TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN ... · Cuốn “Hằng số sinh học ngƣời...

22
ĐẠI HC QUC GIA HÀ NI TRƯỜNG ĐẠI HC KHOA HC TNHIÊN --------------------------------- TRN LONG GIANG NGHIÊN CU MT SĐẶC ĐIỂM SINH HC VÀ NĂNG LỰC TRÍ TUCA HC SINH T6 ĐẾN 17 TUI, NGƯỜI DÂN TỘC KINH, H’MONG, DAO TNH YÊN BÁI DTHO TM TẮT LUN ÁN TIẾN SĨ SINH HỌC HÀ NI, 2016

Transcript of TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN ... · Cuốn “Hằng số sinh học ngƣời...

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN

---------------------------------

TRẦN LONG GIANG

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC

VÀ NĂNG LỰC TRÍ TUỆ CỦA HỌC SINH TỪ 6 ĐẾN 17 TUỔI,

NGƯỜI DÂN TỘC KINH, H’MONG, DAO Ở TỈNH YÊN BÁI

DỰ THẢO T M TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ SINH HỌC

HÀ NỘI, 2016

CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHO HỌC TỰ NHI N, ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Mai Văn Hưng

GS.TS. Đỗ Công Huỳnh

Phản biện 1: ...........................................................................................

Phản biện 2: ...........................................................................................

Phản biện 3: ...........................................................................................

Luận án sẽ đƣợc bảo vệ trƣớc Hội đồng cấp Đại học Quốc gia chấm luận án tiến sĩ họp tại Trƣờng Đại học Khoa học Tự

nhiên vào hồi giờ ngày tháng năm 20.....

Có thể tìm hiểu luận án tại:

- Thƣ viện Quốc gia Việt Nam;

- Trung tâm Thông tin - Thƣ viện, Đại học Quốc gia Hà Nội.

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Nâng cao chất lƣợng con ngƣời Việt Nam, bao gồm việc cải tạo các chỉ tiêu sinh học và nâng cao năng lực trí tuệ là rất

quan trọng, nhằm đào tạo ra những con ngƣời mới phục vụ nhu cầu xây dựng xã hội mới.

Với tiêu chí giáo dục toàn diện cho học sinh ở mọi lứa tuổi, ngành Giáo dục và Đào tạo đang trên con đƣờng đổi

mới nhằm nâng cao chất lƣợng dạy và học. Tuy nhiên, sự đổi mới này chỉ có hiệu quả khi áp dụng đúng với từng đối tƣợng

học sinh, phù hợp với năng lực nhận thức của ở từng lứa tuổi. Do đó, nghiên cứu về các đặc điểm sinh học và năng lực trí tuệ

của học sinh là rất cần thiết.

Đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về các chỉ số sinh học và năng lực trí tuệ trên các đối tƣợng học sinh,

sinh viên. Tuy nhiên những nghiên cứu này còn ít, chƣa phản ánh đầy đủ về năng lực trí tuệ và các chỉ số sinh học đa dân tộc

ở nƣớc ta hoặc là đã đƣợc tiến hành khá lâu không còn phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của nƣớc ta hiện nay. Do đó

cần có những nghiên cứu tiếp trên các đối tƣợng thuộc các dân tộc ít ngƣời đang sinh sống tại các vùng miền núi, vùng sâu,

vùng xa trên cả nƣớc.

Yên Bái là tỉnh miền núi nằm sâu trong nội địa có diện tích tự nhiên 6888 km2, dân số 75 vạn ngƣời với 30 dân tộc

anh em. Những nghiên cứu về năng lực trí tuệ và các chỉ số sinh học của các đối tƣợng học sinh trên địa bàn này là rất cần

thiết. Qua đó chúng ta có đƣợc các dữ liệu khoa học phục vụ cho việc đề xuất các giải pháp đúng đắn trong cải tiến phƣơng

pháp giáo dục, rèn luyện thể chất, chăm sóc sức khỏe nhằm nâng cao chất lƣợng con ngƣời Việt Nam nói chung và các dân

tộc thiểu số vùng cao nói riêng.

Chính vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học và năng lực trí tuệ của học sinh

từ 6 đến 17 tuổi người dân tộc Kinh, H,mong, Dao ở tỉnh Yên Bái”.

Mục tiêu của đề tài

- Xác định một số chỉ số hình thái, một số chỉ số chức năng (tuần hoàn, hô hấp, phản xạ) của học sinh từ 6 đến 17

tuổi ở tỉnh Yên Bái trong giai đoạn hiện nay;

- Đánh giá một số chỉ số về năng lực trí tuệ của học sinh các dân tộc theo lứa tuổi và giới tính;

- Xác định mối tƣơng quan giữa chiều cao đứng với các thông số hô hấp, giữa IQ với trí nhớ ngắn hạn, độ tập

trung chú ý, phản xạ cảm giác - vận động, cảm xúc và với khả năng vƣợt khó của học sinh.

Những điểm mới của đề tài

- Đã xác định đƣợc thực trạng và sự phát triển một số chỉ số hình thái - thể lực, chỉ số chức năng tuần hoàn, hô

hấp, thần kinh và năng lực trí tuệ của học sinh các dân tộc Kinh, Dao, H’mong lứa tuổi từ 6 đến 17 tại tỉnh Yên Bái. Những

số liệu này chƣa có trong bất cứ nghiên cứu nào từ 10 năm trở lại đây.

- Tìm thấy gia tốc tăng trƣởng hình thái không đồng đều qua các lớp tuổi của học sinh trong quá trình tăng trƣởng,

từ đó có thể đề xuất các giải pháp phù hợp cho mỗi giai đoạn tăng trƣởng khác nhau nhằm nâng cao chất lƣợng hình thái

ngƣời các dân tộc khác nhau tại Việt Nam.

- Khi xem xét sự phân bố theo mức trí tuệ của học sinh giữa các dân tộc, chúng tôi thấy tỷ lệ học sinh đạt mức IQ

trên trung bình và xuất sắc ở học sinh H’mong có giá trị lớn hơn so với ở học sinh Kinh và Dao. Đây là những dữ liệu rất có

ý nghĩa cho các nhà quản lý giáo dục trong việc tạo môi trƣờng học tập thuận lợi cho con em các dân tộc đƣợc phát huy tiềm

năng trí tuệ của mình để góp phần xóa bỏ khoảng cách về chất lƣợng giáo dục giữa học sinh vùng thấp và học sinh dân tộc

thiểu số ở vùng cao.

- Tìm thấy mối tƣơng quan giữa một số chỉ số trí tuệ của học sinh, trên cơ sở các kết quả này giúp cho giáo viên

ứng dụng vào thực tiễn dạy học theo phƣơng pháp phân hóa và phát triển năng lực, năng khiếu bẩm sinh của cá nhân học

sinh.

Chương 1.

TỔNG QU N TÀI LIỆU

1. KHÁI QUÁT VỀ CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN Ở TRẺ EM

Sự tăng trưởng ở trẻ em từ 6 tuổi cho đến trước tuổi dậy thì.

Ở giai đoạn này quá trình sinh trƣởng diễn ra tƣơng đối đồng đều, trung bình mỗi năm chiều cao tăng khoảng 4 – 5

cm và cân nặng tăng thêm 2 – 3 kg. Các cơ bắp ở tay và chân phát triển mạnh, nên động tác phát triển mạnh mẽ.

Sự tăng trưởng của trẻ em ở giai đoạn dậy thì.

Ở giai đoạn này, ngoài tác động của các yếu tố dinh dƣỡng và môi trƣờng nhƣ giai đoạn đầu, sự tăng trƣởng còn

chịu ảnh hƣởng của sự trƣởng thành tính dục.

Sự tăng đột biến về chiều cao thƣờng xuất hiện sau 2 năm khi có các biểu hiện sinh dục thứ cấp và khoảng 1 năm

trƣớc khi có biểu hiện dậy thì hoàn toàn.

2. CÁC CHỈ SỐ HÌNH THÁI – THỂ LỰC CỦA TRẺ EM

2.1. Các chỉ số hình thái – thể lực

Mục đích của những nghiên cứu này là nhằm tìm biện pháp nâng cao sức khỏe, thể lực cho con ngƣời ở những

vùng sinh thái khác nhau, đáp ứng việc phát triển sản xuất và nâng cao chất lƣợng cuộc sống, nhất là thời đại ngày nay.

2.2. Các nghiên cứu về hình thái – thể lực ở Việt Nam

Từ năm 1954 đến nay, việc nghiên cứu hình thái học đã đƣợc đẩy mạnh và chuyên môn hóa, thể hiện qua việc

thành lập bộ môn hình thái học ở một số trƣờng đại học và viện nghiên cứu.

Cuốn “Hằng số sinh học ngƣời Việt Nam” xuất bản năm 1975 do Nguyễn Tấn Gi Trọng chủ biên là công trình đầu

tiên nêu ra khá đầy đủ các thông số về thể lực ngƣời Việt Nam ở mọi lứa tuổi, trong đó có lớp tuổi từ 18 đến 25.

Cuốn “Các giá trị sinh học ngƣời Việt Nam thập kỷ 90 thế kỷ XX” đã nêu thực trạng các giá trị sinh học ngƣời Việt

Nam với một phổ thông tin tƣơng đối đa dạng và có ý nghĩa chủ yếu phục vụ cho ngành y tế.

