Tóm tắt báo cáo nghiệm thu đề tài cấp Bộ, 2009-2012 Tom tat de tai TRÂU-...
Transcript of Tóm tắt báo cáo nghiệm thu đề tài cấp Bộ, 2009-2012 Tom tat de tai TRÂU-...
Tóm tắt báo cáo nghiệm thu đề tài cấp Bộ, 2009-2012
NGHIÊN CỨU CÁC BIÊN PHÁP KỸ THUẬT NÂNG CAO KHẢ NĂNG
SINH SẢN VÀ SẢN XUẤT CỦA TRÂU1.
PGS.TS.Đinh Văn Cải2
Tóm tắt
Đề tài thực hiện từ năm 2009-2012, từ số liệu điều tra đã hình thành 7 thí nghiệm nghiên cứu các giải pháp kỹ thuật
nâng cao khả năng sinh sản và sản xuất của trâu. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Khối lượng trâu đực giống thấp 402-
460kg, rất hiếm trâu đực có ngoại hình và thể trạng tốt. Khoảng cách lứa đẻ ở trâu cái sinh sản trung bình 20,45
tháng và tuổi đẻ lứa đầu ở trâu cái tơ trung bình 45,34 tháng. Khối lượng của nghé tại các mốc 6 tháng 12; 24 và 36
tháng tuổi tương ứng là 117,9 kg; 183,3 kg; 274,3 kg và 340,5 kg. Thời điểm phối giống tốt nhất cho trâu cái nội
động dục tự nhiên là từ 18-24 giờ kể từ khi phát hiện trâu cái có dấu hiệu động dục và sau 6-9 giờ phối lặp lại lần 2,
kỹ thuật này đạt tỷ lệ trâu có chửa từ 60,87 đến 66,67% qua 2 chu kì phối giống. Trâu cái nội đáp ứng tốt với
hormone gây động dục đồng loạt, tỷ lệ trâu động dục đạt từ 69,17-73,79%, thời gian xuất hiện động dục tập trung
vào ngày thứ 4 sau xử lí. Tỷ lệ trâu có chửa qua 2 chu kì phối đạt từ 49,17- 64,08% trên số trâu xử lí. Chương trình
xử lí kết hợp hormone GnRH+ PGF2α+ Oestrogen +TAI hoặc sử dụng kết hợp CIDR+ GnRH+ PGF2α +TAI cho kết
quả tốt hơn về tỷ lệ trâu có chửa, đơn giản về kỹ thuật, rất phù hợp cho chương trình phối giống nhân tạo trâu tập
trung vào thời điểm chủ động trong năm. Sử dụng liều kép prostaglandin F2α cách nhau 10 ngày cho kết quả tốt
trong điều trị trâu cái chậm sinh do thể vàng tồn lưu, tỷ lệ trâu động dục sau điều trị đạt 71,12%. Phối bắt buộc cho
trâu vào ngày thứ 14-15 sau điều trị, tỷ lệ trâu có chửa đạt 54,9% so với trâu được phối và đạt 39% so với trâu được
điều trị. Nghé nội sinh ra từ đực chọn lọc có khối lượng lúc 6 tháng và 12 tháng tuổi cao hơn tương ứng là 7,2% và
9,3%, tăng trọng từ sơ sinh đến 12 tháng tuổi cao hơn 10% so với nghé nội sinh ra từ đực đại trà chưa được chọn
lọc. Nghé con được bổ sung thức ăn đầy đủ trong giai đoạn 0-6 tháng tuổi có khối lượng cao hơn từ 10-10,2%, tăng
trọng cao hơn 11,4% so với nhóm nuôi theo truyền thống. Trâu mẹ được bổ sung thức ăn trong giai đoạn nuôi con,
kết hợp với kĩ thuật phát hiện động dục đã rút ngắn khoảng cách lứa đẻ 50 ngày, còn 15,2 tháng/lứa. Trong điều kiện
nuôi dưỡng tốt, tăng trọng của nghé lai F1 Murrah đạt trên 600 gam/ngày giai đoạn bú sữa (0-6 tháng tuổi) và gần
500 gam/ngày giai đoạn 7-12 tháng tuổi để đạt khối lượng 145 kg vào lúc 6 tháng tuổi và 233 kg vào lúc 12 tháng
tuổi. So với nghé nội cùng tuổi, cùng điều kiện nuôi dưỡng, khối lượng nghé lai F1 cao hơn 20,5%.
Từ khóa: Động dục đồng loạt, Đực chọn lọc, nghé lai F1 Murrah, trâu nội.
1. Đặt vấn đề
Thịt trâu, thịt bò thuộc vào nhóm thịt đỏ, ngày càng được đánh giá cao trên thị trường và được
người tiêu dùng ưa chuộng. So với thịt bò, thịt trâu nhiều nạc, ít mỡ và lượng cholesterol ít hơn.
Thực ra thịt bò tiêu thụ trên thị trường từ lâu nay, trong số đó có gần một nửa là thịt trâu. Người
tiêu dùng hiện nay không quan tâm nhiều đến sự khác biệt giữa thịt trâu và thịt bò. Gần đây trong
siêu thị, nhà hàng có bán thịt trâu, có nhiều cửa hàng “đặc sản” thịt trâu, điều này chứng tỏ giá trị
của thịt trâu đã được người tiêu dùng nước ta chấp nhận. Con trâu ở nước ta đang chuyển dần từ
mục đích cày kéo sang sản xuất thịt. Thị trường thịt trâu ngày một rộng mở. Tuy vậy khả năng
sản suất thịt của trâu nội còn rất khiêm tốn, do sinh trưởng chậm, thành thục muộn, đẻ thưa, tầm
vóc nhỏ, tỷ lệ các phần thịt có giá trị thấp hơn so với bò lai Sind. Một điều đáng quan ngại là tầm
vóc và khối lượng cơ thể của trâu nội ngày càng nhỏ đi. Số liệu năm 1996 so với năm 1964 cho
1 Đề tài cấp Bộ NN-PTNT, 2009-2012”Nghiên cứu các biện pháp kĩ thuật nâng cao khả năng sinh sản và sản xuất
của trâu” 2 PGS.TS. Đinh Văn Cải. Chủ nhiệm đề tài, tel: 0903 730 420. Email: [email protected].
Tham gia nghiên cứu: ThS. Đậu Văn Hải, ThS. Nguyễn Thị Thu Hồng, TS. Nguyễn Hữu Trà, ThS. Nguyễn Đức
Chuyên, Hàn Quốc Vương, TS. Phan Văn Kiểm, Lưu Công Hòa, ThS. Thái Khắc Thanh, Hoàng Khắc Hải, ThS.
Tống Văn Giáp.
thấy con đực trung bình giảm 106kg và trâu cái giảm 64,7 kg. Trước đây đực giống có khối
lượng 600 kg rất phổ biến, ngày nay đực giống trên 500 kg rất ít. Từ năm 2000 đến nay Bộ đã có
một số đề tài, dự án đầu tư cho nghiên cứu và phát triển trâu. Đề tài 2002-2005 của TS. Mai Văn
Sánh, đề tài “Chọn lọc nhân thuần nâng cao năng suất và chất lượng trâu nội” năm 2006-2010
của mai Văn Sánh và Trịnh Văn Trung, dự án giống trâu của Viện Chăn nuôi 2007-2010, kết quả
cho thấy con trâu còn nhiều tiềm năng để phát triển nếu được đầu tư đúng. Bài viết này trình bày
tóm tắt kết quả nghiên cứu từ đề tài cấp Bộ năm 2009-2012 “Nghiên cứu các giải pháp kỹ thuật
nâng cao khả năng sinh sản và sản xuất của trâu”.
2. Nội dung, nguyên vật liệu và phương pháp nghiên cứu.
Nội dung, Phương pháp:
tiến hành tại 18 xã của 6 huyện thuộc 3 tỉnh Thái Nguyên,
Nghệ An và Bình Phước từ tháng 4 đến tháng 10/2009. Khảo sát chi tiết số liệu kĩ thuật trên tổng
số 1501 con, trong đó 769 trâu cái sinh sản, 620 trâu tơ dưới 3 năm tuổi và 112 trâu đực giống.
