PHƯƠNG CÁCH QUẢN LÝ NHÀ...
Transcript of PHƯƠNG CÁCH QUẢN LÝ NHÀ...
TRƯỜNG ÐẠI HỌC CẦN THƠKHOA LUẬT
GIÁO TRÌNHLUẬT HÀNH CHÍNH VIỆT NAM
PHẦN II
PHƯƠNG CÁCH QUẢN LÝ NHÀ NƯỚCBiên soạn: TS. PHAN TRUNG HIỀN
Cần Thơ, năm 2009
1
A. CÁCH THỨC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
Chương I. NỘI DUNG - HÌNH THỨC- PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
I. NỘI DUNG, HÌNH THỨC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
1.Nội dung quản lý nhà nước
Nội dung của quản lý nhà nước là việc tổ chức thực hiện quản lý nhà nước trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Ðây chính là hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật trong
từng lĩnh vực của đời sống xã hội cho nên tương xứng với mỗi lĩnh vực có một nội dung
quản lý khác nhau.
Nội dung của quản lý hành chính nhà nước rất đa dạng và phong phú, được tiến hành trên
nhiều lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng...Vì vậy không thể chỉ ra
được nội dung cụ thể của quản lý hành chính nhà nước mà chỉ có thể nêu lên những nội
dung cơ bản, mang tính chất tổng quát mà thôi.
2. Hình thức quản lý nhà nước
a. Khái niệm
Khái niệm:
Hình thức quản lý hành chính nhà nước là những biểu hiện ra bên ngoài của nội dung
quản lý hành chính nhà nước, thông qua những biểu hiện này chủ thể quản lý hành chính
nhà nước tác động đến đối tượng quản lý để đạt được những mục đích đã định trước.
Nội dung của quản lý hành chính nhà nước rất đa dạng nên hình thức của chúng cũng rất
phong phú. Vì thế đứng trước một điều kiện, hoàn cảnh trong đó có chứa đựng những nội
dung quản lý thì việc các chủ thể quản lý lựa chọn hình thức nào đó để quản lý mang lại
hiệu quả cao nhất. Hình thức quản lý nhà nước, vì vậy không phụ thuộc vào ý chí chủ
quan của chủ thể quản lý mà phụ thuộc vào những yếu tố sau:
Ðặc tính của đối tượng quản lý;
Ðiều kiện, hoàn cảnh xảy ra quá trình quản lý;
Mục đích của quản lý;
2
Pháp luật hiện hành.
Việc lựa chọn hình thức quản lý hành chính nhà nước cần phải được tiến hành trên cơ sở
những quy luật nhất định. Trong đó có:
- Quy luật về sự phù hợp của hình thức quản lý với chức năng quản lý;
- Quy luật về sự phù hợp của hình thức quản lý với nội dung và tổ chức của những vấn
đề quản lý cần giải quyết;
- Quy luật về sự phù hợp của hình thức quản lý với những đặc điểm của đối tượng quản
lý cụ thể;
- Quy luật về sự phù hợp của hình thức quản lý với mục đích cụ thể của hoạt động quản
lý.
b. Phân loại các hình thức quản lý nhà nước
Ðể đảm bảo sự lựa chọn hình thức quản lý nhà nước đúng đắn, đảm bảo tổ chức quản lý
hợp lý, khoa học cần phải phân loại các hình thức quản lý hành chính nhà nước thành
những nhóm gồm những hoạt động quản lý giống nhau hay tương tự nhau về tính chất,
nội dung, những biểu hiện bề ngoài... Những hình thức cụ thể của hoạt động quản lý hành
chính nhà nước thường liên quan hữu cơ với những hình thức pháp luật của hoạt động
nhà nước nói chung. Nét đặc trưng của quản lý hành chính nhà nước là những hình thức
pháp lý liên kết chặt chẽ với nhau trên cơ sở sự thống nhất của chức năng chấp hành- điều
hành. Vì thế để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình các chủ thể của quản lý hành
chính nhà nước cần phải xác lập những quy tắc xử sự dưới luật trong vấn đề thẩm quyền
của mình; tiến hành hoạt động điều hành mà nội dung là áp dụng quy phạm pháp luật,
giải quyết những điểm còn tranh luận của việc áp dụng pháp luật, đánh giá hành vi xử sự
của các bên tham gia quản lý hành chính nhà nước và áp dụng các biện pháp tác động có
tính chất bắt buộc trong những trường hợp pháp luật quy định.
Căn cứ vào tính chất pháp lý của hoạt động quản lý, ta phân loại thành hai hình thức
chủ yếu sau:
- Hình thức pháp lý: là những hình thức quản lý nhà nước trực tiếp tác động đến các đối
tượng chịu sự quản lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt nghĩa vụ pháp lý;
Ví dụ: Ủy ban nhân dân Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Chỉ thị xuống các Ủy ban nhân
dân huyện.
3
- Thực tiễn quản lý hành chính nhà nước cho thấy rằng hoạt động quản lý hành chính nhà
nước còn có thể được tiến hành dưới những hình thức không pháp lý. Tuy nhiên, hình
thức không pháp lý cũng yêu cầu chủ thể quản lý hành chính phải tiến hành hoạt động
quản lý nhà nước trên cơ sở pháp luật và để thực hiện pháp luật.
Ví dụ: Tổ chức hội nghị tổng kết, rút kinh nghiệm 05 năm thực hiện Chỉ thị của Thủ
tướng Chính phủ.
Sự khác nhau giữa hình thức pháp lý và hình thức không pháp lý thể hiện ở chỗ hình thức
pháp lý trực tiếp hoặc gián tiếp làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt những quan hệ pháp
luật hành chính. Tuy nhiên, trong khi tiến hành hoạt động quản lý nhà nước các chủ thể
quản lý hành chính phải sử dụng kết hợp cả hai hình thức này.
Căn cứ vào tính chất và nội dung hoạt động, hình thức quản lý hành chính nhà nước
thành năm loại sau:
Ban hành những văn bản quy phạm pháp luật;
Ban hành những văn bản áp dụng pháp luật;
Thực hiện những hoạt động mang tính chất pháp lý khác;
Áp dụng những biện pháp mang tính chất trực tiếp;
Thực hiện những hoạt động về nghiệp vụ-kỹ thuật.
Cần lưu ý rằng, để thực hiện một hoạt động quản lý nhà nước có hiệu quả, trong nhiều
trường hợp, chủ thể quản lý cần phải kết hợp một số hình thức trong quản lý.
Ví dụ: khi lũ lụt xảy ra, Ủy ban nhân dân tỉnh nơi có lũ lụt sẽ tiến hành các hoạt động
như:
- Ủy ban nhân dân tỉnh triệu tập cuộc họp triển khai kế hoạch phòng chống lũ lụt;
- Sau đó áp dụng khoa học kỹ thuật, áp dụng những biện pháp tổ chức về vật chất, kỹ
thuật để phòng chống lũ lụt.
Như vậy các hình thức quản lý được tiến hành ở đây gồm:
+ Ban hành văn bản quy phạm pháp luật;
+ Áp dụng biện pháp tổ chức trực tiếp;
+ Thực hiện những tác động về nghiệp vụ -kỹ thuật.
c. Phân tích hình thức quản lý nhà nước
Hình thức ban hành văn bản quy phạm pháp luật
4
Ðây là hình thức rất quan trọng đối với hoạt động quản lý hành chính nhà nước, bởi vì
nhờ có hình thức này mà các chủ thể quản lý hành chính nhà nước cụ thể hóa, chi tiết hóa
những quy định của Hiến pháp, luật trong từng lĩnh vực của đời sống xã hội. Mặt khác,
cũng nhờ hình thức này mà ý chí của nhà nước được thể hiện và tác động đến các đối
tượng quản lý.
Thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật là phương tiện hữu hiệu để các chủ
thể quản lý hành chính nhà nước tác động tích cực lên các lĩnh vực của đời sống xã hội
thuộc thẩm quyền quản lý của mình trong khuôn khổ những yêu cầu chung của pháp luật.
Nhờ việc ban hành những văn bản quy phạm pháp luật mà vai trò điều khiển của hoạt
động chấp hành và điều hành được thể hiện một cách đầy đủ hơn, nếu không có thẩm
quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì hoạt động của các chủ thể quản lý hành
chính nhà nước chỉ có tính chất chấp hành thụ động, đơn giản mà không mang tính chủ
động, sáng tạo.
Thông qua hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật hành chính, các chủ thể quản
lý hành chính nhà nước ấn định những quy tắc xử sự chung trong quản lý hành chính nhà
nước; quy định những nhiệm vụ cụ thể, quyền hạn và nghĩa vụ, thẩm quyền và trách
nhiệm của các bên tham gia quan hệ quản lý hành chính nhà nước; xác định những mối
liên hệ chủ yếu giữa các bộ phận của hình thức quản lý hành chính nhà nước; quy định
những hạn chế và những điều ngăn cấm, đặt ra những nghĩa vụ đặc biệt hay trao quyền
đặc biệt, thực hiện chức năng bảo vệ pháp luật và đặt ra những quy định chung cho trật tự
quản lý hành chính nhà nước.
Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật đóng vai trò quan trọng trong quản lý hành
chính nhà nước cho nên khi ban hành nó phải tuân theo những yêu cầu do pháp luật quy
định. Cụ thể:
- Phải đúng thẩm quyền;
- Phải đúng trình tự, thủ tục và hình thức để đảm bảo chất lượng của văn bản;
- Phải đảm bảo hiệu lực của văn bản;
- Không được trái với Hiến pháp và luật (đảm bảo tính pháp chế xã hội chủ nghĩa);
- Ngôn ngữ được sử dụng phải là tiếng Việt, văn bản phải bảo đảm tính chính xác, rõ
ràng, dễ hiểu.
5
Thông qua hình thức ban hành văn bản quy phạm pháp luật hành chính, các chủ thể quản
lý hành chính nhà nước xác định địa vị pháp lý của chủ thể tham gia vào quản lý hành
chính nhà nước.
Tóm lại, trong các văn bản quy phạm pháp luật, các cơ quan hành chính nhà nước quy
định những quy tắc chung trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước; những nhiệm vụ,
quyền hạn và nghĩa vụ cụ thể của các bên tham gia quan hệ quản lý hành chính nhà
nước, xác định rõ thẩm quyền và thủ tục hoạt động của các đối tượng quản lý.
Ban hành những văn bản áp dụng pháp luật
Ðây là hình thức được chủ thể quản lý hành chính nhà nước áp dụng chủ yếu trong quá
trình quản lý hành chính nhà nước vì nhờ hình thức này mà quy phạm pháp luật đi sâu
vào đời sống thực tiễn. Việc ban hành văn bản áp dụng quy phạm pháp luật làm phát
sinh, thay đổi, chấm dứt những quan hệ pháp luật hành chính giữa chủ thể quản lý hành
chính với đối tượng quản lý hành chính.
Ví dụ: Việc ra một quyết định xử phạt vi phạm hành chính của cảnh sát giao thông sẽ làm
phát sinh quan hệ pháp luật hành chính giữa cảnh sát giao thông với người vi phạm; làm
phát sinh quyền và nghĩa vụ cụ thể của các chủ thể liên quan đến lợi ích vật chất hoặc
tinh thần của các chủ thể đó.
Ðặc trưng của văn bản áp dụng quy phạm pháp luật hành chính cũng như các văn bản quy
phạm pháp luật hành chính là tính chất quyền lực và tính dưới luật. Tuy nhiên, những văn
bản áp dụng quy phạm pháp luật khác nhau về nội dung, tính chất, mục đích nên có thể
chia chúng thành hai nhóm:
- Nhóm văn bản chấp hành pháp luật.
- Nhóm văn bản bảo vệ pháp luật.
Trong trường hợp ban hành văn bản chấp hành pháp luật, các chủ thể quản lý hành chính
nhà nước áp dụng hoặc hiện thực hóa phần quy định của quy phạm pháp luật tương ứng.
Còn trong trường hợp ban hành những văn bản bảo vệ pháp luật thì các chủ thể của quản
lý hành chính nhà nước áp dụng hoặc hiện thực hóa phần chế tài của những quy phạm
pháp luật tương ứng. Thông qua việc ban hành những văn bản áp dụng quy phạm pháp
luật các chủ thể của quản lý hành chính nhà nước tác động một cách trực tiếp và tích cực
đến mọi mặt hoạt động của các cơ quan cấp dưới, các cơ quan, xí nghiệp và tổ chức trực
6
thuộc, các tổ chức phi Chính phủ và công dân tham gia vào quan hệ quản lý hành chính
nhà nước.
Việc áp dụng các văn bản quy phạm pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của
các đối tượng có liên quan nên đòi hỏi chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản phải tuân
theo những yêu cầu của pháp luật như: đúng thẩm quyền, đúng mục đích và nội dung mà
quy phạm pháp luật hành chính điều chỉnh, đúng trình tự thủ tục để đảm bảo chất lượng,
phải được tiến hành nhanh chóng, kịp thời, công khai và đúng pháp luật, việc áp dụng
hình thức của văn bản áp dụng quy phạm pháp luật phải đúng với hình thức do pháp luật
quy định, kết quả của việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật hành chính phải được
thực hiện trong đời sống.
Thực hiện những hoạt động mang tính chất pháp lý khác
Ðây là một hình thức được chủ thể quản lý hành chính nhà nước áp dụng thường xuyên.
Hình thức này mang tính chất pháp lý vì nó được pháp luật quy định, bao gồm những
hoạt động như:
- Áp dụng các biện pháp nhằm ngăn chặn và phòng ngừa vi phạm hành chính như kiểm
tra bằng lái xe, kiểm tra việc đăng ký tạm trú, tạm vắng...
- Ðăng ký những sự kiện nhất định như: đăng ký khai sinh, khai tử...
- Lập và cấp một số giấy tờ nhất định, cấp bằng lái xe...
Trong những hoạt động mang tính chất pháp lý khác thì hoạt động công chứng, chứng
thực có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ
chức, nhà nước. Hoạt động này được thực hiện trên cơ sở những tài liệu được chứng thực.
Vì thế mà nó mang tính chất pháp lý mặc dù nó không trực tiếp làm phát sinh hậu quả
pháp lý.
Như vậy, những hoạt động mang tính chất pháp lý khác có thể trực tiếp làm phát sinh
quan hệ pháp luật hành chính nhưng cũng có thể chỉ mang tính chất bổ trợ làm phát sinh,
thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật hành chính.
Áp dụng những biện pháp tổ chức trực tiếp
Ðây là những hình thức được chủ thể quản lý hành chính nhà nước áp dụng thường xuyên
mang tính chất bổ trợ cho quá trình quản lý hành chính nhà nước nhưng nó đóng một vai
trò quan trọng. Thông qua hình thức này các chủ thể quản lý hành chính nhà nước tiến
7
hành nâng cao ý thức pháp luật cho đối tượng quản lý, giao nhiệm vụ, biểu dương những
điển hình tiên tiến...
Ví dụ: Họp triển khai Nghị quyết Ðảng Cộng sản.
Kết quả của việc thực hiện những biện pháp tổ chức trực tiếp không tạo ra những quy tắc
bắt buộc chung, không làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quan hệ pháp luật. Tuy
nhiên, hoạt động này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nó là khâu then chốt trong việc giải
quyết những nhiệm vụ đặt ra cho các cơ quan hành chính nhà nước trong việc mở rộng
một cách toàn diện công tác tổ chức quần chúng, trong việc nghiên cứu và phổ biến
những kinh nghiệm tiên tiến.
Ðối với hoạt động tổ chức trong bộ máy hành chính nhà nước cần nhấn mạnh đến công
tác hướng dẫn, giải thích, kiểm tra, tổ chức công tác trong bộ máy của những cơ quan
này. Khi thực hiện những hoạt động này không cần ban hành văn bản áp dụng quy phạm
pháp luật mà chỉ thực hiện theo trình tự, thủ tục, hoạt động thông thường của các cơ quan
hành chính nhà nước.
Thực hiện những hoạt động về nghiệp vụ - kỹ thuật
Ðây là những hoạt động sử dụng kiến thức, nghiệp vụ, áp dụng thành tựu khoa học kỹ
thuật vào quá trình quản lý hành chính nhà nước. Những hoạt động này rất đa dạng, đó là
việc chuẩn bị tài liệu cho việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật và áp dụng quy
phạm pháp luật cho việc tiến hành những biện pháp tổ chức, làm báo cáo, công tác lưu trữ
hồ sơ...
Ðây cũng là hình thức không mang tính pháp lý bắt buộc mà tùy thuộc vào điều kiện
quản lý, đối tượng quản lý, tùy thuộc vào sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật mà áp dụng
cho phù hợp.
Ví dụ: Sử dụng điện toán vào quản lý lương, quản lý giao thông đô thị; sử dụng thẻ ATM
vào việc trả lương và hoạt động thanh toán trong, ngoài nước...
Hình thức này có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả quản lý hành chính
nhà nước cũng như trong việc cải cách nền hành chính quốc gia. Khoa học càng phát triển
thì hình thức này càng được áp dụng rộng rãi và hiệu quả trong công tác quản lý hành
chính nhà nước ngày càng được nâng cao.
Ngoài ra, việc lựa chọn hình thức quản lý hành chính nhà nước không chỉ phụ thuộc vào
những đặc điểm của quan hệ quản lý, những đặc điểm của đối tượng quản lý mà còn phụ
8
thuộc vào năng lực của người lãnh đạo. Người lãnh đạo có năng lực chuyên môn và năng
lực tổ chức sẽ tìm ra phương án tốt nhất hoàn thành nhiệm vụ được giao.
II. PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm
Theo nghĩa hẹp
Phương pháp quản lý hành chính nhà nước là cách thức mà chủ thể quản lý hành chính
nhà nước sử dụng đối với đối tượng quản lý nhằm đạt được những mục đích đã định
trước. Có nhiều cách tác động như tác động trực tiếp, tác động gián tiếp, tác động để đối
tượng có liên quan tự giác thực hiện yêu cầu, tác động để đối tượng có liên quan bắt buộc
phải thực hiện...
Thông qua phương pháp quản lý ta thấy được tính chất và nội dung của các mối quan hệ
giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý. Phương pháp quản lý thể hiện ý chí của nhà
nước và chính vì vậy mà nó có hình thức pháp lý nhất định.
Theo nghĩa rộng
Phương pháp quản lý hành chính nhà nước là cách thức mà chủ thể của quản lý hành
chính nhà nước sử dụng để tác động đến đối tượng quản lý nhằm đạt được những hành vi
xử sự cần thiết. Các phương pháp quản lý hành chính nhà nước còn là cách thức tổ chức
hoạt động của các chủ thể quản lý, thể hiện cách thức giải quyết những vấn đề phát sinh
trong quá trình quản lý.
Như vậy, hiểu theo nghĩa hẹp thì phương pháp quản lý hành chính nhà nước với tính cách
là cách thức tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý, còn phương pháp quản lý
hành chính nhà nước theo nghĩa rộng với tính cách là cách thức tổ chức công tác của chủ
thể quản lý và cách thức giải quyết những vấn đề cụ thể phát sinh trong quá trình quản lý.
Tuy nhiên, trong giới hạn của nội dung môn học ta chỉ nghiên cứu phương pháp quản lý
hành chính nhà nước theo nghĩa hẹp và các phương pháp quản lý này phải đáp ứng những
yêu cầu sau:
- Phải có khả năng đảm bảo tác động quản lý lên các lĩnh vực chủ yếu của quản lý hành
chính nhà nước, có tính đến đặc điểm của mỗi lĩnh vực và sự phát triển chung của xã hội.
9
- Phải đa dạng và thích hợp để tác động lên những đối tượng khác nhau, bởi vì cách
thức tác động lên cá nhân không giống cách thức tác động lên tập thể, cách thức tác động
lên đối tượng trực thuộc trực tiếp không giống đối tượng trực thuộc gián tiếp.
- Phải có tính hiện thực, có khả năng thực hiện trên thực tế, đem lại hiệu quả cao.
- Phải có tính mềm dẻo, linh hoạt, sáng tạo.
- Phải phù hợp với đường lối, chính sách chính trị của Ðảng trong từng giai đoạn cụ
thể.
Ðể lựa chọn một phương pháp quản lý phù hợp thì chủ thể quản lý có thể dựa vào ý chí
chủ quan của mình mà phải dựa vào những điều kiện khách quan, phải căn cứ vào đặc
tính của quản lý, đối tượng quản lý, điều kiện hoàn cảnh xảy ra quá trình quản lý. Việc
lựa chọn được một phương pháp quản lý phù hợp, đúng đắn sẽ mang lại hiệu quả cho
hoạt động quản lý hành chính nhà nước, đáp ứng lợi ích xã hội và của việc thực hiện hoạt
động chấp hành và điều hành.
Dựa theo những yêu cầu trên, hiện nay có các phương pháp được áp dụng phổ biến trong
quá trình quản lý hành chính nhà nước, đó là các phương pháp sau:
Phương pháp thuyết phục.
Phương pháp cưỡng chế nhà nước.
Phương pháp hành chính.
Phương pháp kinh tế.
Phương pháp quản lý có mục tiêu, định hướng.
Phương pháp quản lý tác nghiệp.
Phương pháp kiểm tra.
2. Các phương pháp quản lý nhà nước
a. Phương pháp thuyết phục
Là một quá trình bao gồm hàng loạt các hoạt động của chủ thể quản lý hành chính nhà
nước như phân tích, giải thích, chứng minh, khuyến khích, giáo dục...để tác động đến đối
tượng quản lý làm cho đối tượng quản lý tự giác tuân theo mệnh lệnh của chủ thể quản lý
hoặc cộng tác với chủ thể quản lý để đạt được mục đích quản lý với hiệu quả cao nhất.
Phương pháp thuyết phục mang tính chất quyền lực nhà nước và tính pháp lý bởi vì trong
chế độ xã hội của nhà nước ta, quản lý hành chính nhà nước là thực hiện quyền lực của
10
nhân dân nên lợi ích cơ bản giữa nhà nước và nhân dân phù hợp với nhau vì thế mà sử
dụng phương pháp thuyết phục mang lại hiệu quả cao.
Phương pháp thuyết phục được áp dụng trước hết đối với các đối tượng quản lý chưa vi
phạm pháp luật hay nhất thời vi phạm và đã có ý thức sửa chữa. Thông qua phương pháp
này, các chủ thể của quản lý hành chính nhà nước giáo dục cho công dân nhận thức đúng
đắn về kỷ cương xã hội, kỷ luật nhà nước, động viên họ tự giác thực hiện nghĩa vụ đối
với nhà nước và xã hội, đảm bảo và mở rộng dân chủ.
b. Phương pháp cưỡng chế nhà nước.
Là biện pháp bắt buộc bằng bạo lực do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng đối
với cá nhân, tổ chức nhằm hạn chế về tài sản hay tự do thân thể của cá nhân, tổ chức
nhằm trừng trị những hành vi vi phạm pháp luật hay để phòng ngừa, ngăn chặn hành vi vi
phạm pháp luật.
Phương pháp cưỡng chế trong quản lý hành chính nhà nước là sự sử dụng những quyết
định bắt buộc đơn phương đối với đối tượng quản lý, phương pháp này thường được áp
dụng trong những trường hợp quyết định đơn phương không được thực hiện một cách tự
giác. Phương pháp này đóng một vai trò quan trọng trong quản lý hành chính nhà nước,
nếu không có cưỡng chế thì kỷ luật nhà nước không được đảm bảo, pháp chế không được
tôn trọng.
Có ba loại cưỡng chế nhà nước:
- Cưỡng chế tư pháp
- Cưỡng chế hành chính
- Cưỡng chế kỷ luật.
Cưỡng chế tư pháp:
Bao gồm cưỡng chế hình sự và cưỡng chế dân sự. Do cơ quan tòa án áp dụng theo trình
tự tố tụng hình sự hay tố tụng dân sự, áp dụng đối với các hành vi vi phạm pháp luật hình
sự hay pháp luật dân sự.
Cưỡng chế hành chính:
Là biện pháp cuỡng chế được tiến hành trước hết và chủ yếu bởi cơ quan hành chính nhà
nước theo trình tự, thủ tục hành chính nhằm xử lý hành vi vi phạm hành chính và ngăn
chặn vi phạm hành chính. Cưỡng chế hành chính bao gồm các hình thức: xử phạt vi phạm
hành chính; các biện pháp phòng ngừa vi phạm hành chính; các biện pháp ngăn chặn vi
11
phạm hành chính. Ngoài ra còn có các biện pháp khác như biện pháp bảo đảm việc xử lý,
cưỡng chế thi hành và khắc phục hậu quả của vi phạm hành chính, biện pháp xử lý hành
chính khác và các biện pháp được áp dụng trong trường hợp thật cần thiết vì lý do an
ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia...
Cưỡng chế kỷ luật:
Là biện pháp cưỡng chế nhà nước do thủ trưởng cơ quan áp dụng đối với cán bộ, công
chức của cơ quan đó khi họ vi phạm nội quy, quy chế của cơ quan hay vi phạm kỷ luật
lao động. Đối với cán bộ, cưỡng chế kỷ luật bao gồm các hình thức sau (Điều 78 Luật cán
bộ, công chức):
- Khiển trách;
- Cảnh cáo;
- Cách chức;
- Bãi nhiệm.
Riêng đối với công chức, cưỡng chế kỷ luật bao gồm các hình thức sau (Điều 79 Luật cán
bộ, công chức):
- Khiển trách;
- Cảnh cáo;
- Hạ bậc lương;
- Giáng chức;
- Cách chức;
- Buộc thôi việc.
Tất cả những hình thức này được áp dụng tùy theo đối tượng, mang tính chất quyền lực
cao và mang tính pháp lý chặt chẽ. Về nguyên tắc, phương pháp cưỡng chế được áp dụng
đối với các đối tượng vi phạm pháp luật, chống đối pháp luật và nó phải được thực hiện
trên cơ sở kết hợp với phương pháp thuyết phục.
c. Phương pháp hành chính
Là phương pháp được chủ thể quản lý sử dụng bằng cách ra mệnh lệnh chỉ đạo xuống đối
tượng quản lý. Ðặc trưng của phương pháp này là sự tác động trực tiếp lên đối tượng đạt
được bằng cách quyết định đơn phương nhiệm vụ và phương án hoạt động của đối tượng
quản lý. Cơ sở của phương pháp này là nguyên tắc tập trung dân chủ mà cụ thể là sự phục
12
tùng của cấp dưới đối với cấp trên và tính chất bắt buộc thi hành của những chỉ thị, mệnh
lệnh của cấp trên đối với cấp dưới.
Ðể xác định mệnh lệnh, chỉ đạo của cấp trên có hợp pháp hay không thì phải dựa vào
pháp luật. Nếu mệnh lệnh, chỉ đạo không hợp pháp, hợp lý cấp dưới phải kiến nghị bằng
văn bản lên cấp trên, nếu cấp trên buộc phải thực hiện thì cấp dưới vẫn thực hiện và nếu
hậu quả xảy ra thì cấp trên hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Trong trường hợp cấp dưới thực hiện mệnh lệnh bất hợp pháp mà không biết thì tùy vào
hậu quả của sự thiệt hại xảy ra mà có hình thức xử lý thích hợp.
d. Phương pháp kinh tế
Là phương pháp mà chủ thể quản lý dùng những khuyến khích về mặt lợi ích vật chất để
cho đối tượng quản lý đem hết khả năng sáng tạo của mình hoàn thành nhiệm vụ được
giao với hiệu quả cao nhất.
Phương pháp kinh tế sử dụng đòn bẩy kinh tế như quyền tự chủ sáng tạo trong sản xuất
kinh doanh; chế độ hạch toán kinh tế, chế độ khen thưởng... nhằm tạo điều kiện thuận lợi
cho đối tượng quản lý hoạt động có hiệu quả, động viên các đối tượng quản lý phát huy
năng lực sáng tạo, chọn cách tốt nhất để hoàn thành nhiệm vụ, sử dụng hợp lý tài sản
được giao, phát huy và khai thác hợp lý nhất những khả năng sẵn có.
Phương pháp kinh tế chỉ có thể phát triển trong điều kiện được ủng hộ và tạo điều kiện
thuận lợi hay nói cách khác là trong điều kiện có các tiền đề hành chính tương ứng vì so
với phương pháp hành chính thì đằng sau phương pháp kinh tế là tính hợp lý, là các quy
luật chứ không phải là quyền lực nhà nước.
