QUY HOẠCH VÙNG SẢN XUẤT THỦY SẢN
-
Upload
hoangxuyen -
Category
Documents
-
view
233 -
download
7
Transcript of QUY HOẠCH VÙNG SẢN XUẤT THỦY SẢN
1
QUY HOẠCH VÙNG SẢN XUẤT THỦY SẢN
ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ CAO TỈNH AN GIANG
ĐẾN NĂM 2020 VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2030 ________________
PHẦN I
MỞ ĐẦU VÀ CÁC CĂN CỨ PHÁP LÝ
I. MỞ ĐẦU:
Hơn 25 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, ngành thủy sản Việt Nam
nói chung và thủy sản An Giang nói riêng đã có sự phát triển vượt bậc là một trong
những ngành kinh tế mũi nhọn có tốc độ tăng trưởng nhanh, đóng góp vào phát triển
kinh tế và an sinh xã hội của tỉnh.
Đặc biệt hơn 10 năm qua, trong quá trình hiện đại hóa, kiên trì chuyển dịch cơ
cấu kinh tế trong nông nghiệp, An Giang lại tiếp tục giành thêm thắng lợi lớn đó là
phát triển vượt bậc trong thủy sản nói chung, đặc biệt sản xuất, chế biến và xuất khẩu
cá tra. Từ chăn nuôi nhỏ lẽ ở một số địa phương đến nay mở rộng toàn tỉnh, từ sự có
mặt ở một ít thị trường trong nước đến xuất khẩu trên thế giới, đến nay trở thành
thương hiệu “cá tra Việt Nam” luôn được yêu chuộng ở hầu hết các Châu lục.
Từ nhiều năm qua thủy sản An Giang là một trong những tỉnh dẫn đầu cả nước
về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu thủy sản, nhất là cá tra. Do đó, để thủy sản phát
triển đúng định hướng và yêu cầu đặt ra, UBND tỉnh đã ban hành nhiều chủ trương
chính sách, trong đó có Quy hoạch phát triển ngành thủy sản đến năm 2010 và định
hướng đến năm 2020 và Điều chỉnh, bổ sung Quy hoạch phát triển nuôi trồng thủy
sản tỉnh An Giang đến năm 2010.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển nhanh, bước đầu có hiệu quả, ngành thủy sản
đang vấp phải những khó khăn, thách thức lớn. Đó là đòi hỏi sự bền vững của môi
trường sinh thái và nguồn lợi tự nhiên, sự bền vững của các vấn đề kinh tế - xã hội và
các cạnh tranh gay gắt trên thị trường xuất khẩu thủy sản.
Từ những kết quả đã đạt được, đối mặt với khó khăn, thách thức, ngành thủy
sản tỉnh An Giang cần phải định hướng Quy hoạch vùng sản xuất thủy sản gắn liền
với ứng dụng, chuyển giao khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao vào sản
xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và đặc biệt nâng cao giá trị sản xuất trên
một đơn vị diện tích cũng như tiết kiệm tài nguyên, ứng phó với biến đổi khí hậu
trong tương lai qua đó góp phần vào tăng trưởng kinh tế xã hội của địa phương.
II. CÁC CĂN CỨ PHÁP LÝ:
2
- Nghị định số 92/2006/NĐ-CP ngày 07/09/2006 của Chính phủ về việc Lập,
thẩm định và quản lý quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội. Nghị định số
04/2008/NĐ-CP ngày 11/01/2008 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định 92/2006/NĐ-CP.
- Thông tư số 01/2012/TT-BKHĐT ngày 09/02/2012 về việc Hướng dẫn xác
định mức chi phí cho lập, thẩm định và công bố quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế
- xã hội; quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, sản phẩm chủ yếu.
- Thông tư số 05/2013/TT-BKHĐT ngày 31/10/2013 của Bộ Kế hoạch và Đầu
tư Hướng dẫn tổ chức lập, thẩm định, phê duyệt, điều chỉnh và công bố quy hoạch
tổng thể phát triển kinh tế - xã hội; quy hoạch ngành, lĩnh vực và sản phẩm chủ yếu.
- Luật Thủy sản được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26/11/2003.
- Luật Công nghệ cao (Luật số 21/2008/QH12 có hiệu lực thi hành từ
01/7/2009).
- Luật Tài nguyên nước được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa X, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20/05/1998.
- Luật Bảo vệ môi trường được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa IX, kỳ họp thứ tư thông qua ngày 27/12/1993.
- Nghị định số 59/2005/NĐ-CP ngày 04 tháng 5 năm 2005 của Chính phủ về
điều kiện kinh doanh các ngành nghề thủy sản.
- Quyết định 801/QĐ-TTg, ngày 27/6/2012 của Thủ tướng Chính Phủ về việc
phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh An Giang đến năm
2030.
- Quyết định số 1445/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 16/8/2013 về
việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2030.
- Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh An Giang lần thứ IX, nhiệm kỳ
2010-2015;
- Nghị quyết 09-NQ/TU của BCH Đảng bộ tỉnh AG ngày 27/6/2012 về phát
triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tỉnh An Giang giai đoạn 2012 – 2020 và
tầm nhìn đến năm 2030.
- Thông báo số 427/TB-UBND ngày 04/9/2012 Thông báo kết luận của Phó
Chủ tịch Ủy ban nhân tỉnh tại Hội nghị triển khai Nghị quyết 09-NQ/TU ngày
27/6/2012 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát triển nông nghiệp ứng dụng công
nghệ cao.
- Thông báo số 314/TB-UBND ngày 27/01/2014 Thông báo kết luận của Phó
Chủ tịch Ủy ban nhân tỉnh tại cuộc họp bàn về danh mục một số sản phẩm hàng hóa
nông nghiệp công nghệ cao và xử lý vướng mắc còn tồn đọng trong Chương trình
phát triển sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
3
- Quyết định số 396/QĐ-UBND ngày 01/3/2013 của UBND tỉnh về việc Ban
hành Kế hoạch phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tỉnh An Giang từ nay
đến năm 2015.
- Quyết định số 2163/QĐ-UBND ngày 29/11/2012 của UBND tỉnh về việc
Ban hành Kế hoạch phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tỉnh An Giang
giai đoạn 2012 – 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.
PHẦN II
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
4
TÁC ĐỘNG ĐẾN NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
I. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN:
1. Ví trí, địa lý:
An Giang là một tỉnh biên giới Tây Nam của Tổ quốc, nằm trong vùng đồng
bằng sông Cửu Long, có tổng diện tích tự nhiên là 353.666,85 ha chiếm 1,07% diện
tích đất của cả nước, xếp thứ 4 ở khu vực ĐBSCL. Toàn tỉnh có 11 đơn vị hành chính
trực thuộc gồm thành phố Long Xuyên, thị xã Châu Đốc, thị xã Tân Châu và 8 huyện
là An Phú, Phú Tân, Chợ Mới, Châu Phú, Châu Thành, Thoại Sơn, Tịnh Biên và Tri
Tôn. Đơn vị hành chính cấp xã, phường, thị trấn có 156 đơn vị gồm 119 xã, 21
phường và 16 thị trấn.
Tỉnh An Giang có vị trí địa lý:
Từ 10010’30’’ đến 10037’50’’ vĩ độ Bắc
Từ 104047’20’’ đến 105035’10’’ kinh độ Đông
Được giới hạn bởi:
– Phía Tây Bắc giáp Vương quốc Campuchia;
– Phía Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Tháp;
– Phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh Kiên Giang;
– Phía Nam và Đông Nam giáp Tp. Cần Thơ.
An Giang nằm ở vùng hạ lưu sông Mê Kông, là tỉnh đầu nguồn của vùng đồng
bằng sông Cửu Long có hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt và có hai con sông
chính là: sông Tiền dài 80 km, sông Hậu dài 100 km, cùng với nhánh sông Châu Đốc
(28 km) và sông Vàm Nao (7 km). Tất cả tạo nên cảnh quan đặc thù của vùng sông
nước An Giang, hết sức thuận lợi cho nghề nuôi trồng và khai thác thủy sản phát
triển.
2. Khí hậu - Thủy văn:
2.1. Khí hậu:
5
- Chế độ nhiệt:
Nhiệt độ trung bình các tháng trong năm dao động từ 26,15oC - 28,6oC, nhiệt
độ trung bình cao nhất vào tháng 4 là 28,6oC, tháng 5 là 28,5oC, tháng 9 là 28oC.
Nhiệt độ thay đổi trong năm gần như theo quy luật tháng 4, tháng 5, tháng 9 là các
tháng có nhiệt độ cao nhất trong năm. Nhiệt độ thấp nhất là vào các tháng 11 đến
tháng 2 (26,15oC - 26,4oC). Nhìn chung tỉnh An Giang, có nền nhiệt cao và ổn định
với nhiệt độ trung bình năm là 27oC khu vực đồi núi thường có nhiệt độ bình quân thấp
hơn so với khu vực đồng bằng 2oC, tổng tích ôn trên 10.000
oC. Nhiệt độ trong đất và
trong nước ở An Giang tuy có biến động song không lớn ở cả môi trường nước và đất
là những điều kiện vô cùng thuận lợi cho phát triển nuôi trồng thủy sản.
- Chế độ mưa:
An Giang có đặc trưng khí hậu nhiệt đới gió mùa với hai mùa rõ rệt: mùa mưa (từ
tháng 5 đến tháng 11), lượng mưa nhiều và phân bổ theo mùa, lượng mưa hàng năm bình
quân từ 1.500 mm - 1.600 mm/năm, cao nhất đạt 2.100 mm/năm và thấp nhất là 900
mm/năm và mùa khô (từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau). Mùa mưa góp một lượng nước
lớn chảy tràn vào đồng ruộng, vùng trũng nội địa, làm tăng diện tích nước mặt, đồng
thời cũng chính nguồn nước mát ngọt trong các thủy vực đó là môi trường thuận lợi
để cá, tôm có điều kiện sinh sôi phát triển. Ngoài ra, đây chính là một đặc điểm sinh
thái rất có lợi cho việc bố trí nuôi sinh thái xen canh một vụ lúa một vụ tôm vừa đảm
bảo tính bền vững giảm nguy cơ dịch bệnh và vừa đảm bảo sản lượng lương thực.
- Chế độ gió:
An Giang có chế độ gió khá thuần nhất do địa hình bằng phẳng và xa biển, từ
tháng 11- 4 hướng gió có tần suất cao nhất là Ðông Bắc, từ tháng 5 -10 hướng gió có
tần suất cao nhất là Tây Nam. Tốc độ gió ở biển Tây Nam Bộ khá lớn, hầu hết ở các
nơi đạt đến tốc độ gió trung bình là 3m/giây.
2.2. Thủy văn:
Chế độ thủy văn có tác động rất lớn đến nhiều mặt trong đời sống người dân
đồng bằng sông Cửu Long nói chung và tỉnh An Giang nói riêng, nhất là việc phát
triển nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh.
- Lưu lượng nước:
Lưu lượng nước biến động lớn và chịu ảnh hưởng của thủy triều, của lưu
lượng nguồn, mưa tại chỗ, gió chướng... nhưng dòng chảy trong năm khá ổn định do
tác động điều tiết của Biển hồ.
Lưu lượng đầu nguồn chảy vào châu thổ phân định theo mùa rõ rệt và biểu thị
qua chế độ dòng chảy. Vào mùa lũ, nước từ thượng nguồn chảy xuống xuôi theo một
chiều (bắt đầu từ tháng 6 và kết thúc vào tháng 11). Trong đó, tháng có dòng chảy lớn
nhất là tháng 9 và tháng 10. Mùa khô, toàn bộ hệ thống sông ngòi, kênh, mương chảy
theo hai chiều, vào mùa này tháng có dòng chảy lớn nhất là tháng 4.
6
Dòng chảy trong mùa lũ đem nguồn phiêu sinh, nguồn dưỡng khí dồi dào tăng
sinh khối thủy vực, đây cũng là một đặc điểm để phát triển mô hình nuôi thủy sản bãi
bồi, ao,...
Tình trạng ô nhiễm môi trường nước trong nuôi trồng đã và đang diễn ra phổ
biến và đến mức báo động, tuy nhiên người nuôi thủy sản vẫn thiếu ý thức, trách
nhiệm trong việc xả thải nước chưa qua xử lý ra môi trường tự nhiên. Hầu hết các hộ
nuôi, nhất là các hộ nuôi lồng bè, đều không có hệ thống xử lý nước thải, bùn thải và
thường xả thẳng nguồn thải ra sông. Một số ít vùng nuôi của doanh nghiệp có đầu tư
hệ thống xử lý nước thải (chiếm khoảng 10% diện tích nuôi).
Thực tế cho thấy, các phương pháp xử lý nước thải hiện đang áp dụng đều có
kinh phí đầu tư lớn, nhu cầu phải có diện tích rộng để xây dựng ao lắng, ao xử lý, vì
vậy chỉ thích hợp ứng dụng đối với mô hình nuôi có quy mô lớn, vùng nuôi thuộc các
doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu, vùng nuôi có quy mô trên 10 ha. Một số
khó khăn nữa là nhiều hộ nuôi không còn quỹ đất trống để làm ao xử thải (tỉ lệ diện
tích đất dành cho xử lý nước thải từ 15 - 25% tổng diện tích). Mặc khác, công nghệ,
thiết bị xử lý nước thải đạt hiệu quả thì chi phí đầu tư lớn, tăng giá thành sản phẩm
đây cũng là một trong những trở ngại lớn trong việc xử lý ô nhiễm môi trường nước,
nhất là nước thải trong nuôi trồng thủy sản.
II. CÁC NGUỒN TÀI NGUYÊN:
1. Tài nguyên đất:
Theo tài liệu chỉnh lý bản đồ đất tỉnh An Giang năm 2006, tài nguyên đất tỉnh
gồm những loại sau:
- Nhóm đất than bùn: phân bố ở huyện Tri Tôn, diện tích 984,04 ha, chiếm
0,28% diện tích tự nhiên. Thành phần chính của nhóm đất này gồm sét và lưu huỳnh,
lượng hữu cơ trong đất rất cao, rất chua, phèn nghèo chất dinh dưỡng. Loại đất này
không thích hợp đối với canh tác, thích hợp với trồng tràm.
- Nhóm đất cát núi: phân bố tập trung ở các triền núi thuộc thành phố Châu
Đốc và các huyện Tri Tôn, Tịnh Biên, diện tích 22.675,02 ha, chiếm 6,41% diện tích
tự nhiên. Loại đất này rất dễ rửa trôi và nghèo dinh dưỡng không thích hợp canh tác
lúa, rau màu. Ở khu vực đỉnh núi của các khối núi lớn như núi Cấm, núi Cô Tô, núi
Dài có thể trồng cây dược liệu, cây ăn trá ưa lạnh, su su,... nơi các sườn.
- Nhóm đất phù sa cổ: phân bố chủ yếu ở huyện Tịnh Biên, Tri Tôn (vùng tiếp
giáp với biên giới Vương quốc Campuchia và tỉnh Kiên Giang), diện tích 14.617,72
ha, chiếm 4,13% diện tích tự nhiên, thành phần cơ giới xốp, mềm. Đây là nhóm đất
có khả năng sản xuất nông nghiệp như luân canh 2-3 vụ lúa – màu; nuôi trồng thủy
sản (lúa – cá).
7
-Nhóm đất phù sa: diện tích 226.866,0 ha, chiếm 64,15% diện tích tự nhiên, và
được phân thành các loại như sau:
* Đất phù sa đang phát triển, glây, dinh dưỡng khá: chiếm diện tích 16.742,75
ha (chiếm 4,92% diện tích tự nhiên), phân bố chủ yếu ở huyện Chợ Mới, thành phố
Long Xuyên, Châu Thành, Châu Phú, và một ít ở các huyện Phú Tân và Tân Châu.
Loại đất này thích hợp với sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản.
* Đất phù sa đang phát triển, glây, dinh dưỡng kém: có diện tích 15.977,51 ha
(chiếm 4,69% diện tích tự nhiên), phân bố chủ yếu ở huyện Tịnh Biên và Tri Tôn và
một ít ở huyện Châu Phú, cũng do phân bố ở địa hình khá cao (dọc theo các chân núi
của vùng Bảy Núi) nên sa cấu chủ yếu là thịt đến cát pha. Loại đất này thích hợp với
canh tác lúa và trồng các loại rau màu.
