TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRƯỚC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU:...

21
25 TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRƯỚC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: TRƯỜNG HỢP NGHIÊN CỨU Ở HỆ SINH THÁI MŨI CÀ MAU Hoàng Văn Thắng Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, Đại học Quốc gia Hà Nội Tóm tắt Sự thay đổi một cách rõ rệt của các yếu tố thời tiết trong nhiều thập kỷ, hoặc hàng triệu năm và trong tương lai do tự nhiên và con người gây ra – biến đổi khí hậu, ngày càng trở nên rõ nét và có những tác động không nhỏ lên không chỉ cộng đồng, mà còn tác động mạnh mẽ lên các hệ tự nhiên. Các hệ sinh thái cửa sông, ven biển, bao gồm cả rừng ngập mặn, rất dễ bị tổn thương do những thay đổi của các yếu tố khí hậu như nhiệt độ, lượng mưa, nước biển dâng và các hiện tượng thời tiết cực đoan. Đánh giá được tính dễ bị tổn thương của các hệ thống nói chung (tự nhiên và xã hội), hệ sinh thái cửa sông ven biển nói riêng cần phải xem xét các tác động, đánh giá mức độ phơi lộ hay khả năng dễ bị tác động, mức độ nhạy cảm, khả năng tự điều chỉnh và khả năng thích ứng. Báo cáo này đề cập đến các tác động của biến đổi khí hậu, bao gồm sự thay đổi về nhiệt độ, lượng mưa, nước biển dâng và các hiện tượng thời tiết cực đoan lên hệ sinh thái đất ngập nước cửa sông, ven biển Mũi Cà Mau, đồng thời đánh giá tính dễ bị tổn thương của các hệ sinh thái này trước biến đổi của các yếu tố khí hậu trên. Bên cạnh đó, báo cáo cũng đánh giá khả năng thích ứng của các hệ sinh thái này, trên cơ sở đó, khuyến nghị một số giải pháp quản lý và bảo tồn. 1. MỞ ĐẦU Sự thay đổi một cách rõ rệt của các yếu tố thời tiết trong nhiều thập kỷ hoặc hàng triệu năm và trong tương lai do tự nhiên và con người gây ra – biến đổi khí hậu (BĐKH) – ngày càng trở nên rõ nét và có những tác động không nhỏ lên không chỉ cộng đồng, mà còn tác mạnh mẽ lên các hệ tự nhiên. Ngược lại, các hệ sinh thái (HST), nhất là các HST đất ngập nước (ĐNN) cửa sông, ven biển, đóng một vai trò quan trọng trong việc giảm nhẹ các tác động của BĐKH, cũng như những hệ quả mà BĐKH có thể gây ra. Việt Nam là một trong số ít nước chịu ảnh hưởng mạnh nhất của BĐKH (WB, 2008). Nếu nhiệt độ tăng 2 o C, mực nước biển dâng 1 m, có thể làm mất 12,2% diện tích đất là nơi cư trú của khoảng 23% dân số (tức khoảng 17 triệu người) (Trương Quang Học, 2011). Mực nước biển dâng sẽ làm mất đi một vùng đất thấp rộng lớn, bao gồm các khu dân cư, canh tác và cả các vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên... BĐKH còn ảnh hưởng lớn đến các HST do sự thay đổi về nhiệt độ, lượng mưa và đặc biệt là tần suất và cường độ của những trận lũ và hạn hán. Các hiện tượng thời tiết cực đoan như bão, lũ, rét hại, nắng nóng, hỏa hoạn và những thay đổi điều kiện sinh thái khác sẽ dẫn đến các thảm họa khôn lường cho con người. Sự thích ứng (Adaptation) đã trở thành một phần quan trọng của chương trình nghị sự phát triển, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển chịu tác động/bị đe dọa nghiêm trọng nhất trước

Transcript of TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRƯỚC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU:...

Page 1: TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRƯỚC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10163/1/Hoàng Văn Thắng... · Các hệ sinh thái cửa sông, ...

25

TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRƯỚC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU:

TRƯỜNG HỢP NGHIÊN CỨU Ở HỆ SINH THÁI MŨI CÀ MAU

Hoàng Văn Thắng

Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường,

Đại học Quốc gia Hà Nội

Tóm tắt

Sự thay đổi một cách rõ rệt của các yếu tố thời tiết trong nhiều thập kỷ, hoặc hàng triệu

năm và trong tương lai do tự nhiên và con người gây ra – biến đổi khí hậu, ngày càng trở

nên rõ nét và có những tác động không nhỏ lên không chỉ cộng đồng, mà còn tác động

mạnh mẽ lên các hệ tự nhiên. Các hệ sinh thái cửa sông, ven biển, bao gồm cả rừng ngập

mặn, rất dễ bị tổn thương do những thay đổi của các yếu tố khí hậu như nhiệt độ, lượng

mưa, nước biển dâng và các hiện tượng thời tiết cực đoan. Đánh giá được tính dễ bị tổn

thương của các hệ thống nói chung (tự nhiên và xã hội), hệ sinh thái cửa sông ven biển nói

riêng cần phải xem xét các tác động, đánh giá mức độ phơi lộ hay khả năng dễ bị tác

động, mức độ nhạy cảm, khả năng tự điều chỉnh và khả năng thích ứng. Báo cáo này đề

cập đến các tác động của biến đổi khí hậu, bao gồm sự thay đổi về nhiệt độ, lượng mưa,

nước biển dâng và các hiện tượng thời tiết cực đoan lên hệ sinh thái đất ngập nước cửa

sông, ven biển Mũi Cà Mau, đồng thời đánh giá tính dễ bị tổn thương của các hệ sinh thái

này trước biến đổi của các yếu tố khí hậu trên. Bên cạnh đó, báo cáo cũng đánh giá khả

năng thích ứng của các hệ sinh thái này, trên cơ sở đó, khuyến nghị một số giải pháp quản

lý và bảo tồn.

1. MỞ ĐẦU

Sự thay đổi một cách rõ rệt của các yếu tố thời tiết trong nhiều thập kỷ hoặc hàng triệu năm và

trong tương lai do tự nhiên và con người gây ra – biến đổi khí hậu (BĐKH) – ngày càng trở nên

rõ nét và có những tác động không nhỏ lên không chỉ cộng đồng, mà còn tác mạnh mẽ lên các hệ

tự nhiên. Ngược lại, các hệ sinh thái (HST), nhất là các HST đất ngập nước (ĐNN) cửa sông, ven

biển, đóng một vai trò quan trọng trong việc giảm nhẹ các tác động của BĐKH, cũng như những

hệ quả mà BĐKH có thể gây ra. Việt Nam là một trong số ít nước chịu ảnh hưởng mạnh nhất của

BĐKH (WB, 2008). Nếu nhiệt độ tăng 2oC, mực nước biển dâng 1 m, có thể làm mất 12,2% diện

tích đất là nơi cư trú của khoảng 23% dân số (tức khoảng 17 triệu người) (Trương Quang Học,

2011). Mực nước biển dâng sẽ làm mất đi một vùng đất thấp rộng lớn, bao gồm các khu dân cư,

canh tác và cả các vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên... BĐKH còn ảnh hưởng lớn đến các

HST do sự thay đổi về nhiệt độ, lượng mưa và đặc biệt là tần suất và cường độ của những trận lũ

và hạn hán. Các hiện tượng thời tiết cực đoan như bão, lũ, rét hại, nắng nóng, hỏa hoạn và những

thay đổi điều kiện sinh thái khác sẽ dẫn đến các thảm họa khôn lường cho con người.

Sự thích ứng (Adaptation) đã trở thành một phần quan trọng của chương trình nghị sự phát triển,

đặc biệt là đối với các nước đang phát triển chịu tác động/bị đe dọa nghiêm trọng nhất trước

Page 2: TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRƯỚC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10163/1/Hoàng Văn Thắng... · Các hệ sinh thái cửa sông, ...

26

BĐKH (WB, 2010; Earkin and Lemos, 2010). Hiện đây đang là vấn đề hàng đầu trong các cuộc

thương thảo chính sách và yêu cầu khoa học (Andrade và nnk., 2010).

Các HST cửa sông, ven biển, bao gồm cả rừng ngập mặn (RNM) rất dễ bị tổn thương do những

thay đổi của các yếu tố khí hậu như nhiệt độ, lượng mưa, mực nước biển dâng và các hiện tượng

thời tiết cực đoan. Tuy nhiên, hiện nay còn rất ít các nghiên cứu về các vấn đề nêu trên. Báo cáo

này đề cập đến các tác động của BĐKH, bao gồm sự thay đổi về nhiệt độ, lượng mưa, mực nước

biển dâng và các hiện tượng thời tiết cực đoan lên HST ĐNN cửa sông, ven biển Mũi Cà Mau,

đồng thời đánh giá tính dễ bị tổn thương của các HST này trước biến đổi của các yếu tố khí hậu.

Bên cạnh đó, báo cáo cũng đánh giá khả năng thích ứng của các HST, trên cơ sở đó khuyến nghị

một số biện pháp quản lý và bảo tồn, nhằm ứng phó với BĐKH.

2. PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu này được thực hiện trên cơ sở tiếp cận HST và tiếp cận thích ứng dựa trên HST. Các

nghiên cứu và công trình đã được công bố trên thế giới và Việt Nam cũng như khu vực Mũi Cà

Mau được thu thập và phân tích. Khảo sát thực địa để cập nhật và đánh giá hiện trạng về đa dạng

sinh học, các chức năng và dịch vụ HST cũng như những tác động của BĐKH và các hiện tượng

thời tiết cực đoan đối với khu vực Mũi Cà Mau. Địa bàn khảo sát và đánh giá chủ yếu thuộc

phạm vi của Vườn Quốc gia (VQG) Mũi Cà Mau, thuộc huyện Năm Căn và Ngọc Hiển, tỉnh Cà

Mau.

Tính tổn thương của đất ngập nước trước biến đổi khí hậu:

Tính dễ bị tổn thương (Vulnerability) của một HST ĐNN là mức độ/thước đo/ước số của độ phơi

lộ, tính nhạy cảm và khả năng tự điều chỉnh và thích ứng của HST.

Để hiểu được tính bị tổn thương của ĐNN trước BĐKH, chúng ta cần biết được mối quan hệ

nhân quả giữa những mối đe dọa của BĐKH, sự phơi lộ (hay khả năng dễ bị tác động), tính nhạy

cảm và khả năng thích ứng của các cấu thành của HST ĐNN cũng như những tác động lên các

dịch vụ và hậu quả của tính tổn thương của hệ tự nhiên và cộng đồng sống phụ thuộc vào các

HST này (ICEM, 2011a).

Các yếu tố đe dọa của BĐKH lên các HST ĐNN là khá nhiều. Trong nghiên cứu này, thay đổi về

nhiệt độ, lượng mưa, mực nước biển dâng và các hiện tượng thời tiết cực đoan sẽ được xem xét

kỹ hơn cả.

Bên cạnh các tác động của việc gia tăng dân số và các hoạt động phát triển, việc xâm nhập của

các loài ngoại lai và thể chế, chính sách cũng là những nhân tố tác động lên tính dễ bị tổn thương

của HST.

Đánh giá được tính dễ tổn thương của các hệ thống nói chung (tự nhiên và xã hội), HST cửa

sông ven biển nói riêng, bao gồm việc xem xét các tác động (Impact), đánh giá mức độ phơi lộ

hay khả năng dễ bị tác động (Exposure), mức độ nhạy cảm (Sensitivity), khả năng tự điều chỉnh

(Adaptive Capacity) và khả năng thích ứng (Adaptation).

Page 3: TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRƯỚC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10163/1/Hoàng Văn Thắng... · Các hệ sinh thái cửa sông, ...

27

3. VƯỜN QUỐC GIA MŨI CÀ MAU

3.1.Vị trí địa lý

VQG Mũi Cà Mau nằm ở tận cùng phía Nam của Việt Nam, thuộc phạm vi các xã Đất Mũi,

huyện Ngọc Hiển và xã Lâm Hải và Đất Mới huyện Năm Căn, trải rộng từ vĩ độ Bắc: 8o32’N-

8o49’N đến kinh độ Đông: 104o40’E-104o55’E. Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau có diện tích tự

nhiên là 41.862 ha, trong đó, phần đất liền 15.262 ha, phần ven biển 26.600 ha.

Mũi Cà Mau là một phần của vùng rừng ngập mặn Cà Mau, nơi có vị trí quan trọng trong danh

mục các vùng ĐNN của Đông Nam Á và là một trong các khu dự trữ sinh quyển rừng ngập mặn

của thế giới (Hình 3.1).

Các đặc điểm của HST ĐNN ở Mũi Cà Mau là tiêu biểu cho vùng sinh thái cửa sông, ven biển.

Rừng ngập mặn cung cấp dinh dưỡng và những sản phẩm sơ cấp đầu tiên cho chuỗi thức ăn ở

ven biển, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động nuôi trồng thủy sản và đánh bắt thủy sản, cung

cấp nguồn giống động thực vật, cung cấp nơi cư trú cho các loài động vật hoang dã và các loài

chim di cư, cung cấp các sản phẩm gỗ củi, dụng cụ đánh bắt và nuôi trồng thủy sản, bảo vệ bờ

biển, hỗ trợ quá trình phát triển bền vững ở vùng ven biển. VQG Mũi Cà Mau là nơi du lịch và

tham quan giải trí lý tưởng cho du khách trong và ngoài nước (VQG Mũi Cà Mau, 2010).

3.1.1. Phân khu chức năng trên đất liền

1. Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt: 12.203 ha, thuộc tiểu khu 2 và tiểu khu 3 của Khu rừng Đặc

dụng Đất Mũi và Khu rừng Phòng hộ Bãi bồi.

2. Phân khu phục hồi sinh thái: 2.859 ha, thuộc tiểu khu 4 và phần ven biển tiểu khu 1 của Khu

rừng Đặc dụng Đất Mũi.

3. Phân khu hành chính dịch vụ: 200 ha, thuộc khu vực ven Rạch Tàu, khu kênh Hai Thiện, khu

Rạch Bàu Lớn và khu Rạch Mũi.

3.1.2. Phân khu chức năng phần trên biển

Phạm vi tính từ mép bờ biển phía Tây ra phía biển, chức năng chủ yếu của phân khu này là bảo

tồn tài nguyên sinh vật biển và HST ven bờ, duy trì và nghiên cứu quá trình địa mạo và sinh thái

tự nhiên của VQG Mũi Cà Mau, bao gồm các điểm sau:

+ Cửa Sào Lưới thuộc huyện Cái Nước, tọa độ: từ 104°47’30” kinh Đông và 8°48’ vĩ Bắc.

+ Cách bờ biển 4.700 mét, tọa độ: từ 104°45’ kinh Đông và 8°48’ vĩ Bắc.

+ Ngoài biển, tọa độ: từ 104°42’ kinh Đông và 8°40’ vĩ Bắc.

+ Ngoài biển, tọa độ: từ 104°42’ kinh Đông và 8°35’ vĩ Bắc.

+ Ngoài biển, tọa độ: từ 104°48’ kinh Đông và 8°33’30” vĩ Bắc.

+ Đầu rạch Trương Phi thuộc huyện Ngọc Hiển, tọa độ: từ 104°48’ kinh Đông và 8°34’30” vĩ

Bắc.

Page 4: TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRƯỚC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10163/1/Hoàng Văn Thắng... · Các hệ sinh thái cửa sông, ...

28

3.1.3. Vùng đệm

Vùng đệm của VGQ Mũi Cà Mau có tổng diện tích 8.194 ha, nằm trên địa bàn các xã Đất Mũi,

Viên An và Đất Mới, thuộc huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau.

3.2. Đặc điểm khí hậu

Nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình tại Ngọc Hiển 26,5-27,0oC. Tháng tư là tháng nóng nhất với nhiệt

độ trung bình là 28,5oC, tháng giêng là tháng lạnh nhất với nhiệt độ trung bình 25,1oC. Số giờ

nắng trung bình 2.300-2.600 giờ/năm. Tháng ba là tháng có số giờ nắng cao nhất (315 giờ),

tháng 9 là tháng có số giờ nắng thấp (147 giờ) (SIWRP, 2008).

Hình 3.1. Bản đồ hiện trạng sử dụng đất VQG Mũi Cà Mau

Độ ẩm không khí và lượng bốc hơi: Độ ẩm không khí trung bình năm là 85,9%, độ ẩm cao có thể

trên 89%. Độ ẩm lớn nhất thường quan sát được trong tháng 9 và tháng 10 là 88%. Lượng bốc

hơi bình quân là 73 mm/tháng. Trong mùa mưa, chỉ số ẩm ướt thường đạt đến 4,1 lần. Độ ẩm

bình quân của không khí là 81% trong mùa mưa. Trong mùa khô, chỉ số khô hạn (lượng bốc

hơi/lượng mưa) bằng 2,2 lần.

Lượng mưa: Lượng mưa là nguồn nước ngọt chính trên bề mặt và có lượng thay đổi theo mùa.

Mùa khô kéo dài từ tháng 12 đến tháng 4 có lượng mưa không đáng kể. Lượng mưa trung bình

nhiều năm tại Ngọc Hiển thấp hơn so với ở Cà Mau và được phân bố như ở Bảng 3.1 (VQG Mũi

Page 5: TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRƯỚC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10163/1/Hoàng Văn Thắng... · Các hệ sinh thái cửa sông, ...

29

Cà Mau, 2010).Vào mùa mưa và giai đoạn chuyển mùa, thường xuất hiện mưa giông kèm gió và

sóng lớn rất nguy hiểm trên sông rạch và vùng ven bờ.

