TRUNG TÂM THÔNG TIN - lib.iuh.edu.vn
Transcript of TRUNG TÂM THÔNG TIN - lib.iuh.edu.vn
TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
TRUNG TÂM THÔNG TIN – THƯ VIỆN
BẢN TIN SỐ 03
A.THÔNG TIN THÀNH TỰU
ĐIỆN - ĐIỆN TỬ - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Giường I.o.T hỗ trợ người mất khả năng vận động tay chân
Cửa hàng ăn uống thông minh
Hệ thống quét 3D
Viettel triển khai thành công công nghệ NB-IoT - mạng IoT thương mại
Chê tạo máy phát điện gió công suất nho (100- 200 W) sử dung nam châm thiêu kêt NdFeB
Nghiên cứu cải thiện và nâng cao chất lượng pin mặt trời
CƠ KHÍ – CHẾ TẠO MÁY
Chê tạo thành công tàu mini không người lái khảo sát biển
Phát triển thành công Hệ thống Robot 6 bậc tự do
CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
Ống hút thân thiện môi trường làm từ bột gạo
VẬT LIỆU – HÓA CHẤT
Màng vô cơ tách khí N2 / CH4 ứng dung trong phân tách khí
Sản xuất vật liệu xây dựng từ tro bay bằng công nghệ geopolymer bán khô
Nước biển Khánh Hòa có thể sử dung để sản xuất bê tông không cốt thép
CÔNG NGHỆ SINH HỌC
Đánh giá tiềm năng di truyền về sản lượng sữa của đàn bò có nguồn gốc Holstein Friesian
nuôi tại Việt Nam
Y HỌC
Gel điều trị bong từ nghệ và nha đam
Phẫu thuật thành công ung thư thực quản theo phương pháp mới
Phương pháp xét nghiệm phát hiện nhanh sốt xuất huyêt
Phương pháp giãn cơ trong phẫu thuật ổ bung
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 03/2019 2/41
Tìm ra chất chống tiểu đường trong gạo trắng
Nghiên cứu cao chiêt tiềm năng lá Sa kê định hướng điều trị bệnh gout
Cartilatist: Bước đột phá của ngành tê bào gốc Việt Nam
NÔNG NGHIỆP
Máy trồng hành tím chạy bằng năng lượng mặt trời
Máy gieo hạt tự động
Hệ thống máy gieo trồng và thu hoạch đậu phộng (lạc)
Hệ thống chăm sóc vườn cây chôm chôm bán tự động
Hệ thống lạnh nhanh cá ngừ đại dương trên tàu cá xa bờ
Sản xuất bột gan mực từ phê liệu chê biên thủy sản
Quy trình trồng bắp làm thức ăn xanh cho bò sữa trên 2 vung đất nhiêm phen và đất xám tại
TP.HCM
Nghiên cứu chọn tạo giống khổ qua lai F1 (Momordica charantia) cho vung Đông Nam Bộ
MÔI TRƯỜNG
Hệ thống thu mẫu và đo khí tự động tích hợp cảm biên đo khí hiệu ứng nhà kính
Ứng dung sóng siêu âm tần số thấp để tiền xử lý bun hữu cơ
Nghiên cứu phát triển mô hình khu công nghiệp xanh trên địa bàn TP.HCM : trường hợp điển
hình của Khu chê xuất Tân Thuận
Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của biên đổi khí hậu đên các khu dân cư vung phía Nam
TP.HCM
LĨNH VỰC KHÁC
Thiêt bị thoát hiểm trong hoa hoạn nhà cao tầng
Thiêt kê ghe homestay “5 sao” phuc vu du lịch đường sông
Thêm 14 doanh nghiệp đạt chuẩn hội nhập được cấp 'giấy thông hành'
B. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
I. Sở Khoa học và Công nghệ TP. Hồ Chí Minh
1. Nghiệm thu đề tài
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 03/2019 3/41
A.THÔNG TIN THÀNH TỰU
ĐIỆN - ĐIỆN TỬ - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Giường I.o.T hỗ trợ người mất khả năng vận động tay chân
Hai em học sinh cùng với sản phẩm của mình.
Sáng kiên “Giường I.o.T hỗ trợ người
mất khả năng vận động tay chân” đã đạt giải
nhất Cuộc thi Khoa học kỹ thuật dành cho
học sinh trung học cấp tỉnh Ninh Bình năm
2018-2019 ở lĩnh vực robot và máy tính thông
minh và được chọn dự Cuộc thi Khoa học kỹ
thuật cấp quốc gia năm học 2018-2019 vào
tháng 3/2019.
Xuất phát từ thực tê gia đình có người
thân bị tai nạn mất khả năng vận động, 2 học
sinh Cao Nguyên Hung và Nguyên Đình
Nhật, lớp 12A và 12G Trường THPT Hoa Lư
A, tỉnh Ninh Bình, đã sáng chê ra chiêc
giường hỗ trợ người mất khả năng vận động
tay chân mang tên I.o.T, góp phần giúp họ di
chuyển, lấy đồ ăn, uống thuốc và cảnh báo
nguy hiểm đên người thân qua internet.
Hai "nhà sáng chê" chia sẻ sản phẩm
giường I.o.T có 2 hệ thống cơ bản, trong đó,
hệ thống cơ khí gồm khung giường, động cơ
nâng hạ, động cơ di chuyển, hệ thống vệ sinh,
bàn ăn, cơ cấu nâng-xoay bàn, cánh tay robot.
Hệ thống thứ hai là mạch điều khiển gồm điều
khiển qua mạng máy tính, qua tay, hệ thống
bàn ăn, nút bấm cảm biên nhịp tim và camera.
Cơ chê hoạt động của giường I.o.T rất đơn
giản, người sử dung điều khiển giường bằng
điều khiển tay hoặc bảng điều khiển qua
internet. Với những người còn có thể vận động
tay thì sử dung bảng điều khiển để di chuyển,
lấy đồ ăn, thuốc uống, đo huyêt áp...
Đối với những người mất hoàn toàn
khả năng vận động tay chân, người thân sẽ sử
dung internet truy cập vào web. Lệnh từ web
thông qua tnternet sẽ đên hệ thống điều khiển
và sử dung các tính năng được tích hợp sẵn.
Các tính năng sử dung tương tự như sử dung
điều khiển tay. Việc kêt nối với internet còn
có thể giúp người sử dung giường gửi cảnh
báo nguy hiểm đên người thân qua mail hoặc
ngược lại. Người thân thông qua web có thể
cho người bệnh uống nước, uống thuốc với
lượng chính xác hoặc ăn những thức ăn khô
như bánh mì, bánh ngọt... bằng cánh tay robot
được lắp đặt trên giường.
Với giường I.o.T, hai em Hung và Tân
đã tích hợp các nút bấm để người bệnh chủ
động hơn cũng như cảnh báo nêu gặp nguy
hiểm. Ngoài ra, cảm biên nhịp tim được thiêt
kê để người bệnh tự đo nhịp tim, khi vượt quá
mức quy định sẽ có email cảnh báo gửi cho
người thân. Người thân ở xa muốn thấy hình
ảnh của người bệnh ở nhà thì camera Logitech
có thể quay 180 độ đáp ứng nhu cầu này.
Thầy Nguyên Mạnh Tú, giáo viên Vật
lý Trường Trung học phổ thông Hoa Lư A cho
biêt hai em Hung và Tân đều yêu thích sáng tạo
khoa học kỹ thuật và rất thông minh. Chỉ trong
hai tháng, hai em đã hoàn thiện sản phẩm.
Nguồn: Baochinhphu.vn, 20/02/2019
Trở về đầu trang
*************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 03/2019 4/41
Cửa hàng ăn uống thông minh
Các máy bán hàng tự động tại phòng thí nghiệm Open Lab của trường.
Cửa hàng ăn uống thông minh với
nhân viên robot phuc vu cà phê, phở, nước
uống hoàn toàn tự động. Ngoài ra, những
nhân viên đặc biệt này còn có thể chào mời
và trả tiền thối cho khách hàng.
Những sản phẩm này do chính sinh
viên khoa cơ khí trường này phuc vu cho bạn
be mình ngay trong khuôn viên trường Đại
học Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM. Nhóm sinh
viên thực hiện những chiêc máy độc đáo này
là Nguyên Hữu Tài, Trần Hồng Sang và
Nguyên Hoàng Tâm, cung là sinh viên Đại
học Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM.
Hiện tại mô hình bán hàng tự động này
đã xuất hiện tại căng tin của trường Đại học
Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM với 2 máy bán
phở, 1 máy bán nước và 1 máy bán cà phê.
Trong “bộ ba” chiêc máy do sinh viên chê tạo,
nổi bật và độc đáo nhất có lẽ là máy bán phở.
Máy có thể bán tối đa 120 tô phở với 3
loại phở gồm phở thịt bò (giá 20.000 đồng),
phở đặc biệt (giá 30.000 đồng) và phở bò viên
(giá 20.000 đồng). Sau khi chọn xong loại
phở, máy sẽ tự động báo là “khách có cần
thêm xíu quẩy, hành ngò không?”.
Người dung có thể chọn có hoặc
không và tiêp tuc chọn giao dịch thanh toán.
Người mua phở sẽ đưa tiền vào khe nhận và
đợi khoảng 30 giây để nhận phở. Khi người
dung đưa tiền mệnh giá lớn hơn giá trị tô phở,
máy sẽ tự động trả lại tiền thừa.
Phía trước máy bán phở sẽ có màn
hình hiển thị thông tin và các nút bấm tuy
chọn để thao tác. Các tuy chọn sẽ được máy
ghi nhận và giao tiêp bằng giọng nói với
người mua phở.
Để có tô phở ngon phải trải qua hai
quy trình là phần nóng với một bình nước leo
và bình nước trung với nhiệt độ khoảng 70
đên 80 độ C. Phần lạnh gồm bánh phở, thịt,
hành ngò… được giữ trong một buồng riêng
khoảng từ 5 đên 6 độ C nhằm giữ thực phẩm
luôn tươi sống.
Khi người dung yêu cầu mua phở,
bánh phở sẽ được chuyển từ khu vực lạnh
sang khu vực nóng để trung và rót nước dung.
Sau đó tô phở sẽ được chuyển sang khay cho
khách với muỗng, đũa và tương ớt, chanh.
Khi được hoi về lý do làm máy bán
phở, Tài tâm sự, phở là món ăn truyền thống
của Việt Nam được nhiều người biêt tới,
trong đó có nhiều khách quốc tê. Vì thê,
nhóm muốn món phở được bán phổ biên hơn
tại các khu vực công cộng, để phuc vu khách
du lịch biêt đên một nét văn hóa ẩm thực của
Việt Nam và hương vị món phở được biêt đên
nhiều hơn.
“Ngoài ra, việc bán bằng máy, giá cả
được niêm yết trước và quy trình mua bán
hoàn toàn tự động giúp người mua phở yên
tâm và không sợ bị chặt chém”- Tài chia sẻ.
Hiện tại, nhóm đang phát triển các tính
năng tích hợp công nghệ nhận diện mặt
người, giúp máy có thể đoán được sở thích,
khẩu vị dựa vào độ tuổi, giới tính và bắt đầu
tư vấn, từ đó tạo môi trường giao tiêp thân
thiện với khách hàng như một người bán thật
sự. Chi phí làm máy từ 50 đên 60 triệu đồng.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 03/2019 5/41
Tài và các thành viên nhóm đã đưa các robot phục vụ vào cửa hàng ăn uống trong không gian trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM.
Ngoài máy bán phở, nhóm đã nghiên cứu
tạo ra sản phẩm robot phuc vu đồ uống. Khi
khách vào quán, robot sẽ tự động chào bằng
giọng nói và mời chọn món. Trên màn hình
robot sẽ hiển thị thực đơn và giá cả. Khi khách
chọn đồ uống xong, robot sẽ tự di chuyển đên
khu vực bàn khách ngồi để phuc vu.
Trần Hồng Sang, thành viên nhóm chia
sẻ, các sản phẩm này đều được nghiên cứu,
chê tạo tại phòng thí nghiệm OpenLab thuộc
khoa Cơ khí của trường. Nhóm đã đưa ra ý
tưởng đưa các sản phẩm này ứng dung nhằm
phuc vu cho sinh viên, tạo ra trải nghiệm mới
mẻ cho bạn be mình.
“Sinh viên đến thưởng thức đồ ăn,
thức uống và trải nghiệm sự phục vụ của các
robot. Điều đó sẽ tạo cho các bạn hứng thú
với những lĩnh vực công nghệ mà mình đang
theo đuổi và có thể chia sẻ, hợp tác tạo ra
những sản phẩm mới”- Sang kể.
Nguồn: Hà Thế An, Khampha.vn,
18/02/2019
Trở về đầu trang
*************
Hệ thống quét 3D
Các thành viên KSV Team
Nhóm sinh viên ĐH Bách khoa Hà Nội
vừa chê tạo thành công hệ thống quét 3D
thuần Việt với giá thành rẻ hơn 20 lần so với
nhập ngoại.
Từ thực tiên máy quét 3D ngày càng
được ứng dung phổ biên trong đo lường hiện
đại trên nhiều lĩnh vực, trong khi giá nhập
khẩu lên tới 4 - 5 tỉ đồng, nhóm KSV Team
đã nảy ra ý tưởng nghiên cứu phương pháp
quét từ đó xây dựng hệ thống quét 3D bằng
ánh sáng cấu trúc sử dung dịch pha kêt hợp
với mã Gray thuần Việt mang tính ứng dung
cao, có độ chính xác, giá thành rẻ. Nhóm đên
từ bộ môn cơ khí chính xác và quang học,
thuộc Viện Cơ khí (Trường ĐH Bách khoa
Hà Nội), gồm: Nguyên Việt Kiên, Trần Ngọc
Sơn, Lê Danh Việt, Đặng Duy Trường và Phí
Đình Thành.
Trưởng nhóm Nguyên Việt Kiên chia
sẻ: “Ở VN lĩnh vực này còn khá mới. Các máy
đo quét 3D ở VN được nhập từ nước ngoài
với giá rất cao, do đó không dễ gì để sở hữu.
Nhóm muốn xây dựng một hệ đo “made in
VN”, được chế tạo bởi người Việt, dễ sử
dụng, đạt độ chính xác cao và thời gian đo
quét nhanh. Đặc biệt là giá thành rẻ hơn rất
nhiều so với các máy nước ngoài, đi kèm các
dịch vụ tiện ích như đo quét thuê, hỗ trợ tư
vấn 3D...”.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 03/2019 6/41
Do đây là một đề tài hoàn toàn mới tại
VN, KSV Team là những người tiên phong
trong lĩnh vực nghiên cứu này nên phải mất
hơn 1 năm dịch thuật, nghiên cứu phương
pháp, đên tháng 2.2018 nhóm mới bắt tay vào
thiêt kê chê tạo hệ thống quét 3D sử dung
phương pháp ánh sáng cấu trúc dung dịch pha
kêt hợp mã Gray với 1 máy chiêu và 1
camera. Đây là phương pháp tối ưu, thu nhiều
hình ảnh hơn, qua đó tạo nên sản phẩm là
những đám mây điểm có độ chính xác cao,
thời gian đo quét nhanh.
Tháng 6.2018, KSV Team đã ứng
dung sản phẩm vào thực tê bằng việc đo quét
thuê cho các đối tượng có nhu cầu. Để tiêp
tuc phát triển sản phẩm đáp ứng nhu cầu của
cuộc cách mạng công nghiệp hóa, nhóm
quyêt định tính toán, thiêt kê và chê tạo hệ
thống quét với 2 camera và 1 máy chiêu.
Nguyên Việt Kiên cho biêt hệ thống đo
quét 3D này dê sử dung. Kêt quả đo đạt độ
chính xác cao, máy đo quét ra được đám mây
điểm 3D của vật. Từ đó xây dựng bề mặt cho
đám mây điểm đó để ra được file hình ảnh mô
phong vật đạt độ chính xác đên 0,1 mm.
Với thành công bước đầu tạo ra sản
phẩm có giá thành 149 triệu đồng, rẻ hơn 20
lần so với các sản phẩm nhập khẩu đang bán
trên thị trường, nhóm đã đăng ký tham gia
cuộc thi Sáng tạo trẻ Bách khoa 2018. Cuối
tháng 1 vừa qua, KSV Team đã giành giải
nhất cuộc thi và được ban giám khảo đánh giá
là đề tài có tính ứng dung cao.
Nguồn: Thu Hằng, Thanhnien.vn, 21/02/2019
Trở về đầu trang
*************
Viettel triển khai thành công công nghệ NB-IoT - mạng IoT thương mại
Danh sách công bố của GSMA.
Hiệp hội di động Thê giới (GSMA)
vừa công bố danh sách 50 nhà mạng đầu tiên
trên thê giới đã triển khai thành công NB-IoT
- công nghệ giúp triển khai kêt nối vạn vật.
Tập đoàn công nghiệp viên thông Quân đội
Viettel là đại diện của Việt Nam nằm trong
danh sách này.
Thông tin này được công bố ngay
trước thềm Hội nghị di động Thê giới (MWC)
2019 với chủ đề “Intelligent Connectivity -
Kêt nối thông minh” diên ra tại Barcelona từ
25 đên 28/2/2019.
Công nghệ này đã được Viettel nghiên
cứu thử nghiệm trong 2 năm gần đây. Đầu
tháng 12/2018, Viettel đã kích hoạt thành
công 30 trạm phát sóng đầu tiên cung nền
tảng (platform) cung cấp dịch vu sử dung
công nghệ NB-IoT tại Hà Nội. Với sự kiện
này, Viettel trở thành nhà mạng đầu tiên tại
Việt Nam triển khai thành công mạng IoT
thương mại. Toàn bộ hệ thống hạ tầng và nền
tảng cho IoT của Viettel sẽ sẵn sàng cung cấp
cho khách hàng vào nửa đầu năm 2019.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 03/2019 7/41
Theo kê hoạch, Viettel sẽ hoàn thành
phủ sóng NB-IoT toàn bộ tại Hà Nội và
TP.HCM trong quý I/2019 trước khi từng
bước đầu tư diện rộng trên toàn quốc và các
thị trường nước ngoài.
Hiện tại, Tập đoàn Viettel đang thử
nghiệm một số ứng dung dựa trên hạ tầng kêt
nối và nền tảng IoT như đỗ xe thông minh
(smart parking), giám sát chất lượng không
khí (air monitoring), giám sát vị trí (location
tracking), thiêt bị đo lường (metering
devices)… Đây là những ứng dung ban đầu
để tạo cơ sở cho sự phát triển và bung nổ hệ
sinh thái các dịch vu IoT trong thời gian sắp
tới. Gần 40.000 trạm 4G phủ rộng cả nước là
một trong những lợi thê lớn của Viettel trong
việc chủ động triển khai IoT.
Ông Tào Đức Thắng, Phó Tổng giám
đốc Tập đoàn Viettel cho biêt, hiện nay, khái
niệm khách hàng đã được mở rộng, không chỉ
là con người. Khách hàng là vạn vật. Với định
nghĩa ấy, con số khách hàng phải là hàng tỷ,
thậm chí hàng ngàn tỷ. Việc triển khai thành
công NB-IoT là một minh chứng hiện thực hóa
sứ mệnh ấy của Viettel, thể hiện cam kêt, nỗ
lực vì một xã hội thông minh và hiện đại hơn.