Để nâng cao khả năng sinh sản và sản xuất của trâu cái đề tài đã tiến hành đồng thời 3 giải pháp
kỹ thuật: 1/ Tuyển chọn trâu đực giống tốt, có khối lượng lớn giao cho hộ chăn nuôi chỉ với mục
đích truyền giống, không phải cày kéo. Trâu đực chọn lọc khối lượng lớn sẽ cải thiện tăng trưởng
và khối lượng của nghé con. Kỹ thuật phát hiện động dục được cán bộ kỹ thuật của đề tài tập
huấn. Người nuôi trâu cái mang trâu cái động dục đến cho trâu đực phối giống mà không phải trả
tiền. Kỹ thuật này góp phần cải thiện chỉ tiêu sinh sản trâu mẹ, rút ngắn khoảng cách lứa đẻ. 2/
Phối tinh nhân tạo cho trâu nội bằng tinh Murrah, tạo con lai F1 cho năng suất thịt cao hơn trâu
nội. Phối tinh nhân tạo được thực hiện trên trâu cái động dục tự nhiên và thông qua kỹ thuật sử
dụng hormone gây động dục đồng loạt. 3/ Điều trị trâu cái chậm sinh có nguyên nhân từ thể vàng
tồn lưu bằng PGF2α, sau điều trị trâu cái được phối giống nhân tạo bằng tinh Murrah tạo con lai
F1. Kỹ thuật này giúp nâng cao tỷ lệ đẻ của đàn trâu nội đồng thời tạo con lai F1 Murrah. Các
giải pháp kỹ thuật trên được thực hiện thông qua 7 thí nghiệm khoa học, tại 3 mô hình chăn nuôi
của 3 tỉnh. Phương pháp thí nghiệm của 7 thí nghiệm sẽ được mô tả tóm tắt ở phần kết quả và
thảo luận.
Nguyên vật liệu: Trâu đực nội trong đề tài này được sử dụng như nguồn gen tốt để cải tiến di
truyền đàn con. Đực giống được tuyển chọn từ các địa phương, có ngoại hình đẹp, tính hiền.
Khối lượng lúc 3-4 năm tuổi đạt từ 530-550 kg.
Tinh trâu Murrah sử dụng trong thí nghiệm gồm 2 nguồn: Nguồn từ đực giống thuần Murrah
nuôi giữ tại Trung tâm Nghiên cứu và phát triển chăn nuôi miền núi, Viện Chăn nuôi (Thái
Nguyên). Tinh dưới dạng cọng rạ 0,25ml, hoạt lực sau khi giải đông đạt trên 40%, tinh sử dụng
ngay trong năm kể từ ngày sản xuất. Nguồn từ đực giống thuần Murrah nhập từ Ấn Độ. Tổng số
1000 liều tinh được sản xuất từ 3 trâu đực giống đạt yêu cầu giống quốc gia của Ấn Độ. Loại
cọng rạ, liều 0,25 ml, sản xuất năm 2010, kiểm tra hoạt lực sau khi giải đông đạt trên 50%.
Tên thương mại của một số hormone sinh dục sử dụng trong các thí nghiệm: Lutalyse và
Cloprostenol chứa Prostaglandine F2α; CIDR chứa progesterone, do Công ty Pfizer Animal
Health (Bỉ) sản xuất. Fertagyl chứa GnRH, do Công ty Intervet International B.V sản xuất.
Oestrogen do Xí nghiệp Dược và vật tư thú y sản xuất.
Trâu cái nội có hoạt động sinh sản bình thường sử dụng trong thí nghiệm xác định thời điểm và
hiệu quả phối giống nhân tạo, thí nghiệm gây động dục đồng loạt. Trâu cái chậm sinh do thể
vàng tồn lưu sử dụng trong thí nghiệm điều trị chậm sinh. Nghé nội sinh ra từ đực chọn lọc, nghé
lai F1 Murrah và mẹ của chúng được sử dụng trong thí nghiệm đánh giá sinh trưởng theo mức
nuôi dưỡng khác nhau.
3. Kết quả và thảo luận
3.1/ Khả năng sinh sản, năng suất chăn nuôi trâu tại vùng điều tra.
Khối lượng trung bình của trâu đực giống ở Bình Phước 460 kg, Nghệ An 450 kg và Thái
Nguyên 402 kg. Khối lượng trâu cái sinh sản của 3 tỉnh tương ứng là 458,6 kg; 407,2 kg và
329,4 kg. Số liệu từ 566 con trâu cái tơ cho thấy, tuổi đẻ lứa đầu trung bình 45,34 tháng, suy ra
tuổi phối giống đậu thai lần đầu vào lúc trâu tơ gần 3 năm tuổi. Có 13,43% số trâu tơ đẻ lứa đầu
trước 36 tháng tuổi, 52,65% trâu đẻ lứa đầu trong độ tuổi 36-48 tháng tuổi. Tuổi đẻ lứa đầu trung
bình của trâu Nghệ An là 42,4 tháng, sớm hơn so với 2 tỉnh Bình Phước (48,5 tháng) và Thái
Nguyên (47,1 tháng). Khoảng cách lứa đẻ trung bình của trâu cái sinh sản là 20,45 tháng (n=
657). Ngắn nhất là trâu Nghệ An, 17,3 tháng, dài nhất là trâu Thái Nguyên 23,9 tháng, trâu Bình
Phước 21,4 tháng (Bảng 1). Khoảng cách lứa đẻ nhỏ hơn hoặc bằng 15 tháng, từ 16- 18 tháng,
18- 24 tháng và nhóm trên 24 tháng chiếm tỷ lệ tương ứng là 16,44%; 29,53; 30,44% và 23,59%
tổng số lứa đẻ điều tra. Số liệu này cho thấy 45,97% trâu cái mắn đẻ, có nhịp đẻ 3 năm 2 nghé,
30,44% trâu cái có nhịp đẻ 2 năm một nghé và có 23,59% trâu đẻ thưa trên 2 năm một nghé.
Bảng 1. Một số chỉ tiêu của trâu đực giống, trâu cái sinh sản tại 3 tỉnh điều tra
Chỉ tiêu Đơn
vị An Nguyên
Tổng/Trung
bình
Trâu đực giống n 50 12 50 112
Khối lượng kg 453 459,8 402,3 431,1
Trâu cái sinh sản n 249 270 250 769
Khối lượng Kg 407,2 458,6 329,4 399,9
Tuổi đẻ lứa đầu trâu tơ n 68 229 269 566
Trung bình Tháng 48,52 42,4 47,1 45,34
Khoảng cách lứa đẻ n 187 266 204 657
Trung bình Tháng 21,12 17,3 23,9 20,45
Tăng trọng trung bình của nghé tơ (tính chung đực và cái) giai đoạn bú sữa 0-6; 7-12; 13-24 và
25-36 tháng tuổi tương ứng là 518,7; 357,0; 248,6 và 181,0 gam/ngày. Khối lượng tại các mốc 6;
12; 24 và 36 tháng tuổi tương ứng là 117,9 kg; 183,3 kg; 274,3 kg và 340,5 kg. Bảng 2 trình bày
khối lượng nghé phân theo đực cái, giai đoạn tuổi tại các tỉnh điều tra. Tại Nghệ An 71,05% số
nghé được bổ sung thêm thức ăn giai đoạn 0-6 tháng tuổi, chỉ tiêu này ở Thái Nguyên là 5,66%
và Bình Phước là 0%. Trung bình chỉ có 34,31% số nghé được bổ sung thêm thức ăn trong giai
đoạn từ 7 đến 12 tháng tuổi. Nhìn chung nghé nuôi ít bệnh do người dân ý thức được tiêm phòng
và tảy giun sán cho nghé ở các giai đoạn tuổi. Tỷ lệ nghé được tiêm phòng các bệnh truyền
nhiễm rất cao 77-100%. Thái Nguyên tập cày cho nghé sớm, ngay từ trước 2 năm tuổi đã có 74%
nghé được tập cày kéo. Trong khi Nghệ An tập cày kéo cho nghé sau 2 năm tuổi. Bình Phước
nghé trước 3 năm tuổi vẫn chưa tập kéo cày.
