Tim hieu vai tro của Nha nuoc

123
TÌM HIỂU VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một vấn đề lớn cả về lý luận lẫn thực tiễn. Đây là một vấn đề được các nhà lãnh đạo và các nhà nghiên cứu rất quan tâm. Có nhiều quan điểm khác nhau, có những quan điểm có thể đi đến kết luận thống nhất, song cũng có những quan điểm còn đang trong quá trình thảo luận chưa đi đến thống nhất. Kinh nghiệm thành công của quá trình chuyển đổi nền kinh tế trong thời gian qua là sự thay đổi tư duy và nhận thức về vai trò của Nhà nước trong công cuộc phát triển đất nước. Chính vì vậy, sự thành công của giai đoạn phát triển tiếp theo sẽ lệ thuộc rất nhiều vào việc xác định lại một cách hợp lý vai trò, nhiệm vụ của Nhà nước trong quản lý kinh tế. Nhằm cung cấp một số thông tin tổng hợp của các chuyên gia kinh tế trong nước làm tài liệu tham khảo phục vụ các nhà lãnh đạo và những người quan tâm, Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội Quốc gia biên soạn chuyên đề “TÌM HIỂU VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG”. Xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả. Chương I : VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 1. Sự lựa chon mô hình thể chế kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCH ở Việt Nam Như mọi người đã biết, KTTT là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ văn minh của nhân loại. Từ trước tới nay, nó tồn tại và phát triển chủ yếu dưới chủ nghĩa tư bản (CNTB), là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển CNTB; CNTB đã biết lợi dụng tối đa ưu thế của KTTT để phục vụ mục tiêu phát triển tiềm năng kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận và - một cách khách quan - nó thúc đẩy lực lượng sản xuất của xã hội phát triển mạnh mẽ. Ngày nay, KTTT tư bản chủ nghĩa (TBCN) đã đạt tới giai đoạn phát triển khá cao 1

Transcript of Tim hieu vai tro của Nha nuoc

Page 1: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

TÌM HIỂU VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một vấn đề lớn cả về lý luận lẫn thực tiễn. Đây là một vấn đề được các nhà lãnh đạo và các nhà nghiên cứu rất quan tâm. Có nhiều quan điểm khác nhau, có những quan điểm có thể đi đến kết luận thống nhất, song cũng có những quan điểm còn đang trong quá trình thảo luận chưa đi đến thống nhất.

Kinh nghiệm thành công của quá trình chuyển đổi nền kinh tế trong thời gian qua là sự thay đổi tư duy và nhận thức về vai trò của Nhà nước trong công cuộc phát triển đất nước. Chính vì vậy, sự thành công của giai đoạn phát triển tiếp theo sẽ lệ thuộc rất nhiều vào việc xác định lại một cách hợp lý vai trò, nhiệm vụ của Nhà nước trong quản lý kinh tế.

Nhằm cung cấp một số thông tin tổng hợp của các chuyên gia kinh tế trong nước làm tài liệu tham khảo phục vụ các nhà lãnh đạo và những người quan tâm, Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội Quốc gia biên soạn chuyên đề “TÌM HIỂU VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG”.

Xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả.

Chương I : VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾTHỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA

I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

1. Sự lựa chon mô hình thể chế kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCH ở Việt Nam

Như mọi người đã biết, KTTT là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ văn minh của nhân loại. Từ trước tới nay, nó tồn tại và phát triển chủ yếu dưới chủ nghĩa tư bản (CNTB), là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển CNTB; CNTB đã biết lợi dụng tối đa ưu thế của KTTT để phục vụ mục tiêu phát triển tiềm năng kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận và - một cách khách quan - nó thúc đẩy lực lượng sản xuất của xã hội phát triển mạnh mẽ. Ngày nay, KTTT tư bản chủ nghĩa (TBCN) đã đạt tới giai đoạn phát triển khá cao và phồn thịnh trong các nước tư bản phát triển.

Tuy nhiên, KTTT TBCN không phải là vạn năng. Bên cạnh mặt tích cực, nó còn có những mặt tiêu cực, có mặt từ trong bản chất của nó do chế độ sở hữu tư nhân TBCN chi phối. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, càng ngày mâu thuẫn của CNTB càng bọc lộ sâu sắc. CNTB tỏ ra bất lực trước các vấn đề xã hội, sự bất công và bất ổn xã hội, hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo ngày càng bị khoét sâu. Hơn thế nữa, trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay, CNTB còn ràng buộc các nước

1

Page 2: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

kém phát triển trong quỹ đạo bị lệ thuộc và bị bóc lột theo quan hệ “trung tâm - ngoại vi”. Có thể nói, nền kinh tế TBCN toàn cầu ngày nay là sự thống trị của một số ít nước lớn, một số tập đoàn xuyên quốc gia đối với đa số các nước nghèo, làm tăng thêm mâu thuẫn giữa các nước giàu và các nước nghèo. Nền KTTT TBCN hiện nay đang ngày càng thể hiện xu hướng tự phủ định và “tự tiến hoá” để chuẩn bị sang hậu công nghiệp. Đây là yếu tố khách quan, là quy luật phát triển của xã hội. Nhân loại muốn tiến lên, xã hội muốn tiến lên thì không thể dừng lại ở mô hình KTTT TBCN.

Sau Cách mạng tháng Mười Nga thành công và sau Chiến tranh thế giới thứ II, Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) Đông Âu bước vào xây dựng kinh tế trên cơ sở xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội (CNXH) kiểu xô viết với mong muốn khắc phục những tồn tại của CNTB, xây dựng chế độ mới, phương thức sản xuất mới XHCN tốt đẹp hơn. Mặc dù sau hơn 70 năm xây dựng CNXH, mô hình CNXH kiểu xô viết đã đạt được một số thành tựu vĩ đại, nhưng có lẽ do nôn nóng muốn nhanh chóng xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp hơn, cộng với sự yếu kém trong lãnh đạo, quản lý… đã không tôn trọng quy luật khách quan, xoá bỏ kinh tế thị trường cùng các quy luật hoạt động của nó nên mô hình trên đã thất bại.

Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế kỹ thuật lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đi lên CNXH là mục tiêu, lý tưởng của những người cộng sản và nhân dân Việt Nam, là khát vọng thiêng liêng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Nhưng đi lên CNXH bằng cách nào là một câu hỏi lớn, không dễ tìm ra ngay câu trả lời. Suốt một thời gian dài, Việt Nam cũng như nhiều nước khác đã áp dụng mô hình CNXH kiểu xô viết, mô hình kinh tế kế hoạch tập trung cao độ và bao cấp. Mô hình này phù hợp với yêu cầu của thời kỳ đất nước có chiến tranh. Nhưng về sau, mô hình này đã bộc lộ những khuyết điểm. Trong khi đó, công tác chỉ đạo cũng phạm phải một số sai lầm bắt nguồn từ bệnh giáo điều, chủ quan duy ý chí, lối tư duy và hành động giản đơn, nóng vội, không tôn trọng quy luật khách quan, nhận thức về CNXH không đúng với thực tế Việt Nam.

Trên cơ sở nhận thức đúng hơn và đầy đủ hơn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, Đại hội VI của Đảng (tháng 12 - 1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng CNXH. Đại hội đã đưa ra những quan niệm mới về con đường, phương pháp xây dựng CNXH trong thời kỳ quá độ, về cơ cấu kinh tế, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hoá và thị trường, phê phán mạnh cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp và khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh. Đại hội chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp; coi trọng việc kết hợp lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội; chăm lo toàn diện và phát huy nhân tố con người; có những nhận thức mới về chính sách xã hội.

Hội nghị Trung ương 6 khoá VI (tháng 3 năm 1989) phát triển thêm một bước, đưa ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên CNXH, coi chính sách kinh tế nhiều thành phần là vấn đề có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH.

Đến Đại hội VII (tháng 6 năm 1991), Đảng tiếp tục nói rõ hơn chủ trương này và

2

Page 3: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

khẳng định đây là chủ trương chiến lược, là con đường đi lên CNXH của Việt Nam. Cương lĩnh năm 1991 của Đảng khẳng định: phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Đại hội VIII của Đảng (tháng 6 năm 1996) đưa ra một số kết luận mới rất quan trọng: “Sản xuất hàng hoá không đối lập với CNXH mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng”. Từ lúc đó đã nói đến nền kinh tế hàng hoá, cơ chế thị trường, nhưng chưa dùng khái niệm “KTTT”. Đại hội IX của Đảng (tháng 4 năm 2001) chính thức dùng khái niệm “KTTT định hướng XHCN” là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam.

Lựa chọn mô hình KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam không phải là sự gán ghép chủ quan giữa KTTT và CNXH, mà là sự nắm bắt và vận dụng xu thế khách quan của KTTT trong thời đại ngày nay. Trên cơ sở nhận thức tính quy luật phát triển của thời đại, khái quát, đúc kết kinh nghiệm phát triển KTTT thế giới, đặc biệt là thực tế xây dựng CNXH ở Trung Quốc và Việt Nam, Đảng đưa ra chủ trương phát triển nền KTTT định hướng XHCN thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng ta về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.

2. Sự hình thành khung thể chế KTTT định hướng CNXH

Trước hết chúng ta phải nắm bắt và hiểu rõ những ưu thế và khuyết tật cơ bản của nền KTTT:

Phân công lao động xã hội theo ngành và theo lãnh thổ và sự xuất hiện tư hữu về tư liệu sản xuất là hai điều kiện tiên quyết của nền KTTT.

Nền KTTT có những ưu thế :

- Tự động đáp ứng nhu cầu có thể thanh toán được của xã hội một cách linh hoạt và hợp lý; phản ứng nhanh nhạy trước những thay đổi trong nhu cầu của xã hội và các điều kiện kinh tế trong nước và quốc tế. Điều này là thể hiện những bài học “nhập môn” của người sản xuất trong nền KTTT luôn luôn phải tìm hiểu nhu cầu xã hội để sản xuất cái gì? Sản xuất cho ai?

- Có khả năng huy động tối đa mọi tiềm năng của xã hội.

- Tạo ra động lực mạnh thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp đạt hiệu quả cao (và tất yếu có lợi nhuận nhiều) và “thị trường là chiến trường” với hình thức phá sản tạo ra cơ chế đào thải các doanh nghiệp yếu kém. Đây cũng lại là một bài học “nhập môn” của người sản xuất là: sản xuất thế nào?

- Buộc các nhà doanh nghiệp phải thường xuyên học hỏi lẫn nhau, hạn chế các sai lầm trong kinh doanh diễn ra trong thời gian dài và trên quy mô lớn.

- Tạo động lực thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng khoa học - công nghệ - kỹ thuật, nền kinh tế năng động và hiệu quả cao.

Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường cũng có nhiều khuyết tật:

- Động lực lợi nhuận cao tạo ra môi trường thuận lợi dẫn đến nguy cơ vi phạm pháp

3

Page 4: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

luật, thương mại hoá các giá trị đạo đức và đời sống tinh thần, mang theo các tệ nạn như buôn gian bán lận, tham nhũng,…

- Sự cạnh tranh không lành mạnh dẫn đến mất cân đối vĩ mô, lạm phát, thất nghiệp, sự phát triển có tính chu kỳ của nền kinh tế; sự cạnh tranh dẫn đến độc quyền, hạn chế nhiều những ưu điểm của nền kinh tế thị trường.

- Tạo ra sự bất bình đẳng, phân hoá giàu - nghèo.

- Lợi ích chung, dài hạn của xã hội không được quan tâm đúng mức; tài nguyên thiên nhiên và môi trường bị tàn phá nghiêm trọng và trên phạm vi rộng nếu Nhà nước không có biện pháp quản lý chặt chẽ.

- Sản sinh và dẫn đến các cuộc chiến tranh kinh tế.

Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã xác định: đến năm 2010, về cơ bản phải hình thành đồng bộ thể chế KTTT định hướng XHCN, và coi đây là một giải pháp có tính đột phá của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010, nhằm đẩy mạnh CNH, HĐH, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Phương pháp tiếp cận bản chất, nguyên tắc và nội dung thể chế KTTT định hướng XHCN đòi hỏi phải đặt nó trong mối liên hệ biện chứng giữa cái chung (KTTT) và cái đặc thù (định hướng XHCN). Ở đây nổi lên 3 vấn đề:

Thứ nhất, đối với cái chung (KTTT), trong quá trình hình thành thể chế KTTT định hướng XHCN phải tạo lập và vận dụng nghiêm túc, đồng bộ các “yếu tố”:

- Các chủ thể kinh tế dựa trên sự đa dạng các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế. Các chủ thể KTTT phải được tự chủ sản xuất kinh doanh, cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật.

- Các phạm trù vốn có của KTTT như: hàng hoá, tiền tệ, thị trường, cạnh tranh, cung - cầu, giá cả thị trường và lợi nhuận.

- Các quy luật của KTTT.

- Cơ chế vận hành nền KTTT - cơ chế thị trường.

Thứ hai, đối với “cái đặc thù” (định hướng XHCN), trong quá trình hình thành thể chế KTTT định hướng XHCN phải quán triệt:

- Chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng kinh tế này giữ vai trò quan trọng trong mô hình thể chế KTTT định hướng XHCN và nó định hướng suy nghĩ và hành vi của các chủ thể KTTT, của con người trong xã hội.

- Đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam được coi là yếu tố quan trọng, quyết định những định hướng xây dựng thể chế KTTT định hướng XHCN.

- Các mục tiêu, nguyên tắc và những nhiệm vụ cơ bản hướng đến các mục tiêu và đặc trưng của CNXH mà nước ta đang xây dựng.

Thứ ba, trong mối quan hệ giữa cái chung (KTTT) và cái đặc thù (định hướng XHCN) thì KTTT thể hiện với tư cách là động lực, phương tiện để phát triển kinh tế - xã hội, để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho xã hội mới XHCN. Định hướng

4

Page 5: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

XHCN giữ vai trò dẫn dắt quá trình thực tiễn phát triển KTTT theo những mục tiêu đã định. Tính định hướng XHCN quy định quá trình phát triển KTTT ở nước ta phải là thực hiện cho được mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

Từ phương pháp tiếp cận nêu trên và trên cơ sở đổi mới tư duy lý luận của gần 20 năm đổi mới, việc hình thành khung cơ bản của thể chế KTTT định hướng XHCN ở nước ta thể hiện ở những nội dung cốt lõi sau đây:

- Phát triển nền sản xuất hàng hoá dựa trên cơ sở đa dạng các hình thức sở hữu, trong đó công hữu (sở hữu xã hội) XHCN giữ vai trò nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Các thành phần kinh tế khác cùng tồn tại và phát triển, cạnh tranh và hợp tác với nhau.

- Hình thành đồng bộ và vận hành thông suốt, có hiệu quả hệ thống các thị trường trong mối quan hệ chỉnh thể, thúc đẩy lẫn nhau trong quá trình mở cửa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

- Nhà nước (Chính phủ) điều hành kinh tế vĩ mô. Nhà nước tôn trọng nguyên tắc tồn tại khách quan của thị trường và cơ chế thị trường, tạo môi trường pháp lý, kinh tế, xã hội thuận lợi cho các chủ thể KTTT hoạt động.

- Thực hiện phân phối theo lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh là chính, đồng thời áp dụng các hình thức phân phối khác… Coi trọng hiệu quả, đồng thời đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội trong phân phối và phân phối lại.

- Xây dựng một hệ thống bảo hiểm và an sinh xã hội theo hướng từng bước thực hiện chế độ bảo hiểm cho mọi người lao động, mọi tầng lớp nhân dân, quan tâm hỗ trợ những người nghèo có hoàn cảnh khó khăn và những người được hưởng chính sách xã hội.

- Xây dựng hệ thống pháp luật thích ứng và thúc đẩy sự vận hành có hiệu quả của thể chế KTTT, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

Những nội dung cốt lõi của khung thể chế KTTT định hướng XHCN ở nước ta cần được triển khai đồng thời và đồng bộ.

3. Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường

Ở nước ta, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng là sự phản ảnh quyền lực và yêu cầu của quyền lực nhân dân, phản ánh nhu cầu lợi ích chính đáng của nhân dân.

Nhà nước trong hệ thống chính trị là tổ chức quyền lực thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân quản lý toàn bộ hoạt động đời sống xã hội.

Nhà nước ta có chức năng đối nội và đối ngoại. Chức năng đối nội của Nhà nước ta nhằm giải quyết các vấn đề về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng của đất nước. Các chức năng đối ngoại của Nhà nước ta nhằm giải quyết các quan hệ của Nhà nước ta với các dân tộc và quốc gia khác trên trường quốc tế trên cơ sở kiên

5

Page 6: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

định đường lối độc lập tự chủ, chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hóa. Việc thực hiện hai chức năng đối nội và đối ngoại được thực hiện trong mối quan hệ tương tác, hỗ trợ lẫn nhau trong một thể thống nhất.

Trên giác độ hình thức pháp lý, quản lý nhà nước thể hiện trong ba nội dung: lập pháp, hành pháp, tư pháp trong phạm vi quốc gia và cả những vấn đề liên quan đến thế giới.

3.1 Những thành tựu quản lý nhà nước trong gần 20 năm đổi mới của Nhà nước ta

Qua gần 20 năm đổi mới, quản lý nhà nước của Nhà nước đã có những tiến bộ nhất định, đó là:

+ Chuyển từ quản lý kinh tế - xã hội chủ yếu bằng nghị quyết và mệnh lệnh hành chính sang quản lý bằng pháp luật - pháp luật đã trở thành công cụ quản lý chủ yếu của Nhà nước;

+ Thay hình thức quản lý nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với việc tạo nên hành lang pháp lý cho việc xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, xác định chế độ sở hữu và các hình thức sở hữu, địa vị pháp lý của các doanh nghiệp, quyền tự do kinh doanh (với các doanh nghiệp có quyền kinh doanh các ngành nghề không bị pháp luật cấm), quyền tự chủ trong kinh doanh, xoá bỏ độc quyền về ngoại thương của Nhà nước, giảm dần sự can thiệp của Nhà nước bằng các biện pháp hành chính vào các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại…

Thực hiện các chủ trương về đổi mới tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước đã được thể chế hoá thành các quy định của pháp luật, tạo cơ sở pháp lý để cải cách bộ máy nhà nước.

Tạo cơ sở pháp lý cho việc củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh của đất nước, đồng thời không ngừng mở rộng quan hệ đối ngoại.

Tạo điều kiện để nhân dân tham gia vào hoạt động QLNN và bản thân Nhà nước cũng từng bước chuyển sang quản lý những gì thực sự cần thiết thuộc về chức năng quản lý của mình ở các ngành, nghề có khả năng chi phối toàn bộ nền kinh tế quốc dân và về an ninh, quốc phòng, để đạt hiệu quả cao; trả lại cho xã hội những công việc mà xã hội, các thành phần kinh tế khác có thể làm tốt hơn.

Từng bước tạo được cơ sở pháp lý cần thiết để thực hiện các chính sách xã hội, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường.

+ Nước ta đã trở thành thành viên nhiều tổ chức quốc tế (ASEAN, APEC, WB, IMF, ADB, đang từng bước để sớm trở thành thành viên WTO, ký kết tham gia nhiều Điều ước quốc tế,…), ký nhiều Hiệp định thương mại song phương và đa phương (Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, Việt Nam - EU, ký và triển khai thực hiện AFTA,…),…

+ Cải cách lập pháp, xây dựng các văn bản pháp luật cũng được thể chế hoá bằng việc dựa vào Luật ban hành để xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật tạo cơ sở

6

Page 7: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

soạn thảo, thẩm định và ban hành các văn bản pháp luật dần dần đi vào nền nếp, theo một quy trình thống nhất,…

+ Cải cách hành chính, tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương đã có những bước được điều chỉnh theo yêu cầu của quá trình chuyển đổi từ kế hoạch hoá tập trung sang nền KTTT định hướng XHCN. Chính phủ tập trung thực hiện chức năng QLNN ở tầm vĩ mô, từng bước xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp.

3.2. Những điều đã đạt được về mặt QLNN của Nhà nước ta trong thời gian qua có thể nhìn nhận thông qua việc Nhà nước ta thực hiện chức năng quản lý của Nhà nước về: lập pháp, hành pháp và tư pháp.

a. Trong ba mặt đó, thì chức năng lập pháp của QLNN được thể hiện thông qua

việc xây dựng và ban hành hệ thống pháp luật là rất quan trọng. Hệ thống pháp luật

từ Hiến pháp đến các luật và văn bản dưới luật của Nhà nước là sự cụ thể hoá quyền

lực nhà nước và lợi ích của nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình đối

với toàn bộ xã hội thông qua các tổ chức Đảng, các cơ quan nhà nước và các tổ chức

chính trị - xã hội, tổ chức xã hội. Còn QLNN nói chung, là sự điều hành, điều chỉnh

các hành vi, hành động của các tổ chức và của mọi công dân theo luật định bằng quyền

lực của Nhà nước.

Hiến pháp 1992 được Quốc hội thông qua ngày 14 tháng 4 năm 1992 và được Chủ

tịch Hội đồng Nhà nước công bố ngày 17 tháng 4 năm 1992. Hiến pháp 1992 là một

bước phát triển quan trọng trong lịch sử lập hiến nước ta.

Hiến pháp 1992 đã thể chế hoá những quan điểm cơ bản của Đảng: đổi mới mạnh

mẽ về kinh tế, đồng thời đổi mới vững chắc về chính trị, khẳng định mục tiêu XHCN.

Về chế độ chính trị: Tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản

Việt Nam, mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp

luật. Quy định những nội dung cơ bản như: Quyền dân tộc cơ bản, chủ quyền quốc

gia, quyền tự quyết của dân tộc; về tính nhân dân của Nhà nước, Nhà nước Cộng

hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN, của nhân dân, do

nhân dân và vì nhân dân, với quyền lực của Nhà nước thuộc về nhân dân, mà nền

tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức,

nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân

các cấp,…; về tính dân tộc của Nhà nước là Nhà nước của tất cả các dân tộc sinh

sống trên lãnh thổ Việt Nam,…; về chính sách đối ngoại là “Việt Nam muốn làm

bạn với tất cả các quốc gia, dân tộc trên cơ sở tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh

thổ, bình đẳng và cùng có lợi; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau”.

Về kinh tế, Hiến pháp năm 1992 quy định: chính sách kinh tế ở nước ta là nhất quán

phát triển nền KTTT định hướng XHCN. Mục đích của chính sách kinh tế là làm cho

7

Page 8: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Các thành phần kinh tế

đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Các thành phần kinh tế được sản xuất, kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp

luật không cấm, cùng phát triển lâu dài, hợp tác, bình đẳng, cạnh tranh theo pháp luật.

Về bộ máy nhà nước: Bộ máy nhà nước được tổ chức hoạt động theo nguyên tắc tập

trung dân chủ, nguyên tắc Đảng lãnh đạo, nguyên tắc phát huy rộng rãi quần chúng

nhân dân tham gia QLNN, nguyên tắc pháp chế XHCN. Cơ cấu tổ chức và phương

thức hoạt động của bộ máy nhà nước tiếp tục được củng cố và phát triển và có nhiều

cái mới so với quy định của Hiến pháp 1980, như: Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và

Chủ tịch nước thay thế cho chế định Hội đồng Nhà nước; Chính phủ thay thế cho Hội

đồng Bộ trưởng;…

Sau Hiến pháp là rất nhiều các luật và các pháp lệnh đã được Quốc hội thông qua và

đang thực thi, như: Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân 1994 (sửa đổi), Luật Tổ chức

Chính phủ năm 2001, Luật Dân sự, Luật Hình sự, Luật Kinh tế (gồm rất nhiều luật

khác nhau), Luật Lao động, Luật Đất đai,…; nhiều nghị định, quyết định của Chính

phủ;…

QLNN thông qua việc ban hành các văn bản pháp luật là rất quan trọng. Quốc

hội nước ta trong nhiều năm qua, nhất là sau khi bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới,

thực hiện quá trình hội nhập quốc tế đã “tăng tốc” trong việc xây dựng và ban hành

các luật và pháp lệnh. Tuy nhiên, công việc xây dựng và ban hành các văn bản luật

của nước ta là rất chậm so với yêu cầu của quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị

trường theo định hướng XHCN.

Mặt khác, việc tổ chức thực hiện các văn bản luật cho các đối tượng trong phạm vị

điều chỉnh của luật, thực hiện khẩu hiệu “mọi người sống và làm việc theo pháp luật”,

nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền lại càng quan trọng hơn, vì cho đến nay nhân

dân ta chưa có thói quen sống, làm việc theo pháp luật, hiểu biết về pháp luật trong

nhân dân ta và cả trong không ít các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, các

doanh nghiệp cũng còn hạn chế. Ở đây, cần nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tổ

chức thực hiện các văn bản luật vì nếu không giải thích đầy đủ các bộ luật cũng như

biện pháp tổ chức thực hiện không phù hợp, sẽ dễ dẫn đến việc thực hiện các văn bản

luật không đúng với yêu cầu, mục đích.

b. Trên lĩnh vực hành pháp, bộ máy nhà nước bằng các hoạt động cụ thể, đưa pháp

luật vào đời sống xã hội, bảo đảm để pháp luật trở thành khuôn mẫu hoạt động của

Nhà nước, của cả xã hội, bảo đảm thực hiện thống nhất pháp luật ở mọi ngành, mọi

cấp trên phạm vi toàn lãnh thổ quốc gia.

Vai trò quản lý của Nhà nước thể hiện qua cơ cấu tổ chức của Nhà nước và sự

8

Page 9: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

phân công trách nhiệm thực hiện cũng như sự phân công phối hợp thực hiện các

nhiệm vụ QLNN trong tất cả mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội trong

phạm vi quốc gia và quốc tế.

Để đạt các mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài, Nhà nước ta thực hiện chức năng

QLNN thông qua bộ máy hành pháp với những công cụ như: xây dựng các chương

trình mục tiêu, quy hoạch, kế hoạch về từng lĩnh vực theo từng thời kỳ khác nhau.

c. Phương pháp thực hiện chức năng QLNN của Nhà nước ta bao gồm: phương pháp giáo dục, thuyết phục, động viên (bao gồm các pháp luật, các chương trình và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, …) và cả bộ máy tư pháp (gồm cả phương pháp dùng quyền lực thông qua một bộ phận của tổ chức nhà nước như công an, quân đội để bảo đảm an ninh trật tự, cũng như sự toàn vẹn của lãnh thổ,…). Chính lĩnh vực tư pháp, thông qua hoạt động của các cơ quan chức năng: Toà án, Viện kiểm sát, Thanh tra,… thể hiện sự QLNN nhằm bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm, duy trì được trật tự, kỷ cương phép nước, sự ổn định của xã hội; đồng thời góp phần thực hiện các chương trình, quy hoạch, kế hoạch trên mọi lĩnh vực.

Vai trò QLNN của Nhà nước ta được cụ thể hơn và dễ nhận thấy trong việc QLNN ở từng nhiều lĩnh vực khác nhau: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, mà lĩnh vực lớn nhất là QLNN trong lĩnh vực kinh tế.

II. NỘI DUNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ

Vai trò quản lý của Nhà nước với nền KTTT ngày càng được khẳng định, nhưng ở mức độ và các hình thức quản lý ở những cung bậc khác nhau, phụ thuộc chủ yếu vào thể chế chính trị của mỗi quốc gia.

Từ cuối thế kỷ XIX và sang cả thế kỷ XX nhiều trường phái kinh tế xuất hiện. Các nhà kinh tế cổ điển và tân cổ điển say sưa với “bàn tay vô hình” và “cân bằng tổng quát”, trường phái Keynes và trường phái Keynes mới lại nhấn mạnh “bàn tay nhà nước”, còn Samuelson chủ trương phát triển kinh tế phải dựa vào cả “hai bàn tay”, là cơ chế thị trường và Nhà nước. Samuelson đã đưa ra một hình ảnh khá thuyết phục, “điều hành một nền kinh tế không có đồng thời cả Chính phủ lẫn thị trường thì cũng như định vỗ tay bằng một bàn tay”.

Nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế KTTT từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, với chỉ hai hình thái sở hữu về tư liệu sản xuất là sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể, chịu sự quản lý tập trung của Nhà nước thông qua kế hoạch là trung tâm và động lực cơ bản của sự vận động kinh tế là sự giác ngộ cách mạng của cán bộ, công nhân viên và kỷ luật hành chính.

Chính vì vậy những biểu hiện trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường của nước ta thể hiện khá rõ qua các khía cạnh sau:

Những lực lượng kinh tế mới cần có, nhưng chưa có đủ, những lực lượng kinh tế cũ cần chuyển đổi nhưng chưa chuyển đổi kịp.

9

Page 10: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

Những cơ chế mới, cần có cho nền KTTT nhưng chưa được xây dựng hoàn chỉnh, những cơ chế cũ của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp cần xoá bỏ, nhưng chưa xoá bỏ kịp.

Tuy gọi là chuyển sang nền KTTT, nhưng các loại thị trường ở nước ta chưa có, hoặc đã có nhưng chỉ mới là bước đầu, như: thị trường hàng hoá, thị trường vốn và tiền tệ đã hình thành, nhưng còn nhỏ bé; thị trường lao động, bất động sản mới hình thành; thị trường sản phẩm khoa học - công nghệ, thị trường chứng khoán và bảo hiểm,… đang hình thành và đang bắt đầu khởi động. Sự đan xen một cách chênh lệch trên của các yếu tố mới và cũ nên sự vận hành của nền KTTT ở nước ta chưa đồng bộ.

Về thực thể nền KTTT: Về quan hệ sản xuất, có sự đa dạng về hình thức sở hữu tư liệu sản xuất, có sự đa dạng về loại hình doanh nghiệp và đã được khẳng định trong Hiến pháp 1992, có tác dụng tích cực giải phóng sức sản xuất, vừa hạn chế các tác dụng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội; về lực lượng sản xuất, nền KTTT của nước ta phải được xây dựng theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Về bảo đảm quản lý theo nguyên tắc: Nhà nước của dân, do dân và vì dân, Nhà nước tập trung dân chủ, Nhà nước pháp quyền, Nhà nước thống nhất quyền lực, có phân công,… do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

1. Sự cần thiết khách quan của QLNN về kinh tế

Từ học thuyết “hai bàn tay” của Samuelson đã khẳng định vai trò của Nhà nước trong nền KTTT. Nhà nước đóng vai trò quan trọng để hạn chế những khuyết tật của nền KTTT.

Việt Nam cũng không đứng ngoài, không thể không vận dụng học thuyết trên của Samuelson. Nhà nước Việt Nam là tổ chức quyền lực chính trị của nhân dân Việt Nam, đại diện cho nhân dân Việt Nam thực hiện quản lý thống nhất mọi mặt hoạt động của đời sống xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng, đối ngoại. QLNN về kinh tế là nội dung quan trọng và rộng lớn nhất.

QLNN về kinh tế nhằm: phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế, động viên sức mạnh của toàn dân tộc, điều chỉnh các quan hệ xã hội để các quan hệ lao động sáng tạo được tiến hành một cách tối ưu, các quan hệ lợi ích được thực hiện một cách công bằng, văn minh, phát huy các lợi ích trước mắt và lâu dài; hỗ trợ tập trung cho các công dân có điều kiện đóng góp vào mục tiêu “dân giàu, nước mạnh” bằng tạo các tiền đề về ý chí, khát vọng và niềm tin vào con đường làm giàu, về các tri thức và thông tin có liên quan đến sự nghiệp kinh tế, các hành lang pháp lý, các phương tiện sản xuất kinh doanh mà công dân không thể tự lực được, như: vốn, hạ tầng cơ sở, các điều kiện để mở rộng thị trường trong và ngoài nước; bảo vệ và tăng cường mở rộng môi trường kinh doanh, môi trường thiên nhiên.

2. Đối tượng, phạm vi QLNN về kinh tế

Nhà nước quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân, có nghĩa là:

+ Quản lý kinh tế trên lãnh thổ quốc gia (kể cả các dự án có vốn đầu tư của nước ngoài) và ngoài lãnh thổ quốc gia (các hoạt động kinh tế của công dân nước Việt Nam đang diễn ra ở nước ngoài).

10

Page 11: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

+ Quản lý một bộ phận cấu thành nền kinh tế quốc dân, gồm: tài nguyên quốc gia, kết cấu hạ tầng kinh tế, quỹ tiền tệ quốc gia, dự trữ ngoại tệ và vàng cùng các kim loại quý, hệ thống các doanh nghiệp thuộc mọi loại hình sở hữu.

+ Quản lý mọi ngành kinh tế hợp thành hệ thống kinh tế quốc dân.

Tất nhiên, QLNN đối với các đối tượng trên, có phạm vi quản lý khác nhau, như: Đối với tài nguyên quốc gia, Nhà nước quản lý toàn diện và tuyệt đối; đối với các doanh nghiệp, Nhà nước quản lý các mặt sau: Xác định hình thức sở hữu của nền kinh tế, của doanh nghiệp, Nhà nước can thiệp vào cơ chế quản lý tại các doanh nghiệp, Nhà nước can thiệp vào các mặt của quá trình hình thành lực lượng sản xuất của xã hội,… nhưng nói chung là sự can thiệp có mức độ nhất định mà chủ yếu các doanh nghiệp vẫn có quyền tự chủ của mình trong việc quyết định sản xuất gì? Sản xuất cho ai? Và sản xuất thế nào? Và Nhà nước thực hiện chức năng nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.

3. Nội dung chủ yếu của QLNN về kinh tế

3.1. Xây dựng pháp luật kinh tế

Với nhận thức về tầm quan trọng của việc xây dựng pháp luật kinh tế trong hệ thống các hoạt động QLNN về kinh tế, trước hết làm cơ sở cho mọi công dân Việt Nam (và cả các nhà đầu tư nước ngoài) yên tâm, có lòng tin để làm kinh tế trên lãnh thổ Việt Nam (và một phần cho các nhà đầu tư Việt Nam đầu tư ra nước ngoài) khi Đảng cầm quyền có đường lối chính trị - kinh tế rõ ràng, các điều kiện tối thiểu để cho một hoạt động kinh tế - xã hội của mọi thành phần kinh tế đã được thể chế hoá, trong đó nội dung chủ yếu là xây dựng pháp luật.

Việc xây dựng pháp luật về kinh tế ở nước ta là quá chậm trước yêu cầu chuyển sang KTTT có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN và hội nhập quốc tế. Đây là điều Nhà nước ta đã thấy và đang tìm mọi biện pháp để đẩy nhanh việc xây dựng pháp luật kinh tế.

Trước hết, nhiều luật trong hệ thống pháp luật của nước ta (và cả nhiều nước) không chỉ đơn thuần về kinh tế, nhưng có tác dụng rất lớn đến việc ổn định và tăng trưởng kinh tế, chẳng hạn: Hiến pháp 1992 (bổ sung năm 2001) có những điều của Hiến pháp về sự công nhận tồn tại và cùng phát triển một cách bình đẳng, lâu dài của các thành phần kinh tế, hay Bộ Luật Dân sự có những điều liên quan đến quyền thừa kế tài sản, Bộ Luật Lao động,… đều liên quan không nhỏ tới các hoạt động kinh tế.

Với các luật “đơn thuần” về kinh tế, cần được xây dựng và hoàn thiện thành một hệ thống luật kinh tế thống nhất, tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động của nền KTTT định hướng XHCN, tạo hành lang an toàn, tạo điều kiện thuận lợi, và sự khuyến khích đúng mức của Nhà nước đối với các thành phần kinh tế khác nhau thuộc các loại thị trường ở nước ta nhưng mức độ còn rất khác nhau:

Thị trường hàng hoá , thị trường vốn và tiền tệ đã hình thành;

Thị trường bất động sản đang hình thành;

Thị trường lao động đang hình thành;

11

Page 12: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

Thị trường sản phẩm khoa học và công nghệ đang hình thành và còn rất nhỏ bé.

Do sự phát triển của các loại thị trường trên còn rất khác nhau, cho nên các luật liên quan trực tiếp đến các thị trường trên cũng có sự khác nhau và chính vì vậy cần phải xây dựng (hoặc bổ sung) các luật liên quan đến các thị trường trên một cách có trọng tâm, trọng điểm.

Xây dựng (bổ sung) các luật có liên quan đến tất cả các thị trường trên, cụ thể là:

- Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến quyền sở hữu: Trong các luật đã ban hành, như: Luật Doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp nhà nước, Luật Hợp tác xã, Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài, Luật Đất đai,… phải tiếp tục hoàn thiện bằng cách thay bằng bộ luật mới, như đang cố gắng để kỳ họp cuối năm 2005 có thể trình Quốc hội xin ý kiến, như Luật Doanh nghiệp (áp dụng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế), Luật Đầu tư (áp dụng cho đầu tư trong nước và đầu tư ngoài nước), Luật Đấu thầu, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Đăng ký bất động sản, Luật Nhà ở,…; với các tài sản thuộc về sở hữu toàn dân cũng cần nghiên cứ bổ sung và xây dựng mới liên quan đến các doanh nghiệp nhà nước, đến đất đai, đến tài nguyên khoáng sản, bảo vệ môi trường,…

- Hoàn thiện các luật nhằm đảm bảo quyền tự do kinh doanh, quyền tự chủ của doanh nghiệp nhằm thu hút nhiều hơn nữa các thành phần kinh tế đầu tư vào các doanh nghiệp thuộc các thị trường khác nhau và nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Về phạm vi của các luật này, việc xây dựng Luật Doanh nghiệp thống nhất, Luật Đầu tư chung, Luật Cạnh tranh,… cũng là một giải pháp quan trọng để bảo đảm sự bình đẳng và quyền tự chủ của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp; sửa đổi Bộ Luật Dân sự, Luật Đất đai,… và các văn bản pháp luật khác nhằm tạo ra các quy định thống nhất về cầm cố, thế chấp, chuyển nhượng và các giao dịch có bảo đảm khác,…

- Ban hành mới, hoặc sửa đổi, bổ sung các Luật Thuế xuất nhập khẩu, Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Quản lý thuế, Luật Thống kê, Luật Kế toán, Luật Kiểm toán,… có liên quan đến các lĩnh vực về tài chính, tiền tệ,…; nghiên cứu xây dựng để Quốc hội thông qua và ban hành các luật thuộc các lĩnh vực đã hình thành và đang phát triển, nhưng chưa có các văn bản pháp luật nào điều chỉnh, như về lĩnh vực Kế hoạch hoá, Điện ảnh, Công nghệ thông tin, Thể dục thể thao, …

- Tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản pháp luật Việt Nam trên cơ sở đối chiếu với các chuẩn mực quốc tế nhằm hài hoà các quy định trong nước và pháp luật quốc tế, bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế và hội nhập quốc tế (kể cả việc Việt Nam đang xúc tiến gia nhập WTO).

