Phuong Phap Zeroing Trong Thuc Thi Luat Chong Ban Pha Gia Cua Hoa Ky

25
NHÓM PHÂN TÍCH KINH TTÀI LIU THO LUN Phương pháp ‘Zeroing’ trong thc thi lut chng bán phá giá ca Hoa KTác gi: William W. Nye* EAG 08-10 Tháng 8, 2008 Nhng tài liu tho lun của EAG là phương tiện hàng đầu được sdụng để phbiến nghiên cu ca các nhà kinh tế hc thuc nhóm phân tích kinh tế (EAG) ca Ban Chống độc quyn. Nhng tài liu này dành cho nhng cá nhân và nhng tchc quan tâm biết vchương trình nghiên cu ca EAG và khuyến khích nhng li phê bình và ý kiến vcác vấn đề kinh tế có liên quan ti chính sách và điều lchống độc quyn. Các phân tích và kết luận được nhn mnh đây đều là nhng ý kiến riêng lca các tác givà không đại diện cho quan điểm ca BTư pháp Hoa Kỳ. Người có thcung cp thông tin vchương trình nghiên cu ca EAG và các tài liu tho lun là Russell Pittman, Giám đốc phòng nghiên cu kinh tế, nhóm phân tích kinh tế, Ban chống độc quyn, BTư pháp Hoa K, BICN 10-000, Washington, DC 20530, hoặc thông qua địa che-mail [email protected]. Nhng ý kiến đóng góp vcác tài liu cthcó thđược các tác gigii quyết trc tiếp tại cùng địa chnày hoặc là địa che-mail riêng ca h. Các tài liu tho lun ca EAG gần đây được lit kê cui bài. Nếu mun có bn danh sách đầy đủ các tài liu này hoc là bn sao ca các tài liu cá nhân, vui lòng liên hvới Janet Ficco theo địa chtrên hoặc theo địa ch[email protected]. Ngoài ra, các tài liu gần đây đều trên website ca Phòng Tư pháp tại địa chhttp://www.usdoj.gov/atr/public/eag/discussion_papers.htm. Bắt đầu vi nhng tài liu xut bản năm 1999, các bản sao ca các tài liu cá nhân cũng có trên hthng nghiên cu khoa hc xã hi tại địa chwww.ssrn.com.

description

Phuong Phap Zeroing Trong Thuc Thi Luat Chong Ban Pha Gia Cua Hoa Ky

Transcript of Phuong Phap Zeroing Trong Thuc Thi Luat Chong Ban Pha Gia Cua Hoa Ky

Page 1: Phuong Phap Zeroing Trong Thuc Thi Luat Chong Ban Pha Gia Cua Hoa Ky

NHÓM PHÂN TÍCH KINH TẾ

TÀI LIỆU THẢO LUẬN

Phương pháp ‘Zeroing’ trong thực thi luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ

Tác giả: William W. Nye*

EAG 08-10 Tháng 8, 2008

Những tài liệu thảo luận của EAG là phương tiện hàng đầu được sử dụng để phổ

biến nghiên cứu của các nhà kinh tế học thuộc nhóm phân tích kinh tế (EAG) của Ban

Chống độc quyền. Những tài liệu này dành cho những cá nhân và những tổ chức quan

tâm biết về chương trình nghiên cứu của EAG và khuyến khích những lời phê bình và ý

kiến về các vấn đề kinh tế có liên quan tới chính sách và điều lệ chống độc quyền. Các

phân tích và kết luận được nhấn mạnh ở đây đều là những ý kiến riêng lẻ của các tác giả

và không đại diện cho quan điểm của Bộ Tư pháp Hoa Kỳ.

Người có thể cung cấp thông tin về chương trình nghiên cứu của EAG và các tài

liệu thảo luận là Russell Pittman, Giám đốc phòng nghiên cứu kinh tế, nhóm phân tích

kinh tế, Ban chống độc quyền, Bộ Tư pháp Hoa Kỳ, BICN 10-000, Washington, DC

20530, hoặc thông qua địa chỉ e-mail [email protected]. Những ý kiến đóng

góp về các tài liệu cụ thể có thể được các tác giả giải quyết trực tiếp tại cùng địa chỉ này

hoặc là địa chỉ e-mail riêng của họ.

Các tài liệu thảo luận của EAG gần đây được liệt kê ở cuối bài. Nếu muốn có bản

danh sách đầy đủ các tài liệu này hoặc là bản sao của các tài liệu cá nhân, vui lòng liên hệ

với Janet Ficco theo địa chỉ trên hoặc theo địa chỉ [email protected]. Ngoài ra, các

tài liệu gần đây đều có trên website của Phòng Tư pháp tại địa chỉ

http://www.usdoj.gov/atr/public/eag/discussion_papers.htm.

Bắt đầu với những tài liệu xuất bản năm 1999, các bản sao của các tài liệu cá nhân cũng

có trên hệ thống nghiên cứu khoa học xã hội tại địa chỉ www.ssrn.com.

Page 2: Phuong Phap Zeroing Trong Thuc Thi Luat Chong Ban Pha Gia Cua Hoa Ky

* Nhà kinh tế học, Bộ Tư pháp Hoa Kỳ. Các quan điểm được trình bày ở đây không phải

là để chỉ trích các quan điểm của Bộ Tư pháp Hoa Kỳ. Ken Heyer, Richard Larm, Russell

Pittman andOliver Richard đã đưa ra một số ý kiến hữu ích.

Page 3: Phuong Phap Zeroing Trong Thuc Thi Luat Chong Ban Pha Gia Cua Hoa Ky

TÓM TẮT

Hoa Kỳ và các quốc gia khác áp đặt các quy tắc chống bán phá giá của họ theo

cùng một cách cứng nhắc. Tuy nhiên, có một điểm khác đó là, hiện nay chỉ có Hoa Kỳ sử

dụng ‘zeroing’ trong quyết định của nước này về việc hàng hóa nhập khẩu có phá giá hay

không. Việc sử dụng ‘zeroing’ sẽ gần như là luôn làm tăng bất kỳ mức thuế chống bán

phá giá nào, và đôi khi sẽ tạo ra một loại thuế chưa bao giờ có, làm phát sinh biện pháp

chưa bao giờ được sử dụng.

Tất cả các quốc gia kiểm tra việc phá giá bằng cách xem xét liệu rằng hàng hóa

nhập khẩu có đang được bán thấp hơn giá ‘thông thường’ hay không. Nhiều quốc gia

khác kiểm tra bằng việc so sánh đơn giản giá trung bình mà các hàng hóa này được bán

tại nước sản xuất với giá trung bình của các sản phẩm tương tự được bán tại thị trường

nước nhập khẩu. Nếu trung bình các giá được quan sát tại nước nhập khẩu thấp hơn giá

trung bình tại nước sản xuất (giá ‘thông thường’), thì doanh nghiệp nước ngoài bị cho là

bán phá giá. Tuy nhiên, với việc sử dụng zeroing, Hoa Kỳ theo dõi giá nhập khẩu dựa

trên giá ‘thông thường’ xem liệu rằng giá nhập khẩu có bằng giá ‘thông thường’ hay

không (đúng hơn là các mức giá được quan sát). Các giao dịch tại các giá thấp hơn giá

thông thường được coi như là tại các mức quan sát giá. Kết quả của zeroing đã khiến cho

luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ mang tính hạn chế hơn bản chất ban đầu của nó, do

khả năng biên độ phá giá luôn xảy ra cho dù có bất kỳ một giao dịch nào diễn ra tại mức

giá thấp hơn giá ‘thông thường’, thậm chí là nếu trung bình các giá nhập khẩu vào thị

trường Hoa Kỳ cao hơn giá ‘thông thường’.

Việc áp dụng zeroing trong thời gian gần đây đã bị phản đối ít nhất 6 lần tại Tổ

chức Thương mại thế giới (WTO), và nói chung là đi ngược lại với các cam kết của Hoa

Kỳ tại WTO.

Không kể đến những yếu tố khác, phạm vi ảnh hưởng của phương pháp zeroing

đối với Hoa Kỳ (so với việc thi hành luật chống bán phá giá không sử dụng zeroing) phụ

thuộc vào độ phân tán giá bán của các nhà xuất khẩu nước ngoài tại Hoa Kỳ trong cuộc

Page 4: Phuong Phap Zeroing Trong Thuc Thi Luat Chong Ban Pha Gia Cua Hoa Ky

điều tra phá giá. Không có các ước lượng thực tế nào về độ phân tán này, nhưng những

thảo luận trên giấy tờ đôi khi liên quan tới bằng chứng mà có thể cho phép đưa ra các suy

luận. Bản thân bằng chứng này khá phân tán, và do đó, việc ước lượng phạm vi ảnh

hưởng và chi phí của zeroing đối với Hoa Kỳ thực sự không hề chắc chắn và rõ ràng gì.