ĐVT Trung bình
Cái đực
- n 29 18 15 13 44 11 88 42
g/ngày 518,4 561,4 505,0 542,2 508,2 489,5 511,0 536,6
kg 117,7 126,7 114,4 121,2 114,0 111,6 115,5 121,2
- n 46 27 21 18 34 23 101 68
g/ngày 403,7 413,8 405,3 391,2 257,9 272,4 355,0 360,0
kg 191,5 202,5 188,6 192,8 161,2 161,4 180,5 187,1
- N 29 18 15 4 27 22 71 44
g/ngày 217,7 236,7 220,2 259,8 280,3 281,5 242,0 261,2
Kg 271,0 288,8 269,2 287,9 263,8 264,4 269,1 282,7
- n 44 9 11 11 22 11 77 31
g/ngày 191,6 207,4 152,2 193,6 160,0 177,8 177,0 192,0
Kg 341,0 364,5 340,1 358,8 322,3 329,5 333,8 352,9
Nguyên nhân dẫn đến khối lượng trâu đực giống thấp là do mục đích nuôi trâu đực của nông dân.
Người chăn nuôi nuôi trâu đực để kéo cày, không có chủ ý nuôi giữ trâu đực để truyền giống.
Chỉ có một số ít hộ có đàn trâu cái với số lượng lớn mới giữ trâu đực cho mục đích truyền giống
cho đàn cái của mình. Họ chỉ giữ lại những con đực hiền như trâu cái vì lí do dễ nuôi. Những
trâu đực lớn nhanh, to con không được giữ làm giống mà được bán sớm trước khi chúng thành
thục về tính. Những trâu đực có tính hăng thường khó nuôi, khó điều khiển khi cày kéo cũng
được bán đi sớm. Hầu như tất cả trâu đực giống đều tham gia công việc cày kéo với mức độ khác
nhau. Người chăn nuôi trâu đực giống không được lợi ích từ người chăn nuôi trâu cái khi trâu
đực phối giống. Chính quyền địa phương cũng không có chính sách ưu đãi nào cho người chăn
nuôi đực giống. Không có một chương trình chọn lọc quản lí trâu đực giống nào được thực hiện
ở địa phương trừ khi có đề tài, dự án cấp Bộ.
Tỷ lệ trâu cái đẻ thưa, trâu tơ đẻ muộn có nguyên nhân đầu tiên từ đực giống. Các nguyên nhân
tiếp theo là kỹ thuật phát hiện trâu cái lên giống, bệnh đường sinh sản, lao tác nặng do cày kéo,
dinh dưỡng kém tuy không phải là nguyên nhân chính nhưng góp phần quan trọng làm giảm khả
năng sinh sản của trâu cái. Có vùng nhiều trâu đực giống như Nghệ An, Thái Nguyên nhưng tỷ lệ
sinh đẻ của trâu vẫn thấp là do thiếu sự tiếp xúc đầy đủ giữa trâu đực giống và trâu cái. Người
nuôi trâu đực chủ động tránh cho trâu đực phối giống vì ảnh hưởng đến khả năng cày kéo. Khi
bãi chăn thả ngày càng thu hẹp, người nuôi giữ trâu đực giống để cày kéo thường chăn dắt và
quản lí rất chặt trâu đực, cơ hội để trâu cái động dục gặp trâu đực giống đúng thời điểm phối
giống, đúng khi trâu đực sung sức thật hiếm hoi.
3.2 Nghiên cứu kỹ thuật gây động dục đồng loạt trên trâu cái trong phối giống nhân tạo
Hai thí nghiệm (thí nghiệm 1 và 2) gây động dục đồng loạt ,với 5 chương trình sử dụng kết hợp
các loại hormone khác nhau, thực hiện trên 203 trâu cái từ năm 2010-2011. Trâu cái động dục
sau xử lí được phối giống nhân tạo bằng tinh Murrah nhập từ Ấn Độ để tạo con lai F1.
Thí nghiệm 1 Thực hiện từ tháng 10/2010 đến tháng 3/2011. Tổng số 120 trâu cái, có lịch sử sinh
sản bình thường, sau khi đẻ 90-150 ngày chưa mang thai, thể trạng tốt, được phân đều vào 3
nhóm, sử dụng 3 chương trình hormone như sau: Nhóm 1 (n=40) đặt CIDR ngày 0 và rút CIDR
ngày 10, theo dõi động dục và phối giống đến hết ngày 11; Nhóm 2 (n=40) đặt CIDR và tiêm 2
ml fertagyl (GnRH) ngày 0, ngày 7 rút CIDR và tiêm 2ml cloprostenol (PGF2α), theo dõi động
dục và phối giống đến hết ngày 11; Nhóm 3 (n=40) đặt CIDR và tiêm 2ml fertagyl ngày 0, ngày
7 rút CIDR và tiêm 2ml cloprostenol, sau 48 giờ tiêm thêm 2ml fertagyl, phối bắt buộc (TAI) sau
16 giờ kể từ khi tiêm fertagyl lần 2.
Kết quả thí nghiệm cho thấy, tỷ lệ trâu động dục ở nhóm 1; 2 và 3 lần lượt là 57,5%; 75% và
75%, trung bình 69,17% (82/120). Tỷ lệ trâu có chửa sau lần phối tinh đầu so với số trâu được
phối tương ứng là 56,52%; 55,17%; 40,0%, trung bình 48,91% (Bảng 3). Tỷ lệ trâu có chửa qua
2 lần phối trên số trâu xử lý lần lượt là 40% (16/40); 50% (20/40) và 55,75% (23/40) tương ứng,
trung bình đạt 49,17%, cao nhất ở nhóm 3 (Bảng 4).
Bảng 3. Tỷ lệ động dục và có chửa của trâu sau lần phối tinh đầu ở các nhóm được sử lý bởi các
chương trình hormone khác nhau.
Nhóm n Động
dục /xử lí
Tỷ lệ
động dục
Phối
giống
Có
chửa
Tỷ lệ
có chửa
(1) CIDR (progesteron) 40 23/40 57,50 23 13/23 56,52
(2) CIDR+ GnRH+ PGF2α 40 30/40 75,00 29 16/29 55,17
(3) CIDR+GnRH+ PGF2α+
GnRH +TAI
40 30/40 75,00 40 16/40 40,00
Tổng/trung bình 120 83/120 69,17 92 45/92 48,91
Bảng 4. Tỷ lệ trâu có chửa từ chu kì 2 và tổng số trâu có chửa sau 2 lần phối trên số trâu được
xử lí ở 3 nhóm trâu thí nghiệm.
Nhóm Phối ở
Chu kì 2
Có chửa
lần phối 2
Tỷ lệ
(%)
Có chửa từ 2
lần phối/tổng
Tỷ lệ (%)
(1) CIDR (progesteron) 8 3/8 37,50 16/40 40,0
(2) CIDR+ GnRH+PGF2α 11 4/11 36,36 20/40 50,0
(3) CIDR+GnRH+ PGF2α +
GnRH +TAI
21 7/21 33,33 23/40 55,7
Tổng/tr bình 40 14/40 35,00 59/120 49,17
Kết quả này chứng tỏ trâu cái nội đáp ứng tốt với chương trình sử lý hormone gây động dục và
rụng trứng đồng loạt. Sử dụng kết hợp CIDR+ GnRH+ PGF2 cho kết quả tốt hơn sử dụng riêng
rẽ CIDR. Tỷ lệ động dục trung bình đạt 69,17% và thời gian xuất hiện động dục tập trung vào 40
giờ sau xử lý. Tỷ lệ trâu có chửa bằng phối giống nhận tạo sau hai lần phối đạt 49,17% so với số
trâu được xử lí. Sử dụng kết hợp CIDR với GnRH+PGF2+GnRH và phối bắt buộc sau khi tiêm
GnRH 16 giờ, tỷ lệ trâu cái có chửa cao nhất, đạt 57,5% so với trâu được xử lí. Kỹ thuật này sẽ
giải quyết được khó khăn về phát hiện động dục trong phối giống nhân tạo cho trâu trong điều
kiện chăn nuôi phân tán.