Nguồn: Vista.gov.vn, 26/02/2019
Trở về đầu trang
*************
Chê tạo máy phát điện gió công suất nho (100-200 W) sử dung nam châm thiêu kêt NdFeB
Tua bin gió là thiêt bi biên đôi động năng của gió.
Chê tạo máy phát điện gió công suất
nho (100- 200 W) sử dung nam châm thiêu
kêt NdFeB phuc vu những nơi chưa có mạng
điện lưới công cộng, các hộ gia đình, các trạm
quan trắc, tàu thuyền là muc tiêu của đề tài
“Nghiên cứu thử nghiệm chê tạo máy phát
điện gió công suất nho (100-200 W) sử dung
nam châm thiêu kêt NdFeB”. Đề tài này do
ThS Phạm Thị Thanh làm chủ nhiệm; Viện
Khoa học Vật liệu là cơ quan chủ trì.
Một trong những bước đầu tiên của
quá trình nghiên cứu là tiên hành nghiền bột
hợp kim nhằm muc đích thu được các hạt nho
để tăng lực kháng từ. Tuy nhiên, việc cải
thiện lực kháng từ của nam châm bởi sự giảm
kích thước hạt bột hợp kim chỉ có thể xuống
đên một giá trị tới hạn cùng thời gian nghiền
tối ưu tương ứng. Bột hợp kim sau khi nghiền
mịn được ép định hướng trong từ trường
thành viên để chuẩn bị cho giai đoạn thiêu
kêt. Bước thiêu kêt điều khiển lượng chất
long, độ hòa tan của các thành phần trong
chất long, sự thấm của các pha thứ cấp xung
quanh các hạt và tốc độ khuyêch tán của pha
giàu Nd ở biên hạt. Vi cấu trúc tối ưu của
nam châm có thể thu được bằng cách điều
khiển các tham số trong quá trình thiêu kêt.
Trong đó, nhiệt độ và thời gian thiêu kêt là
hai yêu tố có mối liên hệ chặt chẽ và ảnh
hưởng mạnh đên lực kháng từ của nam châm.
Để nâng cao lực kháng từ Hc, nam
châm sau thiêu kêt tiêp tuc được xử lý nhiệt
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 03/2019 8/41
nhằm cải thiện biên hạt. Đây là quá trình khá
phức tạp vì có rất nhiều tham số ảnh hưởng
chăng hạn như số bước, nhiệt độ, thời gian
của từng bước, tốc độ lên nhiệt, hạ nhiệt, cách
làm nguội nhanh, nguội chậm... Nhìn chung,
nhiệt độ và thời gian ủ là hai thông số quan
trọng để điều khiển sự hình thành vi cấu trúc
mong muốn dẫn đên làm thay đổi tính chất từ
trong nam châm.
Trước tiên, bột các hợp chất pha thêm
(HCPT) Dy40Nd30Al30, Nd40Cu30Al30,
Dy40Nb30Al30, Dy40Zr30Al30 và
Nb40Cu30Al30 được nghiền riêng biệt với
kích thước nho bằng phương pháp nghiền cơ
năng lượng cao trong 4h. Bột nano được trộn
với bột mico NdFeB với tỉ phần khối lượng
2% trước khi thiêu kêt. Hỗn hợp bột của
NdFeB với các hợp chất thêm vào sau khi
trộn, ép sẽ được thiêu kêt ở nhiệt độ 1080oC
trong thời gian 1h.
Bộ phận phát điện của các máy phát
điện gió đã chê tạo. thành cơ năng, từ cơ năng
có thể biên đổi thành điện năng nhờ máy phát
điện. Trong đề tài này, tua bin gió công suất
nho được chê tạo ở cả dạng truc ngang và 8
truc đứng. Tuy hiệu suất chuyển đổi năng
lượng gió của tua bin kiểu truc đứng thường
thấp hơn so với kiểu truc ngang vì phần cản
gió của nó lớn hơn nhưng tua bin gió truc
đứng có ưu điểm là không phu thuộc vào
hướng gió và phần máy phát điện có thể đặt
ngay ở chân cột. Phần cánh của tua bin gió,
chúng tôi cùng thiêt kê và chê tạo với Viện
Cơ khí và Công ty Cổ phần chê tạo Điện cơ
Hà Nội. Bộ phận phát điện của máy phát điện
gió công suất nho thường có hai kiểu chính là
rotor dạng hình tru và dạng đĩa tròn, stator là
các cuộn dây để tạo ra dòng điện. Trong
nghiên cứu này, rotor được chê tạo dạng hình
tru chứa nam châm vĩnh cửu NdFeB. Các
nam châm chê tạo được có lực kháng từ Hc =
17 kOe, tích năng lượng từ (BH)max = 32
MGOe được cắt dây hồ quang thành các viên.
So sánh các đường đặc trưng từ của nam
châm trong máy phát điện gió thương mại
(Model FA12-400, Trung Quốc) và nam
châm đã chê tạo, chúng tôi nhận thấy rằng
thông số từ thu được hoàn toàn có thể ứng
dung trong máy phát điện.
Các kết quả chính của đề tài
- Đã khảo sát ảnh hưởng của chê độ
nghiền, chê độ thiêu kêt, xử lý nhiệt và các
hợp chất pha thêm Nd- Cu-Al, Dy-Nd-Al...
lên tính chất từ của nam châm thiêu kêt
NdFeB. Lực kháng từ Hc thu được của nam
châm pha tạp lên tới 21 kOe và tích năng
lượng cực đại (BH)max đạt trên 30 MGOe.
Các nam châm chê tạo được có thể sử dung
trong mô tơ và máy phát điện. - Đã xây dựng
được qui trình công nghệ chê tạo nam châm
thiêu kêt Nd-Fe-B có thể đưa vào ứng dung
thực tê.
- Đã thử nghiệm chê tạo 03 máy phát
điện gió công suất 70 - 200W sử dung nam
châm thiêu kêt NdFeB chê tạo được.
Những đóng góp mới của đề tài:
- Đã chê tạo được nam châm thiêu kêt
có lực kháng từ lên tới 21 kOe, tích năng
lượng cực đại (BH)max đạt trên 30 MGOe
khi pha tạp 2% Dy40Nd30Al30.
Đề tài đã có 3 bài báo đăng trên tạp chí
và hội nghị quốc tê, 1 bài báo trên tạp chí
trong nước và được Hội đồng Khoa học xêp
loại khá.
Nguồn: Thúy Nga, Vista.gov.vn,
21/02/2019
Trở về đầu trang
*************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 03/2019 9/41
Nghiên cứu cải thiện và nâng cao chất lượng pin mặt trời
Nhóm nghiên cứu của tiên sĩ Nguyên
Trọng Hiêu tại Đại học Quốc gia Australia
(ANU), trường đại học hàng đầu của
Australia và thê giới, mới đây đã công bố một
loạt phát hiện đột phá có thể giúp cách mạng
hóa công nghệ năng lượng Mặt trời.
Theo phóng viên TTXVN tại Sydney,
trong khi đa số các nghiên cứu tập trung vào
cải thiện chất lượng của phần lõi bên trong
pin Mặt trời, nhóm nghiên cứu của tiên sĩ
Trọng Hiêu tập trung vào lớp màng mong bên
trên của pin, vốn mong hơn vài nghìn lần so
với tóc người. Lớp vo mong này dung để dẫn
điện từ pin và bảo vệ phần lõi.
Đầu năm 2018, nhóm nghiên cứu phát
hiện lớp vo mong này có thể phát ra ánh
sáng rất đặc biệt. Họ nhanh chóng nhận ra sự
hiện diện của các nguyên tử hydro làm thay
đổi đáng kể các đặc tính của ánh sáng này.
Đây là thông tin mà sau đó có thể được sử
dung để tìm hiều những gì xảy ra bên trong
lớp màng mong.
Cuối năm 2018, nhóm tiêp tuc tìm ra
ra một phương pháp để tích hợp các nguyên
tử hydro vào lớp màng này để cải thiện chất
lượng của toàn bộ pin.
Theo tiên sĩ Hiêu, Hydrogen là nguyên
tố nhẹ nhất trong bảng tuần hoàn nhưng cực
kỳ mạnh để chữa lành “vêt thương” của vật
liệu bán dẫn. Thật không may, trong tự nhiên,
nó thường tồn tại ở dạng phân tử (hai nguyên
tử liên kêt với nhau).
Nhóm nghiên cứu đã khắc phuc điều
này bằng cách đặt một vật liệu khác có nhiều
hydro nguyên tử lên trên lớp màng, sau đó
đẩy các nguyên tử hydro riêng lẻ vào trong
màng bằng cách làm nóng mẫu ở 400 độ C.
Tiên sĩ Hiêu cho biêt khi các nguyên
tử hydro được “tiêm” vào lớp màng, thay vì
lõi tê bào, hiệu suất của toàn bộ pin được tăng
lên đáng kể.
Nghiên cứu sinh Trương Ngọc Thiện,
thành viên người Việt Nam duy nhất trong
nhóm nghiên cứu, cho biêt thêm khi dung vật
liệu silicon chất lượng cao, việc cải thiện lõi
tê bào chỉ đạt mức độ giới hạn. Do đó, cải
thiện lớp màng là một bước rất quan trọng để
đạt được pin Mặt trời hiệu quả cao.
Theo nghiên cứu sinh Trương Ngọc
Thiện, những khám phá này chắc chắn sẽ
giúp sản xuất pin Mặt trời silicon mạnh hơn
và hiệu quả hơn bởi các nhà khoa học đã biêt
cách điều khiển hàm lượng hydro bên trong
lớp màng để có pin Mặt trời tốt hơn.
Tiên sĩ Hiêu cho biêt vài năm trở lại
đây, có vài chuc nhóm nghiên cứu về công
nghệ mới này trên phạm vi toàn cầu. Cuối
năm 2017, khi ý tưởng vừa nhem nhóm, anh
rất lo lắng, nhưng sau khi tuyển được một
nhóm sinh viên xuất sắc đầu năm 2018 thì
nhóm bắt tay vào việc thực hiện dự án này.
Nguồn: Vista.gov.vn, 27/02/2019
Trở về đầu trang
*************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 03/2019 10/41
CƠ KHÍ – CHẾ TẠO MÁY
Chê tạo thành công tàu mini không người lái khảo sát biển
Chuẩn bi đưa thiêt bi xuồng tự hành khảo sát sông Hồng.
Nhóm nghiên cứu của Viện Khoa học
Đo đạc và Bản đồ, Bộ TN&MT đã thiêt kê, chê
tạo tàu mini không người lái khảo sát, thành
lập bản đồ đáy biển và thu thập dữ liệu tài
nguyên và môi trường.
Đây là kêt quả của nhiệm vu khoa học
“Nghiên cứu thuật toán và xây dựng phần
mềm tích hợp thiêt bị đo sâu hồi âm với hệ
thống GNSS-RTK trên xuồng tự hành (USV)
phuc vu thành lập bản đồ địa hình tỷ lệ lớn
đáy sông, biển các khu vực có địa hình bị chia
cắt, nguy hiểm, con người khó tiêp cận”. Đề
tài được thực hiện trong vòng 30 tháng từ
tháng 1/2018 đên tháng 6/2020.
Muc tiêu của đề tài là thiêt lập hệ
thống đo sâu hồi âm bằng xuồng không
người lái: Phần mềm và hệ thống tích hợp
thiêt bị đo sâu hồi âm với thiêt bị định vị
quán tính IMU - GNSS - RTK trên xuồng
không người lái (USV). Trên cơ sở đó, các
chuyên gia đã đề xuất quy trình công nghệ
thành lập bản đồ địa hình tỷ lệ lớn đáy sông,
biển sử dung hệ thống tích hợp thiêt bị đo
sâu hồi âm với IMU - GNSS - RTK trên
xuồng không người lái (USV).
Báo Tài nguyên và Môi trường dẫn lời
Ths. Lưu Hải Âu - Giám đốc Trung tâm Tin
học và Trắc địa bản đồ (Viện Khoa học Đo
đạc và Bản đồ) - Chủ nhiệm đề tài cho biêt
nhóm nghiên cứu đã thiêt kê chê tạo các hệ
thống ở Việt Nam chưa có, phải nhập khẩu từ
nước ngoài như: hệ thống thiêt bị và phần
mềm xử lý dữ liệu GNSS đo theo công nghệ
trạm ảo (VRS) gắn trên thiêt bị bay chup
không người lái (UAV) để tự động hóa hoàn
toàn công tác đo đạc và thành lập bản đồ các
loại tỷ lệ; hệ thống phần mềm tích hợp các
thiêt bị đo sâu hồi âm và GPS-RTK với IMU
phuc vu công tác khảo sát điều tra đo đạc bản
đồ đáy sông biển; hệ thống sensor tự động thu
hồi mẫu môi trường nước và không khí.
Sau khi nghiên cứu và chê tạo thành
công, tàu tự hành có thể đo số liệu ở vung
nước từ có độ sâu từ 1 - 1.000 mét và tự
động gửi dữ liệu về qua tín hiệu radio và
sóng GPRS.
Tàu được thiêt kê chạy tự động, không
cần người lái. Vo tàu làm bằng nhựa
Composite. Trong thân tàu được gắn phần
mềm ghi dữ liệu, camera trực tuyên, máy
định vị vệ tinh, ăngten và một thiêt bị đo sâu
hồi âm. Một máy tính nho như điện thoại
cũng được gắn ở trong để lưu số liệu và gửi
về hệ thống qua tín hiệu radio, GPRS. Toàn
bộ phần cứng đên phần mềm đều do nhóm
nghiên cứu chủ động làm trong nước.
Tàu có tải trọng 60 kg, được gắn hai
bình ắc quy nên có thể đo trong thời gian 8 -
10 tiêng, hoạt động ở những vung biển khó
khăn về an ninh, hay ô nhiêm. Tàu cũng có
thể tự động chạy ngầm rà soát, đo số liệu để
phát hiện các nhà máy thải nước thải trộm
xuống biển.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 03/2019 11/41
Hiện, tàu đã chạy thử nghiệm đo trên
vung nước chảy xiêt ở sông Lô, sông Đà và
khảo sát đảo khu vực Vân Đồn - Quảng Ninh
cho kêt quả tốt.
Nguồn: Baochinhphu.vn, 07/02/2019
Trở về đầu trang
*************
Phát triển thành công Hệ thống Robot 6 bậc tự do
Hệ thống robot khi hoàn thành.
Nhóm nghiên cứu phòng Cơ điện tử -
Viện Cơ học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và
Công nghệ Việt Nam đã phát triển thành công
một mẫu cánh tay máy 6 bậc tự do có tên là
SM6 định hướng ứng dung trong sản xuất
công nghiệp và nhiều lĩnh vực khác.
Hệ thống Robot SM6 là một sản phẩm
chính của dự án: “Hoàn thiện, làm chủ công
nghệ thiêt kê, chê tạo Robot công nghiệp 6
bậc tự do và ứng dung sản phẩm vào dây
chuyền sản xuất công nghiệp” thuộc Chương
trình “Phát triển một số ngành công nghiệp
công nghệ cao”.
Hệ thống Robot SM6 được kê thừa và
phát triển từ sản phẩm eRobot thuộc đề tài
cấp Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ
Việt Nam - đã được nghiệm thu đạt kêt quả
xuất sắc vào năm 2011.
Robot SM6 hiện đã được vận hành thử
nghiệm tại Xí nghiệp 197 – Tổng công ty
Kinh tê Kỹ thuật công nghiệp Quốc Phòng.
Robot SM6 sử dung để vận hành sản xuất
trong gia công cơ khí cu thể là công đoạn hàn
ghép chi tiêt bằng kim loại của quy trình sản
xuất khung giá đỡ.
Ông Cu Đức Thuận, Giám đốc Xí
nghiệp 197 cho biêt: “Quá trình cài đặt
Robot trong nhà xưởng được thực hiện khá
đơn giản. Robot có kích thước nhỏ gọn, hoạt
động liên tục 1 ca/ngày với tính ổn định cao.
Điện năng tiêu thụ của cánh tay Robot
khoảng 1,5kW. Đặc biệt, Robot có khả năng
phối hợp với công nhân và các máy móc khác
trong khi thực hiện nhiệm vụ khi đã được lập
trình trước. Chúng tôi hi vọng, nhóm nghiên
cứu tiếp tục phát triển sản phẩm để có thể
thực hiện nhiều chức năng hơn nữa như công
đoạn sơn, hàn, làm sạch nhằm nhân rộng sản
phẩm, tạo nhiều lựa chọn cho các đơn vị sản
xuất cơ khí trong nước”.
Thành công của SM6 mở ra hướng
nghiên cứu tiêp để giảm giá thành sản phẩm so
với nhập ngoại (giá nhập khẩu 1 robot cung
chủng loại dao động từ 600-700 triệu đồng),
tối ưu hóa chức năng, đặc tính kỹ thuật, chủ
động thiêt bị thay thê, quy trình bào trì, bảo
dưỡng, phát triển các ứng dung phần mềm
thông minh điều khiển, kiểm soát trên thiêt bị
di động ứng dung trên nền Internet.
Có thể nói đây là một trong những Dự
án đầu tiên ở Việt Nam tạo được sản phẩm
Robot bao gồm cả phần cứng và phần mềm,
có tính sáng tạo cao, phu hợp với xu hướng
CMCN 4.0. Một trong những yêu tố quan
trọng của sản phẩm là mở rộng đơn vị ứng
dung để sản phẩm được ứng dung nhanh hơn,
nhiều hơn trong sản xuất công nghiệp tại Việt
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 03/2019 12/41
Nam; Góp phần mang lại hiệu quả cao về mặt
kinh tê, thúc đẩy nền sản xuất công nghệ cao,
thông minh, tiên tiên hiện đại.
Nguồn: Khoahocphattrien.vn,
17/02/2019
Trở về đầu trang
**************
CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
Ống hút thân thiện môi trường làm từ bột gạo
Những chiêc ống hút nhựa được sử
dung hằng ngày tưởng chừng như vô hại
nhưng lại là thủ phạm khiên cho tình trạng ô
nhiêm môi trường ngày càng trầm trọng. Gần
đây, tại làng bột Sa Đéc, một doanh nghiệp
(DN) vừa ra mắt người tiêu dung sản phẩm
ống hút thân thiện với môi trường được sản
xuất từ nguồn nguyên liệu bột gạo. Có tên là
OCHAO - loại ống hút đặc biệt này do Công
ty TNHH Thực phẩm Hung Hậu, TP.Sa Đéc
ra mắt thị trường trong thời gian gần đây.
Ống hút OCHAO được sản xuất từ 100%
nguồn nguyên liệu tự nhiên, gồm bột gạo, bột
mì và chiêt xuất màu từ rau, củ, quả.
