Triết lý nhân sinh Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với...

30
1 Triết lý nhân sinh Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với lối sống của người Việt Nam : Luận văn ThS.Triết học: 60 22 80 / Nguyễn Văn Tặng ; Nghd. : PGS.TS. Ngô Ngọc Thắng MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trung Quốc là một nước lớn, có lịch sử văn hóa lâu đời và ảnh hưởng sâu, rộng trên thế giới. Nền văn hoá Trung Hoa cổ đại là chiếc nôi của nền văn minh phương Đông, nó còn hàm chứa bao giá trị tinh thần bí ẩn, độc đáo và hữu ích. Những giá trị tiềm tàng ấy đã, đang và sẽ thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu văn hoá không những ở nước ta mà còn trên phạm vi cả thế giới. Ngày nay, đã có nhiều cuộc Hội thảo bàn về triết lý nhân sinh Nho giáo và ảnh hưởng của nó được tổ chức nhiều ở các nước, như: Trung Quốc, Nhật Bản, Singapo, Việt Nam... Các ấn phẩm về triết lý nhân sinh Nho giáo Trung Hoa cổ đại được dịch và phát hành rộng rãi ở nhiều quốc gia, như: Anh, Pháp, Nga, Mỹ... Tựu trung lại, mục tiêu của việc này là nhằm nghiên cứu và đánh giá một cách khách quan hơn vai trò của triết lý nhân sinh Nho giáo trong các học thuyết triết học Trung Hoa cổ đại với quá trình phát triển nhân loại trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, có những diễn biến thuận, nghịch vô

Transcript of Triết lý nhân sinh Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với...

1

Triết lý nhân sinh Nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với lối sống của người Việt Nam : Luận văn ThS.Triết học: 60

22 80 / Nguyễn Văn Tặng ; Nghd. : PGS.TS. Ngô Ngọc Thắng

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trung Quốc là một nước lớn, có lịch sử văn hóa lâu đời

và ảnh hưởng sâu, rộng trên thế giới. Nền văn hoá Trung

Hoa cổ đại là chiếc nôi của nền văn minh phương Đông, nó

còn hàm chứa bao giá trị tinh thần bí ẩn, độc đáo và hữu

ích. Những giá trị tiềm tàng ấy đã, đang và sẽ thu hút sự

quan tâm của các nhà nghiên cứu văn hoá không những ở

nước ta mà còn trên phạm vi cả thế giới. Ngày nay, đã có

nhiều cuộc Hội thảo bàn về triết lý nhân sinh Nho giáo và

ảnh hưởng của nó được tổ chức nhiều ở các nước, như:

Trung Quốc, Nhật Bản, Singapo, Việt Nam... Các ấn phẩm

về triết lý nhân sinh Nho giáo Trung Hoa cổ đại được dịch

và phát hành rộng rãi ở nhiều quốc gia, như: Anh, Pháp,

Nga, Mỹ... Tựu trung lại, mục tiêu của việc này là nhằm

nghiên cứu và đánh giá một cách khách quan hơn vai trò

của triết lý nhân sinh Nho giáo trong các học thuyết triết

học Trung Hoa cổ đại với quá trình phát triển nhân loại

trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Trong tiến trình hội

nhập kinh tế quốc tế, có những diễn biến thuận, nghịch vô

2

cùng phức tạp trên mọi mặt của đời sống xã hội. Trước

những vấn đề lối sống, đạo đức đang diễn ra phức tạp trong

xã hội ta hiện nay lại đặt ra những câu hỏi, phải chăng

chúng ta có một thời kỳ quá coi nhẹ những giá trị nhân sinh

truyền thống; đã gạt bỏ đi nhiều những nhân tố tốt đẹp mà

nếu biết sáng tạo và phát huy đã có thể góp phần củng cố

cuộc sống gia đình, hoàn thiện các quan hệ xã hội, phát huy

sức mạnh cộng đồng để xây dựng một xã hội công bằng,

dân chủ, văn minh.

Việt Nam là một quốc gia chịu ảnh hưởng rất lâu đời và

sâu sắc của nền văn hoá Trung Hoa cổ đại. Đặc biệt là triết

lý nhân sinh Nho giáo đã được những nhà lãnh đạo, quản lý

sử dụng như là tư tưởng chủ đạo trong kiến trúc thượng

tầng xã hội suốt thời kỳ phong kiến và cho đến hôm nay, nó

vẫn còn tồn tại hiện hữu và tiếp tục tác động trên mọi mặt

của đời sống xã hội. Ngày nay, chúng ta tìm hiểu những

triết lý nhân sinh Nho giáo không phải chỉ để thấy được sự

vĩ đại của những triết gia mà mục đích thiết thực hơn là để

"Coi trọng giáo dục đạo lý làm người, ý thức trách nhiệm,

nghĩa vụ công dân, lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội,

đạo đức, lối sống, nếp sống có văn hoá, lịch sử dân tộc và

bản sắc dân tộc, ý chí vươn lên vì tương lai của mỗi người

và tiền đồ của đất nước, bồi dưỡng ý thức và năng lực phát

huy giá trị văn hoá dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân

loại" [10, tr.55] trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.

3

Nghiên cứu lịch sử tư tưởng - văn hoá Việt Nam người

ta thường nói đến sự du nhập và vai trò của Nho giáo, Phật

giáo, Đạo giáo trong lịch sử tư tưởng, văn hoá của dân tộc.

Nhưng về cội nguồn của sự gắn bó, giao thoa, ảnh hưởng

của ba đạo mới chỉ là những nhận định, nghiên cứu mang

tính chất tổng quan. Vì vậy, nghiên cứu triết lý nhân sinh

Nho giáo Trung Hoa cổ đại để tiếp tục làm rõ những nhận

định này sẽ giúp cho chúng ta có hướng tiếp thu, kế thừa,

phát huy văn hoá truyền thống một cách đúng đắn hơn.

