TỰ DO HÓA THUƠNG MẠI QUỐC TẾ NHỮNG XU HƯỚNG...
Transcript of TỰ DO HÓA THUƠNG MẠI QUỐC TẾ NHỮNG XU HƯỚNG...
TỰ DO HÓA THUƠNG MẠI QUỐC TẾ NHỮNG XU HƯỚNG VÀ CHÍNH SÁCH
TỰ DO HÓA THUƠNG MẠI QUỐC TẾNHỮNG XU HƯỚNG VÀ CHÍNH SÁCH
Thông tin chuyên đề
VIỆN KINH TẾ THẾ GIỚI
LỜI GIỚI THIỆU
Tự do hóa thương mại đã trở thành xu hướng phổ biến trên thế giới từ
gần 10 năm nay bởi lẽ người ta ngày càng nhận rõ ích lợi lâu dài của chủ
trương này. Thực tế cho thấy, những cố gắng xóa bỏ hàng rào thương mại
nhằm tạo ra thị trường hàng hóa và dịch vụ thông thương đã góp phần thúc
đẩy các cuộc cải cách kinh tế vĩ mô, trên cơ sở đó, các quốc gia trên thế giới
có thể đạt được những bước phát triển mới, tốt hơn trước về kinh tế và xã
hội.
Theo tinh thần đó, Phòng Thông Tin - Thư viện Viện Kinh tế thế giới
giới thiệu sưu tập chuyên đề "Tự do hóa thương mại quốc tế: Những xu
hướng và chính sách". Sưu tập bao gồm một số phần dịch từ cuốn "Những
vấn đề và các bước phát triển trong chính sách thương mại quốc tế” (Issues
and Developments in International Trade Policy) do nhóm chuyên gia của IMF
biên soạn, xuất bản tháng 8-1992 tại Washington, DC.
PHÒNG THÔNG TIN-TƯ LIỆU-THƯ VIỆN
VIỆN KINH TẾ THẾ GIỚI
Phần 1. THƯONG MẠI VÀ CÁC CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI CỦA CÁC NƯỚC CÔNG NGHIỆP
Từ giữa những năm 1980, trong các nước công nghiệp mức độ bảo hộ
mậu dịch đã giảm chút ít nếu không muốn nói là đã giảm mặc dầu buôn bán
và sản xuất đã tăng lên, đã giảm bớt sự mất cân bằng thanh toán hiện hành
trong những nước công nghiệp lớn và Vòng đàm phán thương mại đa bên
Urugoay đang tiếp diễn. Sự bảo hộ vẫn được thực hiện dai dẳng trong nông
nghiệp và trong các ngành công nghiệp bị suy giảm và những sức ép mới đã
trỗi dậy do sự can thiệp của chính phủ vào những khu vực được coi là "chiến
lược". Tiến bộ chỉ đạt được có giới hạn trong những vấn đề vẫn tồn tại trong
nông nghiệp và các khu vực công nghiệp bị suy giảm với những sức ép điều
chỉnh mạnh mẽ ở các nước công nghiệp khi chương trình thị trường Châu Âu
thống nhất tiến triển, các nước đang phát triển tiếp tục tăng cường và đã đa
dạng hóa xuất khẩu và các nước Đông Âu tìm kiếm nhất thể hóa các nền kinh
tế của họ vào hệ thống mậu dịch đa phương.
Nhiều vấn đề cần phải được giải quyết để xúc tiến điều chỉnh trong
nông nghiệp và trong các ngành công nghiệp đã trưởng thành như dệt và
thép đang được thương lượng trong những cuộc thương lượng mậu dịch tại
Vòng đàm phán Urugoay và tại nhiều diễn đàn đa phương khác. Vòng đàm
phán Urugoay nhằm cắt giảm bớt một cách cơ bản những hàng rào thuế
quan và phi quan thuế đối với mậu dịch, củng cố các quy tắc, quy chế hiện có
và những thể thức giải quyết tranh chấp, đưa những khu vực như nông
nghiệp, hàng dệt và quần áo vào kỷ luật thông thường của GATT, định ra
những kỷ luật trong những lĩnh vực mới (như dịch vụ, đầu tư nước ngoài và
sở hữu tài sản trí tuệ) và cải tiến sự kiểm soát của GATT đối với các chính
sách thương mại, sự cố kết của các chính sách thương mại và tài chính đã
phải kéo dài không kết thúc đúng kỳ hạn. Việc tự do hóa đối với ngành thép
được tiến hành trong nhiều cuộc thương lượng đa phương theo Chương trình
Tự do hóa thép Hoa Kỳ và một thỏa thuận nhằm xóa bỏ trợ cấp cho việc đóng
và sửa chữa tàu thủy đang được thương lượng trong Nhóm làm việc của Hội
đồng OECD về đóng tàu.
Bất chấp những cuộc thương lượng này, đậc trưng nổi bật trong sự
phát triển chính sách thương mại giữa các nước công nghiệp lớn là mối đe
dọa sự tin cậy cách tiếp cận đa phương trong những quan hệ giữa các bạn
hàng thương mại bị giảm sút. Những vấn đề tiếp cận thị trường và thương
mại "công bằng, ngay thẳng" thường được làm song phương bên ngoài sự
kiểm tra của các bên ký kết Hợp đồng GATT và theo những phương thức
khác với các quy tắc của GATT hoặc những nguyên tắc không phân biệt đối
xử và trong sáng làm cơ sở cho GATT. Những lĩnh vực GATT không phụ
trách trở thành nguồn gốc đang gia tăng các vụ xich mích về mậu dịch: các
dịch vụ, đầu tư nước ngoài và quyền sở hữu tài sản trí tuệ. Với tiến bộ còn
đang hạn chế trong Vòng đàm phán Urugoay, các nước đang giải quyết các
vấn đề này tại những cuộc thương lượng song phương và những cuộc
thương lượng mậu dịch khu vực, ở đó người ta dễ đạt tới nhất trí hơn. Tự do
hóa trong các nước công nghiệp phần lớn được tiến hành trong bối cảnh của
những cuộc thương lượng mậu dịch khu vực. Trong khi những cuộc thương
lượng như thế có thể mở rộng cơ hội mậu dịch tự do và như vậy thì chế độ
mậu dịch đa phương sẽ gặp rủi ro và những nước ở ngoài những nhóm khu
vực sẽ rất khó khăn.
Năm 1990 và 1991, các nước công nghiệp bắt đầu phá bỏ những hạn
chế nhập khẩu có chọn lọc đối với các nước Đông Âu và thiết lập những mối
quan hệ thương mại mậu dịch thông thường đối với các nước này.
1. Những khuynh hướng mới đây trong các chính sách thương mại
Thuế quan
Chế độ GATT đã tìm cách thiết lập những thuế quan không phân biệt
đối xử được coi là những biện pháp bảo hộ chính. Trong bốn mươi năm qua,
các nước công nghiệp đã xóa bỏ hầu hết các quotas nhập khẩu đối với các
mặt hàng phi nông sản và qua bảy vòng đàm phán thương mại đa phương,
đã giảm bớt mức binh quân thuế suất. Tối Huệ Quốc từ khoảng 40% ở cuối
Chiến tranh Thế giới Hai xuống khoảng 5% tại cuối Vòng đàm phán Tôkyô
năm 1979. Giảm bớt mức thuế quan bình quân xuống một phần ba là một
mục tiêu lớn của Vòng đàm phán Urugoay. Việc giảm tuần tự thuế suất đã
làm giam bớt tầm quan trọng của các biểu thuế khi được coi là công cụ của
chính sách thương mại, mặc dầu mức độ bảo hộ do chúng đem lại khác nhau
rất xa giữa các nước và các sản phẩm (Bảng IIA). Thuế suất áp dụng sau
Vòng đàm phán Tôkyô tương đối cao (Những điểm cao nhất của thuế quan)
trong một số nước về nông sản, quần áo, hàng dệt, và giầy dép. Thuế quan
nâng lên một cách tuần tự theo dây chuyền (leo thang thuế quan) cũng là một
đặc trưng của hầu hết các danh mục thuế trong các nước công nghiệp đặc
biệt đối với một số hàng lương thực thực phẩm, da, hàng dệt và một số hàng
hóa dầu. Ngược lại, thuế quan đánh vào hàng thiết bị, hàng trung gian và
những hàng tiêu dùng lâu bền thì tương đối thấp
Thuế suất áp dụng có thể khác với những thuế suất Tối Huệ Quốc của
Vòng đàm phán Tôkyô vì những thương lượng ưu đãi mậu dịch hoặc cắt
giảm thuế quan đã diễn ra sau đó giữa các nước bao gồm cả những liên minh
thuế quan, những lĩnh vực thương mại tự do và những kế hoạch ưu đãi thuế
quan như GSP (Hệ thống ưu đãi chung). Gần 40% thương mại thế giới đã
được tiến hành bằng những cuộc thương lượng mậu dịch ưu đãi giữa các
nước công nghiệp (Vì vậy, thuế suất áp dụng bình quân đối với một số sản
phẩm có thể thấp hơn so với những thuế suất bình quân áp dụng cho những
nước được hưởng GSP (Hệ thống ưu đãi chung). Đó cũng là mối quan tâm
lớn của các nước đang phát triển là những nước phàn nàn rằng những lĩnh
vực thương mại tự do có thể ngăn cản việc họ được ưu đãi vào các thị
trường các nước công nghiệp. Tại cuộc xét duyệt nửa nhiệm kỳ Vòng đàm
phán Urugoay, các nước công nghiệp đã nhất trí giảm bớt một cách vừa phải
thuế quan đánh vào những hàng nhiệt đới, điều mà các nước đang phát triển
đặc biệt quan tâm.
Những biện pháp phi thuế quan
Với sự giảm bớt các thuế suất ở các nước công nghiệp và mức thuế cụ
thể lại cao đặc biệt đối với hàng công nghiệp (Bảng IIA) các nước phải tăng
cường dựa vào những biện pháp phi thuế quan phản ứng lại các sức ép điều
chỉnh trong những khu vực mậu dịch nhạy cảm mạnh. Những biện pháp này,
bao gồm VER (Hạn chế xuất khẩu tự nguyện), những hạn chế giống như
MFA (Thương lượng về sợi dệt kép), những cuộc thương lượng thị trường
khác đã diễn ra một cách có trật tự, nhưng quotas thuế quan, những phụ phí,
những thuế thay đổi, những điều cấm, việc cấp giấy phép, khuyến khích nhập
khẩu, những hành động chống phá giá và bù trừ, và những biện pháp kiểm
soát giá. Những vụ việc xảy ra và những giới hạn của các biện pháp phi thuế
quan là khó xét đoán nhưng những tỷ suất bảo hộ mậu dịch do UNCTAD (Hội
nghị Liên hiệp quốc về Thương mại và Phát triển) ước lượng sử dụng các Cơ
sở Dữ kiện về các Biện pháp Kiểm soát thương mại chỉ ra rằng những biện
pháp phi thuế quan đã tác động tới gần 19% hàng nhập khẩu phi nhiên liệu
của 22 nước công nghiệp năm 1990 (Bảng I). Sự bảo hộ này rất khác nhau
trong các nhóm sản phẩm, đặc biệt trong các mặt hàng lương thực thực
phẩm (36%) và trong những ngành công nghiệp đã trưởng thành như sắt và
thép (53%), dệt (39%), quần áo (63%), giày dép (20%) và các xe động cơ
(55%). Việc nhập khẩu hàng dệt và quần áo, giày dép, thép và xe động cơ
chủ yếu chịu tác động của VER (Hạn chế xuất khẩu tự nguyện) và MFA
(Thương lượng về sợi kép) trong khi hàng nông sản nhập khẩu lại do các hạn
chế khác về số lượng.
Nhìn chung, những biện pháp phi thuế quan đối với hàng xuất khẩu từ
các nước đang phát triển đã được dùng nhiều hơn là đối với xuất khẩu từ các
nước công nghiệp, đặc biệt đối với những sản phẩm công nghiệp. Điều này
chủ yếu phản ánh tỷ lệ cao trong nhập khẩu hàng dệt, quần áo và giày dép -
đối tượng của những biện pháp phi thuế quan. Đối với nhập khẩu những
hàng lương thực thực phẩm, sắt, thép và xe động cơ, tỷ lệ bảo hộ mậu dịch
lớn hơn đối với xuất khẩu từ các nước công nghiệp.
Đối với hầu hết các loại hàng xuất khẩu từ Liên xô trước đây và Đông
Âu đã có tỷ số bảo hộ mậu dịch cao nhất, một số những biện pháp này đã
được xóa bỏ năm 1990 nhưng những chỉ dẫn cho thấy ở đây sẽ không phản
ánh những diễn biến này cho đến năm 1991.
Nhằm đánh giá khuynh hướng dài hạn hơn trong việc xử dụng những
biện pháp phi thuế quan, Laird và Vossenaar (1991) đã phối hợp những ước
tính mới nhất của UNCTAD cho thời kỳ 1988-90 với những ước tính trước,
thời kỳ 1981-88. Những tính toán của hai ông gợi ý rằng việc định ra những
biện pháp phi thuế quan "nòng cốt" được coi là hạn chế gay gắt nhất đã tăng
lên khoảng 5% từ 1981 đến 1987-88, nhưng đã giảm đi phần nào vào năm
1990. Những diễn biến này khác nhau đối với các nước trong suốt những
năm 1980. Tỷ suất bảo hộ tăng lên hầu hết ở cả Mỹ lẫn EC, cả hai đang tăng
cường sử dụng Hạn chế xuất khẩu tự nguyện (phần nhiều trực tiếp chống
Nhật và các nền kinh tế mới công nghiệp hóa ở châu Á), đối với xe động cơ,
thép, máy công cụ, dệt, và trong trường hợp của EC, hàng điện tử, một số
Hạn chế xuất khẩu tự nguyện quốc gia ở EC đã được xóa bỏ sau 1983. Tỷ
suất bảo hộ mậu dịch của Nhật Bản trong nửa thứ hai của những năm 1980
đã giảm đi khi bỏ hạn chế đối với một số hàng nông sản. Vài nước khác, cụ
thể là Canada, Niu Dilân và Nauy, từ giữa những năm 1980 đã giảm đáng kể
những tỷ số bảo hộ mậu địch. Canada đã ký một hiệp định VER với Nhật Bản
về xuất khẩu ô tô và bỏ hạn chế nhập khẩu giày dép (1985-88). Niu Dilân
giảm rất nhiều những hạn chế số lượng bộ phận của một chương trình cải
cách toàn diện nhằm bỏ việc định quy chế và mở cửa nền kinh tế của mình,
còn Nauy bỏ quotas nhập khẩu từ Nhật Bản và một vài nước Châu Á khác
Việc EC- và Mỹ tăng cường sử dụng những biện pháp phi thuế quan
đặc biệt VER và những cuộc thương lượng thị trường một cách có trật tự là
những cách thức nằm ngoài khuôn khổ GATT và luôn luồn sử dụng những
liều thuốc thương mại "không đúng đắn" (những hành động bù trừ và chống
phá giá) đã gây khó khăn thêm cho việc áp dụng những điều khoản bảo vệ đã
được định ra ở Điều XIX của GATT, điều này đã được chứng minh ở sự giảm
sút việc sử dụng những điều khoản ấy. Một nước phải chứng minh là đã bị
tổn thất lớn khi đáp ứng tiêu chuẩn GATT áp dụng những bảo vệ thông
thường không dùng bất kỳ một hành động nào theo cung cách không phân
biệt đối xử (trên cơ sở MFN - Tối Huệ Quốc) và đền bù cho những nước xuất
khấu bị thiệt hoặc bị trả đũa. Ngược lại, VER và những liều thuốc thương mại
"không đúng đắn” có thể được áp dụng một cách có lựa chọn theo từng sản
phẩm và từng nước, trong trường hợp VER hoặc sử dụng giá, họ tự động
đền bù cho nước xuất khẩu thông qua những giá cao hơn và do đó nâng cao
sự ứng xử giống như cartel. Những đặc trưng rất hấp dẫn của VER đối với
những ngành công nghiệp trong nước đang tìm kiếm sự bảo hộ từ nhập khẩu
và đối với những ngành công nghiệp xuất khẩu ra nước ngoài đang giải thích
sự tăng trưởng và sự ứng dụng nhanh chóng của ngành trong những thời kỳ
kéo dài đối với phần lớn các khu vực như dệt, quần áo, thép, xe động cơ và
gần đây hơn, máy công cụ. Những cuộc thương lượng về những điều khoản
bảo vệ của GATT trong Vòng đàm phán Urugoay được coi là chủ yếu, nhằm
đưa những khu vực này vào kỷ luật GATT, vấn đề chủ chốt là làm hay không
làm và trong những hoàn cảnh như thế nào sẽ cho phép việc áp dụng có
chọn lọc những hành động bảo vệ.
Những tác động kinh tế của các biện pháp phi thuế quan xưa nay vẫn
khó thấy được vẽ mặt số lượng vì có rất nhiều cách khác nhau để né tránh.
Phần nào điều này giải thích tại sao xuất khẩu những mặt hàng bị hạn chế
như dệt và quần áo vẫn tiếp tục phát triển, trong khi lại đòi hỏi những cuộc
thỏa thuận rộng rãi hơn với mỗi một cuộc Thương lượng lại về Sợi kép -
MFA.
Toàn bộ các luồng thương mại phần lớn được quyết định bởi những
điều kiện kinh tế vĩ mô như sự phát triển các thị trường trong và ngoài nước
và sức cạnh tranh giá cả bên ngoài, tới mức mà những nguồn lực sản xuất dễ
thăng giáng, những biện pháp phi thuế quan chủ yếu tác động vào kết cấu
của nền thương mại. Tuy nhiên, những biện pháp phi thuế quan là một
nguyên nhân phải quan tâm đến vì chúng làm méo mó việc cấp phát các
nguồn lực bao gồm hình mẫu đầu tư trong và ngoài nước. Bằng cách khóa
chặt các nguồn lực ở trong những sử dụng thiếu hiệu quả, những biện pháp
phi thuế quan làm giảm bớt rất nhiều sản lượng ở cả những nước đã và đang
bị hạn chế. Vì việc họ sử dụng một cách kéo dài những biện pháp điều chỉnh
như thế đã làm chậm việc điều chỉnh trong các khu vực bị giảm sút trên các
thị trường các nước công nghiệp lớn và tính chọn lọc của các biện pháp và
sự thiếu trong sáng đã làm suy yếu hệ thống thương mại đa phương.
Thuế chống phá giá và bù trừ
Theo các quy tắc của GATT các nước có thể đánh thuế bù trừ và
chống phá giá để bảo vệ các sản phẩm trong nước của mình chống lại việc
phá giá hàng hóa do các bạn hàng nước ngoài cung cấp hoặc trợ cấp làm
méo mó nền thương mại. Như đã trao đổi ở trên, việc sử dụng những biện
pháp như thế được coi là một hình thức khác của việc bảo vệ có chọn lọc và
được lập luận rằng, các nước xét thấy dễ sử dụng các biện pháp chống phá
giá và bù giá để kiểm tra sự tổn thất, yếu kém (hoặc ở một số trường hợp
không có kiểm tra gì cả) khi một hành động bảo vệ được quyết định thích hợp
hơn, tức là khi bản chất của vấn đề là thua lỗ vì buôn bán chứ không phải sự
buôn bán "không chính đáng”. Những việc làm đáng phải đặt câu hỏi, những
quy tắc và những định nghĩa mơ hồ về tổn thất, những biên độ phá giá và
những trợ cấp giá đã cho những quy mô rất lớn những biến đổi pháp chế
trong nước và việc áp dụng những luật pháp thương mại "không chính đáng"
Xem xét việc sử dụng những liều thuốc thương mại không chính đáng của
EC, và Mỹ. Messerlin đã thấy rằng cả hai thường dựng lên những hàng rào
phi thuế quan có bảo đảm hơn như VER, hoặc những hạn chế số lượng
(thép, sản phẩm điện tử, dệt và quần áo), hoặc chúng đã trở thành những
công cụ bảo hộ chính (hóa chất, chất mài mòn). Ông cũng đã thấy bằng
chứng của sự ứng xử thông đồng nhau giữa các hãng trong nước và nước
ngoài nhằm đối phó với những biện pháp đó.
Tình hình và chiều hướng phát triển những hoạt động chống phá giá và
bù trù đã hỗ trợ quan điểm coi những biện pháp này phản ứng sức ép đòi bảo
hộ của các hãng nhập khẩu cạnh tranh. Đầu những năm 1980, trước khi diễn
ra đợt tăng giá đầu lần thứ hai và cuộc suy thoái nghiêm trọng trên quy mô
thế giới, yêu cầu giảm bớt sự cạnh tranh nhập khẩu thông qua các biện pháp
chống phá giá và bù trừ đã tăng lên. Từ giữa những năm 1980, số những
cuộc điều tra đã được thực hiện giảm đáng kể, mặc dầu tỷ số bảo hộ thương
mại ở bảng I gợi ý rằng tỷ trọng thương mại chịu tác động của những hoạt
động chống phá giá và bù trừ đã tăng lên từ 1988. Những khu vực bị tác động
nhất do những biện pháp này gồm xe động cơ, thép, dệt, quần áo và những
sản phẩm da, lại cũng chính là những khu vực được bảo hộ bằng các biện
pháp phi thuế quan khác.
Mỹ, EC, Canada và Ôxtrâylia phải chịu trách nhiệm về những cuộc điều
tra chống phá giá do các nước công nghiệp khởi xướng.
Ở Mỹ những trường hợp chống phá giá tăng đột ngột trong nửa đầu
những năm 1980, đã được quy cho là do sự lên giá thực tế của đồng đô la và
những cấn đề cơ cấu trong công nghiệp thép quốc tế. Trong khi số cuộc điều
tra chống phá giá giảm đi trong nửa thứ hai của những năm 1980, rất nhiều
trường hợp tồn đọng chưa giải quyết xong tiếp tục tăng lên cho đến khi giảm
được chút ít. Năm 1989 - 1990, Nhật Bản, Trung Quốc, Triều Tiên và Đài
Loan chiếm 83 trong 195 trường hợp chưa được giải quyết; những nước
đang phát triển chiếm hầu hết phần còn lại. Khu vực sắt và thép chiếm hầu
hết (54%) trường hợp chóng phá giá khởi đầu 1980-87, theo sau là hóa chất
(11%).
EC luôn luôn sử dụng các phương thức chống phá giá; những trường
hợp tồn đọng chưa giải quyết xong của EC tăng từ 124 năm 1983-84 tới 170
năm 1988 - 89, một phần vì có sự giảm bớt các trường hợp ở Trung và Đông
Âu. Những biện pháp chống các nước nay chiếm hơn một nửa tổng số các
nước này chiếm hơn một nửa tổng số các trường hợp.
Những nước EFTA, Nhật, Trung Quốc, Hồng Công và Triều Tiên cũng
đã luôn luôn bị điều tra. Những khu vực chính khởi đầu các trường hợp thời
kỳ 1980 - 87 là hóa chất (42%), sắt và thép (11%), máy điện và không phải
điện (15%).
Cả EC và Mỹ đã mở rộng các điều khoản pháp chế chống phá giá của
mình nhằm trốn thuế chống phá giá, mặc dầu EC là người sử dụng chính
những biện pháp chống trốn thuế (tất cả nhằm chống Nhật). Pháp chế EC đã
bị thách thức trong GATT và mâu thuẫn với các quy tắc của GATT. Kết quả
là, EC đã ngừng sử dụng pháp chế chống trốn thuế nhưng không có ý định
thay đổi luật pháp của mình cho đến khi có một giải pháp khả dĩ đối với vấn
đề trốn thuế được thông qua tại Vòng đàm phán Urugoay. Việc toàn cầu hóa
đang diễn ra trong đầu tư và sản xuất và sự tăng cường các cuộc thương
lượng khu vực dường như làm tăng những va chạm xích mích thương mại
liên quan đến những quy tắc đề ra từ đầu.
Trái với ở Mỹ và EC, những đổi mới trong pháp chế chống phá giá lại
được tiến hành ở Canada và Oxtrâylia nhằm làm giảm những trường hợp phá
giá chưa được giải quyết, ỏ Canada số những trường hợp chống phá giá còn
tồn đọng bắt đầu giảm đi năm 1989. Những trường hợp tồn đọng tụt xuống
103 năm 1990 so với 159 năm 1988. Pháp chế chống phá giả của ôxtrâylia đã
được sửa đổi năm 1988 và 1989 để làm rõ điều gì đã góp vào việc gây ra tổn
thất về vật chất và giá trị thông thường và để thắt chật quá trình xem xét lại.
Kết quả của những thay đổi này là số trường hợp chống phá giá còn tồn đọng
đã giảm từ 109 năm 1987 xuống 11 năm 1990. Tháng 3 năm 1991, khi những
biện pháp cải cách thuế quan khác được công bố, một sự thay đổi những thể
thức chống phá giá đã được thực hiện ở ôxtrâylia nhằm mở rộng tính ứng
dụng của chúng và xúc tiến các cuộc điều tra).
Mỹ đã sử dụng ở mức cao nhất thuế bù trừ, một phần vì vai trò trợ cấp
bị hạn chế tương đối và những cố gắng của Mỹ nhằm hạn chế những trợ cấp
của các nước khác.
Cùng như thế, theo luật pháp Mỹ, thuế bù trừ có thể được áp đặt không
cần một thử nghiệm tổn thất cho những nước đã không ký Luật trợ cấp GATT
hoặc đã thương lượng một hiệp định tay đôi với Mỹ, Những hoạt động bù trừ
chưa được giải quyết đã tăng mạnh từ 53 năm 1982 - 83 lên 86 năm 1984 -
85 và giữ ở mức này trước khi giảm xuống 73 năm 1989 - 90; hầu hết những
trường hợp tồn đọng vào cuối năm 1990 là đối với các nước đang phát triển.
Trên một nửa các trường hợp tồn đọng khởi những năm 1980-87 là ở ngành
công nghiệp sắt thép; những ngành công nghiệp khác bắt đầu nhiều lên là
dệt, hóa chất và lương thực thực phẩm, mỗi ngành công nghiệp này chiếm
khoảng 7-8% các trường hợp tồn đọng chưa được giải quyết.
2. Các khuynh hướng trong hỗ trợ của Chính phủ
Các chính phủ sử dụng các chỉnh sách đối nội để khuyến khích phát
triển, điều chỉnh công nghiệp và theo đuổi những mục tiêu "phi kinh tế” như
chất lượng môi trường, giáo dục, y tế và tính công bằng khu vực. Nhiều hình
thức can thiệp khác nhau bao gồm tiền trả trợ cấp trực tiếp, tô nhượng thuế,
cho vay trợ cấp và bảo hành cho vay, chính phủ cấp tiền, định các quy chế,
tiêu chuẩn và chỉ đạo hành chính. Hoạt động này tập trung vào tính chất mở
rộng trợ cấp trực tiếp và gián tiếp cho khu vực công nghiệp vì những tác động
có khả năng làm méo mó nền thương mại và thiếu những thông tin so sánh
đối với các hình thức trợ giúp khác của chính phủ. Các nước không đồng ý
với các chính sách trợ cấp làm méo mó nền thương mại, nhưng nói chung,
trợ cấp khu vực đặc biệt lại đổ vào loại này, trong khi những trợ cấp rộng rãi
khác như hỗ trợ giáo dục và y tế hoặc nghiên cứu cơ bản không tính đến. Lợi
thế chênh lệch đối với những ngành công nghiệp đặc biệt thì lại được coi là ít
làm méo mó thương mại. Trong khi các chính phủ đã có một số tiến bộ trong
việc giảm bớt hỗ trợ đối với những ngành công nghiệp đang bị suy giảm, có
bằng chứng cho thấy sự hỗ trợ của chính phủ đối với các ngành công nghiệp
công nghệ cao đang tăng lên.
