TÌM HIỂU CÁC HIỆN TƢỢNG NGỮ PHÁP ĐƢỢC GIỚI THIỆU...
Transcript of TÌM HIỂU CÁC HIỆN TƢỢNG NGỮ PHÁP ĐƢỢC GIỚI THIỆU...
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------------------------------
LÊ THỊ HỒNG NHUNG
TÌM HIỂU CÁC HIỆN TƢỢNG NGỮ PHÁP
ĐƢỢC GIỚI THIỆU TRONG CÁC GIÁO TRÌNH
DẠY TIẾNG VIỆT CHO NGƢỜI NƢỚC NGOÀI
(TỪ NĂM 1980 ĐẾN NAY)
Chuyên ngành : Ngôn ngữ học
Mã số : 66 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thiện Nam
HÀ NỘI - 2009
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................... 5
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 6
3. Mục đích và ý nghĩa của đề tài .......................................................................................... 7
4. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................... 8
5. Tư liệu ................................................................................................................................ 9
6. Bố cục của Luận văn ........................................................................................................ 10
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1. NHỮNG CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Vấn đề dạy tiếng Việt cho người nước ngoài ở Việt Nam ........................................... 13
1.1.1. Lịch sử vấn đề ............................................................................................................ 13
1.1.2. Về các giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài ở Việt Nam
hiện nay .......................................................................................................................... 14
1.2. Một số vấn đề lí luận liên quan đến ngữ pháp học nói chung và
ngữ pháp trong giảng dạy một ngoại ngữ ............................................................................ 17
1.2.1. Quan niệm về ngữ pháp ............................................................................................. 17
1.2.2. Ngữ pháp trong việc giảng dạy một ngoại ngữ ......................................................... 18
1.2.3. Vai trò của việc chú giải ngữ pháp trong giáo trình dạy tiếng Việt
cho người nước ngoài .......................................................................................................... 20
1.3. Tìm hiểu các hiện tượng ngữ pháp trên cơ sở phân định từ loại .................................. 22
Chƣơng 2. TÌM HIỂU SỰ THỂ HIỆN CÁC CHÚ GIẢI NGỮ PHÁP TRONG CÁC GIÁO
TRÌNH DẠY TIẾNG VIỆT CHO NGƢỜI NƢỚC NGOÀI
2.1. Tìm hiểu vị thế của ngữ pháp trong các giáo trình dạy tiếng Việt
cho người nước ngoài được biên soạn từ năm 1980 đến nay .............................................. 24
2.2. Thống kê các giáo trình khảo sát và phân chia theo trình độ ........................................... 40
2.3. Kết quả thống kê và nhận xét các hiện tượng ngữ pháp ................................................... 42
2.3.1. Số lượng các phần chú giải ngữ pháp và chủ điểm ngữ pháp .................................... 42
2.3.2. Cách gọi tên, ngôn ngữ trong chú giải, trình tự và cách thức chú giải
ngữ pháp .................................................................................................................................... 47
2.3.3. Cách thức giới thiệu và kiểu loại các chủ điểm ngữ pháp .............................................. 67
2.4. Tiểu kết ......................................................................................................................... 75
Chƣơng 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ VIỆC GIỚI THIỆU VÀ CHÚ GIẢI CÁC HIỆN
TƢỢNG NGỮ PHÁP TRONG CÁC GIÁO TRÌNH DẠY TIẾNG VIỆT CHO NGƢỜI
NƢỚC NGOÀI
3.1. Về việc giới thiệu hiện tượng ngữ pháp trong các giáo trình ....................................... 76
3.1.1. Sự phân bố về số lượng chủ điểm ngữ pháp trong mỗi bài học ................................ 76
3.1.2. Sự phân bố về nội dung chủ điểm ngữ pháp trong mỗi bài học ................................ 77
3.1.3. Một số hiện tượng ngữ pháp chưa mang tính cơ bản ................................................ 80
3.1.4. Cùng một hiện tượng ngữ pháp – chú giải khác nhau ............................................... 80
3.1.5. Sử dụng nhiều thuật ngữ chuyên ngành ngôn ngữ .................................................... 82
3.1.6. Một số sơ suất trong khâu biên tập ............................................................................ 84
3.2. Về việc xây dựng chuẩn cho chú giải ngữ pháp ........................................................... 85
3.2.1. Tiêu chuẩn đúng ......................................................................................................... 85
3.2.2. Tiêu chuẩn đủ ............................................................................................................. 86
3.2.3. Tiêu chuẩn về tính đơn giản...................................................................................... 87
3.3. Tiểu kết ......................................................................................................................... 88
PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................................................ 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 94
PHẦN PHỤ LỤC ............................................................................................................... 99
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chủ điểm ngữ pháp : CĐNP
Chú giải ngữ pháp : CGNP
Giáo trình : GT
Danh từ : DT
Động từ : ĐT
Tính từ : TT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
1. Bảng 2.1: Số lượng tương quan số bài học – phần chú giải ngữ pháp – chủ điểm
ngữ pháp trong các giáo trình. [tr. 46-47]
2. Bảng 2.2: Số lượng phân bố chú giải ngữ pháp và chủ điểm ngữ pháp trung bình
trong 1 giáo trình theo trình độ. [tr. 48]
3. Bảng 2.3: Số lượng phần chú giải ngữ pháp và chủ điểm ngữ pháp được giới thiệu
trung bình trong 1 bài học. [tr. 49]
4. Bảng 2.4: Số lượng chú giải ngữ pháp được bố trí trung bình trong 1 bài học. [tr. 50]
5. Bảng 2.5: Số lượng các chủ điểm ngữ pháp được giới thiệu trong 1 chú giải ngữ
pháp ở 1 bài học. [tr. 51]
6. Bảng 2.6: Các cách gọi tên phần chú giải ngữ pháp ở các giáo trình. [tr. 52]
7. Bảng 2.7: Ngôn ngữ trong chú giải ngữ pháp ở các giáo trình. [tr. 53-54]
8. Bảng 2.8: Tỉ lệ số lượng giáo trình sử dụng loại ngôn ngữ trong chú giải ngữ pháp theo
trình độ. [tr. 54]
9. Bảng 2.9: Trình tự giới thiệu chú giải ngữ pháp trong các giáo trình. [tr.56]
10. Bảng 2.10: Số lượng các giáo trình có trình tự giới thiệu chú giải ngữ pháp.
[tr. 57]
11. Bảng 2.11: Số lượng giáo trình sử dụng các cách thức chú giải. [tr. 62]
12. Bảng 2.12: Cách thức nêu chủ điểm ngữ pháp trong các giáo trình. [tr. 65]
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, tiếng Việt đã trở thành một nhu cầu và phương tiện cần thiết cho bất cứ
người nước ngoài nào muốn học tập và tìm hiểu về đất nước và con người Việt Nam. Nhất
là từ sau chính sách mở cửa (1986), với sự chuyển mình trên tinh thần tự do giao lưu quốc
tế, trao đổi về mọi lĩnh vực kinh tế, khoa học kĩ thuật, văn hoá… và phương châm “làm
bạn với tất cả các nước”, Việt Nam đã trở thành điểm đến của bạn bè trong khu vực và trên
thế giới. Việc học tiếng Việt ngày càng trở thành nhu cầu thiết yếu với người nước ngoài
muốn học tập, làm việc hay sinh sống tại Việt Nam.