Những năm gần đây, các học viên cao học ở Trung tâm

đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị, phần lớn là

giảng viên các trường đại học, cao đẳng, trung cấp... Khi

giảng dạy cho học sinh gặp rất nhiều khó khăn trong việc

giảng dạy môn Lịch sử triết học, trong đó có phần triết học

phương Đông, cụ thể là những triết lý nhân sinh trong các

học thuyết triết học Trung Hoa cổ đại chưa được hệ thống

hoá thành chuyên khảo và nghiên cứu ảnh hưởng của nó

đối với văn hoá nước ta, đặc biệt là đối với lối sống của con

người trong thời kỳ hội nhập. Các phạm trù: trung, hiếu,

đức, nhân, tâm, lợi... đã xuất hiện khá phổ biến trong cuộc

sống hàng ngày, trên nhiều lĩnh vực nhưng nội hàm những

giá trị và sự tiếp biến của nó còn ít người hiểu một cách

tường tận và sâu sắc. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề này sẽ góp

phần nâng cao hiệu quả nghiên cứu và giảng dạy phần lịch

sử phương Đông, đánh giá đúng giá trị tiềm ẩn trong kho

tàng văn hoá truyền thống và để góp phần vào xây dựng lối

4

sống, nếp sống mới mang đậm đà bản sắc dân tộc. Cho nên,

tôi chọn vấn đề triết lý nhân sinh Nho giáo và ảnh hưởng

của nó đối với lối sống của người Việt Nam làm đề tài để

nghiên cứu.

2. Tình hình nghiên cứu

Trung Quốc là quê hương của những tư tưởng đặc sắc,

uyên thâm và bí ẩn mà cho đến nay, nhân loại vẫn đầy

ngưỡng mộ và khâm phục. Vì vậy, vấn đề tư tưởng - văn

hóa Trung Hoa cổ đại nói chung, triết lý nhân sinh Nho

giáo nói riêng đã thu hút nhiều sự tranh luận, quan tâm

nghiên cứu của nhiều học giả.

Trên thế giới một số nước chịu ảnh hưởng của Nho

giáo nhưng vẫn đạt được một số kết quả khả quan về ổn

định xã hội và phát triển kinh tế do biết phát huy những

mặt tích cực của Nho giáo, từ công cuộc đổi mới đất nước

hiện nay đòi hỏi chúng ta phải giữ gìn và phát huy những

truyền thống văn hóa của dân tộc, nhiều nhà nghiên cứu đã

đi sâu vào tìm hiểu về Nho giáo ở Việt Nam, nêu ảnh

hưởng của nó trong các lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, chính trị,

xã hội, giáo dục… Và đặc biệt những vấn đề của Nho giáo

được đem ra bàn luận, như: Vì sao Nho giáo lại có sức sống

dai dẳng hàng ngàn năm ở các nước Phương Đông; Nho

giáo là học thuyết chính trị - xã hội hay là học thuyết về

đạo đức, nhân sinh; Về trung - hiếu - lễ và ảnh hưởng của

5

nó đối với lối sống như thế nào… Liên quan đến lĩnh vực

này có các công trình của những tác giả:

Cuốn: Triết lý nhân sinh của Lê Kiến Cầu. Tác giả đã

trình bày một cách logic, khoa học, phân tích khá cụ thể các

vấn đề nhân sinh, ý nghĩa nhân sinh trên các bình diện khác

nhau, như ý nghĩa nhân sinh, vấn đề nhân sinh và nhân sinh

quan, qua đó giúp cho độc giả có thể rút ra những suy nghĩ,

cách giải quyết vấn đề của bản thân một cách hiệu quả. Tuy

nhiên, tác giả đề cập vấn đề nhân sinh qua các câu hỏi nhỏ

rồi tự trả lời các câu hỏi đó dưới dạng thảo luận vấn đề.

Cuốn: Nho giáo, ảnh hưởng của nó - vấn đề của ngày

xưa và ngày nay ở nước ta của cố Phó Giáo sư Trần Đình

Hượu. Trong đó tác giả đã hệ thống hoá quá trình hình

thành và phát triển của Nho giáo một cách khái quát, phân

tích những giá trị truyền thống ảnh hưởng đến cuộc sống

của nhân dân, chỉ ra những mặt tích cực cũng như hạn chế

của Nho giáo. Từ đó đưa ra những nhận định đối với sự tồn

tại của Nho giáo trong trong lịch sử.

Cuốn: Vài ý kiến về ảnh hưởng của Nho giáo đối với xã

hội Việt Nam của Đào Duy Anh. Đây là công trình nghiên

cứu công phu, trong đó tác giả đã phân tích những ảnh

hưởng của Nho giáo trên bình diện chính trị, văn hoá, xã

hội... và từ đó đưa ra nhận định riêng về ảnh hưởng của

những giá trị Nho giáo đối với văn hóa nước ta.

6

Cuốn Bàn về Nho giáo của Nguyễn Khắc Viện, trong

đó tác giả đã nêu những mặt tích cực cũng như hạn chế của

Nho giáo; Bàn về những điều tâm đắc của mình khi nghiên

cứu, tìm hiểu Nho giáo, đánh giá cao đạo làm người và vấn

đề đối nhân xử thế của Nho giáo.

Ngoài ra còn phải kể đến: Nguyễn Đăng Duy với Nho

giáo với văn hóa Việt Nam; Vũ Khiêu với Nho giáo và đạo

đức, Nho giáo và sự phát triển ở Việt Nam; Nguyễn Tài

Thư với Nho học và Nho học ở Việt Nam và vấn đề con

người trong Nho học sơ kỳ; Nguyễn Hùng Hậu với triết lý

trong văn hóa phương Đông; Vũ Khiêu với Nho giáo và

gia đình; Quang Đạm với Nho giáo xưa và nay; Hà Thúc

Minh với Đạo Nho và văn hóa Phương Đông; Trần Thị

Hồng Thúy với Ảnh hưởng của Nho giáo đối với chủ nghĩa

yêu nước Việt nam truyền thống.

Bên cạnh việc phân tích những ảnh hưởng của Nho

giáo, nhiều tác giả còn đặt ra vấn đề kế thừa và phát huy

những giá trị tích cực, khắc phục tiêu cực, góp phần xây

dựng lối sống của người Việt Nam hiện nay.