Thí nghiệm 2. Thực hiện từ tháng 4 đến tháng 8/2011. Tổng số 103 trâu được phân đồng đều vào
3 nhóm, mỗi nhóm sử dụng một chương trình hormone khác nhau. Nhóm 1 (n= 35), ngày 0 tiêm
fertagyl (8 giờ sáng), ngày 7 tiêm lutalyse (8 giờ sáng), ngày 9 tiêm fertagyl lần 2 (4 giờ chiều),
ngày 10 phối bắt buộc (TAI) cho tất cả trâu vào lúc 8 giờ sáng, tương ứng với 16 giờ sau khi
tiêm Fertagyl lần 2. Nhóm 2 (n= 35), ngày 0 tiêm fertagyl (8 giờ sáng), ngày 7 tiêm futalyse (8
giờ sáng), ngày 8 tiêm oestrogen (8 giờ sáng), ngày 10 phối bắt buộc (TAI) cho tất cả trâu vào
lúc 8 giờ sáng, tương ứng với 24 giờ sau khi tiêm oestrogen.
Nhóm 3 (n= 33), lặp lại chương trình hormone như nhóm 2 của thí nghiện trước. Ngày 0 đặt
CIDR và tiêm 1 liều fertagyl vào lúc đặt CIDR, ngày 7 rút CIDR và tiêm một liều cloprostenol.
Theo dõi lên giống và phối cho trâu động dục đến hết ngày thứ 11.
Kết quả thí nghiệm cho thấy, tỷ lệ động dục trung bình của 3 nhóm trâu thí nghiệm đạt 73,79%.
Tỷ lệ đậu thai lần phối đầu của trâu ở lô 1 là 40% (14/35) và 45,71% (16/35) ở lô 2, thấp hơn so
với 56% (14/25) ở lô 3 chỉ phối trên trâu động dục (Bảng 5). Tuy nhiên sự sai khác không có ý
nghĩa thống kê (P= 0,470). Tỷ lệ có chửa của trâu lô 1 và lô 2 áp dụng kĩ thuật TAI trong thí
nghiệm của chúng tôi tương đương với 42,9% của Chaikhun và ctv, (2010) trên trâu Thái Lan
cùng áp dụng quy trình Ovsynch +TAI, cao hơn so với 30,3-36% của Gianluca và ctv (2003) trên
trâu của Ý, nhưng thấp hơn so với 50%-56% của Gupta và cs (2008) trên trâu Murrah.
Bảng 5. Tỷ lệ động dục và có chửa của trâu sau lần phối tinh đầu ở các nhóm được sử lý bởi các
chương trình hormone khác nhau.
Lô thí nghiệm Số trâu
xử lí
Trâu động dục/trâu
xử lí
Trâu có chửa từ
phối chu kì
đầu/trâu phối
n con % con %
1/ GnRH+ PGF2α+ GnRH +TAI 35 23/35 65,71 14/35 40,00
2/ GnRH+ PGF2α+ Oestrogen +TAI 35 28/35 80,00 16/35 45,71
3/ CIDR+ GnRH+ PGF2α 33 25/33 75,76 14/25 56,00
Tổng/ trung bình 103 76/103 73,79 44/95 46,31
Tổng số 43 trâu không có chửa sau phối lần 1 đã động dục và được phối giống lại ở chu kì sau.
Trong số đó có 22 trâu có chửa. Tỷ lệ đậu thai trung bình ở cả 3 lô là 51,16% (22/43) và không
có sự khác biệt giữa các lô (P=0,908). Sau hai chu kì phối có 66 con có chửa so với 103 con
được xử lí hormone, đạt tỷ lệ 64,08% (Bảng 6). Lô 1 và 2 áp dụng kĩ thuật TAI có tỷ lệ trâu có
chửa cao hơn (65,71 và 68,57%) so với lô 3 (57,57) chỉ phối trên trâu động dục. Tuy vậy sự sai
khác này vẫn không có ý nghĩa thống kê (P=0,621).
Bảng 6. Tỷ lệ trâu có chửa từ chu kì 2 và tổng số trâu có chửa sau 2 chu kì so với trâu được xử lí
ở 3 nhóm trâu thí nghiệm.
Lô thí nghiệm
Số trâu
phối lại ở
chu kì 2
Trâu có chửa từ
phối chu kì 2/trâu
phối
Trâu có chửa từ
phối ở cả 2 chu kì/
trâu xử lí
n con % con %
1/ GnRH+ PGF2α+ GnRH +TAI 17 9/17 52,94 23/35 65,71
2/ GnRH+ PGF2α+ Oestrogen +TAI 15 8/15 53,33 24/35 68,57
3/ CIDR+ GnRH+ PGF2α 11 5/11 45,45 19/33 57,57
Tổng/ trung bình 43 22/43 51,16 66/103 64,08
Kết quả thí nghiệm chứng tỏ trâu cái nội đáp ứng tốt với hormone gây động dục đồng loạt, tỷ lệ
trâu động dục đạt 73,79%, thời gian xuất hiện động dục sau xử lí 38,8 giờ. Tỷ lệ trâu có chửa qua
2 chu kì phối 68,57% trên số trâu xử lí.
Cả 3 chương trình đều cho kết quả tốt xét về tỷ lệ trâu động dục và có chửa. Chương trình xử lí
kết hợp hormone GnRH+ PGF2α+ Oestrogen và cố định thời điểm phối 24 giờ sau khi xử lí cho
kết quả tốt nhất cần được áp dụng rộng rãi trong sản xuất. Chương trình này đơn giản về kỹ
thuật, không cần phát hiện trâu động dục, rất phù hợp cho chương trình phối giống nhân tạo trâu
tập trung vào thời điểm chủ động trong năm.
3.3 Điều trị bệnh chậm sinh cho trâu cái do thể vàng tồn lưu.
Hai thí nghiệm (thí nghiệm 3 và 4) điều trị chậm sinh cho tổng số 187 trâu cái có thể vàng tồn
lưu bằng PGF2α với 3 chương trình khác nhau. Thí nghiệm 3 (n=96) tiến hành vào vụ đông xuân
(2010-2011), thí nghiệm 4 (n=91) lặp lại thí nghiệm 3 nhưng vào vụ hè thu (2011). Ba chương
trình hormone chung cho cả 2 thí nghiệm như sau: Nhóm 1, ngày 1-5 theo dõi để phối giống cho
trâu động dục bình thường. Ngày 5 tiêm 2ml cloprostenol cho trâu không động dục và chưa phối
giống. Từ ngày 6-10 phát hiện động dục và phối giống. Nhóm 2, tiêm 2 liều 2ml cloprostenol
cho tất cả trâu cách nhau 10 ngày (ngày 1 và ngày 11). Ngày 14 và ngày 15 phối bắt buộc (TAI)
cho tất cả trâu. Nhóm 3, tiêm 2 liều cloprostenol (2ml/con) như lô 2. Tiêm cloprostenol ngày 1,
ngày 3-5 phát hiện động dục và phối giống. Ngày 11 tiêm lần 2 cloprostenol cho những con
không động dục. Phát hiện động dục và phối giống trong những ngày tiếp theo. Sử dụng tinh
Murrah nhập từ Ấn Độ để phối.
Kết quả thí nghiệm 3 cho thấy, trong số 96 trâu được được xử lý, có 50 con động dục ngay ở chu
kỳ đầu tiên, tỷ lệ động dục trung bình của 3 nhóm trâu thí nghiệm là (50/96) 52,08% (Bảng 7).
Tỷ lệ này cao nhất là lô 2 (56,25%), kế đến là lô 1 (53,13%) và thấp nhất là ở lô 3 (46,88%), tuy
nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Trong số 46 trâu cái đã được xử lý
nhưng chưa động dục ở chu kỳ 1, có 18 con có biểu hiện động dục ở chu kỳ tiếp theo (chu kỳ 2),
tỷ lệ động dục ở chu kì 2 trung bình là (18/46) 39,13%. Tỷ lệ động dục của trâu cái ở các lô thí
nghiệm biến động từ 26,67% (lô 1) đến 47,06% (lô 3), sự sai khác này không có ý nghĩa thống
kê (P> 0,05). Qua 2 chu kì liên tiếp, trong số 96 trâu sử lý có 68 con có dấu hiệu động dục được
ghi nhận. Tỷ lệ trâu động dục qua 2 chu kỳ trung bình là 70,83% (68/96). Tỷ lệ động dục của
trâu cái ở lô 2 (75,0%) và lô 3 (71,88%) tiêm 2 liều cloprostenol, cao hơn lô 1 (65,63%) chỉ tiêm
1 liều cloprostenol, tuy nhiên sự sai khác chưa có ý nghĩa thống kê (P> 0,05).