* Đất glây, tầng mặt dày, dinh dưỡng khá, có dấu tích phù sa bồi: có diện tích
70.729,21 ha (chiếm 20,76% diện tích tự nhiên), phân bố tập trung ở các huyện cù lao
An Phú, TX. Tân Châu, Phú Tân, Chợ Mới, các vùng đất ven sông của các huyện/thị
Châu Đốc, Châu Phú, Châu Thành, Long Xuyên và một diện tích nhỏ của huyện
Thoại Sơn. Loại đất này nghèo chất dinh dưỡng, cộng với sự thấp trũng của phẫu
diện là yếu tố cơ bản không có lợi cho việc trồng các loại cây trồng cạn. Do đó cần bố
trí mùa vụ hay có biện pháp canh tác thích hợp để mang lại hiệu quả cao.
* Đất glây, tầng mặt dày, dinh dưỡng kém: có diện tích 15.231,53 ha (chiếm
4,47% diện tích tự nhiên), phân bố tập trung ở thành phố Châu Đốc, và số ít ở các
huyện Châu Phú, Châu Thành, Thoại Sơn và Chợ Mới. Loại đất này không thích hợp
cho việc trồng các loại cây trồng cạn.
* Đất glây, đọng mùn, dinh dưỡng kém: có diện tích 87.887,26 ha (chiếm
25,80% diện tích tự nhiên), tập trung thành vùng lớn ở các huyện Châu Phú, Châu
Thành và Thoại Sơn, rải rác với diện tích nhỏ ở huyện Tri Tôn và thành phố Châu
Đốc.
* Đất glây, tầng mặt mỏng, dinh dưỡng kém: có diện tích 20.297,74 ha (chiếm
5,96% diện tích tự nhiên), đây là loại đất mới của An Giang và chỉ có ở huyện Chợ
Mới. Do khu vực đất chủ yếu nằm trong đê bao nên đất có lượng phù sa thấp.
- Nhóm đất phèn: diện tích 44.687,06 ha, chiếm 12,64% diện tích tự nhiên,
phân bố chủ yếu ở Tri Tôn, Tịnh Biên, Thoại Sơn, Châu Phú, Châu Thành, Chợ Mới
và được phân thành 2 loại như sau:
* Đất phèn hoạt động nông: xuất hiện chủ yếu ở Tịnh Biên và Tri Tôn và một
ít ở Châu Phú. Loại đất này có độ phì tự nhiên tư trung bình đến khá, thành phần cơ
giới từ trung bình đến nặng, tỷ lệ sét cao (41-55%), hàm lượng cát mịn (21,2-38%),
8
đất dễ bị dính dẻo khi ướt, cứng và nứt nẻ thành rảnh khi khô. Loại đất này không
thích hợp sản xuất nông nghiệp, có thể trồng một số giống lúa chịu phèn trong vụ
mùa, mùa khô có thể lên líp trồng khoai. Hướng sử dụng thích hợp đối với loại đất
này là trồng lúa 1 vụ hoặc 2 vụ với các giống lúa chịu phèn và các loại rau màu thích
hợp khác và có thể kết hợp nuôi cá.
* Đất phèn hoạt động sâu: xuất hiện ở hầu hết các huyện trong tỉnh, trừ huyện
An Phú, trong đó tập trung chủ yếu ở Tri Tôn, Tịnh Biên, Thoại Sơn, Châu Phú,
Châu Thành và Chợ Mới. Loại đất này nghèo chất dinh dưỡng, tỷ lệ các chất dinh
dưỡng không cân đối và nhiều biến động. Đây là loại đất hạn chế đối với sản xuất
nông nghiệp, có thể trồng lúa 1 – 2 vụ nhưng năng suất không cao, có thể trồng hoa
màu vào mùa khô. Tuy nhiên, trong điều kiện cần thiết thì có thể thâm canh tăng vụ
do có thuận lợi gần nguồn nước ngọt.
- Nhóm đất phù sa bồi: tập trung chủ yếu ven theo sông Tiền và sông Hậu, có
diện tích 30.793,17 ha (chiếm 8,71% tổng diện tích đất toàn tỉnh), phân bố ở các
huyện An Phú, Tân Châu, Phú Tân, thành phố Châu Đốc, Châu Phú, và xã Mỹ Hòa
Hưng của TP. Long Xuyên. Đất có thành phần sét khá cao so với các biểu loại đất
ven sông khác, dưới tầng canh tác thường xuất hiện một tầng tích tụ sét, có khả năng
trao đổi cation bằng hoặc hơn 24 cmol(+) kg - 1 sét trong suốt và độ bão hòa base
(bởi NH4OAc) bằng hoặc lớn hơn 50% trong suốt tầng B đến độ sâu 125 cm. Hàm
lượng dinh dưỡng không cao lắm, nhưng tiềm năng đất còn rất tốt phục vụ cho sản
xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản.
Tóm lại: tài nguyên đất tỉnh An Giang có chất lượng khá cao, độ phì trung
bình đến khá, nguồn nước ngọt quanh năm, hệ thống sông, kênh rạch dày đặc, tạo cơ
chế ém phèn tự nhiên, thoát rửa phèn tốt phù hợp với sản xuất nông nghiệp và nuôi
trồng thủy sản.
2. Tài nguyên nước:
a) Tài nguyên nước mặt
Nguồn cung cấp chủ yếu từ Sông Tiền và sông Hậu và hơn 280 tuyến sông
rạch lớn khác, lưu lượng của các sông khá lớn nên đủ cung cấp nước cho các hoạt
động sản xuất và sinh hoạt kể cả trong mùa khô. Nguồn nước mặt của tỉnh khá dồi
dào, có khả năng khai thác đa mục tiêu trong đó quan trọng nhất là mục tiêu sản xuất
nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, dưới tác
động của nhiều yếu tố như: xâm nhập mặn, xây dựng các đập thủy điện ở thượng
nguồn sông Mekong, ô nhiễm môi trường nước cũng gây ảnh hưởng rất lớn đến sản
xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản.
9
b) Tài nguyên nước dưới đất
Nước dưới đất ở An Giang có trữ lượng khá dồi dào, có thể khai thác và phục
vụ sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và sinh hoạt (trừ vùng núi Tri Tôn và Tịnh
Biên). Theo thống kê chưa đầy đủ, toàn tỉnh có 7.133 giếng khoan, phục vụ sinh hoạt
92,14%, phục vụ sản xuất 7,86% và khảo sát sơ bộ có khoảng 240 giếng bị ô nhiễm
hoặc có nguy cơ nhiễm bẩn các loại cần phải xử lý trám lấp để bảo vệ nguồn nước.
3. Đặc điểm xã hội:
3.1. Dân số:
Dân số tỉnh An Giang tính đến 31/12/2012 có 2.153.716 người trong đó dân số
trung bình ở nông thôn chiếm 70,01% (1.507.843 người); dân cưchủ yếu là người Kinh
chiếm 95%, còn lại là người dân tộc thiểu số, gồm: dân tộc Khmer chiếm 3,9%, dân
tộc Chăm chiếm 0,62% và dân tộc Hoa chiếm 0,64%.
Dự kiến năm 2010 có khoảng 2.170.295 người với 525.765 hộ, năm 2015 có
2.293.903 người và 2020 có 2.419.281 người.
3.2. Tôn giáo:80% dân số theo đạo Phật giáo Hòa Hảo, số còn lại theo đạo
Phật, đạo Thiên Chúa, đạo Cao Ðài, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, không đạo.
3.3. Văn hóa:
- Lao động từ 15 tuổi trở lên tập trung ở nông thôn chiếm 80,5% trong tổng số
laođộng của tỉnh An Giang. Trong đó, tỉ lệ lao động ở khu vực nông thôn không biết
chữ chiếm 11,08%, chưa tốt nghiệp cấp I chiếm 42,47%, tốt nghiệp cấp III chiếm
3,53%.
- Lao động ở khu vực nông thôn có chuyên môn kỹ thuật chiếm 5,37%, từ sơ
cấp học nghề trở lên chiếm 8,06%, không có chuyên môn kỹ thuật chiếm 91,94%
trong tổng số 743.763 lao động.
- Trình độ văn hóa của lực lượng lao động tỉnh An Giang là rất thấp, đây là
một trong những bất lợi đối với phát triển kinh tế của tỉnh.(nguồn: Cục Thống kê)
PHẦN III
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
GIAI ÐOẠN 2002 – 2013
10
I. HIỆN TRẠNG VỀ KHU HỆ THỦY SẢN:
1. Khu hệ cá (Fish fauna):
Có khoảng 140 loài cá, xuất hiện trên địa bàn tỉnh An Giang, số lượng loài
xuất hiện thay đổi theo từng mùa trong năm (số lượng loài cá xuất hiện ở tỉnh An
Giang cần được nghiên cứu chi tiết thêm). Với các họ xuất hiện có ưu thế là
Cyprinidae, Pangasiidae, Bagridae, Cobitidae, Gobiidae, Siluridae. Số loài cá xuất
hiện phong phú vào mùa lũ, mùa khô số lượng loài xuất hiện giảm đi, đây cũng là
một đặc trưng của vùng.
Có hai loài cá du nhập vào Việt Nam là cá lau kiếng (Hypostomus punctatus),
cá chim trắng (Colossoma brachypomum) đây là hai loại cá có xuất xứ từ Nam Mỹ,
có khả năng thích nghi cao, khả năng cạnh tranh bắt mồi vượt trội so với các loài cá
bản địa, có khả năng phá vỡ khu hệ thủy sản vùng đồng bằng sông Cửu Long, rất cần
nghiên cứu kỹ lưỡng hai loài này, các loài cá khác nhập khẩu vào Việt Nam nói
chung và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long nói riêng.
Các loài cá ở tỉnh An Giang (cá ở sông Tiền, sông Hậu, ở các nhánh sông, kênh
rạch, vùng trũng ngập nước,..) rất phong phú và đa dạng, do vậy để tận dụng được ưu
thế này bền vững cần phải khai thác, nghiên cứu, phát triển và bảo tồn một cách hợp lý.
2. Ðộng thực vật phù du và động vật đáy:
2.1. Thực vật phù du (Phytoplankton):
Thực vật phù du ở thủy vực An Giang với các ngành có số lượng chiếm ưu thế
là Cholorophyta, Bacillriophyta, Euglenophyta, Cyanophyta, Pyrrophyta,
Chryrophyta có số lượng thấp.
Thành phần giống loài khá phong phú, số lượng dồi dào, thành phần và số
lượng biến động. Ngành tảo khuê (Cyclotella comta, Surirella robusta,..), tảo lục
(Closterium acerosum for rectum, Pediastrum biradiatum,..) phong phú là nguồn thức
ăn tốt cho nuôi trồng thủy sản, bên cạnh đó có các giống loài tảo lam (Aphanocapsa
pulchra, Polycistis, Oscillatoria,....), tảo mắt (Euglena oblonga, Phacus longicauda,...)
là loài tảo độc không có lợi cho nuôi thủy sản.
2.2. Ðộng vật phù du (Zooplankton):
Với số lượng loài chiếm ưu thế của lớp Rotatoria, Protozo,… Ðộng vật phù du
là loài thức ăn giàu chất dinh dưỡng và năng lượng cho nhiều loại cá ở giai đoạn ấu
trùng, rất khó thay thế bằng thức ăn nhân tạo nào khác, bên cạnh có một vài loài gây
bệnh cho tôm cá.
2.3. Ðộng vật đáy (Zoobenthos):
Với các loài có số lượng chiếm ưu thế của lớp Crustacea, Isecta, Bivalvia,
Gastropoda, Oligochaeta, Polychaeta. Ðộng vật đáy là loại thức ăn tốt của các loài cá
11
sống ở tầng đáy ăn tạp, ăn động vật. Bên cạnh đó có một số loài làm ô nhiễm đáy là
Didymops sp (Isecta), Dero dosalis (Oligochaeta)
Ðộng thực vật phù du, động vật đáy ở tỉnh An Giang rất đa dạng và phong
phú. Chúng là loại thức ăn tốt cho cá. Bên cạnh đó, có một số loại tảo độc đối với cá,
một số loài động vật phù du gây bệnh cho cá, một số loài động vật đáy làm ô nhiễm
đáy.
3. Ðánh giá chung về khu hệ thủy sản:
Khu hệ thủy sản của tỉnh An Giang đa dạng và phong phú, rất thích hợp cho
phát triển trong nuôi trồng thủy sản. Ðây là một ưu thế nổi trội của vùng, song để tận
dụng có hiệu quả và bền vững khu hệ thủy sản cần phải có sự quan tâm và đầu tư
đúng, hợp lý về nghiên cứu chuyên sâu, bảo tồn, nuôi trồng, khai thác.
Ðặc biệt đối với các giống loài không phải là giống loài bản địa của khu vực
đồng bằng sông Cửu Long, trước khi nhập giống vào cần phải khảo nghiệm và
nghiên cứu kỹ, tránh phá vỡ khu hệ thủy sản của vùng, vì khu hệ thủy sản nước ngọt
đồng bằng sông Cửu Long đa dạng và phong phú nhất ở Việt Nam.
12
II. TÌNH HÌNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN GIAI ĐOẠN 2002 - 2013:
Bảng 1: Tổng hợp tình hình nuôi trồng thủy sản giai đoạn 2002 – 2013
Chỉ tiêu 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Tổng diện tích nuôi
TS (ha) 1,788 1,561 1,896 1,836 1,909 3,038 2,777 2,506 2,415 1924.5 2.618,50 2.496,38
Trong đó: cá tra (ha) 679,4 860.9 731.4 770.3 785.7 1394 1185 1118 999 960 1.331,10 1.269,25
Sản lượng TS (tấn) 111599 151231 154675 180890 181952 263592 315036 288235 279774 295000 339323 327200
Trong đó: cá tra (ha) 111157 150120 131652 145510 145421 216526 268091 242507 231071 267990 245690 242524
Năng suất (tấn/ha) 62 75 93 68 180 155 226 219 231 262 291 290
SPCBTSXK (tấn) 23200 26913 44000 54982 95400 125710 190300 130423 151652 144080 145592 170626
Kim ngạch XK (1000
USD) 66600 59570 128700 122323 224400 332105 423400 291510 341226 400325 398076 409837
Tôm càng xanh (ha) 282 370 560 588 600 650 600 550 491 390 320 238
Sản lượng (tấn) 305 459 651 698 815 1060 1297 1045 1000 1029 719 356
Năng suất (tấn/ha) 1,08 1,24 1,16 1,18 1,35 1,63 2,16 1,9 2,03 2,63 2,25 1,49
(Nguồn: Cục Thống kê An Giang)
13
1. Diện tích nuôi:
Theo Quyết định số 859/QĐ-UBND ngày 27/04/2006 của UBND tỉnh An
Giang về việc phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch phát triển ngành thủy sản đến năm
2010 và định hướng đến năm 2020 và Quyết định số 3354/QĐ-UBND ngày
12/12/2007 của UBND tỉnh An Giang về việc phê duyệt điều chỉnh bổ sung Quy
hoạch phát triển ngành thủy sản đến năm 2010 cho thấy:
Tính đến năm 2013, diện tích nuôi trồng thủy sản theo các Quy hoạch nêu trên
thực tế có 4 huyện đạt < 50 %, cá biệt huyện An Phú chỉ đạt khoản 15%; 06 huyện
đạt từ 50-76%, chỉ có Thoại Sơn đạt quy hoạch đã đề ra. Tuy nhiên, nhìn chung công
tác quy hoạch thủy sản trong thời gian qua mặc dù chưa đạt được yêu cầu nhưng đã
thành công trong các mục tiêu định tính như: đã định vị được vùng nuôi trồng thủy
sản, từng bước hình thành các vùng sản xuất hàng hóa lớn, phát triển nuôi trồng theo
phương thức công nghiệp, thu hút được nhiều doanh nghiệp vào đầu tư phát triển
ngành hàng và đã tạo được niềm tin, an tâm sản xuất; bước đầu quan tâm đến các vấn
đề xử lý nước thải trong nuôi trồng thủy sản, bảo vệ môi trường sinh thái,…
Bảng: Tổng hợp so sánh diện tích nuôi trồng thủy sản theo quy hoạch
tại các thời điểm năm 2007, 2010, 2013
Diện tích
DT nuôi
thực tế năm
2007*
DT nuôi
thực tế năm
2010
Diện tích
nuôi thực tế
năm 2013
Diện tích
theo QH
thủy sản
đến năm
2010 **
Tỷ lệ đạt
được so với
2010 (%)
Tỷ lệ đạt
được so với
2013 (%)
Tổng số (ha) 3.038 2.415 2.496 4.621 52,3 54
Long Xuyên 236 268 170 545 49,2 31,2
Châu Đốc 64 33 45 218 15,1 20,6
An Phú 78 92 98 644 14,3 15,2
Tân Châu 279 217 230 299 72,6 76,9
Phú Tân 329 227 271 522 43,5 51,9
Châu Phú 470 404 538 918 44,0 58,6
Tịnh Biên 22 37 28 53 69,8 52,8
14
Tri Tôn 37 42 42 115 36,5 36,5
Châu Thành 227 253 327 482 52,5 67,8
Chợ Mới 367 303 324 425 71,3 76,2
Thoại Sơn 929 268 422 401 66,8 105,2
(Ghi chú: * năm 2007 là năm có diện tích nuôi lớn nhất.