Ngoài ra, còn nhiều tác giả khác cũng nghiên cứu về hình thái - thể lực ngƣời Việt Nam nhƣ Võ Hƣng, Lê Nam

Trà, Nghiêm Xuân Thăng, Trần Đình Long, Đào Mai Luyến, Tạ Thúy Lan, Trần Thị Loan, Mai Văn Hƣng, Hoàng Quý Tỉnh,

Nguyễn Thị Bích Ngọc,…

3. CÁC CHỈ SỐ CHỨC NĂNG CỦA CÁC HỆ THỐNG CƠ QUAN

3.1. Các thông số thông khí phổi

Nhiều tác giả đã nghiên cứu về dung tích sống và các chức năng hô hấp. Phần lớn các công trình nghiên cứu chức

năng phổi của trẻ em Việt Nam tập trung vào các chỉ tiêu thông khí phổi nhƣ dung tích sống, khí lƣu thông, khí bổ trợ, khí dự

trữ và sự biến đổi các chỉ tiêu này theo lứa tuổi và theo giới tính, nhƣ các nghiên cứu nêu trong cuốn “Hằng số sinh học

ngƣời Việt Nam” và “Các giá trị sinh học ngƣời Việt Nam thập kỷ 90 thế kỷ XX”, của Trịnh Bỉnh Dy và cs, Nguyễn Văn

Tƣờng và cs, Trần Thị Loan, Đỗ Hồng Cƣờng, Nguyễn Thị Bích Ngọc,…

3.2. Tần số tim, huyết áp động mạch

Ở Việt Nam cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về tần số tim và huyết áp của trẻ em, nhƣ “Hằng số sinh học

ngƣời Việt Nam”, “Các giá trị sinh học ngƣời Việt Nam thập kỷ 90 thế kỷ XX”, của Trần Đỗ Trinh và cs, Đoàn Yên và cs,

Nguyễn Văn Mùi, Trần Thị Loan, Đỗ Hồng Cƣờng, Nguyễn Thị Hiên,…

3.3. Điện tâm đồ

3.3.1. Một số đặc điểm về các thông số điện tâm đồ cơ bản ở trẻ em

Điện tâm đồ là một đƣờng cong, đồ thị tuần hoàn, ghi lại các biến thiên của các điện lực do tim phát ra trong các

hoạt động co bóp. Một số thông số điện tâm đồ: trục QRS, khoảng PQ, QRS, QT, các sóng P, Q, R, S,…

3.3.2. Các nghiên cứu về điện tâm đồ của trẻ em ở Việt Nam

Các công trình nghiên cứu về điện tâm đồ ở nƣớc ta từ trƣớc đến nay không nhiều, phần lớn tập trung trong lĩnh

vực y học, nhƣ “Hằng số sinh học ngƣời Việt Nam” và “Các giá trị sinh học ngƣời Việt Nam bình thƣờng thập kỷ 90 – thế kỷ

XX”, của Trần Đỗ Trinh, Đào Mai Luyến, Mai Văn Hƣng, Phạm Hữu Hòa và cs, Nguyễn Xuân Cẩm Huyên,…

3.4. Phản xạ cảm giác – vận động

Phản xạ là phản ứng của cơ thể đối với các tác nhân kích thích tác động từ môi trƣờng bên trong hoặc bên ngoài cơ

thể. Ở Việt Nam, có một số công trình nghiên cứu về thời gian phản xạ cảm giác - vận động, nhƣ của Đỗ Công Huỳnh và cs,

Trần Thị Loan, Tạ Thúy Lan, Mai Văn Hƣng, Nguyễn Thị Bích Ngọc,…

4. ĐẶC ĐIỂM TRÍ TUỆ CỦA TRẺ EM

4.1. Trí tuệ

Theo quan điểm hiện nay, trí tuệ đƣợc coi là năng lực thích ứng.Những nghiên cứu về trí tuệ của học sinh Việt Nam

chủ yếu đƣợc thực hiện từ những năm cuối của thập kỷ 80 thế kỷ XX đến nay, nhƣ của Ngô Công Hoàn, Võ Văn Toàn và cs,

Trần Thị Loan, Tạ Thúy Lan, Nguyễn Thị Bích Ngọc, Nguyễn Thị Hiên,…

4.2. Trí nhớ

Trí nhớ là sự tiếp nhận và tái hiện những sự vật, hiện tƣợng mà con ngƣời đã cảm giác, đã suy nghĩ, đã hành

động.Những nghiên cứu về trí nhớ ở Việt Nam tiêu biểu nhƣ của Nghiêm Xuân Thăng, Trần Thị Loan, Phạm Minh Hạc, Tạ

Thúy Lan,…

4.3. Chú ý

Chú ý có tác dụng hƣớng các quá trình này tập trung vào một hay một số đối tƣợng, tạo điều kiện cho đối tƣợng

đƣợc phản ánh một cách tốt nhất. Ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về khả năng chú ý trên các đối tƣợng khác

nhau, nhƣ của Nghiệm Xuân Thăng, Trần Thị Loan, Mai Văn Hƣng, Tạ Thúy Lan,…

4.4. Trạng thái cảm xúc

Theo Pavlov, cảm xúc là mối liên quan giữa nhu cầu và khả năng đáp ứng nhu cầu, cơ sở của cảm xúc là sự hƣng

phấn các trung tâm dƣới vỏ não và các quá trình sinh lý do hệ thần kinh thực vật gây ra. Ở Việt Nam, cảm xúc cũng đƣợc

nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu nhƣ Phạm Minh Hạc, Tạ Thúy Lan,…

4.5. Khả năng vượt khó

Chỉ số vƣợt khó là đại lƣợng đo khả năng đối diện và xoay sở của một ngƣời trƣớc các thay đổi, áp lực và các tình

huống khó khăn trong cuộc sống. Theo Paul G.Sloltz, chỉ số AQ của một ngƣời đƣợc biểu hiện bằng bốn chỉ số: C (kiểm

soát, điều khiển), O (quyền sở hữu), R(phạm vi hoạt động), E (tính nhẫn nại).

5. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VĂN H A – ĐỜI SỐNG NGƢỜI DAO VÀ H’MONG

5.1. Người Dao

Địa bàn cƣ trú của ngƣời Dao chủ yếu ở rẻo giữa - vùng tiếp giáp giữa vùng thấp và vùng cao. Ngƣời Dao hiện nay

chủ yếu trồng quế, lúa nƣơng và làm ruộng lúa nƣớc, trồng hoa màu, có nhiều nghề thủ công nhƣ dệt vải, rèn, mộc, làm giấy,

chăn nuôi gia súc. Trong đời sống, ngoài những nghi lễ trong gia đình, bản làng, ngƣời Dao còn có tục cấp sắc, tết nhảy, cúng

Bàn Vƣơng.

5.2. Người H’mong

Ngƣời H’mong thƣờng cƣ trú ở vùng núi cao, vùng đầu nguồn, có khí hậu khắc nghiệt, thiếu nƣớc sản xuất và sinh

hoạt và điều đó đã quyết định hình thái sản xuất của họ. Nông nghiệp trồng trọt là nguồn sống chính của ngƣời H’mong. Tập

quán sinh đẻ và nuôi dạy con cái của ngƣời H’mong có nhiều nghi thức, nghi lễ.

CHƢƠNG 2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu

Mẫu nghiên cứu hính thái gồm 7781 học sinh từ 6 đến 17 tuổi, mẫu nghiên cứu các chỉ số năng lực trí tuệ - chức

năng hệ thần kinh gồm 3701 học sinh từ 8 đến 17 tuổi, mẫu nghiên cứu các chỉ số hô hấp gồm 3230 học sinh và mẫu nghiên

cứu các chỉ số tuần hoàn, điện tâm đồ gồm 1825 học sinh từ 7 đến 15 tuổi.

2.2. Các chỉ số nghiên cứu

Các chỉ số về hình thái - thể lực gồm CCĐ, cân nặng, VNTB, chỉ số Pignet, chỉ số BMI; các chỉ số chức năng tuần

hoàn gồm tần số tim, huyết áp động mạch; trục điện tim; biên độ và thời gian sóng P; biên độ các sóng Q, R, S, T và thời gian

PQ, QRS, QT; các chỉ số chức năng hô hấp gồm tần số hô hấp, VC, FVC, FEV1 và chỉ số Tiffeneau; các chỉ số chức năng hệ

thần kinh gồm TGPX thị giác - vận động và TGPX thính giác - vận động và các chỉ số về năng lực trí tuệ gồm IQ, EQ, AQ,

trí nhớ ngắn hạn thị giác, trí nhớ ngắn hạn thính giác và chú ý.

2.3. Phương pháp nghiên cứu

2.3.1. Thiết kế nghiên cứu

2.3.2. Phương pháp tính tuổi

Tuổi của các đối tƣợng đƣợc tính theo quy ƣớc chung của WHO.

2.3.3. Phương pháp chọn mẫu và cỡ mẫu

Mẫu lớn đƣợc chọn dựa vào công thức:

22 2

2

S .t S.tn = =

d d

Riêng trong nghiên cứu điện tâm đồ, chúng tôi chia thành 3 nhóm tuổi theo WHO: 7 ÷ 9, 10 ÷ 12, 13 ÷ 15 tuổi.

Theo Davignon, mỗi nhóm phải có ít nhất là 100 ngƣời. Do đó, chúng tôi chọn n ≥ 100 cho mỗi nhóm tuổi.

