TÌNH CẢM VĂN HÓA NHO GIÁO TRONG SÁNG TÁC CỦA TÁC GIA … filetÌnh cẢm vĂn hÓa nho...

15
TÌNH CẢM VĂN HÓA NHO GIÁO TRONG SÁNG TÁC CỦA TÁC GIA VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM - NGÔ TẤT TỐ Hoàng Khả Hưng (Huang Kexinỵ)' Ngô Tất Tố là một trong những tác gia văn học nổi tiếng nhất của chủ nghĩa hiện thực phê phán trong dòng chảy văn học sử Việt Nam, với những sáng tác trước và sau những năm 30, 40 của thế kỷ XX bao gồm tiểu thuyết Tắt đèn , phóng sự tiểu thuyết Leu chõng, phóng sự văn học Việc làng , Tập án cái đìrJĩ, truyện ký lịch sử như Trong rừng nho, Vua Hàm Nghi với việc kinh thành thất thủ, Lịch sử Đề Thảm,... Tất cả những tác phẩm này được viết dưới những gk nhìn khác nhau trong bối cảnh văn hóa lịch sử đặc thù của xã hội Việt Nan dương thời, còn trước những phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động thì ngòi bút của ông lại hết lời ngợi ca, còn trước cái xấu xa của xã hội thống trị thực dìn phong kiến thì ngòi bút ấy cũng kịch liệt đả kích, phê phán, chính điều đó iã mang lại rất nhiều ý nghĩa hiện thực xã hội vô cùng sâu sắc. Ngô Tất Tố cìng với các cây bút khác như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồrg, Nam Cao... đã thực sự là những người tiên phong trong việc khơi thông đòig chảy của chủ nghĩa văn học hiện thực phê phán - một trong những trào lưu sáig tác chiếm vị trí không nhỏ trong lịch sử phát triển của văn học Việt Nam. Ngô Tất Tố được coi là nhà văn hàng đầu của trào lưu hiện thực phê phán có ảih hưởng và hiểu biết rất sâu sắc đối với văn hóa Nho giáo Việt Nam, ông khôig chi có một thời gian tìm hiểu, nghiên cứu một cách bao quát toàn bộ văn hỏa Nho giáo trong truyền thống văn hóa cổ Trung Quốc, mà còn lấy văn hóa Nho giáo làm cảm hứng, đề tài cho hàng loạt tác phẩm văn học, đã phát triển tất cà các diện mạo của văn hóa Nho giáo trong lòng xã hội thực dân phong kiến V ệt Nam, thể hiện được tinh thần thái độ chú ý quan sát nghiêm ngặt, cao độ đối 'ới văn hóa Nho giáo. Bài viết xuất phát từ góc độ nhận thức tương đồng trong văn hóa truyền thống mang tính ưu việt của Nho giáo để tiến hành luận giải nhữig giá trị độc đáo trong sáng tác văn học của Ngô Tất Tố. * Viện Văn học, Đại học Dân tộc Quảng Tây. 958

Transcript of TÌNH CẢM VĂN HÓA NHO GIÁO TRONG SÁNG TÁC CỦA TÁC GIA … filetÌnh cẢm vĂn hÓa nho...

Page 1: TÌNH CẢM VĂN HÓA NHO GIÁO TRONG SÁNG TÁC CỦA TÁC GIA … filetÌnh cẢm vĂn hÓa nho giÁo trong sÁng tÁc cỦa tÁc gia vĂn hỌc hiỆn ĐẠi viỆt nam - ngÔ tẤt

TÌNH CẢM VĂN HÓA NHO GIÁO TRONG SÁNG TÁC CỦA TÁC GIA VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VIỆT NAM -

NGÔ TẤT TỐ

Hoàng Khả H ưng (Huang Kexinỵ) '

Ngô Tất Tố là một trong những tác gia văn học nổi tiếng nhất của chủ nghĩa hiện thực phê phán trong dòng chảy văn học sử Việt N am , với những sáng tác trước và sau những năm 30, 40 của thế kỷ XX bao gồm tiểu thuyết Tắt đèn, phóng sự tiểu thuyết Leu chõng, phóng sự văn học Việc làng , Tập án cái đìrJĩ, truyện ký lịch sử như Trong rừng nho, Vua Hàm Nghi vớ i việc kinh thành thất thủ, Lịch sử Đề Thảm ,... Tất cả những tác phẩm này được viết dưới những g k nhìn khác nhau trong bối cảnh văn hóa lịch sử đặc thù của xã hội Việt N an dương thời, còn trước những phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động thì ngòi bút của ông lại hết lời ngợi ca, còn trước cái xấu xa của xã hội thống trị thực dìn phong kiến thì ngòi bút ấy cũng kịch liệt đả kích, phê phán, chính điều đó iã mang lại rất nhiều ý nghĩa hiện thực xã hội vô cùng sâu sắc. Ngô Tất Tố cìng với các cây bút khác như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồrg, Nam Cao... đã thực sự là những người tiên phong trong việc khơi thông đòig chảy của chủ nghĩa văn học hiện thực phê phán - một trong những trào lưu sáig tác chiếm vị trí không nhỏ trong lịch sử phát triển của văn học Việt Nam. Ngô Tất Tố được coi là nhà văn hàng đầu của trào lưu hiện thực phê phán có ảih hưởng và hiểu biết rất sâu sắc đối với văn hóa Nho giáo Việt Nam, ông khôig chi có một thời gian tìm hiểu, nghiên cứu một cách bao quát toàn bộ văn hỏa Nho giáo trong truyền thống văn hóa cổ Trung Quốc, mà còn lấy văn hóa Nho giáo làm cảm hứng, đề tài cho hàng loạt tác phẩm văn học, đã phát triển tất cà các diện mạo của văn hóa Nho giáo trong lòng xã hội thực dân phong kiến V ệt Nam, thể hiện được tinh thần thái độ chú ý quan sát nghiêm ngặt, cao độ đối 'ớ i văn hóa Nho giáo. Bài viết xuất phát từ góc độ nhận thức tương đồng trong văn hóa truyền thống mang tính ưu việt của Nho giáo để tiến hành luận giải nhữig giá trị độc đáo trong sáng tác văn học của Ngô Tất Tố.

* Viện Văn học, Đại học Dân tộc Quảng Tây.

958

Page 2: TÌNH CẢM VĂN HÓA NHO GIÁO TRONG SÁNG TÁC CỦA TÁC GIA … filetÌnh cẢm vĂn hÓa nho giÁo trong sÁng tÁc cỦa tÁc gia vĂn hỌc hiỆn ĐẠi viỆt nam - ngÔ tẤt

TỈNH c ả m v ă n h ó a n h o g iá o t r o n g s á n g t á c ...

1. Thổ nhưỡng văn hóa Nho giáo trong lòng đòi sống, thời kỳ dài thẩm thấu, nghiêm khắc giáo dục theo văn hóa Nho giáo

Ngay từ rất sớm, văn hóa Nho giáo đã được truyền bá, du nhập vào Việt Nam. Tần Thủy Hoàng sau khi thống nhất vùng núi Lĩnh Nam, cùng với việc người Hán Trung Nguyên không ngừng chuyển nhập vào, không những mang theo những công cụ sản xuất và khoa học kỹ thuật đầu tiên, mà dần dần còn truyền bá, du nhập cả tư tưởng quan niệm, luân lý đạo đức, lễ nghĩa lễ tiết của Nho giáo vào Việt Nam. Từ sau thời kỳ Tam Quốc, Nho học bắt đầu được truyền bá rộng rãi ở Việt Nam. Nhà sử học nổi tiếng của Việt Nam Trần Trọng Kim đã từng nói: "Thái thú Gĩao Chi thời l am Quốc rất hồ hời trong việc xây dựng trường học, khiến cho Nho giáo càng thịnh hành hơn trước. Cuối cùng lại trải qua lịch sử các triều đại là Lưỡng Tần, Tống. Tề, Lương, Trần, Tùy, Đường, giống với Trung Quốc, nước chúng ta cũng đều tồn tại "Tam giáo đồng nguyên" gồm Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo"1.