** Theo Quyết định số 3354/QĐ-UBND ngày 19/12/2007)
2. Ðối tượng nuôi:
Trước năm 2002 đối tượng nuôi chính là: cá basa, cá tra, cá lóc bông, cá hú, cá
he, ngoài ra còn có các đối tượng nuôi phụ là cá lóc, cá rô đồng, cá rô phi, cá bống
tượng, cá sặc rằn, cá trê phi, cá trê lai, cá chép, cá hường.
Từ năm 2003 đến nay: đối tượng nuôi chính là cá tra, cá lóc bông, cá basa, cá
hú, cá he, tôm càng xanh, cá rô phi, ngoài ra còn có các đối tượng nuôi phụ là cá lóc, cá
rô đồng, cá thát lát, cá trê phi, cá trê lai, cá mè vinh, cá chép, cá chim trắng, cá mè, cá
hường.
Trong giai đoạn này đối tượng nuôi xuất khẩu chủ lực là: cá tra được nuôi ao,
các đối tượng khác được nuôi trong ao và lồng bè chủ yếu tiêu thụ nội địa. Một số đối
tượng nuôi chính từ năm 2002 đến nay như sau:
* Đối với cá tra, cá basa:
Đây là một trong những đối tượng nuôi chủ lực trong phát triển nuôi trồng
thủy sản của tỉnh, diện tích và sản lượng nuôi cá tra tăng dần hàng năm, đỉnh điểm
diện tích đạt gần 1.400 ha với sản lượng đạt khoảng 270 ngàn tấn vào năm 2007. Từ
năm 2008 đến nay diện tích nuôi cá tra, basa liên tục giảm và đến cuối năm 2013 chỉ
còn khoảng 800 ha, nguyên nhân chủ yếu do giá cả không ổn định,… người nuôi
không có lãi nên người nuôi thu hẹp dần diện tích. Phần lớn diện tích nuôi cá tra hiện
nay do doanh nghiệp đầu tư theo quy trình khép kính từ nuôi đến chế biến và xuất
khẩu.
Một số địa phương có diện tích nuôi cá tra lớn của tỉnh là huyện Chợ Mới
(chiếm 31% tổng diện tích), Châu Phú (20%), Thoại Sơn (15%), Châu Thành (11%),
Phú Tân (8%) và Tp. Long Xuyên (6%). Cá tra được nuôi với nhiều loại hình khác
nhau như nuôi ao, nuôi cồn – bãi bồi, nuôi đăng quầng, lồng bè. Những năm gần đây
ngư dân chủ yếu nuôi theo hình thức thâm canh trong các ao, hầm. (1) Nuôi trong ao:
là hình thức nuôi chủ yếu hiện nay, những hộ nuôi qui mô nhỏ tận dụng ao, mương
vườn sẵn có; những hộ nuôi qui mô lớn có vị trí ao nuôi gần các sông rạch để thuận
tiện cho việc cấp thoát nước, vận chuyển hàng hóa và tiêu thụ sản phẩm. (2) Nuôi
trên cồn, bãi bồi: hình thức nuôi này mới được áp dụng trong vài năm gần đây và có
xu hướng phát triển mạnh vì có thể thả mật độ cao để tăng năng suất và tăng sản
15
lượng; nguồn nước cung cấp thuận lợi, thu hoạch và vận chuyển dễ dàng. (3) Nuôi
đăng quầng: tập trung ở các sông nhánh có tốc độ dòng chảy thấp, hoặc nằm khuất
trong các khúc co dọc theo sông Tiền và sông Hậu. (4) Nuôi trong lồng bè: nuôi trong
bè đang có xu hướng giảm nhanh do hiệu quả kinh tế giảm liên tục và thấp hơn so với
các mô hình nuôi khác.
* Đối với Tôm càng xanh:
Đây là một trong những đối tượng nuôi chủ lực trong phát triển nuôi trồng
thủy sản của tỉnh, ban đầu được triển khai nuôi tại xã Phú Thuận, huyện Thoại Sơn
với vài ha, tuy nhiên diện tích tăng dần theo từng năm và phát triển mạnh nhất vào
năm 2007 với 650 ha tương đương với sản lượng 1060 tấn….Từ năm 2009 đến nay
diện tích nuôi tôm càng xanh giảm liên tục đến năm 2013 chỉ còn 238 ha với sản
lượng đạt khoảng 356 tấn. Nguyên nhân, do khó khăn về con giống, dịch bệnh, thời
tiết, thị trường,…. hiệu quả nuôi không cao, nên người nuôi thu hẹp quy mô và diện
tích nuôi. Tôm càng xanh được nuôi với nhiều hình thức khác nhau như: nuôi luân
canh trong ruộng lúa (nuôi trên chân ruộng), nuôi thâm canh trong ao đất, nuôi trong
mương vườn cây ăn trái và nuôi đăng quầng. Tính đến nay, hình thức nuôi tôm càng
xanh phổ biến vẫn là nuôi trên ruộng luân canh với cây lúa, tập trung chủ yếu ở
huyện Thoại Sơn và các huyện Châu Thành, Châu Phú và Phú Tân.
* Đối với cá Lóc:
Mô hình nuôi cá lóc của tỉnh đã phát triển từ nhiều năm qua, tuy nhiên, mới
phát triển mạnh trong những năm gần đây với hình thức nuôi trong bồn, bể…diện
tích và sản lượng tăng dần qua các năm từ hơn 47 ha vào năm 2004 đến năm 2013
tăng gần gấp đối với 93 ha và sản lượng đạt 13.019 tấn. Hai địa phương Long Xuyên
và Châu Thành chiếm gần 70% sản lượng cá lóc của tỉnh. Ngoài việc bán tươi, đến
nay cá lóc được đưa vào chế biến thành sản phẩm “khô cá lóc”. Hiện có nhiều cơ sở
chế biến khô cá lóc ở Chợ Mới, Thoại Sơn… và tỉnh đã từng bước phát triển thương
hiệu này như “khô cá lóc Chợ Mới” (nhãn hiệu tập thể, bắt đầu từ năm 2006), “khô cá
lóc Thoại Sơn”. Bên cạnh tiêu thụ trong tỉnh, các sản phẩm cá lóc An Giang được
tiêu thụ ở các tỉnh trong vùng ĐBSCL và Tp.HCM. Tỉnh cũng đã hỗ trợ cho các cơ
sở chế biến khô cá lóc tham gia các hội chợ, quảng bá sản phẩm.
* Cá rô, cá rô phi:
Nghề nuôi cá rô, cá rô phi của tỉnh đã được nông dân nuôi nhiều dưới hình thức
thâm canh hoặc bán thâm canh trong ao đất, lồng bè, trong mương hay trên ruộng lúa.
Vùng nuôi phân bố rải rác dọc theo các tuyến kinh cấp I và cấp II và tập trung nhiều
nhất ở các huyện Châu Thành, Châu Phú, An Phú, Tân Châu, Phú Tân, chủ yếu là cá
rô phi. Sản lượng nuôi cá rô, rô phi năm 2003 là 925 tấn đến năm 2013 sản lượng đạt
16
khoảng 1415 tấn, trong đó: lồng bè: 857 tấn. Trong những năm gần đây, nhờ nghiên
cứu, hoàn chỉnh quy trình sản xuất giống cá đơn tính toàn đực và nuôi thương phẩm
cá rô phi Novit-4, giúp nâng cao năng suất, sản lượng và hiệu quả kinh tế cho nghề
nuôi thương phẩm của tỉnh. Tuy nhiên, năng suất nuôi bình quân hiện nay vẫn còn rất
thấp và nghề nuôi còn nhiều bất ổn. Do đó, để phát triển nghề nuôi cá rô, rô phi một
cách có hiệu quả và bền vững, cần giải quyết tốt vấn đề thị trường tiêu thụ và tiếp tục
chọn tạo con giống có chất lượng cao và cải tiến quy trình nuôi để tăng năng suất, hạ
giá thành, tăng tính cạnh tranh.
* Lươn:
Trong những năm qua, lươn chủ yếu được nuôi trong bể lót bạt, tập trung ở các
huyện: Thoại Sơn, Châu Thành, Tân Châu, Châu Phú, sản lượng nuôi lươn năm 2011
là 478 tấn; năm 2012 là 1.031 tấn, năm 2013 là 1.740 tấn. Tuy nhiên, thời gian gần
đây đã thử nghiệm thành công mô hình nuôi Lươn đồng với mật độ cao trong bồn, bể
xi măng với dạt tre, với năng suất cao 60-70kg/m2, kiểm soát được các yếu tố về môi
trường nước, ít tốn kém diện tích rất phù hợp với mọi người nuôi tùy vào điều kiện
kinh tế của mỗi gia đình. Tuy nhiên, khó khăn hiện nay do nguồn lươn giống phụ
thuộc hoàn toàn vào tự nhiên, tỷ lệ hao hụt cao,… trong khi đó nguồn giống từ sinh
sản nhân tạo lại ít, chi phí cao, xem đây là một thách thức cho ngành, cũng như các
Viện, Trường để tạo ra nguồn giống chất lượng cao với giá thành hợp lý phục vụ cho
người nuôi trong thời gian tới.
Ngoài ra, còn có một số đối tượng khác như: cá thát lát, cá điêu hồng, cá hô,
… hiện đang nuôi trên địa bàn tỉnh.
3. Giống thủy sản:
2.1. Giống bản địa:
Từ những năm cuối thập niên 90, cá basa, cá hú được câu từ tự nhiên (chiều
cao thân của cá từ 0,6 - 2cm, thời gian khai thác từ tháng 5 âm lịch đến tháng 10 âm
lịch hàng năm) đem về nuôi dưỡng trong các lồng bè khi đạt yêu cầu cá giống được
thả vào các bè, ao nuôi thương phẩm. Giống cá tra chủ yếu được vớt từ tự nhiên dưới
dạng cá bột đem lên nuôi dưỡng trong ao một thời gian, sau đó được ương lên thành
cá giống để thả nuôi thương phẩm trong ao.
Từ khi nghề nuôi cá tra, cá basa phát triển phục vụ cho chế biến và xuất khẩu
thì giống cá tra, cá basa được sinh sản nhân tạo, hoàn chỉnh quy trình,… phục vụ cho
nuôi. Các loại cá khác như cá he, cá trê, cá mè vinh, cá chép, cá lóc bông, cá lóc, cá
rô đồng, cá rô phi, cá hường ... chủ yếu sinh sản nhân tạo và cung cấp đủ số lượng
giống cho nhu cầu nuôi trong tỉnh và khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
2.2. Giống du nhập (là giống ở các tỉnh ngoài khu vực đồng bằng sông Cửu
Long, ở nước ngoài):
17
Hiện nay, theo kết quả thống kê chưa đầy đủ, trên địa bàn tỉnh An Giang
khoảng 48 trại sản xuất, ương giống. Năng lực sản xuất khoảng 4.500 triệu con cá bột
các loại/năm. Con giống thủy sản thả nuôi gồm cá loại: tra, basa, lóc bông, lóc, he,
hú, trê, mè vinh, ... Tình hình sản xuất và cung cấp giống cho nhu cầu nuôi trong
những năm qua không ngừng tăng. Nhìn chung, nguồn cung cấp giống thủy sản toàn
tỉnh không đảm bảo về chất lượng và số lượng cho nhu cầu nuôi thủy sản. Giải quyết
việc thiếu giống nuôi thủy sản phải nhập giống từ các tỉnh khác trong khu vực như
Ðồng Tháp, Cần Thơ, Tiền Giang, Vĩnh Long, TP.HCM.
Ðối với các trại tư nhân, việc áp dụng các qui trình sản xuất giống không được
tuân thủ nghiêm ngặt khoa học (chỉ chạy theo lợi nhuận kinh tế) từ khâu chọn và nuôi
vỗ cá bố mẹ đến khâu sinh sản, ương nuôi cá bột, cá giống do đó dẫn đến suy thoái cá
bố mẹ, chất lượng cá giống không đảm bảo (tính thích nghi môi trường kém, khả
năng kháng bệnh yếu,...), cá giống hao hụt nhiều trong quá trình nuôi thương phẩm
gây tổn thất kinh tế. Ngoài ra, việc trang bị máy móc ở các trại giống còn thô sơ, lạc
hậu, hầu hết chất lượng con giống ở các trại sản xuất tư nhân có chất lượng không
cao dẫn đến hao hụt nhiều trong quá trình nuôi. Trại giống có qui mô lớn trực thuộc
Nhà nước là Trung tâm Giống Thủy sản An Giang.
4. Mô hình nuôi thủy sản:
3.1. Nuôi ao:
Ðối tượng nuôi chính là cá tra, cá lóc, cá rô, tôm càng xanh, rô phi, cá trê, cá thát
lát. Hiện nay, người nuôi cá đang tận dụng đất bãi bồi, đất dọc theo bờ sông Tiền,
sông Hậu đào ao nuôi cá có hiệu quả kinh tế cao, chất lượng cá tốt. Song phần lớn
không có hệ thống xử lý nước thải (ao lắng, xử lý nước bằng hóa chất,…) trước khi
thải ra sông, điều này cũng báo động trong một vài năm tới việc ô nhiễm chất lượng
nước mặt đối với sông Tiền, sông Hậu là điều không thể tránh khỏi. Do đó, cần xúc
tiến nhanh các biện pháp, giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường trong nuôi trồng thủy
sản nói riêng và nuôi cá tra nói chung là hết sức cần thiết và cấp bách trong thời gian
tới.
3.2. Nuôi lồng, bè:
Ðối tượng nuôi chính: hú, he, rô phi, cá lóc bông, chim trắng, điêu hồng,…
Trước năm 2002, loại hình nuôi bè phát triển chủ yếu một số đối tượng nuôi
phục vụ tiêu thụ nội địa, một số ít là xuất khẩu (cá tra, cá basa). Tuy nhiên, từ năm
2003 đến nay, số lượng lồng bè nuôi cá của tỉnh tăng mạnh trong giai đoạn 2004-
2007, từ năm 2008 đến nay, số lượng lồng bè giảm dần chủ yếu nuôi các đối tượng
phục vụ cho tiêu thụ nội địa.
Khu vực tập trung nhiều bè nhất (về số lượng lồng bè, thể tích nuôi) là khu vực
ngã ba sông Châu Ðốc nơi giáp ranh của các huyện An Phú (xã Ða Phước), Châu
Ðốc (Vĩnh Ngươn, Vĩnh Mỹ), Tân Châu (xã Châu Phong), Phú Tân (xã Mỹ Hiệp).
Các khu vực bè tập trung khác (ít hơn so với khu vực trên) là Đoạn sông Hậu
thuộc huyện Châu Phú (xã Khánh Hòa, Mỹ Thuận - Mỹ Phú), Ðoạn sông Kênh Xáng
18
thuộc huyện Tân Châu (xã Long An, Tân An), Ðoạn sông Cái Vừng thuộc huyện Phú
Tân (thuộc xã Long Sơn, Long Hòa, Phú Lâm, Phú Thạnh), Đoạn sông Hậu thuộc xã
Mỹ Hòa Hưng – Long Xuyên (xung quanh xã Mỹ Hòa Hưng), Đoạn sông Hậu thuộc
huyện Châu Thành (thuộc xã Hòa Phú I, II ; xã Hòa Long), Đoạn sông Hậu thuộc xã
Phước Hưng huyện An Phú, Đoạn sông Tiền khu vực thuộc xã Vĩnh Xương - Tân
Châu.
