Stress luôn tồn tại trong thế giới chúng ta dù rằng con ...
Transcript of Stress luôn tồn tại trong thế giới chúng ta dù rằng con ...
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƢỜNG CAO ĐẲNG THƢƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 1
Thƣ của Chủ tịch nƣớc TRƢƠNG TẤN SANG
Gửi ngành Giáo dục nhân dịp
KHAI GIẢNG NĂM HỌC MỚI
2013 - 2014 Hà Nội, ngày 28 tháng 8 năm 2013
ác thầy giáo, cô giáo, cán bộ, công chức, viên chức ngành Giáo dục, các bậc phụ
huynh và các em học sinh, sinh viên cả nước thân mến!
Nhân dịp khai giảng năm học mới 2013 - 2014 và ngày “Toàn dân đưa trẻ đến trường”,
tôi thân ái gửi tới các thế hệ nhà giáo, cán bộ, công chức, viên chức ngành Giáo dục, các bậc
phụ huynh và các em học sinh, sinh viên trong cả nước lời chúc mừng tốt đẹp nhất.
Năm học 2012 - 2013, trong điều kiện còn nhiều khó khăn, các thầy giáo, cô giáo, các
em học sinh, sinh viên trong cả nước đã có nhiều cố gắng, nỗ lực phấn đấu đạt được nhiều
thành tích trong giảng dạy, học tập và rèn luyện; đặc biệt có nhiều tập thể, cá nhân điển hình
tiên tiến, các thầy giáo, cô giáo hết lòng vì học sinh thân yêu; các em học sinh nghèo ở vùng
sâu, vùng xa, vùng biên giới và hải đảo đã vượt khó vươn lên trong học tập; nhiều em học
sinh giỏi đạt các giải cao trong các kỳ thi Olympic quốc tế và khu vực làm rạng danh cho thế
hệ trẻ Việt Nam. Tôi nhiệt liệt biểu dương những nỗ lực, cố gắng và kết quả ngành Giáo dục
đạt được trong năm học vừa qua.
Năm học 2013 - 2014 là năm học đầu tiên triển khai thực hiện Kết luận của Hội nghị
Trung ương 6 (Khóa XI) về “Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu
cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế”. Ngành Giáo dục cần đổi mới mạnh mẽ công tác quản lý, chương
trình, phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập; quan tâm phát triển và
nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; đẩy mạnh thi đua “Dạy tốt
- Học tốt” để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở tất cả các cấp học.
Tôi đề nghị các cấp ủy Đảng, chính quyền, các tổ chức, đoàn thể, ngành Giáo dục, các
thầy cô giáo, các bậc phụ huynh và các em học sinh, sinh viên ghi nhớ và thực hiện tốt lời dạy
của Bác Hồ trong thư gửi các cán bộ, thầy cô giáo, công nhân viên, học sinh, sinh viên nhân
dịp đầu năm học mới, tháng 10/1968: “Giáo dục nhằm đào tạo những người kế tục sự nghiệp
cách mạng to lớn của Đảng và nhân dân ta, do đó, các ngành, các cấp Đảng và chính quyền
địa phương phải thật sự quan tâm hơn nữa đến sự nghiệp này, phải chăm sóc nhà trường về
mọi mặt, đẩy sự nghiệp giáo dục của ta lên những bước phát triển mới”; “Dù khó khăn đến
đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt, học tốt. Trên nền tảng giáo dục chính trị và lãnh đạo tư
tưởng tốt, phải phấn đấu nâng cao chất lượng văn hóa và chuyên môn nhằm thiết thực giải
quyết các vấn đề do cách mạng nước ta đề ra và trong một thời gian không xa, đạt những đỉnh
cao của khoa học và kỹ thuật”.
Chúc các cô giáo, thầy giáo, cán bộ, công chức, viên chức ngành Giáo dục và toàn thể
các em học sinh, sinh viên đạt được nhiều thành thích xuất sắc trong năm học mới. Chúc sự
nghiệp giáo dục ngày càng phát triển, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Chào thân ái Trƣơng Tấn Sang
C
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƢỜNG CAO ĐẲNG THƢƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 2
DIỄN VĂN KHAI GIẢNG cao đẳng khoá VII, TCCN khoá 37 và PHÁT ĐỘNG THI ĐUA
năm học 2013- 2014
Kính thƣa: - Quý vị đại biểu,
- Quý thầy cô giáo, cán bộ viên chức, - Các em học sinh sinh viên thân mến!
rong không khí hân hoan chào đón năm
học mới, hôm nay ngày 29/9/2013,
Trường Cao đẳng Thương mại long
trọng tổ chức lễ khai giảng cho các lớp cao đẳng
khóa VII, TCCN khóa 37 và phát động phong
trào thi đua năm học mới 2013-2014.
Thay mặt Đảng ủy, Ban Giám hiệu, Cán bộ
viên chức (CBVC) và học sinh, sinh viên
(HSSV) toàn trường, xin nhiệt liệt chào mừng
quý vị đại biểu, khách mời, các cơ quan thông
tấn báo chí, các nhà tài trợ, đơn vị liên kết đào
tạo, các trường bạn, quý thầy cô giáo đại diện
Đảng ủy, Ban Giám hiệu, Công đoàn cơ sở, các
phòng, khoa, bộ môn, trung tâm, cố vấn học tập,
đại diện HSSV các lớp đã dành thời gian về dự
buổi lễ . Sự có mặt của Quý vị đại biểu, quý vị
khách quý, các đơn vị bạn tại buổi lễ trang trọng
này là nguồn động viên to lớn đối với thầy và trò
Trường Cao đẳng Thương mại, đánh dấu sự
khởi đầu của một năm học mới tràn đầy niềm tin
và hy vọng vào những thắng lợi mới, vững chắc
hơn trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo của nhà
trường.
Đặc biệt, xin nhiệt liệt chào mừng và chúc
mừng gần 2.000 tân sinh viên cao đẳng khóa VII
và TCCN khóa 37. Sau thời gian tham gia thi
tuyển và xét tuyển; kể từ giờ phút này, các em
vinh dự trở thành HSSV của Trường Cao đẳng
Thương mại, một ngôi trường có bề dày truyền
thống, kinh nghiệm 40 năm đào tạo cán bộ cho
ngành và cho xã hội.
Kính thưa quý vị đại biểu, các thầy cô giáo
và các em HSSV thân mến! Năm học vừa qua
là năm học tiếp tục thực hiện Nghị quyết Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, là năm
học kỷ niệm 65 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh ra
lời kêu gọi thi đua ái quốc. Đối với trường ta
phong trào thi đua phát động ngay từ đầu năm
học nhằm lập thành tích chào mừng kỷ niệm 40
năm thành lập trường. Cán bộ, giảng viên, viên
chức và HSSV toàn trường đã đồng tâm, hiệp
lực thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm học. Một
số kết quả hoạt động nổi bật trong năm học vừa
qua đã được Hội nghị viên chức đánh giá về các
mặt công tác sau:
- Về công tác tuyển sinh: Công tác tuyển
sinh bậc cao đẳng chính quy và bồi dưỡng ngắn
hạn vượt chỉ tiêu kế hoạch Bộ giao. Quy trình
tuyển sinh được thực hiện nghiêm túc, đảm bảo
đầy đủ điều kiện để thí sinh an tâm thi tuyển.
Quá trình thi tuyển diễn ra an toàn, chất lượng;
công tác thanh tra, giám sát hiệu quả, không có
trường hợp nào vi phạm kỷ luật bị đình chỉ thi.
Công tác chấm thi được thực hiện theo đúng
Quy chế. Đặc biệt năm nay, Trường phối hợp
với Công ty cổ phần Đào tạo Du lịch Hoàng
Long triển khai chương trình đào tạo theo nhu
cầu xã hội cho trên 300 tân sinh viên cao đẳng
ngành Du lịch. Những sinh viên này được kiến
tập, thực tập tốt nghiệp tại hệ thống Du lịch
thuộc Hiệp hội Du lịch Việt Nam và khi ra
trường được bố trí việc làm.
- Công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học:
Thực hiện kế hoạch giờ giảng năm học 67.884
tiết; tăng 11.560 tiết so với năm học trước. Tỷ lệ
tăng: 20,5%. Ban hành kịp thời một số văn bản
phục vụ công tác quản lý và triển khai hoạt động
chuyên môn. Biên soạn và thẩm định 24 đề
T
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƢỜNG CAO ĐẲNG THƢƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 3
cương chi tiết học phần (ĐCCTHP) trình độ cao
đẳng; rà soát 70 ĐCCTHP, 2 bài thực hành, 4
bài giảng dùng chung; 4 chương trình đào tạo
bậc cao đẳng chất lượng cao và 8 chương trình
đào tạo mới, 12 giáo trình bậc cao đẳng. Phối
hợp tổ chức thành công Hội thảo khoa học quốc
tế, xuất bản 4 bản tin khoa học với nhiều bài viết
có nội dung phong phú và đa dạng, xúc tiến
quan hệ hợp tác với Trường Ngân hàng Thụy Sĩ
Á Châu về tổ chức đào tạo trực tuyến. Công bố
chuẩn đầu ra các ngành đào tạo mới, hoàn thành
67 bộ đề thi kết thúc học phần.
- Kết quả học tập, rèn luyện và tốt nghiệp: Tỷ lệ học sinh học tập khá, giỏi, xuất sắc là
40,1%, so với năm học trước tăng 9,6%; Tỷ lệ
học sinh tốt nghiệp bình quân 89,6%, so với
năm học trước tăng 3,7%; kết quả rèn luyện của
toàn trường loại “xuất sắc, tốt, khá” đạt 87,4%,
tăng 6,1% so với năm học trước. Thực hiện tốt
công tác GVCN/CVHT, đồng thời, triển khai
kịp thời những chủ trương của Nhà trường đến
HSSV hàng tháng.
- Xây dưng và phát triển đội ngũ: Công tác
tổ chức, quy hoạch, tuyển dụng, thực hiện chế
độ chính sách được thực hiện kịp thời, đúng quy
trình, có hiệu quả; đảm bảo số lượng và chất
lượng CBVC và đảm bảo đội ngũ cán bộ chủ
chốt đáp ứng nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của
nhà trường. Số lượng giảng viên có trình độ thạc
sỹ và NCS tăng đáng kể, hiện tại có 23 NCS
trong và ngoài nước. Số lượng HSSV trên 1
giảng viên giảm đáng kể so với năm học trước.
- Công tác đầu tư cơ sở vật chất: Nhà trường
trang bị phòng học, phòng thực hành, thư viện
điện tử, phần mềm đào tạo tín chỉ, phòng học
chất lượng cao, ngày càng hiện đại, đảm bảo cho
HSSV và giảng viên học tập, giảng dạy, nghiên
cứu và công tác. Đồng thời được UBND TP. Đà
Nẵng cấp 20 hecta đất tại xã Hòa Sơn để xây
dựng phát triển nhà trường lên mô hình trường
đại học trong tương lai, Huyện Bắc Trà My cấp
1,5 hecta đất tại huyện Bắc Trà My để xây dựng
nhà truyền thống nhân kỷ niệm 40 năm thành
lập trường.
- Về kết quả phong trào thi đua: Tập thể lao
động xuất sắc đạt tỷ lệ 80% tăng 26,6% so với
năm học trước. 5 tập thể được đề nghị tặng bằng
khen của Bộ Công Thương, so với năm học
trước tăng 03 tập thể. Danh hiệu chiến sỹ thi đua
cơ sở đạt 21,4%, tăng 9,8 % so với năm học
trước; đề nghị công nhận danh hiệu chiến sĩ thi
đua cấp Bộ cho 1 CBGV, tặng bằng khen cấp
Bộ cho 8 CBGV. Ngoài ra, do tích lũy thành
tích nên nhiều cá nhân được đề nghị Thủ tướng
Chính phủ tặng bằng khen, Chiến sỹ thi đua toàn
quốc … Đặc biệt được Chủ tịch UBND TP. Đà
Nẵng tặng Cờ thi đua xuất sắc thuộc Cụm thi
đua khối các trường cao đẳng công lập và 2 cá
nhân được Chủ tịch UBND TP. Đà Nẵng tặng
bằng khen; Công đoàn cơ sở và Đoàn thanh niên
được xếp loại thi đua xuất sắc năm học. Nhà
trường khen thưởng các cá nhân, tập thể đạt
thành tích nổi bật về công tác huấn luyện tự vệ,
học tập nâng cao trình độ, giáo viên chủ nhiệm,
cố vấn học tập, công tác biên soạn chương trình
đào tạo mới, giảng dạy kỹ năng mềm góp phần
mang lại nguồn thu cho Trường.
Kính thưa quý vị đại biểu, quý thầy cô giáo
và các em HSSV thân mến!
Phát huy thành tích đã đạt được trong năm
học vừa qua, năm học 2013-2014 có nhiều ý
nghĩa đối với trường ta, năm học tiếp tục thực
hiện chiến lược phát triển trường đến năm 2015,
tầm nhìn 2025, tổ chức đại lễ kỷ niệm 40 năm
thành lập trường và đón Huân chương Độc lập
hạng ba do Chủ tịch nước trao tặng nhằm tôn
vinh giá trị truyền thống và vinh danh những thế
hệ thầy cô giáo, CBVC, HSSV đã và đang học
tập, công tác tại trường. Vinh dự, tự hào và trách
nhiệm lớn lao đối với thế hệ thầy và trò chúng ta
ngày hôm nay được sống, cống hiến và trưởng
thành, tiếp tục tiếp bước cha anh viết nên những
trang truyền thống cho các thế hệ mai sau.
Để làm được việc đó, trong năm học này,
chúng ta tập trung thực hiện tốt những nhiệm vụ
và giải pháp sau đây:
1. Tiếp tục thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết
của Đảng, Nhà nước và nhiệm vụ trọng tâm của
ngành nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và
đào tạo.
2. Từng bước thực hiện thắng lợi chiến lược
phát triển trường đến năm 2015 và tầm nhìn
2025, chuẩn bị mọi nguồn lực để nâng cấp lên
trường đại học vào năm học 2015-2016.
3. Quyết tâm hoàn thành khối lượng trên
65.000 tiết giảng trên lớp, số tuần thực hành
thực tập theo kế hoạch đã được phê duyệt. Củng
cố, hoàn thiện và nâng cao các chuyên ngành đã
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƢỜNG CAO ĐẲNG THƢƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 4
và đang đào tạo, đào tạo song ngành và đào tạo
chất lượng cao, đào tạo theo nhu cầu xã hội.
Tiếp tục biên soạn giáo trình, đề cương chi tiết
học phần, tích cực triển khai công tác NCKH
trong CBGV và HSSV, phối hợp tham gia hội
thảo khoa học quốc tế với Trường Đại học
Thương mại.
4. Tổ chức quản lý chặt chẽ quá trình đào tạo,
đặc biệt tăng cường công tác quản lý giảng dạy,
quản lý học tập, thực hiện nghiêm quy chế thi,
kiểm tra và đánh giá, làm tốt công tác khảo thí
và đảm bảo chất lượng, bảo đảm chuẩn đầu ra
như đã công bố, nói không với tiêu cực trong thi
cử và bệnh thành tích trong giáo dục. Tiếp tục
mở rộng quan hệ hợp tác với các cơ sở đào tạo,
các doanh nghiệp và tổ chức quốc tế có uy tín.
5. Thực hiện kết quả quy hoạch cán bộ để bổ
nhiệm cán bộ cấp trường, cấp phòng, khoa bộ
môn thuộc trường và thuộc khoa đúng quy định,
đáp ứng kịp thời công tác cán bộ theo yêu cầu
nhiệm vụ mới của nhà trường, tích cực tuyển
dụng bổ sung đội ngũ, đặc biệt quan tâm nâng
cao chất lượng đội ngũ, nâng cao trình độ chính
trị, chuyên môn, nhất là trình độ thạc sỹ, tiến sỹ,
phấn đấu đến năm 2015 đạt trên 90% giảng viên
có trình độ thạc sỹ, trong đó từ 10% đến 20% có
trình độ tiến sỹ, đáp ứng đề án nâng cấp trường
lên trường đại học.
6. Quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực tài chính, tăng cường hoạt động có thu nhằm
đảm bảo đời sống và thu nhập cho CBVC đồng
thời phục vụ đầu tư, xây dựng và phát triển
trường.
7. Tổ chức các hoạt động thi đua lập thành
tích kỷ niệm 40 năm thành lập trường; đồng thời
xây dựng tiêu chí thi đua và triển khai kế hoạch
thi đua theo đợt với tư cách là đơn vị Cụm
trưởng của Cụm thi đua khối các trường cao
đẳng thuộc các Bộ, ngành trong TP. Đà Nẵng.
Kính thưa quý vị đại biểu, quý thầy cô giáo!
Nhân dịp khai giảng năm học mới, thay mặt lãnh
đạo, CBVC nhà trường, tôi có vài lời gửi đến tân
học sinh sinh viên khóa mới như sau:
Các em tân HSSV thân mến, trước hết thầy
xin chúc mừng các em đã vượt qua kỳ thi tuyển,
xét tuyển để trở thành HSSV của Trường Cao
đẳng Thương mại. Nhà trường đã tổ chức đón
tiếp, làm thủ tục nhập học và thực hiện tuần học
chính trị đầu khóa, các em đã được trang bị về
truyền thống xây dựng và phát triển của nhà
trường, các em được tư vấn về chuyên ngành
đào tạo mà các em đã chọn, được nghe phổ biến
nội quy quy chế đào tạo theo học chế tín chỉ,
mục tiêu kiến thức cần đạt được cho từng học kỳ
năm học... Đó là những kiến thức cơ bản đầu
tiên để giúp các em xác định động cơ, thái độ
học tập. Các em nên nhớ rằng, để có được tấm
bằng tốt nghiệp làm hành trang cho các em ra
trường lập thân, lập nghiệp hoặc học nâng cao
thì ngoài sự tận tụy của quý thầy cô, CBVC nhà
trường, sự hy sinh cao cả của cha mẹ là chưa đủ,
mà thực tế cho thấy để đạt được thành công trên
con đường học vấn là do chính sự phấn đấu nỗ
lực của các em quyết định. Mặc dù lần đầu tiên
sống xa gia đình, người thân, điều kiện ăn, ở còn
nhiều khó khăn, mới lạ, thầy hy vọng các em sẽ
nhanh chóng thích nghi với môi trường học tập,
sinh hoạt mới, phát huy tinh thần tự học, tự
nghiên cứu, cố gắng, chủ động chiếm lĩnh kiến
thức để đạt được những kết qủa cao nhất trong
học tập và rèn luyện và nghiên cứu khoa học để
không phụ lòng cha, mẹ, thầy cô, xứng đáng với
truyền thống của các thế hệ HSSV Trường Cao
đẳng Thương mại.
Kính thưa quý vị đại biểu, quý thầy cô giáo
và các em HSSV thân mến!
Trong không khí náo nức của ngày khai
giảng, tôi xin thay mặt lãnh đạo Nhà trường, các
thầy cô giáo và HSSV trong toàn trường, bày tỏ
lòng biết ơn sâu sắc đến sự quan tâm lãnh đạo
của Bộ Công Thương, Bộ Giáo dục và Đào tạo,
UBND TP. Đà Nẵng, các sở, ban ngành, các tổ
chức đoàn thể và các doanh nghiệp, các nhà tài
trợ và các trường bạn đã đồng hành với nhà
trường trong thời gian qua, giúp đỡ và tạo điều
kiện nhà trường hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Với niềm phấn khởi, tự hào và tin tƣởng,
tôi xin tuyên bố Khai giảng năm học 2013-
2014 và phát động thi đua trong toàn trƣờng.
Cuối cùng, tôi xin kính chúc các vị đại biểu, quý
vị khách quý, các thầy giáo, cô giáo, CBVC và
các em HSSV mạnh khỏe, đạt nhiều thắng lợi
trong giảng dạy, học tập và công tác.
Xin trân trọng cảm ơn!
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƢỜNG CAO ĐẲNG THƢƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 5
TRƢỜNG CAO ĐẲNG THƢƠNG MẠI
trong xu hƣớng
PHÁT TRIỂN và TỰ CHỦ
ThS. Nguyễn Tiền Tiến, Phó Hiệu trƣởng
Trong nền kinh tế thị trường mà Việt Nam đang hướng tới, tất cả các lĩnh vực của
nền kinh tế ít nhiều đều chịu ảnh hưởng của quy luật cạnh tranh. Giáo dục cũng không
nằm ngoài xu thế đó. Để tồn tại và phát triển, các cơ sở giáo dục đào tạo phải không
ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng. Định hướng của Ngành trong những năm tới là ngày
càng tăng cường tính tự chủ cho các cơ sở giáo dục đào tạo. Để không ngừng phát triển và
tăng cường tính tự chủ, cần phải thực hiện nhiều giải pháp, bài viết này chỉ giới hạn trong
việc trình bày định hướng đa dạng hóa loại hình đào tạo bằng các Chương trình bồi dưỡng
của Trường Cao đẳng Thương mại.
Quy định liên thông hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã và sẽ hạn chế loại hình
đào tạo liên thông. Tác động rõ rệt nhất của quy định này là số lượng thí sinh đăng ký thi
tuyển vào các trường cao đẳng nói chung giảm từ 1/3 đến 1/2 so với năm ngoái.
Ở trường ta, thí sinh đăng ký là 6.500 so với năm ngoái là 12.500. Tác động này dẫn
đến đào tạo liên thông ở trường ta năm nay dự kiến sẽ chỉ còn khoảng 1/3 so với quy mô
năm ngoái. Quy mô đào tạo liên thông giảm xuống tác động đến nhiều yếu tố, trong đó có
yếu tố thu nhập của nhà trường.
Ổn định và không ngừng nâng cao thu nhập là một chỉ tiêu Nghị quyết Hội nghị công
chức nhà trường hàng năm đề ra. Đạt được chỉ tiêu này mới ổn định cuộc sống của cán bộ
công chức, mới tạo ra môi trường an tâm, phấn khởi để làm việc lâu dài. Vì thế, trước khó
khăn về đào tạo liên thông đòi hỏi nhà trường phải tìm các loại hình đào tạo mới: Đa dạng
hóa loại hình đào tạo.
Để thực hiện mục tiêu này, trong thời gian gần đây, từ định hướng của nhà trường đã
triển khai xuống các khoa xây dựng các Chương trình bồi dưỡng mới. Bước đầu, đã xây
dựng được một số Chương trình bồi dưỡng mới: Bồi dưỡng Phân tích và Đầu tư chứng
khoán; Bồi dưỡng Báo cáo quyết toán thuế; Bồi dưỡng Nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập
khẩu; Bồi dưỡng Thực hành kế toán.
Tiếp đến, cần xem xét lại các chương trình bồi dưỡng hiện có, khảo sát nhanh nhu cầu
bồi dưỡng, từ đó tu chỉnh cho phù hợp; Chẳng hạn, tu chỉnh về nội dung và thời lượng các
Chương trình bồi dưỡng Du lịch, Chương trình bồi dưỡng Quản lý chợ...
Đồng thời, chúng ta còn có thể phát triển thêm nhiều Chương trình bồi dưỡng mới
nữa. Chẳng hạn, Chương trình bồi dưỡng Quản trị viên cấp thấp và cấp trung; Chương
trình bồi dưỡng Nhân viên bán hàng; Chương trình bồi dưỡng Marketing truyền thống và
Marketing điện tử (E.marketing); Chương trình bồi dưỡng Quy trình thực hành kế toán
(cho đối tượng SV mới ra trường, để có thể làm việc ngay các phần hành kế toán tại các
doanh nghiệp, doanh nghiệp không phải bồi dưỡng mất thời gian từ 1 đến 3 tháng như
thực tế hiện nay).