Sau năm 968, Việt Nam độc lập, thông qua sự mở rộng phát triển của triều đại nhà Lê, nhà Lý thì văn hóa Nho học được truyền bá ở Việt Nam đã tiến thêm một bước, đến cuối nhà Trần, Nho học thực sự đã thực sự phát triển rực rỡ nhất, chiếm vị trí chủ đạo thay thế Phật giáo. Đến thế kỷ XV, Nho học rất được chú trọng phát triển, được tôn lên là quốc học. Thời Hậu Lê (năm 1740) đã ban bố 24 điều, đề ra việc đối với gia đình, dòng tộc, quan hệ láng giềng,... tất cả đều phải hành xử thông qua nhân, tín, lễ, nghĩa, hiếu, trung..., tức nhân dân phải hành xử tuân thủ quy phạm luân lý đạo đức của Nho gia, bởi vậy những tư tưởng của Nho học dần được truyền rộng N ào trong dân gian. Đây được coi là triều đại phong kiến Nho giáo Việt Nam phát triển hưng thịnh nhất trong lịch sử, "Nho giáo hậu Lê hưng thịnh, đã giành lấy địa vị độc tôn, trở thành tư tưởng chính thống chi phối toàn xã hội. Cho đến đầu và giữa triều Nguyễn, Nho học vẫn giữ vị trí hưng thịnh. Từ thế kỷ XV đến giữa thế kỳ XIX, Tam cương Ngũ thường của Nho giáo đã trở thành kim chỉ nam, sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong xã hội phong kiến Việt Nam"2.

Đến nửa cuối thế kỷ XIX, sau khi Việt Nam bị chủ nghĩa đế quốc Pháp xâm lược, sự phát triển của Nho giáo ở Việt Nam cũng phải chịu sự áp chế. Thực dân Pháp dã tăng cường sự thống trị đối với Việt Nam, năm 1897, đế quốc Pháp đã cho xây đưng hàng loạt trường học Pháp - Việt ở tất cả các trung tâm thành phố lớn, phát triển hộ thổng tiếng Pháp và chữ quốc ngữ, dần thu hẹp phạm vi sử dụng tiếng

1. Trầr Trọng Kim, Nho giáo (xuất bản lần đầu tiên năm 1930), tái bản năm 2003, Nxb Văn học, Hà Nội, tr. 648.

2. Đồ Viễn Hòa, Việc mô phỏng tư tưởng Nho giáo và sự phát triển xã hội Ả Đông, Nam Ninh, NxbNhân dân Quảng Tây, 9/2002, tr. 269.

959

Page 3: TÌNH CẢM VĂN HÓA NHO GIÁO TRONG SÁNG TÁC CỦA TÁC GIA … filetÌnh cẢm vĂn hÓa nho giÁo trong sÁng tÁc cỦa tÁc gia vĂn hỌc hiỆn ĐẠi viỆt nam - ngÔ tẤt

VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LÀN THỨ TƯ

Hán, bởi vậy đã dần cắt đứt mối liên hệ giữa văn hóa Việt Nam và Trung Quốc. Năm 1898 còn quy định sử dụng Pháp ngữ và Quốc ngữ để tiến hành thi Hương. Năm 1906, thực dân Pháp lại tiến hành cải cách giáo dục ở 3 cấp, giúp địa vị Pháp ngữ và Quốc ngữ tiến thêm một bước. Nho giáo Việt Nam trong những năm đầu thể kỷ XX có thể ví với hình ảnh "Nhật lạc Tây sơn" (M ặt trời lặn ở rặng núi phía Tây), bởi ảnh hường của nó đối với kinh tế, chính trị ngày càng bị hạ thấp. Tuy nhiên, xét đến cùng thì Nho giáo cũng đã tồn tại trong lịch sử Việt Nam hơn hai nghìn năm, đã thực sự trở thành một bộ phận hữu cơ trong truyền thống văn hóa Việt Nam, nó hoàn toàn không thể nít lui một cách triệt để khỏi vũ đài lịch sử. Do vậy, thực dân Pháp đã không ngừng tăng cường sự thống trị đổi với Việt Nam, hòng biến Việt Nam trở thành thuộc địa cung ứng nguyên liệu dồi dào và thị trường tiêu thụ thương phẩm cho Pháp, một mặt hạn chế Việt Nam phát triển theo con đường kinh tế tư bản chủ nghĩa, mặt khác lại duy trì sự thống trị của văn hóa phong kiến ở các vùng nông thôn. Chính vì lí do đó mà văn hóa Nho giáo vẫn chiếm vị trí quan trọng nhất định trong quảng đại quần chúng ở các vùng nông thôn Việt Nam đương thời.

Ngô Tất Tố mặc dù được sinh ra khi Nho giáo đang bị suy yếu (năm 1893) nhưng gia đình ông lại có truyền thống Nho học nổi tiếng trong lịch sử của làng Lộc Hà, tổng Hội Phủ, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (làng này tên nôm xưa gọi là Kẻ Cói, thuộc xứ Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh). Dựa vào các tư liệu đã ghi chép lại ta biết được đây là ngôi làng đã từng có 130 người từng đỗ Tiến sĩ, "Đông ngàn trong lịch sứ rõ ràng là đất của những Tiến sĩ, Trạng nguyên, nơi phát tích của nhiều đống họ khoa bảng"]. Đây là vùng đất địa linh nhân kiệt, vùng đất phát về học thức. Ông nội của Ngô Tất Tố đã từng 7 lần tham gia khoa cử, cuối cùng đồ tú tài; thân phụ ông cũng là người ham học kinh thư, cũng không thể giành được hàm tước gì, cuối cùng đành an phận đảm nhận chức phận là ông đồ dạy chữ Hán và văn hóa Nho giáo Trung Quốc cho con em trong thôn xóm. Dưới ảnh hường của xã hội và truyền thống gia đình, Ngô Tất Tố từ nhỏ đã được hấp thu một nền giáo dục văn hóa Nho giáo. Ông cũng giống như đại đa số những đứa trẻ trong các gia đình Nho giáo khác, khi nhỏ cũng được học tập và tiếp nhận lễ nghĩa Nho giáo từ bố mẹ. Sau tiểu học qua hệ thống học tập với Hiểu kinh, Tam tự kinh, đã nắm được cơ bản thế nào là hiếu đạo, lễ nghĩa và sửa mình. Suy cho cùng thì ông đã dần dần từng bước học tập hệ thống Tứ thư, Ngũ kinh, cổ văn, đường thi, lịch sử, văn hỏa của Trung Quốc, các điển tích và các danh sĩ nổi tiếng trong lịch sử Việl Nam. Ngoài chuyên môn là nẳm chẳc kỹ thuật viêt văn, ông còn thành thạo các phương pháp làm thơ, phú, viết báo, kịch và các phương pháp lí giải, cảm thụ ý nghĩa văn chương. Để đỗ trong các kỳ khoa cử, thuộc lòng tất cả các chương, mục

1. Ngô Vĩnh Bình, 1993^#55#J.

960

Page 4: TÌNH CẢM VĂN HÓA NHO GIÁO TRONG SÁNG TÁC CỦA TÁC GIA … filetÌnh cẢm vĂn hÓa nho giÁo trong sÁng tÁc cỦa tÁc gia vĂn hỌc hiỆn ĐẠi viỆt nam - ngÔ tẤt

TÌNH CẢM VĂN HÓA NHO GIÁO TRONG SÁNG TÁC...

hoặc tất cả các đoạn, các câu là một trong những yêu cầu quan trọng nhất trong kinh điển Nho gia, thầy giáo đều yêu cầu học sinh của mình học thuộc lòng tất cả những thứ đó, bởi thế các sĩ tử thông qua tất cả những gì được luyện tập thông thường đều nhất loạt nắm tương đối sâu sắc những điều cơ bản nhất của văn hóa Nho giáo. Năm 1912, Ngô Tất Tố bắt đầu bước chân vào con đường khoa cử, năm 1925, ông lại tham gia và đỗ đầu kỳ khảo hạch toàn tinh Bắc Ninh, nên được gọi là "đầu xứ Tổ", rồi thi Hương lần thứ hai, khoa Ất Mão, cũng là khoa thi Hương cuối cùng ờ Bắc Kỳ. Ông qua được kỳ đệ nhất, nhưng hỏng ở kỳ đệ nhị, đệ tam. Ngô Tất Tố trưởng thành trong môi trường giáo dục và văn hóa Nho giáo, tất cả những yếu tố đó đã trở thành nguồn đề tài nghiên cứu và cảm hứng sáng tạo văn chương của ông.