Tuy nhiên, một điều rất hợp lý là zeroing có thể làm tăng 3-4% thuế chống bán phá giá

của Hoa Kỳ với mức chi phí của nước này vào khoảng 150 triệu Đô la mỗi năm khi mà

tất cả các vụ kiện chống bán phá giá của Hoa Kỳ hiện tại đều được tính theo zeroing.

Có một số ít tài liệu bám sát việc thực thi luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ trong

thương mại giữa Hoa Kỳ với các quốc gia khác. (Ví dụ như Blonigen và Park xuất bản

năm 2004, Blonigen và Haynes xuất bản năm 2002, Staiger và Wolak xuất bản năm

1994). Luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ trở nên bất hợp pháp đối với các doanh

nghiệp nước ngoài khi họ bán các sản phẩm của mình tại Hoa Kỳ với các mức giá thấp

hơn giá ‘thông thường’. 1Nhìn chung, tài liệu kinh tế thảo luận về luật chống bán phá giá

của Hoa Kỳ xem xét cả giá xuất khẩu và giá bán tại nước sản xuất như các giá đơn vị.

Tuy nhiên, trong thực tế, giá của hầu hết các sản phẩm nhập khẩu vào Hoa Kỳ không

đồng nhất. Trong nhiều phân tích kinh tế, độ phân tán giá cả hay sự phân biệt đối xử giá

của hầu hết các sản phẩm này sẽ là một chi tiết tương đối quan trọng. Nhưng việc giải

thích luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ hiện nay đang bị Tổ chức Thương mại thế giới

phản đối. Nó tạo ra độ phân tán giá cả của hàng hóa nước ngoài tại Hoa Kỳ, một phần

gây tranh cãi trong cách tính biên độ phá giá của Hoa Kỳ, và đôi khi khiến cho luật chống

bán phá giá của Hoa Kỳ mang tính bảo hộ nhiều hơn. Việc giải thích luật chống bán phá

giá của Hoa Kỳ được gọi là ‘zeroing’. Với việc sử dụng ‘zeroing’, các quan chức của Bộ

Thương mại Hoa Kỳ (DOC) không so sánh trung bình các quan sát giá tại Hoa Kỳ với

‘giá thông thường’ để quyết định xem phá giá có xảy ra hay không. Thay vào đó, họ coi

tất cả các giao dịch quan sát tại Hoa Kỳ ở mức giá cao hơn giá ‘thông thường’ như là

1 Các hình thức phạt chống bán phá giá của Hoa Kỳ cũng đòi hỏi các mặt hàng nhập khẩu gây ‘thiệt hại đáng kể’ cho ngành sản xuất nội địa. Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ quyết định xem liệu rằng hàng hóa nhập khẩu có gây ra thiệt hại đáng kể hay không, và Bộ Thương mại Hoa Kỳ quyết định xem liệu rằng hàng hóa nhập khẩu này có được bán tại mức giá thấp hơn mức giá công bằng hay không (LTFV). (Giá công bằng đôi khi dung để chỉ giá thông thường).

Page 5: Phuong Phap Zeroing Trong Thuc Thi Luat Chong Ban Pha Gia Cua Hoa Ky

chúng diễn ra tại mức giá thông thường. Kết quả của việc loại bỏ kết quả cao hơn của độ

phân tán của các quan sát giá tại Hoa Kỳ là làm tăng đáng kể biên độ phá giá trong

trường hợp các sản phẩm nhập khẩu bán tại Hoa Kỳ với các mức giá khá phân tán.

I.) Zeroing trong cách tính biên độ phá giá của Hoa Kỳ

Xác định thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ là một quá trình phức tạp, không

được thảo luận đầy đủ ở đây.2 Mặc dù về cơ bản, xác định thuế chống bán phá giá đòi hỏi

cả quyết định về thiệt hại đáng kể đối với ngành sản xuât nội địa do hàng hóa nhập khẩu

gây ra (do Ủy ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ thực hiện (USITC)), và có kết luận trong

quá trình trả lời câu hỏi là hàng hóa nhập khẩu đã bán thấp hơn giá thông thường. (Cuộc

điều tra do Bộ Thương mại Hoa Kỳ tiến hành).

Giá ‘thông thường’ thường được định nghĩa là trung bình của một nhóm các quan

sát giao dịch của sản phẩm đó tại thị trường nước xuất khẩu (không phải là Hoa Kỳ).3

Các cuộc điều tra phá giá do các nhà sản xuất bị ảnh hưởng và quốc gia tiến hành (ví dụ,

tất cả các sản phẩm nhập khẩu DRAMS xuất xứ Nhật Bản tại Hoa Kỳ có thể bị điều tra),

nhưng các mức thuế đối với từng doanh nghiệp xuất khẩu là riêng biệt.

Sau cuộc điều tra của DOC và ITC, mỗi doanh nghiệp nước ngoài có thể bị áp một

mức thuế chống bán phá giá. Khi đó, doanh nghiệp này cần đặt cọc một trái phiếu có trị

giá bằng với mức thuế phải nộp khi nhập khẩu hàng hóa vào Hoa Kỳ. Cuối mỗi năm thuế

có hiệu lực, sẽ có một cuộc rà soát hành chính. Đây là thời điểm quyết định thuế chống

bán phá giá chính thức (số tiền mà doanh nghiệp nước ngoài phải trả). Trong suốt năm rà

soát, doanh nghiệp nước ngoài phải đối mặt với việc là thuế làm tăng giá xuất khẩu hàng

hóa của mình vào Hoa Kỳ. Nếu doanh nghiệp không bán với giá thấp hơn giá ‘thông

thường’ nữa thì trái phiếu sẽ được hoàn trả đầy đủ. Nhưng nếu trong suốt năm rà soát,

doanh nghiệp nước ngoài vẫn bán với giá thấp hơn giá tại thị trường Hoa Kỳ (coi như giá

2 Một nguồn thông tin chung về việc ép buộc thi hành luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ là sách chống bán phá giá do Bộ Thương mại Hoa Kỳ xuất bản năm 1998. 3 Tuy nhiên, nếu giá tại thị trường nước xuất khẩu được thấy rằng thấp hơn chi phí sản xuất của các doanh nghiệp nước ngoài, thì Bộ Thương mại Hoa Kỳ (USDOC) có thể sử dụng chi phí sản xuất (trung bình) như là tiêu chuẩn cho giá thông thường. Nếu không có đủ các giao dịch tại thị trường nước xuất khẩu, USDOC có thể sử dụng các giao dịch tại thị trường nước thứ ba để quyết định giá ‘thông thường’.

Page 6: Phuong Phap Zeroing Trong Thuc Thi Luat Chong Ban Pha Gia Cua Hoa Ky

bán tại nước xuất khẩu là không đổi) thì họ không những bị phạt tờ trái phiếu đó mà còn

bị đánh thêm một khoản thuế nữa của Hoa Kỳ.

Việc áp dụng zeroing của Hoa Kỳ được tiến hành dưới hai hình thức: zeroing

‘mẫu’ có thể được sử dụng trong giai đoạn điều tra ban đầu, và zeroing ‘đơn giản’ được

sử dụng trong các cuộc rà soát hành chính hàng năm. 4 Bởi vì rà soát là giai đoạn mà

trách nhiệm pháp lý thực tế của doanh nghiệp nước ngoài được quyết định, đây là điều

quan trọng nhất, và sẽ là vấn đề được thảo luận nhiều nhất trong các tài liệu hiện tại. 5

Đối với zeroing ‘đơn giản’, DOC so sánh các giao dịch xuất khẩu đơn lẻ với mức trung

bình của các giá tại nước xuất khẩu của doanh nghiệp nước ngoài. Trong cách tính đó,

DOC tiến hành 3 bước: 1.) Trung bình giá tại nước xuất khẩu quyết định giá ‘thông

thường’ của doanh nghiệp nước ngoài, 2.) Tất cả các giao dịch tại Hoa Kỳ (các giao dịch

xuất khẩu) thấp hơn giá ‘thông thường’ được tính theo đồng Đô la, và 3.) Tất cả các giá

giao dịch (xuất khẩu) tại Hoa Kỳ cao hơn giá ‘thông thường’ được tính theo giá của

chúng, và được xem như là giao dịch diễn ra ở mức giá ‘thông thường’. Với phương pháp

này, một giao dịch xuất khẩu đơn lẻ tại mức giá thấp hơn giá thông thường sẽ vẫn được

tính trong quá trình rà soát hành chính khiến cho doanh nghiệp luôn có khả năng bị áp

thuế chống bán phá giá.