2.3.4. Phương pháp nghiên cứu các chỉ số sinh học

2.3.5. Phương pháp nghiên cứu các chỉ số về năng lực trí tuệ

2.4. Phương pháp xử lý số liệu

CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN

3.1. Các chỉ số hình thái và chức năng một số hệ cơ quan của học sinh

3.1.1. Chiều cao đứng

Chiều cao đứng (CCĐ) của học sinh tăng dần theo tuổi, tăng trung bình mỗi năm khoảng 4,92 ÷ 5,0cm đối với nam

và 4,19 ÷ 4,34cm đối với nữ. Thời điểm tăng nhảy vọt về CCĐ của nam muộn hơn so với ở nữ khoảng 1 ÷ 2 năm.

CCĐ của nam và nữ ít có sự chênh lệch ở giai đoạn từ 6 đến 11 tuổi.Từ 12 đến 14 tuổi, CCĐ của nữ lớn hơn so với

ở nam, còn ở lứa tuổi 15 ÷ 17, CCĐ của nam lại lớn hơn rõ so với ở nữ.

CCĐ của nam, nữ dân tộc Kinh và Dao lớn hơn nhiều so với của nam, nữ dân tộc H’mong ở hầu hết các lứa

tuổi.CCĐ của nam, nữ dân tộc Kinh chỉ lớn hơn so với của nam, nữ dân tộc Dao ở một số lứa tuổi.

Hình 3.1. Đồ thị biểu diễn CCĐ của học sinh theo tuổi, dân tộc và giới tính

So với kết quả CCĐ học sinh trong những nghiên cứu gần đây của Đỗ Hồng Cƣờng tại Hòa Bình và của Nguyễn

Thị Bích Ngọc tại Vĩnh Phúc và Phú Thọ thì CCĐ của học sinh dân tộc Kinh và Dao tại Yên Bái có giá trị tƣơng đƣơng, còn

CCĐ của dân tộc H’mong có giá trị nhỏ hơn ở nhiều lứa tuổi.

So sánh với kết quả CCĐ của quần thể tham chiếu của Mỹ giai đoạn 2007 ÷ 2010 và giá trị của quần thể tham

chiếu của WHO năm 2007 cho thấy, CCĐ của học sinh cùng lứa tuổi ngƣời dân tộc Kinh, Dao, H’mong trong nghiên cứu của

chúng tôi có giá trị thấp hơn từ 10 đến hơn 20 cm.

3.1.2. Cân nặng

Cân nặng của nam và nữ đều tăng dần từ 6 ÷ 17 tuổi. Trong đó, cân nặng của nam tăng trung bình khoảng

2,73÷2,85 kg/năm, cân nặng của nữ tăng trung bình khoảng 2,46 ÷ 2,53 kg/năm. Tốc độ tăng cân nặng của học sinh không

đồng đều, tăng nhanh nhất ở nam lúc 15 tuổi và ở nữ lúc 14 tuổi.

Ở giai đoạn 6 ÷ 10 tuổi và 15 ÷ 17 tuổi, cân nặng của học sinh nam lớn hơn so với ở nữ, giai đoạn 11 ÷ 12 tuổi cân

nặng của học sinh nam và nữ có giá trị tƣơng đƣơng, còn ở giai đoạn 13 ÷ 14 tuổi thì cân nặng của nữ lại lớn hơn so với ở

nam.

Cân nặng của nam, nữ dân tộc Kinh lớn hơn nhiều so với cân nặng của nam, nữ dân tộc Dao và H’mong ở tất cả

các lứa tuổi nghiên cứu.

So với kết quả cân nặng trong nghiên cứu của Đỗ Hồng Cƣờng và của Nguyễn Thị Bích Ngọc thì cân nặng của học

sinh Kinh có giá trị tƣơng đƣơng, trong khi cân nặng của học sinh Dao và H’mong có giá trị nhỏ hơn ở một số lứa tuổi.

Hình 3.2.Đồ thị biểu diễn cân nặng của học sinh theo tuổi, dân tộc và giới tính

So sánh với kết quả chiều cao đứng của quần thể tham chiếu của Mỹ giai đoạn 2007 ÷ 2010 cho thấy, cân nặng của

học sinh cùng lứa tuổi ngƣời dân tộc Kinh, Dao, H’mong trong nghiên cứu của chúng tôi có giá trị thấp hơn từ 15 ÷ 30kg.

3.1.3. Vòng ngực trung bình

VNTB của học sinh nam tăng trung bình mỗi năm 1,87 ÷ 1,95 cm, của nữ tăng trung bình mỗi năm 1,86 ÷1,89 cm.

VNTB của học sinh nam có giá trị lớn hơn so với của học sinh nữ ở hầu hết các lứa tuổi với p<0,05 (trừ lứa tuổi 14 ÷ 15,

VNTB của nam có giá trị nhỏ hơn so với của nữ). VNTB của nam tăng nhanh nhất ở tuổi 16, còn của nữ tăng nhanh sớm hơn

2 năm. Tốc độ tăng VNTB của học sinh nam lớn hơn so với của học sinh nữ.

Hình 3.3.Đồ thị biểu diễn VNTB của học sinh theo tuổi, dân tộc và giới tính

VNTB của học sinh Kinh lớn hơn so với của học sinh Dao và H’mong ở nhiều lứa tuổi, tuy nhiên giai đoạn 9 ÷ 14

tuổi ở cả nam và nữ sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

VNTB của học sinh trong nghiên cứu của chúng tôi có giá trị lớn hơn so với số liệu nêu trong cuốn HSSH, GTSH,

của Tạ Thúy Lan và cs, nhƣng lại có giá trị tƣơng đƣơng ở hầu hết các lứa tuổi so với nghiên cứu của nhiều tác giả khác.

3.1.4. Chỉ số BMI

Chỉ số BMI của cả nam và nữ đều tăng dần theo tuổi. Chỉ số BMI của nam tăng trung bình mỗi năm khoảng 0,23 ÷

0,27 kg/m2 và của nữ tăng trung bình mỗi năm 0,30 ÷ 0,37 kg/m2. Thời điểm tăng nhanh chỉ số BMI của học sinh cũng diễn

ra cùng thời điểm tăng nhanh về cân nặng và muộn hơn so với thời điểm tăng nhanh về CCĐ.

Tốc độ tăng chỉ số BMI của học sinh nam nhanh nhất ở nam lúc 15 tuổi (tăng 0,74 ÷ 0,87 kg/m2) và ở nữ lúc 14

tuổi (tăng 0,94 ÷ 1,08 kg/m2).

Chỉ số BMI của học sinh Kinh có giá trị lớn hơn so với của học sinh Dao và học sinh H’mong ở tất cả các lứa tuổi

đối với nam và lớn hơn so của học sinh Dao ở các lứa tuổi 6, 7, 12, 13; của học sinh H’mong ở các lứa 9, 17 đối với nữ. Chỉ

số BMI của học sinh dân tộc Dao có giá trị tƣơng đƣơng so với của học sinh H’mong ở hầu hết các lứa tuổi đối với nam và

nhỏ hơn ở các lứa tuổi 9 ÷ 11, 14, 17 đối với nữ.

So với kết quả chỉ số BMI trong nghiên cứu của Nguyễn Văn Mùi và số liệu nêu trong cuốn GTSH thì BMI của

học sinh các dân tộc trong nghiên cứu của chúng tôi có giá trị lớn hơn ở nhiều nhóm tuổi.

So với kết quả nghiên cứu của Trần Thị Loan trên học sinh Hà Nội cách đây hơn 15 năm và so với kết quả nghiên

cứu của Đỗ Hồng Cƣờng trên học sinh dân tộc Kinh ở Hòa Bình, của Nguyễn Thị Bích Ngọc trên học sinh dân tộc Kinh ở

Phú Thọ và Vĩnh Phúc thì nhìn chung chỉ số BMI của học sinh Kinh trong nghiên cứu của chung tôi có giá trị tƣơng đƣơng.

So sánh với kết quả BMI của quần thể tham chiếu của Mỹ giai đoạn 2007 ÷ 2010 và giá trị của quần thể tham chiếu

của WHO năm 2007 cho thấy, BMI của học sinh cùng lứa tuổi ngƣời dân tộc Kinh, Dao, H’mong trong nghiên cứu của

chúng tôi có giá trị thấp hơn nhiều. Tuy nhiên, khi so sánhvới tiêu chuẩn của WHO dành cho ngƣời châu Á thì giá trị BMI

trung bình của học sinh ba dân tộc ở tất cả các lứa tuổi nghiên cứu vẫn nằm trong giới hạn thể trạng bình thƣờng.

3.1.5. Chỉ số Pignet

Chỉ số Pignet của học sinh nam tăng dần từ 6 ÷ 14 tuổi, sau đó giảm dần ở 15 ÷17 tuổi; chỉ số Pignet của nữ tăng

dần từ 6 ÷ 13 tuổi, từ 14 ÷ 17 tuổi chỉ số này giảm dần. Điều này là do ở lứa tuổi nhỏ CCĐ của học sinh tăng nhanh hơn so

với cân nặng và vòng ngực, còn ở lứa tuổi 15 ÷ 17 ở nam và 14 ÷ 17 tuổi ở nữ thì cân nặng và vòng ngực lại phát triển nhanh

hơn CCĐ. Ở cả ba dân tộc, thời điểm giảm nhanh Pignet của nam xuất hiện lúc 16 tuổi và của nữ là lúc 15 tuổi. Hầu nhƣ

không có sự khác biệt về chỉ số này ở học sinh nam giữa các dân tộc. Đối với nữ, nữ Kinh có chỉ số Pignet nhỏ hơn so với nữ

Dao ở giai đoạn 15 ÷ 17 tuổi, nhƣng lại lớn hơn so với nữ H’mong ở giai đoạn 8 ÷ 14 tuổi. Nữ dân tộc Dao có chỉ số Pignet

lớn hơn so với của nữ dân tộc H’mong ở các lứa tuổi từ 8 ÷ 17 tuổi.