Bảng 7. Kết quả động dục của trâu sau xử lý hai chu kỳ ở 3 lô thí nghiệm
Chỉ tiêu ĐVT Nhóm
1
Nhóm
2
Nhóm
3
Cộng/
Tr. bình
P
Số trâu được xử lý con 32 32 32 96
Số trâu động dục sau xử lý-chu kỳ 1 con 17 18 15 50
Tỷ lệ trâu động dục chu kỳ 1 % 53,13 56,25 46,88 52,08 0,747
Số trâu được xử lý nhưng không động
dục ở chu kỳ 1
con 15 14 17 46
Số trâu chưa động dục ở chu kỳ 1 động
dục ở chu kỳ sau-chu kỳ 2
con 4 6 8 18
Tỷ lệ trâu động dục ở chu kỳ 2 % 26,67 42,86 47,06 39,13 0,470
Tổng số trâu động dục cả 2 chu kỳ con 21 24 23 68
Tỷ lệ động dục của trâu ở 2 chu kì % 65,63 75,00 71,88 70,83 0,703
Tỷ lệ trâu có chửa ở chu kì sau 72,22%, cao hơn so với chu kì đầu, P= 0,001. Số trâu có chửa
của lô 2 và 3 sử dụng liều kép cloprostenol cách nhau 10 ngày cao hơn so với lô 1 chỉ sử dụng
liều đơn cloprostenol. Tuy nhiên sự sai khác chưa có ý nghĩa thống kê.
Tỷ lệ có chửa của trâu phối lần đầu qua 2 chu kì phối ở các lô thí nghiệm 1; 2 và 3 so với số trâu
xử lí tương ứng là 25% (8/32); 37,5% (12/32) và 34,4 (11/32) trung bình 32,3% (Bảng 8).
Không có sự sai khác thống kê về tỷ lệ trâu động dục, trâu có chửa giữa các lô thí nghiệm trong
cùng một chu kì.
Bảng 8. Kết quả phối giống có chửa của trâu sau xử lý hai chu kỳ ở 3 lô thí nghiệm
Chỉ tiêu ĐVT Nhóm
1
Nhóm
2
Nhóm
3
Cộng/
Tr. bình
P
Số trâu được phối giống chu kỳ 1 Con 17 32 15 64
Số trâu có chửa phối ở chu kỳ 1 (con) Con 5 7 6 18
Tỷ lệ trâu có chửa phối ở chu kỳ 1 % 29,41 21,88 40,00 28,13 0,432
Số trâu được phối giống ở chu kỳ 2 Con 4 6 8 18
Số trâu có chửa từ chu kỳ 2 Con 3 5 5 13
Tỷ lệ trâu có chửa ở chu kỳ 2 % 75,00 83,33 62,50 72,22 0,683
Tổng số trâu xử lí Con 32 32 32 96
Tổng số trâu có chửa từ 2 chu kỳ con 8 12 11 31
Tỷ lệ có chửa lần phối đầu từ 2 chu kì % 25,0 37,5 34,4 32,3 0,538
Tương tự kết quả thí nghiệm 4 cũng cho thấy, tỷ lệ trâu cái động dục sau xử lí đạt trên 71,43%
qua 2 chu kì liên tiếp (tương đương với 70,83% ở thí nghiệm 3). Tỷ lệ trâu có chửa lần phối đầu
của hai chu kỳ so với trâu xử lí đạt trung bình 46,15% (cao hơn so với 32,3% ở thí nghiệm 3). Sử
dụng chương trình tiêm hai liều 2ml cloprostenol vào ngày thứ 1 và ngày thứ 11 và phối bắt buộc
cho trâu vào ngày thứ 14 và 15 cho kết quả trâu có chửa qua 2 chu kì (22/41) 53,66% cao hơn so
với chương trình chỉ sử dụng một liều 2ml choprostenol (10/20) 50% và chỉ phối trên trâu động
dục (10/30) 33,33%.
Kết quả từ 2 thí nghiệm ttrên chứng tỏ sử dụng prostaglandin F2α là một kỹ thuật tốt để điều trị
trâu cái chậm sinh do thể vàng tồn lưu. Sử dụng liều kép prostaglandin cách nhau 10 ngày và
phối bắt buộc cho trâu vào ngày thứ 14-15 cho kết quả có chửa từ 32,3% đến 53,66%, tương
đương với phối trên trâu động dục.
3.4 Kỹ thuật phối giống nhân tạo cho trâu cái động dục tự nhiên
Lai tạo nghé F1 Murrah là con đường nhanh nhất để nâng cao tầm vóc và khả năng sản xuất của
trâu địa phương. Tuy nhiên trở ngại lớn nhất là trâu đực thuần Murrah không dễ dàng phối giống
trực tiếp với trâu cái nội. Phối giống nhân tạo bằng tinh trâu Murrah là giải pháp khả thi nhất để
tạo con lai. Nghiên cứu kỹ thuật phối tinh nhân tạo cho trâu cái động dục tự nhiên được tiến hành
từ tháng 4/2010 đến tháng 9/2010 trên 107 trâu cái, nuôi trong các nông hộ tại Bỉm Sơn, Thanh
Hóa (n= 40), Thanh Chương và Tân Kỳ, Nghệ An (n= 40) và Bình Sơn, Thái Nguyên (n= 27).
Trâu cái có tình trạng sinh sản bình thường, phát hiện trâu cái động dục tự nhiên bằng kinh
nghiệm của chủ hộ. Trâu thí nghiệm được phối ngẫu nhiên trong khoảng thời gian từ 12-32 giờ
kể từ khi phát hiện trâu cái động dục. Phối tinh cho trâu bằng tinh Murrah do Trung tâm
NC&PTCN miền núi (Thái Nguyên) sản xuất, loại cọng rạ 0,25 ml. Sau 6 giờ kể từ khi phối lần
1, những trâu cái còn biểu hiện động dục rõ được phối lặp lại liều thứ 2, khoảng cách giữa 2 lần
phối dao động từ 9-13 giờ. Xác định trâu cái có chửa bằng khám thai qua trực tràng sau khi phối
80-90 ngày.
Kết quả cho thấy tỷ lệ trâu có chửa trung bình từ 3 lần phối là 34,84% (5/155), suy ra hệ số phối
đậu hay số lần phối để đậu thai ở trâu là 2,87 (100/34,84). Số liệu này ở bò khoảng 2,0-2,5,
chứng tỏ hiệu quả phối giống nhân tạo trên trâu thấp hơn so với bò (Bảng 9).
Bảng 9. Tỷ lệ có chửa qua các lần phối và hệ số phối đậu
Chỉ tiêu ĐVT Số trâu được
phối
Số trâu
Có chửa
Tỷ lệ (%)
Có chửa
Phối lần 1 (Chu kì 1) Con 107 35/107 32,71
Phối lần 2 (Chu kì 2) Con 41 17/41 41,46
Phối lần 3 (Chu kì 3) con 7 2/7 28,57
Cộng/trung bình Lần phối 155 54 34,84
Tỷ lệ trâu có chửa của các nhóm có thời gian từ khi phát hiện động dục đến phối 12-18 giờ; 18-
24 giờ và 24-32 giờ tương ứng là (11/29) 37,93%; (28/46) 60,87%; (15/32) 46,87% (P= 0,137).