Được gọi là ống hút thân thiện với môi
trường là vì ngoài công dung dung để hút
nước thì sản phẩm này còn có thể ăn được và
có thể tự hủy dê dàng ngoài môi trường tự
nhiên. Nêu bảo quản trong môi trường bình
thường, sản phẩm có thể sử dung tốt trong
vòng 18 tháng. Riêng sử dung trong môi
trường nước nhiệt độ bình thường và nước
lạnh trong khoảng 30 phút đên 2 tiêng vẫn giữ
nguyên hình dạng và sản phẩm sẽ tự hủy sau
khi sử dung.
Với nhiều màu sắc hấp dẫn không kém
sản phẩm ống hút nhựa, ống hút OCHAO
hiện có 4 nhóm màu chính (tím, xanh, đen và
trắng). Những màu sắc này là màu tự nhiên
được chiêt xuất từ rau, củ, quả như: củ dền, lá
dền, me đen, vì vậy người dung có thể hoàn
toàn yên tâm khi sử dung ống hút OCHAO.
Với ưu điểm tiện dung và tính năng
thân thiện với môi trường, sản phẩm ống hút
bột gạo của Công ty TNHH Thực phẩm Hung
Hậu đã được chào đón tại thị trường Hàn
Quốc, Nhật Bản. Hiện DN cũng đang chào
hàng tại một số thị trường khác như Châu Âu
và Nga. Hiện tại, trung bình DN sản xuất
100.000 ống hút/ngày, tương đương 1 tấn sản
phẩm/ngày. DN cũng đang đầu tư thêm dây
chuyền sản xuất mới, dự kiên sẽ đưa vào sản
xuất trong tháng 2 này với công suất trên 3
tấn/ngày. Phần lớn sản phẩm hiện nay được
cung cấp cho các thị trường nhập khẩu. Theo
DN Hung Hậu, hiện thị trường trong nước
đang có những phản ứng rất tốt với sản phẩm
ống hút OCHAO của DN. Một số nhà hàng,
khách sạn đang đặt vấn đề liên kêt dài lâu với
đơn vị.
Ống hút được làm từ bột gạo không
những là niềm vui với người tiêu dung mà sự
ra đời của nó còn có ý nghĩa quan trọng với
với người dân làng bột Sa Đéc. Ông Nguyên
Văn Nương - chủ nhiệm Hội quán làng bột
Sa Đéc tâm sự: “Tôi rất mừng khi làng bột
quê tôi có thêm một sản phẩm mới ra đời
được làm từ nguyên liệu bột gạo của quê
hương. Đây cũng là động lực để bà con làng
nghề hăng say sản xuất. Tôi tin, với sản
phẩm mới này, sự phát triển của làng bột sẽ
còn vươn xa hơn nữa”.
Nguồn: Mỹ Lý, baodongthap.vn,
24/02/2019
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 03/2019 13/41
VẬT LIỆU – HÓA CHẤT
Màng vô cơ tách khí N2 / CH4 ứng dung trong phân tách khí
Tiên sỹ Võ Nguyễn Xuân Phương và nhóm nghiên cứu phát triển vật liệu mới tại Viện Dầu khí Việt Nam.
Lần đầu tiên, các nhà khoa học của
Viện Dầu khí Việt Nam (VPI) đã tổng hợp
được loại vật liệu mới là màng vô cơ tách khí
N2/CH4 trong điều kiện phòng thí nghiệm.
Kêt quả nghiên cứu này đã được công
bố quốc tê trên Microporous and Mesoporous
Materials.
Màng vô cơ tách khí N2/CH4 mà VPI
nghiên cứu thuộc loại màng zeolite DDR bền
nhiệt và bền hóa. Loại vật liệu zeolite toàn
silic DDR này thuộc nhóm clathrasil, sở hữu
hệ thống khoang vòng 8 nguyên tử Si với
kích thước lỗ là 0,36nm x 0,44nm, do đó đặc
biệt phu hợp trong ứng dung phân tách khí.
Một số ví du có thể liệt kê như phân tách khí
tạp CO2 và N2 khoi hỗn hợp khí thiên nhiên
nhằm làm tăng giá trị khí; làm khan nước;
phân tách oleffin ra khoi hỗn hợp với paraffin
(từ C2 - C4) hay phân tách các đồng phân C4
chưa bão hòa có điểm sôi rất gần nhau.
Tiên sỹ Võ Nguyên Xuân Phương,
Trưởng nhóm nghiên cứu phát triển vật liệu
mới, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Chê
biên Dầu khí của VPI cho biêt, quá trình sản
xuất, nhóm nghiên cứu đã gặp rất nhiều khó
khăn do tính lặp lại thấp của zeolite DDR.
Tuy nhiên, với sự học hoi kinh nghiệm của
các đối tác, cộng thêm sự kiên trì, cẩn thận và
quyêt đoán trong từng khâu thực hiện đã giúp
nhóm nghiên cứu thực hiện thành công việc
sản xuaats màng vô cơ tách khí này.
Việc triển khai sản xuất ở quy mô
thương mại màng vô cơ tách khí tạp như CO2
và N2 ra khoi hỗn hợp khí với CH4 rõ ràng sẽ
mang lại lợi ích kinh tê trong định hướng xử
lý và chê biên sâu nguồn khí thiên nhiên
nhiêm khí tạp có trữ lượng lớn ở Việt Nam.
Thống kê của VPI cho thấy, trong tổng
trữ lượng tiềm năng 3 nghìn tỷ m3 khí thiên
nhiên ở Việt Nam, có nhiều phát hiện khí với
trữ lượng lớn nhưng có chứa hàm lượng tạp
chất cao, bao gồm N2, khí acid H2S và CO2
(chủ yêu), phân bố ở cả 3 miền Bắc, Trung,
Nam khu vực thềm luc địa Việt Nam; trong
đó có mo khí Cá Voi Xanh.
Vì vậy, với xu hướng tiêu thu khí trong
lĩnh vực nhiên liệu và năng lượng ngày càng
tăng trong khi các mo khí truyền thống có
chất lượng cao đang dần cạn kiệt, việc tập
trung phát triển công nghệ màng với khả năng
điều chỉnh hiệu năng xử lý hiệu quả các
nguồn khí kém chất lượng sẽ có tiềm năng
phát triển rất lớn và mang lại lợi ích vượt trội
cho ngành công nghiệp xử lý và chê biên.
Nguồn: Vista.gov.vn, 21/02/2019
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 03/2019 14/41
Sản xuất vật liệu xây dựng từ tro bay bằng công nghệ geopolymer bán khô
Sản phẩm được sản xuất từ tro bay bằng công nghệ geopolymer bán khô
Công ty TNHH sản xuất Trung Hậu
mới đây đã nghiên cứu công nghệ và sản xuất
thử nghiệm thành công vật liệu xây dựng từ
tro bay hoặc tro xỉ của nhà máy nhiệt điện
than. Với công nghệ này, sản phẩm đông
cứng và đạt cường độ tối đa và có thể đưa vào
sử dung luôn ngay sau khi sản xuất.
Theo báo cáo của Bộ Công thương,
tro, xỉ, thạch cao hiện nay chủ yêu phát sinh
từ các nhà máy nhiệt điện than. Các nhà máy
này tiêu thu khoảng 47,8 triệu tấn than/năm
với lượng tro xỉ, thạch cao thải ra hàng năm
hơn 16,4 triệu tấn/năm. Dự kiên tới năm 2020
sẽ có thêm nhiều dự án nhiệt điện than được
đưa vào hoạt động, tiêu thu khoảng 60 triệu
tấn than/năm và phát sinh khoảng 20,5 triệu
tấn tro xỉ, thạch cao.
Với thành phần hạt có trọng lượng
nhẹ, kích thước hạt rất nho (tương đương 1/3
hạt xi măng), tro xỉ có thể bay tự do trong
không khí, phát tán khắp nơi. Đây là nỗi lo
sợ của cư dân gần nhà máy nhiệt điện và
xung quanh nơi chôn lấp tro bay. Không chỉ
phát tán trong không khí, chỉ cần có mạch
nước ngầm nho cũng có thể đem tro đi khắp
mọi ngõ ngách trong lòng đất, với các thành
phần của tro bao gồm những ô xít kim loại
nặng như SiO2, Al2O3, Fe2O3, CaO, NaO,
TiO2,... làm ô nhiêm nguồn nước, gây ra
nhiều căn bệnh nguy hiểm.
Tuy nhiên, loại chất thải này lại có thể
tái sử dung làm nguyên liệu sản xuất ximăng,
bêtông và nguyên liệu sản xuất vật liệu xây
dựng. Ngoài ra, tro, xỉ, thạch cao còn được
sử dung để làm chất liên kêt, gia cố các công
trình giao thông, sản xuất gạch không nung,
bê tông nhẹ, làm tấm trần, tường thạch cao,
gốm sứ.
Ông Trần Trung Nghĩa – Chủ tịch
HĐTV Công ty TNHH sản xuất Trung Hậu -
cho biêt, nhóm nghiên cứu của Công ty đã
nghiên cứu và áp dung công nghệ
geopolymer bán khô, với đầu vào là tro bay
hoặc tro xỉ của nhà máy nhiệt điện than. Sau
khi được pha trộn với một loại phu gia sẽ tạo
ra những hạt với kích cỡ theo mong muốn.
“Chỉ hơn 4 phút một chu trình, công
nghệ này cho ra sản phẩm đông cứng, đạt
cường độ tối đa ngay sau khi sản xuất, có thể
đưa vào sử dụng luôn” – ông Nghĩa nói.
Theo ông Nghĩa, các công nghệ trong lĩnh
vực bê tông Geopolymer tại Mỹ, Australia
phải mất 4 – 8 tiêng để đông cứng và đạt
cường độ.
Theo ông Nghĩa, công nghệ
geopolymer bán khô đã tồn tại khá lâu vì các
ưu điểm vượt trội về cường độ, khả năng
chống ăn mòn,… Tuy nhiên, ứng dung của
công nghệ còn hạn chê do giá thành của các
chất hoạt hóa kiềm rất cao và khả năng đông
kêt khá lâu. Để khắc phuc những nhược điểm
này, nhóm đã nghiên cứu theo hướng bán
khô, tiêt kiệm tối đa lượng hoá chất hoạt hoá
kiềm sử dung. Đồng thời, ứng dung công
nghệ song microwave để gia nhiệt và rút
ngắn quá trình đông kêt.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 03/2019 15/41
Các hạt sản phẩm được sản xuất từ tro
bay có module như cát xây dựng đên kích cỡ
như đá xây dựng, có thể được ứng dung làm
vật liệu san lấp thay thê cát, làm nền đường
giao thông, san lấp lấn biển, hoàn thổ, cốt
liệu nhẹ cho bêtông xây dựng. Tuỳ theo yêu
cầu sử dung, sản phẩm có thể được điều
chỉnh cường độ từ 5 MPa đên trên 50 MPa,
khi được kêt hợp với xỉ mangan hoặc xỉ thép,
cường độ có thể đạt trên 100 MPa.
Sản phẩm đã được kiểm tra tại Trung
tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn – Đo lường – Chất
lượng 3 theo TCVN 7570 cho kêt quả nằm
trong vung cốt liệu vô hại, có thể được sử
dung làm vật liệu san lấp.
Theo ông Nghĩa, với công suất tiêu thu
lớn, mỗi dây chuyền sử dung công nghệ nói
trên có thể tạo ra 2.000 tấn vật liệu san lấp
mỗi ngày, đáp ứng nhu cầu ngày một tăng
mạnh về vật liệu san lấp. Đồng thời, giải
quyêt được lượng tro xỉ từ nhà máy nhiệt điện
đang ngày càng tăng. Tuy nhiên, do là sản
phẩm mới nên nhóm nghiên cứu cần sự hỗ trợ
từ phía các địa phương có nhà máy nhiệt điện
ưu tiên sử dung loại vật liệu san lấp này để
giải quyêt vấn đề đầu ra và vận chuyển do sản
phẩm được tiêu thu tại chỗ.
Nguồn: Kiều Anh,
Khoahocphattrien.vn, 13/02/2019
Trở về đầu trang
**************
Nước biển Khánh Hòa có thể sử dung để sản xuất bê tông không cốt thép
Nghiên cứu thực nghiệm ảnh hưởng
của tỷ lệ nước / xi măng đên sự phát triển mô
đun đàn hồi của bê tông nước biển và nước
ngọt tại khu vực Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà,
các tác giả Trương Hoài Chính, Trường đại
học bách khoa, Cao Thanh Vũ, Văn phòng
UBND tỉnh Khánh Hoà nhận thấy, nước biển
trong khu vực biển Khánh Hòa có thể sử dung
để sản xuất bê tông không cốt thép.
Ở những khu vực biển đảo xa đất liền,
nơi không có nhiều nước ngọt, việc nghiên
cứu sử dung nguồn nước biển thay thê nước
ngọt để sản xuất bê tông nhằm tận dung
nguồn nước sẵn là rất cần thiêt.
Thông qua số liệu kêt quả thí nghiệm
và biểu đồ sự phát triển mô đun đàn hồi của
bê tông trong hai loại cấp phối sử dung nước
ngọt (CP1) và nước biển (CP2), tỷ lệ N/X
(0,45; 0,55; và 0,60), nhóm nghiên cứu nhận
thấy, trong giai đoạn từ ngày thứ 3 đên ngày
thứ 14, mô đun đàn hồi của bê tông mẫu CP2
(nước mặn) luôn phát triển nhanh hơn mẫu
CP1(nước ngọt). Do thành phần muối trong
nước biển có tác động thúc đẩy nhanh sự phát
triển mô đun đàn hồi của bê tông và sau đó
suy giảm nhanh, do các phản ứng hóa học
hình thành các khoáng kém bền gây mềm hóa
bê tông theo thời gian. Cu thể, do các thành
phần hoá học trong nước biển gây ra các phản
ứng hóa học, làm ảnh hưởng xấu đên cấu trúc
bền của bê tông trong giai đoạn phát triển
cường độ về sau. Từ sau ngày thứ 14 đên
ngày thứ 90 (thí nghiệm) thì mô đun đàn hồi
của mẫu CP2 suy giảm rất nhanh.
Ngược lại, mô đun đàn hồi của bê tông
mẫu CP1 luôn phát triển chậm hơn mẫu CP2
trong giai đoạn từ ngày thứ 3 đên ngày thứ
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 03/2019 16/41
14. Tuy nhiên, từ sau ngày thứ 14 đên ngày
thứ 90 thì liên tuc phát triển và không có sự
suy thoái.
Qua những phân tích số liệu thí
nghiệm cho thấy, xu hướng phát triển mô đun
đàn hồi của bê tông sử dung cấp phối CP2 là
rất nhanh trong thời gian đầu (từ 3 đên 14
ngày), nhưng sau đó phát triển chậm dần theo
thời gian so với sự phát triển mô đun đàn hồi
của bê tông sử dung cấp phối CP1. Mô đun
đàn hồi của bê tông sử dung cấp phối CP1
liên tuc phát triển theo thời gian, không có sự
suy thoái và với tỷ lệ N/X = 0,45 thì đạt giá
trị cao nhất E = 29,42x104 daN/cm2.
Trong phạm vi nghiên cứu, với các kêt
quả thí nghiệm, nhóm nghiên cứu cho rằng,
hàm lượng muối chứa trong nước biển ảnh
hưởng đên sự phát triển mô đun đàn hồi của
bê tông. Tỷ lệ N/X ảnh hưởng rất nhiều đên
khả năng phát triển của mô đun đàn hồi trong
từng môi trường nước khác nhau. Trong giai
đoạn ban đầu từ 3-14 ngày tuổi, bê tông sử
dung nước biển có giá trị cường độ chịu nén
và mô đun đàn hồi tăng nhanh so với bê tông
sử dung nước ngọt khi cung tỷ lệ N/X nhưng
có xu hướng giảm nhanh sau 28 ngày tuổi.
Kêt quả nghiên cứu khuyên nghị: nước
biển trong khu vực biển Khánh Hòa có thể sử
dung để sản xuất bê tông không cốt thép. Tuy
nhiên, để có thể duy trì cường độ chịu nén và
mô đun đàn hồi cần có những nghiên cứu tiêp
về giải pháp sử dung xi măng bền sun phát để
cải thiện quá trình đóng rắn ban đầu và cải
thiện cường độ chịu nén cũng như mô đun đàn
hồi của bê tông với các tỷ lệ N/X phu hợp.
Nguồn: N.Hoa,
Khoahocphothong.com.vn, 19/02/2019
Trở về đầu trang
**************
CÔNG NGHỆ SINH HỌC
Đánh giá tiềm năng di truyền về sản lượng sữa của đàn bò có nguồn gốc Holstein Friesian nuôi tại Việt Nam
Trong thời gian qua, các cơ sở chăn
nuôi đã sử dung và du nhập nhiều nguồn
giống từ các khu vực khác nhau (tinh dịch,
phôi động lạnh, bê, bò đực và giống), từ các
châu luc khác nhau (châu Âu, Úc- New
Zealand, châu Mỹ và châu Á). Các khu vực
này có đặc trưng cả về điều kiện khí hậu thời
tiêt, bản chất và cấu trúc di truyền quần thể
trong đàn giống và cả trình độ cũng như các
phương pháp ứng dung chọn giống khác
nhau. Như vậy, sản lượng sữa của bò được
sinh ra từ các nguồn đó được thể hiện như thê
nào tại điều kiện chăm sóc và nuôi dưỡng tại
Việt Nam là một vấn đề cần quan tâm. Hơn
nữa, giá trị di truyền của đàn bò được ứng
dung như thê nào để có hiệu quả, kêt quả của
cả giai đoạn dài áp dung nguồn gen mới,
phương pháp quản lý mới có ảnh hưởng đên
tiềm năng di truyền của toàn quần thể như thê
nào cần phải trả lời rõ. Mặt khác, công tác
quản lý giống trên bò sữa, công tác chọn tạo
và sử dung đực giống, xây dựng đàn hạt
nhân,… trong thời gian qua đã đạt được hiệu
quả đên mức ra sao vẫn chưa có công trình
nghiên cứu nào đề cập và chưa có báo cáo
nào đánh giá một cách khách quan và tin cậy.
Để tiêp tuc giải quyêt những vấn đề
nêu trên và đáp ứng yêu cầu của ngành chăn
nuôi bò sữa tại Việt Nam, nhóm nghiên cứu
tại Viện Chăn nuôi do TS. Phạm Văn Giới
dẫn đầu, đã thực hiện đề tài: “Đánh giá tiềm
năng di truyền về sản lượng sữa của đàn bò
có nguồn gốc Holstein Friesian nuôi tại Việt
Nam” trong thời gian từ năm 2012-2016.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 03/2019 17/41
Nghiên cứu nhằm đánh giá tiềm năng
di truyền về sản lượng sữa thông qua việc ước
tính giá trị giống phuc vu công tác chọn giống
nhằm nâng cao sản lượng sữa của đàn bò có
nguồn gốc Holstein Friesian (HF) nuôi tại
Việt Nam.
Một số kêt quả nghiên cứu:
- Vung nuôi và nguồn gốc giống có
ảnh hưởng rõ rệt đên sản lượng sữa chu kỳ
306 ngày và khoảng cách lứa đẻ của bò sữa
có nguồn gốc HF khác nhau nuôi tại Việt
Nam. Bò nuôi tại Mộc Châu - Sơn La cho sản
lượng sữa cao, bò nuôi tại Lân Đồng vẫn cho
sản lượng sữa còn hạn chê.