Rõ ràng là, zeroing sẽ khiến cho thuế chống bán phá giá ít nhất là cao hơn mức

thuế khi mà trung bình giá tại nước xuất khẩu được so sánh đơn giản với trung bình giá

bán tại thị trường Hoa Kỳ. Coi như các điều kiện khác không thay đổi thì cũng rất rõ ràng

là độ phân tán các giá giao dịch của doanh nghiệp xuất khẩu càng lớn thì biên độ phá giá

tính theo zeroing sẽ càng vượt mức biên độ phá giá mà không sử dụng zeroing (bởi vì

4 Zeroing ‘mẫu’ đôi khi dùng để so sánh ‘trung bình với trung bình’. (‘trung bình’ ở đây là giá cả tại Hoa Kỳ và nước xuất khẩu). Zeroing ‘đơn giản’ trong quá trình rà soát hành chính đôi khi được dùng để so sánh ‘trung bình với giao dịch’. (Trung bình của các quan sát giá nước ngoài). Một trong ba khả năng thường chỉ dùng cho các sản phẩm sản xuất theo yêu cầu của khách hàng là so sánh ‘giao dịch với giao dịch’ (Sách Chống bán phá giá của Hoa Kỳ, chương 6, III A.) 5 Trong zeroing ‘mẫu’ mà có thể được sử dụng trong cách tính các biên độ phá giá ban đầu, DOC chia sản phẩm điều tra thành một số các ‘mẫu’. Biên độ phá giá ban đầu của các sản phẩm điều tra chỉ được quyết định bởi sự chênh lệch giữa giá xuất khẩu và giá bán tại nước xuất khẩu của các mẫu mà trung bình giá xuất khẩu thấp hơn trung bình giá bán tại nước xuất khẩu. (Bài viết được trình lên Tổ chức Thương mại thế giới lần đầu tiên vào ngày 9/5/2005, WT/DS322, “Hoa Kỳ - Các biện pháp liên quan tới Zeroing và Rà soát cuối kỳ”.] DOC định nghĩa một ‘mẫu’ là một nhóm các sản phẩm có tất cả các đặc tính vật lý giống nhau.

Page 7: Phuong Phap Zeroing Trong Thuc Thi Luat Chong Ban Pha Gia Cua Hoa Ky

càng có nhiều hơn các giao dịch diễn ra tại mức giá cao hơn giá ‘thông thường’, và sẽ bị

tính là diễn ra tại mức giá thông thường)6

II.) Thực trạng tranh chấp về vấn đề Zeroing tại Tổ chức Thương mại thế giới

Như đã lưu ý ở trên, việc Hoa Kỳ sử dụng zeroing khi tính các biên độ phá giá đã

gặp phải sự phản đối từ các đối tác thương mại của nước này. Họ cho rằng điều này

không phù hợp với các quy tắc của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) về hệ thống luật

chống bán phá giá. 7 Thời gian gần đây, Hoa Kỳ đã sử dụng zeroing trong tất cả các vụ

kiện chống bán phá giá. Hoa Kỳ đã bị kiện tại Tổ chức Thương mại thế giới ít nhất 6 lần

với lý do nước này sử dụng zeroing trong các cuộc điều tra chống bán phá giá. Bảng dưới

đây liệt kê 6 vụ kiện này.

WTO phản đối Hoa Kỳ vì sử dụng Zeroing trong các cuộc điều tra chống bán phá

giá gần đây

Nước kiện Sản phẩm Giải quyết tranh chấp

của WTO số

Canada Gỗ xẻ mềm DS 264

Nhật Bản Ổ bi DS 322

EU Hoa Kỳ sử dụng zeroing

trong 21 vụ kiện chống

bán phá giá

DS 294

E-cu-a-đo Tôm nước ấm đông lạnh DS335

6 Tài liệu của Tirole, 1989, (trang 133) lưu ý rằng ‘Rất khó để có thể đưa ra một định nghĩa đầy đủ về sự phân biệt đối xử giá cả.’ Một trong các lý do giải thích điều này là trong thực tê không thể có hai giao dịch giống nhau hoàn toàn về mọi khía cạnh. Một phần là vì lý do này, một phần là vì cụm từ ‘phân biệt đối xử giá cả’ đòi hỏi một sự mập mờ về ý nghĩa mà tôi không thể định nghĩa được, đôi khi tôi sử dụng cụm từ dễ hiểu hơn là ‘độ phân tán giá cả’ để mô tả sự phân biệt của các giá khác nhau, nhưng các khách hàng có trường hợp tương tự thì lại khó hiểu. 7 Liên mình Châu Âu thử áp dụng zeroing trong những năm 90. Năm 1998, Ấn Độ đã yêu cầu WTO đưa ra quyết định rằng EU đã hành động đi ngược lại nghĩa vụ của nước này tại WTO trong vụ kiện chống bán phá đối với mặt hàng vải lanh trải giường loại cotton xuất xứ Ấn Độ. Sau vụ kiện, EU đã phải tính toán lại biên độ phá giá theo cách tính không sử dụng zeroing. (Đây là vụ kiện DS141 của WTO.)

Page 8: Phuong Phap Zeroing Trong Thuc Thi Luat Chong Ban Pha Gia Cua Hoa Ky

Thái Lan Tôm DS 343

Mê-hi-cô Thép không gỉ DS344

Vụ kiện Ổ bi của Nhật Bản và vụ Thép không gỉ của Mê-hi-cô sẽ được thảo luận chi tiết

dưới đây. Đây có lẽ là hai vụ quan trọng nhất trong 6 vụ mà Hoa Kỳ có sử dụng zeroing

được liệt kê ở bảng trên, và vụ kiện Ổ bi của Nhật Bản được trình bày số liệu cụ thể bên

dưới.

II A.) Vụ kiện Ổ bi của Nhật Bản

Ngày 24/11/2004, Nhật Bản lấy ý kiến về vấn đề zeroing và một số vấn đề khác theo thủ

tục của Tổ chức Thương mại thế giới. Nhật Bản đệ đơn kiện rằng Hoa Kỳ sử dụng

zeroing trong hầu hết các giai đoạn của một cuộc điều tra chống bán phá giá bao gồm:

điều tra sơ bộ, rà soát định kỳ, rà soát nhà xuất khẩu mới, rà soát do thay đổi hoàn cảnh,

và rà soát cuối kỳ. Tháng 12/2004, Ấn Độ, Norway, Achentina, Đài Loan, EU và Mehico

yêu cầu tham gia tham vấn. Tháng 2/2005, Nhật Bản yêu cầu thành lập Ban Hội thẩm

WTO cho vụ kiện này. 8 Tháng 9/2006, Ban Hội thẩm WTO tán thành khiếu nại của Nhật

Bản về việc sử dụng zeroing của Hoa Kỳ trong giai đoạn điều tra sơ bộ là không phù hợp

với các quy tắc của WTO, nhưng bác bỏ khiếu nại của Nhật Bản rằng Hoa Kỳ sử dụng

zeroing trong các giai đoạn khác của quá trình điều tra chống bán phá giá như đã liệt kê ở

trên là không phù hợp với các quy tắc của WTO, bao gồm rà soát định kỳ, rà soát các nhà

xuất khẩu mới, rà soát do thay đổi hoàn cảnh và rà soát cuối kỳ. Tuy nhiên, vào ngày

9/1/2007, Cơ quan Phúc thẩm của WTO kết luận rằng việc Hoa Kỳ sử dụng zeroing

‘mẫu’ trong giai đoạn điều tra sơ bộ cũng như là việc sử dụng zeroing ‘đơn giản’ trong

giai đoạn Rà soát hành chính là đi ngược lại các cam kết của nước này tại WTO.

IIB.) Vụ kiện Thép không gỉ của Mêhico

8 Trong quá trình giải quyết tranh chấp của WTO, một ‘Ban Hội thẩm’ là một nhóm các quan chức được chọn để xử lý tranh chấp. Nếu một bên không đồng ý với ý kiến của Ban Hội thẩm, họ có thể kháng cáo lên Ban kháng án của WTO.