2. Mối nhân duyên đặc biệt đối với văn hóa Nho giáo, tích cực nghiền cứu văn hóa Nho giáo, lấy Nho giáo làm đề tài sáng tạo nghệ thuật

Trên văn đàn văn học Việt Nam những năm đầu thể kỷ XX, cùng với các tác già chịu tác động của vãn hóa Nho giáo, nổi tiếng trong khoảng đầu những năm 20 có các tác giả như: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Bá Học, Tàn Đà, nhưng đến cuối những năm 20 lại dần dần lùi lại phía sau hậu trường trên văn đàn, nhường lại chỗ cho các tác gia chịu ảnh hưởng của văn hóa Tây học, và các nhà Tây học dần chiếm vị trí thống trị trên bầu trời văn học, ví dụ như đầu những năm 30 có các cây bút như: Nhất Linh, Khái Hưng, Tam Lang, Lan Khai, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao, Tô Hoài, Thạch Lam ,... Trong số đó hoặc từ Pháp du học quay về, hoặc đã từng theo học và tốt nghiệp ở các trường Pháp - Việt nổi tiếng. Tất cả đều chịu ảnh hưởng của nền văn học phương Tây, mô phỏng các sáng tác của văn học phương Tây, sử dụng thành thục chữ quốc ngữ Việt Nam trong việc sáng tác văn học. Trong các tác giả của nền văn học mới đương thời khi đó, chi có rất ít người cùng kiêm nhiệm cả Nho học và Tây học như Ngô Tất Tố và Nguyễn Công Hoan. Tuy nhiên, Ngô Tất Tố do từ nhỏ đã được thụ hưởng nền giáo dục và văn hóa tốt đẹp của Nho giáo, nên đã nảy sinh mối lương cảm rất đặc biệt đối với văn hóa Nho giáo. Từ năm 1923 đến đầu những năm 1940, ông đã tiến hành nghiên cứu bao quát nền văn hóa cổ đại Trung Quốc trong nội tại văn hóa Nho giáo, tiến hành dịch chú giải kinh điển Nho học Trung Quốc Kinh dịch, cho xuất bản Lão Tử, Mặc Từ, tiến hành phê phán một số quan diểm sai lầm trong Nho Giáo của Trần Trọng Kim, đồng thời ông còn lấy văn hóa Nho giáo làm đề tài, sáng tác Lều chõng,, Việc làng, Tập án cải đình, Trong rừng nho,... đây cũng là hướng thường thấy trên văn đàn của những năm 30, 40 tại Việt Nam đó là đồng thời cùng dịch, nghiên cứu nội dung văn hóa Nho giáo và lấy ctó làm đề tài sáng tạo văn học.

961

Page 5: TÌNH CẢM VĂN HÓA NHO GIÁO TRONG SÁNG TÁC CỦA TÁC GIA … filetÌnh cẢm vĂn hÓa nho giÁo trong sÁng tÁc cỦa tÁc gia vĂn hỌc hiỆn ĐẠi viỆt nam - ngÔ tẤt

VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TÉ LÀN THỨ TƯ

2.1. Chỉnh lí, dịch thuật, nghiên cứu văn hóa truyền thống Trung Quốc và Việt Nam , phát triển sâu rộng Hảtt học và nuôi dưỡng văn hóa Nho học

Trong một thời kỳ dài Việt Nam đã sử dụng văn tự Hán và Nôm làm công cụ để học tập và sáng tác văn học, cùng với việc phổ cập văn tự Quốc ngữ vào đầu thế kỷ XX, thì văn tự Hán, Nôm đã dần vắng bóng trên vũ đài chính trị, kinh tế, văn hóa Việt Nam, văn hóa Việt Nam sắp đối mặt với nguy cơ bị gián đoạn. Ngô Tất Tố luôn trăn trở, suy nghĩ về sử mệnh của văn hóa truyền thống dân tộc, đối với văn học Hán và văn học Nôm của Việt Nam thời kỳ trung đại, ông tiến hành chỉnh lí, dịch, nghiên cứu, sau đó cho xuất bản hai bộ sách nổi tiếng Văn học đời Lý, Văn học đời Trần, tiến hành giới thiệu, địch, bình chú và phân biệt văn học của hai triều đại Lý và Trần; tiếp đến ông còn tiến hành biên tập, khảo cứu từ tác giả đến tác phẩm của toàn bộ nền văn học từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX, dịch và xuất bản Thi văn bình chú, thể hiện tâm huyết vô cùng sâu sắc đối với Hán học và tinh thần nuôi dưỡng văn học. Và thể hiện sự nuôi dưỡng văn hóa của Nho gia đã bám rễ rất sâu vào nền văn hóa Việt Nam, là việc phê phán Nho giáo của Tràn Trọng Kim và việc dịch Kinh dịch.

Trần Trọng Kim - một học giả có tiếng của Việt Nam năm 1932 đã cho xuất bản bộ sách nghiên cứu nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam - Nho giáo, sau khi xuất bản, Nho giảo đã thực sự gây tiếng vang lớn và khẳng định tên tuổi của Trần Trọng Kim trong bối cảnh văn hóa đương thời, ông tuyên bố "Dân An Nam đều phải thắp hương mà đọc"1. Tuy nhiên, sau khi Ngô Tất Tố đọc xong, phát hiện thấy cuốn sách còn tồn tại nhiều sai sót, năm 1940 ông đã cho đăng bài tiểu luận dài Phê phản cuốn Nho giáo của Trần Trọng Kim , tiến hành bình giá, vạch trần một cách khoa học những vấn đề còn tồn đọng trong Nho giáo của Trần Trọng Kim. Tác giả cho rằng, khuyết điểm lớn nhất tồn tại trong Nho giảo của Trần Trọng Kim chính là tài liệu dẫn dùng không nghiêm ngặt, chặt chẽ, ông phân biệt các tài liệu dẫn ngôn luận của Khổng Từ từ Khổng Tử gia ngữ, Thư kinh, Le kinh, Dịch kinh, Xuân thu, Đại học, Trung dung, Mạnh Tử, Luận ngữ,... Mặc dù Ngô Tất Tổ nhìn thấy và chi ra "Trong bấy nhiêu sách, trừ ra mấy cuốn Luận ngữ, Mạnh Tử, Kinh Xuân Thu và Kinh Thi, còn thì đều là những sách đáng ngờ, hoặc không thể tin"2, nhưng Trần Trong Kim tuyệt nhiên không xem xét khảo sát đánh giá lại, dẫn đến làm tăng thêm mối nghi ngờ cho cuốn sách, tạo thành nhiều thiếu sót, nhầm lẫn. Do vậy, Ngô Tất Tố càng khẳng định luận chứng của mình về những tài liệu được dẫn là "đáng hoài nghi, hoặc không đáng tin cậy", bằng những phán đoán minh chứng có sức thuyết phục mang tính khoa học của chính mình; tiếp đó Ngô Tất Tố còn chỉ ra trong nội dung

1, 2. Ngô Tất Tố, Phê phán cuốn Nho giáo cùa Trần Trọng Kim, Hà Nội, Nxb Mai Lĩnh, 1940.