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƢỜNG CAO ĐẲNG THƢƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 6
Để xây dựng được các Chương trình bồi dưỡng mới, chúng ta cần phải thực hiện các
giải pháp sau đây:
1. Quán triệt quan điểm, định hướng của nhà trường đến các khoa và các giảng viên,
từ đó tạo đồng thuận và quyết tâm cao. Xây dựng cái mới bao giờ cũng khó khăn, thậm
chí thất bại, nhưng không vì thế mà chúng ta không làm, không hành động;
2. Lựa chọn những giảng viên lâu năm, có kiến thức và kinh nghiệm, tạo thành một
nhóm xây dựng Chương trình bồi dưỡng. Các giảng viên lâu năm phải gương mẫu đi đầu
trong việc xây dựng Chương trình bồi dưỡng mới, vừa góp phần tạo nên uy tín và chất
lượng chuyên ngành của khoa, vừa tạo môi trường cho các giảng viên mới rèn luyện kỹ
năng, tiếp cận với thực tiễn. Thực tế là rất nhiều giảng viên mới vào nghề ở trường ta còn
hạn chế về kỹ năng nghề nghiệp (năng lực thực hành). Bởi vì, ở bậc đại học, sinh viên hầu
như không được thực hành nghề nghiệp; Mặt khác, rời ghế trường đại học, trải qua 1 năm
tập sự là trở thành giảng viên Trường cao đẳng Thương mại, cơ hội tiếp xúc và hiểu biết
thực tế không nhiều. Trong khi đó, để giảng dạy kiến thức chuyên ngành tốt, đòi hỏi
giảng viên phải có thành thạo về kỹ năng nghề nghiệp. Xây dựng các Chương trình bồi
dưỡng là môi trường để các giảng viên mới vào nghề bù đắp được những hạn chế nêu
trên;
3. Để đáp ứng nhu cầu xã hội, trước khi xây dựng những Chương trình bồi dưỡng mới
nên đi khảo sát thực tế. Chỉ có đáp ứng nhu cầu thực tế thì những Chương trình bồi dưỡng
mới “sống” lâu được. Không ngừng cải tiến, tu chỉnh cho phù hợp với thực tế là việc làm
cần thiết để các Chương trình bồi dưỡng ngày càng hoàn thiện, có chất lượng cao;
4. Hiện nay, các trường đại học và cao đẳng cũng đã và đang xây dựng Chương trình
bồi dưỡng. Vì thế, chúng ta có thể hợp tác với các trường khác để xây dựng Chương trình
bồi dưỡng; Chẳng hạn, Trường Đại học Ngoại thương đang bồi dưỡng Nghiệp vụ kinh
doanh xuất nhập khẩu, Trường Đại học Thương mại đang bồi dưỡng Quản trị viên,
Marketing, Trường Đại học kinh tế cũng đang có một số Chương trình bồi dưỡng; Hoặc
là chúng ta mời các trường khác tham gia với tư cách phản biện, góp ý;
5. Để khuyến khích xây dựng và giảng dạy các Chương trình bồi dưỡng mới, nhà
trường đã nâng đơn giá giờ giảng lên 1,5 lần so với đơn giá bình thường. Tuy nhiên, có
thể mạnh dạn khuyến khích giảng viên và khoa bằng cách 2-3 lớp bồi dưỡng đầu tiên nhà
trường chỉ bù đắp các chi phí thực tế cần thiết, còn phần thu nhập còn lại trả cho giảng
viên và khoa. Mặt khác, nếu khoa nào đi đầu trong việc phát triển Chương trình bồi
dưỡng, nhà trường nên có hình thức đánh giá, khen thưởng phù hợp với công lao của họ.
Duy trì và phát triển loại hình bồi dưỡng ngắn hạn là định hướng chiến lược lâu dài
của nhà trường. Lý do để lựa chọn định hướng chiến lược này, như đã trình bày ở trên, đó
là quan điểm “Giảng viên có kỹ năng nghề nghiệp tốt mới có thể giảng dạy kiến thức tốt,
nhất là kiến thức quản trị”. Trong bối cảnh hiện nay, phát triển và giảng dạy các Chương
trình bồi dưỡng còn xuất phát từ nhu cầu cuộc sống, thu nhập nữa. Trước những khó
khăn, thách thức hiện nay mỗi cơ sở đào tạo đều tìm cho mình một hướng đi thích hợp.
Dù hướng đi thế nào thì điều chủ yếu cũng phải phát huy trí tuệ của tập thể đội ngũ cán bộ
giáo viên trong nhà trường. Đó là sức mạnh to lớn nhất, quý giá nhất đối với bất kỳ tổ
chức nào.
Từ những định hướng cơ bản đã nêu, bài viết còn hy vọng như một lời động viên, kêu
gọi để mọi cán bộ giảng viên cùng hướng vào một công việc khó khăn, nhưng đầy ý nghĩa
đối với nhà trường.
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƢỜNG CAO ĐẲNG THƢƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 7
ĐA DẠNG HÓA CÁC LOẠI HÌNH ĐÀO TẠO
tại Trƣờng Cao đẳng Thƣơng mại
NCS. Nguyễn Hoàng Tứ, Trƣởng phòng Đào tạo
Trường Cao đẳng Thương mại tiền thân là Trường Nghiệp vụ Thương nghiệp
Trung-Trung bộ, được thành lập ngày 27/3/1973. Ngày 26/6/2006 Bộ Giáo dục và Đào tạo có
Quyết định số 3167/QĐ-BGD&ĐT về việc thành lập Trường Cao đẳng Thương mại trên cơ
sở Trường Trung học Thương mại TWII. Trường có chức năng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có
trình độ cao đẳng và các trình độ thấp hơn trong lĩnh vực thương mại và du lịch trên phạm vi
cả nước, trọng tâm là các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên.
Qua 40 năm tồn tại và phát triển, Nhà trường đã và đang trở thành địa chỉ tin cậy trong
đào tạo. Hàng chục ngàn học sinh ra trường đã và đang phát huy hiệu quả tốt, nhiều người
đang giữ trọng trách trong các tổ chức, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Sự phát
triển của Nhà trường ngày càng góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế xã hội của các
tỉnh miền Trung và Tây Nguyên, nhất là trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.
Căn cứ chiến lược phát triển trường đến năm 2015 và tầm nhìn 2025 là chuẩn bị mọi
nguồn lực để năm 2015 trở thành Trường Đại học. Để đạt được mục tiêu chiến lược, Nhà
trường đã đề ra nhiệm vụ trọng tâm của từng học kỳ và năm học. Năm học 2012-2013, Nhà
trường đã chú trọng đến ba khâu chủ yếu, đó là xây dựng và phát triển đội ngũ, đầu tư cơ sở
vật chất và biên soạn chương trình đào tạo ngành mới nhằm mở rộng quy mô và đa dạng hóa
các loại hình đào tạo, đáp ứng yêu cầu bổ sung nguồn nhân lực cho ngành và xã hội. Để thực
hiện tốt nhiệm vụ về công tác đào tạo của một trường cao đẳng, đưa sự nghiệp giáo dục và
đào tạo của trường ngày càng phát triển, nhà trường đã triển khai các giải pháp thích hợp.
Hiểu rõ những khó khăn thách thức trong giai đoạn hiện nay, tập thể đội ngũ lãnh đạo nhà
trường đã tìm hướng khắc phục, linh hoạt, sáng tạo, tận dụng những cơ hội, tiềm năng thế
mạnh để phát triển công tác đào tạo. Một trong các giải pháp mang tính thực tế, hiệu quả đó
là nghiên cứu, tìm hiểu đặc điểm xã hội trong xu thế phát triển, nhu cầu đa dạng phong phú
về sử dụng nguồn lực hiện nay của xã hội và địa phương, tìm hiểu đặc điểm nhu cầu, đối
tượng khác nhau của người học, căn cứ khả năng tiềm lực của nhà trường, từ đó đa dạng hóa
các loại hình đào tạo để đáp ứng một cách kịp thời, hiệu quả.
Đối với ngành đào tạo, Nhà trường đã chuyển đổi 4 ngành (Quản trị kinh doanh,
Marketing, Tài chính-Ngân hàng, Kế toán) với 9 chuyên ngành (Quản trị doanh nghiệp
thương mại, Quản trị kinh doanh xăng dầu, Marketing thương mại, Thương mại quốc tế, Tài
chính doanh nghiệp, Ngân hàng, Kế toán doanh nghiệp, Kế toán khách sạn-nhà hàng, Kế toán
thương mại và dịch vụ); Xây dựng và trình Bộ Giáo dục - Đào tạo phê duyệt 6 ngành đào tạo
mới (Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành, Quản trị khách sạn, Quản trị nhà hàng và dịch vụ ăn
uống, Kinh doanh thương mại, Bảo hiểm, Kiểm toán) với 5 chuyên ngành (Quản trị kinh
doanh du lịch, Quản trị kinh doanh khách sạn, Quản trị kinh doanh nhà hàng, Kinh doanh bảo
hiểm, Kiểm toán doanh nghiệp); Phát triển 2 chuyên ngành đào tạo mới (Quản trị doanh
nghiệp công nghiệp, Truyền thông Marketing); Tổ chức hội thảo lấy ý kiến doanh nghiệp,
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƢỜNG CAO ĐẲNG THƢƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 8
trên cơ sở đó rà soát các ngành và chuyên ngành đã đào tạo và có HSSV tốt nghiệp ra trường
nhằm điều chỉnh, bổ sung các học phần cho phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp và xã hội.
Năm học 2013-2014, Nhà trường chủ trương đa dạng hóa các ngành, nghề đào tạo nhằm đáp
ứng nhu cầu nguồn nhân lực cho các tỉnh miền Trung-Tây Nguyên và cả nước.
CÁC NGÀNH, NGHỀ ĐÀO TẠO NĂM HỌC 2013-2014 I. Bậc cao đẳng chính quy
TT Ngành/chuyên ngành
I Ngành Quản trị kinh doanh
1. Quản trị doanh nghiệp thương mại
2. Quản trị doanh nghiệp công nghiệp
3. Quản trị kinh doanh xăng dầu
II Ngành Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành
1. Quản trị kinh doanh du lịch
III Ngành Quản trị khách sạn
1. Quản trị kinh doanh khách sạn
IV Ngành Quản trị nhà hàng và dịch vụ ăn uống
1. Quản trị kinh doanh nhà hàng
V Ngành Marketing
1. Marketing thương mại
2. Truyền thông Marketing
VI Ngành Kinh doanh thương mại
1. Thương mại quốc tế
VII Ngành Tài chính-Ngân hàng
1. Tài chính doanh nghiệp
2. Ngân hàng
VIII Ngành Bảo hiểm
1. Kinh doanh bảo hiểm
IX Ngành Kế toán
1. Kế toán doanh nghiệp
2. Kế toán khách sạn-nhà hàng
3. Kế toán thương mại và dịch vụ
X Ngành Kiểm toán
1. Kiểm toán doanh nghiệp
II. Bậc cao đẳng liên thông
TT Ngành/chuyên ngành
I Ngành Quản trị kinh doanh
1. Quản trị doanh nghiệp thương mại
II Kế toán
1. Kế toán doanh nghiệp
2. Kế toán khách sạn-nhà hàng
3. Kế toán thương mại và dịch vụ
III. Bậc TCCN chính quy
TT Ngành/chuyên ngành
I Ngành Quản trị kinh doanh
1. Quản trị doanh nghiệp thương mại
II Kế toán
1. Kế toán doanh nghiệp
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƢỜNG CAO ĐẲNG THƢƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 9
2. Kế toán khách sạn-nhà hàng
3. Kế toán thương mại và dịch vụ
IV. Bậc TCCN vừa làm vừa học
TT Ngành/chuyên ngành
I Ngành Quản trị kinh doanh
1. Quản trị doanh nghiệp thương mại
II Kế toán
1. Kế toán doanh nghiệp
2. Kế toán thương mại và dịch vụ
V. Đào tạo và bồi dưỡng ngắn hạn
TT Loại hình
1 Nghiệp vụ kinh doanh xăng dầu và khí đốt hóa lỏng
2 Cửa hàng trưởng xăng dầu
3 Nghiệp vụ buồng, bàn-bar, lễ tân
4 Hướng dẫn viên du lịch
5 Nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu
6 Nghiệp vụ kinh doanh thương mại
7 Thực hành kế toán
8 Kế toán trưởng
9 Nghiệp vụ quản lý chợ
10 Bán hàng siêu thị
Có thể nói, Nhà trường đã đầu tư khá nhiều công sức vào việc xây dựng và phát triển các
ngành, nghề đào tạo đáp ứng cơ bản nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp và
xã hội trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
Đối với loại hình đào tạo, Nhà trường tổ chức hội thảo và khảo sát nhu cầu của doanh
nghiệp để xác định loại hình đào tạo, bồi dưỡng phù hợp nhằm đảm bảo vừa nâng cao được
năng lực chuyên môn, vừa hoàn thành kế hoạch kinh doanh của các doanh nghiệp. Đối với hệ
chính quy, Nhà trường tổ chức đào tạo ngành thứ hai để khi tốt nghiệp, sinh viên nhận được
hai bằng. Nhà trường liên kết với Công ty Cổ phần Đào tạo-Du lịch Hoàng Long (Hiệp hội
du lịch Việt Nam) tuyển sinh và đào tạo từ năm học 2013-2014 với ba chuyên ngành: Quản
trị kinh doanh du lịch, Quản trị kinh doanh khách sạn, Quản trị kinh doanh nhà hàng nhằm
cung ứng nguồn nhân lực cho ngành du lịch. Công ty Cổ phần Du lịch-Đào tạo Hoàng Long
chịu trách nhiệm bồi dưỡng kỹ năng mềm, bố trí sinh viên thực tập và giới thiệu việc làm cho
sinh viên tại các đơn vị kinh doanh du lịch. Đối với bậc TCCN, Nhà trường tuyển sinh và đào
tạo các chuyên ngành xã hội đang có nhu cầu và đảm bảo cho học sinh được học liên thông
lên các bậc học cao hơn. Đối với loại hình đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn, Nhà trường tổ chức
lớp học tại địa phương hoặc tại doanh nghiệp để học viên vừa học lý thuyết vừa thực hành
ngay tại đơn vị.
Qua 7 năm nâng cấp thành trường cao đẳng, công tác đào tạo của Trường Cao đẳng
Thương mại đã có những bước phát triển vượt bậc so với giai đoạn trước, từ việc chuẩn hóa
đội ngũ giảng viên, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đào tạo, đến việc xây dựng các chương trình
đào tạo phù hợp, mở rộng, đa dạng các loại hình, thích ứng với nhu cầu sử dụng nhân lực của
xã hội. Công tác đào tạo của nhà trường đã đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp
nguồn nhân lực có chất lượng không chỉ cho các tỉnh khu vực miền Trung-Tây Nguyên mà
còn cho cả nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Chiến lược phát triển Trường Cao đẳng Thương mại đến năm 2015 và tầm nhìn 2025.
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƢỜNG CAO ĐẲNG THƢƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 10
LẬP DỰ ÁN BẰNG PHƢƠNG PHÁP
TIẾP CẬN KHUNG LOGIC
NCS. Nguyễn Tri Vũ, Trƣởng Phòng Khoa học và Đối ngoại
hằm giúp cho các tổ chức tham gia đề xuất dự án tìm nguồn tài trợ từ EU
có kỹ năng cần thiết và phù hợp để hy vọng nhận được tài trợ; vừa qua
(tháng 4/2013), Ban Quản lý Dự án EU MUTRAP đã tổ chức lớp tập huấn
“Hướng dẫn xây dựng đề xuất xin tài trợ theo quy trình của EU”. Sau khóa học, người viết
nhận thấy phương pháp tiếp cận khung logic là một công cụ rất hay để lập dự án; hơn nữa
nó cũng có thể được vận dụng trong nhiều tình huống khác như nghiên cứu khoa học, giải
quyết các vấn đề hay công việc thường ngày của các tổ chức, cá nhân. Bài viết này nhằm
chia sẻ với người đọc tóm tắt về lý thuyết phương pháp tiếp cận khung logic trong việc lập dự
án và qua đó gợi ý để vận dụng cho những trường hợp khác.
Phương pháp tiếp cận khung logic (Logical Framework Approach - LFA) là phương
pháp phân tích để lập dự án trên cơ sở tiến hành một quy trình chặt chẽ, có hệ thống từ khi
bắt đầu hình thành ý tưởng đến khi hoàn thành một hồ sơ dự án hay kế hoạch công việc.
Những nguyên lý chính của phương pháp này là sử dụng tư duy hệ thống; có sự tham gia của
nhiều bên; công não để đưa ra nhiều ý kiến; so sánh, sắp xếp và phân tích quan hệ nhân quả;
từ mục tiêu mà xác định kết quả cần đạt được, từ kết quả suy ngược lại các hoạt động, từ hoạt
động đi tìm các giả thiết và biện luận những tình huống rủi ro, đưa ra các giải pháp khắc phục
để đảm bảo dự án khả thi và thành công một cách bền vững.
Đối với một dự án, vòng đời của nó có 3 giai đoạn cơ bản là: 1) Chuẩn bị, lập kế hoạch;
2) Triển khai thực hiện; 3) Đánh giá. Trong đó, chuẩn bị, lập kế hoạch hay lập dự án là giai
đoạn đầu tiên có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của dự án. Lập dự án bằng
phương pháp phù hợp, có cơ sở khoa học và thực tiễn thì dự án sẽ khả thi, đạt đến sự thành
công cao và ngược lại sẽ là sự lãng phí to lớn đối với các bên liên quan và xã hội nói chung.
Để lập nên một dự án, quy trình cơ bản gồm có hai giai đoạn là phân tích và lập kế
hoạch.
1. Giai đoạn phân tích Giai đoạn này bắt đầu từ ý tưởng về dự án và kết thúc là xác định mục tiêu cụ thể của
dự án cùng với phương án và giải pháp để đạt được mục tiêu ấy. Cụ thể, giai đoạn này có 4
bước công việc:
1.1. Phân tích các bên liên quan
Phân tích các bên liên quan là xác định những cá nhân, hộ gia đình, nhóm xã hội và tổ
chức có liên quan đến dự án; mô tả đặc điểm, vai trò và đánh giá năng lực của họ. Mỗi dự án
thường có nhiều bên liên quan, chủ yếu là về mặt quyền lợi và nghĩa vụ từ thành công hay
thất bại của dự án. Họ có thể là bên hưởng lợi, bên đóng góp, bên thực hiện dự án hay bên bị
tác động tiêu cực… Xác định đúng và phân tích đầy đủ, kỹ lưỡng về các bên liên quan là
nhằm phát huy tốt nhất sự tham gia, đóng góp của họ; có biện pháp để tối đa hóa lợi ích và tối
thiểu hóa các tác động tiêu cực cho các bên từ dự án; góp phần cho dự án thành công.
N
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƢỜNG CAO ĐẲNG THƢƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 11
Trên cơ sở ý tưởng về dự án với mục tiêu tổng thể và lĩnh vực cần can thiệp, phân tích
các bên liên quan là trả lời các câu hỏi như: Chúng ta đang phân tích vấn đề và cơ hội của ai?
Những ai liên quan đến dự án? Ai sẽ hưởng lợi và ai sẽ thua thiệt từ dự án ? Họ có đặc điểm,
vai trò, năng lực gì trong dự án? Họ được và mất gì từ dự án, bằng cách nào và khi nào?...
Kết thúc bước phân tích này, chúng ta sẽ có được các nhóm đối tượng liên quan đến dự
án; trong đó, những đối tượng (bên liên quan) thuộc nhóm quan trọng được phân tích một
cách chi tiết để làm cơ sở cho bước phân tích tiếp theo.
1.2. Phân tích vấn đề
Phân tích vấn đề là xác định những vấn đề (cái gì) liên quan đến lĩnh vực của dự án
đang tồn tại và nguyên nhân của nó (tại sao). Một dự án thường có nhiều vấn đề liên quan
chặt chẽ với nhau; cái này là do cái kia; cái kia là hậu quả của cái trước đó. Kết quả của phân
tích vấn đề là “cây vấn đề” với nhiều vấn đề liên kết với nhau theo trật tự nhân quả.
Các vấn đề được nêu ra là những mệnh đề phản ánh tình trạng tiêu cực trong hiện tại.
Việc phân tích có nhiều người (đặc biệt là các bên liên quan) cùng tham gia sẽ đảm bảo nêu
ra được nhiều vấn đề cụ thể. Từ các vấn đề đó, sắp xếp lại theo một trật tự dựa trên quan hệ
nhân quả sẽ có được cây vấn đề. Gốc của cây vấn đề là vấn đề có tính nguyên nhân gốc rễ,
sâu xa nhất; thân của cây vấn đề là những vấn đề trung gian và cuối cùng là các ngọn của cây
vấn đề có ý nghĩa như là hậu quả cuối cùng (trong phạm vi phân tích). Một cây vấn đề được
phân tích sâu sắc, đầy đủ và xây dựng chính xác là cơ sở để tiếp tục phân tích mục tiêu của
dự án.
Trong bước phân tích này cần lưu ý xác định đâu là các vấn đề chính cần can thiệp và
những vấn đề không phù hợp với dự án cần được sàng lọc và loại bỏ.
1.3. Phân tích mục tiêu Phân tích mục tiêu là phân tích để xác định những điều được mong đợi. Cơ sở của bước
phân tích này là cây vấn đề đã được xây dựng ở bước trên. Cách thực hiện là chuyển các
“tình trạng tiêu cực” ở cây vấn đề thành “tình trạng tích cực” mà dự án mong muốn đạt được
và có thể đạt được trong thực tế. Nếu trong cây vấn đề, các tình trạng tiêu cực có quan hệ
nhân quả với nhau thì bây giờ chúng ta có một cây mới được gọi là “cây mục tiêu” với những
tình trạng tích cực cũng có mối quan hệ nhân quả theo nguyên lý phương tiện và kết quả.
Không phải mọi vấn đề (tiêu cực) được phủ định giản đơn sẽ trở thành mục tiêu (tích cực).
Do vậy, cần phân tích và điều chỉnh, bổ sung hoặc lược bỏ các tình trạng để đảm bảo tính
đúng đắn, logic, chặt chẽ và toàn diện của cây mục tiêu.
1.4. Phân tích chiến lƣợc Xây dựng xong cây mục tiêu, cần xác định đâu là mục tiêu cốt lõi hay mục tiêu cụ thể
mà dự án sẽ hướng đến. Mục tiêu cốt lõi hay cụ thể thường là một tình trạng mong đợi ở
trong và ở giữa cây mục tiêu. Tuy nhiên, mục tiêu cụ thể không hẳn đơn giản là một tình
trạng tích cực của cây mục tiêu mà tùy tình hình thực tế, thông qua phân tích sâu sắc để xác
định rõ ràng, cụ thể hơn, làm cho nó trở thành mục tiêu cụ thể của dự án.
Chú ý rằng mục tiêu cụ thể phải được cân nhắc, lựa chọn sao cho phù hợp nhất, có ý
nghĩa nhất và “đáng giá” nhất. Nghĩa là, mục tiêu ấy có tác động lan tỏa tích cực và góp phần
đạt đến mục tiêu tổng thể (mục tiêu xa hơn, tổng quát hơn); đồng thời phù hợp với điều kiện
và nguồn lực thực hiện dự án; vừa hiệu quả vừa khả thi.
Việc phân tích để quyết định mục tiêu cụ thể là đầu ra chủ yếu của bước phân tích chiến
lược. Nói cách khác, đầy đủ hơn, phân tích chiến lược là xác định phạm vi can thiệp hay giới
hạn của dự án, bao gồm mục tiêu cụ thể và những vấn đề liên quan đến mục tiêu ấy. Đến đây
giai đoạn phân tích đã xong và chuyển sang giai đoạn tiếp theo là lập kế hoạch.
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƢỜNG CAO ĐẲNG THƢƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 12
2. Lập kế hoạch
Lập kế hoạch là quá trình đi đến hoàn thành một bản kế hoạch công việc hay dự án.
Đầu vào của giai đoạn này là mục tiêu cụ thể mà dự án hướng đến và các thông tin liên quan
về môi trường và nguồn lực. Đầu ra là toàn bộ sự mô tả về những kết quả, những hoạt động
cần thiết cùng với luận chứng về các yêu cầu nguồn lực, những điều kiện phải được đảm bảo,
những chỉ số để đo lường, xác định và đánh giá, những phương thức kiểm tra, xác nhận về
kết quả, hiệu quả của dự án.
