tư nhằm đạt lợi
nhuận cao.
Các doanh nghiệp được phép đầu tư và sở hưu các công ty khác nhau, các dòng
vốn được tự do di chuyển từ nơi có tỷ suất sinh lợi thấp sang những nơi có tỷ suất sinh lợi
cao.
1.2.5. Điều kiện để cho tự do hóa tài chính thành công
Cải cách tài chính ở Việt Nam, hội nhập tài chính bằng cách mở cửa dần từng
bước các giao dịch thương mại trên lĩnh vực tài chính là một xu hướng tất yếu. Việt
Nam muốn hội nhập tài chính thì chính sách tài chính và chính sách tiền tệ phải linh hoạt
- ổn định đáng tin cậy. Những điều kiện cho việc tự do hóa tài chính thành công là:
Quản lý kinh tế vĩ mô vững chắc và tiết kiệm quốc gia cao.
Thực hiện đúng lộ trình tự do hóa kinh tế.
Hệ thống tài chính hoạt động hiệu quả.
Hệ thống giám sát ngân hàng hợp lý và việc thi hành có hiệu quả.
Không có khoản cho vay mang tính chất chính trị và lạm dụng hệ thống tài chính.
Một Chính Phủ triệt để chống tham nhũng và lãng phí.
Tính minh bạch trong công bố thông tin.
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 4/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
CHƯƠNG 2
CẢI CÁCH TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM
THEO HƯỚNG TỰ DO HÓA
1.3. Chính sách tái cấu trúc nền kinh tế
1.3.1. Tự do hóa tài khoản vãng lai
Trong hoạt động ngân hàng, một tài khoản vãng lai là một tài khoản tiền gửi mở
tại ngân hàng hoặc tổ chức tài chính nào đó, với mục đích cung ứng một cách nhanh
chóng và an toàn phương tiện tiếp cận thường xuyên tới các món tiền gửi theo nhu cầu,
thông qua một loạt các kênh khác nhau. Vì thế, tài khoản này có tên khác là Tài khoản
thanh toán.
Như vậy, nội dung rất quan trọng để đạt được tự do hóa (tài khỏan) giao dịch vãng
lai là đồng tiền Việt Nam phải được thừa nhận trong các giao dịch quốc tế, có nghĩa là
VND phải được chấp nhận ở trong nước và trên phạm vi quốc tế. Theo đó, đồng tiền tự
do chuyển đổi gắn chặt với sức mạnh của nền kinh tế, đó phải là nền kinh tế có sức cạnh
tranh cao và tính ổn định kinh tế vĩ mô bền vững.
Theo cách hiểu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), đồng tiền tự do chuyển đổi là
đồng tiền của một nước hội viên mà IMF nhận thấy đồng tiền đó được sử dụng rộng rãi
để thanh toán các giao dịch quốc tế và được mua bán rộng rãi trên thị trường ngoại hối
chủ chốt.
Mặt khác, để tự do chuyển đổi, trước hết đồng tiền đó phải có tính chuyển đổi, có
nghĩa là đồng tiền đó có thể được chuyển đổi sang ngoại tệ mà không có bất kỳ hạn chế
nào.
Thông thường, người ta nói đến mức độ chuyển đổi của đồng tiền theo giao dịch
phải gắn với ba nội dung: một là, giao dịch đó phải được phép; hai là, không có hạn chế
nào trong việc chuyển đổi (mua bán ngoại tệ) để phục vụ mục đích thanh toán; ba là,
ngoại tệ phải được đáp ứng theo yêu cầu của người mua, phục vụ thanh toán cho giao
dịch đó. Trên thực tế, có thể xảy ra trường hợp giao dịch đó là giao dịch được phép,
nhưng việc mua ngoại tệ để thanh toán cho giao dịch đó bị hạn chế. Trường hợp này, khả
năng chuyển đổi của đồng tiền đã bị hạn chế.
Thực tế, hoạt động ngoại hối được điều chỉnh bởi Pháp lệnh Ngoại hối và được
quy định chi tiết thi hành theo Nghị định 160 của Chính phủ, ban hành ngày 28/12/2006
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 5/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
với Điều 5 quy định tự do hoá với giao dịch ngoại hối vãng lai: Các giao dịch thanh toán
và chuyển tiền đối với giao dịch vãng lai của người dân được tự do theo các nguyên tắc
sau: Được mua, chuyển, mang ngoại tệ ra nước ngoài phục vụ các nhu cầu thanh toán và
chuyển tiền. Có trách nhiệm xuất trình các chứng từ theo quy định của tổ chức tín dụng
khi mua, chuyển, mang ngoại tệ ra nước ngoài. Khi mua, chuyển, mang ngoại tệ ra nước
ngoài phục vụ các giao dịch vãng lai, người dân không phải xuất trình các chứng từ liên
quan đến việc xác nhận hoàn thành nghĩa vụ thuế với Nhà nước Việt Nam.
Chính vì vậy, có thể nói rằng việc tự do hóa giao dịch vãng lai có ảnh hưởng lớn
tới hoạt động doanh nghiệp và đại bộ phận dân cư. Cụ thể là việc mua ngoại tệ phục vụ
nhu cầu cá nhân như: du lịch, khám chữa bệnh, du học hay của các doanh nghiệp khi
thanh toán xuất nhập khẩu, vay tín dụng thương mại nước ngoài ngắn hạn sẽ không nhiều
thủ tục về giấy phép như hiện nay. Cũng theo quy định trong Pháp lệnh Ngoại hối, người
dân và các tổ chức kinh tế còn được trực tiếp vay trả nợ nước ngoài theo nguyên tắc tự
vay tự chịu trách nhiệm.
Các giao dịch vãng lai bao gồm các khoản thanh toán và chuyển tiền liên quan đến
xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ; các khoản vay tín dụng thương mại và ngân
hàng ngắn hạn; các khoản chuyển tiền một chiều cho mục đích tiêu dùng...
Khi xuất nhập cảnh, các cá nhân sẽ không phải khai báo nếu mang ngoại tệ hay
đồng VN bằng tiền mặt dưới hạn mức qui định (hạn mức đang áp dụng hiện nay là 7.000
USD)... Trong trường hợp các nhà đầu tư nước ngoài muốn mua bán chứng khoán, các
giấy tờ có giá khác và góp vốn, mua cổ phần tại VN, phải mở tài khoản vốn đầu tư gián
tiếp bằng đồng VN tại ngân hàng...
Hiện trạng tự do giao dịch vãng lai tại Việt Nam:
Thực tế trong những năm qua, người dân có nhu cầu mua hoặc bán ngoại tệ mạnh
như USD hoặc Euro vẫn tìm điểm đến là các tiệm vàng. Theo quy định, người dân muốn
mua USD tại các ngân hàng hay các quầy thu đổi ngoại tệ chính thức phải xuất trình đủ
các loại giấy tờ chứng thực việc cần mua USD cho việc chuyển ra nước ngoài nộp học
phí hay đi du lịch... Do đó, trong trường hợp người dân muốn mua USD để tích trữ thì họ
không thể nào tìm đến các điểm giao dịch ngoại hối chính thức. Khi đó họ sẽ tìm đến các
điểm mua bán ngoại tệ không hợp pháp. Ở đây họ có thể dễ dàng mua bán, trao đổi bất
kỳ loại ngoại tệ thông dụng nào mà không cần xuất trình bất kỳ loại giấy tờ nào.
Hạn chế khi kết chuyển ngoại hối: Khi xuất nhập cảnh, các cá nhân sẽ không phải
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 6/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
khai báo nếu mang ngoại tệ hay đồng VN bằng tiền mặt dưới hạn mức qui định (hạn mức
đang áp dụng hiện nay là 7.000 USD)... Trong trường hợp các nhà đầu tư nước ngoài
muốn mua bán chứng khoán, các giấy tờ có giá khác và góp vốn, mua cổ phần tại VN,
phải mở tài khoản vốn đầu tư gián tiếp bằng đồng VN tại ngân hàng...
1.3.2. Tự do hóa tài khoản vốn
Tự do hóa tài khoản vốn là việc cho tự do tiến hành chuyển đổi các tài sản tài
chính trong nước thành tài sản tài chính ở nước ngoài và ngược lại theo tỷ giá hối đoái do
thị trường quy định.
Ở nhiều nước đang phát triển, những chuyển đổi như vậy thường bị hạn chế
nghiêm ngặt bởi hàng loạt quy chế. Mục đích của sự hạn chế này là để giữ tiết kiệm ở lại
trong nước và phục vụ cho đầu tư trong nước, tránh để nền kinh tế của đất nước bị ảnh
hưởng bởi những cú sốc từ bên ngoài. Tuy nhiên, từ thập niên 1970 và thập niên 1980,
ngày càng nhiều quốc gia nhận ra rằng chỉ tiết kiệm trong nước không đủ để đáp ứng nhu
cầu tài chính cho đầu tư trong nước. Vì thế, họ đã huy động cả tiết kiệm ngoài nước dưới
hình thức cho phép đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư gián tiếp. Khi chiều chuyển đổi
tài sản tài chính ở nước ngoài thành tài sản tài chính ở trong nước được chấp nhận, tự
nhiên các nước này bị đòi hỏi phải chấp nhận cả chiều ngược lại với lý do là để bảo vệ lợi
ích của các nhà đầu tư nước ngoài. Đây chính là tự do hóa tài khoản vốn.
Tự do hóa tài khoản vốn làm cho vốn tự do luân chuyển qua biên giới quốc gia.
Nó giúp cho nền kinh tế quốc gia trở nên linh hoạt hơn, hội nhập sâu hơn vào kinh tế khu
vực và thế giới. Song, nó cũng làm cho nền kinh tế quốc gia trở nên dễ bị tổn thương
hơn.
Tại Việt Nam, tự do hóa tài khoản vốn đang từng bước thực hiện là một trong bốn
nội dung của Lộ trình Hội nhập Tiền tệ và Tài chính khu vực ASEAN được thông qua tại
Hội nghị Bộ trưởng Tài chính ASEAN lần thứ 7 vào tháng 8/2003 với mục tiêu là tự do
hóa hơn các luồng chu chuyển vốn vào năm 2020. Trên cơ sở đó, Nhóm Công tác về tự
do hoá tài khoản vốn (cấp kỹ thuật) đã được thành lập để triển khai các kế hoạch đã được
đề ra trong Lộ trình Tự do hoá tài khoản vốn.
Tự do hóa tài khoản vốn nhằm tạo thuận lợi và tự do hóa hơn nữa các luồng luân
chuyển vốn được đề ra trong Kế hoạch Tổng thể Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC
Blueprint), theo đó, tự do hóa các luồng chu chuyển vốn được thực hiện theo các nguyên
tắc: (i) tự do hóa tài khoản vốn phù hợp với điều kiện thực tế và mức độ sẵn sàng của các
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 7/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
nước thành viên; (ii) cho phép phòng vệ chính đáng trước các nguy cơ mất ổn định kinh
tế vĩ mô và rủi ro hệ thống; và (iii) đảm bảo chia sẻ lợi ích giữa tất cả các nước ASEAN.
Trên cơ sở các nguyên tắc định hướng nêu trên, các nước thành viên sẽ tiến hành
tự do hoá theo bốn bước sau: (i) nới lỏng hoặc loại bỏ các qui định liên quan đến giao
dịch vãng lai (2008-2015); áp dụng Điều VIII của IMF về loại bỏ hạn chế đối với các
thanh toán và chuyển tiền để thực hiện các giao dịch vãng lai quốc tế vào năm 2011; (ii)
đánh giá và dần dần nới lỏng các qui định về chuyển tiền quốc tế liên quan đến FDI
(2008-2015); (iii) đánh giá và dần dần nới lỏng các qui định về các luồng vốn đầu tư gián
tiếp; đặc biệt các qui định về nợ và cổ phần (2009-2015); và (iv) đánh giá và dần dần nới
lỏng các qui định về các luồng vốn khác, đặc biệt cả qui định về vay nợ nước ngoài dài
hạn của người cư trú (2011-2015).
Tiến trình thực hiện và định hướng trong thời gian tới
Theo lộ trình hội nhập tài chính tiền tệ, nguyên tắc tự do hoá tài khoản vốn phải
đảm bảo quá trình tự do hoá có trật tự, phù hợp với kế hoạch của từng quốc gia, từng
nước thành viên sẽ thực hiện quá trình tự do hoá tài khoản vốn theo phương thức là tổng
hợp quy chế hiện hành về tài khoản vốn và tự đưa ra một chương trình tự do hoá các
khoản mục trong tài khoản vốn.
Trên cơ sở đó, hàng năm các nước sẽ báo cáo, trao đổi về các biện pháp, chính
sách tự do hoá các khoản mục của nước mình. Điều đó sẽ giúp Việt nam cũng như các
nước cập nhật được các biện pháp, chính sách về việc loại bỏ dần các rào cản đối với các
luồng luân chuyển vốn của từng nước trong khu vực.
Chu chuyển các luồng vốn giữa các quốc gia tăng mạnh cả về qui mô và tốc độ
Mỗi quốc gia cần có chính sách và biện pháp thích hợp nhằm đảm bảo ổn định
kinh tế vĩ mô và tăng trưởng bền vững. Trong đó, cần xác định được động cơ và nguyên
nhân của luồng vốn vào, cơ cấu luồng vốn, tác động của nó đến nền kinh tế và hệ thống
tài chính.
Trong thời gian qua, Việt Nam đã và đang thực hiện tự do hóa tài khoản vốn một
cách có trật tự:
Thu hút FDI và mở cửa ngoại thương, nới lỏng kiểm soát lợi nhuận chuyển ra
Nhà đầu tư được phép mua trái phiếu chính phủ với khối lượng và giá trị không
hạn chế, mua 49% cổ phiếu doanh nghiệp và 30% cổ phiếu ngân hàng.
Tuy nhiên, do độ mở của nền kinh tế lớn, Việt Nam cũng chịu những tác động bất
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 8/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
lợi của dòng vốn đầu tư gián tiếp chảy vào trong như áp lực lạm phát, thâm hụt cán cân
vãng lai... Do đó, trước những biến động của môi trường kinh tế trong nước và toàn cầu,
trong thời gian tới, Việt Nam cần có những đánh giá thận trọng đối với việc thực hiện lộ
trình tự do hóa tài khoản vốn nhằm đảm bảo việc thực hiện các cam kết của khu vực và
quốc tế, đồng thời đảm bảo duy trì được các mục tiêu của các chính sách tài khóa, tiền tệ
và tỷ giá.
Theo lộ trình đã được đề ra trong AEC, trong thời gian tới Việt Nam loại bỏ dần
các rào cản đối với các luồng luân chuyển vốn trong khu vực theo lịch trình sau: (i): Rà
soát, đánh giá về các rào cản đối với các luồng vốn gián tiếp (2009-2010); (ii) Dỡ bỏ dần
các rào cản đã được xác định đối với các luồng luân chuyển vốn: Luồng vốn FDI, bắt đầu
dỡ bỏ từ năm 2010; Luồng vốn đầu tư gián tiếp, bắt đầu dỡ bỏ từ năm 2011; Luồng vốn
khác, bắt đầu dỡ bỏ từ năm 2012. Tuy nhiên, để tự do hóa an toàn và có tác dụng tích cực
đến tăng trưởng kinh tế, cần phải hiểu và thi hành những chính sách cần thiết để tạo tiền
đề cho tự do hóa xảy ra một cách trôi chảy.
Kinh nghiệm tự do hóa tài khoản vốn ở các nước trên thế giới và quá trình tự do
hóa đang diễn ra ở Trung Quốc, nước láng giềng với nhiều điểm tương đồng về thể chế
chính trị và kinh tế với Việt Nam:
Cuộc khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997 : xem xét lại những vấn đề liên
quan đến tự do hóa tài khoản vốn với vai trò trọng yếu của hệ thống tài chính được chế
tài tốt, quản lý tốt, và tư bản hóa tốt càng được coi trọng hơn. Các nhà làm chính sách đã
nhìn nhận đúng đắn hơn rằng tự do hóa tài khoản vốn phụ thuộc vào một loạt các chính
sách hữu hiệu.
Tự do hóa tài khoản vốn thường xuyên gây ra các cuộc khủng hoảng ở cả các nền
kinh tế phát triển và đang phát triển (ở khu vực Scandinavia, Mỹ Latinh, và Đông á), tự
do hóa tài khoản vốn đã hấp thu một lượng vốn chảy vào nền kinh tế quá lớn so với khả
năng hấp thụ của chúng một cách an toàn. Thời gian trôi qua, vốn chảy vào biến thành
vốn chảy ra, để lộ ra một hệ thống tài chính què quặt.
Nhờ có tăng trưởng nhanh hơn và/hoặc lạm phát cao hơn, lãi suất có xu hướng cao
hơn ở nước có tài khoản được tự do hóa so với mức quốc tế. Lãi suất cao hơn này, kết
hợp với sự hiện diện của nhiều cơ hội mới nảy sinh từ việc tự do hóa, dẫn đến dòng vốn
chảy vào tăng lên mạnh
Tăng trưởng tiền tệ nhanh, và thậm chí tăng trưởng tín dụng nhanh hơn, giá các
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 9/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
loại tài sản tăng kiểu bong bóng, và cơn sốt đầu tư và tiêu dùng.
Khi tính cạnh tranh bị giảm sút, tài khoản vãng lai thâm hụt, và nợ xấu tăng lên,
làm xói mòn lòng tin của các nhà đầu tư. Sự tăng giá của bản tệ, hoặc là do sự lên giá về
danh nghĩa, hoặc là do lạm phát cao hơn, làm giảm tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu,
và do đó làm tăng thêm thâm hụt tài khoản vãng lai.
Sau giai đoạn giá các loại tài sản đạt đỉnh điểm, lượng tín dụng cho vay đầu tư bất
động sản và chứng khoán trở nên khó thu hồi, trong khi đó các khoản đầu tư kinh doanh
không còn mang lại mấy lợi nhuận. Mất cân đối trong cán cân vãng lai và sự mong manh
dễ vỡ của hệ thống tài chính là dấu hiệu của rủi ro và thúc đẩy vốn chảy ngược ra ngoài.
Sự đổ ngược vốn ra ngoài như vậy gây áp lực lên tỷ giá và thị trường tài sản nội địa và
đặt các cơ quan quản lý vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan giữa một bên là nâng lãi suất,
và một bên là để cho bản tệ bị mất giá.
Bản tệ mất giá sẽ làm tăng gánh nặng nghĩa vụ tài chính cho những doanh nghiệp
vay vốn bằng ngoại tệ, đặc biệt khi sự phá giá diễn ra sau giai đoạn tỷ giá được ấn định.
Trong trường hợp xấu nhất thì sự chảy ngược vốn ra bất thình lình sẽ châm ngòi cho các
cuộc khủng hoảng ngân hàng và tiền tệ nghiêm trọng ở Scandinavia, Mỹ La tinh và Đông
á, mặc dầu giữa chúng có những khác biệt đáng kể.
Tổng kết và liên hệ có thể rút ra từ những kinh nghiệm quốc tế này:
Thứ nhất, phải theo đuổi các chính sách thương mại và vĩ mô lành mạnh để giảm
thiểu rủi ro của việc tự do hóa tài khoản vốn.
Thứ hai, các nền kinh tế phải củng cố hệ thống tài chính và hạ tầng cơ sở giám sát
của mình trước khi mở cửa tài khoản vốn.
Thứ ba, một khu vực doanh nghiệp với công tác tài chính yếu ớt và sự quản trị
kém có thể lạm dụng một cách có hệ thống những cơ hội đem lại bởi tự do hóa tài khoản
vốn.
Thứ tư, nhiều người ủng hộ quan điểm rằng cơ chế tỷ giá linh hoạt là một điều
kiện quan trọng để hạn chế sự tích đọng những rủi ro trên bảng cân đối tài sản liên quan
đến sự lệch khớp về tiền tệ (currency mismatches) và để ngăn chặn áp lực trên thị trường
ngoại hối căng thẳng quá mức biến thành khủng hoảng tài chính trên diện rộng.
Cuối cùng, một số thiên về kết luận rằng vốn chảy vào cần được quản lý hay đổi
hướng bằng những phương pháp như dự trữ bắt buộc đối với các khoản vốn ngắn hạn
theo kiểu ở Chile.
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 10/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
Mặc dù còn nhiều bất đồng nhưng người ta thống nhất với nhau rằng tự do hóa tài
khoản vốn chỉ thành công ở những nền kinh tế có môi trường kinh tế vĩ mô lành mạnh, và
tự do hóa tài khoản vốn là một phần khăng khít của chương trình cải cách. Thiếu sót ở
các lĩnh vực khác cũng có thể dẫn đến những kết quả đáng tiếc từ việc tự do hóa tài
khoản vốn.
Một số đặc điểm chính của nền kinh tế Trung Quốc. Tình trạng kinh tế của Trung
Quốc có khác biệt lớn so với của các nước ở Mỹ Latinh và Châu Á:
Trước tiên, dù Trung Quốc đang thực thi việc kiểm soát ngoại hối chặt chẽ, Trung
Quốc đã mở rộng cửa cho các dòng vốn nước ngoài. Thậm chí người ta có thể nói rằng
Trung Quốc đã mở cửa cho FDI còn rộng hơn cả nhiều nước OECD. Đặc biệt, Trung
Quốc gần đây đã khuyến khích FDI ra nước ngoài, vào các dự án về năng lượng và kỹ
thuật.
Ngoài ra, đồng CNY được sử dụng khá phổ biến ở những nước láng giềng, đôi khi
có thể coi như một ngoại tệ mạnh. Có lẽ bằng chứng về độ mở rộng rãi về tài chính của
Trung Quốc có thể thấy qua tốc độ phát triển của tiền gửi ngoại tệ trong hệ thống ngân
hàng Trung Quốc, một phần vì chính phủ cho phép duy trì lãi suất tiền gửi ngoại tệ ở
Trung Quốc khá gần với mức trên thị trường quốc tế. Sự biến động tiền gửi ngoại tệ hàng
tháng theo sát những biến động về biên độ lãi suất và dự đoán về tỷ giá. Những yếu tố về
mở cửa tài chính này sẽ tạo thuận lợi cho việc tự do hóa tài khoản vốn vì nhiều điều
chỉnh lớn cần thực hiện khi tự do hóa đã được thực hiện.
Nhưng do tiền gửi bằng ngoại tệ tăng nhanh, kết hợp với xu hướng giảm cho vay
bằng ngoại tệ của các ngân hàng Trung Quốc, hệ thống ngân hàng Trung Quốc đã dư
thừa vốn thanh khoản bằng ngoại tệ. Nguồn vốn này, tăng nhanh hơn cả tốc độ tăng dự
trữ ngoại hối, đã góp thêm vào luồng vốn ngoại tệ đổ ra khỏi Trung Quốc lên đến 140 tỷ
USD trong thời kỳ 1999 - 2001. Bởi vậy, câu hỏi liên quan đến việc tự do hóa tài khoản
vốn của Trung Quốc không còn là câu hỏi liệu có cho phép vốn ngoại tệ chảy ra nước
ngoài hay không, mà là câu hỏi liệu có phải tạo ra thêm các kênh dẫn để vốn ngoại tệ đổ
ra nước ngoài nhiều hơn, và làm thế nào để quá trình này được dễ dàng hơn.
Thứ hai, và có lẽ là yếu tố tích cực và quan trọng nhất cho việc tự do hóa tài khoản
vốn, nền kinh tế Trung Quốc đang tăng trưởng với tốc độ rất nhanh trong thập kỷ qua, lên
tới trên 9%/năm. Là một nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới với tỷ lệ tiết kiệm
trong dân cư lên tới 40% GDP, Trung Quốc dễ dàng đa dạng hóa các hạng mục tài sản
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 11/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
trong nước và tạo ra một môi trường thuận lợi cho các thể chế nội địa.
Thứ ba, lãi suất nội địa Trung Quốc không vượt xa mức trên thị trường tiền tệ
quốc tế. Vào đầu năm 1990, Trung Quốc có mức lạm phát tương đối cao, nhưng sau đó
giảm được xuống mức thấp nhờ thắt chặt chính sách tiền tệ. Trong những năm gần đây,
giá cả ở Trung Quốc lại giảm xuống ở mức nhẹ. Lãi suất nội địa, về cơ bản vẫn do nhà
nước thiết lập, giảm xuống thấp theo lạm phát, bằng hoặc thậm chí thấp hơn mức quốc tế.
Thứ tư, đồng CNY đã được tự do chuyển đổi trên tài khoản vãng lai năm 1996, và
được neo với USD từ năm 1994. Trong nhiều năm, Trung Quốc có thặng dư tài khoản
vãng lai vừa phải và có lượng vốn ngoại tệ đổ vào trung bình lớn hơn luồng vốn đổ ra.
Luồng vốn FDI khá ổn định chiếm một khoản lớn trong tài khoản vốn, bên cạnh dự trữ
ngoại hối khổng lồ lên đến nhiều trăm tỷ USD. Kết quả là Trung Quốc là chủ nợ ròng của
thế giới. Và trong mọi trường hợp, qũy dự trữ ngoại tệ khổng lồ này đủ sức khắc phục
mọi biến động gây ra từ các tài sản nợ ngắn hạn. Sau gia nhập WTO, luồng FDI chảy vào
càng lớn hơn nữa. Vì vậy, có thể nói là sự phụ thuộc của Trung Quốc vào nguồn FDI ổn
định và cán cân đối ngoại của họ tạo thuận lợi cho tự do hóa tài khoản vốn.
Thứ năm, ngược lại, chính sách tài chính của Trung Quốc lại là một điểm bất lợi
cho tự do hóa tài khoản vốn. Đầu tư của chính phủ vào cơ sở hạ tầng từ nguồn vốn đi vay
đã diễn ra từ nhiều năm nay, nhưng tỷ trọng nợ trên GDP mà chính phủ công bố thì vẫn ở
trong mức kiểm soát được. Tuy nhiên, hệ thống hưu trí đói vốn và hệ thống ngân hàng có
tỷ trọng vốn an toàn ở mức thấp là một điều đáng lo ngại. Những khoản vốn cần thiết này
cho thấy gánh nặng về nợ thực tế lớn hơn nhiều mức công bố.
Thứ sáu, và là hiểm họa lớn nhất khi tự do hóa tài khoản vốn, hệ thống tài chính
của Trung Quốc bị chi phối chủ yếu bởi hệ thống ngân hàng tuy lớn và có lượng thanh
khoản lớn nhưng lại không mạnh. Tỷ trọng tiền M2/GDP đã đạt đến 165% GDP gần đây,
là mức rất cao so với bất kỳ một tiêu chuẩn nào. Các ngân hàng Trung Quốc cũng có khả
năng thanh khoản lớn: tỷ lệ dư nợ cho vay/tiền gửi, khoảng trên 80%. Nhưng hệ thống
ngân hàng này bị coi là yếu về mặt năng lực chi trả, vì tỷ lệ nợ xấu vẫn còn cao, trên
10%, mặc dù chính phủ đã có những nỗ lực lớn để giảm nợ xấu từ mức trên 30%.
Điều khác biệt về tình trạng kinh tế giữa Trung Quốc và các nước khác có liên
quan
Trung Quốc có 2 điểm khác biệt cơ bản về điều kiện ban đầu khi tự do hóa tài
khoản vốn so với các nước nói ở phần trên. Một là, Trung Quốc đang trải qua thời kỳ giá
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 12/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
ổn định, thậm chí hơi giảm, lãi suất danh nghĩa thấp, và giá trị các tài sản (cổ phiếu, trái
phiếu...) cao. Trong khi đó, ở các nước tự do hóa tài khoản vốn và bị khủng hoảng,
thường có lạm phát tương đối cao, lãi suất bản tệ cao, và giá trị các tài sản thấp. Hai là,
Trung Quốc hấp thu được một luồng vốn FDI lớn, dự trữ ngoại tệ lớn, và là một chủ nợ
của thế giới, thay vì phải phụ thuộc vào vốn ngắn hạn mang tính đầu cơ, dự trữ ngoại tệ
hạn hẹp và nợ nước ngoài lớn như ở các nước khác nói ở đây.
Nói chung, những điều kiện ban đầu của một nền kinh tế quyết định mức rủi ro
trong việc tự do hóa tài khoản vốn. Có thể dự đoán rằng sau khi mở tài khoản vốn ở
Trung Quốc, chỉ có FDI sẽ tăng lên mạnh mẽ, và rủi ro đi kèm với nó không phải là đáng
lo ngại.
Thách thức chính cho Trung Quốc có lẽ nằm ở việc quản lý thành công tự do hóa
tài khoản vốn thông qua nhiều kênh khác nhau, ngoài các kênh truyền thống như gửi tiền
bằng ngoại tệ vào ngân hàng, trả trước các khoản nợ bằng USD, và đầu tư vào thị trường
chứng khoán Hong Kong.
Tình trạng kinh tế hiện tại của Trung Quốc, với vốn bắt đầu chảy ra khỏi lãnh thổ,
đặt ra những câu hỏi thú vị về chính sách. Về sự tồn tại lẫn lộn cả tiền gửi ngoại tệ và bản
tệ, kinh nghiệm thế giới cho thấy tỷ giá linh động hơn nữa và quá trình tự do hóa lãi suất
đang diễn ra tại Trung Quốc sẽ làm thay đổi đáng kể cơ cấu tiền gửi và cho vay bằng
ngoại tệ và bản tệ, có lẽ đôi lúc sẽ thúc đẩy mạnh dòng vốn chảy ra. Trong khi có thể
nâng lãi suất để ngăn chặn dòng vốn chảy ra này, nhưng lãi suất tăng xảy ra trùng hợp với
giá tài sản giảm sẽ đặt ra một tình thoái lưỡng nan về chính sách tiền tệ. Để giải quyết
vấn đề này, liệu có nên áp dụng một mức dự trữ bắt buộc trên tài khỏan tiền gửi bằng
ngoại tệ (ở trong nước) khác với mức áp dụng trên tài khoản tiền gửi bản tệ không (để
hạn chế việc chuyển đổi từ bản tệ sang ngoại tệ), như đã được thực hiện ở những nước
khác? Tất nhiên, câu trả lời phải tính đến thực tế rằng tiền gửi ở nước ngoài thì không bị
áp dụng dự trữ bắt buộc. Do đó, biện pháp áp dụng dự trữ bắt buộc này sẽ trở nên vô hiệu
trừ khi áp dụng trở lại các biện pháp kiểm soát lưu chuyển ngoại hối để hạn chế việc
chuyển đổi CNY thành ngoại tệ của dân chúng sống ở Trung Quốc.