Page 9: Phuong Phap Zeroing Trong Thuc Thi Luat Chong Ban Pha Gia Cua Hoa Ky

Ngay sau vụ kiện chống bán phá giá của Hoa Kỳ đối với mặt hàng Ổ bi của Nhật

Bản, đơn kiện của Mehico về việc Hoa Kỳ sử dụng zeroing đối với mặt hàng thép không

gỉ xuất xứ Mehico phần nào cũng đã gây nhiễu loạn môi trường pháp lý. Trong vụ kiện

này, Ban Hội thẩm của WTO cho rằng đơn kiện của Mehico đã đi chệch quyết định trước

đó của Ban kháng án của WTO (vì phần lớn zeroing trình bày đi ngược lại với các quy

tắc của WTO về chống bán phá giá), và quyết định rằng, ít nhất là trong vụ kiện thép

không gỉ của Mehico, Hoa Kỳ dù có sử dụng zeroing thì cũng không xâm phạm các cam

kết của nước này tại WTO. 9 Ban hội thẩm đã kết luận rằng các Ban Hội thẩm của WTO

“…nói đúng ra là không bị trói buộc bởi các quyết định trước đó của Cơ quan Phúc thẩm

và Ban Hội thẩm khi giải quyết cùng một vấn đề.” Tháng 5/2008, Cơ quan Phúc thẩm của

WTO bác bỏ quyết định của Ban Hội thẩm về việc sử dụng zeroing trong vụ kiện thép

không gỉ của Mehico.

Ngày 20/12/2007, Đại diện Thương mại Hoa Kỳ (USTR) đồng tình với quyết định

của Ban Hội thẩm trong vụ kiện thép không gỉ, và cho biết họ chứng minh được “…rằng

các quy tắc của WTO không cấm ‘zeroing’.”10 Tháng 2/2007, USTR cũng cho biết Bộ

Thương mại Hoa Kỳ đã không sử dụng zeroing nữa “…các cách tính trung bình chủ yếu

được thực hiện trong các cuộc điều tra.” (nghĩa là trong các quyết định về các biên độ phá

giá sơ bộ.) Như đã nói ở trên, bởi vì giai đoạn rà soát hành chính là giai đoạn mà nghĩa vụ

pháp lý của doanh nghiệp nhập khẩu được quyết định, điều quan trọng của thông cáo này

là mở ra sự nghi vấn. Lời phát biểu của Bộ Thương mại Hoa Kỳ vào ngày 20/12/2007

rằng “… vấn đề zeroing vẫn rất rối ren” dường như là chính xác.

III.) Một số ví dụ đơn giản về hậu quả của Zeroing trong việc thực thi luật chống

bán phá giá của Hoa Kỳ.

III A.) Một ví dụ đơn giản về việc sử dụng zeroing

9 Vụ kiện WT/DS344/R, ngày 20/12/2007. Trong vụ kiện chống bán phá giá của Hoa Kỳ đối với mặt hàng thép không gỉ của Mehico, Ban Hội thẩm của WTO đã quy định về vấn đề zeroing đơn giản (trong bối cảnh của cuộc rà soát hành chính.) 10 Ngày 20/12/2007, trang web của Đại diện Thương mại Hoa Kỳ đã đưa tin “Hoa Kỳ dành chiến thắng tại WTO trong vụ tranh chấp zeroing với Mehico”

Page 10: Phuong Phap Zeroing Trong Thuc Thi Luat Chong Ban Pha Gia Cua Hoa Ky

Một ví dụ rất đơn giản có thể làm rõ về thủ tục zeroing trong việc thực thi luật

chống bán phá giá của Hoa Kỳ.

Giả sử một sản phẩm nước ngoài đang được bán tại thị trường Hoa Kỳ với giá 2

Đô la. Giả định tiếp nữa là có 3 giao dịch của doanh nghiệp này tại Hoa Kỳ được quan

sát, mỗi giao dịch có giá sản phẩm đơn vị là 1 đô la, 2 đô la, và 3 đô la. Xem xét cách

tính các biên độ phá giá có và không có zeroing

Trường hợp A: Không có zeroing

Giá thông thường: 2 Đô la

Các giao dịch quan sát tại Hoa Kỳ: mỗi giao dịch có giá đơn vị sản phẩm là 1đô la, 2 đô

la, và 3 đô la.

Trung bình giá tại Hoa Kỳ: 2 Đô la [$2=($1+$2+$3)/3]

Biên độ phá giá: 0 (bởi vì trung bình giá tại Hoa Kỳ bằng giá thông thường.)

Trường hợp B: Có zeroing

Giá thông thường: 2 Đô la

Các giao dịch quan sát tại Hoa Kỳ: mỗi giao dịch có giá đơn vị sản phẩm là 1đô la, 2 đô

la, và 3 đô la.

Trung bình giá tại Hoa Kỳ có zeroing: 1,66 Đô la [$1,66=($1+$2+$2)/3] (quan sát giá

giao dịch thứ 3, là 3 Đô la, được điều chỉnh bằng với giá thông thường là 2 Đô la, vì quan

sát giá giao dịch tại Hoa Kỳ vượt quá giá thông thường)

Biên độ phá giá: 19,8% [19,8%=($2-$1,66)/$1,66].

IIIB.) Cách biểu diễn đại số đơn giản về sự khác nhau giữa thuế chống bán phá giá

khi sử dụng và không có sử dụng Zeroing

Giả sử một doanh nghiệp nước ngoài đã bị quyết định một mức thuế chống bán

phá giá ban đầu của Hoa Kỳ, giá trung bình chủ yếu của doanh nghiệp này tại thị trường

nước xuất khẩu (giá thông thường) là µH, và giá trung bình chủ yếu của doanh nghiệp này

tại thị trường Hoa Kỳ là µP. Khi đó thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ không sử dụng

zeroing là:

Page 11: Phuong Phap Zeroing Trong Thuc Thi Luat Chong Ban Pha Gia Cua Hoa Ky

(1) ADNZ=( µH- µP)/ µP

Nếu thuế chống bán phá của Hoa Kỳ đối với doanh nghiệp này tính với zeroing

đơn giản có thể là:

(2) ADZ=( µH- µPZ)/ µP

Z

Số hạng µPZ, do tác giả xây dựng, là giá xuất khẩu trung bình tại thị trường Hoa

Kỳ khi được tính theo phương pháp zeroing. Số hạng này thực ra là số trung gian trong

việc tính toán số hạng tỷ lệ thực, thuế chống bán phá giá tính theo zeroing đơn giản rất có

ích bởi vì nó đòi hỏi sự hiểu biết về mối quan hệ giữa cách tính phá giá có sử dụng

zeroing và không sử dụng zeroing. Không tính các yếu tố khác, rõ ràng là µPZ phụ thuộc

vào giá của các quan sát giá giao dịch tại thị trường Hoa Kỳ được phân bổ như thế nào.11

IIIC.) Minh họa số học đơn giản về trung bình giá tại thị trường Hoa Kỳ được tính

có sử dụng và không sử dụng zeroing và thuế chống bán phá giá được tính có

sử dụng và không sử dụng zeroing

Biểu đồ 2 mô tả mối quan hệ giữa thuế chống bán phá có sử dụng và không sử

dụng zeroing khi trung bình giá bán tại thị trường Hoa Kỳ thay đổi đối với trường hợp

đơn giản là giá thông thường bằng 1,0, và các quan sát giá tại thị trường Hoa Kỳ được

phân bổ đồng đều trong phạm vi 1. Biểu đồ 1 cho thấy mối quan hệ giữa trung bình giá

bán tại thị trường Hoa Kỳ và ‘trung bình giá bán có sử dụng zeroing tại thị trường Hoa

Kỳ’ với cùng một giả định. 12

Với giá thông thường bằng 1, và các quan sát giá tại thị trường Hoa kỳ được phân

bổ đồng đều trong phạm vi 1 với trung bình giá bán tại thị trường Hoa Kỳ là 0,5, tất cả

các quan sát giá tại thị trường Hoa Kỳ thấp hơn giá thông thường (tức là thấp hơn 1).

Trong trường hợp này, Biểu đồ 1 cho thấy trung bình giá bán tại Hoa Kỳ có sử dụng hoặc

không sử dụng zeroing là 0,5. Trong trường hợp này, Zeroing không tạo ra sự khác biệt,

bởi vì tất cả các quan sát giá tại Hoa Kỳ đều thấp hơn giá thông thường. Trong trường 11 Ví dụ, nếu các giá giao dịch tại thị trường Hoa Kỳ được phân bổ đồng đều, và mức chênh lệch giữa quan sát giá cao nhất và thấp nhất là D, thì trung bình giá chủ yếu tại thị trường Hoa Kỳ có sử dụng zeroing là: µP

Z = µH {1/D[(µP + D/2) - µH]} + {( µP - D/2) + [µH – (µP – D/2)]/2}{1/D[µH – (µP – D/2)]} 12 Như đã nói ở trên, ‘trung bình giá bán có sử dụng zeroing tại Hoa Kỳ’ là một khái niệm được xây dựng khi có sử dụng zeroing

Page 12: Phuong Phap Zeroing Trong Thuc Thi Luat Chong Ban Pha Gia Cua Hoa Ky

hợp này, biểu đồ 2 chỉ ra rằng thuế chống bán phá giá có sử dụng hay không sử dụng

zeroing đều bằng 0,5. (50%).

