SARVEPALLI RADHAKRISHNAN - Freefreephung.free.fr/.../14)SARVEPALLIRADHAKRISHNAN.pdf · rằng...
Transcript of SARVEPALLI RADHAKRISHNAN - Freefreephung.free.fr/.../14)SARVEPALLIRADHAKRISHNAN.pdf · rằng...
SARVEPALLI
RADHAKRISHNAN
( 1888 ..... )
Tác-Giả Dịch - Thuật
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
1
SARVEPALLI RADHAKRISHNAN
HOÀN-THÀNH SỰ PHỤC-HƯNG
ẤN - ĐỘ
Rabindranath Tagore ( 1881-1941 ),
Mahatma Gandhi ( 1869-1948 ), Sri Aurobindo
Ghose ( 1872-1950 ) và S. Radhakrishnan
( 1888 ... ). Bốn vĩ-nhân hoàn-thành việc Phục-
hưng Truyền-thống Ấn-Độ và giải-phóng dân-
tộc không bằng xương máu mà bằng tinh-thần
văn-hóa cổ-truyền : Tagore đem cho thế-giới
hồn thơ Thánh-linh Phệ-đà ( Vedas ) và đã
được phần-thưởng Quốc-tế Nobel ; Thánh
Gandhi cống-hiến thế-giới và dân-tộc chính-
sách " Bất-bạo-động " để đối-phó với chiến-
tranh nguyên-tử tiêu-diệt nhân-loại và Radha-
krishnan " nhà đại triết-gia chính-khách Ấn-
Độ " lấy thực-nghiệm thực-tại tuyệt-đối, trực-
ADPH RADHAKRISHNAN
2
giác tâm-linh để cống-hiến cơ-bản cho triết-học
tôn-giáo đại-đồng. Các vĩ-nhân Ấn-Độ ấy đã
hoàn-thành sự phục-hưng truyền-thống Ấn ,
Vedas - Upanisads cho dân-tộc và cả thế-giới
như trên đã trình-bày về R. Tagore và Gandhi,
nay hãy kể đến S. Radhakrishnan .
Trong tác-phẩm phong-phú xuất-bản ở
New-York 1952 nhan-đề " The Philosophy of
Sarvepalli Radhakrishnan " in trong bộ " The
Library of Living Philosophers " nhà xuất-bản
giới-thiệu :
" Trong tập sách trọng-đại này có
hai mươi ba học-giả danh tiếng thế-giới
đã viết cả một bộ khái-luận phê-bình
sáng-lạn, bao-hàm tất cả các phương-diện
tư-tưởng của Radhakrishnan, _ cống-hiến
của ông vào triết-học xã-hội, vào tôn-giáo
và tâm-linh-học hiện-đại , ảnh-hưởng của
ông vào Ấn-Độ-giáo ( Hinduism ) hiện-
đại và địa-vị của ông trong các trào-lưu
chính của triết-học thế-kỷ XX ."
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
3
Ở châu-Âu và Châu-Mỹ, ở khắp thế-giới,
S. Radhakrishnan được người ta mệnh-danh là
" Great philosopher states-man of India " ( Đại
chính-khách triết-gia Ấn ) vì ông đã được
trúng-cử ngày 12 - 5 - 1952 vào chức Phó
Thổng-Thống Dân-Chủ Cộng-Hòa Ấn-Độ đầu
tiên, do cử-tri cả hai viện trung-ương bầu lên.
" Chừng nào liên-quan đến sự trình-
bày Ấn-Độ-giáo, không một ai, kể từ
ngày xuất-hiện Swami Vivekananda trên
diễn-đàn Hội-nghị Quốc-tế về Tôn-giáo
tại Chicago 1893, đã hấp-dẫn được nhiều
chú-ý ở Mỹ và Âu hơn là Giáo-sư
Radhakrishnan. Và ảnh-hưởng của Giáo-
sư có thể còn lâu bền vì nó lệ-thuộc
không phải chỉ vào những bài diễn-thuyết
phổ-thông mà còn vào tác-phẩm bác-học,
viết với lối văn-chương hấp-dẫn, làm cho
người đọc thích-thú. Chắc-chắn ông là
một đại-diện lớn nhất của Phục-hưng Ấn-
Độ Hiện-đại. Song hành với Gandhi và
Tagore, ông đã nâng cao uy-tín của nước
ADPH RADHAKRISHNAN
4
ta trong hàng các dân-tộc thế-giới ."
_ ( " Hinduism Through The Ages "
_ D. S. Sarma )
Theo lời tự-thuật của Radhakrishnan :
" Tôi bắt đầu cuộc đời vào nghề là
một giáo-sư triết-học ở Đại-học Trung-
ương Madras tháng 4 - 1909 suốt bẩy
năm qua. Trong thời-gian ấy tôi học cổ-
điển Ấn-độ-giáo như Upanisads, Bhaga-
vadgita, với chú-giải về Brahman Sutras
của các giáo-chủ chính Samkara - Rāmā-
nuja, Madhva, Nimbārka và các vị khác,
cùng Vấn-đáp của Buddha cũng như
kinh-điển của Ấn-độ-giáo, Phật-giáo và
Jainas. Trong tư-tưởng-gia Tây-Âu,
những tác-phẩm của Platon, Plotinus và
Kant và của Bradley, Bergson đều đã
phần lớn ảnh-hưởng vào tôi. Những giao-
thiệp của tôi với đại Ấn-độ-gia hiện-đại
như Tagore và Gandhi đều rất thân-thiện
suốt ngót ba mươi năm và tôi cũng thực-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
5
hiện những ý-nghĩ lạ-lùng của họ đối với
tôi .
" Tuy rằng tôi tôn-trọng các đại-gia
tư-tưởng xưa và nay, Đông và Tây, nhưng
tôi không thể nói là tôi theo một ai, thừa-
nhận hoàn-toàn giáo-lý của họ, tôi không
nói là tôi từ-chối học-hỏi người khác hay
là không bị người ta ảnh-hưởng. Trong
khi tôi bị rất nhiều kích-thích bởi tinh-
thần của tất cả các tác-giả tôi đã học,
nhưng tư-tưởng tôi không thích-hợp với
một kiểu truyền-thống nhất-định nào. Bởi
vì tư-duy của tôi đã có một nguồn khác và
nó xuất-phát từ chính thực-nghiệm riêng
của tôi, _ không hoàn-toàn giống với cái
gì thu-lượm trong sự học-hỏi và đọc sách.
Nó do thực-nghiệm tâm-linh phát-sinh
hơn là do suy-diễn từ những tiền-đề xác-
định hợp-lý. Triết-học là sản-xuất của sự
tiếp-xúc với thực-tại hơn là của nghiên-
cứu lịch-sử về những tiếp-xúc ấy. Trong
tác-phẩm của tôi, tôi đã thử thông-truyền
nội-quan của tôi về ý-nghĩa sinh-tồn. Tuy
ADPH RADHAKRISHNAN
6
vậy, tôi không chắc đã thành-công trong
sự chuyển-giao những ý-niệm nội-tại của
tôi. Tôi thử chứng-tỏ rằng vị-trí đại-
cương của tôi cung-cấp một giải-thích
hiệu-nghiệm về thế-giới, nó có vẻ nhất-trí
với chính nó, hòa-hợp với thực-kiện ta
biết chúng và củng-cố đời sống tâm-linh."
_ ( p. 9 " A Confession " ) _ ( " The
Philosophy of S. Radhakrishnan " _ The
Librairy of Living Philosophers ; New-
York, 1952 )
Đứng trên cơ-bản thực-nghiệm tâm-linh
ấy tư-tưởng của Radhakrishnan tỏ ra một đồng-
nhất-tính trong các tác-phẩm triết-học và tôn-
giáo kể từ bộ sách đầu tiên " Triết-lý Của
Rabindranath Tagore " ( The Philosophy of... )
cho tới tác-phẩm cuối cùng " The Principal
Upanisads ). Nhưng trong Hilbert Lectures của
ông về " An Idealist View of Life " phát-hành
năm 1932 mà người ta thấy tư-tưởng của ông
về tôn-giáo và triết-học được đầy đủ hơn cả.
Chính ở đây cho thấy sự tiến-bộ của ông đối
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
7
với lập-trường của các vị đi trước về truyền-
thống tôn-giáo Ấn. Chính ở đây, ông trình-bày
hết sức sáng-sủa quan-điểm duy-tâm về sự
sống, căn cứ đầu tiên vào thực-nghiệm tâm-linh
( mystic ) của các bậc Tiên-tri ( Rishis ) thời
Upanisads - Vedas .