Tỷ lệ có chửa (qua 3 lần phối) trung bình của 3 nhóm đạt 50,46% (Bảng 10). Đối với trâu nội,
đây là kết quả rất khả quan. Phối liều đơn tỷ lệ có chửa (34/71) 47,89% thấp hơn so với (20/36)
55,56% khi phối kép 2 liều tinh (P= 0,453). Phối kép cho trâu 2 lần cách nhau 6-9 giờ tỷ lệ trâu
có chửa (14/27) 66,67 % cao hơn so với (6/9) 51,85% khi phối kép cách nhau 10-13 giờ (P=
0,439). Phối liều kép đã được áp dụng rộng rãi trong phối giống cho bò sữa. Thời gian phối lặp
theo quy tắc sáng- chiều và chiều nay - sáng hôm sau. Quy tắc này chưa có số liệu khoa học chứng
minh trên trâu nội. Cần nghiên cứu thêm.
Bảng 10. Ảnh hưởng của thời điểm phối giống, số liều tinh phối đến tỷ lệ có chửa của trâu.
Chỉ tiêu ĐVT Số con
phối
Số con có
chửa/phối
Tỷ lệ chửa
(%)
Thời điểm phối: 12- 18 giờ Con 29 11/29 37,93
Thời điểm phối: 18- 24 giờ Con 46 28/46 60,87
Thời điểm phối: 24-32 giờ Con 32 15/32 46,87
Tổng/trung bình con 107 54/107 50,46
Phối liều đơn (1 liều/chu kì) Con 71 34/71 47,89
Phối kép (2 liều/chu kì) Con 36 20/36 55,56
Phối kép cách nhau 6- 9 giờ con 9 6/9 66,67
Phối kép cách nhau 10- 13 giờ con 27 14/27 51,85
Cộng con 107 54/107 50,46
Như vậy trong điều kiện chăn nuôi nhỏ nông hộ, người chăn nuôi không phát hiện đúng thời
điểm bắt đầu trâu cái động dục thì có thể áp dụng kỹ thuật phối giống cho trâu cái trong khoảng
thời gian từ 18-24 giờ kể từ khi phát hiện trâu cái có dấu hiệu động dục và sau 6-9 giờ phối lặp
lại lần 2 cho trâu còn biểu hiện động dục rõ sau khi phối lần 1 để đạt tỷ lệ có chửa cao.
3.5 Khả năng sinh trưởng của nghé lai F1 Murrah trong điều kiện chăn nuôi nông hộ.
Tổng số 97 cặp trâu mẹ và nghé lai F1 từ sơ sinh đến cai sữa được sử dụng trong một thí nghiệm
nuôi dưỡng thiết kế theo kiểu 2 yếu tố: (i) Khối lượng của trâu mẹ phân làm 2 nhóm: nhóm trung
bình (n= 50 ) khối lượng trung bình 374,3 kg và nhóm lớn (n= 47) có khối lượng trung bình
410,9 kg. (ii) Lượng thức ăn bổ sung thực tế cho trâu mẹ (quy ra chất khô) trong 6 tháng nuôi
con phân thành 3 mức: mức thấp (n=28) trung bình 83,1kg; mức trung bình (n= 34) trung bình
166,7 kg và mức cao (n=35) trung bình 211,6 kg (Bảng 11). So với nhu cầu của trâu mẹ nuôi con
lượng thức ăn bổ sung tương ứng đạt 5,47% , 10,81% và 13,64% . Tăng trọng trung bình của
nghé lai F1 sinh ra từ nhóm trâu mẹ có khối lượng trung bình là 574 gam, thấp hơn so với 603
gam của nhóm trâu mẹ khối lượng lớn. Sai khác có ý nghĩa thống kê (P= 0,018). Như vậy khối
lượng của trâu mẹ có ảnh hưởng đến tăng trọng của nghé giai đoạn bú sữa.
Bảng 11. Lượng thức ăn bổ sung thực tế, khối lượng trâu mẹ và nghé lai F1 ở các nhóm thí
nghiệm
Đơn
vị
tính
Mức bổ sung thức ăn Khối lượng trâu mẹ
Thấp Trung bình Cao Trung bình Lớn
Số trâu/nghé trong nhóm n 28 34 35 50 47
Khối lượng trâu mẹ kg 384,5 392,8 397,3 374,3 410,9
Thức ăn bổ sung cho mẹ kg 83,1 166,7 211,6 152,8 165,1
Thức ăn bổ sung cho con kg 14,5 35,2 48,7 32,3 36
Khối lượng sơ sinh Kg 29,15 30,7 31,6 29,9 31,3
Khối lượng 3 tháng tuổi Kg 90,9 96,4 103,2 95,1 99,6
Khối lượng 6 tháng tuổi Kg 126,8 137,4 146,3 134,4 141
Tăng trọng 0-6 tháng tuổi gam 537 586 630 574 603
Tăng trọng trung bình của nghé lai ở 3 mức bổ sung thức ăn: thấp, trung bình và cao tương ứng
là 537; 586 và 630 gam/ngày. Sự sai khác rất có ý nghĩa thống kê (P= 0,005). Không thấy sự
tương tác giữa khối lượng trâu mẹ với mức bổ sung thức ăn cho trâu mẹ và nghé con (P= 0,744).
Chi phí thức ăn bổ sung cho trâu mẹ và nghé con ở nhóm bổ sung trung bình và bổ sung cao, tính
cho 1kg khối lượng tăng thêm, so với nhóm bổ sung thấp, dao động từ 38,5-54,8 ngàn đ/kg, chỉ
bằng khoảng một nửa so với giá thị trường nghé F1 cai sữa (khoảng 100 ngàn đ/kg).
Giai đoạn sau cai sữa, 56 nghé phân vào 3 nhóm theo 3 mức bổ sung thức ăn khác nhau, tính
theo tổng chất khô thức ăn, cho một con, cho cả giai đoạn từ 7-12 tháng tuổi: mức thấp (n=17)
đạt 40,6 kg; mức trung bình (n=22) đạt 122,1 kg và mức cao (n=17) đạt 167,4 kg (Bảng 12).
Bảng 12. Một số chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật của nghé lai F1 sau cai sữa đến 12 tháng tuổi với 3 mức
bổ sung thức ăn khác nhau.
Chỉ tiêu ĐVT (1) Thấp (2) Trung bình (3) Cao
Số nghé trong nhóm n 17 22 17
Thức ăn bổ sung Kg DM 40,6 122,1 167,4
Tăng trọng 7-12 tháng tuổi gam 363,4 415,5 493,4
Khối lượng 12 tháng tuổi kg 194,1 215,1 235,3
Chi phí thức ăn bổ sung 1000 đ 148,2 392,3 631,2
KL tăng so với (1) kg 0 19,4 33,9
Chi phí TABS tăng so với (1) 1000đ 0 244,12 483,03
Chi phí TA cho 1kg KL tăng 1000 đ 0 12,57 14,25
Giai đoạn 7- 12 tháng tuổi, tăng trọng của nhóm nghé lai F1 ở mức bổ sung thức ăn thấp đạt
363,4 gam; mức trung bình đạt 415,5 và mức cao đạt 493,4 gam/ngày. Sự sai khác có ý nghĩa
thống kê (P< 0,0001), trung bình của 3 nhóm đạt 423,3 gam/ngày.
Tại thời điểm 6 tháng tuổi, nghé lai F1 có chỉ số tròn mình là 122, chỉ số dài thân là 94. Chỉ số
này tại 12 tháng tuổi tương ứng là 129 và 97. Dựa vào chỉ số tròn mình và chỉ số dài thân cho
thấy, lúc 6 tháng tuổi nghé F1 nhìn dài mình hơn và lúc 12 tháng tuổi nhìn tròn mình hơn so với
nghé nội cùng tuổi.
Kết quả thí nghiệm cho thấy, trong điều kiện nuôi dưỡng tốt, tăng trọng của nghé lai F1 Murrah
đạt trên 600 gam/ngày giai đoạn bú sữa (0-6 tháng tuổi) và gần 500 gam/ngày giai đoạn 7-12
tháng tuổi để đạt khối lượng 145 kg vào lúc 6 tháng tuổi và 235 kg vào lúc 12 tháng tuổi. So với
nghé nội cùng tuổi, cùng điều kiện nuôi dưỡng, khối lượng nghé lai F1 cao hơn 20,5%.