Chỉ số Pignet của học sinh trong nghiên cứu này có giá trị nhỏ hơn so với số liệu nêu trong cuốn GTSH, trong nghiên

cứu của Trần Đình Long và cs, của Tạ Thúy Lan và cs và tƣơng đƣơng với số liệu trong nghiên cứu của Nguyễn Thị Bích Ngọc.

3.1.6. Một số chỉ số chức năng tuần hoàn

3.1.6.1. Tần số tim

Tần số tim của học sinh giảm dần từ 7 đến 15 tuổi. Sự giảm tần số tim theo tuổi đƣợc giải thích bằng sự thay đổi nội

tại của nút xoang và sự thay đổi tác dụng của hệ thần kinh tự chủ lên tim. Tần số tim của học sinh nữ có giá trị cao hơn so với

tần số tim của học sinh nam ở học sinh của cả ba dân tộc; ở nhiều lứa tuổi sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05.

Tần số tim của học sinh Kinh, Dao, H’mong có giá trị tƣơng đƣơng nhau ở cả học sinh nam và nữ (p>0,05). Điều

này cho thấy, tần số tim của trẻ em không phụ thuộc nhiều vào di truyền, dinh dƣỡng và điều kiện sống.

3.1.6.2. Huyết áp động mạch

Huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trƣơng của học sinh nam và nữ ở cả 3 dân tộc đều tăng dần từ 7 đến 15 tuổi.

Trong đó, huyết áp tâm thu của nam tăng trung bình mỗi năm từ 1,87 ÷ 2,12mmHg, của nữ mỗi năm tăng trung bình từ 1,98

÷ 2,18 mmHg. Huyết áp tâm trƣơng của nam tăng trung bình 1,68 ÷ 1,78 mmHg/năm, của nữ tăng trung bình mỗi năm 1,81 ÷

1,97 mmHg. Thời điểm tăng nhanh huyết áp ở nam lúc 14 tuổi và ở nữ lúc 13 tuổi. Huyết áp động mạch của học sinh tăng

theo tuổi là do sự biến đổi về cấu tạo giải phẫu hệ tim - mạch. Kết quả này phù hợp với số liệu của nhiều tác giả khác.

Huyết áp động mạch của học sinh Kinh, Dao, H’mong có giá trị tƣơng đƣơng nhau ở cả học sinh nam và nữ

(p>0,05). Điều này cho thấy, huyết áp động mạch của trẻ em phụ thuộc vào tuổi và giới tính nhƣng không phụ thuộc nhiều

vào di truyền, dinh dƣỡng và điều kiện sống.

3.1.6.3. Một số thông số điện tâm đồ

Trục điện tim:

Trục điện tim trung bình của nam ở ba dân tộc dao động trong khoảng 53,97o ÷ 68,72o, của nữ dao động từ 62,64o

÷ 69,36o. Hầu hết số lƣợng học sinh trong nghiên cứu của chúng tôi có trục điện tim trung gian (tỷ lệ tƣơng ứng cho học sinh

Kinh, Dao, H’mong lần lƣợt là 98,69%, 98,68%, 99,01% số học sinh có trục điện tim trung gian), một tỷ lệ nhỏ số học sinh

có trục điện tim lệch phải và không có học sinh nào có trục điện tim lệch trái. Không có sự khác biệt giữa các dân tộc về tỷ lệ

(%) trục điện tim và góc α ở cả học sinh nam và nữ (p>0,05).

Thời gian PQ:

Thời gian PQ trung bình của học sinh tăng dần từ nhóm 7 ÷ 9 tuổi đến nhóm 13 ÷ 15 tuổi ở cả nam và nữ. Từ 7 đến

15 tuổi, thời gian PQ tăng thêm từ 11,33 ÷ 11,67 ms đối với nam và 9,69 ÷ 11,65 ms đối với nữ. Theo Gibson, thời gian PQ

tƣơng quan thuận với trọng lƣợng của cả hai nhĩ, do đó sự tăng kích thƣớc tâm nhĩ và chậm dẫn truyền tại nút nhĩ - thất dẫn

đến sự tăng theo tuổi của thời gian PQ. Kết quả về thời gian PQ của chúng tôi phù hợp với số liệu trong các công trình nghiên

cứu của nhiều tác giả khác.

Không có sự khác biệt giữa nam và nữ về thời gian PQ trong các nhóm tuổi vàkhông có sự khác biệt giữa học sinh

các dân tộc về thời gian PQ ở cả nam và nữ.

Thời gian QRS:

Thời gian QRS trung bình tăng theo tuổi từ nhóm 7 ÷ 9 tuổi đến nhóm 13 ÷ 15 tuổi, tăng 8,76 ÷ 9,68 ms đối với

nam và 10,24 ÷ 11,31 ms đối với nữ. Thời gian QRS tăng là do tăng trọng lƣợng tim. Davignon A. và cs cho biết trọng lƣợng tim

tăng 10 lần từ lúc sinh cho đến lúc 15 ÷ 16 tuổi.

Nam có thời gian QRS dài hơn ở nữ trong các nhóm 7÷ 9, 10 ÷ 12 tuổi. Ở nhóm 13 ÷ 15 tuổi, thời gian QRS ở nam

và nữ thuộc các dân tộc có giá trị tƣơng đƣơng.Không có sự khác biệt giữa học sinh các dân tộc về QRS ở cả nam và nữ.

Thời gian QT:

Thời gian QT trung bình tăng theo tuổi từ nhóm 7 ÷ 9 tuổi đến nhóm 13 ÷ 15 tuổi, tăng thêm 28,35 ÷ 32,97 ms đối

với nam và 29,19 ÷ 31,84 ms đối với nữ. Nhiều tác giả cho rằng QT thay đổi theo tuổi và tần số tim. QT tăng khi tần số tim

giảm. Sự phụ thuộc của thời gian QT vào tần số tim là một đặc tính nội tại của cơ tâm thất, thời gian điện thế động của tế bào

cơ tim ngắn lại khi tần số tim tăng.

Thời gian QRS của nam ở học sinh của cả ba dân tộc có xu hƣớng dài hơn so với của nữ trong tất cả các nhóm tuổi,

tuy nhiên các sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê. Không có sự khác biệt giữa học sinh các dân tộc về thời gian QT ở

cả nam và nữ.

Biên độ sóng P:

Biên độ sóng P ở chuyển đạo D2 không có sự khác biệt giữa các nhóm tuổi, có giá trị trung bình khoảng 10,17.10-

1mm, thay đổi từ 3.10-1mm đến 25.10-1mm. Biên độ sóng P cho thông tin không nhiều về thể tích và trọng lƣợng nhĩ phải

mà cho thông tin về trọng lƣợng nhĩ trái theo kiểu âm tính, nghĩa là sóng P càng dẹt thì trọng lƣợng nhĩ trái càng lớn. Ngoài

ra còn nhiều yếu tố khác ảnh hƣởng lên biên độ sóng P nhƣ vị trí tim trong lồng ngực, hô hấp, tần số tim, bề dày của thành

ngực và kỹ thuật đo.

Biên độ P2 của nam và nữ ở cả ba dân tộc đều không có sự khác biệt. Không có sự khác biệt giữa học sinh các dân

tộc về biên độ sóng P2 ở cả nam và nữ.

Thời gian sóng P:

Thời gian sóng P tăng theo tuổi từ nhóm 7 ÷ 9 tuổi đến nhóm 13 ÷ 15 tuổi, tăng 10,51 ÷ 13,23 ms đối với nam và 9,74

÷ 11,10 ms đối với nữ. Nhiều tác giả cho rằng, thời gian sóng P ở trẻ em dài trên 100 ms là tiêu chuẩn chẩn đoán dày nhĩ trái,

nhƣng trong nghiên cứu của Okuni và Nguyễn Xuân Cẩm Huyên cũng cho kết quả giới hạn trên là 120ms giống nhƣ kết quả ở

nhóm 13 ÷ 15 tuổi trong nghiên cứu này.

Thời gian P2 của nam và nữ ở cả ba dân tộc đều không có sự khác biệt. Và cũng không có sự khác biệt giữa học

sinh các dân tộc về thời gian sóng P2.

Biên độ sóng Q:

Biên độ sóng Q của học sinh 7 ÷ 15 tuổi cao nhất đƣợc xác định tại chuyển đạo D3 và V6. Tại chuyển đạo D3, biên

độ sóng Q có giới hạn trên là 4,5 mm và tại V6 là 4,0 mm, nhƣ vậy là không có trƣờng hợp nào có biên độ sóng Q ≥ 5 mm.

Tại chuyển đạo D3, biên độ sóng Q giảm từ nhóm 7 ÷ 9 tuổi đến nhóm 13 ÷ 15 tuổi, giảm 2,90.10-1 ÷ 3,00.10-1 mm đối với

nam và 3,83.10-1 ÷ 4,02.10-1 mm đối với nữ. Tại chuyển đạo V6, biên độ sóng Q cũng giảm từ 1,75.10-1 ÷ 2.10-1 mm đối

với nam và 4,87.10-1 ÷ 5,09.10-1 mm đối với nữ.