Giáo-sư viết :
" Một quan-điểm duy-tâm nhận thấy
vũ-trụ có ý-nghĩa, có giá-trị. Giá-trị lý-
tưởng là những động-năng, thế-lực dẫn
đạo vũ-trụ. Thế-giới chỉ hiểu được như là
một hệ-thống cứu-cánh. Một quan-điểm
như thế ít quan-hệ với vấn-đề một vật,
hoặc chỉ là một hình-ảnh đặc-thù, hoặc là
một liên-hệ đại-cương. Vấn-đề độc-lập
của năng-tri và sở-tri ít có quan-hệ với nó.
Nó cũng không phạm đến học-thuyết cho
rằng thế-giới là do tinh-thần cá-nhân,
tinh-thần vô-biên hay là tinh-thần của một
xã-hội tạo-tác. Duy-tâm theo nghĩa nói
đây là quan-hệ với bản-tính cùng tột của
thực-tại, bất cứ liên-hệ của nó với tinh-
ADPH RADHAKRISHNAN
8
thần năng-tri như thế nào. Nó giải-đáp
cho vấn-đề ý-niệm, ý-nghĩa hay là mục-
tiêu của tất cả. Nó không có gì chung
đụng với quan-điểm chủ-trương thực-tại
là một phấn-đấu phi-lý mù-quáng hay là
một lầm lỗi khốn-nạn bất-khả-tri. Nó
nhận thấy đời sống có ý-nghĩa và mục-
đích. Nó cho người ta một định-mệnh
không giới-hạn vào thế-giới hữu-hình . "
_ ( tr. 15 )
Ông định-nghĩa cho triết-học tôn-giáo là
tôn-giáo đi đến tự hiểu biết mình. Không làm
gì có triết-học tôn-giáo mà không có thực-
nghiệm tôn-giáo. Khi tư-tưởng tôn-giáo thử tổ-
chức thực-nghiệm tôn-giáo, nó cũng có giá-trị
như bất cứ một khoa-học thiên-nhiên nào khác
khi nó thử tổ-chức tài-liệu của giác-quan, vì
trực-giác tinh-thần cũng chỉ-dẫn về thực-tại
như tri-giác của chúng ta vậy. Ví dụ đối với
tín-đồ sùng-bái Thượng-Đế Thần-linh, thì tình-
yêu Thần-linh cũng là thực-kiện trên trời xanh
đối với người thường. Thực là vô-lý nếu công-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
9
nhận thực-chứng của giác-quan mà không
công-nhận thực-chứng của cảm-giác tôn-giáo,
trực-giác tâm-linh. Đời sống của một người
không có ý-thức tôn-giáo, không chứng-minh
thực-nghiệm tôn-giáo là vô giá-trị không hơn
gì đời sống của một người câm, điếc khi họ
chứng-minh rằng thực-nghiệm âm-nhạc vô-
hiệu-lực. Lại như sự tồn-tại của các tôn-giáo
khác về một số phương-diện không làm mất
hiệu-lực, phế bỏ thực-nghiệm bên trong chúng,
cũng như sự tồn-tại của các lý-thuyết khác
nhau về vật-chất không làm mất giá-trị của
hiện-tượng vật-chất. Một triết-học tôn-giáo là
một cố-gắng hệ-thống-hóa và thống-nhất
những dữ-kiện thực-nghiệm tôn-giáo. Nó khác
biệt hẳn với suy-luận thần-học và giáo-điều.
Suy-luận thần-học với phương-tiện biện-chính
đi đến kết-luận Thượng-Đế là một khả-năng,
trong khi một triết-học tôn-giáo đi từ thực-
nghiệm tôn-giáo và truyền-thống, khẳng-định
hiểu biết hợp-lý rằng Thượng-Đế là một thực-
tại. Lại nữa, thần-học, giáo-điều tự giới-hạn
việc trình-bày một hệ-thống thực-nghiệm ghi
ADPH RADHAKRISHNAN
10
lại ở một thời và một xứ, còn như triết-học tôn-
giáo thì nhận-thức các mẩu thực-nghiệm tôn-
giáo của tất cả thời-đại và xứ-sở. Giáo-sư
Radhakrishnan nói :
" Triết-học tôn-giáo tiên quyết bỏ
con đường thần-học suy-luận và phương-
pháp biện-bách giáo-điều thần-học vũ-
đoán, và thừa-nhận quan-điểm khoa-học
của thực-nghiệm tôn-giáo và khảo-sát
khách-quan, vô-tư sự truyền-thừa của tín-
đồ tất cả giáo-lý, cả đến của người không
có giáo-lý truyền-thừa. Một sự khảo-sát
như thế, những yêu-cầu và nội-dung của
ý-thức tôn-giáo mà bối-cảnh là lịch-sử
tinh-thần nhân-loại, thì bao-hàm hứa-hẹn
một duy-tâm-luận tâm-linh, nó chống với
sức mạnh làm tan rã của tự-nhiên khoa-
học một mặt và giáo-điều tôn-giáo một
mặt khác ."
_ ( An Idealist View of Life )
Kết-luận của một khoa-học tôn-giáo ấy
thế nào ? Những khẳng-định của triết-học tôn-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
11
giáo chân-chính ấy căn-cứ vào giáo-lý Upani-
sads, vấn-đáp của Buddha, ngụ-ý của Christ,
những phát-biểu của Mohammed, những cách-
ngôn của Ramakrishna Paramahamsa, những
cái nhìn " tứ mục tương cố " thầm-lặng của
Ramana Maharshi ( 1879 -1950 ), với lời dạy
duy-nhất : Hãy tự cứu xét " Ta là Ai ? " ( Who
am I ? ). Và giáo-sư Radhakrishnan tuyên-bố :
" Những nhân-chứng cá-nhân về ý-thức thần-
linh không phải giới-hạn vào Đông-phương."
Và ông kể : " Socrates và Platon, Plotinus và
Porphyry, Augustin và Dante... và vô số người
khác nữa chứng-nhận thực-tại cảm thấy về
Thượng-Đế. Điều ấy cũng cổ xưa như nhân-
loại và nó không hạn hẹp vào một dân-tộc nào
cả. Cái sự minh-chứng ấy thì quá hiển-nhiên để
trốn tránh ."
Chúng ta có thể kết-luận về minh-chứng
thực-nghiệm ở tuyệt-đối, trực-giác tâm-linh về
Thượng-Đế như sau :
1)_ Thực-nghiệm tâm-linh là một phản-
ứng của toàn-thể con người đối với Thực-tại,
ADPH RADHAKRISHNAN
12
nó bao-hàm và vượt cả hoạt-động trí-thức, đạo-
đức và tình-cảm. Nó là cái biết qua sinh-tồn,
bởi thế nên nó cụ-thể và cá-nhân, không trừu-
tượng và đại-cương như cái biết khái-niệm, và
nó cũng không truyền-thông qua danh-từ hợp-
lý. Người ta chỉ có thể biết tâm-linh bằng
thuần-túy thực-nghiệm, cũng như một người
biết tình-yêu bằng trở nên yêu, và không phải
đọc sách về tình-yêu mà biết yêu. Cũng như
Tử-Tư viết : ( )
" Thành giả thiên chi đạo, Thành chi giả nhân
chi đạo_ Tử-Tư " ( Thực-tại là đạo Trời tuyệt-
đối, thực-hiện thực-tại ấy là đạo của người ) .
2)_ Thành hợp chữ ngôn ( ) và chữ
thành ( ) là một trạng-thái trực-giác toàn-
diện, tri và hành hợp-nhất, tự nó đầy đủ hiệu-
lực của nó, tự nó tự lập, tự minh, không cần
đến cái gì khác ngoài nó. Thành là tri hành
hợp-nhất, lý tình nhất-trí, cho ta thấy Tồn-tại
tuyệt-đối, vĩnh-cửu, ngoài tất cả phạm-trù tư-
duy và biểu-thị. Tuy nhiên khi ta nói rằng
Tuyệt-đối do thực-nghiệm tâm-linh biểu-lộ thì
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
13
hoàn-toàn không có thuộc-tính và chỉ có thể
như Phật-học mô-tả bằng phủ-định (Sunnyata),
Không : nghĩa là không có thể quan-niệm theo
hình-danh sắc-tướng ( nama-rupa ) của tinh-
thần hữu-hạn tương-đối .
3)_ Thực-nghiệm tâm-linh có ba sắc-thái
đặc-trưng, như Ấn-độ-học gọi là Sat, Chit,
Ananda = Thực-tại, Giác-ngộ và Hoàn-toàn
Hoan-hỷ. Cũng như Khổng-Tử bảo : " Tri chi
bất như Hiếu chi, Hiếu chi bất như Lạc chi ."
