Tết Ở Chiến Khu H t Tây t · tình duyên Trọng Thủy Mị Châu, Đức Thầy ứng...

8
Tết Ở Chiến Khu Tng bạn ngày xuân chén rượu nng, Ung ri vùng vy khắp Tây Đông. Đem nguồn sng mới cho nhơn loại, Để tiến, tiến lên cõi đi đồng. * Rượu xuân càng nhp càng say, Gió xuân càng thi thì tài càng tăng. Ngày tết năm nay ở chiến khu, Bưng biền gió lc tiếng vi vu. Xa xa súng nthay trtch, Dân Vit còn mang nng mi thù. Mi thù nô ltrchưa xong, Pháp tc còn trêu ging Lc Hng. Dùng thói dã man mưu thống tr, Thì ta quyết chiến dnào không! Dnào không dám gng hi sinh, Givững non sông đất nước mình. Tlập nghìn xưa gương chói rạng, Anh hùng khi xut chn dân binh. . Dân binh Nam Vit my ai bì? Không súng tm vông cũng vác đi, Xông lướt trn tiền ngăn giặc mnh, Liu thân cứu nước lúc lâm nguy. Nước lúc lâm nguy há đứng nhìn, Lòng mang đại nghĩa để thân khinh. Máu đào xương trắng phơi đầy ni, Quyết đổi tdo mi tha tình. Thỏa tình được sống dưới trời Đông, Tphngày xưa rất đẹp lòng. Nhìn thy cháu con không thn mt, Tđây non nước thoát nguy vong. (Đức Thầy Hunh Gio Ch viết ngày 2-1-Đinh Hợi 1947 ở Bình Hòa) Khung cnh mt góc trong chiến khu Chiếc nóp ngvới vũ khí tầm vông trong ngày đầu khởi nghĩa chống Pháp Nói cho ln nhghi lòng, Ngày sau mi biết rõ trong stình. Gili Thy dạy đinh ninh, Hết Tây ri li thit tình ti U. Lành thi nim Pht công phu, Dthi chu chlao tù hngươi. (Đức Phật Thầy Tây An tr. 165, Vương Kim & Đào Hưng biên khảo, nhà xuất bản Long Hoa ấn tống năm Quý tị 1953)*** U = USA

Transcript of Tết Ở Chiến Khu H t Tây t · tình duyên Trọng Thủy Mị Châu, Đức Thầy ứng...

Page 1: Tết Ở Chiến Khu H t Tây t · tình duyên Trọng Thủy Mị Châu, Đức Thầy ứng khẩu hai câu thơ trên đây coi như là trực tiếp phê bình tập thơ.

Tết Ở Chiến Khu

Tặng bạn ngày xuân chén rượu nồng,

Uống rồi vùng vẫy khắp Tây Đông.

Đem nguồn sống mới cho nhơn loại,

Để tiến, tiến lên cõi đi đồng.

*

Rượu xuân càng nhấp càng say,

Gió xuân càng thổi thì tài càng tăng.

Ngày tết năm nay ở chiến khu,

Bưng biền gió lốc tiếng vi vu.

Xa xa súng nổ thay trừ tịch,

Dân Việt còn mang nặng mối thù.

Mối thù nô lệ trả chưa xong,

Pháp tặc còn trêu giống Lạc Hồng.

Dùng thói dã man mưu thống trị,

Thì ta quyết chiến dễ nào không!

Dễ nào không dám gắng hi sinh,

Giữ vững non sông đất nước mình.

Tự lập nghìn xưa gương chói rạng,

Anh hùng khởi xuất chốn dân binh.

.

Dân binh Nam Việt mấy ai bì?

Không súng tầm vông cũng vác đi,

Xông lướt trận tiền ngăn giặc mạnh,

Liều thân cứu nước lúc lâm nguy.

Nước lúc lâm nguy há đứng nhìn,

Lòng mang đại nghĩa để thân khinh.

Máu đào xương trắng phơi đầy nội,

Quyết đổi tự do mới thỏa tình.