Về tự do hóa dần dần dòng lưu chuyển 2 chiều của vốn đầu tư vào các hạng mục
tài sản, Trung Quốc nên làm thế nào để thiết lập thăng bằng giữa kiểm soát và khuyến
khích vốn đầu tư gián tiếp vào nước này? Ví dụ, một mặt, Trung Quốc có nên xem xét
thiết lập một chương trình chỉ cho phép các nhà đầu tư là tổ chức nước ngoài đủ tư cách
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 13/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
được đầu tư vào các loại tài sản nội địa, và, mặt khác, chỉ cho phép các nhà đầu tư là tổ
chức nội địa đủ tư cách được đầu tư vốn gián tiếp ra nước ngoài? Nếu dòng vốn đầu tư
gián tiếp chảy ra lớn quá mức thì có nên áp dụng phí ở dưới dạng nào đó, có thể liên quan
đến độ dài thời gian nắm giữ nguồn vốn này, và được điều chỉnh thích hợp để tác động
đến dòng chảy này, theo cùng cách thức mà các quỹ đầu tư sử dụng để điều chỉnh hành vi
của cổ đông? Hiển nhiên, câu trả lời cho những câu hỏi này không chỉ phụ thuộc vào
những điều kiện ban đầu mà còn dựa vào tầm quan trọng tương đối của nhiều mục tiêu
chính sách và mức độ tự do hóa tài khoản vốn cần phải đạt được.
Và triển vọng tự do hóa tài khoản vốn ở Việt Nam
So sánh với Trung Quốc và các nước khác nêu ở trên thì rõ ràng Việt Nam nằm
đâu đó giữa hai thái cực. Một mặt, Việt Nam chia xẻ một số điểm tương đồng với Trung
Quốc như có một nguồn vốn FDI đổ vào khá dồi dào (tính theo tỷ trọng GDP thì thậm chí
còn lớn hơn của Trung Quốc); giá trị các tài sản tài chính (cổ phiếu, trái phiếu) đang lên
cao, theo sát diễn biến lạc quan của tăng trưởng kinh tế cao (khoảng 8%/năm); sự phụ
thuộc vào và tỷ trọng vốn đầu tư gián tiếp trong tổng các nguồn tài trợ từ nước ngoài còn
thấp; vai trò can thiệp và tham gia vào nền kinh tế của chính phủ rất lớn, thông qua đầu tư
nhà nước và khối doanh nghiệp nhà nước, làm cho thâm hụt ngân sách luôn ở mức khá
cao và luôn cần bổ sung thêm vốn.
Mặt khác, Việt Nam cũng có nhiều điểm giống các nước bị khủng hoảng tài chính
khi tự do hóa tài khoản vốn, như có lạm phát tương đối cao (gần 8% trong mấy năm gần
đây), lãi suất danh nghĩa VND cao, dự trữ ngoại hối còn hạn hẹp, thâm hụt tài khoản
vãng lai kinh niên, và nợ nước ngoài tương đối lớn. Ngoài ra, Việt Nam giống tất cả các
nước có liên quan ở điểm là hệ thống tài chính còn rất yếu kém, với tỷ lệ nợ xấu cao, rủi
ro hệ thống lớn, thông lệ cho vay bất cẩn, chế độ quản trị ngân hàng còn yếu kém, và cơ
chế tỷ giá còn cứng nhắc...
Với những đặc điểm này, có thể thấy rằng các điều kiện tiền đề cho tự do hóa tài
khoản vốn ở Việt Nam một cách an toàn là chưa tồn tại hoặc chưa đầy đủ, nhất là những
điều kiện tiền đề về nền kinh tế vĩ mô lành mạnh, cũng như một hệ thống tài chính và hạ
tầng cơ sở giám sát vững chắc. Cũng không kém phần quan trọng là chính phủ và người
dân Việt Nam có quá ít kinh nghiệm bước đầu với việc tự do hóa tài khoản vốn (như cho
phép đầu tư trực tiếp/gián tiếp ra nước ngoài - một hiện tượng mới được đề cập đến gần
đây).
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 14/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
Về giải pháp thúc đẩy hình thành các điều kiện tiền đề này, có lẽ không gì thích
hợp hơn việc nghiên cứu mô hình tự do hóa của các nước trên thế giới, đặc biệt Trung
Quốc, như nêu ở trên, tập trung vào những lợi thế, thách thức, và những khó xử trong
chính sách liên quan đến quá trình tự do hóa của họ để làm bài học cho Việt Nam. Có thể
thấy trước rằng việc tự do hóa tài khoản vốn ở Việt Nam cũng đồng nghĩa với một cuộc
cải cách sâu rộng và đồng bộ trên nhiều mặt của nền kinh tế vĩ mô mà một trục trặc trong
quá trình này cũng sẽ làm cái giá phải trả cho việc tự do hóa trở nên đắt hơn nhiều.
1.3.3. Chính sách tiền lương và giá cả
Hiện VN đang duy trì 3 mức lương tối thiểu giữa 3 loại hình DN (DN có vốn đầu
tư nước ngoài, DNNN, DN tư nhân). Mặt khác, trên thực tế, mức tiền lương mà NLĐ VN
hiện đang được nhận chưa đủ đáp ứng cho đời sống, mức tiền lương hầu như không dựa
trên sự thỏa thuận giữa chủ sử dụng LĐ và NLĐ, mà thường là sự áp đặt của người sử
dụng LĐ dao động quanh mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Điều đó đòi hỏi
phải có lộ trình cải cách cụ thể, tích cực, phù hợp trong thời gian tới.
“Hội nghị đối thoại của các cơ quan/viện nghiên cứu và đào tạo Á – Âu” lần thứ
nhất với nội dung “So sánh chính sách tiền lương tối thiểu” đã tổ chức rất thành công ở
Dusseldorf, Đức năm 2009. Năm nay, khi diễn ra tại VN, các đại biểu đều mong muốn
trao đổi kinh nghiệm, quan điểm trên cơ sở những mối quan tâm chung về các vấn đề
chính sách liên quan đến LĐ, thông qua việc nhấn mạnh đối thoại, thương lượng về vấn
đề tiền lương tối thiểu; tiền lương tối thiểu khu vực phi chính thức; tiền lương với phát
triển kinh tế, nhằm đưa ra những cơ sở khoa học để chính sách tiền lương phù hợp và
thúc đẩy phát triển kinh tế; cũng như sự lớn mạnh của phong trào CN, CĐ hai châu lục.
Các khái niệm và các nhân tố ảnh hưởng tới tiền lương:
Theo quan niệm của Mác: Tiền lương là biểu hiện sống bằng tiền của giá trị sức
lao động.
Theo quan niệm của các nhà kinh tế học hiện đại: Tiền lương là giá cả của lao
động, được xác định bởi quan hệ cung cầu trên thị trường lao động.
Theo Điều 55 - Bộ Luật Lao Động Việt Nam quy định tiền lương của người lao
động là do hai bên thoả thuận trong hợp đồng lao động và được trả theo năng suất lao
động, chất lượng và hiệu quả công việc. Hiện nghị định 28/2010/NĐ-CP (ban hành ngày
25/3/2010), từ 1/5 mức lương tối thiểu chung sẽ lên 730.000đ/tháng. Mức lương này
được áp dụng đối với: Cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 15/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
chính trị - xã hội; đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, đơn vị sự nghiệp của tổ chức chính trị -
xã hội, đơn vị sự nghiệp ngoài công lập; công ty được thành lập, tổ chức quản lý và hoạt
động theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) và công ty TNHH 1 thành viên do Nhà
nước sở hữu 100% vốn điều lệ được tổ chức quản lý và hoạt động theo Luật Doanh
nghiệp.
Vì vậy, tiền lương là một bộ phận của sản phẩm xã hội biểu hiện bằng tiền được
trả cho người lao động dựa trên số lượng và chất lượng lao động của mọi người dùng để
bù đắp lại hao phí lao động của mọi người và nó là một vấn đề thiết thực đối với cán bộ
công nhân viên.Tiền lương được quy định một cách đúng đắn, là yếu tố kích thích sản
xuất mạnh mẽ, nó kích thích người lao động ra sức sản xuất và làm việc, nâng cao trình
độ tay nghề, cải tiến kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất lao động.
Người lao động sau khi sử dụng sức lao động tạo ra sản phẩm thì được trả một số
tiền công nhất định. Xét về hiện tượng ta thấy sức lao động được đem trao đổi để lấy tiền
công. Vậy có thể coi sức lao động là hàng hoá, một loại hàng hoá đặc biệt. Và tiền lương
chính là giá cả của hàng hoá đặc biệt đó, hàng hoá sức lao động. Vì hàng hoá sức lao
động cần được đem ra trao đổi trên thị trường lao động trên cơ sở thoả thuận giữa người
mua với người bán, chịu sự tác động của quy luật giá trị, quy luật cung cầu. Do đó giá cả
sức lao động sẽ biến đổi theo giá cả của các yếu tố cấu thành cũng như quan hệ cung cầu
về lao động. Như vậy khi coi tiền công là giá trị của lao động thì giá cả này sẽ hình thành
trên cơ sở thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động. Giá cả sức lao
động hay tiền công có thể tăng hoặc giảm phụ thuộc vào cung cầu hàng hoá sức lao động.
Như vậy giá cả tiền công thường xuyên biến động nhưng nó phải xoay quanh giá trị sức
lao động cung như các loại hàng hoá thông thường khác, nó đòi hỏi một cách khách quan
yêu cầu tính đúng, tính đủ giá trị của nó. Mặt khác giá tiền công có biến động như thế nào
thì cũng phải đảm bảo mức sống tối thiểu để người lao động có thể tồn tại và tiếp tục lao
động.
Vai trò của tiền lương:
Vai trò tái sản suất sức lao động
Vai trò kích thích sản xuất
Vai trò tái sản suất sức lao động
Vai trò tích luỹ
Các nhân tố ảnh hưởng tiền lương:
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 16/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
Nhóm nhân tố thuộc thị trường lao động: Cung – cầu lao động ảnh hưởng trực tiếp
đến tiền lương.
Nhóm nhân tố thuộc môi trường doanh nghiệp: Các chính sách, Khả năng tài
chính, Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp ảnh hưởng mạnh tới tiền lương.
Nhóm nhân tố thuộc bản thân người lao động: Trình độ lao động, Thâm niên công
tác, mức độ hoàn thành công việc nhanh hay chậm, đảm bảo chất lượng hay không đều
ảnh hưởng ngay đến tiền lương của người lao động.
Nhóm nhân tố thuộc giá trị công việc: Mức hấp dẫn của công việc, mức độ phức
tạp của công việc, điều kiện thực hiện công việc, yêu cầu của công việc đối với người
thực hiện.
Các nhân tố khác: ở đâu có sự phân biệt đối xử về màu da, giới tính, độ tuổi, thành
thị và nông thôn, ở đó có sự chênh lệch về tiền lương rất lớn, không phản ánh được mức
lao động thực tế của người lao động đã bỏ ra, không đảm bảo nguyên tắc trả lương nào cả
nhưng trên thực tế vẫn tồn tại.
Ngoài ra, sự khác nhau về mức độ cạnh tranh trên thị trường cũng ảnh hưởng tới
tiền lương của lao động
Khái niệm giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá, nghĩa là số lượng tiền
phải trả cho hàng hoá đó. Về nghĩa rộng đó là số tiền phải trả cho một hàng hoá, một dịch
vụ, hay một tài sản nào đó. Giá cả của hàng hoá nói chung là đại lượng thay đổi xoay
quanh giá trị. Khi cung và cầu của một hay một loại hàng hóa về cơ bản ăn khớp với
nhau thì giá cả phản ánh và phù hợp với giá trị của hàng hoá đó, trường hợp này ít khi
xảy ra. Giá cả của hàng hoá sẽ cao hơn giá trị của hàng hoá nếu số lượng cung thấp hơn
cầu. Ngược lại, nếu cung vượt cầu thì giá cả sẽ thấp hơn giá trị của hàng hoá đó.
Giá cả của một mặt hàng phụ thuộc vào:
Giá trị của bản thân hàng hoá đó
Giá trị của đồng tiền
Quan hệ cung và cầu cầu về hàng hoá
Tương quan giữa chính sách lương và giá tại Việt Nam: được xem là cuộc rượt
đuổi khó có hồi kết bởi nhũng yếu tố tác động như sau:
Tiền lương tối thiểu được hiểu là mức lương đủ đảm bảo cho cuộc sống tối thiểu
của người lao động mới điều chỉnh khoảng giữa năm 2010 nhưng. Thế nhưng, trên thực
tế, lương tối thiểu và thực tiễn cuộc sống vẫn còn khoảng cách . Vấn đề hiện nay là phải
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 17/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
làm sao xây dựng mức lương tối thiểu phù hợp với nhu cầu thực tế ở thời điểm công bố
như quy định tại điều 56 Bộ luật Lao động: “Mức lương tối thiểu được ấn định theo giá
sinh hoạt, bảo đảm cho người lao động làm công việc giản đơn nhất trong điều kiện lao
động bình thường bù đắp sức lao động giản đơn và một phần tích lũy tái sản xuất sức lao
động mở rộng...”.
Quan trọng nhất vẫn là, tiền lương không thể áp đặt mà phải theo hướng thị trường
- hình thành trên cơ sở mức sống, quan hệ cung cầu lao động và thỏa ước lao động tập
thể.
Để thoát ra khỏi giới hạn ngân sách khi quỹ lương hiện đã chiếm trên 30% tổng
chi ngân sách và bằng 60% của chi thường xuyên là điều rất khó khăn (dù nhu cầu tăng
lương cho cán bộ công chức là hết sức cấp bách) nhưng vẫn có thể thực hiện được.
Cần phải thu nhỏ bộ máy hành chính, cắt giảm biên chế những người ăn bám vào
ngân sách đồng thời gia tăng năng lực quản lý các nguồn thu, chi ngân sách. Nếu làm
được điều này, không chỉ sẽ thực hiện được việc tăng mức lương tối thiểu mà còn có thể
giảm thiểu được sự nhũng nhiễu trong hàng ngũ cán bộ công chức.
Các doanh nghiệp cũng mong muốn lương tối thiểu sát với thực tế. Ngoài ra,
lương tối thiểu thấp hơn lương thực tế cũng là một bất lợi cho các doanh nghiệp trong
nước khi thương lượng bán hàng cho nước ngoài vì các đối tác thường dựa vào mức
lương quy định chung của Nhà nước để tính ra đơn giá. Vì vậy, phần lớn các doanh
nghiệp đều mong muốn mức lương tối thiểu tiệm cận với mức lương thực tế mà doanh
nghiệp đang trả.
Từ đầu năm 2011 đến nay, việc nhà nước điều cbhỉnh tỷ giá, tăng giá xăng, giá
điện đã làm gia tăng hầu hết chi phí đầu vào các mặt hàng thiết yếu như xi măng, thép,…
cùng lạm phát tăng cao đã hỗ trợ tâm lý giá cả các nhóm mặt hàng lương thực phẩm, nhà
ở, dịch vụ tăng cao.
Giá cả tăng không chỉ khiến cho người mua lo lắng mà người bán cũng lo ngại.
Người tiêu dùng thắt chặt hầu bao, lượng tiêu thụ ít đi ảnh hưởng rất lớn đến đời sống
của người lao động. Chính phủ đang vận động người dân đồng cam cộng khổ với những
khó khăn của nền kinh tế trong thời buổi lạm phát. Thế nhưng để người dân thực sự đồng
lòng thì Chính phủ, trong phạm vi có thể kiểm soát được, cũng cần đảm bảo rằng gánh
nặng khó khăn được phân bổ một cách công bằng. Đồng thời, Chính phủ cũng cần cải
thiện hiệu quả của nền kinh tế để từ đó có cơ sở cải thiện phúc lợi của nhân dân.
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 18/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
1.4. Chính sách tài khóa
1.4.1. Giai đoạn 1991 - 2007
Từ năm 1991 – 2007, tăng trưởng kinh tế Việt Nam có thể được chia thành 3 giai
đoạn: tăng trưởng cao (1991 - 1996), suy thoái (1997 - 2001), phục hồi (2002 - 2007).
Như vậy, từ năm 1991 đến năm 2007, nền kinh tế đã trải qua giai đoạn suy thoái và
Chính phủ đã sử dụng biện pháp kích thích bằng chính sách tài khóa.
Kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, Chính phủ đã thực hiện nhiều
chính sách năng động khác nhau để kích thích kinh tế, như cải cách thể chế kinh tế vận
hành theo cơ chế thị trường, mở cửa thu hút vốn đầu tư và thúc đẩy thương mại quốc tế,
đẩy mạnh tự do hóa hệ thống tài chính và phát triển thị trường tài chính năng động... Như
vậy, vấn đề tăng trưởng kinh tế Việt Nam từ năm 1997 đến nay không thể chỉ giải thích ở
biến số chính sách tài khóa duy nhất. Có điều cần lưu ý, sự thay đổi tỷ lệ tăng trưởng từ
năm “đáy” của suy thoái đến năm sau đó là lớn hơn khi có những thay đổi cơ bản của
chính sách tài khóa như: giảm mức huy động nguồn thu thuế thông qua chương trình cải
cách thuế bước 2 và 3, đặc biệt gia tăng chi đầu tư công thông qua các chương trình kích
cầu từ nguồn vốn ngân sách và phát hành trái phiếu chính phủ... Tuy vậy, điều này cũng
chưa đủ cơ sở khoa học để khẳng định, chính sách tài khóa có hiệu ứng tốt đến ổn định
chu kỳ và khắc phục suy thoái kinh tế, mà cần có sự đo lường bằng phương pháp định
lượng.
1.4.2. Giai đoạn 2007 – 2008
Từ cuối năm 2007 đến tháng 3-2008, chính sách kinh tế được chi phối bởi mục
tiêu tăng trưởng GDP 9%, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu kế hoạch năm năm sớm (chỉ
trong ba năm), vượt ngưỡng nước có thu nhập trung bình ngay trong năm 2008...
Mặc dù đã có những cảnh báo sớm từ cuối năm 2007 về chất lượng tăng trưởng
thấp, chất lượng cuộc sống của người dân bị giảm sút, song quyết tâm của Chính phủ rõ
ràng là phải đạt được những thành tựu ấn tượng, vượt lên trên tất cả các thời kỳ trước
đây.
Ý chí và mục tiêu đó được sự ủng hộ của các tổ chức quốc tế và các nhà ngoại
giao qua những lời ca tụng không ngớt về những thành tựu nổi bật của Việt Nam, về vị
thế mới của Việt Nam trên trường quốc tế (thành viên WTO, lần đầu tiên được bầu là
thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc...) và về dòng vốn nước
ngoài đầu tư trực tiếp và gián tiếp ào ạt đổ vào trong nước.
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 19/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
Trước những thay đổi mạnh mẽ về luồng vốn, tác động từ bên ngoài như vậy, lẽ ra
phải thực hiện ngay những cải cách cơ cấu và thể chế cần thiết để nâng cao năng lực
giám sát, quản lý các lĩnh vực trọng yếu như ngân hàng, thị trường chứng khoán, thị
trường bất động sản, cải cách doanh nghiệp nhà nước, cải cách hành chính theo hướng
mở rộng công khai minh bạch, mở rộng sự tham gia giám sát của các nhà khoa học, hiệp
hội chuyên môn trong quá trình chuẩn bị quyết định, soạn thảo chính sách.
Song, trên thực tế Chính phủ đã dồn dập triển khai các biện pháp và các công trình
để đạt các mục tiêu đề ra: việc phân cấp (về nguyên tắc là đúng đắn và cần thiết) quá mức
cho chính quyền địa phương cấp tỉnh về đầu tư (trong nước và ngoài nước), việc cấp đất,
mở khu công nghiệp... đã tạo ra những chồng chéo và dư thừa đáng lo ngại về quá nhiều
công trình đầu tư vào sân golf, bất động sản, nhà máy thép, nhà máy lọc dầu lớn nhỏ.
Hệ quả là bên cạnh sự năng động và tăng nhanh về số lượng, các quyết định hàng
tỉ đô la Mỹ ở các địa phương, tập đoàn kinh tế, liên quan đến năng lượng, kết cấu hạ
tầng, nguồn nhân lực ở tầm kinh tế quốc dân, rất hệ trọng cho quốc kế dân sinh đã được
quyết định một cách nhanh chóng, thiếu sự thẩm định cần thiết của các chuyên gia, hội
đồng thẩm định có chuyên môn ở các bộ, ngành và thiếu sự tham gia của các tổ chức
quần chúng.
Bắt đầu từ quý 3-2008 một sự cộng hưởng ngoài ý muốn giữa hiệu lực của các
biện pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ với tác động của cuộc khủng hoảng tài
chính, suy thoái kinh tế toàn cầu đã xuất hiện. Giá hàng loạt nguyên vật liệu trên thế giới
giảm mạnh khiến tốc độ tăng giá tiêu dùng giảm dần và chỉ số giá của hai tháng 10 và 11
lần lượt giảm thấp hơn tháng trước.
Trong tháng 8-2008 đã có hai lần điều chỉnh giảm giá bán xăng và dầu hỏa, bảo
đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp và người sử dụng, tăng cường công tác
thu ngân sách để bảo đảm nhiệm vụ được giao, kết hợp với việc rà soát nợ đọng thuế,
chống thất thu, tiếp tục rà soát lại chi ngân sách, yêu cầu các bộ, ngành, địa phương cắt
giảm, đình hoãn các dự án đầu tư chưa thực sự cấp bách và dự án đầu tư không có hiệu
quả, không tăng chi ngoài dự toán, dành nguồn kinh phí cho bảo đảm an sinh xã hội, xem
xét điều chỉnh giảm mức thuế xuất khẩu, nhập khẩu nhằm bình ổn thị trường, hạn chế
nhập siêu...
Theo bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong năm 2008 Nhà nước đã cam kết cắt giảm
2.700 tỉ đồng chi thường xuyên (bao gồm quốc phòng, an ninh, quản lý nhà nước,
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 20/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
đảng…), và 5.992 tỉ đồng (tương ứng 8% kế hoạch năm) chi cho đầu tư phát triển (bao
gồm các công trình cơ sở hạ tầng…). Hai khoản cắt giảm trong chi tiêu công nêu trên
được các bộ, ngành, uỷ ban nhân dân các tỉnh cam kết thực hiện vào tháng 7 vừa qua
nhằm kiềm chế lạm phát.
Tuy nhiên, theo báo cáo mới công bố của tổng cục Thống kê, tổng chi ngân sách
nhà nước năm 2008 tăng tới 22,3% so với năm 2007 và bằng 118,9% dự toán năm. Trong
số đó, chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên vượt dự toán tương ứng ở mức 118,3%
và 113,3%.Như vậy, rõ ràng là chính sách tài khoá đã không được thực hiện nghiêm túc
như cam kết ban đầu, nhất là trong nhóm tám giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát.
1.4.3. Giai đoạn từ năm 2009 đến nay
Chịu ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới , kinh tế trong nước đang
đối mặt với nhiều khó khăn. Thị trường xuất khẩu và đầu tư thế giới giảm sút đột ngột,
nền kinh tế Việt Nam đã lập tức rơi vào suy giảm, từ mức tăng trưởng trên 7% (năm
2008) xuống còn 3,1% vào quý I-2009. Giá một số mặt hàng xuất khẩu chính giảm mạnh,
như giá gạo trong tháng 10-2009 giảm tới 20%, cà phê giảm tới 34,5%, cao su giảm gần
50%...
Trước tình hình đó, Chính phủ đã thực hiện các biện pháp điều hành quyết liệt
nhằm chặn đà suy giảm kinh tế, ổn định vĩ mô và hướng tới tăng trưởng bền vững. Một
trong những giải pháp chủ yếu là Chính sách tài khóa mở rộng, gồm các gói kích cầu.
Gói kích cầu thứ nhất đã được triển khai nhằm hỗ trợ lãi suất khoảng 17.000 tỉ đồng, gói
kích cầu thứ hai, với tổng nguồn vốn khoảng 8 tỉ USD, hỗ trợ lãi suất trong trung và dài
hạn nhằm kích cầu đầu tư, phát triển sản xuất.
Từ cuối năm 2008, Nhiều chính sách thuế mới nhằm thực hiện chủ trương kích
cầu, giảm khó khăn cho doanh nghiệp (DN) theo Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày
11/12/2008 của Chính phủ về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh
tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội đã được triển khai thực hiện.
Những chính sách thuế trên là đòn bẩy thúc đẩy đầu tư và tiêu dùng. Nếu như
trước đây DN phải thực hiện nghĩa vụ thuế ngay khi phát sinh thu nhập, thì giờ đây, chủ
trương của Chính phủ giảm 30% thuế thu nhập DN trong quý 4/2008 và cả năm 2009,
giãn nộp thuế thu nhập DN trong thời gian 9 tháng đối với các DN nhỏ và vừa và các DN
trong một số ngành nghề đã góp phần tháo gỡ khó khăn về vốn cho nhiều DN. Mặc dù
chính sách này không trực tiếp giải quyết được vấn đề cơ bản của DN là thiếu đầu ra cho
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 21/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
sản phẩm nhưng đây vẫn là một chính sách được cộng đồng doanh nghiệp hoan nghênh
vì nhờ nó DN giảm được chi phí. Việc giảm 50% thuế giá trị gia tăng đối với 19 nhóm
mặt hàng thuộc các ngành hàng mà trước đây có thuế suất là 10% đã tác động trực tiếp
đối với DN để phục vụ cho việc giảm giá hàng bán, giúp kích cầu tiêu dùng trong bối
cảnh suy giảm kinh tế hiện nay.
Cùng với đó, đối tượng được tạm hoàn thuế giá trị gia tăng là các tổ chức sản xuất,
kinh doanh hàng hóa xuất khẩu có hàng hóa đang trong thời gian chưa được phía nước
ngoài thanh toán qua ngân hàng theo hợp đồng. Ngoài ra, các đối tượng DN khác, nếu cơ
quan thuế xác định đủ điều kiện được hoàn thuế thì vẫn được giải quyết, không cần chờ
kiểm tra, xác minh rồi mới hoàn thuế như thông lệ.
Ngoài ra, chính sách giãn và miễn nộp thuế thu nhập cá nhân đối với một số loại
thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công, từ bản quyền, chuyển nhượng thương mại,
đầu tư vốn, thừa kế và quà tặng, được các nhà chính sách đánh giá sẽ giúp tăng thu nhập
khả dụng, nhờ đó tăng chi tiêu của người tiêu dùng.
Việc thực hiện một cách linh hoạt và đồng bộ các chính sách tài khóa và các chính
sách vĩ mô khác đã giúp nền kinh tế Việt Nam vượt qua khủng hoảng và tốc độ tăng
trưởng kinh tế năm 2009 đạt 5,3%, tỷ lệ lạm phát đã giảm còn 6,88% (từ 23% năm 2008),
thị trường chứng khoán và các hoạt động dịch vụ tài chính, ngân hàng được phục hồi
từng bước.
Năm 2010, kinh tế nước ta đã khắc phục được đà suy thoái nhưng vẫn tiềm ẩn
nhiều yếu tố gây bất ổn vĩ mô. Yếu tố bất ổn dễ nhận thấy nhất là nguy cơ lạm phát cao
quay trở lại do độ trễ của lượng cung tiền khá lớn được Nhà nước bơm vào thị trường
trong các năm 2008 - 2009 để thực hiện các giải pháp phục hồi tăng trưởng kinh tế. Tiếp
đến là nguy cơ thâm hụt cán cân thanh toán, mà một trong những nguyên nhân chủ yếu là
do tình trạng nhập siêu. Trong năm 2008, quy mô nhập siêu của nước ta lên tới 17,5 tỉ
USD, và năm 2009 nhập siêu khoảng 12 tỉ USD. Cùng với nguy cơ tái lạm phát cao, nếu
tỷ lệ nhập siêu tiếp tục tăng cao trong năm nay sẽ dẫn đến tình trạng lạm phát kép, tức là
vừa lạm phát trong nước, vừa nhập khẩu lạm phát. Một rủi ro tiềm ẩn khác trong chính
sách tiền tệ là tính thanh khoản của các ngân hàng thương mại tại thời điểm này đang
được cho là có vấn đề, do các ngân hàng thương mại có thể chạy đua nâng cao lãi suất để
huy động vốn.
Vì vậy, trong thời gian tới, Chính phủ thực hiện 6 nhóm giải pháp đồng bộ cùng
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 22/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
với gói kích cầu thứ hai để nâng cao hiệu quả đầu tư, trong đó, tập trung vốn đầu tư cho
phát triển các dự án, công trình có hiệu quả, có khả năng hoàn thành đưa vào sử dụng
sớm trong năm 2010 - 2011, thay vì mở rộng đầu tư trong bối cảnh khan hiếm vốn, tỷ lệ
vốn đầu tư trên GDP cao và hệ số ICOR cao. Để thực hiện tốt các mục tiêu này, cần chọn
lọc hơn khi triển khai gói kích thích kinh tế bổ sung, chỉ ưu tiên hỗ trợ những ngành, lĩnh
vực trực tiếp sản xuất tiêu thụ trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Ngoài ra, gói kích
thích kinh tế bổ sung đặt trọng tâm vào chính sách tài khóa (chính sách thuế, tài chính,
ngân sách...) và cải cách hành chính nhằm làm cho chính sách dễ đi vào hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
1.5. Chính sách tiền tệ
1.5.1. Tính chuyển đổi của đồng tiền
Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế ( IMF), đồng tiền tự do chuyển đổi là đồng tiền của một
nước hội viên mà IMF nhận thấy đồng tiền đó được sử dụng rộng rãi để thanh toán các
giao dịch quốc tế và được mua bán rộng rãi trên thị trường ngoại hối chủ chốt.
Có nghĩa là đồng tiền đó phải được chấp nhận ở trong nước và trên phạm vi quốc
tế. Theo đó, đồng tiền tự do chuyển đổi gắn chặt với sức mạnh nền kinh tế, đó phải là nền
kinh tế có sức cạnh tranh cao và có tính ổn định kinh tế vĩ mô bền vững.
Mặt khác, để tự do chuyển đổi, trước hết đồng tiền đó phải có tính chuyển đổi, có
nghĩa là đồng tiền đó có thể được chuyển đổi sang ngoại tệ mà không có bất kỳ hạn chế
nào.
Biểu đồ 1: Diễn biến tỷ giá USD/VND giai đoạn 1/2009 – 6/2010
Đối với Việt Nam, nâng cao tính chuyển đổi của đồng Việt Nam (VND) là mục
tiêu đã được khẳng định trong Pháp lệnh ngoại hối và hướng tới đồng tiền tự do chuyển
đổi hoàn toàn là một mục tiêu mong muốn
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 23/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
Pháp lệnh ngoại hối ban hành năm 2005 là cơ sở pháp lý rất thông thoáng cho tính
chuyển đổi của VND. Tháng 11/2005, IMF chính thức công nhận Việt Nam đã thực hiện
tự do hóa giao dịch vãng lai, có nghĩa là VND đã được chuyển đổi tự do trong các giao
dịch vãng lai, còn giao dịch vốn chưa được tự do hoàn toàn, nhưng những hạn chế là
không nhiều. Hiện nay, trong giao dịch vốn chỉ còn hạn chế về dòng vốn đầu tư gián tiếp,
bên cạnh đó là một số hạn chế về đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, xét trên nhiều khía cạnh
thì tính chuyển đổi của VND còn thấp, bởi các lý do cơ bản sau:
Thứ nhất, nền kinh tế còn một số bất cập. Thực trạng của nền kinh tế Việt Nam
hiện nay cho thấy, trong thời gian qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng ghi
nhận trong phát triển kinh tế, đặc biệt là nhanh chóng vượt qua thời kỳ bất lợi của cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu. Cụ thể, tăng trưởng kinh tế 6 tháng đầu năm 2010 tương
đối khả quan, đạt mức trên 6% (Quý I, GDP tăng trưởng 5,82%, quý II tăng gần 6,4%);
lạm phát được kiểm soát ở mức mong muốn và tương đối ổn định trong 3 tháng gần đây
(tháng 3, CPI tăng 0,75%, tháng 4 tăng 0,14%, tháng 5 tăng 0,27%, tháng 6 tăng 0,22%);
đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng mạnh, tháng 6, FDI tăng 900 triệu USD, nâng mức vốn
FDI 6 tháng lên 5,4 tỷ USD, tăng 6% so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, theo đánh giá
của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chủ
yếu vẫn theo chiều rộng, chất lượng tăng trưởng chưa cao, năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế còn thấp so với thế giới. Báo cáo đánh giá năng lực cạnh tranh tại Diễn đàn kinh
tế thế giới năm 2010 cho thấy, xếp năng lực cạnh tranh của Việt Nam năm 2009 – 2010
đứng thứ 75/133 ( năm 2008 – 2009 đứng thứ 70/132). Có sự mất cân đối kinh tế vĩ mô
như thâm hụt lớn giữa tiết kiệm và đầu tư, vấn đề nợ công ngày càng tăng, tiềm ẩn nguy
cơ lạm phát.