- Tham gia và thực hiện nghiêm chỉnh các công ước quốc tế về sở hữu trí tuệ, như: Công ước Béc-nơ năm 1971 về bảo hộ các tác phẩm văn học, văn nghệ; Công ước Pa-ri năm 1967 về bảo hộ sở hữu công nghiệp, Công ước quốc tế năm 1978 và 1991 về bảo hộ các giống thực vật mới,…; Công ước Viên năm 1980 về mua bán hàng hoá, Công ước Washington 1965 về giải quyết tranh chấp đầu tư, Công ước Lahaye về tống đạt giấy tờ tư pháp và bổ trợ tư pháp về dân sự và thương mại.

12

Page 13: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

QLNN về phạm vi pháp luật ở nước ta thường xảy ra không đồng bộ, khi đã có luật, thì các văn bản dưới luật như nghị định, thông tư thường ban hành không kịp thời (thậm chí có luật đã đến thời điểm có hiệu lực nhưng chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện); hoặc có nghị định lại chưa có thông tư hướng dẫn thực hiện. Sự chậm trễ này cùng với việc tổ chức giáo dục, tuyên truyền cho các đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của luật chưa tốt đã làm giảm tính hiệu lực của luật, không thực hiện được yêu cầu sớm đưa luật vào cuộc sống. Chưa kể không thiếu các thí dụ về sự chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn nhau giữa các văn bản pháp luật (đặc biệt các văn bản dưới luật).

Hội nghị Trung ương 6, khoá IX đã nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới hoạt động lập pháp trong tất cả các khâu và công đoạn của quy trình lập pháp để nâng cao chất lượng của các luật, pháp lệnh, nhằm sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật phục vụ công cuộc đổi mới”.

3.2. QLNN về kinh tế thông qua tổ chức bộ máy QLNN

Bộ máy nhà nước ta đã nhiều lần có sự sắp xếp lại về tổ chức, về chức năng, nhiệm vụ, về mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước để khỏi chồng chéo, để việc quản lý có hiệu quả hơn. Đây là điều Nhà nước ta đã tích cực nghiên cứu và đã có những phương án được thực thi có những tác dụng tích cực, như:

Việc thực hiện các quy định trong Hiến pháp 1992 (bổ sung 2001) về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ giữa cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Việc tổ chức lại bộ máy Chính phủ đã có những thay đổi đáng kể theo hướng Bộ, cơ quan ngang Bộ làm chức năng QLNN. Cơ cấu tổ chức của Chính phủ theo nguyên tắc Bộ đa ngành, đa lĩnh vực thực hiện chức năng quản lý vĩ mô bằng pháp luật, chính sách và hướng dẫn kiểm tra thực hiện; theo hướng gọn nhẹ, chức năng rõ ràng, khoa học, hoạt động có hiệu lực hiệu quả; giảm các cơ quan trực thuộc Chính phủ và tổ chức trực thuộc Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, việc cơ cấu lại bộ máy hành chính nhà nước theo hướng gọn, hiệu lực, hiệu quả còn chậm, dường như thiếu quyết tâm; chủ trương phân cấp quản lý hành chính giữa trung ương và địa phương chưa đồng bộ.

Năm 2003 và những tháng đầu năm 2004 là năm Chính phủ thực hiện Luật Tổ chức Chính phủ nước CHXHCNVN (Luật số 32/2001/QH10 ngày 25/12/2001) về Tổ chức Chính phủ; Nghị định số 86/2002/NĐ-CP ngày 05/11/2002 của Chính phủ (quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các bộ, cơ quan ngang bộ); Nghị định số 30/2003/NĐ-CP ngày 01/4/2003 của Chính phủ (quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan trực thuộc Chính phủ). Chính phủ đã ban hành Nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức cho 26 Bộ và cơ quan ngang bộ, 12 cơ quan trực thuộc Chính phủ. Cho đến cuối năm 2004 gần như toàn bộ các bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan trực thuộc Chính phủ đều đã có các quyết định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cả tổ chức (nếu có) cho các đơn vị giúp Bộ trưởng, thủ trưởng (với các cơ quan trực thuộc Chính phủ gọi chung là Thủ trưởng) thực hiện chức năng QLNN và các tổ chức sự nghiệp. Đây là môt bước tiến đáng kể QLNN về phạm vi này.

Cải cách hành chính đụng chạm tới quyền lợi của mọi người dân đang được Chính

13

Page 14: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

phủ rất quan tâm, với các hình thức và phạm vi khác nhau, đối tượng khác nhau. Những cải cách hành chính có tính thuần tuý hành chính và thể chế hành chính có tác động trực tiếp tới các hoạt động kinh doanh (bao gồm: các thể chế về thủ tục đăng ký kinh doanh, cấp các loại giấy phép, chứng thực, công chứng cho các hoạt động kinh doanh; các chế độ thuế, hải quan, quản lý đất đai, lao động, tổ chức hoạt động, phân công, phân cấp của hệ thống bộ máy nhà nước từ Trung ương tới địa phương, đến cơ sở,…) cần tiếp tục đẩy nhanh hơn và đồng bộ. Chúng ta đã có những quy định về cấp giấy Đăng ký kinh doanh với hình thức “hậu kiểm”, các quy trình “một cửa”, thực hiện công khai, minh bạch về các thủ tục, các quy chế để nhân dân biết thực hiện và cũng là để nhân dân có quyền kiểm tra việc thực hiện của các cơ quan công quyền; áp dụng công nghệ thông tin trong việc QLNN về kinh tế; thực hiện Chính phủ điện tử,…; cùng với các biện pháp trên là Đảng và Nhà nước đang quyết tâm chống tham nhũng, quan liêu, cửa quyền; tăng cường đội ngũ công chức nhà nước về trình độ chuyên môn, tin học, ngoại ngữ và nhất là đạo đức của người công chức (nước ta có hẳn một kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng công chức giai đoạn 2001 - 2010 như một Chương trình quốc gia) .

Tuy nhiên tình trạng phân tán, cục bộ, cơ chế “xin - cho”, thủ tục hành chính phức tạp, phiền hà vẫn còn chậm khắc phục. Nạn tham nhũng đã trở thành “quốc nạn”, Đảng và Nhà nước ta đang quyết tâm cho cuộc chiến chống tham những này, trong đó có việc xây dựng Luật phòng chống tham nhũng và các biện pháp của các cơ quan hành pháp và tư pháp với sự tham gia của nhân dân, của các phương tiện truyền thông.

3.3. QLNN về kinh tế thông qua việc xây dựng phương hướng, mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước

Việc QLNN về kinh tế ở nước ta thông qua việc xây dựng các kế hoạch kinh tế - xã hội 5 năm và hàng năm, các quy hoạch, chương trình, v.v… Trên một phương diện nào đó, chúng ta đã có ít nhiều kinh nghiệm từ thời kế hoạch hoá tập trung, tuy nhiên khi chuyển sang KTTT có sự điều tiết của Nhà nước, thì có các mục đích, yêu cầu, nội dung và cả phương pháp cũng như trình tự xây dựng đã từng bước đổi mới.

Một thành công đáng kể là việc xây dựng “Chương trình ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn và định hướng đến năm 2020” và “Chiến lược phát triển một số ngành, lĩnh vực trọng điểm của quốc gia đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”. Đây là một chương trình tổng thể, toàn diện về phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong một thời gian dài, trong cơ chế thị trường theo định hướng XHCN và hội nhập quốc tế cũng như chiến lược phát triển một số ngành, lĩnh vực của nước ta.

Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2010, ghi rõ mục tiêu: “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được hình thành về cơ bản; vị thế nước ta trên trường quốc tế được nâng cao”.

Từ Chiến lược này, Nhà nước ta đã xây dựng phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch

14

Page 15: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005. Trong kế hoạch này có các chỉ tiêu định hướng phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu, các dự báo về các cân đối lớn trong thời kỳ 5 năm 2001 - 2005 (về lao động, việc làm, về khả năng tích luỹ và tiêu dùng trong nền kinh tế, khả năng về vốn trong nước và ngoài nước, khả năng cân đối ngân sách, khả năng thanh toán quốc tế, dự báo cung - cầu một số vật tư chủ yếu); định hướng phát triển các ngành, lĩnh vực; các chương trình đầu tư công cộng 2001 - 2005; Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo;…

Chính phủ phê duyệt các Chương trình mục tiêu quốc gia 2001 - 2005, gồm 6 Chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo và việc làm, về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, về dân số và kế hoạch hoá gia đình, về phòng, chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm HIV/AIDS, về văn hoá, về giáo dục và đào tạo.

Tuy nhiên, công tác xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, các ngành, các vùng,… chưa đáp ứng kịp các yêu cầu để tăng trưởng kinh tế mạnh, bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và hội nhập quốc tế. Chính vì vậy phải “đổi mới cơ bản” công tác này, như Hội nghị Trung ương 9 khoá IX đã quyết định.

Chức năng QLNN ở đây không dừng ở các văn bản mà còn là kiểm tra, đôn đốc thực hiện và thực hiện báo cáo quá trình thực hiện Chương trình.

Xây dựng hệ thống các chính sách và dự án đầu tư nhằm cụ thể hoá chương trình mục tiêu chiến lược.

Cũng lấy thí dụ về Chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo và việc làm, có: Các chính sách hỗ trợ cho người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo, bao gồm hỗ trợ về y tế, giáo dục, chính sách an ninh xã hội, miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp, trợ giúp người nghèo về nhà ở, công cụ lao động và đất sản xuất;

3.4. QLNN đối với hệ thống các doanh nghiệp nhà nước

Đối với các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), Nhà nước phải không ngừng hoàn thiện tổ chức hệ thống các DNNN cho phù hợp với các yêu cầu của từng giai đoạn phát triển của đất nước. Dù ở chế độ chính trị nào cũng đều tồn tại các DNNN. Các DNNN được lập ra để bảo đảm những lĩnh vực kinh tế then chốt, những dịch vụ công chủ yếu, phục vụ lợi ích chung của xã hội.

Nhà nước phải quản lý bằng cách đánh giá đầy đủ, chính xác hệ thống DNNN hiện có, xác định những mặt tích cực, mặt tiêu cực của hệ thống DN hiện hành để từ đó sắp xếp lại các DNNN, nâng cao hiệu quả của DNNN, trong đó có cổ phần hoá các DNNN .

Chương trình sắp xếp lại các DNNN cũng là một mặt thể hiện việc thực hiện QLNN về kinh tế. Theo Nghị quyết Trung ương 3 khoá IX và Nghị quyết Trung ương 9 khoá IX của Đảng năm 2005 là năm cơ bản thực hiện xong việc sắp xếp DNNN, theo đó là đẩy mạnh cổ phần hoá và mở rộng diện các DNNN thực hiện cổ phần hoá, kể cả tổng công ty nhà nước và các DN lớn. Chương trình này đã được bắt đầu từ 1992, đến nay tuy số lượng DN sắp xếp lại, được cổ phần hoá có tăng đáng kể (từ năm 1992 - 1998 cổ phần hoá được 123 DN, năm 2003: 532 DN, năm 2004: 753 DN), nhưng so với yêu cầu đổi mới còn hạn chế, tốc độ cổ phần hoá còn chậm.

15

Page 16: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

Mặt khác, ngoài việc ban hành các văn bản pháp luật về kinh tế nhằm bảo đảm sự bình đẳng và quyền tự chủ của các DN thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, Nhà nước còn hỗ trợ các DN thuộc các thành phần kinh tế khác về tư pháp, về thông tin (nhất là thông tin về thị trường ), các cơ quan ngoại giao và thương mại của Nhà nước ta ở nước ngoài có trách nhiệm hỗ trợ các DN trong nước về thị trường ở nước ngoài, về khả năng hợp tác đầu tư với nước ngoài ở trong nước và đầu tư ra nước ngoài.

3.5. Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng cho mọi hoạt động kinh tế của đất nước nói riêng, của nhu cầu toàn xã hội nói chung

Trong mỗi quốc gia luôn có các ngành sản xuất các loại hàng hoá và dịch vụ mà các thành phần kinh tế khác không “mặn mà” đầu tư như các công trình hạ tầng cơ sở như: đường sá, cầu cống, hệ thống cấp thoát nước, vận tải công cộng trong thành phố, giáo dục, văn hoá, y tế; đầu tư ở các vùng sâu, vùng xa (thường vốn đầu tư lớn, thời gian đầu tư dài, tỷ suất lợi nhuận thấp hoặc không có lợi nhuận và ở một số ngành đặc biệt và ở một số địa điểm đặc biệt về an ninh, quốc phòng). Nhưng các ngành này lại không thể thiếu cho một quốc gia. Đây chính là trách nhiệm của Nhà nước. Nhà nước phải đầu tư xây dựng các loại DN hoạt động trong các ngành này (trong đó sẽ có nhiều DN được xếp vào nhóm các DN công ích), tổ chức xây dựng và khai thác sử dụng các hệ thống kết cấu hạ tầng này.

3.6. Kiểm tra, kiểm soát hoạt động các đơn vị kinh tế

Kiểm tra các DN về việc tuân thủ các pháp luật kinh doanh, pháp luật lao động, pháp luật về bảo vệ tài nguyên và môi trường; kiểm tra chất lượng sản phẩm, chống hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng, kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm. Nhà nước có các chính sách và biện pháp toàn diện nhằm thực hiện ngăn ngừa các dịch bệnh cho cây, con và bảo vệ sức khoẻ của nhân dân khỏi các bệnh dịch ở trong nước và từ nước ngoài lan vào nước ta, như cúm gia cầm, dịch bệnh gia súc,…

3.7. Kiểm tra các DN tuân thủ pháp luật về tài chính, kế toán, thống kê

Nhà nước đứng ra thông qua các tổ chức Viện Kiểm sát, Toà án để làm “trọng tài” trong các vụ việc tranh chấp trong lĩnh vực kinh tế, liên quan đến lao động, phạm vi trong nước và cả với ngoài nước.

3.8. Nhà nước thực hiện và bảo vệ lợi ích của xã hội của Nhà nước, của công dân thông qua các tổ chức Nhà nước (như để quản lý các tài sản của Nhà nước, … có Cục Công sản thuộc Bộ Tài Chính,…).

3.9. Một hình thức QLNN của Nhà nước chỉ có ở nước ta và một vài nước khác có thể chế chính trị gần giống nước ta (còn hầu hết các nước có nền KTTT đều không có) đó là tổ chức giáo dục, động viên, khen thưởng, tổ chức thi đua,… (như Đại hội thi đua ngành, địa phương, cả nước; các danh hiệu Anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới), cũng là một hình thức QLNN, nhằm hướng toàn dân thực hiện các nhiệm vụ được giao một cách sáng tạo, hiệu quả cao,… góp phần thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của các chương trình chung của đất nước.

QLNN về kinh tế, không phải là môt chức năng riêng có của một quốc gia nào, tuy nhiên mức độ có khác nhau tuỳ thuộc vào thể chế chính trị của mỗi quốc gia và cả tài năng, đạo đức của những người nắm quyền lãnh đạo các cơ quan công quyền, của đội

16

Page 17: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

ngũ công chức nhà nước cùng với sự tham gia của mọi công dân. Vấn đề nâng cao vai trò của Nhà nước, chức năng của Nhà nước cũng đang là vấn đề của nhiều quốc gia trên thế giới, đúng như đánh giá của Ngân hàng Thế giới trong Báo cáo về tính hình phát triển thế giới 1997 - Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi - đã nêu: “Những diễn biến sâu rộng và to lớn của kinh tế thế giới đòi hỏi chúng ta phải nhìn nhận lại những vấn đề căn bản về Nhà nước: Nhà nước nên có vai trò gì, Nhà nước có thể làm gì và không thể làm gì và làm thế nào là tốt nhất”.

Với nước ta, nhiệm vụ QLNN về mọi mặt của đất nước nói chung chưa phải là tốt, “hiệu lực, hiệu quả QLNN đối với nền kinh tế còn thấp” như Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương khoá IX đã đánh giá. Cho nên, nhiệm vụ nâng cao vai trò QLNN về kinh tế là một nhiệm vụ nặng nề, cấp thiết.

III. MỘT SỐ TỒN TẠI CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN QUA

Ở nước ta, trong quá trình chuyển đổi sang KTTT, có người cho rằng thị trường quyết định hết thảy, quyết định giá cả, quyết định sản xuất. Theo giáo sư Stiglitz, thị trường là rất quan trọng nhưng không nên quá chú trọng bởi vì nó không phải là tất cả, vai trò của Nhà nước trong việc điều tiết thị trường là rất quan trọng. Chủ trương chính sách của Nhà nước là cần phải có, là quyết định, thị trường là điều kiện đủ để phát huy. Những thành tựu và tồn tại của kinh tế - xã hội của nước ta trong thời gian qua chủ yếu phụ thuộc vào những chính sách Nhà nước, phụ thuộc vào cơ chế quản lý của Nhà nước.

Song có nhiều vấn đề tồn tại không thể đổ cho cấp dưới thực thi chính sách. Thực ra có những chính sách nhà nước đưa ra không sát thực tế, không ít văn bản mâu thuẫn, chồng chéo, nhiều văn bản vừa ban hành đã phải sửa đổi, bổ sung, gây khó khăn cho việc vận dụng, thực thi. Chính thủ tục phức tạp chậm sửa đổi đã tạo điều kiện cho cán bộ hành dân, vòi vĩnh, tiêu cực. Nhiều khâu trong nhiệm vụ QLNN của chúng ta còn chưa hoàn thiện cần rà soát lại và sửa đổi.

Các chủ trương đưa ra thì nhiều, nhưng thực tế cách làm, cơ chế chính sách lại không phù hợp, nhiều khi còn hạn chế.

Sau đây, sẽ đi sâu vào phân tích những chính sách chủ yếu tác động đến tăng trưởng cao và bền vững nền kinh tế nước ta trong gần 20 năm đổi mới.

1. Chủ trương tăng trưởng cao

Việt Nam có nỗ lực lớn trong tăng trưởng tốc độ cao, trong năm 2004, tốc độ tăng trưởng của Việt Nam là 7,6% (Thái Lan 8%, Singapore 8,1%, Trung Quốc 9,3%). Một thực tế ở nước ta trong những năm qua, tăng trưởng kinh tế thuộc loại cao, nhưng chưa bền vững: hiệu quả kinh tế thấp, cạnh tranh yếu, lạm phát tăng, tốc độ giảm nghèo chững lại, chênh lệch thu nhập tăng, tài nguyên cạn kiệt, môi trường bị ô nhiễm.

Nhìn lại gần 20 năm qua, cơ cấu kinh tế nước ta đã chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp. Song phân tích cơ cấu kinh tế cho thấy:

Tỷ trọng dịch vụ trong GDP đã giảm trong 8 năm liên tục, ngược với quy luật

17

Page 18: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

chung, các ngành dịch vụ có tính chất động lực cần phát triển như giáo dục, khoa học công nghệ, tài chính, tín dụng tỷ trọng rất thấp. Kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn, kinh doanh đất đai, nhà ở chiếm tỷ trọng cao thứ 2 trong các ngành dịch vụ. Có thể nói tình trạng tăng nhanh dịch vụ đất đai, nhà ở trong cơ cấu kinh tế không có lợi cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Bài học Thái Lan, Hàn Quốc đã chứng minh sự phát triển dịch vụ kinh doanh đất đai nhà ở đã làm giảm tăng trưởng kinh tế.

Về phát triển công nghiệp, chính sách nhà nước còn chú trọng nhiều về phát triển công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm, công nghiệp nhẹ may mặc, da giày, thiếu sự phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan, các ngành sản xuất tư liệu sản xuất, các ngành có hàm lượng khoa học cao. Chính sách phát triển này đã biến nền công nghiệp nước ta thành công nghiệp gia công lắp ráp. Theo tiến sĩ At Kearney, Việt Nam phải cảnh giác cái bẫy chi phí (lao động) thấp trở thành cái bãi lắp ráp hàng xuất khẩu như Mêxicô.

Cơ cấu kinh tế của nước ta vẫn thuộc loại cơ cấu kinh tế của các nước kém phát triển. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam khá chậm chạp. Thực vậy, đã 30 năm trôi qua, chúng ta xây dựng kinh tế trong hòa bình, thời gian mà các nước công nghiệp phát triển đã làm thế giới kinh ngạc trở thành những con hổ. Các nước công nghiệp phát triển trong 3 thập kỷ đã chuyển dịch nhanh chóng, thập kỷ đầu xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động, thập kỷ tiếp theo công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật và vốn cao, thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 20 thực hiện công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu các sản phẩm kỹ thuật cao có sức cạnh tranh lớn.

Để phát triển cao và bền vững, Việt Nam nên đa dạng hóa sản phẩm, phát triển các ngành hỗ trợ và các sản phẩm hàm lượng khoa học cao và chấm dứt tình trạng đầu tư vào một số ngành công nghiệp và dịch vụ không hiệu quả.

2. Chính sách thu hút đầu tư nước ngoài

Từ năm 2003 trở về trước, Việt Nam quan tâm quá nhiều đến số lượng FDI, quá coi trọng về số lượng dự án, nhưng lại xem nhẹ lợi ích của dự án, tác động lan toả của dự án đến nền kinh tế, trong khi các nước đã quay sang chú trọng thu hút chất lượng các nguồn vốn FDI.

Tình hình thu hút FDI những năm trước năm 2003 cho thấy quy mô của các dự án FDI vừa và nhỏ là chủ yếu, chiếm đến 60%, nếu như năm 1997 bình quân vốn đầu tư một dự án khoảng 23 triệu USD, năm 2004 chỉ còn 4 triệu USD/dự án. Phần lớn các dự án tập trung vào ngành công nghiệp nhẹ và công nghiệp chế biến lương thực – thực phẩm, dầu khí, khách sạn, bất động sản, nhà cửa, chủ đầu tư phần lớn là các nước ASEAN, Hàn Quốc, lãnh thổ Đài Loan (Trung Quốc)… là những nước và vùng lãnh thổ có nguồn vốn chưa lớn và khoa học công nghệ, trình độ quản lý chưa phát triển cao, chỉ hơn ta một ít.

Từ năm 2004 đến nay cho thấy Việt Nam đang thay đổi về lượng và chất trong thu hút FDI. Chỉ trong 2 - 3 tháng đầu năm 2005, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cấp phép cho Công ty Honda Việt Nam được sản xuất và kinh doanh ô tô tại Việt Nam đầu tư 60 triệu USD, Hà Nội đã cấp phép 2 dự án đầu tư với nguồn vốn rất lớn là dự án kinh

18

Page 19: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

doanh điện thoại di động CDMA trị giá 660 triệu USD và dự án xây dựng cao ốc 65 tầng với vốn đăng ký 114 triệu USD. Điểm đặc biệt trong việc thu hút nguồn vốn FDI trong 2 tháng đầu năm này chính là dịch vụ chiếm 70% trong nguồn vốn đăng ký mới. Nhìn vào lĩnh vực dự án đầu tư nước ngoài phần lớn những lĩnh vực nhà đầu tư thu lợi nhuận lớn. Phân tích 3 dự án cho thấy dự án sản xuất ô tô chỉ hàn, sơn, lắp ráp chứ không phải sản xuất ô tô, sản xuất động cơ, dự án điện thoại di động là dự án kinh doanh mạng điện thoại chứ không phải dự án sản xuất điện thoại di động, v.v...

Để lôi kéo nhà đầu tư, các địa phương đã đưa ra những ưu đãi vượt giới hạn quy định: ưu đãi về thuế, ưu đãi về tín dụng, ưu đãi về đất và tăng cường các ưu đãi khác trái với quy định chung.

Tuy nhiên, theo các nhà đầu tư nước ngoài, nhìn tổng thể môi trường đầu tư của Việt Nam chưa thực sự hấp dẫn.

Thực vậy, thứ nhất Việt Nam chưa chú ý tới chính sách phát triển các ngành hỗ trợ và liên quan. Không có nguồn cung ứng tại chỗ, buộc các nhà đầu tư phải nhập linh kiện, phụ tùng khiến giá thành cao, sức cạnh tranh giảm.

Thứ hai, kết cấu hạ tầng vẫn còn yếu, do đó chi phí cao.

Thứ ba, chính sách phát triển nguồn nhân lực chưa được coi trọng, đưa đến chất lượng lao động còn thấp.

Thứ tư, thủ tục về thuế, hải quan có chú ý cải tiến song chưa được nhiều. Theo các công ty tài chính và các bộ phận thuộc tập đoàn Ngân hàng Thế giới công bố, cơ chế ưu đãi đầu tư ở Việt Nam còn phức tạp.

Đã đến lúc chúng ta phải tập trung nâng cao chất lượng kết cấu hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực, đồng thời tăng thu hút FDI về mặt chất lượng, ưu đãi đối với lĩnh vực công nghệ, kỹ thuật cao, những lĩnh vực sản xuất tư liệu sản xuất, các ngành hỗ trợ và liên quan để đảm bảo sản xuất hiệu quả, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trong hội nhập kinh tế quốc tế.

3. Chính sách thu hút ODA

Năm 2004 ODA đạt 3 tỷ USD, năm 2005 đạt 3,4 tỷ USD. Việc giải ngân vốn ODA còn chậm, chưa vào vùng sâu, vùng xa…

Kinh nghiệm phát triển trong 50 năm qua của các nước cho thấy rõ, một số lớn các nước đang phát triển trông cậy vào viện trợ tài chính vốn nước ngoài, vẫn nằm trong số những nước kém phát triển nhất. Để giảm gánh nặng nợ nần, cần phải tăng tiết kiệm nội bộ. Tỷ lệ tiết kiệm trong năm 2001 của Việt Nam đạt 14,6% GDP là thấp, Trung Quốc đạt 39%, Hàn Quốc đạt 34,2%, Singapore 49,9%, Malaysia 47%, Thái Lan 32,8%.

Để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững cần phải tăng cường tiết kiệm, giảm vay nợ quốc tế.

4. Chính sách đất đai, nhà ở

Dịch vụ đất đai nhà ở lớn nhanh trong những năm qua do chính sách đất đai là nguồn thu lớn của ngân sách sau dầu mỏ và khuyến khích đấu giá đất (thực chất là

19

Page 20: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

khuyến khích nâng giá đất).

Nguồn thu từ đất lớn song được dùng chủ yếu chi cho đền bù giải tỏa, tiền đền bù giải phóng mặt bằng trong nhiều trường hợp còn lớn hơn cả tiền đầu tư trực tiếp vào công trình.

Trong thời gian qua, chính sách đất đai thực sự đã tác động không thuận lợi đến kinh tế và xã hội nước ta, vẫn còn tồn tại trên một số mặt:

- Vay tiền đầu tư vào thị trường bất động sản một lượng vốn không nhỏ đã đọng vốn vào thị trường nhà ở đất đai là một trong những nguyên nhân rất quan trọng gây ra tình trạng thiếu vốn tiền đồng cho sản xuất trong các ngân hàng thương mại. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy, sự bùng phát thị trường nhà đất ở nước này trong 3 năm qua đang có nguy cơ sụp đổ do việc có đến 61% vốn đầu tư vào địa ốc là vốn vay ngân hàng và khoảng 120 triệu m2 nhà ở không bán được.

- Cổ phần hóa khó khăn vì việc xác định giá trị quyền sử dung đất.

- Sự thu hút đầu tư FDI đang gặp nhiều khó khăn trở ngại, chủ yếu vẫn nằm trong khâu đất đai, đền bù do giá cao.

- Lợi nhuận thu được do kinh doanh đất đai nhà ở khá lớn vào loại bậc nhất so với các loại hoạt động sản xuất kinh doanh khác. Có khá nhiều doanh nghiệp nước ngoài như Singapore, Hàn Quốc… phối hợp với các doanh nghiệp trong nước để đầu tư xây dựng các chung cư cao tầng, cao cấp, nhiều doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ở Việt Nam thu được lợi nhuận thì đầu tư vào địa ốc, như RRE đầu tư tòa nhà E-town, Công ty điện tử Biên Hòa đầu tư vào cao ốc Belco, Vitek VTB cũng đang xây dựng cao ốc 10 tầng.

- Giá đất đai, nhà cửa cao, khiến đa số người dân có nhu cầu không thể mua được. Người có thu nhập trên 3 triệu đồng mỗi tháng không bao giờ mơ đến một căn hộ dành cho người có thu nhập thấp với giá 500 triệu đồng.

Kinh nghiệm Hàn Quốc, Thái Lan, Trung Quốc cho thấy sự phát triển sôi động thị trường bất động sản đã tác động xấu đến nền kinh tế - xã hội.

Vì vậy chính sách đất đai của ta cần hướng tới phục vụ phát triển kinh tế và xã hội. Ban hành thuế đánh mạnh vào đầu cơ đất đai, gia tăng gánh nặng thuế lên vai người sở hữu đất đai quy mô lớn.

5. Chính sách thương mại

Với nền kinh tế hướng về xuất khẩu cần phải có thị trường và chủ động tìm kiếm thị trường.

Xuất khẩu: Năm 2004 xuất khẩu đạt 26 tỷ USD, có 17 mặt hàng vượt kim ngạch 100 triệu USD, nổi bật có 6 mặt hàng vượt mức 1 tỷ USD, đó là dầu thô, dệt may, da giày, thủy sản, đồ gỗ, điện và linh kiện điện tử. Trong cơ cấu hàng xuất khẩu của ta, phần lớn là nguyên liệu, sản phẩm công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động, hàng sơ chế hàm lượng chất xám thấp và những mặt hàng công nghiệp tỷ lệ nội địa hóa thấp, giá trị gia tăng không nhiều.

Nhập khẩu: Công nghiệp của ta chủ yếu là gia công, phần lớn sản phẩm các ngành

20

Page 21: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

được sản xuất ra trên cơ sở tiêu thụ các nguyên phụ liệu, linh kiện, chi tiết, bán sản phẩm của các nước.

Nhà nước cần phải cải thiện hơn nữa môi trường kinh doanh, trước hết cần phải nâng cao công nghệ sản xuất, nguồn nhân lực và nguồn tài chính tín dụng, tăng tỷ lệ nội địa hóa, chống độc quyền nâng giá các sản phẩm đầu vào (xăng, dầu, điện, nước, bưu điện, hàng không, vận chuyển, sắt thép…), đưa Luật Cạnh tranh vào thực hiện trong cuộc sống.

6. Chính sách giá

Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế quốc tế trong hầu hết mọi lĩnh vực kinh tế của Việt Nam, chi phí sản xuất đều rất cao. Giá thành hầu hết các sản phẩm xuất khẩu của Viêt Nam đều cao hơn các đối thủ cạnh tranh.

Năm 2004 giá cả tăng do chịu ảnh hưởng bởi những tác động của giá nguyên vật liệu quốc tế tăng cao, dịch cúm gia cầm nhưng Nhà nước vẫn kiểm soát được thị trường. Sáu tháng qua, một mặt do giá dầu thế giới tăng, mặt khác do quản lý của ngành xăng dầu còn yếu kém, do vậy, Nhà nước đã phải tăng giá xăng 3 lần để khỏi bù lỗ. Tình hình đó tác động đến giá một loạt hàng hóa, làm tăng lạm phát và giảm tốc độ tăng trưởng, tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp có phần chững lại.

Để tồn tại trong cạnh tranh hàng hóa, không những chỉ quan tâm đến vấn đề chất lượng hàng hóa, mà Nhà nước cần quan tâm hơn nữa trong chính sách giá, không để giá do các doanh nghiệp độc quyền thị trường chi phối.

7. Chính sách khoa học công nghệ

Vai trò của khoa học công nghệ (KHCN) trong phát triển kinh tế rất rõ ràng. Đây là dịch vụ cần phát triển. Ngân sách dành cho KHCN trước năm 2000 đạt 1%, từ năm 2001 - 2003 đạt 2% tổng chi ngân sách.

Các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư cho đổi mới công nghệ rất thấp, chi phí đổi mới công nghệ chỉ khoảng 0,2 - 0,3% doanh thu, trong khi ở Ấn Độ là 5%, Hàn Quốc là 10%.

Kết quả là:

- Mặt bằng chung về trình độ công nghệ và trang thiết bị của Việt Nam ở mức thấp, tỷ lệ trang thiết bị kỹ thuật cũ, công nghệ lạc hậu chiếm 60 - 70%.

- Theo nhận xét của các nhà khoa học nước ngoài, thông tin khoa học công nghệ của Việt Nam còn xa mới bằng những điều kiện và thông tin KHCN các nước trong vùng như Thái Lan, Singapore, Malaysia, Hàn Quốc.

- Tỷ lệ cán bộ khoa học trong nghiên cứu KHCN trên 100 dân của nước ta còn thấp nếu so sánh với một số nước: Tỷ lệ người nghiên cứu khoa học ở Việt Nam là 0,18/100 dân, trong khi ở Hàn Quốc gấp 12 lần Việt Nam, Mỹ gấp 20 lần Việt Nam.

Tuy đã tập trung rất lớn, song Nhà nước cần tăng ngân sách đầu tư hơn nữa vào những lĩnh vực nghiên cứu cơ bản, những hướng ưu tiên.

8. Chính sách giáo dục

21

Page 22: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo cho biết Việt Nam có 94% dân số biết chữ, Việt Nam đã xóa xong nạn mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và đang thực thi phổ cập trung học cơ sở, thành tích thật là ấn tượng.

Tuy vậy, điều tra mức sống dân cư năm 2002 cho thấy chi phí trực tiếp cho giáo dục khá cao so với thu nhập các hộ nghèo là một trong những nguyên nhân chính khiến trẻ em nghèo ít đi học. Hiện nay phần tài chính do dân đóng góp cho lĩnh vực đào tạo nước ta ở cấp tiểu học đã lên tới 44,5%, trung học phổ thông là 51,5%, dạy nghề 62,1%. Hiện nay, nhiều nước đã thực hiện luật giáo dục miễn phí và bắt buộc đối với trẻ em từ 6 tuổi trở lên như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Mỹ… Chính phủ Thái Lan đã thông qua một chương trình tài trợ giáo dục bắt buộc từ lớp 1 đến lớp 12, không có thị trường giáo dục. Ở Đức và một số nước Bắc Âu, giáo dục kể cả giáo dục đại học đều không mất tiền. Không có thương mại hóa giáo dục. Theo giáo sư Dolan, đại học Cambridge Mỹ, đổi mới giáo dục Nhà nước phải nắm thay vì để thị trường quyết định.

Trong khi chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục - đào tạo của Việt Nam năm 2003 là 16% tổng chi ngân sách, thì chi ngân sách cho giáo dục - đào tạo đầu những năm 1990 tỷ trọng này của Thái Lan đã là 20%, Hàn Quốc 22%. Đầu tư cho ngành giáo dục của Việt Nam không phải nhỏ với các dự án giáo dục, nhưng tác dụng của các dự án đối với phát triển giáo dục đào tạo ở Việt Nam còn quá ít. So sánh mức chi phí giáo dục bình quân đầu người, Việt Nam ở gần cuối bảng, thấp hơn 24 lần so với Singapore và 3 lần so với Thái Lan.

Tăng ngân sách chi cho giáo dục, thực hiện phổ cập giáo dục miễn phí, trước mắt 9 năm, sau tiến lên 12 năm. Thực hiện xã hội hóa giáo dục, huy động các tổ chức phi chính phủ, tổ chức nhân dân tham gia sự nghiệp giáo dục. Nghiên cứu tăng học phí một cách hợp lý. Áp dụng chế độ huy động nguồn tài chính của các doanh nghiệp, thu thuế đào tạo của các doanh nghiệp để lập Quỹ đào tạo nguồn nhân lực.

9. Chính sách y tế

Chi ngân sách cho y tế của nước ta còn khá thấp. Nguồn vốn ngân sách chi cho y tế chiếm 3,8% năm 1997, 3,2% năm 2001. Phần chi của người dân ngày càng tăng, chi tiêu cho chăm sóc sức khỏe tăng lên 5,7% năm 2002 trong khi thu nhập tăng chậm và diện nghèo khá lớn trong dân.

Cố vấn của UNICEF tỏ ý lo ngại về tình trạng tư nhân hóa không kiểm soát được ở một số nước, trong đó có Việt Nam. Xu hướng dựa vào các cơ sở tư nhân cùng với sự lạc hậu của các bệnh viện nhà nước đang đe dọa tính mạng của hàng ngàn bà mẹ trẻ em và người bệnh.