Biên độ sóng Q3 của học sinh nam và nữ ở cả ba dân tộc đều không có sự khác biệt. Không có sự khác biệt giữa

học sinh giữa các dân tộc về biên độ Q3.

Biên độ sóng R:

Ở chuyển đạo D2, biên độ sóng R tăng ở nam. Điều này phù hợp với sự thay đổi của trục điện tim ở nam, trục này

trở nên dọc hơn ở nhóm 13÷15 tuổi. Biên độ sóng R giảm ở V4. Điều này cho thấy ƣu thế của tâm thất phải đã giảm dần. Ở

nữ, biên độ sóng R giảm từ nhóm 7 ÷ 9 tuổi đến nhóm 13 ÷ 15 tuổi ở chuyển đạo V4, nguyên nhân là do bề dày thành ngực

tăng lên làm giảm tín hiệu điện thế. Biên độ sóng R cũng giảm ở cả chuyển đạo.

Biên độ R2 và RV4 của nam lớn hơn so với của nữ ở các nhóm 10 ÷ 12, 13 ÷ 15 tuổi. Không có sự khác biệt giữa

học sinh các dân tộc về biên độ R2 và RV4.

Biên độ sóng S:

Đối với nam, biên độ sóng S tăng từ nhóm 7 ÷ 9 tuổi đến nhóm 13 ÷ 15 tuổi. Sự thay đổi này là do tâm thất trái

tăng ƣu thế so với tâm thất phải.

Đối với nữ, biên độ sóng S giảm từ nhóm 7 ÷ 9 tuổi đến nhóm 13 ÷ 15 tuổi, nguyên nhân cũng là do bề dày thành

ngực tăng lên làm giảm tín hiệu điện thế.

Biên độ SV1 của nam nhỏ hơn so với của nữ ở nhóm 7 ÷ 9 tuổi và lớn hơn ở 13 ÷ 15 tuổi. Không có sự khác biệt

giữa học sinh các dân tộc về biên độ SV1.

Biên độ sóng T:

Biên độ sóng T trung bình của học sinh nam từ 7 ÷ 15 tuổi dao động xung quanh 66,5.10-1 mm, thay đổi từ 2,5 mm

đến 13,5 mm và của học sinh nữ dao động xung quanh 52,20.10-1mm, thay đổi từ 1,0mm đến 13mm. Số liệu của chúng tôi

phù hợp với kết quả nghiên cứu của Garson là biên độ sóng TV5 phải nhỏ hơn 14mm.

Sự thay đổi biên độ Ttheo tuổi cũng phụ thuộc vào giới tính. Đối với nam, biên độ sóng TV5 tăng theo tuổi. Đối

với nữ, biên độ sóng TV5 giảm theo tuổi.

Biên độ TV5 của nam lớn hơn so với của nữ ở các nhóm 10÷12, 13÷15 tuổi. Không có sự khác biệt giữa học sinh

các dân tộc về biên độ TV5 ở cả nam và nữ.

Nhƣ vậy, sự thay đổi theo tuổi của một số thông số điện tâm đồ có thể giống nhau hoặc khác nhau tùy thuộc vào

giới tính. Không có sự khác biệt về các thông số điện tâm đồ của học sinh giữa các dân tộc trong nghiên cứu này.

Khi so sánh với kết quả nghiên cứu của một số tác giả khác chúng tôi thấy có sự khác biệt về một số thông số điện

tâm đồ giữa trẻ em và ngƣời lớn. Đó là, trẻ em có tần số tim cao hơn; thời gian PQ, QRS, QT ngắn hơn; trục điện tim dọc hơn

và điện thế tất cả các sóng đều có giá trị lớn hơn và dao động trong một giới hạn rộng hơn so với ở ngƣời lớn.

3.1.7. Một số chỉ số chức năng hô hấp

3.1.7.1. Tần số hô hấp

Tần số hô hấp của học sinh giảm dần từ 7 đến 15 tuổi. Sự chênh lệch về tần số hô hấp của học sinh giữa các lứa

tuổi gần kề là không đáng kể, tuy nhiên với khoảng cách từ 3 lứa tuổi trở lên sự khác biệt về tần số hô hấp là có ý nghĩa thống

kê. Thời điểm giảm nhanh tần số hô hấp của nam xuất hiện lúc 15 tuổi muộn hơn so với của học sinh nữ khoảng 1 năm. Theo

chúng tôi, trẻ càng lớn, thể tích phổi càng tăng, cơ hoành và các cơ liên sƣờn ngày càng hoàn thiện, thể tích lƣu thông khí

tăng lên, trong khi nhu cầu oxy giảm dần là nguyên nhân dẫn đến tần số hô hấp giảm dần theo tuổi.

Hầu nhƣ không có sự khác biệt về tần số hô hấp giữa nam và nữ của cả ba dân tộc.Riêng ở lứa tuổi 14, tần số hô

hấp của học sinh nam có giá trị lớn hơn so với của học sinh nữ. Không có sự khác biệt rõ rệt giữa học sinh các dân tộc về tần

số hô hấp ở cả nam và nữ.

3.1.7.2. Dung tích sống

Dung tích sống của học sinh tăng dần từ 7 đến 15 tuổi. Nguyên nhân là do thể tích lồng ngực ngày càng tăng, hệ

thống hô hấp ngày càng hoàn thiện dẫn đến dung tích sống của trẻ em cũng tăng dần theo tuổi. Thực tế cho thấy, dung tích

sống có mối tƣơng quan thuận chặt với tình trạng thể lực và CCĐ của cơ thể, do đó chỉ số này thay đổi theo tuổi, giới tính và

theo dân tộc. Dung tích sống của nam lớn hơn so với của học sinh nữ.

Dung tích sống của học sinh dân tộc Kinh lớn hơn so với của học sinh Dao và H’mong, của học sinh dân tộc Dao

có giá trị lớn hơn so với của học sinh H’mong ở nhiều lứa tuổi. Điều này đƣợc lý giải là do sự khác biệt về CCĐ của học sinh

giữa các dân tộc dẫn đến sự khác biệt về dung tích sống nhƣ trên.

Thời điểm tăng nhanh VC của nữ (13 ÷ 14 tuổi) diễn ra sớm hơn so với của nam khoảng 1 năm. Thời điểm này

trùng với thời điểm tăng nhảy vọt về CCĐ. Điều này thể hiện mối liên quan giữa VC với chiều cao cơ thể và tuổi dậy thì của

trẻ.

VC của nam có giá trị lớn hơn so với ở nữ ở các lứa tuổi 10 ÷ 12 và 15. Còn ở các lứa tuổi khác, VC của học sinh

nam và nữ thƣờng có giá trị tƣơng đƣơng.

VC của nữ Kinh và Dao hầu nhƣ không có sự khác biệt, còn VC của nam Kinh lớn hơn so với của nam Dao ở các

lứa tuổi 8 ÷ 11, 13 và 15.VC của học sinh Kinh lớn hơn so với của học sinh H’mong ở tất cả các lứa tuổi nghiên cứu đối với

cả.VC của học sinh Dao và H’mong không có sự khác biệt ở hầu hết các lứa tuổi.

So sánh với kết quả trong một số nghiên cứu gần đây thì VC của học sinh Kinh trong nghiên cứu của chúng tôi có giá

trị tƣơng đƣơng ở đa số các lứa tuổi, còn của học sinh Dao và H’mong có giá trị thấp hơn. Khi so sánh với số liệu trong nghiên

cứu trƣớc đây nêu trong cuốn HSSH và nghiên cứu trên đối tƣợng học sinh tại huyện Yên Bình, Yên Bái và huyện Sa Pa, Lào

Cai thì VC của học sinh Kinh trong nghiên cứu của chúng tôi có giá trị lớn hơn. Điều này càng khẳng định mối tƣơng quan thuận

giữa dung tích sống và CCĐ.

3.1.7.3. Dung tích sống thở mạnh

FVC của học sinh tăng dần theo tuổi. Tốc độ tăng FVC theo tuổi ở nam, nữ không đều. FVC của nam tăng nhanh ở

tuổi 14 ÷ 15 còn của nữ ở tuổi 13 ÷ 14. Nhƣ vậy, thời điểm tăng nhanh FVC trùng với thời điểm tăng nhanh về VC.

FVC của nam thƣờng có giá trị lớn hơn so với của nữ ở các lứa tuổi 10 ÷ 12 và 15, còn ở các lứa tuổi khác, FVC

của nam và nữ thƣờng có giá trị tƣơng đƣơng.

FVC của học sinh Kinh có giá trị lớn hơn so với của học sinh Dao ở các lứa tuổi 8 ÷ 11 đối với nam và 7, 9 ÷ 11

đối với nữ. FVC của học sinh Kinh có giá trị lớn hơn so với của học sinh H’mong ở tất cả các lứa tuổi đối với nữ và ở hầu hết

các lứa tuổi đối với nam.FVC của học sinh Dao và H’mong có giá trị tƣơng đƣơng ở hầu hết các lứa tuổi.Sự khác biệt này là

hệ quả của sự khác biệt về CCĐ của học sinh giữa các dân tộc. So sánh với với các nghiên cứu khác chúng tôi nhận thấy,

FVC của học sinh Kinh trong nghiên cứu của chúng tôi có giá trị lớn hơn so với nghiên cứu của Lê Thị Kim Dung và tƣơng

đƣơng với kết quả nghiên cứu của Đỗ Hồng Cƣờng và Nguyễn Thị Bích Ngọc.