Bài viết của Tiến sĩ Cung Thị Ngọc (1997) "Vấn đề

nhận thức trong triết lý nhân sinh của Trang Tử" Tạp chí

Triết học, số 11; "Một vài nét về triết lý nhân sinh của

Trang Tử trong văn hoá phương Đông" Tạp chí Triết học,

số 5 (2001). Trong hai công trình trên tác giả đã phân tích,

đánh giá về bản chất, đạo đức, vai trò của con người trong

7

xã hội, vũ trụ, qua đó chỉ ra sự đồng nhất và khác biệt giữa

triết lý nhân sinh của Trang Tử với hệ thống triết học

đương thời nói riêng và phương Đông nói chung một cách

khái quát.

Đề tài khoa học cấp Phân viện (2002): "Ảnh hưởng của

Nho giáo đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay" do

Tiến sĩ Vũ Trọng Dung làm chủ nhiệm, trong đó tác giả đã

làm rõ những tư tưởng cơ bản của Nho giáo và sự tiếp biến

tư tưởng Nho giáo ở Việt Nam. Tác giả cũng đã chứng

minh những nhận định về ảnh hưởng của Nho giáo đối với

nước ta trong quá khứ và hiện tại. Từ đó đưa ra một hệ

thống các quan điểm có ý nghĩa phương pháp luận đối với

việc xây dựng con người mới, văn hoá mới trong sự nghiệp

đổi mới hiện nay.

Luận án tiến sĩ "Học thuyết chính trị xã hội của Nho

giáo và sự thể hiện của nó ở Việt Nam (từ thế kỷ XI đến

nửa đầu thế kỷ XIX)" của Nguyễn Thanh Bình, trong đó tác

giả đã phân tích Nho giáo với tính cách là học thuyết chính

trị xã hội. Các vấn đề được tác giả bàn đến như: con người,

vai trò của con người trong xã hội, xã hội lý tưởng, chuẩn

mực đạo đức... dưới góc độ chính trị - xã hội.

Đề tài khoa học cấp Cơ sở (2008): "Vấn đề con người

trong các học thuyết Trung Hoa cổ đại và một số ảnh

hưởng của nó trong nền văn hoá Việt Nam" do Tiến sĩ

Cung Thị Ngọc làm chủ nhiệm, trong đó tác giả đã trình

8

bày các tư tưởng về vấn đề con người trong các học thuyết

Trung Hoa cổ đại và đưa ra nhận định để chứng minh sự

ảnh hưởng của tư tưởng đó trong nền văn hoá Việt Nam.

Từ đó, tác giả đưa ra một số giải pháp để kế thừa, phát huy

những giá trị truyền thống trong xã hội ngày nay.

Bài viết "Một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy giá

trị nhân sinh truyền thống Việt Nam trong cuộc sống xây

dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở nước

ta hiện nay" (2008) của Phó Giáo sư, tiến sĩ Lê Bỉnh. Tác

giả đã đưa ra một số các giải pháp nhằm kế thừa và phát

huy giá trị nhân sinh truyền thống Việt Nam một cách khái

quát trên luận điểm triết học Mác - Lênin, trong đó có sự

kết hợp phát triển kinh tế, tiến bộ xã hội và công bằng xã

hội; chăm lo giáo dục, đạo đức cách mạng, giáo dục thẩm

mỹ làm trọng tâm. Đây là những giải pháp mang tính vĩ mô

mà tác giả đề xuất trong bài viết của mình.

Bên cạnh đó cần phải kể đến các công trình nghiên cứu

của các tác giả đánh giá rất cao vai trò của Nho giáo cổ đại,

trong đó đã đề cập ở mức độ khác nhau về triết lý nhân sinh

và ảnh hưởng của nó đến lối sống con người Việt Nam,

như: Trần Văn Phòng, Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Lan

Hương, Doãn Chính, Nguyễn Tài Đông, Lê Văn Quán,

Nguyễn Bằng Tường, Nguyễn Hữu Vui, Ngô Ngọc Thắng,

Lương Gia Tĩnh, Nguyễn Thị Minh Tâm, Lê Thị Thuỷ, Vũ

Văn Hậu... Các công trình nêu trên được tôi kế thừa và sử

9

dụng như là chất liệu, là những ý kiến gợi mở cho sự

nghiên cứu của mình.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn

* Mục tiêu của luận văn

Làm rõ những nội dung cơ bản triết lý nhân sinh Nho

giáo nguyên thủy; Chỉ ra những giá trị, hạn chế và ảnh

hưởng của nó; Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm kế thừa,

phát huy giá trị nhân sinh Nho giáo trong quá trình xây

dựng lối sống của người Việt Nam hiện nay.

* Nhiệm vụ của luận văn

Một là, hệ thống hoá những triết lý nhân sinh Nho giáo

thông qua tư tưởng Khổng – Mạnh.

Hai là, phân tích, đánh giá và chứng minh những ảnh

hưởng của triết lý nhân sinh Nho giáo trong lịch sử ở nước

ta.

Ba là, đề xuất một số giải pháp nhằm kế thừa, phát huy

giá trị nhân sinh Nho giáo đối với lối sống của người Việt

Nam hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

* Đối tượng nghiên cứu:

Trải qua quá trình phát triển lâu đời, ở Trung Hoa cổ

đại đã hình thành nên hệ thống triết học với nhiều trường

phái khác nhau, hàm chứa những giá trị triết lý nhân sinh

rất sâu sắc. Với khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ triết

10

học, tôi chỉ đi sâu vào tìm hiểu những nội dung cơ bản về

triết lý nhân sinh Nho giáo

* Phạm vi nghiên cứu:

Luận văn nghiên cứu chủ yếu những triết lý nhân sinh

trong Nho giáo nguyên thủy đến thời Hán Nho.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

* Cơ sở lý luận:

Luận văn được xây dựng trên cơ sở những nguyên lý

của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim

chỉ nam cho việc phân tích, đánh giá, chứng minh những

triết lý nhân sinh Nho giáo nguyên thủy và mức độ ảnh

hưởng của nó.