Theo đó, nhu cầu và mục đích học tiếng Việt như một ngoại ngữ cũng không ngừng
mở rộng và phát triển. Việc nghiên cứu “Tiếng Việt như một ngoại ngữ” đã trở thành một
vấn đề hết sức cần thiết với những yêu cầu ngày càng cao về mối liên hệ tổng thể trên nhiều
lĩnh vực khoa học có liên quan như ngôn ngữ học, đối chiếu ngôn ngữ, phương pháp dạy
tiếng,...
Việc dạy tiếng và học tiếng nói chung có thể được hình dung như một quá trình
truyền và nhận thông tin giữa một bên là người phát (giáo viên) với một bên là người nhận
(học viên) và đối tượng được đưa ra trao nhận là ngôn ngữ, một thứ tiếng cụ thể mà người
học cần. Như vậy, việc dạy tiếng và học tiếng cũng có thể được xem như một hoạt động
giao tiếp, trong đó người dạy đóng vai trò hướng dẫn người học hiểu, làm chủ được một
ngôn ngữ mới, còn người học đóng vai trò người tìm hiểu, lĩnh hội một ngôn ngữ mới.
Nếu ngôn ngữ là một chỉnh thể được cấu thành từ ba bộ phận: ngữ âm, từ vựng,
ngữ pháp thì cái mà người học cần lĩnh hội cũng chính là ba nội dung này. Và chỉ khi lĩnh
hội đầy đủ, làm chủ được cả ba mặt ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp của một ngôn ngữ nào đó
thì người học mới đạt mục đích của mình. Việc lựa chọn và giải thích các hiện tượng ngữ
pháp luôn là một vấn đề thường trực đối với người dạy tiếng bên cạnh một đòi hỏi tương tự
với việc xử lý các vấn đề thuộc về ngữ âm, từ vựng. Giáo trình dạy tiếng được xem là cầu
nối giữa việc giải mã từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác.
Trong gần 30 năm trở lại đây đã có khá nhiều giáo trình dạy tiếng Việt cho người
nước ngoài được biên soạn, xuất bản ở trong và ngoài nước. Các giáo trình được biên soạn
ở thời kì đầu những năm 80 của thế kỉ XX nói chung chú trọng cung cấp những kiến thức
ngữ pháp lí thuyết, nhấn mạnh khả năng đọc hiểu. Từ cuối những năm 80 và đặc biệt là
những năm 90 cho đến nay, xu hướng giao tiếp đang ngày càng được nhấn mạnh trong các
giáo trình: chẳng hạn, phần hội thoại được đưa lên đầu mỗi bài, gắn liền với những tình
huống thực tế thường nhật, các bài đọc cũng dần phù hợp và cập nhật hơn. Theo đó, hệ
thống ngữ pháp được giới thiệu từ những bài hội thoại, bài đọc mang tính thực hành, ứng
dụng thiết thực trong giao tiếp hơn.
Trong phạm vi của một luận văn, chúng tôi tiến hành khảo sát hệ thống ngữ pháp
được giới thiệu trong các phần chú giải ngữ pháp ở các giáo trình dạy tiếng Việt cho người
nước ngoài được biên soạn và xuất bản tại Việt Nam từ năm 1980 cho đến nay.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Cấu trúc của một giáo trình tiếng Việt cho người nước ngoài, trên đại thể có thể
chia ra làm ba phần chính: hội thoại (hoặc bài đọc, bài nghe), chú giải ngữ pháp, bài luyện
và bài tập. Nếu như phần hội thoại (hoặc bài đọc, bài nghe) là phần quan trọng nhằm cung
cấp ngữ liệu cho người học, bài luyện và bài tập củng cố kĩ năng thực hành ứng dụng thì
phần chú giải ngữ pháp được xem như một phần không thể thiếu trong việc “giải mã”, gắn
kết ngữ liệu trong bài học, bài luyện và thực tế giao tiếp.
Trong luận văn này, chúng tôi tập trung khảo sát, tìm hiểu các hiện tượng ngữ pháp
được giới thiệu trong một số giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài, cụ thể là phần
chú giải ngữ pháp trong bài học.
Hiện nay, có rất nhiều giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài với nội dung và
hình thức thể hiện phong phú... Vì thế, số lượng, kiểu loại, trình tự giới thiệu các hiện tượng
ngữ pháp ở mỗi giáo trình cũng được giải thích với các cách khác nhau. Chúng tôi lựa chọn
các giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài đã được biên soạn và xuất bản ở Việt Nam
từ những năm 1980 cho đến gần đây làm đối tượng nghiên cứu chủ yếu. Trên cơ sở đó, chúng
tôi đưa ra một cái nhìn tổng quan về hệ thống ngữ pháp được chú giải trong các giáo trình
này. Với việc mô tả, khảo sát mang tính thực tế, luận văn hy vọng sẽ góp phần tư liệu giải
quyết những vấn đề phức tạp trong việc chú giải các hiện tượng ngữ pháp trong giáo trình dạy
tiếng Việt cho người nước ngoài.
Trong luận văn, chúng tôi thực hiện khảo sát phần chú giải ngữ pháp trong 20 giáo
trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài được biên soạn từ năm 1980 đến nay.
3. Mục đích và ý nghĩa của đề tài
Qua khảo sát, luận văn cố gắng chỉ ra được những mặt đạt và chưa đạt trong việc
biên soạn giải thích các hiện tượng ngữ pháp trong các giáo trình dạy tiếng Việt cho người
nước ngoài và liên tưởng với những tiêu chuẩn đối với chú giải ngữ pháp.
Thực hiện đề tài này, chúng tôi muốn đem đến một cái nhìn tổng quan về quá trình
phát triển những cách thức biên soạn các chú giải ngữ pháp trong các giáo trình dạy tiếng
Việt cho người nước ngoài trong khoảng thời gian 30 năm trở lại đây. Chúng tôi cũng hy
vọng sẽ phát hiện được những điểm mạnh cũng như những điểm hạn chế của từng công
trình, từng giai đoạn.
Chúng tôi đặt ra mục đích nghiên cứu cụ thể là:
– Tìm hiểu vai trò của ngữ pháp trong các giáo trình dạy tiếng cho người nước
ngoài được biên soạn từ năm 1980 đến nay.
– Thống kê các giáo trình khảo sát, phân chia theo trình độ, thống kê và nhận xét
các hiện tượng ngữ pháp về số lượng, tên gọi, trình tự giới thiệu, ngôn ngữ và cách thức sử
dụng để chú giải.
– Nhận xét các hiện tượng ngữ pháp được khảo sát về kiểu loại dựa trên sự phân
định từ loại.
Trên cơ sở đó, chúng tôi nhận định, phát hiện một số vấn đề ngữ pháp trong liên
tưởng với những tiêu chuẩn đối với việc chú giải ngữ pháp một cách hiệu quả.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Các phương pháp được sử dụng trong luận văn là:
– Phương pháp thống kê
– Phương pháp tổng hợp
– Phương pháp miêu tả
– Phương pháp so sánh.
Trên cơ sở này, chúng tôi thực hiện theo trình tự như sau:
– Tiến hành thống kê về các hiện tượng ngữ pháp (chủ điểm ngữ pháp) trong chú
giải ngữ pháp ở từng bài trong các giáo trình.
– Tìm hiểu vai trò, vị thế ngữ pháp thông qua việc miêu tả về bố cục, mối tương
quan giữa phần hội thoại (bài đọc), chú giải ngữ pháp và phần luyện tập trong các giáo
trình. Từ đó, đưa ra một số nhận xét chung về ưu điểm, nhược điểm trong từng giáo trình.
– Thống kê các hiện tượng chú giải ngữ pháp về số lượng, tên gọi, ngôn ngữ và
cách tổ chức của các chú giải ngữ pháp, chủ điểm ngữ pháp.