Nếu so sánh các phương pháp hành chính và kinh tế từ góc độ tính ổn định, khả năng
thẩm thấu vào các quan hệ quản lý kinh tế ta thấy rằng phương pháp hành chính có khả
năng nội tại lớn hơn trong việc chiếm lĩnh và duy trì vị trí. Ngoài ra, phương pháp hành
chính còn có khả năng tự khẳng định và phát triển không cần đến đòn bẩy từ bên ngoài
trong khi phương pháp kinh tế đòi hỏi phải được sự ủng hộ và quan tâm thường xuyên.
Bởi vì, đằng sau phương pháp hành chính là quyền lực nhà nước còn đằng sau phương
pháp kinh tế là tính hợp lý, là các quy luật kinh tế. Phương pháp kinh tế chỉ có thể phát
triển trong điều kiện có các tiền đề hành chính tương ứng.
13
e. Phương pháp quản lý có mục tiêu, định hướng
Quản lý nhà nước là một hoạt động có mục đích và có tính tiêu liệu. Hiệu quả của hoạt
động quản lý lâu dài, cũng như khả năng giải quyết các tình huống phát sinh trên thực tế
tùy thuộc rất nhiều vào phương pháp quản lý có mục tiêu, định hướng. Nhìn chung,
phương pháp này có vai trò:
- Chủ động định hướng các mục tiêu, chiến lược, chương trình lâu dài, tránh dàn trải phân
tán, thiếu tập trung.
- Chủ động đặt ra các tình huống phát sinh trong thực tiễn hoạt động của nền hành chính
đang phát triển trong thời kỳ hội nhập.
- Chủ động về nhân sự, và các điều kiện vật chất cần thiết khác cho công tác quản lý,
nhận rõ được điểm mạnh, điểm yếu ngày từ giai đoạn khởi xướng chương trình để có
những hỗ trợ, bồi dưỡng thích hợp.
Ví dụ: Chương trình cải cách hành chính, giai đoạn cắt giảm 1/3 thủ thủ tục hành chính;
chương trình chăm lo nông nghiệp, nông dân và nông thôn trong thời kỳ công nghiệp
hóa…
f. Phương pháp quản lý tác nghiệp
Hoạt động tác nghiệp là các hoạt động trực tiếp phục vụ cho công tác chuyên ngành, thậm
chí từng bộ phận công đoạn của quản lý chuyên ngành. Việc vận dụng nhuần nhuyễn
phương pháp tác nghiệp sẽ đem đến một số hiệu quả:
- Có chương trình bồi dưỡng về kiến thức, kỹ năng, phương pháp tác nghiệp sát với
ngành nghề, cập nhật được kiến thức khoa học hiện đại vào trong công tác quản lý
chuyên ngành.
- Ban hành những quyết định hành chính hoặc thực hiện các hoạt động mang tính chất
nghiệp vụ - kỹ thuật hợp lý, đúng với yêu cầu của chuyên môn.
- Hoạt động quản lý càng về cấp cở sở, càng trực tiếp (đặc biệt trong nhóm quản lý hành
chính tư) thì càng phải chú trọng đến phương pháp quản lý tác nghiệp.
- Phương pháp này, trong chừng mực nhất định có thể làm hạn chế những ý kiến chủ
quan của nhà quản lý để nắm bắt bản chất của đối tượng quản lý và đề ra các hình thức
quản lý thích hợp, sát sườn.
14
g. Phương pháp kiểm tra
Hoạt động quản lý nhà nước là một quá trình từ khi khảo sát đối tượng quản lý, lên
chương trình kế hoạch, đến khi ban hành văn bản chủ đạo, quy phạm, cá biệt và tiến hành
tổ chức thực hiện. Quá trình đòi hỏi phải có khâu hậu kiểm để bảo đảm cho hoạt động
quản lý đúng với tiến trình, yêu cầu và mục đích đặt ra. Hoạt động quản lý vì vậy rất cần
phương pháp kiểm tra nhằm:
- Theo dõi, quan sát quá trình quản lý và kết quả của công tác quản lý đối chiếu với kế
hoạch, mục tiêu
- Có những giải pháp, đối sách thích hợp cho công tác quản lý hiện hành và rút tỉa kinh
nghiệm cho công tác quản lý trong tương lai, điều chỉnh từ khâu lập quy hoạch, kế
hoạch.
- Là tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả của công tác quản lý nhà nước.
Nhìn chung, việc vận dụng các phương pháp quản lý nhà nước đòi hỏi phải linh hoạt,
mềm dẻo và đôi khi phải phối hợp giữa các phương pháp. Tiêu chuẩn về hiệu quả đặt ra
trong công tác quản lý quyết định cho việc sử dụng các phương pháp và hình thức quản lý
tương thích.
---------------------------------------
Câu hỏi
1. Căn cứ để xác định nội dung quản lý hành chính nhà nước?
2. Nêu các phương pháp quản lý hành chính nhà nước? Xem xét tính chất quyền lực nhà
nước và tính pháp lý của mỗi loại.
3. Hãy phân tích năm hình thức quản lý hành chính theo bảng sau:
Hình thức Khái
niệm
Tính chất
pháp lý
Tác
dụng
Ví dụ
1. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
2. Ban hành văn bản áp dụng pháp luật
3. Thực hiện hoạt động mang tính chất
pháp lý khác
4. Áp dụng biện pháp trực tiếp
5. Thực hiện hoạt động về nghiệp vụ - kỹ
thuật.
15
Chương II. QUYẾT ÐỊNH HÀNH CHÍNH
I. QUAN NIỆM VỀ QUYẾT ÐỊNH HÀNH CHÍNH
Trong khoa học pháp lý, quyết định hành chính (quyết định quản lý nhà nước) là một
khái niệm tồn tại nhiều hình thức khác nhau. Ðó có thể là:
- Những hành vi vật chất cụ thể (hành vi hành chính);
- Văn bản hành chính;
- Mệnh lệnh hành chính dưới hình thức nói;
- Kí hiệu hành chính.
Tất cả các loại quyết định quản lý hành chính nhà nước thể hiện rõ tính quyền lực nhà
nước thông qua cơ quan nhà nước hoặc của viên chức nhà nước có thẩm quyền để thực
hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước. Quyết định quản lý hành chính nhà nước
chủ yếu do các chủ thể quản lý hành chính thực hiện nhằm giải quyết các công việc quản
lý nhà nước trong lĩnh vực hành pháp, nó là một quyết định pháp lý mang tính chất dưới
luật vì nó là quyết định hành chính dựa trên cơ sở luật và để thi hành luật.
Điều này có nghĩa là các quyết định pháp luật của các cơ quan lập pháp, chủ tịch nước, cơ
quan toà án, cơ quan kiểm sát vẫn có thể là quyết định hành chính nếu được ban hành
nhằm thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước (không phải là hoạt động lập
pháp, hoạt động tư pháp).
Vậy, quyết định quản lý hành chính nhà nước là một loại quyết định pháp luật có tính
chất dưới luật được các chủ thể có thẩm quyền hành chính nhà nước trong hoạt động của
mình tiến hành theo một trình tự, thủ tục, dưới những hình thức do pháp luật quy định
nhằm đem lại hiệu quả nhất định trong việc quản lý.
Xét về tiêu chí tính chất thì quyết định quản lý hành chính nhà nước có đầy đủ tính chất
của một quyết định pháp luật. Ðó là tính ý chí, tính quyền lực và tính pháp lý .
Tính ý chí
Trên cơ sở thẩm quyền của mình, do pháp luật quy định, các chủ thể được thể hiện ý chí
thông qua hoạt động lập quy dưới dạng văn bản, hoặc các hoạt động khác như: ban hành
mệnh lệnh hành chính, kí hiệu hành chính… Ðây là quyền quan trọng thể hiện ý chí
nhưng ý chí ở đây là ý chí đơn phương thể hiện quyền lực công vì mục đích duy nhất của
16
quyết định quản lý hành chính nhà nước là phục vụ cho lợi ích công và để thi hành pháp
luật.
Tính quyền lực
Quyết định quản lý hành chính nhà nước luôn thể hiện rõ tính quyền lực nhà nước trên cơ
sở ủy nhiệm của cơ quan lập pháp tối cao. Ðó là thẩm quyền nhân danh các cơ quan nhà
nước, các tổ chức được trao thẩm quyền hành chính nhà nước. Ngoài ra, điều này còn thể
hiện ở tính đảm bảo thi hành, các chủ thể của quản lý hành chính được quyền áp dụng các
biện pháp cưỡng chế khi cần thiết.
Tính pháp lý
Quyết định quản lý hành chính nhà nước là quyết định dưới luật. Quyết định này được
ban hành trên cơ sở luật và để thi hành pháp luật. Quyết định quản lý hành chính nhà
nước có thể làm thay đổi, phát sinh, chấm dứt quan hệ pháp luật hành chính. Thông qua
các loại quyết định hành chính tương ứng, các qui phạm pháp luật được đặt ra, sửa đổi,
bãi bỏ.
Tuy nhiên các tính chất này có quan hệ hữu cơ với nhau. Tính ý chí và tính quyền lực chỉ
được thực hiện khi quyết định đó được ban hành và thực hiện trên cơ sở các quy định của
pháp luật, nghĩa là trước hết phải bảo đảm tính pháp lý.
II. PHÂN LOẠI QUYẾT ÐỊNH HÀNH CHÍNH
Có nhiều căn cứ để phân loại quyết định quản lý hành chính nhà nước. Tuy nhiên trong
nội dung chương trình, chúng ta chỉ phân loại dựa trên các căn cứ sau:
1. Căn cứ vào tính chất pháp lý, quyết định quản lý hành chính nhà nước được chia
ra làm quyết định chủ đạo, quyết định quy phạm và quyết định cá biệt
a) Quyết định chủ đạo
Là loại quyết định chủ yếu đựợc ban hành với mục đích đề ra các chủ trương chính sách
quản lý hành chính nhà nước thuộc thẩm quyền của các chủ thể ban hành. Trên thực tế,
hầu hết các quyết định chỉ đạo được ban hành dưới hình thức văn bản Nghị quyết. Nội
dung của quyết định chỉ đạo địa phương (Nghị quyết của HÐND) thường đề cập đến các
vấn đề về phát triển kinh tế-xã hội, về quyết định ngân sách địa phương, về bầu cử Ủy
ban nhân dân, thường trực hội đồng nhân dân. Ðây là quyết định tạo cơ sở cho các quyết
định khác như quyết định quy phạm, quyết định cá biệt.
17
Loại quyết định này rất quan trọng nên khi ban hành các chủ thể phải cân nhắc kỹ
lưỡng, căn cứ vào nội dung, mục đích, đối tượng quản lý để ra quyết định đúng đắn tránh
tình trạng quyết định đưa ra không chuẩn xác gây ảnh hưởng không tốt đến các quyết
định khác. Trên thực tế, một số đáng kể quyết định chỉ đạo nặng về hình thức gắn liền với
những thuật ngữ: "tăng cường", "quyết tâm", đẩy mạnh", "kiên quyết"...Tất nhiên các
thuật ngữ này là cần thiết nếu được sử dụng đúng chỗ, loại trừ hô hào chung chung, "vô
thưởng vô phạt".
b) Quyết định quy phạm
Quyết định qui phạm được thể hiện dưới hình thức văn bản qui phạm pháp luật hành
chính. Cụ thể hơn, văn bản quy phạm pháp luật là văn bản đặt ra các quy tắc xử sự chung
đó do cơ quan hành chính nhà nước hoặc cán bộ nhà nước có thẩm quyền ban hành theo
trình tự thủ tục nhất định nhằm thi hành Hiến pháp, luật với mục đích điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Ðây là hình thức quyết
định hành chính rất thiết yếu để thực hiện quản lý hành chính nhà nước bởi chúng thể
hiện rõ tính quyền lực nhà nước, tính khái quát và bắt buộc chung. Quy phạm pháp luật
hành chính có thể thể hiện dưới dạng quy phạm tiên phát (điều chỉnh các quan hệ xã hội
mới mà các văn bản pháp luật hiện hành chưa điều chỉnh), hoặc quy phạm thứ phát (quy
định cụ thể, chi tiết áp dụng cho các quy phạm hiện hành; đình chỉ, sửa đổi, bãi bỏ, hoặc
thay đổi phạm vi hiệu lực đối với quy phạm pháp luật hiện hành).
c) Quyết định cá biệt
Là loại quyết định được ban hành trên cơ sở các quyết định chủ đạo, quyết định quy
phạm với mục đích giải quyết các công việc cụ thể được áp dụng một lần. Quyết định cá
biệt trực tiếp làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt một quan hệ pháp luật cụ thể. Tính đặc
trưng của quyết định cá biệt thể hiện:
- Chỉ áp dụng một lần. Giá trị pháp lý của quyết định cá biệt sẽ kết thúc khi quyết
định được thực hiện.
- Có đối tượng áp dụng cụ thể. Chỉ có đối tượng được nêu đích danh phải tuân thủ
quyết định hành chính cá biệt tương ứng.
- Phải căn cứ trên ít nhất một quyết định qui phạm để ban hành. Các chế tài trong
qui phạm tương ứng phải được áp dụng đúng, chính xác...
18
2. Căn cứ vào chủ thể ban hành, quyết định hành chính có thể được rất nhiều chủ
thể ban hành nếu thỏa mãn các điều kiện
- Được pháp luật quy định thẩm quyền quản lý nhà nước;
- Được pháp luật cho phép ban hành quyết định quản lý nhà nước (có thể ở dạng
văn bản hoặc mệnh lệnh hành chính…)
- Quyết định quản lý nhà nước ban hành phải là quyết định dưới luật, nhằm thi hành
luật.
Với cách tiếp cận như vậy, số chủ thể này rất dồi dào, nên tạm chia thành hai nhóm:
- Nhóm 01: cơ quan, cán bộ hành chính nhà nước.
- Nhóm 02: các chủ thể khác có thẩm quyền hành chính nhà nước.
Nhóm 01 được nghiên cứu cụ thể là quyết định hành chính của cơ quan hành chính nhà
nước có thẩm quyền chung và quyết định hành chính của cơ quan hành chính nhà nước
có thẩm quyền chuyên môn
Cơ quan hoặc người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước
có thẩm quyền chung
Trung ương Chính phủ Nghị định
Thủ tướng Chính phủ Quyết định
Ðịa phương Ủy ban nhân dân tỉnh Quyết định, chỉ thị
Ủy ban nhân dân huyện Quyết định, chỉ thị
Ủy ban nhân dân xã Quyết định, chỉ thị
Bảng 2.1 Văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước
có thẩm quyền chung
Cơ quan hoặc người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước
có thẩm quyền chuyên môn
Trung
ương
Bộ trưởng Thông tư
Bảng 2.2 Văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành chính nhà nước
có thẩm quyền chuyên môn
19
Các văn bản liên tịch
Trung
ương
Chính phủ phối hợp với cơ quan trung
ương của tổ chức chính trị- xã hội
Nghị quyết liên
tịch
Bộ trưởng hoặc Thủ trưởng cơ quan
ngang Bộ phối hợp với Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao, hoặc phối hợp với
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao.
Thông tư liên tịch
Bảng 2.3 Văn bản quy phạm pháp luật liên tịch của cơ quan
hành chính nhà nước
3. Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ
Theo căn cứ này thì có các quyết định hành chính có hiệu lực trên phạm vi cả nước và có
hiệu lực trên từng địa phương.
Những quyết định hành chính có hiệu lực trong phạm vi cả nước, do các cơ quan
trung ương ban hành, ngoại trừ trường hợp cơ quan ban hành tự thu hẹp phạm vi tác động
của quyết định. Trường hợp này có thể:
- Do chỉ cần điều chỉnh trong phạm vi vùng miền, hoặc cụm một số tỉnh
Ví dụ: Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc phòng chống lũ lụt cho vùng đồng bằng
sông Cửu long trong mùa mưa năm 2009.
- Chỉ áp dụng đối với các địa phương có liên quan, tức là có điều kiện thích ứng với
giả định của quyết định hành chính
Ví dụ: Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc quản lý tổ chức chặt chẽ các khu dân
cư biên giới. Chỉ những tỉnh có địa bàn vùng biên giới mới trực tiếp chịu sự điều chỉnh
của quyết định hành chính nêu trên.
Những quyết định hành chính nhà nước do các cơ quan địa phương ban hành có hiệu
lực pháp lý trong phạm vi địa phương đó. Pháp luật không quy định hình thức văn bản
quy phạm pháp luật “phối hợp” giữa các địa bàn địa phương.
20
III. TRÌNH TỰ XÂY DỰNG VÀ BAN HÀNH QUYẾT ÐỊNH HÀNH CHÍNH
1. Sáng kiến ban hành quyết định
Ðây là giai đoạn đầu tiên của việc ra quyết định. Tùy thuộc vào nội dung và tính chất của
quan hệ pháp luật cần điều chỉnh để có được sáng kiến với tư cách là một quá trình ra
quyết định.
2. Dự thảo
Ðây là giai đoạn rất quan trọng vì nếu giai đoạn này được chuẩn bị tốt thì quyết định mới
có thể mang tính khả thi. Giai đoạn chuẩn bị dự thảo được tiến hành theo từng bước nhất
định như: quyết định cơ quan chủ trì soạn thảo, thành lập ban soạn thảo, tổng kết thực
tiễn thi hành pháp luật, tổ chức nghiên cứu, lấy ý kiến các cơ quan, chuẩn bị tờ trình, dự
thảo...
3. Trình và thông qua dự thảo
Sau khi hoàn tất dự thảo của quyết định cần đưa ra thì dự thảo bắt buộc phải được trình ra
cơ quan có thẩm quyền ban hành. Hiện nay theo quy định của pháp luật thì:
- Dự thảo Nghị định của Chính phủ phải qua thẩm định. Bộ Tư pháp là cơ quan có
trách nhiệm thẩm định các dự thảo khi trình Chính phủ.
- Các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ thì Bộ Tư pháp có trách nhiệm tham gia
ý kiến bằng văn bản; các Thông tư của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các dự thảo phải trình
lên Bộ trưởng.
- Dự thảo Nghị định phải được quá nửa thành viên của Chính phủ thông qua mới
hợp lệ.
- Còn các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, cơ quan soạn thảo phải chỉnh lý dự
thảo và báo cáo Thủ tướng, trên cơ sở đó Thủ tướng xem xét và đi đến ký Quyết định.
Đối với các hình thức văn bản pháp quy của cơ quan hành chính nhà nước, cán bộ hành
chính nhà nước trước đây được phép ban hành, nhưng nay không còn quy định trong luật
ban hành văn bản quy phạm pháp luật như: Nghị quyết (Chính phủ), Chỉ thị (Thủ tướng
Chính phủ), Quyết định, Chỉ thị (Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ) thì mặc nhiên
21
không được xem là văn bản quy phạm pháp luật nếu ban hành sau ngày 01/01/2009
(Xem Điều 01 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008).
4. Ðưa quyết định đến đối tượng thi hành
Ðây là giai đoạn cuối cùng của trình tự xây dựng và ban hành quyết định hành chính. Nó
là một khâu quan trọng vì chỉ khi nào làm tốt khâu này thì đối tượng quản lý mới tiếp cận
được với các quyết định... Có nhiều cách đưa quyết định đến đối tượng quản lý như thông
qua điểm báo, công báo, qua các hình thức thông tin đại chúng, tuyên truyền pháp luật...
5. Giai đoạn kiểm tra việc thực hiện quyết định
Kiểm tra việc thực hiện quyết định là khâu bảo đảm sự thành công và hiệu quả của quyết
định bởi vì việc thực hiện quyết định bao giờ cũng gắn liền với việc kiểm tra. Chủ thể có
thẩm quyền kiểm tra là:
- Cơ quan chủ quản phải kiểm tra thường xuyên.
- Cơ quan Thanh tra nhà nước trong phạm vi thẩm quyền tương ứng.
- Tổ chức chính trị (Đảng Cộng sản Việt Nam), tổ chức chính trị- xã hội (Mặt trận tổ
quốc Việt Nam) và các tổ chức xã hội khác, ví dụ như tổ chức tự quản: Thanh tra nhân
dân
Từ việc kiểm tra, sẽ có những kết luận, đánh giá về việc thực hiện quyết định. Yêu cầu
trên hết của giai đoạn đánh giá là phải trung thực, chính xác và cụ thể.
IV. TÍNH HỢP PHÁP VÀ HỢP LÝ CỦA CÁC QUYẾT ÐỊNH HÀNH CHÍNH
1. Khái niệm về tính hợp pháp, hợp lý
Hoạt động quản lý hành chính nhà nước xét về thực chất là hoạt động chấp hành điều
hành. Ðể hoạt động này mang lại hiệu quả thì cần phải đảm bảo tính hợp pháp và hợp lý
của các quyết định quản lý hành chính nhà nước. Tính hợp lý và hợp pháp luôn có sự tác
động qua lại lẫn nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau như một chỉnh thể.
Thực tiễn cho thấy nhiều quyết định hành chính không mang lại hiệu quả hoặc hiệu quả
không cao là do các quyết định đó chưa đảm bảo tính hợp lý hoặc tính hợp pháp. Do vậy,
muốn nâng cao và làm cho các quyết định quản lý hành chính thực thi trên thực tế một
cách có hiệu quả thì cần phải đảm bảo hai tính chất trên.
22
a) Tính hợp pháp của quyết định hành chính
Các quyết định hành chính phải có nội dung và mục đích phù hợp với những quy định
của pháp luật, không được trái với Hiến pháp và luật cũng như các văn bản quy phạm
pháp luật, văn bản chủ đạo của cơ quan nhà nước cấp trên. Quyết định quản lý hành chính
nhà nước phải được ban hành bởi các chủ thể có thẩm quyền, theo đúng trình tự, thủ tục
do pháp luật quy định. Nói chung, tính hợp pháp đặt ra các yêu cầu sau:
- Các quyết định quản lý hành chính phải phù hợp với nội dung và mục đích của văn bản
pháp luật cấp trên, tức là không được trái với Hiến pháp và các văn bản mang tính luật
(Bộ luật, Luật, Pháp lệnh).
- Phải được ban hành trong phạm vi thẩm quyền nội dung được qui định cho chủ thể
mang thẩm quyền hành chính nhà nước.
- Phải được ban hành đúng thẩm quyền hình thức, đảm bảo đúng hình thức và thủ tục do
pháp luật qui định.
Ví dụ: Văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành không đúng thẩm
quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật ban hành văn bản quy phạm
pháp luật và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân thì không phải là văn bản quy phạm pháp luật.
b) Tính hợp lý của quyết định hành chính
Quyết định quản lý hành chính nhà nước được ban hành phải đảm bảo được lợi ích
nhà nước và nguyện vọng của nhân dân, phải xuất phát từ nhu cầu khách quan của cuộc
sống, phải giải quyết được các nhiệm vụ hiện tại và có tính dự báo cho tương lai.
Khi ban hành một quyết định quản lý hành chính nhà nước phải đảm bảo được cả
tính hợp lý và tính hợp pháp, nếu thiếu một trong hai tính chất đó thì quyết định quản lý
hành chính nhà nước được ban hành sẽ không có tính thực thi hoặc không phù hợp với
pháp luật. Ðể đảm bảo tính hợp lý, quyết định hành chính nhà nước cần phải đảm bảo các
yêu cầu sau:
- Hài hoà giữa lợi ích nhà nước, lợi ích tập thể và các nhân. Cơ quan nhà nước, cán
bộ nhà nước có thẩm quyền phải dựa trên quyền và lợi ích hợp pháp của công dân như
một tiêu chí hàng đầu trong việc ban hành văn bản.
- Phải có tính cụ thể, phù hợp với từng vấn đề, đối tượng thực hiện.
23
- Ðảm bảo tính hệ thống toàn diện. Ðó là việc xem xét đến tất cả các mặt của đời
sống xã hội: kinh tế, văn hoá, xã hội; xem xét đến mục đích trước mắt, mục đích lâu dài;
tác dụng trực tiếp và tác dụng gián tiếp.
- Ngôn ngữ, văn phong phải rõ ràng, dễ hiểu, ngắn gọn, chính xác, không đa nghĩa.
c) Mối quan hệ giữa tính hợp pháp và hợp lý trong quyết định hành chính
Tính hợp pháp và tính hợp lý của quan hệ pháp luật hành chính có mối liên hệ chặt
chẽ nhau. Quyết định hành chính chỉ có giá trị pháp lý và có giá trị áp dụng thực tế khi
bảo đảm đủ hai tính chất nêu trên. Nói cách khác, quyết định hành chính sẽ thực thi và
được xã hội chấp nhận.
Nếu tính hợp pháp và hợp lý không đồng nhất nhau, thì phải ưu tiên xem xét tính
hợp pháp. Có thể do cơ quan ban hành chưa kịp sửa chữa quyết định lỗi thời, hoặc không
tính toán hết được những đặc điểm của từng địa phương nên quyết định hành chính phù
hợp với địa phương này, nhưng không khả thi, không phù hợp với địa phương khác.
Trong trường hợp này, cơ quan có thẩm quyền áp dụng vẫn phải thi hành nghiêm chỉnh
quyết định của cấp trên, đồng thời kiến nghị cơ quan cấp trên bãi bỏ hoặc sửa đổi cho phù
hợp với tình hình thực tế của địa phương. Bởi vì, tính "chấp hành" của quản lý hành
chính nhà nước không cho phép cơ quan hành chính nhà nước cấp dưới tự ý ban hành trái
với quyết định cấp trên.
2. Các hình thức xử lý đối với quyết định hành chính bất hợp pháp hoặc bất hợp lý
Các quyết định hành chính không tuân theo các yêu cầu về tính hợp pháp hoặc hợp lý thì
tuỳ theo tính chất và mức độ vi phạm để xem xét quyết định đó là vô hiệu toàn bộ hoặc
vô hiệu từng phần. Các biện pháp chung là: tạm đình chỉ, đình chỉ, bãi bỏ. Nhìn chung,
tạm đình chỉ, đình chỉ, bãi bỏ áp dụng trong các trường hợp:
- Mối quan hệ giữa cấp trên với cấp dưới trong hệ thống cơ quan nhà nước.
Ví dụ: Chủ tịch Ủy ban nhân dân có quyền đình chỉ, bãi bỏ Quyết định sai trái của
Ủy ban nhân dân cấp dưới (Điều 124 Hiến pháp 1992).
- Trong trường hợp cơ quan này cần được giám sát bởi cơ quan kia.
Ví dụ: Thủ tướng Chính phủ có quyền đình chỉ Nghị quyết của Hội đồng nhân dân
cấp tỉnh, đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ (Điều 114 Hiến pháp 1992).
24
Tạm đình chỉ
Khi có dấu hiệu vi phạm về tính hợp pháp, hoặc hợp lý của quyết định nhưng chưa có căn
cứ cụ thể để khẳng định rõ chính xác.
Ðình chỉ
Nếu tìm ra những căn cứ chính xác là quyết định hành chính bất hợp pháp hoặc bất hợp
lý, quyết định hành chính này sẽ bị đình chỉ.
Bãi bỏ
Việc đình chỉ hay bãi bỏ một văn vản pháp luật hành chính tuỳ thuộc vào thẩm quyền
đình chỉ, bãi bỏ quyết định hành chính của các cơ quan tương ứng. Lưu ý rằng, cơ quan
có thẩm quyền đình chỉ quyết định hành chính không mặc nhiên có thẩm quyền bãi bỏ
quyết định hành chính ấy.
Ví dụ: Ủy ban nhân dân cấp trên chỉ có thẩm quyền đình chỉ Nghị quyết sai trái của Hội
đồng nhân dân cấp dưới, còn quyền bãi bỏ Nghị quyết đó thuộc về Hội đồng nhân dân
cấp trên trực tiếp.
Hủy bỏ
Ngoài thuật ngữ “bãi bỏ”, trong pháp luật còn dùng thuật ngữ “hủy bỏ”. Thật ra, hai thuật
ngữ này giống nhau ở chỗ cùng là “bỏ đi”, làm chấm dứt hiệu lực của văn bản đó. Tuy
nhiên, các nhà khoa học luật và các nhà lập pháp ở Việt Nam có cách hiểu khác nhau, cụ
thể như sau:
- Theo quan điềm của các nhà khoa học luật và căn cứ trên câu chữ, hai thuật ngữ
này khác nhau ở mốc thời điểm hết hiệu lực: bãi bỏ là làm cho văn bản đó hết hiệu lực
ngay tại thời điểm mà cơ quan có thẩm quyền tuyên bố bãi bỏ; còn việc hủy bỏ là làm cho
văn bản không có hiệu lực ngay từ thời điểm văn bản được ban hành (giống như hợp
đồng vô hiệu ngay từ khi ký kết). Do vậy, đối với trường hợp hủy bỏ, các quan hệ xã hội
đã bị văn bản pháp luật đó điều chỉnh thì sự điều chỉnh đó bị vô hiệu và phải được điều
chỉnh lại. Với cách hiểu này thì bãi bỏ gắn liền với văn bản bất hợp lý, còn hủy bỏ gắn
liến với văn bản bất hợp pháp.