Kinh nghiệm các nước cho thấy Chính phủ Anh, Thụy Điển chịu mọi chi phí y tế, bảo hiểm y tế Ấn Độ bao gồm các đối tượng là người lao động, cả người ốm đau, sinh đẻ, tang chế, trợ cấp người phục hồi chức năng, trợ cấp người không nương tựa, ở Sri Lanka tất cả công dân sử dung thuốc men không mất tiền, chăm sóc sức khỏe cho nông dân không mất tiền.

Cần phải tăng chi ngân sách cho y tế giúp người nghèo chữa bệnh. Đẩy mạnh công

22

Page 23: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

tác bảo hiểm y tế bắt buộc và tự nguyện đối với mọi người dân.

10. Chính sách xóa đói giảm nghèo

Tuy tỷ lệ hộ nghèo tại Việt Nam đã giảm, thành tựu về xoá đói giảm nghèo ở nước ta đã được thế giới công nhận, nhưng khu vực nông thôn và khu vực miền núi đồng bào dân tộc tỷ lệ đói nghèo vẫn còn cao, chiếm tới 90% người nghèo của cả nước. WB cảnh báo khoảng 20 triệu người Việt Nam hiện nay đang sống trong cảnh nghèo.

Tốc độ giảm nghèo đang chững lại: trong giai đoạn 1993 - 1998 Viêt Nam đã giảm được 20%, giai đoạn 1998 - 2002 mức giảm chỉ đạt được 8,1%. Đáng lo là nguy cơ tái nghèo còn ờ mức cao.

Khoảng cách giàu nghèo đang có xu hướng gia tăng. Thu nhập của nhóm giàu năm 2001 - 2002 lớn gấp 8,1 lần so với nhóm nghèo. Chỉ số GINI phản ánh sự chênh lệch giàu nghèo và tiêu dùng xã hội của Việt Nam là 36,2%, cao hơn hẳn những nước giàu nhất hiện nay như Na Uy 25,8%, Thụy Điển 25%, Nhật Bản 24,9%.

Cần luật hóa các quy định về an sinh xã hội, bảo đảm cho mọi người dân được tiếp cận các dịch vụ cơ bản nhất như được chữa bệnh miễn phí, được trợ cấp học nghề, tìm việc làm.

Chúng ta cũng đã đạt được một số thành tựu song cũng còn nhiều tồn tại, chủ trương đúng chưa đủ mà phải có chính sách tốt để đưa các chủ trương của Đảng, Nhà nước vào cuộc sống.

IV. ĐỔI MỚI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ

Trong quá trình chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu sang KTTT định hướng XHCN, vai trò của Nhà nước không những không suy giảm mà còn được đổi mới một cách căn bản và tăng cường hơn. Nhà nước không chỉ là “bà đỡ” mà còn phải chính là “cha mẹ đẻ” của KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. Nhà nước ta phải được đổi mới, tăng cường để không chỉ thực hiện chức năng QLNN đơn thuần như mọi Nhà nước khác, mà còn phải vươn lên trở thành Nhà nước thiết kế, xây dựng thể chế KTTT định hướng XHCN, Nhà nước phục vụ, hỗ trợ cho việc phát triển kinh tế, phát triển thị trường, phát triển doanh nghiệp.

Những năm qua, Chính phủ và chính quyền các cấp đã không chỉ có nhiều nỗ lực trong đổi mới QLNN về kinh tế mà còn rất chủ động, tích cực trong việc hỗ trợ, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, doanh nhân tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, mặt trái của vấn đề là ở chỗ, tình trạng chính quyền trực tiếp đứng ra làm kinh tế, chỉ đạo hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước (DNNN), can thiệp vào quyền tự chủ kinh doanh của các DNNN, kể cả DNNN đã chuyển đổi; trực tiếp quyết định các dự án đầu tư để rồi sau đó giao cho DNNN thực hiện gây ra tình trạng đầu tư dàn trải, kém hiệu quả, nợ xây dựng cơ bản… không những không giảm đi mà còn có xu hướng tăng lên trong những năm gần đây.

Do vậy, tiếp tục đổi mới QLNN về kinh tế, trước hết là phải xác định rõ phạm vi, nội dung QLNN về kinh tế; tách bạch chính quyền ra khỏi các hoạt động sản xuất kinh doanh. Trừ một số công trình, dự án dịch vụ công thiết yếu, chính quyền là chủ đầu tư

23

Page 24: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

trực tiếp tổ chức đấu thầu thực hiện, chính quyền các cấp sẽ không tham gia vào các dự án sản xuất kinh doanh; doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải đóng vai trò chủ chốt trong tất cả các hoạt động đầu tư, kinh doanh. Nhà nước trung ương tập trung xây dựng hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN, xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước; thực hiện các biện pháp điều tiết vĩ mô đối với toàn bộ nền kinh tế. Chính quyền các địa phương cần được phân cấp đầy đủ hơn quyền hạn và trách nhiệm trong việc tổ chức thực thi pháp luật về kinh tế do Nhà nước trung ương ban hành, xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đồng thời hỗ trợ, tạo thuận lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của người dân và doanh nghiệp trên địa bàn.

Những năm qua, công tác kế hoạch hoá phát triển kinh tế - xã hội đã có nhiều đổi mới. Tuy nhiên, vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của nền kinh tế, do đó cần được đổi mới mạnh mẽ hơn cả về nội dung lẫn phương pháp. Cần tập trung nhiều hơn cho công tác xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Chiến lược và quy hoạch phải được xây dựng trên cơ sở thông tin, số liệu khoa học chuẩn xác với sự tham gia rộng rãi của các cơ quan tổ chức, các nhà khoa học; sau khi xây dựng xong phải được công bố, phổ biến rộng rãi để định hướng cho xã hội, người dân tham gia thực hiện. Các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hàng năm của cả nước cũng như các địa phương phải hết sức cụ thể, và chỉ nên bao gồm một số ít chỉ tiêu định hướng về tăng trưởng, xoá đói, giảm nghèo, văn hoá, y tế, xã hội, môi trường, chương trình đầu tư công cộng…

Đồng thời với việc đổi mới công tác kế hoạch hoá, Nhà nước cần phải hoàn thiện và sử dụng có hiệu lực và hiệu quả hệ thống công cụ điều tiết vĩ mô. Mục tiêu điều tiết vĩ mô và mục tiêu yêu cầu tổng thể đã được xác định trong kế hoạch nhà nước phải là căn cứ chủ yếu để chế định chính sách tài chính, tiền tệ. Chính sách tài chính phải trở thành công cụ quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tối ưu hoá và điều tiết thu nhập, thực hiện xoá đói giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo và trình độ phát triển giữa các tầng lớp và các vùng. Chính sách tiền tệ phải phát huy tác dụng quan trọng trong việc bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền và kinh tế vĩ mô phục vụ cho phát triển.

Cải cách thủ tục hành chính thời gian qua tuy đã đạt được kết quả bước đầu, nguyên tắc một cửa, một dấu đã được áp dụng ở một số địa phương… nhưng xung quanh vấn đề này vẫn còn nhiều việc phải làm. Phải kiên quyết xoá bỏ bao cấp, giảm thiểu tối đa cơ chế xin - cho, xin cấp phép; mở rộng chế độ đăng ký; thực hiện nguyên tắc người dân và doanh nghiệp được làm những gì mà pháp luật không cấm, công chức chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép; thực hiện QLNN bằng pháp luật.

Thủ tục đầu tư, thành lập doanh nghiệp, gia nhập thị trường phải được đơn giản hoá tối đa trên cơ sở quy định rõ quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư, doanh nhân, doanh nghiệp. Nhà nước chỉ phê duyệt cấp phép các dự án quan trọng liên quan đến an ninh kinh tế, có ảnh hưởng đến tài nguyên môi trường, đến quy hoạch tổng thể và các dự án do Chính phủ đầu tư hoặc dự án hạn chế đầu tư. Đối với các dự án còn phải phê duyệt,

24

Page 25: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

cấp phép đầu tư, cần có quy chế phân cấp hợp lý cho chính quyền các địa phương theo nguyên tắc phân quyền gắn với trách nhiệm, mở rộng phân cấp gắn với tăng cường kiểm tra giám sát của cấp trên đối với việc thi hành luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch chung của cấp dưới…

Cơ chế quản lý về thuế cũng cần được tiếp tục đổi mới trên cơ sở hoàn thiên pháp luật về thuế theo hướng đơn giản, mặt bằng về thuế rộng, thuế suất thấp, thu và quản lý thuế nghiêm túc. Đẩy nhanh việc áp dụng chế độ để doanh nhân, doanh nghiệp tự khai nộp thuế, cơ quan thuế giám sát, kiểm tra thay cho cách để cán bộ thuế trực tiếp đi tính thuế, thu thuế như lâu nay.

Để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của xã hội về các sản phẩm, dịch vụ công, cần phải xác định rõ những sản phẩm, dịch vụ nào thuộc trách nhiệm Nhà nước phải cung cấp miễn phí hoặc không thể thương mại hoá; còn lại là những sản phẩm, dịch vụ công được xã hội hoá. Đối với loại dịch vụ công thứ nhất, Nhà nước căn cứ vào tính hiệu quả để quyết định thông qua tổ chức của mình hay các đơn vị sự nghiệp hoặc thông qua đấu thầu để có được sản phẩm, dịch vụ cung cấp cho xã hội. Đối với loại sản phẩm dịch vụ thứ hai, cần phải mở rộng để các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia. Như vậy, đồng thời với việc hoàn thiện thể chế doanh nghiệp, cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế các đơn vị sự nghiệp, trước hết là các đơn vị sự nghiệp khoa học, giáo dục, đào tạo, y tế, văn hoá, thông tin…

Tóm lại, trong những năm qua, đặc biệt là từ Đại hội IX của Đảng, thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta đã từng bước được xây dựng và hoàn thiện trên cơ sở ba phương diện quy chế, thiết chế và cơ chế vận hành. Tuy nhiên, KTTT ở nước ta mới bước đầu phát triển, còn thiếu nhiều yếu tố, cơ chế kinh tế thị trường còn đang hoàn chỉnh. Do vậy, phấn đấu để cuối 5 năm tới (2006 - 2010) hoàn thành về cơ bản việc xây dựng thể chế thị trường định hướng XHCN được xác định là một nhiệm vụ trọng yếu, cấp bách và nặng nề. Để đạt được mục tiêu đó, mọi nỗ lực của Đảng và Nhà nước phải tập trung theo hướng tiếp tục xây dựng hoàn thiện luật pháp về kinh tế nhằm tạo dựng cho được môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường kinh doanh thuận lợi, rõ ràng, an toàn, và dự báo trước được cho người dân và các loại hình doanh nghiệp; phải áp dụng đồng bộ các chính sách, biện pháp để phát triển các loại hình doanh nghiệp, các loại thị trường; đồng thời phải tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong phát triển kinh tế; đổi mới vai trò chức năng của Nhà nước và QLNN về kinh tế trên cơ sở tôn trọng các quy luật, nguyên tắc, cơ chế của thị trường, và áp dụng các chính sách kinh tế vĩ mô, đảm bảo định hướng XHCN cho sự phát triển của nền kinh tế.

25

Page 26: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

Chương IIQUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP

VÀ MỘT SỐ LĨNH VỰC KINH TẾ

I. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP

1. Vị trí của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường

Mọi người đều biết rằng, sản xuất hàng hóa là cơ sở để xã hội loài người tồn tại và phát triển. Sản xuất hàng hóa tồn tại khách quan, tuân theo những quy luật riêng vốn có của nó. Một trong những quy luật khách quan đó là quy luật cung - cầu hàng hóa trên thị trường. Người sản xuất hàng hóa (cá nhân hay tổ chức kinh tế) sản xuất ra hàng hóa nhằm mục đích chính là bán hàng hóa ra thị trường, để thu tiền về, để trang trải các chi phí và các khoản phải đóng góp cho xã hội, còn lại là lợi nhuận để sống và tái sản xuất cho chu kỳ sau. Đó là hoạt động sản xuất hàng hóa trong nền KTTT. Trong nền KTTT, người sản xuất hàng hóa thường chuyên làm ra sản phẩm để bán, cũng có trường hợp, họ kiêm luôn việc tiêu thụ tức là kinh doanh thương mại. Người sản xuất hàng hóa đóng vai trò là các doanh nhân. Các doanh nhân tập hợp một nhóm người cùng chí hướng góp vốn và công nghệ thành lập doanh nghiệp để sản xuất hay kinh doanh một lĩnh vực nào đó (sản xuất, thương mại, dịch vụ...) trong nền KTTT. Doanh nghiệp được hiểu như là một tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thưc hiện các hoạt động kinh doanh.

Sản xuất hàng hóa càng phát triển, thị trường càng mở rộng, xã hội càng phát triển theo. Điều đó cũng có nghĩa rằng càng có nhiều người tham gia vào quá trình sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, tức là càng có nhiều doanh nghiệp thành lập và hoạt động thì hàng hóa ngày càng đồi dào, phong phú, thỏa mãn ngày càng tăng mọi nhu cầu của đời sống con người.

Ngày nay, để so sánh sự phát triển kinh tế và đời sống giữa các nước, người ta cũng tham khảo chỉ tiêu của số lượng doanh nghiệp so sánh với số dân. Ở nước ta hiện nay là 750 dân/một doanh nghiệp, thậm chí có tỉnh con số đó là 3.000 dân/một doanh nghiệp. Tuy nhiên, các tổ chức quốc tế cũng đã công nhận nước ta là một nước đang phát triển mạnh, đã được tham gia vào một số tổ chức kinh tế thế giới như ASEAN, APEC, đang đàm phán để gia nhập WTO.

Nước ta trong thời kỳ kinh tế còn bao cấp (giai đoạn trước năm 1987, trước Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI) hoạt động sản xuất hàng hóa bị hạn chế, không có và không công nhận thị trường. Thời kỳ đó, Nhà nước chỉ cho phép 3 thành phần kinh tế tham gia sản xuất hàng hóa là: Kinh tế quốc doanh (Nhà nước), kinh tế tập thể (hợp tác xã) và kinh tế cá thể (người buôn bán nhỏ hay hộ kinh tế gia đình). Mặt khác, kế hoạch nhà nước giữ vai trò chủ đạo, trung tâm chi phối mọi hoạt động từ sản xuất đến tỉêu dùng. Do tư duy quản lý kinh tế còn yếu kém và phụ thuộc khá nhiều vào viện trợ từ các nước trong hệ thống XHCN cũ trước đây, đã làm cho kinh tế nước ta yếu kém, đời

26

Page 27: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

sống nhân dân phụ thuộc vào Nhà nước, có nhiều khó khăn.

Chỉ từ khi đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, sau năm 1987, và đặc biệt tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, từ năm 1992 trở đi (Hiến pháp mới ra đời), kinh tế nước ta được xác định là nền KTTT có sự quản lý của nhà nước, đất nước ta đã có sự phát triển vượt bậc cả về quy mô, tốc độ phát triển (GDP) cũng như phát triển bền vững, toàn diện về đời sống và con người.

Đóng góp vào sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội chung đó có sự đóng góp cực kỳ to lớn của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp ngày càng phát triển về số lượng cũng như quy mô và lĩnh vực hoạt động, đặc biệt là sau khi Luật Doanh nghiệp ra đời và có hiệu lực pháp lý năm 2000. Từ đó đến nay, doanh nghiệp ngày càng có vai trò to lớn trong nền kinh tế thị trường của nước ta. Doanh nghiệp tham gia vào tất cả các dự án xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho đất nước từ cơ sở hạ tầng: đường sá, cầu cống, công trình thủy nông, xây dựng và vận hành các nhà máy, xí nhiệp, nhà ở, công trình phúc lợi... Các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đóng góp phần lớn các nguồn thu vào ngân sách nhà nước, cung cấp hầu hết các nhu cầu cho sản xuất và đời sống... Đặc biệt, doanh nghiệp thúc đẩy các quan hệ thị trường, làm cho nền kinh tế thêm sôi động, đất nước càng phát triển. Để các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được thuận lợi và phục vụ các mục tiêu định hướng của kế hoạch nhà nước qua các thời kỳ, cũng không thể thiếu vai trò quản lý của Nhà nước đối với các doanh nghiệp.

2. Nội dung, biện pháp QLNN đối với doanh nghiệp

Có thể nói bất kỳ doanh nghiệp hoạt động trên một địa bàn hay quốc gia, lãnh thổ nào cũng chịu sự quản lý của Nhà nước và làm đầy đủ nghĩa vụ, được hưởng quyền lợi mà Nhà nước dành cho doanh nghiệp. Nội dung QLNN đối với doanh nghiệp không phải luôn thay đổi hay tùy ý thích của mỗi cơ quan nhà nước, mà được quy định trong Luật Doanh nghiệp (Chương VIII).

Theo đó, nội dung QLNN đối với doanh nghiệp là :

a) Nhà nước ban hành, phổ biến và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về doanh nghiệp

Nhà nước quản lý các doanh nghiệp vừa bằng các công cụ pháp lý vừa bằng chính sách hoặc các quy định cụ thể.

Quốc hội ban hành Hiến pháp, các luật có liên quan đến doanh nghiệp như Luật Doanh nghiệp, Luật DNNN, Luật HTX, Luật Đầu tư nước ngoài, Luật Đầu tư trong nước (trong tương lai là Luật Doanh nghiệp chung, Luật Đầu tư chung)

Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh, Quyết định.

Chính phủ ban hành các Nghị định, Quyết định, Chỉ thị, Nghị quyết...

Thủ tướng chính phủ ban hành các Quyết định, Chỉ thị.

Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ ban hành các Quyết định, Thông tư.

27

Page 28: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

UBND các tỉnh, thành phố ban hành các Quyết định, Thông tư, Chỉ thị...

b) Tổ chức đăng ký kinh doanh, hướng dẫn việc đăng ký kinh doanh, bảo đảm thực hiện chiến lược, quy hoạch và kế hoạch định hướng phát triển kinh tế - xã hội

Nhà nước ủy quyền (cho phép) Bộ Kế hoạch và Đầu tư làm đầu mối xây dựng chiến lược, quy hoạch và kế hoạch định hướng phát triển kinh tế - xã hội trình Chính phủ để Quốc hội thông qua.

Mặt khác, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng là cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép đầu tư đối với các dự án thành lập và hoạt động các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có quy mô lớn, với vốn đầu tư trên 40 triệu USD, có diện tích sử dụng đất trên 100 ha. Bộ cũng hướng dẫn các Sở Kế hoạch và Đầu tư tổ chức đăng ký kinh doanh và theo dõi các hoạt động kinh doanh trên địa bàn quản lý của các địa phương đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tham mưu cho các UBND các địa phương trong việc lập quy hoạch, kế hoạch định hướng phát triển kinh tế - xã hội.

c) Tổ chức thực hiện và quản lý đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao phẩm chất đạo đức kinh doanh cho người QLDN, phẩm chất chính trị, đạo đức, nghiệp vụ cho cán bộ QLNN đối với doanh nghiệp, đào tạo và xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề

Với vai trò này, Nhà nước giúp đỡ doanh nghiệp về mặt trình độ QLDN, đào tạo con người để cung cấp cho doanh nghiệp nguồn nhân lực có đạo đức nghề nghiệp, có trình độ và nghiệp vụ chuyên môn. Hàng vạn sinh viên các trường đại học, cao đẳng, công nhân tốt nghiệp từ các trường dạy nghề của Nhà nước được các doanh nghiệp tuyển dụng, mà doanh nghiệp không phải bỏ ra chi phí đào tạo... đã chứng tỏ Nhà nước không chỉ yêu cầu doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ của mình (đóng thuế) mà còn trợ giúp cho doanh nghiệp phát triển.

d) Thực hiện chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp theo định hướng và mục tiêu của chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội

Nhà nước ban hành Luật Đầu tư trong nước, trong đó quy định rõ những ưu đãi đầu tư mà doanh nghiệp được hưởng nếu đầu tư vào những lĩnh vực hoặc vùng khó khăn. Tùy theo từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội hay từng vùng trọng điểm, Nhà nước đều có chính sách ưu đãi riêng đối với doanh nghiệp về các lĩnh vực như lãi suất ưu đãi, miễn giảm thuế, chính sách về quyền sử đất…

e) Kiểm tra, thanh tra doanh nghiệp, giám sát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thông qua chế độ báo cáo tài chính định kỳ và các báo cáo khác

Đây cũng là nội dung tất yếu để bảo đảm cho doanh nghiệp hoạt động đúng nội dung đã đăng ký và hoạt động đúng theo pháp luật quy định, đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả.

3. Biện pháp QLNN đối với doanh nghiệp

Nhà nước quản lý đối với doanh nghiệp thông qua các cơ quan QLNN các cấp, gồm có :

1) Chính phủ thống nhất QLNN đối với doanh nghiệp.

28

Page 29: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

2) Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện QLNN đối với doanh nghiệp trong lĩnh vực được phân công phụ trách.

Chính phủ quy định việc phối hợp giữa các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong QLNN đối với doanh nghiệp.

3) Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm:

- Thực hiện QLNN đối với doanh nghiệp trong phạm vi địa phương theo quy định của pháp luật.

- Tổ chức đăng ký kinh doanh, thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của doanh nghiệp trong phạm vi địa phương.

- Hướng dẫn và chỉ đạo Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trong việc phối hợp thực hiện QLNN đối với doanh nghiệp

4) Cơ quan đăng ký kinh doanh do Chính phủ quy định.

Cơ quan thay mặt cho Nhà nước trực tiếp cấp đăng ký kinh doanh và theo dõi trực tiếp các hoạt động của doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh là các Phòng đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư (cấp tỉnh) và tổ chức làm nhiệm vụ đăng ký kinh doanh nằm trong phòng nghiệp vụ thuộc UBND huyện (cấp huyện).

Quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan đăng ký kinh doanh:

- Giải quyết việc đăng ký kinh doanh và cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật.

- Xây dựng quản lý hệ thống thông tin về doanh nghiệp; cung cấp thông tin cho các cơ quan nhà nước, cho tổ chức và cá nhân có yêu cầu theo quy định của pháp luật.

- Yêu cầu doanh nghiệp báo cáo về tình hình kinh doanh của doanh nghiệp khi xét thấy cần thiết cho việc thực hiện các quy định của Luật Doanh nghiệp, đôn đốc việc thực hiện chế độ báo cáo của doanh nghiệp.

- Trực tiếp kiểm tra hoặc đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra doanh nghiệp theo những nội dung trong hồ sơ đăng ký kinh doanh.

- Xử lý vi phạm các quy định về đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và yêu cầu doanh nghiệp làm thủ tục giải thể theo quy định của Luật Doanh nghiệp.

- Chịu trách nhiệm trước pháp luật về những vi phạm trong việc đăng ký kinh doanh.

- Thực hiện các quyền và trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật.

4. Giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN đối với doanh nghiệp

Tôn trọng doanh nghiệp: Doanh nghiệp là một bộ phận cấu thành không thể thiếu của tổ chức kinh tế - xã hội, là người góp phần đóng góp quan trọng nhất vào Ngân sách Nhà nước thông qua các khoản thu thuế và nộp lợi nhuận. Nền tài chính một đất

29

Page 30: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

nước giàu mạnh cần có nhiều doanh nghiệp và hoạt động có hiệu quả. Nhà nước tôn trọng doanh nghiệp trên cơ sở bảo đảm các quyền sau đây cho doanh nghiệp:

- Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài và phát triển của các loại hình doanh nghiệp được quy định trong Luật Doanh nghiệp, bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật của các doanh nghiệp, thừa nhận tính sinh lời hợp pháp của hoạt động kinh doanh.

- Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của doanh nghiệp và chủ sở hữu doanh nghiệp.

- Tài sản và vốn đầu tư hợp pháp của doanh nghiệp và chủ sở hữu doanh nghiệp không bị quốc hữu hóa, không bị tịch thu bằng biện pháp hành chính.

Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà nước quyết định trưng mua hoặc trưng dụng tài sản doanh nghiệp, thì chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu chung của doanh nghiệp đuợc thanh toán hoặc bồi thường theo giá thị trường tại thời điểm quyết định trưng mua hoặc trưng dụng và được tạo điều kiện thuận lợi để đầu tư, kinh doanh vào lĩnh vực, địa bàn thích hợp.

Ngoài việc bảo đảm quyền của các doanh nghiệp nói trên, từng bước Nhà nước xây dựng các luật để tạo hành lang pháp lý cần thiết và môi trường kinh doanh bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, đặc biệt hiện nay, nước ta đang đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Mặt khác, Nhà nước tăng cường hợp tác với các doanh nghiệp thông qua các cơ quan Chính phủ, các bộ, các tổ chức phi Chính phủ dưới các hình thức như gặp mặt Thủ tướng Chính phủ, hội thảo, đối thoại trực tiếp, tham quan, giao lưu trong các phái đoàn cấp cao, các cuộc điều tra, khảo sát... để Nhà nước nắm bắt được các nhu cầu của doanh nghiệp về những thông tin kinh tế, những khó khăn doanh nghiệp đang gặp phải cần được tháo gỡ.

Tăng cường vai trò kiểm tra, kiểm soát, thanh tra hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp của các cơ quan chức năng của Nhà nước.

Việc thanh tra hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải được thực hiện đúng chức năng, đúng thẩm quyền và tuân thủ quy định của pháp luật. Việc thanh tra tài chính được thực hiện không quá một lần trong một năm và thời gian không quá 30 ngày. Thanh tra bất thường chỉ được thực hiện khi có căn cứ về sự vi phạm pháp luật của doanh nghiệp.

Khi tiến hành thanh tra phải có quyết định của người có thẩm quyền, khi kết thúc thanh tra phải có biên bản kết luận thanh tra, trưởng đoàn thanh tra chịu trách nhiệm về nội dung biên bản và kết luận thanh tra.

Người ra quyết định thanh tra không đúng pháp luật hoặc lợi dụng thanh tra để vụ lợi, sách nhiễu, gây phiền hà cho hoạt động của doanh nghiệp tùy theo mức độ vi phạm sẽ bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường cho doanh nghiệp theo quy định của pháp luật

Nâng cao hiệu lực của bộ máy nhà nước:

Cơ quan hành pháp của Nhà nước là bộ máy hành chính các cấp. Muốn thực hiện

30

Page 31: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

chức năng đó, cần phải có bộ máy nhà nước đủ mạnh. Để cho bộ máy Nhà nước ta đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội, Chính phủ đang tiến hành cải cách bộ máy hành chính. Đối với các bộ, Chính phủ ban hành mới các nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của các bộ thật rõ ràng cụ thể, không chồng chéo giữa các cơ quan mà vẫn bao quát hết các lĩnh vực cần có sự quản lý của Nhà nước.

Về chức năng: Bộ, cơ quan ngang bộ được giao thực hiện chức năng “quản lý nhà nước” hay “thống nhất quản lý nhà nước” đối với ngành hay những lĩnh vực công tác trên phạm vi cả nước. Về nhiệm vụ QLNN: từ quy định chức năng của bộ, ngành, nhiệm vụ QLNN của bộ ngành, lĩnh vực như hiện nay, nên tâp trung vào công tác xây dựng luật, pháp lệnh, nghị quyết, nghị định hàng năm trình các cấp có thẩm quyền ban hành, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để các tổ chức cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế được tự do bình đẳng trong các hoạt động sản xuất kinh doanh. Ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn, các định mức kinh tế - kỹ thuật để áp dụng chung trong toàn ngành, thanh tra việc ban hành và thực hiện pháp luật về những lĩnh vực được giao trong phạm vi cả nước...

Cơ quan QLNN các cấp cần thực hiện phân công phân cấp, ủy quyền, tăng cường công tác phối hợp trong công tác của các cơ quan QLNN, Nhà nước cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, hợp hiến, ổn định lâu dài phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội, bên cạnh đó tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh và kiểm tra giám sát việc thực hiện pháp luật đã được ban hành.

Đối với việc quản lý các doanh nghiệp, Nhà nước đang nghiên cứu tách chức năng trực tiếp quản lý doanh nghiệp của một số bộ để thành lập các Tập đoàn kinh tế, tránh hiện tượng vừa là chủ dự án vừa thi công, “vừa đá bóng vừa thổi còi”… Đối với các hiện tượng lãng phí, tham nhũng đang trở thành mối lo quốc nạn của toàn xã hội, Quốc hội sắp ban hành Luật phòng chống tham nhũng để khắc phục các hiện tượng sách nhiễu các doanh nghiệp hay bắt tay với tiêu cực để tham nhũng tập thể.

Như vậy, QLNN là một loại hình của quản lý xã hội. QLNN đối với doanh nghiệp là một loại hình quản lý đặc biệt quan trọng của QLNN về kinh tế. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, bằng kế hoạch, chính sách và bằng những công cụ quản lý khác”.

II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

1. Những hạn chế trong QLNN đối với doanh nghiệp nhà nước hiện nay

- Vấn đề QLNN và quản lý của chủ sở hữu nhà nước

Đối với doanh nghiệp nhà nước (DNNN), tách bạch chức năng QLNN và chức năng quản lý của chủ sở hữu đối với DNNN là mục tiêu đã được đặt ra từ nhiều năm nay, song kết quả thực hiện còn mờ nhạt.

Theo Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 1995, Chính phủ thống nhất thực hiện các

31

Page 32: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

quyền của chủ sở hữu đối với DNNN và phân công, phân cấp cho các bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh. Tuy nhiên chưa có một văn bản hướng dẫn nào về vấn đề này trong thời gian qua, dẫn đến việc phân công, phân cấp trên thực tế thiếu rõ ràng và chồng chéo; quá nhiều cơ quan được cử làm đại diện chủ sở hữu và quyền của chủ sở hữu cũng bị phân tán qua nhiều cấp trung gian, không có cơ quan nào là đầu mối chủ sở hữu trực tiếp và chịu trách nhiệm toàn diện đối với DNNN. Trong khi đó, bản thân các cơ quan này lại đồng thời thực hiện chức năng QLNN đối với DNNN trong lĩnh vực, ngành kinh tế - kỹ thuật hoặc địa bàn của mình. Vì vậy, ở rất nhiều quyết định của các cơ quan hành chính nhà nước, không thể phân biệt được đâu là quyết định mang tính QLNN đối với DNNN, đâu là quyết định của chủ sở hữu. Hậu quả là có quyết định thực hiện chức năng QLNN song lại mang tính can thiệp của chủ sở hữu vào hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là các quyết định về tín dụng (xoá nợ…), giá cả (định giá độc quyền…), tiền lương, thu nhập (khống chế lương tối đa trong doanh nghiệp…).

Hơn nữa, bản thân các quy định về quyền của chủ sở hữu đối với DNNN hiện còn chưa rõ ràng, đặc biệt về mối quan hệ của doanh nghiệp với vốn nhà nước tại doanh nghiệp, về trách nhiệm và nghĩa vụ của Nhà nước đối với doanh nghiệp… dẫn đến chủ sở hữu nhà nước - mà đại diện là các cơ quan QLNN được giao một phần chức năng đại diện chủ sở hữu DNNN - xử lý những vụ việc hết sức cụ thể và can thiệp quá sâu vào lĩnh vực điều hành sản xuất - kinh doanh, chẳng hạn vấn đề quản lý chi phí, giá thành; tư cách pháp nhân của DNNN chưa được bảo đảm đầy đủ như các doanh nghiệp khác… Thậm chí, có ý kiến cho rằng, do quá chú trọng tới chức năng quản lý của chủ sở hữu mà các cơ quan QLNN đã “sao nhãng” quản lý hành chính và buông lỏng QLNN đối với DNNN.

- Bất cập trong chính sách QLNN đối với DNNN

Điều 25 Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 1995 quy định cụ thể các chức năng QLNN đối với DNNN, trong đó có chức năng ban hành chính sách, cơ chế quản lý đối với từng loại hình DNNN. Đến nay, hệ thống cơ chế chính sách và khung pháp luật cho hoạt động của DNNN đã được hình thành tương đối đầy đủ. Tuy nhiên “cơ chế chính sách còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ, còn nhiều điểm chưa phù hợp với cơ chế thị trường đình hướng XHCN, chưa tạo được động lực mạnh mẽ thúc đẩy cán bộ và người lao động trong doanh nghiệp nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh…” (Trích Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 BCHTƯ khoá IX, NXB. CTQG, H.2001, tr. 5), trực tiếp ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả và hiệu quả sản xuất - kinh doanh của các DNNN cũng như đến hiệu lực QLNN đối với DNNN nói chung.

Về đầu tư và tài chính, như trên đã đề cập, do chưa quan niệm DNNN và chủ sở hữu DNNN là hai chủ thể pháp lý khác nhau nên các quy định hiện nay còn chưa tách bạch rõ tư cách pháp nhân DNNN và tư cách chủ sở hữu nhà nước; chưa tách bạch giữa quyền, lợi ích, nghĩa vụ và tài sản của chủ đầu tư là Nhà nước cũng như của bộ máy quản lý trong doanh nghiệp, dẫn đến chủ sở hữu nhà nước quản lý cả về giá trị và hiện vật, trong khi chủ sở hữu doanh nghiệp khác (trừ doanh nghiệp tư nhân) chỉ quản lý trên cơ sở giá trị phần vốn của họ. Cụ thể là các DNNN chưa xác định rõ các quyền về tài sản theo Bộ luật Dân sự; việc đầu tư thiết bị, tài sản phục vụ sản xuất - kinh

32

Page 33: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

doanh phải được phép của nhiều cơ quan có thẩm quyền (Bộ Tài chính và các bộ quản lý ngành kinh tế - kỹ thuật…); cơ chế phân phối còn đặt nặng vấn đề vốn nhà nước để chi phối và hạn chế quyền tự chủ của doanh nghiệp.

Bên cạnh những bất cập trong các cơ chế chính sách đối với DNNN, công tác tổ chức xây dựng kế hoạch và chiến lược phát triển DNNN trong tổng thể quy hoạch và chiến lược phát triển ngành, lãnh thổ còn chưa tốt và có nhiều hạn chế, biểu hiện cụ thể là việc chậm trễ của các bộ, ngành và địa phương trong quá trình sắp xếp, đổi mới và cơ cấu lại khu vực DNNN. Trong khi DNNN quy mô còn nhỏ, cơ cấu bất hợp lý (khoảng 54% số DNNN có quy mô vốn dưới 5 tỷ đồng) thì việc sắp xếp, cổ phần hoá, đa dạng hoá sở hữu DNNN lại có xu hướng chậm dần; số DNNN phải giải thể, phá sản hầu như không đáng kể. Vì vậy, phải thẳng thắn nhìn nhận một thực tế là đã nảy sinh mâu thuẫn giữa chủ trương, định hướng của Nhà nước với việc triển khai cụ thể của các cơ quan nhà nước. Nói cách khác, hiệu lực QLNN đối với DNNN còn kém.

- Bất cập trong hệ thống bộ máy QLNN đối với DNNN

Bộ máy QLNN hiện nay đối với DNNN còn có các vấn đề sau đây:

- Trong cơ quan nhà nước chưa thể phân biệt rạch ròi chức năng QLNN và chức năng của cơ quan đại diện sở hữu nhà nước đối với DNNN như đã đề cập trên.

- Việc phân công giữa các bộ, ngành và phân cấp giữa Trung ương với địa phương về QLNN đối với DNNN còn lẫn lộn, chồng chéo, vừa thừa, lại vừa bị buông lỏng trong nhiều khâu. Giữa các cơ quan trong bộ máy còn thiếu sự phối hợp, trong việc xác định chức năng QLNN của các cơ quan không rõ, dẫn đến tình trạng quản lý DNNN kém hiệu quả, thậm chí có một số DNNN quy mô lớn, độc quyền (nhất là tổng công ty 91) còn được giao một số chức năng của cơ quan QLNN như quy hoạch vùng nguyên liệu, lập chiến lược phát triển ngành… Vì vậy, khi gặp vướng mắc, doanh nghiệp không biết đâu là đầu mối giải quyết, chưa kể đến trường hợp quyết định QLNN của các cơ quan khác nhau lại mâu thuẫn trái ngược nhau.

Có thể nói, hiệu lực QLNN đối với DNNN thời gian qua còn chưa cao, một phần chủ yếu là do vướng mắc trong bộ máy QLNN. Trường hợp quản lý và công bố thông tin về DNNN là một minh chứng điển hình; khi các cơ quan khác nhau đưa ra số liệu hết sức khác nhau về số lượng DNNN hiện còn hoạt động, doanh nghiệp đã cổ phần hoá, chuyển đổi sở hữu, quy mô lao động, vốn, tài sản, hiệu quả hoạt động… Điều đó ảnh hưởng không tốt đến công tác quy hoạch, kế hoạch phát triển dài hạn cũng như việc kiểm tra, giám sát của các cơ quan QLNN đối với DNNN.

Bên cạnh đó, còn tồn tại hàng loạt những yếu kém khác của bộ máy QLNN, mà nhiều ý kiến đã đề cập, đó là còn ách tắc trong quản lý hành chính; năng lực cán bộ còn hạn chế; tệ quan liêu, cửa quyền; thanh tra, kiểm tra chồng chéo…, các cơ quan QLNN thiên về quản lý DNNN nhiều hơn. Ngược lại, đối với các công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân…, chỉ có một số cơ quan như đăng ký kinh doanh, thuế, quản lý thị trường… là quan tâm và có mối liên hệ nhất định, các cơ quan còn lại (nhất là các bộ máy quản lý chuyên ngành kinh tế, kỹ thuật) rất ít hoặc không thể hiện được hiệu lực QLNN của mình.