Thứ hai, thị trường tài chính tiềm ẩn một số nhân tố bất ổn. Khủng hoảng tài chính
toàn cầu và những bất cập của nền kinh tế Việt Nam được biểu hiện rõ nét trong năm
2008 – 2009 vừa qua (lạm phát cao, thâm hụt thương mại lớn, đầu tư nước ngoài
giảm…), cùng với hệ lụy của các giải pháp, chính sách chống suy giảm kinh tế đã gây
nên những hạn chế nhất định đến mức độ chuyển đổi của VND, đó là gây sự ép giảm giá
VND, gây khan hiếm ngoại tệ, nhu cầu thanh toán ngoại tệ của doanh nghiệp có những
lúc không được đáp ứng đầy đủ và kịp thời…
Trước tình hình đó, Chính phủ đã chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước phối hợp với các
bộ, ngành thực hiện hàng loạt biện pháp đồng bộ như điều chỉnh biên độ tỷ giá, chống
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 24/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
đầu cơ ngoại tệ, thắt chặt kỷ luật thị trường ngoại hối, hạn chế nhập siêu, xử lý hài hòa
mối quan hệ giữa lãi suất VND với lãi suất ngoại tệ và tỷ giá, xử lý vấn đề sàn vàng…
Các biện pháp đó đến nay đã phát huy hiệu quả, tỷ giá tương đối ổn định và có chiều
hướng đi xuống (trong 6 tháng, chỉ số giá USD giảm 0,17% so với tháng trước. Đây là
tháng thứ 3 liên tiếp USD giảm giá), ngoại tệ trên thị trường không còn khan hiếm, các
doanh nghiệp được đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu mua ngoại tệ
Có thể nói, để VND trở thành đồng tiền tự do chuyển đổi là vấn đề lớn, vấn đề
mang tầm vóc quốc gia, gắn liền với lộ trình phát triển kinh tế, phát triển thị trường tài
chính tự do hóa và phát triển hệ thống tài chính vững mạnh.
1.5.2. Hệ thống ngân hàng
Ngân hàng là lĩnh vực hoàn toàn mở trong cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO) của Việt Nam với lộ trình 7 năm. Chính vì vậy trong bối cảnh Việt Nam
gia nhập WTO, hơn bất cứ ngành nào, lĩnh vực ngân hàng cần phải tăng tốc cải cách
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh để không bị thua thiệt ngay trên chính "sân nhà".
Đứng trước tình hình đó, Chính phủ Việt Nam đã có những nỗ lực đáng kể trong
việc lành mạnh hóa khu vực ngân hàng thông qua việc triển khai Đề án củng cố, chấn
chỉnh các NHTMCP ( năm 1998) và Đề án cơ cấu lại các NHTMNN ( năm 2001), gỡ bỏ
dần các hạn chế về tỷ lệ tham gia cổ phần của các định chế tài chính nước ngoài theo
những cam kết trong Hiệp định Thương mại với Hoa Kỳ (năm 2006), “mở” toàn bộ các
quy định về việc khống chế tỷ lệ tham gia góp vốn, dịch vụ, giá trị giao dịch của các ngân
hàng nước ngoài theo các cam kết trong khuôn khổ Hiệp định khung về hợp tác thương
mại dịch vụ (AFAS) của Hiệp hội các nước ASEAN (năm 2008). Những nỗ lực trên
nhằm lành mạnh hóa tài chính, tăng cường kỷ luật thị trường trong hoạt động ngân hàng
và nâng cao khả năng cạnh tranh của hệ thống ngân hàng. Chương trình cải cách ngân
hàng cũng nhận được sự hỗ trợ quan trọng về tài chính và kỹ thuật của cộng đồng quốc
tế, đặc biệt WB, ADB, IMF và chính phủ các nước.
Vấn đề cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam có thể chia theo 2 giai đoạn, tương
ứng với sự phát triển và thay đổi chính sách của ngân hàng nhà nước Việt Nam.
Giai đoạn 1: Thời điểm trước gia nhập WTO ( 07/11/2006)
Tăng trưởng về quy mô và số lượng
Sau giai đoạn bùng phát vào đầu những năm 1990 và thu hẹp bớt trong giai đoạn
hậu khủng hoảng tài chính năm 1997, hệ thống ngân hàng nhà nước Việt Nam trong
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 25/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
những năm qua tương đối ổn định về mặt số lượng. Với khoảng 78 ngân hàng các loại
trong năm 2006, bao gồm 5 NHTMQD, 37 NHTMCP, 31 chi nhánh ngân hàng nước
ngoài và 5 ngân hàng liên Doanh. Trong đó quan trọng nhất là hệ thống NHTMQD và
NHTMCP
Bảng 1: Số lượng các ngân hàng giai đoạn 1991-2006
Năm 1991 1993 1995 1997 1999 2001 2005 2006NHTMQD 4 4 4 5 5 5 5 5NHTMCP 4 41 48 51 48 39 37 37Chi nhánh NHNN 0 8 18 24 26 26 29 31NHLD 1 3 4 4 4 4 4 5Tổng số 9 56 74 84 83 74 75 78
Bên cạnh sự tăng trưởng về số lượng, quy mô các ngân hàng cũng tăng trưởng khá
mạnh mẽ. Sự tăng trưởng tập trung vào 2 mảng hoạt động truyền thống là cho vay và huy
động. Tốc độ tín dụng và huy động tiền gửi ở mức rất cao, đạt trung bình khoảng 30%
trong suốt giai đoạn 2002-2006.
Biểu đồ 2: Tăng trưởng tín dụng và tiền gửi giai đoạn 2002-2006
0.00%
5.00%
10.00%
15.00%
20.00%
25.00%
30.00%
35.00%
40.00%
45.00%
2002 2003 2004 2005 2006
Tăng trưởng tín dụng
Tăng trưởng tiền gửi
Tăng trưởng GDP
Tuy nhiên việc tăng trưởng nhanh của tín dụng khiến ngân hàng có nguy cơ đối
mặt với rủi ro lớn hơn khi mà tỉ lệ tín dụng/ tiền gửi toàn ngành luôn ở mức trên 90%,
cao hơn mức trung bình của khu vực (khoảng 83%).
Ngoài hai mảng hoạt động truyền thống là tín dụng và huy động vốn, các mảng
hoạt động dịch vụ khác của ngân hàng trong giai đoạn này chưa có sự phát triển mạnh mẽ
và đa dạng.
Cổ phần hóa NHTMNN diễn ra chậm chạp:
Báo cáo phát triển mới đây của Ngân hàng Thế giới (WB) cho thấy, ngân hàng là
lĩnh vực chậm cải cách nhất trong nền kinh tế năng động của Việt Nam. Chưa hẳn đồng
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 26/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
tình với quan điểm này của WB, nhưng Ngân hàng Nhà nước cũng thừa nhận, thách thức
lớn nhất đối với quá trình hội nhập quốc tế trong dịch vụ ngân hàng của Việt Nam là xuất
phát điểm thấp về trình độ phát triển thị trường, tiềm lực về vốn yếu, công nghệ và tổ
chức ngân hàng lạc hậu và trình độ quản lý thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực
cũng như trên thế giới. Tuy nhiên, xu thế hội nhập của nền kinh tế nói chung và của
ngành ngân hàng nói riêng tạo ra sức ép cạnh tranh khá lớn, đòi hỏi phải có những cải
cách lớn đối với ngân hàng quốc doanh. Vì thế, chủ trương cổ phần hóa các ngân hàng
thương mại nhà nước ra đời nhằm tạo sức bật mới cho hệ thống ngân hàng trước ngưỡng
cửa gia nhập WTO. Nhưng tiến trình này diễn ra hết sức chậm chạp. Đến cuối thời điểm
Viêt Nam gia nhập WTO vào cuối năm 2007, vẫn chưa có ngân hàng thương mại nào
được cổ phần hóa, mặc dù chủ trương đã có từ nhiều năm trước đó.
Giai đoạn 2: Từ sau ngày 07/11/2006 đến nay:
Tăng trưởng về quy mô và số lượng
Bảng 2: Số lượng các ngân hàng trong giai đoạn 2006-2009
Năm 2006 2007 2008 2009Ngân hàng TMQD 5 5 3 3Ngân hàng TMCP 37 37 39 39Chi nhánh NHNN 31 33 39 40Ngân hàng liên Doanh 5 5 5 5Ngân hàng 100% vốn nước ngoài 0 0 5 5Tổng số 78 80 91 92
Từ ngày 01/04/2007, theo cam kết gia nhập WTO, Việt Nam chính thức cho phép
thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Ngân hàng mới thành lập phải có vốn điều lệ
tối thiểu 1.000 tỷ đồng và phải đạt 3.000 tỷ đồng vào năm 2010. Riêng đối với các nhà
đầu tư nước ngoài vẫn hạn chế ở mức 30%. Các cổ đông chiến lược nước ngoài chỉ được
nắm giữ tối đa 20% vốn điều lệ và các tổ chức này phải có tổng tài sản tối thiểu là 20 tỷ
USD. Tuy nhiên, sức hấp dẫn về tiềm năng tăng trưởng kinh tế và lợi nhuận của ngành
ngân hàng đã khiến nhiều tổ chức trong và ngoài nước tham gia thành lập ngân hàng mới.
Song song đó, tăng trưởng tín dụng trong giai đoạn này khá nhanh, đặc biệt vào
năm 2007, khi mà tăng trưởng tín dụng lên tới 54%do nhu cầu tín dụng trong nền kinh tế
tăng cao, trong đó bao gồm cả nhu cầu vốn đầu tư chứng khoán và bất động sản.
Theo báo cáo gần đây của Ngân hàng Nhà nước cho biết, tín dụng đối với nền
kinh tế trong tháng 7, con số tăng trưởng tín dụng mà Ngân hàng Nhà nước công bố ước
tính là 12,97% so với cuối năm 2009 và đến cuối tháng 8/2010 ước tăng 16,27% so với
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 27/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
cuối năm 2009.
Cũng trong tháng 8, tổng số dư tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng tiếp tục
có tốc độ tăng trưởng cao hơn tín dụng; đến cuối tháng 8/2010 ước tăng 17,75% so với
cuối năm 2009.
Biểu đồ 3: Tăng trưởng tín dụng (%) qua các tháng 8 tháng đầu năm 2009 và 2010
Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cũng cho biết, tổng phương tiện thanh toán
tháng 8/2010 ước tăng 16,31% so với cuối năm 2009;
Ngoài hai mảng truyền thống, mảng hoạt động dịch vụ cũng có sự phát triển mạnh
mẽ. Các NHTM đẩy mạnh hiện đại hóa công nghiệp và nâng cao năng lực quản trị, điều
hành trên cơ sở tăng cường áp dụng các thông lệ quốc tế về quản trị Doanh nghiêp và
từng bước thiết lập các định chế quản trị rủi ro. Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân
hàng được đưa vào vận hành năm 2002 và hạ tầng công nghệ thông tin của ngành ngân
hàng được hiện đại hóa một bước góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển các dịch vụ
ngân hàng mới, đặc biệt các dịch vụ thanh toán và ngân hàng điện tử (internet banking,
telephone banking, ATM, thẻ tín dụng, thẻ thanh toán…)
Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, tốc độ tăng trưởng phát hành thẻ trong 5
năm từ năm 2006-2010 đã tăng từ 50-100%. Riêng trong năm 2010 số lượng thẻ phát
hành trên phạm vi cả nước năm 2010 là khoảng 28,5 triệu thẻ với hơn 11.000 máy ATM
và gần 50.000 thiết bị chấp nhận thẻ (POS) được lắp đặt tại các cửa hàng, siêu thị, khách
sạn, sân bay...
Các ngân hàng thương mại ngày càng hoạt động mang tính chuyên nghiệp và có
uy tín hơn với quốc tế. Điển hình là các ngân hang: ACB, Techcombank, …
Cổ phần hóa NHTMQD thành NHTMCP
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 28/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
Theo cam kết với WTO về ngành ngân hàng, từ tháng 12/2007, Việt Nam đã chính
thức thực hiện việc cổ phần hóa NHTMQD đầu tiên là Vietcombank. tiếp theo là
Vietinbank và sắp tới là BIDV. Việc đẩy mạnh cổ phần hóa các ngân hàng thương mại
quốc doanh đã góp phần vào việc nâng cao trình độ quản lý, tinh gọn bộ máy nhân sự,
đồng thời tạo điều kiện cho các ngân hàng cải cách cơ chế của hoạt động kinh doanh,
giảm bớt sự phụ thuộc vào nhà nước, đem lại những cơ hội mới về huy động nguồn vốn
dài hạn hiệu quả, nhanh chóng và thuận tiện từ thị trường chứng khoán.
Cho vay chính sách được tách khỏi cho vay thương mại và chấm dứt tình trạng cơ
quan quản lý nhà nước can thiệp vào hoạt động kinh Doanh của các tổ chức tín dụng để
bảo đảm các tổ chức tín dụng, kể cả NHTMNN, thực hiện kinh Doanh theo nguyên tắc
thị trường, tối đa hóa lợi nhuận. Quyền tự chủ kinh Doanh, tự chịu trách nhiệm về tài
chính và các rủi ro ngày càng được thể chế hóa rõ rang và thực hiện tương đối hiệu quả,
nhất là khu vực ngân hàng cổ phần và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
1.5.3. Tự do hóa lãi suất
Việc điều hành lãi suất đã từng bước gỡ bỏ dần các ràng buộc trong cơ chế điều
hành lãi suất. Qua nhiều lần thay đổi cơ chế điều hành lãi suất, hiện nay đã tiến tới tự do
hóa lãi suất hoàn toàn. Có thể tham khảo bảng 3 bảng lãi suất danh nghĩa qua các năm
trong phần phụ lục.
Giai đoạn trước tháng 6/1992: ngân hàng nhà nước can thiệp ở mức độ cao và trực
tiếp vào lãi suất thông qua ấn định lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay. Cơ chế lãi suất âm
và mang nặng tính chất bao cấp được duy trì trong suốt thời kỳ này.
Giai đoạn từ tháng 6/1992 đến cuối năm 1995: chuyển từ cơ chế lãi suất thực âm sang cơ
chế lãi suất thực dương, xóa bỏ về cơ bản sự chênh lệch lãi suất cho vay giữa các thành
phần kinh tế, quản lý lãi suất theo một khung bao gồm lãi suất tối thiểu về tiền gửi và lãi
suất tối đa về tiền vay. Ngân hàng nhà nước cho phép ngân hàng thương mại được thỏa
thuận lãi suất với khách hàng ( áp dụng trong trường hợp huy động vốn bằng phát hành
kỳ phiếu – lãi suất huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn 0.2%/tháng và
cho vay cao hơn mức trần 2.1%/tháng)
Giai đoạn từ năm 1996- tháng 7/2000: Chuyển quy định khung lãi suất tối thiểu về
tiền gửi – lãi suất tối đa về tiền vay thành quy định các mức lãi suất “trần” theo thời hạn
cho vay và khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suât huy động vốn bình
quân 0.35%/tháng. Đến cuối tháng 1/1998, NHNN xóa bỏ quy định chênh lệch lãi suất,
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 29/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
chỉ còn quy định trần lãi suất cho vay. Tháng 11/1999, ngân hàng nhà nước đưa vào sử
dụng nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ cho các ngân hàng thương mại, lãi suất
tái chiết khấu được quy định ở mức thấp hơn 0.05%/tháng so với lãi suất tái cấp vốn.
Tháng 7/2000, ngân hàng nhà nước đưa vào sử dụng nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất thị
trường mở được hình thành qua các phiên giao dịch.
Từ tháng 8.2000 đến tháng 5.2001 áp dụng cơ chế lãi suất cơ bản, nghĩa là Ngân
hàng Nhà nước sẽ công bố lãi suất cơ bản và biên độ dao động cho phép ngân hàng
không được tính lãi suất cho vay vượt quá lãi suất cơ bản +0.3%/tháng đối với vốn ngắn
hạn và 0.5%/tháng đối với vốn trung và dài hạn. Trên cơ sở đó ngân hàng thương mại sẽ
quyết định lãi suất kinh doanh của mình.
Từ tháng 6.2001 đến tháng 5.2002 áp dụng cơ chế lãi suất cơ bản đối với đồng
Việt Nam và lãi suất thị trường đối với ngoại tệ(USD). Tháng 11/2001, trần ngoại tệ cho
vay ngoại tệ được xóa bỏ, từ đó cho phép người cho vay ngoại tệ trong nước có thể
thương lượng lãi suất với ngân hàng nội địa và ngân hàng nước ngoài
Từ tháng 6.2002 đến nay thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận cho cả Việt Nam
đồng và ngoại tệ. Quyết định số 546/2002 QĐ-NHNN về thực hiện cơ chế lãi suất thỏa
thuận trong hoạt động tín dụng là một bước ngoặc lớn đánh dấu sự mở đầu trong việc
thực hiện cơ chế tự do hóa lãi suất. Nghĩa là việc ban hành lãi suất cơ bản của Ngân hàng
Nhà nước chỉ mang tính chất làm tín hiệu cho thị trường, lãi suất được hình thành hoàn
toàn dựa trên quan hệ cung cầu vốn thị trường và mức độ tín nhiệm trong quan hệ tài
chính, tức là chính thức tự do hóa lãi suất.
Thực trạng tự do hoá lãi suất
Những mặt đạt được
Tiến hành cải cách, điều chỉnh chính sách lãi suất làm cho lãi suất trong nền kinh
tế đã trở thành công cụ quan trọng của Nhà nước nhằm thực thi chính sách tiền tệ, ổn
định môi trường kinh tế vĩ mô, kiềm chế được lạm phát.
Lãi suất góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế nói chung, kích thích sự tiết
kiệm và khuyến khích đầu tư. Việc xóa dần chính sách ưu đãi về lãi suất đã dần dần tạo
điều kiện cho các NHTM thực hiện tốt công tác hạch toán kinh tế và kinh doanh của
mình được chủ động thuận lợi.
Chính sách lãi suất qua các lần biến đổi đã tiến dần đến tự do hóa lãi suất, chuẩn bị
cho sự hội nhập về lãi suất với nền kinh tế thế giới.
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 30/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
Những mặt còn hạn chế
Thị trường tiền tệ liên ngân hàng còn thấp kém, chưa phát triển, diễn biến lãi suất
chưa phản ánh xác thực tương quan cung cầu trên thị trường, chưa có lãi suất chuẩn trên
thị trường tiền tệ.
NHNN chưa có cơ chế nắm bắt đầy đủ và kịp thời diễn biến lãi suất liên ngân
hàng.
Tự do hóa lãi suất sẽ dẫn đến tình trạng chạy đua tăng lãi suất huy động vốn của
các NHTM. Với việc liên tục đẩy lãi suất tăng cao như hiện nay, mặt bằng lãi suất huy
động vốn chung của các ngân hàng ở mức 14%-15%, trong khi lãi suất cho vay tối là
18% sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Để đảm bảo kinh
doanh có lợi nhuận, buộc các ngân hàng phải tăng các loại phí cấp tín dụng và phí thực
hiện giao dịch tiền tệ làm ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các doanh nghiệp cũng
như gián tiếp đến nền kinh tế.
Các giải pháp góp phần thành công quá trình tự do hoá lãi suất ở Việt Nam
Hoàn thiện các quy định về lãi suất, quy chế quản lý ngoại hối theo thông lệ quốc
tế.
Từng bước nới lỏng các quy định mang tính hành chính, tạo lập môi trường kinh
doanh bình đẳng hơn cho các NHTM.
Nâng cao năng lực quản lý và vai trò giám sát của NHNN.
Lành mạnh hóa tình hình tài chính của các NHTM, nâng cao năng lực cạnh tranh
của các NHTM khu vực nhà nước, rà soát lại các NHTM cổ phần.
Tóm lại: Quá trình tự do hóa lãi suất là một quá trình lâu dài, khó khăn. Nó gắn
chặt với việc phát triển các thị trường tiền tệ và thị trường vốn trong nước, cũng như sự
hoàn thiện của hệ thống pháp luật. Tự do hóa lãi suất là hạt nhân trong quá trình tự do
hóa tài chính nội địa cũng như quốc tế; bởi vì để các quá trình tự do hóa tài khoản vốn, tự
do hóa tín dụng... thành công, đòi hỏi cơ chế lãi suất phải được vận hành theo quy luật
cung - cầu về vốn trên thị trường.
1.5.4. Chính sách tỷ giá
Trong điều kiện của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, tác động điều tiết của tỷ
giá hối đoái bị hạn chế rất nhiều và hầu như không phát huy tác dụng. Trong một thời
gian dài ở nước ta, tỷ giá hối đoái cố định được ấn định rất cao, vừa không phản ánh đúng
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 31/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối vừa không phản ánh đúng giá trị của đồng tiền
nội tệ. Có thể nói tỷ giá hối đoái của đồng tiền Việt Nam lúc bấy giờ chỉ là hệ số quy đổi
để các công ty thương mại quốc doanh lập kế hoạch và tính toán nội bộ. Tất cả điều đó
làm cho nền kinh tế trong một thời gian dài bị khủng hoảng trầm trọng.
Trong xu thế cải cách từ một nền kinh tế kế hoạch đóng sang một nền kinh tế thị
trường mở, thể chế kinh tế mới ngày càng xác lập và phát triển. Ngân hàng nhà nước Việt
Nam đã chuyển từ chế độ tỷ giá cố định sang chế độ tỷ giá linh hoạt có sự kiểm soát của
nhà nước, là một sự lựa chọn đúng đắn của nhà nước trong điều kiện quá trình hội nhập
Việt Nam với thế giới. Việc áp dụng tỷ giá thả nổi có điều tiết sẽ có các điều lợi sau: Một
là, nó phản ánh kịp thời mọi quan hệ cung cầu trên thị trường, tranh được tình trạng xác
định tỷ giá quá cố định, xa rời thực tế của nền kinh tế. Hai là, sự can thiệp kịp thời của
nhà nước đến tỷ giá sẽ tránh được những biến động không mong muốn có ảnh hưởng tiêu
cực đến tình hình kinh tế-xã hội. Ba là, giúp cho các Doanh nghiệp thương mại có cơ sở
để quyết định chính sách kinh doanh của mình, bởi vì họ có thể dự đoán được một cách
tương đối giá cả, chứ không phải luôn luôn vật lộn với những biến động thất thường của
một chế độ tỷ giá linh hoạt hoàn toàn.
Ngân hàng nhà nước đã thực hiện việc công bố tỷ giá trên cơ sở giá bình quân
chung trên thị trường liên ngân hàng và kèm theo biên độ dao động cho phép. Các biên
độ tỷ giá này ngày càng được nới rộng ra: ngày 1/7/2002, biên độ này được nới rộng ra từ
+/-0.1% lên +/-0.25%, ngày 31/12/2006 từ +/-0.25% lên +/-0.5% và ngày 07/03/2008
tăng từ +/-0.75 lên +/-1% và 24/02/2010 biên độ tỷ giá là +/-3%. Xem tại bảng 4: bảng tỷ
giá hối đoái qua các năm trong phần phụ lục. Điều này cho thấy tỷ giá hoàn toàn được
điều chỉnh một cách linh hoạt theo cơ chế thị trường.
Đề cập đến vấn đề tỷ giá ở Việt Nam là một vấn đề hết sức nhạy cảm, liên quan
đến hàng loạt các yếu tố cấu trúc kinh tế và cả vấn đề chính trị, xã hội. Theo đánh giá
của nhiều chuyên gia thì hiện nay đồng tiền Việt Nam đang được định giá khá cao so với
rổ tiền tệ. Còn quan điểm của Ngân hàng Nhà nước, vẫn một quan điểm thận trọng, chỉ
mở rộng biên độ tỷ giá giao dịch liên ngân hàng với một con số khiêm tốn từ +/-0,1% →
+/-3%. Như vậy, nó sẽ làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường
quốc tế, ảnh hưởng xấu đến hoạt động xuất nhập khẩu, sau đó làm NHNN khó điều hành
chính sách tiền tệ. Tỷ giá VND chủ yếu được đánh giá thông qua sự biến động của VND
so với USD, điều này phản ánh đúng thực trạng giao dịch ngoại hối của nước ta, các hoạt
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 32/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
động thanh toán bằng USD chiếm tỷ trọng cao. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào một ngoại tệ
duy nhất là USD để xác định giá trị bản tệ thì quá mạo hiểm đối với hoạch định chính
sách vĩ mô. Do đó, chúng ta nên xem xét khả năng xác định linh hoạt tỷ giá VND tương
ứng với một rổ tiền tệ là các ngoại tệ mạnh có tham gia thương mại với Việt Nam. Có
như vậy VND mới được xác định đúng giá trị và giảm thiểu tâm lý sùng bái USD, dẫn
đến tình trạng đô la hóa của đại bộ phận dân cư hiện nay.
1.6. Vấn đề bay hơi ở thị trường tài chính
Bay hơi tài chính là hiện tượng các luồng vốn đầu tư ngắn hạn sẽ đồng loạt chuyển
đổi; các cổ phiếu, trái phiếu sẽ được các nhà đầu tư nước ngoài bán tháo đổi ra ngoại tệ
và chuyển ra nước ngoài ... Tất cả điều này sẽ dẫn đến các luồng vốn ngắn hạn được ồ ạt
rút ra khỏi đất nước.
Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cần có nguồn vốn đầu tư dồi dào, có thể dựa vào
nguồn vốn đầu tư nước ngoài và nguồn vốn đầu tư trong nước. Tuy nhiên, nếu cơ cấu vốn
đầu tư không hợp lý: trong nguồn vốn đầu tư nước ngoài, vốn đầu tư trực tiếp thấp và
vốn đầu tư gián tiếp chiếm tỷ trọng lớn sẽ dẫn đến kết quả:
Nền kinh tế bị lệ thuộc vào bên ngoài ngày càng tăng.
Vốn ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn (qua đầu tư gián tiếp) làm tăng cầu hàng hóa
trong nước, tăng giá đồng bản tệ.
Khi các luồng vốn ngắn hạn được rút ra ồ ạt nhất định sẽ gây hậu quả nặng nề đối
với thị trường tài chính trong nước:
Đồng bản tệ sụt giá nhanh chóng.
Tỷ giá tăng cao do sự giảm mạnh của đồng tiền trong nước.
Giá chứng khoán giảm mạnh.
Nền sản xuất bị khủng hoảng đình đốn.
Có thể dẫn đến khủng hoảng tài chính tiền tệ.
Dễ nhận thấy cuộc khủng hoảng Châu Á xảy ra trước đây chủ yếu là do định chế
đầu tư mắc những khoản nợ lớn nhưng những khoản nợ này lại không được hậu thuẫn
bằng những tài sản có tính thanh khoản cao, điều đó khiến các định chế này dễ bị tổn
thương và gây ra cuộc khủng hoảng tài chính lan rộng năm 1997.
Hiện nay do các khoản đầu tư vào Việt Nam đều được hậu thuẫn mạnh mẽ bởi các
tài sản tư nhân và mang tính chiến lược hơn là chỉ tập trung vào thị trường cổ phiếu và thị
trường bất động sản nên các khoản đầu tư này rất mạnh và khả năng rút vốn ồ ạt là rất
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 33/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
thấp
Sự thành công của thị trường tài chính ở bất cứ Quốc gia nào cũng đều nhờ có môi
trường pháp lý lành mạnh, hệ thống giao dịch mạnh, có cơ sở hạ tầng quản lý rủi ro, thị
trường thứ cấp phát triển và hệ thống ngân hàng tốt. Do đó, Việt Nam cần nhanh chóng
xây dựng một thị trường tài chính năng động, có tính thanh khoản cao với sự tham gia
tích cực của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
1.7. Đô la hóa và kiểm soát nguồn vốn nước ngoài khi thực hiện tự do hóa
1.7.1. Đô la hóa
a) Khái niệm
Đô la hóa là tình trạng mà tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm trên 30% trong
tổng khối tiền tệ mở rộng bao gồm: tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi không kỳ hạn, tiền
gửi có kỳ hạn và tiền gửi ngoại tệ.
Đô la hóa được phân ra làm 3 loại như sau:
Đô la hóa không chính thức: là trường hợp đồng đô la được sử dụng rộng rãi trong
nền kinh tế, mặc dù không được quốc gia đó chính thức thừa nhận. Ở những nước có nền
kinh tế bị đô la hóa không chính thức, phần lớn người dân đã quen với việc sử dụng đồng
đô la nhưng Chính Phủ vẫn cấm niêm yết giá hàng hóa bằng đô la, cấm dùng đô la đối
với hầu hết giao dịch trong nước.
Đô la hóa bán chính thức: hay còn gọi là đô la hóa từng phần là tình trạng đồng đô
la được sử dụng như một đơn vị kế toán, phương tiện trao đổi, dự trữ giá trị và phương
tiện thanh toán trong khi đồng nội tệ vẫn tồn tại và lưu thông. Đồng đô la có chức năng
như một đồng tiền hợp pháp thứ hai của nền kinh tế. Các nước ở tình trạng này vẫn duy
trì một Ngân hàng Trung ương để thực hiện chính sách tiền tệ của họ.
Đô la hóa chính thức: hay còn gọi là đô la hóa hoàn toàn xảy ra khi đồng ngoại tệ
là đồng tiền hợp pháp duy nhất được lưu hành. Nghĩa là đồng ngoại tệ không chỉ được sẻ
dụng hợp pháp trong các hợp đồng giữa các bên tư nhân mà còn hợp pháp trong các
khoản thanh toán của Chính Phủ. Nếu đồng nội tệ còn tồn tại thì nó chỉ có vai trò thứ yếu
và thường chỉ là đồng tiền xu hay các đồng tiền mệnh giá nhỏ. Thông thường, các nước
chỉ áp dụng đô la hóa chính thức khi đã thất bại trong việc thực thi các chương trình ổn
định kinh tế.
b) Tình trạng đô la hóa ở Việt Nam
Ở Việt Nam, theo thống kê, tỷ lệ đô la hóa luôn ở mức trên 20% trong khi tỷ lệ
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 34/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
này ở các nước trong khu vực thấp hơn rất nhiều, như: Indonesia, Thái Lan, Malaysia...
chỉ khoảng 7-10%. Mục tiêu của Ngân hàng nhà nước Việt Nam tới năm 2010 sẽ giảm tỷ
lệ này xuống còn 15%.