Giả sử giá thông thường vẫn là 1, và các quan sát giá tại thị trường Hoa Kỳ vẫn

được phân bổ đồng đều trong phạm vi 1, nhưng lần này, trung bình giá tại Hoa Kỳ bằng

1. Trong trường hợp này, zeroing tạo ra sự khác biệt. Bởi vì trung bình giá bán tại Hoa

Kỳ bằng với giá thông thường (1), sẽ không có hiện tượng phá giá nếu không sử dụng

zeroing. Ở đây, biểu đồ 1 cho thấy, khi trung bình giá bán tại Hoa Kỳ không sử dụng

zeroing bằng 1 thì trung bình các quan sát giá có sử dụng zeroing tại Hoa Kỳ là 0,875.

Điều này được giải thích là do một nửa các quan sát giá tại Hoa Kỳ (tất cả các quan sát

giá đều lớn hơn 1) được xem như là bằng 1. Một nửa các quan sát giá còn lại được phân

bổ đồng đều từ 0,5 đến 1 có trung bình bằng 0,75. Trong trường hợp này, biểu đồ 2 cho

thấy biên độ phá giá không sử dụng zeroing là 0, có sử dụng zeroing là 0,125 (vì giá

thông thường là 1 và trung bình các quan sát giá tại thị trường Hoa Kỳ có sử dụng

zeroing là 0,875). Điều này xảy ra do thuế chống bán phá giá không sử dụng zeroing cao

hơn hàm ý rằng trung bình giá bán tại thị trường Hoa Kỳ giảm có liên quan tới trung bình

giá nước ngoài (giá thông thường). Khi điều này xảy ra, thuế chống bán phá giá có sử

dụng và không sử dụng zeroing có sự tương đồng chặt chẽ hơn với nhau, vì (với điều

kiện độ phân tán các quan sát giá tại Hoa Kỳ như trên) có thêm các quan sát giá tại Hoa

Kỳ sẽ được thay đổi trong phạm vi phá giá (thấp hơn giá thông thường).

IIIC.) Tính các biên độ phá giá có và không có sử dụng zeroing: Trường hợp giá

thông thường như trên và sự thay đổi khác nhau cảu các quan sát giá tại thị

trường Hoa Kỳ đối với trung bình giá tại Hoa Kỳ đã cho.

Biểu đồ A và B mô tả 2 trường hợp có giá thông thường bằng 1 và trung bình các

quan sát giá tại thị trường Hoa Kỳ cũng bằng 1. Khi đó, thuế chống bán phá giá có sử

dụng hay không sử dụng zeroing đều bằng 0 trong cả 2 trường hợp. Tuy nhiên các mức

thuế chống bán phá giá được tính mà có sử dụng và không sử dụng zeroing tương đối

khác nhau, do sự thay đổi của các quan sát giá tại thị trường Hoa Kỳ trong biểu đồ B lớn

hơn nhiều trong biểu đồ A. Sử dụng zeroing, tất cả các quan sát giá tại Hoa Kỳ lớn hơn

Page 13: Phuong Phap Zeroing Trong Thuc Thi Luat Chong Ban Pha Gia Cua Hoa Ky

giá thông thường đều được coi như là bằng giá thông thường, nhưng các quan sát giá thấp

hơn giá thông thường thì vẫn giữ nguyên. Rõ ràng là việc sử dụng zeroing sẽ làm cho

trung bình giá bán tại thị trường Hoa Kỳ thấp hơn, và do đó, thuế phá giá sẽ cao hơn.

Biểu đồ 3 cho kết luận tương tự khi biểu diễn thuế chống bán phá giá được tính

theo zeroing dựa vào sự thay đổi của các quan sát giá tại thị trường Hoa Kỳ, với các quan

sát giá tại Hoa Kỳ được phân bổ đồng đều. Biểu đồ 3 thể hiện điểm quan trọng là khi các

yếu tố khác không thay đổi, thuế chống bán phá giá có sử dụng zeroing tăng lên cùng với

sự thay đổi của các quan sát giá tại thị trường Hoa Kỳ. Điều này được giải thích là do:

A.) trung bình giá bán tại thị trường Hoa Kỳ cao hơn giá thông thường (không có hiện

tượng phá giá nếu không sử dụng zeroing), sự thay đổi của trung bình các quan sát giá tại

thị trường Hoa Kỳ càng cao thì càng có nhiều các quan sát giá tại thị trường Hoa Kỳ thấp

hơn giá thông thường, và B.) Nếu trung bình giá tại thị trường Hoa Kỳ thấp hơn giá thông

thường (có hiện tượng phá giá mà không sử dụng zeroing), sự thay đổi trung bình giá tại

thị trường Hoa Kỳ càng cao thì số các quan sát giá tại thị trường Hoa Kỳ cao hơn giá

thông thường càng lớn (và do đó, không có độ phân tán giá tại thị trường Hoa Kỳ, và

trung bình giá tính theo zeroing giảm xuống)13

IV.) Thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ với mặt hàng Ổ bi của Nhật Bản được

tính khi sử dụng và không sử dụng zeroing.

Như đã nêu trong phần II ở trên, trong thời gian gần đây, Hoa Kỳ và Nhật Bản đã

tranh chấp với nhau dưới sự điều tiết của WTO về vấn đề Hoa Kỳ sử dụng zeroing khi

điều tra chống bán phá giá đối với 22 loại ổ bi của Nhật Bản. Chính phủ Nhật Bản đại

diện cho các nhà sản xuất dụng cụ máy móc của Nhật Bản đã đệ trình thông tin về 21 loại

trong số 22 loại ổ bi trên để chứng minh các biên độ phá giá mà Bộ Thương mại Hoa Kỳ

tính (có sử dụng zeroing), cũng như là cách tính thuế mà các nhà sản xuất Nhật Bản sử

dụng khi không có zeroing. 14 Trong biểu đồ 4, mức thuế chống bán phá giá có sử dụng

13 Thực tế là các mức thuế chống bán phá giá trong biểu đồ 3 gần sát với đường tiệm cận 1/3 (=33% thuế chống bán phá giá) do độ phân tán đồng nhất của các giá tại thị trường Hoa Kỳ và có sự giới hạn là không có quan sát giá tại thị trường Hoa Kỳ nào có thể thấp hơn 0. 14 WT/DS322/1, G/L/720, G/ADP/D58/1, ngày 29/11/2004, (04-5181) tôi không thấy việc ước lượng thuế của các doanh nghiệp Nhật Bản mà không sử dụng zeroing được tính như thế nào.

Page 14: Phuong Phap Zeroing Trong Thuc Thi Luat Chong Ban Pha Gia Cua Hoa Ky

zeroing và các mức thuế không sử dụng zeroing được biểu diễn đối diện với nhau. Số liệu

biểu diễn trong biểu đồ 4 kết hợp các quan sát của 4 loại ổ đỡ là ổ bi, ổ đũa hình nón, ổ

đũa hình trụ, ổ đũa hình cầu trơn của 4 doanh nghiệp.

Biểu đồ 4 cho thấy có 19 trên 21 vụ, Chính phủ Nhật Bản kiện phản đối thuế

chống bán phá giá của Hoa Kỳ (tức là không được đánh thuế chống bán phá giá) và yêu

cầu không sử dụng zeroing. (Trong 2 trường hợp còn lại, đơn kiện chấp nhận thuế chống

bán phá giá nhưng với mức thấp hơn và không sử dụng zeroing.) Biểu đồ 4 đã thể hiện rõ

mối quan hệ giữa mức thuế chống bán phá giá (có sử dụng zeroing) đối với mặt hàng ổ bi

của Nhật Bản so sánh với những điểm mô tả mức thuế nếu như không sử dụng zeroing,

giống như mẫu được biểu diễn trong biểu đồ 2.

Hồi quy tuyến tính các mức thuế đánh vào 21 loại ổ bi đối với số liệu có tính và

không tính theo zeroing (theo phương pháp tính trong đơn kiện của Nhật Bản) cho kết

quả như sau:

(Thuế chống bán phá giá có zeroing) = 12,5 + 0,33 (Thuế chống bán phá giá

không có zeroing)

t = 5,85

R2 = 0,62

Vì một số lý do nên cách tính hồi quy này chỉ mang tính gợi ý. Như đã nói ở trên,

dữ liệu kết hợp thông tin về các mức thuế đánh vào một số sản phẩm khác biệt thực sự

của 4 doanh nghiệp. Và mối quan hệ giữa thuế chống bán phá giá có sử dụng và không sử

dụng zeroing có thể không phải là mối quan hệ tuyến tính. Có một điểm thú vị là cả biểu

đồ 4 – mô tả mối quan hệ giữa thuế chống bán phá giá có và không có zeroing đánh vào

sản phẩm ổ bi của Nhật Bản – và biểu đồ 2 – mô tả thuế chống bán phá giá có và không

có zeroing trong trường hợp giả định là các quan sát giá của Hoa Kỳ phân tán đồng đều –

đều có tọa độ y – đường thẳng chắn của cả 2 biểu đồ (của thuế chống bán phá giá có và

không có zeroing) là 0,12 (12%). Điểm giống nhau giữa bằng chứng lịch sử trong biểu đồ

4 và ví dụ giả định trong biểu đồ 2 cho thấy việc mô tả tác động của zeroing được thể

hiện ở trên có thể không mấy cách xa tiêu chuẩn.