3.3. Nuôi trên ruộng lúa:
Ðối tượng nuôi chủ yếu là tôm càng xanh, cá rô phi, chép, mè vinh, rô, cá lóc.
Nuôi tôm chân ruộng phát triển từ năm 2000 đến nay tăng nhanh về diện tích, sản
lượng nuôi. Khu vực nuôi tôm chân ruộng chủ yếu tập trung ở huyện Thoại Sơn và
một số vùng thuộc huyện Châu Thành, Châu Phú.
5. Sản lượng nuôi trồng thủy sản năm 2002 - 2013:
Sản lượng nuôi trồng thủy sản tăng hàng năm nếu như năm 2002 sản lượng nuôi
là 111.599 tấn đến năm 2013 sản lượng nuôi là 327.200 tấn, tổng sản lượng nuôi
trồng 2002-2013 là 2.776.908 tấn, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 8,02%
góp phần vào tăng trưởng kinh tế xã hội chung của tỉnh (xem bảng 1 đính kèm).
6. Kim ngạch xuất khẩu:
Kim ngạch xuất khẩu thủy sản (chủ yếu là cá tra) có mức tăng trưởng cao, nếu
như năm 2002, sản lượng sản phẩm chế biến cá tra xuất khẩu là 23.200 tấn tương
đương 66,6 triệu USD đến năm 2013 sản lượng sản phẩm chế biến cá tra xuất khẩu là
170.226 tấn tương đương kim ngạch xuất khẩu 409,837 triệu USD, cá biệt năm 2008
kim ngạch xuất khẩu đạt trên 423 triệu USD. Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất
khẩu bình quân hàng năm (giai đoạn 2002-2013) là 24,4% góp phần vào tăng trưởng
kinh tế xã hội chung của tỉnh (xem bảng 1 đính kèm).
7. Thức ăn, vật tư phục vụ nuôi thủy sản:
a) Thức ăn tự chế:
Từ năm 2002 trở về trước:
- Khoảng 95 % sử dụng thức ăn tự chế, 5% thức ăn viên trong qui trình nuôi
cá tra bằng mô hình ao.
Khoảng 95% sử dụng thức ăn tự chế, 5% thức ăn viên trong qui trinh nuôi cá
tra, cá basa bằng mô hình lồng bè.
Từ năm 2002 đến năm: lượng thức ăn tự chế sử dụng trong nuôi cá (ao hầm và
lồng bè) ngày càng giảm dần, trong những năm gần đầy hầu hết hộ nuôi cá sử dụng
thức ăn công nghiệp với tỉ lệ > 95% thức ăn công nghiệp và < 5% thức ăn tự chế.
b) Thức ăn công nghiệp:
Hiện tại có các loại thức ăn viên là Cargill (Mỹ), Proconco (Pháp), Cataco (Việt
Nam), Ocialis (Pháp), Uni-President (Ðài Loan), Mỹ Trường, AFIEX, CP (Thái
Lan)....
19
8. Phòng và trị bệnh, kỹ thuật nuôi:
7.1. Phòng và trị bệnh:
Hiện nay, trong quá trình nuôi thủy sản (cá, tôm) xuất hiện nhiều loại bệnh gây
suy yếu sức khỏe của cá và dẫn đến cá chết dần dần, đôi khi chết hàng loạt gây tổn
thất lớn về kinh tế cho người nuôi thủy sản.
Các loại bệnh cá thường gặp là :
- Bệnh do vi khuẩn: Bệnh gan thận mủ, Bệnh đốm trắng, bệnh nhiễm trùng
huyết, bệnh lở loét, bệnh đốm đỏ, bệnh mù mắt hay nổ mắt, bệnh nhiễm vi khuẩn.
- Bệnh ký sinh trùng: Bệnh trùng bánh xe, bệnh trùng quả dưa, bệnh sán lá gan
(bệnh gạo cá), bệnh sán lá đơn chủ, bệnh giun tròn, bệnh trùng mỏ neo, bệnh rận cá,
bệnh bào tử trùng.
- Bệnh dinh dưỡng : Bệnh thiếu vitamin C, bệnh thiếu một số khoáng chất,
bệnh thiếu các acid amin, bệnh thiếu các vitamin.
Mặc dù công tác phòng và trị bệnh được hỗ trợ bởi cán bộ kỹ thuật cơ quan
chuyên ngành, trường Đại học Cần Thơ, Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thủy Sản II,
nhưng công tác phòng và trị bệnh cá vẫn chưa đáp ứng được cho nhu cầu nuôi thủy
sản, do vậy dịch bệnh là một trong những yếu tố gây bất lợi cho người nuôi thủy
sản.
Thuốc phòng và trị bệnh cá hiện tại có nhiều loại trên thị trường, đáp ứng đủ
cho nhu cầu nuôi, với chất lượng và giá cả khác nhau giúp cho người nuôi thủy sản
thuận lợi trong việc phòng trị bệnh cá.
7.2. Kỹ thuật nuôi: Ða số người nuôi thủy sản ở tỉnh có nhiều năm kinh
nghiệm trong nghề nuôi cá, nhưng việc đầu tư nghiên cứu và áp dụng khoa học kỹ
thuật vào nuôi trồng thủy sản còn nhiều bất cập. Vì thế, hiệu quả kinh tế chưa cao,
đây là một trở ngại đối với nghề nuôi cá truyền thống ở An Giang.
9. Ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất:
Từ năm 2000 đến nay, đã nghiên cứu và triển khai ứng dụng nhiều qui trình kỹ
thuật có hiệu quả như: qui trình sinh sản nhân tạo giống cá tra, basa , qui trình sản
xuất giống cá rô phi đơn tính toàn đực; Áp dụng các quy trình sản xuất giống và nuôi
thương phẩm cá tra theo tiêu chuẩn Global GAP, ASC,…; qui trình sản xuất giống tôm
càng xanh bằng công nghệ nước xanh cải tiến và nước trong hở; nuôi Lươn đồng trong
bể xi măng bằng dạt tre mật độ cao; sản xuất giống và nuôi thương phẩm cá lóc, các
sặc rằn, …… Rào cản kỹ thuật, cùng với hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng, nhất là
lĩnh vực nông nghiệp trong đó có nuôi trồng thủy sản. Do đó, việc ứng dụng các
thành tựu khoa học kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao, nhất
là khâu sản xuất giống vào nuôi trồng thủy sản là hết sức cần thiết nhằm tạo ra năng
suất cao, chất lượng vượt trội và đặc biệt tăng giá trị và tăng thu nhập cho người dân.
20
10. Các loại dịch vụ, lao động:
Các loại dịch vụ phổ biến trong nuôi thủy sản là dịch vụ cung cấp thức ăn nuôi
thủy sản (tấm cám, cá biển,..) dịch vụ cung cấp thuốc thú y thủy sản (cửa hàng thuốc
thú y thủy sản ), dịch vụ vận chuyển cá (cá giống, cá thương phẩm)...
Lao động nuôi trồng thủy sản
Năm 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Lao động
NTTS
(người)
36.451 38.607 38.613 42.253 38.736 36.017
35.976
35.553
(Nguồn: Cục thống kê)
Theo điều tra thống kê thì trình độ văn hóa trung bình của người hoạt động
trong ngành nuôi trồng thủy sản tương đối thấp, vì vậy cần phải chú trọng nâng cao
trình độ cho phù hợp với xu hướng phát triến nuôi trồng thủy sản công nghiệp.
III. GÍA TRỊ SẢN XUẤT THỦY SẢN GIAI ĐOẠN 2002 - 2013 (Giá hiện hành):
Đơn vị tính: triệu đồng
Chỉ tiêu Giá trị sản lượng
thủy sản nuôi
trồng (tr đồng)
Giá trị sản lượng
thủy sản khai
thác
Giá trị dịch
vụ thủy sản Tổng giá trị sản xuất
thủy sản (tr đồng)
2002 1.271.530 294.856 46.196 1.612.583
2003 1.340.966 363.424 60.323 1.764.713
2004 1.929.917 329.267 69.944 2.329.128
2005 2.058.238 286.407 77.235 2.421.880
2006 2.510.324 316.966 96.530 2.923.820
2007 3.685.379 453.949 269.220 4.408.548
2008 5.237.071 485.363 326.800 6.049.234
2009 5.032.796 501.934 527.759 6.062.489
2010 5.562.872 798.486 445.347 6.806.705
2011 7.446.588 1.286.124 396.221 9.128.933
2012 5.306.126 1.020.576 284.246 6.610.948
21
2013 5.213.790 855.740 294.489 6.364.019
(Nguồn: Cục Thống kê)
IV. CHẾ BIẾN, THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ:
1. Chế biến:
1. Chế biến công nghiệp:
Hiện nay, toàn tỉnh có 17 Công ty với 23 nhà máy hoạt động chế biến thủy sản
với tổng công suất sản xuất trên 330.000 tấn/năm, trong đó tổng công suất chế biến
hàng giá trị gia tăng là 4.960 tấn, với hơn 28.000 lao động, tổng vốn đầu tư trên
1.947.970 triệu đồng.
Thời gian đầu (1998-2001) do chưa tìm được thị trường xuất khẩu nên lượng
cá tra nuôi chủ yếu được tiêu thụ nội địa, xuất khẩu chỉ chiếm dưới 10%. Năm 2002,
đánh dấu sự tăng trưởng đột phá của thị trường xuất khẩu, có đến 54% sản lượng
nuôi được đưa vào chế biến để xuất khẩu. Những năm gần đây, tỷ trọng này chiếm
trên 95%.
Ngành chế biến thủy sản đông lạnh của tỉnh có trình độ công nghệ tương đối
hiện đại, máy móc thiết bị được lắp đặt đồng bộ của các hãng chuyên ngành nổi tiếng
như: My com, Nissin (Nhật), Bizzer (Đức), Trane (Mỹ), và Gram (Đan Mạch). Sản
phẩm có thể cạnh tranh và xuất khẩu vào các thị trường khó tính trên thế giới.
Các doanh nghiệp đã không ngừng đầu tư nâng công suất chế biến, đa dạng
hóa các mặt hàng từ thủy sản, đáp ứng nhu cầu trong và ngoài nước. Hầu hết, các
doanh nghiệp chế biến thủy sản đều đăng ký thực hiện quản lý chất lượng sản phẩm
theo các tiêu chuẩn quốc tế như: ISO, HACCP, chứng nhận HALAL,… của tổ chức
cộng đồng người hồi giáo, Code xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU,....
(nguồn: Sở Công Thương)
1.2. Chế biến thô sơ:
Hiện có 92 cơ sở chế biến khô các loại với công suất tiêu thụ nguyên liệu thô trung
bình khoảng 30.000 tấn/năm. Sản phẩm chính là khô cá tra phồng, khô cá sặc, khô cá
lóc, bong bóng cá tra, bao tử cá tra,… Thị trường tiêu thụ chủ yếu nội địa và
Campuchia.
2. Thị trường tiêu thụ:
2.1. Thị trường tiêu thụ:
Thị trường xuất khẩu chính các sản phẩm thủy sản (chủ yếu là cá tra) của tỉnh
An Giang: EU, Mỹ, Châu Á,… Ngoài thị trường xuất khẩu, các công ty đang mở
rộng thị trường nội địa trên toàn quốc nhằm tăng mạnh thị phần tiêu thụ sản phẩm
trong nước.
2.2. Phát triển sản xuất các mặt hàng chủ lực:
22
Từ 2002 đến nay, sản phẩm sản xuất chính của các công ty là Fillet, nguyên
con, cắt khúc đông lạnh, đông rời. Ðối tượng sản xuất chính của các sản phẩm này là
cá tra, basa, rô phi.
2.3. Nhãn hiệu, chất lượng sản phẩm:
Mỗi Công ty Chế biến thủy sản xuất khẩu hiện nay đều có nhãn hiệu hàng hóa
riêng, thương hiệu sản phẩm thủy sản chung cho cá tra hiện nay chưa có. Mặc dù, vấn
đề này tỉnh cũng đã kiến nghị các Bộ ngành TW liên quan nhiều lần.
V. ÐÁNH GIÁ CHUNG:
1. Những mặt đạt được:
- Tỉnh An Giang có điều kiện tự nhiên, khí hậu và môi trường thuận lợi để phát
triển nuôi trồng thủy sản. Qua hơn 10 năm, nghề nuôi trồng thủy sản (đặc biệt nuôi cá
tra) của tỉnh có sự phát triển vượt bậc cả về số lượng lẫn chất lượng đã góp phần đáng
kể vào quá trình phát triển kinh tế và an sinh xã hội của địa phương.
Tình hình nuôi trồng thủy sản trong thời gian qua có những bước tăng trưởng
đáng kể, luôn tăng trưởng trên 10% trong ngành nông nghiệp. Đây là xu thế đúng
hướng nhằm khai thác thế mạnh trong nông ngư nghiệp của tỉnh, đồng thời, từng
bước thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Ngư dân có truyền thống nuôi thủy sản từ lâu và ngày càng tích lũy nhiều kinh
nghiệm hơn trong sản xuất cùng với các chủ trương, cơ chế chính sách của nhà nước
thông qua các chương trình, dự án đã tập trung đầu tư cho phát triển thủy sản đã góp
phần tăng trưởng kinh tế xã hội và giải quyết công ăn việc làm cho hàng ngàn lao
động ở địa phương.
Chất lượng và giá trị của các sản phẩm nuôi trồng ngày càng cao, trở thành
một trong những nguồn nguyên liệu chính giúp cho ngành chế biến phát triển, nâng
cao giá trị của các mặt hàng trong nước và thế giới.
2. Hạn chế, tồn tại và nguyên nhân:
Tuy thành tựu đạt được đã góp phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu, tăng dần
thu nhập cho nông dân, đời sống kinh tế của nhân dân ngày một nâng lên, song về
khách quan nhận xét vẫn còn hạn chế:
- Chưa hướng được nuôi loại thủy sản nào, nuôi bao nhiêu và cung cấp cho thị
trường nào. Do đó, dẫn tới tình trạng sản phẩm lúc thừa, lúc thiếu không chủ động;
bên cạnh, một số hộ nuôi tự phát không theo qui hoạch chung của tỉnh.
- Ngư dân có khả năng huy động số lượng lớn vốn để đầu tư nuôi nhưng chưa
hạch toán kỹ ở lãi suất, thời gian vay để tính vào chi phí. Một bộ phận ngư dân không
có tay nghề nhưng thấy đầu tư có hiệu quả ở những lúc cá có giá nên góp phần làm
ảnh hưởng đến nghề nuôi thủy sản của tỉnh.
- Hiện tượng tranh mua, tranh bán, mất cân đối cung cầu, giá cả (nguyên liệu,
xuất khẩu) không ổn định làm cho nghề nuôi thủy sản phát triển chưa thật sự ổn định
và bền vững.
23
- Tình trạng ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước chưa được
giải quyết một cách tối ưu.
- Trình độ lao động trong nuôi trồng thủy sản còn thấp, nên việc tiếp thu công
nghệ và áp dụng khoa học kỹ thuật còn hạn chế.
- Đầu tư còn nhiều bất cập, chưa huy động tốt các nguồn lực của các thành
phần kinh tế để đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa, tạo ra những vùng sản xuất
hàng hóa lớn, tập trung. Đặc biệt là đầu tư hạ tầng thủy lợi phục vụ thủy sản còn hạn
chế.
- Sự tăng trưởng về diện tích, sản lượng trong nuôi trồng thủy sản những năm
qua chủ yếu theo chiều rộng, chưa mang tính chiều sâu, chưa có sự đảm bảo tính ổn
định, bền vững. Nuôi trồng thủy sản còn đặt nặng về sản lượng mà chưa chú trọng
chất lượng nên sản phẩm thủy sản xuất khẩu thường bị rào cản kỹ thuật của các nước
nhập khẩu.