Bảng 3.1. Đặc trưng lượng mưa trung bình khu vực

Địa

điểm

Các tháng trong năm (tháng) Tổng

T12-T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11

Ngọc Hiển (mm) 84 246 364 296 350 370 350 205 2.265

Cà Mau (mm) 237 277 319 331 342 353 338 186 2.383

Gió: Khu vực Mũi Cà Mau chịu ảnh hưởng của 2 hướng gió chính trong năm là gió mùa Đông

Bắc (từ tháng 11 đến tháng 4), còn gọi là mùa gió Chướng và gió mùa Tây Nam (từ tháng 5 đến

tháng 10) còn gọi là mùa gió Tây Nam. Tháng 5 và tháng 10 là hai tháng chuyển tiếp của hai

mùa gió. Tốc độ gió bình quân hàng năm từ 1,5-2,0 m/s; ngoài khơi là 2,5-3,5 m/s. Mùa gió

Chướng bắt đầu vào tháng 9-10 hàng năm, kéo dài đến tháng 4 năm sau. Mùa gió Chướng làm

cho thủy triều xâm nhập sâu vào nội địa. Bão ít xuất hiện, nhưng thường có giông với tần suất từ

50 đến 90 ngày trong năm. Giông thường xảy ra vào mùa mưa (từ tháng 5 đến tháng 10).

3.3. Đặc điểm thủy - hải văn

Khu vực Mũi Cà Mau có chế độ thủy triều khá đặc biệt so với các vùng khác của đồng bằng sông

Cửu Long (ĐBSCL), do tiếp giáp với 2 vùng biển có chế độ thủy triều khác nhau. Bờ phía Đông

có chế độ bán nhật triều không đều, biên độ thủy triều có trị số lớn (3 m ở Gành Hào); bờ phía

Tây (Vịnh Thái Lan) có chế độ nhật triều với biên độ triều 1-1,5 m. Thủy triều ở phía Đông đẩy

nước triều vào sâu nội địa, còn thủy triều ở phía Tây có xu thế hút nước triều ra phía biển.

Thông thường, mực thủy triều phía biển Đông luôn luôn cao hơn ở phía Tây, nên các rạch tự

nhiên thường có xu thế chảy từ phía Nam (Biển Đông) lên phía Bắc (sông Cửa Lớn), đồng thời

sông Cửa Lớn dốc dần từ Đông sang Tây, tạo nên dòng chảy từ sông Bồ Đề (phía Biển Đông)

sang phía Tây (Vịnh Thái Lan).

Chế độ thủy triều đóng vai trò quan trọng, quyết định dòng chảy của kênh rạch và sự vận chuyển

phù sa ở trong vùng. Quá trình bồi lắng phù sa tạo ra một lượng lớn các vật liệu được chuyển tải

từ Biển Đông sang Vịnh Thái Lan theo sông Cửa Lớn bồi lắng tại vùng cửa sông Ông Trang với

lượng phù sa trung bình khoảng 70-80 mg/l trong mùa khô và 30 mg/l trong mùa mưa. Theo ước

tính, hàng năm, sông Cửa Lớn mang lượng phù sa là 1,03 triệu tấn từ phía Biển Đông sang phía

Vịnh Thái Lan.

Do ảnh hưởng của thủy triều, toàn bộ diện tích ngập mặn Đất Mũi bị ngập nước tùy thuộc vào

chế độ bán nhật triều (triều lên xuống 2 lần trong ngày), biên độ triều là khoảng 0,5 m lúc triều

thấp và 1 m khi triều cường. Nồng độ muối khoảng 25 ppt giảm xuống còn 18-20 ppt sau khi

mưa lớn. Sự lắng đọng bùn trên diện tích Đất Mũi rất nhanh, vùng phía Tây Bắc có tốc độ bồi

lắng hàng năm có khi tới 100 m, nhưng bờ biển phía Nam lại chịu xói mòn, lở hàng năm khoảng

30-50 m.

Page 6: TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRƯỚC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10163/1/Hoàng Văn Thắng... · Các hệ sinh thái cửa sông, ...

30

Mạng lưới kênh rạch chằng chịt thuận lợi cho việc giao thông đường thủy. Tuy nhiên, chế độ

dòng chảy của các kênh rạch trong khu vực này rất phức tạp do chịu ảnh hưởng của các chế độ

thủy triều. Điều kiện tự nhiên và chế độ thủy văn trong khu vực có tác động tích cực đến môi

trường đất, môi trường sinh thái của vùng và các hoạt động kinh tế xã hội trong khu vực.

Tính chất dao động của mực nước khu vực ven biển phía bờ Đông hoàn toàn khác ven biển phía

bờ Tây của Mũi Cà Mau. Ở khu vực bãi bồi phía Tây của Mũi Cà Mau, dao động của mực nước

mang tính nhật triều không đều, với độ lớn của biên độ thủy triều là 01 mét. Còn phía biển Đông

có chế độ bán nhật triều không đều với biên động thủy triều từ 2 đến 2,5 mét.

Trong mùa mưa, tại khu vực phía bờ Tây, dòng chảy có hướng Tây Tây Nam, dòng chảy hướng

vào bờ với vận tốc dòng chảy tầng mặt biến đổi từ 10 cm/s đến 30 cm/s. Bờ phía Đông dòng

chảy có hướng Đông Đông Bắc và có xu hướng chuyển dịch xa bờ, tốc độ dòng chảy khoảng 20-

50 cm/s.

Trong mùa khô, ở phía bờ Tây dòng chảy gần như song song với đường bờ, ở khu vực Bãi Bồi

hình thành xoáy nghịch, tạo ra sự lắng đọng phù sa khá lớn trong mùa khô, là điều kiện hình

thành nên bãi bồi. Trong thời kỳ này, bờ biển phía Đông, dòng chảy đổi hướng Tây và Tây Bắc,

tốc độ dòng chảy khoảng 22-60 cm/s.

Quá trình hoạt động của các dòng chảy tạo ra nguồn cung cấp các loài động, thực vật nổi dồi dào

cho môi trường rừng ngập mặn đồng thời cũng làm cho quá trình lắng đọng phù sa diễn ra nhanh

chóng làm cho Mũi Cà Mau không ngừng vươn ra phía Vịnh Thái Lan với tốc độ hàng năm từ

50 đến 80 mét.

Địa hình: Mũi Cà Mau có địa hình thấp và trũng. Độ cao trung bình so với mực nước biển nhìn

chung thấp hơn so với các vùng khác ở đồng bằng Sông Cửu Long (SIWRP, 2008):

+ Cao nhất trung bình: (+) 1,30 m ÷ (+) 1,60 m.

+ Độ cao trung bình: (+) 0,75 m ÷ (+) 1,30 m.

+ Thấp nhất trung bình: (+) 0,50 m ÷ (+) 0,75 m.

Do nằm ở độ cao thấp/địa hình thấp nên khu vực này thường bị ngập trong mùa mưa. Khu vực

Cà Mau có một hệ thống sông rạch dày đặc, vì vậy mặc dù hệ thống đường bộ đã được xây

dựng, giao thông thủy vẫn là phương tiện chủ yếu tại đây.

3.4. Đa dạng sinh học

3.4.1. Sinh cảnh/nơi sống

Khu vực Mũi Cà Mau có thể được chia làm hai vùng sinh thái khác nhau: trên đất liền – được

bao phủ bởi rừng ngập mặn (trồng hoặc tự nhiên) và các bãi bồi (biển).

Các dạng sinh cảnh và sử dụng đất điển hình là:

+ Rừng ngập mặn (RNM): HST/hệ thống RNM là kiểu sinh thái/nơi sống, quan trọng nhất vì

chúng bảo vệ các nơi sống khác cũng như bảo vệ cộng đồng ven biển và hỗ trợ đa dạng sinh học.

Tuy nhiên, cũng cần phải ghi nhớ một điều là hệ thống RNM ở đây đang ở trong trạng thái bị suy

thoái nghiêm trọng do phần lớn RNM ở đây đã bị hủy hoại trong chiến tranh trước đây cũng như

Page 7: TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRƯỚC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10163/1/Hoàng Văn Thắng... · Các hệ sinh thái cửa sông, ...

31

bị tàn phá do việc phát triển và mở rộng diện tích nuôi trồng thủy sản, nhất là làm đầm tôm từ

những năm đầu 2000 (ICEM, 2011b).

+ Bãi bùn và bãi cát pha: Xuất hiện ở ven biển và các vùng cửa sông. Các bãi ngập triều này là

nơi sống và kiếm ăn quan trọng của các loài chim nước và chim bờ biển cũng như nơi dừng chân

quan trọng của các loài chim di cư.

+ Cửa sông hình phễu và cửa sông.

+ Đầm nuôi trồng thủy sản: Nhiều đầm nuôi đã bị bỏ hoang và bắt đầu có các cây ngập mặn

mọc lên (ICEM, 2011b).

+ Kênh, rạch: Hệ thống kênh, rạch là một đặc điểm đặc thù của ĐBSCL, có vai trò quan trọng

trong giao thông thủy.

+ Khu dân cư và đê bao: Chính phủ đã cho đắp một con đê dài 97 km nối liền Đông Tây của

Mũi Cà Mau với mục đích chính là ngăn chặn sự xâm mặn vào nội đồng (ICEM, 2011b).