Thời gian qua, có nhiều ý kiến đề cập đến vị thế đặc lợi của DNNN. Song về

33

Page 34: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

phương diện QLNN mà hệ quả của nó là ảnh hưởng đến quyền tự chủ của pháp nhân doanh nghiệp, DNNN chưa có được vị thế bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác, còn chưa thực sự gắn với chức năng QLNN, còn thiên về bảo hộ, hỗ trợ, chưa thể hiện rõ Nhà nước quản lý DNNN bằng các văn bản pháp luật và trên thực tế đã nảy sinh, tồn tại quá nhiều những hạn chế, vướng mắc trong QLNN đối với các DNNN như đã nêu trên. Vì vậy, đổi mới QLNN đối với DNNN là đòi hỏi bức xúc.

2. Một số giải pháp đổi mới QLNN đối với DNNN

Đổi mới QLNN đối với DNNN thời gian tới phải bảo đảm được các mục tiêu: Một là, phân biệt và tách bạch rõ QLNN với quản lý của chủ sở hữu nhà nước như Nghị quyết Trung ương 3 khoá IX đã định hướng. Hai là, nâng cao hiệu lực của bộ máy QLNN đối với DNNN; thực hiện chức năng QLNN trên cơ sở pháp luật; phân công rõ ràng, không chồng chéo và lẫn lộn chức năng; phân cấp mạnh hơn và thể hiện định hướng cải cách hành chính. Ba là, đổi mới QLNN đối với DNNN phải phù hợp với định hướng và thực tế sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả khu vực DNNN. Bốn là, các DNNN phải được đổi mới và tiến tới một mặt bằng chung như đối với các thành phần kinh tế khác, phù hợp với tiến trình hội nhập và các cam kết quốc tế.

Để đạt được mục tiêu trên, cần thực hiện một số giải pháp sau:

a. Xác định lại nội dung QLNN đối với DNNN

Về pháp lý, nội dung QLNN đối với DNNN hiện nay chưa thực sự thể hiện rõ chức năng quản lý của Nhà nước đối với DNNN. Các quy định tại Điều 25 Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 1995 còn nhấn mạnh vấn đề bảo hộ, hỗ trợ DNNN; chưa khẳng định được Nhà nước quản lý DNNN bằng các công cụ pháp luật… Vì vậy, nội dung quy định về QLNN đối với DNNN theo Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 1995 có nhiều điểm cần được luật hoá lại cho phù hợp định hướng của Nghị quyết Trung ương 3 khoá IX. Trong thời gian tới, các cơ quan QLNN đối với DNNN cần tập trung vào việc ban hành, phổ biến và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về DNNN; tổ chức thực hiện và quản lý đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ DNNN; thực hiện chính sách ưu đãi đối với DNNN theo định hướng và mục tiêu của chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; kiểm tra, thanh tra doanh nghiệp; giám sát hoạt động của doanh nghiệp thông qua chế độ báo cáo tài chính định kỳ và báo cáo khác, trong đó từng bước đưa kiểm toán trở thành yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp do Nhà nước đầu tư toàn bộ vốn điều lệ.

b. Đổi mới bộ máy QLNN; tách bạch giữa chức năng QLNN với chức năng quản lý của chủ sở hữu đối với DNNN

Thực tế hiện nay cho thấy, vướng mắc chủ yếu xuất phát từ việc kiêm nhiệm cả hai chức năng này. Vì vậy, để giải quyết bản chất của vấn đề, trước hết phải đổi mới toàn diện việc phân công, phân cấp thực hiện vai trò đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN, trong đó chủ yếu là xác định rõ đầu mối chủ sở hữu trực tiếp của DNNN. Đây chính là vấn đề phân công, phân cấp thực hiện quyền của chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN mà từ khi ban hành Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 1995 đến nay chưa thực hiện được. Để thực hiện mục tiêu đặt ra, cần chỉ rõ cơ quan nào là

34

Page 35: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

đại diện chủ sở hữu của doanh nghiệp, bảo đảm ở đâu có vốn của Nhà nước thì phải có một đầu mối được giao quyền đại diện nhà nước làm chủ sở hữu trực tiếp với nhiệm vụ, quyền hạn, quyền lợi và trách nhiệm rõ ràng.

Muốn vậy, về lâu dài, cần có cơ chế hình thành các tổ chức kinh tế chuyên thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu, đưa các bộ, ngành và địa phương trở về với công tác QLNN trong lĩnh vực và địa bàn của mình. Tổ chức đại diện chủ sở hữu nhà nước phải nằm ngoài hệ thống bộ máy tổ chức hành chính, hoạt động với nguyên tắc của một chủ đầu tư vốn nhà nước vào các DNNN.

Tuy nhiên, đây là vấn đề phức tạp, đòi hỏi một quá trình cải cách lâu dài. Trước mắt, có thể thực hiện ngay các phương án quá độ sau:

- Đối với DNNN do Nhà nước đầu tư toàn bộ vốn điều lệ: Thủ tướng Chính phủ (hoặc người được Thủ tướng Chính phủ uỷ quyền) thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tổng công ty và DNNN độc lập đặc biệt quan trọng do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, còn bộ thực hiện chức năng QLNN; đối với DNNN thuộc tỉnh không có Hội đồng quản trị thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh là đại diện chủ sở hữu DNNN; còn đối với DNNN có Hội đồng quản trị thì Hội đồng quản trị là đại diện trực tiếp chủ sở hữu DNNN. Bộ Tài chính được giao thực hiện một phân quyền của chủ sở hữu trong lĩnh vực tài chính. Các cơ quan còn lại chỉ thực hiện chức năng QLNN.

- Đối với các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần có 100% vốn điều lệ thuộc sở hữu nhà nước và phần vốn của Nhà nước còn ở các DNNN đã chuyển đổi sở hữu, cần thành lập tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước để thực hiện chức năng, quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu.

- Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư của DNNN (kể cả tổng công ty đầu tư vốn và kinh doanh vốn nhà nước) thì DNNN đó là đại diện chủ sở hữu đối với phần vốn đã đầu tư.

Ngày 19 tháng 9 năm 2005 Bộ Tài chính đã ra Thông tư số 81/2005/TT-BTC hướng dẫn việc chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp về Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước.

Nội dung chuyển giao gồm:

- Giá trị vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp (trong đó chi tiết: giá trị vốn nhà nước và tỷ lệ vốn nhà nước trên vốn điều lệ tại thời điểm xác định số liệu bàn giao); danh sách các doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhà nước chuyển giao về Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (trong đó chi tiết: loại hình doanh nghiệp, ngành nghề kinh doanh, ngày thành lập, địa chỉ trụ sở của doanh nghiệp).

- Tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhà nước chuyển giao về Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (trong đó báo cáo chi tiết: tổng tài sản, nợ phải thu, nợ phải trả, vốn chủ sở hữu, kết quả kinh doanh…).

- Các tồn tại về tài chính.

Thời điểm xác định số liệu chuyển giao: 31/12/2005.

35

Page 36: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

c. Đổi mới chính sách, cơ chế quản lý đối với DNNN

Quán triệt và thể chế hoá các quan điểm của Nghị quyết Trung ương 3 khoá IX về sắp xếp, đổi mới và phát triển DNNN, trước mắt cần sửa đổi căn bản Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 1995 với những nội dung đổi mới như:

- Hạn chế việc thành lập mới DNNN bằng các quy định chặt chẽ về ngành nghề, điều kiện và quy trình thành lập.

- Đổi mới tổ chức quản lý của doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp quy mô lớn, Hội đồng quản trị là đại diện trực tiếp chủ sở hữu nhà nước tại doanh nghiệp. Có cơ chế để tiến tới chuyên nghiệp hoá cán bộ điều hành; thực hiện thi tuyển tổng giám đốc, giám đốc; không hạn chế tiền lương tối đa; đánh giá kết quả hoạt động theo hiệu quả sử dụng vốn.

- Nhà nước chuyển từ quản lý tài sản hiện vật sang quản lý về mặt giá trị đối với các tài sản DNNN. Chủ sở hữu kiểm soát doanh nghiệp chủ yếu thông qua hiệu quả đồng vốn đầu tư. Các quyền đối với tài sản phải thuộc về pháp nhân doanh nghiệp. Trước hết cần luật hoá và xác định rõ quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp và vấn đề phân công, phân cấp thực hiện quyền của chủ sở hữu như đã nêu trên.

Ngoài ra, để nâng cao hiệu lực QLNN, cần tiếp tục hoàn thiện các công cụ điều tiết vĩ mô như chính sách thuế, tài chính, tín dụng, tiền tệ; tiến tới về lâu dài có một luật doanh nghiệp chung cho các loại hình.

Cuối cùng, thực tế đổi mới, phát triển DNNN nói riêng và cải cách nền kinh tế nói chung nhiều năm qua cho thấy, khó khăn và bất cập không chỉ xuất phát từ khung khổ pháp lý, mà chủ yếu nảy sinh ở quá trình thực hiện và triển khai quy định pháp luật, trước hết là trong bản thân hành vi ứng xử của cán bộ QLNN và của chính các cơ quan quản lý hành chính nhà nước. Vì vậy, các giải pháp nêu trên sẽ không đạt được hiệu quả mong muốn nếu không đi kèm các biện pháp nâng cao trình độ, nhận thức và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan QLNN khi thực hiện nhiệm vụ của mình.

III. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP DÂN DOANH

Doanh nghiệp dân doanh (DNDD) là loại hình doanh nghiệp (DN) do dân đầu tư vốn và quản lý kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp. Đó là DN tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần, công ty liên danh. Số lượng DNDD tăng nhanh hàng năm với quy mô và ngành nghề ngày càng đa dạng. DNDD đã phát huy vai trò rõ rệt trên các mặt: Huy động ngày càng nhiều vốn trong xã hội vào kinh doanh; tạo thêm nhiều việc làm, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội; tạo ra nhiều sản phẩm đa dạng về chủng loại, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; đóng góp nguồn thu ngày càng tăng cho ngân sách nhà nước.

Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động của các DNDD thời gian qua đã bộc lộ một số mặt hạn chế. Để phát huy hơn nữa vai trò và tiềm năng của DNDD trong công cuộc phát triển kinh tế, xin đề xuất một số giải pháp tăng cường QLNN đối với loại hình DN này.

36

Page 37: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

1. Tổ chức, khuyến khích phong trào khởi nghiệp kinh doanh rộng khắp, mạnh mẽ trong cả nước

Một nền kinh tế mạnh, một quốc gia giàu có, bền vững, trước hết phải có nhiều doanh nghiệp, có nhiều doanh nhân năng động, biết làm ăn có hiệu quả. Tỉ lệ số doanh nghiệp so với số dân nói lên trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia. Ở Singapore, cứ 4 người dân có một doanh nghiệp. Chỉ tiêu này ở Hồng Kông là 5, Anh: 8, Đức, Hoa Kỳ: 13, Ôxtrâylia: 21,… trong khi ở Việt Nam, tại Tp. Hồ Chí Minh, nơi nhiều doanh nghiệp nhất (bao gồm cả DNNN, DN FDI và DNDD) cũng phải 160 người dân mới có 1 DN, ở Hà Nội: 200, bình quân cả nước tới 800. Ước tính đến năm 2005, cả nước cũng chỉ đạt bình quân khoảng 250 người một DN. Các DN nước ta lại có quy mô nhỏ bé, khả năng cạnh tranh thấp. Rõ ràng, để nhanh chóng đuổi kịp trình độ phát triển kinh tế của các nước, Đảng và Nhà nước ta phải có nhiều giải pháp khuyến khích nhân dân đầu tư mạnh hơn nữa. Trước hết, phải giáo dục trong nhân dân ý thức ham muốn, mạnh dạn kinh doanh, làm giàu chính đáng, có kinh doanh làm giàu là yêu nước, yêu CNXH; toàn xã hội phải loại bỏ định kiến cũ, khinh miệt các nghề nghiệp mua bán, kinh doanh. Nhà nước cần có chính sách tạo tập quán suy tôn những doanh nhân giỏi; có chính sách cụ thể trợ giúp ban đầu những điều kiện cần thiết đối với những người khởi nghiệp kinh doanh. Các trường học, nhất là các trường dạy nghề, chuyên nghiệp trung cấp, cao đẳng, đại học cần trang bị cho học viên những tư duy lý luận, những kiến thức và kĩ năng cần thiết về kinh doanh và quản trị kinh doanh để đại bộ phận khi tốt nghiệp ra trường có thể trở thành những người chủ kinh doanh, chứ không phải chỉ để trở thành công chức nhà nước hay đi làm thuê cho các DN như lâu nay.

2. Đa dạng hóa ngành nghề, sản phẩm và dịch vụ đối với các DNDD

Nền kinh tế thị trường phát triển trong bối cảnh quốc gia và quốc tế hiện nay đòi hỏi phải kinh doanh đa ngành nghề và sản phẩm dịch vụ. Đây là tiền đề cho việc tăng số lượng DN và đa dạng hóa hoạt động ở mỗi DN. Đa dạng hóa là một hướng hoạt động quan trọng để hạn chế và khắc phục rủi ro, bảo đảm kinh doanh ổn định, có hiệu quả vững chắc trong môi trường cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt trên thị trường trong nước, khu vực và thế giới như hiện nay.

Xuất phát từ những đặc điểm của phần lớn DNDD ở nước ta hiện nay (quy mô nhỏ, vốn ít, kỹ thuật công nghệ thấp…), các biện pháp đa dạng hóa kinh doanh nên theo các hướng:

- Tạo ra những sản phẩm cuối cùng hoàn chỉnh phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.

- Sơ chế nguyên liệu thành bán thành phẩm cung cấp cho các DNNN, DN FDI có quy mô lớn, kỹ thuật cao để lắp ráp, tiếp tục tinh chế, tạo ra những sản phẩm hoàn chỉnh, chất lượng, giá trị cao phục vụ xuất khẩu.

Theo hướng này, các DNDD đóng vai trò là các xí nghiệp vệ tinh, hợp tác sản xuất - kinh doanh với các DNNN và DN FDI, nhờ vậy mà có thể tăng được sức cạnh tranh cho toàn ngành.

37

Page 38: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

Trên cơ sở phân công và hợp tác sản xuất, các DNDD có thể đa dạng hóa kinh doanh theo các ngành nghề cụ thể như: cơ khí, điện tử; các ngành dệt may, giày dép, đồ chơi trẻ em; sản xuất vật liệu xây dựng và xây dựng; chế biến nông - lâm - thủy sản (thị trường này ở nước ta với gần 80 triệu dân là rất rộng lớn và vừa sức với các DNDD); các ngành dịch vụ…

3. Cải tiến công tác đăng ký kinh doanh

Hiện nay, cơ quan đăng ký kinh doanh (ĐKKD) chưa được tổ chức rõ ràng ở cả cấp tỉnh, cấp huyện; thủ tục còn phiền hà, một số địa phương còn tự quy định những điều kiện ngoài Luật Doanh nghiệp và những quy định của Chính phủ, của các bộ, ngành trung ương, làm “sống” lại cơ chế “xin - cho”, phát sinh tham nhũng, tiêu cực. Có tình trạng “giao khoán” cho các Sở Kế hoạch và Đầu tư ở cấp tỉnh và cán bộ ĐKKD ở cấp huyện, trong khi số cán bộ quá ít nên công việc ĐKKD hàng ngày quá tải. So với nhiều nước khác, thủ tục ĐKKD ở nước ta còn quá nhiều bước, chi phí gia nhập thị trường (thời gian và tiền bạc) còn quá cao. Ở trường hợp suôn sẻ nhất, để hoàn thành thủ tục gia nhập thị trường, theo quy định hiện hành người kinh doanh ít nhất phải tiến hành 3 bước: ĐKKD, khắc dấu; đăng ký mã số thuế và mua hóa đơn tài chính. Tất cả phải mất 45 ngày với chi phí khoảng 1,5 triệu đồng (nếu qua các dịch vụ thì chi phí này còn cao hơn nhiều). Ngoài ra, còn phải đăng trên 3 số báo liên tiếp về những nội dung ĐKKD chủ yếu với chi phí từ 600.000 đến 750.000 đồng và 3 triệu đồng thuế môn bài. Như vậy, tổng chi phí gia nhập thị trường đối với trường hợp bình thường ở nước ta hiện nay vào khoảng 5.225.000 đồng, bằng 84% thu nhập bình quân đầu người hàng năm. Tuy nhiên, trong thực tế như kết quả điều tra của Ngân hàng Thế giới thì quá trình tham gia thị trường của một DNDD ở Việt Nam phải qua 16 thủ tục, 112 ngày và chi phí (không tính chi phí thời gian), bằng 133,7% GDP/người/năm, trong khi số thủ tục bình quân của 85 quốc gia nghiên cứu là 10,48 thủ tục với thời hạn chính thức là 47,4 ngày, chi phí tiền bằng 47% GDP/người/năm. Rõ ràng, vấn đề ĐKKD nói riêng và thủ tục gia nhập thị trường nói chung ở nước ta đang là một rào cản lớn đối với đầu tư kinh doanh của người dân. Để khắc phục rào cản này, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tự do kinh doanh theo pháp luật, chúng ta cần:

- Đơn giản hóa thủ tục ĐKKD, giảm lệ phí gia nhập thị trường.

- Tăng cường lực lượng ĐKKD ở cấp huyện. Tùy theo quy mô của huyện (quận) cần có nhóm từ 2 - 4 cán bộ có năng lực và trách nhiệm cao trong công việc, được trang bị phương tiện làm việc cần thiết như máy vi tính, điện thoại, sổ sách…; cần có sự phối hợp chặt chẽ trong công tác này giữa các cơ quan liên quan ở từng cấp, có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của các cấp ủy Đảng, chính quyền.

- Chính quyền địa phương không được ban hành những quy định trái với các luật và những quy định của Chính phủ, của các bộ, ngành trung ương. Chính phủ, các bộ, ngành cần kiểm tra, kịp thời phát hiện và hủy bỏ những quy định sai trái đó. Cần có quy định về khiếu nại, tố cáo của người ĐKKD đối với những tổ chức, cá nhân trong cơ quan nhà nước ban hành những quy định hoặc có những hành vi trái pháp luật, cản trở việc đầu tư, ĐKKD; những hành vi vi phạm đó phải được xử lý nghiêm theo pháp luật.

- Nên có quy định đơn giản và giảm nhẹ chi phí cho các thủ tục tham gia thị trường.

38

Page 39: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

Cụ thể, số thủ tục không quá 10, thời gian không quá 40 ngày và tổng kinh phí không quá 50% GDP/ người/năm.

4. Có chính sách hỗ trợ nhân dân đầu tư kinh doanh

- Chính sách đất đai: Các địa phương cần có quy hoạch dành cho những khu đất cần thiết, thuận tiện cho kinh doanh như các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, v.v…; đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cần thiết về giao thông, điện, nước, thông tin liên lạc, kết hợp bảo vệ môi trường, có chính sách cho thuê đất với giá hạ, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, có thủ tục đơn giản để các nhà đầu tư có thể nhanh chóng tổ chức kinh doanh.

- Về thị trường tài chính – tiền tệ: Mở rộng thị trường chứng khoán, thị trường tiền tệ, thị trường bảo hiểm, lao động, bất động sản, khoa học - công nghệ để các DN, người dân tham gia, đáp ứng nhu cầu kinh doanh; có chính sách tín dụng, chính sách miễn, giảm thuế trong một số năm đầu kinh doanh tương tự như với các DNNN.

- Chính sách về lao động, đào tạo nghề: Tăng cường hệ thống các trường dạy nghề ở Trung ương và các địa phương, khuyến khích các trường, cơ sở đào tạo, nghiên cứu khoa học tăng cường hợp tác với các DN đào tạo cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật, nâng cao tay nghề cho công nhân viên, nghiên cứu theo hợp đồng về các đề tài phục vụ sản xuất - kinh doanh và quản lý, gắn giáo dục - đào tạo, nghiên cứu khoa học với sản xuất - kinh doanh.

5. Tăng cường năng lực QLNN của các cấp chính quyền địa phương đối với DNDD

Loại hình DN này thuộc sự QLNN trực tiếp và toàn diện của chính quyền địa phương, là một bộ phận cấu thành quan trọng của kinh tế địa phương. Ngoài yếu tố tự thân của nội bộ DN, sự ra đời, tồn tại, hiệu quả kinh doanh, tình hình chấp hành pháp luật của DN còn phụ thuộc chủ yếu vào sự quản lý và hỗ trợ của chính quyền địa phương. Ngược lại, kinh tế địa phương có giàu mạnh hay không tùy thuộc trước hết vào số DN và trạng thái kinh doanh của các DN. Điều này đòi hỏi chính quyền địa phương quan tâm đúng mức, có sự chỉ đạo thường xuyên và sâu sát đối với sự ra đời và hoạt động của các DNDD:

- Trước hết, địa phương cần vận dụng các chủ trương, chính sách của Trung ương, cụ thể hóa trong khung pháp luật chung cho phù hợp với đặc điểm địa phương; hỗ trợ, khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc tham gia kinh doanh và kinh doanh có hiệu quả của các DN. Đó là các chính sách cụ thể về đất đai, kết cấu hạ tầng, bảo vệ môi trường sinh thái, giải quyết các vấn đề lao động - xã hội cho sản xuất - kinh doanh.

- Chính quyền địa phương cần tăng cường công tác QLNN đối với các DN đã đi vào hoạt động; thực hiện tốt hoạt động “hậu kiểm”, chủ yếu là thực hiện các biện pháp hướng dẫn, trợ giúp, khuyến khích DNDD, đồng thời giám sát, kịp thời phát hiện và xử lý các vụ việc, các hành vi vi phạm pháp luật ở các DN. Công việc này cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trực tiếp làm chức năng ĐKKD như Sở, Phòng Kế hoạch - Đầu tư (của huyện) với các Sở, Phòng, Ban quản lý các ngành lao động - xã hội, tài chính, công an, hải quan, viện kiểm sát, tòa án… ở địa phương.

Kinh nghiệm rút ra từ các địa phương thu hút được nhiều DNDD chính là thái độ

39

Page 40: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

“thân thiện” của chính quyền, trong việc sửa đổi các thủ tục hành chính, giảm phiền hà cho DN.

6. Tổ chức, phát huy vai trò của các hiệp hội, câu lạc bộ DN

Đây là các hình thưc tổ chức xã hội - nghề nghiệp - kinh doanh được hình thành trên cơ sở tự nguyện tham gia của các thành viên, các DN. Nếu những tổ chức này mạnh sẽ có tác dụng thiết thực trong việc thông tin về thị trường kinh tế - kỹ thuật, trao đổi kinh nghiệm, tăng cường hợp tác, hỗ trợ nhau trong kinh doanh. Thông qua hiệp hội, câu lạc bộ DN mà các cơ quan nhà nước tuyên truyền, giáo dục cho các DN về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời tập hợp ý kiến, tâm tư nguyện vọng của DN để nghiên cứu, tham khảo trong quá trình thực hiện chức năng QLNN. Do vậy, Nhà nước cần:

- Đánh giá lại và giúp đỡ về tổ chức và hoạt động của các hiệp hội, câu lạc bộ DN để các tổ chức này có chương trình, nội dung, phương thức hoạt động thiết thực, bổ ích.

- Tuyên truyền, hướng dẫn pháp luật, thông tin thị trường; tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn cán bộ quản lý DN; trao đổi kinh nghiệm sản xuất – kinh doanh, kinh nghiệm quản lý; xây dựng triết lý kinh doanh và văn hóa DN đúng đắn.

- Tôn trong ý kiến đóng góp của các hiệp hội, câu lạc bộ, DN với cơ quan Đảng và Chính phủ, chính quyền địa phương về xây dựng, sửa đổi, bổ sung pháp luật, chính sách, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từng ngành trong cả nước và địa phương trên địa bàn.

- Thực hiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên trước những can thiệp trái pháp luật của cơ quan, công chức nhà nước.

IV. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG VÀ THƯƠNG MẠI NỘI ĐỊA

1. Vai trò của QLNN đối với phát triển thị trường và thương mại nội địa ở nước ta hiện nay

Vai trò của Nhà nước đối với phát triển thị trường và thương mại nội địa thể hiện ở các chức năng của Nhà nước trong quản lý kinh tế như: tạo môi trường thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh tế cùng tham gia vào thị trường bình đẳng, định hướng sự phát triển của thị trường và thương mại nội địa, điều tiết sự vận động, phát triển của thị trường, kiểm soát sự hoạt động của nền kinh tế nói chung, của thị trường và thương mại nội địa nói riêng.

Trong nền KTTT, luôn có ba nhân tố là hệ thống thị trường, Nhà nước và các doanh nghiệp. Hệ thống thị trường vận hành theo cơ chế thị trường với những quy luật vốn có của nó. Nhà nước làm chức năng kích thích, điều tiết từ bên trong để tạo thành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Các doanh nghiệp hoạt động tự chủ trong thị trường, chịu sự tác động của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Sự hoạt động của các doanh nghiệp luôn bị chi phối bởi hai nhân tố là thị trường và Nhà nước. Do vậy, trình độ phát triển của thị trường và trình độ quản lý thị trường của Nhà nước sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới sự hoạt động, phát triển của các doanh nghiệp, đến sự phát

40

Page 41: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

triển của thương mại nội địa. Quan hệ Nhà nước, thị trường, doanh nghiệp có thể đưa đến ba khả năng:

- Thị trường phát triển đầy đủ, đồng bộ, lành mạnh, Nhà nước quản lý, điều tiết nhịp nhàng, có hiệu lực, hiện thực hóa cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trong điều kiện đó, các doanh nghiệp sẽ hoạt động, phát triển thuận lợi, đúng hướng. Đây là mục tiêu phát triển kinh tế thị trường của chúng ta hiện nay.

- Thị trường không phát triển, Nhà nước vẫn làm thay, can thiệp bằng mệnh lệnh, hành chính vào mọi hoạt động kinh tế, phân bổ các nguồn lực, trực tiếp điều tiết hoạt động của các doanh nghiệp, hạn chế sự ra đời và phát triển của thị trường; có nguy cơ trở lại mô hình quản lý hành chính chỉ huy. Do vậy, thương mại nội địa cũng không có cơ hội để phát triển.

- Thị trường phát triển nhưng trình độ và khả năng điều tiết, quản lý của Nhà nước yếu kém, không có hiệu lực, dẫn đến tình trạng buông lỏng quản lý, Nhà nước mất khả năng điều tiết thị trường, các doanh nghiệp hoạt động hoàn toàn theo sự điều tiết của "bàn tay vô hình" của thị trường, thậm chí phát triển trong sự hỗn loạn.

Hiện nay, trong nền kinh tế của nước ta, có nhiều nơi, có nhiều lĩnh vực QLNN bị buông lỏng, nhưng cũng có lúc QLNN lại can thiệp quá sâu gây cản trở, kìm hãm sự phát triển của thị trường, của doanh nghiệp.

Khác với những quốc gia có thị trường phát triển ở trình độ cao, cơ chế thị trường đã bộc lộ rõ tất cả những mặt mạnh, mặt yếu, những thuộc tính vốn có của nó, ở đó, Nhà nước chủ yếu điều tiết thị trường nhằm mục tiêu đã định. Ở nước ta hiện nay, kinh tế thị trường mới ở mức sơ khai, các yếu tố của thị trường chưa hình thành đồng bộ. Do vậy, Nhà nước vừa phải thực hiện các biện pháp thúc đẩy sự hình thành đồng bộ các yếu tố của thị trường, vừa phải điều tiết thị trường. Hai nhiệm vụ này có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó, nhiệm vụ tạo lập hệ thống thị trường đẩy đủ, đồng bộ là nhiệm vụ cơ bản nhất. Việc ra đời và phát triển thị trường ở nước ta phải gắn liền với sự quản lý của Nhà nước.

Vai trò thúc đẩy sự ra đời và phát triển thị trường và thương mại nội địa của Nhà nước ở nước ta hiện nay, thể hiện trên hai mặt:

Một là, Nhà nước tạo mọi điều kiện cho các chủ thể sản xuất, kinh doanh phát triển. Trên cơ sở có nền kinh tế hàng hóa phát triển, hệ thống thị trường và cơ chế thị trường sẽ đẩy đủ và hoàn thiện. Khi đó Nhà nước có vai trò như "bà đỡ”, không ra lệnh, không tác động trực tiếp, mà cho phép, bảo hộ, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho nền KTTT phát triển. Nhà nước cần tác động hợp với các quy luật của thị trường.

Hai là, Nhà nước như một nhân tố từ bên trong, trực tiếp tham gia vào việc hình thành và phát triển các loại thị trường, bằng các nguồn lực của mình. Nhà nước xuất hiện như một sức mạnh, một nhân tố chủ động của thị trường, lúc đó, Nhà nước thật sự trở thành "một nhà buôn sỉ" như Lê-nin đã từng nói.

Cả hai mặt này có quan hệ mật thiết với nhau, cùng hướng vào mục tiêu chung là thúc đẩy hệ thống thị trường và thương mại nội địa ở nước ta phát triển. Sự tác động như vậy sẽ giúp Nhà nước thực hiện được cả hai chức năng: đẩy nhanh sự ra đời và

41

Page 42: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

phát triển các loại thị trường, đồng thời ngay từ đầu Nhà nước đã điều tiết được thị trường và các hoạt động thương mại nội địa.

Cũng giống như quá trình thúc đẩy sự ra đời, phát triển hoàn thiện các yếu tố thị trường và thương mại nội địa, mọi tác động điều tiết, quản lý của Nhà nước được thực hiện trên hai mặt:

Thứ nhất, Nhà nước điều tiết thị trường thông qua luật pháp, chính sách và các công cụ điều tiết khác, bao gồm: quan điểm, chiến lược phát triển, pháp luật, kế hoạch và quy hoạch phát triển, chính sách, bộ máy và cán bộ quản lý, các nguồn lực quốc gia như: dự trữ quốc gia, tài nguyên thiên nhiên,… Để thúc đẩy sự ra đời, phát triển, hoàn thiện hệ thống thị trường, thương mại nội địa, Nhà nước trước hết phải có sự nhất quán từ lý luận đến thực tiễn về chiến lược phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN. Nhà nước cần đưa ra được những chính sách, biện pháp cụ thể nhằm đảm bảo sự bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế tham gia vào hệ thống thị trường, bảo vệ lợi ích hợp pháp của các chủ doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế khác nhau. QLNN phải kích thích được sự hợp tác, liên kết, hỗ trợ nhau giữa các doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh lành mạnh.

Nhà nước thông qua các công cụ quản lý của mình xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật và gian lận thương mại. Nhà nước cũng cần có những biện pháp điều hòa lợi ích của các chủ thể tham gia thị trường và lợi ích chung của xã hội, thông qua các chính sách: thuế, hệ thống bảo hiểm,... để Nhà nước điều chỉnh các mối quan hệ lợi ích này. Bảo vệ lợi ích của người lao động, người tiêu dùng, kiểm soát và hạn chế độc quyền kinh doanh cũng là những nội dung mà QLNN trong kinh tế thị trường phải chú trọng.

Mặt khác, Nhà nước trực tiếp tham gia vào thị trường như một nhân tố, một sức mạnh từ bên trong để điều chỉnh thị trường. Nhà nước, thông qua lực lượng vật chất, các nguồn lực kinh tế của mình tác động trực tiếp vào thị trường và thương mại nội địa. Trong nền KTTT theo định hướng XHCN, kinh tế nhà nước là một bộ phận đặc biệt của nền kinh tế quốc dân. Bằng lực lượng kinh tế của mình, Nhà nước có thể đầu tư phát triển mạnh một ngành, một lĩnh vực, một vùng, một loại thị trường nào đó. Đồng thời, kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất và công cụ sắc bén để Nhà nước thực hiện chức năng định hướng, điều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế, bảo đảm những cân đối lớn, những định hướng kinh tế - xã hội, chính trị của toàn bộ nền kinh tế, là lực lượng cơ bản đảm bảo khả năng định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường. Hoạt động của khu vực kinh tế nhà nước nhằm mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ, thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế khác, do đó, tất yếu thúc đẩy thị trường và thương mại nội địa phát triển. Kinh tế nhà nước còn giúp Nhà nước khắc phục mặt trái của cơ chế thị trường, điều chỉnh các "lỗ hổng" trong quan hệ cung cầu hàng hóa và dịch vụ do cơ chế thị trường tạo ra. Trong các lĩnh vực rất cần thiết cho sự phát triển kinh tế - xã hội, nhưng khả năng sinh lời thấp, không hấp dẫn các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác đầu tư vào, như: đầu tư kết cấu hạ tầng, các công trình phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường,... thường kinh tế nhà nước phải trực tiếp đảm nhận.

Khu vực kinh tế nhà nước gồm nhiều bộ phận cấu thành, trong đó hệ thống doanh nghiệp nhà nước là bộ phận cơ bản nhất. Các doanh nghiệp nhà nước vừa là chủ thể

42

Page 43: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

trực tiếp tạo ra cơ sở vật chất cho xã hội, vừa là lực lượng nòng cốt để Nhà nước dẫn dắt, mở đường cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Hệ thống doanh nghiệp nhà nước vừa là các đơn vị kinh tế tự chủ, độc lập, vừa là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước để Nhà nước thúc đẩy sự ra đời, phát triển đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường, thúc đẩy sự phát triển của thương mại nội địa.

Với cách điều tiết thứ nhất, Nhà nước tạo ra những hành lang, những rào chắn cần thiết để định hướng sự vận động của thị trường và thương mại nội địa. Với cách điều tiết thứ hai, Nhà nước dùng chính sức mạnh kinh tế của mình tác động hợp quy luật của thị trường để định hướng sự vận động của nó. Nếu sự tác động của Nhà nước để thúc đẩy thị trường phát triển có hiệu quả thì tác động điều chỉnh vận động của thị trường cũng có hiệu lực và ngược lại.

Quá trình Nhà nước tham gia thúc đẩy sự ra đời, phát triển thị trường và thương mại nội địa, cũng như quá trình Nhà nước điều tiết thị trường đồng thời là quá trình phát hiện những khiếm khuyết của thị trường và những thiếu sót của bản thân QLNN đối với thị trường và thương mại nội địa. Trên cơ sở đó, Nhà nước có những điều chỉnh, khắc phục kịp thời.

Hiện nay, chúng ta đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Quá trình này diễn ra rất phức tạp, khó khăn. Bởi vì, bản thân quá trình chuyển đổi là quá lớn, sâu sắc, toàn diện; đồng thời còn do chủ thể quản lý chưa có kinh nghiệm, chưa có kiến thức, lại phải tự đấu tranh với chính bản thân mình. Chủ nghĩa tư bản, để có được hệ thống thị trường phát triển đồng bộ và ở trình độ cao như hiện nay, đã phải trải qua sự vận động, phát triển hàng trăm năm. Đối với nước ta, một nước nông nghiệp lạc hậu, không trải qua giai đoạn TBCN mà quá độ tiến thẳng lên CNXH, xuất phát điểm của nền kinh tế rất thấp. Không những thế, nền kinh tế lại phải trải qua mấy thập kỷ phát triển theo hướng kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp, không có quan hệ hàng hóa, tiền tệ, xóa bỏ hẳn thị trường, kỳ thị với thị trường... Chính vì vậy, quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường của nước ta sẽ gặp khó khăn gấp bội. Chúng ta không chỉ đi từ thấp đến cao, mà còn phải chuyển đổi từ cái cũ sang cái mới, từ trong tư duy đến cách làm. Để thực hiện tốt chức năng của mình, QLNN không chỉ học cách tác động, điều tiết thị trường hiệu quả mà còn phải tự đổi mới chính bản thân mình, đổi mới từ tư duy đến hành động.

Ngày nay, trước yêu cầu CNH, HĐH nền kinh tế và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, yêu cầu đặt ra đối với QLNN càng to lớn. Quá trình CNH, HĐH và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đồng thời gắn liền với quá trình chuyển đổi, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường thành công cũng là điều kiện, tiền đề thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

2. Một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò QLNN đối với phát triển thị trường và thương mại nội địa theo mục tiêu CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta hiện nay

Để nâng cao vai trò QLNN về phát triển thị trường và thương mại nội địa theo mục

43

Page 44: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

tiêu CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế, trong thời gian tới, cần thực hiện các giải pháp sau:

- Đổi mới và hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế chính sách và thủ tục hành chính nhằm phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu, huy động tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật mới cho phát triển sản xuất - kinh doanh. Đây là điều kiện cơ bản để phát triển kinh tế thị trường.

- Tiếp tục hoàn thiện các môi trường kinh doanh thuận lợi cho thị trường và hoạt động thương mại nội địa phát triển, như: xây dựng kết cấu hạ tầng (đường giao thông, điện nước, thông tin liên lạc, các trung tâm thương mại...) tạo điều kiện cho thị trường và thương mại nội địa phát triển ở khắp các vùng trong cả nước, nhất là khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa...

- Mở rộng phân công lao động, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động trong phạm vi cả nước cũng như từng địa phương, từng vùng theo hướng CNH, HĐH. Phát triển kinh tế thị trường cũng như thương mại nội địa cần khai thác mọi nguồn lực, phát triển nhiều ngành nghề, sử dụng có hiệu quả các cơ sở vật chất kỹ thuật, vốn và tạo nhiều việc làm cho người lao động, tăng thu nhập của dân cư, tăng sức mua trong thị trường nội địa.