24
PHẦN IV
DỰ BÁO NHU CẦU PHÁT TRIỂN VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
PHÁT TRIỂN VÙNG SẢN XUẤT THỦY SẢN ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ CAO
TỈNH AN GIANG ĐẾN NĂM 2020 VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2030
I. DỰ BÁO TIẾN BỘ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ:
Những thành quả nghiên cứu khoa học công nghệ trong lĩnh vực nuôi trồng
thủy sản về công nghệ gen, sản xuất giống, nuôi thương phẩm, xử lý môi trường,
thông tin,... sẽ được tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu và hoàn thiện trong thời gian tới.
Đây sẽ là những nhân tố tích cực tạo điều kiện tốt cho sự phát triển của NTTS cả
nước nói chung và khu vực ĐBSCL nói riêng theo hướng công nghiệp hóa hiện đại
hóa một cách hiệu quả và bền vững. Đặc biệt, do tác động của xu thế toàn cầu hóa và
trong điều kiện Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO),
lĩnh vực NTTS nói riêng cũng như ngành thủy sản nói chung phải nhanh chóng tiếp
cận, du nhập, ứng dụng các công nghệ cao, tiên tiến của khu vực và thế giới, đặc biệt
là công nghệ sản xuất giống, nuôi thương phẩm ít gây ảnh hưởng xấu đến môi trường
sinh thái để nâng cao chất lượng sản phẩm và vượt qua các rào cản kỹ thuật, yêu cầu
nghiêm ngặt về vệ sinh an toàn thực phẩm thủy sản của các thị trường nhập khẩu.
II. DỰ BÁO NHU CẦU THỦY SẢN THẾ GIỚI ĐẾN NĂM 2020
1. Đánh giá chung nhu cầu tiêu thụ thủy sản thế giới:
Theo dự báo của Trung tâm Thủy sản Thế giới, nhu cầu tiêu thụ sản phẩm thủy
sản bình quân đầu người trên toàn thế giới được dự đoán là 18,4 kg/người/năm năm
2010 và 19,1 kg/người/năm vào năm 2015. Như vậy mức tăng về nhu cầu sẽ là 18%
trong vòng 15 năm, thấp hơn so với mức tăng 40% trong 20 năm trước. Nhu cầu thủy
sản/đầu người năm 2010 đối với các loại cá sẽ là 13,7kg/năm, và 14,3 kg/năm vào
năm 2015, đối với nhuyễn thể và các động vật thủy sản khác sẽ là 4,7 kg vào năm
2010 và 4,8 kg vào năm 2015. Các nước đang phát triển sẽ đứng đầu về tốc độ tăng
cầu theo đầu người, trong khi đó tốc độ tăng cầu/đầu người ở 97 các nước phát triển
nhìn chung sẽ có xu hướng giảm xuống. Trong tổng mức tăng về nhu cầu sản phẩm
thủy sản thì khoảng 46% mức tăng là do sự gia tăng dân số, số còn lại 54% là do sự
phát triển kinh tế. Nhu cầu về sản phẩm thủy sản để làm thức ăn cho động vật và gia
cầm hoặc dầu sẽ tăng 1,1%/năm trong giai đoạn 2000-2010 và 0,5% trong giai đoạn
2010-2015. Lượng thủy sản cần thiết để đáp ứng nhu cầu sản xuất thức ăn cho động
vật và cho các mục đích phi thực phẩm khác trên toàn thế giới khoảng 45.432 triệu
tấn vào năm 2015.
(Nguồn: Trung tâm thông tin và KHKT thủy sản-Bộ NN&PTNT)
25
2. Dự báo nhu cầu tiêu thụ thủy sản ở các khu vực trên thế giới đến năm
2015:
* Đối với Châu Phi
Nhu cầu thủy sản của người dân Châu Phi có thể tăng lên nhanh chóng vì ba lý
do chính như sau: (i) dân số tiếp tục tăng lên nhanh chóng (có thể là trên 2%/năm);
(ii) kinh tế tăng trưởng (iii) dinh dưỡng từ thịt cá có tầm quan trọng trong chế độ ăn
uống của người Châu Phi. Tuy nhiên, trong thập kỷ tới, sản lượng thủy sản nội địa (từ
đánh bắt và nuôi trồng) của địa phương sẽ không thể cung cấp đủ cho nhu cầu. Một
phần của nhu cầu này có thể được thỏa mãn thông qua tăng cường nhập khẩu các loài
có giá trị thấp. Dường như khá hợp rằng đến năm 2015, tổng lượng cá tiêu thụ hàng
năm ở Châu Phi có thể đạt 1,5-2,0 triệu tấn cao hơn năm 2005 nếu nguồn cung cung
cấp cá đáp ứng đủ nhu cầu. Như vậy là lượng cá tiêu thụ sẽ tăng khoảng 3% mỗi
năm. Mức tăng này có thể sẽ cao hơn bất cứ khu vực nào trên thế giới. Khoảng 70%
sự gia tăng nhu cầu xuất phát từ gia tăng dân số, điều đó có nghĩa là nhu cầu tăng
trưởng là ổn định và lớn. Cá là rất quan trọng trong chế độ ăn uống của người Châu
Phi, nó không phải là một mặt hàng cao cấp cũng như mặt hàng thấp cấp. Một số
quốc gia ở Châu Phi có mức tiêu thụ đạm từ cá cao hơn 30% so với lượng đạm từ tất
cả động vật. Như vậy, có những lý do tốt cho các chính phủ và cộng đồng quốc tế
nhằm đảm bảo các điều kiện để cho phép các hộ gia đình Châu Phi duy trì ít nhất
lượng tiêu thụ cá như hiện nay.
* Đối với các nước Mỹ La Tinh
Đến năm 2015, dân số Châu Mỹ Latin có thể tiêu thụ từ 1,0 đến 1,2 triệu tấn
cá/năm, nhiều hơn lượng tiêu thụ vào năm 2005, như vậy mức tăng trưởng về nhu
cầu sẽ trên 20%. Khoảng 60% của sự tăng trưởng này sẽ được tạo ra từ việc gia tăng
dân số. Phần đóng góp từ tăng trưởng thu nhập là tương đối khiêm tốn. Đây không
phải bởi vì thu nhập hộ gia đình sẽ không tăng - nó sẽ tăng - nhưng vì là người Mỹ
Latinh thích thịt đỏ hơn cá. Vì vậy, theo các tính toán thăm dò, đến năm 2015, trung
bình mức tiêu thụ cá theo đầu người hàng năm tại Châu Mỹ Latin sẽ tăng đến 9,2 kg
(8,7 kg vào năm 2005). Như vậy, tại hầu hết các nơi ở Châu Mỹ Latin (ngoại trừ
vùng núi Andean) sự tăng trưởng trong tiêu thụ cá sẽ xuất phát chủ yếu từ sự gia tăng
dân số và một ít do tăng trưởng kinh tế mà hầu như không phải là vì sở thích của
người dân.
* Đối với các nước Nam Á
Đến năm 2015, tổng lượng cá tiêu thụ có thể đạt 1,5-2,0 triệu tấn, cao hơn
nhiều so với năm 2005. Vấn đề tôn giáo tín ngưỡng ở khu vực Nam Á có ảnh hưởng
nhiều đến tiêu thụ thịt đỏ và cá. Có thể 70% sự tăng lên của lượng cá tiêu thụ là do
tăng về dân số. Tuy nhiên, trong một thập kỷ nay, sự phản đối của tôn giáo đối với
việc dùng cá làm thức ăn đã giảm và nhu cầu đã tăng lên. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
vừa phải (khoảng 2%/năm) sẽ tạo ra sự tăng trưởng trong việc tiêu thụ cá bình quân
đầu người, với mức tăng tương đối từ 5,5 kg vào năm 2015. Trong một số khu vực
ven biển, đặc biệt xung quanh Vịnh Bengal, cá là một nguồn dinh dưỡng quan trọng
26
trong các cộng đồng nghèo. Nơi khác trong khu vực thì nó ít quan trọng hơn. Nhu cầu
tăng trưởng có khả năng mở rộng phù hợp với nhiều mức thu nhập khác nhau. Việc
mở rộng ở tầng lớp trung lưu ngày đang gia tăng dẫn đến việc tiêu thụ loại cá thương
mại quốc tế,...
* Đối với Trung Quốc
Nếu nguồn cung cấp cá được mở rộng đồng thời với nhu cầu, đến năm 2015
lượng tiêu thụ cá hàng năm tại Trung Quốc có thể được 4,5-5,5 triệu tấn cao hơn
nhiều so với năm 2005. Việc tăng trưởng kinh tế nhanh chóng ở Trung Quốc đi đôi
với sự gia tăng dân số ở mức chậm, nghĩa là khoảng 60 phần trăm của sự gia tăng này
xuất phát từ tốc độ tăng trưởng dự kiến trong thu nhập của hộ gia đình. Bởi vì lượng
tiêu thụ cá hàng năm bình quân đầu người tại Trung Quốc là 26 kg cũng đã ở trên
mức trung bình của thế giới (khoảng 14 kg), nó có nghĩa là tốc độ tăng trưởng là
không ổn định. Bất kỳ thay đổi nào trong tình hình kinh tế có thể giảm bớt nhu cầu
tăng trưởng một cách nghiêm trọng. Tuy nhiên, mức cá tiêu thụ tại Trung Quốc có
thể thay đổi nhanh với xu hướng người dân đô thị giàu có sẽ quay mặt với các sản
phẩm kém chất lượng sang các sản phẩm chất lượng cao. Điều này sẽ dẫn đến mức
tăng trưởng khối lượng thấp hơn. Trung Quốc sản xuất nhiều cá hơn tiêu thụ, điều
này đồng nghĩa với khả năng đáp ứng của nguồn cung trong tương lai nếu nhu cầu
nội địa tiếp tục gia tăng. Hiện tại lượng cá này dùng cho mục đích xuất khẩu. Tuy
nhiên, nguồn lợi khai thác đang ngày càng cạn kiệt do đó Trung Quốc sẽ đẩy mạnh
nuôi thủy sản để thay thế.
* Đối với các nước Châu Âu, Bắc Mỹ và Nhật Bản
Mức tiêu thụ cá theo đầu người ở Nhật cao nhất thế giới với mức trên 60
kg/năm. Đối với Bắc Mỹ và Châu Âu, số lượng tương ứng lần lượt là 24 và 21 kg, cả
hai đều hơn mức trung bình của thế giới (khoảng 16 kg). Kết hợp những điều này,
các nền kinh tế phát triển đã tiêu thụ khoảng 31 triệu tấn cá trong năm 2005. Bắt đầu
từ mức độ cao này, rất cần thiết để xem xét như sau: (i) có dấu hiệu của sự sụt giảm
tiêu thụ trên đầu người ở Nhật Bản; (ii) các dự đoán của việc suy giảm dân số ở Châu
Âu và Nhật Bản; và (iii) mức tăng trưởng kinh tế chậm đáng kể cho 3 khu vực này.
Vì vậy, việc sụt giảm mức tiêu thụ cá ở Nhật Bản mặc du một phần sẽ được bù đắp
bởi sự gia tăng ở Bắc Mỹ và một ít tăng trưởng ở Châu Âu nhưng ba vùng này sẽ tiêu
thụ ít hơn 20% lượng cung cá của thế giới vào năm 2015, giảm nhiều so với hai thập
kỷ trước.
III. DỰ BÁO THỊ TRƯỜNG TIÊU THỤ THỦY SẢN NỘI ĐỊA ĐẾN NĂM
2020:
Hiện nay trên thị trường các sản phẩm thay thế khác như thịt gia cầm, gia súc
ngày càng có nhiều loại dịch bệnh có thể lây sang người, như bệnh dịch cúm gà
H5N1 ở 100 gia cầm và thủy cẩm, bệnh bò điên, bệnh lở mồm long móng ở lợn và
trâu bò.… điều đó làm cho người tiêu dùng lo ngại rất nhiều từ các loại thực phẩm
trên và thực phẩm được người tiêu dùng chọn để thay thế chính là sản phẩm thủy sản.
Căn cứ vào số liệu của FAO và một số nghiên cứu về tiêu thụ thủy sản ở Việt Nam,
27
mức tiêu dùng các sản phẩm thủy sản trung bình đầu người khoảng 24kg/người/năm.
Theo chiến lược phát triển KT-XH của Việt Nam, dân số toàn quốc năm 2010 ở mức
87,5 triệu người, dự báo đến năm 2015 con số này là 90,1 triệu người và đến năm
2020 con số này là 98,6 triệu người. Như vậy với tốc độ tăng dân số như trên và với
mức tiêu dùng thủy sản đầu người 24/kg/người/năm thì toàn quốc đến năm 2010 tiêu
thụ vào khoảng 2,10 triệu tấn, năm 2015 tiêu thụ khoảng 2,16 triệu tấn và đến năm
2020 toàn quốc tiêu thụ khoảng 2,36 triệu tấn thủy sản các loại.
Riêng khu vực ĐBSCL chiếm khoảng trên 20% mức tiêu thụ thủy sản toàn
quốc, dự báo dân số toàn vùng đến năm 2010 ở mức 17,8 triệu người, năm 2015 con
số này là 18,9 triệu người và đến năm 2020 con số này là 19,8 triệu người. Với mức
tiêu thụ thủy sản trung bình đầu người 24kg/người/năm thì năm 2010 toàn vùng tiêu
thụ khoảng 0,42 triệu tấn, năm 2015 tiêu thụ khoảng 0,45 triệu tấn, đến năm 2020
toàn vùng tiêu thụ khoảng 0,47 triệu tấn. Hiện nay 95,5% người tiêu dùng mua thủy
sản từ người bán lẻ với tỷ lệ mua rất lớn thường chiếm trên 75% tổng lượng mua.
(Nguồn số liệu của Tổng cục Thống kê, nguồn của FAO)
Theo số liệu của FAO mức tiêu thụ thủy sản đầu người toàn thế giới khoảng
18,4 kg/người/năm, như vậy đối với khách quốc tế đến Việt Nam năm 2005 tiêu thụ
khoảng 3,9 nghìn tấn thủy sản các loại, trong đó tập chung chủ yếu là mặt hàng thủy
sản tươi sống, năm 2010 tiêu thụ khoảng 7,1 nghìn tấn, năm 2015 tiêu thụ khoảng 8,9
nghìn tấn và đến năm 2020 lượng khách quốc tế đến Việt Nam sẽ tăng mạnh và mức
tiêu thụ thủy sản cho năm 2020 khoảng 10,6 nghìn tấn. Đây là điều kiện rất tốt để
NTTS trong vùng phát triển.
Tóm lại: Thị trường trong nước và thế giới còn rộng mở và đầy hấp dẫn, có
tính bề vững trong thời gian tới với các đối tượng nuôi có giá trị cao, các loài giáp
xác (tôm, cua), các loài nhuyễn thể (sò huyết, nghêu, ốc hương...) và các loài cá kinh
tế. Nếu được phát triển đúng hướng, thị trường cho NTTS (bao gồm thị trường nội
địa và xuất khẩu) của cả nước nói chung và ĐBSCL nói riêng còn nhiều thuận lợi.
Những thuận lợi đó càng được nhân lên khi trình độ chế biến thủy sản của nước ta
(đặc biệt ở khu vực ĐBSCL và thành phố Hồ Chí Minh) hiện nay đã đứng đầu trong
khu vực và trên thế giới.
28
PHẦN V
ÐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN VÙNG SẢN XUẤT THỦY SẢN
ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ CAO TỈNH AN GIANG
ĐẾN NĂM 2020 VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2030
I. QUAN ĐIỂM QUY HOẠCH:
(1) Quy hoạch vùng sản xuất thủy sản ứng dụng công nghệ cao phải phù hợp
với: Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội chung của tỉnh; Quy hoạch tổng thể phát
triển ngành thủy sản Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030; Quy hoạch
phát triển sản xuất và tiêu thụ cá tra vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2010
và định hướng đến năm 2020; Quy hoạch tổng thể ngành nông nghiệp; Quy hoạch
vùng chuyên canh sản xuất hàng hóa theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng và
đặc biệt tăng giá trị, tăng khả năng cạnh tranh, tiếp tục đưa lĩnh vực thủy sản của tỉnh
thành một ngành sản xuất hàng hóa quy mô lớn, hiệu quả và bền vững.