3.4.2. Đa dạng loài

Khu vực Mũi Cà Mau là nơi sống của nhiều loài động, thực vật. Cho đến nay, tại VQG Mũi Cà

Mau đã xác định được 27 loài Rong biển, 60 Thực vật có mạch, 69 Động vật không xương sống,

139 loài Cá, 9 Ếch nhái, 43 Bò sát, 93 loài Chim và 26 loài Thú (VQG Mũi Cà Mau, 2010),

trong đó, có nhiều loài trong Danh lục IB.

(a) Thực vật:

Trong số 60 loài Thực vật có mạch, thì 26 loài là cây ngập mặn với 2 loài nằm trong Sách Đỏ

Việt Nam. Các loài cây ngập mặn chiếm ưu thế chủ yếu là Mắm (Avicennia alba, Avicennia

officinalis, Avicennia marina), Đước (Rhizophora apiculata), Trang (Kandelia candel),

Bruguiera spp. và Bần (Sonneratia spp.). Phần lớn cây ngập mặn là rừng tự nhiên, một số là

rừng trồng. Bên cạnh các cây RNM, thảm cỏ và cỏ biển cũng đóng một vai trò quan trọng trong

việc hình thành thảm thực vật ở đây, bao gồm Phragmites spp., Panicum spp., Eleusine indica và

Chlorus barbata, cùng nhiều loài khác.

(b) Động vật:

Hiện đã xác định được 379 loài động vật tại khu vực Mũi Cà Mau. Trong đó, Polychaeta (18

loài), Gastropoda (11 loài), Bivalvia (8 loài), Cephalopoda (1 loài), Palaeostraca (1 loài),

Crustacea (30 loài), Pisces (139 loài), Amphibia (9 loài), Reptilia (43 loài), Aves (93 loài),

Mammalia (26 loài) (VQG Mũi Cà Mau, 2010).

Trong đó, có nhiều loài nguy cấp, quý hiếm như Mèo cá (Prionailurus viverrinus) và Sunda

pangolin (Manus javanica), Bò biển (Dugong) (Dugong dugon). Nhiều loài lưỡng cư, bò sát bị

đe dọa toàn cầu như Rùa răng (Heosemys annandalii), Rùa ba gờ (Malayemys subtrijuga) và

(Amyda cartilaginea). Trong số này có 13 loài nằm trong danh lục CITES (Hoang Van Thang và

nnk., 2012).

Mũi Cà Mau là nơi sống của một số loài có tầm quan trọng quốc tế có số lượng tương đối lớn

chiếm trên 1% tổn số cá thể trên thế giới như Cò trắng Trung Quốc (Egretta eulophotes) và

Choắt mỏ cong lớn (Numenius madagascariensis). Bên cạnh đó còn có một số loài quan trọng

Page 8: TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRƯỚC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10163/1/Hoàng Văn Thắng... · Các hệ sinh thái cửa sông, ...

32

khác bao gồm Bồ nông chân xám (Pelecanus philippensis), Cổ rắn (Anhinga melanogaster),

Giang sen (Mycteria leucocephala), Quắm trắng (Threskiornis melanocephalus), and Asian

dowitcher (Limnodromus semipalmatus).

Bên cạnh các loài quý hiếm có giá trị bảo tồn cao, khu vực Mũi Cà Mau còn có nhiều loài thủy

sản có giá trị kinh tế, trong đó có nhiều loài cá, nhuyễn thể, tôm... như: Himantura gerrardi,

Hippocampus kuda, Himantura imbricata, Zebrias crossolepis, Plotosus canius, Lates

calcarifer, Atrobucca nibe, Liza macrolepis, Eleutheronema tetradactylum, và Trichiurus

lepturus (VQG Mũi Cà Mau, 2010). Các bãi ngập triều là nơi sinh sản và ương vô cùng quan

trọng cho nhiểu loài thủy sinh.

3.4.3. Dịch vụ hệ sinh thái

Mũi Cà Mau cung cấp các dịch vụ HST rất quan trọng, trong đó phải kể đến việc cung cấp lương

thực, thực phẩm cho cộng đồng sống trong khu vực, cũng như giảm nhẹ các thảm họa thiên

nhiên. Các HST khác nhau cung cấp các dịch vụ khác nhau, phụ thuộc vào kiểu hình, diện tích

và vị trí của chúng. Các dịch vụ cung cấp bao gồm các giá trị (sử dụng trực tiếp) như cung cấp

thủy sản... và giá trị gián tiếp (như hạn chế lũ lụt, ngăn chặn gió bão và sóng biển). Bên cạnh các

dịch vụ cung cấp là các dịch vụ điều tiết, hỗ trợ và văn hóa.

Các dịch vụ HST của Mũi Cà Mau được chia theo các nhóm như sau:

+ Dịch vụ cung cấp (Provisioning Services): Tài nguyên thiên nhiên Mũi Cà Mau cung cấp thực

phẩm (cá, tôm, cua, ngao, hàu...), nguyên vật liệu xây dựng (gỗ, cọc, lá lợp nhà từ các cây RNM

và dừa nước) và củi, than cho một số lượng không nhỏ các hộ gia đình sống trong khu vực.

+ Dịch vụ điều tiết (Regulating services): Bên cạnh việc thu giữ cacbon, VQG có một vai trò rất

quan trọng trong việc điều chỉnh dòng chảy, bảo vệ bờ biển và đê biển trước ảnh hưởng của xói

lở. RNM làm giảm đáng kể sóng biển cũng như giảm nhẹ thiên tai.

+ Dịch vụ hỗ trợ (Supporting services): Khu vực Mũi Cà Mau là nơi sống quan trọng của rất

nhiều loài sinh vật có tầm quan trọng về bảo tồn cũng như có giá trị kinh tế cao. Trong đó, phải

kể đến Cò trắng Trung Quốc, Rẽ mỏ cong lớn, Rái cá... Khu vực này cũng là nơi sinh sản và nơi

ương của rất nhiều loài hai mảnh vỏ, tôm... và đóng một vai trò rất quan trọng trong việc lưu giữ

các chất hữu cơ và các chất rắn lơ lửng (phù sa), hình thành châu thổ và bãi bồi.

+ Dịch vụ văn hóa, tinh thần và lịch sử (Cultural, Spiritual and Historical Services): Các hoạt

động văn hóa tại khu vực bao gồm các lễ hội đua ghe và thờ cá ông (cá voi). Đây cũng là địa

điểm du lịch với các cảnh quan đẹp của các cánh RNM. Là cột mốc “Số 0” cực Nam trên đất liền

của Việt Nam, cùng với bề dày lịch sử qua các cuộc kháng chiến cứu nước và bến tàu “Không

số”, hàng ngàn du khách đã đến tham quan Mũi Cà Mau. Các trường đại học cũng như các

trường học phổ thông cũng tiến hành các hoạt động nghiên cứu và dã ngoại tại đây.

Page 9: TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRƯỚC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10163/1/Hoàng Văn Thắng... · Các hệ sinh thái cửa sông, ...

33

4. TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG CỦA HỆ SINH THÁI MŨI CÀ MAU

4.1. Dự báo biến đổi khí hậu

4.1.1. Nhiệt độ

Các nghiên cứu của ICEM (2011b) cho thấy nhiệt độ cao nhất và nhiệt độ trung bình khu vực

Mũi Cà Mau sẽ tăng lên. Nhiệt độ trung bình sẽ tăng lên khoảng 2°C trong năm và có thể tăng

lên đến 2,5°C vào tháng 12. Tương tự như vậy, nhiệt độ cao nhất sẽ tăng lên khoảng 1,9°C (Hình

4.1 và 4.2).

Nguồn: ICEM, 2011b.

Hình 4.1. Nhiệt độ trung bình khu vực Mũi Cà Mau (1980-2005) và dự báo (2045-2069)

Nguồn: ICEM, 2011b.

Hình 4.2. Nhiệt độ cao nhất khu vực Mũi Cà Mau (1980-2005) và dự báo (2045-2069)

Page 10: TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRƯỚC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10163/1/Hoàng Văn Thắng... · Các hệ sinh thái cửa sông, ...

34

4.1.2. Lượng mưa

Nghiên cứu của SEA START dự báo lượng mưa trung bình trong khu vực sẽ giảm khoảng 80-

119 mm/năm (theo kịch bản A2 của IPCC) hoặc 40-79 mm (B2), trong giai đoạn 2010-2050

(ICEM, 2011b) (Hình 4.3), theo đó:

+ Lượng mưa tháng sẽ tăng trong các tháng từ tháng 6 đến tháng 11;

+ Lượng mưa tháng sẽ giảm trong các tháng 12 đến 5;

+ Lượng mưa tháng tăng cao nhất vào tháng 10 (khoảng 35 mm hay 13%);

+ Lượng mưa tháng giảm cao nhất vào tháng 4 (11 mm hay 14%).

Nguồn: ICEM, 2011b.

Hình 4.3. Lượng mưa tháng 1980-2004) và dự báo (2045-2069)

4.1.3. Mực nước biển dâng

Trong khoảng 100 năm trở lại đây, mực nước biển đã tăng lên khoảng 3 lần (Rahmstorf, 2007).

Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy, mực nước biển dâng lên khoảng 1,9-3,4 mm/năm trong

thế kỷ XX (Cazenave và Llovel, 2010; IPCC – Working Group I, 2007a). Ở Việt Nam, trạm

quan trắc Vũng Tàu đã đo được mực nước biển tăng trong khoảng 1979-2006 khoảng 1.300 mm,

hay 4,2 mm/năm.

Mực nước biển dâng đã gây ra những thay đổi đáng kể ở ĐBSCL và bán đảo Cà Mau.

Nghiên cứu của Hoang Van Thang và nnk. (2012) cho thấy, do địa hình trũng, thấp, khu vực bán

đảo Cà Mau rất dễ bị tổn thương do mực nước biển dâng.

Nếu không có hệ thống đê biển cũng như các biện pháp công trình khác, khi thủy triều lên đỉnh

có thể làm ngập 95% bán đảo Cà Mau. IPCC – Working Group I (2007b) dự báo, mực nước biển

dâng trong khoảng 26-59 cm sẽ làm ngập 27-65% bán đảo này. Trong khi đó Bộ Tài nguyên và

Môi trường (MoNRE, 2009) dự báo, nước biển dâng trong khoảng 65-100 cm sẽ làm ngập 69-

89% khu vực, với đỉnh triều từ 80-175 cm, sẽ làm 95-100% khu vực ngập trong 70 cm nước.

Page 11: TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRƯỚC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10163/1/Hoàng Văn Thắng... · Các hệ sinh thái cửa sông, ...

35

4.1.4. Các hiện tượng thời tiết cực đoan

Trong khoảng mươi năm trở lại đây, người dân địa phương đã cảm nhận được những thay đổi về

thời tiết. Họ nhận thấy thời tiết trở nên nóng hơn, mưa trái mùa thường xuyên hơn, đôi khi mưa

rất to trong mùa khô.

Có nhiều lốc, bão hơn, đặc biệt là trên khu vực biển. Các hiện tượng thời tiết này đã gây ra

những tổn thất nghiêm trọng cho nuôi trồng thủy sản và HST RNM. Chẳng hạn như cơn bão số 5

(tháng 11/1997), gió giật trên cấp 12 đã phá hủy một diện tích rất lớn RNM. Những thiệt hại của

người dân trong vùng sẽ rất cao nếu như không có sự che chắn, bảo vệ của các cánh RNM ở đây

(Hoang Van Thang và nnk., 2011).

4.2. Tính dễ tổn thương của hệ sinh thái Mũi Cà Mau

Tính dễ tổn thương (Vulnerability) của HST Mũi Cà Mau nói chung, VQG Mũi Cà Mau nói

riêng sẽ được đánh giá dựa trên mức độ dễ bị tác động hay phơi lộ (Exposure) và mức độ nhạy

cảm (Sensitivity) trước BĐKH, cũng như những tác động (Impact) tiềm tàng đối với các thành tố

của HST và khả năng thích ứng (Adaptation) để ứng phó với những tác động này (MRC, 2010;

IPCC – Working Group I, 2007a):

+ Khả năng dễ bị tác động/phơi lộ bao gồm những thay đổi về lượng mưa, nhiệt độ, nước biển

dâng và các hiện tượng thời tiết cực đoan có thể trải qua (trải nghiệm) và dễ bị tác động.

+ Tính nhạy cảm xác định mức độ mà các thành tố của HST sẽ bị tác động/ảnh hưởng do các

thay đổi của các yếu tố khí hậu. Các hợp phần của HST cửa sông ven biển được xem là những

HST nhạy cảm cao nếu chúng phụ thuộc cao vào các yếu tố khí hậu và sẽ được xem là thấp nếu

các thành tố này không phụ thuộc vào các yếu tố khí hậu (chẳng hạn như chỉ có những hiện

tượng thời tiết cực đoan mới có thể gây ảnh hưởng đến chúng).

+ Khả năng thích ứng/tự điều chỉnh là mức độ/quy mô các sinh cảnh/nơi sống và các loài của

HST có khả năng điều chỉnh thích ứng với lượng mưa, nhiệt độ và chế độ thủy văn. Nếu HST có

thể thích ứng một cách dễ dàng trước những thay đổi (của BĐKH), thì được coi là có khả năng

thích ứng cao, nếu HST không thể tự điều chỉnh/thích ứng một cách dễ dàng, thì được coi là có

khả năng thích ứng thấp.

+ Tác động tiềm tàng là những thay đổi có thể xảy ra trong các thành tố (của HST), chẳng hạn

như việc tăng lên hoặc giảm đi độ che phủ (của thảm thực vật) hoặc tăng/giảm của chủng quần.

+ Tính dễ tổn thương của một thành tố của HST ĐNN được đánh giá trên cơ sở tổng hợp/kết

hợp của ba khía cạnh được mô tả ở trên. Nếu mức độ nhạy cảm cao, khả năng thích ứng thấp, thì

sự/tính dễ tổn thương sẽ cao. Ngược lại, tính dễ tổn thương sẽ được cho là thấp, nếu khả năng

thích ứng cao. Và như vậy, tính dễ tổn thương sẽ được xếp vào loại thấp nếu tính dễ tổn thương

là trung bình và khả năng thích ứng là trung bình hoặc cao.

Nghiên cứu của Hoàng Văn Thắng và nnk (2012), cho thấy, HST cửa sông, ven biển Mũi Cà

Mau là tương đối nhạy cảm trước những thay đổi của các yếu tố khí hậu dưới đây:

+ Tăng nhiệt độ: với nhiệt độ trung bình năm tăng 2°C vào năm 2050, nhiệt độ cao nhất tăng

2,5°C vào tháng 12.

Page 12: TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRƯỚC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10163/1/Hoàng Văn Thắng... · Các hệ sinh thái cửa sông, ...

36

+ Lượng mưa thay đổi và mưa nghịch mùa/trái mùa: giảm lượng mưa trong mùa khô, tăng

lượng mưa trong mùa mưa vào năm 2050; giảm lượng mưa nhiều nhất vào tháng tư (14%) và

tăng cao nhất vào tháng 10 (13%).

+ Mực nước biển dâng: vào năm 2100, trong cả ba dự báo (59 cm, 100 cm, 175 cm) sẽ làm ngập

một vùng rộng lớn phía Đông-Bắc của bán đảo, nếu nước biển tăng lên trong khoảng 100-175

cm, thì cũng sẽ làm ngập phần lớn đất liền ở phía bờ Đông Nam.

4.2.1. Tính dễ bị tổn thương của nơi sống

Nơi sống chính của khu vực có thể chia làm hai loại hình chính là khu vực trên đất liền (cây ngập

mặn là chủ đạo) và các bãi bồi ven biển và cửa sông.

Các nghiên cứu trên thế giới cho thấy, trong các yếu tố biến đổi của khí hậu, mực nước biển

dâng là mối đe dọa lớn nhất (Field, 1995; Lovelock and Ellison, 2007). Thêm vào đó, các yếu tố

này không tác động riêng rẽ một mình, do đó, chúng sẽ gây ra những ảnh hưởng lớn hơn nhiều

khi cùng một lúc tác động lên các HST.

(a) Khả năng dễ bị tác động:

Trong cả 3 trường hợp dự báo về mực nước biển dâng (59 cm, 100 cm and 175 cm) như đã mô tả

ở trên, một khu vực rộng lớn của bán đảo Cà Mau sẽ bị ngập nước, bao gồm cả các khu RNM và

các bãi bồi. Do đó, sẽ có những tác động không nhỏ lên các HST ở đây.

Nhiệt độ tăng sẽ dẫn đến việc tăng bốc thoát hơi nước (dự báo là 10%/năm và tối đa có thể tới

13%/ngày). Hơn thế nữa, việc giảm lượng mưa vào mùa khô sẽ làm cho vấn đề này trầm trọng

hơn.

Giảm lượng mưa mùa khô và tăng lượng mưa mùa mưa sẽ dẫn đến sự xáo trộn về lượng mưa

(không đều) và thậm chí lượng mưa vào mùa khô còn thấp hơn.

Việc tăng dòng chảy (nước đổ về) của sông Cửu Long cũng sẽ dẫn đến việc kéo dài thời gian bị

ngập lụt cũng như mức độ ngập sâu, và có thể dẫn đến việc ngập lụt sẽ thường xuyên hơn.

(b) Tác động:

Những tác động tiềm tàng có thể xảy ra với các HST khu vực, đặc biệt là các nơi sống chủ yếu,

nhất là đối với mực nước biển dâng:

+ Khi nước biển dâng, cây ngập mặn/RNM sẽ có xu thế phát triển vào trong đất liền. Việc tăng

dòng chảy sẽ là một tác nhân nữa tác động lên khu vực, nhưng chỉ xảy ra vào mùa mưa, do vậy

mà tác động của dòng chảy sẽ chỉ là tạm thời. Nếu (trong đất liền) không có đủ diện tích và điều

kiện để các cây ngập mặn “di cư” thì nơi sống này sẽ bị suy giảm một cách nghiêm trọng hoặc sẽ

bị mất đi.