Với phương pháp tiếp cận khung logic, trong giai đoạn này chúng ta sử dụng một công
cụ quan trọng, rất hữu ích được gọi là ma trận khung logic (Logical Framework Matrix –
LFM).
LFM là một bảng có nội dung chính thể hiện trong 4 dòng và 4 cột như hình sau:
Mô tả dự án Chỉ số Nguồn thẩm định Giả định
Mục tiêu tổng thể (1) (8) (9)
Mục tiêu cụ thể (2) (10) (11) (7)
Kết quả (3) (12) (13) (6)
Hoạt động (4) (Nguồn lực) (Chi phí) (5)
Điều kiện tiên
quyết
Trình tự xây dựng LFM là theo các số được chú thích trong bảng từ (1) đến (13).
Trong LFM, mục tiêu tổng thể (ô 1) là đóng góp hay tác động của dự án liên quan đến
phạm vi rộng lớn hơn trong một tổ chức, địa phương, ngành hay quốc gia. Mục tiêu cụ thể (ô
2) chính là tình trạng mong đợi hay lợi ích trực tiếp mà dự án mang lại; là cái đích cụ thể của
dự án. Kết quả (ô 3) là những sản phẩm hay dịch vụ mà dự án tạo ra; là cái minh chứng cho
việc đạt được mục tiêu cụ thể. Hoạt động (ô 4) là các nhiệm vụ mà dự án phải tổ chức thực
hiện để có được kết quả nêu trên. Hoạt động gắn liền với việc sử dụng những nguồn lực nhất
định và làm phát sinh chi phí cụ thể.
Logic theo chiều dọc từ dưới lên trên của cột mô tả dự án trong LFM là: Từ các yếu tố
đầu vào (nguồn lực) sẽ tiến hành những hoạt động cụ thể. Nếu các hoạt động đó được tiến
hành tốt thì sẽ cho được kết quả đúng mong đợi. Nếu có các kết quả đúng mong đợi thì mục
tiêu cụ thể được hoàn thành. Nếu mục tiêu cụ thể được hoàn thành thì sẽ tác động tích cực
đến mục tiêu tổng thể.
Các kết quả và hoạt động trong LFM sẽ được xác định dựa vào phân tích mục tiêu ở
giai đoạn trước. Một dự án tốt là dự án mà sau khi nó đã được hoàn thành thì các kết quả vẫn
được tiếp tục duy trì trong dài hạn và nhờ đó mục tiêu của dự án đạt được có tính “bền vững”.
Theo chiều ngang của LFM, có các yếu tố mô tả dự án, chỉ số, nguồn thẩm đinh và giả
định. Chỉ số là bằng chứng cho các yếu tố mô tả dự án và nó thường được biểu thị bằng các
chỉ tiêu về lượng hoặc về chất. Nguồn thẩm định là cơ sở để xác thực các chỉ số. Giả định là
các yếu tố ngoại vi nằm ngoài tầm kiểm soát của ban quản lý dự án nhưng lại có ảnh hưởng
(chi phối) đến mục tiêu, mục đích, kết quả hoặc các hoạt động.
Giả định đưa vào LFM là điều có ảnh hưởng quan trọng đến dự án và có thể xảy ra. Giả
định đầu tiên của dự án được gọi là điều kiện tiên quyết; đó là những yêu cầu cần được đáp
ứng trước khi sử dụng các nguồn lực và khởi động các hoạt động (ô 4). Với mỗi hoạt động ở
ô 4 cộng với giả định ô 5 là điều kiện để đạt được kết quả ở ô 3. Tiếp theo, kết quả ô 3 cùng
với giả định ô 6 sẽ đảm bảo đạt được mục tiêu cụ thể của dự án ô 2 và cuối cùng mục tiêu của
dự án ô 2 cùng với giả định ô 7 sẽ dẫn đến mục tiêu tổng thể là ô 1. Đó là logic chéo của
LFM.
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƢỜNG CAO ĐẲNG THƢƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 13
Để dự án có tính khả thi và thành công, cần phân tích kỹ các điều kiện và giả định. Nếu
điều kiện tiên quyết hoặc một giả định có tính tiêu cực thì nó trở thành yếu tố rủi ro của dự
án. Vì vậy, khi lập dự án phải đưa ra được các chiến lược nhằm kiểm soát và giảm thiểu rủi
ro.
Đến đây, có thể thấy rằng phương pháp tiếp cận khung logic (LFA) là một công cụ rất
hữu hiệu giúp cho những người lập dự án tư duy và phân tích có tính hệ thống, toàn diện và
logic; đảm bảo các yếu tố và đối tượng có liên quan đến dự án được xem xét, đánh giá và đưa
vào kế hoạch (dự án) một cách đầy đủ, xác đáng. Đó chính là ý nghĩa ứng dụng của phương
pháp này. Sau khi phân tích và hoàn chỉnh nội dung của LFM thì việc còn lại chỉ là trình bày
thành văn bản là xong một bản dự án.
Từ ứng dụng của LFA trong lập dự án, chúng ta có thể liên hệ và vận dụng rộng hơn
trong nhiều trường hợp, như xây dựng đề cương của đề tài nghiên cứu khoa học, lập đề án
hay phương án để đạt được một mục đích nào đó; thậm chí là giải quyết một vấn đề thường
ngày của một cá nhân theo quy trình được trình bày ở trên.
Hình minh hoạ Mối quan hệ hai giai đoạn trong tiếp cận khung logic (nguồn: Bảo Huy)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Helen Binns & Sotiraq Guga (2011), “Cách xây dựng một đề xuất dự án để xin tài trợ của
liên minh Châu Âu”, Tài liệu tập huấn của Ban Quản lý Dự án hỗ trợ chính sách thương mại và
đầu tư của Châu Âu (Mutrap), Hà Nội, tháng 4/2013.
[2] Bảo Huy (2008), Quản lý dự án phát triển: Phát triển lâm nghiệp xã hội và quản lý bền vững
tài nguyên thiên nhiên, www.socialforestry.org.vn, tháng 5/2013.
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƢỜNG CAO ĐẲNG THƢƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 14
Một số gợi ý về
PHƢƠNG PHÁP và LỰA CHỌN ĐỀ TÀI
nghiên cứu khoa học cho sinh viên Trƣờng Cao đẳng Thƣơng mại
ThS. Hồ Thị Mỹ Kiều, Khoa Quản trị kinh doanh
I. Đặt vấn đề
Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, cả nước hiện có hơn 2,2 triệu sinh viên
đại học, cao đẳng; tuy nhiên, số lượng sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học (NCKH)
còn quá ít và kết quả đạt được rất hạn chế. Nguyên nhân không chỉ từ phía nhà trường
như kinh phí có hạn và chưa kích thích sinh viên thực hiện đề tài mà còn từ phía sinh viên
như chưa có thói quen, chưa mạnh dạn, chưa nắm vững phương pháp và chưa có kinh
nghiệm lựa chọn đề tài. Từ thực tế đó, bài viết này chủ yếu hướng tới sinh viên chuyên
ngành Marketing và Quản trị kinh doanh với một số gợi ý về nghiên cứu định lượng nhằm
giúp các bạn trong hoạt động NCKH tại Trường Cao đẳng Thương mại.
II. Nội dung của tiến trình nghiên cứu
1. Xác định vấn đề cần nghiên cứu: Đây là bước đầu tiên và quan trọng nhất trong
quá trình nghiên cứu. Thực chất, ở bước này người nghiên cứu phải trả lời rõ ràng, cụ thể
các câu hỏi sau đây:
- Nghiên cứu trong lĩnh vực nào?
- Nghiên cứu chủ đề gì?
- Nghiên cứu vấn đề nào?
- Tại sao chọn vấn đề đó?
- Nghiên cứu để làm gì?
- Phải trả lời những câu hỏi nào?
2. Xác định mục tiêu, giả thuyết, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
a. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu là những gì cần đạt được sau khi hoàn thành nghiên cứu, là
giải pháp giúp giải quyết vấn đề đang nghiên cứu và là sản phẩm cần phải có sau khi
nghiên cứu hoàn thành. Xác định được mục tiêu nghiên cứu là cơ sở để thiết kế nghiên
cứu, xác định các biến số cần đo, dữ liệu cần thu thập, kế hoạch phân tích dữ liệu.
b. Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết nghiên cứu (H1) là một kết luận giả định do người nghiên cứu đặt ra để
theo dõi, xem xét, phân tích, kiểm chứng trong quá trình nghiên cứu.
Khi xây dựng mô hình nghiên cứu phải thể hiện được mối quan hệ nhân quả giữa
các yếu tố. Ví dụ: Mô hình nghiên cứu mối quan hệ giữa giá bán sản phẩm, dịch vụ khách
hàng, tần suất quảng cáo ảnh hưởng đến doanh số bán ra. Lúc này có 3 giả thuyết sau:
H11: Khi giá bán sản phẩm tăng/giảm thì doanh số bán ra tăng/giảm theo;
H12: Khi dịch vụ khách hàng tăng/giảm thì doanh số bán ra tăng/giảm theo;
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 15
H13: Khi tần suất quảng cáo tăng/giảm thì doanh số bán ra tăng/giảm theo.
c. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là bản chất của sự vật hay hiện tượng cần được xem xét và
làm rõ trong quá trình nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu là phạm vi nhất định về không gian, thời gian và giới hạn lĩnh
vực nghiên cứu.
3. Xác định nguồn dữ liệu cần thu thập
Dữ liệu thứ cấp là số liệu, dữ kiện đã có sẵn do người khác thu thập; người nghiên
cứu sử dụng lại cho mục đích nghiên cứu của mình. Dữ liệu thứ cấp có được từ 2 nguồn
là nguồn nội bộ và nguồn bên ngoài. Nguồn nội bộ như báo cáo chi phí, doanh thu, hoạt
động phân phối, chiêu thị… Nguồn bên ngoài như sách báo, tạp chí, các báo cáo nghiên
cứu, niên giám thống kê…
Dữ liệu sơ cấp là số liệu, dữ kiện mà người nghiên cứu thu thập trực tiếp từ thực tế
và xử lý nó để phục vụ cho việc nghiên cứu của mình. Dữ liệu sơ cấp có được từ phương
pháp quan sát, thảo luận, phỏng vấn...
4. Xác định kích thước mẫu, phương pháp chọn mẫu, thiết kế bảng câu hỏi
a. Kích thước mẫu (số lượng mẫu)
Mẫu là một phần hay tập hợp nhỏ các cá thể của tổng thể được chọn đại diện cho
tổng thể để khảo sát nghiên cứu.
Thực tế, người nghiên cứu ít khi sử dụng công thức để xác định kích thước mẫu
mà thường chọn mẫu theo thói quen, số đông. Với các nghiên cứu về thị trường, kích
thước mẫu thường được chọn lớn hơn 200.
b. Phương pháp chọn mẫu
Chọn mẫu theo xác suất (ngẫu nhiên) là phương pháp chọn mẫu mà trong đó người
nghiên cứu biết trước xác suất tham gia vào mẫu của các phần tử. Mẫu được chọn theo
xác suất có thể dùng để ước lượng hoặc kiểm nghiệm các thông số của thị trường nghiên
cứu.
Chọn mẫu phi xác suất là phương pháp chọn mẫu mà trong đó người nghiên cứu
chọn các phần tử tham gia vào mẫu không theo quy luật ngẫu nhiên (theo xác suất).
Người nghiên cứu có thể chọn theo sự thuận tiện, theo đánh giá chủ quan… Mẫu được
chọn theo phương pháp phi xác suất không thể dùng để ước lượng hoặc kiểm nghiệm các
thông số của thị trường nghiên cứu.
Để thuận tiện cho việc thu thập dữ liệu, người nghiên cứu thường sử dụng phương
pháp chọn mẫu ngẫu nhiên, thuận tiện với đối tượng được khảo sát.
c. Thiết kế bảng câu hỏi
Bảng câu hỏi là công cụ phổ biến nhất để thu thập dữ liệu ban đầu. Có 2 loại câu
hỏi là câu hỏi đóng và câu hỏi mở.
Câu hỏi đóng là câu hỏi chứa đựng toàn bộ các phương án trả lời mà người được
hỏi chỉ lựa chọn một trong số các phương án đó. Câu hỏi đóng có ưu điểm là dễ trả lời và
dễ mã hóa dữ liệu, đồng thời có nhược điểm là đáp án chỉ giới hạn trong các phương án
được hỏi.
Câu hỏi mở là câu hỏi không đưa ra các phương án trả lời mà người được hỏi phải
trả lời bằng ý kiến riêng của mình. Câu hỏi mở có ưu điểm là khai thác được nhiều ý kiến,
đồng thời có nhược điểm là khó mã hóa dữ liệu.
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 16
Để câu hỏi được thiết kế có chất lượng, người nghiên cứu cần phải quan tâm đến
việc sử dụng loại thang đo. Có 3 loại thang đo cơ bản sau:
- Thang đo danh xưng là loại thang đo trong đó số đo dùng để xếp loại, không có ý
nghĩa về lượng. Các dạng câu hỏi thường gặp là câu hỏi 1 hoặc nhiều lựa chọn.
Câu hỏi 1 lựa chọn là câu hỏi yêu cầu người trả lời chọn 1 phương án.
Câu hỏi nhiều lựa chọn là câu hỏi yêu cầu người trả lời có thể chọn nhiều phương
án cùng một lúc.
- Thang đo thứ tự là loại thang đo trong đó số đo dùng để so sánh thứ tự, cấp bậc,
không có ý nghĩa về lượng. Các dạng câu hỏi thường gặp là câu hỏi buộc sắp xếp thứ tự
và câu hỏi so sánh cặp.
Câu hỏi buộc sắp xếp thứ tự là câu hỏi yêu cầu người trả lời phải sắp xếp theo thứ
các mức độ tăng dần hoặc giảm dần mức độ các phương án trả lời.
Câu hỏi so sánh cặp là câu hỏi yêu cầu người trả lời phải chọn 1 phương án trong
từng cặp riêng biệt.
- Thang đo Likert là loại thang đo trong đó có một chuỗi các phát biểu liên quan
đến câu hỏi nêu ra và người trả lời phải chọn 1 mức độ trong câu hỏi đó. Khi sử dụng
thang đo Likert, người nghiên cứu thường sử dụng 5 hoặc 7 mức độ.
5. Test thử bảng câu hỏi
Mục đích của việc test thử bảng câu hỏi là đảm bảo cấu trúc và ngôn từ được sử
dụng trong bảng câu hỏi là phù hợp, người được khảo sát hiểu được những câu hỏi đặt ra,
tránh hiểu nhầm và khó trả lời khi thực hiện thu thập dữ liệu chính thức.
6. Tiến hành phân tích dữ liệu
Sau khi thu thập dữ liệu, người nghiên cứu thực hiện mã hóa các câu trả lời vào
phần mềm SPSS (Statistical Product and Service Solutions). SPSS là phần mềm thống kê,
cung cấp một hệ thống quản lý dữ liệu và khả năng phân tích thống kê.
Mô hình nghiên cứu được xây dựng thể hiện mối quan hệ nhân quả giữa các yếu
tố. Trong đó, yếu tố chỉ nguyên nhân gọi là biến độc lập (X) và yếu tố chỉ kết quả gọi là
biến phụ thuộc (Y). Mỗi biến X, Y được đo lường bằng một số biến quan sát nhất định.
Biến độc lập là biến số mô tả hay đo lường các yếu tố ảnh hưởng đến vấn đề
nghiên cứu.
Biến phụ thuộc là biến số mô tả hay đo lường vấn đề nghiên cứu.
Phương pháp xử lý dữ liệu thông dụng nhất là thống kê và hồi quy tuyến tính bao
gồm các bước thực hiện:
- Thống kê bằng Cronbach Alpha nhằm loại bỏ được các biến không phù hợp, hạn
chế các biến rải rác trong quá trình nghiên cứu và đánh giá được độ tin cậy của thang đo.
- Phân tích nhân tố khám phá EFA (Exploratory Factor Anylysis) nhằm loại bỏ
một số biến quan sát không có tác động đến vấn đề nghiên cứu. Sau đó, người nghiên cứu
nhóm gộp các biến quan sát còn lại có mối quan hệ với nhau về một số đặc tính chung
nào đó thành một biến độc lập mới.
- Phân tích hồi quy tuyến tính dùng để xác định các hệ số hồi quy của từng biến
độc lập (X) có ảnh hưởng đến biển phụ thuộc (Y).
Để sinh viên nắm vững được các thao tác xứ lý dữ liệu, bài viết xin giới thiệu
quyển sách: Phân tích dữ liệu nghiên cứu với SPSS của Hoàng Trọng, Chu Nguyễn Mộng
Ngọc (2008), NXB Hồng Đức, Tập 1&2.
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 17
7. Kiểm định giả thuyết của mô hình
Mối quan hệ nhân quả của các biến độc lập ảnh hưởng đến biến phụ thuộc được
thể hiện qua phương trình sau:
Y = a X1 + b X2 + c X3 + d X4 (với a,b,c,d là hệ số hồi quy của biến X1, X2, X3, X4)
Giả thuyết H1 được chấp nhận khi hệ số a,b,c,d >0 và ngược lại.
Giả thuyết H1 được chấp nhận nghĩa là có mối quan hệ cùng chiều giữa biến X với
biến Y.
8. Viết báo cáo và trình bày kết quả
Đây là bước cuối cùng của quá trình nghiên cứu. Báo cáo thể hiện công trình
nghiên cứu đã đạt được mục tiêu đề ra. Vì vậy, người nghiên cứu phải trình bày kết quả rõ
ràng, đầy đủ và dễ hiểu.
III. Hƣớng vận dụng của sinh viên vào lựa chọn đề tài NCKH
Để lựa chọn đề tài phù hợp với khả năng, sinh viên nên áp dụng mô hình nghiên
cứu đã có sẵn, sau đó tiến hành chuyển thể ngôn ngữ (dịch thuật) nếu cần thiết rồi áp
dụng vào một lĩnh vực kinh doanh trong thực tế. Sinh viên có thể vận dụng kiến thức
trong học phần Nghiên cứu Marketing để xử lý dữ liệu.
Sinh viên có thể lựa chọn một số mô hình nghiên cứu được áp dụng phổ biến trong
lĩnh vực kinh doanh dịch vụ như mô hình đánh giá chất lượng dịch vụ của Parasuraman,
mô hình đo lường sự hài lòng của khách hàng theo kết quả nghiên cứu ở Mỹ, Châu Âu,
Thụy Điển, Na-Uy…, mô hình đo lường rủi ro cảm nhận của khách hàng…
Với kỳ vọng hoạt động NCKH của nhà trường tích cực hơn, hy vọng rằng bài viết
này có thể cung cấp cho sinh viên thông tin về một tiến trình nghiên cứu và gợi ý một số
đề tài phù hợp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Đình Thọ (1998), Nghiên cứu Marketing, NXB Giáo dục.
[2] Nguyễn Anh Sơn (1999), Nghiên cứu Marketing, NXB Giáo dục.
(Ảnh minh họa từ: http://www.ktdoingoai.com)
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 18
LẬP NÊN CHẾ ĐỘ DÂN CHỦ CỘNG HÒA
GIÁ TRỊ DÂN CHỦ CỦA
CUỘC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945
ThS. Dƣơng Thị Nghĩa, Bộ môn Lý luận chính trị
hắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 là thắng lợi của cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thắng lợi và tính chất của cuộc Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 lâu nay đã bàn nhiều, viết nhiều và nhất là về tính chất dân tộc, giá trị giải phóng
dân tộc, song khía cạnh giá trị dân chủ, nhân văn vẫn còn nhiều vấn đề cần đi sâu bàn tiếp.
Tháng 8-1945, khi được tin nước Nhật bị đồng minh đánh bại, quân Nhật ở Đông Dương bị
tê liệt. Theo chủ trương của Đảng và Mặt trận Việt Minh, cả dân tộc ta đã vùng lên giành độc lập,
giành chính quyền. Ngày 19-8-1945, khởi nghĩa thắng lợi tại Hà Nội, ngày 23-8 thắng lợi ở Huế,
ngày 25-8 thắng lợi ở Sài Gòn. Ngày 30-8 vua Bảo Đại thoái vị, chính thức kết thúc chế độ quân
chủ ở Việt Nam. Ngày 2-9-1945, lễ quốc khánh được tổ chức ở Thủ đô, Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa ra mắt quốc dân đồng bào, thể chế chính trị dân chủ cộng hòa được xác lập.
Thực tiễn của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 đã thể hiện không chỉ giành độc lập cho
dân tộc Việt Nam mà còn thủ tiêu chế độ quân chủ, lập nên chế độ dân chủ cộng hòa Việt Nam.
Tuyên ngôn của cuộc Cách mạng Tháng Tám là Tuyên ngôn độc lập song chính thể được xác lập
lại là dân chủ cộng hòa, dân chủ nhân dân.
Quay trở lại Hội nghị Trung ương lần thứ VIII tháng 5-1941, Đảng ta đã có sự chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng Việt Nam, chỉ làm một cuộc cách mạng dân tộc, chỉ có một
mục tiêu độc lập dân tộc thì sẽ lý giải như thế nào về thành quả lật nhào chế độ Bảo Đại và sự ra
đời của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nếu Cách mạng Tháng Tám chỉ có mục tiêu giải
phóng dân tộc thì không khác gì các cuộc khởi nghĩa và kháng chiến trong lịch sử Việt Nam, chỉ
đánh đổ đế quốc mà không xóa bỏ chế độ quân chủ. Nhấn mạnh chủ trương nêu cao mục tiêu giải
phóng dân tộc của Đảng ta giai đoạn 1939-1945, đề cao giá trị độc lập dân tộc của Cách mạng
Tháng Tám 1945 là đúng đắn, không thể phủ nhận. Song tuyệt đối hóa giá trị độc lập dân tộc,
không nhấn mạnh, đề cao đúng mức giá trị dân chủ, ý nghĩa lịch sử của việc đập tan nhà nước
quân chủ triều Nguyễn, dựng nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là mới làm rõ và đề cao
một phần đường lối của Đảng và một phần thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám.
Việc đánh đổ chế độ phong kiến quân chủ dựng nên chế độ dân chủ cộng hòa trong Cách
mạng Tháng Tám 1945 không phải là sự « mượn gió bẻ măng » mà là một mục tiêu chiến lược
cách mạng đã được xác định rõ ràng trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trong Cương lĩnh Chính trị đầu
tiên và trong các văn kiện tiếp theo của Đảng. Hơn nữa, vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng
là vấn đề chính quyền. Cuộc tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám 1945 đã giải quyết triệt để
vấn đề đó. Cuộc cách mạng đó đã xóa bỏ triều đình phong kiến nhà Nguyễn, lập nên chính quyền
dân chủ cộng hòa, do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Ở Tân Trào, Hội nghị toàn quốc của Đảng (13-8-1945) và Quốc dân đại hội (16-8-1945)
chủ trương lập Chính phủ lâm thời có tên là Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam, và sau khi
Cách mạng Tháng Tám thành công, về Hà Nội, Đảng ta đổi thành Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Không phải ngẫu nhiên trong Tuyên ngôn độc lập đọc tại Quảng trường Ba Đình chiều
T
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 19
ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn hai bản tuyên ngôn: Tuyên ngôn độc lập của
cách mạng Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền của cách mạng Pháp, hai bản Tuyên ngôn nói về hai
vấn đề lớn là độc lập dân tộc và nhân quyền, dân chủ, tự do. Điều này góp phần khẳng định giá
trị của cuộc Cách mạng Tháng Tám và bản chất của chế độ mới.
Ngay sau ngày Quốc khánh, Đảng ta đã bắt tay ngay vào lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện hàng
loạt công việc to lớn, nặng nề để xây dựng chế độ dân chủ cộng hòa Việt Nam như: triệt để xóa
bỏ bộ máy chính quyền cũ, tổ chức tổng tuyển cử bầu Quốc hội và hội đồng nhân dân, ban hành
hiến pháp dân chủ nhân dân, phát động phong trào cứu đói xóa nạn mù chữ, xây dựng đời sống
mới… Hồ Chí Minh cho rằng nước độc lập mà dân đói khổ, không được học hành, không được
tự do dân chủ thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì.