(2) Quy hoạch vùng sản xuất thủy sản ứng dụng công nghệ cao trên cơ sở khai
thác, sử dụng hiệu quả lợi thế tiềm năng; gắn kết chặt chẽ giữa sản xuất, chế biến và
tiêu thụ trong nước thông qua chuỗi giá trị sản xuất. Đối với các sản phẩm xuất khẩu
gắn kết chặt chẽ giữa sản xuất nguyên liệu với công nghiệp bảo quản, chế biến và thị
trường xuất khẩu gắn liền với các vùng sản xuất tập trung.
(3 Quy hoạch vùng sản xuất thủy sản ứng dụng công nghệ cao góp phần nâng
cao mức sống, điều kiện sống của cộng đồng ngư dân, cùng với quá trình điều chỉnh,
sắp xếp lại dân cư; Đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu sản xuất với
trình độ kỹ thuật ngày càng tiên tiến.
(4) Quy hoạch vùng sản xuất thủy sản ứng dụng công nghệ cao trong mối quan
hệ kết hợp hài hòa lợi ích với các ngành kinh tế khác, thích ứng với biến đổi khí hậu,
chú trọng bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao giá trị và hiệu quả kinh tế.
(5) Quy hoạch vùng sản xuất thủy sản ứng dụng công nghệ cao trên cơ sở tăng
cường năng lực quản lý nhà nước tiếp tục đổi mới tư duy, tiếp cận thị trường, không
ngừng cải cách thủ tục hành chính. Phát triển các hình thức kinh tế hợp tác, kinh tế
tập thể, tăng cường vai trò quản lý cộng đồng, vai trò của các Hội, Hiệp hội ngành
nghề trong sản xuất thủy sản.
II. MỤC TIÊU VÀ MỘT SỐ CHỈ TIÊU QUY HOẠCH:
1. Mục tiêu:
Phát triển các vùng sản xuất thủy sản theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, nâng cao chất lượng, giá trị, đạt hiệu quả cao. Phát triển mạnh khoa học và công
nghệ, đặc biệt ứng dụng, chuyển giao, hợp tác nghiên cứu các công nghệ cao trong
sản xuất giống, nuôi thương phẩm, trở thành ngành sản xuất chủ lực cung cấp nguyên
29
liệu cho chế biến xuất khẩu và tiêu dùng trong nước; Đồng thời, góp phần tạo công
ăn việc làm, tăng thu nhập cho nông, ngư dân, tăng trưởng kinh tế và an sinh xã hội,
góp phần xóa đói giảm nghèo ở các địa phương.
2. Một số chỉ tiêu chủ yếu:
- Tổng diện tích đất nuôi trồng thủy sản ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020 là
930 ha, trong đó:
+ Cá tra khoảng 300 ha tương ứng với sản lượng đạt khoảng 135.000
tấn
+ Tôm càng xanh khoảng 300 ha tương ứng với sản lượng khoảng 750
tấn
+ Cá lóc khoảng 150 ha tương ứng với sản lượng khoảng 30.000 tấn
+ Cá sặc rằn khoảng 30 ha tương ứng với sản lượng khoảng 900 tấn
+ Cá điêu hồng, lươn, cá hô, cá thác lát khoảng 50 ha tương ứng với sản
lượng khoảng 20.000 tấn
+ Sản xuất giống: 100 ha
- Kim ngạch xuất khẩu đến năm 2020 đạt khoảng 175 triệu
- Tổng diện tích đất nuôi trồng thủy sản ứng dụng công nghệ cao đến năm 2030 là
1.500 ha, trong đó:
+ Cá tra khoảng 500 ha tương ứng với sản lượng đạt khoảng 225.000
tấn
+ Tôm càng xanh khoảng 500 ha tương ứng với sản lượng khoảng 1.250
tấn
+ Cá lóc khoảng 250 ha tương ứng với sản lượng khoảng 50.000 tấn
+ Cá sặc rằn khoảng 50 ha tương ứng với sản lượng khoảng 1.500 tấn
+ Cá điêu hồng, lươn, cá hô, cá thác lát khoảng 100 ha tương ứng với
sản lượng khoảng 40.000 tấn
+ Sản xuất giống khoảng 100 ha
- Tổng kim ngạch xuất khẩu đến năm 2030 đạt khoảng 291,6 triệu USD
30
III. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN VÙNG SẢN XUẤT THỦY SẢN ỨNG DỤNG
CÔNG NGHỆ CAO TỈNH AN GIANG ĐẾN NĂM 2020 VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN
NĂM 2030
1. Vị trí và vùng nuôi:
a) Vị trí:
- Nuôi trong ao:
+ Gồm đất cù lao trên các sông lớn (sông Tiền và sông Hậu)
+ Gồm đất ven sông lớn, cách bờ nhỏ hơn 500 mét;
+ Gồm đất ven các sông nhánh, cách bờ không quá 400 mét.
- Nuôi trên ruộng
- Nuôi trên buồn, bể
b) Vùng nuôi:
- Đối với cá tra: vùng phát triển chính thành phố Long Xuyên và các huyện:
Thoại Sơn, Tân Châu, Châu Thành, Châu Phú, Chợ Mới và Phú Tân;
- Đối với tôm càng xanh: nuôi trên ruộng vùng phát triển chính các huyện:
Thoại Sơn và Châu Phú
- Đối với cá lóc: 11 huyện, thị xã, thành phố
- Đối với cá sặc rằn: vùng phát triển chính huyện An Phú và Châu Phú
- Đối với cá điêu hồng, cá hô, cá thát lát: vùng phát triển chính: Châu thành,
Chợ Mới, Châu đốc, An Phú. Long Xuyên.
- Đối với lươn: 11 huyện, thị xã, thành phố
2. Đối tượng nuôi:
- Đối tượng chủ lực: cá tra, tôm càng xanh
- Các loại thủy sản khác: cá lóc, cá sặc rằn, cá điêu hồng, lươn, cá hô, cá thác
lát: phát triển gắn với chuỗi giá trị, ứng với từng địa phương có điều kiện tự nhiên
thích hợp để phát triển.
3. Đất nuôi trồng thủy sản:
Theo Quy hoạch sử dụng đất tỉnh An Giang đến năm 2020, đất nuôi trồng thủy
sản đến năm 2020 là 7.769 ha, tăng 3.749 ha so với năm 2010, được lấy từ đất trồng
lúa 1.499 ha, đất trồng màu 930 ha, đất trồng cây lâu năm 1.020 ha và đất mặt nước
chuyên dùng 300 ha (thuộc các xã cù lao sông Tiền, sông Hậu, sông Vàm Nao). Diện
tích đất thủy sản không thay đổi trong kỳ là 4.019 ha.
31
Trong tổng số 7.769 ha đất NTTS, Thoại Sơn chiếm tỷ lệ lớn nhất – 18%, kế
tiếp là Phú Tân 14%, Châu Phú 13%, Chợ Mới 13%, Tân Châu 10%, Long Xuyên
9%, Châu Thành 8%, các địa phương còn lại (An Phú, Châu Đốc, Tịnh Biên, Tri
Tôn) chiếm 16%. Nếu trừ diện tích ao xử lý thải (dao động từ 15 – 25% diện tích ao
nuôi) thì diện tích tối đa dành cho NTTS là 6.215 – 6.755 ha.
Bảng tổng hợp: Khả năng khai thác đất nuôi trồng thủy sản
Dự báo
DT NTTS
năm 2020
(ha)
Đất NTTS
năm 2020* DT đất NTTS tối đa
Quy mô
(ha)
Tỷ lệ
(%)
Sau khi trừ
15% DT xử
thải
Sau khi trừ
25% DT xử
thải
(1) (2) (3) (4) (5)
Toàn tỉnh 3.570 7.769 100 6.755 6.215
Long Xuyên 370 720 9 626 576
Châu Đốc 60 366 5 318 293
An Phú 160 501 6 436 401
Tân Châu 280 762 10 663 610
Phú Tân 350 1.080 14 939 864
Châu Phú 600 1.011 13 879 809
Tịnh Biên 40 193 2 168 154
Tri Tôn 50 153 2 133 122
Châu Thành 350 630 8 548 504
Chợ Mới 550 992 13 863 794
Thoại Sơn 760 1.361 18 1.183 1.089
Tổng cộng
(Quy hoạch sử dụng đất tỉnh An Giang đến năm 2020)
4. Quy mô phát triển vùng nuôi trồng thủy sản ứng dụng công nghệ cao
đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.
a) Sản xuất giống:
Quy hoạch các trại sản xuất giống theo khu vực nhằm chủ động phục vụ cho
các vùng nuôi trong tỉnh và các tỉnh lân cân, nhằm giảm kinh phí vận chuyển và chủ
động kiểm soát được nguồn giống tại chỗ. Hình thành các cụm sản xuất giống tập
trung, nâng cấp quy mô các Trại, vệ tinh sản xuất giống hiện có; đồng thời khuyên
khích người dân xây dựng các Trại sản xuất với quy mô lớn đáp ứng các điều kiện,
quy định về sản xuất giống đạt yêu cầu về số lượng và chất lượng. Song song đó, tập
trung nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao (trong và ngoài nước) một số giống loài có
thể áp dụng ngay vào sản xuất, tiến tới làm chủ công nghệ để chủ động cung cấp
nguồn giống chất lượng phục vụ người nuôi trên địa bàn tỉnh.
32
- Cụm sản xuất giống các huyện Phú Tân, Chợ Mới, Tân Châu
- Cụm sản xuất giống các huyện An Phú, Châu Đốc, Châu Phú
- Cụm sản xuất giống các huyện Châu Thành, Long Xuyên, Thoại Sơn
Bảng 2: Quy hoạch sản xuất giống ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020
và định hướng đến năm 2030 phân theo huyện, thị, thành.
Sản xuất giống
năm 2020 năm 2030
số cơ sở
Năng lực
(triệu
bột/năm)
số cơ sở
Năng lực
(triệu
bột/năm)
Toàn tỉnh 9 350 15 600
Long Xuyên 1 2
Tân Châu 2 3
Phú Tân 1 1
Châu Phú 1 2
Châu Thành 1 2
Chợ Mới 1 1
Thoại Sơn 2 4
Các cơ sở, trại sản xuất giống hiện nay sẽ được rà soát lại để cấp phép cho hoạt
động với điều kiện phải đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật để sản xuất giống đảm
bảo chất lượng. Đối với các trại, cơ sở không đạt yêu cầu về kỹ thuật cần có biện
pháp quản lý chặt chẽ nhằm hạn chế đến mức thấp nhất giống có chất lượng không
tốt đưa ra thị trường; ảnh hưởng đến môi trường, dịch bệnh và hiệu quả sản xuất.
Công suất trung bình 1 trại sản xuất giống cá tra đạt 50 triệu cá bột và tôm
càng xanh 10 triệu tôm post vào năm 2020 và đạt 100 triệu cá tra bột và 20 triệu tôm
post vào năm 2030. Đến năm 2020, có ít nhất từ 4 - 5 Trại, đến năm 2030, có ít nhất
từ 10 -15 Trại sản xuất giống quy mô vừa và lớn chứng nhận đạt tiêu chuẩn tiên tiến
(Global GAP, ASC,…).
33
b) Diện tích:
- Tổng diện tích đất nuôi trồng thủy sản ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020 là
930 ha, chiếm 11,9% theo Quy hoạch sử dụng đất tỉnh An Giang đến năm 2020.
Trong đó: cá tra khoảng 300 ha (chiếm 3,86%), Tôm càng xanh khoảng 300 ha
(3,86%), cá lóc khoảng 150 ha (1,93%), cá sặc rằn khoảng 30 ha, cá điêu hồng, lươn,
cá hô, cá thác lát khoảng 50 ha, Sản xuất giống: 100 ha.
- Tổng diện tích đất nuôi trồng thủy sản ứng dụng công nghệ cao đến năm 2030 là
1.500 ha, chiếm khoảng 19,3% Quy hoạch sử dụng đất tỉnh An Giang đến năm 2020.
Trong đó: cá tra khoảng 500 ha (6,43%), Tôm càng xanh khoảng 500 ha (6,43%), cá
lóc khoảng 250 ha (3,21%), cá sặc rằn khoảng 50 ha, cá điêu hồng, lươn, cá hô, cá
thác lát khoảng 100 ha, sản xuất giống: 100 ha
Bảng 3: Tổng hợp diện tích nuôi trồng thủy sản ứng dụng công nghệ cao
đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030.
Chỉ tiêu
ĐVT 2020 2030
Ghi chú
Cá tra ha 300 500
Tôm càng xanh ha 300 500
Cá lóc ha 150 250
Cá sặc rằn ha 30 50
Cá thát lát, cá điêu
hồng, cá hô, lươn ha 50 100
Sản xuất giống ha 100 100
Tổng cộng 930 1.500
Dựa trên lợi thế về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng phục vụ cho
nuôi trồng thủy sản của các địa phương, dự kiến phân bổ diện tích nuôi của các đối
tượng thủy sản ứng dụng công nghệ cao của tỉnh đến năm 2020 và định hướng đến
năm 2030 như sau:
* Đối với cá tra:
Diện tích nuôi cá tra đến năm 2020 đạt khoảng 300 ha, đến năm 2030 đạt
khoảng 500, vùng phát triển chính tại các huyện: Thoại Sơn, Tân Châu, Châu Thành,
Châu Phú, Chợ Mới và Phú Tân và thành phố Long Xuyên.
34
Bảng 4: Tổng hợp diện tích nuôi cá tra ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020
và định hướng đến năm 2030 phân theo huyện, thị, thành.
Cá tra (ha) 2020 2030
Toàn tỉnh 300 500
Long Xuyên 50 100
Tân Châu 50 75
Phú Tân 25 50
Châu Phú 50 75
Châu Thành 50 75
Chợ Mới 50 75
Thoại Sơn 25 50
* Đối với tôm càng xanh: chủ yếu nuôi trên ruộng tập trung tại 02 huyện:
Thoại Sơn và Châu Phú.
Bảng 5: Tổng hợp diện tích nuôi tôm càng xanh ứng dụng công nghệ cao
đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 phân theo huyện, thị, thành.
Tôm càng xanh
(ha) 2020 2030
Toàn tỉnh 300 500
Châu Phú 50 80
Thoại Sơn 250 420
* Đối với cá sặc rằn: vùng phát triển chính ở huyện An Phú và Châu Phú
Bảng 6: Tổng hợp diện tích nuôi cá sặc rằn ứng dụng công nghệ cao
đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 phân theo huyện, thị, thành.
Chỉ tiêu 2020 2030
Cá sặc rằn 30 50
An Phú 30 40
Châu Phú 10
35
* Đối với cá lóc: phát triển ở 11 huyện, thị xã, thành phố
Bảng 7: Diện tích nuôi cá lóc ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020
và định hướng đến năm 2030 phân theo huyện, thị, thành.
Chỉ tiêu 2020 2030
Cá lóc 150 250
Long Xuyên 20 30
Châu Đốc 7 10
An Phú 20 30
Tân Châu 10 20
Phú Tân 20 30
Châu Phú 10 15
Tịnh Biên 20 30
Tri Tôn 3 5
Châu Thành 15 30
Chợ Mới 10 20
Thoại Sơn 15 30
* Các đối tượng thủy sản khác như: cá điêu hồng, cá hô, cá thác lát và lươn
phát triển ở 11 huyện, thị xã, thành phố
Bảng 8: Diện tích nuôi cá điêu hồng, lươn, cá hô, cá thác lát ứng dụng công
nghệ cao đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 phân theo huyện, thị, thành.
Chỉ tiêu 2020 2030
Cá: điêu hồng, hô,
thát lát; lươn 50 100
Long Xuyên 5 10
Châu Đốc 5 10
An Phú 5 10
Tân Châu 5 10
Phú Tân 5 10
Châu Phú 5 10
Tịnh Biên 3 5
36
Tri Tôn 2 5
Châu Thành 5 10
Chợ Mới 5 10
Thoại Sơn 5 10
Bảng 9: Diện tích nuôi trồng thủy sản ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020
và định hướng đến năm 2030 so với quy hoạch phát triển
sản xuất và tiêu thụ cá tra vùng ĐBSCL đến năm 2020 (gọi tắt là QH vùng)
Chỉ tiêu
ĐVT 2020
So với QH
vùng 2030
Cá tra ha 300 300/2500
(12%) 500
Tôm càng xanh ha 300 500
Cá lóc ha 150 250
Cá sặc rằn ha 30 50
Cá thát lát, cá điêu
hồng, cá hô, lươn ha 50 100
Sản xuất giống ha 100 100
Tổng cộng ha 930 37,2% 1.500
Nhìn chung: diện tích quy hoạch để phát triển các vùng nuôi trồng thủy sản
ứng dụng công nghệ cao của tỉnh đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 đều
nằm quỹ đất dùng để nuôi trồng thủy sản của tỉnh cũng như nằm trong quy hoạch
phát triển sản xuất và tiêu thụ cá tra vùng ĐBSCL đến năm 2010 và định hướng đến
năm 2020.
c) Sản lượng:
Bảng 10: Tổng hợp các phương án dự kiến sản lượng thủy sản
đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.