3.6 Ảnh hưởng của đực chọn lọc và bổ sung thức ăn đến sinh sản của trâu mẹ và sinh trưởng
của nghé con
Để đánh giá ảnh hưởng của đực chọn lọc và bổ sung thức ăn cho trâu mẹ và nghé con đến sinh
sản của trâu mẹ và sinh trưởng của nghé con, một thí nghiệm đã được tiến hành trên 270 cặp trâu
mẹ và nghé con phân làm 3 nhóm. Nhóm 1 (n=60) trâu mẹ phối với đực đại trà, nghé sinh ra
nuôi theo phương pháp truyền thống. Nhóm 2 (n=90) trâu mẹ phối với đực chọn lọc, nghé sinh ra
nuôi như nhóm 1. Nhóm 3 (n=120) trâu mẹ phối với đực chọn lọc và nghé sinh ra được bổ sung
thức ăn nhiều hơn, theo yêu cầu thí nghiệm.
Bảng 13. Khối lượng và tăng trọng của nghé
Chỉ tiêu ĐVT Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3
Số nghé theo dõi n 60 90 120
Khối lượng nghé sơ sinh kg 22,5a 23,8
a 24,7
b
Khối lượng nghé 6 tháng kg 105,0a 112,6
b 123,8
c
Khối lượng nghé 12 tháng tuổi kg 162,1a 177,2
b 195,3
c
Tăng trọng nghé giai đoạn 0-6 tháng tuổi gam/ngày 454a 488
a 545
b
Giai đoạn 7-12 tháng tuổi gam/ngày 313a 355
a 393
b
Giai đoạn 0-12 tháng tuổi gam/ngày 383a 421
a 469
b
Khối lượng sơ sinh không có sự sai khác nhau nhiều giữa các lô. Nghé sinh ra từ đực chọn lọc
(lô 2 đạt 23,8kg, và lô 3 là 24,7kg) cao hơn từ 6-10% so với nghé sinh ra từ đực đại trà (lô 1 là
22,5kg). Khối lượng nghé 6 tháng tuổi trung bình cả 3 tỉnh cho thấy, trong cùng phương thức
nuôi theo truyền thống, nghé con sinh ra từ đực chọn lọc (lô 2) đạt 112,6kg, cao hơn so với 105
kg của nghé sinh ra từ đực địa phương (lô 1), cao hơn 7,2% (P= 0,023); Nghé của lô 3 sinh ra từ
đực chọn lọc, khi được bổ sung thức ăn đầy đủ khối lượng đạt 123,8kg, cao hơn nghé của lô 2
được bổ sung thức ăn ít hơn, cao hơn khoảng 10% (P= 0,015). Tăng trọng nghé từ 0-6 tháng tuổi,
lô 2 đạt 488 gam/ngày cao hơn 454 gam/ngày của lô 1(P= 0,053); lô 3 đạt 545 gam/ngày, cao
hơn so với lô 2 (P= 0,021). Khối lượng nghé 12 tháng tuổi ở lô 2 đạt 172,2kg, so với lô 1
162,1kg, cao hơn 9,3% (P= 0,038); nghé lô 3 đạt 195,3kg, cao hơn lô 2 là 10,2% (P= 0,006)
Tăng trọng nghé tính cho cả giai đoạn từ sơ sinh đến 12 tháng tuổi lô 1 đạt 383 gam/ngày, lô 2
đạt 421 gam/ngày, so với lô 1 cao hơn 10 % (P=0,050); nghé lô 3 đạt 469 gam, so với nghé lô 2
cao hơn 11,4% (P= 0,008). Hiệu quả bổ sung thức ăn thể hiện ở khối lượng gia tăng và chi phí
cho 1kg khối lượng nghé lô 3 so với lô 2. Khối lượng nghé gia tăng ở lô 3 cao hơn trung bình
10kg (16,5 kg so với 6,1kg). Đơn giá trung bình cho 1kg nghé tăng thêm là 47,4 ngàn đồng giai
đoạn 0-6 tháng tuổi và 36,3 ngàn đồng cho giai đoạn 7-12 tháng tuổi (Bảng 14).
Bảng 14. Hiệu quả bổ sung thức đến chi phí thức ăn bổ sung cho 1kg khối lượng tăng của nghé
và khoảng cách lứa đẻ của trâu mẹ.
Chỉ tiêu ĐVT Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3
1/ Giai đoạn nghé 0-6 tháng tuổi n 60 90 120
Thức ăn bổ sung cho nghé con Kg DM 14,8 23,2 42,3
Thức ăn bổ sung cho trâu mẹ Kg DM 29,1 31,8 119,1
Tổng chi phí thức ăn cho mẹ và con 1000đ 235,9 273,4 934,2
Tổng chi tăng hơn so với lô 1 1000đ 0 37,5 698,2
Tăng khối lượng của nghé kg 82,6 88,7 99,1
Tăng hơn so với lô1 kg 0 6,1 16,5
Chi phí cho 1kg khối lượng tăng hơn 1000 đ 0 10,2 47,4
2/ Giai đoạn nghé sau cai sữa (7-12 tháng) n 60 90 120
Thức ăn bổ sung cho nghé Kg DM 43,4 49,1 150,8
Chi phí thức ăn bổ sung 1000 đ 172,8 189,9 586,6
Chi phí tăng so với lô 1 1000đ 0,0 17,1 413,8
Khối lượng tăng (7 -12 tháng tuổi) kg 57,7 64,5 70,6
Tăng khối lượng so với lô 1 kg 0,0 6,8 12,8
Chi phí cho 1kg khối lượng tăng thêm 1000 đ 0,0 7,4 36,3
3/ Hao mòn cơ thể mẹ sau 3 tháng kg 27,5 22,5 18,6
Thới gian có chửa lại sau đẻ ngày 186,3 168,6 136,0
Khoảng cách lứa đẻ ngày 516,4a
498,5b
465,9c
KCLĐ so sánh với lô 1 ngày 0,0 -17,5 -50,5
Trâu mẹ thuộc nhóm được bổ sung thức ăn có khối lượng cơ thể bị hao mòn ít hơn (18,6 kg so
với 22,5 kg). Khoảng cách từ khi đẻ đến có chửa lại của trâu mẹ nhóm 3 do bổ sung thức ăn và
kết hợp với chủ động phát hiện trâu động dục, phối giống kịp thời cũng được rút ngắn hơn (136
ngày so với 186,5 ngày), khoảng cách lứa đẻ trung bình vì vậy rút ngắn được 50,5 ngày so với
nhóm 1, sự sai khác này có ý nghĩa thống kê (P= 0,027).
4 Kết luận
Khối lượng trâu đực giống từ 402-460kg, rất hiếm trâu đực có ngoại hình và thể trạng tốt. Trâu
cái không được tiếp xúc đầy đủ với đực giống là một trong những nguyên nhân tỷ lệ đẻ thấp,
khoảng cách lứa đẻ ở trâu cái sinh sản kéo dài (trung bình 20,45 tháng) và tuổi đẻ lứa đầu muộn
ở trâu cái tơ (trung bình 45,34 tháng). Khối lượng và tăng trọng của nghé khá cao so với kết quả
điều tra trước đây, tại các mốc 6 tháng 12; 24 và 36 tháng tuổi tương ứng là 117,9 kg; 183,3 kg;
274,3 kg và 340,5 kg. Lí do là người chăn nuôi đã quan tâm đầu tư thức ăn cho trâu mẹ và nghé
con.
Lai tạo trâu F1 Murrah bằng kỹ thuật phối giống nhân tạo cho trâu cái động dục tự nhiên và gây
động dục đồng loạt nhờ sự hỗ trợ của hormone sinh dục là hoàn toàn khả thi.
Khi phối giống nhân tạo cho trâu cái động dục tự nhiên, trong điều kiện không phát hiện đúng
thời điểm bắt đầu trâu cái động dục thì thời điểm phối giống tốt nhất cho trâu cái là trong khoảng
thời gian từ 18-24 giờ kể từ khi phát hiện trâu cái có dấu hiệu động dục và sau 6-9 giờ phối lặp
lại lần 2 cho trâu còn biểu hiện động dục rõ, kỹ thuật này cho tỷ lệ có chửa đạt từ 60,87 đến
66,67%.