Việc thay đổi tên gọi của Chính phủ lâm thời, từ Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam
thành Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhấn mạnh cả mục tiêu dân tộc và mục tiêu nhân
quyền, dân chủ; việc nhanh chóng xóa bỏ triệt để bộ máy nhà nước phong kiến nhà Nguyễn, thiết
lập thể chế chính trị dân chủ cộng hòa… là những bước ngoặt mau lẹ trong tư duy chính trị của
Đảng và Hồ Chí Minh.
Sự thay đổi - chuyển hướng đó làm cho cuộc Cách mạng Tháng Tám trở thành đỉnh cao của
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đúng như Cương lĩnh Chính trị năm 1930 của Nguyễn
Ái Quốc và đúng với thực tế của cuộc Tổng khởi nghĩa đã diễn ra, đáp ứng đúng ý chí, nguyện
vọng của dân tộc Việt Nam và xu thế của thời đại.
Mặt khác sự thay đổi, chuyển hướng đó còn là sự khẳng định thành quả của cuộc tổng khởi
nghĩa Tháng Tám 1945 không chỉ là thắng lợi của phong trào dân tộc mà còn là kết quả của
phong trào dân chủ, của cuộc cách mạng dân chủ. Đó cũng là sự khẳng định Đảng và Hồ Chí
Minh không chỉ đã giương cao ngọn cờ dân tộc mà còn giương cao ngọn cờ tự do dân chủ trong
thời kỳ đấu tranh giành chính quyền và ngay trong cuộc Cách mạng Tháng Tám.
Giải phóng dân tộc, giành độc lập cho nước Việt Nam là công việc to lớn, là thắng lợi nổi
bật, vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám. Nhưng suy cho cùng, giải phóng dân tộc thời nào dân tộc
ta cũng làm được. Còn lật đổ chế độ dân chủ, giành chính quyền về tay nhân dân, dựng nên chế
độ dân chủ cộng hòa, đưa nhân dân từ thân phận nô lệ lên làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, làm
chủ bản thân thì chỉ có Cách mạng Tháng Tám mới làm được.
Sau khi quân Nhật rút khỏi Đông Nam Á, hầu như các nước khu vực này đã được giải
phóng, nhiều nước đã tuyên bố độc lập. Nhưng xóa bỏ nhà nước phong kiến và chế độ quân chủ
lập nên chế độ dân chủ nhân dân thì Việt Nam là nước đầu tiên làm được. Cái vĩ đại riêng có của
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, công lao lịch sử không thể phủ nhận của Đảng Cộng sản và
Hồ Chí Minh là cả ở chỗ này chứ không chỉ là giành lại độc lập như các cuộc khởi nghĩa, kháng
chiến trước đây ở nước ta và việc giành độc lập ở các nước khác trong khu vực năm 1945.
Như vậy, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là thắng lợi « kép » vĩ đại của
dân tộc Việt Nam, công lao « kép » to lớn của Đảng và Hồ Chí Minh. Không đề cao đúng mức
thắng lợi lịch sử xóa bỏ chế độ quân chủ, dựng nên chế độ dân chủ là chưa thấy hết nội dung tư
tưởng Hồ Chí Minh và cách mạng dân tộc dân chủ, chưa thấy hết công lao của những người cách
mạng và không đúng với thực tế đã diễn ra, không công bằng khi đánh giá lịch sử.
Thời gian lịch sử càng lùi xa, đất nước càng hội nhập với thế giới, giá trị dân chủ của cuộc
Cách mạng Tháng Tám càng cần được tôn vinh và ra sức phát huy, thực hiện trên thực tế. Do đó
hơn lúc nào hết, cần nhận diện lại một cách toàn diện, sâu sắc ý nghĩa thắng lợi của cuộc Cách
mạng Tháng Tám 1945, nhận thức rõ hơn giá trị tự do, dân chủ, nhân quyền, nhân văn của cuộc
cách mạng ấy.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, NXB CTQG, H, 2002, T.2, tr.2.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, NXB CTQG, H, 2002, T.7, tr.113-137.
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 20
Quan điểm của HỒ CHÍ MINH về
XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA TRƯỜNG HỌC,
VĂN HÓA CÔNG SỞ
TRONG TÁC PHẨM ĐỜI SỐNG MỚI
h
ThS. Lê Hoàng Thị Ngân Hà, CHV. Trần Thị Tuyết; Bộ môn Lý luận chính trị
1. Đặt vấn đề
Trong các di sản Hồ Chí Minh để lại cho hậu thế, tác phẩm “Đời sống mới” có vị trí
nhất định, có ý nghĩa to lớn đối với quá trình kháng chiến và kiến quốc. Trong tác phẩm này,
Người có đề cập đến vấn đề xây dựng đời sống văn hóa ở trường học, ở công sở. Sau đây,
chúng tôi xin trích dẫn, giới thiệu những luận điểm ấy. Qua đó, mỗi chúng ta hãy suy ngẫm
và định hướng cho bản thân lối sống văn hóa, khẳng định giá trị của bản thân, góp sức tạo
nên bản sắc văn hóa của Trường Cao đẳng Thương mại.
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng đời sống văn hóa ở trƣờng học và công sở
Hồ Chí Minh cho rằng, văn hóa được thể hiện trong cuộc sống hàng ngày của mỗi
người. Người gọi đó là văn hóa đời sống. Văn hóa đời sống thực chất là đời sống mới với ba
nội dung: đạo đức mới, lối sống mới và nếp sống mới. Đạo đức mới được thể hiện trong đời
sống hàng ngày với các chuẩn mực Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Lối sống mới là lối sống có lý
tưởng, có đạo đức, là thay đổi cách ăn, cách mặc, cách ở, cách đi lại để mỗi hoạt động đều
mang tính văn hóa. Xây dựng nếp sống mới là quá trình làm cho lối sống mới dần trở thành
thói quen, thành phong tục tập quán tốt đẹp, kế thừa và phát triển những thuần phong mỹ tục.
[1, tr. 244-246]
Sau Cách mạng Tháng Tám 1945 thắng lợi, Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã phát động phong trào Xây dựng đời sống mới. Ngày 3/4/1946, Ủy ban vận động đời sống
mới Trung ương được thành lập. Một năm sau (20/3/1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tác
phẩm Đời sống mới với bút danh là Tân Sinh để chỉ đạo và động viên phong trào [3]. Trong
tác phẩm Đời sống mới, bên cạnh việc định hướng xây dựng đời sống mới cho mỗi người,
mỗi gia đình, mỗi làng, Hồ Chí Minh còn có những chỉ dẫn để các trường học, công sở xây
dựng đời sống văn hóa.
a. Xây dựng đời sống mới trong một trường học
Khi đề cập đến vấn đề xây dựng đời sống mới trong trường học, trước hết Hồ Chí Minh
nhấn mạnh vai trò học tập trong nhà trường: “Óc của những người trẻ tuổi trong sạch như
một tấm lụa trắng. Nhuộm xanh thì nó sẽ xanh. Nhuộm đỏ thì nó sẽ đỏ. Vì vậy, sự học tập ở
trong trường có ảnh hưởng rất lớn cho tương lai của thanh niên, và tương lai của thanh niên
tức là tương lai của nước nhà”. [2, tr.120]
Để xây dựng đời sống mới ở trường học, Hồ Chí Minh yêu cầu “các thầy nên thi nhau
tìm cách dạy sao cho dễ hiểu, dễ nhớ, nhanh chóng và thiết thực”; “phải dùng những lời lẽ
giản đơn, những ví dụ thiết thực mà giải thích” [2, tr.120]. “Trong chương trình học, phải
trọng về môn tinh thần và đạo đức”, “cốt nhất là phải dạy cho học trò biết yêu nước, thương
nòi” [2, tr.120]; có chí tự lập, tự cường, không chịu thua kém ai và quyết không chịu làm nô
lệ; không nên làm cho học trò có tư tưởng vị quốc, (chỉ biết coi trọng nước mình mà khinh
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 21
ghét nước người) như bọn phát xít; giáo dục học trò để họ không tự ngạo, tự phụ; khuyên học
trò tham gia tăng gia sản xuất để họ biết giá trị của lao động, quen với sự cái khổ, có ý thức
làm lấy mà ăn và giúp học trò rèn luyện sức khỏe. Học trò phải biết tiết kiệm giấy, bút, phải
biết giữ kỷ luật. Nên tổ chức phong trào thi đua giữa các lớp, các trường trong thực hiện đời
sống văn hóa ở trường học để cho học trò thêm hăng hái. [2, tr.121].
b. Xây dựng đời sống mới trong công sở
Hồ Chí Minh khẳng định, công chức là những người ăn lương của dân, làm việc của
dân, phải được dân tin cậy. Muốn được dân tin cậy, công chức phải làm gương đời sống mới
cho dân bắt chước. Công chức phải giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính để không hủ bại, biến
thành sâu mọt của dân. [2, tr.122]. Công chức thực hiện Cần là làm việc phải đúng giờ,
không đến trễ, không về sớm; làm nhanh nhưng chu đáo, việc hôm nào làm xong hôm đó;
công chức “Phải nhớ rằng: Dân đã lấy tiền mồ hôi nước mắt để trả lương cho ta trong những
thì giờ đó. Ai lười biếng tức là lừa gạt dân” [2, tr.122].
Hồ Chí Minh cho rằng, vật liệu trong các công sở đều là tiền của chính phủ tức là của
dân nên công chức phải tiết kiệm. Nếu một miếng giấy nhỏ đủ viết thì chớ dùng một tờ giấy
to. Một cái phong bì có thể dùng hai ba lần. Công chức ở các công sở biết tiết kiệm thì hàng
năm đỡ hàng triệu đồng bạc, làm lợi cho dân rất nhiều.
Hồ Chí Minh căn dặn những người làm công sở phải lấy chữ Liêm hàng đầu. Bởi những
người làm công sở ít nhiều có ít quyền hành, “đều dễ tìm dịp phát tài, hoặc xoay tiền của
Chính phủ, hoặc khoét đục dân. Nếu những việc làm đó bị phát giác thì mất hết danh giá và
không được hưởng cả của phi nghĩa đó”.
Công chức phải nhớ Chính bởi công chức là người làm việc công, phải có công tâm,
công đức. Chớ đem của công dùng việc tư. Chớ đem người tư làm việc công. Việc gì cũng
phải công tư, chính trực, không nên vì tư ân, tư huệ, hoặc tư thù, tư oán. Khi chúng ta có
quyền dùng người thì phải dùng những người có tài năng, làm được việc. Chớ vì bà con, bầu
bạn mà kéo vào chức nọ, chức kia. Chớ vì sợ mất địa vị mà dìm những kẻ có tài năng hơn
mình. Phải trung thành với chính phủ. Chớ lên mặt làm “quan cách mạng”.
Chúng ta là những người thầy, người cô, là những công nhân viên chức. Chúng ta đã
làm được gì để xây dựng đời sống văn hóa trong Nhà trường. Các bạn là sinh viên, là học trò,
các bạn đã, đang và sẽ làm gì để xây dựng văn hóa học đường.
3. Kết luận
Cho đến ngày nay, Đời sống mới đã tròn 66 tuổi (1947-2013) nhưng những quan điểm
của Hồ Chí Minh trong tác phẩm này vẫn còn mới, có ý nghĩa lớn trong quá trình xây dựng
văn hóa ở các trường học và công sở. Năm học mới đang đến gần, thầy và trò trường ta hãy
cùng nhau chung tay góp sức xây dựng Trường Cao đẳng Thương mại thành một trường mô
phạm về văn hóa học đường, văn hóa công sở. Hãy ghi nhớ lời kết của Hồ Chí Minh trong
Đời sống mới: “Chúng ta đồng tâm mà làm, quyết tâm mà làm thì đời sống mới nhất định
thực hiện được. Mong toàn thể đồng bào hãy gắng sức theo đời sống mới, xây dựng một nước
Việt Nam mới phú cường.” [2, tr.128]
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2011), Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb CTQG, Hà Nội.
[2] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, tập 5, tr. 120.
[3] TS. Nguyễn Liên Châu, Tác phẩm "Đời sống mới" của Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề xây
dựng nông thôn mới hiện nay, http://baohatinh.vn/home/doi-song-van-hoa/tac-pham-doi-song-
moi-cua-chu-tich-ho-chi-minh-voi-van-de-xay-dung-nong-thon-moi-hien-nay/1k59281.aspx.
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 22
TRÁCH NHIỆM VỚI CÔNG VIỆC CỦA NGƯỜI CÁN BỘ TỪ NHẬN THỨC ĐẾN LÀM THEO GƯƠNG BÁC
ThS. Lƣơng Vũ Lam Giang, Bộ môn Cơ bản
Tóm tắt: Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã là hiện thân cao cả của tinh thần “trách
nhiệm với công việc”. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Bác luôn là tấm
gương sáng về tinh thần phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại chỉ với
mong muốn: xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới. Trong Di chúc, Người vẫn
còn trăn trở: “Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân
dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng
không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”1. Do đó, dù ở bất cứ thời kỳ cách mạng nào,
những tư tưởng, phẩm chất đạo đức và phong cách làm việc của Bác vẫn sẽ mãi là bài học
bổ ích cho mỗi cán bộ, đảng viên học tập và noi theo.
Việc xây dựng chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, đảng viên và nhân dân theo
tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh là yêu cầu, nhiệm vụ
quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Trong bất kỳ giai đoạn
cách mạng nào, cán bộ, đảng viên của Đảng muốn phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu,
lãnh đạo được quần chúng, nhất thiết phải học tập, tu dưỡng, rèn luyện để trở thành những
tấm gương trong sáng về đạo đức, đặc biệt là đạo đức cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh trên
rất nhiều sách, báo, tạp chí, bài nói, bài viết đã chú trọng đề cập đến vấn đề này, từ lúc cách
mạng nước ta còn non trẻ, trong tác phẩm Đường Kách mệnh (xuất bản năm 1927), Nguyễn
Ái Quốc đã nêu lên 23 điểm thuộc “tư cách một người cách mệnh”, trong đó chủ yếu là các
tiêu chuẩn về đạo đức, thể hiện trong 3 mối quan hệ chính: với mình, với người và với công
việc.
Vấn đề đạo đức cách mạng tiếp tục được Người viết năm 1947 trong tác phẩm Sửa đổi
lối làm việc ngay khi nước ta vừa giành được chính quyền về tay nhân dân, lập ra Nhà nước
Việt Nam Dân chủ cộng hòa để nhắc nhở, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên trách nhiệm
với công việc quốc gia trong tình hình mới, giành được chính quyền đã khó, nhưng giữ được
chính quyền còn khó hơn. Hay trong bài viết “Đạo đức cách mạng” đăng trên Tạp chí Học
tập số 12 năm 1958, lấy bút danh là Trần Lực, Người viết: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội
cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng
nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và
đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được
nhiệm vụ cách mạng vẻ vang.”2.
Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền.
Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh
đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”.3 Riêng vấn đề này, Người đã dùng chữ
1 Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, 2000, t.12, tr. 512
2 Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, 2000, t.9, tr. 283
3 Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, 2000, t.12, tr. 510
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 23
“thật” 4 lần trong một câu văn để nhấn mạnh vai trò và tầm quan trọng đặc biệt của việc rèn
luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng ở đảng viên và cán bộ.
Và để xứng đáng với vai trò “là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân”, “trung với nước, hiếu với dân” chính là phẩm chất đầu tiên và quan trọng nhất
được Người đặc biệt nhấn mạnh với cán bộ, đảng viên. Trung với nước, hiếu với dân là phải
có tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc, có lương tâm nghề nghiệp trong sáng; “Trách
nhiệm với công việc”, nghĩa là có tinh thần trách nhiệm cao, làm tròn trách nhiệm được giao,
có ý thức và tận tụy trong công việc, làm việc có khoa học đạt chất lượng, hiệu quả; có sáng
kiến, đổi mới; dám chịu trách nhiệm trước việc làm của mình… Thường xuyên tự rèn luyện,
phấn đấu trở thành khuôn mẫu chuẩn mực cho bản thân mình và là phong trào của tập thể, địa
phương, cơ quan, đơn vị.
Trách nhiệm với công việc thể hiện ở 3 tiêu chí quan trọng, đó là đối với mình, với
người và với công việc, được Bác nhấn mạnh qua thực hiện “cần, kiệm, liêm, chính, chí công,
vô tư”. Cần, kiệm là phẩm chất của mọi người lao động trong đời sống, trong công tác. Liêm,
chính là phẩm chất của người cán bộ khi thi hành công vụ. Chí công là rất mực công bằng,
công tâm; vô tư là không được có lòng riêng, thiên tư, thiên vị “tri ân, tri huệ, tri oán, tri thù”
đem lòng chí công, vô tư đối với người, với việc. “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến
mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Muốn
“chí công, vô tư” phải chiến thắng được chủ nghĩa cá nhân.
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rút ra “mấy điều kinh
nghiệm” và “phận sự của cán bộ” khi đứng trước trách nhiệm với công việc mà Đảng, Chính
phủ giao phó:
Thứ nhất, quá trình thực thi trách nhiệm với công việc, hiệu quả và chất lượng của công
việc cao hay thấp, tốt hay xấu, thành công hay thất bại… phụ thuộc chủ yếu vào vai trò của
người cán bộ. Vì: Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích
cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho
Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng.
Thực tế cho thấy, một số chính sách, chủ trương của Chính phủ đề ra rất đúng đắn
nhưng khi triển khai về địa phương, cơ sở thì có thể bị sai lệch đi ít nhiều ảnh hưởng đến lợi
ích của người dân. Điều này tuy không phổ biến nhưng vẫn diễn ra ở một số nơi có cán bộ
quan liêu, cửa quyền, tắc trách, thiếu trách nhiệm với công việc mà Đảng, Chính phủ giao
phó.
Thứ hai, phải nâng cao sáng kiến và lòng hăng hái trong phụ trách công việc. Sáng kiến
không phải cái gì xa lạ. Nó chỉ là kết quả của sự nghiên cứu, suy nghĩ trong những hoàn cảnh,
trong những điều kiện rất tầm thường, rất phổ thông, rất thiết thực. Bất kỳ ai, nếu có quyết
tâm làm ích lợi cho quần chúng, lại chịu học, chịu hỏi quần chúng, óc chịu khó nghĩ, tay chịu
khó làm, thì nhất định có sáng kiến, nhất định làm được những việc có ích cho loài người”4.
Nếu không có sáng kiến và lòng hăng hái thì công việc sẽ diễn ra rất đơn điệu, nhàm
chán và dẫn đến trì trệ, không còn tâm huyết với nghề, với công việc. Tuy nhiên cũng cần
tránh tình trạng chạy theo thành tích sáng kiến nhưng đôi khi lại trở thành “tối kiến” khi áp
dụng vào thực tế dẫn đến tốn sức, tốn của không cần thiết. Điều này đòi hỏi sáng kiến phải
sát với thực tế, tiết kiệm được thời gian, tiền của, công sức, nâng cao hiệu quả và chất lượng
công việc.
Thứ ba, để hiểu và gánh vác trách nhiệm với công việc, Bác đòi hỏi cán bộ phải nhận
thức rõ: “Việc đó làm cho ai? Đối với ai phụ trách?”
4 Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, H, 2000, t.5, tr.244 - 245
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 24
Từ cách đặt vấn đề như vậy, Bác chỉ rõ: Chính phủ và Đảng chỉ mưu giải phóng cho
nhân dân, vì thế, bất kỳ việc gì cũng vì lợi ích của nhân dân mà làm và chịu trách nhiệm trước
nhân dân. Để làm được điều này, người cán bộ phải chịu khó tìm đủ cách giải thích cho dân
hiểu rằng: những việc đó là vì lợi ích của họ mà phải làm.
Sở dĩ Bác nhấn mạnh vấn đề này nhằm tránh cho cán bộ rơi vào chủ nghĩa cá nhân, chỉ
lo vun vén lợi ích bản thân, lạm quyền, trục lợi từ công việc mà mình được giao phó mà quên
đi rằng: cán bộ là công bộc của dân, mọi công việc suy cho cùng cũng chỉ xuất phát từ lợi ích
của dân mà ra.
Học tập và làm theo tấm gương của Người, thực hiện tốt “trách nhiệm trong công việc”
với một số kinh nghiệm như trên và những phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư
trong giai đoạn hiện nay cần thực hiện tốt một số vấn đề:
Một là, tích cực lao động, học tập, công tác với tinh thần lao động sáng tạo, có năng
suất, chất lượng, hiệu quả cao; không ngừng nâng cao tinh thần trách nhiệm với công việc mà
mình phụ trách thể hiện qua tinh thần hăng hái, nhiệt huyết, có lương tâm, trí tuệ, đạo đức…
nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu đặt ra ngày càng cao của công việc nói riêng và sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung.
Hai là, người cán bộ phục vụ cho sự nghiệp cách mạng không chỉ tu dưỡng, rèn luyện
về đạo đức, tác phong, lề lối làm việc khoa học mà còn không ngừng học tập hoàn thiện kỹ
năng, nghiệp vụ, chuyên môn để nắm bắt tốt chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước
nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng của công việc. Đây không những là yêu cầu cần thiết
mà còn là trách nhiệm, nghĩa vụ đối với mỗi cán bộ trong một xã hội không ngừng học tập để
phục vụ tốt hơn nữa công việc được Đảng, Nhà nước và nhân dân tin tưởng giao phó.
Ba là, trách nhiệm với công việc tức là phải kiên quyết chống bệnh lười biếng, lối sống
hưởng thụ, vị kỷ, nói không đi đôi với làm, nói nhiều, làm ít, miệng nói lời cao đạo nhưng tư
tưởng, tình cảm và việc làm thì mang nặng đầu óc cá nhân, tư lợi, việc gì có lợi cho mình thì
“hăng hái”, tranh thủ kiếm lợi, việc gì không “kiếm chác” được cho riêng mình thì thờ ơ, lãnh
đạm. Phải có thái độ rõ rệt lên án và kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tệ tham
nhũng, tiêu cực, loại trừ mọi biểu hiện vô liêm, bất chính ra khỏi đời sống xã hội.
Bốn là, mọi công việc của người cán bộ đều để tiết kiệm tiền của, thời gian, công sức
cho nhân dân nhằm mang lại hiệu quả thiết thực nhất cho công việc, do đó cần biết quý trọng
công sức lao động và tài sản của tập thể, của nhân dân; không xa hoa, lãng phí, không phô
trương, hình thức; biết sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn của Nhà nước, của tập thể, của
chính mình một cách có hiệu quả.
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 25
CÔNG NGHIỆP ÔTÔ VIỆT NAM
ƢỚC MƠ CÕN DANG DỞ
ThS. Hoàng Hà Tiên, Khoa Thƣơng mại và Du lịch
Đặt vấn đề
Ngành công nghiệp ô tô được xem là một trong những ngành trọng điểm trong chiến
lược phát triển kinh tế để đạt được mục tiêu Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp
vào năm 2020 với những ưu thế nổi trội của ngành như tạo công ăn việc làm, nâng cao giá
trị gia tăng, tạo động lực cho các ngành khác phát triển. Từ năm 2002, Thủ tướng chính
phủ đã ký quyết định phê duyệt Chiến lược phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam
đến năm 2010, tầm nhìn đến 2020 với mục tiêu “Phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt
Nam trên cơ sở tiếp thu và ứng dụng công nghệ tiên tiến của thế giới, kết hợp với khai
thác và từng bước nâng cao công nghệ và thiết bị hiện có, đáp ứng phần lớn nhu cầu thị
trường ô tô trong nước, hướng tới xuất khẩu ôtô và phụ tùng”1.