* Phương pháp nghiên cứu:

Luận văn sử dụng phương pháp luận nghiên cứu của

chủ nghĩa Mác-Lênin, trong đó chủ yếu vận dụng phương

pháp luận duy vật lịch sử. Ngoài ra, còn sử dụng một số

phương pháp khác, như: hệ thống, phân tích, so sánh, đối

chiếu nhằm tái hiện lại một cách chân thực và đánh giá

khách quan những triết lý nhân sinh Nho giáo nguyên thủy.

6. Đóng góp của luận văn

Luận văn góp phần làm sâu sắc hơn nhận thức về triết

lý nhân sinh Nho giáo một cách có hệ thống.

Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc

kế thừa, phát huy những giá trị nhân sinh Nho giáo vào xây

dựng con người, gia đình văn hoá ngày nay.

11

Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ

cho việc nghiên cứu và giảng dạy về môn Lịch sử triết học

- phần lịch sử phương Đông.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham

khảo, luận văn bao gồm 3 chương, 6 tiết:

Chương 1: Quá trình hình thành và nội dung cơ bản

của triết lý nhân sinh Nho giáo.

Chương 2: Ảnh hưởng của triết lý nhân sinh Nho giáo

đối với lối sống của người Việt Nam.

Chương 3: Giải pháp phát huy những giá trị tốt đẹp

của triết lý nhân sinh Nho giáo đối với lối sống của người

Việt Nam hiện nay.

Chương 1

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN

CỦA TRIẾT LÝ NHÂN SINH NHO GIÁO

1.1. Quá trình hình thành và biến đổi của Nho giáo

12

1.1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội của thời kỳ Xuân Thu

- Chiến Quốc

- Về mặt xã hội: Xuân Thu - Chiến Quốc là hai giai

đoạn lịch sử của xã hội Đông Chu. Sau khi Chu Bình

Vương lên ngôi do thế và lực không đủ sức chống cự lại sự

xâm lược của giặc ngoại tộc, nên đã dời đô từ Hạo Kinh về

Lạc Ấp. Lúc này, nhà Chu không thể giữ được chế độ cai

trị như cũ. Các nước chư hầu không phục tùng vương

mệnh, cống nạp mà còn lộng quyền xưng danh nhà Chu để

thôn tính lẫn nhau. Xuân Thu (770 - 403 tr.CN) có hơn một

trăm nước, đến thời Chiến Quốc (403- 221 tr.CN) còn có

bảy nước, trong đó Tần là quốc gia hùng mạnh nhất.

- Về mặt kinh tế: Trong nông nghiệp việc sử dụng công

cụ bằng sắt ngày càng rộng rãi; Quan hệ trao đổi sản phẩm

lao động xã hội được lưu thông; tiểu, thủ công nghiệp ngày

càng mở rộng. Sự phát triển của các ngành, nghề này không

hoàn toàn phụ thuộc vào quyền sở hữu đất đai của nhà

nước. Chế độ tư hữu ruộng đất được nhà nước thừa nhận và

bảo vệ.

- Về mặt chính trị: Một lực lượng kinh tế tư hữu mới ra

đời là một thế lực đối chọi với chế độ công hữu đất đai nhà

Chu. Tương ứng với cơ sở kinh tế mới đó là lực lượng

chính trị mới - Thế lực địa chủ ở các địa phương thuộc các

nước chư hầu nhà Chu. Xu hướng chính trị của các thế lực

13

mới này là thâu tóm quyền lực, tập trung uy quyền và mở

rộng sự bành trướng thống trị.

- Về mặt tư tưởng, văn hóa: Những tác phẩm có giá trị

văn hóa lớn như: Kinh thi gồm 305 bài thơ mang tính tập

thể của nhiều thế hệ, của nhiều tầng lớp khác nhau, nó phản

ánh các lĩnh vực khác nhau trong đời sống xã hội. Bên cạnh

đó còn có bộ Sở từ. Đó là tác phẩm của Khuất Nguyên (343

– 227 tr.CN) – là tập dân ca của nước Sở, trong đó thể hiện

tình cảm yêu nước thương dân, sự bình dị gần gũi với nhân

dân lao động của Khuất Nguyên. Chính những tác phẩm

trên chứa đựng tri thức về văn hóa làm chất liệu xây dựng

nên nền móng cho sự nảy nở tư tưởng triết lý nhân sinh

Nho giáo.

Xuân Thu - Chiến Quốc là thời kỳ của bách gia chư tử,

bách gia tranh minh. Chính trong quá trình trăm nhà cùng

tranh luận, nó đã đẻ ra nhiều tư tưởng vĩ đại, trên các lập

trường của các giai tầng khác nhau. Đó là bối cảnh góp

phần hình thành nên hệ thống lý luận của các nhà tư tưởng

Trung Hoa cổ đại.

1.1.2. Sự hình thành và biến đổi của Nho giáo

Trong bối cảnh loạn lạc, sự sa đọa của các thế lực cầm

quyền khiến cho danh và thực không chính và thuận, kỷ

cương, phép nước, trật tự xã hội bị đảo lộn, nhất là nghi lễ

truyền thống của nhà Chu. Nhằm duy trì địa vị của giai cấp

quý tộc thống trị và lễ nghĩa của nhà Chu trong xã hội, Nho

14

giáo ra đời mà Khổng Tử (551 – 479 tr.CN) là người khởi

xướng. Đó là một hệ thống học thuyết, đạo lý bảo vệ và

củng cố sự phục hồi chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa của

chế độ chiếm hữu nô lệ nhà Chu.

Dưới thời nhà Hán năm 206 tr.CN Nho giáo được lựa

chọn và sử dụng như là vũ khí tinh thần và nó có vị trí, vai

trò cao nhất so với Đạo giáo và Phật giáo. Nho giáo thời kỳ

này được nhấn mạnh ở tư tưởng thiên mệnh, nghĩa, lễ ở

tinh thần phục tùng của bề dưới đối với bề trên.

Dưới triều đại nhà Đường thì Nho giáo không chiếm vị

trí trọng tâm trong xã hội mà nhường chỗ cho Phật giáo.