- Tạo lập và phát triển đồng bộ các yếu tố của thị trường, tiếp tục phát triển các loại thị trường như thị trường hàng hóa và dịch vụ (bao gồm cả tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt, dịch vụ cho sản xuất, dịch vụ cho đời sống), thị trường sức lao động, thị trường vốn (cả vốn ngắn hạn và vốn dài hạn), thị trường bất động sản, thị trường công nghệ, thông tin, sở hữu trí tuệ,... để có cơ chế thị trường hoạt động năng động, có hiệu quả, có trật tự, kỷ cương trong môi trường lành mạnh, công khai, minh bạch, hạn chế và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh. Khuyến khích nhiều người sẵn sàng trở thành nhà kinh doanh, bảo đảm quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế; xây dựng thị trường xã hội thống nhất và thông suốt cả nước, thúc đẩy thương mại nội địa phát triển.

- Hoàn thiện hệ thống chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia; cải cách hệ thống thuế để vừa đảm bảo chống thất thu thuế vừa có tác dụng nuôi dưỡng nguồn thu, vừa kích thích sự phát triển của các chủ thể tham gia thị trường; sử dụng linh hoạt, có hiệu quả, các công cụ chính sách tiền tệ như: tỷ giá, lãi suất, nghiệp vụ thị trường mở theo các nguyên tắc của thị trường; đa dạng hóa các hình thức huy động vốn, cho vay, cung ứng các dịch vụ ngân hàng tiện lợi, thông thoáng đến các doanh nghiệp và mọi người dân có nhu cầu về vốn cho sản xuất, kinh doanh, chú trọng khu vực nông nghiệp và nông thôn, đồng thời có những biện pháp hạn chế và khắc phục những rủi ro trong kinh doanh. Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, gắn cải cách ngân hàng với cải cách doanh nghiệp nhà nước.

- Đào tạo đội ngũ cán bộ QLNN về kinh tế và các nhà kinh doanh giỏi, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường hiện đại.

- Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, theo hướng đa dạng hóa, đa phương hóa với nhiều hình thức đa dạng, linh hoạt, hiệu quả, vừa bảo đảm độc lập, tự chủ về kinh tế, vừa tranh thủ các nguồn lực, kỹ thuật công nghệ phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH nền kinh tế đất nước.

44

Page 45: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

- Tăng cường hoạt động kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước, phát hiện và phòng ngừa có hiệu quả nạn tham nhũng, tiêu cực, gian lận thương mại làm rối loạn thị trường.

V. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

Để phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đảng ta chủ trương phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế (HNKTQT).

Để chủ động HNKTQT là nâng cao hiệu quả QLNN trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, cần chú trọng những vấn đề sau:

1. Xây dựng chiến lược HNKTQT

Chiến lược mở rộng kinh tế đối ngoại và HNKTQT là một phần của chiến lược tổng thể phát triển kinh tế - xã hội. Cần xây dựng và thực hiện một chiến lược mở rộng kinh tế đối ngoại, chủ động HNKTQT với định tính và định lượng rõ ràng, đủ tầm nhìn xa, rộng và tính thiết thực, trong đó có chủ trương với từng đối tác, đặc biệt là những đối tác lớn, từng lĩnh vực hội nhập, từng vấn đề phải xử lý, từng cam kết phải thực hiện, từng cơ hội phải tận dụng, từng trở ngại phải vượt qua…, có lộ trình xác định đúng ưu tiên, những bước đi và biện pháp thực hiện, vạch rõ các tác nhân theo một sự phân cộng hợp lý, các phương tiện và cách thức thi hành, bao gồm cả cách thức kiểm tra và đánh giá kết quả. Trong chiến lược HNKTQT, việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) là một bước rất quan trọng.

2. Xây dựng và thực hiện quy hoạch

Để bảo đảm tính thống nhất của cả 3 loại quy hoạch (phát triển kinh tế - xã hội, sử dụng đất, phát triển đô thị và nông thôn) ở cấp quốc gia, quy hoạch phải do Chính phủ nắm, các ngành trung ương có trách nhiệm phối hợp. Chính phủ chỉ quyết định những quy hoạch lớn có tính nguyên tắc, định hướng phát triển các ngành, vùng lớn và có tính liên ngành, liên vùng. Quy hoạch vùng (không có cấp hành chính) do Trung ương quản lý, điều phối. Quy hoạch tỉnh phải tuân theo quy hoạch quốc gia, quy hoạch ngành, quy hoạch vùng, nhưng cần tránh chia cắt theo địa giới hành chính mà phải liên kết các tỉnh trong vùng. Tỉnh phải quản lý quy hoạch từ tỉnh cho đến huyện.

Cần bỏ lối quy hoạch hành chính, áp đặt, không khả thi, không tính đến nhu cầu của thị trường. Quy hoạch phải xuất phát từ yêu cầu HNKTQT, thị trường trong nước và ngoài nước; thế mạnh và chỗ yếu của sản phẩm nước ta trong từng giai đoạn; từ đó có bước đi và lộ trình nâng cao khả năng cạnh tranh cho từng sản phẩm ở từng vùng. Quy hoạch phải được hiệu chỉnh kịp thời đáp ứng thay đổi nhu cầu của thị trường.

Quy hoạch phải được dân chủ hóa, công khai hóa. Cần đề cao vai trò Hội đồng nhân dân trong việc xem xét, xác định quy hoạch cụ thể tại địa phương, đồng thời, tăng cường công tác kiểm tra thực hiện quy hoạch.

Cần có quy định phân cấp quản lý quy hoạch mạnh hơn cho các cấp chính quyền địa phương; làm rõ trách nhiệm và thẩm quyền của chính quyền cấp tỉnh và các cấp dưới theo nguyên tắc: phân cấp công việc gắn liền với phân cấp về tổ chức, cán bộ và ngân sách; phân cấp thẩm quyền đi liền với xây dựng nguyên tắc, quy chế giải quyết

45

Page 46: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

công việc để công tác hành chính vừa tuân thủ sự thống nhất về thể chế, vừa sâu sát với dân và dân dễ kiểm tra.

3. Xây dựng thể chế

Cần đổi mới hệ thống thể chế để không bảo hộ quá đáng các DNNN, không dung dưỡng độc quyền và bao cấp có hại; cần mở rộng sự tham gia cho khu vực tư nhân, đối xử thỏa đáng với hoạt động đầu tư kinh doanh của người nước ngoài tại Việt Nam, tạo môi trường thuận lợi cho HNKTQT đúng đắn; tiến hành những cuộc đàm phán và ký kết về hội nhập kinh tế song phương và đa phương, tổ chức chỉ đạo cuộc HNKTQT của cả nước, phấn đấu giành thành quả cao nhất, bảo đảm định hướng và các nguyên tắc của chế độ, bảo vệ lợi ích của Việt Nam.

Nhà nước cần hướng dẫn cụ thể để nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hóa và dịch vụ, lựa chọn những sản phẩm có khả năng, triển vọng cạnh tranh thắng lợi, theo một chương trình có mục tiêu, biện pháp và bước đi rõ ràng.

4. Xây dựng pháp luật phục vụ việc gia nhập WTO

Sửa đổi, bổ sung và ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) tương thích với các nguyên tắc, quy định của WTO và phù hợp với các thỏa thuận song phương đã cam kết khi đàm phán gia nhập WTO là việc cần thực hiện khẩn trương và ưu tiên hàng đầu. Những văn bản này bao gồm: Hạ thấp hàng rào thuế quan; mở cửa thị trường; cam kết thực thi Hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIMs), Hiệp định trị giá, Hiệp định về các rào cản thương mại (TBT).

Trong quý I năm 2005, Chính phủ đã xin ý kiến Quốc hội về Chương trình xây dựng pháp luật phục vụ quá trình đàm phán gia nhập WTO. Theo chương trình này, có 26 luật và 4 pháp lệnh được sửa đổi, bổ sung và làm mới, trong đó đáng chú ý là đề nghị thông qua Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư (sửa đổi) vào tháng 10 - 2005; bổ sung Luật thuế giá trị gia tăng (sửa đổi) và Luật thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi) vào Chương trình trình Quốc hội thông qua tháng 10-2005.

Để các VBQPPL có chất lượng và tính khả thi cao, cần cải tiến việc tổ chức soạn thảo theo hướng tăng cường thu hút các chuyên gia giỏi, tập hợp ý kiến của những người trực tiếp thi hành pháp luật và huy động trí tuệ của các tổ chức xã hội, hiệp hội nghề nghiệp tham gia. Điều quan trọng nhất là cơ quan được giao soạn thảo văn bản phải “gạn hết sạn” thuộc về kĩ thuật, nêu được những vấn đề cốt lõi về cái được, cái mất khi gia nhập WTO. Trường hợp chưa chuẩn bị kịp những văn bản quy phạm pháp luật thuộc diện sửa đổi, bổ sung thì có thể chuẩn bị một Luật sửa đổi, bổ sung cho nhiều luật. Cách làm này đòi hỏi các chuyên gia soạn thảo phải nắm được các cam kết đa phương, song phương mà Việt Nam sẽ phải thực hiện khi gia nhập WTO và hiểu biết tường tận các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành.

5. Tiếp tục đổi mới QLNN đối với DNNN trong quá trình hội nhập

Hiện nay DNNN đang có mặt trong hầu hết những lĩnh vực quan trọng như công nghiệp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, cung ứng những dịch vụ cơ bản, nắm giữ 75% tài sản cố định của quốc gia, 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, gần 50% tổng vốn đầu tư nhà nước, 60% tổng lượng tín dụng ngân hàng trong nước, hơn 70% tổng vốn vay nước ngoài, trên 90% tổng các doanh nghiệp Việt Nam tham gia hợp tác đầu tư với

46

Page 47: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

nước ngoài và phần lớn nguồn nhân lực có chất lượng cao. Để phát huy vai trò của DNNN trong việc mở rộng kinh tế đối ngoại và HNKTQT, công tác QLNN cần hướng trọng tâm vào việc ban hành thể chế và nâng cao chất lượng cổ phần hóa DNNN thông qua việc thực hiện những chính sách mới theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 9 khóa IX của Đảng: cổ phần hóa cả những tổng công ty và DNNN lớn, tránh cổ phần hóa khép kín trong nội bộ doanh nghiệp, niêm yết các DNNN đã cổ phần hóa trên thị trường chứng khoán…

Theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 9 khóa IX, các cơ quan QLNN phải có chương trình, kế hoạch giảm ngay và tiến tới xóa bỏ đặc quyền kinh doanh bất hợp lý đang được áp dụng cho DNNN (như các ưu đãi về cho thuê đất, vay ngân hàng không có thế chấp, được cấp tín dụng ưu đãi và được khoanh nợ, xóa nợ khi làm ăn thua lỗ…). Đây là việc làm để tạo một “sân chơi” cho mọi loại hình doanh nghiệp được cạnh tranh bình đẳng, không phân biệt đối xử, một nguyên tắc cơ bản của WTO mà Việt Nam cần thực hiện. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều có quyền tham gia sản xuất, cung ứng dịch vụ công theo phương thức đặt hàng hoặc đấu thầu, trừ những sản phẩm, dịch vụ công ích hoặc nhiệm vụ quốc phòng, an ninh do công ty quốc phòng, an ninh đảm nhận.

Cần có quy định cụ thể để không biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp; tách các hoạt động thuộc độc quyền nhà nước như mạng trục thông tin quốc gia và quốc tế, hệ thống truyền tải điện quốc gia… khỏi các tổng công ty kinh doanh trong lĩnh vực này; điều tiết thu nhập siêu lợi nhuận do được kinh doanh trong lĩnh vực độc quyền và đặc quyền.

Tăng cường giám sát, nhất là giám sát tình hình tài chính doanh nghiệp. Bên cạnh việc ban hành cơ chế giám sát của cộng đồng (người hưởng thụ và thông tin đại chúng), cần nghiên cứu thực hiện việc giám sát của bạn hàng (ngân hàng, bên thực hiện hợp đồng ) và đối thủ cạnh tranh.

Tiếp tục loại bỏ cơ chế “chủ quản”. Nghị quyết Trung ương 3 và Nghị quyết Trung ương 9 khóa IX đã đề ra chủ trương nghiên cứu thành lập công ty đầu tư tài chính của nhà nước và cơ quan QLNN để thực hiện thống nhất và có hiệu quả chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước đầu tư vào mọi ngành trong nền kinh tế quốc dân. Thực hiện chủ trương này chính là tạo điều kiện để các bộ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chuyển từ chức năng quản lý theo cơ chế “chủ quản” sang thực hiện chức năng QLNN đối với DNNN như đối với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.

6. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)

Một trong những việc làm quan trọng nhất là tạo môi trường thể chế ổn định, nhất quán để các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm làm ăn lâu dài ở Việt Nam. Chính phủ đang xúc tiến trình Quốc hội Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư, áp dụng chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; sửa đổi, bổ sung những luật khác phù hợp với các quy định của các định chế quốc tế và khu vực mà Việt Nam cam kết hội nhập. Việc làm tiếp theo là đẩy nhanh việc tạo lập đồng bộ các loại thị trường, trước hết là thị trường bất động sản, vốn, lao động và khoa học - công nghệ; tiếp tục cải thiện kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Cần tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư kinh doanh nhiều hơn trong các lĩnh vực, nhất là lĩnh vực kinh doanh bất

47

Page 48: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

động sản và các hoạt động dịch vụ có giá trị gia tăng cao như tài chính, ngân hàng, pháp lý, vận tải hàng không, đường biển, viễn thông, thương mại.

Các cấp chính quyền cần tăng cường công tác quản lý, điều hành để tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ các dự án FDI hoạt động có hiệu quả. Tiếp tục thực hiện phân cấp quản lý cho các địa phương.

Các cơ quan chức năng cần đẩy nhanh việc thi hành Nghị định 38/2003/NĐ-CP ngày 15-4-2003 của Chính phủ về chuyển đổi một số doanh nghiệp có vốn FDI sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này được niêm yết tại thị trường chứng khoán.

Các cơ quan hành chính, nhất là hải quan, thuế vụ, quản lý thị trường, thanh tra, kiểm tra cần có thái độ đối xử công bằng, tinh thần phục vụ tốt đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, trong đó có doanh nghiệp FDI.

Đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động, xúc tiến đầu tư theo một chương trình chủ động, có hiệu quả, phù hợp với từng địa bàn, từng loại hình doanh nghiệp; chuyển từ cơ quan hành chính vận động đầu tư là chính sang các doanh nghiệp trực tiếp vận động đầu tư. Tăng cường công tác cán bộ và đào tạo công nhân kỹ thuật.

VI. VAI TRÒ ĐIỀU TIẾT CỦA NHÀ NƯỚC TRONG SỰ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU

1. Vai trò điều tiết của Nhà nước và yêu cầu điều tiết thị trường xuất khẩu

a. Vai trò điều tiết của Nhà nước đối với phát triển thị trường xuất khẩu

Hoạt động kinh tế đối ngoại là một hoạt động kinh tế hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Thông qua khai thác lợi thế so sánh của các chủ thể tham gia thị trường thế giới, ngoại thương góp phần làm tăng của cải và sức mạnh kinh tế của mỗi nước; tạo động lực tăng trưởng kinh tế quốc dân, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, giải quyết việc làm, tăng thu nhập của người lao động trong nước. Nhà nước giữ vai trò quan trọng trong những hoạt động này, thể hiện trong việc thực hiện những chức năng cơ bản như:

- Đàm phàn thương mại để tạo hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp. Đàm phán thương mại bao gồm đàm phán để mở cửa thị trường mới, đàm phán để tiến tới thương mại cân bằng với những thị trường mà ta thường xuyên nhập siêu, đàm phán để thống nhất hoá các tiêu chuẩn vệ sinh, tiêu chuẩn kỹ thuật và đàm phán để nới lỏng các hàng rào phi thuế quan.

- Thông tin thị trường và xúc tiến xuất khẩu bao gồm thu thập và phổ biến thông tin về thị trường nước ngoài, từ tình hình chung cho tới các cơ chế, chính sách của các nước, dự báo các chiều hướng cung - cầu hàng hoá và dịch vụ… Vừa qua, Chính phủ đã cho phép thành lập Cục Xúc tiến thương mại thuộc Bộ Thương mại với nhiệm vụ chính là phổ biến thông tin và tổ chức xúc tiến các hoạt động thương mại. Trên cơ sở chiến lược thâm nhập thị trường đã hoạch định, Cục Xúc tiến thương mại có nhiệm vụ xây dựng lộ trình hành động cụ thể để đưa được hàng hoá Việt Nam ra thị trường thế giới.

48

Page 49: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

- Nhà nước có thể hỗ trợ việc xâm nhập và mở rộng thị trường thông qua khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài, hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước đầu tư ra thị trường bên ngoài.

Nhà nước có thể tác động trực tiếp vào thị trường bên ngoài thông qua điều tiết nguồn cung và điều tiết tiến độ xuất khẩu. Đối với những mặt hàng mà Việt Nam giữ thị phần lớn trên thị trường quốc tế (như gạo, cà phê, hạt tiêu…), Nhà nước có thể tăng cường áp dụng các biện pháp như thông tin chiến lược, chiến thuật, kiềm chế tốc độ bán ra, tham gia các kế hoạch quốc tế về điều tiết nguồn cung trong điều kiện cụ thể… để tác động vào thị trường và giá cả theo hướng có lợi. Các quyết định về tạm trữ lúa gạo, tạm trữ cà phê trong thời gian qua là thí dụ điển hình của biện pháp này.

- Ngoài ra, Nhà nước còn có thể trợ giúp trực tiếp cho các hoạt động xuất khẩu thông qua các hoạt động xúc tiến thương mại như tham gia triễn lãm, hội chợ, cử đoàn đi nước ngoài tìm hiểu thị trường, tìm kiếm đối tác, thu thập và cung cấp thông tin, hướng dẫn các doanh nghiệp về luật lệ, tiêu chuẩn, mẫu mã mà thị trường đòi hỏi… Đặc biệt, Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa không có khả năng về tài chính, nhân lực và thông tin; chú trọng đầu tư đào tạo nguồn nhân lực, nhất là cán bộ quản lý.

b. Yêu cầu đặt ra đối với hoạt động điều tiết thị trường xuất khẩu của Nhà nước

Yêu cầu quan trong đặt ra đối với hoạt động điều tiết thị trường xuất khẩu của Nhà nước là phải đảm bảo mục tiêu chủ động hội nhập thị trường quốc tế theo nguyên tắc đa phương hoá. Ở đây, mục tiêu chủ động hội nhập và nguyên tắc đa phương hoá được hiểu như sau:

- Chủ động hội nhập thị trường quốc tế - trong chừng mực nào đó - đó là khía cạnh của nâng cao sức cạnh tranh. Do môi trường kinh doanh quốc tế chưa thật hoàn hảo, rào cản thương mại còn tồn tại khá nhiều, nên chỉ riêng sự chủ động từ phía các doanh nghiệp thì chưa đủ. Nhà nước cần có sự trợ giúp thông qua việc hoạch định chiến lược và tổ chức thâm nhập thị trường một cách có bài bản.

- Đa phương hoá không có nghĩa là dàn đều tỷ trọng của các thị trường theo hướng “trăm hoa đua nở”, bởi chỉ riêng các yếu tố góp phần xác định luồng chu chuyển của hàng hoá như vị trí địa lý, truyền thống thương mại, văn hoá… đã không cho phép chúng ta làm như vậy. Đa phương hoá cần hiểu theo nghĩa rộng là cân bằng quan hệ với các đối tác chủ yếu, tránh quá lệ thuộc vào một trung tâm kinh tế nào đó. Vì vậy, cần tránh mở rộng thị trường một cách quá mức về những hướng tiềm ẩn nguy cơ bất lợi về lâu dài.

Một nguyên tắc nữa của đa phương hoá là duy trì tốc độ tăng trưởng trên tất cả các thị trường. Nói chung, cần đạt được tỷ trọng thị trường hợp lý thông qua kích thích tốc độ tăng trưởng trên tất cả các thị trường trọng điểm, không phải đơn thuần dịch chuyển kim ngạch từ nơi này sang nơi khác.

Bên cạnh việc chủ động thâm nhập thị trường, Nhà nước cần chú ý mặt chất của xuất khẩu, đó là: chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu sẽ được coi là có chất lượng cao khi nó tiến hành một cách trật tự, bài bản, dựa trên chiến lược phát triển dài hạn. Hiệu quả của hoạt động xuất khẩu được thể hiện qua các chỉ số như hiệu quả sử dụng yếu tố đầu vào, mức độ đóng góp cho GDP và mức độ

49

Page 50: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

“đầu tàu” trong việc lôi kéo, thúc đẩy các ngành khác cùng phát triển. Để nâng cao sức cạnh tranh, cần kết hợp các lợi thế sẵn có như lao động, tài nguyên, vị trí địa lý với các lợi thế có được thông qua việc cắt giảm chi phí bình quân và hợp lý hoá quy trình sản xuất kinh doanh.

2. Vài nét khái quát về hoạt động điều tiết của Nhà nước trong công tác phát triển thị trường xuất khẩu ở nước ta thời gian qua

Có thể nói, thành công của hoạt động ngoại thương nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng trong chặng đường gần 20 năm đổi mới vừa qua có sự đóng góp rất lớn của cơ chế, chính sách, trong đó nổi bật là việc điều tiết của Nhà nước thông qua việc ban hành các cơ chế, chính sách đối với lĩnh vực này.

Trước năm 1988, Nhà nước hoàn toàn độc quyền trong lĩnh vực xuất khẩu. Ngày 10/6/1989, Chính phủ ban hành Nghị định 64/HĐBT Quy định về chế độ và tổ chức quản lý hoạt động xuất nhập khẩu, mở rộng quyền hoạt động xuất nhập khẩu trực tiếp cho các cơ sở làm hàng xuất khẩu thuộc mọi thành phần kinh tế. Sau Nghị định này, các doanh nghiệp nhà nước không còn điều kiện pháp lý để độc quyền kinh doanh ngoại thương như trước. Kết quả là, đến ngày 31/12/1994, Việt Nam có khoảng 3.250 doanh nghiệp với 55 ngành hàng trong nước đăng ký kinh doanh thương mại ở Hội đồng Trọng tài kinh tế nhà nước. Năm 1992, khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bắt đầu hoạt động. Nhóm doanh nghiệp này đóng vai trò chủ đạo trong 3 nhánh xuất khẩu chính của Việt Nam là: dầu thô (100%), điện tử và linh kiện máy tính, giày dép (55%). Nhiều mặt hàng xuất khẩu mới được xuất hiện trong danh mục hàng xuất khẩu của Việt Nam, nhưng phần lớn là do khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo ra.

Ngày 30/7/1998, Chính phủ ban hành Nghị định 57/1998/NĐ-CP để thực hiện Luật Thương mại. Nghị này đã quy định chi tiết hoạt động xuất nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài, xoá bỏ hoàn toàn chế độ giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu. Kể từ ngày 01/9/1998, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều được phép kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá theo phạm vi ngành nghề đã đăng ký kinh doanh, sau khi hoàn thành thủ tục đăng ký mã số doanh nghiệp xuất nhập khẩu tại Hải quan. Chưa đầy 1 năm sau khi thi hành Nghị định 57/1998/NĐ-CP, số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh xuất nhập khẩu tăng lên tới 8.000 doanh nghiệp (tăng 146% so với trước năm 1994) (Cơ sở lý luận của phát triển thị trường hàng hoá xuất khẩu

nước ta, Đề tài nhánh số 1 thuộc đề tài cấp Nhà nước Chính sách và giải pháp phát triển thị trường

hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam thời kỳ 2001 – 2010, tầm nhìn đến năm 2010, Bộ Thương mại

- Viện Nghiên cứu thương mại, H., 6/2001, Tr.55).

Quán triệt tinh thần các đơn vị kinh doanh được quyền bình đẳng trong hoạt động ngoại thương, ngày 23/01/1998, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 10/1998/NĐ-CP về một số biện pháp khuyến khích và bảo đảm hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam; theo đó, cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được tham gia xuất khẩu, và từ năm 1999, các doanh nghiệp này được quyền xuất khẩu tất cả các loại sản phẩm mà họ khai thác được trên thị trường Việt Nam. Tiếp đó, ngày 31/7/1999, Chính phủ đã ban hành Công văn số 801/CP-QHQT cho phép bãi bỏ thủ tục phê duyệt kế hoạch xuất khẩu đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Như

50

Page 51: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

vậy, khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã hoàn toàn bình đẳng với khối doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực xuất khẩu.

Bên cạnh việc thay đổi cơ chế, một số chính sách quan trọng khác cũng có ảnh hưởng lớn tới việc phát triển thị trường xuất khẩu như: chính sách thuế, tỷ giá, tín dụng, chính sách thu hút các nguồn vốn nhằm thúc đẩy xuất khẩu và các công cụ khác như quỹ hỗ trợ phát triển, quỹ bình ổn tỷ giá, quỹ xét thưởng xuất khẩu, quỹ hỗ trợ xuất khẩu…

Tuy nhiên, bên cạnh những thành công kể trên, việc điều tiết của Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu nói chung và phát triển thị trường xuất khẩu nói riêng cũng còn những bất cập.

Thứ nhất, quy mô xuất khẩu của ta còn quá nhỏ so với các nước trong khu vực, xét cả về tổng kim ngạch lẫn kim ngạch tính theo đầu người. Chủng loại và cơ cấu mặt hàng tuy có đa dạng và mở rộng hơn, nhưng chỉ phát triển chủ yếu theo bề rộng, chưa chú trọng phát triển theo bề sâu. Ngoài một số mặt hàng có sức cạnh tranh tương đối khá như gạo, cà phê, thuỷ sản…, phần lớn các mặt hàng xuất khẩu của ta có sức cạnh tranh yếu, thậm chí rất yếu trên thị trường thế giới, làm hạn chế khả năng tiếp cận, thâm nhập thị trường mới và duy trì, mở rộng thị trường hiện có.

Thứ hai, xét về khía cạnh thị trường, có thể nhận thấy công tác thị trường của nước ta chưa chủ động, chưa có định hướng dài hạn, chủ yếu mới là sự tự thích ứng của các doanh nghiệp. Nhiều thị trường mới, giàu tiềm năng chưa được quan tâm khai phá. Hàng hoá Việt Nam mất dần chỗ đứng trên thị trường các nước thuộc Liên Xô cũ và các các nước Đông Âu… vì vậy, cơ cấu thị trường vẫn còn rất bất hợp lý.

Thứ ba, thuế nhập khẩu chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu chiến lược hướng về xuất khẩu. Thuế nhập khẩu - với chức năng bảo vệ người sản xuất trong nước - đã thường xuyên được điều chỉnh thuế suất để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ những mặt hàng trong nước sản xuất được, góp phần thúc đẩy sản xuất trong nước thời kỳ đầu phát triển. Nhưng, việc bảo hộ một số sản phẩm sản xuất trong nước đã dẫn đến những lệch lạc trong cơ cấu đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài. Trên thực tế, đầu tư nước ngoài đã tập trung vào những ngành sản xuất ra sản phẩm có mức thuế bảo hộ cao, phục vụ cho nhu cầu trong nước, chứ không nhằm chủ yếu vào xuất khẩu.

Thứ tư, chính sách thuế giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài chưa bình đẳng. Các doanh nghiệp trong nước nhập máy móc, thiết bị thì bị đánh thuế trong khi vốn của doanh nghiệp thấp, khả năng cạnh tranh yếu; các doanh nghiệp nước ngoài mạnh về vốn và có khả năng cạnh tranh thì được miễn thuế.

Thứ năm, trong những năm gần đây, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được sửa đổi, bổ sung theo hướng đưa sản xuất hàng hoá xuất khẩu lên vị trí ưu tiên hàng đầu, nhưng Luật đầu tư trong nước chưa điều chỉnh theo hướng này.

Thứ sáu, một số mặt hàng tiêu dùng trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất còn ít chưa đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng còn bị đánh thuế quá cao, dẫn đến tình trạng buôn lậu tràn lan.

3. Một số vấn đề đặt ra trong hoạt động điều tiết của Nhà nước đối với việc

51

Page 52: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

phát triển thị trường xuất khẩu

Trên cơ sở phân tích thực trạng điều tiết hoạt động xuất khẩu ở Việt Nam trong thời gian qua và xét bối cảnh kinh tế, thương mại thế giới trong thời gian tới, có thể thấy, công tác phát triển thị trường xuất khẩu của nước ta đang có những cơ hội và điều kiện thuận lợi đan xen với những thách thức và khó khăn gay gắt.

a. Những thuận lợi

Chế độ chính trị vững vàng và ổn định là thuận lợi cơ bản nhất của chúng ta, là nhân tố tạo nền tảng và môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và xuất nhập khẩu nói riêng. Qua những năm đổi mới, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN tuy chưa thật sự vận hành thông suốt, nhưng đã hình thành bước đầu. Quan hệ sản xuất, thể chế quản lý và phân phối đã có những thay đổi phù hợp hơn với kinh tế thị trường và trình độ của lực lượng sản xuất, tạo điều kiện phát huy nội lực trong xây dựng, phát triển kinh tế. Nguồn lực phát triển của nước ta còn khá dồi dào về lao động, đất đai, nguồn vốn, tài nguyên, vùng biển, vị trí địa lý - kinh tế và địa lý - chính trị. Kết cấu hạ tầng tốt hơn những năm trước đây. Dân trí được nâng cao một cách đáng kể.

Trên thị trường quốc tế, thế và lực của Việt Nam có sự thay đổi. Từ chỗ bị bao vây, cấm vận, chúng ta đã từng bước hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển khá nhanh kinh tế đối ngoại, mở rộng quan hệ thương mại với hầu khắp các nước, đóng vai trò ngày càng tích cực trong các tổ chức quốc tế và khu vực. Đây là nhân tố hết sức thuận lợi cho công tác phát triển thị trường xuất khẩu. Bên cạnh đó, trải qua khủng hoảng, kinh tế Đông Nam Á và Đông Á đang trên đà phục hồi, đổi mới về chất, có tính bền vững và hứa hẹn trở thành một trong những trung tâm phát triển năng động nhất trong thập niên tới.

b. Những thách thức cơ bản

Thách thức cơ bản nhất và năng lực cạnh tranh và tính năng động của nền kinh tế còn yếu, cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư còn nhiều bất hợp lý, cơ chế thị trường vận hành chưa thật sự thông suốt; hệ thống tài chính - tiền tệ chậm được đổi mới; kết cấu hạ tầng còn thiếu và yếu; trình độ công nghệ còn lạc hậu; cải cách doanh nghiệp nhà nước tiến hành chậm; tư duy kinh doanh và tư duy quản lý còn thụ động.

Thách thức thứ hai là chúng ta vừa phải tìm mọi cách để khắc phục những yếu kém nội tại, đẩy nhanh quá trình CNH, vừa phải chủ động hội nhập kinh tế quốc tế - nơi đang diễn ra cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các nền kinh tế quốc gia, các công ty lớn, bé. Việc tham gia AFTA (hoàn tất vào năm 2006) và sắp tới là WTO sẽ làm cho các sản phẩm và công ty của chúng ta phải đối đầu với cạnh tranh không những trên thị trường bên ngoài, mà còn ngay cả trên thị trường nội địa. Đối thủ cạnh tranh khổng lồ là Trung Quốc đã vào WTO, gây khó khăn không nhỏ cho xuất khẩu của Việt Nam trong những năm tới, khi nước ta gia nhập WTO.

Nguồn lực phát triển tuy còn nhiều, nhưng môi trường và cơ chế phát huy nguồn lực lại chưa thật sự hoàn thiện, nên nguồn lực huy động được còn bị dàn trải vào nhiều mục tiêu. Sản lượng của một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực, chủ yếu là nông sản, lại đã tới giới hạn, nếu không có đầu tư mới để khắc phục những hạn chế mang tính cơ

52

Page 53: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

cấu. Thêm vào đó, tư duy kinh doanh, nghiệp vụ và phương thức kinh doanh, tiếp thị cũng như tổ chức kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam mới ở trình độ sơ khai, có khoảng cách khá xa so với trình độ của thế giới, gây ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng tiếp cận, thâm nhập và mở rộng thị trường.

4. Định hướng và giải pháp nhằm tăng cường năng lực và hiệu quả điều tiết của Nhà nước trong phát triển thị trường xuất khẩu

a. Định hướng điều tiết thị trường xuất khẩu của Nhà nước trong thời gian tới

Trên cơ sở mục tiêu kim ngạch (55 tỷ USD vào năm 2010), tốc độ (bình quân khoảng 15%/năm) và cơ cấu hàng xuất hoá xuất khẩu, Nhà nước đã đặt ra những yêu cầu cụ thể cho công tác điều tiết thị trường xuất khẩu. Hướng điều tiết thị trường xuất khẩu trong thời gian tới là: tích cực và chủ động mở rộng thị trường, nhất là sau khi tham gia WTO; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ với các đối tác, phòng ngừa chấn động đột ngột; tận dụng mọi khả năng để tăng mức xuất khẩu trên tất cả các thị trường đã có song song với việc đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường có sức mua lớn, nhưng hiện còn chiếm tỷ trọng thấp; mở các thị trường mới (như Mỹ, Mỹ la-tinh, châu Phi); tăng cường tiếp cận các thị trường cung ứng công nghệ nguồn.

b. Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả điều tiết của Nhà nước đối với công tác phát triển thị trường xuất khẩu

Để xây dựng cơ cấu thị trường theo hướng đa dạng hoá thị trường và bạn hàng, giảm dần tỷ trọng các thị trường trung gian và tăng tỷ trọng các thị trường tiêu thụ trực tiếp hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, công tác thị trường phải chuyển hẳn từ thế thụ động sang thế chủ động, Cụ thể là:

- Nhanh chóng thành lập Cơ quan thông tin tiếp thị hàng hoá xuất khẩu làm nhiệm vụ theo dõi sát diễn biến tình hình thị trường thế giới, thông tin cho Chính phủ, các bộ, ngành, các doanh nghiệp tham gia sản xuất kinh doanh xuất khẩu… để kịp thời xử lý những tình huống phức tạp nảy sinh; dự báo chính xác được cung - cầu hàng hoá trên thị trường thế giới ở từng thời điểm nhất định; thương lượng với các tổ chức quốc tế, quốc gia nhằm loại bỏ những hàng rào kỹ thuật và phi thuế quan bất hợp lý đối với hàng xuất khẩu của nước ta. Cơ quan này cũng sẽ tiến hành nghiên cứu có hệ thống các thị trường truyền thống, các thị trường mới, thị trường tiêu thụ nội địa… kịp thời cung cấp thông tin tin cậy cho các doanh nghiệp và các cơ quan QLNN, khuyến khích phát triển các hoạt động thông tin tiếp thị ở các doanh nghiệp.

- Trên cơ sở phân tích kỹ tình hình và quan hệ buôn bán trên thị trường thế giới, cần xây dựng đối sách với từng thị trường cụ thể. Bộ Thương mại và các bộ, ngành liên quan cần tiến hành nhiều đoàn khảo sát các thị trường Trung Quốc, Mỹ, EU, Nhật Bản, Đông Âu, châu Phi – các thị trường truyền thống hoặc các thị trường mới cần thâm nhập - để tìm kiếm cơ hội thâm nhập, mở rộng thị trường đối với từng loại hàng hoá xuất khẩu, hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm đối tác thương mại.

- Thực hiện phương châm đa dạng hoá, đa phương hoá thị trường và đối tác. Theo hướng này, cần duy trì và mở rộng xuất khẩu thuỷ sản sang các thị trường sẵn có, đồng thời có những biện pháp phù hợp để thâm nhập các thị trường mới, chú trọng các thị

53

Page 54: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

trường có khả năng và dung lượng lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản, đồng thời tìm cách thâm nhập và gia tăng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Nga, Trung Quốc, châu Phi, Mỹ la-tinh; mở rộng các hình thức buôn bán biên mậu với Trung Quốc.

- Hiệp hội sản xuất kinh doanh và xuất khẩu hàng hoá Việt Nam cần hướng dẫn và tổ chức các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và xuất khẩu hàng hoá tham gia tích cực vào thực hiện chương trình phát triển xuất khẩu đến năm 2005; thường xuyên kết hợp với các bộ, ngành liên quan tổ chức tốt thông tin thị trường, giới thiệu khách hàng cho doanh nghiệp, tổ chức tốt các hoạt động xúc tiến thương mại, nghiên cứu thành lập văn phòng đại diện tại các thị trường chính như Mỹ, Nhật Bản, EU để làm đầu mối giao dịch và xúc tiến thương mại.

- Các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu cần nâng cao khả năng nhận biết và đối phó với những rào cản phi thuế quan của thị trường bên ngoài. Muốn vậy, các doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ nhu cầu tiêu dùng của từng thị trường, nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo các tiêu chuẩn vệ sinh và an toàn thực phầm, tiêu chuẩn kỹ thuật cho hàng hoá xuất khẩu, tiêu chuẩn về nhãn mác hàng hoá… Các doanh nghiệp cần có sự phối hợp chặt chẽ với nhau và cần có sự giúp đỡ tích cực của các hiệp hội khác để có thể nâng cao khả năng nhận biết và đối phó với những hàng rào phi thuế quan kiểu mới này. Về lâu dài, cần nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ doanh nghiệp có trình độ và hiểu biết để bảo vệ hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam và đối phó với các rào cản của nước ngoài.

Để mở rộng thị trường, các doanh nghiệp cần tham gia tích cực vào các hội chợ triễn lãm, mở các văn phòng đại diện ở nước ngoài, tiếp cận với hệ thống các siêu thị để giới thiệu hàng hoá Việt Nam, nhất là những mặt hàng đạt chất lượng cao. Nhà nước cần trợ giúp các doanh nghiệp đổi mới công nghệ; hiện đại hoá sản xuất; tạo nên các mặt hàng có hàm lượng công nghệ cao hơn; trợ giá hoặc miễn thuế trong một số năm đầu cho các sản phẩm thâm nhập thị trường mới; kịp thời thay đổi chính sách phù hợp khi có sự thay đổi về luật pháp của các nước nhập khẩu hoặc có những biến động lớn về thị trường.