- Bò đực giống nguồn gốc châu Âu và
châu Mỹ có tiềm năng di truyền tốt về sản
lượng sữa và khoảng cách lứa đẻ, giá trị
giống về sản lượng sữa chu kỳ 305 ngày cao
hơn các nguồn khác. Bò cái giống chọn lọc và
bò đực giống chọn lọc có tiềm năng di truyền
về sản lượng sữa cao, tiềm năng sinh sản tốt
do rút ngắn được khoảng cách lứa đẻ. Nguồn
tinh dịch từ bò đực HF từ Israel và Hoa Kỳ
thích hợp cho phối giống trên bò HF tại Mộc
Châu; trong khi đó nguồn tinh dịch từ bò đực
HF từ Canada và Hoa Kỳ thể hiện tiềm năng
di truyền tốt và năng suất sữa trên bò HF tại
Lâm Đồng.
- Hệ số di truyền về sản lượng sữa chu
kỳ 305 ngày trên bò HF thuần ở mức có hệ số
di truyền trung bình. Bò HF lai có hệ số di
truyền của sản lượng sữa chu kỳ 305 ngày đạt
mức hệ số di truyền cao. Ước tính trung bình
trên đàn bò HF Việt Nam (HFVN-cả HF
thuần và HF lai), hệ số di truyền về sản lượng
sữa chu kỳ 305 ngày đạt mức hệ số di truyền
có độ lớn trung bình. Như vậy để nâng cao có
hiệu quả năng suất sữa cho đàn bò HFVN cần
áp dung song song cả biện pháp giống và điều
kiện chăm sóc nuôi dưỡng
- Tiềm năng di truyền về sản lượng sữa
trên đàn bò cái của cả HF thuần và HF lai có
chiều hướng tăng lên qua các năm. Các quyêt
định nhập giống bò HF của chính phủ là hoàn
toàn chính xác và đi đúng hướng, đáp ứng
được nhu cầu phát triển bò sữa. Công tác
giống trên bò sữa nguồn gốc HF với tính
trạng này trong thời gian qua đã có hiệu quả
tích cực. Tiềm năng di truyền của khoảng
cách lứa đẻ không thay đổi, chưa thấy hiệu
quả chọn lọc và ảnh hưởng của công tác
giống bò sữa đối với chỉ tiêu này.
- Đàn bò cái giống chọn lọc có nguồn
gốc HF thuần và HF lai có sản lượng sữa cao
và tiềm năng di truyền tốt, phu hợp để xây
dựng đàn giống hạt nhân cho các cơ sở sản
xuất giống bò sữa.
Nguồn: Cesti.gov.vn, 27/02/2019
Trở về đầu trang
**************
Y HỌC
Gel điều trị bong từ nghệ và nha đam
Với mong muốn bào chê các loại
dược phẩm có nguồn gốc tự nhiên, ít tác
dung phu và giá cả hợp lý, Thái Hương Nhi,
học sinh lớp 9/6 trường THCS Phú Bài, thị
xã Hương Thủy, Thừa Thiên Huê đã nghiên
cứu và bào chê thành công gel điều trị bong
từ nghệ và nha đam.
Sản phẩm có được bào chê từ ba
nguyên liệu chính: tinh nghệ được chiêt xuất
từ củ nghệ, gel lá nha đam và tinh dầu dừa có
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 03/2019 18/41
sẵn tại địa phương, có thể bảo vệ và làm nhanh
lành vêt thương bong độ 3 (bong nặng).
Thái Hương Nhi tại Cuộc thi Khoa học Kỹ thuật tỉnh Thừa Thiên Huê năm 2018
Chia sẻ với Tạp chí Khám phá, Thái
Hương Nhi cho biêt, hiện nay trên thị trường
đã có nhiều loại thuốc tây y dung để điều trị
bong nhưng có giá thành cao, trong khi gel
của Nhi được làm từ những nguyên liệu dê
tìm lại dê bào chê nên khá rẻ, chỉ 15.000/1
tuýp 10g.
Nhi cho biêt, các bước bào chê gel
nghệ nha đam khá đơn giản. Củ nghệ chiêt
xuất lấy tinh nghệ, lá nha đam tươi chiêt xuất
gel nha đam và tinh dầu dừa được chiêt xuất
từ cơm dừa. Theo tính toán của Nhi, tỷ lệ tinh
nghệ 30%, gel nha đam 10%, tinh dầu dừa
7%, PE9010 (chất bảo quản thiên nhiên) 1%,
nước cất 50% và carbomer 940 (chất tạo gel)
2% là hiệu quả nhất. Hòa tan tinh nghệ trong
tinh dầu dừa, sau đó hòa tan hỗn hợp này vào
nước cất và lần lượt cho Carbomer 940 vào
dung dịch trên và dung đũa thủy tinh khuấy
đều, để khoảng 30 phút cho trương nở hoàn
toàn. Cuối cung, trộn đều gel nha đam với PE
9010, sau đó cho vào hỗn hợp trên trộn đều
cho đồng nhất và đóng gói các mẫu gel nghệ
nha đam trong chai nhựa dạng xịt dung tích
30ml đậy kín, dán nhãn, bảo quản.
Gel điều trị bong từ nghệ và nha đam
được thí nghiệm trên tho và cho kêt quả tốt.
Theo đó, với tần suất bôi 3 lần/ngày trên tho
bị bong độ 3, sau 12 ngày đã giúp phuc hồi
cấu trúc da của tho.
Khi được hoi về dự định tiêp theo,
Thái Hương Nhi cho biêt, em sẽ tiêp tuc
nghiên cứu và phát triển bào chê thuốc điều
trị các dạng bong khác với các cấp độ bong
khác nhau bong nhiệt lạnh, bong hóa chất,
bong độ 4, bong độ 5..., và giới thiệu rộng rãi
đên mọi người.
Cô giáo Đặng Thị Hương Giang, giáo
viên hướng dẫn Nhi cho biêt, sản phẩm của
Nhi được tạo ra từ củ nghệ tươi, lá nha đam
và tinh dầu dừa, đây là các nguyên liệu có
nguồn gốc thiên nhiên, an toàn, thân thiện với
môi trường, giá thành phu hợp, khả thi trong
việc điều chê thành thuốc trị bệnh đại trà cho
cộng đồng.
Nguồn: Hồ Thành, Khampha.vn,
28/02/2019
Trở về đầu trang
**************
Phẫu thuật thành công ung thư thực quản theo phương pháp mới
Phẫu thuật nội soi đường ngực bung
cắt thực quản, nạo vét hạch 3 vung với ống
cuốn dạ dày qua đường hầm sau xương ức là
phương pháp mới trong điều trị ung thư thực
quản. Thông tin từ Bệnh viện 108 cho biêt,
các bác sỹ khoa phẫu thuật ống tiêu hóa đã
phối hợp cung GS.Kazuhiko Yamada, khoa
phẫu thuật ống tiêu hóa, Trung tâm quốc gia
về y khoa và chăm sóc sức khoe toàn cầu
Nhật Bản phẫu thuật thành công ung thư
thực quản.
Theo Bệnh viện 108, ung thư thực
quản là ung thư phát sinh từ thực quản – đoạn
ống tiêu hóa giữa cổ họng và dạ dày. Bệnh
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 03/2019 19/41
thường xuất hiện các triệu chứng khó nuốt và
giảm cân. Khi thấy những sự thay đổi trong
cơ thể mình, bạn nên chủ động đi kiểm tra
sức khoe.
Ung thư thực quản gồm hai loại chính
là ung thư biểu mô tê bào thực quản (ESCC),
thường gặp ở các nước đang phát triển, còn
ung thư tuyên thực quản (EAC) lại thường
gặp ở các nước phát triển.
Đại tá PGS.TS Nguyên Anh Tuấn, chủ
nhiệm khoa phẫu thuật ống tiêu hóa, Bệnh
viện TWQĐ 108 đã chỉ ra nhiều người đang
“sở hữu” những thói quen có nguy cơ ung thư
thực quản. Vì vậy, bên cạnh việc chú ý những
thay đổi trong cơ thể, mỗi người cần từ bo
những thói quen gây nguy cơ ung thư thực
quản. Đối với ung thư biểu mô tê bào vảy,
nguyên nhân do hút thuốc lá, uống rượu, đồ
uống rất nóng, chê độ ăn uống không đầy đủ
và nhai trầu. Còn đối với ung thư tuyên thực
quản, nguyên nhân phổ biên nhất do hút
thuốc lá, béo phì và hội chứng trào ngược dạ
dày – thực quản.
Hiện nay, ung thư thực quản đã trở
thành mối quan tâm toàn cầu. Tính đên năm
2012, ung thư thực quản là ung thư phổ biên
đứng hàng thứ tám trên toàn cầu với 456.000
trường hợp mới trong năm, có 400.000 người
chêt vì ung thư thực quản trong năm đó, tăng
từ 345.000 người năm 1990. Tỷ lệ nam giới
mắc bệnh cao hơn nữ giới gấp ba lần.
Điều trị ung thư thực quản được thực
hiện dựa trên giai đoạn và vị trí ung thư, cung
với thể trạng chung của từng người, là sự phối
hợp của xạ trị, hóa chất và phẫu thuật. Trong
đó, phẫu thuật đóng vai trò quyêt định.
Bệnh nhân được lựa chọn là bệnh nhân
nam, 59 tuổi, ung thư tê bào vảy ở 1/3 dưới
thực quản ở giai đoạn 2. Sau cuộc phẫu thuật
kéo dài 10 tiêng đồng hồ với kỹ thuật nội soi
ngực - bung cắt thực quản, tạo hình ống cuốn
dạ dày qua đường hầm sau xương ức, nạo vét
hạch 3 vung, bệnh nhân được điều trị hồi sức
tại ICU trong 1 ngày. Bệnh nhân hồi phuc tốt:
tỉnh táo, ăn uống được qua đường miệng, tiêu
hoá lưu thông tốt, giọng nói bình thường,
không nói khàn.
Nguồn: Khoahocphothong.com.vn,
19/02/2019
Trở về đầu trang
**************
Phương pháp xét nghiệm phát hiện nhanh sốt xuất huyêt
Sốt xuất huyêt là một bệnh do các
virus dengue được truyền bởi muỗi Aedes
aegypti, phổ biên nhất ở các vung nhiệt đới và
cận nhiệt đới. Tần suất sốt Dengue ngày càng
tăng trong vòng 50 năm qua, khoảng 50-100
triệu người mắc mỗi năm. Muỗi vằn là vật
trung gian truyền bệnh, đây là loại muỗi sống
ở những nơi bun lầy nước đọng chung quanh
nhà, hoặc các nơi ẩm thấp tối tăm trong nhà.
Theo Bệnh viện nhi đồng thành phố,
có 4 chủng virus dengue là DENV-1, DENV-
2, DENV-3, DENV-4. Cả 4 chủng đều có thể
gây bệnh. Nhiêm một loại virus có khả năng
tạo nên miên dịch suốt đời nhưng chỉ chống
lại chính loại huyêt thanh virus đó mà thôi.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 03/2019 20/41
Chính vì vậy mà những người sống trong
vung lưu hành dịch dengue có thể mắc bệnh
nhiều hơn một lần trong đời.
Bệnh sốt dengue và sốt xuất huyêt
dengue có biểu hiên lâm sàng đa dạng, từ
không triêu chứng đên các thể nặng. Bệnh có
thể khởi phát với các triệu chứng như đau
đầu, khó chịu, mệt moi, đau nhức cơ, chấm
xuất huyêt dưới da… Sốt dengue thể nhẹ có
thể tự giới hạn và các thể nặng của nó như sốt
xuất huyêt dengue và hội chứng sốc dengue
có thể đe dọa tính mạng.
Việc chẩn đoán nhiêm virus sốt xuất
huyêt thường không thể chỉ dựa vào các triệu
chứng lâm sàng bởi vì triệu chứng sốt nhiều khi
không rõ ràng, khó phân biệt với sốt do các
nguyên nhân khác. Do đó, việc chẩn đoán sốt
xuất huyêt dengue thường phải dựa vào các xét
nghiệm kháng thể Dengue IgM và IgG hoặc
Real-time PCR để phát hiện Dengue-RNA.
Tuy nhiên, kháng thể Dengue IgM
thường xuất hiện muộn vào ngày thứ 3-4 và
Dengue IgG thường xuất hiện vào ngày thứ
14 sau khi nhiêm dengue nguyên phát, nên
việc chẩn đoán thường chậm; còn Real-time
PCR để phát hiện dengue RNA sớm nhưng
chỉ có thể thực hiện được ở các phòng xét
nghiệm hiện đại.
Gần đây, kháng nguyên Dengue NS1
được cho là một dấu ấn sinh học mới cho
chẩn đoán sớm nhiêm virus dengue. Kháng
nguyên Dengue NS1 là một glycoprotein,
được tổng hợp ở cả ở dạng màng tê bào và
dạng được bài tiêt, xuất hiện trong huyêt
thanh bệnh nhân nhiêm virus dengue giai
đoạn sớm, có thể phát hiện trước khi hình
thành các kháng thể Dengue IgM và IgG.
Kháng nguyên Dengue NS1 có thể phát hiện
sớm trong máu ở cả bệnh nhân nhiêm Dengue
thể nguyên phát hoặc thứ phát, ngay cả khi
Dengue-RNA còn âm tính và Dengue IgM
còn chưa xuất hiện.
Trường hợp kêt quả NS1 (+) cho thấy
bệnh nhân có tình trạng sốt dengue cấp.
Kháng nguyên NS1 thường được phát hiện từ
ngày 1-2 sau khi nhiêm virus và có thể đên 9
ngày sau khi khởi phát triệu chứng. Kháng
nguyên NS1 có thể được phát hiện trong đợt
nhiêm virus Dengue thứ phát nhưng chỉ phát
hiện được trong thời gian ngắn (từ ngày 1-4
sau khi triệu chứng khởi phát). Tuy nhiên, khi
NS1 (-) âm tính cũng không loại trừ được
bệnh nhân có nhiêm virus Dengue. Xét
nghiệm kháng nguyên Dengue huyêt thanh có
độ nhạy 97,9% và có độ đặc hiệu là 99%.
Hiện nay, tại Bệnh viện nhi đồng thành
phố đã triển khai kỹ thuật phát hiện kháng
nguyên Dengue NS1 giúp phát hiện sớm sốt
xuất huyêt dengue, qua đó góp phần vào viêc
chẩn đoán sớm để điều trị có hiêu quả và
phòng chống kịp thời bênh sốt dengue và sốt
xuất huyêt dengue.
Nguồn: N.Hoa,
khoahocphothong.com.vn, 19/02/2019
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 03/2019 21/41
Phương pháp giãn cơ trong phẫu thuật ổ bung
Nhóm tác giả Ngô Thị Huê và Nguyên
Hữu Tú (Khoa Gây mê hồi sức và chống đau
– Bệnh viện Đại học Y Hà Nội) đã tiên hành
nghiên cứu sử dung phương pháp giãn cơ
trong phẫu thuật ổ bung để đánh giá ảnh
hưởng trên áp lực ổ bung và một số chỉ số hô
hấp, huyêt động của giãn cơ,…nhằm cải thiện
điều kiện phẫu thuật.
Ngày nay, phẫu thuật nội soi ngày
càng phát triển vì có nhiều ưu điểm như: hồi
phuc nhanh hơn, giảm đau sau phẫu thuật,
giảm thời gian nằm viện, thẩm mỹ hơn và
bệnh nhân hài lòng hơn. Phẫu thuật nội soi
liên quan đên việc bơm hơi vào trong khoang
phúc mạc, làm tăng áp lực trong ổ bung cung
với sự hấp thu CO2 dẫn đên những biên động
về tuần hoàn, hô hấp và tưới máu tại chỗ.
Ngược lại, áp lực ổ bung thấp lại ảnh hưởng
đáng kể đên phẫu thuật viên. Nhiều nghiên
cứu trong vài năm gần đầy đã xác định
phương pháp giãn cơ sâu có tính ưu việt trong
việc duy trì áp lực bơm hơi thấp mà vẫn đảm
bảo điều kiện phẫu thuật tốt.
Kêt quả nghiên cứu cho thấy, giảm cơ
sâu giúp thực hiện phẫu thuật ở mức áp lực
bơm hơi ổ bung thấp (9,3 mmHg) mà vẫn tối
ưu hóa được phẫu trường (p<0,05). Điểm đau
sau mổ và tỷ lệ đau vai sau mổ cũng thấp hơn,
thời gian hồi phuc đường tiêu hóa là 40 giờ so
với 64 giờ tương ứng. Sau khi sử dung thuốc
giải giãn cơ – sugammadex, không thấy có sự
tái giãn cơ trong thời gian 1 giờ sau mổ, cũng
không có bệnh nhân nào bị nôn hay buồn nôn.
Có thể thấy, giãn cơ sâu, ngoài việc cải thiện
điều kiện phẫu thuật, không ảnh hưởng đên
các chỉ số hô hấp, huyêt áp, đau sau mổ mà
còn giúp phẫu thuật viên hài lòng hơn.
Nguồn: Cesti.gov.vn, 20/02/2019
Trở về đầu trang
**************
Tìm ra chất chống tiểu đường trong gạo trắng
Công thức hóa học của hai hợp chất.
Công trình nghiên cứu do PGS. Trần
Đăng Xuân đang công tác tại Đại học
Hiroshima (Nhật Bản) đứng đầu đã phát hiện
và phân lập thành công 2 hợp chất quý
Momilactones A và B có hoạt tính ức chê các
enzyme trong gạo trắng. Công bố của nhóm
nghiên cứu người Việt Nam do PGS Trần
Đăng Xuân vừa được tạp chí chuyên ngành
Phân tử của MDPI tại Thuy Sĩ đăng tải ngày
29/1/2019.
Công bố này vừa được tạp chí chuyên
ngành Phân tử của MDPI tại Thuy Sĩ đăng tải
ngày 29/1/2019.
Đây là nghiên cứu đầu tiên xác nhận
sự hiện diện của 2 hợp chất Momilactones A
và B (MA và MB) trong hạt gạo tinh chê,
đồng thời là công trình đầu tiên tìm thấy hợp
chất chống tiểu đường trong gạo trắng. Một
số nghiên cứu trước đây từng tìm được hợp
chất ức chê tiểu đường nhưng chỉ trên gạo
màu nâu hoặc đo, thường có phẩm chất kém
và khó tiêu thu.
Nhóm nghiên cứu đã tìm ra cơ chê
hoạt động ức chê α-amylase và α-glucosidase
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 03/2019 22/41
của hai hợp chất và kiểm tra hoạt tính chống
tiểu đường, béo phì và bệnh gút, dựa trên các
thí nghiệm "in vitro" về ức chê hoạt động của
các enzyme chính có trong các bệnh này. Cả
hai hợp chất đều có hoạt tính vượt trội so với
chất ức chê chuẩn đang sử dung trong điều trị
bệnh tiểu đường hiện nay.
Các nhà khoa học của Đại học
Hiroshima tiêp tuc kiểm tra tính chống bệnh
của hợp chất trên cơ thể chuột và các thí
nghiệm y sinh, lâm sàng khác trước khi ứng
dung trên cơ thể người.