Thỏa tình được sống dưới trời Đông,

Tổ phụ ngày xưa rất đẹp lòng.

Nhìn thấy cháu con không thẹn mặt,

Từ đây non nước thoát nguy vong.

(Đức Thầy Huynh Giao Chu viết ngày 2-1-Đinh Hợi 1947 ở Bình Hòa)

Khung cảnh một góc trong chiến khu

Chiếc nóp ngủ với vũ khí tầm vông trong

ngày đầu khởi nghĩa chống Pháp

Nói cho lớn nhỏ ghi lòng,

Ngày sau mới biết rõ trong sự tình.

Giữ lời Thầy dạy đinh ninh,

Hết Tây rồi lại thiệt tình tới U.

Lành thời niệm Phật công phu,

Dữ thời chịu chữ lao tù hổ ngươi.

(Đức Phật Thầy Tây An tr. 165, Vương Kim & Đào Hưng biên khảo, nhà xuất

bản Long Hoa ấn tống năm Quý tị 1953)*** U = USA

Page 2: Tết Ở Chiến Khu H t Tây t · tình duyên Trọng Thủy Mị Châu, Đức Thầy ứng khẩu hai câu thơ trên đây coi như là trực tiếp phê bình tập thơ.

Ngày xưa đánh giặc Pháp, thanh niên lên đường kháng chiến trang bị vỏn vẹn vu khi

tầm vông và chiếc nóp ngu đơn sơ sao mà trông hào hùng thiêng liêng vô cùng! Thuở

ấy tôi còn là cậu bé chi biết ham rờ rẫm vuốt ve mấy cây tầm vông, và ước ao mình mau

lớn cầm tầm vông vào hàng ngu chiến đấu chống giặc...

Năm 1963, thời cơ đưa tôi vào đội ngu phi công không lực VNCH, bấy giờ trong những

chuyến bay tôi mang theo mình lung lăng khâu súng lục;

Và năm Mậu Thân 1968, thời cơ lại đưa đây tôi vào chiến khu cục R, bấy giờ tôi lại

mang theo mình khâu súng ngắn K54.

Cung cần nói thêm ngoài hai loại võ khi trên, năm 1967, tôi tự trang bị cho mình thêm

một thứ võ khi nữa, đó là cây viết, viết báo, viết văn.

Như vậy trong thời chiến tranh chống Pháp tôi chi được ve vuốt mấy cây tầm vông; sau

này thời cơ đưa đây trong chiến tranh chống My tôi có mặt cả hai bên chiến tuyến, tôi

mang theo mình hai thứ vu khi vừa văn lẫn võ.

Và nay khi tuổi về chiều, tôi chon con đường tu trường chay, niệm Phật theo giáo ly Phật

Thầy Tây An phái Bưu Sơn Ky Hương, tôi có dịp ôn lại lịch sư đạo và lịch sư dân tộc,

qua những đoạn sấm như sau:

Thời ky chống giặc Pháp và My đã qua, nay còn trận chiến khốc

liệt nữa chống giặc Tàu sắp tới đây, Đức Huynh Giáo Chu đã thuyết

bài pháp trên chuyến xe khuyến nông từ miền Tây về Sài Gòn năm

1945, có 4 câu sấm kêu goi toàn dân Việt quyết tâm đoàn kết chống

3 trận giặc ngoại xâm như sau:

Tăng Sĩ quyết chùa am bế cửa,

Tuốt gươm vàng lên ngựa xông pha.

Đền xong nợ nước thù nhà,

Thiền môn trở gót Phật Đà nam mô.

Đại ý Ngài khuyên toàn dân Việt trong đó có cả tăng sĩ phải cảnh giác

chống 3 trận giặc ngoại xâm Pháp, My, và Tàu. Trong hai trận giặc

chống Pháp & My, Đức Thầy đã để lại những câu sấm bất hu như sau:

Page 3: Tết Ở Chiến Khu H t Tây t · tình duyên Trọng Thủy Mị Châu, Đức Thầy ứng khẩu hai câu thơ trên đây coi như là trực tiếp phê bình tập thơ.