Đến nay, tức là hơn 10 năm thực hiện, ngoài chỉ tiêu xuất khẩu linh kiện, còn lại tất
cả các chỉ tiêu khác đều thất bại, điển hình như mục tiêu đối với dòng xe phổ thông được
đặt ra là đáp ứng trên 80% nhu cầu trong nước về số lượng và đạt tỷ lệ nội địa hóa 60%
vào năm 2010 (riêng động cơ đạt tỷ lệ nội địa hóa 50% và hộp số đạt 90%)1 phá sản hoàn
toàn. Bên cạnh đó, chúng ta chứng kiến việc các nhà đầu tư nước ngoài không mặn mà
với ngành công nghiệp ô tô Việt Nam trong khi họ vẫn đánh giá đây là ngành khá hấp dẫn
với tỷ lệ ô tô/dân số hiện nay là 20xe/1000 dân2, dự đoán con số này đến năm 2025 là 88
xe/1000 dân2. Vậy đâu là nguyên nhân?
Đi tìm nguyên nhân
Thứ nhất, các chính sách như thuế, phí thể hiện rõ ràng rằng ô tô là mặt hàng
không được khuyến khích tiêu thụ mặc dù ngành ô tô Việt Nam được xem là trọng điểm
để phát triển kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Cụ thể hiện
nay, xe du lịch mới nhập khẩu về Việt Nam phải chịu 3 loại thuế là thuế nhập khẩu 82%,
thuế tiêu thụ đặc biệt 30% đối với xe trên 5 chỗ và 45% đối với xe dưới 5 chỗ ngồi, bên
cạnh đó là các loại phí như phí trước bạ, phí biển số, phí đăng kiểm, bảo hiểm trách nhiệm
dân sự, phí bảo trì đường bộ, phí xăng dầu và phí cho quỹ bình ổn; việc áp dụng các
khoản thuế và phí này làm cho giá ô tô của một nước đang phát triển như Việt Nam cao
gấp 3 đến 4 lần các nước phát triển như Mỹ, Pháp, Nhật Bản3.
Lý giải cho việc không khuyến khích tiêu thụ ô tô tại Việt Nam hiện nay là các
nguyên nhân như cơ sở hạ tầng chưa đảm bảo, việc sử dụng nhiên liệu gia tăng (hiện Việt
Nam nhập khẩu 70% nhiên liệu), các vấn đề về môi trường và sự phân hóa giàu nghèo
trong xã hội…
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 26
Tuy nhiên, để đẩy mạnh công nghiệp ô tô thì không thể nào đồng thời hạn chế sử
dụng xe, đặc biệt là dòng xe dành cho hộ gia đình vì hộ gia đình là những khách hàng
tiềm năng nhất và quyết định sự sống còn của ngành công nghiệp ô tô. Có cầu mới có
cung, khi cầu bị kìm hãm thì cung không thể nào phát triển được, đó là chân lý.
Thứ hai, các chính sách của Việt Nam về ngành công nghiệp ô tô thay đổi quá
nhanh và không thể dự đoán được. Trong 10 năm vừa qua, cứ mỗi năm bình quân chúng
ta thay đổi chính sách từ 3 đến 4 lần. Vậy nên, khi Thái Lan đối mặt với trận lụt lịch sử
năm 2011, các nhà máy như Toyota, Ford… bị chìm trong biển nước, chúng ta hy vọng
họ sẽ chuyển dần sang Việt Nam, nhưng không, họ vẫn ở đó thà đương đầu với lụt vì các
chính sách ổn định còn hơn phải đối mặt với các chính sách thay đổi liên tục của Việt
Nam. Cuối năm 2012, Toyota công bố đầu tư 2,7 tỷ USD vào Indonesia trong vòng 4
năm, Ford đầu tư hơn 1 tỷ USD vào Thái Lan, Philippines cũng đang là điểm đến hấp dẫn
cho các nhà đầu tư như Toyota, Honda, Isuzu… vì sự cam kết ổn định lâu dài chính sách.
Ông Bùi Ngọc Huyên, Tổng Giám đốc Vinaxuki (Công ty cổ phần ôtô Xuân Kiên) nói:
“Khắp thế giới người ta đều biết chính sách ôtô của Việt Nam thay đổi xoành xoạch. Tôi
sang Đài Loan đề nghị một số doanh nghiệp đầu tư vào Việt Nam, nhưng họ từ chối thẳng
thừng vì họ được biết chính sách không những thay đổi liên tục, chẳng có lộ trình, chẳng
tham khảo ý kiến ai cả nên họ không thể hình dung nổi” 4.
Thứ ba, ngành công nghiệp phụ trợ cho sản xuất ô tô còn kém phát triển. Tỷ lệ
nội địa hóa linh kiện ở Việt Nam hiện nay là 27,9%, thấp hơn mức 47,8% của khu vực,
43,3% của Indonesia, 52,9% của Thái Lan và 60,8% của Trung Quốc5. Sự tồn tại của
ngành công nghiệp phụ trợ phụ thuộc vào tính kinh tế nhờ quy mô, tuy nhiên khi ngành
công nghiệp ô tô bị hạn chế đầu ra thì ngành công nghiệp phụ trợ không thể sống nổi là
điều dễ hiểu.
Hiện nay trong một chiếc ô tô, chúng ta chỉ có thể sản xuất được những thiết bị đơn
giản như vỏ bọc nệm ghế, còn kim phun nhiên liệu cho động cơ, hộp số… đều nhập từ
nước ngoài. Công nghiệp phụ trợ cho ngành ô tô và ngành công nghiệp ô tô trong nước có
liên quan mật thiết đến nhau, cùng nhau tồn tại, cùng nhau phát triển. Vậy mà đến bây giờ
chúng ta vẫn cứ loay hoay không biết nên phát triển ngành nào trước, điều này giống như
việc chúng ta băn khoăn không biết con gà hay quả trứng phải có trước và vì thế cả hai
đều chết yểu.
Thứ tư, sự bảo hộ quá mạnh tay cho ô tô sản xuất trong nước. Trong một khoảng
thời gian dài các liên doanh ô tô tại Việt Nam được hưởng thuế thu nhập doanh nghiệp từ
15% - 20% tùy địa phương (thay vì 25% như các doanh nghiệp trong những ngành khác),
các doanh nghiệp này được miễn thuế nhập khẩu các loại máy móc, thiết bị, linh kiện
trong nước chưa sản xuất được… để phục vụ sản xuất. Bên cạnh đó, có thể thấy rõ sự ưu
tiên thông qua thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế nhập khẩu, đối với xe dưới 5 chỗ ngồi có thời
điểm thuế nhập khẩu xe nguyên chiếc là 100% nhưng thuế nhập khẩu linh kiện để lắp ráp
là 5%-20%, thuế tiêu thụ đặc biệt xe nhập khẩu nguyên chiếc là 100% nhưng thuế này đối
với xe lắp ráp trong nước là 5%. Chúng ta quá ưu tiên về thuế và các khoản ưu đãi cho
các doanh nghiệp sản xuất trong nước mà quên kiểm tra tỷ lệ nội địa hóa các liên doanh
này thực hiện cam kết qua các năm, hệ lụy của nó là đã đẻ ra ngành công nghiệp ô tô
tuốc-nơ-vít vì ngành công nghiệp này của Việt Nam chỉ chuyên môn hóa mỗi một công
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 27
đoạn là nhập linh kiện từ nước ngoài và dùng tuốc-nơ-vít lắp lại, ngoài ra chúng ta không
biết gì thêm. Đau đớn lắm thay!
Vậy giải pháp nào cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam?
1. Dỡ bỏ dần các loại thuế, phí, từng bước thay đổi cách nhìn nhận đối với việc
tiêu dùng và sử dụng ô tô của người dân, xem đây là xu thế tất yếu của xã hội phát triển;
cùng với việc nâng cao hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông. Trong thời gian trước mắt, khi
cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng kịp, để hạn chế lưu lượng ô tô tham gia lưu thông, thay vì quy
định thuế cao, phí cao chúng ta nên đưa ra những tiêu chuẩn cao về mức tiêu hao năng
lượng để tiết kiệm nhiên liệu khi sử dụng và mức khí thải để bảo vệ môi trường.
2. Nghiên cứu, tham khảo ý kiến, học hỏi kinh nghiệm các nước trước khi đưa ra
chính sách, cam kết tính ổn định của các chính sách (có thể cam kết thời gian 20 năm như
Indonesia đã thực hiện).
3. Giảm dần sự bảo hộ đối với các doanh nghiệp ô tô sản xuất trong nước, các
doanh nghiệp buộc phải cạnh tranh để phát triển.
4. Thay đổi mục tiêu trong chiến lược phát triển, thay vì mục tiêu tăng tỷ lệ nội địa
hóa sản phẩm với ước mơ xa vời là sản xuất một chiếc xe ô tô mà tất cả các linh kiện đều
sản xuất tại Việt Nam, chúng ta nên chú trọng sản xuất chuyên môn hóa một vài linh kiện
trong xe, tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm và công nghệ để đạt được đỉnh cao về chất lượng
và tham gia vào chuỗi giá trị của các tập đoàn lớn từ đó dựa vào lợi thế quy mô khu vực
và toàn cầu.
Lời kết
Chúng ta đã sai và phải dũng cảm nhận ra cái sai để thay đổi, cần thiết phải thay
đổi ngay vì thời hạn năm 2018 thuế nhập khẩu ô tô từ các nước Asean vào Việt Nam là
0% đã gần kề; trừ khi Việt Nam thuyết phục được người dân chuyển từ sử dụng xe máy
sang sử dụng xe đạp bỏ qua giai đoạn đi ô tô bằng cách nói với người dân rằng ở các nước
phát triển như Thụy Điển, Phần Lan sau khi sử dụng ô tô một thời gian dài, nay người dân
các nước này lại thích dùng xe đạp hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Chiến lược phát triển ngành công nghiệp ô tô đến năm 2010 và tầm nhìn đến 2020,
moj.gov.vn.
[2] An Nhi, Nghịch lý “hợp lý” thị trường ô tô Việt Nam, Vneconomy.vn.
[3] Công nghiệp ô tô tại Việt Nam, Wikipedia.org.
[4] Trần Thủy , Công nghiệp ô tô vỡ trận, Vietnamnet.vn.
[5] Chính sách ô tô 2013: Đi về nơi vô định, tìm một vật vô danh , Tạp chí ô tô xe máy Việt
Nam tháng 3/3013.
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 28
CÁC LỢI ÍCH CỦA
KẾ TOÁN QUẢN TRỊ MÔI TRƢỜNG
ThS. Ngô Thị Hoài Nam, Phó Trƣởng khoa Kế toán – Kiểm toán
Đặt vấn đề: Bài viết “Kế toán môi trường là gì?” đề cập đến sự cần thiết về kế
toán môi trường trong doanh nghiệp và thể hiện trách nhiệm của doanh nghiệp đối với
môi trường. Với bài viết này, tác giả muốn trình bày các lợi ích mà kế toán quản trị môi
trường mang lại đối với các doanh nghiệp và nhà quản trị doanh nghiệp.
Để đưa ra quyết định đúng đắn và để có công cụ đo lường chính xác cần thiết phải
dựa vào các thông tin liên quan và nhạy cảm. Kế toán quản trị là một trong những công cụ
quan trọng nhất để xác định, đo lường, tích lũy, phân tích, giải thích và kết nối những
thông tin quản trị liên quan.
Vấn đề môi trường ảnh hưởng ngày càng sâu rộng đến nền kinh tế nói chung và
các doanh nghiệp nói riêng. Sự gia tăng các quyết định liên quan đến môi trường cũng
như các nhu cầu về thông tin môi trường bởi nhà đầu tư, các yêu cầu của giao dịch thương
mại và của các khách hàng đơn lẻ về môi trường mà khởi nguồn về những sản phẩm cung
ứng thân thiện với môi trường là ví dụ điển hình. Mặt khác, những nhà quản trị cần kết
hợp cân nhắc chặt chẽ với môi trường để đưa ra các quyết định trong quá trình hoạt động.
Tác động về tài chính của những quyết định về môi trường thường được nhà quản trị đánh
giá thấp hoặc không quan tâm. Lý do chính của vấn đề này là sự thiếu hụt thông tin.
Thông qua những xử lý kế toán theo truyền thống, chi phí môi trường thường ẩn, chỉ biểu
hiện một phần nổi trên bề mặt nên nó không được xác định hoặc xác định nhưng không
đầy đủ trong quá trình sản xuất sản phẩm và quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Kế
toán quản trị môi trường giúp giải quyết vấn đề này. Nó cung cấp những công cụ và
phương pháp để giúp nhà quản trị đánh giá những tác động của việc đo lường chi phí môi
trường mà từ đó đánh giá thực chất tình hình tài chính và trách nhiệm đối với môi trường
của doanh nghiệp.
Kế toán quản trị môi trường hợp nhất một cách có hệ thống khía cạnh môi trường
của doanh nghiệp vào kế toán quản trị và quy trình đưa ra quyết định. Kế toán quản trị
môi trường giúp nhà quản trị doanh nghiệp thu thập, phân tích và kết nối thông tin tiền tệ
môi trường và thông tin vật chất. Cụ thể, nó cho thấy lợi ích tài chính và chi phí tiết kiệm
tiềm năng có thể thu được từ việc quan tâm hướng đến môi trường trong doanh nghiệp.
Kế toán quản trị môi trƣờng giúp doanh nghiệp của bạn có những lợi ích nào?
Trước hết, doanh nghiệp của bạn có thể thu được lợi nhuận bằng nhiều cách khác
nhau. Bằng việc nhận biết và giảm thiểu chi phí môi trường. Kế toán quản trị môi trường
có thể làm tăng lợi nhuận dự trữ, tăng thị phần. Đồng thời, nó bộc lộ rõ trách nhiệm về
môi trường của đơn vị, nó cải tiến việc ra quyết định và những quan hệ góp vốn, đầu tư.
Thứ hai, kế toán quản trị môi trường giúp doanh nghiệp tiết kiệm tiền. Cụ thể, tác
động về vấn đề môi trường đến chi phí sản phẩm thường được đánh giá thấp. Nó như là
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 29
một tảng băng ngầm. Chỉ một phần nhỏ của chi phí môi trường là hữu hình, trong khi đó,
phần lớn là không nhìn thấy được. Kế toán quản trị môi trường giúp xác định và phân tích
những chi phí ẩn. Chẳng hạn, việc đánh giá thấp tầm quan trọng của rác thải không chỉ
làm tiêu hao chi phí phân loại, xử lý và loại bỏ rác thải mà còn tiêu tốn chi phí nguyên
liệu ban đầu (nguyên liệu càng sử dụng ít nếu càng giảm thiểu rác thải), chi phí hoạt động
(nguyên liệu sử dụng càng ít nếu quá trình sản xuất càng sử dụng tiết kiệm và hiệu quả),
chi phí tiền lương, chi phí quản lý. Chi phí ẩn bao gồm: chi phí xử lý rác thải, chi phí về
nguyên liệu bị lãng phí, chi phí năng lượng, chi phí máy móc, thiết bị, chi phí tiền lương,
chi phí quản lý quá trình lưu kho và xử lý rác thải…
Thứ ba, kế toán quản trị môi trường hỗ trợ việc ra quyết định của nhà quản trị. Các
quyết định phù hợp và có lợi chỉ đạt được khi dựa vào hệ thống thông tin đầy đủ. Kế toán
quản trị môi trường cung cấp những thông tin chủ yếu về chi phí mà liên quan đến vấn đề
môi trường mà trước đó bị ẩn trong chi phí sản xuất kinh doanh.
Thứ tư, kế toán quản trị môi trường cải thiện tình hình kinh tế cũng như trách
nhiệm đối với môi trường của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có hàng trăm giải pháp để
cải thiện môi trường như đầu tư vào công nghệ làm sạch, chiến dịch giảm chất thải, hệ
thống điều khiển giảm ô nhiễm không khí, xử lý nước thải, tái sử dụng .v.v.. Nhưng lợi
ích đó được đo đạc như thế nào? Kế toán quản trị môi trường thực sự giải quyết được vấn
đề đó một cách thấu đáo bằng cách xác định được sự gia tăng của giá trị cổ phần và lợi
nhuận kinh doanh, giảm thiểu tác hại môi trường của quá trình hoạt động và sản phẩm.
Doanh nghiệp của bạn sẽ tốt hơn cả về mặt môi trường lẫn tình hình tài chính. Điều này
đã được chứng minh ở những doanh nghiệp và tổ chức trên toàn thế giới như: Canon Inc
(Japan, Electronics), Fujitsu (Japan, Electronics), Dow Chemical (USA, Chemicals),
ICAFE (Costa Rica, Coffee Millers Association), Novo Nordisk (Denmark, Healthcare)…
Thứ năm, kế toán quản trị môi trường thu hút các nhà đầu tư. Việc thiết lập kế
toán quản trị môi trường trong doanh nghiệp đã cho thấy doanh nghiệp chú trọng đồng
thời hoạt động tài chính với hoạt động môi trường. Bằng cách đó, doanh nghiệp của bạn
đã thuyết phục các nhà đầu tư, các cá nhân và tổ chức kinh doanh, cả địa phương, chính
quyền sở tại và các nước lân cận rằng doanh nghiệp đã được quản lý tốt, tuân thủ luật
định và điều đó đã làm tăng giá trị cổ phần. Thêm vào đó, doanh nghiệp còn có các cơ hội
để nhận những đơn đặt hàng có lợi, giảm rủi ro về các rào cản luật pháp và cải thiện quan
hệ với nhà đầu tư, nhận được sự hỗ trợ của khách hàng...
Thứ sáu, kế toán quản trị môi trường thực sự phù hợp với mọi doanh nghiệp. Nó
cung cấp một hệ thống các công cụ và phương pháp để làm cho doanh nghiệp của bạn tiết
kiệm được tiền của và cải tiến việc ra quyết định. Nó có cả các công cụ đơn giản, thủ
công phù hợp với loại doanh nghiệp vừa và nhỏ và cả những công cụ tinh vi cho các
doanh nghiệp lớn. Kế toán quản trị môi trường hỗ trợ cho loại quyết định lần đầu như một
đầu tư mới cũng như các quyết định mang tính liên tục trong quá trình quản lý như kế
toán chi phí, quản lý chi phí. Điều này có thể ứng dụng được với tất cả các loại hình công
nghiệp, thương mại.
Kết luận: Kế toán quản trị môi trường được thiết lập sẽ mang lại cho các doanh
nghiệp những lợi ích đích thực và nó có thể phù hợp với mọi loại hình doanh nghiệp có
quy mô khác nhau.
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 30
TRAO ĐỔI VỀ ÁP DỤNG HỒI TỐ THAY ĐỔI CHÍNH SÁCH KẾ TOÁN VÀ ĐIỀU CHỈNH
HỒI TỐ SAI SÓT KẾ TOÁN
ThS. Trần Thị Kim Phú, CHV. Cao Thị Mai Anh, Khoa Kế toán – Kiểm toán
Hồi tố kế toán Việt Nam được đề cập ở chuẩn mực số 29 (VAS29) và Thông tư số
20/2006/TT-BTC. Hiện nay, hồi tố trong kế toán chủ yếu được kiểm toán vận dụng khi phát
hiện các sai sót trọng yếu xảy ra trên báo cáo tài chính đã công bố từ những năm trước. Kế
toán của các doanh nghiệp nói chung và đặc biệt các doanh nghiệp nhỏ và vừa nói riêng đã
từng bước vận dụng nhưng còn sự nhầm lẫn giữa điều chỉnh hồi tố và không điều chỉnh hồi
tố. Mặc dù đây là vấn đề rất quan trọng ảnh hưởng đến tài sản, nguồn vốn, kết quả kinh
doanh của đơn vị nhưng trong các chương trình giáo dục rất ít đề cập, như vậy sẽ ảnh hưởng
đến sự hiểu biết của sinh viên, dẫn đến việc vận dụng trong thực tế sau này sẽ gặp khó khăn.
Trong bài viết này tác giả sẽ phân tích rõ ràng những trường hợp nào được điều chỉnh hồi tố
và không được hồi tố có kèm theo phương pháp, ví dụ minh họa cơ bản giúp cho người học
và người làm kế toán nhận diện rõ hồi tố kế toán.
1. Áp dụng hồi tố kế toán và điều chỉnh hồi tố kế toán
Theo Thông tư 20/2006/TT-BTC, sẽ áp dụng hồi tố đối với thay đổi chính sách kế toán
của năm hiện tại so với một hoặc những năm trước đó hoặc điều chỉnh hồi tố đối với các sai
sót từ một hoặc những năm trước được phát hiện ở năm hiện tại. Khi phát sinh hai trường hợp
trên, kế toán cần điều chỉnh số liệu ở cột so sánh (cột đầu kỳ) của những năm trước và năm
hiện tại trên bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và phải trình bày rõ
về vấn đề áp dụng hồi tố đối với thay đổi chính sách kế toán và điều chỉnh kế toán đối với sai
sót trên bảng thuyết minh báo cáo tài chính của năm điều chỉnh sớm nhất, các năm tiếp theo
không cần ghi lại các thông tin này. Từ đó, có thể nêu được quy trình áp dụng hồi tố kế toán
và điều chỉnh hồi tố kế toán như sau:
Sơ đồ 1: Quy trình áp dụng hồi tố kế toán và điều chỉnh hồi tố kế toán
Hồi tố kế toán
Thay đổi chính sách
kế toán
Sai sót từ kỳ trước
(báo cáo tài chính đã công bố)
Áp dụng hồi tố kế toán Điều chỉnh hồi tố kế toán
Điều chỉnh số liệu trên cột
so sánh của năm hiện tại
hoặc năm trước
Trình bày về áp dụng
hồi tố hoặc điều chỉnh
hồi tố
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 31
Giải thích quy trình để vận dụng
1.1. Thay đổi chính sách kế toán
Chính sách kế toán là các nguyên tắc, cơ sở, phương pháp kế toán cụ thể được
doanh nghiệp áp dụng trong việc lập và trình bày báo cáo tài chính.
Thay đổi chính sách kế toán là việc thay đổi nguyên tắc, cơ sở, phương pháp kế
toán cụ thể được doanh nghiệp áp dụng trong việc lập và trình bày báo cáo tài chính.
Chẳng hạn: thay đổi phương pháp tính giá hàng tồn kho (hàng xuất kho), phương pháp
hạch toán chênh lệch tỷ giá hối đoái, phương pháp kế toán chi phí đi vay...
Việc thay đổi chính sách kế toán được thực hiện ở các doanh nghiệp khi:
- Có sự thay đổi theo quy định của pháp luật hoặc của Chuẩn mực kế toán và chế
độ kế toán; hoặc
- Sự thay đổi sẽ dẫn đến báo cáo tài chính cung cấp thông tin tin cậy và thích hợp
hơn về ảnh hưởng của các giao dịch, sự kiện đối với tình hình tài chính, kết quả hoạt động
kinh doanh và lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp.
Ví dụ:
- Xử lý chênh lệch tỷ giá hối đoái phát sinh do đánh giá lại số dư ngoại tệ cuối kỳ:
Theo Thông tư 201/2009/TT-BTC, đối với các khoản mục phản ánh tình hình
thanh toán: phải thu, phải trả có số dư ngoại tệ vào thời điểm cuối kỳ trong giai đoạn hoạt
động kinh doanh, kế toán phải đánh giá lại theo tỷ giá bình quân liên ngân hàng tại thời
điểm cuối kỳ kế toán. Tuy nhiên khi xử lý để trình bày báo cáo tài chính, kế toán phải
phân thành nợ phải thu, phải trả ngắn hạn và dài hạn. Nếu là ngắn hạn thì khoản chênh
lệch đánh giá lại không được hạch toán vào chi phí tài chính hoặc doanh thu tài chính
(nghĩa là không được kết chuyển số liệu từ TK413 sang TK635 hoặc TK515) mà chỉ để
số dư trên TK413 để lên báo cáo tài chính, đầu năm sau ghi bút toán ngược lại để xóa số
dư. Nếu là dài hạn, kế toán xử lý ngược với trường hợp ngắn hạn, nghĩa là toàn bộ số lãi
hoặc lỗ đã được bù trừ trên TK413 còn lại sẽ được kết chuyển toàn bộ sang TK635 hoặc
TK515.
Nhưng theo thông tư 179/2012/TT-BTC, không tách riêng về nợ phải thu, phải trả
ngắn hạn và dài hạn để xử lý khác nhau. Mà quy định chung tất cả chênh lệch tỷ giá hối
đoái phát sinh sau khi bù trừ lỗ, lãi trên TK413, kế toán kết chuyển hết vào TK515 hoặc
TK635.