Những năm qua, lượng tiền gửi tuyệt đối bằng USD tại các ngân hàng đã không
ngừng tăng lên, đặc biệt là ở hệ thống ngân hàng tại 2 thành phố lớn là Hà Nội và thành
phố Hồ Chí Minh. Với nguồn vốn ngoại tệ đồ sộ đó, các ngân hàng thường có 2 cách lựa
chọn: một là đem gửi ở ngân hàng nước ngoài_những nước có lãi suất tiết kiệm bằng
đồng USD cao hơn trong nước để kiếm lời bằng chênh lệch lãi suất hoặc thực hiện
nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ quốc tế; hai là đầu tư và cho các
doanh nghiệp trong nước vay. Cách thứ nhất buộc các ngân hàng phải có một lượng USD
tương đối lớn, song hiệu quả kinh tế không cao, lại luôn tiềm tàng nhiều rủi ro do giá
USD trên thị trường thế giới luôn biến đổi thất thường. Điển hình là việc Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã từng có giai đoạn bị thua lỗ hàng chục triệu USD
do kinh doanh ngoại tệ. Chính vì vậy mà các ngân hàng thường thực hiện theo cách thứ
2: đầu tư cho vay trong nước, và chính điều này đã làm gia tăng các giao dịch, thanh toán
bằng USD trên nhiều loại thị trường. Điều này không những đẩy nhanh quá trình đô la
hóa mà còn mang lại nhiều rủi ro cho doanh nghiệp vay vốn bằng USD: họ kinh doanh
bằng VNĐ nhưng phải trả nợ ngân hàng bằng USD và nghiễm nhiên sẽ phải gánh chịu
rủi ro về tỷ giá.
Một lĩnh vực đô la hóa tương đối mạnh đó là bán hàng qua mạng, kinh doanh các
sản phẩm nhập khẩu, nhất là đồ điện tử. Ta có thể thấy bằng trực giác việc niêm yết giá
bằng cả VNĐ lẫn USD ở hầu như 100% các trang web bán đồ điện tử như: máy vi tính,
các thiết bị gia dụng nhập ngoại … Mặc dù hai loại giá được đặt song song nhưng việc
thanh toán thực tế thì luôn được thực hiện bằng USD, nếu khách hàng thanh toán bằng
VNĐ thì giá của hàng hóa sẽ dựa trên tỷ giá hối đoái giữa VN và USD ngày hôm thực
hiện giao dịch. Những hàng hóa này thường là những hàng hóa mà doanh nghiệp Việt
Nam phải nhập khẩu toàn bộ hoặc nhập khẩu từng linh kiện, nên giá của chúng phụ thuộc
hoàn toàn vào USD. Do vậy, các doanh nghiệp, để tránh rủi ro tỷ giá buộc phải niêm yết
giá bằng USD
c) Nguyên nhân tình trạng đô la hóa
Trên thực tế ta thấy rằng lãi suất tiền gửi VNĐ cao hơn USD. Với mức chênh lệch
lãi suất đáng kể đó thì gửi tiết kiệm bằng VNĐ sẽ cho ta mức lãi tiết kiệm cao hơn bất
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 35/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
chấp sự chênh lệch tỷ giá. Nhưng người dân vẫn có thói quen tích trữ USD hơn là VNĐ.
Nguyên nhân mang tính lịch sử, đó là sự mất lòng tin vào đồng nội tệ của người
dân do những cuộc khủng hoảng tiền tệ sau năm 1985 và những năm 1997-1998. Thêm
vào đó là hiện tượng lạm phát phi mã trong những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên
90 càng làm làm cho đồng nội tệ mất giá nhanh và tạo cho những người giữ tiền cảm thấy
quá rủi ro khi giữ một khối lượng đồng nội tệ lớn. Hơn thế nữa, sau một thời gian ổn
định, chỉ số giá đang ngày càng gia tăng khiến mọi người thêm ngần ngại hơn trong việc
chuyển từ ngoại tệ sang VNĐ. Người ta thích dùng USD không chỉ vì tính ổn định mà
còn vì sự gọn nhẹ và tiện dụng của nó.
Một nguyên nhân khác đó là nguồn ngoại tệ tiền mặt ở nước ta không ngừng tăng
nhanh, đặc biệt là USD bởi vì nước ta có rất nhiều kênh để huy động ngoại tệ:
Nguồn kiêu hối ngày càng có xu hường tăng mạnh với mức tăng bình quân
10%/năm và tới năm 2010 dự tính sẽ lên tới 8 tỷ USD.
Lượng ngoại tệ chi tiêu ở Việt Nam của khách du lịch nước ngoài cũng tăng
nhanh cùng với lượng du khách đến Việt Nam.
Tiền lương và thu nhập của người Việt Nam làm việc trong các dự án liên doanh,
dự án 100% vốn đầu tư nước ngoài, dự án quốc tế, cơ quan nước ngoài tại Việt Nam...
được trả bằng ngoại tệ.
Số lượng người nước ngoài đến Việt Nam làm việc, sinh sống, làm ăn, học tập…
ngày càng gia tăng, chi tiêu ngoại tệ tiền mặt rất lớn, nhất là tiền thuê nhà của các hộ gia
đình người Việt Nam và chi trả các dịch vụ khác.
Tiền viện trợ không hoàn lại, tiền của các tổ chức tài chính vi mô, tổ chức từ thiện
quốc tế, tổ chức phi chính phủ nước ngoài… Bên cạnh đó là nguồn vốn tài trợ của các tổ
chức tài chính tiền tệ quốc tế, Chính Phủ các nước.
Hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam bao gồm cả đầu tư trực tiêp và đầu tư
gián tiếp.
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ngày một gia tăng cùng với sự phát triển của
nền kinh tế.
Ngoại tệ từ các hoạt động buôn lậu và một số nguồn ngoại tệ qua các hoạt động
kinh tế ngầm khác mà Chính Phủ Việt Nam chưa thể quản lý.
Với lượng tiền mặt ngoại tệ lớn như vậy đang ồ ạt đổ về, buộc Việt Nam phải
đứng trước tình trạng đô la hóa nền kinh tế ngày càng trầm trọng.
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 36/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
d) Những tác đ ộng của đô la hoá
Những tác động tích cực:
Tạo một cái van giảm áp lực đối với nền kinh tế trong những thời kỳ lạm phát cao,
bị mất cân đối và các điều kiện kinh tế vĩ mô không ổn định. Do có một lượng lớn đô la
Mỹ trong hệ thống ngân hàng, sẽ là một công cụ tự bảo vệ chống lại lạm phát và là
phương tiện để mua hàng hoá ở thị trường phi chính thức
Ở các nước đô la hoá chính thức, bằng việc sử dụng đồng ngoại tệ, họ sẽ duy trì
được tỷ lệ lạm phát gần với mức lạm phát thấp làm tăng sự an toàn đối với tài sản tư
nhân, khuyến khích tiết kiệm và cho vay dài hạn. Hơn nữa, ở những nước này ngân hàng
trung ương sẽ không còn khả năng phát hành nhiều tiền và gây ra lạm phát, đồng thời
ngân sách nhà nước sẽ không thể trông chờ vào nguồn phát hành này để trang trải thâm
hụt ngân sách, kỷ luật về tiền tệ và ngân sách được thắt chặt. Do vậy, các chương trình
ngân sách sẽ mang tính tích cực hơn
Tăng cường khả năng cho vay của ngân hàng và khả năng hội nhập quốc tế. Với
một lượng lớn ngoại tệ thu được từ tiền gửi tại ngân hàng, các ngân hàng sẽ có điều kiện
cho vay nền kinh tế bằng ngoại tệ, qua đó hạn chế việc phải vay nợ nước ngoài, và tăng
cường khả năng kiểm soát của ngân hàng trung ương đối với luồng ngoại tệ. Đồng thời,
các ngân hàng sẽ có điều kiện mở rộng các hoạt động đối ngoại, thúc đẩy quá trình hội
nhập của thị trường trong nước với thị trường quốc tế
Hạ thấp chi phí giao dịch. Ở những nước đô la hoá chính thức, các chi phí như
chênh lệch giữa tỷ giá mua và bán khi chuyển từ đồng tiền này sang đồng tiền khác được
xoá bỏ. Các chi phí dự phòng cho rủi ro tỷ giá cũng không cần thiết, các ngân hàng có thể
hạ thấp lượng dự trữ, vì thế giảm được chi phí kinh doanh
Thúc đẩy thương mại và đầu tư. Các nước thực hiện đô la hoá chính thức có thể
loại bỏ rủi ro cán cân thanh toán và những kiểm soát mua ngoại tệ, khuyến khích tự do
thương mại và đầu tư quốc tế. Các nền kinh tế đô la hoá có thể được, chênh lệch lãi suất
đối với vay nợ nước ngoài thấp hơn, chi ngân sách giảm xuống và thúc đẩy tăng trưởng
và đầu tư
Thu hẹp chênh lệch tỷ giá trên hai thị trường chính thức và phí chính thức. Tỷ giá
chính thức càng sát với thị trường phi chính thức, tạo ra động cơ để chuyển các hoạt động
từ thị trường phi chính thức (bất hợp pháp) sang thị trường chính thức (thị trường hợp
pháp).
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 37/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
Những tác động tiêu cực:
Ảnh hưởng đến việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô. Trong một nền kinh
tế có tỷ trọng ngoại tệ lớn, việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là chính
sách tiền tệ sẽ bị mất tính độc lập mà chịu nhiều ảnh hưởng bởi diễn biến kinh tế quốc tế,
nhất là khi xẩy ra các cuộc khủng hoảng kinh tế
Làm giảm hiệu quả điều hành của chính sách tiền tệ :
+ Gây khó khăn trong việc dự đoán diễn biến tổng phương tiện thanh toán, do đó
dẫn đến việc đưa ra các quyết định về việc tăng hoặc giảm lượng tiền trong lưu thông
kém chính xác và kịp thời
+ Làm cho đồng nội tệ nhậy cảm hơn đối với các thay đổi từ bên ngoài, do đó
những cố gắng của chính sách tiền tệ nhằm tác động đến tổng cầu nền kinh tế thông qua
việc điều chỉnh lãi suất cho vay trở nên kém hiệu quả
+ Tác động đến việc hoạch định và thực thi chính sách tỷ giá. Đô la hoá có thể
thực thi chính sách tỷ giá. Đô la hoá có thể làm cho cầu tiền trong nước không ổn định,
do người dân có xu hướng chuyển từ đồng nội tệ sang đô la Mỹ, làm cho cầu của đồng đô
la Mỹ tăng mạnh gây sức ép đến tỷ giá
Khi các đối thủ cạnh tranh trên thị trường thế giới thực hiện phá giá đồng tiền, thì
quốc gia bị đô la hoá sẽ không còn khả năng để bảo vệ sức cạnh tranh của khu vực xuất
khẩu thông qua việc điều chỉnh lại tỷ giá hối đoái
Ở các nước đô la hoá không chính thức, nhu cầu về nội tệ không ổn định. Trong
trường hợp có biến động, mọi người bất ngờ chuyển sang ngoại tệ có thể làm cho đồng
nội tệ mất giá và bắt đầu một chu kỳ lạm phát. Khi người dân giữ một khối lượng lớn tiền
gửi bằng ngoại tệ, những thay đổi về lãi suất trong nước hay nước ngoài có thể gây ra sự
chuyển dịch lớn từ đồng tiền này sang đồng tiền khác (hoạt động đầu cơ tỷ giá). Những
thay đổi này sẽ gây khó khăn cho ngân hàng trung ương trong việc đặt mục tiêu cung tiền
trong nước và có thể gây ra những bất ổn định trong hệ thống ngân hàng
Trường hợp tiền gửi của dân cư bằng ngoại tệ cao, nếu khi có biến động làm cho
người dân đổ xô đi rút ngoại tệ, trong khi số ngoại tệ này đã được ngân hàng cho vay, đặc
biệt là cho vay dài hạn, khi đó ngân hàng nhà nước của nước bị đô la hoá cũng không thể
hỗ trợ được vì không có chức năng phát hành đô la Mỹ
Chính sách tiền tệ bị phụ thuộc nặng nề vào nước Mỹ. Trong trường hợp đô la hoá
chính thức, chính sách tiền tệ và chính sách lãi suất của đồng tiền khi đó sẽ do nước Mỹ
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 38/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
quyết định. Trong khi các nước đang phát triển và một nước phát triển như Mỹ không có
chu kỳ tăng trưởng kinh tế giống nhau, sự khác biệt về chu kỳ tăng trưởng kinh tế tại hai
khu vực kinh tế khác nhau đòi hỏi phải có những chính sách tiền tệ khác nhau
Đô la hoá chính thức sẽ làm mất đi chức năng của ngân hàng trung ương là người
cho vay cuối cùng của các ngân hàng. Trong các nước đang phát triển chưa bị đô la hoá
hoàn toàn, mặc dù các ngân hàng có vốn tự có thấp, song công chúng vẫn tin tưởng vào
sự an toàn đối với các khoản tiền gửi của họ tại các ngân hàng. Nguyên nhân là do có sự
bảo lãnh ngầm của Nhà nước đối với các khoản tiền này. Điều này chỉ có thể làm được
đối với đồng tiền nội tệ, chứ không thể áp dụng được đối với đô la Mỹ. Đối với vác nước
đô la hoá hoàn toàn, khu vực ngân hàng sẽ trở nên bất ổn hơn trong trường hợp ngân
hàng thương mại bị phá sản và sẽ phải đóng cửa khi chức năng người cho vay cuối cùng
của ngân hàng trung ương đã bị mất.
Trước thực trạng trên, chúng ta cần phải nhận định rõ rằng: Đô la hóa là tình trạng
khó tránh khỏi đối với những nước có xuất phát điểm thấp, đang trong quá trình chuyển
đổi nền kinh tế và từng bước hội nhập như Việt Nam. Xóa bỏ đô la hóa không phải là xóa
bỏ hoàn toàn và phủ định tất cả vì cũng giống như lạm phát, phải duy trì ở một mức độ
phù hợp và ổn định để thúc đẩy phát triển kinh tế. Chúng ta phải chấp nhận sự hiện diện
của đô la hóa trên cơ sở kiềm chế, khai thác mặt lợi, hạn chế mặt tiêu cực.
1.7.2. Kiểm soát nguồn vốn đầu tư nước ngoài
Thu hút FDI có tầm quan trọng đối với Việt Nam, do Việt Nam là một quốc gia
đang phát triển, nhu cầu vốn cho nền kinh tế cao trong khi nội lực kinh tế còn yếu so với
một số nước trong khu vực. Với hệ thống tài chính của Việt Nam hiện nay FDI là nguồn
vốn tương đối tốt cho việc quản lý. Đồng thời các dự án FDI thường được đầu tư vào
những lĩnh vực hợp lý và được giám sát chặt chẽ bởi các nhà đầu tư nước ngoài.
Mặt khác thông qua huy động vốn đầu tư nước ngoài gián tiếp, Việt Nam mới thu hút
được nhiều hơn vốn nước ngoài từ thị trường tài chính quốc tế. Với tình hình dòng
vốn FDI hiện nay, ODA trở thành nguồn vốn quan trọng thứ hai đối với Việt Nam. Đây
là nguồn vốn với chi phí tương đối thấp, bởi nó thường được cung cấp với lãi suất ưu
đãi, đôi khi còn được cung cấp dưới hình thức viện trợ không hoàn lại. ODA chủ yếu
chảy vào các dự án đầu tư hướng đến các lợi ích xã hội, giao thông nông thôn, xóa đói
giảm nghèo, giáo dục, y tế… Do kênh huy động vốn qua hình thức phát hành cổ phiếu,
trái phiếu, còn rất hạn chế, xa lạ đối với một số doanh nghiệp Việt Nam. Nguồn vốn huy
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 39/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
động cho sản xuất kinh doanh hầu hết là từ vốn dựa trên các điều kiện ưu đãi, bảo lãnh
của Nhà nước. Việc quản lý vay và trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp chưa chặt
chẽ, trong vay nợ chưa xác định rõ mục tiêu, hiệu quả kinh tế nhằm thúc đẩy sản xuất
hàng hóa, xuất khẩu, tạo ngoại tệ trả nợ nước ngoài. Dòng ngoại hối chuyển về từ các
khoản thu nhập cá nhân ở nước ngoài hoặc phần thu nhập chuyển về nước của lao động
Việt Nam tại nước ngoài. Đây là kết quả của quá trình hoàn thiện chính sách kiều hối,
đảm bảo được quyền lợi của kiều bào. Đứng trên góc độ nguồn cung cấp vốn, đây là
nguồn vốn rẻ nhất mà nền kinh tế có được, trên góc độ quản lý ngoại hối, kiều hối là
một kênh quan trọng để cải thiện cán cân thanh toán của quốc gia
Kiểm soát dòng vốn vào: Để đối phó với dòng vốn vào các nước đều thực hiện
một chế độ tỷ giá linh hoạt, đó là sự duy trì hoặc giảm giá đồng tiền của mình để hỗ trợ
tính cạnh tranh xuất khẩu. Chính sách tài khóa cũng là một công cụ hữu hiệu đối phó với
dòng vốn vào, tăng thặng dư ngân sách chính phủ có thể giảm nhẹ áp lực lạm phát
và tăng tỷ giá thực. Áp dụng tỷ lệ tiền gửi bắt buộc có tính thay đổi đối với dòng vốn
vào, tức là đặt ra các mức dự trữ tùy theo loại vốn vào và hoàn cảnh của dòng vốn vào
nhằm giảm số lượng vốn vào. Tỷ lệ dự trữ có thể điều chỉnh tùy theo lượng vốn
vào, nhưng không thay đổi theo thời gian đáo hạn. Do tiền gửi bắt buộc có tính thay
đổi ngăn cản việc tiếp cận nguồn tài chính nước ngoài có khả năng làm tăng tính cạnh
tranh giữa ngân hàng và các công ty trong nước, cho nên điều này cần được hạn chế sử
dụng ở những giai đoạn có dòng vốn vào nhiều do tăng nhanh tỷ giá. Cần đánh thuế
vào những giao dịch ngoại hối dù tỷ lệ rất thấp. Thuế này được đặt ra đối với người mua
hoặc người bán tiền tệ trong nước hoặc cả hai. Đánh thuế theo một cuộc mua bán xoay
dòng đối với giao dịch ngoại hối thì sẽ có hiệu quả hơn. Thuế suất có thể điều chỉnh tùy
theo mức độ mở cửa của thị trường vốn và mức độ dòng vốn ngắn hạn. Sự hiện diện của
loại thuế này vẫn tồn tại thiếu sót. Bằng cách giảm tỷ suất sinh lợi đối với cổ phần trong
nước, thì thuế này sẽ làm cho cổ phiếu trong nước ít hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư
nước ngoài và nó còn làm giảm tính thanh khoản. Hơn nữa thuế này có thể làm cho thị
trường ngoại hối mất tính ổn định. Sử dụng thuế giao dịch ngoại hối làm giảm bớt sự
miễn cưỡng của các nước đang phát triển nhằm mở rộng thị trường tài chính: Lợi ích
của sự lưu chuyển vốn giữa các quốc gia là rõ ràng, và một trong những điều kiện để
được hưởng lợi từ các dòng vốn quốc tế là sự mở cửa thị trường và tự do hóa các
giao dịch tài chính. Do đó, việc lạm dụng các biện pháp kiểm soát vốn có thể làm cho
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 40/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
nền kinh tế chịu nhiều hậu quả tiêu cực. Mặt khác kiểm soát vốn làm tăng chi phí và các
rào cản bất lợi cho việc tiếp xúc với thị trường vốn quốc tế. Mặc dù các nhà đầu tư
thường thành công trong việc tránh kiểm soát, nhưng việc kiểm soát vốn cũng gánh chịu
một cái giá phải trả đáng kể trong việc giao dịch tài sản quốc tế, các dòng chảy của vốn,
thì nó có thể hạn chế cả những dòng vốn có lợi.
Giải pháp tác động lên dòng vốn ra: Là một biện pháp cần sử dụng để điều tiết
dòng vốn ra sao cho các dòng vốn ra phải chậm rãi, nằm trong tầm kiểm soát, tạo
điều kiện để có thời gian chuẩn bị đưa ra các biện pháp ứng phó với sự sụt giảm nguồn
ngoại tệ trong nước và sự tăng lên của đồng nội tệ. Có một số giải pháp như: Quy định
duy trì trong 12 tháng đối với việc hồi hương của các dòng vốn đầu tư nước ngoài; ngăn
cản các giao dịch giữa tài khoản trong nước với nước ngoài; làm đóng băng tài khoản
quốc tế hạn chế các dòng ngoại tệ đổ ra nước ngoài; các giao dịch ngoại hối chỉ được cho
phép khi cósự đồng ý của cơ quan có thẩm quyền. Mọi sự vận hành của các dòng vốn ra
vào cần phải thông qua hệ thống và chịu sự giám sát của ngân hàng Nhà nước. Các giao
dịch vốn, giao dịch ngoại hối, chuyển tiền về nước hay chuyển tiền ra nước ngoài đều
phải thông qua cơ chế giám sát của ngân hàng Nhà nước. Hoàn thiện hơn nữa hoạt
động của thị trường chứng khoán để thị trường này là một kênh thu hút và kiểm
soát vốn hiệu quả. Tăng cường dữ trữ đầy đủ ngoại tệ, tăng tốc quá trình cải cách
kinh tế vĩ mô và hệ thống tài chính, từ đó tạo niềm tin của các nhà đầu tư vào sự điều
hành của Nhà nước.
Chính sách nhằm giảm thiểu nguy cơ đảo ngược dòng vốn: Mục tiêu chủ yếu của
điều này là quản lý những rủi ro khác nhau gắn liền với dòng vốn thông qua kiểm
soát vốn. Các biện pháp kiểm soát vốn quan tâm các loại giao dịch cụ thể và giảm thiểu
rủi ro bằng cách gây ảnh hưởng đến thành phần và khối lượng của những giao dịch này
gọi là chính sách kiểm soát vốn an toàn. Các loại rủi ro của dòng vốn quốc tế về cơ bản
cũng giống với rủi ro của các giao dịch nội địa nhưng có phạm vi rộng hơn. Các quy
tắc về chính sách an toàn tài chính có tính thực tiễn cao là hướng vào quản lý những rủi
ro tăng thêm trong dòng vốn quốc tế bằng cách hạn chế những rủi ro tỷ giá của các định
chế tài chính so với khả năng quản lý và chịu đựng rủi ro của các định chế này.
Những tiêu chuẩn an toàn tài chính cần chú ý đến hệ thống ngân hàng do vai trò to lớn
của nó trong việc cung cấp tín dụng, vị trí trung tâm của ngân hàng, sự mất cân đối
trong tính thanh khoản của tài sản và khả năng trả nợ của ngân hàng. Dòng vốn vào
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 41/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
cũng được hấp thụ thông qua hệ thống ngân hàng và sự đảo ngược dòng vốn gắn liền
với một cuộc khủng hoảng ngân hàng, nếu ngân hàng không được chuẩn bị đầy đủ. Mặc
dù hoạt động kinh doanh quốc tế của các định chế tài chính trung gian còn ở mức
độ thấp, nhưng rủi ro không vì thế lại thấp đi. Để thực hiện chính sách an toàn tài
chính chính phủ cần phải bắt buộc các định chế tài chính có các giao dịch quốc tế có đầy
đủ xếp hạng tín nhiệm của các công ty xếp hạng tín nhiệm nổi tiếng về đánh giá rủi ro
đối ngoại. Mặt khác, trước khi giao dịch với những định chế có đòn cân nợ cao,
các định chế tài chính nên thiết lập những chính sách rõ ràng để quản lý quan hệ
giữa ngân hàng với những định chế này thích hợp với toàn bộ chiến lược rủi ro tín
dụng.
Đứng trước yêu cầu phải huy động tối đa mọi nguồn lực để phát triển kinh
tế, đồng thời đảm bảo sự ổn định của thị trường tài chính, các nhà làm chính sách phải
cân nhắc khi thực hiện kết hợp các biện pháp khuyến khích các dòng vốn ít biến động
như dòng vốn đầu tư trực tiếp chảy vào, đồng thời kiểm soát các dòng vốn nhạy cảm, dễ
biến động như dòng vốn đầu tư gián tiếp. Kiểm soát vốn trong hoàn cảnh này sẽ không
còn áp dụng những biện pháp hành chính cứng nhắc, gây mất niềm tin các nhà đầu tư mà
nó sẽ trở nên khoa học hơn, uyển chuyển hơn, không làm môi trường đầu tư ở Việt Nam
mất đi sự hấp dẫn vốn có.
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 42/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
CHƯƠNG 3
KINH NGHIỆM TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH THEO WTO Ở
MỘT SỐ NƯỚC
Nhắc tới tự do hóa tài chính ở các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước Châu
Á thì phải nói đến quá trình tự do hóa tài chính của các nước sau khi gia nhập WTO, bởi
vì đây là giai đoạn các nước tiến hành tự do hóa mạnh mẽ nhất và được tiến hành theo
một lộ trình có bài bản nhất dưới các cam kết của WTO.
Với mức độ tự do hóa tài chính của Việt Nam được đánh giá là tương đối cao.
Hơn nữa cũng là nước gia nhập WTO chậm hơn một số nước trong khu vực. Cho nên
việc quan sát và rút kinh nghiệm từ những nước đã qua quá trình tự do hóa tài chính theo
cam kết của WTO là một việc làm rất cần thiết. Thái Lan là một nước đang phát triển
cũng như Việt Nam, gia nhập WTO trước Việt Nam, cùng trong khối ASEAN, có quá
trình tự do hóa tài chính theo cam kết WTO trước Việt Nam nhiều năm và trong quá trình
tiến hành tự do hóa đã mắc sai lầm dẫn đến khủng hoảng tài chính năm 1997. Cho nên,
quá trình tự do hóa tài chính của Thái Lan theo WTO là một quá trình Việt Nam cần phải
theo dõi và đúc kết kinh nghiệm của riêng mình. Tất nhiên, không phải chỉ có Thái Lan
Việt Nam mới rút ra được kinh nghiệm nhưng đây là một nước tiêu biểu.
2.1. Kinh nghiệm tự do hóa tài chính của Thái Lan
Thái Lan gia nhập WTO vào ngày 1/1/1995 và có những cam kết đầu tiên về dịch
vụ tài chính như sau:
Cam kết theo chiều ngang, Thái Lan đã mở rộng về dịch vụ tài chính như cam kết
khi gia nhập WTO như sau:
Chỉ cho phép hiện diện thương mại thông qua hình thức công ty trách nhiệm hữu
hạn đăng ký ở Thái Lan, trong đó vốn sở hữu nước ngoài không vượt quá 49% vốn đăng
ký và số lượng cổ đông nước ngoài phải ít hơn một nửa tổng số lượng cổ đông.
Không có hạn chế về đối xử quốc gia.
Không hạn chế đối với sự di chuyển tạm thời của thể nhân trừ trường hợp chuyển
giao ở cấp quản lý hoặc cấp chuyên gia trong vòng một năm (tổng thể không quá 3 năm).
Người nước ngoài không được phép mua hoặc sở hữu đất đai.
Cam kết trong ngành, phân ngành cụ thể:
Trong lĩnh vực ngân hàng, dịch vụ bảo hiểm và bảo hiểm phi nhân thọ, không
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 43/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
được phép cung cấp dịch vụ tài chính qua hình thức xuyên biên giới và tiêu dùng ngoài
lãnh thổ.
Thái Lan cũng quy định về mức tối đa sở hữu nước ngoài trong các định chế tài
chính là: đối với bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ là 25% vốn đăng ký; các dịch vụ hỗ
trợ bảo hiểm (trừ quỹ lương hưu) là 49%; văn phòng đại diện của ngân hàng thương mại
là 0%; ngân hàng nội địa là 25% (mỗi công ty tối đa 10%); công ty chứng khoán là 49%;
công ty quản lý tài sản là 25% trong 5 năm đầu và 49% trong 5 năm tiếp theo; công ty
cho thuê tài chính, dịch vụ bao thanh toán, thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ là 49%. Như vậy, ta
thấy rằng Thái Lan rõ ràng chỉ tự do hóa tài chính chỉ một phần và đối với lĩnh vực ngân
hàng là không hề có một sự tự do nào đối với các ngân hàng nước ngoài. Động tác này
nhằm vào việc Thái Lan bảo hộ cho các định chế tài chính nước mình tránh sự cạnh tranh
mạnh mẽ dẫn đến việc sở hữu các tổ chức tài chính nội địa của các nước đầu tư vào Thái
Lan.
Trong lĩnh vực ngân hàng thì Thái Lan không có hạn chế trong việc cung cấp dịch
vụ tài chính nhưng ngoại trừ dịch vụ tư vấn tài chính và xử lý dữ liệu tài chính; hiện diện
thương mại không hạn chế đối với các chi nhánh ngân hàng đã hoạt động.
Đối với các công ty chứng khoán, Thái Lan không giới hạn việc tiếp cận thị
trường và đối xử quốc gia theo phương thức tiêu dùng ngoài lãnh thổ. Cụ thể là cho phép
đối xử quốc gia đối với phương thức cung cấp xuyên quốc gia; cho phép tiếp cận thị
trường theo phương thức hiện diện thương mại đối với các văn phòng đại diện.
Từ khi gia nhập WTO đến trước cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, Thái Lan
kiểm soát chặt chẽ các nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài nhưng lại thả lỏng đối
với nguồn vốn vay nước ngoài. Số vốn vay này được tổ chức hỗ trợ ngân hàng Thái Lan
thu hút rất đáng kể. Nhưng số vốn này được tiếp tục cho vay mà không tính đến tính hiệu
quả của dự án. Cộng thêm chính sách kinh tế vĩ mô không phù hợp đã khiến cho Thái
Lan trở thành nước châm ngòi cho khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997. Nổi bật
trong chính sách đó chính là việc Thái Lan neo tỷ giá cố định theo đông đô la Mỹ dẫn
đến việc đồng Baht được đánh giá cao hơn thực tế mà dự trữ về ngoại tệ của ngân hàng
trung ương không đủ đáp ứng cho giá trị của đồng Bath.
Sau khủng hoảng, một mặt Thái Lan dựa vào nguồn vốn hỗ trợ từ IMF mặt khác
bắt đầu mở cửa đón nhận nguồn vốn đầu tư nước ngoài nhằm tái vốn hóa hệ thống ngân
hàng trong nước đang gặp khó khăn, thu hút công nghệ ngân hàng tiên tiến và bắt đầu
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 44/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
thay đổi về mặt chính sách. Tỷ lệ sở hữu nước ngoài trong hệ thống ngân hàng cũng được
điều chỉnh gia tăng đáng kể. Kết quả là lĩnh vực ngân hàng tại Thái Lan đã có những
bước chuyển biến tích cực và năng động đối với lĩnh vực tài chính tại Thái Lan.