Đừng ham làm chức nắc nia,

Ngày sau như khóa không chìa dân ôi!

Tu hành như thể thả trôi,

Nay lở mai bồi chăng có thiềng tâm.

Mưu sâu thì hoa cung thâm,

Ngày sau sẽ biết thú cầm chin ghê.

Hùm beo tây tượng bộn bề,

Lại thêm ác thú mãng xà rít to.

Bá gia ai biết thì lo,

Gác tai dèm siểm đôi co ich gì.

Hết Tây rồi đến Huê Kỳ,*

Sưu cao thuế nặng vậy thì thiết tha!*

Dân nay như thể không cha,

Chăng ai dạy dỗ thiệt là thảm thương! (Khuyên Người Đời Tu Niệm, Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ

viết ở Hòa Hảo năm Kỷ Mão 1939)

* Cụm từ “khóa không chìa”, ám chi từ năm

1975, người vào tù {trại cải tạo}, không biết ngày

nào ra tù.

* Câu sấm: “Hết Tây rồi đến Huê Kỳ ” ám chi

khi Tây thua trận Điện Biên Phu, thì My âm mưu

đổ quân vào Việt Nam {U Phân}, bùng nổ cuộc

chiến tranh tàn khốc hơn.

* Cụm từ “Sưu cao thuế nặng”, là ban ngày

VNCH thâu thuế, ban đêm chiến binh du kích

MTGP lại thu thuế, dân chịu 2 lần thuế: goi là

“thuế nặng”, một cổ chịu 2 tròng.

* Qua đoạn sấm ngắn gon, Đức Huynh Giáo Chu

tiên tri quân My thua trận chiến VN, và rút chạy;

những ai theo My sẽ phải vào tù {trại cải tạo}. Ngài

khuyên con dân nước Việt phải giữ ân đất nước.

“Đừng ham làm chức nắc nia,

Ngày sau như khóa không chìa dân ôi!”

Giặc Tây & My đã âm mưu phân chia nước Việt,

nhưng thất bại thảm hại; sắp tới đây, giặc Tàu

chắc chắn cung sẽ dùng sách lược phân chia nước

Việt. Trận giặc cuối chống giặc Tàu vô cùng khốc

liệt được Đức Thầy tiên tri:

Mị Châu ơi hỡi Mị Châu,

Mê chi thằng Chệt để sầu cho cha!

(Đức Huỳnh Giáo Chủ thuyết trên đường khuyến nông từ miền Tây về Sài Gòn tháng 6 năm 1945)

Câu sấm: “Hết Tây rồi đến Huê

Kỳ”, câu này bị kẻ tà tây{kẻ tà theo

Tây U} sưa lại là “Hết Đây rồi đến

Dị Kỳ”. Nên nhớ bất cứ ai bôi sưa

kinh sấm cua chư vị Bồ Tát đều phải

chịu tội đày địa ngục.

Danh Tướng Pháp

de Castries Danh Tướng Việt

Võ Nguyên Giáp

Danh Tướng Mỹ

W.Westmoreland

Khổ hạ nguơn bẩm lại cà lì,

Coi thân cực sướng nỗi gì cho thân

Tây chưa mãn tới việc U phân, *

Ngồi buồn thấy khổ muôn dân não nề

Lương kế Thánh nhơn chí kế hề,

Ngậm ngùi Nam Việt nặng nề lao thân

(Kim Cổ Ky Quan 30: 60, ông Ba Thới viết năm 1915)