Page 15: Phuong Phap Zeroing Trong Thuc Thi Luat Chong Ban Pha Gia Cua Hoa Ky

V.) Bằng chứng về phạm vi phân biệt đối xử giá cả hay độ phân tán giá cả của các

sản phẩm nhập khẩu của Hoa Kỳ

Phần III ở trên giải thích tại sao mức thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ có sử

dụng zeroing lại phụ thuộc chủ yếu vào phạm vi phân tán giá nhập khẩu của các sản

phẩm có liên quan của Hoa Kỳ. Nói chung, rất bất ngờ về việc có rất ít tài liệu viết về

phạm vi của sự phân biệt đối xử giá cả/độ phân tán giá cả, và gần như không có tài liệu

về sự phân biệt đối xử giá cả của các giá nhập khẩu tại thị trường Hoa Kỳ. Đơn kiện của

WTO đối với các nhà sản xuất dụng cụ máy móc của Nhật Bản có thể là nguồn thông tin

tốt nhất, nhưng có một vài nghiên cứu được trích dẫn bên dưới.

VA.) Dữ liệu trong đơn kiện của WTO đối với các nhà sản xuất dụng cụ máy móc

của Nhật Bản thể hiện phạm vi phân tán giá nhập khẩu tại thị trường Hoa Kỳ

Như đã thảo luận ở trên, biểu đồ 4 mô tả các cách tính thuế chống bán phá giá của

Hoa Kỳ (có sử dụng zeroing) và số ước lượng thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ mà

không sử dụng zeroing của các nhà sản xuất dụng cụ máy móc của Nhật Bản đối với 21

loại ổ bi. Rõ ràng là, độ chênh lệch giữa mỗi 2 ước lượng của 21 loại này (ước lượng có

sử dụng zeroing và ước lượng khi không sử dụng zeroing hoàn toàn đối lập) là rất lớn do

độ phân tán các quan sát giá của các giao dịch tại thị trường Hoa Kỳ. 15Việc sử dụng các

ước lượng của 21 loại sản phẩm này có thể sẽ dẫn đến một kết luận không ổn về độ phân

tán giá cả của các sản phẩm này được bán tại thì trường Hoa Kỳ.

Tôi đã quyết định sử dụng giả định có thể là đơn giản nhất về độ phân tán giá cả

của các nhà xuất khẩu Nhật Bản bán tại thị trường Hoa Kỳ là tạo ra mỗi cặp quan sát

(thuế chống bán phá giá có và không có sử dụng zeroing) đối với mỗi sản phẩm. Tôi giả

sử rằng mỗi cặp quan sát (thuế phá giá có và không có sử dụng zeroing) chỉ được tạo ra

bằng hai giao dịch khác nhau của sản phẩm tại thị trường Hoa Kỳ, và các giao dịch này

tính theo đồng Đô la. Thêm vào đó, tôi giả định rằng hai quan sát được tạo ra từ một hàm

xác suất do độ phân tán đồng đều biểu diễn. Sử dụng các giả định này cho ta một ước

lượng đối với hệ số biến thiên của mỗi quan sát (tức là sử dụng thuế chống bán phá giá có 15 Nếu tất cả các giao dịch của một loại ổ bi tại thị trường Hoa Kỳ bằng với giá tại thị trường Hoa Kỳ thì thuế chống bán phá của Hoa Kỳ có sử dụng zeroing sẽ bằng với thuế tính mà không sử dụng zeroing.

Page 16: Phuong Phap Zeroing Trong Thuc Thi Luat Chong Ban Pha Gia Cua Hoa Ky

và không có zeroing). Cuối cùng, tính được trung bình của 21 hệ số này. 16 Trung bình

của 21 hệ số biến thiên này là 0,18.

VB.) Phạm vi phân tán giá nhập khẩu tại thị trường Hoa Kỳ trong một nghiên cứu

gần đây về sự phân biệt đối xử giá cả của các sản phẩm xuất khẩu của Đức.

Tài liệu thương mại quốc tế ‘‘từ giá cả đến thị trường’’ cũng có thể đưa ra quan

điểm gián tiếp về phạm vi của sự phân biệt đối xử giá cả trong giao dịch của các sản

phẩm trên của từng doanh nghiệp nước ngoài trên thị trường Hoa Kỳ. Nhìn chung, tài

liệu này điều tra phạm vi trong đó sự phân biệt giá cả của các nhà xuất khẩu đối với các

giao dịch xuất khẩu tại các quốc gia khác nhau. Một trong những mục đích của các cuộc

điều tra này là nhằm làm sáng tỏ tầm ảnh hưởng của sự di chuyển tỷ giá hối đoái đối với

mức giá xuất khẩu. Tuy nhiên, tài liệu cũng nói đến phạm vi phân biệt đối xử giá cả quốc

tế. Tất nhiên, tài liệu này cũng không đánh đồng hoàn toàn với mục tiêu hiện tại. Ví dụ,

nó nghiên cứu giá xuất khẩu (tính theo đồng Mác) của số xe hơi được bán tại Đức và Hoa

Kỳ với cùng số xe sản xuất từ Đức và được bán tại Ôxtraylia. Tuy nhiên, những thông tin

đi kèm tài liệu này có thể vẫn là mối quan tâm từ triển vọng hiện nay. Ví dụ như Knetter,

1989, Gagnon và Knetter, 1992, và Knetter, 1993.

Tài liệu đầu tiên trong 3 tài liệu trên được xem là một nghiên cứu hết sức quan

trọng của Michael Knetter về sự phân biệt giá cả của các nhà xuất khẩu Hoa Kỳ và Đức

tại các thị trường xuất khẩu, [Knetter, 1989] 10 sản phẩm xuất khẩu của Đức được nghiên

cứu, và đã xây dựng các ước lượng về sự ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái thay đổi tại một

số thị trường nhập khẩu đối với giá cả (tính theo đồng Mác) của các sản phẩm xuất khẩu

này. 17Sử dụng các ước lượng của Knetter có thể suy ra phạm vi phân biệt đối xử giá cả

của các sản phẩm này tại các thị trường nhập khẩu. Như đã nêu trên, không thể chính xác

độ phân biệt đối xử giá cả trong nghiên cứu lưu trong các tài liệu hiện tại. Các kết quả

16 Do không tính được khối lượng nhập khẩu, lấy trung bình đơn – tính bằng khối lượng thương mại – làm điểmcần thiết. Tuy nhiên, nếu thuế của mỗi sản phẩm được xem như là một thử nghiệm trong một quá trình lớn hơn thì khoản tiền phải trả thêm chưa chắc sẽ bằng nhau. 17 Dữ liệu trong nghiên cứu của Knetter bao gồm các sản phẩm xuất khẩu của Đức, mỗi sản phẩm xem xét trên 5 đến 8 thị trường nhập khẩu.

Page 17: Phuong Phap Zeroing Trong Thuc Thi Luat Chong Ban Pha Gia Cua Hoa Ky

của Knetter nghiên cứu sự phân biệt đối xử giá cả tại các quốc gia, đúng hơn là của từng

khách hàng tại các quốc gia này, mà đây mới là mục đích.

Sáu trong số 10 sản phẩm mà Knetter nghiên cứu: dây curoa dùng cho quạt, chất

màu Titan đioxit, xe hơi cỡ nhỏ, bia, rượu trắng, và rượu vang, tôi đã tính hệ số biến thiên

của các sản phẩm nhập khẩu, mỗi quốc gia nghiên cứu một giao dịch xuất khẩu đơn lẻ có

khối lượng bằng nhau. 18 Việc sử dụng cách tính dữ liệu gần đúng này sẽ cho trung bình

hệ số biến thiên giá xuất khẩu của Đức đối với các sản phẩm này là 1,15. Thực tế là hệ số

biến thiên này lớn hơn nhiều hệ số được báo cáo trong vụ kiện của các nhà sản xuất dụng

cụ máy móc của Nhật Bản. Điều này không có gì là ngạc nhiên. Mức độ phân tán giá cả

trong một quốc gia, như trong vụ kiện dụng cụ máy móc, về cơ bản sẽ luôn thấp hơn độ

phân tán giá cả qua các quốc gia, nơi thì ít có sự mua bán chứng khoán, nơi thì tỷ giá hối

đoái đóng vai trò chủ đạo.