+ Nước biển dâng cũng có thể làm cho một số bãi bồi bị biến mất, đặc biệt, nếu “quá trình lấn

biển” hình thành nên các bãi bồi mới không tiếp tục được hình thành. Do đó, sẽ có những tác

động tiêu cực lên các loài sống trong các nơi sống này.

+ Lượng mưa thấp/mưa ít trong mùa khô cũng dẫn đến bốc hơi nước tăng lên. Vì vậy, dẫn đến

việc thiếu nước ngọt/thiếu nước vào mùa khô làm tăng độ mặn sẽ tác động tiêu cực lên RNM.

Page 13: TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRƯỚC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10163/1/Hoàng Văn Thắng... · Các hệ sinh thái cửa sông, ...

37

+ Mùa lụt kéo dài sẽ tác động tiêu cực lên việc kiếm ăn của các loài chim nước (do nước quá

sâu). Tuy nhiên, việc tăng dòng chảy của các sông, rạch cũng mang đến nhiều phù sa và chất

dinh dưỡng đến khu vực này làm thức ăn cho cá, làm tăng sản lượng.

+ Dòng chảy thấp vào mùa khô có thể làm giảm lượng phù sa được tải đến các bãi bùn.

(c) Tính dễ bị tổn thương:

Cả hai dạng nơi sống trên đều được coi là dễ bị tổn thương cao trước BĐKH, phần lớn là do bị

ngập nước biển và khả năng thiếu nơi để hình thành các nơi sống mới/định cư. RNM cũng rất

mẫn cảm/nhạy cảm với sự thay đổi của các yếu tố khí hậu.

Bên cạnh các yếu tố thời tiết/khí hậu, khu vực Mũi Cà Mau còn chịu tác động của các yếu tố

khác như quai đê, làm đường, tăng dân số, ô nhiễm, các dự án phát triển trên lưu vực, xâm nhập

của các loài ngoại lai...

4.2.2. Tính dễ bị tổn thương của đa dạng sinh học

+ Mực nước biển dâng (theo 3 kịch bản đã mô tả) sẽ làm ngập một diện tích lớn của đất liền

trong khu vực bán đảo, xâm nhập mặn sẽ vào sâu hơn. Nước ngập cao sẽ tác động lên một diện

tích lớn RNM, các bãi bồi ven biển và ven sông.

+ Nhiệt độ tăng sẽ dẫn đến tăng bốc/bốc thoát hơi nước với dự báo vào khoảng 10% hàng năm

và cao nhất lên tới 13%/ngày.

+ Giảm lượng mưa mùa khô và tăng lượng mưa mùa mưa sẽ làm thay đổi phân bố lượng mưa

trong các mùa và xa hơn nữa có thể làm tăng lượng bốc hơi vào mùa khô.

+ Tăng dòng chảy của sông Mê Kông sẽ dẫn đến mức ngập sâu hơn, thời gian ngập lụt kéo dài

hơn và thậm chí thảm họa ngập lụt sẽ xảy ra thường xuyên và nghiêm trọng hơn.

(a) Khả năng dễ bị tác động:

Đa dạng sinh học của VQG Mũi Cà Mau và khu vực sẽ đứng trước những thách thức lớn do

BĐKH, bao gồm cả mực nước biển dâng, thay đổi nhiệt độ và thay đổi lượng mưa và phân bố

lượng mưa. Bên cạnh đó, quá trình đô thị hóa cũng như phát triển cơ sở hạ tầng (đắp đê bao, làm

đường), cùng các hoạt động phát triển khác thuộc lưu vực và các sông, rạch chảy vào khu vực

cũng tác động đến đa dạng sinh học. Sự thay đổi về mực nước biển sẽ dẫn đến việc suy giảm tính

đa dạng của các quần xã RNM cả về diện tích cũng như chất lượng, nếu không có chỗ cho các

cây ngập mặn “di cư” hoặc không có phù sa bồi lắng. Hệ quả là RNM và các loài sống trong

RNM sẽ bị đe dọa. Thay đổi về nhiệt độ (tăng lên) sẽ cũng dẫn đến việc “di cư” của các cây ngập

mặn cũng như các loài thủy sinh khác.

(b) Tác động:

Hòang Văn Thắng và nnk. (2012) đã xác định những tác động của BĐKH lên HST RNM, chim

nước và các loài không xương sống ở nước như sau:

+ Đối với RNM:

Nước biển dâng, cùng với khả năng tăng cường độ của bão lốc, thay đổi thành phần của

phù sa, độ mặn và mực nước, sẽ gây ra những thách thức rất lớn đối với sự tồn tại/sự sống của

Page 14: TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRƯỚC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10163/1/Hoàng Văn Thắng... · Các hệ sinh thái cửa sông, ...

38

cây ngập mặn cùng với các loài sống trong HST này. Sự thay đổi có thể dẫn đến sự mất đi của

nhiều loài và làm thay đổi một cách mạnh mẽ HST RNM nếu chúng không còn chỗ để “di trú”;

Nếu có sự thuyên giảm về dòng chảy của các dòng sông và kênh rạch (xảy ra ở địa phương

vào mùa khô), sẽ dẫn đến sự suy giảm về phát triển và phân bố của cây Bần Sonneratia spp.;

Loài cây ngập mặn ưa độ muối thấp và không chịu được độ muối cao;

HST RNM cũng có thể có những ứng phó đối với các yếu tố thời tiết khác. Chẳng hạn,

nồng độ CO2 tăng trong khi nhiệt độ cao hơn, dẫn đến việc sản xuất sinh khối tăng lên. RNM rất

nhạy cảm với nóng lên toàn cầu, bởi chúng phụ thuộc rất lớn vào nhiệt độ mà tự nhiên đã “đặt”

rất nhiều loài nhiệt đới ở nhiệt độ tối ưu của chúng. Vì phần lớn các loài cây ngập mặn sẽ mọc dễ

ở mật độ tối đa khi nhiệt độ trung bình vào khoảng 25oC và khi nhiệt độ lên đến trên 35oC, cấu

trúc của rễ cây ngập mặn và sự phát triển của cây con sẽ bị ảnh hưởng (UNESCO, 1992, trong

McLeod and Salm, 2006). Ở nhiệt độ bề mặt lá từ 38-40oC, hầu như không có quá trình quang

hợp xảy ra (Clough và nnk., 1982; Andrews và nnk., 1984, trong McLeod and Salm, 2006).

Nếu như mực nước biển dâng cao, các loài cây ngập mặn có thể sẽ không thích ứng được

và sẽ bị chết trong điều kiện nước ngập cao thường xuyên, cũng như độ mặn cao, đặc biệt là các

loài thuộc Avicennia, Sonneratia và thậm chí cả các loài thuộc Rhizophora và nhiều loài khác.

Hệ quả là tính đa dạng về loài của khu vực sẽ bị ảnh hưởng (đặc biệt là trong điều kiện “di cư”

vào đất liền của các cây RNM bị chặn lại bởi đê bao và đường giao thông).

Hình 4.4 cho thấy các khả năng mà RNM phản ứng lại với BĐKH:

(a) Nếu tốc độ/mức độ nước biển dâng bằng hoặc thấp hơn tốc độ bồi lắng của phù sa thì

RNM có thể duy trì vị trí của chúng. Vì rằng RNM có thể giữ lại phù sa để nâng độ cao

của bãi để chống lại mực nước biển dâng.

(b) Nếu nước biển dâng nhanh hơn quá trình hình thành châu thổ (nâng độ cao bãi bồi) thì các

cây ngập mặn sẽ tìm cách “di cư” vào đất liền.

(c) Nếu như có các đê bao, đường lộ ngăn cản sự di cư thì các cây RNM sẽ chết do bị ngập

nước cao và thường xuyên.

+ Đối với các loài chim nước:

Sự thay đổi của những nơi sống thuộc HST RNM, bãi bồi và cửa sông sẽ có những tác

động tiêu cực lên các loài chim nước và chim bờ biển và như vậy sẽ dẫn đến việc suy giảm về số

lượng và tính đa dạng.

Mực nước biển dâng và ngập lụt sẽ tác động lên các bãi kiếm ăn của chim. Chẳng hạn như,

nước sâu sẽ làm cho chim khó hoặc không kiếm ăn được, sẽ làm giảm năng suất và khả năng

sinh tồn của nhiều loài đã quen sống với điều kiện ngập và khô của các bãi triều và bờ biển.

Nhiệt độ tăng sẽ có khả năng làm giảm năng suất của nhiều nguồn thức ăn như các loài

không xương ở nước, trong khi dòng chảy tăng vào mùa mưa sẽ có khả năng làm tăng nguồn

dinh dưỡng cho HST và như vậy, sẽ có những tác động tích cực đối với các loài thủy sản và gián

tiếp có lợi cho chim nước.

Page 15: TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRƯỚC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10163/1/Hoàng Văn Thắng... · Các hệ sinh thái cửa sông, ...