Từ đó, có thể thấy rằng chính sách hạch toán kế toán chênh lệch tỷ giá hối đoái
phát sinh do đánh giá lại số dư ngoại tệ cuối kỳ kế toán, do sự thay đổi của Thông tư kế
toán.
Vậy nếu năm 2009, 2010, 2011 còn số dư ngoại tệ của các khoản phải thu, phải trả
thì kế toán phải áp dụng hồi tố kế toán điều chỉnh số liệu ở từng năm 2009, 2010, 2011,
không được điều chỉnh số liệu cuối năm hiện tại là năm 2012.
- Phương pháp tính giá hàng xuất kho: Trong năm 2012 doanh nghiệp kinh doanh
5 mặt hàng: A, B, C, D, E; tính giá xuất kho theo phương pháp nhập trước – xuất trước.
Đến đầu năm 2013, một nhân viên kế toán nhận thấy, để quản lý tốt hàng tồn kho cần
phải phân hàng tồn kho ra thành hai nhóm với những đặc điểm tương đồng nhau, nhóm
thứ nhất gồm hàng hóa A và B, nhóm thứ hai gồm hàng hóa C, D và E. Nhân viên tiếp tục
đề xuất thay đổi phương pháp tính giá hàng xuất kho cho nhóm hàng thứ nhất theo
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 32
phương pháp bình quân thời điểm phù hợp với Công ty hơn và đã được doanh nghiệp
chấp nhận, triển khai sử dụng từ đầu năm 2013.
Trường hợp này được gọi là thay đổi chính sách kế toán, do đó kế toán phải áp
dụng hồi tố kế toán điều chỉnh số liệu ở năm 2012, không được điều chỉnh số liệu ở cuối
năm 2013.
Tuy nhiên có một số trường hợp kế toán cần chú ý để tránh nhầm lẫn giữa những
yếu tố được coi là thay đổi hay không phải là thay đổi chính sách kế toán. Các trường hợp
sau đây không được xem là thay đổi chính sách kế toán (không áp dụng hồi tố kế toán):
- Việc áp dụng một chính sách kế toán cho các giao dịch, sự kiện có sự khác biệt về
cơ bản so với các giao dịch, sự kiện đó đã xảy ra trước đây;
- Việc áp dụng các chính sách kế toán mới cho các giao dịch, sự kiện chưa phát sinh
trước đó hoặc không trọng yếu.
- Thay đổi phương pháp khấu hao tài sản cố định. Thay đổi này được coi là thay đổi
ước tính kế toán.
1.2. Sai sót của kỳ trước
Là những sai sót hoặc bỏ sót trong báo cáo tài chính tại một hay nhiều kỳ trước do
không sử dụng hoặc sử dụng không đúng các thông tin. Những sai sót trọng yếu của
những năm trước được điều chỉnh hồi tố, những sai sót không trọng yếu nhưng do cố ý
trình bày tình hình tài chính, kết quả kinh doanh hay các luồng tiền theo một hướng khác
làm ảnh hưởng đến báo cáo tài chính xảy ra ở các kỳ trước mà báo cáo tài chính đã công
bố thì được điều chỉnh phi hồi tố vào sổ sách kế toán và báo cáo tài chính năm hiện tại.
Sai sót bao gồm: Sai sót do tính toán, áp dụng sai chính sách kế toán, bỏ quên, hiểu
hoặc diễn giải sai các sự việc và gian lận.
Ví dụ:
Năm 2010, phát hiện số kế toán bị sai sót ở năm 2009 (báo cáo tài chính đã công bố)
do kế toán hạch toán sai tài khoản, những khoản chi bằng tiền gửi ngân hàng thì hạch toán
bằng tiền mặt, những khoản vay chưa trả nhưng cũng hạch toán trả rồi, dẫn đến số dư tài
khoản 111, 112, 311 bị sai. Trường hợp này xác định sai sót trọng yếu, ảnh hưởng đến
nguồn vốn và tài sản của doanh nghiệp, sai sót này phát sinh ở năm 2009 đã quyết toán
nên kế toán phải điều chỉnh hồi tố đối với cuối năm 2009 (đầu năm 2010) mà không được
điều chỉnh hồi tố cho cuối năm 2010 (năm hiện tại).
Kế toán cần lưu ý, đối với các sai sót của năm hiện tại phải được điều chỉnh ngay
trong năm đó. Hoặc sai sót của năm trước nhưng báo cáo tài chính của năm đó chưa công
bố thì trực tiếp điều chỉnh thẳng vào năm phát sinh sai sót. Những trường hợp này không
áp dụng điều chỉnh hồi tố kế toán.
1.3. Áp dụng hồi tố kế toán và điều chỉnh hồi tố kế toán
Việc thay đổi chính sách kế toán phải áp dụng hồi tố kế toán và sai sót kế toán phát
sinh ở kỳ trước phải điều chỉnh hồi tố kế toán. Cho dù phát sinh ở trường hợp nào thì kế
toán cần phải thực hiện như sau:
Thứ nhất, điều chỉnh số liệu kế toán
Điều chỉnh số liệu kế toán trong trường hợp áp dụng hồi tố kế toán hay điều chỉnh
hồi tố kế toán phải tuân thủ theo nguyên tắc và phương pháp quy định tại Thông tư
20/2006/TT-BTC. Việc điều chỉnh số liệu, cần thực hiện các bước như sau:
Bước 1: Tìm số liệu của các khoản mục gốc cần điều chỉnh từ năm trước
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 33
Chẳng hạn, thay đổi chính sách kế toán: Tính giá hàng xuất kho. Thì số liệu gốc cần
điều chỉnh đó là hàng tồn kho, giá vốn... Phát hiện sai sót do ghi nhầm tiền mặt và tiền gửi
ngân hàng thì số liệu gốc cần điều chỉnh là tiền mặt và tiền gửi ngân hàng.
Bước 2: Xác định số liệu điều chỉnh gốc sẽ ảnh hưởng đến các khoản mục khác và
các số liệu gốc và số liệu ảnh hưởng liên quan đến bảng cân đối kế toán hay báo cáo kết
quả hoạt động kinh doanh.
Chẳng hạn, số liệu gốc điều chỉnh về giá vốn thì sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận của
doanh nghiệp và liên quan đến bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh.
Bước 3: Nhóm số liệu ảnh hưởng đến tài sản, nợ phải trả, vốn chủ sở hữu... trên
bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
Bước 4: Tiến hành điều chỉnh và ghi số liệu sổ kế toán chi tiết, sổ kế toán tổng hợp
vào cột so sánh (số đầu kỳ) bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
của năm trước (nếu có) và năm hiện tại.
Thứ 2, trình bày trong bản thuyết minh báo cáo tài chính về áp dụng hồi tố thay đổi
chính sách kế toán và sai sót của các năm trước. Nội dung trình bày được thực hiện theo
mục 1.3 và 3.4 của thông tư 20/2006/TT-BTC.
Chú ý: Tại doanh nghiệp vừa phát sinh áp dụng hối tố thay đổi chính sách kế
toán, vừa phát sinh điều chỉnh hồi tố sai sót kế toán, phải trình bày riêng biệt hai phần
này trên bản thuyết minh báo cáo tài chính cả về số liệu lẫn bản chất.
2. Ví dụ minh họa về điều chỉnh số liệu và trình bày áp dụng hồi tố thay đổi
chính sách kế toán và sai sót kế toán của các năm trƣớc
Doanh nghiệp Cổ phần ABC, có năm tài chính đầu tiên từ ngày 1/1/2006 đến ngày
31/12/2006.
Trong năm 2012 thay đổi chính sách kế toán và phát hiện sai sót của năm 2011 như
sau:
a. Đầu năm 2011, doanh nghiệp tính giá hàng xuất kho theo phương pháp nhập
trước-xuất trước cho hàng hóa A (giá của hàng hóa A có chiều hướng giảm). Đến đầu
năm 2012, để tạo ra hình ảnh đẹp (lợi nhuận cao) nhằm thu hút vốn từ cổ đông, doanh
nghiệp đã lựa chọn phương pháp tính giá hàng xuất kho theo phương pháp nhập sau –
xuất trước.
Như vậy, kế toán phải áp dụng hồi tố với hàng hóa A đã xuất kho năm 2011. Giả
sử giá vốn của hàng hóa A năm 2011 trước điều chỉnh là 1.800.000.000đ, giá vốn sau
điều chỉnh là 1.750.000.000đ. Như vậy việc thay đổi phương pháp tính giá hàng xuất kho
làm cho giá vốn giảm xuống 50.000.000đ.
b. Doanh nghiệp đưa tài sản cố định C vào sử dụng ở văn phòng từ năm 2006 với
nguyên giá 80.000.000đ, thời gian sử dụng 5 năm. Doanh nghiệp sử dụng phương pháp
khấu hao đường thẳng, mỗi năm số khấu hao được trích 16.000.000đ. Theo nguyên tắc
đến năm 2010 doanh nghiệp hết trích khấu hao tài sản cố định, năm 2011 tài sản cố định
này vẫn còn sử dụng tại doanh nghiệp, do doanh nghiệp hiểu sai nguyên tắc nên năm
2011 kế toán tiếp tục trích khấu hao 16.000.000đ. Như vậy đã xảy ra sai sót trọng yếu ở
năm 2011, do đó phải tiến hành điều chỉnh hồi tố kế toán.
Theo báo cáo của Công ty cổ phần ABC trước điều chỉnh của các năm như sau:
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 34
Bảng 1. Số liệu báo cáo trước điều chỉnh
ĐVT: đồng
Chỉ tiêu 31/12/2012 31/12/ 2011
Bảng cân đối kế toán
Tài sản
Hàng tồn kho 150.000.000 170.000.000
Tài sản cố định
- Nguyên giá
- Hao mòn tài sản cố định
250.000.000
430.000.000
180.000.000
210.000.000
340.000.000
130.000.000
Nợ phải trả
Thuế và các khoản phải trả nhà nước 180.000.000 135.000.000
Vốn chủ sở hữu
Lợi nhuận chưa phân phối 72.000.000 55.000.000
Báo cáo kết quả kinh doanh
Giá vốn hàng bán 2.100.000.000 1.800.000.000
Chi phí quản lý 70.000.000 60.000.000
Lợi nhuận kế toán trước thuế 620.000.000 515.000.000
Chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành (thuế
suất thuế TNDN25%)
155.000.000 128.750.000
Lợi nhuận sau thuế TNDN 465.000.000 386.250.000
Hãy điều chỉnh số liệu đối với các trường hợp trên cho cột số liệu đầu năm hiện tại?
Bài giải
ĐVT: Đồng
Bước 1: Tìm các khoản mục gốc cần điều chỉnh:
a. Có hai khoản mục gốc cần điều chỉnh số liệu:
TK632 điều chỉnh giảm 50.000.000
TK156 điều chỉnh tăng 50.000.000
b. Có hai khoản mục gốc cần điều chỉnh số liệu
TK214 điều chỉnh giảm 16.000.000
TK642 điều chỉnh giảm 16.000.000
Bước 2, các khoản mục gốc ảnh hưởng đến các khoản mục khác:
a. Giảm giá vốn 50.000.000, làm tăng lợi nhuận kế toán trước thuế 50.000.000, tăng
thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp (TK3334): 25% * 50.000.000 = 12.500.000, tăng lợi
nhuận chưa phân phối (TK421): 75%*50.000.000 = 37.500.000.
b. Do TK214 điều chỉnh giảm 16.000.000, làm giá trị còn lại tài sản cố định điều
chỉnh tăng 16.000.000.
Do TK642 điều chỉnh giảm 16.000.000, làm lợi nhuận kế toán trước thuế tăng
16.000.000, tăng thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp (TK3334): 25% * 16.000.000 =
4.000.000, tăng lợi nhuận chưa phân phối (TK421): 75%* 16.000.000 = 12.000.000.
Sau khi phân tích xong các khoản mục được điều chỉnh số liệu của từng trường hợp,
kế toán nhóm lại các khoản mục tăng, giảm.
Bước 3:
- Ảnh hưởng đến bảng cân đối kế toán gồm:
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 35
+ Số dư Nợ TK156 tăng 50.000.000
+ Số dư Có TK214 giảm 16.000.000
+ Số dư Có TK333 tăng 16.500.000 (12.500.000 + 4.000.000)
+ Số dư Có TK421 tăng 49.500.000 (37.500.000 + 12.000.000)
- Ảnh hưởng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
+ Giá vốn hàng bán giảm 50.000.000
+ Chi phí quản lý doanh nghiệp giảm 16.000.000
+ Lợi nhuận trước thuế tăng 66.000.000 (50.000.000 + 16.000.000)
+ Thuế thu nhập doanh nghiệp tăng 16.500.000 (12.500.000 + 4.000.000)
+ Lợi nhuận sau thuế tăng 49.500.000 (37.500.000 + 12.000.000)
Bước 4: Điều chỉnh số liệu trên cột số dư đầu kỳ năm 2012 của bảng cân đối kế toán
và báo cáo kết quả kinh doanh:
Bảng 2. Số liệu báo cáo sau điều chỉnh
ĐVT: đồng
Chỉ tiêu 31/12/ 2012 31/12/2011
Bảng cân đối kế toán
Tài sản 400.000.000 446.000.000
Hàng tồn kho 150.000.000 220.000.000
Tài sản cố định
- Nguyên giá
- Hao mòn tài sản cố định
250.000.000
430.000.000
180.000.000
226.000.000
340.000.000
114.000.000
Nợ phải trả 180.000.000 151.500.000
Thuế và các khoản phải trả nhà nước 180.000.000 151.500.000
Vốn chủ sở hữu 72.000.000 104.500.000
Lợi nhuận chưa phân phối 72.000.000 104.500.000
Báo cáo kết quả kinh doanh
Giá vốn hàng bán 2.100.000.000 1.750.000.000
Chi phí quản lý 60.000.000 44.000.000
Lợi nhuận kế toán trước thuế 620.000.000 581.000.000
Chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành (thuế
suất thuế TNDN25%)
155.000.000 145.250.000
Lợi nhuận sau thuế TNDN 465.000.000 435.750.000
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bộ Tài chính (2005), Chuẩn mức kế toán Việt Nam số 29 “Thay đổi chính sách kế
toán, ước tính kế toán và sai sót”.
[2] Bộ Tài chính, Thông tư 20/2006/TT-BTC.
[3] Bộ Tài chính, Thông tư 201/2009/TT-BTC.
[4] Bộ Tài chính, Thông tư 179/2012/TT-BTC.
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 36
Bàn về phương pháp XÁC ĐỊNH HỆ SỐ BETA
trong phân tích và đầu tƣ chứng khoán
NCS. Lê Thị Mỹ Phƣơng, Khoa Tài chính – Ngân hàng
1. Đặt vấn đề
Trong các vấn đề tài chính của doanh nghiệp, nhất là các quyết định đầu tư chứng
khoán thì rủi ro là một trong những điều mà các nhà đầu tư quan tâm song song với lợi
nhuận. Các công trình nghiên cứu đã đưa ra nhiều công cụ để đo lường rủi ro trong hoạt
động đầu tư chứng khoán; một trong những công cụ đó phải kể đến hệ số beta. Ở các
nước phát triển, các thông tin về rủi ro thông qua hệ số beta luôn được cập nhật hàng
ngày, các thông tin này luôn được công bố bởi các tổ chức tư vấn tài chính. Nhưng ở Việt
Nam thì các số liệu này còn sơ sài và chưa được quan tâm. Việc xác định hệ số beta cho
các công ty còn khó khăn và gặp nhiều trở ngại. Vì lý do đó, mục đích của bài này tác giả
muốn trình bày phương pháp xác định hệ số beta dựa trên các số liệu về giá cổ phiếu và
ứng dụng hàm excel để tính cho 1 số công ty tiêu biểu.
2. Rủi ro và hệ số beta
2.1. Rủi ro
Rủi ro là một sự ngẫu nhiên xuất hiện các biến cố có thể gây ra tổn thất hoặc đưa
lại kết quả không như mong đợi. Thuật ngữ rủi ro được sử dụng với ý nghĩa như một sự
không chắc chắn ở thời điểm hiện tại với kết quả kinh doanh và đầu tư của doanh nghiệp
trong tương lai. Trên góc độ tài chính, rủi ro có thể được xem như là một sự không chắc
chắn hay sự sai lệch của lợi nhuận thực tế so với lợi nhuận kỳ vọng. Những khoản đầu tư
nào có khả năng có sai lệch càng lớn được xem như có rủi ro cao hơn. Xét về mặt định
tính, rủi ro tổng thể của công ty được chia thành 2 thành phần rủi ro; đó là rủi ro hệ thống
và rủi ro phi hệ thống. Rủi ro hệ thống (Systematic Risks) là loại rủi ro tác động đến toàn
bộ hoặc hầu hết các tài sản; còn được gọi là rủi ro của thị trường. Như đã thấy sự bấp
bênh của các điều kiện kinh tế chung như việc giảm GDP, tăng lãi suất tiền vay, tăng tốc
độ lạm phát…nền kinh tế, chính trị, chính sách điều hành của Nhà nước là những ví dụ
cho rủi ro có hệ thống. Những điều kiện này tác động hầu hết các doanh nghiệp. Rủi ro
phi hệ thống(Nonsystematic Risks)là loại rủi chỉ tác động đến một tài sản hoặc một nhóm
nhỏ các tài sản, nghĩa là loại rủi này chỉ liên quan tới từng doanh nghiệp cụ thể nào đó. Vì
thế người ta còn gọi rủi ro đơn nhất hay rủi ro cho một tài sản cụ thể. Ví dụ như là rủi ro
vỡ nợ, tín dụng...nếu chỉ đầu tư vào 1 loại cổ phần của một doanh nghiệp nào đó thì nghĩa
là kết quả đầu tư bị phụ thuộc rất nhiều vào những sự kiện xảy ra đối với doanh nghiệp.
Nếu đầu tư vào nhiều loại tài sản ở nhiều doanh nghiệp khác nhau thì sự phụ thuộc này
giảm đi nhiều, bởi vì nếu chẳng may bị lỗ ở doanh nghiệp này thì vẫn có lãi ở doanh
nghiệp khác. Việc bù trừ đó sẽ làm cho rủi ro của danh mục đầu tư giảm đi. Như vậy, rủi
ro không có hệ thống sẽ bị loại trừ thông qua việc đa dạng hóa. Vì vậy, một danh mục đầu
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 37
tư với số lượng lớn các tài sản khác nhau có thể dẫn đến một điều : rủi ro không có hệ
thống của nó bằng 0.
2.2. Hệ số bêta
Để xác định mức rủi ro của một chứng khoán cụ thể, ta cần đo lường độ nhạy cảm
của chứng khoán đó với biến động của thị trường. Độ nhạy cảm này gọi là hệ số beta. Hệ
số beta cho ta biết mức rủi ro có hệ thống của một tài sản cụ thể so với mức rủi ro có hệ
thống bình quân của một tài sản là bao nhiêu? Do đó hệ số beta được dùng để đo lường
mức độ biến động của một chứng khoán trong tương quan với danh mục thị trường.
Trong đó: COV(i;m) : Hiệp phương sai giữa tỷ suất sinh lợi chứng khoán i và tỷ suất
sinh lợi thị trường
: Phương sai của tỷ suất sinh lợi thị trường
Nếu β<1: Chứng khoán i có rủi ro thấp hơn rủi ro thị trường;
Nếu β=1: Chứng khoán i có rủi ro bằng rủi ro thị trường;
Nếu β>1: Chứng khoán i có rủi ro cao hơn rủi ro thị trường.
Để xác định hệ số beta, có nhiều nghiên cứu đã đưa ra cách tính, trong đó có sử
dụng mô hình CAPM. Tuy nhiên, những giả thiết của mô hình chưa thực sự phù hợp với
thực tế thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam. Sau đây bài viết này giới thiệu một
phương pháp xác định hệ số bêta khá đơn giản và hữu ích. Chúng ta có thể xác định hệ số
bêta của công ty theo công thức sau:
Độ lệch chuẩn được dùng để đo lường độ phân tán của phân phối xác suất. Khi áp
dụng đối với tỷ suất sinh lời trong đầu tư nó cho biết mức độ phân tán hay sự biến động
của tỷ suất sinh lời xung quanh tỷ suất sinh lời kỳ vọng.
Ví dụ minh họa: Xác định hệ số beta cho Công ty Cổ phần Cao Su (CTCPCS) Đà
Nẵng và các công ty cùng ngành.
Bƣớc 1. Thu thập và xử lý số liệu
- Thu thập số liệu
Để xác định được hệ số beta cho CTCPCS Đà Nẵng nói riêng và các công ty nói
chung, các số liệu mà chúng ta cần phải thu thập:
+ Giá cổ phiếu qua các ngày của CTCPCS Đà Nẵng và các công ty cùng ngành
(nên sử dụng 3 năm liên tục và gần nhất).
- Báo cáo tài chính của CTCPCS Đà Nẵng và các công ty cùng ngành (nên sử dụng
3 năm liên tục và gần nhất).
- Xử lý số liệu
+ Giá cổ phiếu lấy bình quân của từng quý;
+ Lấy doanh thu 3 năm liên tục của các công ty.
Sau đây là giá cổ phiếu của các CTCPCS trên TTCK TP.HCM (sau khi đã xử lý).
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 38
Bảng 1. Giá cổ phiếu các năm chia theo quý của các công ty ngành cao su niêm yết
trên TTCK TP.HCM ĐVT: Nghìn đồng
Năm
Bình
quân các
quý
CT CPCS
Miền Nam
(CSM)
CTCPCS
Đồng Phú
(DPR)
CTCP CS
Hòa Bình
(HRC)
CTCPCS
SaoVàng
(SRC)
CTCP CS
Tây Ninh
(TRC)
CTCPCS
Đà Nẵng
(DRC)
2010 CP Quý 1 9.52 48.77 41.34 3.18 35.57 11.61
CP Quý 2 20.86 53.86 40.91 6.88 41.89 21.22
CP Quý 3 22.96 50.98 36.84 6.34 40.03 20.47
CP Quý 4 21.94 51.83 37.6 5.64 40.07 19.86
2011 Cp Quý 1 21.73 64.92 61.40 11.03 54.11 12.12
Cp Quý 2 13.67 57.32 59.59 8.35 50.70 10.47
Cp Quý 3 11.32 53.70 59.04 5.86 40.17 11.01
Cp Quý 4 8.60 45.90 55.28 3.89 35.85 9.51
2012 CP Quý 1 43.75 62.08 37.54 17.46 67.31 20.93
CP Quý 2 37.65 62.40 40.70 16.87 62.90 19.18
CP Quý 3 28.67 61.00 59.38 14.05 57.80 15.10
CP Quý 4 24.48 61.16 59.10 9.61 61.74 13.06
Nguồn: Cophieu68.com.vn
Bảng 2. Doanh thu của các công ty ngành cao su niêm yết trên TTCK TP.HCM giai đoạn
2010-2012 ĐVT: Triệu đồng
Năm
CT CP CS
Miền Nam
(CSM)
CTCPCS
ĐồngPhú
(DPR)
CTCP
CS Hòa
Bình
(HRC)
CTCPCS
Sao Vàng
(SRC)
CTCPCS
Tây Ninh
(TRC)
CTCPCS
Đà Nẵng
(DRC)
Tổng
2010 2,699,653 1,028,421 411,801 1,152,146 757,982 2,160,139 8,210,142
2011 2,923,837 1,837,202 688,411 1,212,367 1,195,284 2,636,696 10,493,797
2012 3,043,815 1,376,951 494,477 1,088,350 907,713 2,784,934 9,696,240
Nguồn: BCTC 3 năm 2010,2011,2012 của các công ty
Bƣớc 2: Thực hiện tính toán
- Tính độ lệch chuẩn cổ phiếu các năm 2010-2012 của các công ty và ngành
+ Độ lệch chuẩn của ngành chúng ta tính theo trọng số doanh thu của các công ty,
thực hiện như sau:
Tính giá trị cổ phiếu của từng công ty theo trọng số doanh thu, sau đó lấy tổng
cộng để ra giá trị cổ phiếu bình quân ngành từng quý.