– Đưa ra một số nhận xét về việc giới thiệu và chú giải các hiện tượng ngữ pháp
trong các giáo trình.
5. Tƣ liệu
Chúng tôi tiến hành khảo sát, mô tả các hiện tượng ngữ pháp được chú giải trong
các giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài được xuất bản tại Việt Nam từ năm
1980 đến gần đây. Cụ thể là 20 giáo trình sau:
1. Giáo trình cơ sở Tiếng Việt thực hành, tập I, Nguyễn Văn Lai (Chủ biên), Khoa
Tiếng Việt, Trường Đại học Tổng hợp, Hà Nội, 1980.
2. Giáo trình cơ sở Tiếng Việt thực hành, tập II, Đặng Ngọc Cừ – Phan Hải (Chủ biên),
Khoa Tiếng Việt, Trường Đại học Tổng hợp, Hà Nội, 1980.
3. Tiếng Việt cho người nước ngoài, quyển 1, Bùi Phụng (Chủ biên), Bộ Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, 1987.
4. Tiếng Việt cho người nước ngoài, quyển 2, Bùi Phụng (Chủ biên), Bộ Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, 1987.
5. Tiếng Việt cho người nước ngoài – Learning Morden Spoken Vietnamese, Bùi Phụng (Chủ
biên), NXB Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, 1992.
6. Tiếng Việt cơ sở – Vietnamese for beginners, Vũ Văn Thi, Khoa Tiếng Việt và Văn
hoá Việt Nam cho người nước ngoài, Trường Đại học KHXH & NV, Đại học Quốc
gia Hà Nội, NXB Khoa học xã hội, 1996.
7. Tiếng Việt nâng cao (cho người nước ngoài) – Intermediate Vietnamese (for non–
native Speakers), Nguyễn Thiện Nam, Khoa Tiếng Việt và Văn hoá Việt Nam cho
người nước ngoài, Trường Đại học KHXH & NV, Đại học Quốc gia Hà Nội, NXB
Giáo dục, 1998.
8. Tiếng Việt (sách dành cho người nước ngoài), Trình độ B, Đoàn Thiện Thuật (Chủ
biên), Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, NXB Thế Giới, 2001.
9. Tiếng Việt (sách dành cho người nước ngoài), Trình độ C, Đoàn Thiện Thuật (Chủ
biên), Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, NXB Thế Giới, 2001.
10. Giáo trình Tiếng Việt – VSL, tập 1, Nguyễn Văn Huệ (Chủ biên), Khoa Việt Nam
học và Tiếng Việt cho người nước ngoài, Trường Đại học KHXH & NV, Đại học
Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh, NXB Đại học Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh, 2003.
11. Giáo trình Tiếng Việt – VSL, tập 2, Nguyễn Văn Huệ (Chủ biên), Khoa Việt Nam
học và Tiếng Việt cho người nước ngoài, Trường Đại học KHXH & NV, Đại học
Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh, NXB Đại học Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh, 2003.
12. Giáo trình Tiếng Việt – VSL, tập 3, Nguyễn Văn Huệ (Chủ biên), Khoa Việt Nam học và
Tiếng Việt cho người nước ngoài, Trường Đại học KHXH & NV, Đại học Quốc Gia TP.
Hồ Chí Minh, NXB Giáo dục, 2003.
13. Giáo trình Tiếng Việt – VSL, tập 4, Nguyễn Văn Huệ (Chủ biên), Khoa Việt Nam
học và Tiếng Việt cho người nước ngoài, Trường Đại học KHXH & NV, NXB Đại
học Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh, 2003.
14. Tiếng Việt cho người nước ngoài – Trình độ nâng cao – Vietnamese for foreigners
Intermediate Level, Trịnh Đức Hiển (Chủ biên), Khoa Tiếng Việt và Văn hoá Việt
Nam cho người nước ngoài, Trường Đại học KHXH & NV, Đại học Quốc gia Hà
Nội, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003.
15. Tiếng Việt (sách dành cho người nước ngoài) – Trình độ A, tập 1, Đoàn Thiện
Thuật (Chủ biên), Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, 2004.
16. Tiếng Việt (sách dành cho người nước ngoài) – Trình độ A, tập 2 Đoàn Thiện
Thuật (Chủ biên), Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, 2004.
17. Thực hành Tiếng Việt – Practice Vietnamese – Use for Foreigners, Nguyễn Việt
Hương, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004.
18. Tiếng Việt cho người nước ngoài – Vietnamese for foreigners, Mai Ngọc Chừ,
NXB Thế Giới, 2006.
19. Tiếng Việt cho người nước ngoài – Chương trình cơ sở – Vietnamese for
foreigners, Nguyễn Văn Phúc (Chủ biên) – Đào Văn Hùng – Nguyễn Văn Chính,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007.
20. Tiếng Việt cho người nước ngoài – Vietnamese for foreigners, Nguyễn Anh Quế,
NXB Văn hoá thông tin Hà Nội, 2007.
Chúng tôi lựa chọn các tư liệu này để khảo sát vì đây là những giáo trình dạy tiếng
Việt cho người nước ngoài đã và đang được sử dụng phổ biến tại Việt Nam. Các giáo trình
được phân chia ở cả bậc cơ sở và nâng cao, chúng tôi có điều kiện so sánh và đánh giá mức độ
một số vấn đề về nội dung ngữ pháp được chú giải. Hơn nữa, qua việc khảo sát này, chúng ta
có thể hình dung được diễn trình thực tế của vị thế ngữ pháp thể hiện trong các giáo trình dạy
tiếng Việt cho người nước ngoài được biên soạn từ năm 1980 đến nay.
6. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phần nội dung luận văn gồm 3 chương, như sau:
Chƣơng 1: NHỮNG CƠ SỞ LÍ LUẬN
Chương 1 giới thiệu các vấn đề lý luận liên quan đến ngữ pháp học tiếng Việt nói
chung và tầm quan trọng của ngữ pháp dạy tiếng, trong đó lưu ý đến cơ sở phân định từ loại
trong lí thuyết ngữ pháp tiếng Việt.
Chƣơng 2: TÌM HIỂU SỰ THỂ HIỆN CÁC CHÚ GIẢI NGỮ PHÁP TRONG CÁC GIÁO
TRÌNH DẠY TIẾNG VIỆT CHO NGƢỜI NƢỚC NGOÀI
Chương 2 tìm hiểu sự thay đổi về vai trò, vị thế của ngữ pháp trong các giáo trình
dạy tiếng Việt cho người nước ngoài từ 1980 đến nay. Đồng thời, trong chương này, chúng
tôi sẽ tiến hành thống kê, phân chia và đưa ra những nhận xét về số lượng các phần chú
giải ngữ pháp và chủ điểm ngữ pháp ; cách gọi tên và ngôn ngữ chú giải ; trình tự và cách
thức giới thiệu các phần chú giải ngữ pháp trong bài học.
Chƣơng 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ VIỆC GIỚI THIỆU VÀ CHÚ GIẢI CÁC HIỆN
TƢỢNG NGỮ PHÁP TRONG CÁC GIÁO TRÌNH DẠY TIẾNG VIỆT CHO NGƢỜI
NƢỚC NGOÀI
Chương 3 là phần đánh giá về một số hiện tượng ngữ pháp mà chúng tôi cho rằng
chưa thật hợp lý dựa trên phụ lục từng chú giải ngữ pháp được khảo sát (cung cấp ở cuối
luận văn). Về việc nghiên cứu hướng sửa đổi những điều chưa thật hợp lý này và đưa ra
những giải pháp thích hợp, chúng tôi cho rằng cần có một công trình nghiên cứu chuyên
sâu hơn.