- Khuyến khích phát triển các hình thức hợp tác, liên kết giữa các thành phần kinh tế, các loại hình đơn vị sản xuất kinh doanh cả theo chiều dọc (từ tạo nguồn nguyên liệu đến chế biến xuất khẩu) lẫn chiều ngang (phối hợp mở rộng thị trường), nhằm giảm sự cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường trong nước và tạo sức mạnh cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới.

VII. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN

Do thấy rõ tài chính – tiền tệ là lĩnh vực trọng yếu và rất nhạy cảm trong xây dựng nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đổi mới căn bản QLNN về tài chính - tiền tệ, nhờ đó, đã thúc đẩy được nền kinh tế nước ta tăng trưởng và phát triển theo những mục tiêu đã hoạch định.

54

Page 55: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

A. Hoạt động QLNN về tài chính - tiền tệ thời gian qua

1. Nền kinh tế nước ta đang dần chuyển biến từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang “phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng” (Hiến pháp Việt Nam

(năm 1946, 1959, 1980 và 1992), Nxb CTQG, H., 1995, tr. 141 – 142).

Trong những năm đổi mới vừa qua, hoạt động QLNN về tài chính - tiền tệ đã có nhiều chuyển biến tích cực trên tất cả các mặt. Cụ thể là, quan điểm, đường lối của Đảng đã được thể chế hóa thành Hiến pháp, pháp luật và đã xây dựng, ban hành một hệ thống thuế hiện đại; kiện toàn và đổi mới một cách đồng bộ hệ thống tổ chức bộ máy thu thuế; xây dựng một hệ thống pháp luật, quản lý ngân sách nhà nước (NSNN) rành mạch, rõ ràng; bổ sung, hoàn thiện và chuẩn xác hóa hệ thống chính sách chi tiêu NSNN.

Ngay từ năm đầu của thời kỳ đổi mới, vấn đề cải cách hệ thống thu NSNN, trọng tâm là cải cách hệ thống thuế quốc gia, đã được đặt lên vị trí hàng đầu. Quá trình cải cách thuế được thực hiện qua hai giai đoạn: Giai đoạn 1 trong những năm 1986 - 1995 và giai đoạn 2 trong những năm 1996 - 2005. Thông qua quá trình cải cách này một hệ thống thuế mới, hiện đại, thống nhất, ngày càng hoàn thiện đã được hình thành và phát huy tác dụng to lớn trong thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Nhờ đó, từ một hệ thống quản lý thu NSNN dựa trên cơ sở các quyết định rời rạc, thiếu tính hệ thống, đồng bộ và thiếu rành mạch, đã chuyển thành một hệ thống quản lý các nguồn thu ngân sách ngày càng được thể chế hóa, hợp pháp hóa, công khai hóa và sát hợp với thực tiễn. Trong đó, nghĩa vụ và trách nhiệm của các đối tượng nộp thuế được xác định rõ ràng, minh bạch. Nguồn thu NSNN ngày càng gia tăng một cách ổn định, Chính phủ có thể dự đoán trước được những biến động trong thu ngân sách trên cơ sở những căn cứ khoa học xác đáng để chủ động điều hòa thu, chi ngân NSNN.

Việc đổi mới cơ chế quản lý NSNN được đề ra từ cuối những năm 1980 và từng bước được sửa đổi, bổ sung, đến năm 1996 được hoàn chỉnh và thể hiện trong Luật NSNN có hiệu lực thi hành từ năm 1997, sau đó được sửa đổi, bổ sung vào năm 1998, có hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-1999 và ngày 16-12-2002 Quốc hội khóa XI đã thông qua việc sửa đổi, bổ sung một số điều Luật NSNN, có hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-2004, phù hợp với việc triển khai các luật thuế mới nhằm cải thiện tình hình phân cấp ngân sách, tạo thế ổn định và chủ động cho ngân sách địa phương.

Luật NSNN và các văn bản pháp luật khác về huy động và sử dụng nguồn vốn của NSNN đã tạo ra khuôn khổ pháp luật để đổi mới, nâng cao hiệu quả để quản lý và sử dụng NSNN. Việc áp dụng Luật NSNN đã đánh dấu bước tiến mới, nâng cao tính pháp quy trong việc quản lý, điều hành NSNN, trong quan hệ tài chính giữa các cấp, các ngành.

Ngoài ra, Luật NSNN đã đề ra một số quan điểm cơ bản của Nhà nước ta trong chi tiêu NSNN mang tính định hướng XHCN. Những quan điểm này thể hiện rõ trong mục tiêu và trong nguyên tắc quản lý NSNN. Mục tiêu của quản lý NSNN là “để quản

55

Page 56: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

lý thống nhất nền tài chính quốc gia, nâng cao tính chủ động và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc quản lý và sử dụng NSNN, củng cố kỷ luật tài chính, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả tiền của Nhà nước, tăng tích lũy để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng XHCN, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo quốc phòng, an ninh, đối ngoại”. Nguyên tắc quản lý NSNN cũng được nêu cụ thể: “NSNN được quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung, dân chủ, công khai, minh bạch, có phân công, phân cấp quản lý gắn quyền hạn với trách nhiệm”.

Luật NSNN đã thể hiện một sự thay đổi căn bản theo tư duy mới về quan điểm xây dựng, quản lý, điều hành, thực thi NSNN. Các quy trình NSNN đã được điều chỉnh, hợp lý hóa và minh bạch hóa bằng các điều khoản pháp luật cụ thể:

- Về đối tượng điều chỉnh, quản lý của NSNN, Luật đã xác định rõ: “NSNN bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Ngân sách địa phương bao gồm ngân sách các đơn vị hành chính các cấp có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân”.

- Về quản lý bội chi ngân sách, Luật quy định: “NSNN được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí và lệ phí phải lớn hơn chi thường xuyên và góp phần tích lũy ngày càng cao vào chi đầu tư và phát triển, trường hợp còn bội chi, thì số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu, chi ngân sách”.

- Về phân cấp quản lý NSNN, Luật NSNN đã xử lý một cách căn bản quan hệ tài chính giữa các cấp chính quyền, quan hệ ngân sách giữa Trung ương và địa phương. Phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi và quan hệ giữa ngân sách các cấp thực hiện theo nguyên tắc phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể. Ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, bảo đảm các nhiệm vụ chiến lược, có quy mô toàn quốc, ngân sách địa phương được phân cấp nguồn thu bảo đảm chủ động trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao, ổn định tỷ lệ điều tiết và số cấp bổ sung từ 3-5 năm. Nhờ đó, đã tạo thế chủ động và bảo đảm tính độc lập tương đối của ngân sách địa phương. Một mặt, mở rộng quyền tự chủ để địa phương chủ động khai thác các nguồn thu tại chỗ và chủ động bố trí chi tiêu hợp lý. Mặt khác, đảm bảo cho địa phương có đủ năng lực tài chính thực hiện các nhiệm vụ chính trên địa bàn.

Tình hình thực hiện thu, chi và thâm hụt NSNN trong những năm 1993-2002

1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002

Tổn

g số

th

u

32.1

99

41.4

4

53.3

74

62.3

87

65,5

32

72.9

65

78.4

89

90.7

49

102.

970

119.

080

Tổn

g số

ch

i

39.0

63

44.2

08

62.6

79

70.5

39

78.0

57

81.9

95

95.9

72

108.

961

128.

307

147.

089

Bội

chi

6.86

4

2.76

7

9.30

5

8.15

2

12.7

05

12.0

00

18.5

24

22.0

00

23.3

70

25.8

76

56

Page 57: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

So

với

GD

P

5%

1,62

%

4,2%

3,15

%

4,3%

3,36

%

4,63

%

4,95

%

4,82

%

5%

Nguồn: Quyết toán ngân sách nhà nước, Bộ Tài chính.

2. Tình hình số liệu nêu trên cho thấy, một thành công nổi bật nữa của QLNN về tài chính - tiền tệ trong những năm đổi mới là đã quản lý được quan hệ thu, chi và thâm hụt NSNN.

Trước thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới, nguồn thu của NSNN ta từ thuế, phí, lệ phí và toàn bộ số thu khác trong nước cộng lại thường không đảm bảo đủ chi thường xuyên, chứ chưa nói gì đến chi đầu tư phát triển. Do đó, bội chi ngân sách với tỷ lệ cao diễn ra liên tục từ năm này đến năm khác, buộc Nhà nước phải phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách, dẫn tới “lạm phát phi mã” đã xảy ra trong suốt một thời gian dài, gây nên một sự mất cân đối nghiêm trọng các chỉ số kinh tế vĩ mô. Vì thế, nền kinh tế nước ta đã lâm vào khủng hoảng trầm trọng, nhiều tiêu cực về kinh tế - xã hội đã phát sinh, tác động xấu đến sản xuất và đời sống. Từ khi tiến hành đổi mới nền kinh tế, đặc biệt là từ những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ 20 đến nay, Chính phủ đã kiên quyết giữ nghiêm kỷ luật tài chính, hạn chế tiến tới xóa bỏ phát hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách. Các nguyên tắc thu, chi ngân sách lành mạnh được thiết lập, nên bội chi ngân sách nói chung đã được kiềm chế ở mức cho phép, cao nhất là 5% GDP.

B. Các biện pháp QLNN về tài chính - tiền tệ

1. Quán triệt và cụ thể hóa đường lối đổi mới do Đại hội VI của Đảng đề ra, trên lĩnh vực tiền tệ, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã đề ra nhiều chủ trương và thực thi nhiều giải pháp hữu hiệu để khắc phục tình trạng lạm phát “phi mã” diễn ra trong nhiều năm.

Sau khi tiến hành thử nghiệm có kết quả việc hình thành các ngân hàng chuyên doanh, tách ra từ Ngân hàng nhà nước, theo Nghị định 53/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), với quyết tâm cao trong lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, sự chuẩn bị chu đáo của hệ thống tài chính – ngân hàng và sự tham gia tích cực của các bộ, ngành hữu quan, chúng ta đã thực hiện thành công “giải pháp tình thế”, cắt được “cơn sốt lạm phát phi mã”, đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát: kéo lạm phát từ 774% năm 1986 xuống còn 67,1% năm 1990, 17,5% năm 1991… và từ năm 1996 đến nay kiểm soát được lạm phát ở mức 1 con số trong đó năm 2003 lạm phát chỉ ở mức 4%.

2. Trên cơ sở những thành công bước đầu của tiến trình đổi mới lĩnh vực tiền tệ - tín dụng, từ tháng 5-1991, Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh về Ngân hàng Nhà nước và Pháp lệnh về các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng. Việc thực hiện hai pháp lệnh này đã đổi mới, phân định được hệ thống ngân hàng Việt Nam thành 2 cấp: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam làm chức năng ngân hàng trung ương, giữ vai trò điều hành, QLNN trên lĩnh vực tiền tệ - tín dụng và thanh tra, giám sát việc thực hiện chính sách tiền tệ, kiềm chế lạm phát và đảm bảo sự ổn định giá trị của đồng tiền Việt Nam; các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng và các định chế phi

57

Page 58: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

ngân hàng có hoạt động tín dụng thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ. Từ thực tiễn của 5 năm triển khai thực hiện hai pháp lệnh nêu trên cùng với những kết quả nghiên cứu khoa học trên lĩnh vực này đã đưa tới sự ra đời Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng, có hiệu lực từ đầu năm 1997. Tiếp đến là sự bổ sung, sửa đổi hướng tới sự hoàn thiện hai luật này. Những đổi mới về cơ sở pháp lý như vậy đã làm tăng thêm tính hiệu lực và hiệu quả QLNN. Nhờ đó, đã đưa hoạt động ngân hàng từng bước chuyển sang thời kỳ mới, tiếp cận với yêu cầu tạo lập và thúc đẩy phát triển nền KTTT định hướng XHCN. Từ những chuyển biến đó mà hệ thống ngân hàng đã có những đóng góp đáng kể trong cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế quốc dân, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở mức độ tương đối cao so với các nước trong khu vực ASEAN.

Cùng với việc đổi mới hệ thống ngân hàng, các dịch vụ tài chính khác như: quỹ bảo hiểm, đầu tư, công ty tài chính, tài chính thuê mua… cũng dần dần được xác lập và cải cách, đi dần vào quỹ đạo chuẩn mực của thị trường tài chính - tiền tệ, góp phần tích cực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời bước đầu tăng cường về cơ sở vật chất và công nghệ để tiến lên hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.

Từ sau Đại hội IX của Đảng, Chính phủ và các bộ, ngành hữu quan đã cho phép một số thể chế tài chính mới bắt đầu khởi động để tiến hành tách bạch giữa cung ứng vốn tài chính dưới hình thức ưu đãi chính sách ra khỏi khu vực thị trường tài chính - tiền tệ. Bước đầu các thể chế tài chính này đã phát huy tác dụng. Tuy vậy, không phải mọi việc đều đã xong xuôi, về phương pháp và công cụ để thực hiện và giải quyết vấn đề này còn có chỗ phải tiếp tục xem xét để đi đến hoàn thiện.

Những năm gần đây, thị trường tài chính - tiền tệ có thêm nhiều công nghệ, công cụ mới và thực hiện nhiều dịch vụ mới trong huy động vốn, cung ứng vốn và cung ứng tiện ích thanh toán tiền tệ hiện đại. Nhờ đó đã góp phần phục vụ ngày càng tốt hơn cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. Tuy vậy, so với thế giới thì Việt Nam mới chỉ bằng 1/20 (thế giới có tới 6.000 dịch vụ thì Việt Nam mới chỉ có 300 dịch vụ) và còn bất cập so với yêu cầu của sự phát triển nền kinh tế trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế.

3. Trong hoạch định, quản lý và điều hành thực hiện chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia, có thành tựu nổi bật là động viên, phân bổ nguồn lực tài chính - tiền tệ tương đối bài bản, thông qua một hệ thống công cụ tài chính và các kênh của nó, đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, hoàn thành các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong suốt những năm đổi mới, tạo được dự trữ tài chính nhà nước từ không đến có và đang tăng lên một mức độ đáng kể. Đồng thời, giải quyết tốt việc trả nợ nước ngoài do những năm trước để lại.

Riêng thành tựu về hoạch định, quản lý và điều hành chính sách tiền tệ trong những năm đổi mới thể hiện rõ nhất là đã chủ động sử dụng một số công cụ của chính sách tiền tệ để tác động vào hệ thống tín dụng, đưa lãi suất tín dụng chuyển dần từ lãi suất âm sang lãi suất dương vào giữa thập niên 90 của thế kỷ 20. Gần đây, ở nước ta về căn bản đã chuyển sang giai đoạn tự do hoá lãi suất, đáp ứng được yêu cầu của phát triển nền KTTT. Đồng thời, đã quản lý và điều hành tương đối tốt chính sách tỷ giá ngoại tệ. Chuyển từ công cụ điều hành trực tiếp sang công cụ gián tiếp, điều hành thị trường

58

Page 59: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

tiền tệ đảm bảo cung ứng tốt phương tiện thanh toán cho nền kinh tế quốc dân, kiềm chế được lạm phát, ổn định được giá trị đồng tiền Việt Nam (VNĐ) qua nhiều năm. Đặc biệt trong những năm xảy ra khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực châu Á, nền kinh tế Việt Nam vẫn trụ vững và khắc phục được những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng đó giữ được thế ổn định tương đối. Mặt khác, quá trình quản lý, điều hành tốt việc thực thi chính sách tiền tệ đã góp phần tăng dự trữ ngoại tệ cho ngân hàng trung ương, từ chỗ không đáng kể đến nay đã lên tới hơn 4 tỷ USD.

C. Những bất cập về QLNN về tài chính - tiền tệ

Quá trình cải cách thuế ở nước ta trong những năm đổi mới đã đạt được nhiều tiến bộ, nhưng cũng còn nhiều khiếm khuyết, bất cập cả trong luật lệ lẫn trong việc thu và giám sát thu.

1. Hệ thông thuế ở nước ta hiện nay đã cải cách rất cơ bản, nhưng vẫn còn nhiều thứ thuế, phí trong ngân sách và nhiều thứ phí động viên ngoài ngân sách rất rườm rà, tản mạn, gây tiêu cực, thất thoát và không có tác dụng khuyến khích đầu tư của dân chúng.

2. Nợ nước ngoài mà Nhà nước vay trong điều kiện của nước ta hiện nay là cần thiết. Nhưng việc sử dụng nó có nơi, có lúc chưa đúng mục tiêu và không hiệu quả. Thậm chí, không ít doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ, khó có khả năng trả nợ trong tương lai, nhưng vẫn được thụ hưởng từ những khoản nợ này. Mặt khác, còn có nhiều khiếm khuyết trong cơ chế tài chính nội tại và nhiều sơ hở ngay trong khâu đàm phán tài chính với nước ngoài và các khâu tiếp theo ở trong nước, gây cản trở, làm chậm việc giải ngân.

3. Nguồn vốn đầu tư của Nhà nước bị phân bố dàn trải, không đầu tư tập trung, dứt điểm công trình; không quan tâm đúng mức đến sự phát triển cân đối ngành, vùng, lãnh thổ, lại bị thất thoát lớn. Nhiều trường hợp đã không quan tâm đúng mức và phân bổ vốn không tính đến việc kết hợp giữa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động và bảo vệ môi trường.

4. Việc phân cấp quản lý NSNN, tuy đã được luật hoá, nhưng còn nhiều lúng túng. Việc phân cấp ngân sách dù đã cải tiến, song vẫn còn tình trạng biến tướng bao cấp “xin - cho” ở một mức độ nhất định, do quyền chủ động của ngân sách địa phương vẫn chưa được rõ ràng. Vì thế, đã tạo nên tâm lý ỷ lại, triệt tiêu ý thực chủ động của một số địa phương và ngành trong hệ thống công quyền.

5. Cấu trúc thị trường tài chính - tiền tệ của nước ta còn có những khiếm khuyết, bất cập trên nhiều mặt:

- Thị trường vốn dài hạn mới bước đầu hình thành và còn rất hạn hẹp, chưa phát huy được tác dụng trong nền kinh tế, do nhiều nguyên nhân từ phía nền kinh tế và trình độ phát triểu của thị trường tài chính.

- Thị trường tiền tệ tuy đang phát huy tác dụng, nhưng đã và đang bộc lộ sự bất cập là nguồn vốn VNĐ chưa đáp ứng nhu cầu đầu tư, tổng dư nợ cho vay luôn cao hơn tổng vốn huy động. Có những nghịch lý đang tồn tại trong nền kinh tế và trong bản thân các ngân hàng thương mại, khiến cho những ngân hàng này không sử dụng hết lượng ngoại tệ huy động được vào đầu tư, phải gửi ra nước ngoài và chịu lỗ.

59

Page 60: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

- Các ngân hàng thương mại của nước ta quá nhỏ bé về vốn. Trong bốn ngân hàng thương mại nhà nước lớn nhất ở Việt Nam thì chỉ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có vốn pháp định cao nhất là 5.000 tỷ VNĐ; các ngân hàng khác ở mức trung bình; Ngân hàng Công thương Việt Nam thì chỉ có 2.500 tỷ VNĐ. Đây là một bất cập rất lớn, vì với vốn tự có ở mức như hiện nay, các ngân hàng thương mại Việt Nam chỉ có tỷ lệ vốn vào khoảng từ 2,5% đến 4% so với tổng tài sản “có”. Trong khi thông lệ quốc tế đòi hỏi tỷ lệ này ít nhất phải không dưới 8%. Rõ ràng là, với tỷ lệ này nội lực hiện có của các ngân hàng thương mại Việt Nam không đảm bảo điều kiện cần và đủ để bước vào cuộc cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế.

6. Trình độ công nghệ, kinh nghiệm quản trị của các ngân hàng thương mại Việt Nam còn ở mức lạc hậu so với khu vực và quốc tế, mặc dù đã đạt được nhiều tiến bộ trong những năm đổi mới vừa qua.

Ngoài ra còn nhiều mặt hạn chế khác như:

- Thị trường tài chính - tiền tệ nước ta thiếu nghiêm trọng vốn đầu tư và vốn tín dụng dài hạn, do đó đang phải sử dụng một phần vốn tín dụng ngắn hạn để cho vay và đầu tư dài hạn. Điều này hàm chứa những nguy cơ tiềm ẩn có khả năng dẫn tới khủng hoảng nợ.

- Tình trạng nợ xấu, trong đó bao gồm cả nợ quá hạn không thu hồi được (chủ yếu là tại các DNNN), đang là gánh nặng đối với các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng của nước ta.

- Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tính dụng ở Việt Nam vẫn đang chịu sức ép của việc cho vay theo chỉ định, chưa theo quy luật của thị trường. Quyền chủ động của họ tuy đã được mở ra, nhưng mới chỉ là hình thức mà chưa đi vào thực chất.

- Ngân hàng nhà nước, nhất là các chi nhánh ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, chưa quản lý, điều hành một cách có hiệu lực và hiệu quả việc thực thi chính sách tiền tệ. Sở dĩ có tình hình này là do thị trường liên ngân hàng ở nước ta vừa mới hình thành, nên chưa phát triển sôi động. Từ đó không hình thành được “lãi suất cơ bản” một cách thực chất để giúp cho Ngân hàng Nhà nước Trung ương chỉ đạo việc thực thi tốt chính sách tiền tệ. Mặt khác, cho đến nay, ngân hàng nhà nước, đặc biệt là các chi nhánh ở địa phương, vẫn chưa thực sự được chủ động và độc lập tương đối trong hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ. Tổ chức của Ngân hàng nhà nước còn cồng kềnh, có chi nhánh ở tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong khi nhu cầu thực tế và thông lệ quốc tế cho thấy không cần thiết phải như vậy.

D. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN về tài chính - tiền tệ

Để nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về tài chính - tiền tệ, cần thực hiện một số giải pháp sau:

1. Cần làm cho mọi ngành, mọi cấp nhận thức rõ trong nền KTTT định hướng XHCN, hệ thống tài chính - tiền tệ có vai trò trọng yếu, là xương sống của nền kinh tế, trong đó tài chính nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo, hệ thống ngân hàng là “trung tâm thần kinh”.

2. Việc chỉ đạo, quản lí điều hành lĩnh vực tài chính - tiền tệ liên quan trực tiếp đến

60

Page 61: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

toàn bộ nền kinh tế, từ vĩ mô đến vi mô, từ vùng đến lãnh thổ, từ Trung ương đến các cấp chính quyền, các bộ, ngành, các tụ điểm thị trường, nên phải có sự phối kết hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các cơ quan trong việc ban hành luật lệ, chính sách và giữa các ngành, các cấp để không xảy ra các trục trặc không đáng có trong quá trình đầu tư, làm hạn chế, triệt tiêu động lực hoặc để xảy ra tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”.

3. Tiếp tục hoàn thiện các luật thuế theo phương châm vừa hiện đại, vừa gọn nhẹ, có tác dụng khuyến khích, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, tăng thu NSNN và đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.

Đồng thời, tiếp tục hoàn thiện việc phân cấp ngân sách, đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, trong đó giao quyền tự chủ cao hơn cho các cấp chính quyền địa phương để nâng cao tính tự chủ của địa phương, xóa bỏ tâm lí ỷ lại vào sự bao cấp tràn lan.

4. Đồng bộ hóa các luật lệ liên quan đến môi trường đầu tư của hệ thống tài chính - tiền tệ. Tạo môi trường đầu tư lành mạnh cho hệ thống tài chính - tiền tệ Việt Nam.

5. Cùng với việc cổ phần hóa các DNNN, cần cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước theo hướng Nhà nước nắm quyền chi phối ít nhất 51% vốn và cấu trúc lại hệ thống ngân hàng theo hướng hiện đại. Chỉ với phương sách này mới nâng cao được năng lực của hệ thống ngân hàng Việt Nam.

6. Cần đẩy mạnh phát triển và hoàn thiện “thị trường mở” theo phương châm hiện đại hóa. Trên cơ sở đó mà thực thi chức năng quản lý, điều tiết thị trường tài chính - tiền tệ bằng cách “bơm” tiền vào hay “hút” tiền ra khỏi lĩnh vực lưu thông theo mục tiêu của chính sách tiền tệ và tín hiệu của thị trường một cách hài hòa, đáp ứng yêu cầu phát triển nền KTTT định hướng XHCN. Cũng trên cơ sở này mà góp phần kiểm soát lạm phát tiền tệ ở mức hợp lí, có lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.

7. Tiếp tục làm trong sạch và lành mạnh hóa tình trạng tài chính của các ngân hàng, các tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trên cơ sở tiếp tục hoàn thành dứt điểm việc xử lý nợ xấu còn tồn đọng.

8. Cần thực thi một hệ thống giải pháp thiết thực, đồng bộ để tạo niềm tin của dân chúng đối với VNĐ. Bởi lẽ, đã 10 năm nay, về căn bản VNĐ đã giữ được giá trị ổn định, song người dân vẫn chưa thật yêu tâm, ít dùng VNĐ để đầu tư vốn dài hạn.

VIII. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI

Đất đai ngày nay đã không chỉ còn là nguồn tài nguyên quý hiếm mà đã trở thành tài sản to lớn của quốc gia. Công tác QLNN về đất đai cả về thể chế và tổ chức bộ máy, cán bộ, công chức phải tương xứng với nguồn vốn to lớn đó.

Trong quá trình đổi mới về cơ chế kinh tế, Luật Đất đai qua 4 lần sửa đổi (năm 1993,1999, 2001 và 2003) đã có bước tiến bộ đáng kể, điểm nổi bật là Nhà nước giao đất cho các tổ chức, hộ gia đình và các cá nhân sử dụng lâu dài; thừa nhận quyền của người sử dụng đất; xác định đất có giá. Luật Đất đai hiện hành đã công nhận quyền của người sử dụng đất. Đất đai đã vận động theo hướng: đất đai được thay đổi

61

Page 62: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

mục đích sử dụng một cách rất cụ thể, tập trung vào những hoạt động kinh tế có năng suất lao động cao hơn, hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích lớn hơn; chuyển đổi về chủ sử dụng, theo hướng đất được chuyển sang chủ sử dụng có nhiều tiềm lực và khả năng tạo ra hiệu quả kinh tế cao hơn; chuyển đổi về giá trị, theo hướng giá trị đất đai ngày càng tăng lên cùng với sự phát triển chung về kinh tế, với sự tăng trưởng dân số và sự tăng lên về hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích của từng loại đất. Sự vận động đó phù hợp với quy luật của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Điều đáng tiếc là do nhiều nguyên nhân, trong đó có vấn đề quan trọng là công tác QLNN về đất đai chưa đúng tầm, chưa tương xứng với nguồn vốn vô cùng lớn lao đó, cộng với việc chưa làm sáng tỏ được cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến quản lý đất đai trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; một số quan điểm, chính sách, nhận thức chưa thống nhất và thông suốt, nên các chính sách về đất đai không rõ ràng, dứt khoát; việc tổ chức thực hiện kém hiệu quả; sự buông lỏng, tùy tiện trong quản lý làm cho sự vận động của đất đai càng trở nên phức tạp và rối ren với nhiều biểu hiện tiêu cực, vượt ra khỏi tầm kiểm soát của Nhà nước.

Để tăng cường và nâng cao hiệu quả QLNN về đất đai, cần chú trong một số điểm sau:

1. Xây dựng và quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất

Quy hoạch sử dụng đất ở mỗi địa phương phải phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước, cũng như quy hoạch ngành trên lãnh thổ; phù hợp với yêu cầu công nghiệp hóa, đô thị hóa, chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Có quy chế đảm bảo công khai, minh bạch quy hoạch tổng thể và chi tiết để dân tham gia ý kiến, thực hiện và giám sát việc thực hiện.

Theo số liệu của Tổng cục Địa chính (nay là Bộ Tài nguyên và Môi trường), đến đầu năm 2003, đã có 58 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và 3.597 xã, phường, thị trấn trong cả nước xây dựng quy hoạch sử dụng đất và đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Một số quy hoạch sử dụng đất đã được triển khai thực hiện đưa lại hiệu quả thiết thực, nhất là quy hoạch tổng thể các đô thị lớn, các vùng, các khu công nghiệp tập trung.

Tuy nhiên, chất lượng công tác quy hoạch đang ở mức rất khiêm tốn, công tác dự tính, dự báo quy hoạch chung còn hạn chế, quy hoạch sử dụng đất còn hạn chế hơn. Việc quy hoạch còn mang tính ước lệ, thậm chí là do phỏng đoán của một bộ phận cán bộ, chưa dựa trên cơ sở quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước, chưa được sự tham gia đóng góp ý kiến rộng rãi của nhân dân, của các nhà khoa học và quản lý. Tình trạng xây dựng quy hoạch rồi để đó, không triển khai thực hiện (quy hoạch treo), hoặc thực hiện theo một đường khác, làm cho sự biến động của đất đai đã phức tạp lại càng phức tạp hơn.

2. Đất đai đều phải có chủ sử dụng và quản lý cụ thể, xác định rõ quyền lợi và nghĩa vụ của người sử dụng đất

Đất đai, đồi núi, rừng, sông, suối, ao, hồ, đầm,… đều phải có chủ cụ thể, chính xác (có thể là tổ chức hoặc cá nhân). Người sử dụng đất phải có giấy chứng nhận của cơ

62

Page 63: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

quan nhà nước có thẩm quyền, mọi thay đổi, biến động về đất đai phải đăng ký kịp thời tại cơ quan quản lý đất. Đó là căn cứ pháp lý để thực hiện các quyền của người sử dụng đất và cơ sở để thực hiện QLNN. Đối với đất nông nghiệp đã có bước chuyển biến tiến bộ, việc sử dụng, quản lý cũng như việc thực hiện các quyền của người sử dụng đất tương đối được bảo đảm.

Đối với đất đô thị, đất ven đô, nơi đất đai đang biến động phức tạp thì việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ) với quyền sở hữu nhà ở chỉ mới thực hiện đạt tỷ lệ thấp, đang là trở ngại lớn cho việc thực hiện 5 quyền của người sử dụng đất. Đối với đất công, đồi núi, rừng, ao, hồ, sông, suối, trên danh nghĩa do chính quyền các cấp quản lý nhưng thực tế đất đai này chưa có chủ cụ thể và Nhà nước buông lỏng quản lý. Ngay một số đất công ở các đô thị và ven đô cũng không có chủ quản lý rõ ràng hoặc bị chủ sử dụng lợi dụng để vụ lợi cục bộ, tình trạng lấn chiếm đất công còn phổ biến.

3. Phân loại đất và xác định giá trị QSDĐ

Trong thực tế, đất đai có nhiều loại, nhiều dạng, ở nhiều vùng, miền khác nhau, Nhà nước cần có biện pháp phân loại đất đai phù hợp với thực tế, để có chính sách cụ thể đối với mỗi loại đất mà trước hết là định giá trị đất (có thể là đất chuyên dùng, đất canh tác, đất chưa sử dụng). Vấn đề này đang còn nhiều ý kiến khác nhau, Nhà nước cần quản lý không chỉ diện tích mà cả chất lượng, giá cả của từng loại đất. Điều quan trọng là giá đất phải phải được hình thành theo giá thị trường có sự hướng dẫn của Nhà nước thông qua các tổ chức định giá chuyên nghiệp. Giá đất cần được công bố công khai để áp dụng đối với các loại đất đền bù khi Nhà nước cần thu hồi đất, để thu thuế khi thực hiện việc chuyển nhượng, chuyển đổi mục đích sử dụng…

Mọi tổ chức, mọi công dân khi được giao QSDĐ, coi như đang sử dụng một khoản tài sản của Nhà nước có giá trị cụ thể. Nhà nước thực hiện định kỳ kiểm kê, đánh giá tình hình quản lý, sử dụng đất đối với các tổ chức (bao gồm các cơ quan, tổ chức nhà nước) và cá nhân sử dụng đất. Không để tình trạng đất đai của Nhà nước bị các tổ chức của Nhà nước thao túng, sử dụng vì lợi ích cục bộ.

4. Hoàn thiện thể chế thị trường bất động sản

Thị trường bất động sản phải bao gồm cả thị trường giá trị QSDĐ theo tinh thần Nghị quyết Đại hội IX của Đảng. Cần tạo khung pháp lý đồng bộ cho quá trình chuyển đổi, chuyển nhượng QSDĐ diễn ra một cách công khai, bình thường và thuận lợi, đáp ứng tốt nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân công lại lao động xã hội. Đồng thời, có chính sách quản lý đất đai phù hợp với phong tục, tập quán và truyền thống sử dụng đất của đồng bào các dân tộc thiểu số.

Nhà nước công nhận và tạo điều kiện cho việc chuyển nhượng giá trị QSDĐ hợp pháp. Mọi giao dịch về giá trị QSDĐ được đăng ký công khai với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và thực hiện các nghĩa vụ (nếu có) theo quy định của pháp luật. Qua đó, quá trình chuyển đổi đất đai sẽ diễn ra một cách bình thường và thuận lợi, không làm giá đất tăng đột biến và giả tạo, không làm cho đất đai trở thành lực cản đầu tiên và rất nặng nề cho hoạt động sản xuất - kinh doanh, nhất là các hoạt động kinh tế mới được hình thành như hiện nay.

Đơn giản hóa các thủ tục hành chính về giao dịch đất đai, đảm bảo cho người sử

63

Page 64: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

dụng đất được thực sự chủ động thực hiện các quyền theo quy định của pháp luật. Sau khi có giấy chứng nhận QSDĐ, người sử dụng đất thực hiện các quyền đó trong phạm vi quy hoạch sử dụng đất đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, chỉ cần đăng ký với cơ quan quản lý đất và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo luật định, không phải xin phép và cấp phép.

5. Nhà nước thực hiện các chính sách điều tiết

Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, mọi nguồn lợi phát sinh từ đất không do chủ sử dụng tạo nên đều phải được điều tiết hợp lý để phục vụ cho nhu cầu chung, bảo đảm mọi người dân đều được hưởng lợi từ tài nguyên đất thuộc sở hữu toàn dân. Đất đai là nguồn vốn to lớn, thể chế quản lý của Nhà nước phải nhằm làm cho nguồn vốn đó không ngừng phát triển, không ngừng sinh lợi để tập trung vào xây dựng đất nước. Tại nhiều nước trên thế giới, các hoạt động liên quan đến bất động sản chiếm khoản 25 - 30% giá trị tổng sản phẩm quốc gia (GDP). Tại Mỹ, bất động sản chiếm 30 - 40% GDP, tại Anh, lượng tiền cho các nhân vay hơn 700 tỉ bảng, trong đó 565 tỉ được bảo đảm bằng bất động sản, phần lớn là giá trị đất và nhà nước điều tiết một phần đáng kể lợi nhuận cho lợi ích công. Ở Đài Loan, chính quyền căn cứ vào giá gốc khi chủ sở hữu đất bắt đầu sử dụng, nếu chủ sở hữu đó bán đất cho người khác sở hữu thì phần chênh lệch phải điều tiết thấp nhất là 40% và cao nhất là 60%. Ở Việt Nam, nguồn vốn rất lớn đó, vừa qua đã tuột khỏi tay Nhà nước, rơi vào tay một số ít người, gây bất bình trong xã hội và rối rắm trong quản lý.

Đất đai sử dụng vào mặt bằng kinh doanh, vào mục đích lợi nhuận phải được tiến hành đấu giá về mặt giá trị QSDĐ, đảm bảo sự công bằng và bình đẳng trong cạnh tranh. Chấm dứt tình trạng đất đai thuộc sở hữu toàn dân nhưng trên thực tế lại thuộc về một nhóm quyền lực để vụ lợi thông qua việc ban phát nguồn tài nguyên to lớn của nhân dân.

Nhà nước thực hiện việc thu hồi đất, trưng thu, trưng mua đất để phục vụ cho nhu cầu xây dựng kết cấu hạ tầng và các công việc vì lợi ích của quốc gia, đi liền với chính sách bảo đảm cho người nông dân khi bị thu hồi đất có điều kiện sinh sống. Đối với đất đai thu hồi để mở mang các khu công nghiệp, các mặt bằng sản xuất, cần có chính sách để người có đất có quyền tham gia cổ phần, cho thuê QSDĐ, hoặc tạo việc làm cho các lao động của những hộ có đất bị thu hồi, không coi việc đền bù giá trị QSDĐ là hết trách nhiệm đối với dân. Đây đang là vấn đề rất gay cấn, nhiều hộ nông dân khi bị thu hồi đất, tuy có được một số tiền đền bù, nhưng mất hẳn nguồn sinh sống từ lâu đời, chưa biết dựa vào đâu.

6. Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý

Tổ chức bộ máy cơ quan chuyên môn đủ mạnh và cán bộ, công chức có chuyên môn, nghiệp vụ, thạo việc, có phẩm chất và trách nhiệm cao để thực hiện nhiệm vụ quản lý nguồn tài sản to lớn này. Thực tế vừa qua, chúng ta chưa chú trọng đầy đủ đối với cơ quan quản lý về đất đai, kể cả ở Trung ương và các cấp chính quyền địa phương, công tác quản lý đất đai còn rất bất cập. Tình trạng giao đất, cấp đất trái thẩm quyền, lấn chiếm đất đai, tranh chấp và khiếu kiện xảy ra khá phổ biến ở nhiều nơi.