Đến thời nhà Tống Nho giáo lại chiếm một vị trí cao nhất

trong xã hội. Hán Dũ kêu gọi các nhân sĩ trở về với tư

tưởng nhân nghĩa của Khổng Tử, đề cao Mạnh Tử và trở

thành ngọn cờ tư tưởng có ảnh hưởng lớn trong xã hội. Từ

thế kỷ XII, đời nhà Tống, dòng tư tưởng này được các nhà

Nho phát triển, nổi bật là hai anh em Trình Hạo (1032 -

1085), Trình Di (1033 - 1107). Nho giáo cho đến thời kỳ

này đã trở thành một hệ thống triết học, chính trị, đạo đức,

xã hội hoàn chỉnh.

Dưới triều đại Nguyên Mông thống trị Trung Hoa, Nho

giáo vẫn được suy tôn, được thể hiện ở công việc giảng đạo

và thi cử. Đến đời nhà Minh khoảng thế kỷ XVI thì Nho

giáo được phát triển và biến đổi theo hướng duy tâm cực

đoan. Đến đời nhà Thanh, xã hội có nhiều thay đổi, văn hóa

15

Trung Hoa và văn hóa phương Tây có sự giao thoa, nên

Nho giáo không được đề cao trong xã hội.

1.2. Một số nội dung cơ bản của triết lý nhân sinh

Nho giáo

1.2.1. Khái niệm về triết lý

Theo tác giả Nguyễn Tất Thịnh thì triết lý được hiểu: Là

những điều được rút tỉa bởi trải nghiệm, như một quan

niệm nền tảng, cốt lõi trên cơ sở nhìn nhận điều gì là nguồn

cội tâm thế, giá trị tinh thần, sức mạnh ứng xử được phát

biểu ngắn gọn, xúc tích - Như một tín điều, làm kim chỉ

nam cho cách xử thế, hành động hay lối sống của một cá

nhân hay một cộng đồng. Triết lý biểu hiện dưới khía cạnh:

- Con người có sự suy tư duy nhất trong mục đích của

mình.

- Con người biết suy tư, đó là niềm tự hào của nhân

loại.

- Sự bế tắc của con người trong suy tư.

1.2.2. Khái niệm về nhân sinh

Nhân sinh không chỉ bao gồm cuộc sống của con người

và sinh mệnh của con người mà gồm cả nhân tính nữa.

Nhân sinh được biểu hiện ở khía cạnh sau:

Thứ nhất, về mặt sinh mệnh của con người. Đó chính là

yếu tố cơ bản duy trì sự sinh tồn của con người.

Thứ hai, cuộc sống của con người. Mục đích của cuộc

sống không chỉ là làm tốt cho mình mà còn làm cho cả

16

nhân loại sống tốt hơn. Cuộc sống ở đây là cuộc sống nội

tâm và cuộc sống ngoại tâm, cũng có thể gọi là đời sống

tinh thần và đời sống vật chất.

Thứ ba, phương hướng của con người, hướng về một

mục tiêu nhất định.

1.2.3. Về cái sống và cái chết

Khổng Tử là người đã đặt cái sống trong quan hệ với

cái chết. Đạo Khổng hướng về sự sống chứ không phải

hướng về cái chết. Tuy nhiên, khi phải đến với cái chết thì

đạo Khổng luôn khuyên người ta tìm cái bất tử, tìm cái

vĩnh hằng trong cái chết.

Mạnh Tử cũng trình bày quan niệm của ông về sống -

chết một cách hết sức rõ ràng: “Sống là điều mà ta muốn,

việc nghĩa cũng là điều mà ta muốn. Nếu không thể làm

được cả hai điều đó thì ta bỏ sống để theo nghĩa. Sống cũng

là điều mà ta muốn, nhưng cái mà ta muốn lại còn hơn cả

sống, cho nên ta không tham sống một cách cẩu thả. Chết

là cái mà ta ghét, nhưng cái mà ta ghét còn hơn cả cái chết,

cho nên gặp hoạn nạn ta không hề trốn tránh”.

1.2.4. Về bản tính con người

Khổng (551 - 479 tr.CN)- Mạnh (317 - 298 tr.CN) cho

rằng, bản tính của con người do trời sinh ra, nó vốn là

thiện. Cái thiện được biểu hiện ở nhân - nghĩa - lễ - trí.

Còn Tuân Tử (298 – 238 tr.CN) cho rằng, bản tính con

người là ác. Ông đã luận giải ác là vì con người ta ai cũng

17

có lòng ham lợi, ai cũng có dụng vọng. Đó là nguồn gốc

của mọi tội ác. Bản tính của con người cũng có thể thay đổi

và cải tạo được. Đó là nhờ vào sự giáo hóa.

1.2.5. Về đạo đức

Các phạm trù nhân - nghĩa - trí - dũng - trung - hiếu

luôn luôn xuyên suốt trong triết lý về đạo đức Nho giáo.

Trong đó, nhân là làm ơn cho người khác, là yêu người,

yêu mọi người, nghĩa là quyết đoán hợp lẽ phải, là nên làm,

thích hợp là làm. Trí là tri nhân, dũng là hành nhân, làm

điều có nhân, có hậu. Trung là trung với vua, là sự bền

vững của xã tắc. Hiếu là kính thờ, phụng dưỡng cha mẹ,

anh em có quan hệ tốt với nhau, hiếu cũng là nguồn gốc

của nhân luân. Nho giáo quan niệm, chỉ có hiếu thì mới

hữu ái; Từ hiếu thảo với cha mẹ thì mới có thể chuyển lòng

hiếu thảo ấy thành lòng trung đối với vua, hòa thuận với

anh em thì có thể chuyển hết hòa thuận ấy thành lòng kính

thuận đối với bậc tôn trưởng.

1.2.6. Về hình mẫu con người

Quân tử là mẫu người lý tưởng về phẩm chất đạo đức xã

hội và tư cách của người cầm quyền, ở họ hội tụ đủ nhân -

nghĩa - lễ - trí - tín; Là người nắm được thời mệnh, sống

theo mệnh trời, nỗ lực chăm lo tu dưỡng đạo đức, khiêm

tốn, cẩn trọng. Họ có trách nhiệm kính trên nhường dưới,

sống thân ái, hòa đồng với mọi người.