962

Page 6: TÌNH CẢM VĂN HÓA NHO GIÁO TRONG SÁNG TÁC CỦA TÁC GIA … filetÌnh cẢm vĂn hÓa nho giÁo trong sÁng tÁc cỦa tÁc gia vĂn hỌc hiỆn ĐẠi viỆt nam - ngÔ tẤt

TlNH CẢM VẢN HÓA NHO GIÁO TRONG SÁNG TÁC...

cuốn Nho giáo cũng tồn tại sai sót, Trần Trọng Kim đã lấy tư tưởng các học trò của K hổng Tử hoặc các Nho sĩ nhà Hán coi như là tư tưởng của Khổng Tử để tiến hành giiản thuật; ngoài ra, Trần Trọng Kim còn lí giải theo kiểu "vọng văn sinh ý" (Trông miặt bắt hình dong, nhìn vào bề ngoài mà đoán ý bên trong) chữ "Nho", giải thích tư tưởng dân chù hiện đại có liên quan đến "trung quân", có liên quan đến Khổng Tử, do vậy dẫn đến những sai lầm do chù quan duy ý trí, sai sót trong giản thuật, sai lầm trong cách dịch thuật câu chừ và ngữ pháp, những vấn đề tồn tại trong phương pháp nghiên cứu,... Ngô Tất Tố đều nhất nhất chỉ ra. Những phê phán đó không những thiể hiện sự nuôi dưỡng văn hóa Nho giáo rất sâu rộng của Ngô Tất Tố, mà còn thể hi ện dụng tâm chịu khổ để bảo vệ sự chính thống của văn hóa Nho giáo và trách nhiệm mạnh mẽ của tâm hồn Ngô Tất Tố. ông đã từng nói: "Rồi đây Hán học sẽ đẽn tiêu diệt, muốn khảo cứu Nho giáo, người ta cũng làm như ông Hoàng Đạo, chỉ tìm ở bộ Nho giáo mà thôi. Nếu như những chỗ sai lầm của sách ấy không được đíinh chính, thì với những người đẻ sau vài chục năm nữa, Nho giáo sẽ là "Trần Tìrọng Kim giáo", không phải đạo giáo của Khổng Tử và tiên nho rồi"1.

Ngô Tất Tố quý trọng văn hóa Nho giáo không chỉ thể hiện ở việc ông Phê pỉhán cuốn Nho giáo của Trần Trọng Kim, mà đồng thời còn tìm, phát hiện ra các lỗii sai trong Kinh dịch của Trẩn Trọng Rim sáng tác năm 1943. Ngô Tất tố lấy Kinh dịich là tư tưởng triết học chính thống cùa Nho học, do vậy ông dành rất nhiều tâm hiuyết để tiến hành dịch thuật và chú giải một cách nghiêm túc và ti mỉ. Ông cho rằing "Kinh dịch là một cuốn sách lạ trong văn học giới của nhân loại. Thể tài sách nàìy không giống một cuốn sách nào. Bởi vì cái gốc của nó chỉ là một nét vạch ngang, do một nét vạch ngang, đảo điên xoay xỏa thành một bộ sách, vậy mà hầu hẽt chi tiết ở trong, đều có thể thống luật lệ nhất định"2. Từ trong cách nói của tác giiả, ta đã có thể cảm nhận dược tình cảm đặc biệt mà tác giả dành cho văn hóa Nho giiáo là sâu sắc đến nhường nào.

2.2. Chọn lọc những nét độc đáo của văn hóa Nho giáo làm đề tài sáng tác, pỉháí triển bầu không kh í Nho giáo đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam

Trong lịch sử văn học Việt Nam những năm 30, 40 của thế kỷ XX, lấy văn hóa Nỉho giáo làm đề tài sáng tác, niĩoại trừ Ngô Tất Tố ra, còn có Bút nghiên (1942), Níhà Nho (1943) và Thanh đạm của Nguyễn Công Hoan. Nhưng những tác phẩm N gô Tất Tổ viết xoay quanh văn hóa Nho giáo không những có số lượng nhiều nhất, thể tài bao quát rộng, mà tư tường cũng sâu sắc hon. Những tiểu thuyết cùa ông có Tắt đèn, Leu chõng, phóng sự văn học có Việc làng, Tập án cái Đình, tiểu

1. Ngô Tất Tố, Sđd.

2. Ngô Tất Tố, Ngô Tất Tố toàn tập, tập 2, Hà Nội, Nxb Văn học. Hà Nội, 1996.

963

Page 7: TÌNH CẢM VĂN HÓA NHO GIÁO TRONG SÁNG TÁC CỦA TÁC GIA … filetÌnh cẢm vĂn hÓa nho giÁo trong sÁng tÁc cỦa tÁc gia vĂn hỌc hiỆn ĐẠi viỆt nam - ngÔ tẤt

VIỆT NAM HỌC - KỶ YÉU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẦN THỬ TƯ

thuyết lịch sử cỏ Trong rừng nho, Vua Hàm Nghi với việc kinh thành thất thù, Lịch sử Đề Thảm,... đều xuất phát từ các góc độ phát triển khác nhau của xã hội để phản ảnh bầu không khí văn hóa Nho giáo đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam.

Lều chõng và Trong rừng nho là hai bộ tiểu thuyết trực tiếp được văn hóa khoa cử Nho gia gợi cảm hứng sáng tác, tác phẩm đã tái hiện chân thực chế độ giáo dục mục nát của chế độ khoa cử dưới triều Nguyễn Việt Nam. Leu chõng đã vận dụng vốn sống phong phú, sâu sắc, bút pháp kí sự, Ngô Tất Tố đã miêu tả một cách chân thực toàn bộ quá trình thi cử của chế độ khoa cử phong kiến Việt Nam. Tác giả dùng Đào Vân Hạc tham gia vào khoa thi làm đầu mối, toàn bộ quá trình thi cử Việt Nam từ thi Hương, thi Hội, thi Đình đều xoay quanh nhân vật chủ chốt này. Tác phẩm không những miêu tả một cách tỉ mỉ con đường học vấn khắc khổ, gian nan, lận đận, giống như con đường trèo núi rất vất vả phải kinh qua hết thác nọ đến ghềnh kia, lấy sự mừng rỡ trong giờ phút thành công và tâm trạng thống khổ trong giây phút thất bại của họ, mà ông còn miêu tả một loạt các trình tự phức tạp từ phát đề, làm bài, bình quyển; từ đó vạch trần sự hắc ám và bảo thủ trong chế độ khoa cử, đã thể hiện chủ đề sâu sắc của xã hội; hơn nữa, tác giả còn đặt quá trình thi cử đó được bao bọc quanh bởi bối cảnh văn hóa Nho giáo rất điển hình, đây cũng là một trong những yếu tố tạo nên sự thành công của Lều chõng. Tiểu thuyết từ khi bắt đầu đã cho ta chứng kiến cảnh trên đường vinh quy bái tổ của Trạng nguyên Trần Đăng Long, miêu tả cô gái tên Ngọc - vợ chàng, với khát vọng, mong muốn thiết tha được làm bà nghè bà cử, sự trông đợi của họ hàng và thầy giáo Đào Vân Hạc, vạch trần các quy cách thi cử lạc hậu ..., tất cả đều tập trung tái hiện lại bầu không khí văn hóa phong tục Nho gia trong bối cảnh xã hội Việt Nam. Trong rừng nho lại lấy nhân vật chính là Hồ Xuân Hương với quá trình phản kháng lại văn hóa Nho giáo, thông qua số mệnh "gập ghềnh" của Hồ Xuân Hương để tập trung miêu tả với đủ mọi hình sắc của nhân vật Trong rùrtg nho, đơn cử như các nhân vật chính diện với đủ các phần tử tri thức Nho gia như Đàm Chinh Trung, Bảy Chiêu, Tám Chiêu và các nhân vật phản diện như Đặng Tiến Sĩ, Hoàng Tiến Sĩ cùng các học trò của họ,... Tác giả đã phân biệt hai tuyến nhân vật chính - phản bằng việc triển khai bề mặt cuộc sống và phẩm chất đạo đức của họ, đã tái hiện mọt cách chân thực diện mạo của xã hội Nho gia Việt Nam trong thế kỷ XVIII.