Hợp chất MA và MB rất hiêm trên thị
trường thê giới và chưa được nghiên cứu đầy
đủ về hoạt tính sinh học, dược lý. Hợp chất
này từng được trang điện tử Carbosynth.com,
một công ty chuyên bán các sản phẩm hóa
sinh nổi tiêng của Anh bán với giá 125 USD
cho 0,1 mg.
PGS. Trần Đăng Xuân cho biêt có 4
gene liên quan đên việc tổng hợp
Momilactones A và B trong lúa đã được xác
nhận. Điều này sẽ giúp ích cho việc tạo ra các
giống lúa mới có khả năng ức chê tiểu đường,
giúp làm tăng giá trị của lúa gạo Việt Nam.
Phát kiên về Momilactones A và B đưa
ra quan niệm mới rằng, ăn một lượng gạo vừa
phải hằng ngày góp phần tăng cường sức
khoe con người thông qua giảm bớt nguy cơ
tiểu đường, bệnh gút và béo phì. Một số công
bố gần đây cho biêt tại Việt Nam có hơn 3
triệu người đang mắc hoặc đối mặt với nguy
cơ bệnh tiểu đường nên kêt quả nghiên cứu
này đặc biệt có ý nghĩa.
Chỉ sau một tháng thẩm định và phản
biện, công trình được công bố trên tạp chí
chuyên ngành quốc tê của MDPI (tạp chí có
chỉ số ảnh hưởng xêp hạng số 1 - Q1 - đánh
giá của Scimagolab.com). MDPI là thành
viên của Ủy ban Đạo đức Xuất bản (COPE),
được giới nghiên cứu đánh giá là có chính
sách nghiêm ngặt để bảo đảm các công trình
khoa học được công bố có chất lượng cao.
Nguồn: Vista.gov.vn, 01/02/2019
Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu cao chiêt tiềm năng lá Sa kê định hướng điều trị bệnh gout
Đề tài do tác giả Nguyên Hoàng Minh
và cộng sự (Trung tâm Phát triển Khoa học và
Công nghệ Trẻ) thực hiện nhằm chọn dung
môi chiêt xuất dược liệu lá Sa kê (Artocarpus
altilis) để thu cao đặc có hoạt tính chống oxy
hóa tốt nhất: ức chê xanthin oxidase, dập tắt
gốc tự do 1,1 – diphenyl – 2 – picrylhydrazyl
(DPPH) và ức chê quá trình peroxy hóa lipid
tê bào; chọn được cao phân đoạn từ cao chiêt
tiềm năng thể hiện hoạt tính chống oxy hóa tốt
nhất; đánh giá tác dung hạ acid uric máu của
cao phân đoạn (có hoạt tính cao nhất) từ cao
chiêt tiềm năng.
Theo đó, đề tài đã chiêt xuất được cao
chiêt nước, cao chiêt cồn 45% từ lá sa kê đạt
tiêu chuẩn Dược điển Việt Nam IV, quy định
làm khô cao đặc (<20%). Từ các kêt quả thử
nghiệm in vitro và ex vivo hoạt tính chống oxy
hóa, nhóm nghiên cứu đã xác định được cao
chiêt cồn 45% từ lá sa kê là cao tiềm năng có
hoạt tính ức chê xanthin oxidase với IC50 =
39,50 μg/ml; dập tắt gốc tự do DPPH với IC50
= 106,41 μg/ml; ức chê peroxy hóa lipid tê bào
với IC50 = 83,78 μg/ml, tối ưu nhất (mạnh
hơn cao chiêt nước).
Đề tài tiên hành sàng lọc cao phân đoạn
tối ưu chiêt từ cao cồn 45% từ lá sa kê có hoạt
tính chống oxy hóa tốt nhất. Kêt quả cho thấy
cao phân đoạn ethyl acetat từ lá sa kê có hoạt
tính ức chê xanthin oxidase với IC50 = 28,64
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 03/2019 23/41
μg/ml; dập tắt gốc tự do DPPH với IC50 =
15,27 μg/ml; ức chê peroxy hóa lipid tê bào
với IC50 =2,74 μg/ml, tốt hơn so với các cao
phân đoạn diethyl ether, chloroform, n-butanol
và cao phân đoạn nước.
Thực nghiệm khảo sát tác dung hạ acid
uric máu của cao phân đoạn ethyl acetat từ lá
sa kê trên mô hình gây tăng acid uric cấp bằng
kali oxonat (liều 300 mg/kg) ở chuột nhắt
trắng. Kêt quả cho thấy ở cả 2 phác đồ điều trị
hay dự phòng, cao phân đoạn ethyl acetat từ lá
sa kê ở các liều tương đương 2,5-5 g dược
liệu/kg đều thể hiện tác dung làm giảm acid
uric máu đạt ý nghĩa thống kê so với lô bệnh
lý và phuc hồi trở về mức bình thường, tương
tự như tác dung của thuốc đối chiêu
allopurinol liều 10 mg/kg.
Nguồn: Cesti.gov.vn, 19/02/2019
Trở về đầu trang
**************
Cartilatist: Bước đột phá của ngành tê bào gốc Việt Nam
Lộ trình nghiên cứu và phát triển sản phẩm Cartilatist.
Cartilatist - sản phẩm dạng thuốc từ
tê bào gốc đầu tiên ở Việt Nam là kêt quả
sau gần 10 năm nghiên cứu và phát triển của
Viện Tê bào gốc, trường ĐH Khoa học Tự
nhiên, ĐHQG TP. HCM đã đánh dấu một
bước đột phá của ngành công nghệ tê bào
gốc của Việt Nam.
Cartilatist là sản phẩm tê bào gốc thu
từ mô mỡ người, sử dung để điều trị thoái hóa
khớp gối và thoái hóa cột sống. Mỗi liều điều
trị được đựng trong một ống thủy tinh nho
chứa 5-10 triệu tê bào gốc và được bảo quản
trong nhiệt độ từ -40 đên -860C. Tê bào gốc
từ mô mỡ được thu nhập, phân lập và tăng
sinh theo một quy trình đặc biệt để chọn lựa
những tê bào gốc có đặc tính phu hợp nhất.
Quy trình tăng sinh là hoàn toàn tự động
trong các bioreactor lớn với sự kiểm soát
nghiêm ngặt các điều kiện sản xuất và đảm
bảo chất lượng để mang lại tính an toàn và
hiệu quả sử dung cao.
Bệnh nhân thoái hóa khớp gối hay cột
sống ở cấp độ thích hợp sẽ được chỉ định sử
dung Cartilatist để điều trị.
Năm 2007, PTN nghiên cứu phân lập
tê bào gốc từ mô mỡ; năm 2009, nghiên cứu
phát triển kit tách chiêt tê bào gốc từ mô mỡ
người sử dung collagenase; năm 2012, hợp
tác với Công ty TNHH Thê giới gene
(Geneword Ltd) sản xuất và thương mại thê
hệ thứ nhất của kit ADSC Extraction Kit và
kit PRP New ProKit.
Năm 2013, hai kit nói trên được sử
dung để tách hỗn hợp phân đoạn nền tạo
mạch (SVF) và PRP sử dung trong điều trị
thoái hóa khớp tại Bệnh viện Đại học Y dược
TP.HCM. Cũng trong năm này, nghiên cứu
tăng sinh ex vivo tê bào gốc trung mô mô mỡ
sử dung môi trường không bổ sung huyêt
thanh bò. Một năm sau, nghiên cứu thử
nghiệm lâm sàng đa trung tâm sử dung SVF
và PRP trong điều trị thoái hóa khớp tại Bệnh
viện Đa khoa Vạn Hạnh và Bệnh viện 115 với
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 03/2019 24/41
kêt quả khả quan. Đây cũng là năm phát triển
thành công quy trình nuôi cấy tê bào gốc
trung mô mô mỡ theo hướng dẫn GMP.
Năm 2015, PTN đánh giá và so sánh
tính điều biên miên dịch của tê bào gốc trung
mô mô mỡ, mô dây rốn và tủy xương. Năm
2016, PTN công bố hiệu quả điều trị thoái
hóa khớp bằng SVF và PRP cho thấy hiệu
quả điều trị khả quan. Cũng trong năm này,
PTN đã phát triển thành công thê hệ 2 của kit
tách chiêt tê bào gốc từ mô mỡ (tên là Cell
extraction kit) và kit tách huyêt tương giàu
tiểu cầu 5PRP.
Hai năm sau, Viện công bố tính lão
hóa của tê bào gốc mô mỡ khi nuôi cấy thời
gian dài và công nghệ Cartilatist hoàn thiện ở
mức sản xuất quy mô thử nghiệm (pilot) được
chuyển giao cho Công ty TNHH Bệnh viện
Đa khoa Vạn Hạnh để tiêp tuc hoàn thiện và
sản xuất thương mại từ tháng 7/2018 tại Việt
Nam và các quốc gia ASEAN.
Hiện nay, Viện Tê bào gốc xem xét
việc chuyển giao công nghệ Cartilatist cho
đối tác thứ hai tại châu Âu để khai thác thị
trường châu Âu và Mỹ.
Nguồn: Phạm Trần,
Khoahocphattrien.vn, 16/02/2019
Trở về đầu trang
**************
NÔNG NGHIỆP
Máy trồng hành tím chạy bằng năng lượng mặt trời
Máy trồng hành tím chạy bằng năng lượng mặt trời
Nhóm tác giả Nguyên Tâm, Nguyên
Quốc Tiên, Phan Thanh Hưng, sinh viên
khoa Kỹ thuật công nghệ, trường đại học
Phạm Văn Đồng đã thành công trong việc
nghiên cứu, chê tạo ra máy trồng hành tím có
chức năng giúp cho người nông dân tiêt kiệm
được thời gian, giảm chi phí, đem lại lợi ích
kinh tê cao, đẩy mạnh sự phát triển kinh tê
địa phương.
Chọn vung canh tác Bình Châu - Bình
Sơn, Quảng Ngãi để thực hiện đề tài vì xuất
phát từ thực tê đã cho thấy, việc trồng hành
tím tại Quảng Ngãi nói riêng và những nơi
khác nói chung thường thực hiện bằng thủ
công. Vì thê nhóm đã tính toán kêt cấu máy
phu hợp với loại hành gieo trồng tại địa
phương, sử dung nguồn năng lượng mặt trời
có thể hoạt động tốt, đem lại năng suất gấp
nhiều lần so với trồng thủ công.
Đại diện nhóm tác giả, bạn Phan
Thanh Hưng cho biêt, hạn chê của máy trồng
hành tím điện là bộ nguồn cung cấp cho máy
không đủ lâu để đáp ứng nhu cầu làm việc lâu
dài. Vì vậy, việc nghiên cứu và vận dung
nguồn năng lượng mặt trời cung cấp cho máy
để có thể hoạt động làm việc lâu hơn và thuận
lợi hơn với giá thành phu hợp là muc tiêu mà
nhóm đã hướng tới.
Theo đó, sản phẩm gồm một khung xe
bao gồm các thanh hình chữ nhật được gắn
với nhau bởi những mối hàn axetilen, hồ
quang điện, là phần chịu lực chính của xe
cũng là chi tiêt trung tâm liên kêt các bộ phận
khác của máy.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 03/2019 25/41
Hệ thống có thể di chuyển nhờ công cu
lái đã được tích hợp trên xe. Các thanh xới
đất và dập đất có thể điều chỉnh sao cho phu
hợp với địa hình. Bên cạnh đó có thể điều
chỉnh tốc độ đối với từng khu vực hoạt động
dựa trên rơle điều chỉnh trên thân xe.
Dưới đây là thông số kỹ thuật của xe:
70 - 65 - 110cm (rộng - cao - dài), xe có trọng
lượng là 50kg, gầm xe (tính từ mặt đất lên bộ
phận băng tải) là 20 cm.
Nguyên lý hoạt động tóm tắt như sau:
bộ phận rơi hành gồm 4 hộp ống dẫn hành
đưa xuống rãnh đã được xẻ phía trước ống
dẫn. Khi lồng quay, 4 chiêc muỗng của nó sẽ
múc hành và sau đó, sẽ đưa hành vào phêu, từ
đó hành sẽ được dẫn từ phêu xuống rãnh
thông qua ống dẫn. Đồng thời, động cơ xe sau
cũng hoạt động di chuyển để thực hiện công
đoạn trồng.
Bộ phận xới đất và dập đất: với kêt cấu
xới đất hình chữ V được làm bằng vật liệu
thép dày nên đảm bảo được độ cứng, cũng
như độ bền của lưỡi xới. Tiêp đên là lưỡi dập
cũng thiêt kê theo nguyên tắc chữ V nhưng
nằm hướng xuống dưới tạo nên một đường đi
lấp lại những gì lưỡi xới đã làm. Đây là quy
luật bu trừ để chúng hỗ trợ cho nhau.
Xe di chuyển với vận tốc trung bình là
0.9km/h và có thể điều chỉnh tốc độ bằng rơle
nêu như điều kiện cho phép. Tương tự, vận
tốc lồng múc hành là 52 vòng/phút và cũng
có thể điều chỉnh tốc độ trên rơle đã tích hợp
sẵn trên nó.
Nhằm có thể thuận tiện cho việc di
chuyển của xe, tránh cồng kềnh, tạo sự thoải
mái cho người điều khiển xe và thuận tiện
cho việc sạc pin thì nhóm thiêt kê tấm pin
năng lượng mặt trời ngay phía trên của xe.
Kêt quả chạy thử nghiệm cho thấy vận
tốc xe đạt tốc độ trung bình là 0.6km/h, vận
tốc lồng quay múc hành là 52 vòng/phút.
Thời gian sạc đầy pin từ năng lượng mặt trời
là từ 6 - 8 giờ, xe có thể chứa tới khoảng 7 =>
8kg hành giống.
Qua kêt quả chạy thử tại vung canh tác
Bình Châu - Bình Sơn, Quảng Ngãi đã cho
năng suất 1ha/h.
Đề tài đã đoạt giải khuyên khích tại giải
thưởng Sinh viên nghiên cứu khoa học Euréka
2018 do Thành Đoàn TP.HCM tổ chức.
Nguồn: Mai Thy,
khoahocphothong.com.vn, 15/02/2019
Trở về đầu trang
**************
Máy gieo hạt tự động
Chiêc máy gieo hạt giúp tăng năng suất lao động của người dân
Chiêc máy gieo hạt tự động do nhóm
sinh viên: Nguyên Văn Bảo, Trần Văn Tiên,
Đỗ Thành Nghĩa và Hà Dữ Trình, khoa Cơ khí
- Trường Cao đăng Công nghiệp Huê chê tạo.
Nhằm nâng cao năng suất lao
động nâng cao chất lượng và giảm giá thành
sản phẩm, nhóm đã tiên hành nghiên cứu
nghiên cứu, mày mò và chê tạo ra chiêc máy
gieo lạc này trong 4 tháng, Bảo chia sẻ.
Chiêc máy gồm 3 bộ phận chính, gồm:
phần động cơ dẫn động, cơ cấu cấp phôi theo
hàng và dãy, cơ cấu tạo rãnh và lấp đất. Trong
đó, cơ cấu cấp phôi được thiêt kê phu hợp với
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 03/2019 26/41
nhiều loại ngũ cốc khác như đậu xanh, cây
ném… Cơ cấu tạo rãnh và lấp đất làm thay thê
cho người nông dân các khâu xới đất, thả hạt
và lấp đất lại theo hàng đã được rạch trước đó.
Chiêc máy cho năng suất 30kg/ngày.
Văn Bảo chia sẻ, sau khi chê tạo xong,
nhóm tiên hành thử nghiệm và mang lại kêt
quả khả thi. Máy có năng suất thực tiên cao, sử
dung được nhiều loại hạt, kích thước khác
nhau với mật độ trồng đều và tỷ lệ sót rất thấp.
Máy dê lắp ráp và sửa chữa.
Khi dung chiêc máy này, hạt từ thung
chứa sẽ tiêp xúc với một bánh dẫn hạt. Trên
bánh dẫn có 8 răng được khoét 8 lỗ nghiêng.
Các lỗ này có kích thước chỉ vừa để một hạt
rơi vào.
Bánh dẫn hạt sẽ quay nhờ vào chuyển
động từ động cơ truyền đên thông qua bộ
truyền xích. Bánh xích quay, truc gắn các bánh
dẫn quay, kéo bánh dẫn hạt quay theo. Lần
lượt từng hạt sẽ rơi vào các lỗ được định sẵn.
Mỗi lần bánh dẫn thả hạt, cơ cấu sẽ gieo được
6 hạt, mỗi hạt cách nhau 20 - 25cm.
Thầy Nguyên Văn Anh - Giáo viên
hướng dẫn (Trưởng khoa Cơ khí) cho hay,
“Các em đã tự tin vận dụng được kiến thức đã
học trong nhà trường để mạnh dạn xử lý các
vấn đề kỹ thuật. Người dân trồng bằng tay, còn
máy trồng hoàn toàn tự động, năng suất cao
hơn và có thể trồng được nhiều loại ngũ cốc…”
Nguồn: Nhật Tuấn, Khampha.vn,
20/02/2019
Trở về đầu trang
**************
Hệ thống máy gieo trồng và thu hoạch đậu phộng (lạc)
Với muc tiêu ứng dung cơ giới hóa vào
nông nghiệp, từ sự hỗ trợ của Sở KHCN
TP.HCM, Phân viện Cơ điện nông nghiệp và
Công nghệ sau thu hoạch (thuộc Viện Cơ
điện nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch
- Bộ NN-PTNN) đã tiên hành nghiên cứu, chê
tạo thành công hệ thống máy gieo trồng và
thu hoạch đậu phộng (lạc) phuc vu quy trình
canh tác phổ biên tại các tỉnh thành khu vực
phía Nam.
Hệ thống máy gieo trồng và thu hoạch
đậu phộng bao gồm 3 mẫu máy là máy gieo
khí tự động 5 hàng MGL-5, máy đào giũ
MĐGL-1,2, máy bứt trái MBL-300.
Về mặt kỹ thuật, máy gieo MGL-5 làm
việc trên đất đã được làm đất kỹ, đảm bảo tơi,
xốp, sạch co và trong thời gian không mưa.
Khác các máy gieo thông thường, máy có
thêm bộ phận lên liêp và san phăng để tạo
rãnh tưới tiêu. Lúc vận hành, cần 1 người lái
máy kéo và có thể 1 người phu (quan sát, điều
chỉnh, bổ sung hạt giống...).
Khi máy di chuyển, bộ phận rạch hàng
loại đĩa sẽ lăn theo cắt đất, tàn dư thực vật và
gạt/ép đất sang bên cạnh để tạo thành rãnh.
Nhóm nghiên cứu chọn loại đĩa kép dạng
phăng tạo một nêm 8-12 chỉ ép đất sang 2 bên
và cho phép lắp thêm bộ phận hạn chê độ sâu
rạch hàng. Tuy phức tạp hơn các loại bộ phận
rạch hàng cố định nhưng bộ phận này có thể
làm việc trên đất dính, âm, còn lẫn co, rác, đất
chuẩn bị không kỹ, bởi nêu dung loại đĩa
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 03/2019 27/41
cong dạng chảo sẽ đưa lớp đất ẩm ở dưới lên,
không có lợi, nhất là ở nơi đất khô hạn.