( ) nghĩa là
( Biết đạo không bằng yêu đạo, yêu đạo không
bằng vui đạo.) Ba thuộc tính ấy đối với ta thì là
ba, nhưng ở Thượng-Đế thì bất phân. Thượng-
Đế là Thực-tại Tuyệt-đối ( bất khả tư nghị ),
vượt ra ngoài cả hữu-ngã và vô-ngã, nhân-cách
và phi-nhân-cách, mà chúng ta, loài người
trong phạm-vi hình-danh sắc-tướng ( nama -
rupa ) đã mệnh danh là Thượng-Đế nhân-cách-
hóa, một phạm-trù tối-cao mà chúng ta biết
được. Như vậy Thượng-Đế chỉ là một phù-
hiệu, là Thượng-Đế đối với chúng ta không
ADPH RADHAKRISHNAN
14
phải là Thượng-Đế đối với Thực-tại tuyệt-đối
tự-tại .
4)_ Thực-nghiệm tâm-linh không những
biểu-lộ cho chúng ta một thực-tại siêu-nhiên,
nhưng cũng còn đem cho ta cái tin-tưởng vào
đồng-nhất-tính của thế-giới. Nhà tâm-linh-học
tri-giác Thực-tại trong trạng-thái trực-giác
thiền-định như là vừa nội-tại vừa siêu-nhiên .
" Giác liễu thân tâm bản ngưng tịch
Thần thông biến hóa hiện chư tướng
Hữu vi vô vi tòng thử xuất
Hà sa thế-giới bất khả lượng ."
_ ( Thiền-sư Cửu-Chỉ , 1065 )
( Trực-giác tuyệt-đối thì thân-thể và ý-
thức vốn ngừng lặng ,
Các hiện-tượng biến-hóa hiện ra thần-
thông .
Có hình và vô hình do đấy xuất-hiện,
Thế-giới nhiều như cát sông không lường
được .)
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
15
5)_ Một điều trọng-yếu nhất của thực-
nghiệm tôn-giáo là sự đồng-nhất-thể giữa tâm-
linh và vũ-trụ, linh-hồn và Thượng-Đế. Trong
trạng-thái xuất-thần ( extase mystique ) thiền-
định tam-muội ( samadhi ) nhà tôn-giáo tâm-
linh thực-nghiệm cảm thấy tự-ngã chỉ là trung-
tâm của Tâm-linh vô sở bất tại. Đấy là điểm
kết-luận chung của tất cả các truyền-thống tâm-
linh-học Đông cũng như Tây, khẩu-hiệu " Tat
tvam asi " ( Người là cái Ấy tuyệt-đối ) ở
Upanisads cũng như " Ta và Cha ta là Một " _
( Jesus ).... tức là lời thơ kệ của Tăng-Thống
Khánh-Hỷ ( 1142 ) triều Lý ở Việt-Nam :
" Kiền khôn tận thị mao đầu thượng
Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung "
( Vũ-trụ hết thảy đầu ngọn tóc,
Mặt-trăng mặt-trời đầy đủ trong hạt cải )
" Toute réalité est en soi totale
Tout dans l'univers est comme l'univers "
ADPH RADHAKRISHNAN
16
( Tất cả thực-tại tự thân là toàn-diện
Tất cả trong vũ-trụ đều như vũ-trụ ) .
Đấy là quan-điểm nhất-nguyên tâm-linh
đạo-học Đông-phương, khác với nhất-nguyên
trí-thức Tây-phương, duy-tâm hay là duy-vật
( idéalisme, matérialisme ), vì một đàng căn cứ
vào thực-nghiệm, một đàng là suy-luận trí-thức
trừu-tượng. Chính cái thực-nghiệm tôn-giáo ấy
mà giáo-sư Radhakrishnan đã lấy làm cơ sở
cho " Quan-điểm duy-tâm về đời sống " ( An
Idealist View of Life ). Đối với ông, tuyệt-đối
duy-tâm là tiêu-chuẩn để thử-nghiệm cho bất
cứ hệ-thống triết-học nào, và ông đã xem xét
theo quan-điểm thực-nghiệm tôn-giáo tâm-linh
các triết-học Tây-phương cận-đại, như Berg-
son, William James, Bertrand Russell, Schiller,
cả đến những hệ-thống của Eddington, Jeans,
Whitehead, Alexander và Lloyd Morgan cũng
như những phát-hiện tâm-lý của Phân-tâm-học
và chủ-nghĩa hành-động, biện-chứng duy-vật
của K. Marx .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
17
Giáo-sư cũng áp-dụng quan-điểm Duy-
tâm Tuyệt-đối ( Idealist View of Life = Quan-
điểm lý-tưởng của đời sống ) vào tác-phẩm
nổi-tiếng của ông " Indian Philosophy " vào
Phật-học, chứng-minh sự nhất-trí giữa Phật và
Upanisads, vào sáu quan-điểm Bà-la-môn về
triết-học Nyaya ( Nhân-minh ), Vaisheshika
( Vệ-thế-sư ), Samkhya ( Số-luận ), Yoga ( Du-
da ), Mimansa ( Di-man-tác ) và Vedanta ( Bất-
nhị-pháp ) và thấy rằng Tuyệt-đối Duy-tâm là
biểu-thị tối-cao của Vedanta, vì nó căn cứ vào
thực-nghiệm cao nhất mà người ta có khả-
năng. Giáo-sư thông-thạo các triết-học Đông và
Tây và đủ tư-cách để đối-phó với thử-thách của
hiện-đại, đòi-hỏi thay-thế thực-nghiệm tôn-giáo
bằng khoa-học tự-nhiên, bất khả tri luận, chủ-
nghĩa nhân-bản và thực-tiễn. Ông cũng duyệt
lại những thành-tựu cuối cùng của khoa-học
như Vật-lý-học, Thiên-văn-học và Sinh-lý-học.
Ông viết :
" Toàn-thể phương-pháp và cách
tiến-hành của khoa-học là căn cứ vào tín-
ngưỡng về trật-tự của thiên-nhiên. Eins-
ADPH RADHAKRISHNAN
18
tein chú-trọng rằng “ cái trí-thức này, cái
cảm-tưởng này là trọng-tâm của tôn-giáo
chân-chính. Theo nghĩa này và chỉ ở
nghĩa này, thì tôi thuộc vào hàng tín-đồ
mộ đạo .”
( The whole method and procedure
of Science are base on faith in the
orderliness of nature. Einstein stress that
“ this knowledge, this feeling is at the
centre of true religiousness. In this sense,
and in this sense only, I belong to the
ranks of devoutly religious men.” )
_ ( History of Philosophy Eastern and
Western _ p. 441 )
Căn-cứ vào thực-nghiệm tôn-giáo, chung
cho tất cả tôn-giáo chân-chính cũng như cho
phát-minh khoa-học hiện-đại mà Radhakrish-
nan xây-dựng triết-học tôn-giáo của mình.
Theo ông vũ-trụ của chúng ta là sự thực-hiện
của bản-tính Tuyệt-đối. Tuyệt-đối là ý-thức
thuần-túy, " Thiên địa chi tâm ", thuần-túy tự-
do và khả-năng vô-hạn. Từ vô số khả-năng để
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
19
lựa chọn, một khả-năng đặc-biệt đã trở nên
hiện-thực vũ-trụ trật-tự. Bởi vậy Tuyệt-đối
không kiện-tận bởi diễn-tiến vũ-trụ. Khi nhìn
Tuyệt-đối trong sự liên-hệ với diễn-tiến vũ-trụ,
thì ta gọi là Thượng-Đế. Thượng-Đế giới-hạn
vào thế-giới mà Tuyệt-đối thì không, thuần tự-
do. Hữu-thể vô-biên như thế là tự giới-hạn để
tự biểu-hiện. Khả-năng tự giới-hạn của Tuyệt-
đối thì gọi là Ảo-hóa ( Maya ) trong triết-học
Ấn-Độ Tuyệt-đối và Maya của nó hiện ra là
tinh-thần và vật-chất trong vũ-trụ thời-không
của ta. Hữu-thể Tuyệt-đối gọi là Thượng-Đế
( Ishvara ) trong liên-quan với vũ-trụ như thế
phân ra làm hai chủ-thể và đối-tượng, ngã và
phi-ngã, không ly-khai. Sự xung-khắc giữa hai
cái ấy đã kết thành các trật chúng-sinh trong
thế-giới. Ở giai-đoạn thấp nhất là vật-chất vô-
cơ, trong đó tinh-thần còn ngủ. Sau đến giai-
đoạn thảo-mộc trong đó tinh-thần tự biểu-hiện,
là sự sống nó dùng vật-chất vào mục-đích của
nó. Kế đến chúng ta có giới động-vật trong đó
có tinh-thần thêm vào sự sống, như là biểu-hiện
xa hơn của tinh-thần. Cao hơn động-vật là loài
ADPH RADHAKRISHNAN
20
người có sự xuất-hiện của lý-trí và ý-chí tự-do.