Trợ cấp công nghiệp
Những năm gần đây, các chính phủ đã xem xét trợ cấp một cách thận
trọng hơn vì ngân sách có hạn, xem xét lại sự thất bại của việc giúp đỡ khu
vực đặc biệt làm thuận lợi cho việc điều chỉnh và xem xét khả năng những
hoạt động bù trừ và ý muốn thiết lập một cơ cấu tổ chức khuyến khích trung
tính hơn. Trong EC, đặc biệt, Chương trình Thị trường thống nhất đã định kỷ
luật chặt chẽ hơn đối với nhà nước và xúc tiến viện trợ nhà nước nhằm bảo
đảm một "lĩnh vực ở cấp có vai trò" trong Cộng đồng. Mặc dầu đã sử dụng
rộng rãi các chính sách trợ cấp, những dự kiến toàn diện hơn vẫn không có
giá trị mấy, mặc dầu công việc vẫn đang được tiến hành trong OECD, EC và
EFTA nhằm cải tiến thông tin trong lĩnh vực này. Trong một nghiên cứu mới
đây của OECD, Ford và Suyker đã đưa ra số liệu tài khoản quốc gia OECD,
các khảo sát của EC về viện trợ nhà nước và những báo cáo của Ban thư ký
EFTA tập hợp các số liệu về trợ cấp ở kháp các nước. Ba nguồn số liệu này
khác nhau về các khu vực được bảo hộ và những định nghĩa về trợ cấp đã
được sử dụng và vì thế không thể so sánh được nhưng chúng cũng cung cấp
cơ sở để phân tích sự phát triển ở bên trong mỗi một bộ số liệu.
Những khuynh hướng chung trong trợ cấp ở một nước công nghiệp
theo dữ kiện trên tài khoản quốc gia OECD đã được Ford và Suyker tập hợp.
Những số liệu này bao hàm sự chuyển giao hiện hành cho các khu vực sản
xuất nói chung, loại trừ trợ cấp gián tiếp mà thường là rất khác nhau giữa các
nước như những tô nhượng thuế và những chỉ tiêu của nhà nước và các cơ
quan quản lý địa phương khác. Số liệu chỉ ra rằng ở hầu hết các nước tổng
trợ cấp chính phủ tăng lên trong những năm 1970 và nửa đầu những năm
1980 khi các chính phủ can thiệp, để giúp đỡ các ngành công nghiệp đã mất
khả năng cạnh tranh về giá nhưng vẫn còn hoạt động cầm chừng hoặc bị
giảm sút sau đó. Không kể những trợ cấp cho nông nghiệp và chế biến lương
thực thực phẩm số liệu đã cho thấy một hình thái tương tự.
Mức trợ cấp chung trong các nước OECD và trong bảy nước lớn đã ổn
định vào khoảng 1,5% của GDP; đối với châu Âu OECD mức trợ cấp là gần
3% của GDP, Mức trợ cấp khác nhau rất xa giữa các nước. Trợ cấp công
nghiệp ở Thụy Điển và Nauy là cao nhất. Thấp nhất ở Mỹ, Nhật, Canada. Các
nước châu Âu tỷ lệ trợ cấp công nghiệp từ 2 đến 4% GDP. Về mặt yêu cầu
chi ngân sách những chuyển giao hiện hành cho công nghiệp chiếm khoảng
1% trong chi tiêu ở Mỹ nhưng từ 3 đến 5% trong chỉ tiêu ở các nước công
nghiệp lớn khác.
Niu Dilân và Anh cho thấy sự đào ngược lớn nhất trong các chính sách
trợ cấp cho công nghiệp trong những năm 1980 là kết quả của các chính sách
giảm bớt sự can thiệp của chính phủ vào các nền kinh tế của họ thông qua
việc thôi định quy chế và tư nhân hóa. Nauy cũng giảm trợ cấp trực tiếp cho
các nhà sản xuất từ đầu những năm 1980 mặc dầu hỗ trợ vẫn giữ mức cao
và đặc biệt trong khu vực. Sau 1984, tỷ lệ trợ cấp giảm ở Canada và Oxtrâylia
- nơi mà các chính sách đã được định hướng lại để xúc tiến điều chỉnh trong
các ngành nông nghiệp bị suy giảm; ở các nước khác, trợ cấp cho công
nghiệp tương đối ổn định hoặc tăng lên. Dữ kiện về cấu thành trợ cấp khu
vực cho thấy rằng ở hầu hết các nước, khu vực nông nghiệp được trợ cấp
lớn hơn khu vực công nghiệp và ở bên trong ngành công nghiệp, vận tải, giao
thông liên lạc và nhà cửa có khuynh hướng được trợ cấp hơn các ngành
công nghiệp khác.
Những cuộc điều tra về viện trợ nhà nước ở Cộng đồng Châu Âu cho
thấy có nhiều hình thức trợ cấp hơn các số liệu trên tài khoản quốc gia.
Những cuộc điều tra này nhằm thâu tóm những trợ cấp có khả năng làm méo
mó nền thương mại và sự cạnh tranh trong EC và bao gồm các khoản tiền
cấp cho, những tô nhượng thuế, sự tham gia công bằng, những khoản cho
vay mềm và bảo đảm vay. Số liệu từ hai cuộc điều tra đầu tiên cho thấy trợ
cấp đã tập trung vào nông nghiệp và những khu vực bị suy giảm như thép,
đóng tàu, xe lửa và than (ở Đức và Tây Ban Nha). Tỷ lệ trợ cấp bình quân
cho sản xuất công nghiệp ở EC giảm đi 1% của GDP từ thời kỳ 1981 - 86 tới
1986 - 88, phần lớn là do việc giảm bớt trợ cấp cho ngành thép và đóng tàu.
Ở khu vực thép, viện trợ nhà nước chỉ cho phép cơ cấu lại để rút bớt công
suất và cấm trợ cấp để vận hành. Kết quả của những chính sách này là viện
trợ nhà nước cho công nghiệp thép thực tế đã bị loại bỏ trong 10 nước EC
những năm 1986 - 1988. Viện trợ nhà nước cho đóng tàu đã tăng từ 5% lên
28% của các chi phí vận hành từ 1980 đến 1987. Một chỉ thị của Cộng đồng
đã được chấp nhận và thực hiện đầu 1987 ngày nay hạn chế các trợ cấp vận
hành ở một tỷ lệ giá trị hợp đồng phải được xét duyệt lại hàng năm. Theo chỉ
thị này, viện trợ nhà nước đã tụt xuống 20% chi phí vận hành năm 1990 và sẽ
giảm xuống còn 13% năm 1991,
Ngoài thép và đóng tàu, trợ cấp chung đã giảm chút ít đối với sản xuất
công nghiệp và giảm đáng kể trong thời kỳ gần đây nhất đối với Italia, Anh,
Đan Mạch, Ireland và Hà lan, còn ở những nước khác thì được bù đắp thêm.
Sự khác nhau giữa những kết quả này và những số liệu tài khoản quốc gia có
thể do tầm quan trọng tương đối của những công cụ trợ cấp khác nhau.
Những khoản cấp ngân sách được tính là khối lượng tiền trợ cấp ở hầu hết
các nước EC và EFTA. Không kể Đức và Bồ Đào Nha là những nước sự tô
nhượng thuế chiếm khoảng 60% tiền trợ cấp và Áo, là nước dựa chủ yếu vào
sự tham gia công bằng. Tô nhượng thuế cũng rất quan trọng đối với Italia,
Ireland và Hà Lan.
Chi tiêu của chính phủ tài trợ cho nghiên cứu và phát triển ở khu vực
công nghiệp, khác nhau rất xa giữa các nước OEGD. Theo truyền thống, ở
Mỹ là cao nhất, một phần là đo những hợp đồng nghiên cứu quốc phòng, và
thấp nhất là ở Nhật. Trong khi phần của nghiên cứu và phát triển do chính
phủ tài trợ ở hầu hết các nước là tương đối ổn định, tổng chi tiêu về nghiên
cứu và phát triển tăng lên và hỗ trợ chính phủ cho khoản này đã giải thích
việc chính phủ tăng cường giúp đỡ cho công nghiệp, phản ánh việc rút bớt
các khoản hỗ trợ của chính phủ cho các ngành công nghiệp bị suy giảm.
Phần lớn tài trợ của chính phủ cho việc nghiên cứu và phát triển giành cho
công nghiệp vũ trụ. ỏ đó, những ngoại ứng và các vấn đề an ninh được coi là
quan trọng. Công nghiệp vũ trụ chiếm phần cao nhất hoặc cao thứ hai của tài
trợ chính phủ cho nghiên cứu và phát triển ở hầu hết các nước được phản
ánh trong các số liệu,
Bức tranh nổi bật từ các số liệu này là sự gia tăng các khoản trợ cấp
tập trung cho các khu vực bị suy giảm đặc trưng của những năm 1970 và đầu
những năm 1980. Những nước đã định hướng lại toàn bộ các chính sách của
mình đáng kể là Anh và Niu Dilân, đã giảm rất nhiều viện trợ cho công nghiệp,
ở một số nước, những tiến bộ cũng đã đạt được trong việc giảm trợ cấp cho
ngành thép và đóng tàu. Ở các lĩnh vực khác, viện trợ toàn bộ cho cống
nghiệp phần lớn là không thay đổi từ giữa những năm 1980 đến 1988 và viện
trợ rút từ nguồn lực trong nước vẫn tương đối lớn, từ 2 đến 3 % của GDP ở
Canada và các nước Châu Âu và từ 0,5 đến 1% GDP ở Mỹ và Nhật.
Ban thư ký OECD đang tiến hành tập hợp những số liệu so sánh quốc
tế về tỷ lệ trợ cấp có thể làm cơ sở cho sự giám sát đa phương được tăng
cường đối với các chính sách hỗ trợ. Trong hai năm qua, những hội nghi cấp
Bộ trưởng của OECD đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sự rõ ràng hơn nữa
trong các chính sách hỗ trợ công nghiệp và những hoạt động ở lĩnh vực này
đã được chú trọng, ủy ban Công nghiệp của OECD đang tiến hành dự án
phát triển toàn diện hơn nữa và có những thông tin có thể so sánh được về
các trợ cấp cho công nghiệp đối với các nước OECD. Với sự hợp tác của các
nước thành viên, một cơ sở số liệu đang được tập hợp từ những năm 1986
đến 1991 bao gồm 800 chương trình chính phủ trung ương ở 22 nước OECD;
Những chương trình cấp tỉnh và địa phương thì không thể hoàn thành được.
Phân tích sơ bộ những số liệu này, người ta thấy trợ cấp sản xuất truyền
thống đã giảm đi trong khi trợ cấp đầu tư (đặc biệt cho nghiên cứu và phát
triển, thiết bị công nghệ cao và những điều chưa được biết đến trong công
nghệ) dường như được tăng lên. Về mặt công cụ, hỗ trợ cho nghiên cứu và
phát triển đã tăng lên chủ yếu là hình thức cấp cho và tô nhượng thuế, sử
dụng những kế hoạch bảo đảm vay kể cả những khoản không được sự nhất
trí của OECD về Tín dụng xuất khẩu cũng đã tăng lên. Phương hướng chung
hỗ trợ cho công nghiệp ở các nhóm nước OECD có phần ít chắc chắn vì sự
phát triển khác nhau giữa các nước. Một đồ án thử nghiệm đối với ủy ban
Chính sách kinh tế cũng đã được khởi xướng để triển khai các biện pháp định
mức viện trợ có hiệu quả.
Những cố gắng đa phương để kiềm chế trợ cấp
Kỷ luật đa phương về trợ cấp là cần thiết cho sự thành công trong các
cuộc thương lượng tại những diễn đàn đa phương nhầm xoá bỏ những hàng
rào thương mại trong các ngành công nghiệp bị suy giảm. Trong Vòng đàm
phán Urugoay, những cố gắng để củng cố các quy tắc quốc tế về trợ cấp đã
được thiết lập tại Vòng đàm phán Tôkyô (Luật Trợ cấp), cấm trợ cấp xuất
khẩu hàng công nghiệp, nhằm kiểm soát các tác động của trợ cấp làm méo
mó nền thương mại. Những vấn đề chủ chốt trong thương lượng liên quan
đến định nghĩa trợ cấp, hoàn cảnh định trợ cấp và những quy tắc chi phối
những hoạt động bù đắp. Những thể thức làm rõ các quy tắc, tăng cường giải
quyết tranh chấp có thể dẫn tới việc giảm bớt mâu thuẫn trong thương mại
nảy sinh từ sự giúp đỡ của chính phủ cho công nghiệp. Cuộc tranh chấp hàng
không giữa Mỹ và EC là một thí dụ tốt mà những quy tắc của GATT đã đụng
phải khi xác định xem cái gì là hoạt động trợ cấp và ở diễn đàn nào thi những
cuộc tranh chấp có thể giải quyết được?
Ngoài Vòng đàm phán Urugoay, những cố gắng đa phương là một
nhân tố quan trọng trong việc đẩy mạnh điều chỉnh và xóa bỏ sự trợ giúp cho
ngành thép và đóng tàu cũng như giảm bớt những tín dụng trợ cấp xuất khẩu.
Năm 1989, Tổng thống Bush đã công bố Chương trình Tự do hóa thép Mỹ
nhằm mục đích chủ yếu là thiết lập những điều kiện thị trường tự do cho
thương mại quốc tế về thép. Chương trinh đòi hỏi mở rộng (hạn chế xuất
khẩu tự nguyện) với 19 nước mà EC đã thương lượng năm 1984 (hết hạn
vào năm 1989) tới tháng 3 - 1992. Tạm thời, Mỹ đã ký những hiệp định nhất
trí song phương với những bạn hàng buôn bán thép lớn của mình, định kỷ
luật trợ cấp và làm việc để giảm hoặc loại bỏ những hàng rào thuế quan và
phi thuế quan. Những cuộc thương lượng vấn tiếp tục để đưa những thỏa
thuận này vào sự nhất trí đa phương nhầm cấm hầu hết các trợ cấp, loại bỏ
thuế quan, và thiết lập một cơ chế giải quyết tranh chấp. Mục tiêu nhằm đạt
tới thỏa thuận trước cuối tháng 3-1992 khi VER đang tồn tại nhờ xuất khẩu
thép hết hạn vào Mỹ. Tuy nhiên, một trong những khó khãn đã nẩy sinh trong
các cuộc đàm phán là những người tham dự đã miễn cưỡng tự cam kết vào
những vấn đề có thể làm hại tới những lập trường của họ tại các cuộc thương
lượng trong Vòng đàm phán Urugoay về chống phá giá và trợ cấp.
Cuối 1989, những cuộc thương lượng đã đưa tới một thỏa thuận mới)
nhằm xóa bỏ trợ cấp cho ngành công nghiệp đóng và sửa chữa tàu: Những
cuộc thương lượng tại Nhóm làm việc Hội đồng OECD về đóng tàu với mục
tiêu ký được một hiệp định vào cuối năm 1991. Những vấn đề chưa được giải
quyết bao gồm việc xử lý các tín dụng xuất khẩu, những kế hoạch tín dụng
trong nước và thời gian biểu xóa bỏ sự trợ giúp của chính phủ.
Trong nhóm Tín dụng xuất khẩu của OECD có 22 nước công nghiệp
thành viên các cuộc thương lượng tiến hành theo Hiệp định Mới về Tín dụng
xuất khấu (nhất trí) nhằm củng cố thỏa thuận mới nhẫt, đã ký kết năm 1987.
Sự nhất trí được dự kiến ngăn chặn sự "cạnh tranh phá hoại "đối với” tín
dụng xuất khẩu trong các nước hội viên mà cơ quan tín dụng xuất khẩu của
họ trong hầu hết các trường hợp đã được chính phủ quốc gia tài trợ. Các
cuộc thảo luận nhằm đề ra những biện pháp giảm bớt những hành động làm
méo mó thương mại do những tín dụng trợ giúp trói buộc và trợ cấp quyền
lợi. Từ khoảng 1982, nhưng thỏa thuận tín dụng xuất khẩu thực tế đã loại bỏ
được yếu tố trợ cấp bình quân đối với nhữg tín dụng trung hạn cho các nước
có thu nhập trung bình. Kết quả là, các nước hội viên đã xử dụng những tín
dụng và trợ giúp khác nhau để khuyến khích xuất khẩu. Một dự thảo hiệp định
được trình bày tại hội nghị Bộ trưởng OECD tháng 6 - 1991 đã không được
chấp nhận và các bộ trưởng đã nhất trí lấy cuối năm 1991 làm hạn cuối cùng
để ký hiệp định. Sự cam kết này đã được lập lại tại hội nghị kinh tế cấp cao
nhất ở Luân Đôn tháng 7.
3. Những diễn biến chính sách thương mại trong các nước Mỹ
Những năm gần đây, các mục tiêu chính của chính sách thương mại
Mỹ là tăng cường chế độ thương mại đa phương bằng cách hoàn thiện Vòng
đàm phán Urugoay nhằm mở cửa các thị trường nước ngoài cho hàng Mỹ,
dịch vụ đầu tư Mỹ và khuyến khích thương mại tự do và "công bằng". Các
mục tiêu này đã được tiếp tục xuyên suốt những cuộc thương lượng đa
phương, những sáng kiến khu vực và tay đôi và việc thực hiện đơn phương
luật thương mại Mỹ. Mỹ đóng một vai trò lớn trong việc phát động Vòng đàm
phán Urugoay và tiếp tục đặt ưu tiên cao nhất vào những kết luận thành công
của Vòng đàm phán ấy, coi đó là những cách tốt nhất củng cố chế độ buôn
bán đa phương. Mỹ đã ủng hộ mạnh mẽ cải cách nông nghiệp và mở rộng kỷ
luật của GATT tới những lĩnh vực mới: dịch vụ, đầu tư thương mại, sở hữu tài
sản trí tuệ, đề nghị của Mỹ vế nông nghiệp chỉ rõ Mỹ sẵn sàng loại bỏ Luật
1955 của mình là muốn duy trì những hạn chế đối với một số hàng nông sản.
Tháng 5 năm 1991, Quốc hội Mỹ đã kéo dài quyền thương lượng theo
lập trường của Tổng thống đến tháng 6-1993 xoá bỏ trở ngại để tiếp tục các
cuộc thương lượng nghiêm chỉnh. Điều đó đã mở đường cho việc thương
lượng một Hiệp định Thương mại tự do Bắc Mỹ bao gồm Mỹ, Canada và
Mêhicô. Mỹ đã ủng hộ việc nhất thể hóa khu vực ở châu Âu và các nơi khác
vì tin rằng nó có thể là một trợ lực cho tự do hóa khi tiếp tục một cơ cấu tổ
chức GATT kiên định. Trong nước, Chính phủ đã đạt kết quả tốt đẹp trong
việc chống lại những sức ép bảo hộ ở Quốc hội Mỹ; tuy nhiên, việc Mỹ đơn
phương sử dụng luật thương mại của minh tọc mạch xông vào mở cửa các
thị trường nước ngoài và bảo hộ các quyền lợi Mỹ đã gây thêm căng thẳng
với các bạn hàng của mình. Mỹ là một bên của hai hiệp định thương mại tự
do - một với Ixraen năm 1985 và một với Canada có hiệu lực vào ngày 1 - 1 -
1989, hiệp định này thôi đánh thuế quan và xóa bỏ các hàng rào buôn bán
khác theo những thời gian biểu mười năm đã được nhất trí. Theo Hiệp định
Thương mại tự do Mỹ -Canađa (FTA), hai vòng cắt giảm thuế quan hết sức
nhanh, hai bên thực hiện mậu dịch hai chiều hơn 8 tỷ USA đã được hoàn
thiện vào giữa năm 1991. Nhưng cũng còn quá sớm để đánh giá tác động
kinh tế của việc thực hiện từng phần FTA, duyệt lại việc thực hiện trong hai
năm đầu cho thấy cả hai nước đã coi rằng việc thực hiện hiệp định đã trôi
chảy và những cuộc tranh chấp đã được giải quyết thỏa đáng, số lượng
những trường hợp bù đắp và chống phá giá giảm từ 12 năm 1989 xuống 4
năm 1990. Tuy nhiên những bất đồng mới nảy sinh đối với những quy tắc
xuất xứ xe ôtô (Công ty động cơ hữu hạn Honda có chi nhánh Mỹ nhập khẩu
Honda Civics từ nhà máy của nó ở Canada) và quy tắc cho trong nước về ô
tô theo Điều ước ô tô Mỹ - Canada, Mỹ muốn tăng số lượng từ 50 lên 60%.
Tháng 2-1991, các chính phủ Mỹ, Canada và Mêhicô công bố ý định
của họ theo đuổi một Hiệp định Thương mại tự do Bắc Mỹ- (NAFTA) và
những cuộc thương lượng bắt đầu tháng 6. Mục tiêu là xóa bỏ các hàng rào
ngăn cách các luồng hàng, dịch vụ và đầu tư và các quyền sở hữu tài sản trí
tuệ. Một số nước đang phát triển đã lo ngại về tiềm lực của một NAFTA làm
chệch hướng các luồng buôn bán và đầu tư, làm xói mòn các ưu đãi buôn
bán họ được hưởng và những khu vực cử tri trong nước khác nhau ở Mỹ và
Canada đã dấy lên mối lo "phi mậu dịch" bắt nguồn từ Mêhicô, ở đây mức
sống và thu nhập thấp hơn. Còn những khác biệt về các tiêu chuẩn lao động
và môi trường, các tiêu chuẩn y tế và an toàn, những chế độ điều tiết và phân
phối, có thể gián tiếp gây ra sự cạnh tranh tốn kém và hạ thấp các tiêu chuẩn
môi trường và các tiêu chuẩn khác khi hiệp định thương mại tự do được thực
hiện.
Tháng 6-1990, Tổng thống Bush công bố Doanh nghiệp đổi mới Mỹ
(EAI), tìm kiếm việc giải quyết các vấn đề nợ, đầu tư, buôn bán và môi
trtường.
Về buôn bán, mục tiêu là kết thúc thắng lợi Vòng đàm phán Urugoay và
bớt những hàng rào ngăn cản buôn bán và đầu tư ở Tây Bán Cầu, chủ yếu,
EAI dự kiến một khu vực mậu dịch tự do khắp bán cầu. Từ khi công bố EA1,
Mỹ đã ký những hiệp định khung buôn bán và đầu tư với hầu hết các nước ở
Trung và Nam Mỹ và vùng Caribê, Những đổi mới khác ở Tây Bán Cầu gồm
sáng kiến lưu vực Caribê ưu đãi thuế quan cho các nước Caribê, mở rộng và
ưu đãi mậu dịch cho các nước Andean (Bôlivia, Côlômbia, Êcuado và Pêru),
bổ sung những điều đã định ra trong Hệ thống ưu đãi chung (GSP).
Việc thực hiện luật thương mại Mỹ để mở cửa các thị trường nước
ngoài được tăng cường từ sau năm 1988. Tiết 301 của Luật Buôn bán 1974
đã cho Tổng thống quyền hành động chống các hoạt động buôn bán không
hợp lý, không công bằng, hoặc phân biệt đối xử và là gánh nặng hoặc hạn
chế buôn bán của Mỹ. Trên thực tế, điều đó gắn với Luật bảo hộ thương mại,
dịch vụ và hàng hóa, đầu tư nước ngoài và bảo vệ quyền sở hữu tài sản trí
tuệ. Luật cạnh tranh và Buôn bán quyền tác giả 1988 củng cố Tiết 301 bằng
nhiều phương sách: chuyển giao quyền đối với những trường hợp khởi đầu
không đúng đắn từ Tổng thống sang cho Đại diện thương mại Mỹ (USTR) đòi
hỏi USTR theo những điều khoản "siêu" 301, đã hết hạn vào năm 1990 nhận
dạng những nước và những hoạt động ưu đãi và lập ta một thời khóa biểu
cho việc điều tra và ra nghị quyết về những hoạt động đã được nhận biết và
yêu cầu USTR dựa vào điều khoản 301 "Đặc biệt" nhận dạng những nước vi
phạm các quyền sở hữu tài sản trí tuệ Mỹ. Luật 1988 cũng yêu cầu nhận
dạng những nước và những hoạt động đã hạn chế Mỹ xuất khẩu các dịch vụ
và thiết bị viễn thông và hạn chế Mỹ tiếp nhận ủy quyền của chính phủ nước
ngoài.
Những hành động theo các điều khoản Siêu và Đặc biệt 301 của Luật
1988 đã được tóm tắt trong bảng 319. Năm 1989 ba nước Braxin, Nhật và Ấn
Độ đã được nhận dạng là những nước ưu tiên theo Siêu 301 ưu tiên này đã
được thực hiện với Nhật và Braxin, còn Ấn Độ thì năm 1990 lại nhận dạng lại.
Sau khi trao đổi ý kiến với Ấn Độ, ƯSTR đã quyết định không thực hiện ưu
tiên vì những hoạt động đã được điều tra có liên quan đến những biện pháp
đầu tư và lối vào thị trường bảo hiểm đã được nêu ra trong Vòng đàm phán
Urugoay. Không có nước được ưu tiên nào theo Đặc biệt 301 trong năm 1989
hoặc 1990 do không có tiến bộ trong các cuộc thương lượng đang diễn ra, tuy
thế, năm 1991, ba nước ưu tiên bị nhận dạng là vi phạm quyền sở hữu tài
sản trí tuệ của Mỹ, đó là Trung Quốc, Ấn Độ và Thái Lan. Theo điều khoản
viễn thông của Luật 1988, EC và Triều Tiên đã được chỉ định là "những nước
ngoài được ưu tiên" năm 1989 và những thỏa thuận về lối vào thị trường đã
đạt được trong các cuộc thương lượng sau đó. Không nước nào bị phát hiện
là phân biệt đối xử trong việc chính phủ cấp ủy nhiệm, và do đó không có biện
pháp trả đũa nào phải thực hiện theo các điều khoản Siêu và Đặc biệt 301
của Luật Thương mại 1988.
Những diễn biến quan trọng khác trong quan hệ thương mại là việc đưa
ra sáng kiến cản trở cơ cấu Mỹ - Nhật năm 1989 (SII) nhằm đặt ra những cản
trở cơ bản đối với buôn bán và điều chỉnh cán cân thanh toán. Mỗi bên phát
hiện ra những cản trở về cơ cấu để điều tiết trong nước và thỏa thuận vào
tháng 6 - 1990 đã giải quyết vấn đề đó.
Những thể thức theo sau đó kêu gọi tiếp tục thảo luận những báo cáo
tiến bộ hàng năm; báo cáo hàng năm đầu tiên công bố tháng 5-1991. Đặc
trưng mới của những cuộc thương lượng SII là tập trung vào các chính sách
trong nước, đặc biệt các chính sách cạnh tranh và sự ứng xử của các công ty
trách nhiệm hữu hạn. Năm trong só sáu điều cản trở do Mỹ phát hiện là có
liên quan đến các chính sách cạnh tranh trong nước. Nhật Bản phát hiện sự
ứng xử thiển cận của các công ty trách nhiệm hữu hạn Mỹ đầu tư không đầy
đủ vào nghiên cứu và phát triển và nguồn lực con người là những nhân tố cản
trở sức cạnh tranh của Mỹ. Những diễn biến này đề cao nhân thức được tăng
lên rằng sự khác biệt trong các chính sách thương mại và cạnh tranh và
những xung đột giữa cạnh tranh vớí các chính sách buôn bán có thể làm méo
mó các luồng thương mại và đầu tư quốc tế. Những vấn đề này đã được
khảo sát ở Phụ lục II, tài liệu xem xét mối quan hệ giữa các chính sách
thương mại và cạnh tranh và những cố gắng đang được tiến hành để cân đối
các chính sách cạnh tranh.
Luật Thương mại 1988 cũng cho phép Tổng thống hạn chế đầu tư
nước ngoài nào đe dọa an ninh quốc gia (điều bổ sung Exon-Florio). Tháng 5-
1991, ủy ban Đầu tư nước ngoài ở Mỹ đã nhận được 560 thông báo. Trong
số này, 12 giao dịch là đối tượng điều tra, Tổng thống chỉ hành động trong
một trường hợp ra lệnh tước bỏ những bộ phận máy bay Mỹ do Công ty Nhập
khẩu Xuất khẩu Công nghệ hàng không Trung Hoa Quốc gia sản xuất. Ngày
17 tháng 8 năm 1991, Tổng thống Bush ký một dự luật định hiệu lực trở lại
điều khoản Exon - Florio.
Nhật
Nhật đã thực hiện một loạt biện pháp mở cửa thị trường trong năm qua
và đã thực tế cắt bỏ mọi hàng rào chính thức ngăn cản buôn bán hàng công
nghiệp nhập khẩu. Bất chấp điều này, một vài bạn hàng thương mại lớn cho
rằng những hoạt dộng không chính thức đã ngăn cản nhập khẩu, đầu tư
nước ngoài và cạnh tranh trong thị trường trong nước và điều này đã đưa đến
những cuộc thảo luận đang tiếp diễn về lối vào thị trường. Phần lớn là dưới
sức ép của các bạn hàng thương mại, Nhật đã lần lượt tự do hóa việc nhập
khẩu thịt bò, cam quýt và một số nông phẩm, nhưng khu vực nông nghiệp
Nhật vẫn được bảo hộ rất mạnh, áp đặt những chi phí lớn vào nền kinh tế của
mình và gây xích mích buôn bán với các nước xuất khẩu nông nghiệp. Về
mặt xuất khẩu,Nhật tiếp tục luôn luôn hạn chế xuất khẩu tự nguyện và dùng
những hình thức khác của nền thương mại được quản lý chặt để xử lý những
cuộc tranh chấp với các bạn hàng nước ngoài của mình chứ không tìm kiếm
những giải pháp đa phương. Trong một cuộc khởi đầu quan trọng từ kinh
nghiệm thực tiễn trong quá khứ, năm 1988 Nhật thách thức tính pháp lý
GATT của luật chống trốn thuế của EC và đã được nhóm GATT cầm quyền
năm 1990 ủng hộ.