3.1.7.4. Thể tích thở ra tối đa trong giây đầu

FEV1 của học sinh tăng dần theo tuổi. FEV1 của nam tăng nhanh ở tuổi 14 ÷ 15, còn của học sinh nữ ở tuổi 13 ÷

14. Nhƣ vậy, thời điểm tăng nhanh FEV1 cũng trùng với thời điểm tăng nhanh về VC và FVC.

FEV1 của nam thƣờng có giá trị lớn hơn so với ở nữ ở các lứa tuổi 10 ÷ 12 và 15, còn ở các lứa tuổi khác, FEV1

của nam và nữ thƣờng có giá trị tƣơng đƣơng.

FEV1 của học sinh Kinh có giá trị lớn hơn so với của học sinh Dao ở các lứa tuổi 8 ÷ 11 đối với nam và 9 ÷ 10 đối

với nữ. FEV1 của học sinh Kinh có giá trị lớn hơn so với của học sinh H’mong ở tất cả các lứa tuổi đối với nam và ở hầu hết

các lứa tuổi đối với nữ. FEV1 của học sinh Dao và H’mong có giá trị tƣơng đƣơng ở hầu hết các lứa tuổi. Sự khác biệt về

FEV1 của học sinh Kinh so với của học sinh Dao và H’mong là hệ quả của sự khác biệt về CCĐ của học sinh giữa các dân

tộc. FEV1 của học sinh Kinh trong nghiên cứu của chúng tôi có giá trị lớn hơn so với nghiên cứu của Lê Thị Kim Dung và

tƣơng đƣơng với kết quả nghiên cứu của Đỗ Hồng Cƣờng và Nguyễn Thị Bích Ngọc.

3.1.7.5. Chỉ số Tiffeneau

Chỉ số Tiffeneau của học sinh có xu hƣớng tăng dần theo tuổi. Chỉ số Tiffeneau của nữ có xu hƣớng có giá trị lớn

hơn so với của nam. Chỉ số Tiffeneau của học sinh trong nghiên cứu của chúng tôi có giá trị tƣơng đƣơng so với kết quả nêu

trong GTSH, của Đỗ Hồng Cƣờng và của Nguyễn Thị Bích Ngọc. Và hầu nhƣ không có sự khác biệt về chỉ số Tiffeneau của

học sinh giữa các dân tộc.

Nhƣ vậy, các thông số hô hấp (VC, FVC, FEV1) tăng dần theo tuổi, có sự khác biệt theo giới tính và các dân tộc

trong nghiên cứu. Chỉ số Tiffeneau có giá trị tƣơng đƣơng so với với các nghiên cứu của các tác giả khác.

3.1.8. Thời gian phản xạ cảm giác - vận động đơn giản

TGPX cảm giác - vận động đơn giản của học sinh giảm dần theo tuổi. TGPX cảm giác - vận động của nam, nữ

giảm nhanh ở giai đoạn đầu và tốc độ này giảm dần ở giai đoạn sau. Điều này có thể đƣợc lý giải là do ở thời điểm 14 ÷ 15

tuổi, hệ cơ và hệ thần kinh của trẻ đã phát triển hoàn thiện về cấu trúc và chức năng cũng nhƣ tốc độ dẫn truyền của các dây

thần kinh hƣớng tâm và ly tâm. Sau thời điểm này, sự tăng cƣờng ảnh hƣởng ức chế của vỏ não đối với các cấu trúc dƣới vỏ

làm cho hƣng phấn và ức chế trở lên cân bằng hơn.

TGPX cảm giác - vận động của nam có giá trị nhỏ hơn so với ở nữ ở đa số các lứa tuổi nghiên cứu.

TGPX cảm giác - vận động của học sinh Kinh ngắn hơn so với của học sinh Dao và H’mong; của học sinh Dao ngắn

hơn so với của học sinh H’mong. Điều này có thể do học sinh Kinh đƣợc tiếp xúc với máy tính sớm hơn so với học sinh Dao,

trong khi học sinh H’mong hầu nhƣ không đƣợc tiếp xúc với máy tính.

TGPX thị giác - vận động ngắn hơn so với TGPX thính giác - vận động. Sự khác biệt này có thể một phần do cấu

tạo của cơ quan phân tích thị giác và cơ quan phân tích tính giác. Theo Tạ Thúy Lan, đƣờng dẫn truyền từ các cơ quan thụ

cảm tới vỏ bán cầu đại não để tạo ra phản ứng thích hợp của cơ quan phân tích thính giác dài hơn so với của cơ quan phân

tích thị giác.

TGPX cảm giác - vận động của học sinh trong nghiên cứu của chúng tôi tƣơng đƣơng so với kết quả nghiên cứu

của Nguyễn Thị Bích Ngọc, nhƣng dài hơn so với kết quả nghiên cứu của Trần Thị Loan, Đỗ Công Huỳnh. Nguyên nhân có

thể do sự phụ thuộc vào đối tƣợng nghiên cứu nhƣ sự khác nhau về điều kiện sống, học tập và sức khỏe của học sinh.

3.2. Năng lực trí tuệ của học sinh

3.2.1. Điểm trí tuệ theo test Raven

Điểm trí tuệ của học sinh tăng dần theo tuổi. Từ 9 ÷ 12 tuổi là giai đoạn điểm trí tuệ của học sinh tăng nhanh ở cả

nam và nữ. Từ 14 tuổi trở đi, tốc độ tăng điểm trí tuệ của học sinh giảm dần.Từ 15 ÷ 17 tuổi, điểm trí tuệ của các em hầu nhƣ

không tăng. Theo Trịnh Bỉnh Dy, có nhiều thông số trí tuệ của học sinh đạt giá trị ngƣỡng từ rất sớm. Một số tác giả cho

rằng, sự phát triển trí tuệ của học sinh liên quan chặt chẽ với sự phát triển não bộ, trong đó đáng kể nhất là vùng Wernicke,

vỏ não thùy trán và các đƣờng liên hệ đồi thị - vỏ não. Trần Trọng Thủy cho rằng, sự tăng nhanh điểm trí tuệ của học sinh các

lớp dƣới đƣợc xem là cơ sở củng cố cho quan điểm về sự thể hiện sớm năng khiếu ở học sinh và là cơ sở của việc bồi dƣỡng

sớm những năng khiếu trí tuệ cho học sinh.

Điểm trí tuệ của nam có xu hƣớng cao hơn so với ở nữ ở học sinh của cả ba dân tộc, tuy nhiên các sự khác biệt này

không có ý nghĩa thống kê.

Điểm trí tuệ của học sinh nam Kinh lớn hơn so với học sinh nam Dao từ 0,42 ÷ 1,39 điểm, lớn hơn so với của nam học

sinh H’mong từ 0,10 ÷ 1,20 điểm. Điểm trí tuệ của học nam H’mong lớn hơn so với của học sinh nam Dao từ 0,05 ÷ 0,60 điểm.

Điểm trí tuệ của học sinh nữ Kinh lớn hơn so với của học sinh nữ Dao và H’mong lần lƣợt là -0,14 ÷ 1,36 điểm và 0,12 ÷ 1,38

điểm. Điểm trí tuệ của nữ Dao lớn hơn so với của nữ H’mong từ 0,04 ÷ 0,74 điểm. Tuy nhiên, mức chênh lệch điểm trí tuệ của

học sinh giữa các dân tộc ở cả nam và nữ đều không có ý nghĩa thống kê.

3.2.2. Chỉ số IQ và sự phân bố IQ

Chỉ số IQ trung bình của học sinh ở tất cả các lứa tuổi nghiên cứu đều dao động quanh giá trị 100 điểm và không có

sự khác biệt theo lứa tuổi và giới tính.

Chỉ số IQ của nam có xu hƣớng có giá trị lớn hơn so với ở nữ, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống

kê.Mặc dù có sự chênh lệch về chỉ số IQ của học sinh giữa các dân tộc, nhƣng sự khác biệt này cũng không thực sự rõ rệt. Tuy

nhiên, khi xem xét sự phân bố của học sinh theo mức trí tuệ chúng tôi thấy, ở mức trí tuệ trung bình thì tỷ lệ học sinh Kinh chiếm

tỷ lệ cao hơn so với học sinh Dao và H’mong. Ở mức trí tuệ trên trung bình thì tỷ lệ học sinh H’mong chiếm tỷ lệ cao hơn so với

học sinh Kinh và Dao.Đặc biệt, ở mức trí tuệ rất xuất sắc (mức I), số nam học sinh H’mong chiếm tỷ lệ cao hơn hẳn so với của

nam học sinh Kinh và Dao.

3.2.3. Trạng thái cảm xúc

Điểm cảm xúc chung và các điểm cảm xúc thành phần của học sinh đều tăng dần theo tuổi. Tốc độ tăng điểm cảm

xúc chung và các điểm cảm xúc thành phần theo tuổi của học sinh không đồng đều. Các giá trị này của học sinh nam ở cả 3

dân tộc đều tăng nhanh ở tuổi 12, còn đối với nữ là ở tuổi 11.