39

Thay đổi lượng mưa có thể làm thay đổi sự di cư của chim nước. IPCC (2011) dự báo

lượng mưa trung bình toàn cầu sẽ tăng, tuy nhiên có sự khác nhau ở từng vùng. Sự thay đổi về

lượng mưa có thể sẽ dẫn đến sự gia tăng di cư của các loài, vì nhiều loài rất nhạy cảm với những

thay đổi nhanh.

Nguồn: Hashimoto, 2001 (trong SIWRP, 2008).

Hình 4.4. Các khả năng rừng ngập mặn ứng phó với mực nước biển dâng

+ Đối với các loài không xương sống ở nước:

Tăng nhiệt độ nước và thay đổi các tầng nước sẽ gây ra những tác động tiêu cực lên nhiều

loài không xương sống ở nước.

Nước biển dâng sẽ gây ngập lụt các bãi đẻ và ương của nhiều loài tôm, dẫn đến giảm năng

suất, trong khi xâm nhập mặn sâu vào đất liền có khả năng thu hẹp các sinh cảnh/nơi sống phù

hợp của nhiều loài. Các loài thực vật nổi, mắt xích đầu tiên và là thức ăn của động vật nổi có thể

sẽ suy giảm do sự gia tăng độ muối cũng như nhiệt độ, và do đó, sẽ giảm nguồn thức ăn của

nhiều loài động vật trong HST (IPCC - Working Group I, 2007a; FAO, 2008).

Giảm dòng chảy của sông, rạch (vào mùa khô) có thể cũng dẫn đến việc làm giảm sản

lượng tôm sống ở các thủy vực nước lợ.

+ Tính dễ bị tổn thương: RNM được cho là sẽ bị tổn thương cao trước BĐKH ở khu vực Mũi

Cà Mau do sự nhạy cảm của chúng cũng như khả năng bị ngập thường xuyên của khu vực.

Tương tự như vậy, các loài động vật không xương sống ở nước cũng được cho là dễ bị tổn

thương ở mức độ cao vì chúng sẽ bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ tăng và sẽ phải kinh qua sự thay đổi

của nơi sống. Các loài chim nước sẽ chịu những tổn thương ở mức trung bình. Chim nước cũng

sẽ phải đương đầu với việc suy giảm về nơi sống cũng như nguồn thức ăn cung cấp cho chúng,

nhưng chúng có khả năng di chuyển để tìm kiếm nơi sống mới dễ hơn các loài khác.

Page 16: TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRƯỚC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10163/1/Hoàng Văn Thắng... · Các hệ sinh thái cửa sông, ...

40

4.3. Những thay đổi của dịch vụ hệ sinh thái

Các dịch vụ HST của khu vực Mũi Cà Mau được trình bày trong Bảng 4.1 dưới đây. Theo đó, có

thể thấy xu thế biến đổi khí hậu sẽ gây những ảnh hưởng đến HST và các dịch vụ của chúng ở

đây sẽ là mực nước biển dâng và ngập lũ vào mùa mưa.

Bảng 4.1. Ước tính thay đổi của các dịch vụ hệ sinh thái do biến đổi khí hậu đến năm 2050

Dịch vụ

HST

Dịch vụ

cung cấp

Dịch vụ

điều tiết

Dịch vụ

hỗ trợ Du lịch

Văn hóa và

lịch sử

Đe dọa của

BĐKH

Nhiệt độ

tăng

Tác động tiềm

tàng lên các loài

thủy sinh và sản

lượng thủy sản

(nuôi trồng)

Thay đổi sinh

khối

Tác động tiêu

cực lên các

loài chim nước

và chim bờ

biển do những

ảnh hưởng lên

nguồn thức ăn

và trứng/chim

non

NA NA

Mức độ

thay đổi Thấp Thấp Thấp Thấp NA

Tăng lượng

mưa mùa

mưa, giảm

lượng mưa

mùa khô

NA NA Thay đổi tập

tính của loài

(chẳng hạn

như hiện

tượng di cư)

Mực nước cao

sẽ thuận lợi

hơn cho giao

thông thủy

nhưng sẽ làm

ngập nhiều

điểm. Ngược

lại, vào mùa

khô có thể có

những tác

động tiêu cực

lên du lịch

NA

Mức độ

thay đổi NA NA Thấp Thấp NA

Mực nước

biển dâng

Giảm cung cấp

cá, ngao, tôm cho

cộng đồng cũng

như cho các loài

Giảm diện tích

RNM sẽ giảm

khả năng thấp

thụ các bon,

Giảm các loài

thủy sinh,

giảm RNM và

giảm tính đa

Giảm giá trị

du lịch

Giảm giá trị

văn hóa của

khu vực do

nhiều điểm sẽ

Page 17: TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRƯỚC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10163/1/Hoàng Văn Thắng... · Các hệ sinh thái cửa sông, ...

41

hoang dã khác.

Chẳng hạn như

tác động tiêu cực

lên bãi đẻ và nơi

ương, nhiễm mặn.

Nhưng đồng thời

cũng có tác động

tích cực cho việc

tăng diện tich

nuôi trồng thủy,

hải sản

giảm khả năng

chống gió,

bão, sóng bảo

vệ bờ biển

dạng và mức

độ phong phú

của chim nước

bị ngập

Mức độ

thay đổi Cao Cao Cao Cao Cao

Tăng dòng

chảy (mùa

mưa)

Tăng nguồn dinh

dưỡng cho cá và

các loài thủy sinh

Tăng thời gian

và mức độ

ngập lụt, tăng

mức độ xói lở

bờ

Sẽ ngập nhiều

hơn các nơi

sống quan

trọng của chim

nước và các

loài khác

NA NA

Mức độ

thay đổi Thấp Thấp Trung bình NA NA

Chú thích: NA: Không có thông tin.

Nguồn: Hoang Van Thang và nnk., 2012.

4.4. Thích ứng của các hệ sinh thái trước biến đổi khí hậu

Hai nhóm thích ứng chính đã được Hòang Văn Thắng và nnk. (2012) xác định bao gồm: (i) các

biện pháp bước đầu để tăng cường tính chống chịu (Resilience) của HST trước các mối đe dọa

(chẳng hạn như trình bày/mô tả sự “thiếu hụt về khả năng thích ứng” (Daptation Deficit) gây ra

bởi những sức ép hiện tại cũng như quản lý yếu kém); và (ii) các biện pháp đặc biệt nhằm ứng

phó với BĐKH bao gồm chế độ thủy văn, nơi sống và đa dạng sinh học. Một số biện pháp thích

ứng được đề xuất như sau:

+ Các biện pháp duy trì hoặc tăng cường khả năng chống chịu tự nhiên của HST: Phục hồi các

nơi sống trọng yếu, phân vùng để bảo vệ các dịch vụ quan trọng của HST, cho phép các quá trình

diễn thế tự nhiên hoặc tự điều chỉnh xảy ra. Đặc biệt là RNM phải được tạo điều kiện cho “di cư”

vào đất liền khi mực nước biển dâng.

+ Các biện pháp công trình/công nghệ: Tăng cường các cống điều tiết nước dọc theo các con đê

bao và đường quốc lộ, các công trình/mô hình kiểm soát xói mòn và thử nghiệm mô hình nuôi

trồng các loài thủy sản có khả năng thích ứng cao với BĐKH.

Page 18: TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRƯỚC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10163/1/Hoàng Văn Thắng... · Các hệ sinh thái cửa sông, ...

42

+ Các công cụ kinh tế: Triển khai lượng giá một cách tổng thể các dịch vụ HST của khu vực, sử

dụng một số công cụ chính sách cơ chế chi trả dịch vụ HST (PES), thành lập các quỹ và cơ chế

tài chính cho cộng đồng địa phương tham gia vào các hoạt động thích ứng.

+ Cải cách thể chế chính sách và tổ chức: Tăng cường thực thi pháp luật (đặc biệt là kiểm soát

chặt chẽ việc khai thác quá mức, khai thác hủy diệt tài nguồn lợi thủy sản và tài nguyên thiên

nhiên khác), lồng ghép ứng phó với biến đổi khí hậu vào các kế hoạch quản lý, phát triển của

khu vực và vườn quốc gia. Xây dựng cơ chế tăng cường sự tham gia của các bên liên quan vào

việc lập kế hoạch và quy hoạch quản lý, phát triển, quản lý dựa trên HST...

+ Cộng đồng và sinh kế: Bao gồm cả việc tăng cường bảo tồn dựa vào cộng đồng, cải thiện sinh

kế của cộng đồng như phát triển du lịch sinh thái...

5. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

HST cửa sông, ven biển VQG Mũi Cà Mau cung cấp các dịch vụ vô cùng quan trọng cho vùng

hạ lưu ĐBSCL. RNM, các bãi bồi và cửa sông hình phễu, kênh, rạch là nơi sống của rất nhiều

loài động, thực vật, trong đó có nhiều loài quan trọng có giá trị bảo tồn và giá trị kinh tế cao như

tôm, cua, ngao, cá, chim, thú. RNM có vai trò đặc biệt trong việc bảo vệ cộng đồng và bờ biển

khỏi bị tác động của sóng, bão và hấp thụ khí nhà kính giảm nhẹ BĐKH. HST này sẽ ngày càng

có vai trò quan trọng hơn khi mà xu thế BĐKH đã có những tác động rõ rệt lên khu vực này.