Sau giai-đoạn này đã đạt được thì sự tiến-bộ
không do bên ngoài thúc đẩy mà có sự phát-
triển ở bên trong. Những giá-trị tinh-thần càng
cao, như thiện, mỹ, chân mà một cá-nhân nuôi
dưỡng ở mình và ở người thì nó càng trở nên
gần với Thượng-Đế thần-linh. Vì Thượng-Đế
là sự hoàn-toàn cũng như là nguồn của tất cả
giá-trị tinh-thần trong phạm-vi nhân-loại. Giai-
đoạn cuối cùng kết-thúc vòng tiến-hóa sẽ đạt
được là khi tất cả vật-chất được tinh-thần thu-
hút và lưỡng-tính năng-tri và sở-tri, chủ-thể và
đối-tượng biến đi. Như thế là lịch-trình tiến-
hóa của vũ-trụ cốt trở về nguồn của Tuyệt-đối,
trở về toàn-thể nguyên-thủy. Cuộc diễn-tiến ấy
không phải mù-quáng, không cứu-cánh. Trái
lại cái tinh-thần nội-tại quyết-định sự hướng-
thượng liên-tục của hình-thức sự sống thấp
nhất của nhân-loại đến sự tự ý-thức mình. Bằng
sự tiến-hóa của vũ-trụ, cái đồng-nhất-tính của
tinh-thần nguyên-thủy trở nên cụ-thể toàn-diện.
Tinh-thần tự thực-hiện :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
21
( )
" Thành giả thiên chi đạo, Thành chi giả
nhân chi đạo _ ( Trung Dung ) "
( Thật tại Tuyệt-đối là đạo trời, Thực-hiện
Tuyệt-đối ấy là đạo của nhân-loại .)
S. Radhakrishnan đã toát-yếu quá-trình
tiến-hóa ấy trong " The Reign of Religion in
Contemporary Philosophy " ( Chủ-quyền Tôn-
giáo trong Triết-học Hiện-đại ) :
" Vậy lý-tưởng tuyệt-đối phân-biệt
nguyên lai vũ-trụ là do sự phân-hóa toàn-
thể thành tồn-tại và phi-tồn-tại ( being
and non-being ). Quá-trình vũ-trụ là cuộc
chiến-đấu giữa hai khuynh-hướng ấy, và
sự tiến-bộ được đo bằng sự ưu-thắng của
tồn-tại đối với phi-tồn-tại, mà mục-tiêu
hay là định-mệnh của vũ-trụ, là sự ưu-
thắng hoàn-toàn của tồn-tại đối với phi-
tồn-tại hay là tinh-thần đối với vật-chất,
khi nào Tuyệt-đối tự đến bằng chính nó.
Nhưng khởi-thủy và cứu-cánh chỉ là lý-
ADPH RADHAKRISHNAN
22
tưởng, và chúng ta chỉ có con đường
( đạo ) nối hai đầu thủy chung, gọi là vũ-
trụ, mà chúng ta tất cả đều là lữ-hành ."
Với quan-điểm lý-tưởng tuyệt-đối về đời
sống, Radhakrishnan cho ta kết-luận về vận-
mệnh của con người, thế-giới của nó sinh sống
và Thiên ý. Người ta, một tính tồn-tại tự ý-
thức, có khả-năng nhìn trước nhìn sau, làm chủ
được Thiên-nhiên và tăng tiến tri-thức. Nhưng
tự ý-thức và tự quyết-định, nó không phải
hoàn-toàn là một cá-nhân mà nó căn-bản liên-
quan với hoàn-cảnh, nó không phải một cá-tính
độc-lập hoàn-toàn như nó tưởng. Sự khác-biệt
giữa nó và tạo-vật dưới nhân-tính là : điều lý
giữa tạo-vật và hoàn-cảnh là do bản-năng
thiên-nhiên, còn giữa nó với hoàn-cảnh xã-hội
thì điều-lý phải dụng ý thành-tựu có ý-thức. Sự
tiến-bộ của nó nằm ở sự sử-dụng tài-năng phú-
bẩm riêng có ích lợi chung cho tất cả. Nó phải
thực-hiện vận-mệnh của mình như là một
thành-phần của một đoàn-thể tâm-linh qua tri-
thức, nghệ-thuật và đạo-đức .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
23
Như thế con người là một đại-biểu tự-do,
tự-do để tự sửa mình hay tự hoại. Nhưng sự tự-
do ấy bị giới-hạn vào chính quá-khứ của mình.
Đời sống của mỗi cá-nhân là một toàn-thể cơ-
cấu, mỗi giai-đoạn kế-tiếp xuất-phát từ sự gì đã
qua trước kia, nó triển-khai liên-tục trải qua tử
và sinh. Đấy là Luật-pháp mà Ấn-Độ gọi là
Nghiệp ( Karma ). Cái luật Nghiệp ấy không
những là một nguyên-lý báo-ứng mà còn là
nguyên-lý liên-tục-tính, không nên lầm với
thuyết khoái-lạc hay là với tài phán về thưởng
phạt. Luật ấy vừa dự-kiến vừa hồi-tố, nó
khẳng-định sự tự-do sáng-tạo của người ta và
sự liên-tục của nó với quá-khứ. Quá-khứ không
thể thủ-tiêu. Hành-vi tự-do không thể phủ-nhận
liên-tục-tính. Luật Nghiệp phát-biểu cả tự-do
nội-tại, lẫn nhu-yếu bên ngoài hiện ở trong
hành-vi nhân-sinh .
" Đơn thuần nhu-yếu không thấy ở
một phương-diện nào của Thiên-nhiên,
tự-do hoàn-toàn là Thần-linh và chỉ có
được khi nào tự-tính trở nên đồng-loại với
ADPH RADHAKRISHNAN
24
toàn-thể. Tự-do nhân-loại là một vấn-đề
trình-độ ."
_ ( Idealist View of Life _ p. 278 )
Chừng nào cái lực Nghiệp còn tồn-tại thì
còn có tái-sinh, vì tồn-tại chỉ là sự biểu-hiện
cụ-thể hữu-hình của Nghiệp lực vô-hình trong
tiềm-thức. Chết chỉ là kết-thúc tạm thời cái
hiện-tượng nhất thời, chứ không phải hoàn-
toàn đoạn-tuyệt cái gọi là tồn-tại này. Đời sống
hữu-cơ hết, nhưng Nghiệp lực, cho tới đây vẫn
làm cho nó hoạt-động, thì không bị tiêu-hủy .
" Vạn ban tương bất khứ, duy hữu Nghiệp
tùy thân,
Nhất nhật vô thường đáo, phương tri
mộng lý nhân ."
_ ( Thiền-sư Chân-Nguyên )
( Tất cả không đem đi, chỉ có Nghiệp theo
với thân,
Ngày kia tận số đến, mới hay người trong
giấc mộng .)
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
25
Chính cái Nghiệp ( Karma ) bắt nguồn
trong vô-minh và khát-vọng, nó điều-kiện-hóa
sự tái-sinh. Nghiệp quá-khứ chi-phối đời hiện-
tại ; và Nghiệp hiện-tại hợp với Nghiệp quá-
khứ chi-phối cuộc đời tương-lai. Hiện-tại là
con đẻ của quá-khứ, và đến lượt trở nên cha mẹ
của tương-lai .
Radhakrishnan quan-niệm học-thuyết tái-
sinh đã có một lịch-sử khá dài cả ở ngoài Ấn-
Độ. Ở Hy-Lạp thì Pythagore, Platon và
Empedocles đều đã tin cũng như Plotin và Tân-
Platon. Ở Do-Thái người ta thấy các văn-sĩ
Kabbale, ở Hồi-giáo có các nhà văn Sufi. Ở
Thiên-Chúa giáo có phái Linh-Tri ( Gnostic )...
v.v. Lẽ phải thì người ta nên tin hơn là phủ-
nhận học-thuyết tái-sinh. Con đường của thiên-
nhiên, thiên-đạo là con đường liên-tục vận-
hành. Nhưng liên-tục-tính ở loài người có khác
với loài thấp hơn. Ở bình-diện động-vật, nó là
sự bảo-tồn nòi-giống, còn ở bình-diện loài
người thì nó vừa là bảo-tồn nòi-giống vừa là
bảo-tồn cá-nhân. Vì ở bình-diện này thì cơ-thể
ADPH RADHAKRISHNAN
26
có một nhất-tính cao hơn, cá-tính độc-đáo hơn,
ví như một người này thì khác với người kia
hơn về đời sống nội-tâm, về tính-tình và nhân-
cách, so với con bò này và con bò kia. Và để
phát-triển đầy đủ thì một cá-tính độc-đáo như
thế, một cuộc đời ngắn-ngủi ở một thân-thể quả
là không đủ chút nào. Mục-tiêu thành-tựu
không có thể đạt tới trong một đời người quá
ngắn, và khả-năng tự-tính tiến-hóa vô-cùng đòi
có một đời vị-lai không gián-đoạn. Đời sống
trong một thân-thể đặc-thù như vậy chỉ là một
giai-đoạn trong một cuộc sống dài hơn nhiều
của một linh-hồn. Bởi thế mà phải có tái-sinh,
nó xác-chứng cho sự hiện có những nhân-cách
phát-triển như đức Phật, đức Jésus, mà học-
thuyết di-truyền không thể giải-thích được.