Qua kiện toàn Chính phủ nhiệm kỳ 2002 – 2007, Quốc hội quyết định tổ chức Bộ

64

Page 65: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

Tài nguyên và Môi trường (thay cho Tổng cục Địa chính), để ngang tầm với nhiệm vụ quản lý nguồn tài nguyên quý hiếm này, là thể hiện một bước nhận thức mới về công tác QLNN đối với đất đai. Điều quan trọng là tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức đủ năng lực và phẩm chất thực hiện nghĩa vụ đó.

Đội ngũ cán bộ, công chức phải được đào tạo đến nơi đến chốn, thành thạo về nghiệp. Nội dung đào tạo, ngoài những kiến thức cơ bản, phải rất chú trọng về kỹ năng, nghiệp vụ cụ thể, nhất là đối với cán bộ trực tiếp thực thi nhiệm vụ, cập nhật biến động đất đai tại cơ sở. Trước đây trong chế độ cũ, cán bộ chủ sự quản thủ ruộng đất được đào tạo không chỉ cơ bản mà rất cụ thể về nghiệp vụ, “phải tổ chức mọi công việc thật cụ thể, với ít thể thức nhất và tránh cho các sở hữu chủ và các chức dịch phải đi lại nhiều lần…”, “các chủ sự hoàn toàn chịu trách nhiệm về các hậu quả do công việc mình đã làm”(1); “những sổ ruộng đất và những sổ sách khác dùng trong phòng quản thủ ruộng đất đều phải giữ gìn không tẩy xóa viết đè lên chữ hay viết vào giữa dòng, xóa chữ nào phải gạch một nét nhỏ bằng mực và phải thừa nhận ở bên lề hoặc ở cuối văn bản. Khi ghi vào sổ ruộng đất hoặc vào các bằng khoán ruộng đất thì nhất thiết phải viết bằng tay với mực đen cố định…”(2).

Cán bộ trực tiếp thực hiện việc quản lý đất đai ở cơ sở phải là những người tận tụy, trung thực, không vụ lợi và hoàn toàn chịu trách nhiệm về việc làm của mình trước pháp luật. Trước đây, trách nhiệm của cán bộ quản thủ ruộng đất được quy định khá chặt chẽ: “các chủ sự dù chính thức hay tạm thời khi nhận việc phải tuyên thệ trước Tòa án sơ thẩm nơi mình ở, thề sẽ làm chính xác và thành thực những công việc mà mình được giao phó”(3); “chủ sự khi nhận việc buộc phải nộp trong hạn 3 tháng là cùng khoản bảo đảm bằng tiền mặt, tiền gửi nhà nước, hoặc bằng bất động sản đã đăng bộ”; “sau 10 năm là hạn cuối cùng của việc ký gửi khoản bảo đảm. chủ sự quản thủ ruộng đất phải xin một giấy chứng nhận của Lục sự tòa án nơi mình đang làm việc, nói rõ Tòa không nhận được đơn khiếu nại xin đòi tiền bồi thường; khi xuất trình được giấy nói trên, viên chủ sự được hoàn lại số tiền hay hiện vật đã ký gửi bảo đảm”(4); “số tiền các chủ sự quản thủ ruộng đất phải gửi để bảo đảm được quy định ngay trong Nghị định bổ nhiệm”(5). Đây là những vấn đề chúng ta có thể tham khảo khi xây dựng trương trình, nội dung đào tạo và chế độ trách nhiệm đối với cán bộ nói chung, cán bộ địa chính nói riêng.

7. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra

Cần tiến hành thanh tra, kiểm tra việc thực hiện công tác quản lý đất đai một cách thường xuyên và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm ở tất cả các cấp, các ngành. Hàng năm, cần có kiểm kê, đánh giá tình hình biến động về các loại đất đai của chủ sử dụng đất trên các địa bàn. Đối với các tổ chức và cơ quan nhà nước cũng như các cấp chính quyền địa phương, mỗi lần thay đổi người đứng đầu phải có giao, nhận việc quản lý đất đai thuộc thẩm quyền. Công tác này trong thời gian qua chưa được thực hiện một cách nghiêm túc, nếu không muốn nói là buông lỏng. Gần đây, theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ, đã tiến hành một đợt kiểm tra, phát hiện khá nhiều vụ sai phạm như đã nêu trên, nhưng mức độ xử lý đạt kết quả thấp.

Ghi chú: (1),(2),(3),(4),(5): Nghị định của Toàn quyền Đông Dương ngày 12- 8- 1927 quy định công tác quản

65

Page 66: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

thủ ruộng đất ở Đông Dương do P. Pasquier kí (Điều 3, Điều 27, Điều 4, Điều 10, Điều 13).

IX. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THỊ TRƯỜNG BẤT ĐỘNG SẢN

1. Thực trạng công tác QLNN về thị trường bất động sản

Thị trường bất động sản (TTBĐS) là loại thị trường đặc biệt bởi nó gắn với đất đai - loại hàng hóa đặc biệt và có tầm ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế đất nước. Từ sau khi Luật Đất đai được ban hành năm 1993 đến nay, Đảng và Nhà nước ta rất chú trọng tới công tác quản lý, xây dựng và phát triển TTBĐS lành mạnh. Vì vậy, mặc dù còn rất non trẻ song TTBĐS đã có nhiều yếu tố tích cực, đáp ứng được nhu cầu đa dạng về nhà, đất với chất lượng ngày một cao hơn; việc mua bán, chuyển nhượng, cho thuê… quyền sử dụng đất (QSDĐ) và các công trình kiến trúc gắn liền với đất đã mở ra những cơ hội để người sử dụng đất đầu tư và sử dụng hiệu quả hơn, quyền có nhà ở của người dân về cơ bản đã được đáp ứng… Tuy nhiên, nhìn lại TTBĐS nước ta thời gian qua, còn nổi cộm một số mặt: TTBĐS không chính thức (thị trường ngầm) hoạt động mạnh, chiếm tỉ trọng cao trong tổng giao dịch về bất động sản (BĐS); cung - cầu hàng hóa BĐS luôn mất cân đối nghiêm trọng, giá cả lên xuống thất thường và thường là giá ảo; các tổ chức dịch vụ môi giới BĐS phần lớn hình thành và phát triển tự phát, không có đăng ký kinh doanh, nhân viên môi giới (“cò đất”) hầu như không được đào tạo kiến thức về BĐS, tư vấn nhà đất, mục đích hoạt động chủ yếu là để kiếm lời bằng mọi giá vì vậy đã góp phần đẩy giá BĐS lên cao, tạo nên các “cơn sốt”; hệ thống thông tin về bất động sản (BĐS) không đầy đủ, thiếu minh bạch và khó tiếp cận; còn có sự thiếu bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong giao dịch trên TTBĐS… Sở dĩ có tình trạng trên là do một số nguyên nhân chủ yếu sau:

- Nhà nước chậm ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về BĐS và TTBĐS; hệ thống văn bản hiện hành còn thiếu đồng bộ, chồng chéo; một số văn bản còn những kẽ hở, bị giới đầu cơ lợi dụng để mưu lợi cá nhân. Nhiều văn bản không còn phù hợp với tình hình thực tế, cần phải bổ sung, sửa đổi.

- Nhà nước duy trì quá lâu cơ chế “xin - cho” trong quan hệ đất đai. Đặc biệt, vẫn còn chế độ ưu ái một cách tùy tiện về miễn, giảm tiền sử dụng đất khi giao đất, cho thuê đất.

- Công tác QLNN về đất đai, TTBĐS còn nhiều yếu kém; đặc biệt là việc quản lý các hoạt động sử dụng sau khi giao đất, cho thuê đất ở nhiều nơi đã bị buông lỏng,

- Tiến độ cấp giấy chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu nhà chậm so với kế hoạch.

- Chính sách đền bù đất đai và giá đất chưa phù hợp. Nhà nước là người định giá đất đai để làm cơ sở tính giá cho thuê đất, thu thuế chuyển QSDĐ… Tuy nhiên, hệ thống giá định ra thường không phù hợp giá thị trường. Mặc dù có quy định hệ số điều chỉnh giá song một xu hướng chung Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng thì giá để nộp tiền sử dụng đất luôn được tính theo mức giá thấp nhất, ngược lại đền bù thì luôn tìm cách đẩy lên cao, tuy vẫn thấp hơn giá thị trường song sự chênh lệch trên đang vi phạm đến lợi ích của Nhà nước về mặt kinh tế đối với đất đai.

- Chính sách và biện pháp tài chính chưa đủ mạnh để can thiệp kịp thời những lúc

66

Page 67: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

“sốt” đất cũng như để bình ổn và phát triển TTBĐS. Mức thu thuế QSDĐ, tiền thuế đất và lệ phí trước bạ còn khá cao nên không khuyến khích người dân làm thủ tục hợp thức hóa các BĐS.

2. Một số giải pháp tháo gỡ

Để khắc phục những mặt hạn chế, yếu kém trong công tác QLNN, góp phần bình ổn và phát triển TTBĐS trong thời gian tới, cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:

a. Hoàn thiện khung khổ pháp lý

- Trước mắt, cần khẩn trương ban hành nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai (sửa đổi năm 2003), Luật Xây dựng (năm 2003) để đưa các luật này vào cuộc sống.

- Xúc tiến việc xây dựng và ban hành Luật Kinh doanh bất động sản để điều chỉnh các quan hệ có liên quan đến TTBĐS. Luật này cần tạo môi trường pháp lý giải quyết các quan hệ liên quan đến BĐS như vấn đề sở hữu, quản lý, sử dụng đất đai; quan hệ trong TTBĐS; QLNN đối với TTBĐS…

- Để khắc phục sự chồng chéo trong hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến TTBĐS, cần tách việc giải quyết chính sách xã hội khỏi vấn đề đất đai; từng bước tiến tới thực hiện cơ chế một giá đất. Trong quá trình tiến tới thực hiện cơ chế một giá trong TTBĐS, Nhà nước nên chuyển dần vai trò từ người định giá sang vai trò điều tiết và thẩm định giá.

- Đẩy mạnh việc cấp giấy chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu và sử dụng các BĐS gắn liền với đất. Trong các căn cứ để xác định tính hợp pháp về hiện trạng sử dụng đất, cần coi trọng yếu tố thực tế đối với những đất đai của các cá nhân, tổ chức đã được cộng đồng công nhận không có tranh chấp, khiếu kiện là căn cứ hàng đầu để xúc tiến việc cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho người đang sử dụng hợp pháp trên thực tế.

- Xây dựng và tổ chức thực hiện cơ chế đấu thầu QSDĐ đối với các dự án đầu tư; cơ chế đấu giá đối với việc chuyển nhượng QSDĐ .

b. Quản lý hệ thống dịch vụ môi giới BĐS

Để TTBĐS phát triển lành mạnh, Nhà nước cần khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia hoạt động dịch vụ tư vấn, môi giới về BĐS cho những tổ chức và cá nhân có đủ điều kiện. Những người tư vấn, môi giới phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả của các hoạt động tư vấn, môi giới như tính trung thực trong các thông tin, tính pháp lý của BĐS đưa vào môi giới, về kết quả giám định và hình thành giá của BĐS giao dịch…

Nhà nước cần tăng cường kiểm tra hoạt động của các cơ sở này về tính công khai và độ chính xác của các thông tin và chất lượng dịch vụ tư vấn.

c. Tăng cường vai trò của Nhà nước trong việc điều tiết “cung - cầu” về BĐS

- Điều tiết về “cung”.

Nguồn “cung” trên TTBĐS, đặc biệt là các thành phố lớn ngày càng phong phú do một số lý do như quá trình phát triển đô thị và đô thị hóa nhanh; đổi mới DNNN thông qua cổ phần hóa, giao bán, khoán, cho thuê; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế; đẩy

67

Page 68: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

mạnh công nghiệp hóa, phát triển giao thông… làm chuyển đổi mục đích sử dụng đất (từ đất nông thôn thành đất đô thị, đất nông nghiệp thành đất ở hay đất chuyên dùng khác).

Chính vì vậy, vai trò điều tiết nguồn “cung” của Nhà nước (cả trên thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp) có vai trò đặc biệt to lớn, nhất là khi thị trường biến động, nếu Nhà nước có các nguồn “cung” bổ sung kịp thời thì không chỉ mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách mà còn có vai trò quyết định đến sự bình ổn TTBĐS.

- Điều tiết về “cầu”.

“Cầu” về BĐS chủ yếu diễn ra trên thị trường thứ cấp với mục đích mua bán các BĐS của những người không có nhu cầu sử dụng nhưng được quyền chuyển nhượng. Để điều tiết về “cầu”, Nhà nước cần thực hiện một số giải pháp như cho những người có QSDĐ do chuyển nhượng ngầm qua tay nhiều người, nhiều lần như là chuyển nhượng lần đầu, được cấp giấy chứng nhận QSDĐ hợp pháp; thực hiện quản lý chặt các dòng di dân nông thôn, quản lý quy mô gia tăng cơ học dân số của các thành phố; đề ra tiêu chuẩn khách hàng được nhận chuyển nhượng BĐS phải có hộ khẩu thường trú.

d. Thành lập trung tâm giao dịch BĐS

Để khắc phục tình trạng không có cơ quan chịu trách nhiệm cung cấp thông tin chính thức cũng như thiếu cơ quan tư vấn tin cậy có tính pháp lý để hỗ trợ cả người bán và người mua khi tham gia giao dịch trên TTBĐS hiện nay, các địa phương, đặc biệt là các thành phố lớn cần phải thành lập các trung tâm giao dịch BĐS với các chức năng cơ bản sau:

+ Thông tin về các nguồn “cung” BĐS của cả khu vực nhà nước, các doanh nghiệp và cá nhân có BĐS tham gia trên thị trường.

+ Thẩm định các đặc trưng, tính pháp lý, giá cả của BĐS, cũng như thực hiện dịch vụ pháp lý cho các BĐS tham gia các giao dịch trên TTBĐS.

+ Là cầu nối thực hiện thanh toán giữa các bên tham gia TTBĐS cũng như giới thiệu các nguồn cung cấp tài chính cho các đơn vị cá nhân có nhu cầu vay vốn, thế chấp bằng chính các BĐS tham gia giao dịch trên thị trường.

Để thực hiện tốt các chức năng trên, trung tâm giao dịch BĐS phải có một đội ngũ chuyên gia được đào tạo bài bản về giao dịch, định giá và thẩm định BĐS. Trung tâm phải có mối liên hệ chặt chẽ với các cơ quan QLNN về BĐS như Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Quy hoạch và Kiến trúc đô thị, cơ quan thuế, ngân hàng và các ngành có liên quan.

đ. Chống đầu cơ BĐS

Để hạn chế tiến tới ngăn chặn và xóa bỏ hoàn toàn tệ nạn đầu cơ BĐS, cần thực hiện một số biện pháp chủ yếu sau:

- Tăng cường hoạt động quản lý sau giao đất. Cụ thể, cần thực hiện nghiêm quy định về thời hạn đưa đất vào sử dụng. Nếu các đối tượng được giao đất mà không sử dụng trong thời hạn 1 năm, kéo dài thời gian đầu tư quá 2 năm hoặc sử dụng không đúng mục đích được giao thì sẽ bị thu hồi. Không nên thực hiện miễn, giảm tiền thuê

68

Page 69: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

đất, giao cho các đơn vị đầu tư BĐS mà chỉ miễn giảm cho người sử dụng sau khi mua lại hoặc thuê lại.

- Thường xuyên công bố quy hoạch sử dụng đất và các dự án đầu tư phát triển các công trình BĐS. Quản lý chặt chẽ việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất giữa 3 nhóm: đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp và đất chưa sử dụng, nhất là chuyển đổi hình thức sử dụng từ đất nông nghiệp thành đất phi nông nghiệp. Sự chuyển đổi mục đích sử dụng trong nội bộ từng nhóm sẽ do chính quyền phường, xã quyết định.

- Luật hóa vấn đề đền bù giải phóng mặt bằng trên cơ sở hoàn thiện thêm về chính sách đền bù hiện nay. Trong đền bù, cần quy định rõ:

+ Giá đền bù do Nhà nước quy định cho từng loại đất theo mục đích sử dụng khi giao đất, kiên quyết không đền bù cho đất nông nghiệp chuyển đổi trái phép mục đích sử dụng thành đất phi nông nghiệp và đất khác.

+ Quy định trách nhiệm về tổ chức nhà ở tái định cư.

+ Quy định trách nhiệm đào tạo nghề, bố trí việc làm hoặc hỗ trợ tạo việc làm cho người dân trong trường hợp bị thu hồi đất sản xuất nông nghiệp.

e. Hoàn thiện chính sách tài chính về đất đai

- Hạ thấp hơn nữa thuế suất chuyển nhượng đất đai để khuyến khích người dân hợp thức hóa BĐS của mình.

- Đơn giản hóa thủ tục đăng lý cấp giấy chứng nhận QSDĐ và giảm các khoản thu khi thực hiện đăng ký QSDĐ lần đầu đối với mọi loại đất có nguồn gốc hợp pháp bất kể đối tượng nhận QSDĐ là cá nhân hay tập thể thuộc các thành phần kinh tế trong nước.

- Chính phủ chỉ nên đề ra các nguyên tắc chỉ đạo và giao quyền cho các địa phương tự quy định giá, chỉ thực hiện thẩm định giá trong những trường hợp cần thiết (và phải có quy định cụ thể để thực hiện). Thực hiện triệt để việc đấu thầu QSDĐ. Khi thực hiện chính sách này, cần tăng cường giao nhiều quyền hạn hơn cho các địa phương trong việc xây dựng và thẩm định giá BĐS.

- Các chính sách nên hướng tới sự bình đẳng đối với các đối tượng nhận chuyển nhượng, được giao đất, cho thuê đất.

- Thực hiện việc điều tiết phần giá trị tăng thêm của BĐS khi Nhà nước đầu tư vào các công trình hạ tầng, thay đổi quy hoạch hoặc tăng giá đất đai khu vực có BĐS đó.

g. Bảo đảm sự phát triển đồng bộ của TTBĐS với các thị trường khác

- Mở rộng và bảo đảm tính pháp lý cao trong hoạt động thế chấp bằng BĐS, kể cả BĐS hình thành sau đầu tư, để cấp vốn tín dụng cho hoạt động của các thành phần kinh tế.

- Hoàn thiện cơ chế thực hiện việc góp vốn liên doanh bằng QSDĐ,

- Tạo mọi điều kiện để các cá nhân, tập thể thuộc mọi thành phần kinh tế có tiềm lực về vốn, khoa học – công nghệ… tiếp cận được với BĐS để đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất.

69

Page 70: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

- Hoàn thiện các chính sách tài chính, thực hiện các khoản thu liên quan đến hoạt động của TTBĐS như các loại thuế và phí: tiền sử dụng đất, thuế trước bạ, thuế chuyển QSDĐ, lệ phí cấp giấy chứng nhận…

70

Page 71: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

Chương IIIMỘT SỐ KINH NGHIỆM QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

CỦA TRUNG QUỐC

I. KINH NGHIỆM CỦA TRUNG QUỐC VỀ HỖ TRỢ TRIỂN KHAI THỰC HIỆN DỰ ÁN FDI

Sau những năm thực hiện cải cách mở cửa, bằng những chính sách và biện pháp pháp thích hợp, Trung Quốc đã đạt được những thành tựu đáng khâm phục trong việc thu hút và triển khai thực hiện các dự án FDI.

Về hình thức đầu tư, ngoài ba hình thức đầu tư nước ngoài chủ yếu như ở Việt Nam như doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp hợp tác kinh doanh và doanh nghiệp sở hữu nước ngoài, Trung Quốc còn ban hành một số hình thức khác, có tính đặc thù cho từng lĩnh vực, như (i) hình thức hợp tác phát triển ứng dụng trong khai thác dầu khí và mỏ tự nhiên, (ii) hình thức BOT áp dụng trong phát triển cơ sở hạ tầng, (iii) công ty đầu tư nhằm khuyến khích các tập đoàn lớn của nước ngoài phát triển các dự án đầu tư. Hiện nay các hình thức này được các nhà đầu tư nước ngoài (ĐTNN) quan tâm, (iv) công ty cổ phần đầu tư nước ngoài. Đây là công ty được thành lập mới, hoặc mua cổ phần của các doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá. Công ty trách nhiệm hữu hạn có vốn đầu tư nước ngoài có thể chuyển đổi thành công ty cổ phần. Hình thức phổ biến trên thế giới là hình thức mua lại hoặc sáp nhập (M&A) đã được Trung Quốc nghiên cứu áp dụng. Như vậy, với việc thực hiện đa dạng hoá đầu tư, một mặt, cho phép Trung Quốc có thể thu hút được nhiều dự án FDI hơn. Mặt khác, tạo điều kiện rất thuận lợi cho việc tái cấu trúc lại các dự án FDI trong quá trình triển khai thực hiện. So với Việt Nam, sự hấp dẫn hơn trong các hình thức FDI của Trung Quốc ở chỗ (i) ba hình thức cơ bản của Trung Quốc đều là doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, trong khi hình thức Hợp đồng hợp tác kinh doanh ở Việt Nam không thành lập pháp nhân mới. Đây là điều mà rất nhiều nhà ĐTNN mong muốn ở Việt Nam sửa đổi, vì họ không có cơ hội khuyếch trương uy tín trên thị trường Việt Nam, phải “mượn” tư cách pháp nhân của đối tác Việt Nam; (ii) Trung Quốc đã nhanh chóng ban hành các hình thức công ty cổ phần đầu tư nước ngoài, cho phép thành lập mới, hoặc các công ty TNHH chuyển thành công ty cổ phần đầu tư nước ngoài. Trong khi đó, ở Việt Nam, chúng ta đang thí điểm cổ phần hoá các doanh nghiệp có vốn FDI. Vì vậy, thời gian qua, có rất nhiều dự án FDI gặp khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện muốn thay đổi chủ đầu tư, tái cơ cấu vốn… nhưng không thể thực hiện được, hoặc phải qua các thủ tục rất phiền hà.

Về giá cả phục vụ, kể từ tháng 01 năm 1998, Trung Quốc bãi bỏ thuế nhập khẩu và thuế VAT khi nhà đầu tư cung ứng thiết bị máy móc cho các công trình có vốn ĐTNN. Tiếp tục mở cửa thị trường dịch vụ cho FDI trong các lĩnh vực nhạy cảm như tài chính, bảo hiểm, viễn thông, du lịch và ngoại thương. Quy định này góp phần thu hút FDI vào phát triển các ngành dịch vụ.

71

Page 72: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

Để góp vốn và tái đầu tư, nhà ĐTNN có thể góp vốn bằng những hình thức khác nhau như ngoại tệ mạnh, máy móc, thiết bị, quyền sở hữu công nghiệp, công nghệ độc quyền với giá xác định. Hơn nữa, nhà ĐTNN có thể sử dụng lợi nhuận bằng đồng nhân dân tệ của tất cả các doanh nghiệp có vốn FDI kinh doanh trên lãnh thổ Trung Quốc để tái đầu tư. Các nhà ĐTNN không chỉ sử dụng lợi nhuận của bản thân doanh nghiệp mình để tái đầu tư, mà còn có thể sử dụng lợi nhuận của các doanh nghiệp khác miễn là doanh nghiệp đó thành lập và hoạt động hợp pháp trên lãnh thổ Trung Quốc.

Về quản lý ngoại hối, các doanh nghiệp có vốn FDI có thể tiếp nhận các dịch vụ bảo đảm cung ứng tiền mặt, các khoản vay bằng nhân dân tệ theo một số điều kiện nào đó. Ngoài ra, đển bảo đảm chủ động ngoại tệ trong kinh doanh, doanh nghiệp có vốn FDI còn được vay nước ngoài, phát hành trái phiếu ngoại tệ và các công cụ nợ khác, nhưng phải đăng ký. Về các thủ tục liên quan đến chứng nhận quản lý ngoại hối, trong vòng 30 ngày kể từ khi nhận được giấy phép đầu tư, doanh nghiệp có vốn đầu tư FDI làm đơn xin cấp giấy chứng nhận quản lý ngoại hối ở địa phương. Sau khi được cơ quan quản lý ngoại hối phê chuẩn, doanh nghiệp có vốn FDI có thể mở tài khoản ngoại tệ tại bất kỳ tổ chức tín dụng trong và ngoài lãnh thổ Trung Quốc. Ngoài ra, các doanh nghiệp có vốn FDI có thể sử dụng ngoại tệ để tái đầu tư, hoặc chuyển lợi nhuận và các khoản chi phí khác bằng ngoại tệ về nước, nhưng phải được sự đồng ý của cơ quan quản lý ngoại hối. Đối với Việt Nam, cũng cho phép các nhà ĐTNN mở tài khoản ngoại tệ ở nước ngoài, nhưng chỉ là tài khoản vốn vay, chứ không phải phục vụ mục đích giao dịch kinh doanh. Đây chính là một điểm thông thoáng trong Luật đầu tư nước ngoài của Trung Quốc so với Việt Nam. Để quản lý chặt sự di chuyển của nguồn ngoại tệ, Trung Quốc quy định khi chuyển nhượng vốn cần có sự phê duyệt của cơ quan nhà nước về quản lý ngoại hối, hàng tháng phải nộp báo cáo cho cơ quan này.

Về sử dụng đất, cũng giống như Việt Nam, Trung Quốc coi đất đai là sở hữu của Nhà nước. Vì vậy, các nhà ĐTNN có thể nhận các “quyền sử dụng đất” nhưng không phải là quyền sở hữu đối với đất đai. Đối với doanh nghiệp trong nước, quyền sử dụng đất được xác lập thông qua 3 cách thức là cấp đất, thuê đất và thậm chí có thể mua bán đất. Đối với doanh nghiệp FDI có quyền được sử dụng đất được xác lập thông qua 2 cách thức là bên Trung Quốc góp và thuê đất, hoặc qua chuyển nhượng doanh nghiệp, chứ không được phép mua bán. Các doanh nghiệp có vốn FDI có quyền được sử dụng đất trong thời hạn tối thiểu là 40 năm và tối đa là 70 năm, tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng đất cho dự án. Các nhà ĐTNN có quyền thế chấp đất đai tại các tổ chức tín dụng để huy động vốn nhưng phải đăng ký với cơ quan có thẩm quyền trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày ký hợp đồng thế chấp. Quá trình đăng ký thuê đất mất khoảng 2 tháng, đây là thời gian dài so với quy định của Việt Nam, nhưng đó là thời gian thực.

Về tuyển chọn và sử dụng lao động, nhằm bảo vệ quyền lợi cho người lao động, cũng như Việt Nam, Trung Quốc buộc các doanh nghiệp đấu tư nước ngoài phải chấp hành nghiêm chỉnh bộ luật lao động của nước sở tại. Nhất thiết các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài phải ký kết hợp đồng lao động với công nhân trong một thời gian nhất định sau ngày được tuyển dụng. Nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có quyền tự chủ trong kinh doanh, các nhà ĐTNN ở Trung Quốc có thể tự quyết định thời gian, quy mô, điều kiện và phương thức tuyển dụng. Các nhà ĐTNN có quyền tuyển lao

72

Page 73: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

động trực tiếp mà không phải tuyển qua cơ quan quản lý lao động của địa phương, bởi vậy, họ có thể chủ động trong tuyển dụng lao động. Chỉ trong trường hợp tuyển dụng lao động là người nước ngoài, các nhà ĐTNN phải nộp đơn xin phép lên cơ quan quản lý lao động và An ninh xã hội của địa phương. Giấy phép tuyển dụng đối với lao động nước ngoài là bắt buộc. Tuy thủ tục giấy phép không khó, nhưng mất nhiều thời gian, có thể kéo dài từ 1 đến 2 tháng, do các doanh nghiệp có vốn FDI phải thực hiện quy trình 4 bước và làm việc với 4 cơ quan thẩm quyền mới xin được giấy phép lao động cho người nước ngoài.

Về quyền hạn của các dự án FDI, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài có toàn quyền quyết định về quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chính phủ Trung Quốc khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài áp dụng các biện pháp quản lý khoa học tiên tiến trên thế giới. Trong phạm vi kinh doanh được phê duyệt, các nhà ĐTNN có quyền tự quyết định về lập kế hoạch kinh doanh, tăng huy động và sử dụng vốn, mua nguyên liệu sản xuất, thành lập văn phòng và số lượng lao động. Điều này tạo điều kiện rất thuận lợi cho các nhà ĐTNN chủ động trong việc tái cơ cấu và điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp khi cần thiết, kể từ khi triển khai thực hiện cho đến khi vận hành dự án FDI.

Nói chung, Trung Quốc đã tạo ra một môi trường khá thuận lợi và ổn định cho các nhà ĐTNN, tạo cho họ lòng tin. Nhờ các quy định thông thoáng trong quá trình triển khai thực hiện nên Trung Quốc đã thu hút được luồng đầu tư lớn, hình thức và đối tác phong phú. Ngoài việc cải thiện môi trường đầu tư nói chung, Trung Quốc còn tạo và cung cấp thêm các dịch vụ xã hội cho các nhà doanh nghiệp có vốn FDI.

II. MỘT SỐ CHÍNH SÁCH VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA TRUNG QUỐC TRONG VIỆC QUẢN LÝ ĐIỀU HÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH DOANH

A - MỘT SỐ CHÍNH SÁCH CỦA TRUNG QUỐC TRONG VIỆC ĐIỀU HÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH DOANH

1. Hỗ trợ cho những ngành tiềm năng và các lĩnh vực có khả năng cạnh tranh cao

Hiện nay Trung quốc có 5 ngành nghề đang là điểm nóng gồm: ôtô, thép, luyện nhôm, xi măng và dệt. Các ngành này đang có tốc độ phát triển nhanh nhất Trung Quốc.

+ Ngành ôtô; Sản lượng tăng 35% nên nhiều doanh nghiệp muốn đầu tư vào ngành này. Thực tiễn yêu cầu 2,4 triệu chiếc/năm, tăng 30% so với năm 2003. Nhiều doanh nghiệp sản xuất ôtô đã thu hút được vốn từ nhân dân và vốn từ nước ngoài nên phát triển rất nhanh. Mỗi tuần có một mẫu xe mới ra đời vì vậy vấn đề ở đây là phải điều chỉnh chủng loại xe ôtô nhằm thu hồi vốn nhanh, phát triển sản xuất. Để giải quyết vốn, Trung Quốc thu hút qua các kênh vay nước ngoài, thu hút vốn đầu tư. Chính vì tốc độ phát triển các doanh nghiệp sản xuất ôtô như vậy nên giá ôtô giảm nhanh. Ngoài ra, nhiều nhà đầu tư quốc tế đầu tư vào ngành này tại Trung Quốc. Do vậy, để phát triển bền vững ngành này, Trung Quốc có sự điều

73

Page 74: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

chỉnh qua sáp nhập một số doanh nghiệp và đi vào chất lượng.

+ Ngành thép: ngành này những năm gần đây phát triển mạnh vì Trung Quốc có sản lượng sản xuất và tiêu thụ thép lớn nhất thế giới do nhu cầu xây dựng của Trung Quốc tăng nhanh. Trên 200 triệu tấn thép được sản xuất năm 2003. Vì vậy, nhu cầu nhập nguyên liệu để sản xuất thép rất lớn do khả năng tự cấp nguyên liệu của Trung Quốc thấp. Sự phát triển này dẫn đến tình trạng ở các vùng ven sông, vùng duyên hải chưa có quy hoạch thống nhất nên chỉ quản lý được việc đầu tư sản xuất, nhập khẩu nguyên liệu mà chưa quản lý được khâu bảo vệ môi trường, do vậy, vấn đề ô nhiễm môi trường rất trầm trọng.

+ Ngành luyện nhôm có tình trạng tương tự như ngành thép.

+ Ngành xi măng: ngành này phát triển rất nhanh vì Trung Quốc là một nước tiêu thụ xi măng lớn nhất do thị trường xây dựng và thị trường bất động sản lớn. Trong ngành xi măng, có tình trạng đầu tư sai, công nghệ sản xuất lạc hậu nên chất lượng kém, thiếu nguyên liệu. Nhà nước xây dựng chính sách thanh lọc chỉ để lại những doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao, yêu cầu các doanh nghiệp phải tiết kiệm năng lượng trong quá trình sản xuất kinh doanh.

+ Ngành dệt: Trung Quốc sản xuất và xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới. Năm 2002, Trong Quốc sản xuất được 17 triệu tấn sợi, chiếm khoảng 30% thế giới. Năm 2004, sản xuất tăng sẽ tăng khoảng 30% và như vậy lợi nhuận cũng tăng. Tuy nhiên, ngành dệt đứng trước tình trạng lạc hậu so với thế giới dẫn đến tình trạng sức cạnh tranh của ngành suy yếu. Chính phủ nhận thấy được điều đó nên yêu cầu các doanh nghiệp ngành dệt tăng hàm lượng công nghệ.

Trung Quốc không có sự phân biệt đối xử giữa các loại hình doanh nghiệp cũng như các ngành nghề. Các doanh nghiệp xuất phát từ lợi ích của mình, Chính phủ đứng trên góc độ tổng thể nên sự phối hợp rất quan trọng. Chính phủ cần cung cấp thông tin đầy đủ cho các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp muốn phát triển phải tuân thủ các chính sách của Chính phủ. Các quốc gia cạnh tranh với nhau trên thực tế là giữa các doanh nghiệp. Chính phủ làm sao đưa ra các cơ chế cạnh tranh đó và Chính phủ phải đảm bảo được cạnh trạnh bình đẳng trên thị trường. Trung Quốc đã có những quy định cụ thể để thực thi trên thực tế sự bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp. Nhờ vậy, trong thời gian qua nhìn chung kinh tế Trung Quốc phát triển một cách tương đối lành mạnh.

2. Chính sách phát triển doanh nghiệp hương trấn tại Trung Quốc

Xí nghiệp hương trấn ở Trung Quốc phát triển rất mạnh, chiếm phần lớn khu vực ngoài quốc doanh. Năm 1978, xí nghiệp hương trấn chỉ chiếm 9% tổng sản lượng công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, đến năm 1995, tỷ trọng này đã tăng lên 24,7%. Số việc làm của khu vực này tăng trung bình 9,3%/năm. Năm 1995, xí nghiệp hương trấn chiếm 56% tổng sản lượng công nghiệp, vượt xa so với tỷ lệ doanh nghiệp nhà nước. Hiện nay số người làm việc trong khu vực này vào khoảng 130 triệu người, gấp 2 lần so với lao động khu vực doanh nghiệp nhà nước. Các nghiên cứu cho thấy rằng các xí nghiệp hương trấn hoạt động hiệu quả hơn nhiều so với doanh nghiệp nhà nước.

74

Page 75: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

Khác với cải cách doanh nghiệp nhà nước, sự phát triển của xí nghiệp hương trấn ở Trung Quốc mang tình tự phát. Hình thức sở hữu cũng rất đa dạng, có thể chủ yếu thuộc sở hữu của chính quyền địa phương như ở Giang Tô; ở Quảng Đông thì lại thuộc sở hữu hỗn hợp giữa chính quyền địa phương, các cá nhân và cả nhà đầu tư nước ngoài; còn ở Ôn Châu thì hầu hết các xí nghiệp hương trấn lại thuộc sở hữu tư nhân, vai trò của chính quyền rất nhỏ.

Xí nghiệp chịu sự quản lý của chính quyền địa phương, ít chịu sự can thiệp trực tiếp của cấp chính quyền cao hơn trong những vấn đề như sản xuất, đầu tư, định giá, tuyển dụng và tiền lương. Các giám đốc của các xí nghiệp có quyền quyết định trong quản lý điều hành tác nghiệp. So với xí nghiệp hương trấn sở hữu tập thể thì xí nghiệp hương trấn sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp có nhiều quyền tự quyết hơn.

Tuy nhiên, hiện nay có một số khó khăn của xí nghiệp hương trấn đang tồn tại cần giải quyết. Đó là việc xác định quyền sở hữu xí nghiệp hương trấn, do xí nghiệp hương trấn được đặt ở một xã nào đó, ban đầu vị xã trưởng đóng góp một phần vốn rất nhỏ, nhưng khi doanh nghiệp phát triển lên thì người quản lý của xã lại coi là doanh nghiệp của xã chứ không phải của tư nhân.

Trường hợp một ông chủ của xí nghiệp thành công ở Hàng Châu đã giải quyết điều này rất tốt, ngay chưa có sự quản lý về xí nghiệp hương trấn, ông chủ này đã tách bạch rõ ràng xí nghiệp ra khỏi sự khống chế của xã. Một phần nhờ quan hệ của ông chủ này với các cấp chính quyền rất tốt thông qua việc nộp thuế và đóng góp các khoản tiền cho địa phương nên mọi việc thuận lợi.

Năm 1994, xí nghiệp hương trấn này đã xây dựng theo mô hình công ty mẹ - công ty con và đã tham gia thị trường chứng khoán ở Thẩm Quyến. Năm 2000, xí nghiệp thành lập công ty đầu tư, là mô hình rất ít xí nghiệp hương trấn có thể làm được. Xí nghiệp đã đăng ký vốn gần 300 triệu nhân dân tệ (RMB), Uỷ ban nhân dân tỉnh góp 30 triệu RMB, thành phố góp 5 triệu RMB. Năm 2001, xí nghiệp được phép Bộ Tài chính cho phép thành lập công ty tài chính và Ngân hàng Trung ương Trung Quốc cũng ủng hộ việc thành lập này. Xí nghiệp thành lập quỹ mạo hiểm và quỹ cho những người có phát minh, sáng chế. Xí nghiệp sử dụng nhân công theo hợp đồng tạm thời, hợp đồng thử việc, hợp đồng dài hạn và hợp đồng suốt đời. Ai đạt thu nhập trên 3 triệu nhân dân tệ thì trở thành hợp đồng suốt đời và sẽ được hưởng lương hưu.