ĐVT: tấn
Chỉ tiêu 2020 2030
PA 1 PA2 PA3 PA 1 PA2 PA3
Cá tra 90.000 135.000 180.000 150.000 225.000 300.000
37
Tôm càng xanh 360 750 900 600 1250 1500
Các loài thủy sản
khác: cá lóc, cá sặc
rằn, cá thát lát, cá điêu
hồng, cá hô, ốc, lươn
38.100 50.900 63.700 68.500 91.500 114.500
Tổng cộng 128.460 186.650 244.600 219.100 317.750 416.000
Các phương án sản lượng nuôi trồng thủy sản ứng dụng công nghệ cao của
tỉnh đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 như sau:
* Phương án 1: dự kiến năng suất trung bình cá tra là 300 tấn/ha/vụ; Tôm càng
xanh là 1,2 tấn/ha/vụ, cá lóc 150 tấn/ha/vụ, cá sặc rằn 20 tấn/ha/vụ,…. Đây là phương
án nuôi trồng thủy sản trong điều kiện bình thường.
* Phương án 2: dự kiến năng suất trung bình cá tra là 450 tấn/ha/vụ; Tôm càng
xanh là 2,5 tấn/ha/vụ, cá lóc 200 tấn/ha/vụ, cá sặc rằn 30 tấn/ha/vụ,…. Đây là phương
án dự kiến sẽ đạt được trong thời gian tới với việc: Áp dụng đồng loạt các giải pháp
về khoa học kỹ thuật (cải thiện, hoàn chỉnh quy trình, quy chuẩn, tiêu chuẩn,….)
trong quá trình ương, sản xuất giống và nuôi thương phẩm; Nghiên cứu, ứng dụng và
chuyển giao con giống của một số đối tượng từ các Viện, Trường trong nước hoặc
một số nước có sản xuất thủy sản tiên tiến trên thế giới phù hợp với điều kiện của tỉnh
để nuôi thương phẩm; Tăng giá trị sản phẩm (> 30%) trên một đơn vị diện tích
nuôi,…. đồng thời đi kèm với sản xuất là các giải pháp bảo vệ môi trường,…
* Phương án 3: dự kiến năng suất trung bình cá tra là 600 tấn/ha/vụ; Tôm càng
xanh là > 3 tấn/ha/vụ, cá lóc 250 tấn/ha/vụ, cá sặc rằn 40 tấn/ha/vụ,…. Đây là phương
án dự kiến có thể đạt được trong thời gian tới, tuy nhiên, đòi hỏi phải thực hiện trong
điều kiện:
- Áp dụng tối ưu đồng loạt các giải pháp về khoa học kỹ thuật (cải thiện, hoàn
chỉnh quy trình, quy chuẩn, tiêu chuẩn,….) trong quá trình ương, sản xuất giống và
nuôi thương phẩm;
- Chủ động hoàn toàn con giống các đối tượng nuôi với số lượng, chất lượng
cao trong sản xuất.
- Giá trị có thể tăng ( > 50%) trên một đơn vị diện tích nuôi.
- Có thể ảnh hưởng đến môi trường, nhất là môi trường nước trong nuôi trồng
thủy sản, sinh hoạt,…nếu chưa có giải pháp triệt để để xử lý các nguồn ô nhiễm.
- Người nuôi đạt trình độ cao.
38
* Qua 03 phương án nêu trên, lựa chọn phương án 2 để đưa vào thực hiện
trong quy hoạch bởi vì:
- Khai thác điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên trong nuôi trồng thủy sản
có giới hạn, đảm bảo hài hòa lợi ích.
- Thực trạng nuôi trồng thủy sản trong thời gian qua.
- Đang tiếp cận và áp dụng các giải pháp về khoa học kỹ thuật (cải thiện, hoàn
chỉnh quy trình, quy chuẩn, tiêu chuẩn,….) trong quá trình ương, sản xuất giống và
nuôi thương phẩm; Nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao con giống của một số đối
tượng từ các Viện, Trường trong nước hoặc một số nước có sản xuất thủy sản tiên
tiến trên thế giới phù hợp với điều kiện của tỉnh để nuôi thương phẩm.
- Nâng dần trình độ, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất của người dân.
- Tăng giá trị sản phẩm (> 30%) trên một đơn vị diện tích nuôi,….
Bảng 11: Sản lượng nuôi trồng thủy sản ứng dụng công nghệ cao
đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 so với QH vùng
Chỉ tiêu ĐVT 2020 So với QH vùng 2030
Cá tra tấn 135.000 135.000 /375.000
(36%) 225.000
Tôm càng xanh tấn 750 1250
Các loài thủy sản
khác: cá lóc, cá sặc
rằn, cá thát lát, cá điêu
hồng, cá hô, ốc, lươn
tấn 50.900 91.500
Tổng cộng 186.650 317.750
5. Chế biến, xuất khẩu và thị trường:
a) Chế biến và xuất khẩu:
Bảng 12: Sản lượng nuôi trồng, chế biến, xuất khẩu thủy sản ứng dụng công nghệ
cao đến năm 2020 và định hướng năm 2030 so với QH vùng
Cá tra 2020 So với QH vùng 2030
Sản lượng nuôi (tấn) 135.000 135.000/375.000 225.000
39
(36%)
Sản lượng SPCB (tấn) 50.000 50.000/150.000
(33,3%) 83.333
Kim ngạch (triệu USD) 175 291,6
Tính đến hết năm 2013, toàn tỉnh hiện 17 công ty với 23 Nhà máy chế biến
thủy sản xuất khẩu với công suất thiết kế > 330.000 tấn thành phẩm đáp ứng với nhu
cầu nguyên liệu khoảng 01 triệu tấn. Với sản lượng nuôi trồng thủy sản ứng dụng
công nghệ cao đến năm 2020 là 135.000 tấn tương đương 50.000 tấn chế biến thành
phẩm, định hướng đến năm 2030 là 225.000 tấn tương đương 83.333 tấn thì các nhà
máy chế biến thủy sản của tỉnh hoàn toàn có khả năng đáp ứng nhu cầu.
b) Thị trường tiêu thụ:
Ổn định thị phần ở những thị trường hiện có, mở rộng sang các thị trường mới,
thị trường tiềm năng như Châu Phi, Nam Mỹ, Trung Đông. Đến năm 2020, trong
tổng khối lượng xuất khẩu dự kiến là 150.000-200.000 tấn (bao gồm cả nuôi trồng
thủy sản ứng dụng công nghệ cao và bình thường) thì Mỹ chiếm 35% (giảm 10% so
với năm 2013); ổn định thị trường châu Á khoảng 30 % (hiện nay chiếm 31%), tăng
thị trường châu Âu từ 20% lên 30%; thị trường các nước khác chiếm khoảng 5%.
6. Cơ sở hạ tầng và khoa học công nghệ:
Đầu tư cơ sở hạ tầng đồng bộ, áp dụng các quy trình công nghệ tiến tiến, khoa
học kỹ thuật trong sản xuất giống, nuôi thương phẩm,… để nuôi trồng thủy sản theo
hướng nâng cao năng suất, chất lượng và đặc biệt tăng giá trị, tăng khả năng cạnh
tranh, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường sinh thái.
III. DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI, DỰ ÁN (đính kèm phụ lục)
IV. HIỆU QUẢ QUY HOẠCH:
Quy hoạch vùng sản xuất thủy sản ứng dụng công nghệ cao sẽ đạt được một số
hiệu quả như sau:
- Góp phần tăng giá trị > 30% trên một diện tích sản xuất.
- Tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên phù hợp với xu hướng biến đổi khí hậu, nước
biển dâng trong tương lai.
- Nâng cao trình độ ứng dụng, hợp tác chuyển giao khoa học công nghệ vào sản
xuất, đặc biệt là công nghệ cao trong lĩnh vực giống, nuôi trồng, chế biến và xuất
khẩu thủy sản.
- Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nền sản xuất nông nghiệp; Góp phần tăng trưởng kinh tế, an
sinh xã hội và giải quyết lao động và việc làm ở các địa phương.
40
PHẦN VI
CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
I. Giải pháp về Quy hoạch:
- Quy hoạch vùng sản xuất thủy sản ứng dụng công nghệ cao phải phù hợp với
Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội chung của tỉnh; Quy hoạch tổng thể phát triển
ngành thủy sản Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030; Quy hoạch sản
xuất và tiêu thụ cá tra vùng đồng bằng sông Cửu Long; Quy hoạch tổng thể ngành
nông nghiệp; Quy hoạch vùng chuyên canh sản xuất hàng hóa.
- Trên cơ sở quy hoạch vùng sản xuất thủy sản ứng dụng công nghệ cao được
phê duyệt, các địa phương rà soát, điều chỉnh và tổ chức thực hiện quy hoạch; Các
địa phương phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn lập danh mục các
dự án ưu tiên về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các vùng nuôi tập trung; chú
trọng đầu tư đảm bảo gắn kết giữa thủy lợi phục vụ nông nghiệp và thủy sản, phòng
chống thiên tai, thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu.
- Thực hiện công bố công khai Quy hoạch vùng sản xuất thủy sản ứng dụng
công nghệ cao, đồng thời kiểm tra thực hiện quy hoạch một cách thường xuyên và có
biện pháp xử lý kiên quyết đối với các trường hợp nuôi trồng thủy sản không theo
quy hoạch, đảm bảo quản lý chặt chẽ việc thực hiện quy hoạch.
II. Giải pháp về giống:
1) Đối với cá tra:
- Tuyển chọn giống cá tra cải thiện di truyền về tốc độ tăng trưởng và fillet,
đồng thời xây dựng, hoàn thiện, hoàn chỉnh các quy trình sản xuất giống cá tra để
nâng cao năng suất và chất lượng con giống cá tra nhằm có quy trình chuẩn để sinh
sản, ương nuôi giống đạt chất lượng cao phục vụ cho hộ nuôi và doanh nghiệp.
- Có chính sách hỗ trợ để các Trại sản xuất giống mở rộng, nâng cao chất
lượng. Khuyến khích các cá nhân và tổ chức xây dựng trại sản xuất giống đáp ứng
tiêu chuẩn tiên tiến (Global GAP, ASC,…). Đến năm 2020, có ít nhất từ 4 - 5 Trại,
đến năm 2030, có ít nhất từ 10 -15 Trại sản xuất giống quy mô vừa và lớn chứng
nhận đạt tiêu chuẩn tiên tiến (Global GAP, ASC,…).
- Khuyến khích các cơ sở sản xuất giống tư nhân củng cố và mở rộng quy mô,
có chính sách hỗ trợ cụ thể (vay vốn tín dụng ưu đãi hoặc bù lãi, miễn giảm thuế thu
nhập, tập huấn và chuyển giao công nghệ mới, tiên tiến, hướng dẫn biện pháp phòng
chống dịch bệnh, sản xuất giống sạch bệnh), đẩy mạnh việc thực hiện xã hội hóa
công tác sản xuất giống nhằm đảm bảo cung cấp đủ cho nhu cầu sản xuất.
41
- Hoàn thiện hệ thống sản xuất giống từ vệ tinh đến các cơ sở sản xuất giống tư
nhân, loại bỏ dần các cơ sở ương, sản xuất giống không đạt chất lượng (thông qua các
quy định về chất lượng, tiêu chuẩn, quy chuẩn,…).
2) Đối với tôm càng xanh:
- Nghiên cứu, hoàn chỉnh, ứng dụng quy trình ương, sản xuất giống tôm càng
xanh toàn đực từ các Viện, Trường hoặc hợp tác nghiên cứu, chuyển giao con giống,
kỹ thuật ương, sản xuất giống tôm càng xanh ngoài nước (có nghề nuôi và sản xuất
giống tiên tiến) đã qua cải thiện di truyền về tốc độ tăng trưởng để đáp ứng con giống
đạt chất lượng cao cung cấp cho hộ nuôi và doanh nghiệp.
- Mở rộng thêm các trại giống đã có, xây dựng thêm các trại mới, khuyến
khích các cá nhân và tổ chức xây dựng trại sản xuất giống (phải tuân thủ quy định của
một trại sản xuất giống).
- Khuyến khích các cơ sở sản xuất giống tư nhân củng cố và mở rộng quy mô,
có chính sách hỗ trợ cụ thể (vay vốn tín dụng ưu đãi hoặc bù lãi, miễn giảm thuế thu
nhập, tập huấn và chuyển giao công nghệ mới, tiên tiến, hướng dẫn biện pháp phòng
chống dịch bệnh, sản xuất giống sạch bệnh), đẩy mạnh việc thực hiện xã hội hóa
công tác sản xuất giống nhằm đảm bảo cung cấp đủ cho nhu cầu sản xuất.
3) Đối với cá lóc:
- Tuyển chọn giống, hoàn thiện các quy trình sinh sản nhân tạo cá lóc để sinh
sản, ương nuôi giống đạt chất lượng cao, có khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu
phục vụ cho người hộ nuôi và doanh nghiệp.
- Khuyến khích các cá nhân và tổ chức xây dựng trại sản xuất giống cá lóc đáp
ứng yêu cầu về chất lượng (các quy chuẩn, tiêu chuẩn, quy định của nhà nước).
4) Đối với cá sặc rằn:
- Nghiên cứu lai tạo và tuyển chọn đàn cá sặc rằn bố mẹ chất lượng cao; hoàn
thiện các quy trình sinh sản nhân tạo cá sặc rằn để có quy trình chuẩn để sinh sản,
ương nuôi giống đạt chất lượng cao cung cấp cho hộ nuôi và doanh nghiệp.
- Khuyến khích các cá nhân và tổ chức xây dựng trại sản xuất giống cá sặc rằn
đáp ứng yêu cầu về chất lượng (các quy chuẩn, tiêu chuẩn, quy định của nhà nước).
5) Đối với cá điêu hồng:
- Chuyển giao giống cá điêu hồng trong và ngoài nước (có nghề nuôi và sản
xuất giống tiên tiến) đã qua cải thiện di truyền về tốc độ tăng trưởng để đáp ứng con
giống đạt chất lượng cao cung cấp cho hộ nuôi.
- Mở rộng thêm các trại giống đã có, xây dựng thêm các trại mới, khuyến
khích các cá nhân và tổ chức xây dựng trại sản xuất giống (phải tuân thủ quy định của
một trại sản xuất giống).
42
6) Đối với lươn:
- Hoàn thiện các quy trình sinh sản nhân tạo lươn để đánh giá chất lượng con
giống lươn nhằm có quy trình chuẩn để sinh sản, ương nuôi giống đạt chất lượng
cung cấp cho hộ nuôi.
- Khuyến khích các cá nhân và tổ chức xây dựng trại sản xuất lươn giống đáp
ứng yêu cầu về chất lượng (các quy chuẩn, tiêu chuẩn, quy định của nhà nước).
7) Đối với cá hô, cá thác lát:
- Hoàn thiện các quy trình sinh sản nhân tạo các loại giống cá hô, cá thác lát để
đánh giá chất lượng con giống nhằm có quy trình chuẩn để sinh sản, ương nuôi giống
đạt chất lượng cung cấp cho hộ nuôi.
- Khuyến khích các cá nhân và tổ chức xây dựng trại sản xuất giống cá hô, cá
thác lát đáp ứng yêu cầu về chất lượng (các quy chuẩn, tiêu chuẩn, quy định của nhà
nước).
III. Giải pháp về thị trường tiêu thụ:
1) Đối với cá tra:
- Tập trung phát triển và giữ vững các thị trường truyền thống, các thị trường
lớn như: EU, Mỹ, Nhật Bản... và các thị trường mới, có tiềm năng như: Trung Quốc,
Đông Âu, Trung Đông, Bắc Phi, Nam Mỹ.