Phải chăng các vị Thánh-nhân tiến-hóa thình-
lình. Làm sao giải-thích được những nhân-cách
vĩ-đại, những thiên-tài, các thần-đồng như
Pascal, Lê-Quý-Đôn, Beethoven, Mozart,....
Radhakrishnan cũng chỉ-thị rằng có ba
trào-lưu chính trong tuyền-thống tôn-giáo là
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
27
trào-lưu La-Hy, Do-Thái và Ấn-Độ. Trào-lưu
thứ nhất La-Hy có trách-nhiệm về yếu-tố duy-
lý và nhân-bản chủ-nghĩa. Trào-lưu thứ hai là
Do-Thái có trách-nhiệm về những yếu-tố lý-
tưởng đạo-đức, sùng-bái một Thượng-Đế nhân-
cách-hóa và lai-thế, còn trào-lưu thứ ba là Ấn-
Độ, vì yếu-tố tâm-linh thần-bí về Thượng-Đế
nội-tại và hoan-lạc hợp-nhất với tối-cao, tâm-
linh đại-đồng vũ-trụ .
Công lớn của Giáo-sư đối với sự phục-
hưng văn-hóa Ấn hiện-đại là sự phục-hồi địa-vị
Phật-giáo trong truyền-thống Upanisads. Ra-
dhakrishnan theo D.S. Sarma trong " Hin-
duism Through The Ages " đã có công lớn
phục-hồi chiều-hướng của Phật-giáo. Trong
" Indian Philosophy " , Giáo-sư đã chứng tỏ
rằng Buddha đã giảng-dạy, đứng ở lập-trường
Upanisads và tìm phổ-thông-hóa giáo-lý của
mình. Và trong diễn-thuyết của ông " British
Academy " về Buddha, ông giải-thích cho sự
yên-lặng của Phật về Thượng-Đế và Niết-bàn.
Theo ông, nếu không có một thực-nghiệm tích-
ADPH RADHAKRISHNAN
28
cực về Tồn-tại Tuyệt-đối, bất-dịch, thì Phật
không có thể có được cảm-giác cơ-bản về sự
vô-thường của tất cả sự-vật. Không có một bối-
cảnh vĩnh-cửu, bất-biến, hoàn-toàn, thì sẽ
không có thể tiếp cận cái vô-thường và biến-
dịch, vì " dịch là biến-dịch, là giao-dịch, là bất-
dịch ". Chỉ khi nào chúng ta đạt tới chân-lý cao
hơn chúng ta mới cảm thấy cái chân-lý thấp
hơn là không thích-hợp và gạt nó đi. Bởi vì
Phật đã đạt tới Thực-tại ở trạng-thái Bồ-đề
( Bodhi ) giác, tam-muội ( samadhi ), cho nên
mới tri-giác vô-thường là vô-thường mà gạt nó
đi. Phật thấy, kiến, một Thực-tại siêu lên trên
vũ-trụ trôi chảy hoài của kinh-nghiệm, và gọi
nó là Pháp ( Dharma ) đáng tin cậy, là năng-lực
tồn-tại của vũ-trụ, nên không nhìn giòng nước
mà than, như Khổng-Tử :
( )
" Thệ giả như tư phù bất xả trú dạ "
( Trôi chảy thế ư, ngày đêm không thôi . )
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
29
Theo Radhakrishnan, nội-quan vào cái
Pháp ấy là giác-ngộ, và đối-tượng của " Bát-
chính-đạo " ( chính kiến, chính tư-duy, chính
ngữ, chính nghiệp, chính mệnh, chính tinh-tiến,
chính niệm, chính định ) là đạt Chính-giác.
Như vậy là Phật đã có thực-nghiệm về Tuyệt-
đối và chú-trọng về mặt luân-lý của Pháp .
Ông viết :
" Những ai bảo ta rằng đối với
Buddha, có thực-nghiệm tôn-giáo nhưng
không có đối-tượng, người ấy đã cưỡng-
ép nguyên-văn và khép tội vô-ích đức
Phật về tội tự-mâu-thuẫn. Phật hiểu ngầm
thực-tại của Upanisads, gọi là Brahman,
tuy Ngài tự-do cho nó một tên khác là
Dharma = Pháp để chỉ-định giá-trị cốt-
yếu luân-lý của nó cho chúng ta ở bình-
diện thực-tiễn phác-nghiệm. Con đường
của Pháp ( Dharma ) là con đường của
Brahman. Trụ trong Pháp là trụ trong
Brahman ( Phạm-Thiên ) .
ADPH RADHAKRISHNAN
30
" Buddha tránh định-nghĩa bản-tính
của thực-tại mà Ngài đã đạt vì rằng thực-
tại vượt ra ngoài khái-niệm và định-
nghĩa, và theo luận-điệu của Upanisads
" Neti, Neti = không phải cái này, không
phải cái kia " .
" Sự tương-quan giữa việc yên-lặng
và cách mô-tả tiêu-cực tuyệt-đối của
Upanisads và Buddha là có căn-cứ cụ-thể.
Ví dụ Kena Up. nói : “ Ở đấy mắt không
thấy, ngôn-ngữ vô-dụng cũng như tâm-
thức. Ta không biết Tuyệt-đối, không
hiểu được, không có cách nào dạy được.
Nó ở trên cái năng-tri và sở-tri, biết và
không biết.” Và Radhakrishnan giải-thích
cái liên-hệ của Buddha với các vị Thấu-
thị của Upanisads, _ theo D.S Sarma
‹ ngày nay được phổ-thông công-nhận ở
Ấn-Độ, không riêng gì giới học-giả mà
còn cả công-chúng có học. ›_ Trong dịp
đến thăm Trung-Hoa, ông đã nói với
Thính-giả :
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
31
" Nay chúng tôi đã có một sự chú-
trọng phục-sinh về Phật-học. Trong sự
thức tỉnh tâm-linh hiện nay ở Ấn-Độ,
Gautama Buddha và sứ-mệnh của Phật đã
tự nó đến. Càng ngày người ta càng thừa-
nhận Phật Buddha là một cải-cách của
Ấn-độ-giáo ( Hindouisme ) chứ không
phải đối nghịch. Những nguyên-lý cơ-bản
của Phật-giáo có nguồn-gốc ở Upanisads.
Các chùa Phật mới mọc lên khắp nơi
trong xứ. Có các lý-do để hy-vọng rằng
Ấn-Độ sẽ một phen nữa góp phần lớn vào
sự khích-khởi đời sống tâm-linh của Á-
Đông ."
_ ( Hinduism Through The Ages _ D.S.
Sarma )
Đối với thuyết " Bất-bạo-động " của
Thánh Gandhi, Giáo-sư có đề ra một số nhận-
xét hữu-ích. Dẫn một bộ kinh Yoga - Sutras
của Patanjali, ông nói rằng, " Bất-bạo-động "
không phải là một điều-kiện vật-lý, mà là một
thái-độ tinh-thần cốt ở tình-yêu và không oán-
ADPH RADHAKRISHNAN
32
ghét. Và là trạng-thái tinh-thần thì nó khác với
" bất đề kháng ", mà là đề kháng với tâm-hồn
bình-an và tinh-thần đầy thương-yêu. Sức
mạnh chẳng phải tốt hay xấu, thiện hay ác khi
nhìn tách riêng. Tất cả đều lệ-thuộc vào cách
sử-dụng, một con dao tự nó chẳng thiện hay ác,
tất cả là do cách sử-dụng nó, chữa bệnh hay là
giết người. Trong xã-hội văn-minh, sức mạnh
võ-lực không phải sự ban luật-pháp mà là
phục-vụ luật-pháp, sự thực chúng ta phải trang-
bị khí-giới cho quan-tòa, không phải cho người
đi kiện. Nguyên-tắc ấy ứng-dụng cho cả chính-
sách quốc-tế, chúng ta phải đi tới một thế-giới
hòa-bình không có chiến-tranh, đặc-biệt vì
chiến-tranh hiện-đại với khí-giới tối-tân là một
đe dọa cho văn-minh nhân-loại. Lý-tưởng bất-
bạo-động sẽ không đạt được ngay một ngày,
nhưng chúng ta có thể đạt được một ngày kia,
nếu đi từng giai-đoạn với sự củng-cố luật-pháp
quốc-tế, thiết-lập trọng-tài và tài-giảm binh-bị
các Quốc-gia. Trước hết các dân-tộc phải coi
nhẹ Quốc-gia, không lấy tự nó làm một cứu-
cánh. Tư-tưởng Ấn vẫn lấy Pháp ( Dharma )
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
33
làm cứu-cánh còn Quốc-gia chỉ là phương-tiện.