Kinh nghiệm cho thấy, đối với xí nghiệp hương trấn, trước tiên phải chú trọng đến người lao động, tiếp đó đến công ty và cuối cùng là Nhà nước. Thu nhập được phân phối theo 3 phương pháp:

- Theo lao động (với lao động tạm thời, lao động thử việc thì phân phối thu nhập theo sự cống hiến của họ);

- Theo hiệu quả công việc (áp dụng đối với hợp đồng tạm thời); và

- Theo lợi nhuận (với các lao động suốt đời).

Như vậy, xí nghiệp hương trấn của Trung Quốc đã ngày càng phát triển khoa học hơn, hiệu quả hơn với đóng góp ngày càng lớn hơn. Nó đã thể hiện được vai trò của thành phần kinh tế tập thể trong nền kinh tế. Mặc dù còn có những hạn chế nhất định cả về mô hình cũng như phương thức vận hành, phát triển. Khu vực này đã thể hiện

75

Page 76: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, đặc biệt là kinh tế địa phương.

3. Chính sách hỗ trợ phát triển của các loại hình doanh nghiệp

Hội nghị kinh tế đầu năm 2004, đưa ra 32 từ cơ bản cho phát triển: ổn định chính sách, điều chỉnh một cách thích hợp, tiếp tục cải cách, mở rộng đổi mới, nắm vững toàn cục, giải quyết mâu thuẫn, đảm bảo sự phát triển công bằng, hài hoà – phát triển bền vững - giữa các khu vực (Đông - Tây, nông thôn - thành thị, con người - tự nhiên, thị trường trong nước và ngoài nước), phát triển cân bằng ngành, nghề, cân bằng thị trường trong và ngoài nước.

Chính phủ Trung Quốc tin tưởng vào tương lai do biết học tập nhân dân. Nếu không có nhân dân thì Trung Quốc không thể đạt được kết quả như ngày nay. Nhân dân đã gánh vác nhiều hy sinh. đảm nhận nhiều khó khăn, họ có sự bao dung cao độ, cũng giúp cho Chính phủ khắc phục khó khăn, cùng với Chính phủ đi tới thành công như ngày nay. Chính phủ và các chính quyền địa phương đã có những bước đi đúng đắn trong quá trình thực hiện cải cách kinh tế.

Sau khu gia nhập WTO, Trung Quốc trở thành thị trường rất lớn đối với các doanh nghiệp nước ngoài. Đây là thị trường có nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp phát triển. Ngoài nỗ lực của bản thân doanh nghiệp thì Chính phủ cũng cần hỗ trợ cho các doanh nghiệp. Chính phủ phải có chính sách hỗ trợ nhằm đảm bảo ưu thế phát triển của các doanh nghiệp Trung Quốc. Nhà nước đã có một số hỗ trợ cho doanh nghiệp như sau:

+ Hỗ trợ về giáo dục: các thành phố của Trung Quốc tập trung nhiều lao động nên việc nâng cao chất lượng lao động cũng là nhiệm vụ quan trọng. Nếu Trung Quốc nâng cao được chất lượng tại các thị trấn, thành phố nhỏ thì Trung Quốc sẽ có được một lực lượng lao động có trình độ cao, giá rẻ.

+ Hướng dẫn và định hướng cho các doanh nghiệp nhằm hạn chế việc đầu tư sai và không hiệu quả. Nhiều công ty đa quốc gia đã đầu tư vào Trung Quốc tạo ra sự cạnh tranh rất khốc liệt. các doanh nghiệp Trung Quốc đứng trước thách thức lớn phải hết sức cố gắng mới có thể cạnh tranh với công ty đa quốc gia. Trong quá trình cạnh tranh giúp các doanh nghiệp hiểu ra nhiều vấn đề mới. Trong xu thế các doanh nghiệp đầu tư vào Trung Quốc có giá thành thấp nhưng hiệu quả cao. điều đó cho các nhà doanh nghiệp thấy khả năng cạnh tranh cao của các doanh nghiệp đầu tư vào Trung Quốc. Vì vậy, các doanh nghiệp Trung Quốc phải nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.

Trong thời gian qua ở Trung Quốc có tình trạng các nhà đầu tư đổ xô vào đầu tư theo phong trào, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp làm cho giá bị đẩy xuống dưới giá thành, tác động xấu đến sự phát triển của các doanh nghiệp. Thời kỳ đầu, Chính phủ cũng khống chế để ngăn chặn không xảy ra tình trạng đó, nhưng Chính phủ đã không làm nổi. Ví dụ: về thị trường thép, Chính phủ nghĩ ra các biện pháp để khống chế, nhưng thép ở trong nước và thế giới vẫn phát triển mạnh. Chính phủ đưa ra các tiêu chí cho phép hoạt động như quy mô, môi trường, nhân lực… song cũng không đạt kết quả mong muốn. Sau đó, Chính phủ dùng biện pháp mạnh hơn là áp dụng biện pháp hành chính để ngăn chặn. Đối với những xí nghiệp đã ra đời thì không bắt đóng cửa vì

76

Page 77: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

ảnh hưởng đến công ăn việc làm, mà Chính phủ có biện pháp giúp đỡ để nâng cao hàm lượng công nghệ trong sản xuất tạo thế mạnh trong cạnh tranh.

Để đảm bảo tốc độ và định hướng phát triển, Trung Quốc đưa ra chiến lược phát triển trong giai đoạn mới:

1) Phát triển kinh tế mạng (trên một mạng lưới), điều chỉnh toàn bộ kết cấu nền kinh tế quốc dân.

2) Phát triển trung tâm công nghệ cao.

Lực lượng lao động dồi dào không còn được coi là ưu thế. Công nghệ đã trở thành nhân tố hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. Vì vậy, Trung Quốc cần có chiến lược phát triển khoa học công nghệ.

3) Thúc đẩy việc tái sử dụng lao động, giải quyết công ăn việc làm.

Chiến lược của Trung Quốc trong năm 2004 là tiếp tục phát triển, tiếp thu khoa học tiên tiến của nước ngoài và phát triển ra nước ngoài. Mặt khác, Trung Quốc chú trọng vào phát triển bền vững. Trước đây, miền Duyên Hải tương đối phát triển, sau Trung Quốc chú ý phát triển đồng đều hơn nên có sự điều chỉnh phát triển từ Đông sang Tây.

4. Khuyến khích và đối xử bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp

Ở Trung Quốc, doanh nghiệp được quyền kinh doanh những điều pháp luật không cấm, trách nhiệm của Chính phủ chỉ là thu thuế, nếu có cơ sở kinh doanh đi vào hoạt động phải nộp thuế cho Nhà nước. Chính phủ chỉ can thiệp vào những doanh nghiệp nhà nước với tư cách là chủ sở hữu. Vi phạm của các doanh nghiệp tư nhân chủ yếu là trốn lậu thuế như lập hoá đơn giả, kê khai không đủ về doanh thu… Để kiểm soát vấn đề này, Chính phủ đã thành lập các công ty kiểm toán và các công ty này hiện nay phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về các kết quả kiểm toán của mình. Đối với doanh nghiệp, cũng đã quy định rất rõ ngoài giám đốc là người chịu trách nhiệm cao nhất, kế toán trưởng cũng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về các báo cáo hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chính phủ không can thiệp vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nếu doanh nghiệp hoạt động tốt, nộp thuế nhiều thì được biểu dương.

Các doanh nghiệp trong nước, các doanh nghiệp nước ngoài được phép cạnh tranh bình đẳng với nhau. Các chính sách hỗ trợ thường áp dụng đối với doanh nghiệp có đủ điều kiện được hỗ trợ mà không phân biệt loại hình doanh nghiệp cũng như hình thức sở hữu. Chính phủ Trung Quốc không ngăn cấm các doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài, vấn đề là do thị trường quyết định.

Tuy nhiên, có một số lĩnh vực kinh doanh bị Nhà nước hạn chế hoặc phải tuân thủ những điều kiện nhất định: ví dụ, sản xuất dược liệu và thiết bị chữa bệnh, thực phẩm… cần phải đáp ứng những điều kiện kinh doanh cụ thể như điều kiện về môi trường, điều kiện về mặt bằng, điều kiện về vệ sinh, v.v… đây là những quy định cụ thể mà khi đã tham gia vào đó thì phải đáp ứng được các yêu cầu, điều kiện đó. Ngoài những quy định chung của Nhà nước, các doanh nghiệp Trung Quốc được quyền áp dụng những biện pháp phù hợp để khuyến khích nhân viên của mình nâng cao hiệu

77

Page 78: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

quả kinh doanh của doanh nghiệp.

Trung Quốc vẫn tiếp tục cải cách doanh nghiệp nhà nước theo mô hình sở hữu hỗn hợp và mô hình công ty. Trước khi đầu tư phải có bàn bạc cụ thể về mô hình hoạt động, hiêu quả sử dụng vốn, lợi nhuận và vai trò của chủ sở hữu. Hiện nay, Chính phủ đã giải quyết xong vấn đề sở hữu. Các công ty tư nhân, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài có quyền tham gia cổ phần vào doanh nghiệp nhà nước. Trong điều tra 4.000 doanh nghiệp thì mô hình hỗn hợp chiếm tới 70%, trong đó 2/3 có nhiều loại hình tham gia. Tổng số vốn đầu tư đã lên tới 10.000 tỷ nhân dân tệ, trong đó 75% là vốn của Nhà nước và còn lại là vốn ngoài Nhà nước. Đã có ½ doanh nghiệp nhà nước chuyển sang hình thức hỗn hợp và đây là mô hình của các doanh nghiệp nhà nước trong tương lai. Công ty tư nhân không nên lạm dụng quá nhiều ưu ái của Chính phủ, cũng không nên để Chính phủ can thiệp sâu vào công việc kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp nhà nước cũng vậy. Tuy nhiên, Chính phủ phải khống chế và điều tiết nền kinh tế vĩ mô ở mức độ nhất định, và phải đảm bảo an ninh kinh tế. Vì vậy, Trung Quốc duy trì khoảng 140 doanh nghiệp nhà nước lớn, không cho phép các nhà đầu tư khác tham gia. Ví dụ, trong lĩnh vực sản xuất máy bay thì tư nhân sẽ rất khó được phép tham gia chỉ doanh nghiệp nhà nước mới được tham gia. Cho nên, việc chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước phải căn cứ vào ngành nghề và nhu cầu của thị trường, điều kiện thực tế.

Chuyển đổi từ doanh nghiệp nhà nước sang doanh nghiệp dân doanh cũng là một hướng phát triển đang được thực hiện tại Trung Quốc. Vấn đề quan trọng của doanh nghiệp không phải là chủ sở hữu mà chủ yếu là cơ chế hoạt động. Một doanh nghiệp hoạt động tốt điều quan trọng là doanh nghiệp đó có đủ tài nguyên, tiền vốn và người quản lý tốt. Một giám đốc không có năng lực dù có tiền vốn, các điều kiện nhưng cũng khó có thể phát triển. Sự phát triển của các doanh nghiệp là sự cạnh tranh công bằng giữa các giám đốc. Các doanh nghiệp dựa trên điều kiện và yêu cầu của thị trường để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh.

Nếu can thiệp của Chính phủ với doanh nghiệp nhà nước ít và chỉ định hướng thì những doanh nghiệp này hoạt động như doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Việc chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước sang doanh nghiệp dân doanh thì quan trọng là ngành đó, lĩnh vực đó có thể chuyển sang được không, các yêu cầu khác có đáp ứng được không.

Quan điểm của Trung Quốc là không phải tất cả các doanh nghiệp nhà nước chuyển sang doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều có hiệu quả mà cơ bản là do cơ chế, chính sách quản lý doanh nghiệp quyết định. Quản lý doanh nghiệp dân doanh cũng chỉ có một số quốc gia tốt còn số không tốt như châu Phi. Theo nhiều nhà kinh tế Trung Quốc thì vấn đề sở hữu không phải là vấn đề chủ chốt, quyết định hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Quan hệ giữa doanh nghiệp với Chính phủ thì công ty nào cũng có, các doanh nghiệp cần tranh thủ sự ủng hộ của Chính phủ để có được điều kiện kinh doanh thuận lợi hơn. Bất kỳ công ty quốc doanh, nước ngoài hay tư nhân đều có các văn phòng, và nhiệm vụ chủ yếu của văn phòng trong các công ty là lobby. Ngoài ra, tất cả các tập đoàn và công ty lớn đều thành lập một bộ phận chuyên trách để thực hiện nhiệm vụ đó.

78

Page 79: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

Doanh nghiệp dân doanh phát triển mạnh trong những năm gần đây. Chính phủ Trung Quốc đã có những biện pháp khuyến khích, hướng dẫn, trợ giúp cho khu vực này phát triển.

Các doanh nghiệp trẻ được hỗ trợ khởi nghiệp, miễn thuế 3 năm, miễn phí bảo vệ môi trường, và một số chính sách hỗ trợ tiền vốn. Nhà nước xem xét lĩnh vực đó có tiềm năng phát triển không, nếu có thì sẽ hỗ trợ.

Khi gia nhập WTO, doanh nghiệp Trung Quốc gặp rất nhiều khó khăn do quy mô nhỏ, vốn ít, công nghệ lạc hậu… làm thế nào để khắc phục được những khó khăn đó khi tham gia quá trình toàn cầu hoá. Có những vấn đề Chính phủ có thể hỗ trợ, có những vấn đề Chính phủ không thể hỗ trợ. Ví dụ như vấn đề vốn, muốn có vốn hoạt động, các doanh nghiệp phát huy động vốn trên thị trường tài chính xã hội chứ Nhà nước không cung cấp cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp Trung Quốc phần lớn quy mô nhỏ, thiết bị lạc hậu những vẫn phải tự mình vươn lên cạnh tranh để tồn tại trong quá trình gia nhập WTO. Các doanh nghiệp phát triển từ nhỏ đến lớn, không ỷ lại, dựa vào Chính phủ, một số doanh nghiệp tự lực vươn lên và khi họ đã khẳng định được vị thế của mình thì Chính phủ đã chú ý đến và có những cơ chế thích hợp để hỗ trợ. Các doanh nghiệp phải cạnh tranh bình đẳng trên thị trường và phải phấn đấu vượt qua các doanh nghiệp khác. Những năm gần đây, nhiều doanh nghiệp nhỏ có xu hướng hợp nhất với nhau để có quy mô lớn hơn nhằm tăng sức cạnh tranh trên thị trường.

Mặc dù áp dụng chính sách theo cơ chế thị trường nhưng trong quá trình phát triển, Trung Quốc cũng đã có những biện pháp mạnh như ra lệnh đóng cửa một số nhà máy: nhà máy sợi Thượng Hải, một số lò than tư nhân… Nhưng những quyết định đó đã gây ra hậu quả hết sức nặng nề: hàng loạt công nhân mất việc, chính quyền địa phương cũng đã phải tạo mọi điều kiện để giải quyết việc làm cho họ.

5. Chính sách bảo vệ môi trường

Gần đây, Chính phủ Trung Quốc đã có chính sách ưu đãi và tạo điều kiện đối với doanh nghiệp có chiến lược bảo vệ môi trường và kiên quyết xử lý các doanh nghiệp vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường.

Bảo vệ môi trường cũng là một trong những vấn đề cấp bách trong việc phát triển doanh nghiệp ở Trung Quốc. Nâng cao chất lượng bảo vệ môi trường thì sẽ nâng cao chất lượng sản phẩm. Trên thực tế vấn đề môi trường bắt buộc các nhà doanh nghiệp phải nghĩ tới. Nếu trong giai đoạn phát triển ban đầu còn thô sơ của thị trường, nếu gây ảnh hưởng đến môi trường thì có thể vẫn có lợi nhuận. Hiện nay coi vấn đề bảo vệ môi trường là rất quan trọng. Trước đây Trung Quốc chỉ có chính sách nhưng chưa có ai giám sát, thực hiện chính sách đó. Chính phủ thì mỗi năm kiểm tra một lần, nếu doanh nghiệp nào vi phạm về môi trường thì phạt, nhưng hiện nay đã khác. Chính sách vẫn như cũ nhưng đã đưa ra được những quy định cụ thể về bảo vệ môi trường. Nhưng điều quan trong hơn là nhân dân nhận thức đối với môi trường đã được nâng cao. Nhân dân đưa ra những yêu cầu về bảo vệ môi trường rất nghiêm ngặt. Nếu doanh nghiệp đóng trên địa bàn mà không duy trì được môi trường thì người dân có ý kiến phản đối ngay. Do vậy, vấn đề môi trường ở Trung Quốc hiện nay là vấn đề của toàn dân.

79

Page 80: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

Từ năm 2004, nếu doanh nghiệp nào có chính sách bảo vệ môi trường tốt sẽ có chính sách ưu đãi thuế. Có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong vấn đề bảo vệ môi trường. Ví dụ, sản phẩm từ những doanh nghiệp gây ảnh hưởng đến môi trường lớn hơn sẽ không được người tiêu dùng ủng hộ. Trong hiệp hội các nhà doanh nghiệp có tổ chuyên giám sát việc bảo vệ môi trường và tổ này còn nghiên cứu tại sao các doanh nghiệp lại không thực hiện yêu cầu bảo vệ môi trường. Tổ này còn đưa ra những tiêu chuẩn cao hơn tiêu chuẩn nhà nước đặt ra nhưng sau đó hạ thấp xuống. Cùng hiệp hội cũng đã phối hợp với các trường đại học để đào tạo về bảo vệ môi trường. Hiện nay đời sống đã được nâng cao nên người dân cũng ý thức được vấn đề môi trường. Ở những thành phố nhỏ thì vấn đề môi trường vẫn là cấp bách. Trung Quốc có nhiều biện pháp để đáp ứng yêu cầu về bảo vệ môi trường. Ngoài ra các hiệp hội cùng giúp đỡ các doanh nghiệp tiếp cận với cơ quan chính phủ khi đăng ký hỗ trợ vốn về bảo vệ môi trường. Do đó, chính sách của Nhà nước Trung Quốc đã có tác động tới ý thức của mọi người, và cả doanh nghiệp lẫn người dân đều chú ý đến các biện pháp bảo vệ môi trường. Hiện nay, nhiều người dân Trung Quốc có nhiều tiền chọn những nơi có núi, sông để sống, còn những nơi ô nhiễm môi trường họ không ở. Tuy nhiên, phải lưu ý rằng vấn đề bảo vệ môi trường đã được chú ý ở các thành phố lớn, các doanh nghiệp lớn, còn các vùng xa xôi, các doanh nghiệp nhỏ thì vấn đề về môi trường còn chưa được chú ý đúng mức.

B. MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA TRUNG QUỐC ĐỐI VỚI VIỆT NAM VỀ QUẢN LÝ ĐIỀU HÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH DOANH

Trong điều kiện nhiều khó khăn và áp lực lớn về mọi mặt, Trung Quốc vẫn từng bước vượt qua và đạt được sự tăng trưởng, phát triển đáng khâm phục. Quan hội thảo về kinh nghiệm quản lý điều hành và phát triển kinh doanh của Trung Quốc, bước đầu có thể rút ra được những bài học sau cho Việt Nam.

1. Việc quản lý điều hành và phát triển kinh doanh chỉ có thể đạt kết quả mong muốn nếu như nó được xây dựng, hình thành một cách bài bản, có tính chiến lược, có sự tham gia tích cực và phối hợp từ cả 2 phía: Phía Nhà nước và phía các doanh nghiệp

Có thể nói rằng đây là kinh nghiệm sâu sắc nhất của Trung Quốc. Để phát triển được thì phải học hỏi, phải có tầm nhìn xa, trông rộng và phải đổi mới tư duy. Đổi mới triệt để cả từ phía Nhà nước cũng như từ phía các doanh nghiệp. Quản lý điều hành và phát triển kinh doanh không được nóng vội, phải tiến hành từng bước vững chắc theo một lộ trình có mục tiêu cụ thể. Trong điều kiện như vậy thì tuy bước nhỏ (từng bước cải thiện và học hỏi), nhưng đổi mới nhanh thì cũng sẽ phát triển nhanh.

Trong đổi mới điều hành và phát triển kinh doanh, Nhà nước có vai trò tạo ra các cơ chế khuyến khích và thúc đẩy các doanh nghiệp dám đổi mới, giúp cho các doanh nghiệp học cách tiếp cận mới trong kinh doanh. Các doanh nghiệp phải tìm hiểu và biết cách khai thác những thuận lợi mà Nhà nước đã tạo ra cho các doanh nghiệp trong từng thời kỳ, trên cơ sở đó các doanh nghiệp tự do phát triển, tự tìm con đường phát triển riêng có hiệu quả nhất. Sau mỗi một giai đoạn nhất định các quy định đổi mới quản lý điều hành và phát triển kinh doanh sẽ được tổng kết, kể cả từ phía doanh nghiệp và từ phía Nhà nước, sau đó Nhà nước sẽ có sự điều chỉnh cho phù hợp với

80

Page 81: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

định hướng chung của cả quốc gia. Theo các chuyên gia Trung Quốc thì Chính phủ Trung Quốc quan niệm rằng chỉ có khi nào dân giàu thì nước mới mạnh, các doanh nghiệp có phát triển thì đất nứôc mới phát triển được. Sự đổi mới trong quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp còn được thể hiện trong cách thức và phương pháp làm việc với các doanh nghiệp, mục tiêu là tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động trong khuôn khổ pháp luật quy định.

2. Tạo ra môi trường hoạt động thuận lợi và cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế

Tăng cường cải cách doanh nghiệp nhà nước và khuyến khích phát triển các doanh nghiệp dân doanh. Không phân biệt đối xử, có các chính sách, biện pháp cụ thể nhằm giúp các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh, nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp.

Kinh nghiệm của Trung Quốc trong quản lý điều hành và phát triển kinh doanh là chính sách Nhà nước quản lý các doanh nghiệp phải rất cụ thể và bảo đảm tính bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Chính phủ Trung Quốc khuyến cáo các doanh nghiệp phải nhận thức rõ được xu thế hội nhập và tất yếu và phải biết chủ động tận dụng ưu thế và những điều kiện hiện có của mình để giành ưu thế trong kinh doanh, mỗi loại hình doanh nghiệp đều có lợi thế và bất lợi của mình, nếu biết cách tận dụng và khai thác lợi thế của loại hình doanh nghiệp mình thì vẫn thành công và phát triển. Về phía chính sách nhà nước cần đối xử bình đẳng giữa các doanh nghiệp nhằm tạo sức ép buộc các doanh nghiệp phải tự mình đổi mới vươn lên, nếu không thì sẽ không đủ sức cạnh tranh và tồn tại trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hoá kinh tế.

Trung Quốc hiện nay có hai loại vấn đề lớn trong phát triển doanh nghiệp, một là cải cách doanh nghiệp nhà nước, hai là phát triển doanh nghiệp dân doanh. Trong đó, khó khăn lớn hơn cả là cải cách doanh nghiệp nhà nước, vì không chỉ liên quan về quan điểm, đường lối, mà cả về kỹ thuật, nghiệp vụ. Trung Quốc và Việt Nam đều đang đứng trước khó khăn đó. Theo Đại hội XVI, Trung Quốc chủ trương “kiên trì và hoàn thiện chế độ kinh tế cơ bản lấy chế độ công hữu làm chủ thể, kinh tế nhiều loại sở hữu cùng phát triển”.

Về cải cách doanh nghiệp nhà nước, Trung Quốc coi việc giảm tỷ trọng doanh nghiệp nhà nước trong GDP và trong giá trị tổng sản phẩm công nghiệp nhưng vẫn giữ được vị trí chi phối các ngành công nghiệp nặng, khoa học kỹ thuật mũi nhọn, cơ sở hạ tầng và dịch vụ then chốt của nền kinh tế là một thành tựu trong điều chỉnh cơ cấu chiến lược của cải cách doanh nghiệp nhà nước phù hợp với đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường mang đặc sắc Trung Quốc. Đây là kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam.

Về phát triển doanh nghiệp dân doanh, Trung Quốc cũng đang giải quyết nhiều biện pháp để thúc đẩy kinh tế dân doanh, theo hướng “khuyến khích, trợ giúp, hướng dẫn”, đòi hỏi các cơ quan nhà nước đổi mới cung cách làm việc, sát doanh nghiệp và phục vụ doanh nghiệp.

81

Page 82: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

3. Khuyến khích liên kết kinh tế giữa các loại hình doanh nghiệp thông qua hình thành, phát triển các tập đoàn kinh doanh và nâng cao vai trò của các hiệp hội doanh nghiệp là giải pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả quản lý điều hành và phát triển kinh doanh

Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy rằng, việc thành lập các tập đoàn kinh doanh, một sự đổi mới về thể chế tổ chức doanh nghiệp, tạo ra các mối liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp là một giải pháp hữu hiệu để tăng cường sự cạnh tranh của các thành viên tập đoàn cũng như toàn tập đoàn nói chung. Tập đoàn kinh doanh được coi là một tổ hợp kinh doanh bao gồm nhiều doanh nghiệp có liên quan với nhau trên cơ sở mối liên kết phổ biến là “Công ty mẹ - Công ty con”. Công ty mẹ hoạt động như là hạt nhân của tập đoàn, còn các công ty con chia sẻ các quyền dân sự có liên quan và chịu trách nhiệm dân sự phát sinh theo các hợp đồng ký kết giữa các thành viên và được pháp luật công nhận. Các công ty trực thuộc hoặc đơn vị không phải là pháp nhân sẽ không phải là các thành viên độc lập của tập đoàn.

Tập đoàn kinh doanh có những tác dụng rất quan trọng trong nền kinh tế Trung Quốc trong thời gian qua. Các tập đoàn là trụ cột của nền kinh tế quốc dân; góp phàn cải cách nhân sự, cơ cấu doanh nghiệp; đỡ đầu và là động lực thúc đẩy hoạt động cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa; thúc đẩy cải cách kỹ thuật; thực hiện các chính sách vĩ mô có hiệu quả; và cuối cùng là góp phần quan trọng trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của mỗi ngành hàng cũng như của cả quốc gia. Đó cũng là kinh nghiệm tốt cho Việt Nam trong việc thực hiện chủ trương thành lập các tập đoàn kinh tế.

Một vấn đề nữa có thể học tập được từ kinh nghiệm của Trung Quốc đó là cơ chế hoạt động và phương thức phát huy vai trò của hiệp hội doanh nghiệp. Với một cơ cấu tổ chức lớn và được chia theo nghề nghiệp, theo ngành nghề kinh doanh và theo khu vực địa lý, hiệp hội các doanh nghiệp của Trung Quốc đã hỗ trợ rất tích cực cho các doanh nghiệp phát triển và phát huy vai trò cầu nối giữa doanh nghiệp và Nhà nước, tham gia trong quá trình quản lý doanh nghiệp về kinh tế và hoạch định chính sách của Nhà nước. Có thể nói họ đã có trình độ tổ chức rất tốt và đã thành công trong vai trò của mình. Hiệp hội doanh nghiệp phát triển đem lại nhiều lợi ích cho cả doanh nghiệp và Nhà nước, nó tạo diễn đàn có tổ chức cho các doanh nghiệp nói lên tiếng nói của mình và Nhà nước cũng hiểu các doanh nghiệp hơn, cập nhật thông tin trực tiếp từ các doanh nghiệp tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình giải quyết những mâu thuẫn và bất đồng nảy sinh giữa các doanh nghiệp và Nhà nước, tạo điều kiện hợp tác chặt chẽ hơn và quan trọng là hình thành giới chủ doanh nghiệp có trình độ và có văn hoá kinh doanh. Đó cũng là nguồn nhân lực rất quan trọng của một quốc gia.

4. Chăm lo xây dựng đội ngũ các nhà doanh nghiệp, doanh nhân mạnh, có ý chí và nghị lực vươn lên là yếu tố quyết định cho việc đạt được thành công trong quản lý điều hành và phát triển kinh doanh

Chính phủ Trung Quốc coi trọng khu vực doanh nghiệp và tôn vinh các nhà

82

Page 83: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

doanh nghiệp và doanh nhân giỏi. Tuy nhiên, không chủ trương bảo hộ và bao cấp cho doanh nghiệp. Nhà nước Trung Quốc đã tạo sức ép các doanh nghiệp phải có phương hướng phát triển đúng đắn, phù hợp và góp phần vào sự phát triển chung của quốc gia, buộc các doanh nghiệp phải biết cách khai thác những thuận lợi của thị trường trong nước và điều kiện mà Nhà nước tạo cho, mặt khác cũng phải quan tâm tới việc tạo điều kiện để tái sử dụng lao động, tạo công ăn việc làm và có nghĩa vụ trách nhiệm với Nhà nước.

Trong quản lý điều hành và phát triển kinh doanh, doanh nghiệp phải nhận thức được rằng; bản thân mỗi doanh nghiệp tự quyết định chiến lược và hướng phát triển của mình và họ được tự do phát triển nhưng không tách rời sự quản lý chung của Nhà nước. Nhà nước cùng với các doanh nghiệp thực hiện sự đổi mới này từng bước một. Với tiêu chí đặt ra cho các xí nghiệp trong quá trình phát triển: đó là mục tiêu mình muốn vươn tới cái gì, khả năng của mình như thế nào, luật pháp cho phép mình làm gì. Ba yếu tố này có giao điểm chung là tiêu điểm có thể xây dựng chiến lược của doanh nghiệp.

Vai trò của người chủ doanh nghiệp là rất quan trọng trong sự thành công của doanh nghiệp. Các nhà doanh nghiệp Trung Quốc cho rằng, muốn đổi mới thì phải học hỏi, học hỏi trở thành nhu cầu của các doanh nghiệp. Toàn dân học hỏi, không chỉ những người lao động trực tiếp lao động sản xuất, lao động kỹ thuật cao mà cả đội ngũ lãnh đạo của doanh nghiệp. Theo báo cáo của hai bà chuyên gia Trung Quốc, Trần Anh và Trần Khiết trong hội thảo ngày 14 – 15 tháng 4 năm 2002 tại Hà Nội, đến nay vẫn có tới 60% các nhà quản lý doanh nghiệp theo học các khoá đào tạo để trau dồi thêm kiến thức. Nhờ vậy, các doanh nghiệp Trung Quốc đã có năng lực quản lý và tổ chức mang tính hiện đại và thị trường hơn. Điều này được thể hiện ngay trong mục tiêu chiến lược của họ đã đề ra “khiêm tốn, lặng lẽ và học hỏi” có lẽ đó là một trong những bí quyết thành công của họ trong quản lý điều hành và phát triển doanh nghiệp trong thời gian qua.

5. Thu hút nhân tài, chăm lo xây dựng văn hoá doanh nghiệp là yếu tố không thể thiếu tạo nên thành công trong quản lý điều hành và phát triển doanh nghiệp

Kinh nghiệm Trung Quốc cho thấy muốn nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, việc thu hút nhân tài là vô cùng quan trọng. Những doanh nghiệp thành công, cạnh tranh tốt trên thị trường đều là các doanh nghiệp làm tốt khâu này. Sau khi thu hút nhân tài, việc giữ các nhân tài làm việc lâu dài gắn bó với doanh nghiệp cũng là một vấn đề. Theo kinh nghiệm của Trung Quốc, việc xây dựng văn hoá dân chủ và liên tục mở rộng và tạo cơ sở cho nhân tài phát triển cũng là một biện pháp quan trọng. Ngoài việc trả lương xứng đáng, thì địa vị chức vụ cũng đóng một vai trò đáng kể khuyến khích nhân tài cống hiến sức lao động sáng tạo cho doanh nghiệp. Hơn nữa, không thể không kể đến vai trò của mối quan hệ giữa nhân tài và chủ doanh nghiệp. Các doanh nghiệp phát triển tốt thường là những doanh nghiệp coi trọng ý kiến của nhân viên, đặc biệt là ý kiến của các nhân tài. Hàng năm, chủ doanh nghiệp đều tham khảo ý kiến nhân viên và công nhân trong các hoạt động của doanh nghiệp.

83

Page 84: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

Như vậy, có thể thấy rằng tiền lương, tiền thưởng cũng quan trọng nhưng chưa phải là nhân tố quan trọng nhất đối với họ mà có lẽ văn hoá và nếp sống của doanh nghiệp mới là nhân tố quan trọng nhất. Trong môi trường văn hoá doanh nghiệp lành mạnh, nhân viên được tôn trọng, họ thấy sự cống hiến của mình có ích. Đây cũng là một kinh nghiệm trong quản lý điều hành và phát triển kinh doanh mà các doanh nghiệp Việt Nam cần học hỏi trong quá trình học hỏi của mình.

6. Nhận thức rõ những khó khăn, thuận lợi, chủ động đề ra các giải pháp phù hợp để hội nhập kinh tế quốc tế là rất cần thiết với cả Nhà nước lẫn Chính phủ

Qua việc gia nhập WTO của Trung Quốc, Việt Nam cũng có thể học hỏi được cách ứng xử đối với những thách thức mới, cũng như cách nắm bắt những cơ hội mới. Thách thức gia nhập WTO đối với Trung Quốc không ít, đó là: xí nghiệp Trung Quốc đa số quy mô nhỏ, còn yếu kém về công nghệ; nhiều biện pháp bảo hộ nay bị xoá bỏ, phải cạnh tranh với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, v.v… Tuy nhiên, gia nhập WTO cũng tạo ra nhiều cơ hội mới cho doanh nghiệp, đó là khả năng mở rộng thị trường, khả năng tiếp cận với công nghệ, kỹ thuật mới, kể cả những kỹ thuật quản lý mới. Khi Trung Quốc gia nhập WTO, một số ngành công nghiệp như công nghiệp ôtô, viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm đang được mở cửa cho nước ngoài, sẽ có cạnh tranh gay gắt giữa xí nghiệp quốc hữu và các hãng nước ngoài và hàng hoá nhập khẩu. Trung Quốc đã đề ra những biện pháp giải quyết là:

- Đổi mới tư duy của xí nghiệp cho thích ứng với kinh tế thị trường, thay đổi cơ chế quản lý thích hợp với tình hình mới.

- Đặc biệt quan tâm thu hút nhân tài, coi nhân tài là yếu tố quyết định cho sự phát triển của xí nghiệp. Điều quan trọng là trong điều kiện toàn cầu hoá, tận dụng cơ hội sử dụng nhân tài của thiên hạ.

- Thực hiện các biện pháp liên kết, hợp tác giữa các xí nghiệp trong nước, với các xí nghiệp nước ngoài. Thế giới đã có nhiều kinh nghiệm có thể áp dụng như: đưa công nghệ cao ra nước ngoài và sử dụng nhân công rẻ ở nước đó, tạo khả năng cạnh tranh.

- Chú trọng phát triển thị trường, không những khai thức thị trường nước ngoài mà còn tìm cách tận dụng tối đa thị trường trong nước.

- Chính phủ có những trợ giúp cần thiết.

Theo các chuyên gia Trung Quốc thì sau khi gia nhập WTO, hầu hết các doanh nghiệp Trung Quốc đã đứng vững được và phát triển tốt. Tình hình tốt đẹp hơn nhiều so với dự đoán của các chuyên gia trước đó. Điều này góp phần củng cố niềm tin cho các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

84

Page 85: Tim hieu vai tro của Nha nuoc

1. PGS. TS. Phương Ngọc Thạch: Vai trò của Nhà nước trong phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong những năm qua; Tạp chí Phát triển kinh tế, số 175 (tháng 5/2005).

2. TS. Đinh Văn Ân: Xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; Tạp chí Quản lý Kinh tế, số 1/2005.

3. GS. TS. Chu Văn Cấp: Phương pháp luận nghiên cứu thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Tạp chí Lý luận Chính trị, tháng 9/2004.

4. TS. Nguyễn Quán: Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường (bài viết cho chuyên đề).

5. TS. Đỗ Như Khuê: Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp (bài viết cho chuyên đề).

6. GS. TSKH. Vũ Huy Từ: Một số giải pháp tăng cường quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp dân doanh; Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 9/2003.

7. Phạm Đức Trung: Một số giải pháp đổi mới quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước; Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 11/2003.

8. GS. TS. Hoàng Ngọc Hoà: Quản lý nhà nước về tài chính - tiền tệ trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta: Thực trạng và một số kiến nghị; Tạp chí Lý luận Chính trị, tháng 10/2004.

9. Vũ Ngọc Kích (Chuyên viên chính Vụ Đất đai - Bộ Tài nguyên và Môi trường): Một số vấn đề về quản lý nhà nước đối với đất đai (bài viết cho chuyên đề).

10. PGS. TS. Ngô Quang Minh: Quản lý nhà nước và phát triển thị trường thương mại nội địa theo mục tiêu CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế; Nguồn: www. Mot. gov.vn (Bộ Thương mại).

11. TS. Phạm Quốc Trung: Điều tiết của Nhà nước trong sự phát triển thị trường xuất khẩu ở Việt Nam hiện nay; Tạp chí Lý luận Chính trị, số 7/2004.

12. Nguyễn Ký: Những vấn đề cần quan tâm trong quản lý nhà nước về đất đai; Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 3/2004.

13. GS. TSKH. Lê Đình Thắng: Quản lý nhà nước về thị trường bất động sản; Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 4/2004.

14. ThS. Nguyễn Hoàng Hải: Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế đối ngoại trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế; Tạp chí Quản lý Nhà nước, số 4/2005.

15. Chính sách phát triển kinh tế: Kinh nghiệm và bài học của Trung Quốc, tập III, Nxb Giao thông vận tải, năm 2004.

Trung t©m Th«ng tin vµ dù b¸o Kinh tÕ - x· héi Quèc gia

85