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. NHỮNG CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Vấn đề dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài ở Việt Nam
1.1.1. Lịch sử vấn đề
Việc dạy học ngôn ngữ hay giáo dục ngôn ngữ theo Rozdextvenxki là “một lĩnh
vực của nghiên cứu ngôn ngữ ứng dụng nhằm mục đích phổ biến các tri thức về ngôn ngữ
và các kỹ năng sử dụng ngôn ngữ... Giáo dục ngôn ngữ miêu tả ngôn ngữ nhằm mục đích
dạy học ngôn ngữ và rèn luyện ngôn ngữ” [45, tr. 337]. Trọng tâm của giáo dục ngôn ngữ
gắn với vấn đề dạy tiếng – dạy một ngôn ngữ với tư cách là một ngoại ngữ.
Trong xu thế giao lưu thương mại giữa các nước trên thế giới, ngoại ngữ trở thành
phương tiện giao tiếp cơ bản nhưng đồng thời cũng là rào cản giao tiếp. Việc dạy và học
ngoại ngữ chính là bước loại bỏ từng phần rào cản này.
Ở Việt Nam, việc dạy và học tiếng Việt như một ngoại ngữ chắc chắn đã có một
lịch sử lâu dài gắn liền với mối giao bang với người nước ngoài. Tài liệu cổ nhất được tìm
thấy là cuốn giáo trình giáo khoa dạy hội thoại tiếng Pháp và tiếng Bắc Kỳ do cha xứ
M.Bon (cố Bân) và Droket (cố Ân) – giáo trình dẫn đàng nói chuyện bằng tiếng Pháp và
tiếng An Nam. Trương Vĩnh Ký và Trương Vĩnh Thống cũng có một số tài liệu dạy tiếng
Việt cho các cha cố người nước ngoài.
Đến những năm 50 của thế kỉ XX những mối quan hệ quốc tế trong chiến tranh đã
làm tăng nhu cầu cấp bách trong việc dạy và học ngoại ngữ. Cho đến nay, việc khoa “Việt
Nam học và Tiếng Việt cho người nước ngoài” của Trường Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) được
thành lập đã đưa tiến trình giảng dạy tiếng Việt như một ngoại ngữ chính thức trở thành
một ngành khoa học chuyên môn có tính lâu dài và phát triển.
Ngày nay, nhu cầu học tiếng Việt của những người nước ngoài đến Việt Nam ngày
càng nhiều với mục đích khác nhau. Dù với mục đích nào, theo Hoàng Trọng Phiến, yêu
cầu chính của họ vẫn là:
Một là, học để hiểu biết, sử dụng như một phương tiện giao tiếp trực tiếp với người
Việt Nam.
Hai là, học để nghiên cứu tiếng Việt và là công cụ văn hoá của ngành Việt Nam
học.
Ba là, một số rất ít học trong vòng vài ba tuần với số vốn tối thiểu về từ, câu, để
giao dịch đời thường trong lúc du lịch tại Việt Nam. [35].
Để đáp ứng nhu cầu đó, từ đây, các cơ sở, trung tâm dạy tiếng Việt cho người nước
ngoài xuất hiện ngày càng nhiều, theo đó, số lượng các giáo trình, giáo trình dạy tiếng cho
người nước ngoài cũng phát triển phong phú và phục vụ cho những nhu cầu và mục đích
khác nhau của người học.
1.1.2. Về giáo trình dạy tiếng Việt cho ngƣời nƣớc ngoài ở Việt Nam hiện nay
Cũng như các giáo trình dạy ngoại ngữ, một giáo trình dạy tiếng Việt (cơ sở) phải
nhằm giúp cho người học, sau khi học, có khả năng giao tiếp tối thiểu, (nghe, nói, đọc, viết).
Muốn vậy, theo Nguyễn Văn Khang “một giáo trình tiếng Việt cơ sở phải giúp cho người
học hoàn chỉnh về mặt phát âm (ngữ âm), có một vốn từ tối thiểu (từ vựng) và những mẫu
câu cơ bản (ngữ pháp)” [24, tr. 116]. Các giáo trình tiếng Việt (cơ sở) hiện nay hầu hết đều
có các phần như vậy. Tuy nhiên, mức độ và cấu trúc của mỗi giáo trình khác nhau.
Ở đây, chúng tôi quan tâm tới vấn đề chú giải ngữ pháp ở mỗi giáo trình. Nếu như
Tiếng Việt (sách dành cho người nước ngoài, Trình độ A (tập 1, tập 2) của Đoàn Thiện
Thuật (Chủ biên) tách biệt riêng phần “ghi chú ngữ pháp” với mục đích làm rõ thêm những
điều đã học ở trong bài đọc, Tiếng Việt cho người nước ngoài của Mai Ngọc Chừ chỉ dẫn
một số phần “note” nhỏ về ngữ pháp đi kèm phần bài tập thì Tiếng Việt cơ sở của Vũ Văn
Thi, Tiếng Việt cho người nước ngoài của Nguyễn Anh Quế, Tiếng Việt cho người nước
ngoài của Nguyễn Văn Phúc, Thực hành Tiếng Việt của Nguyễn Việt Hương,... đều đi theo
hướng “chú giải ngữ pháp” là một phần chính trong mỗi bài học.
Những nghiên cứu về vấn đề chú giải ngữ pháp trong các giáo trình dạy tiếng Việt
cho người nước ngoài hiện nay chưa nhiều. Có thể nhắc đến một số bài viết, chẳng hạn,
“Phương pháp dạy và giải thích ý nghĩa các từ, ngữ của tiếng Việt cho người nước ngoài”
của Đào Thanh Lan nhấn mạnh việc áp dụng chức năng dụng học trong việc dạy và giải
thích ý nghĩa của các từ, ngữ là khâu quan trọng [26, tr. 140] ; Đào Thản trong bài viết “Dự
kiến về một giáo trình Tiếng Việt cho người nước ngoài” nhấn mạnh điểm xuất phát quan
trọng của giáo trình là từ đặc điểm của tiếng Việt. [37, tr. 236].
Nguyễn Văn Tu đã dựa trên thực tế “Việc soạn giáo trình và dạy tiếng Việt nhập
môn cho người nước ngoài” cho rằng, học ngoại ngữ hay dạy tiếng Việt như một ngoại
ngữ cần xoáy sâu vào từng chủ đề cần giảng để sinh viên nắm chắc được các mặt ngữ âm
cách dùng từ ngữ và cách đặt câu tiếng Việt một cách thật cơ bản… [42, tr. 313-315]. Tuy
nhiên, trong các bài viết này, hầu như việc đề cập đến phần chú giải ngữ pháp như là một
phần trong bài học còn rất dè dặt.
Phải đến những bài viết của Nguyễn Văn Chính, Nguyễn Thị Thuận, Nguyễn Thiện
Nam, vấn đề chú giải ngữ pháp mới được đề cập với tư cách là một phần quan trọng đối với
mỗi bài học trong giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài.
Trong bài “Đôi điều suy nghĩ về các giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài”,
Nguyễn Văn Chính nhấn mạnh việc giải thích các hiện tượng ngữ pháp được định trước và
thường được lồng ghép theo các bài hội thoại, mọi hiện tượng ngữ pháp được đưa vào chú
giải đều là những hiện tượng quan yếu trong tiếng Việt, tuy nhiên việc chú giải các hiện
tượng ngữ pháp này còn có nhiều bất cập (những bất cập mà tác giả nhắc đến, chúng tôi sẽ
lưu ý trong chương 3 của luận văn) [9, tr. 200-203].