- Đối với các nhà lập pháp ở Việt Nam: họ nhận thấy rằng nếu hiểu theo nghĩa hủy
bỏ văn bản đã nêu trên thì việc khắc phục hậu quả pháp lý là rất khó khăn. Vì thế trong
quy định của nhà làm luật hiện nay vẫn chưa có sự quy định rõ ràng phân định hai việc
bãi bỏ và hủy bỏ.
25
Vì những lý do nêu trên, toàn bộ phần này chỉ thảo luận các trường hợp theo luật là tạm
đình chỉ, đình chỉ, bãi bỏ các văn bản bất hợp pháp, bất hợp lý.
a) Bất hợp pháp.
Có thể rơi vào một trong các trường hợp: tạm đình chỉ, đình chỉ, bãi bỏ.
Khắc phục hậu quả và bồi thường thiệt hại nếu như:
- Có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, trừ trường hợp xảy ra hoàn toàn
do lỗi nạn nhân hay do bất khả kháng.
- Sự tổn hại là có thật, tức là có thể tính ra được giá trị bằng tiền. Trường hợp này
tính đến cả những thiệt hại về mặt tinh thần, nhân phẩm.
- Sự tổn hại phải trực tiếp do quyết định hành chính đó gây ra.
Truy cứu trách nhiệm người có lỗi: tuỳ theo mức độ vi phạm và hậu quả xảy ra,
chủ thể ban hành quyết định hành chính có thể chịu trách nhiệm kỷ luật hoặc trách nhiệm
hình sự. Trách nhiệm hình sự được áp dụng khi có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm được
qui định trong luật hình sự.
Theo tình hình thực tiễn, số lượng vi phạm về thủ tục và hình thức là con số không nhỏ.
Vì vậy, các biện pháp đối với các chủ thể ban hành quyết định hành chính trái thủ tục có
thể phải chịu trách nhiệm. Riêng quyết định vi phạm đó bị tạm đình chỉ, đình chỉ, bãi bỏ
hoặc không được công nhận ngay từ khi ban hành, bởi vì: “văn bản do cơ quan nhà nước
ban hành hoặc phối hợp ban hành không đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục
được quy định trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì không phải là văn
bản quy phạm pháp luật” (Điều 01 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008).
b) Bất hợp lý
- Có thể rơi vào một trong các trường hợp: tạm đình chỉ, đình chỉ, bãi bỏ.
- Khắc phục hậu quả. Ðối với các quyết định bất hợp lý trong trường hợp bất khả
thi, do không gây ra hậu quả nên không phải khắc phục tình trạng cũ.
- Trách nhiệm của chủ thể có lỗi: có thể chịu trách nhiệm dân sự, trách nhiệm kỉ luật
nếu tái phạm nhiều lần, nhưng không chịu trách nhiệm hình sự.
26
V. QUYỀN PHẢN KHÁNG QUYẾT ÐỊNH HÀNH CHÍNH BẤT HỢP PHÁP, BẤT
HỢP LÝ
Theo Ðiều 01, Luật khiếu nại, tố cáo 1999, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005:
"Công dân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành
chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người thẩm quyền trong cơ quan hành chính
nhà nước khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính đó là trái
pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình”.
Trước một quyết định bất hợp pháp, công dân hoặc tổ chức có thể sử dụng một trong hai
phương thức: khiếu nại hành chính hoặc tố tụng hành chính theo các trình tự cụ thể sau.
Xuất phát từ nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, và căn cứ trên quy định của pháp luật
hiện hành, quyết định hành chính bất hợp lý về nguyên tắc lại không được xem xét là đối
tượng khiếu nại, khiếu kiện. Mặt khác, cho đến nay, luật Việt Nam chỉ thừa nhận việc
khiếu nại, khiếu kiện đối với quyết định hành chính cá biệt, cụ thể. Vì vậy, các loại quyết
định hành chính quy phạm, quyết định hành chính chủ đạo không phải là đối tượng của
khiếu nại, khiếu kiện hành chính ở Việt Nam.
1. Khiếu nại hành chính
Theo Luật khiếu nại, tố cáo của công dân: công dân có quyền yêu cầu chính chủ thể đã
ban hành quyết định hành chính bất hợp pháp sửa đổi hoặc bãi bỏ quyết định đó; và yêu
cầu cơ quan hành chính, cán bộ hành chính phải bồi thường cho họ khi quyết định hành
chính đã gây ra tổn hại cho quyền, tự do, lợi ích hợp pháp của công dân, của tổ chức.
Nếu không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại, công dân có quyền yêu cầu cơ
quan cấp trên của cơ quan đó xem xét giải quyết, hoặc gửi đơn đến tòa hành chính.
2. Khiếu kiện hành chính
Sau khi công dân, tổ chức đã có yêu cầu cơ quan hành chính ra quyết định xem xét lại
quyết định ấy, nhưng không được giải quyết hoặc việc giải quyết không thoả mãn với yêu
cầu đặt ra, công dân tổ chức có thể gửi đơn yêu cầu giải quyết khiếu kiện hành chính.
Khiếu kiện tố tụng hành chính Toà hành chính là phương thức theo đó người dân yêu cầu
cơ quan tài phán hành chính xét và giải quyết. Các đặc điểm cần chú ý của khiếu kiện
quyết định hành chính:
27
- Mặc dù có những điểm đặc trưng so với các hình thức tố tụng khác (dân sự, hình
sự...), quyết định hành chính được giải quyết theo thủ tục tố tụng, nhưng là tố tụng hành
chính.
- Toà hành chính chỉ xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính, luật hiện hành
chưa ghi nhận toà hành chính có thẩm quyền giải quyết đối với quyết định hành chính bất
hợp lý.
- Đối tượng của khiếu kiện hành chính là các quyết định hành chính, hành vi hành
chính đã được khiếu nại mà không được giải quyết hoặc đã được giải quyết mà vẫn
không đồng ý.
VI. PHÂN BIỆT QUYẾT ÐỊNH HÀNH CHÍNH VỚI MỘT SỐ QUYẾT ÐỊNH PHÁP
LUẬT KHÁC
1. Phân biệt quyết định hành chính với quyết định pháp luật của cơ quan quyền lực
nhà nước
Về thẩm quyền ban hành:
- Quyết định pháp luật của cơ quan quyền lực nhà nước là do các chủ thể thuộc hệ
thống cơ quan quyền lực nhà nước ban hành, tức là Quốc hội và HÐND các cấp;
- Quyết định quản lý hành chính nhà nước do các chủ thể chủ yếu thuộc hệ thống cơ
quan quản lý hành chính nhà nước ban hành. Cụ thể hơn, chủ thể chủ yếu là Chính phủ,
Ủy ban nhân dân các cấp và các Bộ, Sở, Phòng, Ban trực thuộc.
Giá trị pháp lý:
- Các quyết định của cơ quan quyền lực nhà nước (văn bản pháp luật) mang tính
chất chung, đề cập đến những vấn đề cơ bản nhất trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Quyết định hành chính là văn bản dưới luật, là các quyết định được ban hành trên
cơ sở luật và thi hành luật nên có hiệu lực thi hành hạn chế hơn so với quyết định của cơ
quan quyền lực nhà nước.
- Ngoài ra trình tự, thủ tục ban hành của hai quyết định này cũng như tên gọi của
chúng cũng khác nhau.
28
2. Phân biệt quyết định hành chính với quyết định của cơ quan tư pháp
Các cơ quan tư pháp gồm tòa án, Viện kiểm sát thực hiện quyền lực nhà nước trong hoạt
động xét xử, kiểm sát và công tố. Ðể thực hiện các chức năng, nhiệm vụ này các cơ quan
đó được quyền ban hành các quyết định pháp luật. Các quyết định pháp luật này khác với
các quyết định quản lý hành chính ở chủ thể ban hành, về tính chất pháp lý và phạm vi
điều chỉnh.
Chủ thể ban hành
Quyết định quản lý hành chính nhà nước chủ yếu do cơ quan hành chính nhà nước ban
hành. Trong một số trường hợp đặc biệt, toà án (cơ quan tư pháp) có thẩm quyền ban
hành quyết định hành chính. Ví dụ: điều 40 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002
(được sửa đổi, bổ sung năm 2007, 2008).
Quyết định của cơ quan tư pháp được ban hành bởi cơ quan tư pháp tương ứng. Cơ quan
hành chính nhà nước không có thẩm quyền ban hành quyết định tư pháp.
Tính chất pháp lý
- Quyết dịnh hành chính tác động đến các đối tượng trong hoạt động chấp hành và điều
hành đối với đối tượng chịu sự tác động của chủ thể quản lý.
- Trong khi đó quyết định của các cơ quan tư pháp tác động đến các đối tượng tham gia
vào các quan hệ tố tụng.
Phạm vi điều chỉnh
- Quyết định hành chính nhà nước (văn bản quản lý hành chính nhà nước) điều chỉnh
những quan hệ quản lý phát sinh từ hoạt động chấp hành - điều hành của cơ quan nhà
nước. Văn bản quản lý được ban hành bởi rất nhiều chủ thể khác nhau và chiếm một số
lượng lớn trong hệ thống văn bản nhà nước.
- Quyết định của các cơ quan tư pháp (văn bản pháp luật do các cơ quan kiểm sát, xét xử
ban hành) chủ yếu là những văn bản cá biệt nhằm giải quyết các vụ án hình sự, dân sự,
hôn nhân và gia đình...
---------------------------------
29
Câu hỏi
1. Phân loại quyết định quản lý hành chính căn cứ vào tính chất pháp lý. Có phải chỉ có
cơ quan hành chính nhà nước mới có thẩm quyền ban hành quyết định hành chính hay
không? Tại sao?
2. Phân biệt quyết định qui phạm và quyết định cá biệt?
3. Thế nào là tính hợp pháp của quyết định hành chính? Tại sao quyết định hành chính
cần phải hội đủ cả hai yêu cầu: tính hợp pháp và tính hợp lý?
4. Trên cơ sở cơ phân loại quyết định hành chính theo cơ quan ban hành, hãy chỉ ra từng
quyết định đó theo tính chất pháp lý?
5. Quyết định nào được xem là quyết định hành chính lần đầu trong việc giải quyết các
khiếu kiện hành chính?
30
Chương III. VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ TRÁCH NHIỆM HÀNH CHÍNH
I. VI PHẠM HÀNH CHÍNH
1. Khái niệm, đặc điểm và dấu hiệu của vi phạm hành chính
a. Khái niệm
Thuật ngữ vi phạm hành chính xuất hiện trong thời gian gần đây. Trước khi Pháp lệnh xử
phạt vi phạm hành chính ban hành ngày 30/11/1989 thì người ta không gọi là vi phạm
hành chính mà gọi là vi cảnh. Từ sau ngày 30/11/1989 đến khi Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính được ban hành ngày 6/7/1995 thì người ta gọi là vi phạm hành chính. Trong
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 1995 cũng như Pháp lệnh hiện hành (có hiệu lực
ngày 01/10/2002) không đưa ra khái niệm vi phạm hành chính mà chỉ đưa ra khái niệm
xử lý vi phạm hành chính, bao gồm:
- Xử phạt vi phạm hành chính;
- Các biện pháp xử lý hành chính khác.
Căn cứ vào khoản 2-Ðiều 1- Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (được sửa
đổi, bổ sung năm 2007, 2008) về khái niệm xử phạt vi phạm hành chính và dưới góc độ
pháp lý ta có thể đưa ra khái niệm vi phạm hành chính như sau:
Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý
xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của
pháp luật phải bị xử phạt hành chính.
b. Ðặc điểm cơ bản của vi phạm hành chính
- Là hành vi trái pháp luật, xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước, do cá nhân hay tổ
chức thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý;
- Ðặc điểm không phải là tội phạm ở đây được hiểu: vi phạm hành chính có tính chất,
mức độ nguy hiểm thấp hơn tội phạm;
- Ða số các vi phạm hành chính có cấu thành hình thức, nghĩa là chỉ cần xét đến hành vi
xảy ra mà không cần tính đến hậu quả;
- Vi phạm hành chính hiện nay được quy định cụ thể trong các văn bản dưới luật. Trong
đó Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 là qui định cơ bản có tính luật, định ra các
nguyên tắc chung trong việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý vi phạm hành chính;
- Là hành vi được pháp luật quy định phải bị xử phạt hành chính.
31
c. Dấu hiệu của vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính là một dạng của vi phạm pháp luật nên nó có đầy đủ các dấu hiệu
của vi phạm pháp luật:
- Vi phạm hành chính luôn là hành vi (hành động hay không hành động vi phạm
pháp luật hành chính) của cá nhân hoặc tổ chức;
- Hành vi đó luôn thể hiện tính có lỗi.
- Hành vi đó phải do chủ thể vi phạm hành chính bao gồm cá nhân, tổ chức có
năng lực chủ thể thực hiện;
- Hành vi đó là hành vi trái pháp luật và phải bị tác động bởi biện pháp cưỡng
chế tương ứng của chế tài.
2. Cấu thành của vi phạm hành chính
Cấu thành của vi phạm hành chính là tổng hợp những dấu hiệu đặc trưng thể hiện đầy đủ
tính xâm hại cho trật tự quản lý nhà nước của một loại vi phạm hành chính và cần thiết
cho việc xác định ranh giới của các vi phạm hành chính với nhau.
Trong một loại vi phạm hành chính có thể có nhiều cấu thành vi phạm hành chính khác
nhau. Dựa vào các yếu tố trong cấu trúc của vi phạm hành chính, để xây dựng cho mỗi
loại vi phạm hành chính một cấu thành vi phạm hành chính cơ bản. Trên cơ sở cấu thành
vi phạm hành chính cơ bản và căn cứ vào tình hình vi phạm hành chính, yêu cầu đấu
tranh phòng chống mỗi loại vi phạm để xây dựng cấu thành vi phạm hành chính tăng
nặng và cấu thành vi phạm hành chính giảm nhẹ.
Cấu thành vi phạm hành chính tăng nặng bao gồm những dấu hiệu đặc trưng của cấu
thành vi phạm hành chính cơ bản và những dấu hiệu bổ sung. Những dấu hiệu bổ sung
này phản ánh mức độ xâm hại cho xã hội cao hơn của một loại vi phạm hành chính so với
cấu thành vi phạm hành chính cơ bản.
Cấu thành giảm nhẹ cũng bao gồm những dấu hiệu đặc trưng của cấu thành vi phạm hành
chính cơ bản và những dấu hiệu bổ sung, những dấu hiệu bổ sung này phản ánh mức độ
xâm hại cho xã hội thấp hơn của loại vi phạm hành chính đó so với cấu thành vi phạm
hành chính cơ bản.
Dựa tương ứng trên các dấu hiệu của vi phạm hành chính, cấu thành của hành ví vi phạm
hành chính phải có đủ bốn yếu tố cơ bản sau:
32
- Yếu tố khách quan của vi phạm hành chính;
- Yếu tố chủ quan của vi phạm hành chính;
- Yếu tố chủ thể của vi phạm hành chính;
- Yếu tố khách thể của vi phạm hành chính.
a. Yếu tố khách quan của vi phạm hành chính
Mặt khách quan của vi phạm hành chính là những biểu hiện ra bên ngoài của hành vi vi
phạm hành chính. Yếu tố có hành vi vi phạm là yếu tố bắt buộc, thể hiện:
- Hành vi vi phạm hành chính: là những biểu hiện của con người hoặc tổ chức tác động
vào thế giới khách quan dưới những hình thức bên ngoài cụ thể gây tác hại đến sự tồn tại
và phát triển bình thường của trật tự quản lý nhà nước. Những biểu hiện này được thể
hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động bởi ý thức và ý chí của chủ thể vi phạm
hành chính.
- Hành vi vi phạm hành chính là hành vi trái pháp luật, chủ thể vi phạm hành chính
bằng hành động hay không hành động thực hiện những hành vi mà pháp luật cấm hoặc
không cho thực hiện những hành vi nhất định mà pháp luật quy định. Tính chất trái pháp
luật của hành vi xét về mặt hình thức nó thể hiện ở các dạng sau đây:
+ Làm một việc (hành động) mà pháp luật cấm không được làm;
+ Không làm một việc (hành động) mà pháp luật đòi hỏi phải làm (nghĩa vụ pháp lý);
+ Sử dụng quyền hạn vượt quá giới hạn pháp luật cho phép.
- Hậu quả của hành vi trái pháp luật: là trật tự quản lý của nhà nước bị hành vi vi phạm
hành chính tác động tới, gây xâm hại. Tuy nhiên, do đa số các hành vi vi phạm hành
chính là hành vi có cấu thành hình thức nên hậu quả phải được xem là trật tự đã vi phạm,
chứ không cần có hậu quả nhất định nào đó trên thực tế.
- Quan hệ nhân quả: là mối quan hệ giữa hành vi vi phạm hành chính và hậu quả của vi
phạm hành chính, trong đó hậu quả của vi phạm hành chính có tiền đề xuất hiện của nó là
hành vi khách quan của vi phạm hành chính. Việc xác định mối quan hệ nhân quả cần
phải có những căn cứ nhất định. Cụ thể:
+ Hành vi trái pháp luật phải xảy ra trước hậu quả xâm hại các quan hệ xã hội về mặt thời
gian;
+ Hành vi trái pháp luật phải chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả xâm hại
quy tắc quản lý nhà nước;
33
+ Hậu quả xâm hại đã xảy ra phải chính là sự hiện thực hóa khả năng thực tế làm phát
sinh hậu quả của hành vi trái pháp luật.
Ngoài ra, còn có một số dấu hiệu khác như: địa điểm, thời gian, phương tiện, công cụ...
của vi phạm hành chính. Ðây là không phải là những dấu hiệu có ý nghĩa quyết định
trong mọi cấu thành vi phạm. Tuy nhiên, trong một số trường hợp cụ thể chúng sẽ trở
thành dấu hiệu bắt buộc, có ý nghĩa, làm tăng hoặc giảm mức độ của hành vi vi phạm
hành chính.
b. Yếu tố chủ quan của vi phạm hành chính
Mặt chủ quan của vi phạm hành chính là quan hệ tâm lý bên trong, bao gồm các yếu tố:
lỗi, mục đích, động cơ của vi phạm hành chính.
Lỗi là trạng thái tâm lý của một người khi thực hiện hành vi vi phạm hành chính, biểu
hiện thái độ của người đó đối với hành vi của mình. Lỗi trong vi phạm hành chính gồm
lỗi cố ý và lỗi vô ý.
- Lỗi cố ý trong vi phạm hành chính: là thái độ tâm lý của một người khi thực hiện
hành vi trái pháp luật hành chính nhận thức được nghĩa vụ pháp lý bắt buộc nhưng lại có
ý thức xem thường mặc dù họ hoàn toàn có khả năng xử sự theo đúng nghĩa vụ đó.
- Lỗi vô ý trong vi phạm hành chính là lỗi của một người khi thực hiện hành vi trái
pháp luật hành chính do vô tình hoặc thiếu thận trọng mà đã không nhận thức được
những nghĩa vụ pháp lý bắt buộc, mặc dù họ có khả năng và điều kiện xử sự theo đúng
nghĩa vụ này.
Trong đó lỗi là một dấu hiệu cơ bản, bắt buộc phải hiện diện trong mọi cấu thành của
hành vi vi phạm pháp luật, có ý nghĩa quyết định đến các yếu tố khác trong mặt chủ quan
của vi phạm hành chính. Vì vậy, các trường hợp loại trừ yếu tố lỗi sẽ không đủ các dấu
hiệu cần thiết để xác định là hành vi vi phạm pháp luật. Ví dụ:
- Tình thế cấp thiết;
- Phòng vệ chính đáng;
- Sự kiện bất ngờ...
Tuy nhiên mức độ của lỗi thì tuỳ trường hợp để xem xét. Thậm chí, trong rất nhiều cấu
thành của hành vi vi phạm hành chính, khi truy cứu cũng không cần xem xét mức độ lỗi
là: lỗi cố ý hay lỗi vô ý.
Ví dụ: Hành vi vượt đèn đỏ.
34
Mục đích, động cơ của vi phạm hành chính là dấu hiệu không bắt buộc phải có trong
mọi cấu thành của mọi loại vi phạm hành chính. Nó chỉ có ở một số cấu thành nhất định,
tồn tại ở một số hành vi với lỗi cố ý.
c. Yếu tố khách thể của vi phạm hành chính
Khách thể của vi phạm hành chính là các quy tắc quản lý nhà nước có nội dung xã hội là
các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản lý nhà nước được pháp luật quy định và
bảo vệ. Còn hình thức pháp lý của chúng là các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung,
bao gồm:
- Khách thể chung: là các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản lý nhà nước hay
nói cách khác là trật tự quản lý nhà nước nói chung. Khách thể chung được thể hiện trong
các qui phạm pháp luật tổng quát, có tính luật.
Ví dụ: Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002.
- Khách thể loại: là những quan hệ xã hội có cùng hoặc gần tính chất với nhau trong
từng lĩnh vực nhất định của quản lý nhà nước. Ðây chính là trật tự quản lý nhà nước
chuyên ngành hoặc từng lĩnh vực cụ thể.
Ví dụ: Nghị định 23/2009-NĐ-CP về Xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động xây
dựng; kinh doanh bất động sản; khai thác, sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng; quản
lý công trình hạ tầng kỹ thuật; quản lý phát triển nhà và công sở.
- Khách thể trực tiếp: là quan hệ xã hội cụ thể quy định và bảo vệ bị chính hành vi vi
phạm hành chính xâm hại tới.
d. Yếu tố chủ thể của vi phạm hành chính
Chủ thể của vi phạm hành chính bao gồm:
- Các cơ quan nhà nước;
- Các tổ chức xã hội, đơn vị kinh tế;
- Các tổ chức nước ngoài hoạt động ở Việt Nam;
- Công dân Việt Nam, người nước ngoài, người không quốc tịch.
Gọi chung là cá nhân, tổ chức.
Tất cả các chủ thể nêu trên phải đủ năng lực chủ thể, tức là phải có năng lực pháp
luật và năng lực hành vi.
- Ðối với tổ chức nói chung, năng lực pháp luật và năng lực hành vi phát sinh cùng lúc
từ khi tố chức đó có quyết định thành lập hoặc công nhận hoạt động hợp pháp. Vì vậy, cả
35
hai loại năng lực này cùng chấm dứt khi tổ chức chấm dứt hoạt động hoặc theo pháp luật,
bị buộc phải chấm dứt hoạt động.
+ Tổ chức bị xử phạt hành chính về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra.
+ Sau khi chấp hành quyết định xử phạt, tổ chức bị xử phạt xác định cá nhân có lỗi gây ra
vi phạm hành chính để xác định trách nhiệm pháp lý của người đó theo quy định pháp
luật.
- Ðối với cá nhân, năng lực pháp luật phát sinh khi cá nhân đó ra đời và mất khi cá nhân
đó chết đi. Còn năng lực pháp luật được phát sinh sau khi có năng lực pháp luật mà tự
mình có thể nhận thức và điều khiển hành vi bản thân, thể hiện người đó thoả mãn các
điều kiện luật định: đạt đến một độ tuổi nhất định, không mắc bệnh tâm thần hoặc các
bệnh khác làm mất khả năng điều khiển hành vi. Trong khi đó, độ tuổi có năng lực hành
vi theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 (Ðiều 7) được xác định như sau:
+ Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hành chính về mọi vi phạm hành
chính do mình gây ra;
+ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ bị xử phạt hành chính đối với những vi phạm
hành chính được thực hiện với lỗi cố ý.
+ Quân nhân tại ngũ, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện và những
người thuộc lực lượng Công an nhân dân vi phạm hành chính thì bị xử lý như các công
dân khác; trong trường hợp cần áp dụng hình thức phạt tước quyền sử dụng một số giấy
phép hoạt động vì mục đích quốc phòng, an ninh thì người xử phạt không trực tiến xử lý
mà đề nghị cơ quan, đơn vị Quân đội, Công an có thẩm quyền xử lý theo Điều lệnh kỷ
luật;
- Riêng đối với cá nhân, tổ chức nước ngoài vi phạm hành chính trong phạm vi lãnh
thổ, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước ta thì bị xử phạt hành chính theo
quy định của pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết
hoặc gia nhập có quy định khác.
3. Phân biệt vi phạm hành chính với một số vi phạm khác
a) Phân biệt vi phạm hành chính với vi phạm hình sự
Vi phạm hành chính khác với vi phạm hình sự trước hết là ở mức độ nguy hiểm của hành
vi vi phạm.
36
- Tội phạm và hình phạt được luật hình sự quy định. Còn vi phạm hành chính và xử
phạt vi phạm hành chính do các văn bản luật và văn bản dưới luật quy định.
- Tội phạm được xử lý theo trình tự và thủ tục tư pháp còn vi phạm hành chính chủ yếu
thuộc thẩm quyền xử lý của cơ quan hành chính nhà nước và theo thủ tục hành chính.
Lưu ý rằng hành vi vi phạm hành chính và vi phạm hình sự trong cùng một lĩnh vực có
nhiều nội dung tương đồng về mặt bản chất, chỉ khác nhau về tính chất, mức độ hoặc hậu
quả gây ra trên thực tế. Chính vì vậy, một hành vi vi phạm pháp luật, tùy vào mức độ, mà
có thể bị truy cứu trách nhiệm pháp lý hình sự hoặc trách nhiệm pháp lý hành chính, mà
không thể truy cứu đồng thời hai loại trách nhiệm này.
b) Phân biệt vi phạm hành chính và vi phạm kỷ luật
Vi phạm kỷ luật là hành vi của công nhân viên chức xâm phạm kỷ luật nội bộ cơ quan
nhà nước, còn vi phạm hành chính là hành vi xâm phạm các quy tắc về quản lý nhà nước.
Vi phạm hành chính và vi phạm kỷ luật còn khác nhau ở chủ thể vi phạm, trình tự, thủ tục
xử lý vi phạm.
c) Phân biệt vi phạm hành chính và vi phạm dân sự
Vi phạm hành chính xâm phạm các quyền liên quan đến quản lý hành chính nhà nước,
còn vi phạm dân sự xâm phạm tới quyền chủ thể của người bị thiệt hại. Mặt khác, chế tài
dân sự luôn nhằm mục đích khắc phục thiệt hại đã xảy ra; còn chế tài hành chính ngoài
mục đích này còn nhằm duy trì một trật tự hành chính ổn định, mang tính trừng phạt, răn
đe.
II. NHỮNG VẤN ÐỀ CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM HÀNH CHÍNH
1. Khái niệm
Khái niệm trách nhiệm theo nghĩa chủ động được sử dụng để chỉ nghĩa vụ, bổn phận,
nhiệm vụ của công dân, tổ chức trong lĩnh vực quản lý nhà nước.
Trách nhiệm hành chính theo nghĩa bị động gắn liền với hành vi vi phạm pháp pháp luật
hành chính, tức là phải gánh chịu những hậu quả bất lợi do hành vi vi phạm pháp luật
hành chính của mình thông qua các chế tài. Ðó là sự phản ứng của Nhà nước đối với
những chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật hành chính, vì thế nó gắn liền với sự cưỡng
chế của Nhà nước trong những trường hợp cần thiết, cho dù chủ thể vi phạm pháp luật
hành chính có chấp nhận hay không chấp nhận.
37
Thực hiện trách nhiệm pháp lý vừa có mục đích giáo dục cụ thể, vừa có ý nghĩa giáo dục
chung cho mọi người hiểu và tôn trọng các qui tắc quản lý nhà nước.
2. Mối quan hệ giữa vi phạm hành chính và trách nhiệm hành chính
Về nguyên tắc trách nhiệm hành chính chỉ đặt ra khi và chỉ khi có hành vi vi phạm pháp
luật hành chính. Tuy nhiên, không phải mọi hành vi vi phạm hành chính đều phải chịu
trách nhiệm hành chính tương ứng, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
Quá thời hiệu truy cứu trách nhiệm pháp lý. Lưu ý rằng thời hiệu này tính từ thời
điểm thực hiện hành vi vi phạm hành chính, ngoại trừ các trường hợp vi phạm liên tục,
nhiều lần hoặc trốn tránh thì không áp dụng thời hiệu. Thậm chí, việc trốn tránh, che giấu
vi phạm hành chính còn là tình tiết tăng nặng trong việc truy cứu trách nhiệm hành chính;
Ví dụ: Theo Điều 10, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung
năm 2007, 2008): thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là 01 năm kể từ khi hành vi vi
phạm hành chính được thực hiện; đối với các vi phạm trong lĩnh vực đất đai, nhà ở, xuất
bản, xuất khẩu, đê điều thì thời hiệu trên là 02 năm.