Máy được liên hợp với máy kéo 4
bánh có công suất 30-50 HP, có truc thu công
suất 1 tốc độ tiêu chuẩn (540 vòng/phút) nêu
gieo giống hạt nho và 2 tốc độ (thông thường
540 và 1000 vòng/phút) khi gieo hạt lớn, có
hệ thống nâng hạ thủy lực tốt (nâng tối thiểu
500 kg). Bộ phận gieo hạt của máy kê thừa bộ
phận gieo khí động (chân không) của loại
máy gieo SPC-6 (xuất xứ Rumani), có khả
năng làm việc ổn định, nho gọn, công nghệ
chê tạo đúc gang không phức tạp và hoàn
toàn có thể sản xuất ở ngay trong nước.
Do máy có thể thay đổi số hàng và
khoảng cách hàng, nên kêt cấu các khung
nhánh độc lập để khi cần gieo bao nhiêu hàng
thì bấy nhiêu nhánh được lắp và khoảng cách
giữa các nhánh có thể mở rộng hoặc thu hẹp.
Mỗi khung nhánh liên kêt các bộ phận độc
lập: rạch hàng, gieo, lấp hạt - nén đất. Để đảm
bảo độ sâu gieo khi liên hợp máy làm việc
trên mặt đồng không bằng phăng, các khung
nhánh độc lập được liên kêt với khung chính
bằng bộ phận chép hình cơ cấu hình bình
hành. Bởi thê, máy hoạt động ổn định, không
gây tổn thương hạt gieo và có thể gieo tốt
nhiều loại hạt khác như ngô, đậu tương, lúa...
Trong khi đó, máy đào giũ MĐGL-1,2
có khả năng thu hoạch đậu phộng đã đạt chỉ số
thu hoạch trên nền đất khô, ruộng ít co dại.
Máy được treo sau máy kéo 4 bánh, công suất
30-45 HP. Lúc vận hành máy chỉ cần 1 người
lái máy kéo. Khi hoạt động, lưỡi đào sâu 10-
12cm, cắt ngang phần rê cọc của cây đậu
phộng, nâng toàn bộ lớp đất chức trái trượt lên
hàng răng tách đất và được các răng băng giũ
nâng lên, giũ sạch đất và đưa về phía sau, rơi
vào cơ cấu gom và được rải trên mặt đồng.
Với độ sâu đủ để không sót quả trong
đất, không phạm vào trái nên không gây vỡ,
xích giũ tốt nên hầu như không còn đất lẫn
vào cây sau khi đào giũ.
Còn về máy bứt trái MBL-300, thì đây
là loại máy đập tách trái đậu phộng sau khi
cây đã được đào hoặc nhổ khoi đất. Máy làm
việc ngoài đồng khi thời tiêt khô ráo, song
vẫn có thể làm việc khi trời mưa nêu có mái
che. Tuy có khả năng bứt trái đậu phộng cả
tươi lẫn khô với độ ẩm từ 30-70%, nhưng
máy sẽ đạt năng suất cao hơn đối với quả đậu
phộng đã được phơi ngoài đồng 2-4 ngày sau
khi đào hoặc nhổ (để giảm bớt ẩm độ, trái trở
nên cứng hơn, đất bám trên trái dê bong tróc).
Theo ước tính, việc trang bị máy bứt
trái MBL-300 có thời gian thu hồi vốn chỉ sau
1 năm, hiệu quả vốn đầu tư khoảng 4,5 lần,
giảm chi phí so phương pháp thủ công
45,26%. Máy gieo khí tự động 5 hàng MGL-5
có thời gian thu hồi vốn lâu hơn - khoảng 1,6
năm, hiệu quả vốn đầu tư khoảng 1,3 lần,
giảm chi phí so phương pháp thủ công 34,4%.
Riêng máy đào giũ ĐGL-1,2 cần thêm thời
gian để khắc phuc hiện tượng un ứ cây đậu
phộng đã đào ngay trên lưỡi đào.
Vì lý do này, nhóm nghiên cứu cũng đề
xuất Sở KHCN TP.HCM triển khai xây dựng
mô hình ứng dung khoảng 5 ha với 3-4 loại
giống khác nhau tại Củ Chi hoặc Long An
nhằm so sánh hiệu quả trồng các loại giống
khác nhau, làm cơ sở thay đổi tập quán gieo
trồng đậu phộng và hoàn thiện hệ thống máy
gieo trồng và thu hoạch đậu phộng nói trên.
Nguồn: Vista.gov.vn, 12/02/2019
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 03/2019 28/41
Hệ thống chăm sóc vườn cây chôm chôm bán tự động
Nhóm tác giả.
Nhóm tác giả: Mai Minh Mẫn, Đỗ
Quốc Duy, Huỳnh Hội Thành Lợi – (ảnh),
sinh viên khoa Điện - Điện tử, trường đại học
Tôn Đức Thắng (TP.HCM), dưới sự hướng
dẫn của TS. Trần Anh Khoa đã từng bước
thành công trong việc thiêt kê hệ thống chăm
sóc vườn cây chôm chôm bán tự động.
Hệ thống giúp tiêt kiệm điện và nước
hơn so với phương pháp tưới thủ công
truyền thống; giúp giảm chi phí đi lại và
công chăm sóc cho người nông dân. Ngoài
ra, việc tưới tiêu đều đặn và kiểm soát chính
xác lượng nước cho cây trồng còn giúp cây
cho năng suất trái cao hơn, ít bị rung trái
hơn so với phương pháp tưới thủ công. Một
ưu điểm khác là hệ thống có giá thành thấp
hơn so với các sản phẩm cung loại đang bán
trên thị trường.
Xuất phát từ thực tê, tại tỉnh Bên Tre
hiện nay (tỉnh nhóm chọn để thực hiện đề tài)
có 5.570 ha đất nông nghiệp trồng cây chôm
chôm tập trung chủ yêu ở 2 huyện Chợ Lách
và Châu Thành. Với diện tích 3.300 ha, chôm
chôm là loại cây ăn trái chủ lực của huyện
Chợ Lách nhưng quy mô trồng cây chôm
chôm của các hộ nông dân ở khu vực huyện
Chợ Lách chủ yêu với diện tích vườn vừa và
nho, vườn cây trồng lại cách xa vị trí nhà dân
nên sẽ mất nhiều thời gian và công sức để có
thể vào đên tận vườn để chăm sóc cây trồng.
Nhận thấy việc tưới tiêu là một công
việc lặp đi lặp lại hằng ngày trong nhiều
tháng liền. Từ đây, nhóm đã thiêt kê hệ thống
có thể áp dung các biện pháp tự động nhằm
tối ưu được quy trình chăm sóc, giúp tiêt
kiệm thời gian cũng như giảm được các chi
phí không cần thiêt. Thời gian qua, hệ thống
đã được lắp đặt thực tiên trên diện tích
1.000m2 với 2 trạm thu thập dữ liệu và trạm
điều khiển.
Trưởng nhóm Mai Minh Mẫn cho biêt,
trạm thu thập dữ liệu được đặt ở giữa vườn
tích hợp các cảm biên độ ẩm đất, nhiệt độ, độ
ẩm, mưa và truyền dữ liệu thu thập được về
trạm điều khiển thông qua sóng vô tuyên.
Tông quan hệ thống.
Trạm điều khiển nhận dữ liệu từ trạm
thu thập dữ liệu kêt hợp mới một số cảm biên
tích hợp như: cảm biên nhiệt độ máy bơm,
cảm biên mực nước … để từ đó đưa ra lệnh
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 03/2019 29/41
điều khiển phu hợp dựa vào các điều kiện mà
người sử dung thiêt lập trước thông qua App.
Theo đó, hệ thống hoạt động ở 3 chê
độ: chê độ tự động giúp người dung có thể
thiêt lập các thông số như: ngưỡng độ ẩm đất,
thời gian bắt đầu và kêt thúc. Kêt hợp với các
thông số cảm biên trả về mà hệ thống có thể
điều khiển máy bơm cho phu hợp.
Chê độ điều khiển thủ công thông qua
App cho phép người dung có thể bật/tắt máy
bơm ở bất cứ nơi đâu một cách thuận tiện và
dê dàng.
Chê độ điều khiển trực tiêp tại vườn:
người sử dung có thể bật máy bơm bằng thẻ
từ hoặc thông qua bàn phím số. Bằng 2 thao
tác này, người lạ sẽ không thể nào điều khiển
được thiêt bị đặt tại vườn với muc đích khác.
Máy bơm cũng sẽ được tắt bằng một nút nhấn
đặt trên tủ điện.
So với những hệ thống có sẵn trên thị
trường, tính mới của hệ thống là đã tích hợp
việc điều khiển máy bơm từ xa thông qua
Internet; thiêt lập an toàn cho việc điều khiển
máy bơm tại vườn bằng cách sử dung khóa
bằng bàn phím số và công nghệ bảo mật bằng
thẻ từ (RFID); điều khiển máy bơm được thực
hiện tự động một cách hiệu quả dựa vào các
thông số cảm biên liên quan và các thông số
thiêt lập do người dung đặt trước; tính năng
ngắt tự động và an toàn khi xảy ra sự cố trong
quá trình vận hành; các cảnh báo và thông
báo tình trạng của hệ thống được gửi về điện
thoại của người sử dung.
Do đối tượng nhắm đên là nông dân
nên hệ thống được thiêt kê với giao diện App
trực quan khá đơn giản, gần gũi, dê điều
khiển. Hệ thống đã được đưa vào hoạt động
từ tháng 6 năm 2018 tại vườn chôm chôm của
nông dân Mai Văn Tiêp, xã Vĩnh Bình, huyện
Chợ Lách, tỉnh Bên Tre và đã chính thức
được chuyển giao vào cuối tháng 11/2018
vừa qua.
Về hướng phát triển trong thời gian
tới, Minh Mẫn cho biêt, đề tài đang được
nhóm nghiên cứu và phát triển rộng hơn để có
thể tạo ra mô hình quản lý nhiều vườn trên
cung một App và tận dung Wifi tại nhà thay
vì phải lắp đặt riêng Wifi cho từng vườn
nhằm giúp tiêt kiệm chi phí lắp đặt và
Internet hằng tháng.
Ngoài ra, hệ thống còn có thể thay đổi
các cảm biên và phương pháp điều khiển phu
hợp để áp dung ở nhiều địa phương với điều
kiện môi trường, địa hình, thổ nhưỡng khác
nhau. Để phát triển hệ thống lớn hơn nhằm
đáp ứng cho các vườn với quy mô lớn, thì hệ
thống cần lắp đặt thêm nhiều trạm thu thập dữ
liệu cảm biên ở nhiều vị trí khác nhau để có
độ chính xác cao. Nhóm cũng hướng đên khả
năng hệ thống sau khi phát triển có thể áp
dung được cho các vườn ở vung sâu, vung xa
không có kêt nối Internet cũng có thể sử dung
App chăm sóc vườn.
Đây là đề tài đã đoạt huy chương bạc
giải thưởng Thiêt kê, chê tạo, ứng dung năm
2018 do Thành Đoàn TP.HCM tổ chức.
Nguồn: Tuyết Mai,
Khoahocphothong.com.vn, 15/02/2019
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 03/2019 30/41
Hệ thống lạnh nhanh cá ngừ đại dương trên tàu cá xa bờ
Việc nghiên cứu về bảo quản cá ngừ
đại dương trên tàu cá được nhiều tác giả, nhà
khoa học quan tâm và được đề cập trong các
đề tài: Nghiên cứu áp dung công nghệ bảo
quản cá ngừ đại dương vào thực tê đánh bắt
trên tàu miền Trung (Lê Vịnh 2000); Bảo
quản cá ngừ đại dương nguyên liệu trong môi
trường nước biển lạnh (Nguyên Thị Trúc
Đào, 2003); Tác giả (Nguyên long, 2007) đưa
ra quy trình bảo quản cá ngừ trên tàu câu của
ngư dân gồm các công đoạn: Làm choáng,
giêt chêt, xả máu, nội tạng, ngâm hạ nhiệt,
bảo quản.
Các nghiên cứu đều đưa ra quy trình
sơ chê bảo quản có công đoạn ngâm hạ nhiệt
cá phu hợp với điều kiện tàu cá ở 03 tỉnh
Bình Định, Phú Yên và Khánh Hòa. Tuy
nhiên, công đoạn ngâm hạ nhiệt tiêu tốn rất
nhiều đá xay, trong khi đó giá sản phẩm
không tăng, ảnh hưởng đên thời gian, lợi
nhuận chuyên biển của Ngư dân nên công
đoạn này bị bo qua.
Vì thê, nhóm nghiên cứu tại Trung tâm
Đăng kiểm tàu cá do KS. Mai Văn Toản làm
chủ nhiệm, đã thực hiện đề tài: “Hoàn thiện
công nghệ và hệ thống lạnh nhanh cá ngừ đại
dương trên tàu cá xa bờ” trong khoảng thời
gian từ tháng 4/2014 đên 9/2016.
Đề tài đã nghiên cứu, hoàn thiện công
nghệ và hệ thống lạnh nhanh cá ngừ đại
dương trên tàu cá xa bờ được thực hiện trên
cơ sở nghiên cứu, đánh giá mô hình "Thiêt kê
và thử nghiệm hệ thống bể hạ nhiệt nhanh cá
ngừ đại dương trên tàu cá", tính toán thiêt kê
hoàn thiện và triển khai lắp đặt áp dung trên
các tàu câu cá ngừ đại dương tại 3 tỉnh Bình
Định, Phú Yên, Khánh Hòa; phân tích kêt quả
nhận được sẽ đánh giá khả năng hoàn thiện
công nghệ và hệ thống lạnh nhanh cá ngừ đại
dương trên tàu cá xa bờ.
Kêt quả của đề tài nghiên cứu sẽ góp
phần hỗ trợ các nhà hoạch định chính sách về
khai thác thủy sản, các ngư dân có thêm giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong hoạt động
khai thác hải sản bằng nghề câu cá ngừ đại
dương; theo đó, các nhà chê biên xuất khẩu sẽ
có thêm phương án lựa chọn khi thu mua chê
biên cá ngừ đại dương trên các tàu được trang
bị bể hạ nhiệt nhằm nâng cao giá trị sản phẩm
xuất khẩu đên các nước trong khu vực và trên
thê giới.
Nguồn: Most.gov.vn, 21/02/2019
Trở về đầu trang
**************
Sản xuất bột gan mực từ phê liệu chê biên thủy sản
Đề tài do tác giả Lê Thanh Hung và
cộng sự (Trường Đại học Nông Lâm
TP.HCM) thực hiện nhằm tận dung phu phê
phẩm từ nhà máy chê biên thủy sản để tạo ra
sản phẩm có giá trị, có khả năng cạnh tranh
giá cả với nguyên liệu nhập khẩu và giúp giải
quyêt vấn đề ô nhiêm môi trường; đánh giá
khả năng sử dung bột gan mực sản xuất trong
nước làm thức ăn thủy sản, thay thê bột mực
nhập khẩu vào Việt Nam.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 03/2019 31/41
Việt Nam hàng năm nhập khẩu một số
lượng đáng kể bột gan mực để sản xuất thức
ăn tôm và cá biển (khoảng 1.000-2.000 tấn,
theo thông tin của các công ty nhập khẩu từ
Hàn Quốc và Nhật Bản). Trong khi đó, nguồn
phu phê phẩm mực tại các nhà máy chê biên
thủy sản ở TP.HCM và các tỉnh không được
sử dung phải đem đổ bo và gây ô nhiêm môi
trường đáng kể.
Nhóm tác giả tiên hành nghiên cứu sản
xuất bột gan mực từ phê liệu chê biên thủy
sản (nội tạng mực, nội tạng bạch tuộc, da và
de mực) bằng các thí nghiệm sử dung các
enzyme công nghiệp (Alcalase, Protamex và
Flavozyme) thủy phân protein động vật; thử
nghiệm đánh giá khả năng sử dung bột gan
mực trong thức ăn tôm thẻ (Litopenaeus
vannamei).
Kêt quả cho thấy, việc áp dung
enzyme Alcalase công nghiệp thủy phân phu
phẩm mực mang lại hàm lượng Namin cung
với độ thủy phân cao (42%) trong thời gian
rất ngắn (6 giờ) ở nhiệt độ 600C. Để bảo quản
dịch mực sau thời gian thủy phân tránh hiện
tượng “thối” và hạn chê mất hương vị “mực”
cần bổ sung tối thiểu 5% sorbitol trong 2
tháng bảo quản. Việc bảo quản dịch mực lâu
dài rất khó nên việc tạo ra dạng bột ở sản
phẩm bột gan mực có hàm lượng protein cao
(49-50%) và acid amin cao (44g/100g) được
nghiên cứu và sản xuất với tỉ lệ trộn 50% dịch
mực thủy phân phối trộn 50% chất nền là khô
đậu nành.
Từ kêt quả nghiên cứu trên, quy trình
sản xuất bột gan mực từ phu phê phẩm chê
biên mực đã được xây dựng với quy mô pilot
phòng thí nghiệm, cho ra 200 kg thành phẩm
theo tiêu chuẩn thức ăn chăn nuôi QCVN 01-
78:2011/BNNPTNT. Các bước thực hiện sản
xuất bột gan mực không phức tạp và không
cần nhiều trang thiêt bị nên có khả năng áp
dung trong sản xuất quy mô lớn cũng như có
khả năng cạnh tranh giá cả (12.610 đồng/kg)
với nguyên liệu nhập khẩu (17.800 đồng/kg)
và giúp giải quyêt vấn đề ô nhiêm môi
trường.
Bổ sung bột gan mực Việt Nam 3% và
5% vào thức ăn tôm thẻ chân trắng góp phần
giảm tỷ lệ sử dung bột cá (từ 20% xuống còn
15%) trong thức ăn và góp phần cải thiện tốc
độ tăng trưởng, hiệu quả sử dung thức ăn và
không ảnh hưởng đên tỷ lệ sống so với tôm
ăn thức ăn không bổ sung bột gan mực hoặc
bổ sung bột gan mực Hàn Quốc. Ngoài ra, bổ
sung bột gan mực vào thức ăn cũng góp phần
làm giảm tỷ lệ phân đàn của tôm thẻ chân
trắng.
Nguồn: Cesti.gov.vn, 22/02/2019
Trở về đầu trang
**************
Quy trình trồng bắp làm thức ăn xanh cho bò sữa trên 2 vung đất nhiêm phen và đất xám tại TP.HCM
ThS. Lê Thị Nghiêm và cộng sự (Sở
Nông nghiệp và Nông thôn TP.HCM) thực
hiện đề tài nhằm tạo nguồn thức ăn xanh chất
lượng cao cho chăn nuôi bò sữa tại TP.HCM;
nghiên cứu hoàn thiện quy trình trồng bắp
làm thức ăn thô xanh cho bò sữa trên 2 vung
đất nhiêm phen và đất xám tại TP.HCM; nâng
cao giá trị sử dung đất ngheo dinh dưỡng,
hiệu quả kinh tê thấp.