Nhật đã tham gia tích cực Vòng đàm phán Urugoay và đặc biệt quan
tâm đến việc củng cố các quy tắc thương mại trong những lĩnh vực chống
phá giá, quy tắc nguồn gốc bảo vệ và giải quyết tranh chấp. Trong những lĩnh
vực mới, Nhật tìm kiếm thiết lập kỷ luật đối với những biện pháp đầu tư
thương mại và những quyền sở hữu tài sản trí tuệ. Về nông nghiệp, Nhật
nhấn mạnh tầm quan trọng của an ninh lương thực thực phẩm và cần thiết
phải duy trì tự túc đặc biệt về gạo của mình; Theo quan điểm của Nhật những
cải cách nông nghiệp trước hết phải nhằm giảm bớt trợ cấp xuất khẩu.
Trong vài năm qua, những biện pháp mở cửa thị trường đã được thực
hiện trong bối cảnh đổi mới khác nhau. Theo Chương trình Hành động cải
tiến lối vào thị trường tích cực làm trong ba năm bắt đầu tháng 7 năm 1985,
Nhật đã loại bỏ hoặc giảm bớt đánh thuế vào trên 2.000 mật hàng, nâng cao
những lợi ích của Hệ thống ưu đãi chung (GSP) và đơn giản hóa những thể
thức tiêu chuẩn, cấp chứng nhận và nhập khẩu. Đáp ứng yêu cầu của một
nhóm cầm quyền GATT năm 1988, 10 mặt hàng nông phẩm đã được tự do
hóa. Những cuộc thảo luận tay đôi riêng rẽ với Mỹ và Ôxtrâylia đã đưa đến
việc tuần tự cấp những quotas nhập khẩu lớn hơn thịt bò, cam quýt và thay
thế sau đó những thuế biểu tháng 4 - 1991
Những cuộc đàm phán MOSS - Đặc biệt Khu vực đinh hương thị
trường khởi xướng năm 1985 với Mỹ đã tìm kiếm cải thiện lối vào thị trường
trên cơ sở MFN - Tối Huệ Quốc về điện tử, viễn thông, dược và thiết bị y tế,
lâm sản và phụ kiện xe ô tô. Theo tiến trình này, tháng 9 - 1991, Nhật và Mỹ
đã nhất trí tiến hành chung một nghiên cứu về nguồn gốc xuất xứ các bộ
phận sử dụng trong các xe ô tô Mỹ và Nhật và nghiên cứu các vấn đề các nhà
sản xuất bộ phận xe ô tô Mỹ tìm cách xuất khẩu sang Nhật. Năm 1990, Nhật
đã đưa ra một chương trình mới toàn diện những biện pháp mở rộng nhập
khẩu bao gồm khuyến khích thuế đánh vào nhập khẩu, viện trợ tài chính cho
những nhà nhập khẩu, loại bỏ hoặc giảm biểu thuế đánh vào 1.008 sản phẩm
công nghiệp (trị giá 13 tỷ USD năm 1988) và những chương trình khuyến
khích nhập khẩu.
Nhằm đáp ứng sự gia tăng tương đối nhanh nhu cầu trong nước và sự
lên giá thật sự lớn của đồng yên 1985 - 87, thặng dư thương mại của Nhật từ
điểm cao nhất tụt xuống rất mạnh trong những năm 1988 - 90. Trong một
chừng mực nào đó, những sức ép bảo hộ dịu đi ở những nước khác, nhưng
những triển vọng mới đây về khả năng mở rộng thặng dư thương mại của
Nhật đã góp phần làm sống lại quan điểm bảo hộ của EC, Mỹ và của một vài
nước châu Á. Những năm gần đây, cũng đã có một sự thay đổi trong cơ cấu
xuất nhập khẩu của Nhật). Sự tăng nhanh nhập khẩu hàng công nghiệp đã
vượt qua những lời tiên đoán dựa trên các mối quan hệ lịch sử cho thấy rằng
những biện pháp mở cửa thị trường có thể sẽ giữ một vai trò. Trong khi phần
của nhập khẩu hàng công nghiệp trong tổng nhập khẩu Nhật đã tăng lên đáng
kể từ 1985, thì có quan điểm cho rằng mức nhập khẩu hàng năm của Nhật là
thấp theo tiêu chuẩn của nước công nghiệp, những nhà chuyên gia thương
mại tiếp tục tranh cãi như vậy. Về mặt xuất khẩu, tổng xuất khẩu thực tế tăng
chậm đi nhiều sau sự lên giá của đồng yên phản ánh điều này: trong khi xuất
khẩu hàng thiết bị tiếp tục tăng, những hàng xuất khẩu khác giảm là do yêu
cầu yếu đi, Corker (1990) cho rằng hình mẫu này vẫn không thay đổi sau gần
sáu lần tăng lên trong đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật (FDI) từ 1985. Sự
tăng trưởng đầu tư ra nước ngoài là do việc đồng yên lên giá, việc này đã
đưa đến việc thiết lập các phương tiện sản xuất hải ngoại ở các nước châu Á
chi phí thấp hơn, và trốn được các hàng rào thương mại, đặc biệt VER và
thuế chống phá giá ở Mỹ và EC. Như đã trình bày trên, phần lớn các hoạt
động chống phá giá của EC và Mỹ là trực tiếp chống lại hàng xuất khẩu từ
Nhật và Nhật duy trì số lượng lớn nhất các cuộc thương lượng hạn chế xuất
khẩu tự nguyện đã được biết đến (Bảng A9). Bộ công nghiệp và thương mại
quốc tế (MITI) đã ước lượng rằng năm 1989 xuất khẩu qua những thỏa thuận
hạn chế đã chiếm 12,5% xuất khẩu của Nhật(khoảng 29% xuất khẩu của Mỹ).
Nhật cũng đã là một bên ký những hiệp định "mở rộng nhập khẩu tự
nguyện" với Mỹ - nước đã tỏ ra quan tâm về lối vào vào thị trường phân biệt
đối xử. Kết quả của các cuộc thương lượng theo Siêu 301 tháng 3 - 1990
Nhật và Mỹ đạt được những thỏa thuận về việc tìm kiếm các thủ tục đối với
vệ tinh và siêu điện toán. Tháng 6-1991 Nhật và Mỹ đã ký một hiệp định mới
thay thế hiệp định năm 1986 về bán dẫn. Trong nhiều vấn đề, hiệp định mới
nhằm tăng nhập khẩu bán dẫn của Nhật hơn 20% của thị trường trong nước
vào cuối năm 1992; Nhật cũng loại bỏ việc giám sát giá và tái thiết lập những
thể thức thông thường chống phá giá. Mỹ thì nhất trí cắt bỏ 165 triệu USD
biểu thuế phạt áp đặt năm 1987 vì sự không chiều theo ý muốn của Nhật với
vài điều khoản của hiệp định 1986.
Nhật và Mỹ cũng đã đạt được thỏa thuận vào tháng 6 - 1991 về những
bổ sung vào Hiệp định những dự án lớn thêm 17 công trình xây dựng nữa
của Nhật vào 17 công trình lúc đầu bao gồm trong hiệp định và gắng trong
sáng hơn nữa khi làm thủ tục khai báo và đấu thầu cũng như những thể thức
giải quyết tranh chấp. Tổng giá trị của các dự án do hiệp định bảo hộ sẽ tăng
từ 6 tỷ USD lên gần 30 tỷ USD so với 165 tỷ USD giá trị xây dựng khu vực
công cộng. Chỉ một phần nhỏ đã được đấu thầu đúng thời hạn.
Cộng đồng Châu Âu
Trong EC, các chính sách mậu dịch chịu ảnh hưởng rất lớn của những
mục tiêu EC 1990, những diễn biến ở Đông Âu và Liên Xô cũ và những
thương lượng trong Vòng đàm phán Urugoay, EC 1992 nhằm thiết lập một thị
trường mội bộ thống nhất vào cuối 1992, thị trường này hoàn thành khi những
hàng rào bên trong EC được gỡ bỏ để cho hàng và dịch vụ và những nhân tố
sản xuất tự do chảy vào và với sự thừa nhận hỗ tương các luật và quy chế
quốc gia được nhất trí thỏa thuận trên những yêu cầu tối thiểu thiết yếu.
Sự thống nhất có những mối quan hệ mật thiết quan trọng cho các
chính sách mậu dịch ở cả cấp quốc gia lẫn EC. Điều 115 của Hiệp ước Rome
quy định ủy ban EC có thể được quyền hạn chế nhập khẩu (VER, quotas
V.V..) chống những nước thứ ba tại cấp quốc gia và cho phép hạn chế bên
trong EC nhằm ngừa trước nhập khẩu gián tiếp thông qua những nước EC
khác. Những hàng rào bên trong EC sẽ cần phải được gỡ bỏ và những hạn
chế mậu dịch tại cấp quốc gia sẽ hoặc bị loại bỏ hoặc được thay thế bàng
những biện pháp EC. Phản ánh một sự thắt chặt các tiêu chuẩn mà ủy ban
EC sử dụng để xem xét những yêu cầu của các nước hội viên đối với những
hạn chế bên trong EC, toàn bộ ủy quyền đối với những biện pháp này đã
giảm từ 128 năm 1988 xuống còn trên một nửa năm 1980 và xuống 79 năm
1990.
Những đề nghị gỡ bỏ những hạn chế quốc gia và chế độ đối ngoại
chung của EC sau 1992 vẫn còn bàn cãi. Những hạn chế quốc gia có thể sẽ
được các biện pháp EC thay thế hoặc hạn chế hơn hoặc kém trước trên sự
cân bằng với những hạn chế quốc gia hiện có. Hầu hết những hạn chế này là
ở hình thức hạn chế xuất khẩu tự nguyện hoặc những hình thức giám sát
khác. Tháng 3 - 1989, thời hạn cuối cùng có giá trị đối với số liệu chi tiết EC
đã tham gia khoảng 173 hiệp định hạn chế xuất khẩu, 96 trong số đó là các
thỏa thuận ở cấp quốc gia. 63 trong số 96 thỏa thuận đó liên quan đến Nhật
và những hoạt động tư vấn không chính thức giữa Nhật với EC tuần tự tiến
tới loại bỏ VER vào cuối 1992. Kết quả của những thảo luận này là hiệp định
tháng Bẩy biến đổi VER trong phạm vi quốc gia đối với xuất khẩu ôtô của
Nhật vào các nước EC thành một cuộc thương lượng giám sát EC sẽ giới hạn
xuất khẩu ô tô của Nhật tới năm 1999 ở mức EC hiện hành (khoảng 1,25 triệu
đơn vị) và cho phép nâng một cách có kế hoạch số lượng bán ra bằng cách
"xuyên nhà máy" - có nghĩa là các chi nhánh của Nhật Bản tiến hành sản xuất
ở các nước EC. Sự thương lượng chia phần thị trường này đã khêu gợi đòi
hỏi một sự thương lượng tương tự giữa Nhật và Mỹ tại Quốc Hội Mỹ.
Chương trình Thị trường thống nhất và những diễn biến ở Đông Âu và
các nước Cộng hòa cũ của Liên Xô đã đưa đến triển vọng của một EC mở
rộng và những cuộc thương lượng ưu đãi mậu dịch khu vực khác. Nước
Cộng hòa Dân chủ Đức cũ đã trở thành bộ phận của EC là kết quả của nước
Đức thống nhất và năm nước khác đã được chính thức nhận vào EC: Áo,
Síp, Phần Lan, Thụy Điển và Thổ Nhĩ Kỳ, việc nhập EC sẽ được xem xét sau
khi hoàn thiện việc thống nhất EC năm 1992. Tháng 6 - 1990, những thương
lượng chính thức đã bắt đầu giữa EC và EFTA đi tới việc lập ra một Khu vực
kinh tế châu Âu - EEA năm 1993.
Những diễn biến ở Đông Âu và Liên Xô cũ đã bổ sung cho các sức ép
cải cách Chính sách nông nghiệp chung (CAP) của EC, nguồn va chạm xích
mích lớn đối với các bạn hàng mậu dịch của EC. Một cải cách căn bản CAP
phải giảm bớt rất nhiều các tác động đối địch đối với thị trường thế giới và
những nhà sản xuất nông nghiệp có khả năng được coi là nhất thiết đưa
Vòng đàm phán Urugoay kết thúc thành công. EC đang xúc tiến để đạt tới
mục đích này nhưng tiến bộ còn chậm.
Canada
Từ 1984, Canada đã định hướng lại các chính sách củng cố vai trò của
các lực lượng thị trường trong nền kinh tế của mình thông qua cải cách thuế,
thôi định quy chế và tư nhân hóa, mở cửa rộng hơn cho đầu tư và buôn bán
nước ngoài, ở lĩnh vực chính sách buôn bán, tự do hóa là chủ yếu trong các
cuộc thương lượng khu vực. Canada đã tìm kiếm bảo đảm lối vào thị trường
và giành lợi thế cho nền kinh tế có quy mô và cạnh tranh mạnh mẽ hơn thông
qua việc thiết lập khu vực mậu dịch tự do với Mỹ, người bạn hàng thương mại
lớn nhất của mình và hiện nay là một bên tham gia đầy đủ và bình đẳng trong
những cuộc thương lượng tay ba giữa Canada, Mêhicô và Mỹ, để lập NAFTA.
Đối với NAFTA, Canada quan tâm đến bảo đảm các quyền lợi của mình trong
các lĩnh vực dịch vụ, các quyền sở hữu tài sản trí tuệ và những thể thức giải
quyết các cuộc tranh chấp, duy trì được sức hấp dẫn Canada là một chủ nhà
nhận đầu tư trực tiếp của nước ngoài.
Tác động kinh tế của NAFTA đối với nền kinh tế của Canada dự tính là
không lớn. Buôn bán với Mêhicô tương đối nhỏ, hầu như 80% nhập khẩu từ
Mêhicô vào Canada được miễn thuế với những cấu kiện ô tô là thành phần
máy lớn nhất. NAFTA có thể không bao gồm, loại trừ một số lĩnh vực nhạy
cảm từ mậu dịch tự do: Mêhicô quan tâm đến việc loại trừ khu vực năng
lượng; Mỹ muốn hạn chế sự cơ động của lao động và Canada muốn loại trừ
các hàng văn hóa.
Các nhà cầm quyền Canada cho rằng sự bổ sung trong tương lai việc
nhất thể hóa khu vực với sự tự do hóa đa phương sẽ phụ thuộc vào kết quả
của Vòng đàm phán Urugoay và hiệu lực của quá trình giải quyết các cuộc
tranh chấp theo đó Canada tiếp tục đặt ưu tiên cao nhất vào kết luận tháng lợi
của Vòng đàm phán Urugoay. Mở cửa ra với người bạn hàng lớn nhất của
mình, Canada đã ủng hộ mạnh mẽ việc tự do hóa thương mại và dịch vụ đa
phương và củng cố các quy tắc mậu dịch. Trong nông nghiệp, Canada quan
tâm đến sự leo thang cuộc chiến tranh trợ cấp giữa Mỹ và EC ngày càng ác
liệt khi Mỹ tăng cường Chương trình Đẩy mạnh xuất khẩu tới 1,5 tỷ USD. Là
một thành viên của Nhóm Cains, Canada đã giảm rất mạnh các chính sách
nông nghiệp làm méo mó nền thương mại mặc dầu Canada mong muốn duy
trì các chương trình quản lý cung ứng của mình bảo hộ sữa, trứng và gia
cầm.
Theo Luật Đầu tư Canada, năm 1985, những chính sách hạn chế chi
phối đầu tư nước ngoài đã được định hướng lại tiến tới một chế độ tích cực
khuyến khích đầu tư nước ngoài. Một số hạn chế vẫn còn được giữ lại trong
những khu vực được coi là "chiến lược" (dầu và khí, uranium, đánh cá) và
trong các công nghiệp văn hóa và Canada tiếp tục kiểm điểm lại những đầu
tư trên ngưỡng cửa đặc biệt.
Những nước công nghiệp khác
Trong những nước công nghiệp nhỏ, Ôxtrâylia và Niu Dilân đã tiến
hành tự do hóa thương mại mạnh nhất trong các chương trình cải cách cơ
cấu toàn diện nhằm rút bỏ việc định ra những quy chế và mở cửa nền kinh tế
cho sự cạnh tranh quốc tế. Về truyền thống, các mức bảo hộ của họ đã cao
hơn rất nhiều nước công nghiệp khác và tỷ trọng, cân xứng của những thuế
biểu của họ được giới hạn ở mức tương đối thấp theo tiêu chuẩn nước công
nghiệp (các bảng A5 và A6). Về mối quan hệ kinh tế chặt chẽ hơn giữa
Ôxtrâylia - Niu Dilân, những nước này thực hiện mậu dịch tự do tay đôi về
hàng hóa. Mậu dịch tự do cũng đã được thực hiện trong hầu hết các dịch vụ.
Ôxtrâylia đổi mới những chương trình năm năm cải cách thương mại
năm 1988. Chương trình này giảm thuế quan trên 15% vào tháng 7-1992,
những biểu thức từ 10 đến 15% giảm 10%. Không thuộc loại này gồm dệt,
quần áo, giầy dép và các xe động cơ hành khách là những mặt hàng được
tuần tự tự do hóa hơn nữa, những quotas nhập khẩu xe động cơ hành khách
bị loại bỏ năm 1988. Tháng 3-1991, giai đoạn 2 cải cách thuế, giảm biểu thuế
xe động cơ hành khách từ 35% năm 1992 xuống 15% năm 2000, sẽ cắt bỏ
quotas dệt, quần áo và giày dép vào 1-3-1992 và giảm viện trợ cho nông
nghiệp theo đường lối cải cách trong sản xuất công nghiệp. Ước lượng việc
hoàn thiện cải cách đã được công bố sẽ giảm tỷ lệ viện trợ xuống 5% vào
cuối thập kỷ này.
Niu Dilân khởi xướng cải cách toàn diện nền kinh tế năm 1984. Về mặt
đối ngoại, sẽ loại bỏ hầu hết những kế hoạch khuyến khích và trợ cấp xuất
khẩu, thôi cấp giấy phép nhập khẩu (trừ đối với một vài khu vực nhạy cảm
như dệt, quần áo và giày dép là những khu vực đang được tự do hóa trong
những kế hoạch công nghiệp), giảm 50% thuế biểu từ 1986 đến 1992, thôi
kiểm soát ngoại hối và tự do hóa chế độ đầu tư nước ngoài. Năm 1988, việc
cấp giấy phép nhập khẩu đã được bãi bỏ đối với một nửa các mặt hàng khi
trước đã chịu sự kiểm soát đó và sẽ hoàn toàn loại bỏ vào tháng 7-1992.
Tháng 9-1991, chính phủ đã công bố một cuộc giảm thuế nữa, một phần ba
mức thuế từ 1992 đến 1996, so với cuộc cải cách do chính phủ trước đề
xướng thì thời gian có chậm hơn.
GHI CHÚ VÀ PHỤ LỤC THỐNG KỀ (PHẦN I)
1. Trong những năm 1980, Niu Dilân và Ôxtrâylia đề xướng những
chương trình, cải cách thuế quan đã giảm những thuế suất. Vài nước khác
bao gồm Canada. Nhật và Mỹ đã giảm thuế quan đối với những mặt hàng đã
được lựa chọn.
2. Bao gồm XEC,EFTA, Hiệp định thương mại tự do Mỹ-Canada và
Hiệp định
Quan hệ kinh tế chặt chẽ hơn Oxtrâylia-Niu Dilân.
3. Những biện pháp tỷ số bảo hộ thương mại phần trăm mậu dịch trong
một mặt hàng liệt vào những biện pháp phi thuế quan được coi là một chỉ dẫn
hạn chế vì đã không biết được mậu dịch ở những mức như thế nào thì không
cần phải hạn chế. Cũng vậy, tỷ số bảo hộ mậu dịch không tác động đến việc
làm giảm nhẹ hoặc nới lỏng các hạn chế mà chỉ phản ánh những thay đổi
trong việc bảo hộ sản phẩm. Cơ sở số liệu UNCTAD chỉ bao quát những biện
pháp biên giới không thôi.
4. Những biện pháp hạn chế không chỉ nhằm vào những sản phẩm xuất
khẩu hiện hành mà còn nhằm ngăn cản đầu tư trong lĩnh vực các nước dạng
phát triển đã xuất khẩu được rất nhiều.
5. Những biện pháp phi thuế quan “nòng cốt” không bao gồm các hành
động chống phá giá và bù đắp, cấp giấy phép một cách tự động, các biện
pháp giám sát nhập khẩu và những biện pháp nửa thuế quan.
6. Laird và Vossenaar (1991) tr.8-9.
7. Tháng 7-1991, MFA đã được mở rộng mà không cần có sự thay đổi
suốt năm 1992 vì việc kết thúc Vòng đàm phán Urugoay chậm lại (Phụ lục I).
8. Xem Finger và Nogues (1987), Messerlin (1989) và Nicolaides
(1991): xem lại việc thực hiện chống phá giá và bù trừ ở Mỹ và EC. Đặc biệt,
Messerlin đã cho rằng những đặc trưng của những bộ luật chi phối những
hành động chống phá giá và bù trừ và áp dụng chúng trong thực tiễn là hai
công cụ thay thế cho hàng nhập khẩu cạnh tranh. Ông thấy rằng những
trường hợp EC và Mỹ khởi xướng mục tiêu một dải hẹp những công nghiệp
và đã tác động rất mạnh khu vực riêng biệt.
9. Theo GATT (1991a, tr.8) bốn nước này đã khỏi xướng trên 1.000
cuộc điều tra kể từ 1980, 500 trong số đó là những biện pháp bảo hộ.
10. Cơ quan đại diện Thương mại Mỹ (1991).
11. GATT (1991c) tr.7.
12. Trốn thuế có thể diễn ra khi nói xử lý một số sản xuất như lắp ráp
cuối cùng phải thay đổi vì thuế chống phá giá hoặc bù trừ đe dọa hoặc đã ứng
dụng vào sản phẩm cuối cùng.
13. Những Ngân hàng (1990).
14. Cơ quan đại diện Thương mại Mỹ (1991).
15. Số liệu tài khoản quốc gia OECD định nghĩa trợ cấp là tất cả tiền ở
tài khoản hiện hành chính phủ cho các công nghiệp tư nhân và các công ty
trách nhiệm hữu hạn công cộng cùng với những khoản tiền cấp cho các
doanh nghiệp chính phù để trang trải cho khoản thua lỗ do các chính sách
chính phủ duy trì giá thấp hơn chi phí sản xuất.
16. Cuộc điều tra không bao gồm những khu vực quan trọng đáng kể
nhất là năng lượng (trừ than) vận tải (trừ đường sắt và đường sông) và nhà
cửa. Viện trợ Cộng đồng châu Âu cấp không được điều tra khoảng 80% cho
khu vực nông nghiệp.
17. 10 nước EC là Bỉ, Đan Mạch, Đức, Hy Lạp, Pháp, Ireland, Italia,
Lucxambua, Hà Lan và Anh.
18. OECD (1990a) tr.111. Những con số này chỉ tính tài trợ chính phủ
cho nghiên cứu và phát triển ở khu vực công nghiệp. Chi tiêu chính phủ cho
nghiên cứu và phát triển ở Nhật là khoảng 20% của tổng nghiên cứu và phát
triển, ở các nước công nghiệp lớn khác là khoảng 50%.
19. Hiệp định trước ký năm 1973 và đã được duyệt lại năm 1983.
20. Trong GATT, tự do hóa thương mại được tiến hành bằng sự trao
đổi tương hỗ việc giảm bớt các hàng rào thương mại dựa trên một sự cân
bằng nhân nhượng đại khái. Ngược lại, thương mại “công bằng” ngày càng
đòi hỏi “hết sức chặt chẽ” các bên cùng làm hoặc bình đẳng đi vào thị trường
hàng đổi hàng.
21. Xem Hoa Kỳ. Văn phòng Tổng thống (1991) và Strategico, lnc.
(1991).
22. Nhật đã đồng ý tăng đầu tư công cộng vào hạ tầng cơ sở, cải tổ các
chính sách sử dụng đất và chế độ phân phối, loại bỏ những hoạt động kinh
doanh độc quyền và làm cho mối quan hệ keiretsu trong sáng hơn và tự do
hóa chế độ đầu tư nước ngoài. Mỹ nhất trí giảm thâm hụt ngân sách liên bang
và sự phơi mình của chính phủ ra trước những rủi ro có thể do những
chương trình tín dụng liên bang gây ra, khuyến khích tiết kiệm tư nhân, cải
thiện tính cạnh tranh Mỹ thông qua đầu tư to lớn hơn vào nghiên cứu và phát
triển, giáo dục và đào tạo lực lượng lao động và giảm chi phí vốn.
23. Xem Corker (1990).
24. Những kiểm điểm mới đây về bằng chứng đã được đưa ra trong
Ostrom (1991), Bhagwati (1991) và Balassa và Noland (1988). Một số nhà
nghiên cứu (Bergsten va Cline (1987), Saxonhouse (1983) đã thấy rằng mức
và sự cấu tạo nhập khẩu của Nhật có thể được giải thích bởi những tiềm
năng nhân tố của Nhật. Những người khác (Balassa (1986), Lawrence (1987)
và Lincoln (1990) đã thấy bằng chứng rằng nhập khẩu của Nhật là “quá thấp”
căn cứ trên những đặc điểm của Nhật hoặc những hàng rào mậu dịch đã tác
động tới mức nhập khẩu.
25. GATT (1990d) tr.200. Những con số của MITI không bao gồm xuất
khẩu cho EC những mặt hàng ô tô và ti vi màu, những hàng chịu biện pháp
giám sát.
Bảng I: Tỷ lệ các hạng mục Nhập khẩu tính bằng các Biện pháp Phi
Thuế Quan có lựa chọn. Theo biện pháp của các nước kinh tế thị trường phát
triển đã áp dụng (tính phần trăm)
Nhóm sản phẩm
Tất cả Biện pháp
Tiểu nhóm của Biện pháp
Hạn chế số lượng
Phần củạ VER và OMA
1988 1990 1988 1990 1988 1990 1988 1990
Tất cả lương thực thực
phẩm
35,4 35,9 32,9 31,8 26,5 25,3 2,8 1,5
Lương thực và động vật
sống
38,8 39,3 35,8 34,5 29,8 28,4 3,4 1,7
Hạt có dầu 7,4 7,4 6,9 6,9 5,8 5,8 - -
Dầu động vật, thực vật 10,1 10,0 9,6 9,6 4,3 4,2 - -
Nguyên liệu nông nghiệp 4,3 4,3 2,9 2,9 2,4 2,4 - -
Quặng và kim loại 19,0 17,9 12,7 11,6 12,7 11,5 10,4 10,3
Sắt và thép 56,2 52,9 38,9 35,3 38,9 35,3 32,5 32,5
Kim loại không chất sắt 0,8 0,8 0,2 0,2 0,2 0,2 - ...
Chất đốt 17,9 17,9 13,5 13,5 12,7 12,7 - -
Hóa chất 10,7 10,8 6,7 6,6 6,5 5,4 - -
Hàng công nghiệp
không kể hóa chất 16,0 17,8 11,0 11,0 10,4 10,3 8,7 8,8
Da 9,3 13,2 1,3 1,3 1,3 1,3 0,2 0,2
Dệt, sợi và vải 38,6 38,7 34,2 34,3 34,1 34,1 24,6 24,6
Quần áo 63,7 63,1 57,1 56,6 57, í 56,6 53,6 53,0
Giày dép 19,7 19,7 1,9 8,0 1,9 8,0 0,9 7,6
Xe cộ(5) 54,9 29,6 28,4 28,0
Tất cả hàng trừ chất đốt 17,3 18,5 12,7 12,5 11,5 11,3 7,2 7,1
Tất cả các hàng 17,4 18,4 12,8 12,6 11,6 11,4 6,3 6,2
Nguồn: Hội nghị Liên Hiệp Quốc về thương mại và phát triển (1991b).