Các trường hợp miễn trừ ngoại giao đối với các đối tượng và hành vi được miễn
trừ.
Ví dụ: Đối với cá nhân, tổ chức nước ngoài vi phạm hành chính trong phạm vi lãnh thổ,
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước ta thì bị xử phạt hành chính theo quy
định của pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc
gia nhập có quy định khác (Điều 6, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002, sửa đổi, bổ
sung 2007, 2008).
Hành vi vi phạm pháp luật đã chuyển hoá thành tội phạm. Đây là trường hợp tuy là
hành vi vi phạm pháp luật hành chính nhưng do tái phạm hoặc có nhiều tình tiết tăng
nặng, đủ cấu thành tội phạm nên đã chuyển hoá thành tội phạm hình sự.
Ví dụ: Khi xem xét vụ vi phạm để quyết định xử phạt, nếu xét thấy hành vi vi phạm có dấu
hiệu tội phạm, thì người có thẩm quyền phải chuyển ngay hồ sơ cho cơ quan tiến hành tố
tụng hình sự có thẩm quyền. Pháp luật nghiêm cấm việc giữ lại các vụ vi phạm có dấu
hiệu tội phạm để xử phạt hành chính.
Đối với trường hợp đã ra quyết định xử phạt, nếu sau đó phát hiện hành vi vi phạm có
dấu hiệu tội phạm mà chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì người đã ra
38
quyết định xử phạt phải hủy quyết định đó. Trong thời hạn 3 ngày, kể từ ngày hủy quyết
định xử phạt, phải chuyển hồ sơ vi phạm cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm
quyền (Điều 62, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002, sửa đổi, bổ sung 2007, 2008).
III. TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÀNH CHÍNH
Trách nhiệm hành chính được thể hiện trên thực tế là các chế tài hành chính thông qua
các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp xử lý hành chính khác. Theo
quy định tại Ðiều 1- Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 thì xử lý vi phạm
hành chính bao gồm việc xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp xử lý
hành chính khác đối với cá nhân, tổ chức có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy tắc
quản lý nhà nước mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự và theo quy định của
pháp luật phải bị xử lý hành chính.
1. Các nguyên tắc truy cứu trách nhiệm hành chính
Theo quy định tại Ðiều 3- Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002, các cơ quan có thẩm
quyền xử lý vi phạm hành chính khi tiến hành xử lý phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
+ Mọi hành vi vi phạm hành chính phải được phát hiện kịp thời và phải bị đình chỉ ngay.
Việc xử lý phải được tiến hành nhanh chóng, công minh, triệt để; mọi hậu quả do vi phạm
hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng pháp luật.
+ Cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính do pháp
luật quy định. Ðiều này chứng tỏ rằng cơ sở để xử phạt hành chính là phải có vi phạm
hành chính. Thứ nhất, nguyên tắc này phù hợp với nguyên tắc pháp chế, nghĩa là chỉ truy
cứu và trừng trị trong phạm vi pháp luật qui định. Thứ hai, trong điều kiện thẩm quyền xử
phạt được qui định rất nhiều cơ quan, nhiều cấp, nhiều ngành và trình độ của các cán bộ
áp dụng xử phạt không đồng bộ, thì điều này đảm bảo một nguyên tắc là không truy cứu
trách nhiệm hành chính oan sai. Do đó khi áp dụng các biện pháp xử phạt đòi hỏi các cơ
quan hay cán bộ nhà nước có thẩm quyền phải xác định rõ có vi phạm hành chính xảy ra
hay không, tính chất, mức độ của vi phạm như thế nào, hành vi vi phạm đó đã được quy
định trong các văn bản pháp luật có quy định về xử phạt hành chính hay chưa.
+ Việc xử phạt vi phạm hành chính phải do người có thẩm quyền tiến hành theo đúng quy
định của pháp luật.
39
+ Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần. Tuy nhiên, trong trường hợp
một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính thì bị xử phạt về từng hành vi vi
phạm.
Ví dụ: Một người vừa có hành vi trốn thuế, vừa có hành vi kinh doanh văn hóa phẩm đồi
trụy thì người đó sẽ bị xử phạt theo từng hành vi đã vi phạm, sau đó sẽ tổng hợp các mức
phạt.
Trong trường hợp nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính vi thì mỗi
người vi phạm đều bị xử phạt.
+ Việc xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất mức độ vi phạm, nhân thân
và những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng để quyết định hình thức, biện pháp xử lý thích
hợp.
Ví dụ: Người thực hiện hành vi vi phạm hành chính là phụ nữ có thai, người già yếu;
người có bệnh hoặc tàn tật làm hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển
hành vi của mình thì sẽ được áp dụng mức phạt nhẹ hơn theo quy định tại Ðiều 8- Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 về các tình tiết giảm nhẹ.
+ Không xử lý vi phạm hành chính trong các trường hợp được xem là không có lỗi; ví dụ
như tình thế cấp thiết, phòng vệ chính đáng, sự kiện bất ngờ hoặc vi phạm hành chính
trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc
khả năng điều khiển hành vi của mình.
2. Ðối tượng bị xử lý vi phạm hành chính
Theo quy định tại Ðiều 06 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính thì đối tượng bị xử lý
vi phạm hành chính bao gồm cá nhân và tổ chức.
a. Cá nhân
Bao gồm công dân Việt Nam, người không quốc tịch, người nước ngoài. Một cá nhân khi
có hành vi vi phạm hành chính sẽ trở thành chủ thể của vi phạm hành chính nếu có đủ
điều kiện: Có năng lực trách nhiệm hành chính, nghĩa là đạt đến một độ tuổi nhất định,
không mắc các bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác làm mất khả năng điều khiển hành vi;
Theo quy định của pháp luật, những người từ đủ 14 tuổi đến 16 tuổi là những người bắt
đầu có năng lực trách nhiệm hành chính, họ chỉ chịu trách nhiệm hành chính khi thực
40
hiện vi phạm hành chính với lỗi cố ý. Còn đối với người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu
trách nhiệm hành chính về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra.
Riêng đối với đối tượng là người nước ngoài, khi thực hiện hành vi vi phạm hành chính
trong phạm vi lãnh thổ, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam thì bị xử
phạt hành chính theo pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam
ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
b. Tổ chức
Bao gồm cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức nước ngoài, đơn vị kinh tế. Về
phương diện logic, rất khó, thậm chí có những trường hợp không thể truy cứu trách
nhiệm hành chính của tổ chức, cơ quan, bởi mỗi người có suy nghĩ và tư duy riêng. Thậm
chí trong các ngành luật rất gần với luật hành chính (ví dụ: Luật hình sự) thì chỉ xác định
trách nhiệm pháp lý của cá nhân.
Tuy nhiên, nhằm để phòng ngừa đấu tranh chống mọi hành vi vi phạm hành chính, trong
trường hợp không xác định rõ hoặc chưa thể xác định rõ trách nhiệm hành chính của từng
cá nhân trong tổ chức, thì việc truy cứu trách nhiệm tổ chức là cần thiết. Theo quy định
tại Khoản b, Ðiều 6 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính thì tổ chức phải chịu trách
nhiệm về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra. Tuy nhiên, sau đó tổ chức bị xử phạt
xác định cá nhân có lỗi gây ra vi phạm hành chính để xác định trách nhiệm pháp lý của
người đó theo qui định của pháp luật. Ðây có thể là trách nhiệm vật chất hoặc trách nhiệm
kỷ luật.
3. Thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính
a. Chủ thể có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính: Các chủ thể có thẩm quyền xử lý rất
đa dạng, bao gồm các cơ quan hành chính và cán bộ nhà nước có thẩm quyền, có thể
phân chia như sau:
Người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung bao gồm:
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã.
Các cán bộ có thẩm quyền (thuộc các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền
chuyên môn, hoặc các cơ quan nhà nước khác được giao quyền xử lý):
- Công an nhân dân: chiến sỹ Công an nhân dân, Bộ trưởng Bộ Công an…;
41
- Bộ đội biên phòng: chiến sỹ Bộ đội biên phòng, Chỉ huy Trưởng Bộ đội biên phòng
cấp tỉnh…;
- Cảnh sát biển: Cảnh sát viên, Cục trưởng Cục cảnh sát biển…;
- Cán bộ Hải quan: nhân viên Hải quan, Cục trưởng cục Hải quan…;
- Cán bộ kiểm lâm: kiểm lâm viên, Trạm trưởng Trạm kiểm lâm…;
- Cục trưởng cục thuế, nhân viên thuế...;
- Cục trưởng cục quản lý thị trường...;
- Thanh tra chuyên ngành;
- Giám đốc Cảng vụ thủy nội địa, hàng hải, hàng không;
- Thẩm phán chủ tọa phiên tòa (Toà án nhân dân), chấp hành viên, trưởng các cơ quan
thi hành án dân sự cấp tỉnh.
Ngoài các cán bộ nêu trên, Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung năm 2008 còn quy định:
- Người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, cơ quan khác được
ủy quyền thực hiện chức năng lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài;
- Chủ tịch Hội đồng cạnh tranh và Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh;
- Ủy ban chứng khoán: Chánh thanh tra, Chủ tịch Ủy ban chứng khoán nhà nước.
Số lượng cơ quan có thẩm quyền cũng như nội dung thẩm quyền xử lý của các cơ quan là
khá lớn. Ðiều này dẫn đến có những vụ việc thuộc thẩm quyền của nhiều cơ quan giải
quyết. Vì vậy cần phải có nguyên tắc phân định thẩm quyền.
b. Các nguyên tắc phân định thẩm quyền :
- Ủy ban nhân dân các cấp có thẩm quyền xử phạt các vi phạm hành chính trong các
lĩnh vực quản lý nhà nước ở địa phương.
- Người có thẩm quyền xử phạt các vi phạm hành chính được xử phạt vi phạm thuộc
lĩnh vực hay ngành mình quản lý.
- Trong trường hợp vi phạm hành chính thuộc thẩm quyền xử phạt của nhiều cơ quan
thì việc xử phạt do cơ quan thụ lý đầu tiên thực hiện.
Ví dụ: Cán bộ thu thuế đang thi hành công vụ phát hiện một cơ sở kinh doanh dịch vụ cho
thuê băng đĩa hình video mà không kê khai đăng ký thuế đồng thời đang cho lưu hành
băng đĩa hình có nội dung đồi trụy. Như vậy, theo quy định của pháp luật việc xử phạt vi
phạm hành chính trong trường hợp này thuộc thẩm quyền của hai cơ quan, đó là cơ quan
42
thuế và cơ quan chuyên ngành văn hóa thông tin, nhưng ở đây cơ quan thụ lý đầu tiên lại
là cơ quan thuế do đó thẩm quyền xử phạt sẽ thuộc về cơ quan thuế.
- Thẩm quyền xử phạt của các chủ thể được quy định trong Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính là thẩm quyền áp dụng đối với một hành vi vi phạm hành chính. Trong trường
hợp phạt tiền, thẩm quyền xử phạt được xác định căn cứ vào mức tối đa của khung tiền
phạt quy định đối với từng hành vi vi phạm cụ thể.
Trong trường hợp xử phạt một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính thì
thẩm quyền xử phạt được xác định theo nguyên tắc sau đây:
- Nếu hình thức, mức xử phạt được quy định đối với từng hành vi đều thuộc
thẩm quyền của người xử phạt, thì thẩm quyền xử phạt vẫn thuộc người đó;
- Nếu hình thức, mức xử phạt được quy định đối với một trong các hành vi vượt
quá thẩm quyền của người xử phạt, thì người đó phải chuyển vụ vi phạm đến cấp có thẩm
quyền xử phạt;
- Nếu các hành vi thuộc thẩm quyền xử phạt của nhiều người thuộc các ngành
khác nhau, thì quyền xử phạt thuộc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền xử phạt
nơi xảy ra vi phạm.
4. Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính
Về thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính, theo quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính có phân biệt hai mức:
- Một năm kể từ ngày vi phạm hành chính được thực hiện, áp dụng đối với hầu hết
các vi phạm hành chính;
- Hai năm kể từ ngày vi phạm hành chính được thực hiện, áp dụng đối với các vi
phạm hành chính trong một số lĩnh vực như tài chính, xây dựng, môi trường, nhà ở, đất
đai, đê điều, xuất bản, xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, buôn lậu, sản xuất và
buôn bán hàng giả.
Ðể khắc phục hậu quả của vi phạm hành chính, theo quy định của Pháp lệnh xử lý,
mặc dù không xử phạt các vi phạm hành chính đã quá thời hạn nói trên, nhưng vẫn có thể
áp dụng các biện pháp như:
- Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra
hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép;
43
- Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch
bệnh do vi phạm hành chính gây ra;
- Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất hàng hoá, vật phẩm, phương
tiện.
- Buộc tiêu hủy vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi và cây trồng, văn
hóa phẩm độc hại;
- Các biện pháp khác do Chính phủ qui định.
Ðối với cá nhân bị khởi tố, truy tố hoặc có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục
tố tụng hình sự mà có quyết định đình chỉ điều tra hay quyết định đình chỉ vụ án thì bị xử
phạt hành chính nếu hành vi có dấu hiệu vi phạm hành chính. Trong thời hạn ba ngày, kể
từ ngày ra quyết định đình chỉ điều tra, cơ quan tiến hành tố tụng hình sự phải chuyển
quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án kèm theo hồ sơ vụ vi phạm và đề nghị xử
phạt vi phạm hành chính đền người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính. Trong
trường hợp này, thời hiệu xử phạt là ba tháng kể từ ngày người có thẩm quyền xử phạt
nhận được quyết định đình chỉ và hồ sơ vụ vi phạm.
Tuy nhiên, nếu trong thời hạn nêu trên mà các nhân, tổ chức có vi phạm hành chính
mới hoặc cố tình trốn tránh, cản trở việc xử phạt thì không áp dụng thời hiệu trên. Ðồng
thời thời hiệu vi phạm hành chính được tính lại kể từ thời điểm thực hiện vi phạm hành
chính mới hoặc chấm dứt hành vi trốn tránh, cản trở việc xử phạt.
IV. CÁC HÌNH THỨC CHÍNH YẾU TRONG TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÀNH
CHÍNH
1. Xử phạt vi phạm hành chính
a. Khái niệm
Có thể xem xử phạt vi phạm hành chính là nội dung quan trọng trong Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính. Nghiên cứu chế định xử phạt vi phạm hành chính thực chất là nghiên
cứu một loại hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Ðây là loại hoạt động bao gồm một
loạt các hành vi cụ thể liên quan mật thiết với nhau như:
- Phân tích, đánh giá tính chất, mức độ của vi phạm hành chính;
- Ðối chiếu với quy định của pháp luật để xác định thẩm quyền xử phạt;
44
- Áp dụng hình thức và mức phạt thông qua việc ban hành quyết định xử phạt hành
chính.
Quyết định xử phạt hành chính khi được ban hành sẽ gây một hậu quả pháp lý làm phát
sinh trách nhiệm hành chính của cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính, tức là buộc họ
phải gánh chịu những hậu quả bất lợi trước nhà nước về tinh thần hoặc tài sản. Từ đó cho
thấy, xử phạt vi phạm hành chính có những đặc điểm sau:
- Xử phạt vi phạm hành chính là một loại hoạt động cưỡng chế nhà nước, mang tính
quyền lực nhà nước;
- Cơ sở để xử phạt hành chính là hành vi vi phạm hành chính;
- Hoạt động xử phạt hành chính được tiến hành qua nhiều khâu, nhiều giai đoạn
nhưng kết quả của hoạt động này phải được thể hiện bằng quyết định xử phạt hành chính;
- Hoạt động xử phạt hành chính phải được tiến hành trong khuôn khổ và phải tuân
theo pháp luật về trình tự, thủ tục hành chính.
Từ những đặc điểm trên ta có thể đưa ra khái niệm xử phạt vi phạm hành chính như sau:
Xử phạt vi phạm hành chính là một loại hoạt động cưỡng chế hành chính cụ thể mang
tính quyền lực nhà nước phát sinh khi có vi phạm hành chính; biểu hiện ở việc áp dụng
các chế tài hành chính gây cho đối tượng bị áp dụng thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần
và do các chủ thể có thẩm quyền nhân danh nhà nước thực hiện theo quy định của pháp
luật.
b. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính
Theo quy định của pháp luật, hiện nay có hai nhóm hình thức xử phạt vi phạm hành
chính: hình thức xử phạt chính và hình thức xử phạt bổ sung.
Hình thức xử phạt chính: bao gồm hình thức phạt cảnh cáo, phạt tiền. Ngoài ra,
điểm mới trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 có nêu thêm hình thức trục
xuất được áp dụng đối với các đối tượng giới hạn là người nước ngoài.
Cảnh cáo
Cảnh cáo trong xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng:
- Ðối với cá nhân hoặc tổ chức có hành vi vi phạm hành chính nhỏ, lần đầu, có tình
tiết giảm nhẹ;
- Ðối với mọi hành vi vi phạm hành chính do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi.
45
Nói chung, phạt cảnh cáo thuộc trường hợp xử phạt theo thủ tục đơn giản (sẽ trình bày ở
phần sau), và hình thức này mang nặng ý nghĩa giáo dục.
Phạt tiền
Phạt tiền trong xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng phổ biến đối với nhiều loại vi
phạm hành chính. Trong các hình thức xử phạt hành chính thì phạt tiền là một hình thức
xử phạt hành chính đã và đang đem lại hiệu quả to lớn đối với việc đấu tranh phòng và
chống vi phạm hành chính. Theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 được sửa đổi,
bổ sung năm 2007, 2008, mức tiền phạt thành vi phạm hành chính từ 10 nghìn đến 500
triệu đồng, với hai trường hợp ngoại lệ:
- Đối với hành vi vi phạm hành chính trong những lĩnh vực quản lý nhà nước chưa
được qui định thì Chính phủ được qui định mức tiền phạt tiền, từ 10 nghìn đến 100 triệu
đồng.
- Trong trường hợp luật quy định mức phạt tiền tối đa khác với quy định trong Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính thì áp dụng theo quy định của luật đó.
Khi áp dụng mức phạt tiền, cán bộ có thẩm quyền xử phạt cần xem xét nhân thân người
vi phạm, tính chất, mức độ và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của vi phạm hành chính
để quyết định cho công bằng, chính xác.
Hình thức phạt bổ sung bao gồm các hình thức: tước quyền sử dụng giấy phép,
chứng chỉ hành nghề; và tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm.
Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề:
Là hình thức tước bỏ có thời hạn hoặc không thời hạn việc sử dụng giấy phép, chứng chỉ
hành nghề nhất định đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép đối với công dân
hoặc tổ chức khi những đối tượng này vi phạm điều kiện sử dụng đối với quyền và nghĩa
vụ được ghi trong giấy phép đó. Hình thức này không được áp dụng độc lập mà chỉ được
áp dụng cùng với hình thức phạt chính khi:
- Văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính quy định có thể áp dụng hình thức
phạt này;
- Cá nhân, tổ chức vi phạm quy tắc sử dụng giấy phép.
Ví dụ: Kinh doanh không đúng với nội dung giấy phép.
Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính:
46
Là hình thức tước bỏ quyền sở hữu của người vi phạm và chuyển sang quyền sở hữu của
Nhà nước những vật, tiền, hàng hoá, phương tiện liên quan trực tiếp đến vi phạm hành
chính (gọi là sung vào công quỹ nhà nước).
Ngoài ra, Pháp lệnh còn ghi nhận trục xuất vẫn có thể là hình thức xử phạt bổ sung, áp
dụng đối với chủ thể là người nước ngoài.
Ðối với vật, tiền, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính thuộc các hình thức
sở hữu hợp pháp bị cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính chiếm đoạt hoặc sử dụng trái
phép thì không áp dụng hình thức phạt tịch thu, mà trả lại cho các chủ sở hữu hợp pháp
đó.
Sự khác nhau giữa hình thức xử phạt chính và hình thức xử phạt bổ sung
- Hình thức xử phạt chính có thể và chỉ áp dụng độc lập. Việc phân định các loại hình
thức xử phạt chính chủ yếu căn cứ vào mức độ vi phạm và đối tượng vi phạm, chứ không
phải là từng loại hành vi vi phạm.
- Hình thức xử phạt bổ sung có thể áp dụng nhiều hình thức trong cùng một hành vi vi
phạm nhưng bao giờ cũng phải đi kèm với hình thức xử phạt chính.
Các biện pháp khắc phục hậu quả
Ngoài các hình thức xử phạt chính và bổ sung, các cá nhân tổ chức có thề bị áp dụng các
biện pháp khắc phục hậu quả. Việc áp dụng các biện pháp này có đặc điểm:
- Khi có hậu quả thực tế xảy ra hoặc có khả năng thực tế sẽ xảy ra;
- Khác với hình thức xử phạt bổ sung, các biện pháp này được áp dụng không kể là
trong thời hiệu hay ngoài thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính.
Các biện pháp khắc phục hậu quả bao gồm:
- Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra
hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép;
- Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường sống, lây lan
dịch bệnh do vi phạm hành chính gây ra;
- Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất hàng hoá, vật phẩm, phương
tiện;
- Buộc tiêu hủy vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi và cây trồng văn
hóa phẩm độc hại;
47
- Ngoài ra, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính còn xác định thêm trường hợp: Các
biện pháp khác do Chính phủ qui định.
c. Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính
Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính gồm có hai loại: thủ tục đơn giản và thủ tục có lập
biên bản.
Thủ tục đơn giản: được áp dụng trong trường hợp phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 10
nghìn đến 200 nghìn đồng. Khi xử phạt không cần lập biên bản mà ra quyết định phạt tại
chỗ, trừ trường hợp vi phạm hành chính được phát hiện nhờ sử dụng phương tiện, thiết bị
kỹ thuật nghiệp vụ.
- Nếu phạt cảnh cáo thì phải cho người bị xử phạt biết nội dung phạt (hành vi vi phạm,
điều khoản áp dụng).
- Trường hợp phạt tiền thì trong quyết định phải ghi rõ mức tiền phạt. Cá nhân, tổ chức
vi phạm có thể nộp tiền phạt tại chỗ cho người có thẩm quyền xử phạt. Người có thẩm
quyền xử phạt phải giao biên lai thu tiền phạt cho người bị xử phạt.
- Quyết định xử phạt phải ghi rõ ngày, tháng, năm ra quyết định; tên, địa chỉ của chủ
thể vi phạm; hành vi vi phạm; địa điểm xảy ra vi phạm; họ, tên, chức vụ của người ra
quyết định; điều khoản của văn bản pháp luật được áp dụng.
- Quyết định này phải được giao cho cá nhân, tổ chức bị xử phạt một bản. Trong trường
hợp người chưa thành niên bị phạt cảnh cáo thì quyết định xử phạt cảnh cáo còn được gửi
cho cha mẹ, người giám hộ của người đó hoặc nhà trường nơi người chưa thành niên vi
phạm đang học tập.
a) Thủ tục có lập biên bản: được thực hiện trong trường hợp áp dụng mức phạt tiền trên
200 nghìn đồng và phải theo các bước chủ yếu sau:
- Phát hiện và lập biên bản vi phạm hành chính. Khi phát hiện vi phạm hành chính
thuộc lĩnh vực quản lý của mình, người có thẩm quyền đang thi hành công vụ phải kịp
thời lập biên bản, trừ trường hợp xử phạt theo thủ tục đơn giản.
Biên bản vi phạm phải lập theo quy định của pháp luật. Sau đó, trong thời hạn pháp luật
quy định, người có thẩm quyền phải ra quyết định xử phạt. Trong biên bản về vi phạm
hành chính phải ghi rõ ngày, tháng, năm, địa điểm lập biên bản; họ, tên, chức vụ người
lập biên bản; họ, tên, địa chỉ, nghề nghiệp người vi phạm hoặc tên, địa chỉ tổ chức vi
phạm; giờ, ngày, tháng, năm, địa điểm xảy ra vi phạm; hành vi vi phạm; các biện pháp
48
ngăn chặn vi phạm hành chính và bảo đảm việc xử phạt (nếu có); tình trạng tang vật,
phương tiện bị tạm giữ (nếu có); lời khai của người vi phạm hoặc đại diện tổ chức vi
phạm; nếu có người chứng kiến, người bị thiệt hại hoặc đại diện tổ chức bị thiệt hại thì
phải ghi rõ họ, tên, địa chỉ, lời khai của họ.
Trong trường hợp người vi phạm hành chính cố tình trốn tránh hoặc vì lý do khách quan
mà không có mặt tại địa điểm xảy ra vi phạm thì biên bản được lập xong phải có chữ ký
của đại diện chính quyền cơ sở nơi xảy ra vi phạm hoặc của hai người chứng kiến.
Biên bản phải được lập thành ít nhất hai bản; phải được người lập biên bản và người vi
phạm hoặc đại diện tổ chức vi phạm ký; nếu có người chứng kiến, người bị thiệt hại hoặc
đại diện tổ chức bị thiệt hại thì họ cùng phải ký vào biên bản; trong trường hợp biên bản
gồm nhiều tờ, thì phải ký vào từng tờ biên bản. Nếu người vi phạm, đại diện tổ chức vi
phạm, người chứng kiến, người bị thiệt hại hoặc đại diện tổ chức bị thiệt hại từ chối ký
thì người lập biên bản phải ghi rõ lý do vào biên bản. Biên bản lập xong phải được giao
cho cá nhân, tổ chức vi phạm một bản; nếu vụ vi phạm vượt quá thẩm quyền xử phạt của
người lập biên bản thì người đó phải gửi biên bản đến người có thẩm quyền xử phạt
- Xem xét và ra quyết định xử phạt theo thẩm quyền. Trong trường hợp vi phạm hành
chính không thuộc thẩm quyền xử phạt của người lập biên bản thì biên bản đó phải được
chuyển ngay đến người có thẩm quyền xử phạt để tiến hành xử phạt. Trong trường hợp vi
phạm hành chính được phát hiện nhờ sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ thì
việc lập biên bản vi phạm hành chính được tiến hành ngay sau khi xác định được người
có hành vi vi phạm. Riêng vi phạm hành chính xảy ra trên tàu bay, tàu biển thì người chỉ
huy tàu bay, tàu biển có trách nhiệm lập biên bản để chuyển cho người có thẩm quyền xử
phạt khi tàu bay, tàu biển về đến sân bay, bến cảng.
- Thi hành quyết định xử phạt.
Ngoài ra, tùy từng trường hợp, có thể thực hiện một số bước khác như:
- Áp dụng các biện pháp ngăn chặn;
- Xem xét và giải quyết khiếu nại;
- Cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt.
d. Quyết định xử phạt vi phạm hành chính
Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày lập biên bản về vi phạm hành chính, người có thẩm
quyền phải ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính; nếu có nhiều tình tiết phức tạp thì
49
thời hạn trên có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày. Trong trường hợp xét cần có
thêm thời gian xác minh, thu thập chứng cứ thì người có thẩm quyền phải báo cáo thủ
trưởng trực tiếp của mình bằng văn bản để xin gia hạn; việc gia hạn phải bằng văn bản,
thời hạn gia hạn không được quá ba mươi ngày. Quá thời hạn nói trên, người có thẩm
quyền xử phạt không được ra quyết định xử phạt, trừ trường hợp xử phạt trục xuất. Trong
trường hợp không ra quyết định xử phạt thì vẫn có thể áp dụng các biện pháp khắc phục
hậu quả và tịch thu tang vật vi phạm hành chính thuộc loại cấm lưu hành.
Người có thẩm quyền xử phạt nếu có lỗi trong việc để quá thời hạn mà không ra quyết
định xử phạt thì bị xử lý như sau:
“Người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính mà sách nhiễu, dung túng, bao che,
không xử lý hoặc xử lý không kịp thời, không đúng mức, xử lý vượt thẩm quyền quy định
thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm
hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật” (Điều 121,
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002).
Cá nhân tổ chức bị xử phạt phải thi hành quyết định trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày
được giao quyết định xử phạt (Điều 56, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002).