Ví dụ: CTCPCS Đà Nẵng quý I năm 2010:
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 39
Bảng 3. Giá trị cổ phiếu trung bình của các công ty ngành cao su niêm yết trên TTCK
TP.HCM giai đoạn 2010-2012 ĐVT: Nghìn đồng
Năm Các quý
CTCPCS
Miền Nam
CTCPCS
Đồng Phú
CTCPCS
Hòa Bình
CTCPCS
Sao Vàng
CTCPCS
Tây Ninh
CTCPCS
Đà Nẵng Tổng
2010 CP Quý 1 3.13 6.11 2.07 0.45 3.28 3.05 18.10
CP Quý 2 6.86 6.75 2.05 0.97 3.87 5.58 26.07
CP Quý 3 7.55 6.39 1.85 0.89 3.70 5.39 25.75
CP Quý 4 7.21 6.49 1.89 0.79 3.70 5.23 25.31
2011 Cp Quý 1 6.05 11.37 4.03 1.27 6.16 3.05 31.93
Cp Quý 2 3.81 10.04 3.91 0.96 5.78 2.63 27.12
Cp Quý 3 3.15 9.40 3.87 0.68 4.58 2.77 24.45
Cp Quý 4 2.40 8.04 3.63 0.45 4.08 2.39 20.98
2012 CP Quý 1 13.73 8.82 1.91 1.96 6.30 6.01 38.74
CP Quý 2 11.82 8.86 2.08 1.89 5.89 5.51 36.05
CP Quý 3 9.00 8.66 3.03 1.58 5.41 4.34 32.01
CP Quý 4 7.69 8.69 3.01 1.08 5.78 3.75 29.99
Nguồn: Cophieu68.com.vn
Để tính độ lệch chuẩn cổ phiếu công ty và ngành, người ta sử dụng hàm STDEV trong
excel. Kết quả như sau:
Độ lệch chuẩn cổ phiếu ngành: STDEV (cột Tổng) = 5.97
Độ lệch chuẩn cổ phiếu của từng công ty: STDEV (cột giá cổ phiếu ở bảng 1)
Bảng 4. Đệ lệch chuẩn cổ phiếu của các công ty cao su trên TTCK TP.HCM
Công ty CTCPCS
Miền Nam
CTCPCS
Đồng Phú
CTCPCS
Hòa Bình
CTCPCS
Sao Vàng
CTCPCS
Tây Ninh
CTCPCS
Đà Nẵng
Độ lệch chuẩn 10.83 6.16 10.52 4.83 11.44 4.61
Để tính hệ số bêta của các công ty áp dụng công thức. Kết quả được thể hiện qua bảng 5.
Bảng 5. Hệ số bêta của các công ty ngành cao su niêm yết trên TTCK TP.HCM
Công ty CTCPCS
Miền Nam
CTCPCS
Đồng Phú
CTCPCS
Hòa Bình
CTCPCS
Sao Vàng
CTCPCS
Tây Ninh
CTCPCS
Đà Nẵng
Hệ số beta 1.81 1.03 1.76 0.81 1.92 0.77
Hiện nay, có nhiều phương pháp để xác định hệ số bêta trong quyết định phân tích và
đầu tư chứng khoán; mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Việc lựa
chọn phương pháp nào cần căn cứ vào đặc trưng của từng loại hình doanh nghiệp để thẩm
định giá trị sao cho phù hợp với doanh nghiệp nhất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] TS. Nguyễn Minh Kiều, (2010); Tài chính doanh nghiệp căn bản; NXB Thống kê.
[2] Nhóm tác giả, (2008); Quản trị tài chính đầu tư của viện nghiên cứu tin học và kinh tế ứng
dụng; NXB Lao động Xã hội.
[3] Trang web cophieu68.com.vn;
[4] Nguyễn Ngọc Vũ (2000), “Hệ số bêta trong phân tích rủi ro khi đầu tư chứng khoán”, Tạp chí
Chứng khoán Việt Nam, số 10.
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 40
MỘT SỐ GIẢI PHÁP RÚT NGẮN KHOẢNG CÁCH GIỮA
GIÁ VÀNG TRONG NƯỚC VÀ GIÁ VÀNG THẾ GIỚI
ThS. Lý Vân Phi, Khoa Tài chính - Ngân hàng
1. Đặt vấn đề
Từ xa xưa, vàng chỉ là phương tiện trang sức xa xỉ của vua chúa, quý tộc và trong
cung đình, các lãnh chúa, địa chủ… một số lượng lớn vàng cũng được lưu trữ trong dân
chúng. Vàng gắn bó với đời sống của người dân Việt Nam không chỉ ở góc độ trang sức
mà còn là phương tiện thanh toán thuận tiện có thể thay thế tiền tệ, đồng thời là tài sản cất
trữ có giá trị. Vàng còn là kênh đầu tư an toàn và hiệu quả bởi tính ổn định và thanh
khoản cao. Lạm phát tăng cao và những bất ổn vĩ mô khác làm cho vàng trở thành kênh
đầu tư hấp dẫn nhất so với các kênh khác như bất động sản, chứng khoán, tiết kiệm...Tại
Việt Nam, vàng được xem là tài sản tích trữ được ưa chuộng, thậm chí có những giai đoạn
vàng được đóng vai trò là tiền tệ.
Tuy nhiên, giá vàng trong nước có những biến động không ngừng, đặc biệt là trong
03 năm gần đây (2011-2013), thị trường vàng Việt Nam rất hỗn loạn, giá vàng “nhảy
múa” liên tục, nhất là năm 2013 khi mà thị trường vàng thế giới có những biến động bất
thường theo chiều giảm sâu thì thị trường vàng trong nước có xu hướng chững lại và vận
động không theo một quy luật nào cả, điều này làm cho khoảng cách chênh lệch giữa giá
vàng trong nước và thế giới ngày càng tăng dần từ mức 350.000 - 400.000đồng/lượng5
đến 7 triệu đồng/lượng. Do vậy vấn đề đặt ra là làm thế nào để rút ngắn khoảng cách
chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới?
Trong phạm vi bài viết tác giả chỉ giới thiệu sơ lược về diễn biến thị trường vàng
(chủ yếu là vàng miếng SJC, do vàng SJC chiếm hơn 90% thị trường vàng miếng Việt
Nam) và đề xuất một số giải pháp để rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa giá vàng trong
nước và giá vàng thế giới.
2. Diễn biến thị trƣờng vàng Việt Nam giai đoạn 2011 – 2013
Thực trạng giá vàng tại Việt Nam từ đầu năm 2011 đến nay đã trải qua nhiều giai
đoạn thăng trầm với các đỉnh cao kỷ lục về giá (có lúc lên đến 47 triệu đồng/lượng vào
cuối năm 2012 nhưng có lúc lại giảm xuống còn 37.5 triệu đồng/lượng vào đầu quý
3/20136), đến thời điểm này thì chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới
5 . Theo Kitco.com ngày 18/9/2008 và tỷ giá USD/VND tại ngân hàng Vietcombank (16.730) thì giá vàng tại thế giới
là 1.740.775đ/chỉ trong khi đó giá vàng trong nước 1.780.000đ/chỉ
6. Theo Kitco.com ngày 6/7/2013 giá vàng thế giới ở mức 1.252 USD/ounce, nếu quy đổi ra tiền Việt, một lượng
vàng thế giới hiện nay chỉ tương đương 31,3 triệu đồng (chưa bao gồm thuế phí).
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 41
lên đến 7 triệu đồng/lượng, mức cao chưa từng có trong lịch sử. Nguyên nhân của những
biến động trên là do chịu tác động của nhiều nhân tố như: Giá vàng thế giới, tỷ giá
USD/VND, lạm phát, nền kinh tế thế giới nhất là tình hình kinh tế của Mỹ, tình hình
chính trị, xã hội, thị trường vốn tín dụng, TTCK, tập quán sử dụng, tâm lý người tiêu
dùng và các chính sách của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, v.v...
Nguyên nhân chính khiến giá vàng thế giới tác động nhiều đến giá vàng Việt Nam là do
trung bình mỗi năm số lượng vàng khai thác rất ít, không đủ đáp ứng nhu cầu trong nước
nên buộc phải nhập khẩu vàng thế giới (khoảng 95% % lượng vàng tiêu thụ tại Việt Nam
được nhập khẩu), nhu cầu nhập khẩu khá lớn nhưng nguồn cung lại hạn hẹp do đó giá
vàng trong nước chịu ảnh hưởng rất lớn từ giá vàng thế giới.
Sơ đồ 1. Diễn biến giá vàng SJC trong năm 2012
Nguồn: www.giavangsjc.com
Trong năm 2012, chính sách tác động mạnh đến thị trường vàng trong nước là Nghị
định số 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, được Thủ tướng Chính
phủ đã ký và ban hành ngày 03/4/2012, có hiệu lực thi hành từ ngày 25/5/2012. Từ khi
Nghị định này có hiệu lực, diễn biến giá vàng trong nước khá ổn định, hiện tượng buôn
lậu, đầu cơ tích trữ vàng phần nào được hạn chế. Tuy nhiên mức chênh lệch giữa giá vàng
trong nước và thế giới đã tăng sau năm 2012, từ mức hơn 1 triệu đồng/lượng đến 7 triệu
đồng/lượng (tính đến ngày 6/7/2013). Mức chênh lệch hiện nay có thể một phần phản ánh
việc các ngân hàng sẽ phải hoàn tất xử lý các nghĩa vụ nợ bằng vàng của mình, đây là
nguồn cầu bổ sung trên thị trường so với các giai đoạn trước đây.
Ngày 30/6/2013 là hạn cuối cùng tất toán vàng ở các ngân hàng thương mại vì thế
các ngân hàng đã phải "chạy đua" để mua vàng. NHNN đã tổ chức nhiều phiên đấu thầu
từ cuối tháng 3 (ngày 28/3 là phiên đấu thầu vàng đầu tiên). Vào quý 3 năm 2013 mặc dù
giá vàng thế giới giảm mạnh và đã qua thời hạn tất toán huy động vàng, nhưng chênh lệch
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 42
giữa giá thế giới và trong nước không những được thu hẹp mà đang có xu hướng nới rộng
hơn.
Tính đến đầu tháng 7, ngay sau thời hạn phải tất toán, đã có 1.323.400 lượng vàng
trúng thầu, trên tổng số 1.426.000 lượng vàng chào thầu với hơn 40 tấn vàng cung cấp
cho thị trường. Việc thực hiện đấu thầu vàng liên tục như vậy trước hết là nhằm tăng
cung, qua đó giảm bớt áp lực về cầu, tránh những xáo trộn khó lường trên thị trường,
ngăn tác động tiêu cực tới tỷ giá và kinh tế vĩ mô.
Sơ đồ 2. Chênh lệch giá vàng trong nước và giá vàng thế giới qua các phiên đấu thầu
vàng của NHNN (Đơn vị tính: triệu đồng)
Nguồn: http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/ebank/ngan-hang/chuyen-dai-thu-
hep-chenh-lech-gia-vang-2848110.html
Kết thúc phiên đấu thầu thứ 42 của NHNN vào ngày 11/7, giá thầu cao nhất lên tới
38,08 triệu đồng/lượng. Trong khi cùng thời điểm kết thúc đấu thầu trưa 5/7, giá vàng
SJC thu mua của các đại lý chỉ dao động từ 37,5 - 37,8 triệu đồng/lượng. Điều này cho
thấy, nhu cầu cung vàng của người dân trong nước hiện đang ở mức rất cao, các doanh
nghiệp cũng như các ngân hàng vẫn bất chấp trả giá thầu cao để mua được vàng. Đến thời
điểm hiện nay, mặc dù giá vàng có biến động theo xu hướng của thế giới, tức là cũng có
tăng, giảm, nhưng mức tăng luôn nhanh hơn giảm. Ngay cả khi giá thế giới giảm sâu, giá
trong nước cũng chỉ được điều chỉnh nhẹ, nên khoảng cách giữa hai thị trường vẫn còn
xa. Cụ thể, tại thị trường thành phố Hồ Chí Minh ngày 13/8/2013, vàng SJC niêm yết ở
mức 37,63 triệu đồng/lượng (mua vào) - 37,93 triệu đồng/lượng (bán ra). Trong khi đó,
vàng trên thị trường thế giới giao dịch phổ biến mức 1.316 USD/ounce. Với mức này, quy
đổi ra VND theo tỷ giá của Vietcombank, giá vàng thương hiệu SJC cao hơn giá thế giới
hơn 4 triệu đồng/lượng. Đến nay, giá vàng trong nước đã giảm mạnh chỉ còn khoảng 37
triệu đồng/lượng so với thời kỳ leo thang lên mức "đỉnh" là khoảng 48 triệu đồng/lượng,
nhưng chênh lệch giữa hai thị trường chưa được rút ngắn, khoảng cách hơn 4 triệu
đồng/lượng vẫn là mức quá cao. Sỡ dĩ chênh lệch về giá vẫn còn cao như vậy là do nhu
cầu của thị trường rất lớn, khi mà các ngân hàng thương mại không được phép cho vay
hay huy động vàng theo quy định. Hơn nữa, thị trường vàng Việt Nam có đặc thù riêng
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 43
không giống như ở nước ngoài, người dân sở hữu, mua bán vàng không phải vì lý do
thương mại mà còn do yếu tố văn hóa và tâm lý ưa chuộng vàng. Với nhiều người dân,
vàng được coi là công cụ bảo đảm giá trị tài sản của họ, chính vì vậy, ngay cả khi lãi suất
huy động vàng ở mức rất thấp hoặc các ngân hàng ngừng huy động, người dân sẵn sàng
nắm giữ vàng xem như là bảo toàn tài sản của họ.
3. Một số giải pháp nhằm rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa giá vàng trong
nƣớc và giá vàng thế giới
Trong suốt giai đoạn 2011 - 2013, Chính phủ Việt Nam đã đưa ra nhiều biện pháp
liên quan đến thị trường vàng. Các biện pháp này bắt đầu từ tháng 4/2011 bằng việc chấm
dứt cho vay bằng vàng của các tổ chức tín dụng. Tháng 4/2012, Chính phủ ban hành Nghị
định số 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng. Nội dung của Nghị định
này bao gồm cả việc hạn chế và ủy quyền nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng
miếng cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Chính phủ cũng yêu cầu các ngân hàng tất
toán các khoản tiền gửi bằng vàng của mình. NHNN bắt đầu tổ chức đấu thầu vàng miếng
từ ngày 28/3 để giảm bớt mất cân đối cung cầu vàng trên thị trường.
Biến động giá vàng trên thế giới có tác động nhiều đến thị trường Việt Nam nhưng
hai thị trường này chưa liên thông với nhau, thành ra mỗi thị trường vận hành theo đặc
thù riêng. Đến thời điểm hiện nay giá vàng trong nước lên, xuống thất thường nên khoảng
cách chênh lệch giá ngày càng lớn. Vì vậy, để thu hẹp chênh lệch giữa giá vàng trong
nước và giá vàng thế giới cần thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, ngân hàng Nhà nước cần tăng thêm nguồn dự trữ vàng của quốc gia để đóng
vai trò là người kiến tạo ra thị trường.
Dự trữ vàng quốc gia sẽ được sử dụng để can thiệp thị trường vàng trong nước khi
cầu vàng thay đổi một cách bất thường, khi cầu vàng trong nước tăng cao, ngân hàng Nhà
nước sẽ dùng dự trữ vàng quốc gia để cung cấp cho nhu cầu trong nước làm giảm cơn sốt
vàng, ngược lại khi cầu vàng trong nước giảm mạnh, người dân đổ xô bán vàng miếng
thông qua kênh các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp được cấp phép thì ngân hàng Nhà
nước đứng ra thu mua để tăng dự trữ quốc gia.
Bên cạnh đó, NHNN nên tiếp tục thực hiện “đấu thầu vàng” để tăng cung trên thị
trường và giữ giá không biến động quá mạnh. Sau thời hạn mà các ngân hàng phải trả lại
vàng cho khách hàng với tác động kép từ việc giảm cầu về vàng miếng của các ngân
hàng, tăng cung vàng trong dân do ngân hàng trả lại vàng cho khách hàng thì khi đó giá
vàng sẽ từ đó tiến sát với thế giới.
Hai là, thị trường vàng trong nước phải liên thông tuyệt đối với thị trường vàng thế
giới.
Để làm được điều này, doanh nghiệp và người dân phải được kinh doanh vàng tài
khoản ở nước ngoài thông qua các sàn vàng, đồng thời phải được phép nhập khẩu hoặc
xuất vàng vô điều kiện số dư vàng trên tài khoản khi có nhu cầu. Khi đó, nhà đầu tư thông
qua tài khoản kinh doanh vàng ở nước ngoài, có thể mua bán vàng theo giá thế giới vào
bất kỳ thời điểm nào. Đồng thời, nhà đầu tư cũng được xuất, nhập khẩu vàng tự do vào
Việt Nam.
Để giá vàng trong nước “cùng nhịp” với giá thế giới và khoảng cách thu hẹp lại thì
có thể NHNN phải cho phép doanh nghiệp nhập khẩu vàng trở lại với quota tự do hơn,
hoặc lập sàn vàng quốc gia để vàng trong nước và thế giới liên thông nhau.
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 44
Ba là, thành lập Sở giao dịch vàng quốc gia để tổ chức lại hoạt động thị trường vàng
Việt Nam.
Thành lập Sở giao dịch vàng quốc gia do Nhà nước quản lý và biến nó thành công cụ
để cơ quan Nhà nước có thể giám sát và điều tiết thị trường qua đó huy động được nguồn
lực vàng trong dân. Khi đó, Nhà nước có thể quản lý thị trường vàng hiệu quả, tránh
những tác động tiêu cực, còn người dân và nhà đầu tư có thêm những kênh lựa chọn để
đầu tư hay trao đổi loại hàng hóa đặc biệt này, tạo lập một thị trường giao dịch vàng tập
trung giống TTCK hiện nay, tăng cường tính minh bạch, thông suốt của thị trường vàng,
giảm tình trạng lũng đoạn và thao túng, góp phần tạo trật tự khách quan cho thị trường
vàng; góp phần làm giảm chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới, hạn chế tình
trạng xuất nhập khẩu vàng lậu.
4. Kết luận
Đến thời điểm hiện nay, mặc dù đã qua thời hạn tất toán trạng thái huy động và cho
vay bằng vàng của các ngân hàng và ngân hàng Nhà nước đã nổ lực gia tăng nguồn cung
vàng qua các phiên đấu thầu để “bơm” vàng ra thị trường (đã thực hiện 42 phiên tính đến
ngày 1/7). Điều này cho thấy nguồn cung vàng trên thị trường rất dồi dào và không còn
tình trạng “khan” vàng như trước đây, nhưng khoảng cách giữa giá vàng trong nước và
thế giới vẫn còn cao. Vì vậy, ngân hàng Nhà nước cần sớm xem xét và thực hiện các giải
pháp được đề xuất ở trên để thu hẹp khoảng cách giữa giá vàng trong nước và thế giới
như là bước đệm tiến tới việc quản lý, giám sát và điều tiết thị trường vàng để đáp ứng tất
cả các nhu cầu khác nhau của thị trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] www.kitco.com;
[2] Giavangsjc.com.vn;
[3] Tạp chí ngân hàng, số 20/2012, số 86/2013.
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 45
Bàn về công thức xác suất toàn phần và công
thức Bayes trong giảng dạy môn Lý thuyết xác
suất và thống kê toán ở trƣờng cao đẳng
ThS. Nguyễn Thị Hậu, Bộ môn Cơ bản
Công thức xác suất toàn phần và công thức Bayes là các công thức cơ bản trong lý
thuyết xác suất của môn học Lý thuyết xác suất và thống kê toán. Trong quá trình giảng
dạy, bản thân tác giả nhận thấy đa số sinh viên chưa nắm được bản chất của công thức
và hay nhầm lẫn trong việc phân biệt các xác suất có điều kiện. Do đó, việc vận dụng
công thức xác suất toàn phần và công thức Bayes vào giải bài tập chưa hiệu quả. Bài viết
này bàn sâu hơn về bản chất và một số vấn đề liên quan đến hai công thức nói trên.
1. Công thức xác suất toàn phần
Giả sử biến cố A xảy ra khi và chỉ khi một trong các biến cố của hệ đầy đủ các biến
cố 1 2, ,..., nH H H .
Khi đó:
1 2
1
...n
n i
i
A H A H A H A H A
Suy ra 1 1
( )n n
i i
i i
P A P H A P H A
Theo công thức nhân xác suất, ta có
( ) ( ) ( / ), (1, )i i iP H A P H P A H i n
Vậy 1 1
( ) ( ) ( ) ( / )n n
i i i
i i
P A P H A P H P A H .
Đây là công thức xác suất toàn phần hay công thức xác suất đầy đủ.
Trong trường hợp riêng, nếu xét hệ đầy đủ biến cố gồm H và H thì
( ) ( ) ( / ) ( ) ( / )
( ) ( / ) 1 ( ) 1 ( / )
P A P H P A H P H P A H
P H P A H P H P A H.
Trong công thức xác suất toàn phần biến cố A xảy ra khi và chỉ khi một trong các
biến cố của hệ đầy đủ biến cố xảy ra, do đó xác suất của biến cố A liên quan đến xác suất
của từng biến cố trong hệ đầy đủ biến cố.
2. Công thức Bayes Công thức Bayes, mang tên của vị linh mục và cũng là nhà toán học người Anh
Thomas Bayes (1702 – 1761), là công thức ngược, cho phép tính xác suất có điều kiện
( / )iP H A khi biết ( ) 0P A và ( ), (1, )iP H i n . Ở đây, ta vẫn giả sử 1 2, ,..., nH H H là hệ đầy
đủ biến cố. Cũng như trên, ta có
1
n
i
i
A H A
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 46
Theo công thức nhân xác suất
( ) ( ) ( / ) ( ) ( / )i i i iP H A P H P A H P A P H A
Suy ra ( ) ( / )
( / )( )
i ii
P H P A HP H A
P A
Kết hợp với công thức xác suất toàn phần, ta suy ra
1
( ) ( / )( / )
( ) ( / )
j j
j n
i i
i
P H P A HP H A
P H P A H
Công thức này được gọi là công thức Bayes.
Hiểu được công thức xác suất toàn phần và công thức Bayes, người dùng sẽ vận
dụng giải toán một cách dễ dàng. Tuy nhiên, như ban đầu đã đề cập, một trong những lỗi
mà nhiều người mắc phải đó là lẫn lộn giữa ( / )iP A H và ( / )iP H A .
3. Bài toán minh họa Để hiểu rõ hơn các công thức trên, có thể xét các bài toán sau:
Bài 1) Một nhà máy có 3 phân xưởng cách biệt cùng sản xuất một loại sản phẩm.
Tỉ lệ sản phẩm của phân xưởng 1, 2 và 3 lần lượt có trong một kho hàng của nhà máy là
35%, 25% và 40%. Tỉ lệ phế phẩm qua thống kê biết được của phân xưởng 1, 2 và 3 lần
lượt là 2%, 1% và 3%. Lấy ngẫu nhiên một sản phẩm trong kho hàng của nhà máy.
a) Tính xác suất để sản phẩm đó là phế phẩm.
b) Tính xác suất để phế phẩm đó do phân xưởng thứ , (1,3)i i sản xuất.
Ở đây, ta không bàn về lời giải và đáp số của bài toán mà chỉ nói về ý nghĩa của
hai công thức sẽ dùng trong bài toán này. Trước hết, gọi , (1,3)iH i là biến cố lấy được
sản phẩm do phân xưởng thứ i sản xuất. Khi đó, , (1,3)iH i là hệ đầy đủ biến cố. Gọi A là
biến cố lấy được sản phẩm là phế phẩm.