VC.) Phạm vi phân tán giá nhập khẩu tại thị trường Hoa Kỳ trong nghiên cứu về độ

phân tán giá cả của các sản phẩm bán lẻ đồng nhất ở Israel: Nghiên cứu của

Lach

Điều kiện ít chắc chắn nhất trong việc tìm kiếm ví dụ về độ phân tán giá cả là giá

của một sản phẩm thuần nhất tại một khu vực địa lý riêng lẻ. Nếu trường hợp này có độ

phân tán giá cả đáng kể thì có thể đặt ra câu hỏi là liệu độ phân tán này có thể khá cao

trong cách tính giá hàng hóa nhập khẩu bị đánh thuế chống bán phá giá hay không. Các

nhà lý luận đã chỉ ra rằng giá của một sản phẩm thuần nhất vẫn bị phân tán qua thời gian,

nó phải do người tiêu dùng không thể dễ dàng biết được cửa hàng đang bán sản phẩm với

giá thấp nhất. [ví dụ, Varian, 1980]. Tuy nhiên điều này thường diễn ra như thế nào? Một

trong số rất ít các nghiên cứu hiện có, Lach đã nghiên cứu độ phân tán giá cả của 4 sản

phẩm thuần nhất là tủ lạnh, thịt gà, cà phê, và bột mì tại các cửa hàng ở Israel. 19 Lach đã

đưa ra các hệ số biến thiên đối với giá hàng tháng của các sản phẩm này như sau20:

18 Tôi bỏ qua 4 trong số 10 sản phẩm xuất khẩu của Đức trong nghiên cứu của Knetter vì trung bình các giá xuất khẩu có liên quan sẽ quá nhỏ đến mức mà rất khó để làm sáng tỏ hệ số biến thiên. 19 Trong nghiên cứu này, tủ lạnh, cà phê và bột mì chính xác là có cùng các thuộc tính. 20 Lach thấy rằng vị trí của các cửa hàng riêng biệt trong thứ tự giá cả liên quan thay đổi qua các tháng đủ để kết luận rằng khách hàng không thể khẳng định chắc chắn nơi nào bán giá thấp nhất.

Page 18: Phuong Phap Zeroing Trong Thuc Thi Luat Chong Ban Pha Gia Cua Hoa Ky

Độ phân tán giá của các sản phẩm được chọn tại Israel

Sản phẩm Trung bình giá21 (Độ lệch

chuẩn)

Hệ số biến thiên của giá

Tủ lạnh 3170 (153,9) ,0485

Gà (cỡ 1) 9,69 (1,10) ,1155

Gà (cỡ 2) 9,92 (1,18) ,1189

Cà phê 11,85 (2,33) ,1966

Bột mì 1,55 (0,21) ,1335

Do Lach nghiên cứu các sản phẩm thuần nhất trong phạm vi địa lý tương đối hẹp, nó có

thể tạo một giới hạn thấp hơn cho độ biến thiên của các giá giao dịch mà có thể có trong

các giá nhập khẩu.

VI.) Zeroing làm tăng thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ lên bao nhiêu?

VI A.) Độ phân tán đã có trong giá nhập khẩu tại thị trường Hoa Kỳ

Bài toán nêu trong phần III ở trên và số liệu trong biểu đồ 1 và biểu đồ 2 cho thấy

việc Hoa Kỳ sử dụng zeroing có thể làm tăng các biên độ phá giá so với mức được tính ở

trên khi không sử dụng zeroing. Bài toán cũng chỉ ra rằng mức tăng của biên độ phá giá

có sử dụng zeroing phụ thuộc chủ yếu vào phạm vi phân tán giá cả trong các giao dịch

của doanh nghiệp nước ngoài tại thị trường Hoa Kỳ. Độ phân tán giá cả càng lớn (các yếu

tố khác như nhau) thì độ chênh lệch giữa thuế có sử dụng và không sử dụng zeroing càng

cao.

Trong phần V ở trên đưa ra một kết quả khá rắc rối về độ phân tán giá cả có liên

quan được sử dụng trong đơn kiện của các nhà sản xuất dụng cụ máy móc cũng như là tài

liệu ‘từ giá cả đến thị trường’ như trong nghiên cứu của Knetter và Lach. Đơn kiện của

các nhà sản xuất dụng cụ máy móc của Nhật Bản yêu cầu hệ số biến thiên giá tại thị

21 Các giá trong NIS

Page 19: Phuong Phap Zeroing Trong Thuc Thi Luat Chong Ban Pha Gia Cua Hoa Ky

trường Hoa Kỳ của các nhà sản xuất ổ bi của Nhật Bản trong phạm vi 0,18. Trung bình

hệ số biến thiên của 5 sản phẩm trong nghiên cứu của Lach là 0,121. Mặt khác, hệ số biến

thiên của giá cả (tại các quốc gia nhập khẩu) trong nghiên cứu ‘từ giá đến thị trường’ của

knetter là trong phạm vi 1,15.

VI B.) Tần số, mức độ và chi phí của thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ

Năm 2003, có 359 vụ kiện chống bán phá giá của Hoa Kỳ chưa trả hết thuế. Từ

năm 1980 đến năm 1995, mỗi năm có thêm 21 vụ xếp vào danh sách này. 22 Từ năm 1995

đến năm 1999, trung bình mỗi năm có 26 cuộc điều tra chống bán phá mới của Hoa Kỳ

được khởi xướng, và có khoảng 16 vụ xếp vào danh sách này. Theo một nghiên cứu của

CBO, năm 1999, Hoa Kỳ xử lý 267 vụ kiện chống bán phá giá với mức thuế trung bình là

47,6%. Khoảng thời gian trung bình của một vụ kiện chống bán phá giá sau khi Hoa Kỳ

thông qua vòng đàm phán Uruguay 1995 là 8 năm. 23

Một số biện chứng cho luật chống bán phá giá là sự bảo hộ động vật nước ngoài,

và việc tận dụng các thời điểm thuế tối ưu giữa chúng. Tuy nhiên nhiều nhà quan sát vẫn

bị thuyết phục rằng các mức thuế này chỉ nên xem như là sự bảo hộ nhập khẩu đơn giản. 24. Năm 1990, một số nghiên cứu của Gallaway, Blonigen va Flynn đã chỉ ra rằng thuế

chống bán phá giá hay thuế chống trợ cấp của Hoa Kỳ đánh vào các sản phẩm nhập khẩu

vào thị trường Hoa Kỳ khoảng 24,2 tỉ Đô la, và tiêu tốn một khoản chi phí xã hội của

nước này là khoảng 3,95 tỉ Đô la 25 [Gallaway, Blonigen và Flynn, 1999]. Nếu các mức

thuế chống bán phá giá bằng một nửa số thuế này và bằng trung bình các mức thuế chống

22 Tất cả các số liệu này lấy từ dữ liệu của NBER về các loại thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ do Bruce Blonigen và những người cộng tác với ông thu thập. 23 Trong bảng 2 của nghiên cứu của CBO, nếu trung bình mỗi năm có 16,4 vụ kiện chống bán phá giá mới được giải quyết, và nếu mỗi vụ kéo dài trung bình là 8,2 năm (theo nghiên cứu của CBO là trung bình khoảng thời gian của các đơn kiện tại vòng đàm phán Uruguay) thì trong thực tế chỉ có khoảng một nửa số vụ kiện vẫn còn đang tiếp tục. (134, đúng hơn là 267) Rõ ràng là các vụ kiện chống bán phá giá trước đây kéo dài hơn các vụ kiện hiện nay. 24 Mặc dù có khả năng bóc lột, nhưng nhiều nhà quan sát có sự nghi ngờ về tần số của nó, chẳng hạn như Kobayashi (sắp đến). Và thậm chí sự bóc lột nước ngoài là một mối đe dọa nghiêm trọng thì các nguyên tắc như luật chống bán phá giá có thể là phương pháp rất tốn kém để chống lại nó, vì thuế có thể đánh trong cả những trường hợp không có sự bóc lột. Lý luận về thuế tối ưu là một quốc gia lớn như Hoa Kỳ nên tận dụng lợi thế về sức mạnh mà họ có trong việc mua các sản phẩm nhập khẩu. Ngược lại, rất khó hiểu là các nguyên tắc chống bán phá giá là một phương pháp dễ hiểu về việc khai thác khả năng này. 25 Các nghiên cứu như của Galloway, Blonigen và Flynn đã chỉ ra rằng các doanh nghiệp Hoa Kỳ đã thu được lợi ích từ sự bảo hộ nhập khẩu. Tuy nhiên, nhìn chung các nghiên cứu này cho thấy người tiêu dùng Mỹ bị mất nhiều hơn là được.