Có một cộng-đồng lớn hơn là Quốc-gia đòi
chúng ta phải tận-trung. Trong các Quốc-gia
vẫn có một số nhân-vật như giới Sannyasins
( tu-sĩ tự-do ), ở Ấn-Độ là hiện-thân của ý-thức
nhân-loại và " sống trong và cho một thế-giới
những giá-trị tuyệt-đối mà không coi sinh-
mệnh hay ấm-cúng là thành-phần ". Nhân-vật
ấy là Thanh Gandhi . Và Radhakrishnan nói về
Thánh :
" Ấn-Độ ngày nay có giá-trị cao hơn
vì trong đời sống của nó đã có một nhân-
cách là một tia sáng của Thượng-Đế. Sự
đau đớn của Ngài là hiện-thân vết thương
hãnh-diện của Ấn-Độ, và trong sự trì-thủ
chân-lý của Ngài phản-ảnh sự kiên-trì
vĩnh-cửu hiền-triết của mình. Hơn thế
nữa, Ngài là tiếng nói của thế-giới mới,
tiếng nói của sự sống dồi-dào, của một ý-
thức rộng lớn, thông-cảm hơn. Ngài tin-
tưởng chắc chắn rằng chúng ta có thể
xây-dựng một thế-giới hết nghèo đói, hết
ADPH RADHAKRISHNAN
34
thất-nghiệp, hết chiến-tranh và đổ máu,
lập cước vào tôn-giáo . "
Với thực-nghiệm tôn-giáo truyền-thống
từ các vị Rishis ( Thấu-thị, Tiên-tri ) thời
Vedas cho đến Ramakrishna và Vivekananda
( 1902 ), Giáo-sư Radhakrishnan muốn xây-
dựng nên một nền triết-học thế-giới, đáp-ứng
cho cách-ngôn bình-dân Việt-Nam, vì khoa-
học kỹ-thuật hiện nay đã thực-tế thu nhỏ thế-
giới lại : " Năm châu một chợ, bốn biển một
nhà ! "
Radhakrishnan viết :
" Đời sống nhân-loại giác-ngộ là
tâm-linh, tiếng nói của sự sống, của chân-
lý và của mỹ-thuật. Khi tư-tưởng duy-lý
ứng-dụng vào dữ-kiện phác-nghiệm của
thế-giới và của tự-tính cá-nhân thì cái ý-
thức về một Tối-cao, một Tồn-tại thuần-
túy và Tự-do hoàn-toàn, đã đạt được,
nhưng có thể nói đấy chỉ là một nhu-yếu
của tư-tưởng, một giả-thuyết dù có hiệu-
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
35
lực mấy đi nữa. Nhưng có một truyền-
thống xưa rất phổ-cập, là chúng ta có thể
bắt được một cách trực-tiếp và tức thì cái
Tồn-tại Vĩnh-cửu. Khi kinh Upanisads
nói về Jñāna, trực-quan thần-bí ( gnosis )
khi Phật nói về Bodhi hay là giác-ngộ, khi
Jésus nói về chân-lý, nó sẽ giải-phóng
cho chúng ta, các Ngài đều đề-cập đến
các lĩnh-hội tâm-linh trực-tiếp của Tối-
cao trong đó cái hố giữa tri-thức và tồn-
tại bị lấp bằng .
" Cái thực-nghiệm ấy không phải là
một điều-kiện tâm-lý chủ-quan. Cá-nhân
tự bóc-lột hết lớp này đến lớp khác,
nhưng cái vỏ ý-thức, nhập sâu vào gân
cốt và mạch sống cho đến tất cả cái gì
khác đều tan mờ vào bóng tối vô-hạn, cho
đến khi chỉ còn lại một mình trong sáng-
lạn hào-quang của một trung-tâm độc-
nhất thần-hóa. Đấy là sự phát-triển đầy đủ
của người. Đấy là Phạm-thiên. Đấy là
tồn-tại của Thượng-Đế, là Thành-giả vậy.
ADPH RADHAKRISHNAN
36
Với thực-nghiệm tôn-giáo tâm-linh truyền
thống Đông-phương nhất-nguyên " Thiên mệnh
chi vị tính ", " Tat tvam asi " Radhakrishnan
xây-dựng triết-học tôn-giáo thế-giới. Ông viết :
" Cái nguyên-lý cơ-bản của tất cả
nền dân-chủ đã ngụ trong nguyên-văn
trứ-danh " Tat tvam asi = Người là cái
Ấy ". Tất cả người ta không bình-đẳng về
năng-khiếu tâm-lý và tài-năng của chúng.
Quân-bình cốt-yếu của con người nằm tại
bên trong tinh-thần là cửa mở cho mọi
người để mở-mang đầy đủ vận-mệnh của
mình. Nguyên-văn khẳng-định sự bình-
đẳng giá-trị của mỗi người như là một
tinh-thần tự-do. Sự bình-đẳng ấy cấm
không được coi một người nào chỉ như là
một phương-tiện và không đồng thời tự
nó là một cứu-cánh. Cái bình-đẳng tính
ấy đưa tới một chế-độ xã-hội trong đó có
cơ-hội bình-đẳng cho tất cả mọi thành-
phần về giáo-dục và việc làm, về phát-
triển văn-hóa và kháng-kiện .
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
37
" Thông thường mà nói thì sự biến-
đổi về điều-kiện khách-quan của đời sống
do khoa-học và kỹ-thuật đã đặt cá-nhân
vào quá-trình biến-đổi căn-bản hơn bao
giờ hết trong lịch-sử nhân-loại. Chúng đã
phá tất cả lý-tưởng chế-độ cũ và sản sinh
ra những hạng người ly-khai với tất cả
nội-quan, loạng-choạng qua một thế-giới
của những sự ngẫu-nhiên từng phút, bị
cuồng-tín toàn-năng phi-lý thô-phác lôi
kéo đến hành-vi máy-móc. Cái sự đại bội-
phản của tinh-thần nhân-loại sẽ dẫn đến
sự hủy-hoại cuối cùng của nhân-loại. Nếu
chúng ta muốn được cứu vớt khỏi sự hỗn-
độn càng ngày càng gia-tăng, chúng ta
phải tìm ra một chế-độ nhân-văn mới,
trong đó chúng ta không thu giảm cá-
nhân xuống một đối-tượng giản-đơn của
khảo-cứu khoa-học, trong đó chúng ta
thừa-nhận nó là một chủ-thể của tự-do.
Chúng ta phải làm cho khái-niệm cơ-bản
của văn-minh chúng ta chiếu sáng, dẫn
đạo và khuôn đúc đời sống mới. Nếu văn-
ADPH RADHAKRISHNAN
38
minh của chúng ta phải làm chức-vụ của
nó, chúng ta phải đừng mù-quáng và vô
trách-nhiệm nữa. Chúng ta phải để cho
giá-trị tinh-thần tiến-triển, không được để
cho nó rút lui ngoài tầm nhân-loại. Chúng
ta phải cố gắng trở nên nhân-loại trong
thời-đại phi-nhân nhất này của tất cả thời-
đại .
" Nhiệm-vụ của triết-học không
phải chỉ phản-ảnh tinh-thần của thời-đại
ta đang sống, mà còn hướng-dẫn nó tiến
lên. Chức-vụ của nó là sáng-tạo, là trần-
thuật những giá-trị, là đề ra mục-tiêu, là
vạch ra chiều-hướng và dẫn đến những
đường mới. Nó phải khích-động chúng ta
với tin-tưởng bảo-trì thế-giới mới, để sản-
xuất hạng người đặt phân-chia dân-tộc,
chủng-tộc và tín-ngưỡng, lệ-thuộc vào lý-
tưởng nhân-loại. Triết-học chẳng còn là
gì nếu trong phạm-vi và tinh-thần của nó,
nó không đại-đồng ."
_( "History of Philosophy Eastern and
Western"_ Z. Radhakrishnan, t. II, p. 446)
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
39
TỔNG - KẾT
Thi-hào R. Tagore, thi-ca và tôn-giáo ;
Mahatma Gandhi, chính-trị và tôn-giáo với
chính-sách Ahimsa (Bất-bạo-động) ; S. Radha-
krishnan, triết-học tôn-giáo, ba vĩ-nhân Ấn đã
hoàn-thành việc giải-phóng dân-tộc khỏi đế-
quốc thực-dân không mất một giọt máu nhờ sự
phục-hưng văn-hóa truyền-thống Ấn-Độ ( 2000
B.C _ 1950 A.D. ) .