1.2.7. Về sự tự học, trau dồi kiến thức cho bản thân

18

Nho giáo đề cao việc học tập, trau dồi kiến thức đối với

bản thân. Theo Khổng Tử, con người sinh ra vốn giống

nhau, nhưng do việc học tập và tự rèn luyện khác nhau mà

dẫn đến sự phân biệt người này với người kia. Tuy nhiên,

việc học ở đây là cải tạo “cái đạo” của con người cho hòa

thuận với tự nhiên.

Học để làm quan, tham gia gánh vác công việc đại sự

của quốc gia, để được thực hành những cái mà mình đã

được học. Đặc biệt đối với người quân tử trước tiên là phải

biết tu trí, tu thân. Không tự tu được thân, không thể giúp

được đời, không thể làm tròn bổn phận của mình với thiên

hạ.

Như vậy, theo nghĩa nào đó học ở đây là đến gần với trí,

nếu không học và tự học thì dù có thiện tâm đến đâu cũng

bị cái ngu muội, phóng đãng, lầm lạc, cuồng bạo làm biến

bản chất của con người, con người sẽ tự đánh mất mình và

trở thành nô lệ của chính mình.

1.2.8. Về giáo dục, phương pháp giáo dục

Giáo dục ở đây theo Nho giáo là giáo dục tâm tính, giáo

dục thực hành và giáo dục nhân cách. Trong đó, giáo dục

tâm tính và giáo dục nhân cách có quan hệ gần gũi nhau,

chúng đều thuộc về lĩnh vực giáo dục đạo đức phẩm cách

cho dân chúng. Giáo dục điều thiện cho dân để dân không

làm điều ác, không phạm tội. Giáo dục theo phương pháp:

19

+ Người học phải ham hiểu biết, phải độc lập suy nghĩ

và sáng tạo trong quá trình nhận thức. Người dạy phải dạy

phương pháp để người học tự mình tìm đến tri thức, học

phải đi đôi với hành.

+ Học trong sách vở, học thầy, học trong cuộc sống.

+ Học theo phương pháp tiên vương.

20

Chương 2

ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT LÝ NHÂN SINH NHO

GIÁO

ĐỐI VỚI LỐI SỐNG CỦA NGƯỜI VIỆT NAM

2.1. Con đường du nhập và sự tiếp biến những giá trị

nhân sinh Nho giáo

2.1.1. Sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam

Nho giáo vào Việt Nam bằng những con đường khác

nhau: Thông qua con đường của những đoàn quân xâm

lược được trang bị hệ tư tưởng Nho giáo cổ đại; Thông qua

con đường truyền giáo có tổ chức của đội ngũ những quan

chức người Trung Quốc được các triều đình phong kiến

Trung Quốc phái sang thực hiện ách thống trị ở Việt Nam

thời kỳ Bắc thuộc; Thông qua con đường giao thương theo

đường biển; Thông qua con đường của những cư dân tự do

người Trung Quốc bất mãn với triều đình phong kiến Trung

Quốc, có hành động chống lại triều đình, nên đã di cư vào

Việt Nam sinh sống. Trong số các con đường trên thì

truyền giáo có tổ chức của đội ngũ quan lại người Trung

Quốc trong thời kỳ Bắc thuộc là con đường cơ bản và chủ

yếu.

2.1.2. Sự tiếp biến những giá trị nhân sinh Nho giáo

Nho giáo – những tư tưởng nhân sinh của nó chính thức

được đón nhận từ triều đại nhà Lý. Những tư tưởng nhân

21

sinh Nho giáo được người Việt tiếp biến một cách sáng tạo,

nó được thể hiện trên các giá trị:

- Về đạo đức cá nhân, gia đình và các mối quan hệ làng

xã, cộng đồng.

- Những vấn đề dựng nước và giữ nước.

- Vấn đề xây dựng nhà nước để tổ chức và điều khiển

công cuộc xây dựng nhà nước và giữ nước.

- Về nhân, nghĩa, lễ, trí, tín…

2.2. Một số ảnh hưởng của triết lý nhân sinh Nho

giáo đối với lối sống của người Việt Nam

2.2.1. Trong quan niệm về cuộc sống, tổ tông và con

cháu

Xã hội Việt Nam từ xa xưa đã được kết cấu theo mô

thức gia đình, họ hàng, làng nước. Khi Nho giáo du nhập

vào Việt Nam, người Việt đã có truyền thống cúng giỗ tổ

tiên. Đó là biểu hiện huyết thống, huyết thống càng đậm đà

bao nhiêu thì vương triều càng bền vững bấy nhiêu. Từ đó,

huyết thống cũng là tiêu chuẩn để xác định mức độ đậm

nhạt, xa gần của đạo đức nhân ái.

Vấn đề trường tồn của dòng họ, của tổ tông nhỏ quan

trọng thì vấn đề trường tồn của dòng họ lớn, của đại tổ tông

càng quan trọng biết nhường nào. Hầu như, đó là điểm

đồng quy của tất cả những tư tưởng, mong ước trong lịch

sử Việt Nam. Từ Lý Công Uẩn, Trương Hán Siêu, Nguyễn

Trãi, Cao Bá Quát, Ngô Thì Nhậm, Phan Bội Châu…

22

Những nhà Nho đó dẫu thuận hay nghịch cảnh, đều đã trở

thành bất tử. Triết lý nhân sinh của Nho giáo mang màu sắc

Việt Nam đã hun đúc cho họ thêm sức mạnh để “cùng trời

đất cửu trường” và “tính kế muôn đời cho con cháu” mai

sau có được cuộc sống bình yên. Cho nên, người Việt

không hề do dự hy sinh cho sự nghiệp đấu tranh sinh tồn

với tự nhiên cũng như chống giặc ngoại xâm giành độc lập

xây dựng cơ đồ cho muôn đời sau.