Page 20: Phuong Phap Zeroing Trong Thuc Thi Luat Chong Ban Pha Gia Cua Hoa Ky

trợ cấp thì thuế chống bán phá giá đánh vào các sản phẩm nhập khẩu vào Hoa Kỳ là

khoảng 12 tỉ Đô la với mức chi phí xã hội gần 2 tỉ Đô la.26

VI C.) Chi phí của zeroing

VI C i.) Giới hạn chi phí thấp hơn của zeroing đối với Hoa Kỳ.

Như đã nói ở trên, nghiên cứu của Lach được trích dẫn ở trên dường như là để lập

một giới hạn thấp hơn cho độ phân tán giá cả tại thị trường Hoa Kỳ đối với những sản

phẩm trong các vụ kiện chống bán phá giá. Nếu giá của các sản phẩm nhập khẩu của Hoa

Kỳ chịu thuế chống bán phá giá bị phân tán như trong nghiên cứu của Lach – với hệ số

biến thiên bằng 0,121, và nếu các quan sát giá tại thị trường Hoa Kỳ của các sản phẩm

này được phân tán đồng đều thì việc sử dụng zeroing có thể chiếm khoảng 2,5% trong

tổng số 47,6% trung bình thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ. Nếu Gallaway, Blonigen

và Flynn ước lượng đúng chi phí của các nguyên tắc chống bán phá giá của Hoa Kỳ thì

2,5% này có thể lên tới 105 triệu Đô la trong số chi phí xã hội hàng năm của Hoa Kỳ.

Mặt khác, nếu giá của các sản phẩm nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ bị đánh thuế

chống bán phá có hệ số biến thiên bằng 0,121 như trong nghiên cứu của Lach, nhưng các

giá nhập khẩu được phân bổ bình thường thì việc sử dụng zeroing có thể chỉ chiếm

khoảng 0,7% số thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ với một chi phí nhỏ hơn nhiều –

khoảng 30 triệu Đô la /năm.27

VI C ii.) Chi phí khi có sử dụng zeroing có thể lớn hơn đối với Hoa Kỳ.

Đơn kiện của các nhà sản xuất dụng cụ máy móc của Nhật Bản chỉ là những ước

lượng về độ phân tán giá nhập khẩu của Hoa Kỳ mà bị phân tán thực sự từ chuỗi giá cả

cho trước. Hiểu theo cách thông thường, nó có thể chính xác nhất của ba ước lượng. Độ

phân tán giá cả trong trường hợp của các nhà sản xuất dụng cụ của Nhật Bản – mà trong

giả định ở trên thì độ phân tán các giá nhập khẩu là đồng nhất – có hệ số biến thiên là 26 Thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ cao hơn nhiều so với thuế đối kháng của nước này. Vì thế, tôi cho rằng rất có khả năng thuế chống bán phá giá cao hơn nhiều so với một nửa con số được trích dẫn trong nghiên cứu của Gallaway, Blonigen và Flynn. Tuy nhiên dữ liệu tổng hợp khối lượng các sản phẩm nhập khẩu bị đánh thuế chống bán phá giá không dễ dàng xác định được. 27 Các quan sát phân bổ bình thường tập trung ngay xung quanh mức trung bình hơn là trường hợp phân bổ đồng đều với cùng mức trung bình và độ lệch chuẩn. Và độ phân tán xung quanh mức trung bình lớn hơn ám chỉ tác động của zeroing lớn hơn.

Page 21: Phuong Phap Zeroing Trong Thuc Thi Luat Chong Ban Pha Gia Cua Hoa Ky

0,18. Kết quả này lớn hơn ước lượng trong nghiên cứu của Lach, tuy nhiên, như đã đề

cập ở trên, thì lại nhỏ hơn nhiều so với ước lượng qua các quốc gia trong nghiên cứu ‘từ

giá cả đến thị trường’. Hệ số biến thiên trong vụ kiện ổ bi ở trên – bằng 0,18 – chỉ ra rằng

zeroing có thể chiếm khoảng 3,7% trong mức trung bình thuế phá giá của Hoa Kỳ là

47,6%. Nếu kết quả này chính xác thì trong vụ kiện này, chi phí xã hội hàng năm của

zeroing đối với Hoa Kỳ có thể cao hơn 150 triệu Đô la/năm. Và tất nhiên, nếu độ phân

tán các giá nhập khẩu bằng với mức trong nghiên cứu ‘từ giá cả đến thị trường’ thì chi

phí của zeroing có thể cao hơn nhiều.

Tham khảo

Blonigen, Bruce, và Haynes, Stephen, “Antidumping Investigations and the Pass-

Through of Antidumping Duties and Exchange Rates”, American Economic Review,

Volume 92, No. 4, September, 2002, pp. 1044-1061.

Blonigen, Bruce, and Park, Jee-Hyeong, “Dynamic Pricing in the Presence of

Antidumping Policy: Theory and Evidence” American Economic Review, Vol. 94, No. 1,

March, 2004, pp.134-154.

Business Alert-U.S., “Democrats Urge Administration to Take Measures to Reduce Trade

Deficit”, Issue 05 March 1, 2007.

Gagnon, Joseph, and Knetter, Michael, “Markup Adjustment and Exchange Rate

Fluctuations: Evidence from Panel Data on Automobile Exports”, NBER Working Paper

No. 4123, July, 1992.

Kobayashi, Bruce, “George Mason University Law and Economics Research Paper,

08-41", forthcoming in Antitrust Law and Economics, Edward Elgar Publishing, Keith

Hylton, ed.

Knetter, Michael, “Price Discrimination by U.S. and German Exporters”, American

Economic Review, Vol. 79, No. 1, March, 1989, pp. 198-210.

Knetter, Michael, “International Comparisons of Pricing-to-Market Behavior”, American

Economic Review, Vol. 83, No. 3, June, 1993, pp. 473-486.

Page 22: Phuong Phap Zeroing Trong Thuc Thi Luat Chong Ban Pha Gia Cua Hoa Ky

Lach, Saul, “Evidence and Persistence of Price Dispersion: An Empirical Analysis”. NBER

Working Paper, No. 8737, January, 2002.

Staiger, Robert, and Wolak, Frank, “Measuring Industry-Specific Protection:

Antidumping in the United States”, Brookings Papers on Economic Activity,

Microeconomics, 1004, pp. 51-118.

Tirole, Jean, The Theory of Industrial Organization, The MIT Press, Cambridge,

Massachusetts, 1989.

United States Department of Commerce Antidumping Manual, 1998.

Varian, Hal, “A Model of Sales”, American Economic Review, Vol. 70, 1980, pp. 651-

659. WTO.org (World Trade Organization Web Site), for Disputes DS322 (U.S./Japan,

Ball Bearings), DS344 (U.S./Mexico, stainless Steel)

Biểu đồ 1: Giá trung bình có sử dụng zeroing tại Hoa Kỳ [U(FZ)] như là một hàm số

của giá trung bình không có sử dụng zeroing tại Hoa Kỳ [U(F)] với độ phân tán

đồng đều của các quan sát giá tại thị trường Hoa Kỳ trong phạm vi 1

Page 23: Phuong Phap Zeroing Trong Thuc Thi Luat Chong Ban Pha Gia Cua Hoa Ky

Biểu đồ 2: Thuế chống bán phá giá có sử dụng zeroing [AD(zeroing)] như là một

hàm số của thuế chống bán phá giá không sử dụng zeroing [AD(no zeroing)] với độ

phân tán đồng đều của các quan sát giá tại thị trường Hoa Kỳ trong phạm vi 1

[AD = 0,2 tức là thuế chống bán phá giá là 20%]

Biểu đồ A

Hàm số tương quan xác suất của các quan sát giá tại thị trường Hoa Kỳ

(Giá thông thường = 1.)

Page 24: Phuong Phap Zeroing Trong Thuc Thi Luat Chong Ban Pha Gia Cua Hoa Ky

Biểu đồ B

Hàm số tương quan xác suất của các quan sát giá tại thị trường Hoa Kỳ

(Giá thông thường = µH)

Biểu đồ 3

Page 25: Phuong Phap Zeroing Trong Thuc Thi Luat Chong Ban Pha Gia Cua Hoa Ky

Biểu đồ 4: Thuế chống bán phá giá có sử dụng zeroing của Hoa Kỳ đối với 22 loại ổ

bi của Nhật Bản như là một hàm số của thuế chống bán phá giá của các sản phẩm

này mà không sử dụng zeroing