Các tác phẩm khác của Ngô Tất Tổ, mặc dù không trực tiếp lấy đời sống Nho học làm đề tài, nhưng trong mồi tác phẩm của ông, hoàn cảnh xã hội bao quanh cuộc sống mỗi nhân vật dường như đều mang đậm màu sắc văn hóa của Nho giáo. Hai phóng sự văn học Lều chõng và Việc làng đã tập trung lột tả những hủ tục tồn tại ở nông thôn Việt Nam, hơn nữa tất cả những hủ tục lạc hậu này đều cho thấy những dấu vết văn hóa Nho gia để lại là rất đậm nét, tiểu thuyết Tắt đèn phản ánh sự

964

Page 8: TÌNH CẢM VĂN HÓA NHO GIÁO TRONG SÁNG TÁC CỦA TÁC GIA … filetÌnh cẢm vĂn hÓa nho giÁo trong sÁng tÁc cỦa tÁc gia vĂn hỌc hiỆn ĐẠi viỆt nam - ngÔ tẤt

TlNH CẢM VĂN HÓA NHO GIÁO TRONG SÁNG TÁC...

đàn áp, bóc lột của bọn thống trị phong kiến thực dân Việt Nam; tố cáo sự tàn ác cùa bọn chúa đất, địa chù; đồng thời khắc họa hình ảnh những người phụ nữ với phẩm chất tính cách tốt đẹp như dịu hiền, lương thiện, chịu thương chịu khó, thương chồng thương con, giữ mình như ngọc mà chị Dậu là đại diện, đã lưu giữ được phong diện đạo đức của xã hội Nho học; các tiểu thuyết lịch sử như Vua Hàm Nghi với việc kinh thành thất thủ, Lịch sử Đề Thám, thì lại trực tiếp miêu tả lại những biểu hiện về phẩm chất tinh thần Nho gia "Xả thân vì nghĩa" của các tướng sĩ ái quốc hợp thành từ các phần tử tri thức Nho gia trong "Phong trào cần Vương".

Có thể nói, trong các tác gia Việt Nam những năm 30, 40 của thế kỷ XX, chi cỏ Ngô Tất Tổ là người dành nhiều tâm huyết nhất để nghiên cứu vãn hóa Nho gia, và trong những tác phẩm của ông, bất luận là tiểu thuyết hiện thực, phóng sự tiểu thuyết hay tiểu thuyết lịch sử đều mang đậm dấu ẩn của văn hóa Nho gia, đều thể hiện tình cảm đặc biệt của chính tác giả dành cho văn hóa Nho gia.

3. Phơi bày sự phong phú, đa dạng của hiện thực xã hội Việt Nam, thể hiện nhận thức tích cực đối với tinh hoa văn hóa Nho gia

Ngô Tất Tổ dưới ảnh hưởng của tư tưởng hiện đại phương Tây, đã thức tỉnh nhận thức khi so sánh với bàn chất văn hóa Nho gia, trong phóng sự văn học Lều chõng, Việc làng, ông đã phê phán gay gắt sức lây lan, ảnh hưởng và phồn thịnh của văn hóa Nho gia trong tác phẩm; và đồng thời đối mặt với hiện thực đen tối của xã hội Việt Nam dưới sự thống trị của đế quốc Pháp, Ngô Tất Tố đã tận dụng những điểm tích cực trong tư tường văn hóa Nho gia để tiến hành phê phán sự vô tình, vô nhân đạo của hiện thực xã hội, thể hiện những nhận thức tích cực cùa tác giả đối với những ưu điểm của văn hóa Nho giáo.

3.1. Tổ cảo những hành vi tàn bạo, vô nhân đạo của bọn thống trị thực dãn phong kiến, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ tao động Việt Nam. Từ đỏ, tích cực khẳng định li tưởng "Nhân nghĩa " của Nho gia

"Nhân" là hạt nhân cùa văn hóa Nho gia, trong sáng tác của mình, Ngô Tất Tố hoặc vô tình hoặc cố ý đã lấy chữ "nhân" để cân nhắc, đánh giá đời sống hiện thực xã hội. Một mặt phê phán sự vô nhân tỉnh trong hiện thực xã hội của giai cấp địa chù và bọn thống trị thực dân phong kiến thiếu đi sự chính nhân, nhân đạo, một mặt lại phát triển một cách có ý thức những phẩm chất cao quý của người phụ nữ lao động Việt Nam, với những phẩm chất dân tộc dịu hiền lương thiện, thủy chung son sấc, thủ tiết như ngọc.

Tiểu thuyết Tắt đèn đã cho chúng ta biết hiện thực vô nhân đạo của xã hội thực dân phong kiến Việt Nam. Trong tác phẩm, tác giả tập trung đả kích chính sách sưu cao thuế nặng tàn hạo. bóc lột nhân dân đến tận xương tùy của thực dân

965

Page 9: TÌNH CẢM VĂN HÓA NHO GIÁO TRONG SÁNG TÁC CỦA TÁC GIA … filetÌnh cẢm vĂn hÓa nho giÁo trong sÁng tÁc cỦa tÁc gia vĂn hỌc hiỆn ĐẠi viỆt nam - ngÔ tẤt

VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LÀN THỨ TƯ

Pháp, thông qua việc tự ý đề ra các loại thuế hòng vơ vét của cải vật chất, chúng đã khiến nhân dân Việt Nam rơi vào tình cảnh nước sôi lửa bỏng. Nhà thơ yêu nước của Việt Nam Nguyễn Thượng Hiền trong tản văn Rơi Nước mắt mà bàn về cuộc bể dâu đã nói: "Tóm lại ở trên mặt đất, một ngọn cỏ, một gốc cây, một viên ngói hòn đá, nếu có thể dùng được việc cho người, đều ghi vào trong sổ thuế của chúng cả"1, đây chính là tình cảnh đen tối của xâ hội thực dân Việt Nam đương thời. Ngô Tất Tố còn đi sâu vào khắc họa bản chất hung ác của bọn thống trị thực dân và sự tham lam của giai cấp địa chủ: trong một thời gian dài mà đại diện là chính quyền cấp cơ sở nông thôn đã lợi dụng chính sách thu thuế để vơ vét của cải, bóc lột, đàn áp nhân nhân. Nguyễn Văn Dậu chỉ vì đau ốm không có tiền nộp thuế, nên bị đánh đập đến chết đi sống lại, không còn cách nào khác, cuối cùng đành phải bán con bán cái; quan lại địa phương mà đại diện là tri phủ đại nhân tự cho mình cái quyền đi đàn áp người dân thấp cổ bé họng, nhất là phụ nữ lương thiện; giai cấp địa chủ mà đại diện là vợ chồng Nghị Quế gian ác, chèn ép người dân phải bán con với giá bèo bọt, hom nữa còn nhẫn tâm để chị Dậu đau xót chứng kiến cảnh cái Tí bốc cơm thừa của chỏ dưới đất để ăn,... qua đỏ tác giả đã lột tả bản chất vô nhân đạo của xã hội phong kiến thực dân Việt Nam, đồng thời cũng thể hiện thái độ phủ định hiện thực xã hội đen tối đương thời.

Hơn thế nữa, Ngô Tất Tố còn cho chúng ta thấy những phẩm chất dân tộc tốt đẹp, cao thượng của phụ nữ nông thôn Việt Nam. Dưới ngòi bút của tác giả, nhân vật chính - chị Dậu hiện lên trước mắt người đọc là người phụ nữ đại diện cho những người phụ nữ thủy chung, giữ nguyên những truyền thống văn hóa tốt đẹp của Nho giáo. Chị Dậu là một người phụ nữ hiền dịu, lương thiện, cần cù, dũng cảm, nghĩa tình, luôn đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi, gánh vác trách nhiệm việc nhà cho người chồng luôn đau ốm. Trong tiểu thuyết chủng ta thấy, do trong nhà liên tiếp có hai người thân mất đi, lại thêm người chồng luôn bệnh tật đau ốm, nên chị Dậu trở thành một trong những hộ nghèo nhất. Trong hoàn cảnh khó khăn, vất vả đó, chị Dậu vẫn thể hiện phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ nông thôn V iệt Nam, đó là trước khó khăn chị không thể buông xuôi, mà dũng cảm đứng lên gánh vác tất cả trách nhiệm trong nhà, chị làm việc quần quật cả ngày, chăm sóc ngưcri chồng đau ốm và ba con nhỏ dại, nhưng chị không một lời oán thán; để có tiền nộ'p sưu cho chồng, chị chạy đôn chạy đáo vay tiền cho chồng, nhẫn nhục chịu dựng; khi chồng bị đánh, chị đã dũng cảm đứng dậy, xin được thay chồng chịu tội; khi khôn g thể nhẫn nại thêm được nữa, chị đã vùng dậy phản kháng chổng trả lại hai tên sai nha, thể hiện sự kiên cường, quả cảm kỳ lạ... nhưng sau cùng, chị lại giải thích biện minh hành động của mình với bà cụ hàng xóm: "Cháu cũng biết rằng đàn bà hàn h