* Cụm từ U phân, chữ U là USA là Mỹ, chữ phân là phân chia đất nước Việt Nam ra làm 2 miền Nam Bắc. Sau năm 1954, toàn dân Việt chờ tổng tuyển cử thống nhứt VN theo nội dung hiệp định Giơ-ne-vơ. Nhưng ngày 12-12-1955, đại sứ Trần văn Chương đại diện chánh phủ Ngô Đình Diệm tuyên bố ở Mỹ: Sẽ không có tổng tuyển cử ở VN. Hiệp định Genève không bắt buộc, chánh phủ Mỹ ủng hộ lập trường này. Câu sấm tiên tri rất là chính xác: Tây chưa mãn tới việc U phân. Mỹ ủng hộ giải pháp không tổng tuyển cử thống nhứt VN, Mỹ phân chia VN vĩnh viễn. Muốn có được một nước VN thống nhứt, ắt là chỉ có con đường chiến tranh như đã xảy ra {The VN War}.

Page 4: Tết Ở Chiến Khu H t Tây t · tình duyên Trọng Thủy Mị Châu, Đức Thầy ứng khẩu hai câu thơ trên đây coi như là trực tiếp phê bình tập thơ.

Nhân lúc ngồi trên chuyến xe khuyến nông cùng với Đức Thầy vào tháng 6 năm Ất

Dậu 1945, ông thi sĩ Việt Châu {Nguyễn Xuân Thiếp} có trao tặng cho Thầy quyển thơ

Lông Ngỗng Gieo Tình do ông viết nổi tiếng thời bấy giờ, nội dung kể lại câu chuyện

tình duyên Trong Thuy Mị Châu, Đức Thầy ứng khâu hai câu thơ trên đây coi như là

trực tiếp phê bình tập thơ. Nhưng theo lý thiên cơ, Ngài mượn việc phê bình tập thơ của

ông thi sĩ Việt Châu, để gởi đi một Thông Điệp rất quan trọng cho các chính khách thế

hệ tương lai của cả Thế Giới, đặc biệt là nước My {Mị Châu năm 1972}, đừng vội tin lời

đường mật của Trung Quốc {thăng Chêt năm 1972} mà gây cảnh nhơn loại bị diêt vong.

Cuối Hạ nguơn, Đức Huỳnh Giáo Chủ trở về mượn xác nữ dốt

viết không rành văn tự, và xưng pháp danh Đức Cậu Bần Sĩ Vô

Danh, ứng khâu thuyết; vì vậy trong những bài ứng khâu thuyết,

Đức Cậu Bần Sĩ thường cố ý lặp lại nhiều lần 4 câu sấm:

Tăng Sĩ quyết chùa am bế cửa,

Tuốt gươm vàng lên ngựa xông pha.

Đền xong nợ nước thù nhà,

Thiền môn trở gót Phật Đà nam mô.

Trong trận giặc thứ 3 tức trận giặc cuối cùng chống giặc Tàu sắp tới, toàn dân Việt

hãy gạt bỏ những dị biệt tư tưởng duy tâm duy vật, Phật giáo, Thiên Chúa giáo…, tất

cả hãy đoàn kết chống giặc ngoại xâm đúng như tinh thần 4 câu sấm thu bút cua Ngài

Thanh Sĩ {hậu kiếp Đức Phật Thầy Tây An}:

Nhớ thuở ban đầu si mê ấy!

Mị Châu ơi hơi Mị Châu...1972

Ngài cố ý cảnh giác dân Việt hãy đoàn kết chống giặc Tàu sắp tới, trận giặc thứ ba này vô cùng khốc liệt!

Nhớ thuở ban đầu si mê ấy!

Mị Châu ơi hơi Mị Châu...1972

Page 5: Tết Ở Chiến Khu H t Tây t · tình duyên Trọng Thủy Mị Châu, Đức Thầy ứng khẩu hai câu thơ trên đây coi như là trực tiếp phê bình tập thơ.

Nước Việt do dân Việt chủ quyền,

Khó ai chi phối giống Rồng Tiên.

Chung quy yêu nước hơn tư tưởng* {Mặt Trận Liên Minh chống giặc ngoại xâm}

Nam Bắc cuối cùng một mái hiên*

(Bồ Tát Thanh Sĩ viết ở Tokyo ngày 30-8- 1968)

Mẹ đấy con! chén kia khi bể,

Dù khéo tay không thể gắn liền.