CHÚ DẪN:
NTM: Những biện pháp phi thuế quan.
OMA: Những cuộc thương lượng về marketing có trật tự.
VER: Hạn chế xuất khẩu tự nguyện.
1. Những tỷ số đã được máy điện toán tính toán kỹ lưỡng ở mức cao
nhất trong luồng thương mại 1988: Những con số thống kê thương mại 1988
(hoặc 1989 tính kỹ đến Hoa Kỳ). Những nước được tính đến là Ôxtrâylia, Áo,
Canada, 12 nước EC, Phần Lan, Nhật Bản, Niu Dilân, Na-uy, Thụy Điển,
Thụy sĩ và Hoa Kỳ.
2. Bao gồm một số biện pháp nửa thuế quan, phụ phi, thuế khác nhau,
những hành động chống phá giá và bù đắp, hạn chế số lượng (bao gồm cấm,
quotas, không tự động cấp giấy phép, những độc quyền nhà nước. Hạn chế
xuất khẩu tự nguyện và hạn chế theo MFA-Thương lượng Đa Sợi, và những
thương lượng như thế về dệt, giám sát nhập khẩu tự động cấp giấy phép và
các biện pháp kiểm soát giá.
3. Tất cả những biện pháp thương mại có chọn lọc, những biện pháp
loại trừ nửa thuế quan, phu phí, những hành động chống phá giá và bù đắp,
tự động cấp giấy phép và giám sát nhập khẩu,
4. Bao gồm cả những thỏa thuận hạn chế theo MFA.
5. Theo Laird và Vossenaar (1991).
Bảng II A: Sơ lược Thương lượng Hạn chế xuất khẩu theo từng sản
phẩm và khu vực xuất khẩu cuối tháng 3-1989
Công nghiệp
EFTA Canada EC NhậtNam
Tr.TiênTrung Quốc
Đài Loan
MỹĐông
ÂuNưóc khác
Tổng cộng
Thép 7 2 5 3 5 1 2 _ 12 13 50
Máy
công
cụ
2 - - 5 1 - 1 - - 5 14
Điện tử - - - 13 8 - 4 - - 3 28
Giày
dép- - - 4 7 1 3 - 3 - 18
Dệt - 1 2 4 1 2 - 19 37 66
Nông
nghiệp6 1 3 2 4 1 - 3 6 25 51
Ô tô - - 18 - - - - - 2 20
Những
hàng
khác
3 2 23 9 1 - - 1 3 42
Tổng
cộng18 5 9 70 38 3 12 3 4. 88 289
Bảng IIB: Sơ lược những cuộc thương lượng hạn chế xuất khẩu theo
từng sản phẩm và nước nhập khẩu.
Công nghiộ
pEFTA Canada EC Nhật Áo
Ôxtrây-lia
Thuy si
Liên Xô
(cũ)Mỹ
Tổng cộng
Thép 1 - 14 - - - - 35 50
Máy
công
cụ
- - 4 - - - - - 10 14
Điện tử - - 25 - - - - - 3 28
Giày
dép- 2 15 - - - - 1 18
Dệt 12 8 27 6 2 - 7 • - 13 66
Nông
nghiệp4 1 36 5 - 2 3 1 2 51
Ô tô 1 1 17 - - - - - 1 20-
Những
hàng
khác
1 - 35 2 - - - - 4 42
Tổng
cộng19 12 173 13 2 2 10 1 69 289
Nguồn: GATT - Tạp chí phát triển chế độ thương mại, nhiều số khác
nhau
CHÚ DẪN:
EC: Cộng đồng châu Âu EFTA: Hội Mậu dịch tự do châu Âu
1. Ban thư ký GATT không công bố thông tin đầy đủ về những cuộc
thương lượng này từ tháng 3-1989
Phần 2. TỰ DO HÓA THƯƠNG MẠI CỦA CÁC NƯỚC ĐÔNG ÂU
Trong vài năm qua, các nước Đông Âu đã đổi mới và trong một số
trường hợp đã tăng tốc những chương trình cải cách toàn diện nhằm nhanh
chóng chuyển các chế độ kinh tế của họ sang những nền kinh tế dựa trên cơ
sở thị trường. Tự do hóa mậu dịch và chế độ hối đoái là một cấu thành quan
trọng của những cải cách này. Tất cả sáu nước đã loại bỏ độc quyền nhà
nước về ngoại thương, giảm đáng kể những hạn chế số lượng và tiến tới một
chế độ mậu dịch mà trong đó lấy thước đo dựa trên giá cả (thuế quan và tỷ
giá hối đoái) làm những công cụ chính sách mậu dịch chủ yếu. Trợ cấp xuất
khẩu, trừ trợ cấp cho một số nông phẩm, đã bị loại bỏ. Việc cấp giấy phép
xuất khẩu cũng đã giảm đi rất nhiều. Song song với việc gỡ bỏ những hạn
chế mậu dịch, tất cả sáu nước đã thiết lập những yếu tố thiết yếu chuyển đổi
trong giao dịch quốc tế hiện hành mặc dầu một số hạn chế vẫn còn được duy
trì.
Mặc dầu có những cuộc cải cách này, nhưng các nước Đông Âu chưa
liên kết thành hệ thống buôn bán đa phương. Ngoài những cái khác ra, nhưng
tiến bộ hơn nữa trong lĩnh vực này sẽ tùy thuộc vào hai yếu tố: 1. những
bước tiến hơn nữa trong những cải cách hệ thống và 2. tiếp cận hơn và chác
chắn hơn nữa vào các thị trường nước ngoài, đặc biệt đối với thị trường của
các nước công nghiệp. Trong khung thứ hai có sự sụp đổ trong buôn bán
giữa các thành viên cũ của CMEA-Hội đồng Tương trợ kinh tế với những tác
động có hại của cuộc xung đột Trung Đông với một số nước này và sự xấu đi
một cách nhanh chóng các điều kiện kinh tế ở hầu hết Đông Âu thì việc tiến
vào thị trường các nước công nghiệp có tầm quan trọng đặc biệt.
Tại Hội nghị Thượng đỉnh Kinh tế Luân Đôn tháng 7-1991, những
người đứng đầu nhà nước và chính phủ nhóm Bảy nước và những đại diện
của Cộng đồng Châu Âu đã thừa nhận rằng việc mở cửa các thị trường của
họ là phương thức có hiệu quả nhất để viện trợ Đông Âu và những nước
đang phát triển khác. Họ đã hiểu cần đưa Vòng đàm phán Urugoay đến chỗ
kết thúc "đầy tham vọng" và cải thiện việc tiếp cận thị trường các nước công
nghiệp bao gồm những khu vực như nông nghiệp, thép, dệt và quần áo.
Trong khi các nước công nghiệp lớn miễn cưỡng đơn phương giảm bớt
những hàng rào đối với những khu vực này, kết quả của Vòng đàm phán
Urugoay là cực kỳ quan trọng cho thành công của các cuộc cải cách ở Đông
Âu. Đối với Đông Âu, sự đảm bảo to lớn khi tiếp cận các thị trường nước
ngoài cũng có liên quan đến những cuộc thương lượng nhằm xem xét lại
những điều kiện thành viên GATT của họ. (Hiệp định chung Mậu dịch và Thuế
quan) để phản ánh định hướng thị trường to lớn hơn của các nền kinh tế của
họ.
1. Sự xác lập có tính lịch sử: Chính sách thương mại trong bối cảnh kế hoạch tập trung.
Sau chiến tranh Thế giới thứ II, các nước Đông Âu được tổ chức lại
dưới ảnh hưởng của hệ thống kế hoạch tập trung Xô Viết. Quá trình này đã
được hoàn thành một cách rộng khắp vào năm 1950 và có liên quan đến
quốc hữu hóa trên quy mô rộng lớn các tư liệu sản xuất và phân phối cũng
như dựa vào một chế độ kế hoạch tâp trung để định ra những mục tiêu sản
lượng, giá, lương và cấp phát các nguồn lực cho các doanh nghiệp.
Kết hợp nhập khẩu với xuất khẩu là bộ phận gắn bó trong quá trình kế
hoạch hóa tập trung. Cơ cấu và mức độ buôn bán chịu ảnh hưởng bởi một
loạt cơ chế kiểm soát bao gồm việc cấp phát ngoại hối và cấp giấy phép.
Người ta đã thiết lập các tổ chức ngoại thương và nhà nước độc quyền ngoại
thương. Các hãng không được buôn bán trực tiếp với các bạn hàng nước
ngoài hoặc tiếp cận với giá cả thế giới; họ xuất khẩu và nhập khẩu các sản
phẩm thông qua các tổ chức ngoại thương theo giá trong nước chi phối với
sự khác biệt giữa giá trong nước và giá quốc tế, trong trường hợp lỗ, được
điều chỉnh, lời thì phải nộp thuế, ngân sách chính phủ chi phối những việc
này. Vì thế, mặc dầu thuế quan nhìn chung là thấp, những công cụ kế hoạch
tập trung và những kiểm soát ngoại hối tạo ra sự bảo hộ ở mức cao cho sản
xuất trong nước.
Việc buôn bán với những nền kinh tế kế hoạch tập trung khác và những
nền kinh tế thị trường đòi hỏi những sắp đặt khác nhau. Quan hệ buôn bán
với các nền kinh tế kế hoạch phần lớn diễn ra trong điều kiện đồng tiền không
chuyển đổi và nằm trong khuôn khổ sắp xếp của CMEA.
Việc buôn bán này dựa trên những hiệp định tay đôi 5 năm đi kèm với
các cuộc thương lượng hàng năm để nhất trí về giá cả và những chi tiết khác
(28). Dư thừa tay đôi với một nước này không được dùng để tài trợ cho thâm
hụt tay đối với nước khác. Buôn bán với các nền kinh tế thị trường chủ yếu
thực hiện bằng những tiền chuyển đổi được và phải chịu sự kiểm soát của
nhà nước.
Những cuộc thương lượng trong Hội đồng tương trợ kinh tế đã làm
tăng lên đáng kể buôn bán giữa các nước thành viên nhưng cũng tạo ra
những phụ thuộc lớn về cơ cấu trong các nước hội viên và gia tăng sự méo
mó thêm việc phân bổ các nguồn lực. Mặc dầu một vài nước Đông Âu hoàn
toàn mở cửa, nhưng về mặt tỷ xuất buôn bán trong GDP, thương mại của họ
tập trung cao độ vào những giao dịch với những nền kinh tế kế hoạch tập
trung khác, đặc biệt với Liên Xô cũ.
- Cơ cấu hàng hóa buôn bán
Giữa Hội đồng tương trợ kinh tế với các nước xã hội chủ nghĩa (mà
hầu hết đều nằm trong Hội đồng) khác xa với buôn bán của họ với các nền
kinh tế thị trường. Máy và thiết bị vận tải là xuất khẩu quan trọng nhất sang
các nước xã hội chủ nghĩa; trong khi lương thực thực phẩm, nguyên liệu thô
và các hàng công nghiệp chế tạo nhìn trung là những xuất khẩu quan trọng
nhất tới các nước công nghiệp chế tạo nhìn chung là những xuất khẩu quan
trọng nhất tới các nước công nghiệp. Các nước Đông Âu xuất khẩu chủ yếu
thiết bị máy và những hàng công nghiệp khác tới Liên xô cũ đổi lấy chất đốt
và nguyên liệu. Mặc dầu sự độc đoán trong những tỷ giá hối đoái chéo nhau
giữa đồng rúp chuyển nhượng với những đồng tiền địa phương khiến cho
việc phân tích thêm phức tạp, nhìn chung người ta nhất trí cho rằng cho đến
gần đây, với giá thị trường thế giới giá xuất khẩu Đông Âu vào Liên Xô cũ
được định ra thuận lợi hơn giá xuất khẩu của Liên Xô cũ vào Đông Âu. Vì tầm
quan trọng của Liên Xô cũ trong tổng buôn bán của họ (và vì các hình mẫu
mậu dịch không thay đổi) cho thấy rằng buôn bán của các nước Đông Âu là
hoàn toàn thuận lợi nhờ quan hệ với Hội đồng, người ta đã ước lượng rằng
chuyển sang giá thị trường thế giới, Đông Âu sẽ thiệt hơn khoảng từ 20 đến
30%.
Một số nước Đông Âu đã làm cải cách kinh tế từng phần trước cuộc
cách mạng chính trị khắp Đông Âu năm 1989. Phần lớn những cải cách này
đã được tiến hành bên trong bối cảnh của chế độ xã hội chủ nghĩa. Và họ đã
toan tính phi tập trung hóa nền kinh tế và phi kiểm soát từng phần giá cả trong
khi giữ quyền sở hữu xã hội đối với các tư liệu sản xuất. Nhưng thị trường tự
do vẫn bị bao vây bởi những mệnh lệnh của nhà nước và vẫn còn chịu sự
kiểm soát giá cả. Mặc dầu những nhà vạch kế hoạch không còn tổng kiểm
soát buôn bán, nhưng những công cụ kế hoạch tập trung và những biện pháp
kiểm soát hành chính tiếp tục ra mệnh lệnh cho các hình mẫu và luồng buôn
bán. Sự vắng bóng các quyền sở hữu tài sản tư nhân hạn chế vai trò khuyến
khích lợi nhuận và làm nhụt tinh thần doanh nhân.
2. Những cải cách mới đây và những vấn đề thiết kế
Những cải cách mới đây
Việc mở rộng cải cách và những điều kiện ban đầu có sự khác nhau rất
lớn ở khắp Đông Âu, quá trình thay đổi chế độ đã tăng tốc trong hai năm qua.
Sau những thập kỷ cải cách từng phần, Hungary, Ba Lan và Nam Tư đẩy
nhanh các cố gắng cải cách năm 1989 và năm 1990. Ba Lan thi hành những
biện pháp cải cách vươn xa hơn cho tới năm 1990 và đầu năm 1991, mặc
dầu các chế độ của họ vẫn tiếp tục tập trung nhiều hơn, Tiệp Khắc, Bungari,
Rumani bắt đầu thực hiện những cải cách toàn diện, ở tất cả các nước, cải
cách đã được Quỹ Tiền tệ quốc tế và Ngân hàng thế giới giúp đỡ kỹ thuật và
cung cấp các nguồn lực tài chính.
Việc tiến tới khả năng chuyển đổi của đồng tiền và những chế độ mậu
dịch mở cửa hơn là những mảng quan trọng của cải cách ở tất cả các nước
Đông Âu.
Vào tháng 6-1991, hầu hết những nước này đã tự do hóa về căn bản
chế độ buôn bán và thanh toán của mình (Bảng III). Song song với việc gỡ bỏ
những hạn chế buôn bán, tất cả các nước đã thiết lập một phạm vi chuyển
đổi, mặc dầu có một vài hạn chế vẫn không thay đổi. Ở Hungary và Balan,
việc chuyển đổi đa phần chỉ áp dụng cho khu vực doanh nghiệp và phần lớn
các nước vẫn tiếp tục giới hạn việc đổi tiền cho du khách. Hầu hết các nước
đã có tỷ giá hối đoái chính thức thống nhất cho các giao dịch buôn bán; trong
những năm 80 ở Hungary, Ba Lan và Nam Tư thống nhất tỷ giá hối đoái chính
thức trong buôn bán với khu vực đồng tiền chuyển đổi được, còn Ba Lan và
Nam Tư dần dần loại bỏ các trợ cấp ngoại hối khác nhau, mức độ phụ thuộc
(trừ trường hợp Hungary) vào mục đích của người sử dụng cuối cùng ngoại
tệ, Bungari và Tiệp Khắc thống nhất tỷ giá hối đoái cho những giao dịch buôn
bán từ tháng 12-1990 đến tháng 2-1991. Ở Tiệp Khắc, Hungary, và Ba Lan,
các cư dân Rumani đã được phép giữ các tài khoản ngoại tệ và sử dụng
chúng một cách tự do. Ở Nam Tư, tính chuyển đổi đã được thiết lập rộng rãi
vào tháng 1-1990 nhưng nhiều hạn chế trong đó những hạn chế rút tài khoản
ngoại tệ đã bị áp dụng trở lại cho đến tận cuối năm, khi quỹ dự trữ ngoại tệ
teo đi. Tất cả các nước cho phép đầu tư nước ngoài vào trong nước và hồi
hương từng phần cũng như lợi nhuận.
Trong lĩnh vực buôn bán, tất cả sáu nước đã xóa bỏ độc quyền nhà
nước về ngoại thương và đã giảm rất mạnh số lượng hạn chế nhập khẩu. Ở
Nam Tư, phần nhập khẩu tự do hóa tăng từ 15% năm 1986 lên 88% vào cuối
năm 1990. Ở Hungary 90% nhập khẩu được tự do hóa trong thời kỳ ba năm
kể từ đầu năm 1989, và đến trước 1990 hầu hết đã được tự do hóa. Ở
Rumani tất cả mọi hạn chế số lượng đã được loại bỏ. Ở Ba Lan, hầu hết hạn
chế phi thuế quan đã được gỡ bỏ vào tháng giêng 1990. Tiệp Khắc thực tế đã
loại bỏ việc cấp giấy phép nhập khẩu vào tháng giêng 1991 và tháng 2-1991
Bungari đã loại bỏ cấp giấy phép nhập khẩu trừ một danh mục nhỏ cấm nhập
khẩu.
Việc loại bỏ hầu hết hàng rào phi thuế quan ngầm hoặc nổi và tự do
hóa những phương tiện kiểm soát hối đoái có nghĩa là thuế quan và tỷ giá hối
đoái đã trở nên những công cụ chính sách thương mại chính ở những nước
này, Theo truyền thống, mức thuế ở Đông Âu tương đối thấp và công nghiệp
trong nước đã được bảo hộ một cách có hiệu quả bởi những công cụ kế
hoạch tập trung. Trong khi người ta thực hiện một số sửa đổi về thuế và cơ
cấu thuế, thuế suất bình quân ở những nước này vẫn giữ tương đối thấp
Những sửa đổi về thuế quan bao gồm những việc sau đây: Ba Lan đã
thống nhất ba danh mục thuế quan thương mại và phi thương mại (tháng
giêng 1990) và ngừng thu thuế quan (tháng 6-1990) trên 4.500 mặt hàng
nhập khẩu cho đến 1-7-1991. Ba Lan mới đây thay đổi cơ cấu danh mục thuế
của họ nhằm tạo ra một tỷ suất bình quân khoảng 14% trong đó có một phụ
phí tạm thời vượt bến 5% cao hơn nhiều thuế suất trước khi đình chỉ một số
thuế tháng 6-1990. Nam Tư giảm tỷ suất thuế và một số mặt hàng được miễn
thuế, còn lại thì tỷ suất thuế có hiệu lực bình quân phần lớn không thay đổi
(tháng 3-1990). Rumani loại bỏ nhiều đặc trưng phân biệt đổi xử khác nhau
trong chế độ thuế của mình như áp dụng những thuế biểu khác nhau tùy theo
mục đích sử dụng nhập khẩu và giảm những thuế suất cao nhất (tháng giêng
1991), giảm thêm mức thuế bình quân và đơn giản hóa hơn nữa cơ cấu thuế
dự tính sẽ được đưa ra vào nửa cuối năm 1991. Tiệp Khắc đã đưa ra một
phụ phí tạm thời 20% nhập khẩu hàng tiêu dùng (cuối 1990) nhằm làm dịu tác
động của việc tự do hóa nhập khẩu quá nhanh đối với cán cân thanh toán; tỷ
suất thuế đã giảm 15% tháng 6-1991 và sẽ được loại bỏ vào cuối 1991.
Bungari đã đưa ra một thuế phụ 15% đánh vào hàng tiêu dùng nhập khẩu và
vào một số hàng khác nhập khẩu (đầu 1991) nhằm bảo hộ các ngành công
nghiệp khi họ thay đổi cơ cấu và bảo vệ cán cân thanh toán. Bungari và Tiệp
Khắc cũng đã đưa ra những quan điểm chủ yếu về thuế và cơ cấu bảo hộ
theo tư vấn của Ngân hàng thế giới. Người ta đã xem xét những điều chỉnh
khác trong thuế biểu ở một số nước trong bối cảnh của các cuộc thương
lượng đa phương và song phương.
Những biện pháp cũng đã được tiến hành để tự do hóa xuất khẩu. Hầu
hết trợ cấp xuất khẩu đã được gỡ bỏ, việc cấp giấy phép xuất khẩu cũng đã
loại bỏ rất nhiều ở hầu hết các các nước. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế
tồn tại ở tất cả các nước Đông Âu, đặc biệt để chiểu theo yêu câu VER-Hạn
chế xuất khẩu tự nguyện và quotas áp dụng bởi các bạn hàng mậu dịch ở các
khu vực như dệt và quần áo, nông nghiệp, thép và than. Thêm vào đó, tạm
cấm xuất khẩu cũng đã được ban hành (Bungari 1990), còn ở Tiệp Khắc việc
cấp giấy phép vẫn tiếp tục nhằm đảm bảo cung cấp đầy đủ hàng cho trong
nước như lương thực và nguyên liệu trong quá trình điều chỉnh. Ở Rumani
người ta ngăn ngừa xuất khẩu (hoặc tái xuất) những sản phẩm đã chịu sự
kiểm soát giá trong nước hoặc được nhập khẩu theo tỷ giá hối đoái chính
thức.
Tại hội nghị 1990 ở Sofia, Hội đồng tương trợ kinh tế đã thông báo rằng
từ tháng giêng 1991 Hội đồng có ý định thực hiện mọi việc buôn bán trên cơ
sở những đồng tiền có khả năng chuyển đổi và theo giá thị trường thế giới.
Tuy nhiên, với sự sụp đổ của thương mại trong Hội đồng tương trợ kinh tế,
các nước đã hoặc đang thương lượng nhằm duy trì một số mức buôn bán tối
thiểu với những nước trước đây thuộc Hội đồng tương trợ kinh tế, đặc biệt
Cộng đồng các quốc gia độc lập (Bảng IV). Ba Lan, Bungari và Tiệp thương
lượng các hiệp định với Liên Xô cũ, nước giữ một "danh sách chỉ dẫn" những
hàng buôn bán được và mậu dịch hàng đổi hàng. Hungary và Rumani cũng
đang tìm kiếm đẩy mạnh buôn bán với Liên Xô cũ thông qua thương lượng
tay đôi có thể hàng đổi hàng. Tháng sáu 1991, Liên Xô cũ thôi lệnh cấm mậu
dịch hàng đổi hàng đã áp dụng trong vài tháng đầu năm 1991.
Cho đến nay, ở các nước Đông Âu đã có chế độ thương mại và thanh
toán tương đối mở cửa, Tuy nhiên, với sự sụp đổ của mậu dịch Hội đồng
tương trợ kinh tế và tình hình các nền kinh tế trong nước của họ cũng như
những tài khoản bên ngoài xấu đi, một số trong những nước này đang đứng
trước sức ép phải bảo hộ cho các nhà sản xuất trong nước, Thêm vào đó,
phản ứng trước những khó khăn tiếp cận các thị trường nước công nghiệp và
trợ cấp xuất khẩu EC, một số nước Đông Âu đã đưa ra những biện pháp bảo
hộ các khu vực nông nghiệp của họ. Ở Tiệp, (có thể sẽ bổ sung vào biểu thuế
quan và những hình thức bảo hộ khác) những trợ cấp xuất khẩu và quotas
nhập khẩu đã được áp dụng với nông sản vào tháng 6-1991 nhằm đối phó
với sản xuất dư thừa đang tăng lên. Ba Lan đã áp dụng trở lại thuế biểu đối
với một số nông sản dưới sức ép của các vận động hành lang của giới nông
nghiệp.
Những vấn đề trong thiết kế cải cách thương mại
Người ta đã đạt được sự nhất trí rộng rãi cả về việc cần thiết phải có
một cuộc cải cách nhanh và toàn diện ở Đông Âu lẫn những nhân tố chủ yếu
của cả gói cải cách như thế. Cả gói này bao gồm: kiểm soát và ổn định hóa
kinh tế vĩ mô; tự do hóa mậu dịch và thiết lập khả năng chuyển đổi đối với
những giao dịch tài khoản vãng lai, tự do hóa giá cả và phát triển một khu vực
kinh doanh tư nhân có sức cạnh tranh; lập ra những thể chế tài chính có hiệu
lực và tự do hóa các thị trường tài chính; bỏ không định quy chế về các thị
trường lao động và thiết lập một màng lưới an toàn xã hội. Những chương
trình cải cách phải gây được sự tin cậy và định rõ những mục tiêu dài hạn và
con đường quá độ ngay từ khi bắt đầu cuộc cải cách.
Trong bối cảnh này, đã có một sự nhất trí rộng rãi rằng tự do hóa phải
được thực hiện sớm trong quá trình cải cách. Một bước đi tăng tốc của việc
tự do hóa mậu dịch trong các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cải cách được coi
là thiết yếu vì, so với các nền kinh tế thị trường, giá cả tương quan đã bị méo
mó quá đáng, những nhân tố vận hành thị trường nghèo nàn, sản xuất trong
nước tập trung quá đáng, quốc doanh quá lớn, việc mở rộng sở hữu nhà
nước quá lớn và buôn bán thì đã méo mó vì những cuộc thương lượng trong
các hội viên Hội đồng tương trợ kinh tế. Trong những hoàn cảnh này, tự do
hóa mậu dịch và chế độ thanh toán sẽ giúp lập ra một bộ hợp lý giá cả tương
quan cho những hàng hóa đem ra buôn bán và ngừa trước những méo mó do
việc định giá độc quyền và mất tính hiệu quả sản xuất. Thêm vào đó, tiếp cận
nhập khẩu và đầu tư nước ngoài sẽ làm thuận lợi cho việc thu nhận công
nghệ nước ngoài.
Mặc dầu có những cân nhắc kể trên, vẫn có gợi ý rằng sự bảo hộ thuế
biểu tạm thời có thể trong thời hạn ngắn tránh được việc đi vào giá cả thế giới
đang bị hỗn loạn. Chẳng hạn Me Kinnon (1991a) đã ghi nhận rằng, các doanh
nghiệp ở Đông Âu từ lâu đã phải đương đầu với những giá cả tương quan bị
bóp méo đi và lập luận rằng cơ cấu thuế biểu từ lúc đầu đã tiếp tục cung cấp
một số bảo hộ nào đó cho những ngành công nghiệp là những ngành đã
được bảo hộ rất kỹ dưới chế độ cũ, điều này sẽ kéo theo việc làm tăng lên
những thuế biểu khác nhau (nhưng không phải tính thêm đại trà) đối với
những công nghiệp còn có thể sóng được nếu có một thời kỳ tạm điều tiết.
Các biểu thuế tiếp theo đã được thống nhất lại và giảm bớt đi theo danh mục
đã báo trước, ở trong mối liên quan này, cần lưu ý rằng phá giá không phải là
một giải pháp vì nó làm tăng giá tất cả các hàng, kể cả đầu vào sản xuất, điều
này dẫn đến hậu quả là số âm trong giá trị gia tăng của một số ngành công
nghiệp tính theo cơ cấu giá thế giới mới.
Những người khác nhấn mạnh rằng sự xem xét giải pháp kể trên cũng
còn cần phải tính đến những chi phí và rủi ro tiềm tàng cũng như mọi mối liên
hệ mật thiết đến GATT. Đặc biệt sự tiếp cận này sẽ gặp rủi ro nếu bản danh
mục báo trước về những sự giảm bớt biểu thuế không được tin cậy, người ta
nhận thức rằng những quan hệ bị suy yếu giữa giá cả trong nước với giá cả
tương quan của thế giới có thể còn tác động trong thời kỳ lâu dài nữa, sẽ
giảm sức ép điều chỉnh, chính xác là đối với những doanh nghiệp đang
đương đầu với những nhiệm vụ điều chỉnh rộng lớn nhất và làm chậm trễ sự
nhất thể hóa của chúng vào nền kinh tế thế giới, Trong bối cảnh này, thậm
chí, nếu một kế hoạch được báo trước, thì việc thực hiện theo từng giai đoạn
sẽ cho phép phe đối lập chính trị chống tự do hóa có thêm thời gian để huy
động lực lượng. Ngoài những nhận xét này, kinh nghiệm các nơi đã cho thấy
rằng các chính phủ đã không có đủ điều kiện để quyết định những ngành
công nghiệp nào còn sống được trong một thời gian trung hạn. Thêm vào đó,
mức quan thuế bình quân cao, bất kể ở mức độ phân tán nào, đều xem như
một thứ thuế xuất khẩu. Điều cuối cùng có tầm quan trọng đặc biệt đối với các
nền kinh tế Đông Âu đang cải cách là cách tiếp cận này phần nào phủ định sự
đóng góp tích cực của tự do hóa mậu dịch có thể tiến tới loại bỏ những méo
mó do những cơ cấu thị trường độc quyền gây ra.