1. Nguyễn Tuân (1962), Lời nói đầu trong tiểu thuyết"Tắt đèn", Nxb Văn học, Hà Nội.

966

Page 10: TÌNH CẢM VĂN HÓA NHO GIÁO TRONG SÁNG TÁC CỦA TÁC GIA … filetÌnh cẢm vĂn hÓa nho giÁo trong sÁng tÁc cỦa tÁc gia vĂn hỌc hiỆn ĐẠi viỆt nam - ngÔ tẤt

t In h c ả m v ả n h ó a n h o g iá o t r o n g s á n g t á c ...

hung như thế là hư thân lắm, chứ không hay gì. Nhuvg mà chúng nó đè én chúng cháu tệ quả, cháu đã cổ nhịn mà không nhịn được. Cụ tính nhà cháu đau ốm như thế, mà cà hai đứa cứ xông vào đánh thì phỏng còn gì là người! Vì thế cháu phải liều với chủng nó". Trong câu nói của chị Dậu thể hiện phẩm chất lương thiện luôn tồn tại trong chị; nhung sau cùng đó chính là phẩm chất Nho giáo luôn tiềm ẩn trong con người chị, trước những cám giỗ của đồng tiền mà tên Tri phủ đại nhân và tên Tư Ấn mua chuộc, chị đã kiên quyết bảo vệ phẩm tiết của mình. Nhà phê bình Hà Minh Đức - một Giáo sư nổi tiếng trong giới phê bình của Việt Nam đã nói rằng: "Chị còn bị tên Tri phủ Tư Ân tìm cánh mua chuộc bàng tiền tài. Người phụ nừ nghèo khổ phải vất vả để kiếm lấy từng đồng cho đủ suất sưu nhưng sẵn sàng vứt tọt nắm bạc xuống đất trước con mắt ngạc nhiên của tên quan vô đạo đức"1. Những chi tiết trên chính là sự khẳng định tích cực những phẩm chất trắng trong như ngọc của người phụ nữ lao động trong xã hội Nho gia. Nhà phê bình Việt Nam Phú Hưng Tăng đã từng nói: "Trong Tắt đèn, hình như tác giả không nỡ để người đàn bà bị ô nhục: hai lần bị lôi kéo, hai lần chạy thoát được. Người ta sẽ nói ông Tố "giữ trinh" cho nhân vật của ông quá, mà chính là đặc điểm của phái Nho học xưa này. Họ đã bị luân lý Nho giáo ảnh hưởng nhiều nên họ muốn cho câu chuyện được trong sạch. Nếu gặp phải một văn sĩ Tây học khác, có lẽ câu chuyện sẽ được kết cấu một cách đột ngột hơn, người đọc sẽ không hiểu thân "chị Dậu" trong bóng tối sẽ ra thể nào)". Đây chính là những lời đánh giá thể hiện sự ảnh hưởng của Nho giáo đến ngòi bút của Ngô Tất Tố là quá lớn.

Ngoài Tẳt đèn, Hoàng Thị Ngọc trong Lều chõng cũng là một người phụ nữ mang đầy đù những phẩm chất đặc trưng của truyền thống văn hóa Nho gia, cô Cling hiền dịu, xinh đẹp, cần cù, chịu khó, lương thiện, có tinh thần giữ mình trong sạch, còn Hồ Xuân Hương trong tác phẩm Trong rừng nho cũng giữ gìn nhiều phẩm chất đạo đức lương thiện, nữ tính của Nho gia, trên người cô luôn phát ra những ánh hào quang làm say lòng không biết bao đấng mày râu, từ tiến sĩ, nho sinh đến những bậc quan viên đạo đức giả. Tất cả những hình tượng nhân vật nữ dưới ngòi bút của Ngô Tất Tố đều là những người đại diện cho văn hóa truyền thống tốt đẹp của Nho giáo.

Thòng qua những điều đã nêu ra ở trên, chúng ta có thể thấy rõ rằng, Ngô Tất Tố đã sáng tạo ra hai tuyến nhân vật hoàn toàn đổi chọi với nhau: mộí tuyến là quan lại thực dân phong kiến vô nhân đạo, tàn ác và địa chủ phong kiến gian tham vô độ, tất cả bọn chúng dưới sự ảnh hưởng của chủ nghĩa kim tiền phương Tây, đã hoàn toàn đánh mất lý tường "nhân ái" của Nho giáo truyền thống, trở thành

1. Hà Minh Đức (1999), Văn học Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.

967

Page 11: TÌNH CẢM VĂN HÓA NHO GIÁO TRONG SÁNG TÁC CỦA TÁC GIA … filetÌnh cẢm vĂn hÓa nho giÁo trong sÁng tÁc cỦa tÁc gia vĂn hỌc hiỆn ĐẠi viỆt nam - ngÔ tẤt

VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LÀN THỨ TƯ

những tay sai mẫn cán, công cụ đàn áp nhân dân của chủ nghĩa đế quốc Pháp, ra sức bóc lột, đàn áp nhân dân, khiến cuộc sống của người dân vốn đã rất khó khăn lại càng bị đẩy sâu xuống đáy bùn xã hội với nỗi thống khổ "một cổ hai tròng"; một tuyến khác là những người phụ nữ luôn bảo lưu những giá trị tốt đẹp của văn hóa Nho gia, luôn hiền hậu đức hạnh, chịu thương chịu khó, sáng trong như ngọc. Đặt hai tuyến nhân vật cạnh nhau như vậy, tác giả đã khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của truyền thống Nho giáo luôn tồn tại và được những người phụ nữ Việt Nam gìn giữ cận thận, đồng thời phê phán gay gắt những hành vi độc ác của quan lại thực dân phong kiến, thể hiện một cách khúc khuỷu sự khẳng định của đạo đức truyền thống Nho gia và ước vọng về m ột xã hội Nho giáo giàu lòng "nhân ái".

3.2. K h í tiết dân tộc và tinh thần cổng hiến hết mình của nhăn vật anh hùng cho lịch sử Việt Nam , thể hiện những nhận thức tích cực trong nhăn cách lý tưởng Nho gia

Việt Nam trong lịch sử là một quốc gia nhược tiểu, để chống lại sự xâm lược của bên ngoài, giữ vững nền độc lập của dân tộc, ý thức trước nguy cơ dân tộc của nhân dân Việt Nam vô cùng mãnh liệt, tư tưởng Nho gia "Xả thân vì nghĩa", "hi sinh vì nghĩa" luôn được đề cao, là nhận thức phổ biến của xã hội Việt Nam khi đó. Trong thế kỷ XX, nhân dân Việt Nam đã phản kháng mãnh liệt trước sự xâm lược của đế quốc thực dân Pháp. Bắt đầu từ năm 1885, "khởi nghĩa c ần Vương" bùng phát, tiếp sau đó là hàng loạt những cuộc đấu tranh yêu nước kháng Pháp không ngừng nổ ra. Năm 1905, "Hội duy tân" được thành lập bởi các chí sĩ yêu nước, sau đó mở rộng ra thành "Phong trào Đông Du" và phong trào "Đông Kinh nghĩa thục", để giành lại độc lập dân tộc mà tiến hành đấu tranh không ngừng nghỉ. Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, phát động khởi nghĩa "Xô viết Nghệ Tĩnh", tổ chức nông dân tiến hành đứng dậy đấu tranh, chống lại sự thống trị của bọn thực dân Pháp. Trong bối cảnh lịch sử như vậy, Ngô Tất Tố đã kịp thời nắm bắt bổi cảnh thời đại, thông qua những sáng tác ở thể loại tiểu thuyết lịch sử, trực tiếp miêu tả người dân Việt Nam với rất nhiều nhân vật anh hùng lịch sử trong cuộc kháng chiến chống lại sự xâm lược của ngoại lai, xuất hiện rất nhiều người mang trong mình hoài bão của chù nghĩa yêu nước mạnh mẽ, với tinh thần "xả thân vì nghĩa", "hi sinh vì nghĩa" của Nho gia.