2.2. Kinh nghiệm tự do hóa tài chính của Trung Quốc
Thị trường tài chính của Trung Quốc trước khi gia nhập WTO là một điển hình
của thị trường tài chính đóng. Các chính sách của Trung Quốc đối với định chế tài chính
nước ngoài như sau:
Các ngân hàng nước ngoài chỉ được hoạt động ở một số vùng kinh tế đặc biệt.
Điều kiện thành lập ngân hàng nước ngoài tại Trung Quốc rất nghiêm ngặt và
điểm đặc biệt là không thống nhất giữa các vùng, miền. Cụ thể như là tùy vùng miền mà
có những trường hợp là ngân hàng nước ngoài không được phép thành lập chi nhánh, chỉ
được thành lập ngân hàng liên doanh hoặc ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Tuy nhiên
việc thành lập đó phải đáp ứng điều kiện là phải hoạt động dưới dạng văn phòng đại diện
tại Thái Lan ít nhất là 3 năm và phải có số vốn tối thiểu là 100 triệu nhân dân tệ. Hơn nữa
còn phải gửi 30% vốn tối thiểu vào ngân hàng nhân dân Trung Quốc.
Ngân hàng nước ngoài chỉ được thực hiện các dịch vụ bán buôn và chỉ bằng các
ngoại tệ mạnh.
Công ty bảo hiểm nước ngoài xin cấp phép hoạt động phải chờ khoảng 3 năm
thẩm định. Thái Lan cũng quy định tỷ lệ sở hữu vốn của nước ngoài trong các công ty
liên doanh tối đa là 49%. Nhà nước quyết định tỷ lệ hoa hồng bảo hiểm và tiền bảo hiểm
thu được phải được gửi tại tài khoản có tính lãi.
Công ty nước ngoài kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán không được thành lập
chi nhánh hoặc công ty con mà chỉ được thành lập công ty dưới dạng công ty liên doanh.
Tỷ lệ sở hữu vốn của nước ngoài được quy định tối đa là 85%. Các văn phòng đại diện
của công ty nước ngoài không được kinh doanh chứng khoán của các công ty có vốn
nước ngoài. Các công ty này chỉ được kinh doanh chứng khoán có mệnh giá ngoại tệ. Các
công ty này cũng không được cấp phép thực hiện giao dịch phái sinh. Và hơn nữa, việc
hồi hương lợi nhuận phải được chính phủ phê duyệt.
Trung Quốc gia nhập WTO vào ngày 11/12/2001. Nhìn chung Trung Quốc sẽ tiến
hành cam kết tự do hóa tài chính từng bước trong vòng 5 năm. Như vậy thì từ năm 2006
tại Trung Quốc sẽ không còn sự phân biệt đối xử nào giữa các tổ chức tín dụng trong
nước và nước ngoài.
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 45/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
Trung Quốc bãi bỏ các hạn chế theo vùng, miền đối với kinh doanh bằng ngoại tệ
từ ngày gia nhập WTO. Và tất cả các hạn chế theo vùng, miền được dỡ bỏ trước ngày
11/12/2006.
Các hạn chế trong các giao dịch bằng ngoại tệ được xóa bỏ từ khi gia nhập WTO.
Cho phép các tổ chức nước ngoài kinh doanh bằng nội tệ từ ngày 11/12/2003 và với cá
nhân là từ ngày 11/12/2006. Tuy nhiên để có thể nộp đơn xin cấp phép kinh doanh bằng
nội tệ thì tổ chức phải có thời gian hoạt động ở Trung Quốc hơn 3 năm và đã kinh doanh
có lãi trong 2 năm liên tiếp.
Có thể nói Trung Quốc đã tự do hóa trong dịch vụ ngân hàng là cao so với các
nước có cùng trình độ phát triển trong khu vực như Hàn Quốc, khối ASEAN+3, Nhật
Bản…
2.3. Kinh nghiệm tự do hóa tài chính của Hàn Quốc
Hàn Quốc gia nhập WTO vào ngày 1/1/1995. Đến nay, Hàn Quốc đã ngày càng
nâng cao tính mở của thị trường tài chính của mình. Lần đầu tiên thực hiện các nội dung
cam kết đối với các dịch vụ tài chính là vào năm 1995 cũng là thời điểm mà Hàn Quốc
vừa gia nhập WTO. Lúc bấy giờ các nội dung cam kết của Hàn Quốc bao gồm:
Trong lĩnh vực ngân hàng, các ngân hàng nước ngoài chỉ được cấp phép thành lập
văn phòng đại diện hoặc chi nhánh. Tỷ lệ sở hữu của cá nhân nhà đầu tư nước ngoài
trong ngân hàng nội địa là 8%. Việc cho vay bằng ngoại tệ bị hạn chế và bắt buột chỉ cho
các công ty nhỏ và vừa vay.
Trong lĩnh vực chứng khoán, Hàn Quốc chỉ cho phép thành lập văn phòng đại diện
hoặc chi nhánh hoặc dưới hình thức liên doanh với phía các đối tác của Hàn Quốc với
lượng đóng góp từ phía nước ngoài bị giới hạn tối đa là từ 40% đến 50%. Còn đối với các
công ty chứng khoán đang hoạt động thì tỷ lệ sở hữu của nước ngoài là dưới 10% trên
một công ty và tổng cộng không quá 50%.
Trong lĩnh vực bảo hiểm, Hàn Quốc chỉ cho phép thành lập mới dưới hình thức là
liên doanh và tỷ lệ sở hữu của nước ngoài là dưới 50%.
Mức độ tự do hóa của Hàn Quốc là thấp theo như các cam kết trong WTO. Hàn
Quốc chủ yếu mở cửa mạnh mẽ ở lĩnh vực bảo hiểm.
Năm 1997 khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ Thái Lan đã lan rộng sang các
nước và Hàn Quốc là một trong số những nước chịu tác động nặng nề nhất của cuộc
khủng hoảng đó. Hàn Quốc vào khoảng thời gian từ khi gia nhập WTO cho đến trước khi
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 46/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
cuộc khủng hoảng nổ ra đã vấp phải một vấn đề tài chính không thông suốt. Hàn Quốc
kiểm soát các luồng vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài và việc đầu tư cổ phiếu, nhưng rất
tự do trong việc ngân hàng cho vay nước ngoài và cho vay một cách tràn lan bất kể đến
tính hiệu quả của dự án. Chính vì sự không cân xứng này mà dẫn đến việc Hàn Quốc chịu
tác động của khủng hoảng rất nặng nề.
Kể từ tháng 4/1998 Hàn Quốc đưa ra rất nhiều chính sách mới nhằm tăng cường
tính hiện hiện của các tổ chức tài chính nước ngoài của Hàn Quốc như là:
Xóa bỏ các hạn chế liên quan đến việc thành lập ngân hàng con của các ngân hàng
nước ngoài tại Hàn Quốc.
Cho phép thành lập chi nhánh ngân hàng nước ngoài và công ty chứng khoán trên
cơ sở phê duyệt và cấp phép của ủy ban giám sát tài chính (FSC – Finnancial Supervisory
Commission).
Cho phép thành lập tổ chức tài chính 100% vốn nước ngoài.
Từ tháng 5/1998 ngân hàng Hàn Quốc được thuê giám đốc là người nước ngoài.
Mức trần sở hữu cổ phiếu của nước ngoài đối với công ty ngoài quốc doanh hoàn
toàn bị dỡ bỏ. Đối với công ty quốc doanh, sở hữu nước ngoài tăng từ trần 18% lên trần
30%. Đối với các công ty tư nhân, chỉ trong vòng 6 tháng sau khủng hoảng, khống chế
mức trần về tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài hoàn toàn bị xóa bỏ.
Tháng 4/1999, người nước ngoài được phép sở hữu tối đa 100% ngân hàng trong
nước.
Tháng 4/1999, mọi ngân hàng nước ngoài đều có thể gia nhập thị trường Hàn
Quốc và được hưởng chế độ đãi ngộ quốc gia.
Như vậy, sau cuộc khủng hoảng thì Hàn Quốc đã tiến hành cải cách khá nhiều
trong việc thực hiện tự do hóa tài chính theo WTO khiến cho độ mở của lĩnh vực tài
chính ở Hàn Quốc được rộng hơn.
2.4. Kinh nghiệm tự do hóa tài chính của Malaysia
Malaisia gia nhập WTO vào ngày 1/1/1995. Tình hình chính sách của Malaysia
đối với các dịch vụ tài chính thời điểm gia nhập WTO là:
Không cho phép tiếp cận thị trường và không có đãi ngộ quốc gia.
Duy trì hoạt động của các ngân hàng 100% vốn nước ngoài nhưng không cấp giấp
phép thành lập mới. Tổng sở hữu nước ngoài trong các ngân hàng thương mại hoặc ngân
hàng bán buôn không vượt quá 30%.
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 47/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
Chi nhánh các công ty bảo hiểm nước ngoài phải liên doanh với công ty bảo hiểm
trong nước trước ngày 30/06/1998 và không cấp giấy phép thành lập mới.
Trong lĩnh vực chứng khoán, các tổ chức tài chính nước ngoài chỉ cung cấp dịch
vụ cho khách hàng không cư trú. Ngân hàng bán buôn và công ty liên doanh hoạt động
tại Malaysia được làm đại lý phát hành. Công ty bảo lãnh chứng khoán chỉ đưuọc phép
góp vốn vào các công ty cổ phần hoặc thành lập liên doanh với công ty môi giới chứng
khoán Malaysia.
Công ty tài chính nước ngoài chỉ được phép thành lập chi nhánh hoặc công ty con
hoạt động ở Malaysia, được hưởng chế độ đãi ngộ quốc gia.
Tổng sở hữu nước ngoài trong một công ty không được hơn 30%.
Trong lĩnh vực ngân hàng:
Giai đoạn 1994-2005, Malaysia tập trung phát triển các định chế tài chính trong
nước, chủ yếu là sát nhập các ngân hàng hoặc các công ty môi giới chứng khoán. Trong
thời gian này chính sách dành cho các định chế tài chính nước ngoài là hạn chế. Ngân
hàng Negara bắt buột tất cả các ngân hàng nước ngoài duy trì hoạt động nghiệp vụ và vận
hành máy tính tại lãnh thổ Malaysia, tuyên bố rằng mọi hoạt động tiến hành ngoài
Malaysia đề bị xem là thuê ngoài.
Bắt đầu từ 2005 trở đi, Malaysia chú trọng hơn trong việc xóa bỏ các giới hạn đối
với định chế tài chính nước ngoài. Ngày 1/4/2005, xóa bỏ yêu cầu về vay mượn bằng
đồng nội tệ đối với các công ty có vốn đầu tư nước ngoài. Ngày 28/12/2005, cho phép 13
tổ chức tài chính nước ngoài hiện tại được phép mở thêm 4 chi nhánh hiệu lực từ năm
2006 với điều kiện là một chi nhánh ở trung tâm, 2 chi nhánh ngoại ô và còn lại ở vùng
nông thôn. Các địa điểm thành lập chi nhánh phải được ngân hàng trung ương phê duyệt.
Trong lĩnh vực bảo hiểm: kể từ năm 2001, Malaysia mở cửa hoàn toàn thị trường
tái bảo hiểm và gỡ bỏ quy định liên quan đến chuyên gia nước ngoài. Tháng 8/2006, tỷ lệ
sở hữu nước ngoài tối đa tại các công ty bảo hiểm tăng từ 30% lên 49%, có thể hơn mức
49% nhưng phải được chính phủ Malaysia phê duyệt.
Trong lĩnh vực chứng khoán: cho phép sở hữu nước ngoài trong các công ty môi
giới chứng khoán là 49% và trong các quỹ tín thác là 30%. Đến năm 2003, nhà đầu tư
nước ngoài được mua số lượng hạn chế công ty môi giới chứng khoán và được sở hữu đa
số cổ phiếu.
Ngoài ra, với việc kế hoạch thành lập trung tâm tài chính của thế giới Hồi giáo thì
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 48/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
Malaysia nới lỏng các hạn chế đối với định chế tài chính nước ngoài khi đầu tư vào các
định chế tài chính Hồi giáo.
Malaysia được đánh giá là có mức độ tự do hóa tài chính ngang bằng với mức độ
theo cam kết của WTO.
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 49/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
CHƯƠNG 4
ĐỊNH HƯỚNG, BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ MỘT SỐ
GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY CẢI CÁCH TÀI CHÍNH Ở
VIỆT NAM
2.1. Định hướng:
Ngay từ đại hội Đảng lần thứ VI diễn ra năm 1986, Quốc Hội đã có định hướng và
phát triển nền kinh tế Việt Nam theo hướng đổi mới, cơ chế thị trường dưới sự kiểm soát
chặc chẽ của Nhà Nước để nước ta thoát khỏi tình trạng trì trệ của nền kinh tế bao cấp lạc
hậu cũng như bắt kịp nhiệp độ phát triển của các quốc gia trên thế giới. Đối với Việt
Nam, quá trình tự do hóa tài chính cần được thực hiện theo những định hướng cơ bản
sau:
Tự do hóa tài chính phải được tiến hành theo lộ trình thích hợp, đảm bảo ổn định
kinh tế vĩ mô và phát triển kinh tế với tốc độ cao và bền vững. Để không bị sự yếu thế
trước sự ồ ạt tràn vào của các công ty, tập đoàn hàng đầu từ nước ngoài trong lĩnh vực tài
chính như: ngân hàng, bảo hiểm, các lĩnh vực sản xuất khác đòi hỏi các nhà chiến lược
phát triển kinh tế nước ta phải nghiên cứu lộ trình cũng như chiến lược mở cửa thị
trường, phải tự đào tạo để cho các nghề nghề, lĩnh vực nội địa đủ sức đề kháng trước khi
thực sự mở lĩnh vực này. Ngoài ra chúng ta cũng phải có chiến lược mở cửa có lựa chọn,
đưa những lĩnh vực mà ta nhận thấy đã đủ sức vượt ra biển lớn và phải chuẩn bị, trang bị
thật nhanh cho các lĩnh vực còn non yếu nhằm đảm bảo kịp tiến trình hội nhập cũng cũng
thực hiện đúng các cam kết khi chúng ta đàm phán để gia nhập các tổ chức thương mại
lớn trên thế giới như: AFTA, WTO…
Tự do hóa phải được coi là phương tiện, là khâu đột phá và được tiến hành trước
một bước trong tiến trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Không thể xem việc tự do hóa
là chạy theo thế giới, là một sự ép buộc nào đó mà chúng ta phải nhận thấy rằng đây là
một xu thế tất yếu của sự phát triển thị trường kinh tế của một quốc gia, đi từ độc quyền
đến cổ phần hóa và theo chiều hướng là tư nhân hóa và quốc tế hóa.
Tự do hóa tài chính phải chịu sự kiểm tra giám sát chặt chẽ nhằm đảm bảo an ninh
tiền tệ quốc gia. Kinh nghiệm của các nước đi trước trên thế giới, để đảm bảo thị trường
phát triển khỏe mạnh ngoài việc tuân thủ đầy đủ các quy luật cung cầu của thị trường mà
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 50/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
Nhà nước, Chính phủ cũng phải thiết lập một cơ chế kiểm soát, thanh tra chặc chẽ, hợp
lý và thường xuyên nhằm phát hiện các suy yếu, các sự phát triển bất thường của nó để
lai dắt, hướng dẫn thị trường đi đúng quỹ đạo, lộ trình đã đặt ra khi chúng ta tiến hành
mở cửa.
Tự do hóa tài chính phải được tiến hành cùng với việc tự do hóa kinh tế và thương
mại. Nền kinh tế của một quốc gia không thể phát triển một cách tổng hợp dựa trên các
nguồn lực vốn có nếu chúng ta không biết tận dụng sự kết hợp tổng lực của tất cả các lĩnh
vực trong nền kinh tế. Sự mở cửa thị trường tài chính sẽ chẳng có ý nghĩa khi không
được tự do hóa về kinh tế và thương mại, các doanh nghiệp có nguồn vốn nhưng lại bị
hạn chế, kiểm soát trong giao thương sẽ làm ứ đọng nguồn vốn. Điều này xem như nút
thắt trong phát triển kinh tế bởi nó giống như một con sông bị chặn ở cửa biển không thể
hòa vào đại dương bao la để được tự do đón nhận nguồn của cải dồi dào từ đại dương ấy.
2.2. Những khuyến nghị từ các bài học kinh nghiệm của các nước trên thế giới đối
với trong quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam:
Dựa trên những phân tích về lợi ích mà rủi ro của việc tự doa hoá tài chính, kinh
nghiệm mở cửa thị trường của Trung Quốc, Thái Lan và Canada và thực tiễn cải cách hệ
thống tài chính của Việt Nam trong thập kỷ vừa qua, chúng ta có thể rút ra một số khuyến
nghị sau:
Trước hết, Việt Nam nên tiếp tục tiến hành việc mở cửa dần dần thị trường tài
chính với một phạm vi thích hợp và một trình tự hợp lý sao cho vừa đảm bảo nâng dần
năng lực và khả năng cạnh tranh vừa thích nghi và tiến gần hơn đến những tiêu chuẩn và
thông lệ quốc tế. Sự thành công về việc xúc tiến mở cửa thị trường tài chính thời gian qua
đã cho thấy rằng, sự tham gia của các hoạt động đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ
tài chính cũng đã mang lại lợi ích đáng kể như tăng cường sự cạnh tranh, hạ thấp chi phí,
nâng cao chất lượng dịch vụ, tăng cường chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý và
tăng thêm tích luỹ vốn cho nền kinh tế. Kinh nghiệm mở cửa thị trường của Trung Quốc
cũng đã cho thấy, do có sự bảo hộ quá lâu thông qua những điều kiện ngặt nghèo không
cho phép sự du nhập phổ biến của hoạt động kinh doanh quốc tế nên công cuộc cải cách
đã diễn ra trên hai thập kỷ song hệ thống dịch vụ tài chính ở Trung Quốc vẫn kém phát
triển với tính cạnh tranh thấp. Đây cũng là một trong những điểm bất lợi đáng kể trong
những năm đầu khi Trung Quốc gia nhập WTO vào năm 2001.
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 51/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
Thứ hai, việc mở cửa thị trường dịch vụ tài chính không thể không gắn liền với
một tiến trình cải cách liên tục hệ thống dịch vụ tài chính ở nước ta hiện nay. Phân tích ở
trên đã cho thấy rằng, mặc dù đã có 10 năm cải cách song hệ thống dịch vụ tài chính ở
nước ta vẫn còn ở điểm xuất phát thấp, kém hiệu quả và vẫn mang nặng dấu ấn của thời
kỳ bao cấp. Thực trạng đó không thể cứ tiếp tục duy trì thông qua việc bảo hộ bằng cách
hạn chế sự thâm nhập của các hoạt động đầu tư quốc tế, mà cần phải được bảo hộ thông
qua những cải cách triệt để trên cơ sở đó tạo ra năng lực tự bảo vệ trong điều kiện cạnh
tranh quốc tế khi tiến hành hội nhập. Một trong những nguyên nhân chủ yếu của các cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ diễn ra trên thế giới (cùng với những nguyên nhân khác) là
sự yếu kém của chính bản thân hệ thống tài chính ngân hàng nội địa của các nước thi
hành chính sách mở cửa. Do đó, đã không đối phó nổi những trận bão táp tài chính nảy
sinh do hiệu ứng của đầu tư quốc tế mang lại. Việc mở cửa thị trường nếu quá đột ngột
do không cho sự cai cách đáng kể để nâng cao năng lực của hệ thống tài chính nội địa
trước khi tiến hành mở cửa sẽ rất dễ dẫn đến tình trạng hỗn loạn, bất lợi và mất khả năng
kiểm soát của chính phủ đối với lĩnh vực dịch vụ tài chính. Vì vậy, cải cách và loại bỏ
dần tính hành chính bao cấp của hệ thống tài chính nội địa cho thích ứng với kinh tế thị
trường trong môi trường quốc tế được coi là một trong những chiến lược mang lại sự
thành công khi tham gia hội nhập.
Thứ ba, cải cách hệ thống dịch vụ tài chính không có nghĩa chỉ là những cải cách
về mặt cơ cấu tổ chức, năng lực nghề nghiệp, mà phải được tiến hành toàn diện cả về
quan điểm và phương pháp điều hành vĩ mô của toàn bộ hệ thống gắn với những điều
kiện quốc tế. Trong đó, những cải cách về hệ điều hành chính sách tỷ giá, quản lý ngoại
tệ và chính sách lãi suất phải được coi là đặc biệt quan trọng vì chúng hết sức nhạy cảm
đối với nền kinh tế. Bài học rút ra từ các cuộc khủng hoảng tiền tệ trên thế giới đã cho
thấy, việc duy trì một chế độ tỷ giá chính thức quá xa so với tỷ giá thực, việc thả lỏng
trong quản lý ngoại tệ và việc quá lạm dụng chính sách lãi suất để tác động vào nền kinh
tế một cách cưỡng bức trong một thời gian dài nếu không được điều chỉnh để tiến gần
hơn với những điều kiện quốc tế sẽ là một bất lợi lớn khi tiến hành mở cửa thị trường và
tham gia hội nhập, thậm chí sẽ là nguyên nhân trực tiếp gây ra khủng hoảng.
Thứ tư, Cải cách tài chính song song với việc mở cửa dần dần thị trường dịch vụ
tài chính cần phải được hỗ trợ đồng thời bằng việc hoàn thiện hệ thống luật pháp, nhằm
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 52/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
tạo ra một hành lang pháp lý ổn định, hiệu quả và minh bạch, tạo sân chơi bình đẳng cho
các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo hướng
đối xử quốc gia (National Treatment). Trong đó, đặc biệt chú ý đến những cơ sở pháp lý
đảm bảo quyền giám sát kiểm tra của chính phủ và các cơ quan bảo vệ pháp luật đối với
các hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài nhằm đảm bảo sự khống chế của Nhà nước trong việc duy trì sự ổn định và sự lành
mạnh của thị trường dịch vụ tài chính. Trước mắt cần xoá bỏ ngay sự đối xử ưu đãi về
thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ tài chính
nhằm đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa doanh nghiệp nội địa và doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ năm, Việt Nam cần tập trung tối đa vị thế của một nước đang phát triển trong
các cuộc đàm phán song phương và đa phương để được hưởng những ưu đãi hoặc
nhượng bộ trong việc thực hiện nghĩa vụ với tư cách thành viên, đặc biệt trong thời gian
chuyển đổi (Phase - in Period). Những nhượng bộ và những ưu đãi này sẽ là những điều
kiện tốt để cơ cấu, cải tổ lại và tăng cường tiềm lực cạnh tranh sao cho có thể đứng vững
trước sự du nhập của các thế lực cạnh tranh quốc tế khi thị trường được tự do hóa hoàn
toàn. Trong thời gian trước mắt, việc tham gia và thực hiện tốt các hiệp định khu vực như
AFTA, APEC và WTO nên được đặt ở vị trí ưu tiên hàng đầu và coi đó là bước đệm –
bước phát triển toàn diện khi chúng ta hoàn toàn mở cửa thị trường trong thời gian sắp
tới.
Cuối cùng, khi tiến hành đàm phán mở cửa thị trường dịch vụ tài chính, chúng ta
cũng không nên loại bỏ những hạn chế cần thiết về tỷ lệ sở hữu vốn của người nước
ngoài (cá nhân hoặc tổ chức), đồng thời kèm theo những ràng buộc về hình thức đầu tư
và nhân sự điều hành hoặc sử dụng lao động để đảm bảo lợi ích chủ quyền quốc gia và
duy trì sự kiểm soát của Nhà nước đối với thị trường tài chính. Việc mở cửa thị trường
nên được tiến hành rộng rãi trước hết đối với thị trường bảo hiểm. Đối với lĩnh vực ngân
hàng và thị trường chứng khoán cần phải có những bước đi hết sức thận trọng, bằng
những biện pháp bảo vệ thận trọng để tiến tới việc mở cửa một cách toàn diện khi đủ điều
kiện cho phép cũng như đảm bảo đúng lộ trình đã cam kết khi chúng ta đàm phán gia
nhập các tổ chức kinh tế trên thế giới đặc biệt là WTO. Bài học này thậm chí cũng còn có
giá trị đối với các nước phát triển có khả năng cạnh tranh cao như Canada hoặc một số
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 53/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
nước thành viên trong khối G7.
2.3. Một số giải pháp thúc đẩy tự do hóa thị trường tài chính Việt Nam:
Dựa trên những bài học kinh nghiệm từ các quốc gia đi trước cùng với việc xem
xét điều kiện hiện tại của nền kinh tế Việt Nam, chúng tôi sau đây sẽ đi vào các giải pháp
cụ thể để thúc đẩy quá trình tự do hóa tài chính ở nước ta cho một số lĩnh vực chính yếu
như: chính sách về tỉ lệ dự trữ bắt buộc, lĩnh vực ngân hàng, thị trường lãi suất, chính
sách về tỉ giá, thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán, tài khoản vãng lai, tài
khoản nguồn vốn, chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ.
Đối với tài khoản vãn lai
Trong ngắn hạn chúng ta nên thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất: giảm thâm hụt thương mại thông qua hạn chế nhu cầu đầu tư và tiêu
dùng:
+ Tăng lãi suất
+ Thắt chặt tín dụng
Thứ hai: giảm thâm hụt ngân sách thông qua cắt giảm chi tiêu, đầu tư công:
+ Cắt giảm mạnh mẽ chi tiêu công
+ Ngừng ngắn hạn các khoản đầu tư công (áp dụng trên cơ sở thận trọng)
+ Kiểm soát chặt chẽ hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước
Thứ ba: Tìm kiếm thêm các dòng vốn khả dĩ bù đắp trong ngắn hạn:
+ Tăng cường ODA
+ Đẩy mạnh thu hút FDI (trên cơ sở thận trọng nhằm tránh nguy cơ tiếp nhận FDI chất
lượng kém để lại tác động tiêu cực dài hạn), đồng thời cải thiện tốc độ giải ngân thực
hiện các dự án đã cấp phép.
+ Tạo thuận lợi thu hút kiều hối
+ Hợp tác chặt chẽ với các định chế tài chính quốc tế truyền thống : IMF, WB
+ Kêu gọi, xây dựng, triển khai Quỹ dự phòng bình ổn trong ASEAN – Đông Á (các
nước cũng rất e ngại tác động dây chuyền từ đổ vỡ của bất kỳ thành viên nào trong khu
vực)
Thứ tư: chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái
+ Tiếp tục thắt chặt tiền tệ
+ Cho phép đồng Việt Nam được biến động linh hoạt hơn.
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 54/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
Ngoài ra trong kế hoạch dài hạn, chúng ta cũng nên thực hiện:
Thứ nhất: tăng hiệu quả đầu tư của cả khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh lẫn
DNNN. Cải thiện chỉ số ICOR.
Thứ hai: xây dựng sân chơi bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp
Thứ ba: giảm thâm hụt ngân sách thông qua cắt giảm chi tiêu, đầu tư công: đặt
mục tiêu cắt giảm thâm hụt ngân sách thành chiến lược dài hạn.
Đối với tài khoản nguồn vốn
Thứ nhất, tiếp tục thu hút nguồn vốn nước ngoài nhưng phải đảm bảo cơ cấu
nguồn vốn hợp lý, lành mạnh và không chứa đựng rủi ro rút vốn đột ngột.
Thứ hai, tập trung các nguồn vốn đầu tư trực tiếp vào các lĩnh vực có liên kết với
các ngành sản xuất trong nước, tạo chuỗi giá trị cao, tập trung vào các vấn đề xử lý chất
thải để đảm bảo môi trường và đảm bảo cho tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững
trong tương lai.
Thứ ba, việc phát triển thị trường chứng khoán phải đảm bảo đi đôi vốn với việc
đảm bảo huy động vốn qua thị trường này vào sản xuất kinh doanh để giảm bớt áp lực
vốn.
Cuối cùng, các chính sách kinh tế vĩ mô phải được phối hợp và điều hành đồng bộ,
hợp lý, chú trọng đến hiệu quả sử dụng vốn. Đối với hệ thống tài chính, cần phải tăng
cường khả năng cạnh tranh cũng như tăng cường hệ thống giám sát, cảnh báo biến động
của các nguồn vốn.
Nhìn chung, cần phải tiến hành tự do hóa các giao dịch vốn từng bước phù hợp với
những điều kiện thực tiễn của nền kinh tế. Bên cạnh đó, cần gắn nó với việc điều hành
các chính sách kinh tế vĩ mô. Hệ thống ngân hàng phải đủ mạnh để đủ sức ứng phó với
những rủi ro khi các nguồn vốn biến động và hệ thống giám sát tài chính phải được củng
cố và phát triển.
Đối với lĩnh vực ngân hàng
Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính phối hợp tăng khối lượng tín phiếu Kho bạc
Nhà nước đấu thầu hàng quý, hàng năm. Có thể tăng tần suất các phiên đấu thầu từ 1
phiên/1tuần hiện nay lên 2 phiên/tuần. Linh hoạt hơn nữa lãi suất đấu thầu qua các phiên
theo sát diễn biến trên thị trường. Thời hạn tín phiếu cũng có thể đa dạng hơn, như kỳ hạn
60 ngày, 90 ngày... thay cho chỉ có loại 360 ngày như hiện nay. Cần có cơ chế để các
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 55/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
Ngân hàng thương mại cổ phần và Ngân hàng khác có quy mô nhỏ hơn có thể trúng thầu
tín phiếu trên thị trường này. Đặc biệt là Bộ Tài chính cần có biện pháp đưa các Công ty
bảo hiểm, tổ chức bảo hiểm tham gia đấu thầu tín phiếu, không nên để tình trạng lãng phí
vốn hay quan hệ tiền gửi không kỳ hạn trực tiếp với các TCTD như hiện nay.
Ngân hàng Nhà nước có biện pháp bảo đảm tính hệ thống của Quỹ tín dụng, có cơ
chế điều hòa vốn linh hoạt hơn của hệ thống này. Trên cơ sở đó tạo điều kiện thu hút Quỹ
tín dụng tham gia thị trường liên ngân hàng và các dạng khác của thị trường tiền tệ so
Ngân hàng nhà nước tổ chức, vận hành.
Ngân hàng Nhà nước nâng cấp thị trường nội tệ liên ngân hàng, thể hiện rõ vai trò
can thiệp cuối cùng của Ngân hàng Nhà nước trên thị trường này. Tiến tới công bố được
lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng ở Việt Nam do là lãi suất chủ đạo của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam.
Tích cực áp dụng các thông lệ và chuẩn mực quốc tế trong hoạt động Ngân hàng
thương mại. Đặc biệt là chuẩn mực về kế toán, kiểm toán, qui chế quan hệ bắt buộc giữa
các Ngân hàng trung gian với Ngân hàng trung ương về tái cấp vốn, thị trường mở, thanh
toán quốc gia và các chuẩn mực về thanh tra – giám sát Ngân hàng.
Mở cửa thị trường Ngân hàng, nới lỏng dần theo lộ trình các hạn chế về quyền tiếp
cận và nội dung hoạt động của chi nhánh cũng như Ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại
Việt Nam bắt đầu được xem xét cho thành lập từ 01/4/2007.