Cái văn-hóa truyền-thống ấy cốt-yếu ở
thực-hiện tôn-giáo, thực-tại Tối-cao Thượng-
Đế không còn là khái-niệm trừu-tượng của
thần-học hay là giáo-điều, mà là thực-nghiệm
như Radhakrishnan đã chủ-trương. Nhưng
thực-nghiệm tôn-giáo phải bắt đầu từ Rama-
krishna Paramahamsa ( 1836-1886 ) người đã
làm sống lại Ấn-độ-giáo ( Hindouisme ), một
Rishi thời Vedas - Upanisads giáng-thế trong
thời-đại khoa-học vật-chất Tây-phương để làm
ADPH RADHAKRISHNAN
40
cho cao-đệ Naren ( Swami Vivekananda ) thực
thấy Thượng-Đế không bằng môi-giới ngôn-
ngữ mà bằng đụng chạm trực-tiếp .
Naren hỏi Ramakrishna : _ " Thưa
ông, ông đã có thấy Thượng-Đế chưa ? "
Không lưỡng-lự, Ramakrishna đáp :
_ " Có, ta đã nhìn thấy Thượng-Đế. Ta
nhìn thấy Ngài như ta nhìn thấy anh, với
ánh-sáng tỏ hơn thôi. Người ta có thể
nhìn thấy Thượng-Đế. Người ta có thể nói
với Ngài."
_ ( S. Nikhilananda _ " La Vie de
Vivekananda ", p. 25, ed. La Colombe )
Và chính thực-nghiệm tôn-giáo của
Ramakrishna mới thực sự làm sống lại tôn-giáo
truyền-thống Ấn-Độ, và cao-đồ của ông,
Swami Vivekananda đã làm cho thế-giới Âu-
Tây, nhất là Mỹ và Anh ở Hội-nghị Tôn-giáo
Thế-giới tại Chicago 1893 biết đến văn-hóa tín-
ngưỡng tôn-giáo Ấn. Sau khi ở Mỹ, Anh trở về,
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
41
nhà tu-sĩ ái-quốc đã được toàn dân Ấn, triệu
người như một, bất phân giai-cấp, đứng cả lên
để hoan-nghênh sự thành-công của Viveka-
nanda, đủ thấy rằng sức mạnh tôn-giáo ở Ấn-
Độ còn hơn cả chính-trị hay kinh-tế .
Nối tiếp Vivekananda là Radhakrishnan,
một giáo-sư đại-học, một nhà chính-khách
hiền-triết, đã đem thực-nghiệm tôn-giáo cổ-
truyền Ấn làm nền-tảng cho triết-học tôn-giáo
thế-giới.
" Sự cống-hiến của giáo-sư, như
S.D. Sarma viết, cho Ấn-độ-giáo, Phật-
giáo và Triết-học Ấn-Độ, và trên hết cho
mục-đích tôn-giáo nói chung, đã to lớn vô
cùng. Sự giải-thích và phê-phán các hệ-
thống tư-tưởng của Âu-Tây và Ấn-Độ thì
mới mẻ, đặc-biệt và khích-lệ, quan-điểm
của ông về tính-chất của Tuyệt-đối, sự
liên-hệ giữa Tuyệt-đối và Thượng-Đế của
các tôn-giáo và địa-vị cùng chất-năng của
quá-trình diễn-biến trong vũ-trụ, có thể
nói là đã vượt được những khó-khăn nan-
ADPH RADHAKRISHNAN
42
giải ta thấy trong những giải-pháp mà
trước kia người ta đã đề ra cho những
vấn-đề ấy .
" Liên-hệ giữa Ấn-độ-giáo và Phật-
giáo đã được củng-cố mấy năm gần đấy
bởi những hoạt-động của Tagore, J.
Nehru và Radha-krishnan, do việc thăm
viếng nước Trung-Hoa. Khi Radhakrish-
nan qua Trung-Hoa năm 1944, Bộ-trưởng
Chính-phủ Trung-Hoa đã tiếp đón và
tuyên-bố :
" _ “ Chúng ta tin chắc hai nước Ấn
và Hoa là hai dân-tộc lớn Á-Đông và có
lịch-sử lâu đời với nền văn-hóa cao-siêu.
Trên cơ-sở hiểu-biết nhau và hợp-tác với
nhau, chắc-chắn chúng sẽ cống-hiến
ngang nhau cho sự ổn-định và tiến-bộ của
Đông-phương và thế-giới. Chúng tôi tin
rằng sự hợp-tác chặt-chẽ giữa dân-tộc,
giáo-dục và đại-học của hai nước sẽ làm
mạnh thêm và tăng-tiến sự thông hiểu hỗ-
tương và hợp-tác với nhau ”.
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
43
" Việc làm sống lại sự chú-ý vào
Phật và Phật-học đã tỏ rõ năm 1952, trong
sự tái-lập di-tích thiêng-liêng của Phật ở
tân Vihara tại Sanchi, trong đó Thủ-tướng
Ấn-Độ đã tham-gia rất nhiều vào nghi-lễ.
Ngữ tự nguyên-lý hoà-bình ( Panchasila )
sống chung trong các dân-tộc, đã được
đồng thời bầy-tỏ bởi Thủ-tướng Ấn và
Hoa năm 1954, và được cả Thủ-tướng
Miến thừa-nhân, soi tỏ một thách-đố cho
thế-giới hiếu-chiến. Và còn dự bị một
trung-tâm-chế thế-giới hòa-bình. Phải để
ý rằng chính danh-từ Panchasila là lấy ở
nghi-thức Phật-giáo . "
Tương-lai cuộc phục-hưng truyền-thống
tôn-giáo và văn-hóa xã-hội Ấn-Độ nêu ra
những vấn-đề phải giải-quyết :
1)_ Ấn-Độ đã độc-lập Dân-chủ Cộng-
hòa, trên đường trở nên thế-lực quốc-tế ;
ADPH RADHAKRISHNAN
44
2)_ Không những Ấn-Độ mà tất cả các
nước Á-châu cũng tỉnh giấc để trở nên độc-lập
và hợp-tác với Ấn-Độ trong chính-sách sống
chung hòa-bình ;
3)_Nhân-loại đi vào một thời-đại nguyên-
tử với tiềm-năng tốt và xấu. Trong hoàn-cảnh
ấy tất cả vấn-đề quan-hệ đến tôn-giáo ngày nay
đòi phải xét lại, tín-ngưỡng tôn-giáo là một sức
mạnh ghê-gớm, vượt cả gia-tộc, quốc-tộc,
chủng-tộc, giai-cấp xã-hội mà tiếp nối với vận-
hành vũ-trụ. Ở Ấn-Độ nó đã làm cho triệu
người như một đứng cả lên từ Hy-mã-lạp-sơn
đến mỏm Comorin Ấn-độ-dương để hoan-
nghênh khải-hoàn tôn-giáo Ấn tại Âu - Mỹ :
" Hãy đứng dậy, hỡi Ấn-Độ thân
yêu ! Sức mạnh sinh-lực của Mẹ đâu ? Ở
tại trong tâm-hồn bất-tử của Mẹ. Mỗi
dân-tộc cũng như mỗi cá-nhân trong cuộc
đời của mình đều có một mục-đề duy-
nhất là trọng-tâm của sự sống, âm-điệu
cơ-bản nó tập hợp tất cả âm-điệu khác
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
45
của hòa-điệu... Nếu nó bỏ đi, nếu nó bỏ
nguyên-lý của chính sinh-khí riêng của
nó, cái hướng-dẫn do các thế-kỷ truyền
lại, dân-tộc ấy chết... Trong một dân-tộc
như Anh-cát-lợi, cái nguyên-lý sinh-động
ấy là thế-năng chính-trị. Ở một dân-tộc
khác là đà tiến nghệ-thuật. Ở Ấn-Độ đời
sống tôn-giáo làm chủ-âm của tất cả hòa-
điệu... Vậy nên, nếu gạt bỏ tôn-giáo đi,
các ông đem lại cho nó trọng-tâm là
chính-trị hay là xã-hội-học, thì kết-quả là
các ông đã diệt tắt nó... Cải-cách chính-trị
và xã-hội Ấn-Độ phải thực-hành tùy theo
sinh-khí tín-ngưỡng tôn-giáo... Tất cả mọi
người, tất cả mọi dân-tộc phải lựa chọn
lấy cho mình. Chúng ta đã chọn cho
chúng ta kể từ hàng thế-kỷ... Và đấy là
tín-ngưỡng vào Linh-hồn bất-tử... Tôi
dám thách các ông từ bỏ nó đi... Các ông
không có thể thay đổi được bản-tính.... "
_ ( S. Vivekananda _ diễn-văn ở Madras )
ADPH RADHAKRISHNAN
46
Chính cái sức tín-ngưỡng tôn-giáo truyền-
thống ấy đã là động-cơ đoàn-kết mấy trăm triệu
dân Ấn để tranh-đấu bất-hợp-tác theo chính-
sách " Bất-bạo-động " của lãnh-tụ Gandhi mà
suy-tôn ông là Mahatma :
" Il est l'Un lumineux, le Créateur de
Tout, le Mahatma,
Toujours dans le coeur des peuples
établi,
Relevé par le coeur, par l'intuition,
par l'intelligence .