Những thuế biểu đã tăng lên trong một số trường hợp nhằm bảo vệ cán
cân thanh toán, giảm bớt thâm hụt ngân sách (Bungari và Ba Lan) và ngăn
cản nhập khẩu hàng tiêu dùng. Những người lập luận chống sử dụng các
thuế biểu vào những mục đích này cho rằng phá giá được hổ trợ bằng những
chính sách tiền tệ và tài chính thích đáng thông thường là một sự lựa chọn tốt
hơn để bảo vệ cán cân thanh toán và ngăn chặn lạm phát, ở trong đó tạo ra
một cơ cấu khuyến khích dung hòa, và những thuế trong nước này là công cụ
ít gây méo mó hơn nhằm tăng thu nhập tài khoá và ngăn cản tiêu dùng.
Tuy nhiên chừng nào mà những công cụ thuế trong nước và những
công cụ chính sách gián tiếp khác cần thiết cho việc kiểm soát kinh tế vĩ mô,
không được đặt đúng chỗ và chừng nào mà khả năng hành chính nhằm đưa
chế độ này vào đúng chỗ còn chưa làm được thì việc tăng một số quan thuế
là không thể tránh được. Trong vấn đề này, với tư cách như cơ chế kiểm soát
cán cân thanh toán, những biện pháp dựa trên giá, (chẳng hạn như thuế
quan), tốt hơn là phải vận dụng đến quotas và những hạn chế số lượng khác,
trong những công việc này phải rõ ràng hơn, vì thuế biểu không cấm đoán,
chúng duy trì mối liên hệ giữa giá trong nước và giá quốc tế.
Như đã chỉ ra ở trên, các nước Đông Âu đã thương lượng hoặc đang
tìm kiếm thương mại tay đôi mới và những hiệp định hàng đổi hàng với Liên
Xô cũ hoặc với Cộng đồng các quốc gia độc lập (và trong một số trường hợp,
với những nước Hội đồng tương trợ kinh tế cũ) như là một phương thức đệm
tác động của sự sụp đổ nền thương mại Hội đồng tương trợ kinh tế. Trong
những hoàn cảnh như thế, với sự sụp đổ thương mại do thiếu ngoại tệ và sự
rối loạn về tổ chức của Cộng đồng các quốc gia độc lập, những cuộc thương
lượng này được coi là cần thiết để duy trì một mức nào đó nền thương mại và
tránh phải đóng cửa xí nghiệp không cần thiết. Trong phần lớn các trường
hợp, buôn bán hàng đổi hàng đã đòi hỏi những cuộc thương lượng doanh
nghiệp. Những thỏa thuận này có khuynh hướng duy trì những cơ cấu sản
xuất và những luồng buôn bán đã bị méo mó đồng thời có xu hướng làm
chậm quá trình điều chỉnh. Để hạn chế những tác động bất lợi có thể xảy ra
của những cuộc thương lượng như thế, đã có gợi ý rằng, ở nơi nào chính phủ
đã ký những hiệp định phải bảo đảm không giới hạn sự tự trị của những
doanh nghiệp cá thể thương lượng với những doanh nghiệp nước ngoài và
đảm bảo việc buôn bán này được thực hiện theo giá thị trường thế giới và giải
quyết những mất cân bằng bằng tiền chuyển đổi được trong một thời hạn
tương đối ngắn.
Với sự sụp đổ của Hội đồng tương trợ kinh tế, điều phải quan tâm đến
là các cuộc thương lượng thanh toán và trả tiền khu vực chỉ riêng với Đông
Âu hay cùng với Cộng đồng các quốc gia độc lập, Hai giải pháp cơ bản đã
được gợi ý: 1. Một cuộc thương lượng thanh toán đơn giản với một thời hạn
tương đối ngắn giữa các thời hạn giải quyết (một đến ba tháng); 2. Ở những
nơi mà thanh toán được bổ sung bằng cung cấp tín dụng ngắn hạn (một năm)
hay thậm chí tín dụng trung hạn cho những người tham gia - những thương
lượng trả tiền giống như Liên minh trả tiền Châu Âu (EPU) sau chiến tranh
Thế giới II. Tuy nhiên đã có sự thừa nhận rằng có những khác biệt lớn giữa
tình hình sau chiến tranh ở Tây Âu với tình hình hiện nay ở Đông Âu. Đặc
biệt, qui mô thị trường liên kết ở Đông Âu tương đối nhỏ; người ta ước tính
thương mại của Đông Âu (ở cả những đồng tiền chuyển đổi được và không
chuyển đổi được) là chưa đầy 4% tổng thương mại thế giới năm 1988, trong
khi những thành viên EPU chiếm 35% xuất khẩu thế giới năm 1950. Thậm chí
nếu gồm cả Liên Xô cũ, quy mô thị trường liên kết lại cũng vẫn tương đối nhỏ;
hơn nữa, nói một cách rộng ra là việc buôn bán với Liên Xô cũ bị cắt đứt bởi
những vấn đề về hành chính. Có sự không chắc chắn lớn liên quan đến kế
hoạch thanh toán mới mà những kế hoạch này phải phụ thuộc vào nền hành
chính và giao thông liên lạc tốt hơn. Do đó, trong khi những kế hoạch như thể
có thể chừng nào ít bị méo mó hơn những kế hoạch tay đôi thì đồng thời
chúng lại không thể giải quyết được những vấn đề cơ sở và có thể làm chậm
quá trình nhất thể hóa các nước Hội đồng tương trợ kinh tế cũ vào hệ thống
thương mại quốc tế.
3. Nhất thể hóa vào chế độ thương mại đa phương
Nhất thể hóa hoàn toàn của các nước Đông Âu vào chế độ thương mại
đa phương sẽ tùy thuộc vào: 1. tiến bộ hơn nữa trong các cuộc cải cách chế
độ của chính họ và 2. tiếp cận hơn nữa và có bảo đảm hơn nữa vào các thị
trường Phương Tây. Trong khi những cải cách thương mại đã được thực hiện
sẽ cần phải có thời gian để tác động tới các mặt, thì những cải cách trong
nước hơn nữa nhằm làm cho thị trường có sức cạnh tranh hơn đòi hỏi Đông
Âu phải nhận thức được những lợi ích đầy đủ của những cải cách thương
mại và hối đoái vừa mới được thực hiện. Trong các mối liên hệ này, tư nhân
hóa, phát triển các thị trường có nhân tố cạnh tranh và sự thiết lập cơ cấu tổ
chức pháp lý cần thiết để bảo đảm một môi trường thị trường có sức cạnh
tranh có tầm quan trọng đặc biệt.
Vì các nước Đông Âu cải cách các nền kinh tế của mình, việc mở rộng
thương mại việc đang thay đổi mô hình buôn bán của họ cần phải được thích
nghi chủ yếu bởi các thị trường công nghiệp phương Tây. Vài nghiên cứu mới
đây dự đoán rằng với sự biến mất của những cuộc thương lượng trong Hội
đồng tương trợ kinh tế và việc quá độ tới các nền kinh tế thị trường, mô hình
thương mại của Đông Âu phải được thay đổi căn bản, chuyển từ các nền kinh
tế kế hoạch tập trung sang những thị trường công nghiệp, đặc biệt các nước
Tây Âu.
Sự sụp đổ mới đây của thương mại Hội đồng tương trợ kinh tế, đặc biệt
với sự thủ tiêu Liên Xô và Đông Đức và sự đổ vỡ thương mại với Irắc (một
bạn hàng thương mại quan trọng của Tiệp, Bungari và Rumani) đã làm cho
việc tiến vào các thị trường phương Tây có tầm quan trọng lớn hơn. Khối
lượng xuất khẩu sang các bạn hàng thương mại Hội đồng tương trợ kinh tế
cũ năm 1991 đã giảm xuống khoảng 35-65% ở Bungari, Tiệp, Hung và
Rumani vào khoảng 75% ở Ba Lan. Điều này chủ yếu do sự trục trặc và thiếu
ngoại tệ trong Liên Xô cũ (cũng như trong các nước Hội đồng tương trợ kinh
tế khác (đặc biệt là Rumani và Bungari); sự thống nhất nước Đức phần nào
làm thương mại của Đông Đức trệch hướng khỏi Đông Âu; sự thiếu kinh
nghiệm của các nhà buôn trong việc quản lý thương mại theo những quy tắc
thương mại mới và việc điều chỉnh luồng thương mại như dự tính nhằm gỡ bỏ
kiểm soát và những méo mó vốn là đặc trưng trước đó của chế độ Hội đồng
tương trợ kinh tế. Tình hình này đã bị trầm trọng thêm bởi sự mở rộng viện
trợ có ràng buộc vào những tín dụng xuất khẩu của các nước công nghiệp
dành cho Liên Xô cũ đồng thời có thể đã làm trệch hướng buôn bán của Đông
Âu đối với các nước công nghiệp.
4. Tiếp cận thị trường các nước công nghiệp
Trong ba năm qua, các nước công nghiệp đã có một số bước cải thiện
trong việc Đông Âu tiến vào các thị trường của họ. Trước đây, sự thiếu quy
chế biểu thuế Tối Huệ Quốc là trở ngại lớn vào thị trường Mỹ. Năm 1989, chỉ
có Hungary, Ba Lan và Nam Tư được hưởng quy chế Tối Huệ Quốc. Mỹ đã
dành quy chế Tối Huệ Quốc cho Tiệp tháng 11-1990 và cho Bungari tháng 4-
1991 và dự định sẽ sớm dành quy chế đó cho Rumani. (Mỹ đã dành quy chế
Tối Huệ Quốc lâu dài cho Hungary và Tiệp tháng 10-19910, Mỹ cũng dành
GSP - chế độ ưu đãi chung - cho Hungari (tháng 11-1989), Ba Lan (tháng
giêng 1990) và Tiệp (tháng 5-1991)(59). Thêm vào đó, Mỹ đã tăng cường số
lượng sản phẩm thép cho VER - Hạn chế xuất khẩu tự nguyện - có thể được
nhập từ Hungary và Ba Lan, Mỹ đã có kế hoạch nới lỏng quotas nhập khẩu
hàng dệt và thép từ Tiệp, Ba Lan và Hungary và mở rộng danh sách hàng
nhập khẩu theo GSP từ các nước này.
Trong ba năm qua đã có những thay đổi lớn trong các quan hệ của EC
với Đông Âu. Trước Tuyên bố Lúcxămbua giữa EC và Hội đồng tương trợ
kinh tế tháng 6-1988, buôn bán với các nước Hội đồng tương trợ kinh tế đã
chịu những hạn chế lớn về số lượng đối với cả loại không chọn lọc lẫn có
chọn lọc (phân biệt đối xử). Từ 1988 đến 1991, EC đã đi vào những Hiệp nghị
hợp tác riêng rẽ với Bungari, Tiệp, Hung, Ba Lan và Rumani (Bảng V). Những
Hiệp định này chứa đựng một điều khoản Tối Huệ Quốc và đưa đến việc dãn
bớt toàn bộ hạn chế số lượng có lựa chọn trong một thời kỳ mười năm.
Những bước phát triển từ 1989 đã ngáng trở việc thi hành những hiệp định
này. Năm 1990, EC xóa bỏ việc áp dụng những hạn chế số lượng có chọn lọc
trừ những khu vực nhạy cảm như nồng nghiệp, dệt và quần áo, thép và than
và đình chỉ việc áp dụng những hạn chế số lượng không chọn lọc đối với
Tiệp, Hung và Ba Lan. EC cũng cấp GSP cho tất cả các nước Đông Âu.
Thêm vào đó, EC đã ký kết những Hiệp định Hiệp Hội với Tiệp, Hung
và Ba Lan.
Trong lĩnh vực thương mại, những hiệp định này sẽ đưa đến một cuộc
vận động mậu dịch tự do giữa EC với từng nước trong ba nước ở hầu hết các
sản phẩm công nghiệp, nhưng ký riêng những protocol về nông nghiệp, dệt
và quần áo, thép và than, qui mô đối với mỗi khu vực mà sẽ được đề cập
trong những hiệp định khác đang được thảo luận. Họ cũng đã dự tính ghi
những điều khoản về bảo vệ, quy tắc nguồn gốc, quy tắc chống phá giá, trợ
cấp, sở hữu tài sản trí tuệ, bảo hộ pháp lý những người thuộc ba nước Đông
Âu ở EC và chính sách cạnh tranh. Những hiệp định được dự tính thực hiện
trong một thời kỳ tối đa mười năm nhưng EC sẽ chắc chắn là giảm những
hàng rào thuế quan và phi quan thuế nhanh hơn các bạn hàng của họ.
Điều khoản của những protocol ký riêng rẽ về nông nghiệp, thép, than
và dệt và quần áo phản ánh "tính nhạy cảm" của những khu vực này trong
những nhà nước hội viên EC. Đối với nông nghiệp những qui định đối với các
loại sản phẩm, đặc biệt những sản phẩm được CAP đề cập tới đã được đưa
ra bàn cãi rất nhiều. Những qui định về nông nghiệp bị hạn chế có thể làm
dấy lên những mối nghi ngờ về sự đúng đắn của những hiệp định ký với
GATT trong đó ngoài điều XXIV của GATT đòi hỏi, thì những hiệp định mậu
dịch tự do bao hàm căn bản mọi thương mại. Sự mở rộng những hiệp định
này nhằm tự do buôn bán tất cả nông sản, tuy nhiên trong bối cảnh không có
một cuộc cải cách cơ bản về các chính sách nông nghiệp EC, sẽ làm tăng
thêm sản xuất thừa ứ của EC, tăng thêm chi phí ngân sách của CAP và làm
giảm giá thị trường.
Do đó, một sự tăng cường tiếp cận quan trọng của các nông sản Đông
Âu vào thị trường EC, dường như sẽ có liên quan đến cuộc cải cách của CAP
và kết quả của các cuộc thương lượng tại vòng đàm phán Urugoay.
Việc ký một protocol riêng rẽ về than và thép phần nào phản ánh những
nhân tố thể chế. Thêm vào đó, ở trường hợp than, việc dẫn đến mậu dịch tự
do tạo ra những khó khăn cho các nước thành viên EC (Đức và Tây Ban Nha)
vốn phải trợ cấp rất nhiều cho các khu vực than và hạn chế nhập khẩu than
của Ba Lan thông qua những hiệp định tay đôi. Mặc dầu thép chắc chắn sẽ có
được một protocol riêng rẽ nhưng hội đồng EC đã quyết định từ 15 tháng tư
1991 rằng sản phẩm này sẽ được hưởng quy chế buôn bán như bất kỳ sản
phẩm công nghiệp nào khác miễn là các nước Đông Âu phải tuân thủ quy tắc
của EC về giá cả và trợ cấp. Một câu hỏi chưa được giải đáp là liệu người ta
có yêu cầu ba nước Đông Âu cam kết giảm công suất về thép hay không ở
trường hợp dệt và quần áo, EC và các thị trường các nước công nghiệp khác
hiện nay vẫn được MFA (Thương lượng về Sợi kép) và VER (Hạn chế xuất
khẩu tự nguyện) bảo hộ. Vấn đề chính sẽ phải được quyết định trong những
cuộc thương lượng giữa EC và các nước Đông Âu có liên quan tới độ dài của
thời kỳ quá độ tới mậu dịch tự do.
Tiệp, Hung và Ba Lan cũng đã ký các hiệp định hợp tác với EFTA tháng
6-1990 và đã nhất trí cùng xem xét những điều kiện tuần tự thiết lập khu vực
Mậu dịch tự do. Đối với một thời kỳ quá độ mười năm, các hội viên EFTA đã
dự tính các cuộc giảm thuế quan sẽ được làm nhanh hơn những nước bạn
hàng.
Bất chấp những biện pháp đã thực hiện cho đến nay, để tới thị thường
các nước công nghiệp, Đông Âu còn phải đương đầu với những hàng rào to
lớn đặc biệt trong nông nghiệp, dệt và quần áo và sản phẩm thép là những
mặt hàng xuất khẩu quan trọng của Đông Âu vào các nước công nghiệp.
Những hàng rào này mang hình thức quotas, VER và những hạn chế khác
cũng tác động các nước đang phát triển khác. Trong mối liên hệ này, quotas
EC về thịt bò từ Đông Âu đã bị cắt bỏ tháng 4-1991 để tránh tình trạng dư
thừa tiếp tục trong các kho dự trữ của EC.
Không có cải thiện lớn trong tiếp cận của Đông Âu vào thị trường các
nước công nghiệp thì những cuộc cải cách kinh tế của những nước này có
thể sẽ bị phá hoại. Những hàng rào lớn đang tồn tại ở các thị trường các
nước công nghiệp đã dồn vào những khu vực nhạy cảm như nông nghiệp,
thép, dệt và quần áo. Trong bối cảnh các nước công nghiệp lớn miễn cưỡng
gỡ bỏ những hạn chế trong các khu vực này trên cơ sở đơn phương, việc tiếp
cận được tăng cường vào những khu vực này phụ thuộc một phần vào kết
quả của Vòng đàm phán Urugoay.
Như đã chỉ ra ở trên, việc các nước công nghiệp dành tín dụng tay đôi
và những điều khoản tài trợ dễ dàng đi liền với nhập khẩu từ các nước công
nghiệp có thể đã làm trệch hướng mậu dịch của Đông Âu, Trong mối liên hệ
này, Mỹ mới đây đã cung cấp tín dụng viện trợ nông nghiệp cho Liên Xô cũ,
tín dụng này gắn chặt với việc mua hàng nông nghiệp Mỹ. Các nhà cầm
quyền Đức đã thi hành những phương tiện bảo hiểm xuất khẩu đặc biệt để hỗ
trợ xuất khẩu của Đông Đức sang liên Xô, dịch vụ bảo hiểm xuất khẩu này đã
cấp một giấy tờ từ bỏ các quy tắc thông thường được các hội viên OECD
tuân thủ cho đến cuối 1991 cho phép không phải đặt cọc bằng tiền mặt một
thời kỳ, hưởng thời gian ưu đãi về tín dụng dài hạn và nới rộng những thời kỳ
trả lại tiền. Thêm vào đó, trợ cấp ngân sách chính phủ liên bang Đức cấp cho
xuất khẩu của Đông Đức sang Liên Xô cũ đã làm tăng xuất khẩu của Đông
Đức sang Liên Xô năm 1990, điều đó có thể thay thế xuất khẩu của Đông Âu.
GHI CHÚ VÀ PHỤ LỤC THỐNG KÊ (PHẦN II)
26. Những nước được nêu tên trong phần viết này bao gồm Bungari,
Hungari, Ba Lan, Rumani và Nam Tư; Nam Tư khác các nước Đông Âu khác
ở nhiều phương diện quan trọng; trong những năm 1950, Nam Tư đã bỏ quản
lý kinh tế tập trung, những hàng của Nam Tư đã do công nhân tự quản lý;
buôn bán của Nam Tư và các chế độ giá đã được tự do hóa phần lớn và Nam
Tư không bao giờ tham gia Hội đồng tương trợ kinh tế. Các chính sách buôn
bán của Nam Tư đã được nói đến trong phần này vì Nam Tư chia sẻ với các
nước Đông Âu khác một vài đặc trưng chủ yếu của chế độ kinh tế xã hội chủ
nghĩa bao gồm sở hữu công cộng các phương tiện sản xuất và mới đây đã
tăng tốc các cải cách kinh tế của mình.
27. CMEA được thành lập bởi Bungari, Rumani, Tiệp, Ba Lan, Hung và
Liên Xô cũ năm 1949. Cộng hòa dân chủ Đức cũ gia nhập năm 1950, Mông
cổ, Cu Ba và Việt Nam tham gia những năm sau. Anbani là hội viên nhất thời.
Nam Tư bị loại ra năm 1949 trở thành một thành viên liên kết năm 1965.
28. Giá được tính thành "rúp" chuyển nhượng. Công thức Bucarest
định giá hàng hóa buôn bán trong các hội viên Hội đồng, về nguyên tắc, bình
quân năm năm một lần định theo giá so sánh được với giá thị trường thế giới.
Công thức này được áp dụng một cách dễ dàng trong việc buôn bán hàng sở
chế như dầu thô và khí đốt thiên nhiên. Tuy nhiên, buôn bán hàng công
nghiệp thì khó hơn vì chất lượng hàng sản xuất tại khu vực Hội đồng thông
thường thấp hơn chất lượng hàng phương Tây sử dụng làm cơ sở cho việc
so sánh giá. Kết quả là giá bình quân năm năm được coi là một cơ sở để
thương lượng.
29. Quỹ tiền tệ quốc tế và những Tổ chức khác (1990), tr. 50.
30. Thí dụ, năm 1989, xuất khẩu sang Liên Xô cũ 65,8% tổng xuất khẩu
đối với Bungari, 30,5% Tiệp, 25,1% Hung, 20,5% Ba Lan, 21,4% Rumani và
20,9% Nam Tư (Quỹ Tiền tệ quốc tế (1991a) tr.29, Bảng 7). Cũng Quỹ tiền tệ
quốc tế (1990b) tr. 65, Bảng 18,
31. Những nước xã hội chủ nghĩa gồm các nước Hội đồng tương trợ
kinh tế, Anbani, Trung Quốc, Campuchia, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều
tiên, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và Nam Tư.
31. Kenen (1991).
33. Những cố gắng cải cách lúc đầu đã được thảo luận tại Quỹ Tiền tệ
quốc tế (1991a). Williamson (1991), Geib và Gray (1991) và ở trưòng hợp
HunggariBoote và Somogyl (1987).
34. Quỹ Tiền tệ quốc tế (1991a) và Starrel (1991) ủng hộ một cuộc thảo
luận về những đặc trưng chính các cải cách kinh tế dã thực hiện trong hai
năm qua.
35. Khái niệm sự chuyển đổi đồng tiền như Quỹ Tiền tệ quốc tế định
nghĩa chỉ dẫn tính sử dụng được không hạn chế và không phân biệt đối xử và
sử dụng tiền trong nước để thanh toán và chuyển giao các giao dịch quốc tế
vãng lai.
36. Ở Ba Lan, tuy nhiên, những hộ gia đình đã được phép nhận ngoại
tệ ở thị trường song song với tỷ suất đánh vào giao dịch, ở đây ngoại hối
không có giá tri mua được thông qua thi trường chính thức.
37. Ở Nam Tư, độc quyền nhà nước về ngoại thương đã bị gỡ bỏ năm
1950.
38. Cấp giấy phép được lặp lại và vào tháng 6-1991 đối với đại gia súc,
thịt bò và bơ.
39. Tỷ lệ thuế bình quân khoảng 5% ở Tiệp (1990), 16% ở Hunggari
(1991), khoảng 14% ở Ba Lan (1991) và khoảng 7% ở Nam Tư (1990). Ở
Bungari bình quân thuế MFN-Tối Huệ Quốc là 5,9% đối với hàng trung gian,
7,4% đối với hàng thiết bị, 13.3% đối với hàng tiêu dùng và 7,9% đối với nông
phẩm.
40. Điều này áp dụng cho tất cả nhập khẩu trừ hàng từ các nước đã ký
hiệp định mậu dịch tự do với Tiệp (tức là Phần Lan). Tiệp đã thông báo thuế
phụ này cho ủy ban Cán cân thanh toán GATT vì Tiệp đã tăng một số thuế
trên mức "giới hạn” của chúng.
41. Tháng 6-1991, Bungari đã giảm số lượng cấm xuất khẩu đối với
sáu mặt hàng và loại bỏ tất cả thuế xuất khẩu.
42. Điểm này đã được thực hiện chẳng hạn bởi đại diện Hung tại Hội
đồng GATT khi Hội đồng kiểm điểm các chính sách thương mại của Hung
theo cơ chế duyệt lại chính sách mậu dịch của GATT (GATT thông báo tin tức
tháng 5/6/1991).
43. Quỹ Tiền tệ quốc tế (1991a) và Gelb và Gray (1991).
44. Calvo và Frenkel (1991a) và Genberg (1991).
45. Quỹ Tiền tệ quốc tế và những tổ chức khác (1990). Lipton và Sachs
(1990) Fischer (1990) và Havrylyshyn và Tarr (1991).
46. Havryshyn và Tarr (1991).
47. Đặc biệt, trước những cuộc cải cách, giá năng lượng và nguyên liệu
được giữ thấp một cách giả tạo trong khi những hạn chế về số lượng đã gạt
bỏ những hàng công nghiệp do nước ngoài sản xuất. Điều này dẫn dến kết
quả là có tỷ lệ cao trong việc bảo hộ có hiệu quả các hàng công nghiệp chế
tạo hoàn chỉnh và những tỷ lệ bao âm đối với năng lượng và nguyên liệu.
48. Mc Kinnon (1991). Tuy nhiên, hạn chế đầy đủ về lượng, một đầu
vào quan trọng của sản xuất, có thể dẫn đến vấn đề giá trị gia tăng âm.
49. Việc tăng sẽ nâng các biểu thức lên trên những mức “đã được giới
hạn” trong GATT cần phải có thương lượng với các bên ký hợp đồng khác.
Mặc dầu không có những tiền lệ pháp lý rõ ràng cho việc chấp nhận mức thuế
cao hơn để đánh đổi lấy việc giảm bớt những hạn chế về số lượng. Điều
XXVIII của GATT cung cấp khuôn khổ pháp lý cho việc thương lượng lại các
điều ràng buộc thuế quan.
50. Một số người gợi ý rằng thuế quan là sự lựa chọn tốt hơn trong thời
hạn ngắn, vì (i) thuế quan tăng thu nhập và cải thiện địa vị tài chính của đất
nước, trái lại, phá giá chỉ đạt được tác động đó nếu chính phủ nắm trong tay
những ngành công nghiệp xuất khẩu, (ii) phá giá đẩy giá tất cả các hàng lên
kể cả những hàng trung gian và những nhu yếu phẩm trong khi thuế có thể
tập trung vào những hàng kém thiết yếu và (iii) triển vọng tương lai giảm
những giá hàng tiêu dùng lâu bền khi thuế biểu được gỡ bỏ sẽ tạo ra tác
động thay thế luôn luôn giao thời có lợi cho việc trì hoãn tiêu dùng (xem
Williamson (1991).
51. Vấn đề này đã được thảo luận ở Lane và Dinopoulos (1991); và đã
kết luận rằng việc kết hợp giảm nợ và cải cách thuế có thể tạo thuận lợi cho
những cải cách định hướng thị trường trong các nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
52. Michalopoulos và Tarr (1991).
53. Xem Michalopoulos và Tarr (1991) và Kenen (1991), những thảo
luận chi tiết.
54. Tarr (1991)
55. Thương mại của cả Đông Âu và Liên Xô cũ được ước tính chưa
đầy 10% tổng thương mại thế giới (xem Collins và Rodrik (1991).
56. Trung tâm nghiên cứu chính sách kinh tế CEPR (1990), Collins và
Rodrik (1991) và Havrylyshyn và Prichett (1991). Chẳng hạn, Havrylyshyn và
Prichett, bằng việc sử dụng mô hình lực hấp dẫn, chỉ ra hình thái thương mại
tay đôi ở Đông Âu khác rất xa với hình thái thương mại mà người ta mong đợi
ở những nước có mức thu nhập, vị trí và qui mô lãnh thổ như họ, hình thái
này không được quyết định bởi các lực lượng thị trường mà nhiều hơn bởi
các mối quan hệ kinh tế và chính trị gắn bó Đông Âu và Liên Xô cũ lại với
nhau trong Hội đồng tương trợ kinh tế. Họ đã thấy rằng một hình thái thương
mại tự nhiên hầu như hoàn toàn ngược lại hình mẫu hiện hành nơi mà luồng
thương mại thực tế vào Đông Âu khoảng 60-80% bên trong khối phương
Đông và 20-30% với Bắc Âu. Collins và Rodrik cũng kết luận rằng những bạn
hàng mậu dịch tự nhiên của Đông Âu là những công nghiệp tiên tiến của
Châu Âu hơn là chỉ các nước Đông Âu với nhau, vẫn còn phạm vi để mở rộng
thương mại giữa Đông Âu và các nền kinh tế năng động của Châu Âu.
Buôn bán giữa hai khu vực đã mở rộng nhanh trong vài năm vừa qua.