2.2.2. Trong quan hệ coi trọng sự ổn định cộng đồng,

xã hội

Đối với Việt Nam thì từ thời dựng nước cha ông ta luôn

mong ước sự ổn định để phát triển. Chỉ trên cơ sở ổn định,

người Việt mới có điều kiện cố kết với nhau để tạo nên sức

mạnh đoàn kết của cả cộng đồng trong cuộc đấu tranh

chống thiên tai, lũ lụt và chống giặc ngoại xâm. Hơn nữa,

những tư tưởng nhân sinh Nho giáo không những được

dùng làm vũ khí tinh thần để duy trì sự ổn định nơi triều

đình mà còn vừa ổn định nơi dân cư tạo nên sự gắn bó

trung thành của tổ chức bộ máy cai trị với triều đình và sự

gắn bó của từng cá nhân với cộng đồng xã hội. Về lối sống

thì coi trọng và trọng vọng những quan lại có lối sống, việc

làm có đạo đức, biết đề cao chuẩn mực đạo đức cao hơn

chuẩn mực tài năng. Về quan hệ láng giềng thì các triều đại

phong kiến luôn thực hiện chính sách thân thiện, không

xâm hại đến nhau.

23

2.2.3. Trong quan hệ gia đình, quan hệ xã hội

Người Việt sống hài hòa cho nên trong quan hệ gia đình

và xã hội luôn man tính mềm dẻo linh hoạt thể hiện truyền

thống coi trọng tình người, coi trọng quan hệ bình đẳng

giữa các thành viên trong gia đình và ngoài xã hội. Thực tế,

người Việt chỉ sử dụng chữ trung trong những tình cảnh mà

tôn vinh cho những ông vua anh minh hết lòng vì dân, vì

nước chứ không dung thứ cho những vị vua thiếu tinh thần

yêu nước, yêu dân tộc và không có khả năng trị vì đất

nước. Hiện nay, mối quan hệ cha – con, người Việt cũng

không đề cao vị trí, vai trò của người cha đến thái quá làm

cho người cha biến thành gia trưởng mà luôn luôn đặt vị trí,

vai trò công lao của người cha và người mẹ ngang bằng

nhau giúp đỡ lẫn nhau.

2.2.4. Trong tư tưởng lấy dân làm gốc

Triết lý coi trọng dân được tiếp biến trong điều kiện,

hoàn cảnh của xã hội Việt Nam, luôn được gắn với truyền

thống yêu nước, thương nòi, coi trọng tính cộng đồng và

luôn được các triều đại phong kiến hưng thịnh hết sức quan

tâm. Sự quan tâm đó được thể hiện ở mối quan hệ gắn bó

giữa triều đình với nhân dân như cá với nước và sức mạnh

của nhân dân luôn luôn được thể hiện thông qua những

cuộc chiến tranh giữ nước, đồng thời sau mỗi thắng lợi đã

giành được, các triều đại phong kiến Việt Nam đều có

chính sách khoan thư sức dân; miễn thuế cho dân ở những

24

nơi gặp khó khăn trong nhiều năm và tạo điều kiện cho dân

phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần

thông qua khai khẩn đất hoang, mở trường, mở lớp để nâng

cao dân trí cho dân.

2.2.5. Trong quan niệm về nhân ái

Khi du nhập vào Việt Nam triết lý về lòng nhân ái đã

thấm sâu trong các quan hệ từ quan hệ trong gia đình đến

xóm làng, cộng đồng xã hội. Trong nhân ái của người Việt

thì chữ tình và chữ nghĩa được đề cao.. Nhân ái không

những chỉ biểu hiện trong đời sống vợ chồng, biểu hiện

trong quan hệ gia đình mà còn biểu hiện trong quan hệ làng

xóm, láng riêng với nhau. Hơn nữa, lòng nhân ái không chỉ

bó hẹp trong cộng đồng người Việt mà cả với kẻ thù đi xâm

lược.

2.2.6. Trong quan niệm về giáo dục, nuôi dưỡng con

người

Giáo dục để cho con người sống có nhân, sống một

cách khiêm tốn, biết nhường nhịn, không tham lam, không

đòi hỏi, không cạnh tranh, chăm làm điều lành và khoan

thứ. Giáo dục và nuôi dưỡng con người để cho con người

biết đạo làm người, thái độ ứng xử của con người với gia

đình, bạn bè và xã hội. Người Việt thừa nhận việc cần thiết

giáo dục văn và hạnh, lấy việc nêu gương từ nhân cách của

người dạy làm cốt lõi. Giáo dục là đào tạo con người toàn

25

diện về văn, hạnh, mặt khác giáo dục là để xã hội có phong

tục tốt đẹp, trật tự trên dưới ổn định.

2.2.7. Những hạn chế và tiêu cực của triết lý nhân

sinh Nho giáo

- Những tư tưởng nhân sinh Nho giáo lại quá coi trọng

nông nghiệp mà bài xích thương nghiệp, quá chú trọng đến

việc tự cung, tự cấp mà quên đi sự trao đổi mua bán, kìm

hãm tính năng động, sáng tạo dẫn đến quan liêu, bảo thủ

trong cả kinh tế lẫn chính trị.

- Những tư tưởng nhân sinh Nho giáo quá bảo thủ

không tiếp thu những cái mới ưu việt hơn dẫn đến cái mới

ưu việt hơn bị tiêu diệt. Những tư tưởng nhân sinh đưa con

người hướng đến cái nội tâm, mà không hướng con người

ra bên ngoài, thực hành những điều tìm được, chinh phục

thiên nhiên và cải tạo thiên nhiên.

- Vấn đề trọng nam khinh nữ, hướng về với quá khứ và

cho rằng đời này không bằng đời xưa cả về kinh nghiệm

lẫn tri thức.