Cũng với những bất cập này, khi nghiên cứu một số giáo trình dạy tiếng, Nguyễn Thị
Thuận đã cho rằng các chú thích ngữ pháp được đưa ra trong một số giáo trình thực chất là
dành cho người dạy chứ không phải người học, đó là những chú giải mang tính “Việt ngữ
học”, từ đó tác giả đã đưa ra ba tiêu chuẩn như những yêu cầu cần đạt để có được một chú
thích ngữ pháp hiệu quả cho người học, đó là “đúng, đủ – liều lượng hợp lí và đơn giản”.
[41, tr. 342-351].
Tiếp đó, đối với việc dạy tiếng Việt như một ngoại ngữ, người dạy cần thông tư
tưởng như Bùi Phụng đã nói khi dạy tiếng Việt, quan trọng là anh phải biết không dạy gì chứ
không phải là dạy cái gì. [41, tr. 348]. Còn Nguyễn Thiện Nam trong bài viết “Một vài suy
nghĩ về khái niệm ngữ pháp trong giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài” nhấn
mạnh trong giáo trình dạy tiếng, thứ ngữ pháp hiệu quả nhất được dùng để chú giải ngữ
pháp phải là ngữ pháp thực hành, nhằm giới thiệu cho người học các hiện tượng ngữ pháp
mang tính đặc trưng nhất, song yêu cầu là đơn giản, nhẹ nhàng, dễ sử dụng đối với người
học. [27, tr. 156].
Vấn đề về chú giải ngữ pháp trong việc dạy và học tiếng Việt cho người nước ngoài
đang được quan tâm, lưu ý. Việc đưa ra những điều như Bùi Phụng đề cập là không hề đơn
giản, vì điều đó không chỉ đòi hỏi kiến thức chuyên môn của người dạy mà còn cần một bề
dày thực tế giảng dạy và việc tích lũy những kiến thức, kinh nghiệm từ thực tiễn. Chúng tôi
nghĩ rằng, để đạt được những tiêu chuẩn đúng – đủ và đơn giản mà Nguyễn Thị Thuận đưa
ra, cần có những tìm hiểu sâu hơn về xu hướng nghiên cứu ngữ pháp giải thích tiếng Việt.
1.2. Một số vấn đề lý luận liên quan đến ngữ pháp học nói chung và ngữ pháp trong
giảng dạy một ngoại ngữ
1.2.1. Quan niệm về ngữ pháp
Mục đích chính mà chúng tôi nêu ra trong luận văn là tìm hiểu các phần chú giải ngữ
pháp trong các giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài. Vì thế, những hiện tượng liên
quan đến ngữ pháp được chúng tôi nhấn mạnh và đặc biệt quan tâm với hình thức nhận diện
là các phần: “ghi chú”, “ngữ pháp”, “ghi chú ngữ pháp” hay “chú giải ngữ pháp” trong các
giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài. Khi đi vào tìm hiểu vấn đề này, chúng tôi đi
từ điểm xuất phát trước tiên là về ngữ pháp nói chung và ngữ pháp tiếng Việt nói riêng.
Lịch sử ngôn ngữ học đã chứng kiến, tiếp nhận và sử dụng không ít quan niệm
rộng, hẹp khác nhau về ngữ pháp. Tuy nhiên, dù xuất phát từ quan niệm ngữ pháp nào, thì
theo Nguyễn Chí Hòa, trong việc dạy tiếng, ngữ pháp bao giờ cũng phải được biểu hiện
một cách tường minh bằng các cấu trúc, các kết hợp trên bình diện hình thức vật chất của
ngôn ngữ [18, tr. 4]. Ngữ pháp có ba mặt cơ bản có tác động qua lại với nhau, đó là cú
pháp – từ vựng – ngữ nghĩa, trong đó: Cú pháp là các nguyên tắc, các đơn vị và mối quan
hệ ngữ pháp liên quan đến cấu trúc câu ; từ vựng là các từ, cụm từ và các đơn vị tương
đương ; còn ngữ nghĩa: các ý nghĩa liên kết từ của một ngôn ngữ và các mối quan hệ của
chúng trong các cấu trúc câu.
Nếu như quan niệm truyền thống ngôn ngữ học về ngữ pháp là một hệ thống các
quy tắc cấu tạo từ và cấu tạo câu (Diệp Quang Ban) thì xuất phát từ góc độ dạy tiếng
Việt thực hành với tư cách một ngoại ngữ, chúng tôi xin đề cập tới một quan niệm sau
đây của Nguyễn Thiện Nam: Ngữ pháp học là sự miêu tả cấu trúc của một ngôn ngữ và
cái cách mà các đơn vị ngôn ngữ như từ và cụm từ kết hợp lại với nhau để tạo nên câu
trong ngôn ngữ. [28, tr. 24].
Như vậy, ngữ pháp của một ngôn ngữ là một bộ của những cấu trúc, những cách
thức và quy tắc mà theo đó, các từ ngữ kết hợp được với nhau để tạo nên câu, khiến cho
người ta có thể giao tiếp được với nhau.
Vì thế, dựa vào những điều trên đây, theo chúng tôi, có thể hiểu một cách đơn giản
những phần gọi là chú giải ngữ pháp trong giáo trình dạy tiếng, đó là sự miêu tả, giải thích
những hiện tượng ngữ pháp được đề cập trong giáo trình dạy tiếng, về cấu trúc, các quy
tắc ngữ pháp mà theo đó các từ ngữ kết hợp được với nhau để người học có thể thụ đắc và
sử dụng chúng tạo nên câu để giao tiếp được với nhau.
1.2.2. Ngữ pháp trong việc giảng dạy một ngoại ngữ
Ngữ pháp kì thực là một khái niệm trung tâm và được coi là bắt buộc đối với bất kì
chương trình giảng dạy về ngôn ngữ, không chỉ trong tiếng mẹ đẻ mà nhất là trong việc học tập
một ngoại ngữ nào đó. Với mỗi bài học, các bài khoá, bài luyện tập đều đặt ra vấn đề ngữ
pháp, trong đó việc giải thích các hiện tượng ngữ pháp được được đúc kết bằng những quy tắc
thành văn, quy tắc bằng mẫu câu. Ngữ pháp gắn liền với việc học ngoại ngữ như một đối
tượng đặc biệt. Tuy nhiên, mỗi cách tiếp cận phương pháp khác nhau lại có cách giải quyết
khác nhau về vai trò cũng như vị trí ngữ pháp trong việc giảng dạy ngoại ngữ.
Có những trường phái giảng dạy ngoại ngữ lại gạt bỏ ngữ pháp ra ngoài, đưa ngữ pháp
về vị trí “zero”. Tiến sĩ M.Band trong một khoá tập huấn ngắn hạn tại trường Đại học Hà Nội,
đã từng đề cập tới phương pháp giảng dạy này tạm gọi là “mười không”, đó là: không chương
trình – không giáo trình – không giáo án – không ngữ pháp – không từ vựng – không kĩ năng
riêng biệt (nghe, nói, đọc, viết) – không ngữ âm, ngữ điệu – không phương pháp – không kiểm
tra – không tiếng mẹ đẻ. Nói mười không nhưng thực chất là mười có, nói không với ngữ pháp
nhưng thực chất là muốn chú trọng đến việc giảng dạy ngữ pháp phải tiến hành trong các ngữ
cảnh hơn là dạy đơn lẻ. [16, tr. 14].
Việc sử dụng phương pháp định hướng giao tiếp trong việc giảng dạy ngoại ngữ,
trong đó có vấn đề ngữ pháp hiện nay đã được quan tâm thích đáng. Ngữ pháp đã được xem
xét trong “trạng thái làm việc”.