2. Các biện pháp xử lý hành chính khác
Theo quy định tại Ðiều 22 đến Ðiều 27 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002, các
biện pháp xử lý hành chính khác bao gồm:
- Giáo dục tại xã, phường, thị trấn;
- Ðưa vào trường giáo dưỡng;
- Ðưa vào cơ sở giáo dục;
- Ðưa vào cơ sở chữa bệnh;
Mỗi hình thức xử lý vi phạm hành chính khác, ta nghiên cứu các yếu tố chính yếu như:
thẩm quyền áp dụng, đối tượng áp dụng và mục đích áp dụng.
a. Giáo dục tại xã, phường, thị trấn
Chủ thể có thẩm quyền áp dụng
Chủ tịch UBND cấp xã đối với những đối tượng vi phạm pháp luật tại nơi cư trú
của họ trong thời hạn từ ba tháng đến sáu tháng.
Mục đích áp dụng
50
Chủ tịch UBND cấp xã có trách nhiệm phối hợp với các tổ chức hữu quan và gia
đình quản lý, giáo dục đối với những vi phạm pháp luật nhằm giúp họ sửa chữa sai
phạm để trở thành người có ích cho xã hội, tự giác tuân thủ pháp luật.
Đối tượng áp dụng
- Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội
phạm nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật Hình sự;
- Người từ đủ 12 tuổi trở lên nhiều lần có hành vi trộm cắp vặt, lừa đảo nhỏ, đánh
bạc nhỏ, gây rối trật tự công cộng;
- Người nghiện ma tuý từ đủ 18 tuổi trở lên, người bán dâm có tính chất thường
xuyên từ đủ 14 tuổi trở lên có nơi cư trú nhất định;
- Người trên 55 tuổi đối với nữ và trên 60 tuổi đối với nam thực hiện hành vi xâm
phạm tài sản của tổ chức trong nước hoặc nước ngoài, tài sản, sức khoẻ, danh dự,
nhân phẩm của công dân, của người nước ngoài, vi phạm trật tự, an toàn xã hội có
tính chất thường xuyên nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
b. Ðưa vào trường giáo dưỡng
Chủ thể có thẩm quyền áp dụng
Chủ tịch UBND cấp huyện áp dụng. Thời hạn áp dụng đưa vào trướng giáo dưỡng
là sáu tháng đến hai năm
Mục đích áp dụng
Áp dụng đối với người chưa thành niên có hành vi vi phạm pháp luật để học văn
hoá, giáo dục hướng nghiệp, học nghề, lao động, sinh hoạt dưới sự quản lý, giáo
dục của trường.
Đối tượng áp dụng
- Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội
phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng quy định tại Bộ luật Hình sự;
- Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội
phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng quy định tại Bộ luật Hình sự mà
trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp
dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú nhất định;
51
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi nhiều lần thực hiện hành vi trộm cắp vặt, lừa
đảo nhỏ, đánh bạc nhỏ, gây rối trật tự công cộng mà trước đó đã bị áp dụng biện
pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng
không có nơi cư trú nhất định.
c. Ðưa vào cơ sở giáo dục
Thẩm quyền áp dụng
Do UBND cấp tỉnh áp dụng. Thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục
là sáu tháng đến hai năm.
Mục đích áp dụng
Áp dụng đối với người thành niên có hành vi vi phạm pháp luật để lao động, học
văn hoá, học nghề, lao động, sinh hoạt dưới sự quản lý của cơ sở giáo dục.
Đối tượng áp dụng
Đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục là người thực hiện hành vi
xâm phạm tài sản của tổ chức trong nước hoặc nước ngoài, tài sản, sức khoẻ, danh
dự, nhân phẩm của công dân, của người nước ngoài, vi phạm trật tự, an toàn xã hội
có tính chất thường xuyên nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, đã
bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện
pháp này nhưng không có nơi cư trú nhất định. Tuy nhiên, không đưa vào cơ sở
giáo dục người chưa đủ 18 tuổi, nữ trên 55 tuổi, nam trên 60 tuổi
d. Ðưa vào cơ sở chữa bệnh
Thẩm quyền áp dụng
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện quyết địnháp dụng. Thời hạn áp dụng biện
pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh đối với người nghiện ma tuý là từ một năm đến hai
năm, đối với người bán dâm là từ ba tháng đến mười tám tháng.
Mục đích áp dụng
Đưa vào cơ sở chữa bệnh do đối với người có hành vi vi phạm pháp luật quy định
để lao động, học văn hoá, học nghề và chữa bệnh dưới sự quản lý của cơ sở chữa
bệnh. Cơ sở chữa bệnh phải tổ chức khu vực dành riêng cho người dưới 18 tuổi.
Cơ sở chữa bệnh phải thực hiện các biện pháp phòng chống lây nhiễm HIV/AIDS
và các bệnh truyền nhiễm khác.
52
Đối tượng áp dụng
Người nghiện ma tuý từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú
nhất định;
Người bán dâm có tính chất thường xuyên từ đủ 16 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện
pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng
không có nơi cư trú nhất định. Không đưa vào cơ sở chữa bệnh người bán dâm
dưới 16 tuổi hoặc trên 55 tuổi.
Cần lưu ý thêm rằng xử phạt vi phạm hành chính chính là “kết quả” của hành vi vi phạm
hành chính. Tuy nhiên, các biện pháp hành chính khác thì có bản chất khác hẳn. Một
hành vi không vi phạm hành chính vẫn có thể bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính
khác; hoặc hành vi đó có thể có dấu hiệu của một tội phạm hình sự nhưng không đủ yếu
tố cấu thành do chủ thể thực hiện hành vi không đủ tuổi.
Ví dụ: Đối tượng bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn bao gồm:
- Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội
phạm nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật hình sự;
- Người từ đủ 12 tuổi trở lên nhiều lần có hành vi trộm cắp vặt, lừa đảo nhỏ, đánh
bạc nhỏ, gây rối trật tự công cộng;
- Người nghiện ma tuý từ đủ 18 tuổi trở lên, người bán dâm có tính chất thường
xuyên từ đủ 14 tuổi trở lên có nơi cư trú nhất định...
3. Các biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và bảo đảm việc xử lý vi phạm
hành chính
Để ngăn chặn kịp thời vi phạm hành chính hoặc để bảo đảm việc xử lý vi phạm hành
chính được hiệu quả, đúng pháp luật, người có thẩm quyền có thể áp dụng các biện pháp
sau đây theo thủ tục hành chính:
Tạm giữ người;
Tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính;
Khám người;
53
Khám phương tiện vận tải, đồ vật;
Khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính;
Bảo lãnh hành chính;
Quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục
trục xuất;
Truy tìm đối tượng phải chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở
giáo dục, cơ sở chữa bệnh trong trường hợp bỏ trốn.
a. Tạm giữ người theo thủ tục hành chính
- Việc tạm giữ người theo thủ tục hành chính chỉ được áp dụng trong trường hợp cần
ngăn chặn, đình chỉ ngay những hành vi gây rối trật tự công cộng, gây thương tích
cho người khác hoặc cần thu thập, xác minh những tình tiết quan trọng làm căn cứ
để quyết định xử lý vi phạm hành chính.
- Thời hạn tạm giữ người theo thủ tục hành chính không được quá 12 giờ, kể từ thời
điểm bắt đầu giữ người vi phạm; trong trường hợp cần thiết, thời hạn tạm giữ có
thể kéo dài hơn nhưng không được quá 24 giờ. Đối với người vi phạm quy chế
biên giới hoặc vi phạm hành chính ở vùng rừng núi xa xôi, hẻo lánh, hải đảo thì
thời hạn tạm giữ có thể kéo dài hơn nhưng không được quá 48 giờ, kể từ thời điểm
bắt đầu giữ người vi phạm.
- Thẩm quyền tạm giữ người theo thủ tục hành chính được quy định tại Điều 45 của
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính1 không chỉ là cơ sở để tạm giữ người, mà
1 Những người sau đây có quyền quyết định tạm giữ người theo thủ tục hành chính:a) Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn, Trưởng Công an phường;b) Trưởng Công an cấp huyện;c) Trưởng phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Trưởng phòng Cảnh sát trật tự, Trưởngphòng Cảnh sát giao thông đường bộ-đường sắt, Trưởng phòng Cảnh sát giao thông đường thủy, Trưởngphòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ, Trưởng phòng cảnh sát điều tra tộiphạm về trật tự xã hội, Trưởng phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý, Trưởng phòng Quản lý xuấtcảnh, nhập cảnh của Công an cấp tỉnh;d) Thủ trưởng đơn vị Cảnh sát cơ động từ cấp đại đội trở lên, Trạm trưởng Trạm Công an cửa khẩu;đ) Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm, Đội trưởng Đội Kiểm lâm cơ động;e) Chi cục trưởng Hải quan, Đội trưởng Đội kiểm soát thuộc Cục Hải quan, Đội trưởng Đội Kiểm soátchống buôn lậu và Hải đội trưởng Hải đội kiểm soát trên biển thuộc Cục điều tra chống buôn lậu Tổng cụcHải quan;g) Đội trưởng Đội Quản lý thị trường;h) Chỉ huy trưởng Tiểu khu biên phòng, Chỉ huy trưởng Hải đoàn biên phòng, Chỉ huy trưởng Hải đội biênphòng, Trưởng đồn biên phòng và Thủ trưởng đơn vị bộ đội biên phòng đóng ở biên giới, hải đảo;i) Hải đội trưởng, Hải đoàn trưởng Cảnh sát biển;k) Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời sân bay, bến cảng.
54
đồng thời là cở sở để tạm giữ phương tiện, khám người…Những người có thẩm
quyền tạm giữ người có thể uỷ quyền cho cấp phó thực hiện thẩm quyền tạm giữ
người theo thủ tục hành chính khi vắng mặt và được uỷ quyền thực hiện các biện
pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính
khác. Việc uỷ quyền phải được thực hiện bằng văn bản. Cấp phó được uỷ quyền
phải chịu trách nhiệm về quyết định tạm giữ người của mình trước cấp trưởng và
trước pháp luật.
b. Tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính
- Việc tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính chỉ được áp dụng trong
trường hợp cần để xác minh tình tiết làm căn cứ quyết định xử lý hoặc ngăn chặn
ngay vi phạm hành chính. Những người có thẩm quyền tạm giữ người theo thủ tục
hành chính và một số cán bộ có thẩm quyền khác như: Chánh Thanh tra chuyên
ngành bộ, cơ quan ngang bộ…có quyền quyết định tạm giữ tang vật, phương tiện
vi phạm hành chính.
- Trong trường hợp tang vật, phương tiện vi phạm cần được niêm phong thì phải tiến
hành ngay trước mặt người vi phạm; nếu người vi phạm vắng mặt thì phải tiến
hành niêm phong trước mặt đại diện gia đình, đại diện tổ chức, đại diện chính
quyền và người chứng kiến.
- Đối với tang vật vi phạm hành chính là loại hàng hoá, vật phẩm dễ bị hư hỏng thì
người ra quyết định tạm giữ phải tiến hành lập biên bản và tổ chức bán ngay. Tiền
thu được phải gửi vào tài khoản tạm gửi mở tại Kho bạc nhà nước. Nếu sau đó theo
quyết định của người có thẩm quyền, tang vật đó bị tịch thu thì tiền thu được phải
nộp vào ngân sách nhà nước; trong trường hợp tang vật đó không bị tịch thu thì
tiền thu được phải trả cho chủ sở hữu, người quản lý hoặc người sử dụng hợp pháp.
c. Khám người theo thủ tục hành chính
- Việc khám người theo thủ tục hành chính chỉ được tiến hành khi có căn cứ cho
rằng người đó cất giấu trong người đồ vật, tài liệu, phương tiện vi phạm hành
chính.
- Những người có thẩm quyền tạm giữ người theo thủ tục hành chính có quyền
quyết định khám người theo thủ tục hành chính. Trước khi tiến hành khám người,
55
người khám phải thông báo quyết định cho người bị khám biết. Khi khám người,
nam khám nam, nữ khám nữ và phải có người cùng giới chứng kiến.
d. Khám phương tiện vận tải, đề vật theo thủ tục hành chính
- Việc khám phương tiện vận tải, đồ vật theo thủ tục hành chính chỉ được tiến hành
khi có căn cứ cho rằng trong phương tiện vận tải, đồ vật đó có cất giấu tang vật vi
phạm hành chính.
- Những người có thẩm quyền tạm giữ người theo thủ tục hành chính và một số cán
bộ có thẩm quyền khác như: chiến sĩ Cảnh sát nhân dân, cảnh sát viên Đội nghiệp
vụ Cảnh sát biển, chiến sỹ Bộ đội biên phòng, kiểm lâm viên, nhân viên thuế vụ,
kiểm soát viên thị trường, thanh tra viên chuyên ngành đang thi hành công vụ có
quyền khám phương tiện vận tải, đồ vật trong phạm vi thẩm quyền của mình.
- Khi tiến hành khám phương tiện vận tải, đồ vật phải có mặt chủ phương tiện vận
tải, đồ vật hoặc người điều khiển phương tiện vận tải và một người chứng kiến;
trong trường hợp chủ phương tiện, đồ vật hoặc người điều khiển phương tiện vắng
mặt thì phải có hai người chứng kiến.
e. Khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính
- Khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính chỉ được tiến hành
khi có căn cứ cho rằng ở nơi đó có cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành
chính.
- Những người có thẩm quyền tạm giữ người theo thủ tục hành chính có quyền
quyết định khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính; trong
trường hợp nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là nơi ở thì
quyết định khám phải được sự đồng ý bằng văn bản của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
cấp huyện trước khi tiến hành.
- Khi khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính phải có mặt người
chủ nơi bị khám hoặc người thành niên trong gia đình họ và người chứng kiến.
Trong trường hợp người chủ nơi bị khám, người thành niên trong gia đình họ vắng
mặt mà việc khám không thể trì hoãn thì phải có đại diện chính quyền và hai người
chứng kiến.
56
- Không được khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính vào ban
đêm, trừ trường hợp khẩn cấp hoặc việc khám đang được thực hiện mà chưa kết
thúc nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản.
f. Bảo lãnh hành chính
- Bảo lãnh hành chính là việc giao cho gia đình, tổ chức xã hội nhận quản lý, giám
sát người có hành vi vi phạm pháp luật thuộc đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa
vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh trong thời gian cơ quan có
thẩm quyền làm thủ tục xem xét, quyết định việc áp dụng các biện pháp này nếu
người đó có nơi cư trú nhất định.
- Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện quyết định giao việc bảo lãnh hành chính cho
gia đình, tổ chức xã hội nơi đối tượng cư trú. Trong trường hợp đối tượng là người
chưa thành niên thì trách nhiệm bảo lãnh hành chính được giao cho cha mẹ hoặc
người giám hộ. Gia đình, tổ chức xã hội, người được giao trách nhiệm bảo lãnh
hành chính có trách nhiệm không để đối tượng tiếp tục vi phạm pháp luật và bảo
đảm sự có mặt của đối tượng tại nơi cư trú khi được yêu cầu.
V. KHIẾU NẠI VÀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI
Khác với Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 1989, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính năm 1995 và năm 2002 không quy định người bị xử phạt có quyền khiếu nại lên
cấp trên trực tiếp, mà đầu tiên có quyền khiếu nại với chính người đã ra quyết định xử
phạt theo pháp luật về khiếu nại, tố cáo, cụ thể như sau:
- Cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc người đại diện hợp pháp của
họ có quyền khiếu nại về quyết định xử phạt vi phạm hành chính, quyết định áp dụng các
biện pháp ngăn chặn và bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính.
- Người bị giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ
sở giáo dục, đưa vào cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính hoặc người đại diện hợp pháp
của họ có quyền khiếu nại về việc áp dụng biện pháp đó.
- Mọi công dân có quyền tố cáo về hành vi trái pháp luật trong xử lý vi phạm hành
chính.
- Thẩm quyền, thủ tục, thời hạn giải quyết khiếu nại, tố cáo được thực hiện theo quy
định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo
57
Trong trường hợp không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại đó thì người khiếu
nại có quyền khiếu nại lên cấp trên trực tiếp của người đã ra quyết định xử phạt (gọi là
khiếu nại theo lần thứ hai) hoặc là khởi kiện ra toà hành chính. Việc khởi kiện đối với
quyết định xử phạt vi phạm hành chính, quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn và
bảo đảm việc xử lý vi phạm hành chính, quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa
vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục, đưa vào cơ sở chữa bệnh, quản chế hành
chính được thực hiện theo quy định của pháp luật về thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính.
---------------------------------------
Câu hỏi
1. Hành vi nào được xem là hành vi vi phạm pháp luật hành chính? Các dấu hiệu cần
thiết để kết luận một hành vi là hành vi vi phạm pháp luật?
2. Các nhận định sau đây là đúng hay sai? Giải thích.
a. Hành vi trái luật hành chính là hành vi vi phạm pháp luật hành chính.
b. Chỉ có hành vi với lỗi cố ý mới có thể bị xem là hành vi vi phạm hành chính hành
chính.
c. Ðộng cơ, mục đích là yếu tố bắt buộc trong mọi hành vi vi phạm hành chính hành
chính.
d. Người từ đủ 18 tuổi trở lên mới có thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính hành
chính.
e. Chỉ xem là hành vi vi phạm hành chính và truy cứu trách nhiệm hành chính khi có hậu
quả xảy ra.
f. Mọi hành vi vi phạm hành chính hành chính đều phải chịu trách nhiệm pháp lý hành
chính.
g. Chỉ xử phạt vi phạm hành chính khi còn trong thời hiệu xử phạt.
h. Thủ tục đơn giản không cần lập biên bản.
i. Hình thức xử phạt bổ sung có thể được áp dụng độc lập.
j. Trục xuất vừa có thể là hình thức xử phạt chính, có thể là hình thức xử phạt bổ sung.
k. Trách nhiệm hành chính là trách nhiệm đặt ra đối với cá nhân hoặc tổ chức.
58
Chương IV. THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
I. KHÁI NIỆM, ÐẶC ÐIỂM, Ý NGHĨA CỦA THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
1. Những quan điểm chung về thủ tục hành chính
Theo nghĩa thông thường thủ tục là phương cách giải quyết công việc theo một trình tự
nhất định. Cũng có thể hiểu thủ tục là những quy tắc, chế độ, phép tắc hay quy định
chung phải tuân theo khi làm việc công.
Trong hoạt động của mình, tương ứng với các chức năng, nhà nước cần phải đặt ra và
tuân theo những quy tắc pháp lý, những quy định chung về trình tự, cách thức khi sử
dụng thẩm quyền của từng cơ quan để giải quyết công việc. Khoa học pháp lý gọi đó là
những quy phạm thủ tục. Quy phạm này gồm các bộ phận: thủ tục lập pháp, thủ tục tố
tụng tư pháp và thủ tục hành chính.
- Thủ tục lập hiến và lập pháp: là thủ tục làm hiến pháp và làm luật .
- Thủ tục tố tụng tư pháp: là thủ tục giải quyết tranh chấp dân sự, định tội được thực
hiện bởi các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
- Thủ tục hành chính: là thủ tục thực hiện thẩm quyền trong hoạt động quản lý hành
chính nhà nước.
Toàn bộ các quy tắc pháp luật quy định về trình tự, trật tự thực hiện thẩm quyền của cơ
quan nhà nước trong việc giải quyết nhiệm vụ nhà nước và công việc liên quan đến công
dân tạo thành hệ thống quy phạm thủ tục. Chúng là những nguyên tắc bắt buộc các cơ
quan nhà nước cũng như công chức nhà nước phải tuân theo trong quá trình giải quyết
công việc thuộc chức năng của mình. Nó nhằm bảo đảm cho công việc đạt được mục đích
đã định, phù hợp với thẩm quyền, chức năng do luật quy định cho các cơ quan trong hoạt
động quản lý hành chính nhà nước. Bởi vậy có thể xem thủ tục hành chính là trình tự thực
hiện thẩm quyền của các cơ quan nhà nước hoặc các cá nhân, tổ chức được ủy quyền
trong việc thực thi công vụ, trong việc giải quyết các kiến nghị, yêu cầu của dân.
Có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm thủ tục hành chính hoặc cho rằng thủ tục là
cách thức, là lề lối giải quyết công việc theo một trình tự nhất định tức là quy định chung
phải tuân theo khi thực hiện công vụ hoặc cho đó là trình tự phải thực hiện kế tiếp nhau
59
theo thứ tự thời gian nhằm thực hiện công vụ hoặc cho rằng đó là trình tự kế tiếp nhau
theo thứ tự thời gian nhằm thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
Ngoài ra, cũng có quan điểm cho rằng thủ tục hành chính là trình tự thực hiện thẩm quyền
của các cơ quan hành chính nhà nước hoặc cá nhân, tổ chức được ủy quyền hợp pháp
trong việc giải quyết các công việc của nhà nước và các kiến nghị, yêu cầu thích đáng của
công dân hoặc tổ chức nhằm thi hành nghĩa vụ hành chính, bảo đảm công vụ nhà nước và
phục vụ nhân dân.
Do tính đa dạng của hoạt động quản lý hành chính nhà nước nên có rất nhiều loại thủ tục
và tất cả các thủ tục đó có những đối tượng chung tạo thành khái niệm thủ tục hành chính.
Từ những quan điểm trên có thể định nghĩa thủ tục hành chính như sau:
"Thủ tục hành chính là trình tự về thời gian, không gian và là cách thức giải quyết công
việc của cơ quan hành chính nhà nước trong mối quan hệ với các cơ quan, tổ chức và cá
nhân công dân. Nó được đặt ra để các cơ quan nhà nước có thể thực hiện mọi hình thức
hoạt động cần thiết của mình trong đó bao gồm cả trình tự thành lập công sở, trình tự bổ
nhiệm, bãi nhiệm, điều động cán bộ, công chức, trình tự lập quy, áp dụng quy phạm pháp
luật để đảm bảo các quyền chủ thể và xử lý vi phạm, trình tự điều hành, tổ chức các hoạt
động tác nghiệp hành chính."
Chỉ có các hoạt động quản lý hành chính được quy phạm thủ tục hành chính điều chỉnh
mới là thủ tục hành chính, còn các hoạt động tổ chức - tác nghiệp cụ thể nào đó trong
hoạt động quản lý hành chính không được các quy phạm thủ tục hành chính điều chỉnh
thì không phải là thủ tục hành chính .
Thủ tục hành chính chủ yếu là thủ tục trong việc thực hiện chỉ đạo thi hành pháp luật.
Thủ tục này do pháp luật quy định. Toàn bộ những quy phạm pháp luật về thủ tục hành
chính tạo thành một chế định quan trọng của luật hành chính gọi là chế định thủ tục hành
chính. Về chế định thủ tục hành chính có thể chia thành một số nhóm sau:
Nhóm quy định về quy chế ban hành thủ tục hành chính và thẩm quyền các cơ
quan tiến hành thủ tục.
Nhóm quy định việc thông qua quyết định cho từng loại thủ tục, truyền đạt đến
cho người thi hành thủ tục; việc thực hiện và trình tự khiếu nại, giải quyết khiếu
nại đối với quyết định ban hành.
60
2. Ðặc điểm của thủ tục hành chính
Qua nghiên cứu cho thấy, thủ tục hành chính có những đặc điểm sau:
- Thủ tục hành chính được thực hiện bởi nhiều cơ quan và công chức nhà nước. Ngoài
cơ quan hành chính và công chức nhà nước là những chủ thể chủ yếu tiến hành thủ tục
hành chính, theo quy định của pháp luật hiện hành các cơ quan hành pháp, các cơ quan tư
pháp cũng có loại hoạt động thuộc hệ thống nền hành chính nhà nước cho nên các cơ
quan này cũng thực hiện một số thủ tục hành chính.
- Thủ tục hành chính là thủ tục giải quyết công việc nội bộ của nhà nước và công việc
liên quan đến quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý của công dân. Do vậy những công việc
có thể đòi hỏi nhiều khâu, nhiều bước.
- Quản lý hành chính nhà nước chủ yếu là hoạt động cho phép, ra quyết định có tính
chất đơn phương và đòi hỏi thi hành ngay nhằm mục đích giải quyết nhanh chóng, có
hiệu quả những công việc diễn ra hàng ngày trong xã hội. Do vậy, việc quy định thủ tục
hành chính đòi hỏi phải kết hợp những khuôn mẫu ổn định tương đối và chặt chẽ với các
biện pháp, thích ứng với từng loại công việc và đối tượng để đảm bảo kịp thời giải quyết
được công việc theo từng trường hợp cụ thể .
- Hoạt động quản lý hành chính nhà nước được thực hiện chủ yếu tại tại văn phòng
công sở nhà nước và phương tiện truyền đạt quyết định cũng như các thông tin quản lý
phần lớn là văn bản. Vì thế hoạt động này có mối quan hệ chặt chẽ với công tác văn thư.
- Nền hành chính nhà nước Việt Nam chuyển từ hành chính đơn thuần sang hành chính
phục vụ, làm dịch vụ cho xã hội, từ cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung quan liêu sang
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước đã làm cho hoạt động quản lý hành chính
ngày càng đa dạng về nội dung hình thức, phương pháp...
- Cải cách thủ tục hành chính là một hoạt động đòi hỏi phải thực hiện thường xuyên,
hiệu quả và cần có sự chung sức giữa các ngành, các cấp, các tổ chức xã hội, các doanh
nghiệp và của toàn dân, trong đó việc nhận thức và thực hiện của hệ thống cơ quan hành
chính nhà nước là nồng cốt quyết định.
3. Ý nghĩa của thủ tục hành chính
Thủ tục hành chính đảm bảo cho các quy phạm vật chất quy định trong các quyết định
hành chính được thi hành thuận lợi. Nếu bỏ qua các thủ tục hành chính thì trong nhiều
61
trường hợp sẽ làm cho văn bản hành chính bị vô hiệu hóa dễ xảy ra quan liêu, cửa quyền,
tùy tiện.
Thủ tục hành chính bảo đảm cho việc thi hành các quyết định được thống nhất và có thể
kiểm tra được tính hợp lý cũng như các hậu quả do việc thực hiện các quyết định hành
chính tạo ra.
Thủ tục hành chính khi được xây dựng và vận dụng một cách hợp lý sẽ tạo khả năng sáng
tạo trong việc thực hiện các quyết định quản lý đã được thông qua, đem lại hiệu quả thiết
thực cho hoạt động quản lý nhà nước. Thủ tục hành chính liên quan đến nghĩa vụ và
quyền lợi của công dân. Do vậy khi được xây dựng hợp lý và vận dụng tốt vào đời sống
nó sẽ tạo ra mối quan hệ tốt giữa nhà nước với nhân dân.
Thủ tục hành chính cũng là một biện pháp của pháp luật về hành chính nên việc xây dựng
và thực hiện tốt các thủ tục hành chính sẽ có ý nghĩa rất lớn đối với quá trình xây dựng và
phát triển luật pháp. Ðặc biệt khi nhà nước ta đang tiếp tục công cuộc cải cách nền hành
chính nhà nước và xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam thì thủ tục hành chính càng
đóng vai trò quan trọng .
Thủ tục hành chính xét trên một phương diện nhất định là sự biểu hiện trình độ văn hóa
của tổ chức. Ðây là văn hóa giao tiếp trong bộ máy nhà nước, văn hóa điều hành, nó thể
hiện mức độ văn minh của một nền hành chính phát triển.
II. CHỦ THỂ CỦA THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
Chủ thể của thủ tục hành chính gồm các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, tổ chức
kinh tế, đơn vị vũ trang và công dân.
Trong thủ tục hành chính có chủ thể thực hiện thủ tục và chủ thể tham gia thủ tục.
a) Chủ thể thực hiện thủ tục hành chính là những chủ thể có thẩm quyền nhân danh nhà
nước tiến hành các thủ tục hành chính gồm các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và
những người có thẩm quyền công vụ. Ðây là những chủ thể bắt buộc phải có trong quan
hệ pháp luật hành chính, tuy nhiên không phải mọi hoạt động thủ tục của chủ thể này làm
phát sinh quan hệ pháp luật hành chính.
b) Chủ thể tham gia thủ tục hành chính là công dân và cũng có thể là cơ quan nhà nước,
tổ chức xã hội và những người có thẩm quyền công vụ. Loại chủ thể này bằng hành động
của mình làm xuất hiện thủ tục và tạo điều kiện để thực hiện thủ tục có hiệu quả. Các
62
hành động đó như: gửi đơn xin cấp một loại giấy tờ, gửi đơn tố cáo, thực hiện hành vi vi
phạm hành chính.
c) Ngoài ra, còn có chủ thể của thủ tục hành chính với tư cách là bên thứ ba như: người
làm chứng, người giám định, người phiên dịch, người chứng kiến.