Vua Hàm Nghi với việc kinh thành thất thủ là một bộ tiểu thuyết lịch sử được Ngô Tất Tố sáng tác vào năm 1935. Trong bộ tiểu thuyết lịch sử này, tác giả đã trực tiếp sử dụng rất nhiều tư liệu từ các sự kiện lịch sử trong cuộc đấu tranh kháng Pháp, hết lời ca ngợi những nhân vật anh hùng lịch sử trong "phong trào

968

Page 12: TÌNH CẢM VĂN HÓA NHO GIÁO TRONG SÁNG TÁC CỦA TÁC GIA … filetÌnh cẢm vĂn hÓa nho giÁo trong sÁng tÁc cỦa tÁc gia vĂn hỌc hiỆn ĐẠi viỆt nam - ngÔ tẤt

TlNH CẢM VẢN HÓA NHO GIÁO TRONG SÁNG TÁC...

Cần Vương". Đại đa số những nhân vật anh hùng này đều là sĩ phu có xuất thân Nho sĩ, nổi tiếng như Tôn Thất Thuyết, Lê Trực, Đinh Cung Tráng, Nguyễn Xuân Ồn. Nguyễn Thiện Thuật,... Trong một thời gian dài, họ đã chịu ảnh hường của văn hóa Nho gia, có khí tiết dân tộc rất cao. Lãnh đạo nghĩa quân Tôn Thất Thuyết năm 1884 đưa Hàm Nghi (12 tuổi) lên ngôi hoàng đế, từ đó tiến bước trên con đường đấu tranh kháng Pháp. Ông đã từng nói: "Sự thế đến vậy, không đánh thì nhục cả nước, thà đánh mà chết còn hơn sống để mà nhục cho nước nhà", thể hiện tinh thần đề cao chù nghĩa yêu nước, ông từ kinh thành bí mật lui về trên núi cao rừng sâu ở tỉnh Quảng Trị, xây dựng doanh trại kiên cố, mượn danh vua Hàm Nghi tập hợp nghĩa quân dựng cờ kháng Pháp, phát động "Phong trào cần Vương" như đám lửa cháy lan nhanh ra trên phạm vi rộng; lãnh tụ nghĩa quân kháng Pháp tỉnh Ọuảng Bình là Lê Trực nổi danh khắp nơi bởi sự anh dũng, quả cảm, nhiều lẩn tiến công đánh bại quân Pháp. Kẻ thù đã nhiều lần lấy quan cao bổng lộc ra dụ ông hàng, nhưng Lê Trực đã chính trực trả lời dứt khoát, rằng: "Tôi vì vua vì nước mà ra cầm quân, đù sống dù chết cũng dốc một lòng làm hết phận sự, không dám tham cái sống mà quên việc nghĩa". Dưới ảnh hường cùa ông, tướng sĩ, thuộc hạ dưới tay ông cũng luôn có tinh thần, thái độ cách mạng triệt để. Có lần, thuộc hạ dưới trướng ông bị bắt làm tù binh dưới tay một viên quan lớn, quân địch nghiêm hình đánh đập anh lính này, muốn lợi dụng anh ta để moi tin hoạt động của nghĩa quân, nhưng người lính ấy đã dũng cảm trả lời: "Các anh đừng hỏi mất công, không đời nào chúng tôi lại đem chuyện bí mật quan hệ của nước tôi mà tố cáo với các anh. Các anh bắt được chúng tôi, cứ việc đem ra mà chém". Ngô Tất Tổ thực sự đã bị tinh thần "coi cái chết nhẹ tựa lông hồng", hểt lòng vì nghĩa của các tướng sT làm cho cảm động, nên không thể không mượn giấy trắng mực đen để ngợi ca tinh thần quả cảm ấy. Trong tác phẩm của ông, chúng ta còn thấy: một lãnh đạo nghĩa quân bị cầm tù, sau khi chôn xác chủ tướng đã cắn lưỡi tự vẫn, lấy thân báo đền Tổ quốc; hai binh sĩ bị bẳt làm tù binh, trước khi nhảy xuống sông tự vẫn đã dụ địch đến mặt trận phục kích hiểm yếu của nghTa quân, anh dũng hi sinh vì nghĩa lớn. Tất cả những tướng sĩ anh hùng đó quý trọng đại nghĩa của dân tộc hơn mạng sống của mình mà hi sinh vì nước, thực hành quan điểm mang giá trị nhân sinh cùa Nho gia "xả thân vì nghĩa". Tác giả đã hết lời ca ngợi tinh thần anh dũng quổ cảm đó và khẳng định tinh thần văn hóa tích cực cùa Nho gia.

Các tiểu thuyết lịch sử khác cùa Ngô Tất Tố hầu hết cũng đều lấy những nhân vật anh hùng dân tộc trong cuộc chiến đấu với quân xâm lược ngoại lai làm đối tưọrig ngợi ca. Lịch sử Đề Thám là một bộ tiểu thuyết lịch sử miêu tả về cuộc khởi nghĩa cùa nông dân chống lại họn xâm lược Pháp, nhân vật chính của tác phẩm - I loing I ioa Thám là lãnh tụ của nghĩa quân cuộc khởi nghĩa nông dân, ông lãnh đạo nhẽn dân Việt Nam tác chiến di động tiến hành kicn quyết đấu tranh kháng Pháp

969

Page 13: TÌNH CẢM VĂN HÓA NHO GIÁO TRONG SÁNG TÁC CỦA TÁC GIA … filetÌnh cẢm vĂn hÓa nho giÁo trong sÁng tÁc cỦa tÁc gia vĂn hỌc hiỆn ĐẠi viỆt nam - ngÔ tẤt

VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TỂ LÀN THỨ TƯ

trong vòng mười mấy năm ở khu vực từ Bắc Ninh, Phúc yên, Thái Nguyên đến Tuyên Quang. Tác giả đứng từ góc độ truyền thống văn hóa Nho giáo để ngợi ca người anh hùng là những tráng sĩ nơi rừng xanh có khí phách ngang tàng, có chí vẫy vùng trời biển, là vị lãnh tụ nông dân đứng lên chống lại bọn thống trị thực dân Pháp và những "kẻ cướp, phần tử phiến loạn", thể hiện sự cảm kích của tác giả đổi với những vị anh hùng này; cuốn tiểu thuyết lịch sử Gia đình tổng trấn Lê Văn Duyệt cũng đã miêu tả những tình tiết đau thương của nghĩa quân Tây Sơn trước sự xâm lược của kẻ địch, ngợi ca tinh thần chiến đấu dũng cảm, kiên cường của quân Tây Sơn, lên án tội "rước giặc về cướp nước" của vương triều nhà Nguyễn. Học giả Mai Hương của Việt Nam cho rằng: "Gia đình tổng trấn Lê Văn Duyệt cùng với những tiểu thuyết lịch sử khác của ông đã thể hiện khá rõ tinh thần yêu nước của nhà Nho tiến bọ Ngô Tất Tổ"1.

3.3. Khắc họa hình tượng nhăn vật trong xã hội Nho giảo Việt Nam qua tác phẩm "Trong rừng Nho", từ hai phương diện chính - phản, tác giả thể hiện sự chú ỷ tích cực nuôi dưỡng nhân cách của Nho gia

Trong rừng Nho là một bộ tiểu thuyết lịch sử lấy đề tài từ bà chúa thơ Nôm nổi tiếng của Việt Nam trong thế kỷ XVIII - nữ sĩ Hồ Xuân Hương, tác giả đã miêu tả xoay quanh cuộc đời đầy truyền kì, huyền thoại của Hồ Xuân Hương, khắc họa lên các sắc cạnh của nhân vật trong xã hội rừng nho, đả kích những phần tử trí thức Nho gia ác độc, giả nhân giả nghĩa, "thùng rỗng kêu to", phê phán bản chất văn hóa lạc hậu của Nho gia, đồng thời lại ngợi ca phẩm chất cao thượng, chính trực của các trí thức Nho gia, thể hiện thái độ tích cực của tác giả đối với sự nuôi dưỡng nhân cách của Nho gia.