Hoa đến rồi niệm Phật sao yên,

Lùi hơn sự tiến lên là khổ!*

Mẹ đấy con! vắng người trên lộ,

Trong nhà không kẻ ở đìu hiu.

Sợ người như Gà no sợ diều,

Cảnh ấy sẽ còn nhiều chưa hết.

Mẹ đấy con! nếu là phải chết,

Nên chết cho rạng tiết con người!

(Rằm Tháng Mười, c. 1989-1998, Bồ Tát Thanh Sĩ viết

ngày 15-12-1958 ở Tokyo) *

Page 6: Tết Ở Chiến Khu H t Tây t · tình duyên Trọng Thủy Mị Châu, Đức Thầy ứng khẩu hai câu thơ trên đây coi như là trực tiếp phê bình tập thơ.

Nay xem cảnh thế thình lình,

Vô thường quỷ dẫn ai binh đặng nào.

Sớm còn tối mất lao đao,

Ti như trời chớp sáng nào đặng lâu.

Dặm Canh thâu, dặm Canh thâu,

Thở than than thở lo âu cho đời.

Nghĩ trong cuộc thế vơi vơi,

Khổ tăng gia khổ trong đời gian nan.

Kìa kìa quỷ mị khởi loàn,

Xà thương Hổ giảo đa đoan hội này,

Phần thời giặc giã phủ vây,*

Phần thời đói khát thân rày chăng yên.

Lăng xăng nhiều cuộc đảo điên,

Sợ trong thế sự như thuyền chạy khơi.

Đã hết lời, đã hết lời,

Khuyên răn dạy biểu cho người thiện duyên

Trách lòng nhiều sự chăng kiêng,

Ốm đau cầu giảm, an thuyên chăng màng.

Biến sanh những sự tà gian,

Huy tăng phá giới lòng toan hại người.

Thế nay cạn, sự đã rồi!

Mở mang dời đổi Lập Đời Thượng Nguơn.

Chuyển luân thiên địa tuần huờn,

Hội Này thấy lưa tàm lam cháy mày.

Ít ai tỏ biết đặng hay,

Vi như cầm chén rui tay bể rồi!

Thầy xưa lời dặn hăn hòi,

Thực nhơn nhơn thực đến hồi chăng không.

Oan oan tương báo chập chồng,

Tham tài tich đại mình không xét mình.

Khiến xui phụ tư tương tranh,

Cha không lành thảo con lành đặng đâu.

Trung quân, phụ tư làm đầu,

Phản quân, sát phụ, hỡi câu sách nào?

Trời xui trăm vật trăm hao,

Để cho đồ khổ, xiết bao nhoc nhằn.

Ngon phù thuy, cuộc đất xây,*

Rồng nằm đáy biển sông hằng hứng sương.

Bao giờ hưởng tho Ky Hương,

Tuế tăng vạn tuế lưu phương lâu dài.

(Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An, tr. 106-108, lưu ở đình Tòng Sơn năm Kỷ Dậu 1849, Nguyễn văn Hầu biên khảo ấn tống năm 1973)

Nay mai sụp đổ cù lao,* sup 7 đảo nhân tạo

Giáp vòng bi lụy máu đào tuôn rơi. Nói thiệt không phải nói chơi,

Ngọ Mùi Thân DẬU lập Đời đó dân. Lập rồi cái hội Tân Dân,

Lập rồi cái đại Phong Thần kỳ ba. Bây giờ TA mới nói ra,

Sắp đây mở Hội Long Hoa bớ người. Lọc ai phước đức cao dư,

Đặng mà lập lại con người Thượng Nguơn Nói ra có kẻ buồn hờn,

TA đâu có sợ keo sơn được rồi. Nói đi nói đứng nói ngồi,

Nói rằng nứt nắp bể nồi rã hai.* Nói rằng cuồng loạn hăng say,

Từ đây cháy hết được quay chỗ nào. Bên Tây rồi lại bên Tàu,

Bên Anh bên Nhựt cũng nhào tiêu diêu. Không mai ắt cũng đến chiều,

Mỹ Nga cũng vậy Mỹ miều cũng san!**

(Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh ứng khẩu thuyết, kết tập sách Thiền Tịnh Bửu Sơn tr. 105, Hội Cư Sĩ Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 2002)