Xoá bỏ dần, tiến tới xoá bỏ tối đa các giới hạn đối với các Ngân hàng nước ngoài
về số lượng đơn vị, hình thức pháp nhân, tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài (tại NĐ 69 đã
dẫn, ngoài tỷ lệ “trần” ghi ở điều 4, nhà đầu tư nước ngoài còn được “mua lại” cổ phần
của nhà đầu tư trong nước theo điều 8.3), tổng giao dịch nghiệp vụ Ngân hàng, mức huy
động vốn VND, loại sản phẩm, loại dịch vụ Ngân hàng trên lãnh thổ Việt nam.
Xây dựng khuôn khổ pháp lý hoàn chỉnh và phù hợp với luật lệ quốc tế để tạo sân
chơi bình đẳng cho các Ngân hàng thương mại trên lãnh thổ Việt Nam cùng phát triển và
cạnh tranh lành mạnh.
Đối với thị trường lãi suất
Hoàn thiện các quy định về lãi suất, quy chế quản lý ngoại hối theo thông lệ quốc
tế. Hiện nay, hoạt động lãi suất của nước ta còn ở mức độ tự do hóa thấp. Chúng ta đang
quy định lãi suất thỏa thuận, song Ngân hàng Nhà nước vẫn công bố lãi suất cơ bản hàng
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 56/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
tháng dựa trên lãi suất cho vay của 15 khách hàng kinh doanh hiệu quả nhất trong từng
thời kỳ. Như đã phân tích ở trên, lãi suất đó chưa dựa vào quan hệ cung - cầu về vốn trên
thị trường. Bởi lãi suất cơ bản cần được xác định trên cơ sở lãi suất của thị trường liên
ngân hàng sẽ phản ánh chính xác quan hệ cung - cầu vốn trong nền kinh tế và các Tổ
chức tài chính trung gian. Thông qua hoạt động huy động và sử dụng vốn giữa các ngân
hàng, các ngân hàng có thể chào bán vốn hoặc xin vay đối với khách hàng của mình. Vì
vậy, lãi suất liên ngân hàng phản ánh quan điểm và tín hiệu của Ngân hàng Nhà nước đối
với các tổ chức tín dụng, cũng như trạng thái cung cầu về vốn khả dụng của các Ngân
hàng Thương mại. Nó là cơ sở để xác định lãi suất thị trường, phản ánh xu hướng lãi suất
của Ngân hàng Nhà nước. Lãi suất liên ngân hàng là cơ sở để các thành viên tham gia thị
trường xác định đúng lãi suất tiền gửi, lãi suất tiền vay đối với khách hàng của mình. Lãi
suất này tăng, giảm có thể cho thấy mức tăng giảm tương ứng của lãi suất thị trường
trong thời gian trước mắt. Vì thế, để lãi suất tiếp tục tự do hóa, Nhà nước cần hoàn thiện
các quy định về lãi suất phù hợp với thông lệ quốc tế. Đó là các lãi suất trên thị trường
liên ngân hàng (cả thị trường nội tệ lẫn ngoại tệ): hình thành và hoàn thiện cơ chế điều
hòa vốn trên thị trường liên ngân hàng để hình thành lãi suất chỉ đạo VIBOR, lãi suất tái
chiết khấu, lãi suất trên thị trường trái phiếu chính phủ...
Muốn vậy, cần phát triển và hoàn thiện thị trường nội tệ liên ngân hàng, thị trường
đấu thầu trái phiếu chính phủ, nghiệp vụ thị trường mở để lấy mức lãi suất trên các thị
trường này làm cơ sở cho việc xác định lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam. Nhà nước
cần công bố lãi suất tiền gửi và cho vay bằng đồng Việt Nam tính theo năm, các kỳ hạn
cụ thể đối với lãi suất cho vay và huy động được tính trên cơ sở lãi suất năm như đối với
lãi suất ngoại tệ cho phù hợp với thông lệ quốc tế. Thời gian qua, lãi suất tiền gửi và cho
vay tại các Ngân hàng thương mại trong nước được ấn định tương đối cao để phù hợp với
mức lạm phát từng thời kỳ. Nếu tính lãi suất theo năm sẽ ảnh hưởng đến tâm lý của người
vay do mức lãi suất quá cao. Nhưng hiện nay lãi suất đang được duy trì ở mức thấp, nên
hoàn toàn có điều kiện để xác định và công bố lãi suất theo năm đối với cả tiền gửi và
cho vay, theo đúng thông lệ quốc tế. Hơn nữa việc tính lãi suất theo năm sẽ phản ánh một
cách chính xác các chi phí về vốn đối với người gửi, người vay và các Ngân hàng thương
mại. Việc phát hành trái phiếu, tín phiếu của Chính phủ phải được tiến hành thông qua
đấu thầu qua Ngân hàng Nhà nước và thị trường chứng khoán. Nên chấm dứt hình thức
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 57/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
phát hành trực tiếp tới dân chúng theo lãi suất cố định. Tránh việc cạnh tranh không lành
mạnh giữa lãi suất tín dụng nhà nước và lãi suất kinh doanh của các Ngân hàng thương
mại, đồng thời tiết kiệm chi phí cho Ngân sách Nhà nước.
Ngân hàng Nhà nước cũng nên bỏ khống chế lãi suất tiền gửi tối đa bằng đô la Mỹ
đối với pháp nhân tại các Tổ chức tín dụng để tiến tới tự do hóa hoàn toàn lãi suất tiền
gửi ngoại tệ, nên trao quyền cho các Tổ chức tín dụng tự chủ trong việc phát hành trái
phiếu của mình trên cơ sở các điều kiện và quy định của Nhà nước. Tiến tới thực hiện cơ
chế điều hành hệ thống lãi suất chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước – lãi suất tái chiết khấu
và lãi suất cho vay qua đêm. Với lãi suất cơ bản, khi đã bỏ biên độ thì vai trò của nó thực
chất chỉ còn mang tính hướng dẫn, tham khảo, không có vai trò kiểm soát và tác động
trực tiếp tới lãi suất trên thị trường. Vì vậy, vẫn chuyển sang cơ chế lãi suất chỉ đạo của
Ngân hàng Nhà nước.
Trong điều kiện nền kinh tế mở, hội nhập, lãi suất có quan hệ mật thiết với tỷ giá
(lãi suất ngoại tệ). Giữa lãi suất và tỷ giá có mối quan hệ chặt chẽ, nếu tỷ giá có xu hướng
giảm thì người ta bắt đầu quan tâm đến lãi suất, nếu lãi suất có hướng giảm thì ngược lại,
người ta lại quan tâm đến tỷ giá. Các hành vi bán – mua – gửi ngọai tệ luôn quan hệ xoắn
xuýt với nhau và nó sẽ tạo ra dòng chuyển giữa đồng Việt Nam và ngoại tệ. Vì vậy, quan
tâm đến lãi suất không thể không quan tâm đến tỷ giá và ngược lại. Vì vậy, bên cạnh việc
hoàn thiện các quy định về lãi suất, Ngân hàng Nhà nước cần ban hành đồng bộ hơn quy
chế về quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá. Có nghĩa là:
Tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống văn bản về chính sách quản lý ngoại hối: tăng cường
công tác quản lý ngoại hối khu vực biên giới trên bộ với Trung Quốc, Lào và Campuchia.
Sửa đổi một số nghị định ban hành năm 1998 và 1999, minh bạch hóa chính sách và cải
cách hành chính về quản lý ngoại hối. Pháp lệnh ngoại hối cần khẩn trương đi vào thực
tiễn và đồng bộ hóa các văn bản hướng dẫn, đánh giá mức độ thực thi của Pháp lệnh
ngoại hối. Nâng cao năng lực của hệ thống ngân hàng để có thể đảm đương được nhiệm
vụ chuyển tiền, thanh toán ngoại hối cho khách hàng một cách thuận lợi nhất.
Luật hóa các hoạt động ngoại hối bao gồm các hoạt động đầu tư, vay và cho vay,
bảo lãnh, mua bán các giao dịch về ngoại hối. Nghiên cứu cơ chế chính sách để tạo điều
kiện cho các tổ chức kinh tế kể cả Ngân hàng thương mại được phép thu hút ngoại tệ
thông qua việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu ra thị trường trong nước và quốc tế. Sửa đổi
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 58/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
các quy định về tiền tệ, ngoại hối đối với các nhà đầu tư nước ngoài với tinh thần thông
thoáng nhất, tự do hóa thị trường giao dịch ngoại hối để các nhà đầu tư nước ngoài có
điều kiện thuận lợi khu mua bán ngoại tệ phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Đổi mới căn bản cơ chế quản lý ngoại hối và cơ chế quản lý nợ nước ngoài theo
hướng tự do hóa giao dịch vãng lai, kiểm soát có lựa chọn giao dịch tài khoản vốn, trên
cơ sở đó xây dựng và hoàn thiện thị trường hối đoái. Đổi mới chính sách tỷ giá theo
hướng tỷ giá hình thành một cách khách quan trên cơ sở cân bằng cung cầu ngoại tệ trên
thị trường, có sự điều tiết của Nhà nước. Phát triển mạnh mẽ thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng song song với việc phát triển thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Quản lý chặt chẽ các
khoản vay nợ nước ngoài, đặc biệt là vay ngắn hạn. Kiểm soát chặt chẽ việc bảo lãnh vay
trả chậm của các Ngân hàng thương mại cho các doanh nghiệp vay từ nước ngoài.
Cải cách hệ thống thanh toán, khuyến khích người dân mở tài khoản séc cá nhân
và thanh toán qua hệ thống ngân hàng. Tăng cường mệnh giá đồng Việt Nam. Tiếp tục
khép dần khoảng cách giữa lãi suất cho vay đồng ngoại tệ và lãi suất cho vay đồng nội tệ.
Lãi suất đồng ngoại tệ phải có sức hấp dẫn để thực hiện tốt chính sách thu hút vốn hiện
nay ở nước ta. Việc giảm chênh lệch giữa lãi xuất đồng ngoại tệ và đồng nội tệ là làm cho
chêng lệch này phản ánh đúng rủi ro tín dụng và dự tính của tỷ giá. Theo đó, khi tỷ giá
biến động có chiều hướng tăng thì Ngân hàng Nhà nước có thể tăng lãi suất để phản ánh
đầy đủ rủi ro và ngăn chặn xu hướng tăng tỷ giá.
Từng bước nới lỏng các quy định mang tính hành chính, tạo lập môi trường kinh
doanh bình đẳng hơn cho các Ngân hang thương mại trong đó Ngân hàng thương mại
Nhà nước là đối tượng phải chịu nhiều quy định mang tính hành chính, làm mất đi sự linh
hoạt và chủ động trong các quyết định kinh doanh. Điều đó thể hiện trước hết ở các hoạt
động cho vay theo chri định, cho vay chính sách. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến nợ
quá hạn rất cao ở các ngân hàng này. Vì thế, cần dỡ bỏ các ràng buộc về mặt hành chính
để các Ngân hang thương mại Nhà nước tự chủ hơn trong kinh doanh, bằng việc xóa bỏ
dần cho vay chính sách trong các Ngân hang thương mại hoạt động kinh doanh.
Nâng cao năng lực quản lý và vai trò giám sát của Ngân hàng Nhà nước. Cùng với
việc thành lập hệ thống ngân hàng hai cấp, Ngân hàng Nhà nước trở thành cơ quan quản
lý đối với hoạt động ngân hàng, là người đóng vai trò tạo ra hành lang pháp lý cho hoạt
động ngân hàng, đồng thời giám sát hoạt động, làm tăng tính hiệu quả các hệ thống Ngân
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 59/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
hang thương mại. Vì thế, quá trình tự do hóa tài chính muốn thành công không thể thiếu
vai trò chỉ lối đưa đường của Ngân hàng Nhà nước. Muốn vậy chúng ta cần nâng cao vị
thế độc lập của chính sách tiền tệ và quyền tự chủ của Ngân hàng Nhà nước trong điều
hành chính sách tiền tệ. Đổi mới cơ cấu tổ chức của hệ thống Ngân hàng Nhà nước theo
hướng tập trung quản lý, điều hành, nâng cao tính chuyên môn hóa; xác định rõ ràng
chức năng nhiệm vụ và tăng cường phối hợp giữa các đơn vị, giảm bớt các đầu mối quản
lý. Cơ cấu lại các chi nhánh Ngân hàng Nhà nước theo hướng tập trung và có sự phân
biệt về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ giữa các chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tùy
theo yêu cầu quản lý hoạt động tiền tệ ngân hàng ở từng địa phương, tiến tới hình thành
chi nhánh Ngân hàng Nhà nước khi hội đủ các điều kiện. Tăng cường năng lực của hệ
thống thanh tra – giám sát ngân hàng.
Lành mạnh hóa tình hình tài chính của các Ngân hàng thương mại, nâng cao năng
lực cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại Nhà nước, rà soát lại các Ngân hàng
thương mại cổ phần. Thông qua việc phân loại, xử lý dứt điểm các khoản nợ của hệ thống
Ngân hàng thương mại – trong đó chủ yếu là các khoản nợ xấu, minh bạch các báo cáo
tài chính hàng năm và tăng cường chất lượng tài sản, tín dụng cũng như nâng cao chất
lượng tài sản, tín dụng cũng như nâng cao chất lượng hoạt động kiểm soát tín dụng.
Tóm lại, quá trình tự do hóa lãi suất là một quá trình lâu dài, khó khăn. Nó gắn
chặt với việc phát triển các thị trường tiền tệ và thị trường vốn trong nước, cũng như sự
hoàn thiện của hệ thống pháp luật. Tự do hóa lãi suất là hạt nhân trong quá trình tự do
hóa tài chính nội địa cũng như quốc tế; bởi vì để các quá trình tự do hóa tài khoản vốn, tự
do hóa tín dụng... thành công, đòi hỏi cơ chế lãi suất phải được vận hành theo quy luật
cung - cầu về vốn trên thị trường.
Đối với chính sách về tỉ giá
Cải thiện lòng tin của người dân đối với đồng nội tệ. Ngoài việc điều chỉnh thì cần
phải cải thiện lòng tin của người dân, nhà đầu tư và thị trường, đó là yếu tố rất quan
trọng. Tỷ giá hình thành từ cung cầu, nên có giá trị thực và những dao động lên xuống
quanh giá trị thực, và dao động này được hình thành từ lòng tin và niềm tin. Việc Ngân
hàng nhà nước mạnh tay điều chỉnh tỷ giá về gần thị trường tự do nhưng chưa có những
biện pháp mang lại lòng tin cho người dân và nhà đầu tư, nên tỷ giá tự do vẫn có thể sẽ
tiếp tục tăng và tạo ra một vòng xoáy tăng giá giữa tỷ giá tự do và liên ngân hàng.
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 60/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
Chính phủ điều hành và nền kinh tế vĩ mô đảm bảo tăng trưởng GDP cao phải đi
đôi với một mức lạm phát hợp lý, kèm theo đó là những biện pháp để lấy lại lòng tin của
người dân, nhà đầu tư là phải cải thiện năng lực sản xuất, nhằm đẩy mạnh tăng trưởng
GDP với một mức lạm phát hợp lý hơn. Việc này có thể thực hiện bằng cách đẩy mạnh
dòng vốn đầu tư tốt cho khối tư nhân, họ vốn mang lại nguồn tăng trưởng chính cho Việt
Nam trong những năm qua.
Tăng cường sự minh bạch cho các con số. Điều này rất có ý nghĩa bởi chúng có
thể gây ra những cú sốc tỷ giá trong ngắn hạn và một số doanh nghiệp Nhà nước làm ăn
kém hiệu quả, trong khi lại vay vốn nhiều từ nước ngoài sẽ gặp nhiều khó khăn và tệ hơn
là phá sản. Tuy nhiên, thị trường sau đó sẽ tự điều chỉnh và những doanh nghiệp làm ăn
tốt thì được hưởng lợi từ việc tỷ giá ổn định.
Đối với tỉ lệ dự trữ bắt buộc
Căn cứ theo biểu đồ ở trang sau, chúng ta có thể nhận thấy được rằng Việt Nam,
từ sau khi tham gia vào cộng đồng các quốc gia Đông Nam Á năm 1995, đã có nhiều nổ
lực nỗ lực tích cực trong việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, từng bước tiến đến việc tự do
hóa thị trường tài chính, và theo đuổi nền kinh tế thị trường.
Sau khi tham gia vào WTO, do vẫn còn những khó khăn bước đầu trong tiến trình
hội nhập, nên tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong các năm từ 2003 – 2009, nhiều lần tăng lên và
hạ xuống, nhưng vẫn giữ ở mức khoảng 3 – 5%. Đặc biệt vào năm 2008, do ảnh hưởng
của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, ngân hàng Nhà nước đã yêu cầu các ngân hàng
thương mại, các tổ chức tín dụng tăng tỷ lệ này lên 5% (Quyết định số 3158/QĐ-NHNN
vào 19/12/2008), làm tăng dự trữ quốc gia, giảm thiểu mức độ lạm phát cũng như mức độ
thâm hụt thương mại. Sau khi kinh tế có dấu hiệu phục hồi, tỷ lệ này đã được giảm còn
3% (QĐ số 379/QĐ – NHNN ngày 29/2/2009) và 2% (Quyết định 74/QĐ-NHNN ngày
18/1/2010). Bên cạnh đó, kể từ tháng 02/2010, ngân hàng Nhà nước cũng giảm tỷ lệ dự
trữ bắt buộc đối với ngoại tệ xuống còn 4%, thay vì 7% như những năm trước.
Biểu đồ 4: Tỷ lệ dự trữ bắt buột qua các năm
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 61/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
Những quyết định trên của ngân hàng Nhà nước cho thấy rằng Việt Nam đang
từng bước thực hiện quá trình tự do hóa thị trường tài chính của mình, tạo cơ hội cho đất
nước ngày càng hòa nhập sâu hơn vào nền kinh tế của thế giới và vận hành theo cơ chế
thị trường, tuy nhiên, vẫn sẽ ở một khuôn khổ nhất định nhằm tránh gây nên tổn thương
cho nền kinh tế Việt Nam vẫn còn những điểm hạn chế trong nhiều mặt của nền kinh tế
Trên thị trường bất động sản
Trước tiên, phải chấm dứt tình trạng “bong bóng” trên thị trường nhà đất. Theo đó,
việc giám sát hoạt động ngân hàng và quy định mức trần cho vay mua bất động sản có
thể giúp kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, việc đặt mức trần cho vay cũng có thể làm chậm
lại tốc độ phát triển đô thị và đầu tư cho nhà đất, khu công nghiệp. Một cách thức quyết
liệt khác để ngăn ngừa tình trạng đầu cơ là đưa ra các quy định mới về thuế tài sản.
Chỉ nên đáp ứng tín dụng trung và dài hạn cơ bản bằng nguồn vốn có độ dài tương
ứng qua thị trường chứng khoán/hoặc qua các cơ chế chuyên nghiệp như ngân hàng đầu
tư, ngân hàng phát triển, Công ty tài chính, Quỹ đầu tư... độc lập hoặc hạch toán độc lập
trong ngân hàng thương mại. Để thực hiện được điều đó cần phải có cơ chế minh bạch
cho phòng ngừa, kiểm soát rủi ro. Đặc biệt là giải pháp “chứng khoán hóa” tín dụng bất
động sản cần phải thông qua thông tin về xếp hạng tín dụng, về kết quả kiểm toán độc lập
đủ độ tin cậy cao, không nên áp dụng nguyên lý “nồi lẩu nợ thập cẩm” tín dụng bất động
sản như ở Mỹ đã làm trong những năm 2001 – 2009.
Trong điều kiện thị trường chứng khoán Việt Nam còn yếu, giải pháp hữu hiệu lúc
này cho vấn đề giảm rủi ro tín dụng bất động sản chính là: Ngay trong các ngân hàng
thương mại lớn nên thành lập các đơn vị hạch toán độc lập như ngân hàng đầu tư, ngân
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 62/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
hàng phát triển, công ty tài chính... để thực hiện các hoạt động dịch vụ và tự doanh
chuyên nghiệp về lĩnh vực bất động sản, như: thuê mua tài chính, bảo hiểm khoản vay,
bảo lãnh phát hành chứng khoán bất động sản, bảo lãnh vay vốn, hay lập Quỹ đầu tư tín
thác để hình thành đội ngũ các nhà kinh doanh chuyên nghiệp, trước khi ngân hàng
thương mại có thể trở thành tập đoàn tài chính ở Việt Nam.
Trên thị trường chưng khoán
Đề nghị Chính phủ có chính sách buộc mọi doanh nghiệp cổ phần đều phải lên
sàn, từng bước dẹp bỏ thị trường IPO không chính thức hay IPO khép kín nội bộ.
Để chống pha loãng cổ phiếu, mọi doanh nghiệp cổ phần chỉ được phép phát hành
bổ sung khi và chỉ khi có phương án tăng qui mô sản lượng sản xuất kinh doanh một cách
minh bạch và tổng số vốn cần huy động bổ sung buộc phải đồng thời dưới 2 hình thức
với tỷ lệ tương đương nhau, gồm: cổ phiếu và tỷ lệ trái phiếu trung, dài hạn ghi danh cho
phép thanh toán trước hạn ghi rõ vào trái phiếu theo qui định bằng pháp luật... Trái phiếu
được quyền thanh toán trước hạn loại này là để bảo vệ quyền lợi cho nhà đầu tư trên thị
trường thứ cấp.
Theo đó, pháp luật cần cho phép nhà đầu tư có thể sử dụng quyền này trong việc
gây áp lực thanh khoản cho doanh nghiệp phát hành. Trái phiếu này nếu duy trì được đến
kỳ đáo hạn, cho phép nhà đầu tư được quyền hoặc là thanh toán lấy tiền về 100% theo
mệnh giá trái phiếu, hoặc là qui định một tỷ lệ thích hợp được quyền chuyển bổ sung vốn
điều lệ thành cổ phiếu phổ thông theo công thức công khai ghi trong qui chế phát hành cổ
phiếu tăng vốn như sau: số cổ phiếu phổ thông thu được bằng tổng giá trị trái phiếu được
chuyển đổi chia cho giá cổ phiếu của doanh nghiệp đó đang hình thành tại sàn chứng
khoán vào thời điểm chuyển đổi.
Tiếp tục đồng bộ hệ thống luật pháp, điều tiết trên thị trường chứng khoán. Các
nhà đầu tư sẽ e ngại đầu tư vào một nước có hệ thống luật pháp yếu kém, không minh
bạch và hệ thống tài chính thiếu nhất quán.
Hệ thống kiểm soát ngoại hối liên quan đến tự do hóa tài khoản vốn cũng là mối
quan tâm lớn của các nhà đầu tư nước ngoài. Chúng ta sẽ đi theo quan điểm rằng các
chính sách tự do hóa tài khoản vốn tại Việt Nam phải rất thận trọng.
Cần tiếp tục các chính sách mở rộng thị trường tài chính cả về quy mô và chất
lượng. Thị trường chứng khoán Việt Nam đã phát triển vượt trước kế hoạch 4 năm.
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 63/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
Chúng ta bây giờ cần phát triển hệ thống tài chính theo một lộ trình thích hợp, phù hợp
với các chính sách mở cửa thị trường. Cần xem xét các nội dung hoạt động chính như
sau:
Hỗ trợ cung thị trường.
Nâng cao chất lượng các sản phẩm thị trường.
Xây dựng năng lực các trung gian thị trường.
Đồng bộ việc tổ chức, cơ cấu và giám sát thị trường của cơ quan quản lý Nhà nước
trong lĩnh vực tài chính và ngân hàng.
Cải thiện cơ sở hạ tầng thị trường vốn, hệ thống giao dịch và hệ thống cung cấp
thông tin.
Áp dụng thông lệ quốc tế về quản trị công ty và tiếp tục cải cách hệ thống hành
chính và quản lý kinh tế của Nhà nước. Ban hành các chính sách khuyến khích hoạt động
dài hạn của các nhà đầu tư thể chế nước ngoài.
Tóm tại, đầu tư theo danh mục thông qua thị trường chứng khoán, thị trường vốn,
đặc biệt sự tham dự của các nhà đầu tư nước ngoài luôn là những xung lực mạnh cho phát
triển và tăng trưởng tại các nước đang phát triển.
Chính sách tài khóa
Phải chủ động tự do hoá tài chính trên cơ sở minh bạch hóa mối quan hệ giữa
chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa, làm cho cả hai chính sách này ngày càng lành
mạnh bằng cách trao nhiều quyền lực cho Ngân hàng Trung ương trong việc hoạch định
và thực thi chính sách tiền tệ. Ngân hàng trung ương phải đủ sức và đủ công cụ để bảo
đảm ổn định sức mua của đồng tiền Việt nam, đủ sức kiểm soát và làm chủ các nghiệp vụ
chính của Ngân hàng trung ương như: điều hành thị trường tiền tệ, điều hành và kiểm
soát toàn bộ hệ thống thanh toán quốc gia, đảm bảo trên đất Việt nam chỉ sử dụng tiền
Việt Nam và nhanh chóng thực hiện lộ trình tự do chuyển đổi cho đồng tiền Việt Nam.
Đổi mới cơ chế và quyền lực trong hoạt động thanh tra – giám sát hoạt động Ngân hàng
của mọi loại Định chế tài chính (ngay cả khi có Ủy Ban giám sát tài chính ngoài Ngân
hàng trung ương).
Mọi hoạt động có tính chất đầu tư của khu vực tài chính công phải thực hiện thống
nhất theo cơ chế thị trường, đều phải bị điều chỉnh thống nhất bởi Luật chuyên ngành về
Ngân hàng, hạn chế dần và có kỷ cương minh bạch, công khai về các hoạt động tín dụng
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 64/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
chính sách ưu đãi đối với khu vực thuộc đối tượng chính sách ưu đãi của Nhà nước,
thống nhất một mạng thanh toán quốc gia đối với mọi Pháp nhân có quan hệ thanh toán
với Ngân hàng, kể cả khu vực ngân sách Nhà nước và khu vực tài chính Nhà nước ngoài.
Cần phải đứng trên lợi ích của Nhà nước để dẫn dắt thị trường bằng cách có chính
sách “dãn” rộng hơn khoảng cách giữa các lần cổ phần hoá từng Ngân hàng thương mại
Nhà nước hay từng Doanh nghiệp nhà nước nếu không, một bộ phận tài sản của Nhà
nước sẽ có xu hướng rơi vào tay cá nhân các nhà đầu cơ.
Đào tạo và từng bước phổ cập kiến thức phổ thông về cung ứng và “mua” các dịch
vụ tiện ích từ Ngân hàng. Mở rộng việc chuyển quan hệ tín dụng trực tiếp giữa cá nhân
với Ngân hàng sang quan hệ tín dụng gián tiếp thông qua các Công ty, Nhà máy chế biến,
Tập đoàn công nghiệp, Tập đoàn thương mại đồng thời có chính sách khuyến khích phát
triển mạnh mẽ việc mở tài khoản thanh toán qua Ngân hàng của cả Pháp nhân và thể
nhân để cùng với các giải pháp công nghệ nhanh chóng nhất thể hóa thẻ thanh toán trên
lãnh thổ Việt nam...
Tự do hóa tài chính do đó trước hết luôn gắn chặt với năng lực minh bạch và khả
năng kiểm soát lưu thông tiền tệ, khả năng thanh tra giám sát các dòng chu chuyển vốn
trong nền kinh tế cũng như chu chuyển vốn giữa trong nước với nước ngoài của Ngân
hàng trung ương để thúc đẩy nền kinh tế nói chung, các chủ thể kinh tế nói riêng ngày
càng phát triển một cách vững chắc.
Điều đó cũng có nghĩa rằng không thể có cái gọi là tài chính tự do hoàn toàn ở bất
kỳ quốc gia hay tổ chức kinh tế quốc tế nào. Mức độ tự do hoàn toàn phụ thuộc vào năng
lực quản trị, công nghệ, kiểm soát rủi ro và tính minh bạch trong các quan hệ theo Luật
pháp liên quan ở trong nước và thông lệ quốc tế từng thời kỳ phát triển. Mặt khác, tự do
hoá tài chính cũng là một xu thế khách quan không thể nhẫn nại “ngồi chờ” sự hoàn thiện
năng lực và môi trường Luật Pháp của từng quốc gia thành viên Tổ chức Thương mại
Thế giới (World Trade Organazation – WTO), vì vậy nhất thiết Việt nam phải chủ động
và tích cực tiếp cận với tự do hoá tài chính bằng một thái độ kiên quyết và cẩn trọng cần
thiết nhất có thể được.
Theo một số nhận định của các chuyên gia trong lĩnh vực kinh tế thế giới: “Việt
Nam cần phối hợp chặt giữa chính sách giá, tiền tệ và tài khóa. Chính sách tiền tệ chặt
chưa đủ. Ngoài ra Chính phủ cũng cần giảm thiểu những xáo trộn và gánh nặng đối với
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 65/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
các ngân hàng và cả nền kinh tế".
Theo ADB (Asian Developing Bank), trong quá trình này, Việt Nam không nên
cắt giảm đầu tư công mà nên cải thiện hiệu quả đầu tư công và bảo vệ lợi ích của người
nghèo. Việt Nam cũng cần tiếp tục tiến trình cải cách theo hướng thị trường, tăng cường
quản lý dòng vốn, nâng cao năng lực thể chế của các cơ quan Chính phủ và năng lực của
những người có trách nhiệm quản lý chính sách kinh tế vĩ mô. Đối với khu vực tài chính,
cần tăng cường cơ chế đảm bảo an toàn, giám sát. Theo ông Martin Rama, chuyên gia kế
toán trưởng của Ngân hàng Thế giới (World bank – WB) cũng lưu ý rằng thắt chặt chi
tiêu của khu vực công không phải là giải pháp tốt nhất. “Nếu xuất khẩu giảm mạnh thì
chi tiêu công cũng bị duy trì ở mức thấp làm cho các hoạt động của nền kinh tế không
triển khai được nữa, và như vậy đây cũng không phải là một giải pháp tốt”
Chính sách hướng nhiều hơn vào cơ chế thị trường. Hiện nay, đã có biện pháp cắt
giảm tín dụng vận hành thông qua việc bán trái phiếu của Ngân hàng nhà nước. Tuy
nhiên, một số cơ quan nhà nước (trong đó có Bảo hiểm xã hội Việt Nam) hiện đang nắm
giữ một phần vốn khả dụng đáng kể trong các Ngân hàng thương mại. Một cơ chế quản
lý quỹ dự trữ hưu trí hiện đại hơn sẽ đòi hỏi BHXH Việt Nam phải mua vào trái khoán
trao đổi được. Lượng mua vào của BHXH Việt Nam trên thị trường nội địa có thể giúp
hợp nhất trái khoán (có hàng trăm loại nhỏ khác nhau).
Chính sách tiền tệ
Một trong những vấn đề trọng tâm của kinh tế vĩ mô nói chung và thị trường tài
chính nói riêng hiện nay và cả trong tầm nhìn xa hơn đối với Việt Nam là phải bảo vệ giá
trị sức mua của đồng nội tệ. Vậy giải pháp nào để bảo vệ giá trị sức mua đối nội và đối
ngoại của đồng tiền Việt Nam?