III. QUY PHẠM VÀ QUAN HỆ THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
1. Quy phạm thủ tục hành chính
Thủ tục hành chính bao gồm các quy phạm quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của
các cơ quan hành chính nhà nước cũng như quy định quyền và nghĩa vụ của các tổ chức
xã hội, của công dân trong quản lý nhà nước. Những quy phạm đó hợp thành những quy
phạm nội dung. Bên cạnh các quy phạm nội dung còn có các quy phạm quy định trật tự
tiến hành công việc nhằm thực hiện các quy định của quy phạm nội dung. Những quy
phạm đó hợp thành các quy phạm thủ tục, là các quy tắc xử sự điều chỉnh các quan hệ xã
hội hình thành trong quá trình thực hiện thủ tục hành chính của các chủ thể.
Quy phạm thủ tục là phương tiện để các quy phạm nội dung của luật hành chính và một
số ngành khác vào cuộc sống. Vì vậy có thể nói, quy phạm thủ tục phát sinh trên cơ sở
quy phạm nội dung. Tuy nhiên quy phạm thủ tục có đối tượng và phạm vi điều chỉnh
riêng.
Quy phạm thủ tục hành chính rất đa dạng. Dựa vào một số căn cứ nhất định có thể chia
quy phạm thủ tục hành chính thành từng nhóm. Cụ thể:
Nếu căn cứ vào nội dung có thể chia quy phạm thủ tục hành chính thành:
- Nhóm quy phạm quy định các nguyên tắc thủ tục hành chính và thẩm quyền của các
cơ quan tiến hành thủ tục.
- Nhóm quy phạm quy định quyền của các bên tham gia thủ tục.
- Nhóm quy phạm quy định trình tự tiến hành thủ tục và nội dung, hình thức giấy tờ,
công văn thích ứng.
- Nhóm quy phạm quy định thủ tục thông qua quyết định phù hợp với từng loại thủ tục
hành chính, truyền đạt đến ngưới thi hành, việc thực hiện và trình tự khiếu nại, giải quyết
khiếu nại các quyết định đã ban hành.
63
Nếu căn cứ vào mục đích của các quy phạm thủ tục, có thể chia quy phạm thủ tục
hành chính thành:
- Nhóm quy phạm quy định trình tự tiến hành, giải quyết các công việc liên quan liên
quan đến quyền chủ thể của các tổ chức và công dân.
- Nhóm quy phạm quy định trình tự tiến hành giải quyết các hoạt động thuộc quan hệ
nội bộ của cơ quan hành chính nhà nước và các cơ quan nhà nước khác.
Các quy phạm thủ tục hành chính là đảm bảo pháp lý cho việc thực hiện các quy phạm
nội dung. Nếu thiếu các quy phạm thủ tục thì quy phạm nội dung được áp dụng thiếu
thống nhất. Vì thế để hoàn thiện pháp luật hành chính Việt Nam thì cần phải chú ý đến
việc hoàn thiện hệ thống quy phạm thủ tục hành chính.
2. Quan hệ thủ tục hành chính
Các qui phạm thủ tục hành chính điều chỉnh các quan hệ xã hội trong quá trình thực hiện
thủ tục hành chính làm phát sinh các quan hệ thủ tục hành chính. Các quan hệ thủ tục
hành chính phát sinh trên cơ sở quy phạm thủ tục hành chính được gọi là quan hệ thủ tục
hành chính.
Ðể cho quan hệ thủ tục hành chính phát sinh cần phải có một số điều kiện nhất định. Cụ
thể:
- Có quy phạm nội dung và các quy phạm thủ tục hành chính phù hợp với nó.
- Có sự kiện pháp lý làm cơ sở để xuất hiện quan hệ pháp luật hành chính.
- Chủ thể quan hệ pháp luật hành chính phải có năng lực chủ thể hành chính.
Các quan hệ thủ tục hành chính được hình thành trong quá trình thực hiện hoạt động chấp
hành và điều hành. Nó luôn luôn có chủ thể bắt buộc là cơ quan hành chính nhà nước.
Các cơ quan này đại diện cho quyền lực nhà nước thực hiện các hoạt động thủ tục hành
chính, có quyền quyết định đơn phương trên cơ sở pháp luật. Quan hệ thủ tục hành chính
xuất hiện do bất kỳ sáng kiến của bên nào mà sự đồng ý của bên kia không phải là điều
kiện bắt buộc. Trong thủ tục giải quyết tranh chấp về quyền và xử lý các vi phạm pháp
luật thường hình thành quan hệ ba bên. Ðó là quan hệ giữa hai bên tham gia thủ tục và
quan hệ giữa chúng với chủ thể có thẩm quyền thực hiện thủ tục giải quyết vụ việc.
Nội dung của quan hệ thủ tục hành chính là tổng thể các quyền và nghĩa vụ quy định lẫn
nhau giữa các chủ thể thủ tục hành chính do quy phạm thủ tục hành chính xác định.
64
Ngoài ra quy phạm thủ tục hành chính còn quy định cả trình tự, cách thức thực hiện các
hoạt động cụ thể để giải quyết các công việc. Các quan hệ thủ tục hành chính xuất hiện
trên cơ sở thực hiện các quy phạm thủ tục hành chính nhằm mục đích là bảo đảm thực
hiện những yêu cầu của quy phạm nội dung.
IV. CÁC LOẠI THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
1. Phân loại theo đối tượng quản lý hành chính nhà nước
Theo cách phân loại này, thủ tục hành chính được xác định cho từng chức năng của bộ
máy quản lý hiện hành. Sự phân loại này giúp cho người quản lý xác định được tính đặc
thù của lĩnh vực mà mình phụ trách từ đó đề ra yêu cầu xây dựng cho lĩnh vực này những
thủ tục hành chính cần thiết nhằm quản lý tốt các nhiệm vụ đặt ra theo mục tiêu do nhà
nước quy định. Căn cứ theo cách phân loại này thì ta có các thủ tục như:
- Thủ tục trước bạ, hộ tịch;
- Thủ tục trong lĩnh vực đăng ký và hoạt động kinh doanh;
- Thủ tục trong xuất nhập khẩu hàng hóa;
- Thủ tục liên quan đến đất đai, nhà ở, xây dựng;
- Thủ tục liên quan đến hoạt động đền bù và giải phóng mặt bằng…
2. Phân loại theo các loại hình công việc cụ thể mà các cơ quan nhà nước được giao
thực hiện trong quá trình hoạt động của mình
Theo cách phân loại này thì ta có các thủ tục như:
- Thủ tục thông qua và ban hành văn bản pháp quy;
- Thủ tục xét phong đơn vị, cá nhân anh hùng, chiến sĩ thi đua;
- Thủ tục tuyển dụng cán bộ
- Thủ tục giải quyết các công việc hành chính theo yêu cầu hợp pháp của các cá
nhân, tổ chức…
Cách phân loại này có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng vì nó giúp cho người thừa hành
công vụ và những người thi hành các thủ tục trong thực tế định hướng được công việc
một cách dễ dàng và chính xác hơn.
65
3. Phân loại theo chức năng hoạt động của các cơ quan
Cách phân loại này cũng có ý nghĩa thực tiễn quan trọng như cách phân loại thủ tục hành
chính theo các loại hình công việc cụ thể. Nó giúp cho các nhà quản lý khi giải quyết
công việc chung có liên quan đến các tổ chức khác hoặc với công dân, tìm được các hình
thức giải quyết thích hợp theo đúng chức năng quản lý nhà nước của cơ quan mình.
4. Phân loại dựa trên quan hệ công tác
Theo cách phân loại này có thể chia thủ tục hành chính làm ba nhóm:
Thủ tục hành chính nội bộ:
Là thủ tục thực hiện các công việc nội bộ trong cơ quan nhà nước, trong hệ thống cơ quan
nhà nước và trong bộ máy nhà nước nói chung. Nó bao gồm các thủ tục quan hệ lãnh đạo,
kiểm tra của các cơ quan nhà nước cấp trên đối với cấp dưới; quan hệ hợp tác, phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước cùng cấp, ngang cấp; quan hệ công tác giữa chính quyền cấp
tỉnh với các bộ... đây là vấn đề quy định còn lỏng lẽo và các thủ tục đang có hiệu lực chưa
được thi hành nghiêm. Thủ tục hành chính nội bộ bao gồm:
- Thủ tục ban hành quyết định;
- Thủ tục khen thưởng, kỷ luật;
- Thủ tục lập các tổ chức, thi tuyển và bổ nhiệm cán bộ viên chức nhà nước.
Thủ tục hành chính liên hệ:
Là thủ tục tiến hành giải quyết các công việc liên quan đến quyền tự do, quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý vi phạm hành chính. Ðây là thủ tục
rất đa dạng.
Trước hết nó là thủ tục giải quyết các yêu cầu, đề nghị của công dân và tập thể công dân.
Trong những trường hợp công dân muốn thực hiện phải xin phép nhà nước. Các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền tiến hành xem xét và giải quyết các đơn đó bằng quyết định
hành chính cá biệt cho phép. Tuy nhiên, quá trình giải quyết đó phải tuân theo những
trình tự, thủ tục nhất định. Có thể gọi đó là thủ tục cho phép, ví dụ:
- Thủ tục xin cấp giấy phép xây dựng;
- Thủ tục xin giấy phép đăng lý kinh doanh.
- Thủ tục giải quyết các yêu cầu của cơ quan, tổ chức khác của cơ quan nhà
nước;
66
- Thủ tục xem xét kiến nghị, yêu cầu khiếu nại, tố cáo của công dân…
Thứ hai là khi công dân hoặc tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính hay cố tình
không chịu thi hành các quyết định hành chính thì các cơ quan hành chính hoặc cán bộ,
công chức có thẩm quyền được thực hiện các biện pháp ngăn chặn, xử phạt hay cưỡng
chế thi hành bằng quyết định hành chính có tính cách ra lệnh và các hành vi hành chính
trực tiếp. Quá trình đó phải tuân theo các điều kiện, thủ tục do pháp luật quy định. Thủ
tục cưỡng chế thi hành và xử phạt cần phải có thời hạn và điều kiện để tránh lạm quyền,
xâm phạm đến quyền tự do, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
- Thủ tục áp dụng các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn hành chính;
- Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính;
- Thủ tục áp dụng các biện pháp xử lý hành chính...
Thứ ba là trong một số trường hợp nhất định, cơ quan hành chính có quyền thực hiện
việc trưng mua, trưng dụng, thu hồi đất. Tuy nhiên phải tuân theo thủ tục về trưng dụng,
trưng mua, thu hồi đất có đền bù do luật quy định. Thủ tục này bao gồm:
- Thủ tục tiến hành trưng mua, trưng dụng;
- Thủ tục thu hồi đất trong quy hoạch xây dựng…
Thủ tục văn thư
Ðể đưa ra một quyết định hành chính đúng đắn, phù hợp cần phải dựa vào các căn cứ có
tính chất chứng lý trong đó có nhiều chứng cứ là văn bản giấy tờ. Toàn bộ các hoạt động
lưu trữ, xử lý, cung cấp công văn giấy tờ và đưa ra các quyết định liên quan chặt chẽ đến
hoạt động văn thư, tạo thành thủ tục văn thư trong hoạt động hành chính.
Thủ tục văn thư khá tỉ mỉ, phức tạp và tính chất văn thư tùy thuộc vào từng công việc cần
giải quyết .
Việc căn cứ vào tổ chức hoạt động của hành chính nhà nước là giải quyết trực tiếp công
việc của nhà nước và của công dân. Việc phân loại thủ tục hành chính chỉ là ước lệ, có
tính chất tương đối để nghiên cứu, còn trong thực tiễn các thủ tục đan xen, thống nhất với
nhau. Thực hiện một thủ tục nội bộ đòi hỏi phải tiến hành những công việc thuộc thủ tục
liên hệ và thủ tục văn thư.
67
V. CÁC NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
1. Các nguyên tắc xây dựng thủ tục hành chính
Việc xây dựng các thủ tục hành chính được đặt trên những nguyên tắc cơ bản do Hiến
pháp quy định. Những nguyên tắc này có thể trực tiếp liên quan đến việc xây dựng các
thủ tục hành chính nhưng cũng có thể chỉ được quy định trên những nguyên tắc chung và
đòi hỏi phải cụ thể hóa bằng các văn bản luật khác như luật tổ chức chính phủ, luật tổ
chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp, bộ luật hình sự, bộ luật dân sự.
Ngoài ra việc việc xây dựng thủ tục hành chính còn phải tuân theo một số nguyên tắc
khác. Cụ thể:
- Xây dựng thủ tục hành chính phải phù hợp với pháp chế xã hội chủ nghĩa, phù hợp với
pháp luật hiện hành của nhà nước ta. Theo nguyên tắc này chỉ có các cơ quan nhà nước,
những người có thẩm quyền do pháp luật quy định mới được ban hành thủ tục hành chính
nhất định và phải thực hiện đúng trình tự với những phương tiện, biện pháp và hình thức
được pháp luật cho phép. Thủ tục hành chính được thực hiện bằng phương tiện vật chất
của nhà nước là chủ yếu, nhằm tạo điều kiện cho các đương sự thực hiện quyền và thi
hành nghĩa vụ .
- Xây dựng thủ tục hành chính phù hợp với thực tế, với nhu cầu khách quan của sự phát
triển kinh tế xã hội của đất nước.
Theo nguyên tắc này, thủ tục hành chính phải được xây dựng trên cơ sở nhận thức được
yêu cầu khách quan của tiến trình phát triển kinh tế xã hội. Hiện nay đất nước ta đang đi
vào công nghiệp hóa, xã hội hóa đất nước do vậy cần phải xây dựng thủ tục hành chính
sao cho phù hợp với tình hình đất nước hiện tại để tạo điều kiện cho nền kinh tế thị
trường hoạt động hữu hiệu. Ðồng thời với việc ban hành những thủ tục mới cần phải kịp
thời sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ những thủ tục không còn hiệu lực để tạo điều kiện tốt cho
các hoạt động của nền kinh tế thị trường phát triển.
- Xây dựng thủ tục hành chính sao cho đơn giản, dễ hiểu, công khai, thuận lợi cho việc
thực hiện
Theo nguyên tắc này việc xây dựng thủ tục hành chính cần tránh phức tạp, rườm rà, gây
cho dân khó hiểu, khó chấp hành. Chính sự đơn giản sẽ tiết kiệm tiền của, sức lực của
nhân dân trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình, đồng thời sẽ hạn chế việc lợi dụng chức
quyền vi phạm quyền tự do của công dân.
68
Bên cạnh đó việc xây dựng thủ tục hành chính cũng cần đảm bảo tính công khai. Có như
thế mọi người dân mới biết được mà tuân thủ. Ðồng thời, để người dân có thể kiểm tra
được tính nghiêm túc của cơ quan nhà nước khi giải quyết những công việc có liên quan
đến tổ chức, công dân.
2. Các nguyên tắc thực hiện thủ tục hành chính
Thủ tục hành chính được thực hiện trên cơ sở những nguyên tắc được ghi nhận trong
Hiến pháp, luật và các văn bản pháp quy, cụ thể:
- Chỉ có cơ quan nhà nước có thẩm quyền do pháp luật quy định mới được thực hiện các
thủ tục hành chính nhất định và phải thực hiện đúng trình tự với những phương tiện, biện
pháp và hình thức được pháp luật cho phép. Thủ tục hành chính được thực hiện bằng
phương tiện vật chất của nhà nước là chủ yếu và tạo điều kiện cho các đương sự thực hiện
quyền và thi hành nghĩa vụ.
- Khi thực hiện thủ tục hành chính phải đảm bảo tính chính xác, công minh: tính chính
xác, công minh trong thủ tục hành chính được đảm bảo thực hiện bởi hoạt động của cơ
quan tiến hành thủ tục. Cơ quan tiến hành thủ tục phải có đủ tài liệu, chứng cứ và có
quyền đòi hỏi cung cấp thông tin, áp dụng những biện pháp cần thiết đảm bảo cho cá
nhân, tổ chức hữu quan thực hiện thủ tục hành chính được thuận lợi.
- Các bên tham gia thủ tục hành chính bình đẳng trước pháp luật.
Nguyên tắc này thể hiện ở chỗ các cơ quan hành chính nhà nước phải giải quyết quyền
chủ thể của công dân, tổ chức khi đề nghị của họ có đủ điều kiện luật định. Cơ quan có
thẩm quyền giải quyết phải ra lệnh đối với các bên hữu quan để đảm bảo quyền tự do, lợi
ích hợp pháp của đương sự.
- Thủ tục hành chính phải được thực hiện đơn giản, tiết kiệm.
Ðể thực hiện thủ tục hành chính mang lại hiệu quả cần giảm bớt các cấp, các cửa, các giai
đoạn, tăng quyền đồng thời với trách nhiệm của các cơ quan thực hiện thủ tục, giảm tới
mức tối thiểu và trong nhiều thủ tục bỏ hẳn các loại phí, lệ phí đối với công dân, tổ chức.
Ðây là nguyên tắc quan trọng nhằm đảm bảo cho mọi công dân có thể tham gia thủ tục
hành chính để bảo vệ quyền tự do, lợi ích hợp pháp của mình và để nhà nước phục vụ
nhân dân tốt hơn.
69
VI. THỰC HIỆN THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
1. Nghĩa vụ của cơ quan nhà nước trong việc thực hiện thủ tục hành chính
- Thủ tục hành chính liên quan đến thể chế quản lý, tổ chức bộ máy, chế độ công vụ,
quy chế làm việc và sự phối hợp giữa các cơ quan hành chính. Do vậy, nghĩa vụ hành
chính đối với việc thực hiện các thủ tục hành chính trước hết biểu hiện ở chỗ các cơ quan
hành chính nhà nước cần phải quy định một cách hợp lý thể chế quản lý thích hợp nhằm
giải quyết tốt các nhiệm vụ đặt ra. Cần quy định chế độ làm việc rõ ràng để tránh tình
trạng vô trách nhiệm trong công tác, giảm bớt những phiền hà cho nhân dân trong quá
trình những công việc có liên quan đến họ.
- Mọi cơ quan nhà nước khi giải quyết công việc phải công khai hóa các thủ tục
hành chính có liên quan đến hoạt động của mình và có nghĩa vụ phải tự mình thực hiện
đúng các thủ tục đã công bố, không được tùy tiện thay đổi, bổ sung. Nếu cần bổ sung thì
phải tuân theo đúng những quy định của pháp luật và phải công khai những bổ sung đó.
- Giải quyết kịp thời các khiếu nại của nhân dân về việc thực hiện không đúng các
thủ tục hành chính làm tổn hại đến lợi ích của nhà nước và của nhân dân.
- Các cơ quan nhà nước và cán bộ có thẩm quyền khi nhận được đơn thư khiếu nại
của công dân, tổ chức cần phải kịp thời trả lời, giải quyết theo đúng thẩm quyền của
mình. Nhà nước cần phải quy định rõ ràng trách nhiệm của công chức nhà nước trong
việc tiếp nhận, giải quyết đơn thư, khiếu nại của công dân để đảm bảo yêu cầu của nhân
dân không bị đùn đẩy từ cơ quan này sang cơ quan khác.
2. Các giai đoạn của thủ tục hành chính
Thủ tục hành chính là tổng thể các hoạt động diễn ra theo trình tự thời gian. Vì vậy có thể
chia thủ tục hành chính thành hai giai đoạn:
a. Giai đoạn 1: Quy định thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật, thủ tục áp dụng
các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn hành chính có những đặc điểm riêng được xem xét
trong các quy định về trách nhiệm hành chính, văn bản hành chính.
b. Giai đoạn 2: Quy định thủ tục giải quyết các vụ việc riêng biệt - cụ thể bao gồm thủ
tục xử phạt hành chính; thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với hành vi lạm quyền, vi
phạm pháp luật của người có chức vụ; thanh tra... đều có những nét chung. Cái chung đó
được quy định bởi các thủ tục được thực hiện trong phạm vi hoạt động hành chính nhà
70
nước, chủ yếu do cơ quan hành chính nhà nước thực hiện, có tính thống nhất về mặt cơ
cấu - tổ chức. Thủ tục này bao gồm một số bước sau:
- Khởi xướng vụ việc;
- Xem xét và ra quyết định giải quyết vụ việc;
- Thi hành quyết định;
- Khiếu nại và xem xét lại quyết định bị khiếu nại hoặc xem xét lại quyết định đã ra khi
phát hiện tình tiết mới.
Khởi xướng vụ việc: là giai đoạn bắt đầu thủ tục, nó thuộc quyền hạn của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền tự mình hoặc căn cứ vào sáng
kiến về vụ việc của công dân, tổ chức để đề ra vụ việc cần giải quyết. Trong những
trường hợp do pháp luật quy định thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc phải đưa vụ
việc ra giải quyết. Vì vậy các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân, các vụ vi phạm
trật tự quản lý, các công việc cần phải giải quyết trong quản lý hành chính nhà nước... là
căn cứ bắt đầu thực hiện thủ tục hành chính.
Xem xét và ra quyết định giải quyết vụ việc: là giai đoạn chính, trung tâm của thủ
tục hành chính. Trong giai đoạn này, cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện hai giai
đoạn nghiên cứu, xem xét, thu thập, xác minh, đánh giá khách quan, toàn diện vụ việc
xảy ra và ra quyết định là hành vi có ý nghĩa quan trọng về mặt pháp lý kết thúc giai đoạn
trên.
Thi hành quyết định hành chính: là giai đoạn các chủ thể của thủ tục hành chính
thực hiện quyết định, không có khiếu nại. Ở giai đoạn này pháp luật quy định quyền và
nghĩa vụ của cơ quan chịu trách nhiệm thi hành quyết định và áp dụng các biện pháp
cưỡng chế khi cần thiết, cũng như quyền và nghĩa vụ của người phải trực tiếp thi hành
quyết định theo đúng thời hạn trình tự.
Khiếu nại và xét khiếu nại đối với quyết định: là giai đoạn có thể xảy ra sau khi ra
quyết định và cả trong trường hợp quyết định đã thi hành. Việc xem xét lại quyết định đã
ban hành được thực hiện khi xuất hiện các căn cứ:
- Khiếu nại của các bên trực tiếp phải thực hiện quyết định và các bên hữu quan;
- Có ý kiến của cơ quan cấp trên của cơ quan đã ban hành quyết định hoặc chính cơ quan
ra quyết định đề xướng.
71
- Theo pháp luật của nhà nước ta, việc khiếu nại được tiến hành bằng con đường hành
chính hoặc sau đó chọn ra toà án.
VII. CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
1 Sự cần thiết phải cải cách thủ tục hành chính
Thủ tục hành chính là cơ sở và điều kiện cần thiết để cơ quan nhà nước giải quyết công
việc của nhân dân, các cơ quan nhà nước và các tổ chức theo pháp luật nhằm bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan có công việc cần giải quyết. Tuy nhiên,
thủ tục hành chính của nước ta hiện nay còn tồn tại nhiều nhược điểm. Cụ thể:
Ðòi hỏi quá nhiều giấy tờ gây phiền hà cho nhân dân nhất là đối với những người ít
hiểu biết các quy định về lề lối làm việc của các cơ quan nhà nước.
Nhiều cửa, nhiều cấp trung gian không cần thiết, rườm rà, không rõ ràng về trách
nhiệm.
Trì trệ, không phù hợp với yêu cầu của thời kỳ mở cửa, còn theo thói quen, kinh
nghiệm và còn dựa trên các cơ sở thực tế không còn phù hợp.
Thiếu thống nhất, thường bị thay đổi một cách tùy tiện.
Thiếu công khai.
Hệ quả chung khi áp dụng hệ thống thủ tục hành chính đó là việc gây phiền hà, kém hiệu
quả trong việc thực hiện công việc chung của các cơ quan; gây trở ngại cho việc giao lưu
và hợp tác giữa nước ta với nước ngoài; gây ra tệ cửa quyền, bệnh giấy tờ trong guồng
máy hành chính, dễ phát sinh tệ tham nhũng, làm giảm lòng tin của nhân dân vào cơ quan
nhà nước.
Do vậy, cải cách thủ tục hành chính đang là yêu cầu bức xúc của nhân dân, của các tổ
chức và các nhà đầu tư nước ngoài, là khâu đột phá của quá trình cải cách hành chính nhà
nước.
2. Ý nghĩa của việc cải cách thủ tục hành chính
- Cải cách thủ tục hành chính trước hết là nhằm giảm bớt những quy định rườm rà không
cần thiết.
- Cải cách thủ tục hành chính nhằm khắc phục sự chồng chéo lẫn nhau trong việc phục vụ
các yêu cầu của người dân.
72
- Cải cách thủ tục hành chính là điều kiện cần thiết để tăng cường, củng cố mối quan hệ
giữa nhà nước với nhân dân; tăng cường sự tham gia quản lý nhà nước của nhân dân.
3. Mục tiêu và yêu cầu của cải cách thủ tục hành chính trong giai đoạn hiện nay
- Phát hiện và xóa bỏ những thủ tục hành chính thiếu đồng bộ, rườm rà, phức tạp. Theo
Đề án 302 (Chung tay cải cách thủ tục hành chính), phải đơn giản hóa và kiến nghị đơn
giản hóa tối thiểu 30% các quy định hiện hành về cải cách thủ tục hành chính.
- Phải đạt được sự chuyển biến căn bản trong quan hệ và giải quyết công việc của dân và
tổ chức. Thiết lập cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính với mục đích chính là
công khai hóa tất cả các thủ tục hành chính hiện hành của trung ương và địa phương. Cơ
sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính là hệ thống thông tin về thủ tục hành chính và
các văn bản pháp luật quy định về thủ tục hành chính liên quan đến cá nhân và tổ chức
được thiết lập trên cơ sở các Quyết định công bố thủ tục hành chính hoặc thủ tục giải
quyết công việc của 24 bộ, ngành và 63 địa phương. Mục tiêu chính của cơ sở dữ liệu
nhằm cung cấp một địa điểm duy nhất để người sử dụng có thể tìm kiếm các thủ tục hành
chính quan tâm. Cơ sở dữ liệu sẽ tăng cường khả năng tiếp cận thông tin về các quy định,
tăng tính minh bạch của hệ thống thể chế và thiết lập một cơ sở lịch sử về hệ thống thủ
tục hành chính. Đây là một bước tiến quan trọng sau hơn 30 năm đất nước giải phóng,
nền hành chính thực sự bước sang một chặng mới, hướng đến công khai, minh bạch và sự
giản đơn, thuận tiện cho người dân.
---------------------------------
73
Câu hỏi
1. Thế nào là thủ tục hành chính? Ý nghĩa của thủ tục hành chính trong quản lý hành
chính nhà nước?
2. Có bao nhiêu loại thủ tục hành chính? Mối quan hệ giữa qui phạm thủ tục và quan hệ
thủ tục hành chính.
3. Tại sao cần phải cải cách thủ tục hành chính?
4. Một thủ tục hành chính có làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật hành
chính hay không? Cho ví dụ.
5. Hiểu biết gì Đề án 30 về cải cách thủ tục hành chính. Những ưu, khuyết đểm (nếu có)
của đề án này.
2 Xem Công văn số 256/CCTTHC ngày 25/8/2009 của Tổ công tác chuyên trách cải cách thủ tục hành chính của Thủtướng Chính phủ tại về việc rà soát ngay những thủ tục hành chính theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
74
B. CÁC BIỆN PHÁP BẢO ÐẢM HIỆU QUẢ TRONG QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC
Chương V. NHỮNG BIỆN PHÁP BẢO ÐẢM PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VÀ KỶ LUẬT NHÀ NƯỚC TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
I. KHÁI NIỆM, YÊU CẦU ÐỐI VỚI VIỆC BẢO ÐẢM PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VÀ KỶ LUẬT NHÀ NƯỚC TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
Nhà nước Việt Nam áp dụng nhiều biện pháp tích cực để pháp luật nhà nước được thi
hành thống nhất và nghiêm chỉnh. Pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật nhà nước có mối
quan hệ mật thiết với nhau, không thể tách rời. Ðó là điều kiện để duy trì và củng cố sự
vững mạnh của chính quyền nhà nước, bảo đảm cho việc quản lý của nhà nước được thực
hiện đạt hiệu quả cao.
1. Khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật nhà nước trong quản lý nhà
nước
a. Khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa
Pháp chế xã hội chủ nghĩa có nội dung là sự triệt để tôn trọng và thực hiện pháp luật một
cách nghiêm chỉnh, chính xác của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, nhân viên các cơ
quan nhà nước, nhân viên các tổ chức xã hội và công dân, là phương thức thực hiện dân
chủ xã hội chủ nghĩa.