26

Chương 3

GIẢI PHÁP PHÁT HUY NHỮNG GIÁ TRỊ TỐT ĐẸP

CỦA TRIẾT LÝ NHÂN SINH NHO GIÁO ĐỐI VỚI

LỐI SỐNG

CỦA NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1. Hướng tiếp cận kế thừa, phát huy những giá trị

triết lý nhân sinh Nho giáo

Thứ nhất, kế thừa có chọn lọc để phục vụ cho định

hướng xã hội chủ nghĩa. Xét về bản chất, kế thừa có chọn

lọc những giá trị nhân sinh Nho giáo trong sự nghiệp đổi

mới đất nước chính là quá trình giải quyết mối quan hệ biện

chứng giữa cái truyền thống và cái hiện đại. Cái truyền

thống nói chung, trong đó có những giá trị nhân sinh Nho

giáo, nó đóng vai trò là hình thức trung gian quan trọng của

cái được kế thừa trong đời sống xã hội, là cái chứa đựng

trong bản thân mình những năng lực to lớn để tạo ra cái

mới. Trong quá khứ cũng như hiện tại, những giá trị nhân

sinh không chỉ là cái phát sinh, phản ánh những điều kiện

kinh tế xã hội mà nó còn là động lực nội sinh của sự phát

triển. Kế thừa có chọn lọc trước hết là để xây dựng lối sống

của con người Việt Nam trong xã hội hiện đại, sau đó là để

phục vụ cho định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, chúng ta

cần phải có quan điểm biện chứng trong việc khai thác các

giá trị nhân sinh Nho giáo.

27

Thứ hai, kế thừa gắn liền với đổi mới phát triển, phát

triển phải dựa trên những chuẩn mực mới. Theo quan điểm

của chủ nghĩa duy vật biện chứng, kế thừa trong lĩnh vực tự

nhiên, xã hội hay tư duy, bao giờ cũng gắn với những biến

đổi về chất, vì nó là mắt khâu trong quá trình phát triển, thể

hiện mối liên hệ tất yếu giữa cái cũ và cái mới. Xã hội chủ

nghĩa khác cơ bản về chất so với xã hội phong kiến. Những

giá trị nhân sinh mà có tác dụng thúc đẩy và ảnh hưởng lớn

đến định hướng xã hội chủ nghĩa thì nó cần phải được xây

dựng trên cơ sở chuẩn mực mới - Tức là xuất phát từ những

giá trị có ý nghĩa đối với cá nhân, dân tộc và cả loài người.

Thứ ba, kế thừa phát triển, tiếp thu tinh hoa giá trị nhân

sinh, là sự biểu hiện sâu sắc của văn hóa, sự phát triển của

tư tưởng nhân sinh Việt Nam không nằm ngoài quy luật

phát triển của văn hóa. Chúng ta đang sống trong thời đại

của quá trình toàn cầu hóa, có sự tiếp biến về những giá trị

văn hóa nói chung và những giá trị nhân sinh nói riêng là

tất yếu. Bao giờ cũng vậy, sự tiếp biến đó là một quá trình

có lọc bỏ và tiếp thu. Đây là vấn đề có tính quy luật. Để kế

thừa và tiếp thu những giá trị nhân sinh Nho giáo một cách

hợp lý, chúng ta phải chủ động xây dựng những chuẩn mực

giá trị nhân sinh mới, có tính định hướng đúng trong các

chính sách kinh tế xã hội, tạo ra môi trường văn hóa, lối

sống lành mạnh. Đó chính là động lực góp phần xây dựng

lối sống của người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

28

3.2. Một số giải pháp nhằm kế thừa và phát huy

những giá trị triết lý nhân sinh Nho giáo

- Đề cao tinh thần tự học, coi trọng hiền tài, coi trọng việc dạy và học theo tinh thần "học không biết chán, dạy

không biết mỏi"

- Đề cao sự tu dưỡng, rèn luyện và trau dồi đạo đức cá nhân

- Phát huy tư tưởng đề cao đạo đức, giáo dục từ gia đình

- Phát huy truyền thống yêu nước, thương nòi

- Cần phải nâng cao kỷ cương phép nước, trú trọng quy ước cộng đồng

- Xây dựng mẫu người lý tưởng làm mục tiêu phấn đấu

cho mọi người

- Xây dựng gia đình văn hóa trên cơ sở đảm bảo cho các thành viên trong gia đình bình đẳng với nhau

- Nâng cao vai trò của pháp luật với việc giáo dục đạo đức trong đời sống xã hội

29

KẾT LUẬN

Khi tìm hiểu toàn bộ hệ thống triết lý nhân sinh Nho

giáo trong một số học thuyết triết học tiểu biểu Trung Hoa

cổ đại, ta có thể thấy, vấn đề được các hiền triết quan tâm

nhất, tập trung nhất là vấn đề thuộc về con người. Tuy, nó

có sự khác nhau về tính chất, nhưng tư tưởng chủ đạo

xuyên suốt từ đầu đến cuối thể hiện rõ ràng con người luôn

luôn là trung tâm của xã hội và vũ trụ.

Với tinh thần khách quan khoa học, chúng ta cần phải

suy nghĩ sâu sắc hơn để khai thác những giá trị nhân sinh

Nho giáo trong cuộc sống hội nhập quốc tế. Vậy, chúng ta

khai thác như thế nào?. Ở đây, chúng ta phải xử lý tốt mối

quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, giữa quá khứ - hiện

tại - tương lai. Truyền thống là cơ sở của hiện đại và hiện

đại không xoá sạch truyền thống; đồng thời cái truyền

thống chỉ tồn tại khi nó được chọn lọc, kế thừa, phát huy

thông qua cái hiện tại.

Trong quá trình hội nhập, chúng ta đang phải đối mặt

với một thực tế đó là những giá trị nhân sinh tốt đẹo của

dân tộc đang có nguy cơ mai một dẫn đến nguy cơ đánh

mất bản sắc văn hoá. Chính vì vậy, tham gia vào quá trình

toàn cầu hoá hiện nay, chúng ta cần phải chọn lọc, kế thừa

và phát huy những giá trị nhân sinh truyền thống của dân

tộc nói chung của Nho giáo nói riêng làm vốn trong thời kỳ

30

hội nhập. Đây là yêu cầu bức thiết cần phải được các

ngành, các cấp, các địa phương, đặc biệt là cách thức giáo

dục của mỗi gia đình và ý thức của mỗi cá nhân con người

tự giác để góp phần xây dựng lối sống mới của con người

Việt Nam.