Câu sấm: “Nói rằng nứt nắp bể nồi rã hai”,

cụm từ bể nồi ám chỉ lãnh tụ nước Tàu gây

trận giặc Biển Đông sẽ chết trong Thế Chiến

Ba; cụm từ rã hai, ám chỉ sau khi vị lãnh tụ

nước Tàu chết {bể nồi}, đến tháng 8 âl 2019,

thì 2 ông trùm My Nga tranh ngôi bá chủ

đánh bằng vũ khí nguyên tử. Câu sấm: “My

Nga cung vậy My miều cung san”. Chữ san

nghĩa là san bằng tiêu tan. Vậy khi thấy có

sự cố bể nồi, bá tánh biết đó là điềm tận thế.

Ngọ Mui Thân Dậu am chi

thang 5,6,7,8 âl 2019

Page 7: Tết Ở Chiến Khu H t Tây t · tình duyên Trọng Thủy Mị Châu, Đức Thầy ứng khẩu hai câu thơ trên đây coi như là trực tiếp phê bình tập thơ.

Sydney, 9-4-2019, Kỳ Vân Cư Sĩ { facebook Mõ Tre} https://kinhsamthatson.wordpress.com/

Năm 2018, Bộ trưởng quốc phòng James Mattis cùng các quan chức cao cấp ngoại giao Mỹ kính cẩn dâng hương tại ngôi chùa cổ Trấn Quốc Hà Nội .

Tướng Robert Brown tư lệnh Lục Quân Hoa Kỳ tại Thai Bình Dương hôm Thứ Hai 20/08/2018 đến kính cẩn dâng hương Đền Thờ Hai Bà Trưng ở Hà Nội

Năm 2019, tại thu đô Hà Nội, Mỹ Việt trao cờ xoa bỏ hận thu, đoàn kết chống giặc Tàu.

Đoàn kết sống, chia re chết

Macnamara & Võ Nguyên Giáp * Hà Nội 1995

Page 8: Tết Ở Chiến Khu H t Tây t · tình duyên Trọng Thủy Mị Châu, Đức Thầy ứng khẩu hai câu thơ trên đây coi như là trực tiếp phê bình tập thơ.

Sydney, 9-4-2019, Kỳ Vân Cư Sĩ biên khảo (facebook Mõ Tre) * https://kinhsamthatson.wordpress.com/

Tàu sân bay USS Carl Vinson đã cập

cảng Đà Nẵng tháng 3 năm 2018

Biển Đông sẽ dậy sóng

Biến dời cuộc thế thình lình

Biến dời cuộc thế thình lình,*

Thiện tồn ác thất Thiên đình số phân.

Vần xây thế giái {giới} phàm trần,

Sự mình không biết mưu thâm ở người.

Hư nên nhờ phận Phật Trời,

Non băng đất lở giữa vời linh đinh. (Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An tr. 102, lưu ở đình Tòng Sơn năm Kỷ Dậu 1849, Nguyễn văn Hầu biên khảo ấn tống năm 1973)

Lần lần tay tính tối ngày,

Người nay như thế thấy rày lại không.

Chữ rằng nhơn vật dữ đồng,

Vật còn biết tánh người không tỏ tình.

Ngồi buồn than trách một mình,

Thương trong thế sự thình lình tiêu tan.

(Sấm Truyền Đức Phật Thầy Tây An tr.108-109, lưu ở đình Tòng Sơn năm Kỷ Dậu 1849, Nguyễn văn Hầu biên khảo ấn tống năm 1973)

Chia rẽ chết Đoàn kết sống Mỹ Việt: Union makes strength

United we stand divided we fall