Trước hết, cần nhận diện và vận dụng các qui luật của tiền tệ: lượng tiền nội tệ
cung ứng vào lưu thông càng lớn (bất luận từ kênh nào) so với mức đã bão hòa trước đó
thì tỷ giá càng tăng (đo bằng số đồng nội tệ/một đồng ngoại tệ), cũng đồng nghĩa với lạm
phát càng cao. Và ngược lại, bất kể lúc nào có lạm phát là có hiện tượng cung tiền các kỳ
trước đó quá cao so với nhu cầu thực của nền kinh tế. Cầu về ngoại tệ càng lớn thì tỷ giá
cũng càng tăng (nhưng chỉ trong ngắn hạn, nếu nền kinh tế không bị đô la hóa) và ngược
lại, tức là khi lãi suất huy động ngoại tệ phải càng tụt thì tỷ giá mới sẽ phải tụt theo. Lãi
suất nội tệ càng tăng thì ngược lại, không những tỷ giá sẽ càng tụt mà chỉ số lạm phát
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 66/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
cũng sẽ càng giảm... Suy cho cùng, sức mua đối nội và đối ngoại của đồng nội tệ phải
tăng tiến tới ổn định thì mới chống được lạm phát và giảm phát – Đó là nguyên lý lý
thuyết bất di bất dịch.
Thứ hai: từ những nguyên lý mang tính qui luật nói trên, để chống gia tăng tỷ giá
lúc này cần phải có các giải pháp tương ứng để làm “xì hơi” từ từ các áp lực đang làm
cho tỷ giá và lạm phát tăng. Trong đó giải pháp mạnh để làm “xì hơi” có hiệu ứng rõ nhất
chính là dùng ngoại tệ dự trữ (ngay cả rất hiếm cũng phải cân nhắc, sử dụng) để mua tiền
đồng vào, bán ngoại tệ ra theo các địa chỉ được xem là đang có áp lực lớn nhất và thiết
thực nhất.
Đồng thời với việc này là hàng loạt các giải pháp khác mang tính ngắn hạn như
phải có tín hiệu siết chặt hơn nữa chính sách tiền tệ và giảm rõ rệt sự chi tiêu của Chính
phủ, tăng lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu trên thị trường tiền tệ sơ cấp. Nếu cần, cũng
phải tăng cả dự trữ bắt buộc tiền gửi, sử dụng nhiều hơn các công cụ của chính sách tiền
tệ để tạo sóng lan tỏa tới thị trường tín dụng, lấy “đà” để tự thị trường có điều kiện giảm
dần lãi suất nội tệ theo qui luật, về hành chính, phải công bố giảm mạnh lãi suất huy động
ngoại tệ, tăng mạnh lãi suất cho vay bằng ngoại tệ và tiến tới giảm dần, từng bước có lộ
trình chấm dứt tín dụng ngoại tệ và tín dụng vàng, buộc các tổ chức tín dụng phải chuyển
khoản đầu tư trái phiếu doanh nghiệp từ nguồn huy động sang dư nợ tín dụng thay vì
hạch toán vào mục “đầu tư”, cân đối lại chi và tiêu ngân sách nhà nước, tạm dừng nhập
khẩu những đơn hàng không thiết yếu, đa dạng hóa cơ cấu danh mục tiền dự trữ cũng như
phương tiện thanh toán quốc tế...
Tách rời ảnh hưởng của đồng đôla Mỹ. “Nếu muốn đảm bảo Việt Nam là quốc gia
xuất khẩu có tính cạnh tranh lớn thì cần đảm bảo khả năng cạnh tranh của Việt Nam theo
giỏ ngoại tệ chung. Kiến nghị rõ ràng của chúng tôi với Việt Nam là nên dựa vào cả giỏ
ngoại tệ chứ không chỉ dựa vào một đồng Đôla Mỹ”
Về xu hướng tự do hóa tài chính trong nước: Chắc chắn sẽ phải vận động theo sức
hút của tiến trình tự do hoá tài chính không biên giới của thế giới trong kỷ nguyên WTO.
Các xu hướng rõ nhất có thể nhìn thấy và dự báo bao gồm: nới rộng các giới hạn về
quyền của các thành phần tham gia cung ứng dịch vụ Ngân hàng, tỷ lệ sở hữu cổ phần
thông qua việc mua cổ phần và các thương vụ mua, bán, sáp nhập; tỷ lệ chuyển tiền; điều
kiện tham gia mạng thanh toán quốc tế; sự hình thành các khu vực đồng tiền chung; các
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 67/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
giới hạn về biên độ tỷ giá; các hình thức thanh toán qua biên giới...Để hiện thực hoá các
xu hướng nói trên, chắc chắn sẽ xuất hiện nhiều loại mô hình Định chế tài chính và
nghiệp vụ mới theo hướng: chuyển mạnh từ đơn sở hữu sang đa sở hữu, từ Công ty hoá
sang Tập Đoàn hoá, từ chuyên doanh thuần sang đa năng và từ đa năng chung chung
(hạch toán gộp) sang “chuyên doanh” trong đa năng (phân cấp quản trị kinh doanh theo
nhóm sản phẩm, loại khách hàng và hạch toán độc lập trong hạch toán tổng...).
Việt Nam không thể đẩy quá nhanh việc xây dựng thị trường tài chính, cũng như
thị trường chứng khoán vượt lên trên sự phát triển chung của nền kinh tế, tức là phải phát
triển đồng bộ, tất nhiên là phải có sự ưu tiên xây dựng các tiền đề, cơ sở hạ tầng nào đó.
Chúng ta không thể nôn nóng, cũng như không thể ngồi chờ cho đủ điều kiện được. Như
phần đầu bài viết đã đề cập, thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán có mối liên hệ
mật thiết với nhau. Khi lãi suất trên thị trường tiền tệ tăng lên, khi thị trường tiền tệ nóng
lên, thì thị trường chứng khoán cũng sôi động. Phát triển thị trường tiền tệ, làm tăng tốc
độ chu chuyển vốn ngắn hạn trong nền kinh tế, nâng cao khả năng kinh doanh trên thị
trường tiền tệ của các tổ chức trung gian tài chính, tạo điều kiện cho các tổ chức này sẵn
sàng tham gia có hiệu quả trên thị trường chứng khoán.
Tăng cường các biện pháp mạnh về quản lý nhà nước để chống đô la hóa bằng luật
và hệ thống hành chính một cách cương quyết sao cho trên đất Việt Nam nhất thiết chỉ
tiêu tiền Việt Nam đối với mọi thành phần, mọi khu vực kinh tế. Xác định lộ trình để
không còn tín dụng ngoại tệ và tín dụng vàng trong thị trường vốn. Quản lý chặt việc
cung ứng tín dụng và sử dụng phương tiện thanh toán của tất cả các nhóm ngân hàng, kể
cả các ngân hàng có nhân tố nước ngoài. Tiến tới khuyến khích các dòng ngoại tệ chảy
vào Việt Nam chỉ được đi qua thị trường ngoại hối và thị trường trái phiếu chính phủ, mà
không cho phép đi qua thị trường tín dụng. Tăng cường mở chi nhánh và/hoặc mở ngân
hàng 100% vốn Việt Nam tại nước ngoài để vừa phát triển thị trường dịch vụ ngân hàng
ra nước ngoài, vừa đáp ứng nhanh nhất các nhu cầu tiền đồng ngay từ ngoài biên giới
lãnh thổ cho khách vào đầu tư hay du lịch tại Việt Nam. Phát triển mạnh hệ thống các
doanh nghiệp phụ trợ để cải thiện rõ rệt cơ cấu chi phí trong giá thành sản phẩm hàng hóa
xuất khẩu theo hướng chi phí mua nguyên, nhiên liệu, sức lao động cũng như thiết bị máy
móc do Việt Nam sản xuất sẽ chiếm tỷ trọng lớn, tăng mạnh hàm lượng nội địa hóa giá trị
hàng xuất khẩu của Việt Nam. Có lộ trình chuyển dứt khoát mô hình Ngân hàng Nhà
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 68/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
nước hiện nay sang mô hình Ngân hàng Trung ương độc lập với Chính phủ, hình ảnh
đồng tiền Việt Nam phải ngày càng được cải thiện không chỉ về niềm tin vào sức mua ổn
định, mà tiến tới cả về mệnh giá và tính độc lập được bảo vệ, được tin tưởng trong mọi
tầng lớp công chúng.
Tóm lại: Khu vực dịch vụ tài chính trên thế giới đã thể hiện rõ xu hướng toàn cầu
hoá trong vòng hai thập kỷ gần đây. Tự do hoá tài chính toàn cầu đã mang lại những lợi
ích to lớn xét trên cả khía cạnh hiệu quả và chất lượng dịch vụ. Thật không may, trong
thời gian trước đây, một số nền kinh tế chuyển đổi theo đuổi chính sách tự do hoá tài
chính đã lâm vào những cuộc khủng hoảng tài chính trầm trọng. Nỗi ám ảnh về khả năng
xảy ra khủng hoảng đã trở thành một trong những nguyên nhân chính khiến các nước
thành viên WTO tỏ ra do dự trong việc cam kết mở cửa thị trường dịch vụ tài chính. Tuy
nhiên, nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng trong đa số các trường hợp, lợi ích của tự do
hoá tài chính, hoàn toàn có thể vượt trội những chi phí rủi ro có thể xảy ra trong quá trình
cải cách. Khủng hoảng tài chính diễn ra ở một số nước trên thế giới không có nguyên
nhân sâu xa bắt nguồn từ việc tự do hoá tài chính mà bắt nguồn từ chính những yếu kém
tiềm ẩn trong hệ thống ngân hàng, sự thiếu vắng của một chế độ giám sát có hiệu quả
cũng như những sai lầm trong chính sách quản lý tiền tệ và chính sách tỷ giá hối đoái.
Ngay từ năm 1973, khi viết cuốn “Tiền và Vốn trong phát triển kinh tế” Mckinnon đã nêu
ra tầm quan trọng của việc tự do hóa tài chính đối với phát triển kinh tế. Trong nhiều
nghiên cứu sau đó của ông và nhiều học giả nổi tiếng khác như Shaw, Stiglitz… đã đề
xuất một tiến trình tự do hóa tài chính với các bước đi hết sức rõ ràng và chặt chẽ. Và để
có thể tự do tài khoản vốn, bước cuối cùng trong tiến trình tự do hóa tài chính, cần phải
đảm bảo thâm hụt ngân sách ở mức vừa phải, giảm thiểu các áp chế tài chính về dự trữ
bắt buộc, trần lãi suất, sở hữu và can thiệp của nhà nước trong các ngân hàng thương mại,
tăng cường tạo sân chơi bình đẳng và giảm dần tín dụng chỉ định. Song song với các cải
cách này, cần có những bước đi cải cách thương mại và quản lý theo hướng nới lỏng tỷ
giá hối đoái phù hợp.
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 69/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
CHƯƠNG 5
THỰC TIỄN TÍNH CHUYỂN ĐỔI CỦA ĐỒNG TIỀN VIỆT NAM
2.4. Đồng tiền tự do chuyển đổi
2.4.1. Khái niệm về tiền tệ:
a) Sự hình thành và phát triển của tiền tệ
Ngày nay, với sự phát triển của khoa học, công nghệ, việc trao đổi, mua bán hàng
hóa, dịch vụ hết sức nhanh chóng và an toàn. Không chỉ dừng lại ở phạm vi lãnh thổ, việc
thanh toán cho các giao dịch từ quốc gia này sang quốc gia khác cũng hết sức đơn giản,
không còn giới hạn về không gian, thời gian.
Để có được sự tiến bộ như ngày nay, văn minh loài người đã trải qua hàng triệu
năm tiến hóa, từ thời săn bắt, hái lượm mang tính cá thể, tự phát trong thời kỳ đồ đá, xã
hội loài người từng bước nâng lên hướng tới quan hệ cộng đồng, từ đó phát sinh nhu cầu
trao đổi, thông thương hàng hóa với nhau. Từ phương tiện trao đổi sơ khai như đá, vỏ sò,
da thú, lông thú, vật nuôi, …đến sự hình thành phương tiện trao đổi bằng các kim loại
quý như sắt, bạc, vàng với mục đích thuận tiện, dễ dàng cho người có nhu cầu bán hàng
hóa họ có cho người cần mua với quy ước là vật ngang giá chung.
Cho tới ngày nay, sự hình thành các loại tiền giấy, séc phục vụ trong trao đổi, mua
bán hàng hóa, dịch vụ đã giúp loài người giải quyết được bài toán khan hiếm các nguồn
kim loại quý tạo ra phương tiện thanh toán như trước đây.
Tuy nhiên, với sự phát triển không ngừng của xã hội và nhu cầu vô tận của loài
người, một lần nữa, nhu cầu tìm kiếm một loại tiền tệ mới vừa có thể đảm bảo việc thanh
toán ổn định vừa đảm bảo việc tích trữ lại đặt ra một thách thức mới cho xã hội ngày nay.
b) Khái niệm
Theo C.Mác: “tiền tệ là một thứ hàng hóa đặc biệt, được tách ra khỏi thế giới hàng
hóa, dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của tất cả các loại hàng hóa khác. Nó trực tiếp
thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng
hóa”.
Theo các nhà kinh tế hiện đại: Tiền được định nghĩa là bất cứ cái gì được chấp
nhận chung trong việc thanh toán để nhận hàng hóa, dịch vụ hoặc trong việc trả nợ.
2.4.2. Chức năng của tiền tệ
Với đôi nét về sự hình thành và phát triển của tiền tệ từ xưa đến nay, trên cơ bản,
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 70/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
tiển tệ có thể được chia thành các chức năng sau: chức năng thước đo giá trị, chức năng
trao đổi, chức năng phương tiện thanh toán, chức năng lưu trữ và chức năng tiền tệ thế
giới.
a) Chức n ă ng th ư ớc đ o giá trị
Với ý nghĩa này, tiền được xem là chuẩn mực chung để đo lường, biểu hiện giá trị
của tất cả hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế.
Việc dùng tiền làm phương tiện đo lường giúp giảm chi phí thời gian giao dịch
trong nền kinh tế, đặc biệt là những nước có nền kinh tế quy mô lớn, phức tạp.
C. Mác cho rằng, tiền tệ để thực hiện chức năng thước đo giá trị phải là tiền thực,
là tiền có đủ giá trị nội tại.
b) Chức n ă ng ph ươ ng tiện trao đ ổi
Khi tiền tệ xuất hiện, hình thái trao đổi trực tiếp bằng hiện vật (Hàng – Hàng) dần
dần nhường chỗ cho hình thái trao đổi trực tiếp thông qua trung gian của tiền tệ. Hình
thái trao đổi này trở thành phương tiện và động lực thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng
nhanh chóng, sản xuất kinh doanh trở nên dễ dàng, thuận lợi hơn. Có thể xem tiền tệ là
chất xúc tác giúp cho sự lưu thông hàng hóa trôi chảy hơn.
Như vậy, tiền tệ thực hiện chức năng phương tiện trao đổi khi tiền tệ là môi giới,
trung gian cho quá trình trao đổi hàng hóa.
Để thực hiện tốt chức năng này, tiền tệ của một quốc gia phải có sức mua ổn định,
số lượng tiền tệ phải đủ đáp ứng cho nhu cầu trao đổi trong mọi hoạt động kinh tế.
c) Chức n ă ng ph ươ ng tiện thanh toán
Ngoài chức năng thước đo giá trị và phương tiện trao đổi, trong xã hội còn phát
sinh những nhu cầu khác, như vay mượn, nộp thuế, nộp địa tô,….trong trường hợp này,
tiền tệ trở thành phương tiện thanh toán
Lúc này, tiền tệ không còn là khâu trung gian, môi giới trong trao đổi hàng hóa mà
còn là khâu bổ sung cho quá trình trao đổi, tức là tiền tệ vận động tách rời sự vận động
của hàng hóa.
Qua đó tiền tệ lúc này phải đáp ứng yêu cầu sức mua ổn định, bền vững theo thời
gian, từ đó tạo nên niềm tin, sự tín nhiệm vào tiền tệ.
d) Chức n ă ng l ư u trữ
Khi tiền tệ chưa xuất hiện, nhu cầu tích trữ tài sản của con người bằng các hiện vật
đòi hỏi không gian tích trữ rộng lớn, tuy nhiên những loại tài sản này thường không đảm
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 71/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
bảo được an toàn, khó bảo quản hoặc hư hỏng, mất mác.
Lúc này, tiền tệ lại có thêm chức năng tích lũy tài sản, khắc phục được những trở
ngại của những hình thái trước đây. Tuy nhiên, hình thái này có nhược điểm là dễ mất giá
khi nền kinh tế xuất hiện lạm phát. Do đó, chức năng tiền tệ lúc này đòi hỏi hệ thống tiền
tệ quốc gia phải đảm bảo được sức mua.
e) Chức n ă ng tiền tệ thế giới
Đảm bảo được tất cả chức năng trên, lúc này tiền tệ của một nước sẽ được xem là
“mạnh” và được các nước trên thế giới tin dùng và sử dụng như chính đồng tiền của nước
mình trong trao đổi, thông thương hàng hóa.
Tóm lại, điều kiện quan trọng nhất của một vật được sử dụng làm tiền tệ là chúng
phải có sức mua ổn định, bền vững, tạo được niềm tin và tín nhiệm trong dân chúng.
2.4.3. Vai trò của tiền tệ
Với những chức năng cơ bản trên, tiền tệ trong nền kinh tế được biểu hiện ở 3 mặt:
Thứ nhất, tiền tệ là phương tiện không thể thiếu để mở rộng và phát triển nền kinh
tế hàng hóa, nó giúp cho sự vận động của hàng hóa diễn ra một cách trôi chảy.
Thứ hai, tiền tệ là phương tiện để thực hiện và mở rộng quan hệ quốc tế. cùng với
ngoại thương, các quan hệ thanh toán và tín dụng quốc tế, tiền tệ phát huy vai trò của
mình để trở thành phương tiện mở rộng quan hệ quốc tế, nhất là các ói quan hệ song
phương, đa phương giữa các quốc gia, giúp cho sự hình thành và hội nhập quốc tế trong
mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, tài chính, ngân hàng, hợp tác khoa học kỹ thuật
giữa các nước.
Thứ ba, tiền tệ là công cụ phục vụ cho mục đích của người sử dụng chúng. Trong
điều kiện nền kinh tế hàng hóa phát triển cao như hiện nay thì hầu hết các mối quan hệ
đều được “tiền tệ hóa”. Tiền tệ trở thành công cụ có sức mạnh, quyền lực vạn năng trong
xử lý, giải tỏa các mối ràng buộc về kinh tế phát sinh không những trong phạm vi quốc
gia mà vươn ra toàn thế giới.
2.4.4. Đồng tiền tự do chuyển đổi
a) Khái niệm
Tiền tệ tự do chuyển đổi là những tiền tệ mà luật tiền tệ của nước hoặc khối kinh
tế có tiền tệ đó cho phép bất cứ ai có thu nhập tiền tệ này đều có quyền yêu cầu Ngân
hàng nước đó chuyển đổi tự do tiền tệ này ra các tiền tệ nước khác mà không cần phải có
giấy phép.
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 72/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), đồng tiền tự do chuyển đổi là đồng tiền của một
nước hội viên mà IMF nhận thấy đồng tiền đó được sử dụng rộng rãi để thanh toán các
giao dịch quốc tế và được mua bán rộng rãi trên thị trường ngoại hối chủ chốt.
Hiểu một cách đơn giản hơn thì những đồng tiền mạnh như USD, Yên Nhật,
EURO,…như hiện nay là những đồng tiền có thể sử dụng tại nhiều nước trên thế giới.
Theo đó, đồng tiền tự do chuyển đổi gắn chặt với sức mạnh của nền kinh tế, đó phải là
nền kinh tế có sức cạnh tranh cao và tính ổn định kinh tế vĩ mô bền vững.
Hay nói cách khác, đồng tiền đó phải mang tính chuyển đổi, có nghĩa là đồng tiền
đó có thể được chuyển đổi sang ngoại tệ mà không có bất kỳ hạn chế nào.
Có hai loại tiền tệ tự do chuyển đổi:
Tự do chuyển đổi toàn bộ:
Tiền tệ tự do chuyển đổi toàn bộ có thể chuyển đổi ra bất cứ loại tiền quốc gia nào
mà không cần phải thỏa mãn một điều kiện nào, chẳng hạn như USD của Mỹ, EURO của
châu Âu, GBP của Anh, JPY của Nhật Bản, AUD của Australia, CHF của Thụy Sĩ, CAD
của Canada,…đây là những đồng tiền mạnh của các nền kinh tế phát triển và ổn định
Trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, thường quy định đồng tiền thanh toán
là tiền tự do chuyển đổi để tránh rủi ro đồng tiền xuống giá và linh hoạt đổi ra bất cứ tiền
nước nào nếu người xuất khẩu muốn
Tự do chuyển đổi một phần
Với tiền tệ tự do chuyển đổi một phần, việc chuyển đổi của nó phụ thuộc vào một
trong 3 yếu tố sau:
Chủ thể chuyển đổi: Theo luật quản lý ngoại hối của các quốc gia, chủ thể chuyển
đổi bao gồm người cư trú và người phi cư trú. Trong đó, người cư trú muốn chuyển đổi
tiền tệ đang nắm giữ phải được cấp giấy phép chuyển đổi; còn người phi cư trú được
quyền chuyển đổi tự do.
Mức độ chuyển đổi (hạng mức chuyển đổi): Đây là hạng mức chuyển đổi do luật
định, muốn chuyển đổi ngoại tệ phải có giấy phép chuyển đổi, dưới hạn mức luật định thì
có thể chuyển đổi tự do.
Nguồn thu nhập tiền tệ: Tính chuyển đổi của tiền tệ còn phụ thuộc vào nguồn thu
nhập bằng tiền của người phi cư trú có được từ hoạt động sản xuất kinh doanh, thương
mại, dịch vụ, đầu tư nước ngoài,…tại nước có tiền tệ đó sẽ được chuyển đổi tự do; còn
các nguồn thu nhập khác từ hoạt động phi thương mại, phi đầu tư muốn chuyển đổi ngoại
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 73/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
tệ thì phải có giấy phép.
b) Các yếu tố đ ể đ ồng tiền đư ợc xem là tự do chuyển đ ổi:
Tự do hóa các giao dịch vãng lai
Tài khoản vãng lai (hay còn gọi là cán cân vãng lai) trong cán cân thanh toán của
một quốc gia là tài khoản ghi chép những giao dịch về hàng hóa và dịch vụ giữa người cư
trú trong nước với người cư trú ngoài nước. Những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của
người cư trú trong nước cho người cư trú ngoài nước được ghi vào bên "nợ" (theo truyền
thống kế toán sẽ được ghi bằng mực đỏ). Còn những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của
người cư trú ngoài nước cho người cư trú trong nước được ghi vào bên "có" (ghi bằng
mực đen). Thặng dư tài khoản vãng lai xảy ra khi bên có lớn hơn bên nợ.
Theo đó, các hoạt động của tài khoản vãng lai bao gồm:
Cán cân thương mại hàng hóa
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Cán cân thương mại phi hàng hóa
Cán cân dịch vụ
Vận tải
Du lịch
Các dịch vụ khác
Cán cân thu nhập
Kiều hối
Thu nhập từ đầu tư
Các chuyển khoản
Tất cả các khoản thanh toán của các bộ phận nhà nước hay tư nhân đều được gộp
chung vào trong tính toán này
Trên cơ sở đó, tự do hóa giao dịch vãng lai là những giao dịch dẫn tới sự thanh
toán giữa người cư trú và người phi cư trú bằng đồng ngoại tệ phải được dễ dàng, thông
suốt, không có bất cứ cản trở nào.
Nới lỏng các giao dịch tài khoản vốn
Tài khoản vốn (còn gọi là cán cân vốn) là một bộ phận của cán cân thanh toán của
một quốc gia. Nó ghi lại tất cả những giao dịch về tài sản (gồm tài sản thực như bất động
sản hay tài sản tài chính như cổ phiếu, trái phiếu, tiền tệ) giữa người cư trú trong nước
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 74/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
với người cư trú ở quốc gia khác. Khi những tuyên bố về tài sản nước ngoài của người
sống trong nước lớn hơn tuyên bố về tài sản trong nước của người sống ở nước ngoài, thì
quốc gia có thặng dư tài khoản vốn (hay dòng vốn vào ròng). Theo quy ước, dòng vốn
vào ròng phải bằng thâm hụt tài khoản vãng lai.
Tự do hóa giao dịch tài khoản vốn là quá trình dỡ bỏ dần những hạn chế áp dụng
đối với những giao dịch này. Đối với người dân, tự do hóa giao dịch vốn cho phép họ thực
hiện các hoạt động ở nước ngoài như mở tài khoản ngân hàng, tham gia hoạt động đầu tư
nhằm đạt lợi nhuận cao. Các doanh nghiệp được phép đầu tư và sở hữu những công ty
khác, các dòng vốn được tự do lưu chuyển từ nơi có tỷ suất sinh lợi thấp sang nơi có tỷ
suất sinh lợi cao.
Thả nổi tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái (thường được gọi tắt là tỷ giá) là sự so sánh về mặt giá cả giữa hai
đồng tiền của hai nước khác nhau. Cũng có thể gọi tỷ giá hối đoái là giá của một đồng
tiền này tính bằng giá của một đồng tiền khác
Tỷ giá thả nổi là tỷ giá biến động theo cung cầu ngoại tệ, ngân hàng trung ương
không can thiệp vào thị trường ngoại hối. Ưu điểm của chế độ tỷ giá thả nổi là cán cân
thanh toán tổng thể có xu hướng cân bằng. Tuy nhiên, khá khó khăn trong việc kiểm soát,
điều chỉnh vì tỷ giá có thể biến động rất mạnh
Có thị trường tài chính, đặc biệt thị trường hối đoái mở
Thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán quyền sử dụng
các nguồn tài chính thông qua những phương thức giao dịch và công cụ tài chính nhất
định. Thị trường tài chính là tổng hòa các quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế.
Hay nói cách khác, thị trường tài chính là kênh dẫn vốn từ người có vốn đến người
cần vốn. Giúp cho việc chuyển vốn từ người không có cơ hội đầu tư sinh lợi đến những
người có cơ hội đầu tư sinh lợi thông qua hình thức mua bán bên ngoài là các loại giấy tờ
có giá trị, gọi chung là chứng khóan.
Một thị trường tài chính lành mạnh không những giúp cho sự ổn định kinh tế vĩ
mô, thu hút đầu tư nước ngoài mà còn là một trong những tiền đề mở rộng thông thương
với các quốc gia trên thế giới bằng việc từng bước nâng cao vị thế cạnh tranh từ đồng nội
tệ của quốc gia.
Bên cạnh đó, một thị trường tài chính lành mạnh cần có sự ổn định của thị trường
hối đoái, là một thị trường phi tập trung, là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch, mua bán
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 75/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
ngoại tệ và các phương tiện thanh toán có giá trị ngoại tệ khác. Đây cũng là nơi hình
thành tỷ giá hối đoái theo quan hệ cung cầu, là một bộ phận của thị trường tài chính có
trình độ phát triển cao.
Tuy nhiên, do tính chất biến động cao của các đồng ngoại tệ, việc đầu cơ trên thị
trường hối đoái sẽ rất dễ dẫn đến khủng hoảng thị trường tài chính nếu như không có các
công cụ dự đoán mạnh mẽ ở tầm vĩ mô.
Một ví dụ là hiện nay các đồng tiền mạnh, có tính chuyển đổi cao được giao dịch
nhiều nhất là Đôla Mỹ, Yên Nhật, Mác Đức,... Ba thị trường hối đoái lớn nhất thế giới là
London, Tokyo, New York.Thị trường hối đoái có quy mô giao dịch trong một ngày trên
một nghìn tỷ đôla, ví dụ năm 1998 doanh số trung bình hàng ngày của thị trường ngoại
hối là 1600 tỷ USD. Vì vậy, thị trường này tác động rất lớn đến tình hình kinh tế của các
nước đang phát triển. Việc đầu cơ trên thị trường hối đoái, ví dụ đầu cơ đồng Baht đã dẫn
đến cuộc khủng hoảng thị trường tài chính Thái Lan.
c) Tác hại của đ ồng nội tệ mất uy tín:
Khi đồng nội tệ không được tín nhiệm, nó sẽ không đáp ứng được đồng thời cả ba
chức năng: phương tiện thanh toán, dự trữ giá trị và đơn vị tính toán. Vì vậy, nếu không
được “ưa chuộng”, đồng nội tệ có thể gây ra ba tác hại kinh tế cơ bản.
Thứ nhất, theo quy định của pháp luật, mọi người buộc phải sử dụng đồng nội tệ
làm phương tiện thanh toán; nhưng xuất phát từ lợi ích kinh tế, người dân sẽ có xu hướng
sử dụng các đồng tiền khác làm phương tiện dự trữ giá trị và đơn vị tính toán cho một
phần tài sản hoặc một số các dự án kinh tế của mình. Khi người dân sử dụng những đồng
tiền khác thay vì đồng bản tệ để tiết kiệm, lãi suất huy động đồng bản tệ của các ngân
hàng thương mại buộc phải duy trì ở mức cao, dẫn đến lãi suất huy động vốn của các
doanh nghiệp cũng phải cao tương ứng. Với mức lãi suất này, các doanh nghiệp trong
nước sẽ khó có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp của những quốc gia mà lãi suất huy
động thấp.
Thiệt hại cũng đến với cả người dân khi phải sử dụng phương tiện khác như ngoại
tệ mạnh hoặc vàng để tiết kiệm. Lãi suất của những phương tiện này đều thấp. Hơn nữa,
người dân lại còn phải trả các chi phí chuyển đổi khi phải chuyển qua lại giữa đồng nội tệ
với các phương tiện dự trữ giá trị đó.
Thứ hai, việc đồng nội tệ không được tín nhiệm còn khiến các đơn vị kinh doanh
dễ gặp phải sai lầm khi tính toán và xây dựng các kế hoạch kinh doanh. Khi đồng nội tệ
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 76/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
không được sử dụng làm đơn vị tính toán, trong khi vẫn phải dùng làm phương tiện thanh
toán, các chủ thể kinh tế sẽ liên tục phải điều chỉnh giá cả đầu vào và đầu ra mỗi khi tỷ
giá biến động để đảm bảo mức lợi nhuận kỳ vọng theo kế hoạch của mình. Vì vậy, rất
khó có thể tránh được sai lầm khi phải làm công việc này liên tục.
Thứ ba, đồng nội tệ không được tín nhiệm còn dẫn đến bất bình đẳng kinh tế. Khi
đồng nội tệ luôn trong tình trạng mất giá, một bộ phận nhỏ dân chúng có khả năng tiếp
cận nhanh chóng với các cơ hội đầu tư cũng như phương tiện dự trữ giá trị khác sẽ không
những tránh được các tổn thất mà còn thu được lợi nhuận cao. Trong khi đó, bộ phận dân
chúng lớn hơn, như những người làm công ăn lương, công nhân và nông dân, sẽ có ít cơ
hội hoặc luôn chậm chân hơn so với các bộ phận dân chúng kia trong việc chuyển đổi tài
sản tích lũy của mình. Kết quả là nhóm người này sẽ ngày càng trở nên nghèo đi do tài
sản của họ bị mất giá nhiều hơn so với tài sản của nhóm người kia.