Nhóm nghiên cứu đã tiên hành thí
nghiệm trồng bắp sinh khối trên 3 giống bắp
NK7328, NK67 và CP888 (đối chứng) với
khoảng cách trồng là 50x20 cm, 60x20 cm,
70x20 cm trong 2 vu mua nắng và mua mưa
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 03/2019 32/41
trên vung đất nhiêm phen huyện Bình Chánh,
đất xám tại huyện Củ Chi của TP.HCM. Sau
đó chọn giống bắp tối ưu nhất với khoảng
cách trồng phu hợp, tiên hành 3 mức phân
đạm (kg N/ha) khác nhau (140, 190 và 240)
tại 4 thời điểm thu hoạch trong 2 vu mua
nắng và mua mưa.
Kêt quả cho thấy, trên các khoảng cách
trồng khác nhau thì ở vung đất nhiêm phen
Bình Chánh trồng khoảng cách càng thưa cho
năng suất sinh khối càng cao (do có khoảng
cách trống để rạch mương xả phen). Ở vung
đất xám huyện Củ Chi thì ngược lại, trồng các
khoảng cách càng nho năng suất sinh khối
càng cao do tăng được mật độ cây trên hecta.
Năng suất sinh khối của giống
NK7328 cao nhất tại vung đất nhiêm phen
huyện Bình Chánh với khoảng cách 70x20cm
đạt 54,9 tấn/ha (vu mua nắng) và 69,0 tấn/ha
(vu mua mưa). Tại vung đất xám huyện Củ
Chi, với khoảng cách 50x20 cm đạt 55,6
tấn/ha (vu nắng) và 78,0 tấn/ha (vu mưa).
Năng suất sinh khối của 2 giống CP888 và
NK7328 ở vung đất phen và đất xám trong
mua khô và mua mưa đều đạt >50 tấn/ha/vu,
đáp ứng được muc tiêu của đề tài. Nêu 1 năm
trồng 3–4 vu, sản lượng sinh khối làm thức ăn
xanh cho bò sữa có thể đạt 50–200
tấn/ha/năm.
Kêt quả thí nghiệm trồng giống
NK7328 với 3 mức phân đạm và 4 thời điểm
thu hoạch so với giống đối chứng CP888 cho
thấy, năng suất sinh khối của giống NK7328
cao nhất tại vung đất nhiêm phen huyện Bình
Chánh với khoảng cách 70x20 cm, mức phân
240 kg/ha đạt 63,6 tấn/ha (vu nắng) và 68,8
tấn/ha (vu mưa). Tại vung đất xám huyện Củ
Chi, với khoảng cách 50x20 cm đạt 58,4
tấn/ha (vu nắng) và 61,0 tấn/ha (vu mưa).
Năng suất sinh khối tươi của giống NK7328
thu hoạch tại thời điểm 18 ngày sau tung phấn
ở vung đất nhiêm phen huyện Bình Chánh đạt
69,6 tấn/ha mua nắng và 71,9 tấn/ha mua
mưa; vung đất xám huyện Củ Chi đạt 59,0
tấn/ha mua nắng, 62,8 tấn/ha mua mưa.
Thời điểm thu hoạch tốt nhất 18 ngày
sau tung phấn của giống NK7328 ở vung
nhiêm phen và đất xám trong mua khô và
mua mưa để làm thức ăn xanh cho bò sữa đã
cho hàm lượng protein, chất béo, lignin và
năng lượng trao đổi trên 1 kg vật chất khô
sinh khối tối ưu nhất. Lợi nhuận của việc
trồng bắp sinh khối đạt 134 triệu
đồng/ha/năm (với đất xám) và 123 triệu
đồng/ha/năm (với đất nhiêm phen), cao hơn
so với việc trồng lúa 47 triệu đồng/ha/năm, co
voi 82 triệu đồng/ha/năm và bắp lấy hạt là 76
triệu đồng/ha/năm.
Nguồn: Cesti.gov.vn, 18/02/2019
Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu chọn tạo giống khổ qua lai F1 (Momordica charantia) cho vung Đông Nam Bộ
Đề tài do tác giả Phan Đặng Thái
Phương và cộng sự (Viện Nghiên cứu Công
nghệ sinh học và Môi trường) thực hiện nhằm
chọn tạo được giống khổ qua lai F1
(Momordica charantia) có năng suất bằng
hoặc cao hơn so với năng suất của giống khổ
qua canh tác phổ biên và chất lượng phu hợp
cho vung Đông Nam Bộ.
Nhập khẩu giống rau đã và đang là vấn
đề thời sự và thách thức đối với ngành trồng
rau của Việt Nam. Đối với cây khổ qua, một
trong số các cây rau ăn quả chính yêu thuộc
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 03/2019 33/41
họ bầu bí, việc nhập giống khổ qua từ các
nước trên thê giới vào Việt Nam là công việc
thường niên và chi phí một khoảng tiền giống
tương đối lớn. Do đó, việc nghiên cứu lai tạo
ra các giống F1 phuc vu cho sản xuất là hêt
sức cần thiêt. Trong nghiên cứu này, nhóm
tác giả tạo giống lai F1 bằng việc sử dung vật
liệu di truyền là các giống khổ qua bản địa và
hoang dại; chọn dòng khổ qua thuần để làm
vật liệu lai tạo kêt hợp giữa phương pháp
đánh giá truyền thống và phương pháp đánh
giá di truyền bằng marker phân tử (MAS).
Đây là bước đi mới mẻ đối với công tác chọn
tạo giống cây trồng ở Việt Nam hiện nay.
Kêt quả nghiên cứu của đề tài đã thu
thập thành công thông tin trồng, sản xuất và
thương mại trái khổ qua ở vung Đông Nam
bộ và Tây Nguyên. Nguồn vật liệu gồm 80
mẫu dòng/giống có nguồn gốc hoang dã và
bản địa đã được thu thập. Một số chỉ tiêu hình
thái, chỉ tiêu nông học liên quan đên tính
trạng năng suất và tính trạng chất lượng thịt
quả đã được đánh giá trên 80 mẫu dòng/giống
khổ qua. Theo đó, tổng số 12 mẫu trong 80
mẫu đã được đánh giá và sàng lọc có đặc tính
năng suất triển vọng và độ thuần cao bao gồm
các mẫu: 05, 09, 17, 19, 33, 37, 38, 43, 52,
62, 69 và 70. Các mẫu giống này là vật liệu
khởi đầu quan trọng trong quá trình lai tạo cải
tiên giống khổ qua F1 năng suất cao.
Trong 94 tổ hợp lai tạo thử nghiệm, có
1 tổ hợp lai (69x43) được đánh giá là tổ hợp
lai có triển vọng cải tiên năng suất khổ qua.
Giống khổ qua lai F1-NLU là kêt quả của quá
trình lai tạo dòng khổ qua 69 (dòng bố) mang
đặc tính trọng lượng quả lớn (150-300 gram)
lai với dòng khổ qua 43 (dòng mẹ) mang đặc
tính sai quả (200-250 quả/cây). Năng suất
đánh giá thử nghiệm đồng ruộng giống khổ
qua lai F1-NLU là 4,65 kg/cây ở giai đoạn
thu hoạch quả (60 ngày sau trồng).
Nguồn: Cesti.gov.vn, 20/02/2019
Trở về đầu trang
**************
MÔI TRƯỜNG
Hệ thống thu mẫu và đo khí tự động tích hợp cảm biên đo khí hiệu ứng nhà kính
Đề tài do nhóm tác giả Trần Thị Như
Trang, Nguyên Thành Đức (Trường Đại học
Khoa học Tự nhiên, TP.HCM) thực hiện, đã
chê tạo thành công hệ thống thu mẫu và đo
khí tự động tích hợp cảm biên đo khí hiệu
ứng nhà kính (AFCIS), thay thê phương pháp
thủ công, giúp giảm chi phí cho việc khảo sát
liên tuc sự phát thải khí CO2 (carbon dioxide)
và CH4 (methane) tại các kênh rạch của
TP.HCM.
Hiện nay, tại TP.HCM nói riêng và cả
nước nói chung, việc tính tổng lượng CO2
thoát ra trong các lĩnh vực năng lượng, giao
thông, công nghiệp, quản lý nước, quản lý
chất thải, nông nghiệp, xây dựng, y tê, du lịch
là rất cấp thiêt. Do vậy, đề tài này sẽ góp
phần vào việc đánh giá sự phát thải của các
khí hiệu ứng nhà kính CO2 và CH4 trong hệ
thống kênh rạch tại TP.HCM. Số liệu khảo sát
thu được sẽ là tiền đề quan trọng cho những
nghiên cứu về sau và làm cơ sở vững chắc
cho việc đánh giá sự phát thải khí nhà kính
CO2 và CH4 trong diên biên của sự thay đổi
khí hậu.
AFCIS được chê tạo thành công gồm
các bản mạch điều khiển và PIC datalogger
đáp ứng yêu cầu lấy mẫu khí tự động vào vial
và thu nhận/lưu trữ tín hiệu từ cảm biên; cảm
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 03/2019 34/41
biên đo khí CO2 và CH4 được tích hợp vào hệ
thống; buồng nổi hoạt động tốt không chỉ ở
bề mặt nước yên tĩnh mà ngay cả bề mặt nước
có tàu thuyền qua lại thường xuyên, phu hợp
với hệ thống kênh rạch tại TP.HCM. Các thực
nghiệm tiên hành trong phòng thí nghiệm và
ngoài thực địa cho thấy, AFCIS có độ tin cậy
tốt cho việc thu mẫu tự động, cảm biên CH4
hoạt động tốt trong điều kiện thời tiêt, khí hậu
nóng ẩm của TP.HCM. Tuy nhiên cảm biên
CO2 lại không phu hợp, do vậy việc khảo sát
sự phát thải của CO2 tại các kênh rạch được
thực hiện với hệ Licor-820.
Hệ thống được sử dung cho việc khảo
sát sự phát thải khí CH4 và CO2 liên tuc trong
một năm tại 4 điểm trên hệ thống kênh rạch
của thành phố: OB (cầu Ông Bé thuộc Rạch
Ông Lớn), CH (cầu Chánh Hưng thuộc Kênh
Đôi), DBP (cầu Điện Biên Phủ thuộc Kênh
Nhiêu Lộc – Thị Nghe) và CD (cầu Đo thuộc
rạch Cầu Sơn). Bốn kênh rạch này thuộc về
các khu dân cư khác nhau có các đặc điểm địa
lý, tính chất hóa lý khác nhau. Nhóm nghiên
cứu đã đo đạc các thông số hóa lý cần thiêt tại
thực địa, lấy mẫu nước và bun rồi phân tích
các thông số hóa lý khác tại phòng thí
nghiệm. Từ toàn bộ dữ liệu thu được, nhóm
đưa ra những đánh giá sơ bộ về sự tương
quan giữa lượng phát thải khí CO2/CH4 trong
kênh rạch với chất lượng nước và đặc tính
của bun lắng tại thành phố.
Hệ thống thu mẫu và đo khí tự động
AFCIS do nhóm chê tạo có chi phí rẻ hơn từ
1/2 đên 1/5 so với các sản phẩm gần tương
đương trên thị trường. Thiêt bị được thiêt kê
để đo khí trên bề mặt không khí – nước, tự
động hóa, đơn giản trong khâu thực hiện,
đánh giá theo thời gian và không gian tốt, là
công cu ổn định trong đo khí bề mặt nước.
Đây là nền tảng để phát triển các hệ thiêt bị
đo khí hiệu ứng nhà kính trên các đối tượng
khác nhau không chỉ từ bề mặt nước – không
khí.
Nguồn: Cesti.gov.vn, 21/02/2019
Trở về đầu trang
**************
Ứng dung sóng siêu âm tần số thấp để tiền xử lý bun hữu cơ
Nghiên cứu được nhóm tác giả Lê
Minh Tuấn và Đỗ Văn Mạnh (Viện Công
nghệ Môi trường, Viện Hàn lâm Khoa học và
Công nghệ Việt Nam) thực hiện để khảo sát
khả năng áp dung siêu âm lên một số thông số
đặc trưng của bun và ảnh hưởng của chúng
lên quá trình phân hủy yêm khí như: nồng độ
tổng carbon hữu cơ (TOC), tổng carbon hữu
cơ hòa tan (STOC), chất rắn bay hơi (VS).
Đồng thời, khảo sát hiệu quả quá trình PHYK
anaerobic thu hồi khí biogas.
Trong xử lý nước thải, phân hủy yêm
khí là một kỹ thuật thường được sử dung để
xử lý bun, ổn định chất rắn và tạo ra khí
biogas. Tuy nhiên, phân hủy yêm khí thường
diên ra chậm, sự thủy phân các chất hữu cơ
dạng hạt trong bun bị hạn chê, nêu như không
có phương pháp giúp quá trình này diên ra
thuận lợi thì sẽ khó khăn trong các công đoạn
sau. Chính vì thê, việc ứng dung sóng siêu âm
để tiền xử lý bun trước khi phân hủy yêm khí
là rất cần thiêt, giúp cho quá trình phân giải
các hợp chất hữu cơ diên ra nhanh hơn, nâng
cao hiệu suất xử lý, rút ngắn thời gian lưu, tiêt
kiệm được chi phí.
Nhóm nghiên cứu sử dung các thiêt bị
siêu âm và thiêt bị dung để phân hủy yêm khí
đạt chuẩn phuc vu nghiên cứu, với vật liệu là
bun lấy từ bể chứa bun của hệ thống xử lý
nước thải ngành chê biên thủy sản.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 03/2019 35/41
Kêt quả cho thấy, thời gian siêu âm
không ảnh hưởng đên nồng độ TOC, STOC
và VS. Khả năng loại bo TOC của mẫu bun
đối chứng so với mẫu siêu âm 30 phút chênh
nhau 25%. Lượng khí sinh học thu được lớn
nhất ở mẫu có thời gian siêu âm là 30 phút.
Nguồn: Cesti.gov.vn, 19/02/2019
Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu phát triển mô hình khu công nghiệp xanh trên địa bàn TP.HCM : trường hợp điển hình của Khu chê xuất Tân Thuận
Đề tài do tác giả Trần Thị Mỹ Diệu và
cộng sự (Đại học Văn lang TP.HCM) thực
hiện nhằm đánh giá hiện trạng, xác định các
vấn đề tồn tại trong trường hợp điển hình của
Khu chê xuất (KCX) Tân Thuận làm cơ sở xây
dựng chương trình và kê hoạch hành động cu
thể để KCX khắc phuc các tồn tại, từng bước
hoàn thiện và phát triển theo mô hình KCN
xanh đầu tiên trên địa bàn TP.HCM; là bài học
kinh nghiệm, đặt nền tảng cho sự hình thành
và phát triển KCN xanh, KCN sinh thái trên
địa bàn thành phố.
Trên cơ sở học hoi kinh nghiệm của các
nước trên thê giới và tham vấn ý kiên nhà khao
học, các nhà quản lý, ý kiên cơ sở sản xuất
trong KCX Tân Thuận, mô hình KCN xanh đã
được xây dựng và đề xuất áp dung đối với
KCX Tân Thuận nói riêng và các KCX/KCN
trên địa bàn TP.HCM dựa trên những nguyên
tắc chính: bảo đảm hoạt động sản xuất công
nghiệp không gây tổn hại đên môi trường, tuân
thủ các quy định pháp luật về bảo vệ môi
trường nhằm ngăn ngừa và giảm đên mức thấp
nhất các tác động đên môi trường; phu hợp với
kê hoạch tăng trưởng xanh quốc gia, phát triển
mô hình “doanh nghiệp phát triển bền vững”,
chú trọng sử dung tài nguyên (vật liệu, năng
lượng, nước) hiệu quả, áp dung các giải pháp
kỹ thuật công nghệ để giảm phát sinh chất thải
tại nguồn, tăng cường tái sử dung, tái chê chất
thải và được cu thể hóa thành 7 đặc điểm chính.
Để các nhà quản lý cũng như các thành
phần tham gia xây dựng mô hình KCN xanh
có thể đánh giá hiện trạng và có cơ sở xây
dựng kê hoạch hành động nhằm đạt được muc
tiêu phát triển theo mô hình KCN xanh trong
tương lai, đề tài đã xây dựng và đề xuất hệ
thống tiêu chí đánh giá mức độ đạt chuẩn
KCN xanh, đánh giá theo hai cấp: công ty phát
triển hạ tầng KCX/KCN và cơ sở sản xuất
trong KCX/KCN. Mỗi hệ thống tiêu chí đánh
giá gồm 2 nhóm tiêu chí chính: nhóm tiêu chí
sàng lọc và nhóm tiêu chí đánh giá.
Hệ thống tiêu chí đánh giá đối với công
ty phát triển hạ tầng KCX/KCN gồm 8 tiêu chí
đánh giá sàng lọc với điểm đạt yêu cầu là 10,8
và 4 tiêu chí đánh giá với tổng điểm đạt là 27.
Hệ thống tiêu chí đánh giá đối với cơ sở sản
xuất trong KCX/KCN gồm 11 tiêu chí đánh
giá sàng lọc với điểm đạt yêu cầu là 8,8 và 6
tiêu chí đánh giá với tổng điểm đạt là 40.
KCX/KCN đạt yêu cầu theo hai cấp đánh giá
được đề xuất công nhận là KCN xanh. Công ty
phát triển hạ tầng KCX/KCN đạt yêu cầu đánh
giá sàng lọc và đạt điểm đánh giá từ 27 trở lên
được đề xuất công nhận “doanh nghiệp phát
triển bền vững”. Mỗi doanh nghiệp trong
KCX/KCN có điểm đánh giá theo nhóm tiêu
chí sàng lọc và nhóm tiêu chí đánh giá đối với
cấp cơ sở sản xuất đạt từ 80% điểm tối đa trở
lên cũng được đề xuất công nhận “doanh
nghiệp phát triển bền vững”.
Kêt quả đánh giá KCX Tân Thuận theo
hệ thống tiêu chí đề xuất cho thấy, Công ty
TNHH Tân Thuận đạt điểm đánh giá tối đa
theo nhóm tiêu chí sàng lọc (12 điểm) và đạt
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 03/2019 36/41
27 điểm theo nhóm tiêu chí đánh giá mức độ
đạt chuẩn KCN xanh cấp công ty phát triển hạ
tầng KCX/KCN nên đề xuất công nhận
“doanh nghiệp phát triển bền vững”. Cơ sở sản
xuất trong KCX Tân Thuận đạt 8,03 điểm
đánh giá theo nhóm tiêu chí sàng lọc (bằng
73% điểm tối đa) và chưa đủ điều kiện để tiêp
tuc đánh giá mức độ đạt KCN xanh. Điểm
đánh giá theo nhóm tiêu chí đánh giá mức độ
đạt KCN xanh đối với cơ sở sản xuất trong
KCX chỉ đạt 24,79 điểm, nên chưa đạt yêu
cầu. Các vấn đề cần hoàn thiện đã được xác
định qua đánh giá này, bao gồm: chưa thực
hiện tốt việc xây dựng kê hoạch phòng ngừa,
ứng phó và khắc phuc sự cố; chưa đảm bảo thu
gom và xử lý triệt để khí thải phát sinh từ hoạt
động của cơ sở; tỷ lệ diện tích trồng cây xanh
trong khuôn viên cơ sở sản xuất chưa bảo
đảm. Ngoài ra, cần thực hiện kiểm toán chất
thải định kỳ để có giải pháp giảm phát sinh
chất thải tại nguồn, tiêt kiệm nước (cho sinh
hoạt của công nhân và nước cấp cho sản xuất)
và sử dung năng lượng hiệu quả; hoạt động
giảm phát sinh chất thải tại nguồn cần được
chú trọng nhiều hơn nữa; minh chứng về việc
sử dung điện sản xuất và các nguồn năng
lượng khác một cách hiệu quả còn rất yêu.