Chẳng hạn, giá trị xuất khẩu của CH Triều Tiên sang Đông Âu đă tăng khoảng
năm lần và nhập khẩu đã tăng khoảng ba lần rưỡi trong 1988-90. Những mặt
hàng xuất khẩu lớn các nền kinh tế Châu Á năng động đưa vào Đông Âu bao
gồm điện tử và những hàng tiêu dùng khác trong khi những mặt hàng xuất
khẩu lớn Đông Âu đưa vào các nền kinh tế này gốm máy, hoá chất, và sản
phẩm thép. Tổng khối lượng mậu dịch Đông Âu với các nền kinh tế năng
động châu Á tuy nhiên vẫn còn nhỏ so với buôn bán với các thị trường công
nghiệp.
57. Việc giảm sút xuất khẩu của các nước ngoài Hội đồng tương trợ
kinh tế cũng ảnh hưởng đáng kể trừ Hungari và Ba Lan là những nơi xuất
khẩu của các nước không thuộc Hội đồng tương trợ kinh tế vẫn tăng lên
nhiều.
58. Trong trường hợp Rumani, sau khi chính phủ Ceausescu từ chối
đặc quyền quốc gia được hưởng ưu đãi vào tháng 2-1988. Mỹ đã hoãn thi
hành điều khoản quốc gia được ưu đãi theo Hiệp định Thương mại 1974.
59. Nam Tư đã được Mỹ trao cho quyền hưởng Tối Huệ Quốc từ 1976.
60. Mỹ có kế hoạch thương lượng trở lại những hiệp định tay đôi về
quotas dệt với Hung, Ba Lan và Tiệp vào cuối năm 1991. Mỹ cũng có kế
hoạch tăng cường những quotas phomát trong khuôn khổ các cuộc thương
lượng Vòng đàm phán Urugoay (Nhà trắng, 12 tháng 7 -1991).
61. EC đã có một hiệp định hợp tác thương mại với Nam Tư từ 1980,
EC cung cấp viện trợ tài chính và kỹ thuật và bao gồm những Ưu đãi thương
mại cho hàng xuất khẩu của Nam Tư.
62. Bungari và Rumani cũng đã yêu cầu EC tiến hành những cuộc thảo
luận sơ bộ về một Hiệp định Hội.
63. Theo một ước lượng (Trung tâm nghiên cứu chính sách kinh tế)
(1990) một đợt giảm giá thị trường thế giới ít nhất 10% đối với lúa mì và 9%
đối với ngũ cốc sẽ là cần thiết đế có được 20% tăng lên trong sản xuất những
mặt hàng này ở Đông Âu và Liên Xô cũ so với các mức sản xuất 1988 của
họ.
64. Đề nghị ngày 30-9-1991 của các bộ trưởng ngoại giao EC cho phép
tăng hàng năm 10% nhập khẩu thịt bò và thịt cừu từ ba nước Đông Âu trong
năm năm (hàng xuất khẩu này hiện nay của ba nước khoảng 28.000
tấn/năm). Theo thương lượng "mậu dịch tam giác", EC sẽ giúp tài trợ xuất
khẩu lương thực thực phẩm từ ba nước Đông Âu sang Liên Xô cũ, hàng xuất
khẩu đó được khấu trừ vào quotas EC tăng lên (người báo cáo Mậu dịch
quốc tế (1991), tr.1425).
65. Cộng đồng Thép và Than Châu Âu (ECSC) thép và than bảo hộ
bằng hiệp ước đã ký năm 1951 mang tên Cộng đồng đó. EC có cơ quan điều
hành ECSC nhưng quyền lực của EC trong hiệp ước ECSC còn lớn hơn hiệp
ước EEC, những quyền này đã được sử dụng để kiểm soát sản xuất và giá
thép trong EC.
66. Các chuyên gia công nghiệp thép trong EC và những nghiên cứu
độc lập gợi ý rằng sản xuất trong toàn thể Đông Âu bao gồm cả Liên Xô cũ
cần thiết phải cắt bỏ đi 30% để đạt mục tiêu của một nền công nghiệp không
cần trợ cấp và có sức cạnh tranh. Báo cáo Châu Âu (1991).
67. Thí dụ, trong những năm 1985-1989 ba khu vực này chiếm 28%
xuất khẩu của Tiệp sang EC và 36% xuất khấu của Tiệp sang Mỹ; đối với
Hung, những con số tương đương là 39% và 27% và đối với Ba Lan là 30%
và 65%.
Bảng III: Các chế độ thương mại và thanh toán của các nước Đông Âu-
tháng 6-1991
Độc
quyền
nhà
nước
Kế
hoạch
nhà
nước
Nhập khẩu Xuất khẩu Chế độ ngoại
hối
Những biện pháp bổ
sung có chọn lọc
Hạn chế số
lượng
Thuế biểu Hạn chế số
lượng
Trợ cấp Kiểm soát
giá
Đầu tư
nước
về
thươg
mại
ngoài
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Bungari Đã xóa
bỏ
Đã xóa
bò
Xóa bỏ hết
vào tháng 2-
1991, cần giấy
phép đối với
hàng hóa đã
ký hiệp định
với Liên Xô cũ
vì những mục
đích giám sát
v.v...
Thuế biểu thuế
quan mới dựa
trên chế độ hòa
hợp thi hành
tháng 1-6-1991.
Thuế nhập khẩu
tạm thời 15%
chủ yếu với tiêu
dùng.
Phần lớn
hạn chế đã
xóa bỏ, trừ
cấm xuất
sáu mặt
hàng; hàng
xuất theo
hiệp định
tay đôi vẫn
cần giấy
phép
Khôg
trợ cấp
Tỷ giá hối
đoái thả nổi,
thấp nhất.
Chuyển đổi
với phần lớn
giao dịch
vãng lai trừ
du lịch. Kế
hoạch giữ lại
đă xóa bỏ.
Hầu hết
kiểm soát
giá đã loại
bỏ. Kiểm
soát giá đã
loại bỏ.
Kiểm soát
giá còn
giữ
nguyên đối
với dưới
10%
doanh, sổ
bán lé và
buôn bán
Cho phép
tới 100%
sở hữu.
Không hạn
chế đưa
lợi nhuận
về nước.
Tiệp Đã xóa
bỏ
Đã xóa
bỏ
Không cần
giấy phép
nhập khẩu trừ
dầu thô khí
thiên nhiên
thuốc gây mê
thiết bị quân
sự và (từ 6-91)
đại gia súc, thịt
bò và bơ.
Thuế biểu
không thay đổi
từ 1-1991. Một
phụ phí nhập
khẩu tạm thời
hàng tiêu dùng
20% được áp
dụng vào cuối
năm 1990,
tháng 6-1991
giảm xuống
15%.
Phần lớn
hạn chế đã
gỡ bỏ trừ
cắp giấy
phép cho
năng
lượng, vài
nguyên liệu
và hạn chế
kiềm chế
xuất tự
nguyện bởi
các nước
khác.
Xóa bỏ
vào
1/91 Vài
trợ cấp
còn giữ
cho
nông
sản
Tỷ giá hối
đoái cố định.
Chuyển đổi
với hầu hết
giao dịch, kế
hoạch giữ lại
bãi bỏ
Xoá bỏ
phần lớn
Kiểm soát
giá.
Khoảng
5% tổng
doanh số
chịu kiểm
soát giá
Cho phép
sở hữu tới
100%
Không hạn
chế lợi
nhuận và
lãi cổ phần
đưa về
nước. Vốn
đưa về
nước khi
thanh toán.
Hunggari Đã xóa
bỏ
Đã xóa
bỏ
Trên 90%
nhập khẩu
không cần
giấy phép.
Toàn thể
quotas hàng
tiêu dùng vẫn
được tiến
hành.
Thuế xuất phần
lớn khá thay đổi
từ 1989.
Khoảng 80%
thuế xuất cá thể
trong GATT
Khoảng
30% xuất
khẩu còn
cấp giấy
phép chủ
yếu hàng
do kiềm
chế xuất
khẩu tự
nguyện
Còn trợ
cấp
nông
sản và
lương
thực
chế biến
Tỷ giá hối
đoái cố định,
thống nhất.
Chuyển đổi
cho hầu hết
giao dịch
vãng lai.
Giao dịch
qua Ngân
hàng thương
mại
Khoảng
90% giá
đã tự do
hóa
Cho phép
sở hữu tới
100%.
Không hạn
chế đưa về
nước lợi
nhuận và
vốn đầu tư
Hà Lan Đã xóa
bỏ
Đã xóa
bỏ
Không hạn
chế trừ đối với
yêu cầu giấy
phép đối với
mậu dịch theo
hiệp định tay
đôi
Thuế hiểu thống
nhất. Từ 7-1990
đến 7-1991
4.500 mặt hàng
giảm hoặc
ngừng thuế hải
quan Cơ cấu lại
danh mục thuế
bình quân tỷ
suất thuế 14%
Quotas
xuất giảm
từ xấp xỉ
100 mặt
hàng cuối
năm 1989
còn 5 mặt
hàng 4-
1990. Cấp
giấy phép
Hầu hết
trợ cấp
đã bỏ
1/90
Còn nhiều tỷ
giá. Tỷ giá
thống nhất và
cố định cho
thương mại.
Tiền chuyển
đổi được.
Chuyển đổi
đối với hầu
hết giao dịch
Trên 80%
giá hàng
tiêu dùng
vào
khoảng
90% giá
sản xuất
đã tự do
hóa
Cho phép
tới 100%
sở hữu.
Không hạn
chế
chuyển
giao lợi
nhuận và
lãi cổ
(có 1 phụ phí
tạm 5%)
cho 20 mặt
hàng buôn
bán bằng
tiền chuyển
đổi được
hiện hành
của doanh
nghiệp. Cá
thể có thể
nhận ngoại
hối ở thị
trường song
song. Kế
hoạch giữ lại
đã bãi bỏ
phần.
Rumani Đã xóa
bỏ
Đã xóa
bỏ
Giấy phép
nhập khẩu chỉ
cần cho mục
liệu thống kê
Nhiều nét phân
biệt đối xử của
bộ thuế biểu đã
đi loại bỏ và
thuế suất cao
nhất đã bị xóa
bỏ. Kế hoạch
cân bằng giá bị
bãi bỏ.
Cần giấy
phép xuất
khẩu vì
mục tiêu
thống kê.
Quotas và
cần xuất
khẩu
khoảng
120 mặt
hàng chịu
kiểm soát
giá hoặc
nhập khẩu
qua thị
trường hối
đoái chính
thức.
Những
mức
Quotas
tăng mạnh
mặt hàng
phi lương
thực thực
phẩm
Các nhà
xuất
khẩu
được
miễn
thuế
doanh
số
Những tỷ
suất kép với
cam kết
thống nhất.
Chuyển đổi
với hầu hết
giao dịch
vãng lai trừ
gửi lợi
nhuận. Có ý
đồ giữ lại có
ý đồ bán đấu
giá vào tháng
2-1991
Hơn 80%
giá là tự
do 113
sản phẩm
còn bị
kiểm soát
Được
phép
100% sở
hữu. Một
số hạn chế
chuyển
giao lợi
nhuận.
Nam tư Đã xóa
bỏ
Đã xóa
bỏ
Khoảng 10%
nhập khẩu
theo quotas
Giảm tỷ suất
thuế 3-1990
nhưng đồng
thời giảm số
lượng miễn
thuế hải quan
Vài hạn
chế. Giấy
phép cấp
cho vài
nguyên liệu
để bảo
đảm cung
cấp đủ cho
trong nước
Đã xóa
bỏ
12/90
Tỷ giá hối
đoái cố định
thống nhất.
Chuyển đổi
được đổi với
giao dịch
hiện hành lập
1-1990
nhưng một
số hạn chế
đặt ra vào
1990
Cuối 1990
90% sản
xuất không
còn bị
kiểm soát
Được
phép
100% sở
hữu.
Không hạn
chế
chuyển
giao lợi
nhuận
Bảng IV: Những cuộc thương lượng thương mại tay đôi giữa các nước
Đông Âu và Liên Xô cũ
Bungari
Để thương lượng một Hiệp định với Liên Xô cũ tháng giêng 1991 về một danh
sách chỉ dẫn những hàng buôn bán được. Mậu dịch theo hiệp định này dựa
trên giá thị trường thế giới tính bằng đôla Mỹ và được thanh toán bằng tiền có
khả năng chuyển đổi. Một hiệp định mậu dịch đã được ký với Belarus và Liên
bang Nga và đang thảo luân với Ucraine.
Tiệp
"Những danh sách chỉ dẫn" các sản phẩm buôn bán giữa Tiệp và Liên Xô cũ
trên cơ sở hai bên cùng có lợi và một cuộc thương lượng về thanh toán bằng
đồng đôla Mỹ đối với những mặt hàng này đang được tiến hành. Thêm vào
đó, đối với những hàng ở ngoài danh sách người ta thành lập các tài khoản
thanh toán bằng những đồng tiền quốc gia, giá cả do hai bên cùng thương
lượng không có sự bảo đảm của các nhà cầm quyền. Những cố gắng để thiết
lập mậu dịch hàng đổi hàng giữa Nga và Tiệp và lập ra một ngân hàng ngoại
thương để giúp phát triển mậu dịch giữa các nước cộng hòa.
Hunggary
Những nhà cầm quyền đang tìm kiếm phát triển buôn bán, đặc biệt hàng xuất
khẩu, với Liên Xô cũ thông qua việc ký những hợp đồng hàng đổi hàng.
BaLan
Thương lượng một hiệp định với Liên Xô cũ đầu năm 1991 về một danh sách
những hàng buôn bán được chọn lọc. Phương thức buôn bán và thanh toán
(tiền mặt, mậu dịch đối lưu, hàng đổi hàng, V.V..) những người buôn bán tự
giải quyết các công việc với nhau qua thảo luận. Thêm vào đó, Ba Lan mới
đây đã ký một hiệp định với Liên Xô cũ (tháng 7 -1991) cung ứng (i) thuốc
chữa bệnh đổi lấy dầu lửa và khí đốt thiên nhiên theo phương thức hàng đổi
hàng, (ii) lương thực thực phẩm đổi lấy kim loại, (iii) dệt đổi lấy các sản phẩm
dầu mỏ và (iv) toa xe lửa đổi lấy khí đốt thiên nhiên. Tháng 9-1991, Ba Lan đã
ký các hiệp định với Liên Xô cũ cung cấp (i) thuốc chữa bệnh và những sản
phẩm cơ khí điện đổi lấy quặng sắt, khí đốt thiên nhiên, cellulose, và những
nguyên liệu khác và (ii) quả và nông sản đổi lấy khí đốt thiên nhiên.
Rumani
Các nhà cầm quyền đang thảo luận với Liên Xô cũ những thể thức "thanh
toán mini" hai nước nhất trí một danh sách sản phẩm có thể bao gồm những
mậu dịch hỗ tương, bất kỳ sự mất cân bằng nào sẽ thanh toán bằng đôla Mỹ.
Thêm vào đó, những thương lượng khác, trong đó có hàng đổi hàng, mậu
dịch đối lưu và thanh toán đặc biệt hàng quân sự.
Nam Tư
Những thương lượng thanh toán tay đôi với Liên Xô cũ đã kết thúc tháng
giêng 1991.
Nguồn: dựa vào thông tin do các chính quyền quốc gia cung cấp.
1. Theo sau việc giải tán Hội đồng tương trợ kinh tế và sự đổ vỡ tan
tành mậu dịch giữa các nước hội viên, Liên Xô cũ đã thông báo ý định trở lại
các cuộc thương lượng về thanh toán bằng những đồng tiền quốc gia với
những hội viên cũ. Liên Xô cũ đã để các ngân hàng của mình lập những tài
khoản trao đổi thư từ bằng những đồng tiền quốc gia với các ngân hàng ở
Tiệp và Ba Lan quyết toán bằng tiền quốc gia một số hàng và dịch vụ trong đó
có cả chi tiêu du lịch.
Bảng V: Những biện pháp mở cửa thị trường những nước công nghiệp
dành cho xuất khẩu Đông Âu
Nước MEN GSP Hiệp định tay đôi mở cửa thị trường
Bungari Tất cả các
nước OECD
(11-1990)
Úc, Áo, Canađa, EC (1-
1991), Phần Lan, Nhật,
Niu Dilân, Nauy, Thụy
Điển, Thụy Sĩ
EC (4-1990) Mỹ (10-
1990)
Tiệp Tất cả nước
OECD (Mỹ
11-1990)
Áo EC (12-1988) Mỹ (4-
1990), EFTA (6-1990)
Hung Tất cả các
nước OECD
(Mỹ 1978)
Ba Lan Tất cả các
nước
OECD(Mỹ
1987)
Úc, Áo, Canada, EC(1-
1990), Nhật, Niu Dilân,
Mỹ (1-1990)
EC (9-1989)- EFTA (6-
1990)
Rumani Tất cả các
nước OECD
Úc, Áo, Canada, EC
Phần Lan, Nhật, Niu
Dilân, Nauy, Thụy Điển,
Thụy sĩ
EC (5-1991)
Nam Tư Tất cả các
nước OECD
(Mỹ 1948)
Mỹ (1976)
Nguồn: Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Mậu dịch và Phát triển (1990 b) và
các nhà cầm quyền quốc gia.
GHI CHÚ:
EC-Cộng đồng Châu Âu;
EFTA- Hội mậu dịch tự do Châu Âu GSP-Chế độ ưu đãi chung;
MFN = Tối Huệ Quốc
OECD = Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển,
1. Những Hiệp định hợp tác với EC chứa đựng một điều khoản MFN và
rút dần trong mười năm mọi hạn chế số lượng có chọn lọc.
2. Những Hiệp định cho mở rộng hỗ tương đối xử MFN và sẽ tăng
cường khả năng kinh doanh Mỹ hoạt động ở các nước tương ứng.
3. Những Hiệp định hợp tác bảo hộ xúc tiến mậu dịch và hợp tác khoa
học, công nghệ, công nghiệp và Kinh tế.
4. MFN quy chế Mỹ đã đình chỉ hôm 3-7-1988 bằng thỏa thuận chung,
dự tính Mỹ sẽ sớm nối lại quy chế Tối Huệ Quốc.
Phần 3. CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI CỦA CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
Từ giữa những năm 80, ở đa phần các nước đang phát triển (DPT)
diễn ra sự thay đổi được đánh dấu bằng việc định hướng lại các chính sách
thương mại và công nghiệp nhằm tránh tình trạng phụ thuộc nặng nề vào sự
can thiệp trực tiếp và xóa bỏ những chính sách công nghiệp hướng nội để
hướng tới các thể chế thương mại xuất khẩu và ít bị kiểm soát hơn. Trong
nhóm 36 nước đang phát triển được lựa chọn để xem xét những nước đã bắt
đầu các chương trình cải cách thương mại từ khoảng năm 1985 - có 17 nước
đã loại bỏ một cách cơ bản những hạn chế về số lượng từ hệ thống thương
mại vốn bị hạn chế trước đây. Tám nước khác duy trì hoặc tự do hóa hơn
nữa hệ thống thương mại mở cửa hoặc hệ thống thương mại gọi là mở cửa
(mở rất hạn chế) của họ. Trong khi đa số các nước đang phát triển đã có
được những bước tiến cơ bản trong việc giải phóng thương mại và hệ thống
trao đổi có liên quan tới thương mại giữa các khu vực khác nhau thì những
tiến bộ đó lại không đồng đều. Sự thay đổi trong việc định hướng lại các chính
sách thương mại được thể hiện rõ nét nhất ở các nước Châu Mỹ latinh, nơi
hầu hết các nước lớn đã tiến hành, hoặc hiện nay cam đoan thực hiện những
mở rộng hoặc nới lỏng có điều kiện hệ thống thương mại. Điều này đối lập
hoàn toàn với xu hướng hướng nội mạnh mẽ mà cho đến 1984 vẫn còn
chiếm ưu thế. Chính sách tự do hóa trong các nước này được đánh dấu bằng
sự loại bỏ nhanh chóng các hạn chế về số lượng và một kế hoạch giảm dần
thuế quan tới mức độ rất thấp và đồng đều. Ngược lại những cải cách ở Đông
Á và Đông Nam Á, nơi đại bộ phận các nước đã có một hệ thống mở cửa
tương đối từ đầu những năm 1980, có xu hướng biến đổi dần dần từng bước.
Những cải cách của họ đã tạo ra sự tăng không ngừng của các khu vực có
liên quan đến cạnh tranh nhập khẩu. Trong khi một số nước thu nhập thấp đã
có những tiến bộ cơ bản trong việc giải phóng hệ thống thương mại của họ thì
nhiều nước ở Châu Phi và Nam Á chưa tiến hành việc mở cửa nền kinh tế
cho phép cạnh tranh mạnh mẽ của nước ngoài; cải cách chủ yếu tập trung
vào những đầu tư cho sản xuất. Hiện nay họ phải đương đầu với tình trạng
khó khăn hơn trong việc giải phóng các hạn chế về số lượng các sản phẩm
cạnh tranh và giảm mức thuế quan quá cao. Những cải cách đang được tiếp
tục tiến hành và càng có nhiều nước có thể lựa chọn hệ thống thương mại
mở cửa trong một tương lai không xa. Nét cơ bản và mới mẻ của những cải
cách này là ở chỗ chúng là một bộ phận của kế hoạch cải cách cơ cấu tổng
thể mang tính vĩ mô (thường được hỗ trợ bởi các tổ chức nhiều bên). Những
cải cách thương mại và đi cùng với nó là những chính sách hỗ trợ thích hợp
được củng cố qua thời gian sẽ góp phần thúc đẩy các thành tựu kinh tế.
Sự đóng góp ngày càng lớn hơn của các nước đang phát triển trong hệ
thống thương mại đa phương là quá trình tiến triển quan trọng liên quan đến
những cải cách mới đây. Ví dụ, nhiều nước ở Châu Mỹ Latinh đã chấp nhận
hoàn toàn (100%) bảng danh mục thuế quan của họ trong các điều khoản của
GATT, một phần là vì để đảm bảo các cải cách thương mại đã được tiến
hành cho tới giờ. Để củng cố những thành tựu của họ, sự nới rộng các hạn
chế giữa các nước trong khuôn khổ của vòng đàm phán Urugoay sẽ là quan
trọng. Sự gia nhập vào các thị trường nước ngoài trong khu vực, nơi mà các
nước đang phát triển có lợi thế so sánh là phương thức khuyến khích tốt nhất
các cuộc cải cách thương mại thực sự và bảo đảm sử dụng có hiệu quả viện
trợ và đầu tư của nước ngoài.
1. Các chính sách thương mại từ trước cho tới giữa những năm 80
Cho tới giữa những năm 80 có hai lý do quan trọng giải thích cho sự
chiếm ưu thế của các thể chế hạn chế thương mại thời kỳ trước đấy. Lý do
thứ nhất, nền công nghiệp trong nước đòi hỏi được bảo vệ để có thể thay thế
được hàng nhập, cái được xem như là cần thiết cho sự phát triển. Sự yếu ớt
của xuất khẩu trong những điều kiện của thị trường và những điều kiện không
thuận lợi cho thương mại, đã góp một vai trò quan trọng trong việc cung cấp
những lý lẽ biện minh cho sự thay thế nhập khẩu. Với những lý lẽ về việc bảo
vệ nền công nghiệp còn non trẻ, sự thay thế nhập khẩu đòi hỏi sự bảo hộ
trong lĩnh vực công nghiệp, để tạo cho nó khả năng mở rộng và giảm chi phí
trên quy mô tổng thể. Những kinh nghiệm và những cải tiến sẽ được rút ra
qua thực tiễn làm việc. Người ta mong đợi các ngành công nghiệp chế tạo
được bảo hộ sẽ giải quyết công ăn việc làm ở đô thị, tạo ra được một nền
công nghiệp hiện đại, đa dạng hóa được nền kinh tế để rời bỏ xuất khẩu
những sản phẩm sơ chế truyền thống. Corden (1987) đã xem xét một số các
lý lẽ về sự bảo hộ, Bhagwati (1988) cung cấp một khía cạnh có tính lịch sử
với những lý do khác nhau dẫn đến cách tiếp cận có sự kiểm soát của Nhà
nước.
Lý do thứ hai, trong bối cảnh của các chính sách kinh tế vĩ mô và sự
tăng tỷ giá hối đoái thực tế không thích hợp, việc cấp giấy phép nhập khẩu
chặt chẽ và hạn chế chuyển đổi tiền tệ được sử dụng như là các biện pháp
giới hạn cầu, phân phối cung và sự chuyển đổi ngoại tệ để đối phó với sức ép
liên tục của cán cân thanh toán. Trong một số trường hợp điều này được tiến
hành trên cơ sở đặc biệt (cơ sở chuyên trách cho mục đích đó); trong những
trường hợp khác nó được tiến hành trong bối cảnh của các kế hoạch nhập
khẩu hàng năm (ví dụ: Ấn Độ, Pakixtăng và Bănglades). Whalley (1989) đã
đưa ra lý lẽ rằng những kiểm soát trong khu vực kinh tế đối ngoại ở nhiều
nước đang phát triển là để đối phó với những tác động mạnh mẽ có tính chu
kỳ của sự dao động thất thường trong số thu về xuất khẩu và sự lên xuống
không ổn định của các luồng vốn. Ví dụ, những chế độ đối ngoại của nhiều
nước đang phát triển đã bị hạn chế lại sau thời kỳ tự do trong những năm 60
và đầu những năm 70 để phản ứng lại cuộc khủng hoảng dầu mỏ lần thứ
nhất, sự sụp đổ hệ thống giá cả các mặt hàng trong năm 1973 và cuộc khủng
hoảng kinh tế ngắn kỳ đến sau 1974-1975. Tương tự nhiều nước đang phát
triển đối phó với cuộc khủng hoảng nợ và suy thoái bắt đầu vào đầu những
năm 80 bằng việc thắt chặt thương mại và hạn chế chuyển đổi tiền tệ ngay từ
lúc ban đầu.
Tiếp tục những lý lẽ này, 80% những hạn chế về số lượng mà các
nước đang phát triển thông báo cho GATT được biện hộ bằng những lý do
của cán cân thanh toán. Thêm vào đó một số đã khai thác những hạn chế
chuyển đổi ngoại tệ trong những giao dịch thanh toán thương mại và dịch vụ
quốc tế, đặc biệt những giao dịch nằm dưới chế độ kiểm soát chặt chẽ. Nhiều
trong số những nước này, nơi mà các biện pháp hạn chế được sử dụng để
che chở cho các khu vực cạnh tranh với hàng nhập khẩu đã bị ảnh hưởng
gián tiếp quan trọng của những thiên vị về cơ cấu ảnh hưởng xấu đến cơ chế
khuyến khích chống lại nông nghiệp cũng như xuất khẩu. Tuy nhiên, một số
các nước đang phát triển đã thực hiện các cải cách thương mại trước những
năm 1985-1986, với những mức độ khác nhau và những kết quả pha trộn. Sự
xem xét bao quát những trường hợp đáng lưu ý trong việc tự do hóa thương
mại thời kỳ trước và cho tới giữa những năm 1980 có trong Michaely,
Papageorious và Choksi (1991). Một trong những kết luận quan trọng của sự
nghiên cứu này là những cải cách mạnh mẽ có thể kéo dài và những cuộc cải
cách yếu ớt có thể có tác dụng ngược lại. Lý do quan trọng duy nhất đối với
những tác dụng ngược lại của các cuộc cải cách là các chính sách kinh tế vĩ
mô không thỏa đáng, các chính sách này đã tái dựng lại các biện pháp cấp
giấy phép hoặc kiểm soát chuyển đổi tiền tệ để bảo vệ cán cân thanh toán.
Trong rất nhiều nước, nơi mà những cố gắng đầu tiên trong việc cải cách thì
yếu ớt và thất bại, những cải cách sau đó vẫn có thể thành công nếu chúng
đủ sức mạnh. Những thành công như vậy đã xảy ra ở Chilê (1974-81),
Inđônêxia (1966-72), Xrilanca (1977-79) và Thổ Nhĩ Kỳ (1980-84), Triều Tiên
(với những cải cách 1965-67 và 1978-79) là nước đang phát triển duy nhất
với những cải cách bị đánh giá là yếu ớt nhưng họ lại thành công. Trong
những năm 1970 và 1980 có hai trường hợp quan trọng và trái ngược là Chilê
và Triều Tiên. Những mục tiêu của họ về tăng xuất khẩu đã đạt được thông
qua những chiến lược khác nhau về việc tự do hóa thương mại. Chilê theo
đuổi một chương trình tự do hóa nhanh chóng và mạnh mẽ, họ có được nền
kinh tế mở cửa vào cuối những năm 70. Triều Tiên lựa chọn những cải cách
ổn định, dần dần từng bước và chỉ đến giữa năm 80 mới trở thành một nền
kinh tế mở cửa từng phần. Trong cả hai nước, nhìn chung, đều có các chính
sách kinh tế vĩ mô thận trọng và khôn ngoan, các chính sách này đã chú trọng
giữ tỷ lệ lạm phát thấp và tỷ giá hối đoái thực tế là cơ sở của sự thành công,
mặc dù cũng có một số những thất bại.