Celui qui le connait, il devient
immortel ." _ ( Up. )
( Là cái Một sáng ngời, đấng Sáng-
tạo tất cả, đức Đại-Ngã,
Luôn luôn tại trong lòng của nhân-
dân, của dân-tộc thiết-lập,
Biểu-lộ bởi tâm, bởi trực-giác, bởi
trí-tuệ,
Ai biết được Ngài, cái Ấy, trở nên
bất-tử ) .
_ ( "Mahatma Gandhi"_của R. Rolland )
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
47
Theo D.S. Sarma, :
" Mahatma Gandhi đã biến chính-trị
thành một tôn-giáo bằng sự nhấn mạnh
vào tư-tưởng trong sáng tuyệt-đối, lời nói
và hành-động của những ai mong muốn
tham-gia vào chính-trị. Món quà lớn nhất
ông tặng chúng ta, ngoài chính thánh-tính
riêng, là thánh-kinh về Chân ( Satyam )
và Bất-bạo-động ( Ahimsa ) mà ông đã
dạy chúng ta hơn ba mươi năm vừa bằng
giáo-lý lẫn hành-vi gương-mẫu. Thế-hệ
tương-lai sẽ phán-đoán chúng ta về cách
sử-dụng món quà vô-giá ấy như thế nào.
Thánh-kinh ấy sẽ đến với chúng ta với tất
cả ý-nghĩa của nó giữa hai thế-chiến dã-
man. Nó được coi như thái-độ phản-ứng
của Ấn-Độ về một mặt của văn-minh
Tây-phương. Thánh-kinh Chân-lý ( Sa-
tyam ) và Bất-bạo-động ( Ahimsa ) là
Thánh-kinh cho tất cả mọi dân-tộc trên
mặt đất, nhưng Mahatma đã giáng-thế
xuống Ấn-Độ, vì truyền-thống tôn-giáo
tâm-linh thực-hiện đã ngấm-ngầm lâu đời
ADPH RADHAKRISHNAN
48
trong dân-tộc, từ thời Vedas. Tính độc-
đáo của Mahatma Gandhi trong giáo-lý
Ahimsa Bất-bạo-động cốt-yếu ở chỗ ông
chứng-tỏ cho chúng ta có thể liên-hợp
chủ-nghĩa Bất-bạo-động với sự can-đảm
tối-cao . "
Giữa thế-kỷ XIX sứ-thần Việt-Nam đứng
trước tiến-bộ khoa-học của Âu-Tây, tuy
ngưỡng-mộ, nhưng cũng biết giới-hạn của
khoa-học, nên đã có lời than :
" Bách ban xảo diệu tề thiên địa,
Duy hữu tử sinh tạo-hóa quyền ."
_ ( Phan-Thanh-Giản )
Đến khi xẩy ra hai cuộc thế-giới chiến-
tranh ( 14 - 18 ) và ( 39 - 45 ) thì Tây-phương
đã làm cho Đông-phương thất-vọng vì cảnh
tàn-phá dã-man của khoa-học kỹ-thuật, núi
xương, sông máu. Trừ phi nguyên-lý Bất-bạo-
động được lấy làm cơ-bản cho tất cả tiến-bộ
nhân-loại, chiến-tranh và bóc-lột, chủng-tộc
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
49
đô-hộ bị cấm-đoán khỏi nhân-sự, nếu không thì
đời sống trên mặt đất này sẽ trở về đời cầm-
thú. Nehru cảnh-giác ( 1955 ) :
" Thế-giới hiện đứng trên miệng
vực-thẳm. Vấn-đề ngày nay là hoặc nhân-
loại trở lại giai-đoạn cầm-thú hoặc tiến
lên trình-độ văn-minh... Hình như đối với
tôi, cái gì mà Gandhi nêu ra trước mắt
chúng ta và thế-giới có lẽ còn có nhiều ý-
nghĩa hơn là thế-giới hiện nay so với
trước kia. Tôi nói rằng chỉ có một cách là
phải thừa-nhận. Không phải là thừa-nhận
tất cả ở Gandhi, nhưng dù sao chúng ta
phải thực-hiện rằng sức mạnh không có
thuốc chữa, rằng chiến-tranh không có
cách chữa, bạo-động không làm được gì
tốt cả, nó chỉ đem lại điều ác cho tinh-
thần thôi ."
Muốn thừa-nhận Gandhi thì hãy xem ông
sống thế nào là Mahatma ? Ở đây, Mahatma
Gandhi mặc cái khố, không có chút gì là của
ADPH RADHAKRISHNAN
50
mình, từ bỏ quyền-thế, trừ có thế-năng của
tình-yêu, thành-thực tuyên-bố rằng ông trọng
Chân-lý hơn cả Swaraj ( Tự-trị của dân-tộc ),
đã là hiện-thân của tâm-linh nhiệt-thành, là sở-
hữu báu nhất của Ấn-Độ .
Nguyên-lý Bất-bạo-động đã giải-phóng
cho hơn 300 triệu dân Ấn, khỏi ách đế-quốc
thực-dân không mất một giọt máu. Nó cũng
thành-tựu cải-cách xã-hội, giải-phóng phụ-nữ,
giai-cấp ngoại-cấp ( outcasts ), phục-hưng thủ-
công gia-đình với guồng quay sợi lịch-sử...
Đấy là " Lịch-sử các Thực-nghiệm của tôi với
Chân-lý " ( Histoire de mes Expériences avec
la Vérité ) .
" vì Chân-lý, ở đây, là một yếu-tố
vũ-trụ, để thực-nghiệm, như ngày nay
Albert Einstein thí-nghiệm ánh-sáng
trong phòng thí-nghiệm của Michelson ở
Californie ".
_(Vie de M.K.Gandhi_tựa của R.Rolland)
NGUYỄN-ĐĂNG-THỤC
51
Và Chân-lý đối với Mahatma Gandhi là
Thượng-Đế .
Đấy là phục-hưng truyền-thống Ấn-Độ,
sức mạnh của tôn-giáo tâm-linh thực-nghiệm
mà Ramakrishna đã thực-hiện với tình-yêu
sùng-bái Thánh-Mẫu Kali, Swami Viveka-
nanda đã thực-hiện với triết-lý Bất-nhị-pháp
( Vedanta - Advaïta ), R. Tagore thực-hiện với
tâm-lý nghệ-thuật, điển-hình trực-giác sáng-tạo
" Tình thâm nhi văn minh " .
Sự phục-hưng truyền-thống Ấn-Độ là bài-
học cho tất cả dân-tộc Á-châu, nhất là sau thế-
chiến 14 - 18, văn-minh khoa-học Tây-phương
cho thấy khoa-học vô-hồn, chỉ có sức mạnh
vật-chất để đàn áp kẻ yếu không khí-giới. Và
sau thế-chiến thứ hai 39 - 45 với trái bom
nguyên-tử xuống Hiroshima càng làm cho
chính-sách tôn-giáo Bất-bạo-động trở nên bài
học thiết-yếu cho cả thế-giới văn-minh cơ-khí.
Đấy là giải-đáp của truyền-thống Ấn-Độ Phục-
ADPH RADHAKRISHNAN
52
hưng cho nhân-loại, như nhà tư-tưởng R.
Rolland đã kết-luận :
" Hỡi Tagore, hỡi Gandhi, giòng
sông Ấn-Độ tựa như sông Indus và sông
Gange ( Hằng-Hà ) ôm trong lòng ghì
chặt cả Đông-phương lẫn Tây-phương, _
đàng này là bi-kịch hành-động anh-dũng,
đàng kia là giấc mộng ánh-sáng bao la _
cả hai từ trời tuôn ròng-ròng xuống thế-
giới bị vũ-lực cầy bừa, hai ông hãy gieo
hạt giống tâm-linh cho ! "
_ ( R. Rolland, " Mahatma Gandhi ", ed.
Stock, 1948, p. 184 )
%%%%%%%%%%%%%%