Không có sự khác biệt rõ rệt về điểm cảm xúc giữa học sinh các dân tộc ở đa số các lứa tuổi đối với cả nam và nữ.

3.2.4. Khả năng vượt khó

Chỉ số AQ của học sinh ở cả ba dân tộc tăng dần theo tuổi nhƣng điểm AQ trung bình của các học sinh vẫn ở mức

thấp, thậm chí ở những lứa tuổi nhỏ điểm AQ trung bình của các em chỉ đạt mức dƣới trung bình.

Ở cùng một lứa tuổi,sự chênh lệch điểm AQ giữa học sinh nam và nữ không đủ lớn nên không có ý nghĩa thống kê.

Điều này chứng tỏ, ở giai đoạn 8 ÷ 17 tuổi, không có sự khác biệt rõ rệt về chỉ số vƣợt khó của học sinh theo giới tính.

So sánh điểm AQ trung bình của học sinh các dân tộc chúng tôi thấy không có sự khác biệt rõ rệt ở đa số các lứa

tuổi đối với cả nam và nữ.

3.2.5. Trí nhớ ngắn hạn

Trí nhớ ngắn hạn của học sinh tăng dần theo tuổi, nhƣng không đều qua các năm. Từ 8 ÷ 15 tuổi, khả năng ghi nhớ

của học sinh tăng nhanh, từ 16 ÷ 17 tuổi khả năng khi nhớ của học sinh vẫn tăng nhƣng tăng chậm hơn so với giai đoạn trƣớc

đó.

Ở cùng một lứa tuổi, trí nhớ ngắn hạn của học sinh nam và nữ có giá trị tƣơng đƣơng nhau.

Điểm ghi nhớ thị giác giữa học sinh nữ các dân tộc không có sự khác biệt rõ rệt ở tất cả các lứa tuổi nghiên cứu. Điểm

ghi nhớ thị giác của nam Kinh có giá trị tốt hơn so với nam Dao ở các lứa tuổi từ 8 ÷ 12. Không có sự khác biệt rõ rệt về điểm

ghi nhớ thị giác giữa nam Kinh và nam H’mong, giữa nam Dao và nam H’mongVề điểm ghi nhớ thính giác, không có sự khác

biệt đáng kể về khả năng ghi nhớ thính giác giữa học sinh Kinh và H’mong, giữa học sinh Dao và học sinh H’mong. Trong

khi, điểm ghi nhớ thính giác của học sinh Kinh có giá trị tốt hơn so với của học sinh Dao ở các lứa tuổi 8 ÷ 9 đối với cả nam

và nữ; các lứa tuổi khác có giá trị tƣơng đƣơng.

Ở cùng một lứa tuổi, điểm trí nhớ ngắn hạn thị giác của học sinh luôn cao hơn điểm trí nhớ thính giác. Điều này

chứng tỏ, khả năng nhìn để ghi nhớ của học sinh tốt hơn so với khả năng nghe để ghi nhớ.

3.2.6. Khả năng chú ý

Từ 8 ÷ 15 tuổi, khả năng chú ý của học sinh đều tăng nhanh, từ 16 ÷ 17 tuổi khả năng chú ý của học sinh vẫn tăng

nhƣng chậm hơn so với giai đoạn trƣớc đó.

Ở cùng một độ tuổi, không có sự khác biệt về khả năng chú ý giữa học sinh nam và nữ. Điều này một lần nữa

khẳng định, không có sự khác biệt trong hoạt động trí tuệ giữa học sinh nam và nữ từ 8 ÷ 17 tuổi.

Độ tập trung chú ý của học sinh Kinh tốt hơn so với của học sinh Dao ở tất cả các lứa tuổi nghiên cứu. Độ tập trung

chú ý của học sinh dân tộc Kinh có giá trị tốt hơn so với của học sinh H’mong ở hầu hết các lứa tuổi nghiên cứu. Không có

sự khác biệt đáng kể về độ tập trung chú ý giữa học sinh Dao và H’mong.

3.3. Mối liên quan giữa các chỉ số nghiên cứu

3.3.1. Mối liên quan giữa các thông số hô hấp và chiều cao đứng

Từ 7 ÷ 15 tuổi, CCĐ của học sinh tăng 1,38 lần đối với nam của cả ba dân tộc; tăng 1,35 lần đối với nữ dân tộc Kinh

và Dao; tăng 1,36 lần đối với nữ dân tộc H’mong. Trong khi, VC của namdân tộc Kinh, Dao, H’mong tăng lần lƣợt là 3,36 lần;

3,41 lần; 3,65 lần và tƣơng ứng ở nữ là 2,94 lần; 2,98 lần; 3,09 lần. FVC của nam dân tộc Kinh, Dao, H’mong tăng lần lƣợt là

3,57 lần; 3,64 lần; 3,80 lần và tƣơng ứng ở nữ là 2,97 lần; 3,08 lần; 3,17 lần. FEV1 tăng lần lƣợt là 3,47 lần; 3,55 lần; 3,68 lần

tƣơng ứng với nam dân tộc Kinh, Dao, H’mong; các giá trị này tƣơng ứng ở nữ lần lƣợt là 2,99 lần; 3,11 lần; 3,20 lần.

Bảng 3.1. Phƣơng trình hồi quy của các thông số chức năng phổi

Dân

tộc Thông số Đơn vị

Nam Nữ

Phƣơng trình hồi quy r Phƣơng trình hồi quy r

Kin

h

VC lít 0,033H + 0,111A – 3,693 0,916 0,040H + 0,039A – 4,468 0,931

FVC lít 0,032H + 0,100A –3,643 0,905 0,041H + 0,026A – 4,133 0,916

FEV1 lít 0,032H + 0,072A – 3,480 0,901 0,041H + 0,001A – 4,018 0,910

FEV1/VC % 0,450A + 77,765 0,211 0,140A + 82,607 0,297 D

ao

VC lít 0,041H + 0,063A – 4,282 0,939 0,040H + 0,041A – 4,023 0,927

FVC lít 0,042H + 0,054A – 4,380 0,926 0,036H + 0,053A – 3,714 0,919

FEV1 lít 0,039H + 0,030A – 4,047 0,919 0,034H + 0,039A – 3,502 0,908

FEV1/VC % 0,386A + 78,828 0,292 0,345A + 80,376 0,234

H’mong VC lít 0,040H + 0,073A – 4,223 0,925 0,039H + 0,039A – 3,887 0,937

FVC lít 0,040H + 0,063A – 4,246 0,924 0,038H + 0,040A -3,780 0,931

FEV1 lít 0,038H + 0,035A – 3,925 0,912 0,034H + 0,033A – 3,441 0,923

FEV1/VC % 0,099A +81,452 0,330 0,365A + 80,493 0,359

Hệ số a của chiều cao đứng H ở tất cả các phƣơng trình đều là các số dƣơng. Nhƣ vậy, các thông số thông khí phổi

đƣợc nghiên cứu đều tăng dần theoCCĐ. Hệ số b của tuổi A trong các phƣơng trình hồi quy tuyến tính trong nghiên cứu của

chúng tôi đều có giá trị dƣơng. Điều đó cho thấy, các thông số về thông khí phổi ở trẻ em từ 8 đến 17 tuổi đều tăng khi tuổi

tăng.

3.3.2. Mối liên quan giữa IQ với trí nhớ ngắn hạn

Bảng 3.2. Phƣơng trình hồi quy tuyến tính giữa IQ và trí nhớ ngắn hạn của học sinh

Dân tộc Giới tính Mối liên quan giữa IQ với TN ngắn

hạn r Phƣơng trình hồi quy tuyến tính

Kinh

Nam IQ – TN thị giác 0,737 0,108IQ – 4,568

IQ – TN thính giác 0,833 0,113IQ – 6,147

Nữ IQ – TN thị giác 0,780 0,110IQ – 4,834

IQ – TN thính giác 0,793 0,079 IQ – 3,417

Dao

Nam IQ – TN thị giác 0,823 0,126IQ – 6,776

IQ – TN thính giác 0,721 0,105IQ – 5,526

Nữ IQ – TN thị giác 0,826 0,114 IQ – 5,787

IQ – TN thính giác 0,753 0,084IQ – 3,454

H’mong

Nam IQ – TN thị giác 0,792 0,102IQ – 4,225

IQ – TN thính giác 0,730 0,081IQ – 3,112

Nữ IQ – TN thị giác 0,786 0,115 IQ – 5,287

IQ – TN thính giác 0,637 0,066 IQ – 1,571

Hệ số tƣơng quan r của các phƣơng trình hồi quy xác định trí nhớ ngắn hạn thị giác và trí nhớ ngắn hạn thính giác

dao động từ 0,637 ÷ 0,833 chứng tỏ các thông số này có liên quan chặt chẽ với IQ. Hệ số IQ ở tất các các phƣơng trình hồi

quy đều có giá trị dƣơng. Nhƣ vậy, trí nhớ ngắn hạn thị giác và trí nhớ ngắn hạn thính giác đều tăng theo IQ.

3.3.3. Mối liên quan giữa IQ với khả năng chú ý

Hệ số tƣơng quan r của các phƣơng trình hồi quy xác định khả năng chú ý của học sinh có giá trị cao, dao động từ

0,646 ÷ 0,712 chứng tỏ khả năng chú ý có liên quan chặt chẽ với IQ. Hệ số IQ ở tất các các phƣơng trình hồi quy đều có giá

trị dƣơng. Nhƣ vậy, khả năng chú ý cũng tăng theo IQ.