Trong mô hình của 36 nước đang phát triển được đề cập trên đây, hầu
hết các nước này với hệ thống thương mại không hạn chế suốt thời kỳ trước
và cho đến giữa những năm 80, trong những năm 80 đã thực hiện thành công
với sự tăng trưởng thực tế của cả xuất khẩu và sản xuất. Năm nước thuộc
loại này đã đạt được sự tăng xuất khẩu trội hơn và 6 nước có mức tăng sản
lượng lớn hơn mức tăng trung bình của các nước DPT thời kỳ 1983-1990.
Hai trong số các nước này chỉ đạt được những thành tựu ít ỏi. Côsta Rica và
Urugoay đã có những biểu thuế rất cao để khuyến khích thay thế nhập khẩu,
và đạt được mức gần với mức trung bình của Western Hamisphere, Sênêgan
trải qua một thời kỳ tăng trưởng xuất khẩu tốt đẹp, mức tăng thấp hơn mức
trung bình đối với khu vực phía dưới của Châu Phi Saharan. Nước này là một
thành viên của khu vực đồng Franc và những hạn chế về số lượng đã được
loại bỏ trong những điều kiện nhất định, nhưng vẫn còn một hệ thống thuế
nhập khẩu phức tạp, cái dẫn tới tỷ lệ thuế và hệ thống các chi phí có liên quan
đến nhập khẩu quá cao đối với rất nhiều mặt hàng nhập khẩu.
2. Những chính sách thương mại từ giữa những năm 1980
2.1. Quy mô của các cuộc cải cách
Trong những năm gần đây, nhiều nước đang phát triển tiến hành
những cải cách cơ cấu, bao gồm cả các biện pháp tự do hóa thương mại. Để
đánh giá chất lượng và quy mô của các cuộc cải cách thương mại trong
những nước này người ta đã tiến hành các cuộc điều tra và xem xét về chính
sách thương mại trong 36 nước- những nước đã thực hiện những chương
trình cải cách thương mại từ giữa những năm 1980. Năm trong số các
chương trình cải cách được xem xét, tự do hóa thương mại đã được hỗ trợ
bởi các hiệp ước với IMF và trong nhiều trường hợp bởi những khoản cho
vay để tiến hành cải cách của Ngân hàng thế giới. Trong số 36 nước đang
phát triển ở trên, 28 nước có chế độ kiểm soát thương mại chặt chẽ (21
nước) hoặc khá chặt chẽ (7 nước) trong khi chỉ 8 nước có chế độ thương mại
tương đối mở cửa (7 nước) hoặc mở rộng rãi (1 nước).
Trong số 28 nước có hệ thống thương mại hạn chế, 17 nước đã tiến
hành những cải cách thương mại toàn diện và những cải cách này đã đem lại
những kết quả tốt đẹp, trong khi 11 nước chỉ tiến hành cải cách cục bộ (từng
phần) và về căn bản các khu vực nội địa được bảo hộ bởi những hạn chế về
số lượng (Bảng VII). 17 nước tiến hành những cải cách toàn diện thực sự, đã
bãi bỏ những hạn chế về thanh toán và thương mại thường trong vòng 2
năm, chừa lại một số thuế biểu và phụ phí như là những biện pháp bảo hộ
chủ yếu; 12 nước đã thu hẹp biểu thuế quan, nhưng 5 nước tăng thuế biểu
hoặc phụ phí khi những hạn chế về số lượng bị bãi bỏ. Ở các nước mở cửa
từng phần, thuế biểu vẫn duy trì ở mức cao trong nhiều lĩnh vực nhưng các
cuộc cải cách ban đầu cũng đã làm tăng được tính rõ ràng và tính linh hoạt
của giá cả dưới chế độ thương mại đó. Vì vậy, vào cuối thời kỳ được xem xét,
60% các nước có những thể chế thương mại hạn chế ban đầu đã cải cách
thành công (Bảng VII). Ở 11 nước đã tiến hành các cuộc cải cách tối thiểu thì
chất lượng của các cuộc cải cách khác nhau. Nhưng trong hầu hết các nước
này, sự loại bỏ những hạn chế về số lượng được thực hiện từng bước và
từng phần, với việc ngay từ đầu chính phủ đã bãi bỏ sự kiểm soát đối với
những đầu tư cho sản xuất hoặc hàng nhập khẩu không mang tính cạnh
tranh, chỉ để lại những hạn chế về số lượng đối với nhiều loại thành phẩm và
tăng khả năng bảo hộ có hiệu quả của họ. Những cải cách cục bộ như vậy có
thể làm tăng mức độ bảo hộ có hiệu quả đối với các thành phẩm cạnh tranh
với hàng nhập, hơn là giảm mức độ bảo hộ đối với chúng.
Sự điều chỉnh tỷ giá hối đoái, chi phí của người sản xuất và những cải
cách thuế quan nhằm mục đích giảm xu thế chống lại xuất khẩu trong cơ chế
bảo hộ nhập khẩu là những biện pháp chủ yếu được sử dụng để thúc đẩy sự
tăng cường và đa dạng hóa xuất khẩu trong các chương trình đã được xem
xét ở trên.
Trong các nước có sự kiểm soát rộng lớn đối với sự chuyển đổi ngoại
tệ, đôi khi những kế hoạch theo dõi và kiểm tra sự chuyển đổi ngoai tệ đối với
các nhà xuất khẩu đã được sử dụng; và trong một số trường hợp, những giấy
phép đặc biệt được cấp cho các nhà xuất khẩu để nhập khẩu những yếu tố
sản xuất cần thiết hoặc hệ thống giảm thuế quan đã được sử dụng. Nhìn
chung, trong hệ thống hạn chế, những kế hoạch như vậy không làm giảm
hiệu quả xu hướng chống hàng xuất khẩu mà những ngành công nghiệp xuất
khẩu đang phải đương đầu và điều đó đã chứng tỏ những khó khăn trong
công tác quản lý. Tuy nhiên, trong các thể chế ôn hòa (có chừng mực) hơn,
các kế hoạch miễn thuế có thể đóng một vai trò quan trọng.
Tóm lại, trong khi hầu hết các nước được xem xét ở trên đã có được
những tiến bộ đáng kể trong việc loại bỏ một cách cơ bản những hạn chế về
số lượng trong thương mại và thanh toán thì bảo hộ quan thuế vẫn được duy
trì ở mức cao trong đại đa số các nước này. Chỉ 9 nước đạt được một thể chế
thương mại tự do với những hạn chế về số lượng không đáng kể và một tỷ lệ
thuế quan thấp. Hầu hết các nước khác tiếp tục giữ mức thuế quan cao và
duy trì trong nhiều lĩnh vực. Điều này cản trở việc sử dụng hiệu quả các
nguồn tài nguyên và làm giảm triển vọng tăng trưởng. Một mức độ thuế quan
cao sẽ dẫn đến các hoạt động thay thế nhập khẩu kém hiệu quả và làm tăng
cơ cấu chi phí của nền kinh tế. Điều này dẫn tới giá trị cân bằng cao hơn của
đồng tiền được xem như là một thuế chung đánh vào khu vực xuất khẩu. Sự
mở rộng ra nhiều lĩnh vực của thuế quan với những mức cao, tạo ra sự bảo
hộ lớn hơn cho các ngành công nghiệp đó, và như vậy chúng sẽ thu hút các
nguồn lực khan hiếm từ các khu vực sử dụng có hiệu quả hơn.
2.2. Các vấn đề trong việc vạch ra và thực hiện các chương trình cải cách thương mại
So sánh với các kế hoạch cải cách thương mại đã tiến hành trong các
thời kỳ trước, các chương trình được xem xét trên đây được dự thảo nhanh
hơn và thực hiện trong bối cảnh của một chương trình điều chỉnh tổng thể cơ
cấu và kinh tế vĩ mô. Chương trình điều chỉnh này đã sử dụng các biện pháp
tổng thể để điều tiết thị trường, các yếu tố và sản phẩm trong nước và thúc
đẩy tính hiệu quả của các khu vực công cộng. Hỗ trợ cho các chính sách về
tỷ giá hối đoái và các chính sách tài chính thích hợp, các biện pháp thuộc về
cơ cấu đi cùng với tự do hóa thương mại nhìn chung bao gồm cả các biện
pháp nhằm cải tiến chương trình tiêu dùng công cộng và các chương trình về
thuế, cải tổ các công ty nhà nước và các ủy ban nghiên cứu thị trường, bãi bỏ
việc kiểm soát giá cả trong nước và thị trường tài chính, thu hút đầu tư trực
tiếp của nước ngoài và làm cho thị trường lao động trở nên linh hoạt hơn, Các
biện pháp này nhằm mục đích điều chỉnh sự phản ứng của các tổ chức kinh
tế có liên quan tới sự thay đổi giá cả và môi trường cho đầu tư của khu vực tư
nhân và do đó sẽ giảm chi phí điều chỉnh. Đến lượt nó, tự do hóa thương mại
và thanh toán đã hỗ trợ cho công cuộc điều chỉnh kinh tế vĩ mô bằng việc
khuyến khích tính cạnh tranh mạnh mẽ hơn nữa của thị trường trong nước và
bằng việc giảm bớt sự kiềm chế chuyển đổi ngoại tệ, Nó cũng loại bỏ những
méo mó mà nhiều nước đang phát triển đang phải đương đầu với nó. Bằng
các biện pháp đó nó kích thích sản xuất dựa trên những lợi thế so sánh.
Người ta đã đi đến một sự nhất trí hoàn toàn rằng các chính sách kinh
tế vĩ mô cân bằng và đáng tin cậy là điều cơ bản để thu lợi qua chủ trương tự
do hóa thương mại. Điều này đã được củng cố bằng các thành tựu của các
chương trình cải cách đã được đề cập. Nơi mà các chính sách kinh tế vĩ mô
thiếu độ tin cậy, đòi hỏi những thay đổi thường xuyên trong các chính sách và
các tỷ giá hối đoái danh nghĩa đã dẫn tới khả năng lạm phát, đầu cơ tích trữ
hàng nhập khẩu và việc sử dụng lại các biện pháp hạn chế nhập khẩu
(Philippin, Dămbia). Trong một số trường hợp, sự điều chỉnh tài chính không
thỏa đáng đã trút một gánh nặng lớn lên chính sách tiền tệ, làm tăng sức ép
đối với các tỷ lệ lãi suất thực tế và các tỷ giá hối đoái và các khu vực sản xuất
gánh chịu hậu quả (Achentina và các nước khác của Southern Cone trong
những năm 70. Achentina, Braxin, Jamaica và Pêru trong những năm 80 và
đầu những năm 90.
Trong bối cảnh của một chương trình toàn diện, vấn đề quan trọng là
tính kế tiếp hợp lý của các cải cách thương mại trong mối quan hệ với các
chính sách khác. Các quan điểm khác nhau về câu hỏi: Liệu sự ổn định của
nền kinh tế vĩ mô có cần đặt trước sự tự do hóa thương mại không, hoặc cả
hai phải cùng được tiến hành. Sự xem xét đánh giá những cái đã qua cho
rằng, tự do hóa thương mại đã thành công cả sau (Gana, Triều Tiên) cũng
như trong quá trình thực hiện chương trình ổn định kinh tế vĩ mô (Chilê,
Mêhicô, Venezuela). Trong khi việc lựa chọn liên tục phụ thuộc vào những
điều kiện ban đầu ở nước có liên quan vào môi trường kinh tế quốc tế và vào
các dự án chương trình tổng thể, có một quan điểm thống nhất về tăng
trưởng cho rằng các cải cách thương mại nên được dành sự ưu tiên cao
trong thời kỳ đầu của công cuộc điều chỉnh. Các chính sách tài chính, chính
sách về tỷ giá hối đoái và về lương là cân thiết đối với quá trình điều chỉnh,
nhưng khi các chính sách này được bổ sung bằng tự do hóa thương mại và
các chế độ thanh toán thì có thể tạo ra được một môi trường có hiệu quả hơn
cho sự phục hồi vững vàng vị trí của kinh tế đối ngoại.
Sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa ngân sách chính phủ và các giai đoạn
khác nhau của cải cách thương mại cần được xem xét khi lập một chương
trình tự do hóa thương mại. Điều này bao gồm ảnh hưởng tài chính trực tiếp
của việc thay đổi thuế có liên quan đến thương mại và những ảnh hưởng gián
tiếp của những biến đổi trong số thu ngân sách và thanh toán vì sự thu hẹp
(có thể) ban đầu trong các hoạt động kinh tế và sử dụng lao động, và sự dự
phòng đảm bảo lợi nhuận thuần túy. Những giai đoạn đầu tiên của cải cách
thương mại khi người ta xóa bỏ những hạn chế về số lượng bị thay thế bằng
việc miễn giảm thuế quan, có thể bổ sung bằng các điều chỉnh tài chính. Tuy
nhiên, trong các nước phụ thuộc nặng nề vào thuế nhập khẩu đòi hỏi phải cải
cách về hệ thống thuế trong nước trước khi thuế quan có thể giảm xuống
mức thấp ổn định. Trong số các nước đã được nhắc đến ở trên, một số nước
thành công trong việc tự do hóa thương mại đã sử dụng hệ thống thuế trị giá
gia tăng (valueadded tax systems) để mở rộng cơ sở thuế trong nước
(Inđônêxia, Mêhicô). Một số nước khác đã trì hoãn việc giảm thuế quan
(Bolivia, Pakixtang, Xrilanca, Thái Lan) hoặc áp dụng phụ phí (surcharges)
Chilê và Marốc) vì những lý do về nguồn thu ngân sách.
Những chính sách về tỷ giá hối đoái thích hợp là cần thiết để bảo đảm
rằng các cải cách thương mại là phù hợp với những mục tiêu của cán cân
thanh toán. Vì sự thăng bằng của tỷ giá hối đoái phần nào được quyết định
bởi mức độ hạn chế nhập khẩu, những chương trình cải cách chủ yếu thường
liên quan tới sự điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Cuối cùng thì sự lựa chọn chính
sách về tỷ giá hối đoái sẽ phụ thuộc vào những điều kiện ban đầu và những
yếu tố khác của chương trình kinh tế vĩ mô. Trong mô hình được xem xét ở
trên, hai trong số các chương trình đã gặt hái được kết quả thông qua các thể
chế thương mại ôn hòa với thuế quan thấp được kết hợp với sự phá giá thực
tế của tỷ giá hối đoái danh nghĩa ở vào khoảng thời gian bắt đầu các cuộc cải
cách thương mại. Và sự phá giá có hiệu quả thực tế này được tiếp tục duy trì
bởi các chính sách sau đó đã đem lại những kết quả thực sự. Chương trình
cải cách thương mại từng bước và được thông báo trước của Triều Tiên
không kết hợp với việc điều chỉnh những tỷ giá hối đoái chính.
Như đã được thảo luận ở trên, phạm vi và tốc độ tiến triển của các
chương trình tự do hóa là khác nhau đáng kể giữa các khu vực địa lý. Các
cuộc cải cách gần đây ở Châu Mỹ latinh và Đông Âu là toàn diện và nhanh
chóng nhưng có điều kiện. Trong khi những cuộc cải cách này ở Đông Nam Á
tiến hành từng bước và hầu hết các cuộc cải cách ở Châu Phi và Nam Á
chưa hoàn thành. Trong giai đoạn này khó có thể đánh giá liệu "cú bùng nổ"
(big bang) hoặc sự thực hiện dần từng bước cái nào sẽ vững bền hơn; Dẫu
vậy các nước hiện nay hoàn thành một cách cơ bản quá trình tự do hóa đã
thành công bằng cả hai con đường. Bolivia, Chilê và Venezuela ở Châu Mỹ
latinh, các nền kinh tế năng động ở châu Á, tất cả đều thu được những thành
tựu quan trọng trong việc tiếp tục những cải cách có từ rất sớm của họ.
Có những dấu hiệu rõ ràng chỉ ra rằng sự hoàn chỉnh và độ tin cậy của
một chương trình cải cách là nhân tố quan trọng nhất cho sự thành công. Các
yếu tố của chương trình cải cách thương mại bao gồm cả việc thông báo
trước thời gian và quy mô của các cuộc cải cách, xóa bỏ sớm những hạn chế
về định lượng, giảm mức thuế quan và thực hiện thuế quan đồng đều, giá cả
trong nước hỗ trợ, thuế và cả những cải cách đối với các xí nghiệp thuộc sở
hữu công cộng. Các yếu tố này góp phần giữ vững tính liên tục của công
cuộc tự do hóa, bằng các biện pháp khác nhau sự chặt chẽ trong các cuộc cải
cách cũng làm tăng độ tin cậy. Nhiều nước ở Châu Mỹ latinh chấp nhận toàn
bộ biểu thuế quan của mình trong các quy định của GATT; Chilê sử dụng biện
pháp sửa đổi hiến pháp để cấm sử dụng những hạn chế nhập khẩu về số
lượng và các nước có một biểu thuế quan thống nhất có điều kiện dễ dàng
hơn để có thể chống lại sức ép đòi bảo hộ từ các nhóm quyền lợi riêng biệt.
Hiệu quả kinh tế của tự do hóa thương mại khó tách bạch ra khỏi hiệu
quả của các chính sách khác. Nhưng những bằng chứng của một số nghiên
cứu tổng thể chỉ ra những tác động của tự do hóa thương mại đối với sự tăng
trưởng sản lượng và tạo công ăn việc làm, mở rộng thương mại và cán cân
thanh toán là có lợi IMF vừa làm một sự so sánh về sự định hướng thương
mại và các thành tựu tăng trưởng của 41 nước đang phát triển chỉ ra rằng
suốt thời kỳ 1975-89, các nước có chính sách hướng ngoại đã đạt được
những tỷ lệ tăng trưởng (tính mức trung bình) GDP và năng suất cao hơn
nhiều các nước thực hiện chiến lược hướng nội. Sự xem xét chương trình cải
cách thương mại của các nước cũng chỉ ra rằng hầu hết các nước có thể chế
thương mại mở cửa hoặc mở cửa có điều kiện vào đầu những năm 80 đã
thành công trong việc tăng sản lượng và xuất khẩu, và đã tránh được các vấn
đề nghiêm trọng về cán cân thanh toán.
Mặc dù người ta đã chỉ ra những lợi ích lâu dài của việc giải phóng
thương mại nhưng các nước cũng phải gánh chịu cái giá để thực hiện nó khi
những khu vực được bảo hộ chính thức buộc phải cạnh tranh với hàng nhập.
Loại bỏ sự kiểm soát giá cả và sự hạn chế, cái thường đi cùng với những cải
cách thương mại, có thể cũng đặt những nhu cầu cơ bản ra ngoài khả năng
mua của bộ phận dân chúng nghèo nhất. Trong hoàn cảnh này, sự hỗ trợ của
chính phủ đối với các cải cách có thể được nâng cao và những chi phí trong
quá độ cần giảm xuống bằng các chính sách thúc đẩy sự cạnh tranh với nước
ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho những điều chỉnh thị trường lao động và
phải đạt được những lợi ích thực tế chắc chắn cho bộ phận dân chúng nghèo
nhất.
2.3. Tự do hóa thương mại đối lại khuyến khích xuất khẩu và sự can thiệp có lựa chọn
Tự do hóa thương mại hiện nay được coi như là một phương thức có
hiệu quả hơn để thúc đẩy sự đa dạng hóa xuất khẩu so với một số chương
trình được thực hiện trước kia cũng nhằm mục đích này. Các chương trình đó
bao gồm cả việc trợ cấp xuất khẩu những hàng không phải truyền thống. Các
trợ cấp xuất khẩu này bao gồm trợ cấp tiền mặt và giảm bớt số tiền đóng góp
tính theo doanh thu (hoặc theo lợi tức) (các biện pháp này phổ biến ở Châu
Mỹ latinh trước khi tiến hành các cuộc cải cách mới đây), hoặc các kế hoạch
giảm thuế để trợ giúp cho hàng loạt các mặt hàng xuất khẩu (được thực hiện
ở Triều Tiên và các nước có hệ thống kinh tế mở có điều kiện như Inđônêxia
và Malaixia). Những chương trình này đã không thành công như mong đợi
trong điều kiện chưa có một hệ thống kinh tế tương đối mở ở chỗ nhìn chung
các nước không giảm sự phụ thuộc của họ vào các hàng xuất khẩu truyền
thống suốt những năm 1960 và 1970. Các khu vực chế xuất đã được thành
lập trong rất nhiều nước với mục đích sản xuất hàng xuất khẩu mà không
phải chịu thuế cũng như phải tuân theo những quy định hạn chế trong nước.
Tuy nhiên, chỉ trong vài trường hợp, những đóng góp của chúng cho xuất
khẩu mới là đáng kể.
Sự cạnh tranh được tạo ra bởi sự tự do hóa nhập khẩu thành phẩm có
thể được sử dụng như là một bộ phận của một chính sách chống lạm phát và
có thể thúc đẩy chương trình điều chỉnh về tiền lương thực tế. Trong một nền
công nghiệp được bảo hộ, các hãng thường sử dụng biện pháp tăng lương
cho công nhân trong tình trạng lạm phát hơn là đương đầu với tình trạng
không ổn định của công nghiệp. Sự cạnh tranh đưa lại từ hàng nhập khẩu có
thể dẫn đến những kiềm chế đối với các công ty và công nhân. Mục tiêu này
là một bộ phận quan trọng của chương trình tự do hóa thương mại ở Châu
Mỹ latinh cũng như Đông Âu.
Mặc dù có những biến chuyển rộng lớn theo định hướng thị trường,
một số nhà kinh tế học và một số chính phủ vẫn chủ trương can thiệp có lựa
chọn vào nền kinh tế thông qua các chính sách thương mại và công nghiệp.
Các chương trình cải tổ kinh tế được hỗ trợ bởi IMF và Ngân hàng Thế giới
(World Bank) dự tính một vai trò quan trọng và tích cực hơn cho các chính
phủ trong việc tạo ra một môi trường cho các hoạt động kinh tế có hiệu quả
hơn là việc các chính phủ can thiệp vào nền kinh tế để lựa chọn “những kẻ
thắng cuộc” (pick Winners). Những người đề xuất ra chủ trương can thiệp có
lựa chọn biện hộ cho nó dựa trên những đổ vỡ của thị trường hoặc lý luận về
những yêu cầu (mang tính) chiến lược. Họ dự tính cần có sự bảo hộ trong
một số lĩnh vực thông qua kế hoạch, cho vay có chỉ đạo hoặc phân bổ nhập
khẩu để tạo ra những ngành công nghiệp có tính cạnh tranh quốc tế. Nhiều lý
luận ủng hộ sự can thiệp chỉ là những biến dạng đơn giản của những lý luận
về một nền công nghiệp còn trứng nước. Những lý luận phản bác lại đã nhấn
mạnh rằng sự lựa chọn ngành công nghiệp nào để hỗ trợ đòi hỏi sự xử lý vô
số các thông tin, và việc ra các quyết định có tính không thiên vị và không
mang tính chính trị vì thị trường có thể thay đổi nhanh chóng, những quyết
định như vậy cũng cần phải được đưa ra nhanh chóng, tránh sự hỗ trợ kéo
dài các ngành công nghiệp không sinh lợi. Lợi ích có thể có được từ một vài
ngành công nghiệp có khả năng thành công, cần phải cân nhắc trước nguy
cơ tổn thất lớn từ các quyết định sai lầm.
BỔ SUNG ĐỂ THAM KHẢO PHƯƠNG PHÁP LUẬN TRONG VIỆC ĐIỂM LẠI NỀN THƯƠNG MẠI
Định giá tổng thể
Sự xem xét các nước lớn trong mỗi một khu vực địa lý dựa trên quy mô
thương mại hoặc tổng sản phẩm trong nước (GDP) đã được tiến hành để
đánh giá mức độ và chất lượng của các cuộc cải cách thương mại tiến hành
từ giữa những năm 80. Tất cả trừ năm nước (Braxin, Ấn Độ, Inđônêxia,
Malaixia, Pêru) đã được Quỹ tiền tệ quốc tế hỗ trợ trong các chương trinh cải
cách thương mại tiến hành sau những năm giữa thập kỷ 80. Braxin, Ấn Độ và
Pêru vừa mới đây đã ký kết một hiệp ước với Quỹ tiền tệ quốc tế. Những
cuộc cải cách thương mại ở Inđônêxia được hỗ trợ bởi những khoản cho vay
của Ngân hàng thế giới và những giúp đỡ về chuyên môn của Quỹ tiền tệ
quốc tế về việc sử dụng thuế trị giá gia tăng (valueadded-tax). Các nước
Đông Âu không nằm trong loại này, nhưng những chương trình cải cách của
họ cũng được xem xét. Cải cách toàn diện hệ thống thương mại và hệ thống
thanh toán là yếu tố then chốt của những chương trình cải cách của họ.
Sự đo lường các biện pháp thương mại và các biện pháp có liên quan
đến thương mại
Thuế quan và các loại thuế nhập khẩu khác được tính toán trong bài
nghiên cứu này bằng các mức tối đa và tối thiểu chiếm ưu thế. Hàng loạt các
mức thuế quan cung cấp thông tin về sự phân bố rộng rãi được so sánh với
mức thuế quan có hiệu quả hoặc mức thuế quan trung bình. Mức thuế quan
bảo hộ có hiệu quả là một sự đo lường được ưa chuộng hơn nhưng khó thực
hiện được đối với hầu hết các nước hoặc khó thực hiện được trong những
năm gần đây. Mức thuế quan cao áp dụng cho một số mặt hàng không được
tính đến và nếu sự miễn thuế là phổ biến thì mức thuế quan ở mức số 0 được
sử dụng ngay cả khi theo luật pháp quy định không có tỷ lệ 0.
Các hàng rào phi quan thuế được tính theo quy mô áp dụng với những
giá trị nhập khẩu. Những giá trị nhập khẩu nhìn chung có liên quan tới các
mặt hàng nhập khẩu trong năm được tính. Tốt hơn nên tính toán quy mô này
trong điều kiện không có sự hạn chế các mặt hàng nhập khẩu, vì nếu không
thì những khoản mục lệ thuộc vào những hạn chế khắt khe nhất sẽ có được
lượng ít nhất. Các khoản mục bị cấm hoặc không được cấp giấy phép được
tính là số 0. Khi vấn đề này khá phổ biến thì tỷ lệ của các khoản mục thuế
quan theo quy định tùy thuộc vào sự hạn chế về định lượng được sử dụng
như là một biện pháp thay thế.
Sử dụng tổng số các hạn chế về định lượng tính theo giá trị nhập khẩu
hoặc các khoản mục thuế quan theo luật định như là một sự chỉ dẫn về sự
hạn chế của những biện pháp thương mại mang tính số lượng là thiếu sót. Vì,
thứ nhất, mặc dù nó chỉ ra sự tồn tại của những sự kiểm soát nhưng nó
không phải là biện pháp tốt để chỉ ra những ảnh hưởng mang tính bảo hộ của
những hạn chế về định lượng, nó không đưa ra được sự khác nhau về quy
mô và sự đa dạng hóa của các ngành công nghiệp trong nước. Trong một đất
nước nhỏ bé, những hạn chế về định lượng được áp dụng đối với một số giá
trị nhập khẩu có thể duy trì được sự cân đối rộng lớn của sản xuất trong
nước, ví dụ, Tuynidi đã giải tỏa những hạn chế về định lượng đối với 70% giá
trị nhập khẩu vào đầu 1991; Tuy nhiên, 70% sản xuất trong nước vẫn được
bảo vệ với những hạn chế về định lượng. Trong các nước có thu nhập thấp
hơn, tỷ lệ giống như thế của sản xuất trong nước có thể được bảo hộ bởi một
tổng số những hạn chế về định lượng. Những hạn chế này có thể khắc phục
được bằng việc cân nhắc những phần đóng góp của sản xuất trong nước
được bảo hộ. Nhưng biện pháp này cũng không có mặt ở phần lớn các nước.
Thứ hai, tổng số các hạn chế về định lượng chỉ ra sự tồn tại của một hoặc
nhiều sự hạn chế nhưng không chỉ ra giá trị khan hiếm mà chúng bao hàm.