Các dự báo về BĐKH cho thấy đến 2050, HST ĐNN Mũi Cà Mau sẽ chịu tác động của nhiệt độ

tăng hàng năm lên 2°C với nhiệt độ cao nhất là vào tháng 12. Hiện tượng mưa nghịch/trái mùa

cũng ngày càng rõ. Một trong những hiện tượng BĐKH rõ nhất là mực nước biển dâng (theo cả

3 kịch bản 59 cm, 100 cm, 175 cm) sẽ làm ngập một vùng rộng lớn của bán đảo Cà Mau. Các

sinh cảnh của HST Mũi Cà Mau dễ bị tổn thương của sự biến đổi các yếu tố khí hậu như nhiệt

độ, lượng mưa và nước biển dâng, cũng như các hiện tượng thời tiết cực đoan. Xu thế BĐKH

này sẽ có những tác động làm thay đổi các sinh cảnh và nơi sống của các loài và sẽ dẫn đến mất

đa dạng sinh học và giảm năng suất.

Bên cạnh các yếu tố tự nhiên, VQG Mũi Cà Mau cũng chịu những thách thức không nhỏ do các

hoạt động phát triển kinh tế - xã hội. Việc tăng dân số cũng như mở rộng quy mô nuôi trồng

thủy, hải sản, khai thác quá mức, xây dựng cơ sở hạ tầng như đắp đê, làm đường... cũng góp

phần không nhỏ vào việc làm mất đa dạng sinh học cũng như làm tăng tính dễ bị tổn thương của

HST. Việc tăng cường công tác quản lý, bảo tồn trong bối cảnh BĐKH là vô cùng cấp bách đối

với VQG Mũi Cà Mau nói riêng, bán đảo Cà Mau nói chung.

Dưới đây là một số khuyến nghị về quản lý và thích ứng nhằm tăng cường khả năng chống chịu

trước BĐKH của khu vực:

+ Phục hồi RNM và cho phép HST này diễn thế một cách tự nhiên càng sâu trong đất liền càng

tốt;

+ Khoanh vùng các khu vực trọng yếu của khu vực và VQG kết nối với các dịch vụ cung cấp;

+ Triển khai một số giải pháp công trình, chẳng hạn, đặt thêm nhiều cống điều tiết nước trên

đường lộ cũng như các bờ bao của VQG; tăng cường một số biện pháp giảm xói mòn bờ biển;

Page 19: TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRƯỚC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10163/1/Hoàng Văn Thắng... · Các hệ sinh thái cửa sông, ...

43

+ Công cụ kinh tế: Triển khai lượng giá một cách tổng thể các dịch vụ HST của khu vực, sử

dụng một số công cụ chính sách cơ chế chi trả dịch vụ HST (PES), thành lập các quỹ và cơ chế

tài chính cho cộng đồng địa phương tham gia vào các hoạt động thích ứng;

+ Tăng cường sinh kế cho cộng đồng như phát triển du lịch sinh thái;

+ Tăng cường các thể chế, chính sách liên quan, áp dụng quản lý dựa trên HST và nâng cao

nhận thức.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Andrade P.A., F.B. Herrera and R. Cazzolla (Eds.), 2010. Building Resilience to Climate

Change: Ecosystem-based Adaptation and Lessons from the Field. IUCN. Gland,

Switzerland: 164 p.

2. Cazenave A. and W. Llovel. 2010. Contemporary Sea Level Rise. Annual Review of

Marine Science, Issue 2 (2010): pp. 145-173.

3. Earkin H. and M.C. Lemos (Eds.), 2010. Adaptive Capacity to Global Change in Latin

America. Global Environmental Change, 20 (1): pp. 1-210.

4. FAO, 2008. Climate Change for Fisheries and Aquaculture. Technical Background

Document from Expert Consulation Held on 7-10 April 2008. FAP, Rome.

5. Field C., 1995. Impacts of Expected Climate Change on Mangroves. Hydro-biologia, Issue

295: pp. 75-81.

6. Trương Quang Học (Chủ biên), 2011. Tài liệu đào tạo tập huấn viên về biến đổi khí hậu.

NXB Khoa học và Kỹ Thuật, Hà Nội: 282 tr.

7. ICEM, 2011a. Case Study Guidance: Basin-wide Climate Change Impact and Vulnerability

Assessment of Wetlands in the Lower Mekong Basin for Adaptation Planning. Prepared for

the Mekong River Commission, April 2011. Hanoi.

8. ICEM, 2011b. Mui Ca Mau Climate Change Trends. Prepared for MRC Wetlands Climate

Change Vulnerability Assessment Field Mission.

9. IPCC (International Panel on Climate Change Data Distribution Centre), 2011. What are

GCMs? Http://www.ipcc-data.org/ddc_gcm_guide.html.

10. IPCC – Working Group I (International Panel on Climate Change), 2007a. Climate Change

2007: Impacts, Adaptation and Vulnerability. Cambridge University Press, Cambridge, UK

and New York.

11. IPCC – Working Group I, 2007b. Climate Change 2007: The Physical Science Basis.

Cambridge University Press, Cambridge, UK and New York.

12. IUCN (International Union for Conservation of Nature), 2010. IUCN Red List of

Threatened Species. Version 2010.4. Http://www.iucnredlist.org.

13. Lovelock C.E. and J.C. Ellison, 2007. Vulnerability of Mangroves and Tidal Wetlands of

the Great Barrier Reef to Climate Change. In: Johnson J.E. and P.A. Marshall (Eds.).

Page 20: TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRƯỚC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10163/1/Hoàng Văn Thắng... · Các hệ sinh thái cửa sông, ...

44

Climate Change and the Great Barrier Reef: A Vulnerability Assessment. Great Barrier Reef

Marine Park Authority and Australian Greenhouse Office, Australia.

14. McLeod E. and R.V. Salm, 2006. Managing Mangroves for the Resilience to Climate

Change. IUCN, Gland, Switzerland: 64 p.

15. MoNRE (Ministry of Natural Resources and Environment), 2009. Climate Change, Sea

Level Rise Scenarios for Vietnam. Hanoi, Vietnam.

16. MRC, 2010. Basin-wide Climate Change Vulnerability Assessment for Wetlands of the

Lower Mekong Basin. Developing Causality in Climate Change Vulnerability. Guidance for

Completing the Ưetland Vulnerability Assessments.

17. Rahmstorf S., 2007. A Semi-Empirical Approach to Projecting Future Sea-Level Rise.

Science, 315(5810): pp. 368-370.

18. SIWRP (Southern Institute for Water Resource Planning), 2008. Study on Climate Change

Scenarios Assessment for Ca Mau Province. Technical Report.

19. Hoang Van Thang, H.T. Nguyen and X.N.H. Vu, 2012. Case Study: Mui Ca Mau Wetlands.

Report Prepared for the Mekong River Commission “Basin-Wide Climate Change Impact

and Vulnerability Assessment for Wetlands of the Lower Mekong Basin for Adaptation

Planning”. International Centre for Environmental Management (ICEM) and the Mekong

River Commission Secretariat, Vientiane, Lao PDR.

20. Vườn Quốc gia Mũi Cà Mau, 2010. Báo cáo tổng hợp.

21. WB (Ngân hàng Thế giới), 2008. Thành phố thích ứng với biến đổi khí hậu: Cẩm nang về

giảm nhẹ khả năng bị tổn thương trước thiên tai. NXB Văn hóa – Thông tin.

22. WB (World Bank), 2010. Convenient Solutions to an Inconvenient Truth: Ecosystem Based

Approaches to Climate Change. World Bank. Washington, D.C., USA.

Page 21: TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRƯỚC BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/10163/1/Hoàng Văn Thắng... · Các hệ sinh thái cửa sông, ...

45

Summary

VULNERABILITY TO CLIMATE CHANGE: CASE STUDY

OF MUI CA MAU ECOSYSTEMS

Hoang Van Thang

Centre for Natural Resources and Environmental Studies, VNU, Hanoi

A significant and lasting change in the statistical distribution of weather patterns over periods

ranging from decades to millions of years and in the future caused by nature and by human –

climate change has had impacts on not only communities but also ecosystems. The coastal and

estuarine wetlands, including mangroves are vulnerable to changes in temperature, rainfall, sea

level rise as well as extreme events. Assessment of a system (natural and social) in general,

coastal and estuarine ecosystems in particular needs to look at the impacts of climate change and

the exposure, sensitivity, adaptive capacity, and adaptation of such ecosystems to climate

change. This report will present assessment of the vulnerability of the coastal and estuarine

ecosystems of Mui Ca Mau by describing the current status of the Mui Ca Mau National Park

and looking at the impacts of climate change patterns including temperature, rainfall, sea level

rise, and extreme events. In addition, this report also assesses the adaptation of those ecosystems

and recommends management and conservation measures.