Ở câu a) công thức xác suất toàn phần được sử dụng để tính P(A) với ý nghĩa là
xác suất lấy được phế phẩm trong kho hàng của nhà máy liên quan đến xác suất lấy được
phế phẩm ở cả ba phân xưởng 1, 2 và 3. Đó chính là tổng xác suất của biến cố lấy được
sản phẩm do phân xưởng thứ i sản xuất tương ứng với tỉ lệ phế phẩm do phân xưởng thứ i
đó sản xuất (i = (1, 2, 3)). Đây là bản chất tổng xác suất từng phần trong công thức xác
suất từng phần.
Ở câu b), ta dùng công thức Bayes để tính ( / )iP H A , i = (1, 3). Người dùng công
thức này có chút băn khoăn về ( / )iP A H và ( / )iP H A . Ta phân biệt ( / )iP A H và
( / )iP H A .
( / )iP A H là xác suất của biến cố A với điều kiện iH hay là xác suất để lấy được
một sản phẩm là phế phẩm mà sản phẩm này đã là sản phẩm do phân xưởng thứ i sản
xuất, hay nói cách khác, đây là xác suất lấy được một phế phẩm từ phân xưởng thứ i hay
là tỉ lệ phế phẩm của phân xưởng thứ i (đề đã cho).
( / )iP H A là xác suất của biến cố iH với điều kiện A hay là xác suất để lấy được
một sản phẩm của phân xưởng thứ i biết sản phẩm này đã là phế phẩm. Điều đó có nghĩa
là đã lấy được một sản phẩm là phế phẩm rồi, ( / )iP H A là xác suất để phế phẩm này rơi
vào phân xưởng thứ i.
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 47
Một khi người dùng công thức phân biệt được ( / )iP A H và ( / )iP H A thì bài toán
trở nên hết sức dễ dàng. Thêm một điều nữa là công thức Bayes còn cho thấy ( / )iP A H và
( / )iP H A khác biệt và chênh lệch rất lớn nếu ( )P A và ( )iP H chênh lệch nhau nhiều.
Dưới đây là một ví dụ minh họa điều đó. (Bài toán được 3 nhà toán học Cassels,
Shoenberger và Grayboys đem đố 60 sinh viên và cán bộ y khoa tại Harvard medical
School năm 1978).
Bài 2) Giả sử có một loại bệnh mà tỉ lệ người mắc bệnh là 1/1000. Giả sử có một
loại xét nghiệm, mà ai mắc bệnh khi xét cũng ra phản ứng dương tính, nhưng tỉ lệ phản
ứng dương tính nhầm là 5% (tức là trong số những người không bị bệnh có 5% số người
thử ra phản ứng dương tính). Hỏi khi một người được xét nghiệm bị phản ứng dương tính,
thì khả năng mắc bệnh của người đó là bao nhiêu?
Nếu câu trả lời của ta là 95% theo cách suy luận thông thường thì chưa đúng. Ta sẽ
phân tích kỹ hơn như sau:
Gọi K là biến cố người không bị bệnh. D là biến cố người xét nghiệm có phản ứng
dương tính. Khi đó, P(D/K) là xác suất để lấy được người có phản ứng dương tính mà
không bị bệnh. P(K/D) là xác suất để lấy được người không bị bệnh mà có phản ứng
dương tính và ( / )P K D là xác suất để lấy được người có bệnh mà có phản ứng dương
tính. Theo đề ta có P(D/K) = 5%. Ta dùng công thức Bayes để tính P(K/D). ( ) ( / )
( / )( ) ( / ) ( ) ( / )
P K P D KP K D
P K P D K P K P D K
với ( / ) 5%; ( ) 1 1/1000 999/1000P D K P K ; ( ) 0,1; ( / ) 95%P K P D K .
Suy ra P(K/D) = 98%
Vậy trong số những người xét nghiệm ra dương tính, có khoảng 98% số người là
không bị bệnh. Nói cách khác, khi xét nghiệm ra dương tính thì xác suất để người đó có bị
bệnh là 1 ( / ) 1 98% 2%P K D .
Khi giải các bài toán xác suất thống kê có sử dụng công thức xác suất toàn phần và
công thức Bayes hay công thức xác suất có điều kiện, ta có thể gặp trường hợp “nghịch lý
vui” như sau:
Bài 3) Văn Phạm có phải là thủ phạm?
Một người đàn ông tên là Văn Phạm bị tình nghi là thủ phạm trong một vụ án.
Cảnh sát điều tra được những thông tin sau đây: 1) ngoài nạn nhân chỉ có 2 người có mặt
lúc xảy ra vụ án, một trong 2 người đó là Văn Phạm, người kia cảnh sát không hề biết là
ai, và một trong 2 người đó là thủ phạm; 2) thủ phạm là đàn ông. Hỏi xác suất để “Văn
Phạm là thủ phạm” là bao nhiêu?
Gọi người thứ hai mà cảnh sát không biết là ai là X. X có thể là đàn ông hoặc đàn
bà.
Gọi A là biến cố Văn Phạm là thủ phạm. B là biến cố X là đàn ông. C là biến cố thủ
phạm là đàn ông. Có hai cách giải khác nhau như sau:
1) Theo công thức xác suất toàn phần ta có ( ) ( ) ( / ) ( ) ( / )P A P B P A B P B P A B .
Nếu X là đàn bà thì X không thể là thủ phạm và Văn Phạm phải là thủ phạm, bởi vậy
( / ) 1P A B . Nếu X là đàn ông thì một trong hai người, X hoặc Văn Phạm, là thủ phạm,
nên P(A/B) = 1/2. X có thể là đàn ông hoặc đàn bà, và ta coi xác suất để X là đàn ông và
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 48
xác suất để X là đàn bà là bằng nhau, nên ( ) ( ) 1/ 2P B P B . Từ đó ta có
( ) 1/ 2.1/ 2 1.1/ 2 3/ 4P A , có nghĩa là xác suất để Văn Phạm là thủ phạm là 3/4.
2) Ta coi C là điều kiện, và muốn tính xác suất có điều kiện P(A/C) (là xác suất
Văn Phạm là thủ phạm khi biết rằng thủ phạm là đàn ông). Theo công thức Bayes, ta có ( ) ( / )
( / )( ) ( / ) ( ) ( / )
P A P C AP A C
P A P C A P A P C A. Ở trong công thức trên, P(A) là xác suất để Văn
Phạm là thủ phạm nếu như chưa có điều kiện thủ phạm là đàn ông. Vì một trong hai
người Văn Phạm và X là thủ phạm nên xác suất P(A) không điều kiện ở đây là P(A) =
1/2. Ta có P(C/A) = 1 vì tất nhiên nếu Văn Phạm là thủ phạm thì thủ phạm là đàn ông.
Ngược lại, ( / ) 1/ 2P C A (nếu X là thủ phạm thì thủ phạm có thể là đàn ông hoặc đàn bà,
khi mà chưa đặt điều kiện thủ phạm là đàn ông). Do đó ta có P(A/C) = 2/3, tức là xác suất
để Văn Phạm là thủ phạm là 2/3.
Hai cách giải trên cho hai đáp số khác nhau, như vậy ít nhất một trong hai cách giải
trên là sai. Cách giải nào sai và sai ở chỗ nào?
Vấn đề của nghịch lý này là sự nhầm lẫn giữa các không gian xác suất trong lúc
lập mô hình tính xác suất. Trong cách giải thứ nhất, khi ta viết P(A) để tính xác suất để
Văn Phạm là thủ phạm, không gian xác suất của ta phải là không gian C tất cả các khả
năng (với một trong hai người Văn Phạm và X là thủ phạm), thỏa mãn điều kiện “thủ
phạm là đàn ông” chứ không phải là không gian của tất cả các khả năng có thể xảy ra
(với một trong hai người Văn Phạm và X là thủ phạm), bất kể thủ phạm là đàn ông hay
đàn bà. Để cho khỏi nhầm lẫn thì trong cách giải thứ nhất ta phải viết
( ) ( ) ( / ) ( ) ( / )C C C C CP A P B P A B P B P A B . Trong không gian thì ta có P(B) = 1/2, tức là
xác suất để X là đàn ông là 1/2. Nhưng trong không gian C dùng trong cách giải thứ
nhất thì ta phải dùng xác suất CP của không gian đó, và ( )CP B không phải là 1/2 mà là
2/3, và ( ) 1/3CP B . Nói cách khác, khi biết rằng một trong hai người X và Văn Phạm là
thủ phạm, và biết rằng thủ phạm là đàn ông, thì xác suất để X là đàn ông là 2/3 chứ không
còn là 1/2 nữa. Nếu ta sử dụng các con số xác suất này trong công thức xác suất toàn phần
của A trong không gian C thì ta được ( ) 2 / 3CP A . Tức là nếu ta sửa lỗi về xác suất của
B thì cách giải thứ nhất sẽ cho cùng đáp số với cách giải thứ hai.
Kết luận: Lý thuyết xác suất là phần kiến thức hay và có nhiều ứng dụng nhưng
khó. Cái khó của người học là phân biệt và hiểu được bản chất của các công thức. Cái
khó của người dạy là làm cách nào để trình bày và giải thích cho người học thấy được
bản chất toán học mà gần gũi và không dùng quá nhiều lý thuyết toán học khô cứng. Ở
đây, bài viết chỉ mang tính chất trao đổi và học hỏi, tất nhiên còn nhiều thiếu sót, rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ phía các đồng nghiệp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Lê Trung Tương, Lê Hồng Vân, Huỳnh Văn Sáu (1992), Giáo trình Lý thuyết xác suất và
thống kê toán học, Trường Đại học Bách khoa thành phố Hồ Chí Minh.
[2] Thái Xuân Tiên, Đặng Ngọc Dục, Đặng Công Hạnh (1996), Giáo trình Lý thuyết xác suất và
thống kê toán, Trường Đại học Kinh tế Đà Nẵng.
[3] Đỗ Đức Thái, Nguyễn Tiến Dũng (2009), Nhập môn hiện đại xác suất và thống kê toán,
Trung tâm Toán Tài chính và Công nghiệp Hà Nội.
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 49
Cần hiểu đúng về
ThS. Lê Thị Mỹ Dung, Khoa Quản trị kinh doanh
rong lịch sử, tầng lớp doanh nhân Việt Nam một thời gian dài không được xã hội
công nhận, bị phân rã và nằm ở cuối các thang bậc của xã hội, thậm chí còn bị
cấm đoán trong khi lại đề cao chủ yếu công - nông - binh. Mãi tới năm 1990, cùng với
quá trình đổi mới, sự ra đời của Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân, tầng lớp
Doanh nhân được hồi sinh và dần dần từ tầng lớp bị kỳ thị, coi khinh trong xã hội đã được
công nhận như một tầng lớp xã hội mang sứ mạng quan trọng và vẻ vang. Ngày
13/10/2004 đã được chính thức lựa chọn là Ngày Doanh nhân. Như vậy, doanh nhân Việt
Nam so với lực lượng doanh nhân của xã hội tư bản phát triển sau hàng trăm năm.
1. Hiểu về Doanh nhân
Không ít người hiểu chung chung Doanh nhân là “Người làm nghề kinh doanh”,
“Người có nhiều tiền” hay “Người có nhiều mánh lới, thủ đoạn”. Đó là cách hiểu hết sức
sai lệch về Doanh nhân. Chúng bắt nguồn từ nhận thức sai về doanh nhân và công việc
kinh doanh của họ.
Một bà tạp hóa hay chị tiểu thương có phải là doanh nhân? Một ông giám đốc làm
thuê có phải là doanh nhân? Một người làm “sếp” ở công ty nhà nước có phải là doanh
nhân? Nên “tôn vinh” ông Chủ tịch Hội đồng Quản trị chỉ biết chỉ tay năm ngón và hầu
như không biết gì đến chiến lược công ty, hay phải trao hoa cho vị trợ lý đang ngày đêm
chèo lái công ty và vật lộn với đủ mọi khắc nghiệt của thương trường?.
Nhất thiết phải xem xét khái niệm "doanh nhân" trong mối tương quan chặt chẽ với
khái niệm "doanh nghiệp". Điều đáng mừng là khái niệm "doanh nghiệp" đang được hiểu
theo cùng một góc nhìn trên khắp thế giới, đó là một tổ chức làm kinh doanh (business of
business is business). Mà kinh doanh thì được hiểu là kiếm tiền bằng cách phụng sự xã
hội. Bất cứ doanh nghiệp nào cũng cần có người lãnh đạo - người có đủ tư duy và tầm
nhìn, trí tuệ và tư tưởng, bản lĩnh và sức khỏe… để có thể dẫn dắt cả tập thể thực hiện
thành công sứ mệnh mà doanh nghiệp đã tự đặt lên vai mình. Và người lãnh đạo đó chính
là doanh nhân.
Một doanh nhân đúng nghĩa phải là người cùng doanh nghiệp mình đáp ứng được
cả một chuỗi trông cậy của cộng đồng. Bắt đầu từ việc thấu hiểu được xã hội để từ đó,
nhìn nhận được những vấn đề cần phải giải quyết. Trách nhiệm kế tiếp là phải sáng tạo ra
những giải pháp để giải quyết những vấn đề này. Rồi biến các giải pháp ấy thành sản
phẩm, thành dịch vụ để đưa vào cuộc sống nhằm thúc đẩy xã hội đi lên một cách tốt đẹp
hơn. Lúc đó, sản phẩm và dịch vụ của doanh nhân và doanh nghiệp sẽ trở thành phương
tiện để giải quyết những vấn đề của xã hội.
T
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 50
Bất cứ một xã hội nào cũng chứa trong lòng rất nhiều vấn đề cần được giải quyết.
Điều quan trọng và cũng là yếu tố xác lập vị thế của một doanh nhân là khả năng nhìn
nhận vấn đề và cách thức giải quyết vấn đề ấy. Chẳng hạn, trước vấn nạn kẹt xe đang làm
điêu đứng cuộc sống của người dân các thành phố lớn, doanh nhân này có thể triển khai
hệ thống mini-bus để giảm thiểu lượng xe máy, ôtô đang chèn cứng đường phố. Doanh
nhân kia có thể xúc tiến đề án xây dựng hệ thống tàu điện ngầm, tàu điện treo. Doanh
nhân nọ có thể cung cấp cho xã hội những chiếc xe đạp điện vừa tiết kiệm, vừa gọn nhẹ
có thể len lỏi giữa những đường phố nhỏ hẹp, lại bảo vệ môi trường. Doanh nhân khác lại
mở rộng đô thị...
Khi giải quyết vấn đề của xã hội một cách hiệu quả nhất, cũng chính là lúc công
việc kinh doanh thành công nhất. Và như thế, doanh nhân được xã hội nể trọng, lợi nhuận
thu được cũng tương xứng với những gì mà họ đã bỏ ra.
Hiểu như thế để thấy rằng không phải cứ bỏ tiền ra mở công ty là mặc nhiên trở
thành doanh nhân. Hiểu như thế để thấy rằng "chiếc áo không làm nên thầy tu". Việc làm
thuê hay làm chủ; làm doanh nghiệp to hay làm doanh nghiệp nhỏ; làm chức lớn hay giữ
chức khiêm tốn; làm nhà nước, tư nhân hay nước ngoài... thì vẫn có thể là những doanh
nhân thực thụ và xứng đáng được mọi người tôn vinh.
2. Doanh nhân trong các mối quan hệ
Doanh nhân trong mối quan hệ với doanh nghiệp Doanh nhân là những người giữ vị trí quan trọng, gây dựng nên các doanh nghiệp.
Doanh nhân tham gia doanh nghiệp theo hai hình thức:
- Đóng góp vốn, ý tưởng, bí quyết: là chủ sở hữu, cổ đông lớn của doanh nghiệp;
- Đóng góp công sức: là thành viên Ban giám đốc đảm nhiệm công việc quản trị,
điều hành doanh nghiệp.
Trung bình ở một nước, doanh nhân chiếm từ 5 đến 20% dân số. Doanh nhân và
doanh nghiệp của họ được pháp luật hóa, xã hội hóa, văn hóa hóa và quốc tế hóa. Có thể
nói, doanh nhân xuất hiện và phát triển trong môi trường tự do kinh tế với khung pháp lý
lành mạnh, cá nhân có quyền đối với tài sản mình làm ra và được bảo vệ để cạnh tranh tự
do, bình đẳng trên thương trường.
Doanh nhân trong mối quan hệ với năng lực cá nhân Doanh nhân là những người có năng lực khác thường trong việc đón trước nhu cầu
của thị trường thông qua nhận thức nhu cầu tiềm ẩn và hành động trước một cách hiệu
quả để đáp ứng nhu cầu đó. Phẩm chất của doanh nhân được phản ánh qua:
- Kỹ năng, năng khiếu, bí quyết kinh doanh: óc phán đoán, nhìn ra nhu cầu thị
trường và cơ hội làm giàu; biết suy nghĩ lớn, với trình độ tư duy sâu và sắc sảo về thị
trường chứ không phải là tiêu tiền lớn như mọi người thường nghĩ về họ; có phong cách
ứng xử khéo léo, tế nhị để huy động sự hợp tác và các nguồn lực con người;
- Tính cách thiên về hành động: kinh nghiệm kinh doanh phong phú, táo bạo, mạo
hiểm biết chấp nhận rủi ro để lao vào kinh doanh, biết sáng tạo và quyết đoán làm những
việc khác thường.
So với người bình thường, doanh nhân được đánh giá thông qua hai thang bậc năng
lực chính là:
- Hiệu quả kinh doanh: Trình độ sử dụng các nguồn lực có thể huy động (Nhân
lực, tài lực, vật lực, thông tin,…) để đạt được mục tiêu xác định. Nó biểu hiện mối tương
quan giữa kết quả thu được và những chi phí bỏ ra để có được kết quả đó, độ chênh lệch
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 51
giữa hai đại lượng này càng lớn thì hiệu quả càng cao. Trên góc độ này thì hiệu quả đồng
nhất với lợi nhuận của doanh nghiệp và khả năng đáp ứng về mặt chất lượng của sản
phẩm đối với nhu cầu của thị trường;
- Ý chí vươn lên: Liên tục thăng tiến, nỗ lực không ngừng theo những mong muốn,
khát khao làm giàu.
Doanh nhân trong mối quan hệ nghề nghiệp Doanh nhân là những người làm nghề kinh doanh một cách chuyên nghiệp, là một
chuyên gia về quản lý kinh doanh, là một nhà trí thức lao động trí óc và sử dụng tổng hợp
kiến thức đa lĩnh vực, đa nguồn.
Doanh nhân là người biết tập hợp, kết hợp các nguồn lực khác nhau của xã hội và
điều phối các nguồn lực này vào các hoạt động sản xuất, dịch vụ của doanh nghiệp.
Những nguồn lực mà người doanh nhân phối hợp nhịp nhàng, điều hành một cách chuyên
nghiệp là:
Tích tụ và sử dụng vốn, công cụ lao động và nguyên vật liệu;
Tích tụ và sử dụng con người ở nhiều ngành nghề, mức trình độ khác nhau;
Tích tụ và sử dụng tri thức, kinh nghiệm;
Tích tụ và sử dụng thông tin thị trường, xã hội, công nghệ, kinh doanh…
Doanh nhân cũng là người chiến sĩ “thiện chiến” trên mặt trận làm giàu. Họ là
những vị chỉ huy giỏi ở doanh nghiệp trong việc liên kết đối tác kinh doanh, vừa chỉ đạo
hợp tác vừa cạnh tranh với những “đội quân” khác trên thương trường.
Doanh nhân trong mối quan hệ với xã hội Doanh nhân hăng hái tự giác xác nhận trách nhiệm xã hội và phụng sự đáng kể cho
xã hội. Đúng như quan điểm của nhà tư bản Mỹ Henrry Ford - “Một cuộc kinh doanh
không mang lại gì cho xã hội mà chỉ kiếm được tiền là một cuộc kinh doanh tồi tệ”.
Doanh nhân gánh vác nhiều việc lớn, giải quyết nhiều vấn nạn của xã hội. Song
song với việc làm Giàu cho bản thân, với vai trò cá nhân, doanh nhân tham gia các hoạt
động xã hội hoặc thông qua doanh nghiệp của mình làm cho xã hội Sang hơn, thịnh
vượng hơn. Nhờ doanh nhân lèo lái doanh nghiệp, nhân lực vật lực của xã hội ngày một
phát triển và làm xã hội phát triển. Hàng hóa, dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu phát triển xã
hội, tạo công ăn việc làm cho người lao động, tạo ra lợi nhuận, thiết bị - công nghệ mới,
tri thức và thực tiễn kinh doanh mới… đó là những đóng góp cụ thể của các doanh nhân.
Điều này đúng như nhà kinh tế học Adam Smith năm 1776 đã viết trong tác phẩm
Tài sản của các quốc gia - The wealth of Nations: "Mỗi cá nhân đều muốn thu lợi lớn
nhất cho mình sẽ làm lợi ích của cả cộng đồng đạt tối đa, giống như việc cộng toàn bộ tất
cả các lợi ích của từng cá nhân lại".
3. Tiêu chuẩn chung của doanh nhân hiện đại Có phải doanh nhân làm Giàu cho mình, Sang cho xã hội là do họ có nhiều tiền, có
nhiều mối quan hệ và nhiều thủ đoạn chăng? Có phải đạo đức, tài năng không liên quan gì
với thành quả của doanh nhân?
Từ thực tiễn Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu đã tổng kết đặc điểm chung của
doanh nhân Việt thành đạt là: Tâm – Tài – Trí - Dũng và có thể gọi với tên gọi “Đạo kinh
doanh của Doanh nhân Việt” .
Những phẩm chất ấy cụ thể là:
Tâm thì có đức (vì người khác):
Có khả năng lãnh đạo
BẢN TIN KHOA HỌC Số 23/Quý III/Năm 2013
TRƯỜNG CAO ĐẲNG THƯƠNG MẠI | 45 Dũng Sĩ Thanh Khê - TP. Đà Nẵng 52
Trung thực, không tham lam cá nhân
Sòng phẳng và biết ơn hơn người thường
Tin tưởng trong liên kết làm ăn, đối đãi khách hàng, cư xử đồng nghiệp
Tài thì có tầm (thấy được nhiều):
Chăm chỉ, trách nhiệm hơn người
Lòng say mê
Tính linh hoạt, ứng biến
Kết hợp các sức mạnh và nguồn lực
Trí thì có lực (có trình độ, nâng mình lên):
Tinh thông và tự tin
Biết điều
Dũng thì có khí tiết (chí khí + mạo hiểm có tính toán)
Biết chấp nhận mạo hiểm, rủi ro
Có lòng quyết tâm và khát khao thành công
Dũng cảm, không bao giờ thỏa mãn, theo đuổi đến cùng
Thông minh, sáng tạo – giàu ý tưởng khác lạ, độc đáo
Quyết đoán và biết lựa chọn cơ hội
Doanh nhân nào mang trong mình những phẩm chất quý báu kể trên thực là những
doanh nhân giỏi giang và xứng đáng được cả xã hội tôn vinh.
Nói đến việc tôn vinh doanh nhân, người ta hay liên tưởng đến một huyền thoại
doanh nhân thế giới, Henry Ford - người đàn ông đã "đặt cả thế giới lên bốn bánh xe".
Thước đo sự kính trọng, sự tôn vinh đối với doanh nhân của cả thế giới đã gặp nhau ở một
điểm: điều quan trọng không phải là số tiền mà Henry Ford kiếm được lớn chừng nào,
công ty của Henry Ford to ra sao, mà quan trọng là ông và công ty của ông đã mang lại
cho xã hội cái gì, cái đó có góp phần làm thay đổi xã hội và làm cho cuộc sống của con
người tốt lên hay không.
Cuối đời mình, Henry Ford rút ra bài học dành cho những người kế nhiệm: "Một
cuộc kinh doanh không mang lại gì cho xã hội mà chỉ kiếm được tiền là một cuộc kinh
doanh tồi tệ". Điều đó thật sự đáng để chúng ta suy ngẫm. Xã hội, và sau này là lịch sử, sẽ
rất công bằng. Một doanh nhân chỉ thật sự được tôn vinh khi với tài năng giải quyết vấn
đề của mình, người ấy đang cùng doanh nghiệp làm cho xã hội này tốt đẹp hơn lên mỗi
ngày.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Ngày doanh nhân Việt Nam, www.doanhnhan360.com.vn.
[2] www.hiephoidoanhnghiep.vn.