Vậy, giảng dạy và nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt như thế nào trên bình diện dạy
tiếng Việt như một ngoại ngữ? Quá trình giảng dạy tiếng Việt như một ngoại ngữ thực chất
là quá trình biến đổi từ hệ thống quy tắc ngữ pháp miêu tả sang hệ thống quy tắc ngữ pháp
giao tiếp. Trong đó ngữ pháp là một trong những phương tiện quan trọng nhất, trong phạm vi
của tất cả các kiểu hoạt động lời nói. Nếu không có ngữ pháp thì không hiểu bài khoá một
cách chính xác, không nắm vững được hành động lời nói, không áp dụng vào thực tế giao
tiếp một cách hiệu quả. Các chú giải ngữ pháp vì thế cũng cần có một vị trí cần thiết trong
giáo trình và trong việc giảng dạy.
Thực chất, ngữ pháp tiếng Việt có những đặc điểm khác với ngữ pháp châu Âu. Việc
áp dụng những thuật ngữ, những quan niệm ngữ pháp của các nhà ngôn ngữ châu Âu vào
việc giải thích ngữ pháp tiếng Việt đang đặt ra những thử thách trong việc sửa đổi đối với
người viết giáo trình và vấn đề về giảng dạy đối với người trực tiếp dạy tiếng Việt cho người
nước ngoài. Bên cạnh đó, việc đưa những thuật ngữ, khái niệm mới để giải thích ngữ pháp
tiếng Việt, chẳng hạn như các thuật ngữ chuyên sâu của ngành ngôn ngữ học “vị từ” “tiểu
từ”, “câu liên động”, “hiển ngôn”, “hàm ý”,… hàm lượng sao cho đủ cũng đang là những lựa
chọn cân nhắc.
Chính vì vậy, trong các giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài, việc xác định
đâu là những nội dung ngữ pháp cần giảng dạy (các từ công cụ, các mẫu câu, trình tự giảng
dạy của các nội dung ngữ pháp đó theo thứ tự từ dễ đến khó, từ thông dụng đến ít thông
dụng) từ chương trình cơ sở đến nâng cao là việc làm đòi hỏi sự quan tâm, nghiên cứu nhiều
hơn nữa.
1.2.3. Vai trò của việc chú giải ngữ pháp trong giáo trình dạy tiếng Việt cho ngƣời
nƣớc ngoài
Ngữ pháp là một bộ phận quan trọng trong chương trình đào tạo ngoại ngữ nói chung
và tiếng Việt như một ngoại ngữ nói riêng. Trong quá trình học ngoại ngữ, theo Nguyễn Chí
Hoà, các giai đoạn cơ bản của việc học ngữ pháp là:
Giai đoạn định hướng ngữ nghĩa và hiện tượng ngữ pháp mới trong các mẫu lời
nói và hoạt động thực tiễn các quy tắc ngữ pháp.
Giai đoạn luyện tập hành động lời nói và hình thành kĩ năng ngữ pháp trong hoạt
động lời nói.
Giai đoạn thành thục các hiện tượng ngữ pháp được học tập trong các hoạt động
lời nói. [18, tr. 40].
Như vậy có ba giai đoạn cơ bản trong giảng dạy ngữ pháp:
– Giai đoạn thứ nhất - giới thiệu các ngữ liệu ngữ pháp.
– Giai đoạn thứ hai - luyện tập với các ngữ liệu mới.
– Giai đoạn thứ ba - sử dụng ngữ liệu này trong các kiểu hoạt động lời nói khác
nhau, ứng dụng vào giao tiếp.
Về nguyên tắc, việc làm quen với ngữ liệu ngữ pháp là khâu đầu tiên và là tiền đề quan
trọng cho việc thụ đắc ngoại ngữ. Tuy nhiên, trong việc dạy ngoại ngữ, việc giới thiệu ngữ
pháp về nguyên tắc lại không được chiếm nhiều thời gian trong giảng dạy, mà thời gian đa
phần là phải dành cho việc luyện tập các bài tập ngữ pháp và thực hành trong giao tiếp thực tế.
Chính vì điều này mà ngữ pháp được lựa chọn trình bày trong bài học phải hết sức ngắn gọn,
cô đọng, dễ hiểu và dễ ứng dụng kèm theo các ví dụ thực tế.
Những tranh luận về một hình thức phù hợp về giáo trình dạy tiếng vẫn đang tiếp tục và
sẽ còn kéo dài, nhưng bất luận thế nào, một giáo trình được coi là tốt là một giáo trình dễ sử
dụng và đảm bảo cho việc học thành công. [27, tr. 148].
Từ ý kiến trên của Nguyễn Thiện Nam, một giáo trình như vậy thiết yếu có sự dung
hòa của cả ba mặt: từ vựng, ngữ âm và ngữ pháp. Trong đó, sự góp mặt của các đơn vị ngữ
pháp dù ở hình thức nào trong giáo trình cũng đều đóng vai trò quan trọng trong việc đảm
bảo cho việc học thành công của học viên. Do đó, việc giải thích các hiện tượng ngữ pháp
sao cho học viên dễ hiểu, nắm bắt và sử dụng được các đơn vị ngữ pháp là vấn đề được đặt
lên hàng đầu. Vậy các hiện tượng ngữ pháp được đưa vào giảng dạy có nội dung gì và dựa
vào điều gì để có được các chú giải ngữ pháp để học viên có dễ hiểu?
Theo Nguyễn Chí Hoà, khi phân tích phạm vi nội dung giảng dạy ngữ pháp tiếng
Việt, cần chú ý tới các bình diện sau:
– Các hình thức cấu tạo từ.
– Tri thức về cấu tạo cụm từ, với các quy tắc cấu tạo và sử dụng các hình thức này.
– Hoạt động ngữ pháp hình thành hành động lời nói trong đó câu như đơn vị cơ
bản nhất (kĩ năng sản sinh ngữ pháp và kĩ năng tiếp thụ ngữ pháp). [18, tr. 39].
Theo đó, những lời giải thích phải đúng bản chất của hiện tượng ngữ pháp đó, tức là
phải cho người học hiểu được hiện tượng đó có nghĩa gì và nó được dùng như thế nào. Theo
Chomsky, cần phân biệt ngữ pháp lí thuyết và ngữ pháp thực hành, trong đó, ngữ pháp lí
thuyết của một ngôn ngữ trưng bày cơ chế ngôn ngữ đó, giải thích cho người học biết và
hiểu về cơ chế ngữ pháp nhưng không yêu cầu người tiếp thu phải tái sản xuất được ngôn
ngữ đó một lần nữa. Còn ngữ pháp thực hành giải thích trình tự, tuần tự của ngôn ngữ đó
và yêu cầu người học phải vận dụng và tái lập lại ngôn ngữ đó. Trong giáo trình tiếng Việt
cho người nước ngoài, ngữ pháp được trình bày phải là ngữ pháp thực hành. Điều này giúp
người học hiểu được sự kiện ngôn ngữ và có khả năng tạo lập, thực hành lại được (một cách
sáng tạo) sự kiện ngôn ngữ đó theo những giải thích về cách dùng, mô hình, quy tắc ngữ pháp
đã thụ đắc được.