- Đổi mới hoạt động xúc tiến thương mại, đa dạng hóa hình thức tiếp cận thị
trường và giới thiệu sản phẩm. Tiếp tục xây dựng và phát triển năng lực dự báo về thị
trường thủy sản thế giới trên các mặt: giá cả và chủng loại sản phẩm, nhu cầu và xu
hướng tiêu thụ, biến động thị trường và yêu cầu chất lượng sản phẩm để kịp thời cung
cấp cho doanh nghiệp và người sản xuất.
- Chuyển hướng từ xuất khẩu cho các nhà nhập khẩu sang xuất khẩu trực tiếp
cho hệ thống phân phối, các siêu thị thông qua chuỗi giá trị đã được hình thành.
- Tăng cường phát triển thị trường đối với các sản phẩm gia tăng từ cá tra.
2) Đối với tôm càng xanh:
- Đầu tư phát triển thị trường trong nước, xuất khẩu làm tiền đề cho sản xuất
quy mô lớn; tổ chức hệ thống buôn bán thủy sản ở các siêu thị, đô thị, các vùng công
nghiệp tập trung theo hướng văn minh và hiện đại, góp phần ổn định sản xuất khi thị
trường xuất khẩu gặp khó khăn.
- Tiếp tục xây dựng và triển khai đầy đủ các chương trình đảm bảo an toàn vệ
sinh thực phẩm thủy sản theo hệ thống từ sản xuất đến tiêu dùng cho các cơ sở sản
xuất kinh doanh thủy sản nội địa.
3) Đối với cá lóc, cá sặc rằn, cá điêu hồng, lươn:
- Tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị sản phẩm, trong đó doanh nghiệp đóng
vai trò hạt nhân liên kết và tổ chức chuỗi. Khuyến khích phát triển hình thức ký kết
hợp đồng giữa doanh nghiệp với người nuôi hoặc với đại diện của nhóm hộ người
43
nuôi (Hợp tác xã, Chi hội,…) trong đó có sự chia sẻ lợi nhuận, rủi ro với nhau để
người nuôi an tâm sản xuất đồng thời doanh nghiệp có nguồn nguyên liệu ổn định để
chế biến và tiêu.
- Đầu tư phát triển thị trường tiêu thụ trong nước với các hình thức tiêu thụ
khác nhau thông qua các chợ đầu mối, siêu thị góp phần ổn định sản xuất khi thị
trường xuất khẩu gặp khó khăn.
4) Đối với cá hô, cá thác lát:
- Đầu tư phát triển thị trường tiêu thụ trong nước với các hình thức tiêu thụ
khác nhau thông qua các chợ đầu mối, siêu thị góp phần ổn định sản xuất khi thị
trường xuất khẩu gặp khó khăn.
- Tiếp tục xây dựng và triển khai đầy đủ các chương trình đảm bảo an toàn vệ
sinh thực phẩm thủy sản theo hệ thống từ sản xuất đến tiêu dùng cho các cơ sở sản
xuất kinh doanh thủy sản nội địa.
IV. Giải pháp về tổ chức sản xuất:
- Tổ chức lại sản xuất theo chuỗi giá trị sản phẩm, từ ao nuôi đến thị trường
tiêu thụ, trong đó doanh nghiệp thu mua, chế biến, tiêu thụ đóng vai trò hạt nhân liên
kết và tổ chức chuỗi. Khuyến khích phát triển hình thức ký kết hợp đồng giữa doanh
nghiệp chế biến, tiêu thụ với người nuôi hoặc với đại diện của nhóm hộ người nuôi,
với các tổ chức kinh tế hợp tác của nông, ngư dân. Người nuôi ổn định phát triển sản
xuất khi tham gia liên kết với doanh nghiệp đảm bảo thị trường tiêu thụ. Doanh
nghiệp chế biến, tiêu thụ cùng chia sẻ lợi nhuận, rủi ro với người nuôi, đồng thời
cũng yên tâm phát triển sản xuất, mở rộng thị trường.
- Tổ chức lại các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, phân tán theo hình thức quản lý có sự
tham gia của cộng đồng, trong đó chú trọng các mô hình kinh tế hợp tác, các hội, hiệp
hội ngành nghề nhằm tăng cường giúp đỡ nhau trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và
chung tay bảo vệ môi trường vì sự phát triển bền vững của cộng đồng.
- Tăng cường công tác vận động, tập hợp cộng đồng nông, ngư dân tham gia
các tổ chức xã hội nghề nghiệp như: Chi hội nghề cá, Chi hội nuôi thủy sản, Chi hội
sản xuất giống… để bảo vệ quyền lợi và giúp đỡ nhau trong sản xuất, tiêu thụ sản
phẩm, đồng thời tăng cường sự giám sát tuân thủ quy định pháp luật của cộng đồng,
góp phần hỗ trợ công tác quản lý nhà nước đối với nuôi trồng thủy sản ở địa phương.
- Mở rộng áp dụng việc thực hiện các quy định về truy xuất nguồn gốc đối với
các cơ sở nuôi trong vùng quy hoạch, đồng thời nhanh chóng xây dựng thương hiệu
cho các sản phẩm thủy sản, cơ sở và vùng nuôi trồng thủy sản tại các địa phương,
nhằm tạo các sản phẩm có thương hiệu uy tín trên thị trường trong nước và quốc tế.
V. Giải pháp về cơ chế chính sách
- Triển khai Nghị định số 36/2014/NĐ-CP ngày 29/4/2014 Nghị định của Chính
phủ về nuôi, chế biến và xuất khẩu sản phẩm cá tra.
44
- Triển khai thực hiện có hiệu quả các chính sách của nhà nước đã ban hành
như: Quyết định số 63/2010/QĐ –TTg của Thủ tướng chính phủ ngày 15 tháng 10
năm 2010 về chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản,
thuỷ sản; Nghị định số 61/2010/NĐ-CP ngày 4 tháng 6 năm 2010 của Chính phủ về
chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn và Nghị
định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12 tháng 4 năm 2010 về chính sách tín dụng phục vụ
phát triển nông thôn.
- Triển khai thực hiện Nghị định số 151/2006/NĐ-CP ngày 20/12/2006 của
Chính phủ về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước và Nghị định số
106/2008/NĐ-CP ngày 19/9/2008 sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định
151/2006/NĐ-CP đối với việc đầu tư mới và đầu tư nâng cấp các cơ sở chế biến thủy
sản đủ điều kiện đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm theo quy chuẩn kỹ thuật quốc
gia và cơ sở áp dụng công nghệ chế biến các sản phẩm giá trị gia tăng đạt trình độ
tiên tiến.
- Tiếp tục triển khai Công văn số 1149/TTg-KTN ngày 08/8/2012 của Thủ
tướng Chính phủ về việc chính sách đối với chăn nuôi và thủy sản; Công văn số
5294/NHNN-TD ngày 20/8/2012 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về
việc cho vay phục vụ chăn nuôi, chế biến thịt lợn, gia cầm và cá tra.
- Xây dựng chính sách ưu đãi về thuế cho doanh nghiệp chế biến thuỷ sản đầu
tư công nghệ mới với trang thiết bị hiện đại để chế biến sản phẩm giá trị gia tăng.
- Xây dựng chính sách riêng hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ
gia đình, tìm kiếm khách hàng, quảng bá sản phẩm thông qua các chương trình xúc
tiến thương mại thủy sản.
- Xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ công tác xúc tiến thương mại cho các
doanh nghiệp xuất khẩu các mặt hàng thủy sản ứng dụng công nghệ cao.
VI. Giải pháp về phát triển nguyên liệu cho chế biến, xuất khẩu (cá tra, Tôm
càng xanh,…)
- Tập trung tổ chức nuôi trồng thuỷ sản theo hướng liên kết sản xuất, áp dụng
các tiêu chuẩn kỹ thuật nuôi tiên tiến (GAP, Global GAP, ASC,...) để tạo ra sản phẩm
sạch, chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm với sản lượng hàng hoá lớn.
- Thực hiện quản lý chất lượng thức ăn, thuốc thú y dùng trong nuôi thủy sản.
- Gắn các vùng nuôi trồng thủy sản ứng dụng công nghệ cao tập trung với các
cơ sở chế biến, ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đầu mối đồng bộ cho vùng nuôi
thuỷ sản tập trung.
VII. Giải pháp về tổ chức quản lý và liên kết trong sản xuất thuỷ sản
- Tăng cường xã hội hóa các dịch vụ công như: kiểm nghiệm, kiểm tra đánh giá
hệ thống đảm bảo chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, nghiên cứu và chuyển giao
công nghệ, khuyến ngư.
45
- Tổ chức sản xuất theo liên kết dọc giữa những người tham gia các công đoạn
từ ao nuôi, đến thu mua nguyên liệu, chế biến và tiêu thụ sản phẩm thông qua các hợp
đồng kinh tế để tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của toàn xã hội, tăng khả năng
cạnh tranh, đảm bảo phát triển bền vững và ổn định, đáp ứng yêu cầu đảm bảo chất
lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc sản phẩm.
- Tổ chức sản xuất theo liên kết ngang giữa các nhà sản xuất theo từng khâu
trong chuỗi sản xuất, cung ứng nguyên liệu, chế biến, bảo quản và tiêu thụ thủy sản
dưới các hình thức Hợp tác xã, hiệp hội để thu hút các doanh nghiệp, các hộ sản xuất
cùng ngành nghề. Trên cơ sở đó nhà nước có chương trình hỗ trợ các thành viên về
các kỹ năng cần thiết trong sản xuất kinh doanh, vay vốn, đầu tư hạ tầng và các vấn
để liên quan cho phát triển.
VIII. Giải pháp về phát triển khoa học công nghệ chế biến thuỷ sản.
- Thực hiện các nghiên cứu và chuyển giao công nghệ chế biến, bảo quản và vận
chuyển thủy sản; nghiên cứu phát triển sản phẩm mới, sản phẩm giá trị gia tăng; nghiên
cứu cải tiến để nâng cao chất lượng các sản phẩm thủy sản truyền thống; nghiên cứu sản
xuất phụ gia cho chế biến thủy sản; nghiên cứu đánh giá rủi ro cho các sản phẩm thủy
sản; các giải pháp kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để tăng năng suất, chất lượng, hạ giá
thành sản xuất.
- Xây dựng và áp dụng vào thực tế hệ thống các tiêu chuẩn quốc gia và quy
chuẩn kỹ thuật quốc gia tương thích với trình độ quốc tế về vệ sinh an toàn thực
phẩm cho tất cả các khâu trong chuỗi sản xuất, kinh doanh thủy sản.
- Công tác khuyến ngư tập trung vào phổ biến, chuyển giao công nghệ xử lý và
bảo quản thủy sản sau thu hoạch, công nghệ chế biến các sản phẩm truyền thống đảm
bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
- Xây dựng một số trung tâm nghiên cứu phát triển sản phẩm ở các vùng chế
biến thủy sản tập trung. Các trung tâm này được đầu tư hiện đại để trực tiếp tiến hành
các nghiên cứu và hỗ trợ các doanh nghiệp trong vùng ứng dụng để phát triển sản
phẩm giá trị gia tăng, đặc biệt cho các doanh nghiệp và hộ gia đình quy mô nhỏ.
IX. Giải pháp về đào tạo, tập huấn và phát triển nguồn nhân lực
- Tăng cường các hình thức đào tạo, tập huấn trong và ngoài nước cho đội ngũ
những người quản lý, nghiên cứu phát triển sản phẩm và thị trường. Đồng thời chú ý
đào tạo, tập huấn đội ngũ: cán bộ kỹ thuật, hộ nuôi, người dân,…. cho các địa
phương và doanh nghiệp để bổ sung đội ngũ lao động lành nghề cho nuôi trồng và
chế biến thuỷ sản. Quan tâm tổ chức các khoá đào tạo ngắn hạn, các lớp tập huấn cho
đội ngũ cán bộ quản lý, các nhà doanh nghiệp, hộ nuôi,… am hiểu về luật lệ và các
chính sách kinh tế, thương mại của các nước và quốc tế.
- Tổ chức đào tạo các vị trí đầu ngành, cán bộ nghiên cứu chuyên sâu, công
nhân kỹ thuật lành nghề để đáp ứng yêu cầu cao trong giai đoạn hội nhập quốc tế và
đáp ứng yêu cầu vận hành của các dây chuyền thiết bị hiện đại, tiên tiến.
46
X. Giải pháp về bảo vệ môi trường
- Nghiên cứu, điều tra tổng kết rút kinh nghiệm từ các mô hình xử lý nước thải
hiện có, hoặc nhập các công nghệ xử lý chất thải để lựa chọn công nghệ có chi phí
đầu tư và vận hành thấp. Khuyến khích các doanh nghiệp chế biến thủy sản áp dụng
công nghệ sản xuất sạch hơn, giảm thiểu chất thải, tiết kiệm nguyên vật liệu, năng
lượng và xử lý có hiệu quả các nguồn gây ô nhiễm.
- Nhà nước ưu tiên cho vay vốn và cấp hoặc cho thuê đất dài hạn để các doanh
nghiệp xây dựng hệ thống xử lý nước thải.
XI. Các dự án ưu tiên và nhu cầu vốn đầu tư
Để có thể đạt được các mục tiêu của quy hoạch, trong kỳ quy hoạch cần ưu
tiên xây dựng và triển khai thực hiện các Đề tài, dự án lĩnh vực thủy sản ứng dụng
công nghệ cao giai đoạn 2014 – 2030 (phụ lục đính kèm)
Nguồn vốn đầu tư được huy động từ mọi thành phần kinh tế trong xã hội, vốn
vay các ngân hàng trong và ngoài nước, vốn huy động từ nguồn phát hành cổ phiếu,
trái phiếu doanh nghiệp, vốn vay ưu đãi của Nhà nước.
47
PHẦN VII
TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn :
- Chủ trì, phối hợp với các Sở, Ngành và UBND các huyện, thị xã, thành phố xây
dựng các chương trình, dự án và quy hoạch chi tiết phục vụ triển khai quy hoạch; tổ chức
triển khai và theo dõi thực hiện quy hoạch, căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh trình những nội dung cập nhật mới nhất và điều chỉnh quy hoạch cho phù
hợp.
- Xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình, dự án đầu tư trọng điểm. Xây
dựng và tổng kết các mô hình sản xuất kinh doanh có hiệu quả, phổ biến nhân ra diện
rộng.
2. Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính:
Trên cơ sở Quy hoạch, chương trình, dự án đầu tư đã được cấp có thẩm quyền
phê duyệt, có trách nhiệm cân đối vốn đầu tư và đảm bảo các chính sách tài chính để
thực hiện tốt quy hoạch.
3. Các Sở, ngành có liên quan như: Tài nguyên và Môi trường, Khoa học và Công
nghệ, ... theo chức năng, nhiệm vụ của mình có trách nhiệm tham gia, phối hợp với Sở
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong việc thực hiện Quy hoạch phát triển vùng sản
xuất thủy sản ứng dụng công nghệ cao trên địa bàn tỉnh.
4. Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố:
Xây dựng các chương trình, dự án đầu tư và xây dựng kế hoạch cụ thể để tổ chức
thực hiện quy hoạch trong phạm vi của địa phương.
5. Các Ngân hàng Thương mại:
Tạo điều kiện thuận lợi cho hộ nuôi và doanh nghiệp chế biến vay vốn đổi mới
công nghệ thiết bị, thu mua nguyên liệu chế biến và xuất khẩu; cho hộ dân vay vốn phát
triển nuôi trồng thủy sản.
6. Các Viện, Trường Đại học:
Tăng cường công tác nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao công nghệ, đặc biệt là
công nghệ cao (kỹ thuật gen-di truyền, công nghệ,…) trong sản xuất giống, nuôi trồng và
chế biến thủy sản.
Tăng cường công tác đào tạo, đào tạo chuyên sâu, tập huấn cho cán bộ quản lý,
cán bộ kỹ thuật, doanh nghiệp, hộ nuôi,… để đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.
Nơi nhận: KT.GIÁM ĐỐC
- Sở Kế hoạch&Đầu tư (th/định); PHÓ GIÁM ĐỐC - UBND tỉnh (b/c); (đã ký)
- Lưu: VT, P.KHKT.
Đoàn Ngọc Phả