3.3.4. Mối liên quan giữa IQ với AQ

Hệ số tƣơng quan r của các phƣơng trình hồi quy xác định năng lực vƣợt khó của học sinh 8 ÷ 17 tuổi có giá trị dao

động từ 0,520 ÷ 0,630 chứng tỏ khả năng vƣợt khó có mối tƣơng quan tuyến tính với IQ. Hệ số IQ ở tất các các phƣơng trình

hồi quy đều có giá trị dƣơng. Nhƣ vậy, nhìn chung AQ cũng tăng theo IQ.

3.3.5.Mối liên quan giữa IQ với EQ

Hệ số tƣơng quan r của các phƣơng trình hồi quy xác định trí tuệ cảm xúc của học sinh 8 ÷ 17 tuổi có giá trị dao

động từ 0,529 ÷ 0,635 chứng tỏ thông số này có mối liên quan tuyến tính với IQ. Hệ số IQ ở tất các các phƣơng trình hồi quy

đều có giá trị dƣơng. Nhƣ vậy, nhìn chung EQ cũng tăng theo IQ.

KẾT LUẬN

1. Về một số chỉ số hình thái, chức năng của một số hệ cơ quan

Điều tra đƣợc phổ số liệu về các chỉ số hình thái - thể lực của các dân tộc khác nhau tại tỉnh Yên Bái. Trong đó các

chỉ số hình thái (CCĐ, cân nặng, VNTB) của học sinh tăng dần theo tuổi. CCĐ của học sinh tăng nhanh lúc 13 ÷ 15 tuổi ở

nam và 12 ÷ 14 tuổi ở nữ. Thời điểm tăng nhanh về cân nặng và VNTB diễn ra muộn hơn so với tăng nhanh về CCĐ khoảng

1 ÷ 2 năm. CCĐ, cân nặng, vòng ngực trung bình của học sinh Kinh đều lớn hơn so với của học sinh Dao và H’mong.

Chỉ số BMI của học sinh tăng dần từ 6 đến 17 tuổi. Đa số học sinh có thể trạng trung bình. Chỉ số Pignet của học sinh

tăng dần từ 6 ÷ 14 tuổi ở nam và 6 ÷ 13 tuổi ở nữ, sau đó giảm mạnh ở cả hai giới. Đa số học sinh có thể lực trung bình và

yếu.

Các chỉ số chức năng tuần hoàn (tần số tim, huyết áp động mạch) thay đổi theo tuổi, giới tính và không có sự khác biệt

theo dân tộc. Các thông số điện tâm đồ của học sinh đều có các giá trị nằm trong giới hạn bình thƣờng bình thƣờng của trẻ em.

Đa số học sinh có trục điện tim trung gian, không có học sinh nào có trục điện tim lệch trái. Thời gian sóng P, PQ, QT, QRS tăng

theo tuổi và không có sự khác biệt đáng kể theo giới tính. Biên độ P2 không thay đổi theo tuổi, biên độ Q3 tăng dần theo tuổi,

QV6, RV4 giảm dần theo tuổi. Biên độ sóng R2, SV1, TV5 có xu hƣớng tăng theo tuổi đối với nam nhƣng lại giảm dần đối với

nữ. Biên độ sóng SV1 của học sinh nam nhỏ hơn so với của nữ ở nhóm 7 ÷ 9 tuổi và lớn hơn ở nhóm 13 ÷ 15 tuổi. Không có sự

khác biệt giữa học sinh các dân tộc về thời gian và biên độ các sóng.

Tần số hô hấp của học sinh giảm dần từ 7 đến 15 tuổi. Các thông số hô hấp (VC, FVC, FEV1) của học sinh tăng

dần theo tuổi, tăng nhanh là lúc 14 ÷ 15 tuổi đối với nam và 13 ÷ 14 tuổi đối với nữ. Các chỉ số này ở học sinh nam cao hơn

so với ở học sinh nữ, ở học sinh dân tộc Kinh cao hơn so với của học sinh dân tộc Dao và H’mong ở đa số các lứa tuổi. Chỉ

số Tiffeneau của học sinh nam dao động trong khoảng 79,48÷84,57 % và của nữ dao động trong khoảng 81,88 ÷86,52 %.

Thời gian phản xạ cảm giác - vận động của học sinh giảm dần từ 7 đến 15 tuổi. Thời gian phản xạ cảm giác - vận

động của học sinh nam có giá trị nhỏ hơn so với ở học sinh nữ ở đa số các lứa tuổi. Thời gian phản xạ cảm giác - vận động

của học sinh ngƣời Kinh ngắn hơn so với của học sinh ngƣời Dao và học sinh ngƣời Dao ngắn hơn so với của học sinh ngƣời

H’mong. Thời gian phản xạ thị giác - vận động ngắn hơn so với thời gian phản xạ thính giác - vận động ở cả 3 nhóm học

sinh.

2. Về năng lực trí tuệ

Chỉ số IQ của học sinh không thay đổi theo tuổi, giới tính và dân tộc. Chỉ số AQ, khả năng ghi nhớ và khả năng

chú ý của học sinh đều tăng dần theo tuổi và không có sự khác biệt đáng kể về các đại lƣợng này theo giới tính và dân tộc.

Khả năng ghi nhớ thị giác của học sinh tốt hơn so với khả năng ghi nhớ thính giác.

Điểm cảm xúc chung và các điểm cảm xúc thành phần của học sinh tăng dần theo tuổi. Điểm cảm xúc chung của

nam thƣờng có giá trị nhỏ hơn so với của học sinh nữ ở các lứa tuổi nhỏ và có giá trị lớn hơn so với của học sinh nữ ở các lứa

tuổi lớn. Không có sự khác biệt về điểm cảm xúc của học sinh theo dân tộc.

3. Về mối liên quan giữa các chỉ số

Chiều cao đứng với các thông số chức năng hô hấp (VC, FVC, FEV1) của học sinh có mối liên quan với nhau; chỉ

số IQ của học sinh với trí nhớ ngắn hạn và IQ với khả năng chú ý của họ có các mối quan hệ tuyến tính thuận và chặt chẽ.

Chỉ số IQ của HS với chỉ số AQ, chỉ số IQ của HS với chỉ số EQ của chính họ có mối quan hệ tuyến tính thuận nhƣng không

chặt chẽ.

KHUYẾN NGHỊ

Từ những kết quả nghiên cứu trên chúng tôi có một số đề nghị sau:

1. Các chỉ số hình thái - thể lực của học sinh Kinh, Dao và đặc biệt là của học sinh ngƣời H’mong ở Yên Bái có giá trị

thấp hơn so với của học sinh ngƣời Kinh cùng lứa tuổi sống ở vùng đồng bằng và Hà Nội. Đa số học sinh trong nghiên cứu

có thể trạng trung bình, có thể lực trung bình và yếu. Vì vậy, cần tăng cƣờng sự chăm sóc về thể chất đặc biệt là cải thiện chế

độ dinh dƣỡng, hạn chế các hoạt động lao động nặng cho học sinh dân tộc, để có đƣợc thế hệ trẻ khỏe mạnh về thể lực và trí

tuệ.

2. Không có sự khác biệt về các đặc điểm năng lực trí tuệ và các chỉ số chức năng sinh lý giữa học sinh ngƣời dân tộc

so với học sinh ngƣời Kinh. Do đó, nếu các em có một môi trƣờng học tập tốt từ nhỏ, đƣợc gia đình, nhà trƣờng và xã hội

quan tâm thì sẽ có nhiều hơn những học sinh ngƣời dân tộc thiểu số đạt đƣợc thành công trong cuộc sống.

3. Các chỉ số hình thái, trí tuệ và chức năng có thể thay đổi phụ thuộc vào môi trƣờng sống. Vì vậy, các chỉ số này cần

đƣợc đánh giá thƣờng xuyên để có dữ liệu làm cơ sở cho việc đề xuất các phƣơng pháp giáo dục và nâng cao sức khỏe trẻ

em.

CÁC CÔNG TRÌNH NGHI N CỨU LI N QU N ĐẾN LUẬN ÁN

1. Trần Long Giang, Mai Văn Hƣng (2013), “Nghiên cứu một số chỉ số hình thái của học sinh từ 6 đến 17 tuổi tại tỉnh Yên

Bái”, Tạp chí Y học Việt Nam, Tập 411, số đặc biệt/2013, tr 45-57.

2. Mai Van Hung, Tran Long Giang (2013), “The Influence of some environmental factors on the basic anthropometric

indexes of Vietnamese people in ecological areas”, Asian Journal of Humanities and Social Studies (ISSN: 2321-2799),

Volume 01-Issue 01, April 2013.

3. Trần Long Giang, Mai Văn Hƣng, Đỗ Công Huỳnh, Nguyễn Cửu Nguyệt Huế, Nguyễn Thị Bích (2014), “Một số thông số

điện tâm đồ ở trẻ em bình thƣờng từ 7 đến 15 tuổi ngƣời dân tộc Kinh ở tỉnh Yên Bái”. Tạp chí Y học dự phòng, tập

XXIV, số 3 (152), tr 93-100.

4. Trần Long Giang, Mai Văn Hƣng (2014), “Nghiên cứu một số chỉ số nhân trắc cơ bản của trẻ em dân tộc Kinh và H’mong

từ 15 đến 17 tuổi tại tỉnh Yên Bái”, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Số 4/2014, tr 132-143.