Việc đưa ra hiện tượng và giải thích hiện tượng ngữ pháp làm sao cho người học hiểu
và nắm bắt được các hình thức, quy tắc cấu tạo, cách sử dụng các đơn vị ngữ pháp đó, phụ
thuộc vào việc trình bày ngữ pháp như thế nào. Nguyễn Thiện Nam đã nhấn mạnh rằng, việc
miêu tả và giải thích những đơn vị ngữ pháp trong một giáo trình dạy tiếng phải tuân thủ
những nguyên tắc sư phạm của một thứ ngữ pháp thực hành, trong đó tính vừa sức và tường
minh có một vai trò cực kì quan trọng. [27, tr. 152].
Các chú giải ngữ pháp mang tính định hướng cho giáo viên và học viên trong việc dạy,
học tiếng. Dựa theo mô hình ngữ pháp đã được lựa chọn đưa ra trong các giáo trình, người dạy
có thể giải thích và truyền đạt cho người học kiến thức ngữ pháp cơ bản nhất, hướng dẫn họ
cách sử dụng chúng trong việc hiểu bài học, làm bài tập và tiến hành giao tiếp với các đơn vị
ngữ pháp đó. Đối với học viên, những chú giải về ngữ pháp với sự giảng giải của giáo viên
giúp cho họ thêm hiểu bài, có thể nắm được tinh thần “ngữ pháp” cần lưu ý của bài học.
1.3. Tìm hiểu các hiện tƣợng ngữ pháp trên cơ sở phân định từ loại
Từ loại là kết quả nghiên cứu vốn từ trên bình diện ngữ pháp. Đó là những lớp từ
có chung bản chất ngữ pháp, được biểu hiện trong các đặc trưng thống nhất dùng làm tiêu
chuẩn tập hợp và quy loại. Sự phân định từ loại là sự phân chia vốn từ bằng bản chất ngữ
pháp thông qua ý nghĩa khái quát, hoạt động ngữ pháp của từ theo khả năng kết hợp với
các từ ngữ khác trong ngữ lưu và thực hiện những chức năng ngữ pháp nhất định ở trong
câu.
Vấn đề phân định từ loại tiếng Việt đã được đề cập trong nhiều công trình nghiên
cứu về Việt ngữ học. Việc tập hợp và quy loại các lớp từ thường dựa vào những quan niệm
khác nhau về đặc trưng từ loại, vì thế hệ thống từ loại tiếng Việt đã có chưa đạt được sự
thống nhất hoàn toàn. Chính vì vậy, có rất nhiều quan điểm với các tiêu chí khác nhau về
việc phân định từ loại. Điều này cũng thể hiện trong phần ngữ pháp của các giáo trình dạy
tiếng Việt cho người nước ngoài khi các hiện tượng ngữ pháp được đưa vào được gọi với
những tên gọi khác nhau. Và để thuận tiện trong việc thống kê và nhận xét, chúng tôi áp
dụng khái niệm về từ loại và cách phân chia của Nguyễn Hồng Cổn trong tài liệu “Về vấn
đề phân định từ loại trong tiếng Việt” [5, tr. 36-45]. Dựa trên hai tiêu chí: chức vụ cú pháp
và khả năng kết hợp, tác giả đã phân chia từ loại tiếng Việt theo bảng sau:
Với bảng phân loại này, hệ thống các từ loại tiếng Việt được phân định rõ ràng và
khách quan hơn, tránh được một số nhược điểm của các cách phân loại cũ (các tiêu chí
không rõ ràng hoặc loại trừ nhau, sự nhập nhằng giữa thực từ và hư từ, có nhiều các từ loại
trung gian,…) và điều quan trọng hơn là nó phản ánh được đặc điểm ngữ pháp của các
phạm trù từ loại trên cả hai phương diện khả năng kết hợp và chức vụ cú pháp.
Trên cơ sở này, chúng tôi vận dụng những điều trên vào việc nhận diện, phân định các
hiện tượng ngữ pháp được chú giải trong giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài, từ
đó, đưa ra những thông số thống kê khảo sát về số lượng, cách thức giải thích và đưa ra một số
nhận xét về cách gọi tên các kiểu loại ngữ pháp giữa các giáo trình. Các tiêu chí phân định
kiểu loại hiện tượng ngữ pháp theo phân định từ loại cụ thể là: danh từ, đại từ, động từ, tính
từ, lượng từ, chỉ từ, phó từ, liên từ, giới từ, trợ từ và tiểu từ. Bên cạnh đó, do đặc thù của
những chủ điểm ngữ pháp được chú giải trong giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài
và để tiện cho việc phân định về mặt nội dung ngữ pháp của các chủ điểm, bên cạnh cách phân
chia theo từ loại, chúng tôi sẽ sử dụng thêm các khái niệm: kết cấu ; kiểu câu - thành phần câu
; cách nói - mẫu câu trong chương 2 của luận văn.
Từ loại
A B C
(Đối tố) (Vị tố) (Phụ đối tố) (Phụ đối tố) (Liên kết) (Tình thái từ) Thể từ Vị từ Đị nh từ Phó từ Kết từ Tình thái từ
Danh Đại Động Tính Lượng Chỉ T.Phó H. Phó Liên Giới Trợ Tiểu từ từ từ từ từ từ từ từ từ từ từ từ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Diệp Quang Ban (2004), Ngữ Pháp tiếng Việt, tập một, NXB Giáo dục.
2. Diệp Quang Ban (2004), Ngữ Pháp tiếng Việt, tập hai, NXB Giáo dục.
3. Diệp Quang Ban (2004), Ngữ pháp tiếng Việt – Phần câu, NXB Đại học Sư phạm Hà
Nội.
4. Nguyễn Tài Cẩn (1999), Ngữ pháp tiếng Việt, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
5. Nguyễn Hồng Cổn (2003), Về vấn đề phân định từ loại trong tiếng Việt, Tạp chí Ngôn
ngữ số 2, tr. 36-45.
6. Đỗ Hữu Châu – Bùi Minh Toán (2001), Đại cương ngôn ngữ học, tập một, NXB Giáo
dục.
7. Đinh Kiều Châu (2005), Bài giảng môn “Giáo dục ngôn ngữ” (tại lớp K47 Ngôn ngữ
CLC).
8. Nguyễn Hữu Chinh (2003), Văn hoá với việc dạy – học ngoại ngữ, Tạp chí Ngôn ngữ
số 3, tr. 73-77.
9. Nguyễn Văn Chính (2001), Đôi điều suy nghĩ về các giáo trình dạy tiếng Việt cho
người nước ngoài, Ngữ học trẻ 2001, tr. 200-203.
10. Mai Ngọc Chừ (2001), Quan điểm giao tiếp – thực tiễn trong việc viết giáo trình
tiếng Việt và dạy tiếng Việt cho người nước ngoài ở giai đoạn đầu, Tạp chí Ngôn ngữ số
14, tr. 8-11.
11. Mai Ngọc Chừ (2002), Dạy tiếng Việt với tư cách một ngoại ngữ, Tạp chí Ngôn ngữ
số 5, tr. 65-69.
12. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (2003), Cơ sở ngôn ngữ học
và tiếng Việt, NXB Giáo dục.
13. Đinh Văn Đức (1991), Vài suy nghĩ bước đầu về ngữ pháp lý thuyết và ngữ pháp
thực hành trong việc dạy tiếng Việt, Tạp chí Ngôn ngữ số 4, tr. 45-50.
14. Đinh Văn Đức (1997), Ngữ pháp chức năng giúp gì cho việc dạy tiếng Việt ở nước ta
(Một đề nghị thử nghiệm), Tiếng Việt và việc dạy tiếng Việt cho người nước ngoài, NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 64-72.
15. Phạm Thị Thu Giang (2006), Khảo sát một số hiện tượng ngữ pháp thực hành trong
các giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài ở bậc cơ sở, Khoá luận tốt nghiệp.