Kêt quả tham vấn ý kiên cơ sở sản xuất
trong KCX Tân Thuận về việc đồng thuận
tham gia phát triển mô hình KCN xanh cho
thấy, với những nội dung được pháp luật quy
định, cơ sở sản xuất đều cam kêt thực hiện.
Những nội dung chưa được pháp luật quy định
cu thể, cơ sở sản xuất sẽ tuy điều kiện cu thể
để xem xét thực hiện. Việc bảo đảm diện tích
cây xanh trong khuôn viên cơ sở sản xuất và
kiểm toán năng lượng cần tìm giải pháp khả
thi để triển khai một cách dê dàng và đồng
thuận thực hiện.
Sáu chương trình hành động để từng
bước phát triển KCX Tân Thuận thành KCN
xanh được đề xuất gồm: chương trình hoàn
thiện việc thực thi các quy định pháp luật về
bảo vệ môi trường; chương trình tái sử dung
nước thải; chương trình thu hồi và tái sử dung
bun thải; chương trình hoàn thiện công tác
quản lý chất thải rắn; chương trình sử dung
năng lượng hiệu quả; chương trình hoạt động
vì cộng đồng.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát
triển mô hình KCN xanh tại KCX Tân Thuận
cũng như các KCX/KCN hiện hữu khác trên
địa bàn TP.HCM, nhóm tác giả kiên nghị: Sở
Khoa học và Công nghệ TP.HCM tham mưu
UBND Thành phố ban hành chiên lược phát
triển KCN xanh trên địa bàn thành phố; công
nhận mô hình KCN xanh và hệ thống tiêu chí
đánh giá KCN xanh theo đề xuất của nghiên
cứu này; thành lập Hội đồng thẩm định và
công nhận đạt KCN xanh đối với KCX/KCN
đăng ký và được đánh giá đạt yêu cầu; chứng
nhận KCN xanh có giá trị trong 5 năm kể từ
ngày được công nhận. Ngoài ra, Sở Khoa học
và Công nghệ phối hợp các cơ quan ban ngành
tổ chức nghiên cứu và đề xuất các chính sách
ưu đãi đối với KCX/KCN và cơ sở sản xuất
đạt “doanh nghiệp phát triển bền vững” và
KCN xanh;…
Nguồn: Cesti.gov.vn, 19/02/2019
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 03/2019 37/41
Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của biên đổi khí hậu đên các khu dân cư vùng phía Nam TP.HCM
Đề tài do tác giả Nguyên Phú Bảo và
cộng sự (Viện Nhiệt đới môi trường) thực hiện
nhằm hoàn chỉnh kịch bản biên đổi khí hậu
(BĐKH) cho vung phía Nam và kịch bản về
phát triển khu dân cư ở vung phía Nam
TP.HCM; đánh giá tác động do BĐKH đên
các khu dân cư vung phía Nam thành phố, sự
tổn thương của các khu dân cư, dân số do tác
động của BĐKH và đề xuất giải pháp ứng phó
phu hợp.
Dựa trên cơ sở kịch bản BĐKH 2016
của TP.HCM do GS.TS Nguyên Kỳ Phung
xây dựng, nhóm nghiên cứu đã xây dựng được
kịch bản BĐKH, nước biển dâng cho vung
phía Nam. Đồng thời xây dựng kịch bản phát
triển kinh tê xã hội khu dân cư vung phía Nam
dựa trên cơ sở quy hoạch phát triển kinh tê xã
hội TP.HCM đên năm 2025 và các tiêu chí
ứng phó với BĐKH của ADB (Ngân hàng
phát triển châu Á) và WB (Ngân hàng thê
giới).
Vung phía Nam TP.HCM (quận 7, 8,
Bình Tân, huyện Bình Chánh, Nhà Be) do đặc
thu địa hình tự nhiên là vung đất thấp nên khu
vực này chịu ảnh hưởng mạnh bởi tác động
của BĐKH, nhất là nước biển dâng. Trong
tương lai gần (2025), tác động BĐKH gia tăng
nhưng không đáng kể với chỉ số tổn thương
VI-IPCC tăng khoảng 1%. Song tác động
mạnh mẽ nhất của BĐKH đên vung này là
nước biển dâng, đên khoảng năm 2050, diện
tích ngập úng ở các quận/huyện nêu trên gia
tăng từ 3-40 lần tuy theo từng kịch bản (RCP
4.5, RCP 6.0 hoặc RCP 8.5).
Ngoài ra, nhóm nghiên cứu đã thực
hiện đánh giá tác động của BĐKH đên các khu
dân cư vung phía Nam dựa vào hiện trạng năm
2015 và kịch bản RCP 4.5 giai đoạn 2025; đề
xuất được tiêu chí và giải pháp ứng phó dựa
trên cơ sở cải thiện khả năng đáp ứng; xác
định được thứ tự ưu tiên thực hiện các giải
pháp ứng phó BĐKH cho khu dân cư vung
phía Nam thành phố.
Kêt quả đánh giá tác động của BĐKH
đên các khu dân cư vung phía Nam tại hiện
trạng năm 2015 và đên 2025 (kịch bản RCP
4.5) cho thấy, tác động của BĐKH là ở mức
trung bình (PI trong khoảng 0,40-0,60); chỉ số
tổn thương VI-IPCC là trung bình (VI-IPCC =
0,431-0,537), không có sự chênh lệch đáng kể
giữa các quận, huyện. Đây là vung có tính dê
bị tổn thương với các chỉ số tác động lớn hơn
chỉ số khả năng đáp ứng (PI>AC) ở hầu hêt
các quận, huyện.
Nhóm tác giả đề xuất, trong tương lai
gần (2025), việc áp dung các giải pháp kỹ
thuật như nâng cos nền, chống ngập, cải thiện
vệ sinh y tê, nâng cấp cơ sở hạ tầng,... là quan
trọng. Các giải pháp thích ứng ưu tiên cho ứng
phó BĐKH là lồng ghép quy định về hệ thống
đen chiêu sáng công cộng và dân lập sử dung
các loại đen tiêt kiệm điện; thay thê hệ thống
đen chiêu sáng công cộng cũ tiêu tốn nhiều
điện năng sang đen tiêt kiệm điện; xây dựng
hồ điều tiêt kêt hợp công viên giải trí đa chức
năng; nâng cao chất lượng dịch vu và hiệu quả
hoạt động của mạng lưới xe buýt hiện hữu;
mảng xanh, mặt nước (tạo vung đệm xanh);
tận dung diện tích mái để lắp đặt pin mặt trời
nối lưới;...
Nguồn: Cesti.gov.vn, 18/02/2019
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 03/2019 38/41
LĨNH VỰC KHÁC
Thiêt bị thoát hiểm trong hoa hoạn nhà cao tầng
Khánh và Như trao đôi bên thiêt bi thoát hiểm đa năng của mình
Thiêt bị Thoát hiểm đa năng khi xảy ra
hoa hoạn tại các tòa nhà cao tầng là sản phẩm
từ đề tài sáng chê của Nguyên Gia Khánh (lớp
10 Anh) cung Nguyên Khánh Như (lớp 11 Lý)
trường THPT chuyên Lương Thê Vinh. Sản
phẩm vừa đạt giải nhất cuộc thi Sáng tạo Khoa
học Kỹ thuật dành cho học sinh phổ thông
Đồng Nai 2019.
Sau 6 tháng nghiên cứu, mày mò lắp
ráp từng khung inox, động cơ, dây cáp... cung
với sự hỗ trợ đắc lực của thầy giáo hướng dẫn,
thiêt bị thoát hiểm đa năng của nhóm Khánh
cũng dần hoàn thiện. Sản phẩm nặng chừng 10
kg gồm 2 phần cơ khí và động cơ, hoạt động
dựa trên nguyên lý ròng rọc.
Mỗi khi có cháy xảy ra, thiêt bị thoát
hiểm sẽ được cố định một đầu tại ban công
chung cư; phần thân chính của thiêt bị có thể
di chuyển lên xuống theo dây cáp với sự chịu
lực 150 kg, ở nhiệt độ 1.400 độ C. "Nhóm em
thiết kế chỗ ngồi bằng yên xe đạp, tích hợp tay
vịn giống đang lái xe, nhằm giúp đơn giản và
dễ sử dụng, hệ thống điều khiển cũng nằm ở
tay cầm", Như chia sẻ thêm.
Về cơ chê hoạt động, Khánh cho biêt
khi muốn thoát hiểm, người dung sẽ ngồi vào
ghê rồi cố định bản thân bằng đai an toàn.
Phần động cơ sẽ đi xuống theo sự điều khiển
của mình. Ngoài ra, thiêt bị còn có chê độ
khóa trên không trung khi gặp sự cố nguy
hiểm bất thường. Để đảm bảo động cơ luôn
hoạt động trong mọi trường hợp, thiêt bị đi
xuống sẽ tự động nạp pin. Với lượng pin này,
động cơ thoát hiểm có thể quay trở lên để
người khác tiêp tuc sử dung.
Sau khi đạt giải nhất cấp tỉnh, nhóm
Khánh vẫn tiêp tuc hoàn thiện hơn đề tài của
mình nhằm muc đích tạo ra một thiêt bị nho
gọn, chắc chắn và hoạt động hiệu quả hơn.
"Chúng em đang đưa một số cảm biên nhiệt
độ, khoảng cách và đen báo sáng để phát tín
hiệu khi thiêt bị vận hành và tiêp đất. Với chi
phí hiện nay thì khoảng 5 triệu đồng một sản
phẩm, sản xuất đại trà thì có thể ít hơn",
Khánh nói. Tiên sĩ Nguyên Vũ Quỳnh, Hiệu
phó Đại học Lạc Hồng, thành viên Ban giám
khảo đánh giá thiêt bị Thoát hiểm đa năng khi
xảy ra hoa hoạn tại các tòa nhà cao tầng của
nhóm Khánh có tính thực tiên và bám sát nhu
cầu cuộc sống.
Nguồn: Phước Tuấn, Vnexpress.net,
06/02/2019
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 03/2019 39/41
Thiêt kê ghe homestay “5 sao” phuc vu du lịch đường sông
Trần Thi Trúc Xinh với áp phích mô hình thiêt kê ghe homestay phục vụ du lich đường sông tại cuộc thi sinh viên nghiên cứu khoa học Euréka năm 2018.
Mô hình homestay được thiêt kê tận
dung không gian trống trên các ghe chở hàng
cỡ lớn với thiêt kê “5 sao” đầy đủ tiện nghi
hiện đại.
Đây là những chức năng nổi bật của ý
tưởng về mô hình ghe homestay phuc vu du
lịch đường sông tại TP.HCM do Trần Thị
Trúc Xinh, sinh viên năm 2 khoa kiên trúc,
Đại học Văn Lang nghiên cứu.
Nhiều lần về các vung quê Tây Nam
Bộ, Xinh nhận thấy các ghe chở hàng truyền
thống của người dân thường có khoảng trống
lên tới 50% không gian toàn bộ ghe khi
không chở hàng. Từ đó, cô bạn này nghĩ đên,
tại sao không tận dung khoảng trống này để
làm du lịch theo mô hình homestay.
Để nắm bắt nhu cầu người dân, Xinh
tiên hành khảo sát khoảng 50 hộ dân sống
trên ghe và nhận được kêt quả phản hồi khá
tích cực. Có đên 87% chủ ghe cảm thấy ý
tưởng mô hình homestay mang lại hiệu quả
kinh tê và sẵn lòng hợp tác để ứng dung mô
hình này vào thực tê.
Xinh cho biêt, mô hình này vừa có thể
tận dung không gian trống trên ghe khi chở
hàng vừa có thể tăng thêm thu nhập cho
người dân đồng bằng sông Cửu Long, tạo ra
một mô hình du lịch khá mới lạ, giúp khách
du lịch có thể trải nghiệm cuộc sống của
người bản xứ và tìm hiểu nhiều nét văn hóa
đặc trưng của vung.
Theo đó, ý tưởng của Xinh giữ lại vóc
dáng truyền thống của chiêc ghe chài bao
gồm bộ khung và hình dáng nguyên thủy.
Ghe sẽ được thay thê các vật liệu bao che và
đồ nội thất. Tre sẽ làm vật liệu vo bao che, gỗ
cây sao dung làm khung và đê ghe. Ghe cũng
được trang bị một số đồ nội thất như một căn
nhà di động.
Mỗi căn nhà sẽ có kích thước dài x
rộng = 18m x 3,5m, khối lượng vận chuyển
17 tấn, sức chứa 10 người (7 du khách). Theo
đó, các giải pháp kỹ thuật được đưa ra là sử
dung nội thất thông minh, vo bao che linh
hoạt, nhà vệ sinh sinh thái, tấm pin mặt trời
và tái chê nước mưa làm nước sinh hoạt bằng
việc sử dung thiêt bị lọc nước mưa bằng than
hoạt tính.
Sau khi hoàn thiện phần kỹ thuật, Xinh
nghĩ đên xây dựng mô hình kinh doanh cho
dự án Homestay của mình theo hình thức
kinh tê chia sẻ đang phát triển nở rộ tại Việt
Nam. Với mô hình ghe này, thương lái và du
khách sẽ được tương tác với nhau thông qua
một phần mềm quản lý.
Khi nào ghe trống, chủ ghe có thời
gian rỗi thì có thể nhận chở khách du lịch.
Đối với du khách thì có thể trực tiêp đặt ghe
một cách nhanh chóng khi có nhu cầu muốn
“quá giang”.
“Việc tận dụng thời cơ này vào mô
hình ghe Homestay sẽ mang về nhiều những
nguồn lợi cho ngành du lịch Việt Nam nói
chung và TP.HCM nói riêng”- Xinh tự tin nói.
Hiện, dự án của Xinh mới chỉ dừng lại
ở thiêt kê trên bản vẽ và cô bạn này mong
muốn có các doanh nghiệp đầu tư để mô hình
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 03/2019 40/41
Homestay có thể được thử nghiệm, đánh giá
kêt quả và ứng dung vào thực tê.
Với những lợi thê và tiềm năng ứng
dung, đề tài của Trần Thị Trúc Xinh đã đạt
giải Khuyên khích giải thưởng sinh viên
nghiên cứu khoa học Euréka do Thành đoàn
TP.HCM tổ chức năm 2018.
Nguồn: Hà Thế An, Khampha.vn,
28/02/2019
Trở về đầu trang
**************
Thêm 14 doanh nghiệp đạt chuẩn hội nhập được cấp 'giấy thông hành'
Bộ Khoa học và Công nghệ đã trao
giấy chứng nhận doanh nghiệp Hàng VN chất
lượng cao - chuẩn hội nhập cho 14 doanh
nghiệp, nâng số doanh nghiệp đạt chuẩn này
thành 102.
Hoạt động này nằm trong khuôn khổ Lê
tôn vinh 542 doanh nghiệp đạt danh hiệu Hàng
VN chất lượng cao năm 2019 do Hội doanh
nghiệp hàng VN chất lượng cao khởi xướng và
tổ chức tối ngày 20/02 tại TP.HCM.
Đây là năm thứ 23, Hội trao giấy chứng
nhận doanh nghiệp Hàng VN chất lượng cao
cho những doanh nghiệp xuất sắc trong quá
trình nâng cao chất lượng sản phẩm, đạt tiêu
chuẩn. 14 doanh nghiệp đạt chứng nhận Hàng
VN chất lượng cao chuẩn hội nhập lần này có
“tuổi đời” còn khá non trẻ. Đây là những
doanh nghiệp tiên phong trong việc xây dựng
tiêu chuẩn, chất lượng để vươn tầm quốc tê.
Cung với đợt trao giấy chứng nhận đầu
tiên vào năm 2018 (88 doanh nghiệp), đên nay
mới có 102 doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn này.
Con số này có thể sẽ tiêp tuc tăng thêm khi năm
2019 này, Hội sẽ tập trung ứng dung công nghệ,
tạo ra nền tảng số dung chung, chia sẻ nguồn
lực, marketing, xúc tiên thương mại, mang lại
giá trị to lớn cho doanh nghiệp với khẩu hiệu
“Số hóa, chuẩn hóa, chinh phuc thị trường”.
Phát biểu tại lê tôn vinh, ông Chu Ngọc
Anh, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ,
nhấn mạnh chặng đường 23 năm chương trình
Hàng VN chất lượng cao triển khai vào cuộc
sống đã nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ của
cộng đồng doanh nghiệp và người tiêu dung.
Những doanh nghiệp đạt danh hiệu
chứng nhận là những doanh nghiệp đã xây
dựng được văn hoá tiêu chuẩn, chất lượng
trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đây là
điển hình về ứng dung các hệ thống quản lý,
công cu cải tiên sản xuất, hệ thống cung ứng,
phân phối và phát triển thương hiệu sản phẩm
và đạt kêt quả sản xuất, kinh doanh nổi bật.
“Danh hiệu chứng nhận thực sự là một
sự tôn vinh xứng đáng cho những doanh
nghiệp đã nỗ lực đạt thành tích xuất sắc trong
việc nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vu,
năng lực cạnh tranh và hội nhập. Qua đó
chứng minh những cải tiên không ngừng nghỉ
của chương trình Hàng VN chất lượng cao về
cách nghĩ, cách làm, cách tiêp cận và hội nhập
thị trường trong nước và quốc tê”- Bộ trưởng
Chu Ngọc Anh cho biêt.
Bộ trưởng cũng hứa trong thời gian tới
sẽ tiêp tuc đồng hành cung Hội và doanh
nghiệp trong những hoạt động dài hơi để càng
nhiều doanh nghiệp ứng dung khoa học và
công nghệ, tiêu chuẩn chất lượng, đổi mới
sáng tạo nhằm tăng sức cạnh tranh cho sản
phẩm, dịch vu của doanh nghiệp.
Nguồn: Hà Thế An, Khampha.vn,
21/02/2019
Trở về đầu trang
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam Tháng 03/2019 41/41
B. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
I. Sở Khoa học và Công nghệ TP. Hồ Chí Minh
1. Nghiệm thu đề tài
TT Tên đề tài/Dự án Chủ nhiệm/CQ chủ trì
1 Mối liên hệ giữa loãng xương, thoái hóa khớp và các yêu
tố nguy cơ tim mạch
GS TS Nguyên Văn Khôi -
Trường Đại học Tôn Đức
Thắng
2 Đánh giá hiệu quả phiêu chăm sóc cải tiên của điều dưỡng Hội Điều Dưỡng TP.HCM