Văn hóa Nho gia có vai trò rất quan trọng ừong việc nuôi dưỡng nhân cách của các trí thức, ước muốn con người có thể thông qua việc tu dưỡng nhân cách của chính mình để thực hiện lí tưởng lớn của xã hội, đó là "tề gia, trị quốc, bình thiên hạ", trở thành một trong những nhân vật "thánh hiền" của triều đình, đất nước. Qua Trong rùng Nho, tác giả đã từ hai mặt chính - phản để phát triển các phương diện của nhân vật trong xã hội Nho giáo Việt Nam, thể hiện thái độ rõ ràng đối với việc hình thành nhân cách Nho giáo của bản thân. Một sổ phần tử trí thức đại diện tiêu biểu như Hoàng tiến sĩ và Đặng tiến sĩ, bọn họ phân biệt đối xử, kỳ thị giới nữ, Hồ Xuân Hương không những phải chịu sự vùi dập, coi rẻ của xã hội phong kiến, mà còn bị đả kích bởi sự tài hoa hơn người. Tác giả dùng ngòi bút châm biếm sâu cay của mình để vạch trần vẻ bề ngoài đạo đức, nhưng bên trong chứa chất bùn nhơ của những kẻ như Hoàng tiến sĩ, hắn ngoài mặt luôn nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng của

1. Vũ Tuấn Anh, Bích Thu (2006), Từ điển tác phẩm văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

970

Page 14: TÌNH CẢM VĂN HÓA NHO GIÁO TRONG SÁNG TÁC CỦA TÁC GIA … filetÌnh cẢm vĂn hÓa nho giÁo trong sÁng tÁc cỦa tÁc gia vĂn hỌc hiỆn ĐẠi viỆt nam - ngÔ tẤt

TÌNH CẢM VĂN HÓA NHO GIÁO TRONG SÁNG TÁC..

việc tu dưỡng nhân cách và dạy các trò cùa mình là phải biết nghe theo những giáo điều cùa Nho học như lễ, nghĩa, trung, tín; dạy các trò không bao giờ được phép đi ngược lại những thuyết giáo đó. Nhưng trên thực tế hắn lại là một kẻ tiểu nhân đạo đức giả, "thùng rỗng kêu to". Hắn khống những lừa gạt n h ữ n g người bạn láng giềng, mà còn tìm cách dổi trá đối với những người khách lạ. Tất cả những phẩm chất lễ, nghĩa, trung, tín; tất cả những lý thuyết đạo đức mà hắn eiao giảng hắn đều không đạt được một phần trăm giá trị nào! Trong tác phẩm, tác giả đã phủ định hoàn toàn bản chất tôn nghiêm cùa những con người giả nhân giả nghĩa, và cho rằng, đó là hành vi "làm nhục Nho giáo"; mặt khác, lại khẳng định tấm lòng cao thượng của các phần tử tri thức Nho giáo, họ thông cảm với kẻ yếu, chính trực lương thiện, dũng cảm, chính nghĩa, phát hiện ra điện mạo tinh thần của các trí thức Nho giáo chân chính. Nói như học giả Mai Hương cùa Việt Nam: "Ngô Tất Tổ cũng đồng cảm với những nhà nho chân chính, tài hoa như nhân vật Thận Trung, một nhà nho "khoảng đạt, hào hoa, không câu nệ, giả đối", như nhân vật cụ Chiêu Bảy khinh ghét và không ngần ngại trêu cợt thói dốt nát, đạo đức giả của bọn hủ nho cùng những lễ giáo khắc nghiệt, lạc hậu, bày tỏ sự cảm thông với Hồ Xuân Hương và ủng hộ những tư tường mới lạ của nàng". Từ việc khắc họa những nhân vật chính diện, để phát hiện những điểm sáng trong tính cách lí tường; nhờ hai tuyến nhân vật chính - phàn này mà đã thể hiện được sự chú ý tích cực của tác giả đối với sự nuôi dưỡng nhân cách của Nho giáo.

Nói tóm lại, Ngô Tất Tố là tác giả văn học Việt Nam xuất thân từ Nho giáo, ngay từ nhỏ đã nhận được sự giáo dục của văn hóa Nho giáo, lớn lên đã có một thời gian rất dài làm công tác nghiên cứu Nho học và văn hóa Nho giáo cổ đại Trung Ọuổc, bởi vậy giữa Ngô Tất Tố và Nho giáo có một mối duyên kỳ lạ. Do đó, trong hầu hết các tác phẩm của ông, hoặc vô tình hoặc cố ý luôn phát triển câu chuyện trong bầu không khí văn hóa Nho giáo Việt Nam, từ đó phát hiện ra vẻ đẹp của phẩm đức văn hóa Nho giáo tốt đẹp được bảo lưu trong những phụ nữ nông thôn Việt Nam, ca ngợi khí tiết dân tộc "Xả thân vì nghĩa", "Quên mình vì nghĩa" của Nho giáo được lưu giữ trong những nhân vật anh hùng lịch sử, đồng thời phê phán những hành vi bạo lực, bóc lột, đàn áp nhân dân của cường hào ác bá, địa chù phong kiến thực dân, cũng như bóc trần, phơi bày bản chất giả dối của xã hội rừng Nho; từ đó thể hiện sự chú ý rất đặc biệt của nhà vãn tới Nho giáo bằng cách nhìn thể hiện sự tích cực đối với nhữne giá trị văn hóa Nho giáo truyền thống với cái nhìn toàn diện chứ không phải phiến diện. Qua đó, nhùng màu sắc văn hóa dân tộc đặc trưng và đặc sắc của thời đại được hiện lèn rõ nét trên cây dàn muôn điệu của Việt Nam. góp phần giúp Ngô Tất Tổ trở thành một trong những cây đại thụ văn học nổi danh cả ở trong nước và nước ngoài với sức ảnh hưởng không nhỏ đến các cày bút hiện đại Việt Nam.

971

Page 15: TÌNH CẢM VĂN HÓA NHO GIÁO TRONG SÁNG TÁC CỦA TÁC GIA … filetÌnh cẢm vĂn hÓa nho giÁo trong sÁng tÁc cỦa tÁc gia vĂn hỌc hiỆn ĐẠi viỆt nam - ngÔ tẤt

VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LÀN THỨ TƯ

Tài liệu tham khảo

1. Trần Trọng Kim, 2003, Nho giáo, xuất bản lần đầu tiên năm 1930, tái bản năm 2003, Nxb Văn học, Hà Nội.

2. Đồ Viễn Hòa, 2002, Việc mô phỏng tư tưởng Nho giáo và sụ phát triển xã hội Ả Đông, Nxb Nhân dân Quảng Tây, Nam Ninh, số 9.

3. Ngô Vĩnh Bình (1993),1 9 9 3 5 ^ 5 $ .

4. Ngô Tất Tố, 1940, Phê phán cuổn Nho giáo của Trần Trọng Kim, Nxb Mai Lĩnh, Hà Nội.

5. Ngô Tất Tố, 1996, Ngô Tất Tổ toàn tập, tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội.

6. Nguyễn Tuân, 1962, Lời nói đầu trong tiểu thuyết "Tắt đèn", Nxb Văn học, Hà Nội.

7. Hà Minh Đức, 1999, Văn học Việt Nam, Nxb Hà Nội.

8. Phúc Hưng, 1939, Tắt đèn - Tiểu thuyết trường thiên cùa Ngô Tất Tố, Đông Phương báo, ngày 1/9/1939.

9. Vũ Tuấn Anh, Bích Thu, 2006, Từ điển tác phẩm văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội

972