Củng cố pháp chế xã hội chủ nghĩa là một vấn đề mang tính quy luật trong suốt quá trình
tồn tại và phát triển của nhà nước xã hội. Chế độ xã hội chủ nghĩa tạo ra những tiền đề
khách quan cho việc thiết lập và củng cố pháp chế đồng thời đòi hỏi pháp chế phải không
ngừng tăng cường và ngày càng hoàn thiện.
Nói tới pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý hành chính nhà nước là nói tới việc bảo
vệ có hiệu quả các quyền và lợi ích chính đáng của công dân, đồng thời cũng nói tới việc
thực hiện pháp luật một cách thường xuyên, thống nhất, tự giác và nghiêm chỉnh của các
cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân; xử lý nghiêm minh và đấu tranh kiên
quyết với các hành vi vi phạm pháp luật. Ðể bảo đảm thực hiện các nội dung này thì đòi
hỏi nhà nước phải xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, thống nhất. Trong đó nhà
75
nước quy định đầy đủ quyền và nghĩa vụ của công dân cũng như các biện pháp thực
hiện, quy định địa vị pháp lý của các bên tham gia quan hệ quản lý nhà nước, quy định
trật tự quản lý nhà nước, các biện pháp bảo đảm cho pháp luật được thi hành trên thực tế
và các vấn đề có liên quan khác.
b. Khái niệm kỷ luật nhà nước trong quản lý nhà nước
Theo nghĩa chung nhất, kỷ luật nhà nước là tổng thể các quy tắc do nhà nước, các cơ
quan nhà nước ban hành nhằm đảm bảo hoạt động bình thường của nhà nước, là việc các
cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân thực hiện đúng trật tự được quy định trong
pháp luật và hoàn thành các nhiệm vụ được nhà nước giao. Kỷ luật nhà nước được thể
hiện trong các lĩnh vực quản lý nhà nước bao gồm các loại kỷ luật như: kỷ luật lao động,
kỷ luật kế hoạch, kỷ luật hợp đồng, kỷ luật tài chính ...
Kỷ luật lao động là tổng thể các quy tắc lao động do nhà nước ban hành nhằm điều
chỉnh các quan hệ lao động, trật tự lao động và nghĩa vụ lao động của công nhân cán bộ,
công chức nhà nước.
Kỷ luật kế hoạch là tổng thể các quy tắc do nhà nước bàn hành nhằm điều chỉnh quá
trình kế hoạch hóa và hoạt động của cán bộ, công chức nhà nước khi thực hiện kế hoạch.
Kỷ luật tài chính là tổng thể các quy phạm pháp luật về tài chính, ngân sách, các
nguyên tắc kế toán tín dụng, lưu thông tiền tệ.
Kỷ luật hợp đồng là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ kinh tế
thông qua hợp đồng.
c. Mối quan hệ giữa kỷ luật nhà nước và pháp chế xã hội chủ nghĩa
Kỷ luật nhà nước và pháp chế xã hội chủ nghĩa có mối quan hệ khắng khít, mật
thiết với nhau trong quan hệ với pháp chế xã hội chủ nghĩa, kỷ luật nhà nước sẽ có tác
động tích cực hoặc tiêu cực đối với pháp chế tùy theo kỷ luật đó như thế nào. Những
hành vi vi phạm kỷ luật nhà nước đều trực tiếp hay gián tiếp xâm phạm trật tự quản lý
hành chính nhà nước, vi phạm pháp chế. Buông lỏng kỷ luật trong quản lý là tạo cơ hội
cho vi phạm pháp luật nảy sinh và phát triển, phá vỡ kỷ cương nhà nước. Ngược lại, pháp
luật được củng cố sẽ góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Trong quan hệ với kỷ luật nhà nước, pháp chế xã hội chủ nghĩa cũng có vai trò tác động
hết sức to lớn. Nếu pháp chế được tôn trọng thì pháp luật được thực hiện nghiêm minh,
tạo điều kiện thuận lợi, cần thiết cho việc củng cố kỷ luật nhà nước.
76
d. Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật nhà nước
Các cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan hành chính nhà nước nói riêng thực hiện
quản lý hành chính nhà nước thống nhất từ trung ương đến địa phương trên cơ sở pháp
luật nhằm thực hiện pháp luật. Do vậy, việc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật
nhà nước trong quá trình quản lý là yêu cầu thường xuyên.
Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật nhà nước được thực hiện thông qua hoạt
động của tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân. Bên cạnh đó, nhà nước
còn thành lập các cơ quan, tổ chức chuyên làm nhiệm vụ bảo đảm việc tôn trọng pháp
luật một cách triệt để cũng như bảo đảm giữ gìn kỷ luật nhà nước một cách nghiêm minh
(tòa án, thanh tra...). Tùy theo các đối tượng có vị trí chức năng, nhiệm vụ khác nhau
trong quản lý hành chính nhà nước mà việc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật
nhà nước có thể là hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra.
Vậy, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật nhà nước trong quản lý hành chính
nhà nước là tổng thể những biện pháp mang tính tổ chức - pháp lý được các cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội và công dân áp dụng thông qua các hình thức giám sát, kiểm tra,
thanh tra... nhằm thiết lập trật tự trong quản lý, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của
công dân cũng như lợi ích của nhà nước.
Các hoạt động giám sát thanh tra, kiểm tra... là các phương thức kiểm soát đối với hành
chính nhà nước. Mỗi loại hình kiểm soát kể trên có vai trò, tác động xã hội nhất định,
chúng phối hợp tạo thành công lực để củng cố pháp chế và trật tự pháp luật.
Giám sát: là khái niệm dùng để chỉ hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước,
tòa án, các tổ chức xã hội và công dân nhằm đảm bảo sự tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật
trong quản lý xã hội. Như vậy, hoạt động giám sát chủ yếu được thực hiện ngoài quan hệ
trực thuộc theo chiều dọc (bao gồm cả giám sát trực tiếp và giám sát gián tiếp), mà thuộc
hệ thống cơ quan khác hoặc của nhân dân. Đối với chức năng giám sát của các cơ quan
nhà nước, đặc biệt là cơ quan quyền lực nhà nước, hậu quả pháp lý của việc giám sát là
cơ quan giám sát có quyền đình chỉ, bãi bỏ quyết định hành chính của cơ quan chịu giám
sát.
77
Kiểm tra: là khái niệm rộng được vận dụng theo hai hướng.
- Một là, kiểm tra là hoạt động thường xuyên của cơ quan nhà nước cấp trên với cơ
quan nhà nước cấp dưới nhằm xem xét, đánh giá mọi mặt hoạt động của cấp dưới khi cần
thiết hoặc kiểm tra một vấn đề cụ thể, việc thực hiện một quyết định hành chính nào đó.
- Hai là, kiểm tra là hoạt động của các tổ chức xã hội như kiểm tra Ðảng, kiểm tra
của các tổ chức xã hội đối với hành chính nhà nước.
Sự khác nhau giữa hai loại kiểm tra này ở chỗ: kiểm tra trong hệ thống là hoạt động mang
tính quyền lực nhà nước, nên có quyền trực tiếp áp dụng các biện pháp cưỡng chế (nếu
cần). Trong khi đó, hoạt động kiểm tra mang tính xã hội thì không mang tính quyền lực
nhà nước nên chỉ áp dụng các biện pháp tác động mang tính xã hội.
Thanh tra: là phạm trù dùng chỉ hoạt động của các tổ chức thuộc tổng thanh tra nhà
nước và thanh tra nhà nước chuyên ngành.
Cơ quan thanh tra và đối tượng bị thanh tra thường không có quan hệ trực thuộc. Cơ quan
thanh tra do thủ trưởng các cơ quan hành chính thành lập, do vậy nó hoạt động với tư
cách là cơ quan chức năng giúp thủ trưởng cùng cấp. Trong quá trình thanh tra, cơ quan
thanh tra có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế để bảo đảm công tác thanh tra, kể cả
các biện pháp trách nhiệm kỷ luật và xử lý vi phạm hành chính nhưng không có quyền
sửa đổi, bãi bỏ quyết định của đối tượng bị thanh tra mà chỉ có quyền đình chỉ, tạm đình
chỉ việc thi hành một số loại quyết định hành chính nào đó, trong những trường hợp đặc
biệt cần thiết hoặc đối với hành vi vi phạm pháp luật.
2. Các yêu cầu đối với việc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật nhà nước
Trong lĩnh vực chấp hành, điều hành các chủ thể quản lý nhà nước thường xuyên thực
hiện các hành vi có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân. Do đó các hoạt động
thực thi pháp luật phải đảm bảo một số yêu cầu nhất định. Cụ thể là:
a. Các yêu cầu đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật nhà nước
- Hoạt động của các cơ quan nhà nước phải phù hợp với mục đích, nội dung và yêu cầu
của các văn bản pháp luật, nếu vi phạm yêu cầu này sẽ dẫn đến những hoạt động tùy tiện,
không thống nhất của các chủ thể có thẩm quyền, trực tiếp xâm phạm đến các khách thể
mà pháp luật bảo vệ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
78
- Các cơ quan nhà nước chỉ được hoạt động trong phạm vi thẩm quyền do pháp luật quy
định, không được tiến hành các hoạt động vượt quá giới hạn thẩm quyền, cũng như không
được tự ý thu hẹp hoặc thay đổi thẩm quyền đó.
- Các văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước ban hành phải có nội dung và hình thức phù
hợp, chúng chỉ hết hiệu lực khi bị thay thế bởi một văn bản khác do cùng một cơ quan
ban hành hoặc bị hủy bỏ bởi quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
- Phải bảo đảm tính thống nhất trong việc áp dụng luật và các văn bản pháp quy khác.
Tuy nhiên, khi áp dụng pháp luật cần lưu ý đến những điều kiện, tình hình kinh tế, chính
trị, xã hội của từng địa phương, từng vùng, từng đối tượng để có các biện pháp quản lý
phù hợp nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước.
b. Các nguyên tắc để thực hiện các yêu cầu đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ
luật nhà nước
Nguyên tắc pháp luật hóa
Tất cả các hoạt động được thực hiện bởi các cơ quan chuyên trách hay không chuyên
trách nhằm duy trì và bảo vệ pháp luật như hoạt động thanh tra, kiểm tra... phải được quy
định trong các văn bản pháp luật. Ðây là cơ sở pháp lý để các chủ thể thực hiện quyền
chủ động khi tham gia bảo đảm pháp chế và kỷ luật nhà nước, đồng thời còn là cơ sở để
buộc các đối tượng có hành vi xâm phạm pháp chế và kỷ luật nhà nước không được cản
trở hoặc thoái thác trách nhiệm khi bị áp dụng các biện pháp trách nhiệm mà nhà nước đã
quy định.
Nguyên tắc thường xuyên
Hoạt động quản lý diễn ra hàng ngày. Nó liên tục làm phát sinh các quan hệ pháp lý cụ
thể và cũng có thể thường xuyên xâm hại đến quyền và lợi ích của các đối tượng quản lý
do những hành vi trái pháp luật hoặc những hoạt động vô kỷ luật của các chủ thể. Vì vậy,
hoạt động nhằm đảm bảo pháp chế và kỷ luật nhà nước phải được tiến hành thường
xuyên mới có thể duy trì được trật tự pháp luật và giữ vững kỷ luật nhà nước. Nếu không
sẽ dẫn đến những hậu quả khó khắc phục hoặc có khi sự tác động chậm trễ hoặc không
thường xuyên là nguyên nhân dẫn đến sự phá vỡ trật tự quản lý.
Nguyên tắc công khai và hiệu quả
Mọi hoạt động nhằm đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật nhà nước phải được
tiến hành công khai. Có như vậy mới thu hút được đông đảo các chủ thể tham gia, nếu
79
không sẽ gây hiểu nhầm, làm giảm hiệu quả của việc bảo đảm cho pháp luật được tôn
trọng và kỷ luật nhà nước được tăng cường.
Nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt
chẽ giữa các cơ quan nhà nước
Ðảm bảo nguyên tắc này sẽ tạo điều kiện cho các cơ quan nhà nước kiểm soát lẫn nhau,
tạo ra những đối trọng nhất định giữa các cơ quan nhà nước với nhau. Ðây là nguyên tắc
đặc biệt quan trọng trong các nguyên tắc nhằm bảo đảm pháp chế và kỷ luật nhà nước
trong quản lý hành chính nhà nước.
II. CÁC BIỆN PHÁP BẢO ÐẢM PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ KỶ LUẬT
NHÀ NƯỚC TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
Quản lý nhà nước là hoạt động mang tính dưới luật, điều đó đòi hỏi mọi hoạt động của
các cơ quan hành chính nhà nước phải đặt dưới sự kiểm tra của các cơ quan nhà nước
khác, các tổ chức xã hội và công dân, nhằm đảm bảo pháp chế và kỷ luật trong quản lý
nhà nước. Hoạt động kiểm tra đối với quản lý hành chính nhà nước không đối lập, không
cản trở hoạt động đó, ngược lại làm cho nó trở nên trong sạch và vững mạnh hơn.
1. Hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với cơ quan hành chính
nhà nước
Theo quy định của Hiến pháp, các cơ quan hành chính nhà nước do các cơ quan quyền
lực nhà nước cùng cấp lập ra. Do vậy quyền giám sát được coi như quyền có tính chất
hiến định của cơ quan quyền lực đối với mọi hoạt động của các cơ quan hành chính nhà
nước. Cơ quan quyền lực nhà nước là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng của đông
đảo quần chúng nhân dân, thực hiện quyền lực nhân dân và chịu trách nhiệm trước nhân
dân cho nên quyền lực nhà nước tập trung trong hệ thống cơ quan quyền lực và chúng tác
động, chi phối các cơ quan nhà nước khác, đặc biệt là hệ thống hành chính nhà nước.
Thông qua hoạt động giám sát của mình, các cơ quan quyền lực nhà nước thường xuyên
và trực tiếp kiểm tra mọi mặt hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp.
Trong quá trình giám sát, các cơ quan quyền lực nhà nước sẽ phát hiện những yếu kém về
mặt tổ chức, những lệch lạc trong nhận thức và hành động, những vướng mắc trong quá
80
trình hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước từ đó có biện pháp thích ứng khắc
phục kịp thời.
Ðây cũng là biện pháp quan trọng để cơ quan quyền lực kiểm nghiệm lại tính phù hợp với
thực tế của những nghị quyết mà mình đã ban hành, những biện pháp mà mình quản lý.
Trên cơ sở đó đưa ra những biện pháp cải tiến về phương pháp quản lý, hoàn thiện hệ
thống pháp luật, nâng cao hiệu quả quản lý. Ðồng thời hoạt động giám sát còn giúp cơ
quan quyền lực nhà nước phát hiện ra các vi phạm pháp luật, các hành vi xâm phạm đến
lợi ích nhà nước, tập thể, công dân của cán bộ có thẩm quyền từ đó có biện pháp xử lý
hoặc yêu cầu xử lý nghiêm minh các vi phạm đó.
Như vậy, các cơ quan quyền lực nhà nước có thể chỉ đạo một cách trực tiếp, thường
xuyên công tác của cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp thông qua hoạt động giám sát.
Hoạt động giám sát của Quốc hội:
Theo quy định của pháp luật, Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nước Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, ngoài chức năng lập hiến, lập pháp, Quốc hội còn thực hiện
quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước. Ngoài ra, “Quốc hội còn
thực hiện quyền giám sát của mình thông qua Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân
tộc, các Ủy ban của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội.”3 Hoạt động
giám sát đó được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau như:
- Thông qua việc nghe báo cáo của Chính phủ, các Bộ;
- Thông qua việc đánh giá công văn, báo cáo của Chính phủ, các Bộ;
- Thông qua việc chất vấn của đại biểu Quốc hội đối với các thành viên của Chính phủ;
- Thông qua hoạt động giám sát thường xuyên của các tổ đại biểu hoặc các đại biểu đối
với hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước, các cán bộ quản lý có thẩm quyền;
- Thông qua việc tiếp xúc để nghe yêu cầu, kiến nghị, khiếu nại tố cáo của cử tri;
- Thông qua việc lập đoàn kiểm tra đặc biệt để xem xét các vụ việc quan trọng. Quốc
hội có thể lập các Ủy ban lâm thời để điều tra những vấn đề nhất định.
Có thể nói, quyền giám sát của Quốc hội đối với quản lý hành chính nhà nước có phạm vi
rất lớn, thể hiện rõ tính quyền lực nhà nước kể cả về mặt tổ chức (trong việc thành lập,
bãi bỏ các cơ quan, các chức danh của bộ máy hành chính nhà nước) và cả những lĩnh
vực hoạt động cụ thể của bộ máy hành chính nhà nước (chỉ có Quốc hội mới có quyền bãi
3 Nguyễn Cửu Việt, PGS.TS: Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr.457.
81
bỏ văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của
Quốc hội).
Như vậy, quyền giám sát của Quốc hội là quyền giám sát tối cao, quyền này không bị
giới hạn bởi đối tượng, phạm vi giám sát. Ðể củng cố pháp chế và kỷ luật trong quản lý
nhà nước cần phải tăng cường hoạt động giám sát của Quốc hội đối với hệ thống hành
chính.
Ngoài ra, trong những trường hợp được uỷ nhiệm hoặc thông qua những nhiệm vụ quyền
hạn của mình, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng có hoạt động giám sát nhất định, tuy
nhiên về bản chất đây không phải là sự giám sát tối cao.
Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp:
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, thực hiện quyền giám
sát đối với hoạt động của Ủy ban nhân dân và các cơ quan quản lý chuyên môn ở địa
phương cũng như hoạt động của các xí nghiệp, cơ quan, tổ chức trực thuộc và trực thuộc
cấp trên đóng tại địa phương.
Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân được thực hiện thông qua việc;
- Nghe báo cáo, đánh giá báo cáo của Ủy ban nhân dân.
- Thông qua việc xem xét, giải quyết các khiếu nại, kiến nghị của cử tri đối với hoạt
động của các cơ quan hành chính.
- Có quyền bãi miễn các chức danh của cơ quan hành chính địa phương.
- Có quyền bãi bỏ các quyết định sai trái của Ủy ban nhân dân cùng cấp.
Quyền giám sát của Hội đồng nhân dân đối với Ủy ban nhân dân cùng cấp có phạm vi
rộng và thể hiện trên nhiều phương diện. Các cơ quan hành chính phải chấp hành sự giám
sát của cơ quan quyền lực nhà nước, nhưng nếu nhìn một cách tổng thể trên toàn hệ thống
thì các cơ quan hành chính nhà nước không hoàn toàn bị động trong các quan hệ giám sát
đó mà có tính chủ động, có sự tác động trở lại đối với cơ quan quyền lực nhà nước.
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước nhưng hoạt động của nó mang tính đặc
thù của một cơ quan chính quyền địa phương, là nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, luật,
pháp lệnh và các văn bản của cấp trên. Ðương nhiên, trong hoạt động của mình, Hội đồng
nhân dân phải chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra của cấp trên trong đó có HÐND cấp
trên và Chính phủ.
82
2. Hoạt động thanh tra, kiểm tra của các cơ quan hành chính nhà nước, của các
cán bộ cán bộ, công chức nhà nước có thẩm quyền
Kiểm tra là hoạt động không thể thiếu trong quá trình quản lý của các chủ thể quản lý có
thẩm quyền. Thông qua biện pháp kiểm tra, các cơ quan hành chính nhà nước và cán bộ
cán bộ, công chức nhà nước có thẩm quyền phát hiện những hiện tượng sai trái, lệch lạc
hay những điển hình tốt, từ đó có biện pháp xử lý đối với những hiện tượng tiêu cực và có
biện pháp tác động tích cực đối với những gương điển hình.
Sự kiểm tra hành chính của cơ quan hành chính nhà nước là sự kiểm tra toàn diện trên
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trong phạm vi cả nước hay từng địa phương, từng
ngành.
Cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền quản lý trong lĩnh vực nào, ngành nào thì
có quyền kiểm tra trong lĩnh vực đó, ngành đó. Sự kiểm tra của cán bộ có thẩm quyền đối
với nhân viên thuộc quyền là hoạt động kiểm tra mang tính chất toàn diện trong phạm vi
từng cơ quan, từng đơn vị mà người cán bộ đó phụ trách.
Hoạt động kiểm tra của các cơ quan hành chính nhà nước và cán bộ có thẩm quyền là
hoạt động mang tính quyền lực nhà nước. Thể hiện:
- Bên kiểm tra có quyền tiến hành kiểm tra một cách đơn phương chỉ tuân theo pháp
luật không cần sự đồng ý của bên bị kiểm tra. Có thể tiến hành kiểm tra theo định kỳ hoặc
đột xuất đối với đối tượng bị kiểm tra nhằm mục đích tìm hiểu sự thật khách quan trong
quá trình quản lý.
- Bên kiểm tra có quyền yêu cầu bên đối tượng bị kiểm tra cung cấp hồ sơ, tài liệu,
chứng cứ liên quan đến vấn đề cần kiểm tra, bên bị kiểm tra phải chấp hành, nếu không sẽ
bị xử lý theo pháp luật.
- Bên kiểm tra có quyền ra chỉ thị về phương hướng thời hạn và biện pháp sửa chữa sai
sót phát hiện được trong quá trình kiểm tra.
Hoạt động kiểm tra của bộ máy hành chính nhà nước đối với các hoạt động phát sinh
trong lĩnh vực chấp hành, điều hành bao gồm:
Hoạt động thanh tra, kiểm tra của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền
chung.
Ðây là những hoạt động được thực hiện bởi Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp đối
với đối tượng quản lý thuộc quyền. Việc kiểm tra được tiến hành bằng nhiều hình thức
83
như: nghe, xem xét, đánh giá báo cáo của đối tượng quản lý; thành lập đoàn thanh tra
tổng hợp để thanh tra, kiểm tra chung hoặc thông qua cơ quan thanh tra nhà nước, thanh
tra bộ, thanh tra sở...
Khi kiểm tra, cơ quan kiểm tra có quyền ra quyết định bắt buộc đối với đối tượng kiểm
tra, có quyền đình chỉ, bãi bỏ quyết định trái pháp luật, áp dụng biện pháp kỷ luật đối với
người có chức vụ hoặc các cơ quan, tổ chức trực thuộc.
Hoạt động kiểm tra chức năng:
Là hoạt động kiểm tra do các cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực tiến hành đối với các đơn
vị không trực thuộc mình về mặt tổ chức. Trong phạm vi quyền hạn của mình, các bộ có
quyền chỉ đạo, hướng dẫn đồng thời kiểm tra các Ủy ban nhân dân các cấp, các cơ quan
nhà nước khác, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ công tác thuộc ngành, lĩnh vực, có quyền
đình chỉ việc thi hành và đề nghị Thủ tướng bãi bỏ những quyết định của Ủy ban nhân
dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân và các đối tượng khác trái với các văn bản của bộ về
ngành lĩnh vực mà bộ phụ trách.
Hoạt động kiểm tra nội bộ:
Là hoạt động kiểm tra được tiến hành trong nội bộ cơ quan, tổ chức bởi thủ trưởng cơ
quan, tổ chức. Thủ trưởng cơ quan, tổ chức có quyền áp dụng các hình thức, biện pháp
thuộc quyền hạn của mình như khen thưởng, kỷ luật và bãi bỏ các quyết định sai trái của
nhân viên thuộc quyền quản lý.
Hoạt động thanh tra nhà nước (thanh tra Chính phủ):
Là hoạt động chuyên trách nhằm bảo đảm pháp chế và kỷ luật nhà nước, là phương thức
thực hiện pháp chế xã hội chủ nghĩa trong quản lý hành chính nhà nước. Mục đích của
thnah tra nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật; phát hiện
những sơ sở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục.
- Tổ chức thanh tra nhà nước theo cấp hành chính bao gồm:
+ Thanh tra Chính phủ.
+ Thanh tra cấp tỉnh.
+ Thanh tra cấp huyện.
84
Là hệ thống thanh tra thuộc các cơ quan có thẩm quyền chung, có quyền tiến hành hoạt
động thanh tra trong phạm vi rộng liên quan đến các lĩnh vực quản lý của các cơ quan có
thẩm quyền chung.
- Bên cạnh đó, còn có tổ chức thanh tra theo ngành, lĩnh vực, bao gồm:
+ Thanh tra bộ.
+ Thanh tra sở.
Là hệ thống cơ quan thanh tra thuộc cơ quan có thẩm quyền chuyên môn tiến hành công
tác thanh tra trong phạm vi chuyên môn thuộc quyền quản lý của các cơ quan đó. Chức
năng thanh tra nhà nước ở xã, phường do ủy ban nhân dân cùng cấp trực tiếp đảm nhận.
Khác với hệ thống thanh tra theo cấp hành chính, thanh tra chuyên ngành có thẩm quyền
xử phạt vi phạm hành chính (Điều 25, Điều 28, Luật Thanh tra 2004). Khi tiến hành hoạt
động thanh tra, các tổ chức thanh tra nhà nước phải tuân theo các quy định của pháp luật
về hoạt động thanh tra.
Như vậy, hoạt động thanh tra có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo thực thi pháp luật
của tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân trong quá trình quản lý hành chính.
Hoạt động thanh tra góp phần phát hiện ra các vi phạm pháp luật và ngăn chặn vi phạm
pháp luật. Ðồng thời góp phần củng cố hoạt động của bộ máy hành chính cũng như đội
ngũ cán bộ, công chức nhà nước.
Hoạt động kiểm toán nhà nước:
Ðây là một hình thức kiểm tra đặc biệt đối với hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
Theo Quyết định số 70/CP ngày 11/7/1994 kiểm toán nhà nước được chính thức thành lập
với tư cách là cơ quan nhà nước đặc thù có chức năng xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp
của tài liệu, số liệu kế toán, báo cáo quyết toán của các cơ quan nhà nước, các đơn vị
hành chính sự nghiệp, các đơn vị kinh tế nhà nước và các đoàn thể quần chúng, các tổ
chức xã hội sử dụng kinh phí do ngân sách nhà nước cấp.
Như vậy, kiểm toán nhà nước chủ yếu nhằm vào hệ thống các cơ quan hành chính nhà
nước, mọi hoạt động gắn liền với tài chính nhà nước - là đối tượng kiểm tra của kiểm
toán nhà nước. Khi thi hành nhiệm vụ kiểm toán nhà nước chỉ tuân theo pháp luật và
phương pháp chuyên môn nghiệp vụ, có quyền yêu cầu các đơn vị được kiểm toán và các
đơn vị có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu cần thiết.
85
3. Hoạt động của Tòa án nhân dân trong việc bảo đảm pháp chế và kỷ luật nhà
nước
Tòa án là cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện chức năng xét xử. Thông qua việc xét
xử Tòa án giải quyết những tranh chấp về quyền và nghĩa vụ trong một số quan hệ pháp
luật, tòa án nhân dân không chỉ xử lý nghiêm minh đối với người vi phạm pháp luật, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ tài sản của nhà nước, của tập thể, bảo
vệ tính mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm của công dân mà còn có thể đề nghị các cơ quan
hành chính nhà nước khắc phục những nguyên nhân, điều kiện dẫn đến vi phạm pháp
luật.
Tòa án nhân dân góp phần bảo đảm pháp chế và kỷ luật nhà nước thông qua hoạt động tài
phán hành chính. Qua xét xử các vụ án hành chính, tòa hành chính trực tiếp kiểm tra,
giám sát và có thể xử lý đối với hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước. Ðiều đó có
giá trị tích cực trong việc tăng cường pháp chế và kỷ luật nhà nước.
4. Hoạt động kiểm tra Ðảng, kiểm tra giám sát của các tổ chức xã hội
Hoạt động kiểm tra Ðảng:
Hoạt động kiểm tra Ðảng là chức năng không tách rời quyền lãnh đạo của Ðảng vì Ðảng
cộng sản Việt Nam lãnh đạo toàn diện mọi mặt hoạt động của nhà nước Việt Nam.
- Chủ thể kiểm tra Đảng: là tất cả các cơ quan thuộc hệ thống của Đảng, gắn liền với
các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, đơn vị kinh tế.
- Phạm vi kiểm tra: là toàn diện và tuyệt đối. Pháp luật hiện hành còn quy định Đảng là
chủ thể duy nhất lãnh đạo toàn bộ đội ngũ cán bộ, công chức.
- Cách thức kiểm tra: Công tác kiểm tra Ðảng đối với hoạt động quản lý nhà nước được
thực hiện bởi cơ quan Ðảng, thông qua việc nghe các Ðảng viên lãnh đạo cơ quan nhà
nước tương ứng báo cáo về hoạt động của bộ máy do họ chỉ đạo, đồng thời kiểm tra việc
thực hiện nghị quyết của Ðảng trong các Ðảng viên.