Tư do hóa thương mại
Tự do hóa thương mại bao hàm cả việc phá bỏ những kiểm soát - sự
phá bỏ các biện pháp phi thuế quan- cũng như những chính sách chuyển các
thể chế thương mại sang các trung lập - một sự giảm trong xu hướng nghiêng
về một hoạt động đặc thù, đặc biệt sự sản xuất thay thế hàng nhập.
Trung lập được định nghĩa như là một tình huống trong đó tỷ lệ hối đoái
có hiệu quả đối với các hàng xuất khẩu của một nước - tỷ lệ hối đoái danh
nghĩa được điều chỉnh đối với thuế xuất khẩu và trợ cấp xuất khẩu - là tương
đương với tỷ lệ hối đoái có hiệu quả đối với các hàng nhập khẩu. Tỷ lệ hối
đoái danh nghĩa được điều chỉnh đối với thuế có được do những hạn chế về
định lượng (Bhagwati 1988). Một hệ thống đòn bẩy trung lập có khả năng
thích hợp hơn để khuyến khích sự sử dụng có hiệu quả các nguồn tài
nguyên. Thể chế trung lập có thể được hoàn thiện bằng việc giảm bớt số tiền
phải đóng góp của khu vực xuất khẩu hoặc giảm bớt thuế quan đối với các
hàng xuất khẩu vì chúng bù lại khuynh hướng chống xuất khấu được tạo ra
bởi hệ thống bảo hộ. Tuy nhiên, trợ cấp xuất khẩu có thể phá vỡ các thể chế
trung lập và dẫn tới một sự sử dụng không hiệu quả các nguồn tài nguyên.
Phá bỏ các kiểm soát không phải bao giờ cũng là một sự thay đổi
hướng tới các thể chế trung lập. Một ví dụ của sự phá bỏ kiểm soát mà không
có sự thay đổi hướng tới các thể chế trung lập là sự thay thế các hạn chế về
số lượng bằng thuế quan tương đương. Tuy nhiên, sự bãi bỏ các hạn chế về
số lượng sẽ tạo ra những thể chế thương mại đơn giản hơn, và vì vậy sẽ làm
giảm các hoạt động tìm kiếm lợi nhuận qua các kẽ hở, làm tăng độ nhạy giá
cả của hệ thống thương mại; Sự bãi bỏ các hạn chế này được sử dụng như
là cơ sở cho sự giảm thuế quan sau đó. Một ví dụ khác về sự phá bỏ kiểm
soát mà không có một cơ chế khuyến khích mang tính trung lập hơn là sự loại
bỏ các hạn chế định lượng đối với các yếu tố đầu vào cho các bộ phận thay
thế hàng nhập mà không phá bỏ sự kiểm soát đối với thành phẩm. Điều này
khuyến khích sự mở rộng của khu vực sản xuất được bảo hộ và có thể làm
tăng mức bảo hộ có hiệu quả đối với các thành phẩm cạnh tranh và hàng
nhập.
Tiêu chuẩn sử dụng để phân loại các thể chế thương mạị
Vì những mục đích của việc xem xét đánh giá các cải cách thương mại,
các tiêu chuẩn sau đây được sử dụng để phân loại các thể chế thương mại
của các nước. Trong các thể chế có sự kiểm soát chặt chẽ và khá chặt chẽ,
những hạn chế về định lượng (QRs) tương ứng bao trùm trên 50% hoặc từ
15 đến 50% hàng nhập khẩu. Các thể chế mở cửa có điều kiện có QRs chiếm
5-15% hàng nhập hoặc ít hơn 5% hàng nhập nhưng thuế quan tối đa và thuế
vượt quá 50%. Một thể chế mở có thuế quan và những thuế nhập khẩu khác
không lớn hơn 50% và QRs thấp hơn 5% hàng nhập.
TỰ DO HÓA THƯƠNG MẠI, SỰ ỔN ĐỊNH HAY CẢ HAI
A. Thực hiện tự do hóa thưong mại trước
1. Nếu có sẵn quỹ ngoại tệ, thuế quan có thể giảm mà không gây ra
một tình trạng sụt giá thực tế đi kèm. Thuế quan giảm góp phần ổn định bằng
việc tạo ra một sơ sở cho giá cả trong nước, Krueger (1978).
B. Tiến hành đồng thời
2. Các cải cách thương mại bổ sung cho điều chỉnh tài chính,
Papageorious, Choski và Michacly (1990).
3. Về lý thuyết thì giữa các yếu tố gây ra lạm phát và sự định hướng
các thể chế thương mại có một mối dây liên hệ nhỏ bé. Có thể tiến hành đồng
thời cả hai với điều kiện là chúng ta phải tránh được sự tăng giá, Krueger
(1981).
4. Ngừng tiến hành tự do hóa thương mại cũng có nghĩa là đang kéo
dài những chi phí không hiệu quả. Tiến hành đồng thời theo sau sự ổn định
chậm chạp và giả sử rằng chính phủ sẽ không dùng đến các biện pháp kiểm
soát để hạn chế lạm phát, Krueger (1984).
5. Tự do hóa thương mại sẽ chỉ thành công với tỷ giá chuyển đổi tiền tệ
thực tế được giảm xuống. Điều này đòi hỏi các sức ép về thâm hụt tài chính
phải được giải quyết đồng thời, Michacly (1987).
6. Với điều kiện tránh được sự tăng giá, việc tiến hành đồng thời cả hai
chính sách là có thể. Corden (1987).
7. Nhiều cải cách thương mại khác nhau bổ sung cho điều chỉnh tài
chính, như việc chuyển các hạn chế về định lượng sang thuế quan và giảm
sự phân bổ rộng rãi thuế quan, Thomar Matin và Nash (1990).
C. Qui định nền kinh tế phải được tiến hành trước
8. Công cuộc tự do hóa sẽ có nhiều cơ hội thành công hơn nếu được
tiến hành với số dư tài chính. Với cách này chúng ta có thể khẳng định rằng
chúng ta sẽ duy trì được tỷ lệ chuyển đổi tiền tệ thực tế giảm, Mc Kinnon và
Mathieson (1981).
9. Vấn đề đáng nói với một cuộc tự do hóa ra đời quá sớm là chúng có
thể đi cùng với những dòng chảy tư bản lan tràn dẫn đến sự tăng giá thực sự.
Yêu cầu đối với quỹ ngoại tệ có thể tránh được bằng việc có được số dư tài
chính trước khi tiến hành tự do hóa, Mc Kinnon (1984).
10. Về lạm phát sinh ra những sai lệch nghiêm trọng, tự do hóa sẽ tiến
hành trong những điều kiện không thích hợp. Do vậy, trước hết cần phải giảm
lạm phát xuống.
11. Cả hai chính sách đều đem lại kết quả trong một sự "lựa chọn biện
pháp thực hiện" (Competiton for instruments), khi sự thành công của cái này
đòi hỏi những biện pháp nào đó thì lại là sự đối ngược với những yêu cầu để
thành công đối với cái khác. Những bằng chứng lịch sử từ các nhà xuất khẩu
Châu Á thành đạt gợi ra rằng sự ổn định nên được củng cố trước khi tiến
hành những cải cách thương mại. Trong các nước với mức lạm phát cao, nơi
sự ổn định đòi hỏi sử dụng tỷ lệ chuyển đổi tiền tệ như là một cơ sở danh
nghĩa, hoãn các cuộc cải cách thương mại cho tới khi nền kinh tế được ổn
định có thể thích hợp hơn, Sachs (1987, 1988).
12. Sự giảm thuế quan tới mức thấp có thể ảnh hưởng trực tiếp đến
nguồn thu của quốc gia và ảnh hưởng gián tiếp tới ngân sách và các hoạt
động và sự sử dụng nhân công cũng như phần đóng góp của các hoạt động
có ích thực tế giảm. Do vậy sự ổn định tài chính và cải cách tài chính phải
được tiến hành trước sự tự do hóa hoàn toàn, Blejer và Cheasly (1990).
13. Mặc dù có sự tác động qua lại bổ sung cho nhau các cuộc cải cách
có thể vẫn bị đình trệ trong tình trạng lạm phát, Thomas, Matin, và Nash
(1990).
Nguồn: Dựa vào bảng 4.1 trong Operations Evaluation Departmerds,
Sự hỗ trợ của Ngân hàng thế giới cho các cải cách chính sách thương mại.
Báo cáo số 9527 (Washington: Ngân hàng thế giới, 1991).
GHI CHÚ VÀ PHỤ LỤC THỐNG KÊ (PHẦN III)
67. Xem phần 4 về một cuộc thảo luận riêng đối với các nước Đông Âu.
68. Hạn chế về số lượng bao gồm hai loại: 1) Hạn chế về thương mại
và những trao đổi có liên quan đến thương mại: 2) Hạn chế về thuế biểu, bao
gồm cả các khoản tiền đánh vào nhập khẩu.
69. Krueger (1984) nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa các chính sách
kinh tế vĩ mô không thích hợp và việc sử dụng rộng rãi các hạn chế và kiểm
soát ở các nước đang phát triển trong các thời kỳ trước cho tới đầu những
năm 1980. Corden (1987) phân tích cuộc tranh luận ở Cambridge về hệ thống
cứng nhắc của tiền lương thực tế để biện minh cho việc tha sử dụng sự kiểm
soát còn hơn là tình trạng phá giá đồng tiền để điều chỉnh sự mất cân bằng
trong cán cân thanh toán với nước ngoài. Tuy nhiên, Krueger lưu ý rằng
không có lý do cụ thể nào biện minh cho điều này.
70. Trong suốt thời kỳ này, Ấn Độ là một trong số vài nước đang phát
triển duy trì các chính sách kinh tế vĩ mô, hạn chế trong những điều kiện nhất
định, trong khi sử dụng kiểm soát rộng rãi làm cơ sở cho chiến lược hướng
nội mạnh mẽ, Tuy nhiên, sự duy trì các biện pháp kiểm soát cũng được phản
ánh trong tỷ giá hối đoái được tính toán hợp lý hơn các trường hợp khác.
71. Xem phần IV về sự xem xét lại chính sách thương mại trong nông
nghiệp.
Trong những nghiên cứu được báo cáo tại đó, người ta ước lượng rằng
vào nữa đầu thập kỷ 80, sự can thiệp gián tiếp và trực tiếp của chính phủ vào
khu vực nông và công nghiệp đã mang lại những kết quả tiêu cực đối với cây
trồng xuất khẩu và cây trồng phục vụ nhu cầu lương thực thực phẩm trong
nước.
72. Những chương trình cải cách thương mại toàn diện là những
chương trình cải cách được phân ra hai loại hoặc cải cách to lớn hoặc cải
cách vừa phải.
73. Xem Michaely (1991) về một sự đánh giá các chương trình cải cách
thương mại những năm 1950 cho đến 1984.
74. Trong số các nước công nghiệp, các cải cách thương mại ở
Ôxtrâylia và Niu Dilân cũng bị cản trở bởi sự phối hợp không ăn ý giữa các
chính sách tiền tệ - tài chính.
75. Triều Tiên đã tự do hóa các thể chế thương mại thành công trong
suốt những năm 70 và đầu những năm 80, nhưng chương trình dài hạn tự do
hóa nhập khẩu của họ bắt đầu từ 1984. Vào năm này, Triều Tiên đã điều
chỉnh một cách toàn diện các cơn biến động về giá dầu lửa vào cuối những
năm 70 và đầu những năm 80.
76. Những mối quan hệ phức tạp giữa tự do hóa thương mại và chính
sách tài chính đã được thảo luận sâu hơn trong các bài thuyết trình khác (ví
dụ, xem Farhadian - Lorie và Katz (1989) và Blejer (1990).
77. Xem Michaely (1991), Krueger (1978) và Cline (1981).
78. Xem Quỹ tiền tệ quốc tế (1990) trang 68-69.
79. Xem Ngân hàng Thế giới (1991).
80. Xem Wade (1990) và Singer and Alizaded (1988).
Bảng V: Các thể chế thương mại của các nước đang phát triển trước
công cuộc tự do hóa
Tên nước Năm 1
Thuế quan và thuế phụ thêmNhững hạn chế về định
lượng Tổng số
(tính %)
Thuế quan theo luật pháp quy định(tính %)
Thu (tính %)
Biện pháp chính
1 2 3 4 5 6
Các nước
kiểm soát chặt
Achentina 1986 0-100 0-14 Cấp giấy phép có lựa chọn 60
Băngladet 1984 0-300 15-100+ Cấm 51
Bôlivia 1984 0-60 0-2 Cấp giấy phép có lựa chọn 90
Camơrun 1988 0-100 5-10 Cấp giấy phép có lựa chọn >90
Colombia 1984 61(2) 0-18 Cấm 93
Gambia,The 1985 0-60 0-6 Cấp giấy phép có lựa chọn >50
Gana 1988 0-100 10-40 Cấp giấy phép cđ lựa chọn 100
Ấn Độ 1987 0-295 0-50 Cấp giấy phép có lựa chọn >90
Jamaica 1984 0-75 0-28Chỉ định chuyển đổi ngoại
tệ50
Kênia 1987 0-125 -Chỉ định chuyển đổi ngoại
tệ58
Malawi 1987 0-40 0-35Chỉ định chuyển đổi ngoại
tệ85
Nêpan 1985 5-100 0-105 Cấp giấy phép có lựa chọn >90
Marốc 1982 0-45 10-45 Cấp giấy phép có lựa chọn >90
Nigiêria 1985 5-100 0-5Chỉ định chuyển đổi ngoại
tệ92<5)
Pakixtăng 1988 10-225 6-11Cấp giấy phép có lựa chọn
Cấm80(5)
Pêru 1989 0-117 3-147 Cấm 100
Tanzania 1987 6-100 -Chỉ định chuyển đổi ngoại
tệ70
Tunisia 1986 5-236 0-50 Cấp giấy phép có lựa chọn 76
Venezuela 1988 0-80 2-5Chỉ định chuyển đổi ngoại
tệ65
Zaire 1982 0-50 -Chỉ định chuyển đổi ngoại
tệ>90
Dămbia 1984 0-100 -Chỉ định chuyển đổi ngoại
tệ>90
Các nước
kiểm soát khá
chặt
Braxin 1985 81(2) Cấp giấy phép có lựa chọn 34(5)
Cote d’Ivoire 2-30 - Cấp giấy phép có lựa chọn 15-50
Êcuađo 1984 0-290 1-30 Cấp giấy phép có lựa chọn 38^5)
Indonexia 1984 0-60 0-40 Cấp giấy phép có lựa chọn 32
Mêhicô 1984 0-100 3-19 Cấp giấy phép có lựa chọn 38
Philipin 1984 0-50 0-25 Cấp giấy phép có lựa chọn 36
Trinidad và
Tobago1988 5-35 10-100
Chỉ định chuyển đổi ngoại
tệ15-50
Các nước
tương đối mở
cửa
Coxta Rica 1985 0-220 13-100 1
Triều Tiên 1984 26<2> _ 15(5)
Malaixia 1985 14(2) 0-60 5
Sênêgan 1985 15-45 7-50 15(5>
Xirilanka 1986 0-100 0-45 13
Thái Lan 1981 0-100 _ 6
Urugoay 1982 0-75 0-74 0
Các nước mở
cửa Chilê1984 0-35 5-15 0
Nguồn: Quỹ tiền tệ Quốc tế IFM, Báo cáo hàng năm về những hiệp ước
trao đổi và hạn chế việc chuyển đổi tiền tệ Cuộc họp của Liên hiệp quốc về
thương mại và phát triển, thỏa thuận chung về quan thuế và thương mại.
Bảng VI: Các chương trình cải cách thương mại ở các nước đang phát
triển
Năm bắt đầu
Chương trình
của IMF
Các biện pháp cải cách. Những hạn chế về định lượng
Thuế quan
1 2 3 4 5
Những cải
cách trong
những thể
chế ban đầu
còn mang
tính hạn chế
Các nước
có những
cải cách cơ
bản
Achentina 1987 SBABãi bỏ thực sự từng
bướcGiảm nhanh
Bôlivia 1985 ESAFBãi bỏ thực sự trong
thời gian sắp tới
Thuế quan thấp
trong sự phân loại
làm hai bậc
Côlômbia 1985 SBAGiảm dần thay thế
bằng thuế quan
Giảm chậm từng
bước
Gambia,
The1986 ESAF
Hoàn thành OGL, bãi
bỏ thương mại thuộc
khu vực nhà nước
Không sử dụng
biện pháp nào
Gana 1986 ESAF
Bãi bỏ thực sự thông
qua con đưòng đấu
giá FX
Giảm tối đa và
hợp lý hóa
Jamaica 1985 SBA
Giảm phần lớn việc
cấp giấy phép nhập
khẩu
Tăng nhiều để bù
đắp
Kênia 1988 ESAFThay thế dàn bằng
thuế quanTăng để bù đắp
Mêhicô 1985 EFE Bãi bỏ thực sự từng
bước
Giảm nhanh tỷ lệ
và phân bổ rộng
rãi
Pêru 1990 không cóBãi bỏ thực sự trong
thời gian sắp tới
Thuế quan thấp
trong sự phân loại
làm hai bậc
Vênêzuêla 1989 EFF
Bãi bỏ thực sự trong
thời gian tới dừng lại
vào năm 1992
Giảm tối đa và
hợp lý hóa
Zaire 1983 SAFBãi bỏ thực sự trong
thời gian tới
Giảm tối đa và
hàng loạt
Các nước
có những
cải cách
vừa phải
Braxin 1986Không
có
Bãi bỏ thực sự từng
bước
Giảm từng bước
trong thời gian 4
năm kể từ 1990
Côte
d’Ivoire1984 SBA
Thay thế khá nhiều
bằng thuế quan
Thuế quan tăng
để thay thế cho
sự giảm dần
Ecuađo 1985 SBA
Bãi bỏ đồng bộ
những hạn chế về
định lượng
Thuế quan tối đa
giảm xuống 35%
Inđônêxia 1985Không
có
Giảm sự hạn chế về
định lượng cả đối với
các hàng hóa cạnh
tranh
Giảm tối đa
Philipin 1989 SBAThay thế dần dần
bằng thuế quan
Giảm các nhóm
thuế quan
Trinidạd và
Tobago1989 SBA
Thay thế dần dần
bằng thuế phụ thêm
vào năm 1991
Giảm dần thuế
phụ thêm vào
năm 1993
Các nước
có những
cải cách yếu
Băngladet 1985 SAF
Giảm tương đối đối
với sản phẩm trung
gian
Giảm tối đa
Camơrun 1989 SBAThay thế dần bằng
thuế quan
Hợp lý hóa cơ
cấu thuế quan
Ấn Độ 1988Không
có
Một số bổ sung thực
tế vào danh muc
OGL
Tăng một số thuế
quan
Malawi 1988 ESAF
Giới hạn chỉ định
chuyển đổi ngoại tệ
rất tháp
Chuyển hạn chế
về định lượng
sang thuế phụ
thêm
Marốc 1983 SBA
Giảm sự hạn chế về
định lượng đối với
hàng hóa không
cạnh tranh
Giảm mạnh tối
đa, thuế phụ thêm
mới
Nêpan 1986 SAFMở rộng đấu thầu
giấy phép nhập khẩu
Cân đối thuế
quan
Nigiêria 1986 SBAThay thế từng bước
bằng thuế quan
Tăng nhiều để bù
đắp
Pakixtan 1989 SAFThay thế từng bước
bằng thuế quan
Giảm tối đa thuế
quan
Tandania 1988 SAF Mở rộng dàn OGLGiảm tối đa và
đơn giản hóa
Tuynidi 1987 EFFThay thế dần bằng
thuế phụ thêm
Giảm thuế quan,
tăng thuế phụ
thêm
Dămbia 1990 RAP
Tăng từng bước
OGL và thống nhất tỷ
lệ chuyển đổi tiền tệ
Giảm tối đa và
hàng loạt
Những cải
cách trong
những thể
chế mở
rộng ngay
từ đầu
ChiLê 1985 EFF
Cấm hạn chế định
lượng theo hiến
pháp quy định
Giảm tỷ lệ đồng
đều
Coxta Rica 1985 SBABãi bỏ hạn chế định
lượng vào năm 1994
Thuế quan và
thuế tối đa, 55%
vào 1994
Triều Tiên 1984 SBA
Loại bỏ những hạn
chế định lượng đối
với hàng phi nông
nghiệp
Giảm thuế quan
trung bình
Malaixia 1986Không
có
Thay thế từng bước
bằng thuế quan
Cân đối thuế
quan
Sênêgan 1986 ESAFBãi bỏ thực sự từng
bước
Giảm dần trong 3
năm
Srilanca 1987 SAF Bãi bỏ từng bước Giảm tối đa và
những hạn chế định
lượng tồn tại lâu nhấtphân bổ rộng rãi
Thái Lan 1982 SBA
Loại bỏ hạn chế định
lượng đối với hàng
phi nông nghiệp
Thay đổi cơ cấu
sau hủy bỏ
Urugoay 1983 SBAKhông sử dụng biện
pháp nàoGiảm mạnh tối đa
Nguồn: Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF). Báo cáo hàng năm về những hiệp
ước trao đổi và hạn chế chuyển đổi tiền tệ. Cuộc họp Liên hiệp quốc về
thương mại và phát triển, và thỏa thuận chung về thuế quan và thương mại.
CHÚ THÍCH:
EFF= Điều kiện cho vay được mở rộng (Extended Fund facility).
ESAF = Tăng cường hỗ trợ cho điều chỉnh cơ cấu (enhanced structeral
adjustment facility).
FX= Chuyển đổi ngoại tệ (Foreign Exchange)
OG= Giải phóng việc cấp giấy phép chung (Open general license)
SAF= Giúp đỡ điều chỉnh cơ cấu (Structeral adjustment facility)
QRs= Hạn chế định lượng (Quantitative restrictions)
SBA= Sự sắp xếp sẵn sàng (Stand-by arrangement)
1. Chương trình chính của IMF được kết hợp với cải cách thương mại.
2. Bao gồm cả các biện pháp tiến hành trước tháng 5-1991. Tất cả các
biện pháp đều được thực hiện ngoại trừ các biện pháp có sự giải thích riêng.
3. Chương trình tích lũy của IMF.
Bảng VII: Cơ cấu của các thể chế thương mại hiện nay ở các nước
đang phát triển
Nước Năm cải Thuế quan và thuế Các hạn chế Tổng số %
cách gần đây
nhất
phụ thêm về định lượng
Thuế quan theo luật pháp quy định (%)
Thuế %
Biện pháp chính
Các nước
kiểm soát
chặt chẽ
Ấn Độ 1990 0-295 0-78Cấp giấy phép
có lựa chọn70
Nêpan 1989 5-100 0-105Cấp giấy phép
có lựa chọn>50
Tanzania 1990 0-60 0-50
Chỉ định
chuyển đổi
ngoại tệ
>50
Các nước
kiểm soát
khá chặt
chẽ
Bănglađét 1990 0-100 Cấm 24<4’5)
Camơrun 1991 0-100 5-10Cấp giấy phếp
có lựa chọn15-50
Malawi 1991 0-45 0-85Cấp giấy phép
có lựa chọn17(6)
Marốc 1989 0-45 0-13Cấp giấy phép
có lựa chọn22<4)
Nigiêria 1989 0-200 7 Cấm 21<4>
Pakixtan 1991 0-95 0-15 Cấm 21<4*7)-
Tuyniđi 1990 0-43 15-30Cấp giấy phép
có lựa chọn30
Dămbia 1990 15-50 0-20
Chỉ định
chuyển đổi
ngoại tệ
15-50
Các nước
tương đối
mở cửa
Braxin 1991 0-65 - 1(4)
Côlômbia 1991 0-63 0-16 14(4)
Cotê
d’Ivoire1987 5-30 0-12 7(4)
Êcuađo 1991 5-35 - 15<4>
Inđônêxia 1990 0-40 0-40 15<4>
Jamaica 1988 0-60 - > 7
Kênia 1991 0-100 - 6
Malaixia 1989 - 5
Pêru 1991 15-25 5
Philippin 1989 10-50 0-25 8(4)
Sênêgan 1991 15-45 10-50 6(4)
Srilanca 1990 5-50 - 9(4)
Thái Lan 1990 0-100 8(4-8)
Trinidad và
Tobago1991 5-45 0-60 0(9)
Venezuela 1991 0-20 - 10
Zaire 1986 0-50 0-23 8
Các nước
mở cửa
Áchentina 1991 0-22 0-4 4(4)
Bôlivia 1988 5-10 1-2 2
Chilê 1988 15(10) 5-20 0
Coxta Rica 1990 1-40 0-18 1
Gambia,
The1991 0-23 - 1
Gana 1988 0-25 0-23 0
Triều Tiên 1990 1-50 - 4
Mêhicô 1988 0-20 - 2
Urugoay 1985 0-45 0-5 0
Nguồn: Quỹ tiền tệ quốc tế, báo cáo hàng năm về các hiệp ước chuyển
đổi và những hạn chế chuyển đổi tiền tệ: Cuộc họp của Liên hiệp quốc về
thương mại và phát triển; Thoả thuận chung về thuế quan và thương mại.
CHÚ THÍCH:
FX = Chuyển đổi ngoại tệ (Foreign exchange). Cáo nước được phân
loại dựa theo các tiêu chuẩn sau đây. Trong các thể chế có sự kiểm soát chặt
chẽ và khá chặt chẽ, những hạn chế về đinh lượng (QRs) tương ứng được
thực hiện đối với hơn 50% hoặc từ 15% đến 50% hàng nhập khẩu. Các thể
chế mở cửa có điều kiện có QRs đối với 5-15% hàng nhập khẩu hoặc ít hơn
5% hàng nhập và mức thuế quan và thuế phụ thêm tối đa vượt quá 50%. Một
thể chế mở cửa có thuế quan và các loại thuế nhập khẩu khác không lớn hơn
50% và QRs được thực hiện đối với 5% hàng nhập trở xuống. Không tính đến
sự khác nhau trong việc áp dụng QRs hoặc cơ cấu thuế quan, đương nhiên
những điều đó có thể cũng ảnh hưởng đến mức độ hạn chế của hệ thống
thương mại.
1. Khi cần thiết một loạt các thuế quan được sử dụng. Nếu không cần
thiết tỷ lệ trung bình theo luật pháp hoặc tỷ lệ trung bình có hiệu quả được sử
dụng. Tỷ lệ rất cao áp dụng cho một hoặc hai khoản mục là không được tính
đến. Thuế cũng không được tính đến nếu chúng áp dụng với mức bằng nhau
đối với hàng nội địa và hàng nhập khẩu.
2. Những hạn chế về định lượng bao gồm giới hạn về trị giá đối với
hàng nhập khẩu thông qua những chỉ định về chuyển đổi ngoại tệ hoặc bằng
việc yêu cầu các nhà nhập khẩu cung cấp những số liệu chuyển đổi ngoại tệ
của họ.
3. Tỷ lệ % so với tổng số hàng nhập, bao trùm tất cả những hạn chế về
định lượng, trừ những trường hợp được giải thích khác.
4. Tính tỷ lệ % so với tổng số các khoản mục thuế quan theo quy định.
5. Bao gồm.
6. Gồm có việc cấp giấy phép chuyển đổi ngoại tệ và danh mục được
chấp thuận thời kỳ trước.
7. Danh mục hạn chế bao gồm 285 mục thuế quan và danh mục cấm
gồm 818 khoản mục ngoài tổng số 5.235. Sự giảm xuống được thực hiện đối
với cả danh mục sau tháng 4-1991
8. Có tính năm 1989.
9. Chỉ tiêu, cuối năm 1991.
10. Thuế quan đồng đều.
MỤC LỤC
Phần I. Thương mại và các chính sách thương mại của các nước công
nghiệp.
Phần II. Tự do hóa thương mại của các nước Đông Âu.
Phần III. Chính sách thương mại của các nước đang phát triển.
---//---
TỰ DO HÓA THƯƠNG MẠI QUỐC TẾNHỮNG XU HƯỚNG VÀ CHÍNH SÁCH
Thông tin chuyên đề
TRUNG TÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN QUỐC GIA
VIỆN KINH TẾ THẾ GIỚI
NHÀ XUẤT BẢN KHOA HỌC XÃ HỘI
Chịu trách nhiệm xuất bản: NGUYỄN ĐỨC DIỆU
Biên tập: NGUYỄN ĐỨC BÌNH
Trình bày sách và bìa: NGUYỄN MINH CHÂU
Sửa bản in: MINH NGUYÊN
In tại Xí nghiệp in Thủy lợi. Giấy phép xuất bản 1328 CT/KHXH ngày 30-10-
1993. In xong và nộp lưu chiểu tháng 12/1993.