Trâu cái nội đáp ứng tốt với hormone gây động dục đồng loạt, tỷ lệ trâu động dục đạt từ 69,17-
73,97%, thời gian xuất hiện động dục tập trung vào ngày thứ 4 sau xử lí. Tỷ lệ trâu có chửa qua 2
chu kì phối đạt từ 49,17- 64,08% trên số trâu xử lí. Chương trình xử lí kết hợp hormone GnRH+
PGF2α+ Oestrogen hoặc sử dụng kết hợp CIDR+ GnRH+ PGF2α và cố định thời điểm phối sau
khi xử lí (TAI) cho kết quả tốt hơn về tỷ lệ trâu có chửa, đơn giản về kỹ thuật, rất phù hợp cho
chương trình phối giống nhân tạo trâu.
Nghé nội sinh ra từ đực chọn lọc có khối lượng lúc 6 tháng và 12 tháng tuổi cao hơn tương ứng
là 7,2% và 9,3%, tăng trọng từ sơ sinh đến 12 tháng tuổi cao hơn 10% so với nghé nội sinh ra từ
đực đại trà chưa được chọn lọc. Nghé con được bổ sung thức ăn đầy đủ trong giai đoạn 0-6 tháng
tuổi khối lượng nghé 6 tháng tuổi cao hơn từ 10-10,2%, tăng trọng bình quân giai đoạn từ sơ sinh
đến 12 tháng tuổi cao hơn 11,4% so với nhóm nuôi theo truyền thống (ít được bổ sung thêm thức
ăn). Trâu mẹ được bổ sung thức ăn trong giai đoạn nuôi con, kết hợp với kĩ thuật phát hiện động
dục của người chăn nuôi đã rút ngắn khoảng cách lứa đẻ của trâu xuống 50 ngày, còn 15,2
tháng/lứa. Bổ sung thức ăn cho trâu mẹ và nghé con đã cho hiệu quả kinh tế cao do tăng khối
lượng nghé, rút ngắn khoảng cách lứa đẻ của trâu mẹ và chi phí thức ăn bổ sung cho 1kg khối
lượng tăng (36-47 ngàn đ/kg) chỉ bằng một nửa so với giá thị trường.
Sử dụng liều kép prostaglandin F2α cách nhau 10 ngày cho kết quả tốt trong điều trị trâu cái
chậm sinh. Tỷ lệ trâu động dục sau điều trị đạt 71,12%. Phối bắt buộc cho trâu sau điều trị vào
ngày thứ 14-15 tỷ lệ trâu có chửa đạt 54,9% so với trâu được phối và đạt 39% so với trâu được
điều trị.
Trong điều kiện nuôi dưỡng tốt, tăng trọng của nghé lai F1 Murrah đạt trên 600 gam/ngày giai
đoạn bú sữa (0-6 tháng tuổi) và gần 500 gam/ngày giai đoạn 6-12 tháng tuổi để đạt khối lượng
145 kg vào lúc 6 tháng tuổi và 233 kg vào lúc 12 tháng tuổi. So với nghé nội cùng tuổi, cùng
điều kiện nuôi dưỡng, khối lượng nghé lai cao hơn 20,5%.
Đề nghị
- Cho áp dụng trong sản xuất chương trình sử dụng hormone GnRH+ PGF2α+ Oestrogen hoặc
sử dụng kết hợp CIDR+ GnRH+ PGF2α để gây động dục đồng loạt và cố định thời điểm
phối sau khi xử lí (TAI) không cần phát hiện trâu cái động dục.
- Cho áp dụng trong sản xuất chương trình sử dụng liều kép prostaglandin cách nhau 10 ngày
(ngày 1 và ngày 11) và phối bắt buộc cho trâu vào ngày thứ 14-15 để điều trị chậm sinh cho
trâu cái có thể vàng tồn lưu.
Tài liệu tham khảo
1. Chaikhun T, Tharasanit T, Rattanatep J, De Rensis F and Techakumphu M (2010). Fertility of swamp
buffalo following the synchronization of ovulation by the sequential administration of GnRH and PGF2α
combined with fixed – timed artificial insemination. Theriogenology 74:1371-1376.
2. Đinh Văn Cải và ctv (2013). Báo cáo tổng kết đề tài “Nghiên cứu các giải pháp kỹ thuật nâng cao khả năng
sinh sản và sản xuất của trâu”. Tháng 5-2013.
3. Gianluca Neglia, Bianca Gasparrini, Rossella Di Palo, Clemente De Rosa, Luigi Zicarelli,
Giuseppe Campanile (2003). Comparison of pregnancy rates with two estrus synchronization protocols in
Italian Mediterranean Buffalo cows. Theriogenology, 60 (1): 125-133
4. Gupta J, Laxmi A, Vir Singh O and Ashutosh (2008). A comparative study on evaluation of three
synchronization protocols at field level in both cattle and buffaloes. Livstock Reseach for Rural
Development 20(11). http://www.Irrd.org/Irrd20/11/gupt20175.htm.
5. Mai Văn Sánh và cs (2007). Báo cáo tổng kết đề tài trâu giai đoạn 2002-2005.
SUMMARY
STUDY ON TECHNICAL METHODS TO IMPROVE
REPRODUCTIVE PERFORMANCE OF LOCAL BUFFALOES
Dinh Van Cai; Dau Van Hai, Nguyen Thi Thu Hong, Nguyen Huu Tra, Nguyen Duc Chuyen,
Han Quoc Vuong, Phan Van Kiem, Luu Cong Hoa, Thai Khac Thanh, Hoang Khac Hai, Tong
Van Giap.
The study was carried out from 2009 to 2012, after analyzed the data from a survey, seven experiments were
conducted to improve reproduction and growth performance of buffaloes. The results showed that body weight of a
buffalo bull ranged 402 – 466 kg. There was very few buffalo bulls with good conformation and body condition.
Average calving interval of buffalo females was 20.45 months and average age at first calving was 45.34 months.
Average body weight of a young buffalo at 6, 12, 24 and 36 month of age was 117.9, 183.3, 274.3 and 340.5 kg,
respectively.
The best insemination time for local buffalo female, which was naturally on heat, was 18-24 hours after the first on
heat signs were observed. The repeated service should be done at 6-9 hours after the first service. This insemination
protocol resulted in the pregnancy rate from 60.87 – 66.67% after 2 cycles. Local buffaloes well responded to
hormones in heat synchronization treatment. After hormone treated, 69.17 – 73.79% of treated buffalo was on heat.
Most of treat buffaloes were on heat at day 4th
after treatment. The pregnant rate after 2 insemination cycles was
49.17 – 64.08% of the treated animals. The hormone programs GnRH+ PGF2α+ Oestrogen +TAI or CIDR+ GnRH+
PGF2α +TAI resulted in good pregnant rate. The advantages of these hormone program are simple in technique and
easy in manipulating the artificial insemination period in a year.
Treating PGF2α 2 times with 10 days interval showed good result in treatment of remaining corpus luteum. Data
showed that 77.12% treated animal was on heat after treatment. Applying artificial insemination at 14-15 days after
hormone treatment resulted in pregnant rate of 54.9% (out of inseminated animal) and 39% (out of treated animal).
The body weight at 6 and 12 month old of young buffaloes from selected buffalo bull was higher 7.2 and 9.3%,
respectively as compared to that of young buffaloes non selected buffalo bull. Similarly, average daily gain of young
buffaloes from selected buffalo bull was also 10% higher. From 0-6 month old, young buffaloes in feed
supplemented group was 10% higher in body weight and 11.4% higher in average daily gain as compared to that of
non supplemented group (traditional feeding program). Supplementing feed to lactating buffaloes in combination of
heat detection technique reduced 50 days of calving interval (this meant calving interval was only 15.2 months). In
good feeding condition, average daily gain of young F1 Murrah buffaloes in sucking period (0-6 months) and period
of 7-12 months was 600 and 500 g/d, respectively. Body weight of F1 Murrah buffaloes was 145 and 223 kg at the
age of 6 and 12 months, respectively. In the same nutrition and feeding condition, at young age, body weight of F1
Murrah was 20.5% higher as compared to that of local buffaloes.
Key Word: Estrus synchronization, F1 Murrah, Seleced bull, local buffaloes.