2.5. Thực tiễn tính chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
Với những khái niệm cơ bản trên, ta có thể thấy mục tiêu tăng trường kinh tế luôn
là mục tiêu chiến lược, hàng đầu của mọi quốc gia trong mục tiêu phát triển đất nước lớn
mạnh. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này, cần có sự chuẩn bị chu đáo các giai đoạn
thực hiện và mang tính lâu dài, không thể nóng vội mà sẽ có tác dụng trái ngược.
Không nàm ngoài mục tiêu đó, Việt Nam là một quốc gia có tiềm năng lớn về mọi
mặt, có tình hình chính trị ổn định, thu hút được nhiều đầu tư nước ngoài, tuy nhiên về
mặt phát triển kinh tế vĩ mô còn những hạn chế nhất định, cần có chiến lược đúng đắn,
từng bước và lâu dài. Trong đó, đã và đang từng bước tái lập cơ cấu quản lý, chính sách
thu hút đầu tư nước ngoài và dần tiến tới mục tiêu nâng cao vị thế đồng nội tệ (VND),
từng bước hướng tới giao thương quốc tế.
Do đó, một trong những mục tiêu phát triển kinh tế vĩ mô từ năm 2011 là mục tiêu
nâng cao vị thế đồng nội tệ, từng bước tiến tới một đồng tiền tự do chuyển đổi theo chuẩn
quy ước quốc tế.
Chúng ta cùng tìm hiểu vấn đề này thông qua những chính sách cải cách về mặt
kính tế của Việt Nam những năm gần đây.
2.5.1. Nguyên nhân tình trạng mất giá đồng tiền hiện nay
Một số lý do dẫn đến tình trạng mất giá VND như hiện nay có thể kể đến:
VND được/bị chủ trương làm yếu để hổ trợ xuất khẩu, hạn chế nhập siêu.
VND được/bị phát hành thêm nhiều hơn hệ thống bản vị vàng hay USD bản vị và
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 77/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
hàng hóa trên thị trường gây nên lạm phát cao trong nước.
VND chưa được giao dịch quốc tế rộng rãi tạo điều kiện cho USD và Vàng là sự
lựa chọn tất yếu trong giao dịch trong và ngoài nước
Các chính sách pháp luật chưa thực sự nâng đỡ và bảo vệ giá trị VND khiến uy tín
VND mất dần vai trò trong các giao dịch thương mại.
Các yếu tố đầu cơ tiền tệ trong và ngoài nước cũng như mất cân đối tiền - hàng do
cung - cầu trong và giữa các nền kinh tế.
Tâm lý và niềm tin của người dân vào đồng VND phụ thuộc vào chính sách điều
hành kinh tế vĩ mô của nhà nước và các thành quả điều hành trong quá khứ.
VND bị suy yếu sẽ làm giảm giá trị tài sản của người dân, những ai lựa chọn VND
làm hệ quy chiếu để cất giữ tài sản, những ai mua bán, thanh toán giao dịch hàng hóa sử
dụng tiền VND, gửi tiết kiệm bằng VND, cất giữ tiền VND ..v.v.. đều gặp rủi ro khi
VND mất giá so với USD và vàng và lạm phát cao. Tình trạng này như hiện nay đã dần
đến hiện tượng “Đô la hóa” hoặc đầu cơ Vàng đang là nỗi bức xúc của người dân và
Chính phủ hiện nay.
Thông tin về chính sách tiền tệ không minh bạch, rõ ràng ra công chúng.
2.5.2. Mục tiêu:
Trước hết, chúng ta có thể khẳng định rằng, đồng bản tệ của quốc gia nào trở
thành đồng tiền chuyển đổi, thì nó sẽ có vai trò tích cực đối với việc phát triển nền kinh tế
quốc dân của quốc gia đó. Chuyển đổi tiền tệ chỉ tồn tại trong một nền kinh tế phát triển
bền vững, tự do cạnh tranh và không bị ràng buộc bởi bất cứ một hạn chế nào về quan hệ
thương mại và thanh toán. Tính chuyển đổi của đồng tiền có vai trò định hướng cho các
nhà sản xuất cũng như tiêu thụ hàng hoá. Trong điều kiện hội nhập, thì thị trường nội địa
là một phần của thị trường thế giới, và ngược lại, thị trường thế giới sẽ là cầu nối cho sự
phát triển của thị trường nội địa. Khi đồng bản tệ của một quốc gia có cơ chế tự do
chuyển đổi thì các nhà sản xuất và tiêu thụ hàng hoá của quốc gia đó, khi có kế hoạch
định hướng thị trường, sẽ có phương án lựa chọn thị trường tối ưu hơn so với điều kiện
đồng bản tệ không tự do chuyển đổi. Vì vậy, có thể nói rằng tính chuyển đổi của tiền tệ
làm cho thị trường nội địa và thế giới liên kết lẫn nhau chặt chẽ hơn, tạo khả năng cho thị
trường nội địa phản ứng một cách linh hoạt đối với biến đổi trên thị trường thế giới và
như vậy, nó có thể tác động tích cực đến việc phát triển nền kinh tế quốc gia có đồng bản
tệ chuyển đổi.
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 78/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
Với những ưu việt trên, cần có những động thái tức thời, tích cực để khôi phục vị
thế đồng nội địa trong dân chúng, do đó, mục tiêu trước mắt và lâu dài của Chính phủ
trong việc nâng cao VND hiện tại là:
Để trở thành một đồng tiền mạnh như các đồng Đô la Mỹ, Bảng Anh, Euro, Yên
Nhật,…như hiện nay, các quốc gia này đã trải qua một giai đoạn biến chuyển lâu dài và
sóng gió.
Trong lịch sử nước Việt Nam, Nhà nước chúng ta cũng đã không ngừng thay đổi,
nâng cao vị thế của đồng Việt Nam trên thương trường quốc tế. Tuy nhiên, với hạn chế
về mặt quản lý, tầm nhìn vĩ mô, chiến lược khiến đồng tiền của chúng ta vẫn chưa có
những khởi sắc rõ rệt.
Qua đánh giá của các chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước, tính chuyển đổi
đồng tiền của Việt Nam (VND) của chúng ta hiện nay vẫn được xem là khá thấp, còn
nhiều hạn chế để có thể trở thành một đồng tiền tự do chuyển đổi trong một thời gian khá
dài.
Do đó, mục tiêu ngắn hạn trước mắt của Chính phủ và Nhà nước ta là từng bước
nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền, phù hợp với mức độ tăng trưởng của Việt Nam
về nhiều mặt. Cụ thể vào ngày 04/07/2007, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định
98/2007/QĐ-TTg về việc phê duyệt “Đề án nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền Việt
Nam, khắc phục tình trạng đô la hóa” trong nền kinh tế, bước đầu xây dựng cơ chế để
VND tham gia thanh toán xuất nhập khẩu, tham gia quan hệ vay, trả nợ nước ngoài và
đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Đây là những mục tiêu không phải vừa được đề ra mà là mong muốn từ rất lâu của
Nhà nước ta cũng như của nhân dân Việt Nam. Qua đó, đã từng bước có được những kết
quả khả quan, tạo tiền đề cho việc đạt mục tiêu này.
2.5.3. Một số kết quả đạt được
Như đã đề cập, một đồng tiển để có thể chuyển đổi hoàn toàn phụ thuộc vào 4 yếu
tố:
Tự do hóa giao dịch vãng lai
Nới lỏng giao dịch tài khoản vốn
Tỷ giá thả nổi
Có thị trường tài chính, đặc biệt thị trường ngoại hối ổn định
Qua đó, theo nhìn nhận của các chuyên gia kinh tế, đặc biệt là các tổ chức tài
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 79/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
chính Thế giới, nước chúng ta đã có những kết quả khả quan sau:
Điều kiện 1: Tự do hóa giao dịch vãng lai
Bản thông cáo báo chí được phát đi từ trụ sở Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) tại Mỹ
ngày 5.1.2006 vừa qua, đã chính thức công nhận Việt Nam đã hoàn toàn chấp nhận các
quy định tại điểm 2, 3 và 4 tại điều VIII của điều lệ IMF.
Nội dung của điều này là các nước thành viên của IMF cam kết không áp dụng
những hạn chế trong thanh toán và chuyển tiền đối với những giao dịch quốc tế vãng lai
và không tiến hành hoặc không cho phép bất kỳ tổ chức tài chính nào áp dụng bất kỳ hình
thức phân biệt đối xử về tiền tệ hoặc chế độ đa đồng tiền, trừ phi được IMF chấp thuận.
Bằng việc chấp thuận các nghĩa vụ này, Việt Nam gửi tín hiệu đến cộng đồng
quốc tế là Việt Nam sẽ theo đuổi những chính sách kinh tế mà không cần thiết phải áp
dụng những hạn chế về thanh toán hoặc chuyển tiền đối với các giao dịch quốc tế vãng
lai, và sẽ góp phần làm cho hệ thống thanh toán đa phương hoàn toàn không có bất kỳ
hạn chế nào.
Theo Ngân hàng Nhà nước, đối với các giao dịch vãng lai, trước đó, về cơ bản
Việt Nam đã tự do hóa việc chuyển đổi ngoại tệ và thanh toán đối với hầu hết các giao
dịch loại này, nhưng các quy định về hồ sơ, chứng từ trên thực tế còn rườm rà, khó triển
khai, chưa đáp ứng yêu cầu đơn giản hóa. Các giao dịch hiện đại áp dụng gần đây như
thanh toán điện tử, thanh toán thẻ thậm chí chưa có quy định, hướng dẫn cụ thể nên gây
ra khó khăn cho doanh nghiệp và các ngân hàng thương mại.
Việc chấp nhận tuân thủ Điều khoản VIII Điều lệ quỹ về tự do hóa các giao dịch
vãng lai là điều kiện quan trọng để Việt Nam từng bước thực hiện mục tiêu chuyển đổi
đồng tiền của mình.
Điều kiện 2: Nới lỏng giao dịch tài khoản vốn
Theo Pháp lệnh Ngoại hối được ban hành ngày 13/12/2005 và Nghị định
160/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006, các giao dịch vốn từng bước đã được tự do hóa. Cụ
thể:
Với vay vốn nước ngoài, chỉ các khoản vay trung, dài hạn của tổ chức mới phải
đăng ký tại NHNN và mở rộng vay vốn nước ngoài đối với cá nhân là người cư trú.
NHNN quản lý thông qua tổng hạn mức vay vốn nước ngoài của các tổ chức kinh tế và
cá nhân và hoạt động đăng ký khoản vay nước ngoài tại NHNN.
Với hoạt động cho vay ra nước ngoài, Pháp lệnh cho phép người cư trú là Tổ chức
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 80/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
kinh tế thực hiện khi được phép của Thủ tướng Chính phủ; Tổ chức kinh tế thực hiện
theo quy định của NHNN, các khoản cho vay của Chính phủ hay các tổ chức được Nhà
nước, Chính phủ uỷ quyền thực hiện theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Với đầu tư gián tiếp, cho phép nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào thị trường chứng
khóan theo một tỷ lệ nhất định và được nới lỏng theo thời gian. NHNN chỉ giám sát
thông qua tài khoản vốn đầu tư gián tiếp bằng đồng Việt Nam.
Với đầu tư trực tiếp, các hạn chế về việc chuyển đổi ngoại tệ đã được xoá bỏ,
NHNN chỉ giám sát thông qua tài khoản vốn đầu tư trực tiếp bằng ngoại tệ trong đó quy
định các nội dung thu, chi của tài khoản này.
Với hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, người cư trú được phép sử dụng
ngoại tệ sẵn có của mình hay đi mua hoặc đi vay để đầu tư sau khi được phép của cơ
quan có thẩm quyền về việc đầu tư ra nước ngoài.
Do các giao dịch vốn đã tương đối được tự do hóa nên NHTW cần phải mua ngoại
tệ cho dự trữ ngoại hối khi các luồng vốn đổ vào Việt Nam để duy trì sức cạnh tranh của
hàng xuất khẩu và phải bán ra khi đến hạn trả nợ hay có hiện tượng đảo chiều của các
luồng vốn ngắn hạn của các nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khóan
Điều kiện 3: Tỷ giá thả nổi
Tiếp đến, vào ngày 11/02/2011, Chính phủ đã công bố chính thức Nghị quyết số
02/NQ-CP (09/01/2011) về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế
hoạch phát triển kinh tế – xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2011. Trong đó, nổi
bật là nội dung điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối linh hoạt, phù hợp với diễn biến
thị trường, đảm bảo tính thanh khoản của ngoại tệ, bình ổn tỷ giá, đáp ứng yêu cầu ổn
định, phát triển sản xuất kinh doanh và tăng dự trữ ngoại hối.
Nghị quyết này đã có tác dụng tức thời và không gây sốc do đã có chuẩn bị trước,
cụ thể: với giá USD trong giao dịch liên ngân hàng đã tăng 1.700 đồng, từ mức 18.932
VND lên mức 20.693 VND/USD - tức tăng hơn 9,3 % so với mức tăng 2,1% trong đợt
điều chỉ tỷ giá ngày 18/8/2010, và tăng 3,36% ngày 11/2/2010. Như vậy, trong vòng
đúng 1 năm qua, NHNN đã chính thức 3 lần điều chỉnh tỷ giá giao dịch bình quân liên
ngân hàng với mức tăng tổng cộng 14,46%, tức xấp xỉ mức lạm phát tháng 2/2011 so với
tháng 2/2010
Tổng cục Thống kê cho biết, CPI tháng 1/2011 của cả nước đã tăng tới 1,74% so với
tháng 12/2010 và tăng 12,17% so với cùng kỳ năm 2010
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 81/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
Biểu đồ 5: Tỷ giá USD/VND các tháng năm 2010
18,200
18,400
18,600
18,800
19,000
T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12
2010
USD/VND QUA CÁC THÁNG NĂM 2010
Biểu đồ 6: Tỷ giá USD/VND thời gian gần đây
18,000
18,500
19,000
19,500
20,000
20,500
21,000
3/1/
2011
4/1/
2011
12/1
/201
113
/01/
2011
14/0
1/20
1120
/01/
2011
26/0
1/20
1130
/01/
2011
31/0
1/20
111/
2/20
117/
2/20
118/
2/20
119/
2/20
1110
/2/2
011
11/2
/201
112
/2/2
011
15/0
2/20
1119
/02/
2011
21/0
2/20
1123
/02/
2011
24/0
2/20
11
USD/VND TỪ 01/01 -> 24/02/2011
Về tổng quát, việc điều chỉnh tỷ giá này có tác dụng tốt nhằm hạn chế, giải tỏa tình
trạng găm giữ, cũng như kỳ vọng đầu cơ, góp phần cân đối theo nguyên tắc thị trường
cung-cầu về ngoại tệ, kích thích xuất khẩu và tăng cường sản xuất trong nước, từ đó góp
phần kiềm chế vững chắc lạm phát. Không chỉ giúp tăng sức cạnh tranh của hàng xuất
khẩu Việt Nam, mà còn hạn chế nhập siêu, nhất là những sản phẩm trong nước có thể sản
xuất thay thế. Việc tiền đồng giảm giá khiến các nhà xuất khẩu sẽ được lợi, còn hàng hóa
nhập khẩu sẽ trở nên đắt hơn.
Đặc biệt, sự điều chỉnh tỷ giá đã thu hẹp chênh lệch tỷ giá chính thức với tỷ giá
trên thị trường tự do sẽ giúp cải thiện dự trữ ngoại hối của Việt Nam do không phải gia
tăng bán USD theo tỷ giá thấp, giảm bớt kỳ vọng đầu cơ và cả hoạt động buôn bán vốn
và ngoại tệ lòng vòng kiếm lời dựa trên chênh lệch giữa 2 tỷ giá. Điều này còn giúp tăng
cường tập trung và quản lý kinh doanh ngoại tệ trên thị trường có tổ chức. Đồng thời, nó
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 82/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
cũng giúp cho các doanh nghiệp được tính đúng, tính đủ chi phí vốn ngoại tệ trong bảng
hạch toán kinh doanh của mình, mà trước đó thường phải che giấu, hợp lý hóa các khoản
mua USD trên thị trường chợ tự do với giá cao hơn giá chính thức.
Nói cách khác, tình trạng chênh lệch cao hai tỷ giá chính thức và không chính thức
tồn tại kéo dài trong nhiều tháng qua gây căng thẳng giả tạo cung-cầu trên thị trường
ngoại tệ, cũng như gây thiệt hại “kép” cho doanh nghiệp và nhiều hệ lụy tiêu cực khác
trong việc thanh toán qua hệ thống ngân hàng. Nguyên nhân là doanh nghiệp nhận ngoại
tệ qua ngân hàng phải bán lại cho ngân hàng theo giá chính thức thấp, trong khi muốn
mua ngoại tệ để thanh toán thì lại khó mua được ngoại tệ với giá chính thức.
Điều kiện 4: Có thị trường tài chính, đặc biệt thị trường ngoại hối ổn định
Đối với yêu cầu cuối cùng thì Việt Nam vẫn chưa xây dựng được hoàn chỉnh. Việc
phải có thị trường tài chính và thị trường hối đoái mở ở đây được hiểu là thị trường phải
được thông thương với thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế.
Theo ông Lê Xuân Nghĩa, Vụ trưởng Vụ chiến lược Phát triển Ngân hàng, Ngân
hàng Nhà nước , điều này có nghĩa TP. HCM hoặc Hà Nội sẽ phải trở thành trung tâm
giao dịch tiền tệ lớn và các tác động từ bên ngoài vào Việt Nam và các tác động từ Việt
Nam có thể vào ra tương đối dễ dàng.
Với những kết quả đạt được, trên cơ bản Việt Nam đã từng bước cố gắng thay đổi
cơ cấu quản lý kinh tế theo hướng thị trường Thế giới. các điều kiện đặt ra và những gì
đạt được, thực chất chỉ là phần nền, còn rất nhiều việc phải làm để hoàn thiện từng yêu
cầu cho việc chuyển đổi đồng tiền, ngay cả những điều kiện đã đạt ở mức tốt, nhưng nếu
không thể duy trì, kiểm soát chặt chẽ thì lại quay lại tình trạng ban đầu. lúc đó, mục tiêu
nâng cao tính chuyển đổi đồng tiền Việt Nam khó có thể đạt được, thậm chí trong thời
gian dài.
2.5.4. Khó khăn, hạn chế
Bên cạnh những kết quả khả quan đạt được, tồn tại song song với nó những mặt
hạn chế cần phải nghiêm túc nhìn nhận và tìm cách khắc phục, một số hạn chế có thể
xem xét như sau:
a) Quy đ ịnh pháp lý về tài khoản vãng lai và tài khoản vốn
Theo ông Lê Xuân Nghĩa, Vụ trưởng Vụ chiến lược Phát triển Ngân hàng, cho
rằng tự do hóa các giao dịch vãng lai, về mặt các quy định pháp lý tưởng chừng như
không có gì khó khăn, nhưng trên thực tế có vô vàn những giấy phép con. Còn đối với tự
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 83/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
do hóa giao dịch tài khoản vốn cũng tương tự, vốn vào - ra Việt Nam không đơn giản
chút nào.
Thực tế đã xảy ra là doanh nghiệp muốn chuyển tiền về thì NHNN nói cần phải có
giấy phép kinh doanh loại ngành hàng đó, doanh nghiệp đi xin giấy phép kinh doanh
ngành hàng đó thì Sở Kế hoạch và Đầu tư trả lời là cần phải được chấp nhận của NHNN
về chuyển tiền vào.
Theo ông Nghĩa, câu chuyện “con gà - quả trứng” như vậy rất phổ biến, đó là
những nhân tố làm cho khả năng chuyển đổi của đồng Việt Nam rất kém. Do đó, không
chỉ gỡ về mặt pháp lý mà còn phải gỡ cả thói quen quản lý cũ.
Ngoài những vấn đề trên, Việt Nam còn có những ràng buộc khác như tỷ lệ đầu tư
của nước ngoài vào DN Việt Nam tối đa chỉ là 49%, tỷ lệ đầu tư của ngân hàng nước
ngoài vào ngân hàng Việt Nam tối đa là 30%. Đó là những hạn chế khiến cho tự do hóa
giao dịch vãng lai và giao dịch vốn không phải hoàn toàn tự do như pháp luật quy định,
như là chúng ta mong muốn
b) Đ ồng tiền Việt Nam không đư ợc tín dụng trong dân chúng
Lạm phát luôn là một nỗi ám ảnh trong tâm trí của người Việt, trong khi các nước
trong khu vực (Đài Loan, Hàn Quốc, Malaysia, Thái Lan) liên tục duy trì được CPI dưới
hoặc xấp xỉ 5% trong một khoảng thời gian rất dài thì Việt Nam chỉ có duy nhất vài năm
1989 - 2003 duy trì được CPI dưới 5%. Trong những năm khác, CPI thường xuyên ở mức
8 - 9%. Quá khứ lạm phát trên hai con số, thậm chí ba con số, vẫn còn khá gần.
Biểu đồ 7: tăng trưởng CPI tính theo năm
VND cũng mất giá nhiều so với các đồng tiền khác, thể hiện qua việc tỷ giá danh
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 84/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
nghĩa VND/USD thường xuyên tăng. Nếu loại trừ giai đoạn đặc biệt 1980 - 1985, khi cục
Dự trữ liên bang Mỹ (FED) nâng lãi suất USD lên rất cao để kiềm chế lạm phát dẫn đến
USD tăng giá so với hầu hết các đồng tiền khác trên thế giới, và loại trừ giai đoạn khủng
hoảng tiền tệ khu vực năm 1997 - 1998, thì bốn nước trong khu vực mà ta đang so sánh
đã duy trì được tỷ giá đồng bản tệ so với USD tương đối ổn định trong suốt lịch sử phát
triển của mình.
Trong khi đó, tuy VND không bị mất giá nhiều khi xảy ra khủng hoảng tài chính
khu vực, nhưng lại liên tục bị giảm giá kể từ năm 1996. Trong gian đoạn 1996 - 2008,
VND bị mất giá khoảng 45% so với USD, trong khi các đồng tiền khác chỉ mất giá trong
khoảng từ 18 - 27% so với USD bất chấp một số nước trong đó đã có lúc mất giá đến gần
100% trong giai đoạn khủng hoảng.
c) T ă ng tr ư ởng kinh tế Việt Nam hiện nay chủ yêu phát triển theo chiều rộng
Theo đánh giá của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, tăng trưởng kinh
tế của Việt Nam chủ yếu vẫn theo chiều rộng, chất lượng tăng trưởng chưa cao, năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp so với thế giới.
Báo cáo đánh giá năng lực trạnh tranh tại Diễn đàn Kinh tế thế giới năm 2010 cho
thấy, xếp năng lực cạnh tranh của Việt Nam năm 2009 - 2010 đứng thứ 75/133 (năm
2008 - 2009 đứng thứ 70/132). Có sự mất cân đối kinh tế vĩ mô như thâm hụt lớn giữa
tiết kiệm và đầu tư, vấn đề nợ công ngày càng tăng, tiềm ẩn nguy cơ lạm phát…
d) Thị tr ư ờng tài chính tiềm ẩn những bất ổn
Khủng hoảng tài chính toàn cầu và những bất cập của nền kinh tế Việt Nam được
biểu hiện rõ nét trong năm 2008 và 2009 vừa qua (lạm phát cao, thâm hụt thương mại
lớn, đầu tư nước ngoài giảm...), cùng với hệ lụy của các giải pháp, chính sách chống suy
giảm kinh tế đã gây nên những hạn chế nhất định đến mức độ chuyển đổi của VND, đó là
gây sự ép giảm giá VND, gây khan hiếm ngoại tệ, nhu cầu thanh toán ngoại tệ của doanh
nghiệp có những lúc không được đáp ứng đầy đủ và kịp thời...
Trước tình hình đó, Chính phủ đã chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước phối hợp với các
bộ, ngành thực hiện hàng loạt biện pháp đồng bộ như điều chỉnh biên độ tỷ giá, chống
đầu cơ ngoại tệ, thắt chặt kỷ luật thị trường ngoại hối, hạn chế nhập siêu, xử lý hài hòa
mối quan hệ giữa lãi suất VND với lãi suất ngoại tệ và tỷ giá, xử lý vấn đề sàn vàng...
e) Chính sách tỷ giá thả nổi
Bằng việc mạnh dạn nâng cao tỷ giá ngoại tệ liên ngân hàng lên mức tương đương
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 85/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
tỷ giá thị trường đã thu hẹp khoảng cách tỷ giá bấy lâu nay, hạn chế tình trạng “hai tỷ
giá”. Tuy nhiên, nếu chỉ đơn thuần rút ngắn khoảng cách trong nhất thời mà không có
những động thái kiểm soát thị trường chợ đen theo đó thì việc hình thành hai tỷ giá như
trước sẽ lại hình thành. Ngoài ra, thực hiện chính sách này phải đảm bảo lượng dự trữ
ngoại tệ đủ mạnh của ngân hàng trung ương.
f) Giải pháp
Qua những khó khăn, hạn chế trên, để đồng tiền Việt Nam có thể từng bước nâng
cao vị thế chuyển đổi của mình, một số giải pháp nhằm khắc phục có thể đề cập như sau:
Thông tin rõ ràng, đơn giản hóa các thủ tục pháp lý, quy trình trong việc tự do hóa
vòng luân chuyển tài khoản vãng lai, tài khoản vốn, tạo điểu kiện cho đối tượng cư trú và
phi cư trú trên lãnh thổ Việt Nam dễ dàng tham gia các giao dịch mang lại nguồn lợi cho
quốc gia nơi đối tượng cư trú.
Tăng cường nâng cao, thay đổi chính sách quản lý cho thị trường ngoại hối nói
riêng, thị trường tài chính nói chung, tạo điều kiện thuận lợi, có chính sách hỗ trợ đặc biệt
để các đối tượng tham gia hiểu, an tâm sử dụng VND vào hoạt động đầu tư, sản xuất
kinh doanh, từng bước nâng cao vị thế VND.
Xóa bỏ các ràng buộc về cân đối ngoại tệ đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài (hiện nay tỷ lệ đầu tư của nước ngoài vào DN Việt Nam tối đa chỉ là 49%, tỷ
lệ đầu tư của ngân hàng nước ngoài vào ngân hàng Việt Nam tối đa là 30%)
Hạn chế nhập khẩu, giải quyết tình trạng căng thẳng về ngoại tệ bấy lâu nay.
Từng bước thực hiện việc chủ trương “chống Đô la hóa” để không gây tác động
tiêu cực đến các đối tượng tham gia hoạt động kinh doanh thực sự có nhu cầu. Cụ thể:
+ Nâng cao tỷ lệ dự trữ bắt buộc của đồng ngoại tệ cao hơn đồng nội tệ.
+ Tạo sự chênh lệch về lãi suất một cách hợp lý giữa đồng ngoại tệ và đồng nội
tệ, giúp người dân nhận thấy việc gửi tiết kiệm bằng đồng nội tệ sẽ có lợi nhiều hơn.
+ Từng bước hạn chế đến chấm dứt hẳn cho vay bằng ngoại tệ. Tuy nhiên cần
cân nhắc một số đối tượng thực sự có nhu cầu
Có như vậy, ta mới có thể chấm dứt hoàn toàn hiện tượng “Đô la hóa”, lúc đó
người dân sẽ chuyển sang sử dụng đồng nội tệ, từng bước xây dựng lại hình ảnh, niềm tin
vào sức mạnh của đồng nội tệ, tiến tới mục tiêu cuối cùng là tiền đồng VND có thể tự do
chuyển đổi hoàn toàn song song đó là giảm thiểu tình trạng lạm phát.
Cần minh bạch, nhất quán các chính sách tỷ giá, lãi suất ngân hàng, các chương
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 86/87
Tài chính tiền tệ Đề tài: Tự do hóa tài chính ở Việt Nam – GVHD: TS. Điệp Gia Luật Thực tiễn chuyển đổi đồng tiền Việt Nam
trình hỗ trợ, thắt chặt kinh tế,… từ đó tạo lập niềm tin vào đồng nội địa trong dân chúng,
giúp đồng nội địa có thể tự do chuyển đổi, trở thành đồng tiền mạnh như các quốc gia
phát triển trên thế giới.
Giảm lạm phát đến mức thấp nhất bằng các chính sách tiền tệ, thắt chặt cung tiền
và tín dụng đồng thời cân đối thu-chi ngân sách một cách hợp lý, giảm bớt chi thường
xuyên vào đầu tư công (hỗ trợ giá điện, xăng dầu,…)
Ngoài các giải pháp trên, một phần trong việc tạo lập niềm tin cho VND trong dân
chúng là cải thiện giá trị của đồng Việt Nam, cụ thể là cải tiến chất liệu tạo tiền, tránh
tình trạng tiền polymer Việt Nam hiện nay không được bền, dễ bay màu, rách, không tạo
được sự yêu quý, trân trọng đồng tiền.
Học hỏi kinh nghiệm từ các nước có nền kinh tế như Việt Nam. Trường hợp của
Indonesia có thể được coi là “tấm gương” cho Việt Nam học tập trong việc nâng cao uy
tín cho đồng nội tệ. Năm 2008 và 2009, hoàn cảnh của Indonesia về cơ bản giống Việt
Nam ở chỗ: nền kinh tế cũng bị “đô la hóa” và độ uy tín của nền kinh tế theo đánh giá
của giới phân tích đều tương tự.
Nhưng từ 2009 và 2010, Indonesia có những bước điều chỉnh và phối hợp chính
sách rất nhịp nhàng giữa tiền tệ và tài khóa nên vừa giảm lạm phát, vừa thúc đẩy phát
triển kinh tế và nhờ đó, đồng tiền lên giá so với USD, trái phiếu Chính phủ phát hành rất
thuận lợi, dòng vốn đầu tư nước ngoài liên tục chảy vào. Để có được kết quả như vậy,
nước này đã có những bước đi rất khôn ngoan, mà biểu hiện rõ nét nhất là sự minh bạch.
Hàng tháng, Bộ trưởng Tài chính và Thống đốc Ngân hàng Indonesia chủ động tổ chức
họp báo và công bố tất cả các số liệu liên quan đến tình hình nợ quốc gia, chi tiêu chính
phủ, dự trữ ngoại hối, lạm phát, tăng trưởng… cho các nhà đầu tư nước ngoài. Theo các
chuyên gia kinh tế, sự minh bạch có thể là nơi nuôi dưỡng niềm tin, từ đó tạo nên sự ổn
định của các biến số kinh tế vĩ mô, trong đó có tỷ giá.
Giải quyết được các vấn đề trên, tiền đồng Việt Nam trước mắt sẽ giải quyết được tình
hình kinh tế đang lạm phát như hiện nay, tiếp đến là tạo được bước chuyển biến tích cực
trong mục tiêu trở thành đồng tiền tự do chuyển đổi.
Lớp Cao học kinh tế – Đêm 4 – Nhóm 9Trang 87/87