16. Nguyễn Thiện Giáp (2002), Dẫn luận ngôn ngữ học, NXB Giáo dục.
17. Nguyễn Thiện Giáp (2000), Ngữ dụng học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
18. Huỳnh Công Hiển (2007), Phân tích dạy cho học viên nước ngoài về nhóm từ biểu
đạt ý nghĩa khả năng có thể, được, nổi trong tiếng Việt, Kỷ yếu hội thảo khoa học “Nghiên
cứu và giảng dạy Việt Nam học cho người nước ngoài”, NXB Đại học Quốc gia, tr. 149-
157.
19. Nguyễn Chí Hòa (2008), Nội dung và phương pháp dạy giảng dạy ngữ pháp Tiếng
Việt thực hành, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
20. Đỗ Thị Thúy Hoàn (2008), Khảo sát hệ thống bài luyện và bài tập trong một số giáo
trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài ở Việt Nam từ năm 1980 đến nay, Luận văn
Thạc sĩ.
21. Đinh Thanh Huệ – Phạm Tuấn Khoa (2007), Về một cách xác định nghĩa từ vựng
của giới từ không gian và từ chỉ hướng không gian đứng sau động từ vận động trong
tiếng Việt, Kỷ yếu hội thảo khoa học “Nghiên cứu và giảng dạy Việt Nam học cho người
nước ngoài”, NXB Đại học Quốc gia, tr. 196-207.
22. Nguyễn Văn Huệ (2007), Vấn đề dạy ngữ pháp tiếng Việt cho người nước ngoài, Kỷ
yếu hội thảo khoa học “Nghiên cứu và giảng dạy Việt Nam học cho người nước ngoài”,
NXB Đại học Quốc gia, tr. 191- 195.
23. V.B.Kasevich (1999), Những yếu tố cơ sở của ngôn ngữ học đại cương, NXB Giáo
dục.
24. Nguyễn Văn Khang (1997), Giáo trình tiếng Việt với vấn đề giảng dạy tiếng Việt cho
người nước ngoài nhìn từ góc độ giao tiếp ngôn ngữ, Tiếng Việt và việc dạy tiếng Việt cho
người nước ngoài, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 116-119.
25. Trần Thị Lan (2005), Dạy tiếng Việt cho người nước ngoài theo phương pháp giao
tiếp, Ngữ học trẻ, tr. 158-164.
26. Đào Thanh Lan (1997), Phương pháp dạy và giải thích ý nghĩa các từ ngữ của tiếng
Việt cho người nước ngoài, Tiếng Việt và việc dạy tiếng Việt cho người nước ngoài, NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội.
27. Nguyễn Thiện Nam (2001), Một vài suy nghĩ về khái niệm ngữ pháp trong giáo trình
tiếng Việt cho người nước ngoài, Kỷ yếu hội thảo khoa học “Tiếng Việt và văn hoá Việt
Nam”, tr. 148-158.
28. Nguyễn Thiện Nam, (1997) Một số vấn đề của các phương pháp dạy ngoại ngữ,
Tiếng Việt và việc dạy tiếng Việt cho người nước ngoài, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội,
tr. 173-180.
29. Nguyễn Thiện Nam (2000), Khảo sát lỗi ngữ pháp tiếng Việt của người nước ngoài,
Luận án Tiến sĩ khoa học Ngữ văn.
30. Nguyễn Thiện Nam, Lỗi loại từ trong tiếng Việt cho người nước ngoài,
http://ngonngu.net, ngày 25/ 05/ 2007.
31. Nguyễn Thiện Nam (2000), Một số nhận xét về việc dạy người nước ngoài đọc báo
tiếng Việt, Tạp chí Ngôn ngữ số 2, tr. 47-56.
32. Nguyễn Thiện Nam (2007), Một số vấn đề liên quan đến việc dạy phát âm, từ vựng
và ngữ pháp tiếng Việt, Kỷ yếu hội thảo khoa học “Nghiên cứu và giảng dạy Việt Nam học
cho người nước ngoài”, NXB Đại học Quốc gia, tr. 288-294.
33. Nguyễn Thiện Nam (2007), Vị trí ngữ pháp trong tiến trình dạy tiếng – Một vài liên
tưởng vào giáo trình dạy tiếng Việt, Đại học KHXH & NV Hà Nội, Kỷ yếu Hội thảo quốc
tế về giảng dạy và nghiên cứu ngôn ngữ, văn hóa Việt Nam – Trung Quốc, Nam Ninh,
Trung Quốc, tr. 38-45.
34. I.M.Punkina (1983), Tóm lược ngữ pháp tiếng Nga, Mat-xcơ-va, NXB Tiếng Nga.
35. Hoàng Trọng Phiến (1984), Tiếng Việt với mẹo dạy tiếng Việt, Kỷ yếu về Hội thảo
khoa học về tiếng Việt cho người nước ngoài.
36. Hoàng Trọng Phiến (2005), Bài giảng môn “Phương pháp dạy tiếng Việt như một ngoại
ngữ” (tại lớp K47 Ngôn ngữ CLC).
37. Đào Thản (1997), Dự kiến về một giáo trình Tiếng Việt cho người nước ngoài, Tiếng
Việt và việc dạy tiếng Việt cho người nước ngoài, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 236-
239.
38. Lê Thảo, Ra mắt giáo trình dạy tiếng Việt dành cho người nước ngoài, Báo điện tử
Vietnamnet, http: //vietnamnet.vn/giaoduc/2009/04/844380, ngày 27/ 04/ 2009.
39. Bùi Khánh Thế (2003), Đi tìm một mô hình thỏa đáng để dạy – học tiếng Việt như
ngôn ngữ thứ hai, Tạp chí Ngôn ngữ số 12, tr. 43-48.
40. Đỗ Thị Thu (2001), Việc sử dụng một số phó từ biểu thị ý nghĩa thời gian của người
nước ngoài học tiếng Việt, Kỷ yếu hội thảo khoa học “Tiếng Việt và văn hoá Việt Nam”,
tr. 248-255.
41. Nguyễn Thị Thuận (2004), Suy nghĩ về việc chú giải ngữ pháp trong các giáo trình
dạy tiếng Việt như một ngoại ngữ, Kỷ yếu hội thảo khoa học “Tiếng Việt và phương pháp
dạy tiếng”, tr. 342-351.
42. Nguyễn Văn Tu (1997), Việc soạn giáo trình và dạy tiếng Việt nhập môn cho người
nước ngoài, Tiếng Việt và việc dạy tiếng Việt cho người nước ngoài, NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội, tr. 313-315.
43. Hoàng Tuệ (1997), Tiếng Việt cho người không phải bản ngữ, Kỷ yếu hội thảo khoa
học “Tiếng Việt và việc dạy tiếng Việt cho người nước ngoài”, tr. 320-321.
44. Trần Thị Ánh Tuyết (2007), Tìm hiểu nhóm phụ từ chỉ sự tiếp diễn: vẫn, cứ, còn
trong một số giáo trình dạy tiếng Việt cho người nước ngoài, Kỷ yếu hội thảo khoa học
“Nghiên cứu và giảng dạy Việt Nam học cho người nước ngoài”, NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội, tr. 439-448.
45. U.V.Rozdextvenxki (1998), Những bài giảng ngôn ngữ học đại cương, NXB Giáo
dục, 1998.
46. Viện Ngôn ngữ học (2002), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.
47. Nguyễn Nhƣ Ý (1997), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, NXB Giáo dục.
48. Michael Swan, Catherine Walter (2001), The Good Grammar Book, Oxford
University press.