- Các biện pháp tác động sau quá trình kiểm tra: Tuy hoạt động kiểm tra này không
mang tính quyền lực nhà nước, nhưng nó có tác động rất lớn trên thực tế. Trong một số
trường hợp nhất định, kiểm tra Đảng là kết luận cuối cùng đối với hành vi vi phạm của
cán bộ công chức là Đảng viên. Tất nhiên, với tư cách là một tổ chức chính trị, Đảng có
thể áp dụng hình thức kỷ luật Đảng đối với thành viên của mình. Trên cơ sở này, cơ quan,
86
đơn vị nơi Đảng viên công tác sẽ quyết định hình thức kỷ luật về mặt chính quyền, và
các cơ quan thanh tra, kiểm tra hữu quan truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với cán bộ vi
phạm.
Hoạt động kiểm tra, giám sát của các tổ chức xã hội
Kiểm tra xã hội là hoạt động được tiến hành chủ yếu thông qua các tổ chức xã hội như
Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Ðoàn thanh niên, Hội phụ nữ...
Kiểm tra xã hội là việc nhân dân lao động tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội
thông qua hoạt động kiểm tra của các tổ chức xã hội đối với các cơ quan nhà nước, cán
bộ nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân trong việc thực hiện pháp luật. Khi phát hiện
những vi phạm pháp luật hoặc những yếu kém về mặt tổ chức và hoạt động của các cơ
quan nhà nước thì tổ chức xã hội có quyền kiến nghị, yêu cầu các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xử lý hay khắc phục, góp phần tích cực vào việc tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa và kỷ luật nhà nước.
Ban thanh tra nhân dân
Ban thanh tra nhân dân cũng là một tổ chức xã hội (tổ chức tự quản); tuy nhiên, vì đóng
vai trò quan trọng trong việc kiểm tra giám sát nên được nghiên cứu thành một nội dung
riêng. Các tổ chức thanh tra nhân dân được thành lập ở xã, phường, thị trấn, đơn vị sản
xuất, kinh doanh, cơ quan hành chính sự nghiệp để thực hiện giám sát, kiểm tra việc thực
hiện chính sách, pháp luật Nhà nước tại địa phương, đơn vị, cơ quan mình.
Trong phạm vi chức năng của mình, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, Liên đoàn lao động các
cấp có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo hoạt động thanh tra nhân dân và cùng với các tổ chức
thành viên khác của Mặt trận phối hợp với các tổ chức thanh tra Nhà nước trong hoạt
động thanh tra, cụ thể như sau:
- Giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc
thực hiện quy chế dân chủ cơ sở của cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm ở xã,
phường, thị trấn, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước.
- Khi phát hiện dấu hiệu vi phạm pháp luật thì kiến nghị người có thẩm quyền xử lý theo
quy định của pháp luật và giám sát việc thực hiện kiến nghị đó.
- Khi cần thiết, được chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, người đứng đầu cơ
quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước giao xác minh những vụ việc
nhất định.
87
- Kiến nghị với Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, người đứng đầu cơ quan
nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước khắc phục sơ hở, thiếu sót được phát
hiện qua việc giám sát; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và người lao
động, biểu dương những đơn vị, cá nhân có thành tích.
Hoạt động của trọng tài kinh tế
Bằng hoạt động của mình trọng tài kinh tế tác động tích cực đến các tổ chức kinh tế, cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội nhằm làm cho các quan hệ kinh tế phát triển lành mạnh,
đẩy mạnh sản xuất, lưu thông hàng hóa, phòng ngừa các vi phạm pháp luật và tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động kinh tế.
Cùng với việc giải quyết các tranh chấp kinh tế, xử lý vi phạm hợp đồng, trọng tài kinh tế
còn có quyền yêu cầu đơn vị kinh tế, cơ quan nhà nước, tổ chức hữu quan áp dụng biện
pháp cần thiết để khắc phục nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh vi phạm pháp luật tại
đơn vị, tổ chức đó.
5. Hoạt động khiếu nại, tố cáo của công dân
Quyền khiếu nại, tố cáo là quyền hiến định ((Điều 53, Điều 74 Hiến pháp 1992). Theo
quy định tại Luật khiếu nại tố cáo, việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của công dân có
vai trò to lớn trong việc mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, góp phần tích cực vào việc
tăng cường pháp chế và kỷ luật nhà nước trong hoạt động quản lý nhà nước .
Tuy nhiên, để công dân thực hiện tốt quyền của mình thì cần phải hiểu rõ khái niệm về
khiếu nại, tố cáo.
- Khiếu nại được sử dụng khi quyền chủ thể của công dân khiếu nại bị vi phạm do
quyết định hoặc hành vi trái pháp luật thuộc phạm vi quản lý của cơ quan nhà nước hoặc
các cán bộ, công chức nhà nước, công chức nhà nước.
- Tố cáo là việc công dân phát hiện với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc làm
trái pháp luật của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền gây thiệt hại hoặc đe dọa
gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân.
Ðối tượng của khiếu nại, tố cáo là mọi quyết định hành chính nhà nước hoặc hành vi trái
pháp luật của các chủ thể quản lý nhà nước. Bên cạnh việc đặt ra các quy định về quyền
khiếu nại, tố cáo của công dân cũng như đặt ra các quy định về thủ tục, thời hạn, thẩm
88
quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Nhà nước còn đặt ra và thực hiện các
biện pháp bảo đảm pháp lý đối với người khiếu nại, tố cáo giúp công dân thực sự sử dụng
quyền này như một phương tiện để giảm sát việc thực hiện pháp luật của cán bộ, cơ quan
nhà nước và các tổ chức xã hội, cá nhân công dân .
Những biện pháp bảo đảm đó bao gồm:
- Mọi công dân đều có quyền khiều nại, tố cáo để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình, của người khác hoặc của nhà nước, của tập thể mà không bị hạn chế bất cứ điều
kiện nào;
- Người khiếu nại, tố cáo được đảm bảo tránh mọi sự đe dọa hay trả thù;
- Người khiếu nại, tố cáo không phải chịu trách nhiệm pháp lý nếu họ khiếu nại, tố cáo
đúng sự thật. Ngược lại, nếu họ lợi dụng quyền này để xuyên tạc sự thật làm giảm uy tín
của cán bộ, cơ quan nhà nước thì họ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật.
-----------------------------------
Câu hỏi
1. Nêu các phương thức để bảo đảm pháp chế XHCN và kỷ luật nhà nước?
2. Phân biệt pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật nhà nước. Mối quan hệ giữa chúng?
89
Chương VI. THAM NHŨNG, PHÒNG VÀ CHỐNG THAM NHŨNG
I. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
1. Khái niệm chung về tham nhũng
Ðể nâng cao hiệu quả của việc phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng, tăng cường
kỷ cương pháp luật, bảo vệ lợi ích của nhà nước, tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của
cá nhân, Nhà nước ta đã và đang đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng và chống tham
nhũng. Theo Ðiều 1 Luật phòng chống tham nhũng: Tham nhũng là hành vi của người có
chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ quyền hạn đó vì vụ lợi.
2. Ðặc điểm của hành vi tham nhũng
Phải được thực hiện bởi người có chức vụ quyền hạn.
Ðây là dấu hiệu bắt buộc để xác định hành vi nào là hành vi tham nhũng và đối tượng nào
có điều kiện để trở thành chủ thể thực hiện hành vi tham nhũng. Điều kiện đầu tiên được
quy định phải là người có chức vụ quyền hạn, cụ thể như sau:
- Cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị - xã hội theo quy định của Luật cán bộ công chức;
- Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong các cơ quan, đơn
vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn – kỹ thuật trong cơ
quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân;
- Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong các doanh nghiệp nhà nước; cán bộ lãnh
đạo, quản lý là người đại diện phần góp vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp;
- Những người khác được giao nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực hiện
nhiệm vụ công vụ đó.
Dấu hiệu trên cho thấy, pháp luật “khoanh vùng” đối tượng tham nhũng là những người
làm việc, công tác trong các cơ quan, tổ chức thuộc khối nhà nước, hoặc các doanh
nghiệp có phần góp vốn của nhà nước. Các đối tượng này ít nhiều được giao một quyền
hạn công vụ và đã lạm dụng quyền hạn công vụ đó để thực hiện một hành vi có chủ đích:
hành vi lạm dụng quyền hạn vì vụ lợi
90
Người có chức vụ quyền hạn đã lợi dụng chức vụ quyền hạn hoặc cố ý làm trái
pháp luật để thực hiện những hành vi vụ lợi riêng, gây thiệt hại đến lợi ích nhà nước, tập
thể và công dân, xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức.
Phân tích trên cho thấy, nếu một hành vi lạm dụng chức vụ quyền hạn của người có chức
vụ quyền hạn nhưng không vì mục đích vụ lợi thì không thể xem là tham nhũng. Ngược
lại nếu một hành vi có mục đích vụ lợi mà không thong qua con đường quyền hạn cũng
không thể xem là hành vi tham nhũng. Dấu hiệu vụ lợi được hiểu là nhằm được hưởng lợi
một lợi ích vật chất không có căn cứ pháp luật - bất hợp pháp. Tuy nhiên, đó có thể là
một khoản tiền, khoản vật chất có giá trị, hay ngay cả những điều kiện trực tiếp làm phát
sinh một lợi ích vật chất. Suy cho cùng, hành vi tham nhũng phải thỏa mãn 3 đặc điểm:
- Phải là người có chức vụ quyền hạn;
- Hành vi phải có mục đích vì vụ lợi;
- Giữa “chức vụ, quyền hạn” và “vì vụ lợi” phải có mối dây liên hệ trực tiếp.
3. Các hành vi được xem là tham nhũng
Các hành vi mà người có chức vụ quyền hạn đã làm được xem là hành vi tham nhũng
gồm:
- Tham ô tài sản.
- Nhận hối lộ.
- Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.
- Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.
- Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.
- Lợi dụng chức vụ quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để vụ lợi.
- Giả mạo trong công tác vì vụ lợi.
- Đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn để
giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước vì vụ lợi.
- Nhũng nhiễu vì vụ lợi.
- Không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật
vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.
91
Yếu tố “vì vụ lợi” là dấu hiệu bắt buộc trong các hành vi tham nhũng. Bởi vì, nếu việc
lợi dụng chức vụ, quyền hạn để nhằm mục đích khác (không phải vì vụ lợi) thì không thể
hiện bản chất của hành vi tham nhũng. Trong đó, tham ô là một dạng hành vi của tham
nhũng, khi tài sản hoặc lợi ích vật chất mà chủ thể mong muốn “vụ lợi” là tài sản của nhà
nước, tổ chức thuộc khối nhà nước, doanh nghiệp có phần vốn của nhà nước.
4. Khái niệm phòng, chống tham nhũng
Tham nhũng có đặc thù riêng là được thực hiện bởi những người có chức vụ quyền hạn.
Cho nên những thiệt hại do chính nhũng hành vi tham nhũng của những cán bộ thoái hoá,
biến chất sẽ làm ảnh hưởng một cách nghiêm trọng đến sự phát triển chung của toàn xã
hội, ảnh hưởng to lớn đến uy tín và niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Ðảng, vào
chất lượng hoạt động của các cơ quan, tổ chức được nhà nhà nước trao quyền. Chính vì
vậy, nhà nước ta đã đưa ra nhiều biện pháp để kịp thời phát hiện ngăn chặn và xử lý
nghiêm minh những người có hành vi tham nhũng. Luật phòng chống tham nhũng quy
định hai chế định quan trọng. Một là phòng ngừa tham nhũng. Hai là, chống tham nhũng.
- Phòng ngừa tham nhũng được hiểu là việc luật hóa những hành vi và hoạt động
trong quản lý nhà nước nhằm hạn chế đến mức có thể khả năng xảy ra tham nhũng.
- Chống tham nhũng có thể được hiểu theo nghĩa hẹp là các biện pháp của nhà nước
nhằm tác động trực tiếp đến các đối tượng thực hiện hành vi tham nhũng từ hình thức kỷ
luật đến truy cứu trách nhiệm hình sự.
Vì vậy, các biện pháp phòng, chống tham nhũng được quy định đa dạng trong các văn
bản quy phạm pháp luật như: Pháp lệnh phòng, chống tham nhũng, Luật cán bộ, công
chức, Bộ luật hình sự và các văn bản khác có liên quan. Nhìn chung, các văn bản này thể
hiện:
- Luật phòng chống tham nhũng quy định: mọi hành vi tham nhũng đều phải được
phát hiện kịp thời. Người có hành vi tham nhũng ở bất kỳ cương vị, chức vụ nào
đều phải bị xử lý kịp thời, nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Tài sản bị
chiếm đoạt do hành vi tham nhũng phải được thu hồi, tài sản do tham nhũng mà có
phải bị tịch thu, người có hành vi tham nhũng gây thiệt hại thì phải bồi thường.
- Ðể công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng đạt hiệu quả, chúng ta có quy định
sự khoan hồng của nhà nước đối với những người có hành vi tham nhũng nhưng
đã chủ động khai báo, tích cực hạn chế thiệt hại do hành vi trái pháp luật của mình
92
gây ra, nộp lại tài sản đã tham nhũng thì tuỳ trường hợp mà được xem xét giảm
nhẹ hoặc miễn xử lý kỷ luật, giảm nhẹ hình phạt hoặc miễn truy cứu trách nhiệm
hình sự theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên nhà nước cũng có quy định những
khung, mức hình phạt tăng nặng cho những người có hành vi tham nhũng mà dùng
thủ đoạn xảo quyệt để che giấu hành vi vi phạm, cản trở cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền trong việc phát hiện, xử lý.
5. Nguyên tắc xử lý tham nhũng
Để đảm bảo cho công tác phát hiện, xử lý tham nhũng được nhanh chóng, đúng người,
đúng với hành vi tham nhũng thì cần phải đảm bảo một số nguyên tắc sau đây:
- Mọi hành vi tham nhũng đều phải được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời,
nghiêm minh.
- Người có hành vi tham nhũng ở bất kỳ cương vị, chức vụ nào phải bị xử lý theo
quy định của pháp luật.
- Tài sản tham nhũng phải được thu hồi, tịch thu; người có hành vi tham nhũng gây
thiệt hại thì phải bồi thường, bồi hoàn theo quy định của pháp luật.
- Người có hành vi tham nhũng đã chủ động khai báo trước khi bị phát hiện, tích
cực hạn chế thiệt hại do hành vi trái pháp luật của mình gây ra, tự giác nộp lại tài
sản tham nhũng thì có thể được xem xét giảm nhẹ hình thức kỷ luật, giảm nhẹ hình
phạt hoặc miễn truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
- Việc xử lý tham nhũng phải được thực hiện công khai theo quy định của pháp luật.
- Người có hành vi tham nhũng đã nghỉ hưu, thôi việc, chuyển công tác vẫn phải bị
xử lý về hành vi tham nhũng do mình đã thực hiện
Tất nhiên, những nguyên tắc trên chỉ có thể được thực hiện triệt để khi Luật phòng chống
tham nhũng và các văn bản hướng dẫn tạo được khung pháp lý và các điều kiện cần thiết,
thống nhất và đồng bộ để hoạt động phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng được thực
hiện nghiêm minh. Đặc biệt, cần phải tăng cường các biện pháp khen thưởng các đối
tượng phát hiện hành vi tham nhũng, “bảo vệ” thích hợp cho người phát hiện hành vi
tham nhũng để họ không bị rơi vào trường hợp bị cô lập, ức hiếp hay đe dọa. Điều này
93
suy cho cùng không chỉ có ý nghĩa đối với việc trực tiếp phát hiện và xử lý tham nhũng
mà trên hết là góp phần vào việc phòng ngừa tham nhũng có hiệu quả.
II. VAI TRÒ, NHIỆM VỤ CỦA CÁC CƠ QUAN, TỔ CHỨC VÀ CÔNG DÂN TRONG
VIỆC PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG
Ðấu tranh phòng và chống tham nhũng là một nhiệm vụ không chỉ của riêng một cơ quan,
tổ chức nào mà đây là cuộc đấu tranh cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp ngành, các
cơ quan, tổ chức, cán bộ, đảng viên và cá nhân công dân. Luật phòng chống tham nhũng
đã quy định quyền, nghĩa vụ, nhiệm vụ và xác định vai trò phối hợp giữa công dân, các
cơ quan, tổ chức là rất quan trọng, nhằm mang lại hiệu quả thiết thực cho công tác chống
tham nhũng.
1. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị và người có chức vụ, quyền hạn
Cơ quan, tổ chức, đơn vị trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm
sau đây:
- Tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng;
- Tiếp nhận, xử lý kịp thời báo cáo, tố giác, tố cáo và thông tin khác về hành vi tham
nhũng;
- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người phát hiện, báo cáo, tố giác, tố cáo
hành vi tham nhũng;
- Chủ động phòng ngừa, phát hiện hành vi tham nhũng; kịp thời cung cấp thông tin,
tài liệu và thực hiện yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong quá trình
phát hiện, xử lý người có hành vi tham nhũng.
Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình có trách nhiệm sau đây:
- Gương mẫu, liêm khiết; định kỳ kiểm điểm việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ và
trách nhiệm của mình trong việc phòng ngừa, phát hiện hành vi tham nhũng, xử lý người
có hành vi tham nhũng;
- Chịu trách nhiệm khi để xảy ra hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị
do mình quản lý, phụ trách (xem thêm mục III.5 bài này).
94
Người có chức vụ, quyền hạn có trách nhiệm sau đây:
- Thực hiện nhiệm vụ, công vụ đúng quy định của pháp luật;
- Gương mẫu, liêm khiết; chấp hành nghiêm chỉnh quy định của pháp luật về phòng,
chống tham nhũng, quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp;
- Kê khai tài sản theo quy định của Luật phòng chống tham nhũng và chịu trách
nhiệm về tính chính xác, trung thực của việc kê khai đó.
2. Ban chỉ đạo về phòng chống tham nhũng
- Ban chỉ đạo trung ương về phòng, chống tham nhũng do Thủ tướng Chính phủ
đứng đầu có trách nhiệm chỉ đạo, phối hợp, kiểm tra, đôn đốc hoạt động phòng, chống
tham nhũng trong phạm vi cả nước. Giúp việc cho Ban chỉ đạo trung ương về phòng,
chống tham nhũng có bộ phận thường trực hoạt động chuyên trách.
- Ban chỉ đạo tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về phòng, chống tham nhũng do
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đứng đầu có trách nhiệm
chỉ đạo, phối hợp, kiểm tra, đôn đốc hoạt động phòng, chống tham nhũng trong phạm vi
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Ban chỉ đạo tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
về phòng, chống tham nhũng có bộ phận giúp việc.
- Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn và quy chế hoạt động của Ban chỉ đạo trung ương
về phòng, chống tham nhũng, Ban chỉ đạo tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về
phòng, chống tham nhũng do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định theo đề nghị của Thủ
tướng Chính phủ.
Ngoài ra, Luật còn quy định các đơn vị chuyên trách về chống tham nhũng trong Thanh
tra Chính phủ, Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có đơn vị chuyên trách về
chống tham nhũng. Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của đơn vị chuyên trách về chống
tham nhũng này do Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ quy định.
95
3. Giám sát công tác phòng, chống tham nhũng
- Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội giám sát công tác phòng, chống tham
nhũng trong phạm vi cả nước.
- Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình giám sát công tác phòng ngừa tham nhũng thuộc lĩnh vực do mình phụ trách.
- Uỷ ban tư pháp của Quốc hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám
sát việc phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng.
- Hội đồng nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách
nhiệm giám sát công tác phòng, chống tham nhũng tại địa phương.
- Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát việc thực hiện các quy định của pháp
luật về phòng, chống tham nhũng.
Mỗi chủ thể nêu trên có tính chất, phạm vi giám sát khác nhau. Ví dụ, giám sát của Quốc
hội là sự giám sát tối cáo của một cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất; trong khi đó,
giám sát của Hội đồng nhân dân chỉ gói gọn trong phạm vi địa bàn, địa phương.
4. Trách nhiệm phối hợp của cơ quan thanh tra, kiểm toán nhà nước, điều tra, Viện
kiểm sát, Toà án và của cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan
Cơ quan thanh tra, kiểm toán nhà nước, điều tra, Viện kiểm sát, Toà án trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với nhau và phối hợp với cơ
quan, tổ chức, đơn vị hữu quan trong việc phát hiện hành vi tham nhũng, xử lý người có
hành vi tham nhũng và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết luận, quyết định của
mình trong quá trình thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử vụ việc tham nhũng.
Cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan có trách nhiệm tạo điều kiện, cộng tác với cơ quan
thanh tra, kiểm toán nhà nước, điều tra, Viện kiểm sát, Toà án trong việc phát hiện, xử lý
người có hành vi tham nhũng
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Thanh tra Chính phủ có trách
nhiệm sau đây:
96
- Tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn công tác thanh tra việc thực hiện các quy định của
pháp luật về phòng, chống tham nhũng; trường hợp phát hiện hành vi tham nhũng thì đề
nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý;
- Xây dựng hệ thống dữ liệu chung về phòng, chống tham nhũng.
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Kiểm toán nhà nước có trách
nhiệm tổ chức thực hiện việc kiểm toán nhằm phòng ngừa, phát hiện tham nhũng; trường
hợp phát hiện hành vi tham nhũng thì đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý.
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng có
trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo thực hiện hoạt động điều tra tội phạm về tham nhũng.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo thực hiện hoạt
động truy tố các tội phạm về tham nhũng; kiểm sát hoạt động điều tra, xét xử, thi hành án
đối với các tội phạm về tham nhũng.
Toà án nhân dân tối cao có trách nhiệm xét xử, hướng dẫn công tác xét xử các tội
phạm về tham nhũng.
5. Nội dung phối hợp hoạt động giữa các cơ quan nhà nước
Cơ quan thanh tra, kiểm toán nhà nước, điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có trách
nhiệm phối hợp trong phòng, chống tham nhũng theo các nội dung sau đây:
- Trao đổi thường xuyên thông tin, tài liệu, kinh nghiệm về công tác phòng, chống
tham nhũng;
- Chuyển hồ sơ vụ việc tham nhũng cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý;
- Tổng hợp, đánh giá, dự báo tình hình tham nhũng và kiến nghị chính sách, giải
pháp phòng, chống tham nhũng.
Phối hợp công tác giữa cơ quan thanh tra, kiểm toán nhà nước với cơ quan điều tra
- Trong trường hợp cơ quan thanh tra, kiểm toán nhà nước chuyển hồ sơ vụ việc
tham nhũng cho cơ quan điều tra thì cơ quan điều tra phải tiếp nhận và giải quyết theo
quy định của pháp luật về tố tụng hình sự.
97
- Trong trường hợp không đồng ý với việc giải quyết của cơ quan điều tra thì cơ
quan thanh tra, kiểm toán nhà nước có quyền thông báo với Viện kiểm sát cùng cấp, cơ
quan điều tra cấp trên.
Phối hợp công tác giữa cơ quan thanh tra, kiểm toán nhà nước với Viện kiểm sát
- Trong trường hợp chuyển hồ sơ vụ việc tham nhũng cho cơ quan điều tra thì cơ
quan thanh tra, kiểm toán nhà nước có trách nhiệm thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp
để thực hiện việc kiểm sát.
- Trong trường hợp cơ quan thanh tra, kiểm toán nhà nước chuyển hồ sơ vụ việc
tham nhũng cho Viện kiểm sát thì Viện kiểm sát phải xem xét, giải quyết và thông báo
kết quả giải quyết bằng văn bản cho cơ quan đã chuyển hồ sơ.
6. Trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên có trách nhiệm động viên nhân dân
tham gia tích cực vào việc phòng, chống tham nhũng; phát hiện, kiến nghị cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý người có hành vi tham nhũng; giám sát việc thực hiện
pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
7. Trách nhiệm của cơ quan báo chí
Cơ quan báo chí có trách nhiệm tham gia vào việc phòng, chống tham nhũng; hợp tác với
cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong phòng, chống tham nhũng; khi đưa tin
phải bảo đảm chính xác, trung thực, khách quan và phải chịu trách nhiệm về nội dung của
thông tin đã đưa.
8. Quyền và nghĩa vụ của công dân trong phòng, chống tham nhũng
Công dân có quyền phát hiện, tố cáo hành vi tham nhũng; có nghĩa vụ hợp tác, giúp đỡ cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc phát hiện, xử lý người có hành vi tham
nhũng.
98
Ngoài ra, với tư cách là một quốc gia, Việt Nam cam kết thực hiện điều ước quốc tế về
phòng, chống tham nhũng mà Việt Nam là thành viên, hợp tác với các nước, tổ chức quốc
tế, tổ chức, cá nhân nước ngoài trong hoạt động phòng, chống tham nhũng trên nguyên
tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, các bên cùng có lợi.
III. CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA THAM NHŨNG
1. Công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị
a. Nguyên tắc công khai
- Chính sách, pháp luật và việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật phải được công
khai, minh bạch, bảo đảm công bằng, dân chủ.
- Cơ quan, tổ chức, đơn vị phải công khai hoạt động của mình, trừ nội dung thuộc bí
mật nhà nước và những nội dung khác theo quy định của Chính phủ.
b. Hình thức công khai
Hình thức công khai bao gồm các hình thức dưới đây. Tuy nhiên, người đứng đầu cơ
quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm lựa chọn một hoặc một số hình thức công khai
(ngoại trừ trường hợp pháp luật có ấn định rõ hình thức công khai cho nội dung, hoạt
động nào đấy):
- Công bố tại cuộc họp của cơ quan, tổ chức, đơn vị;
- Niêm yết tại trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị;
- Thông báo bằng văn bản đến cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan;
- Phát hành ấn phẩm;
- Thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng;
- Đưa lên trang thông tin điện tử;
- Cung cấp thông tin theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
99
c. Các nội dung công khai
Để phòng ngừa tham nhũng hữu hiệu, các cơ quan, tổ chức có tham gia hoạt động quản lý
nhà nước hoặc được nhà nước hỗ trợ kinh phí trong quá trình hoạt động phải công khai,
minh bạch một số nội dung tương ứng sau đây:
- Công khai, minh bạch trong mua sắm công và xây dựng cơ bản;
- Công khai, minh bạch trong quản lý dự án đầu tư xây dựng;
- Công khai, minh bạch về tài chính và ngân sách nhà nước
- Công khai, minh bạch việc huy động và sử dụng các khoản đóng góp của nhân dân
- Công khai, minh bạch việc quản lý, sử dụng các khoản hỗ trợ, viện trợ
- Công khai, minh bạch trong quản lý doanh nghiệp của Nhà nước
- Công khai, minh bạch trong cổ phần hoá doanh nghiệp của Nhà nước
- Kiểm toán việc sử dụng ngân sách, tài sản của Nhà nước
- Công khai, minh bạch trong quản lý và sử dụng đất
- Công khai, minh bạch trong quản lý, sử dụng nhà ở
- Công khai, minh bạch trong lĩnh vực giáo dục
- Công khai, minh bạch trong lĩnh vực y tế
- Công khai, minh bạch trong lĩnh vực khoa học - công nghệ
- Công khai, minh bạch trong lĩnh vực thể dục, thể thao.
- Công khai, minh bạch trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiểm
toán nhà nước
- Công khai, minh bạch trong hoạt động giải quyết các công việc của cơ quan, tổ
chức, đơn vị, cá nhân
- Công khai, minh bạch trong lĩnh vực tư pháp
- Công khai, minh bạch trong công tác tổ chức - cán bộ
- Công khai báo cáo hằng năm về phòng, chống tham nhũng.
100
Suy cho cùng, những quy định này là quá trình cụ thể hóa về các nguyên tắc của Hiến
pháp. Để phát huy hiệu quả, những quy định về công khai, minh bạch phải được cụ thể
trong các Nghị định và các Thông tư các ngành, các lĩnh vực về cách thức, trình tự, thời
hạn và việc kiểm tra, giám sát hoạt động công khai.
d. Quyền yêu cầu cung cấp thông tin
Điểm mới của Luật phòng chống tham nhũng 2005 là đã quy định chặt chẽ các trường
hợp được quyền yêu cầu cung cấp thông tin, bao gồm các đối tượng sau:
Quyền yêu cầu cung cấp thông tin của cơ quan, tổ chức
- Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan báo chí
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị
có trách nhiệm cung cấp thông tin về hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình theo
quy định của pháp luật.
- Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu, cơ quan, tổ chức, đơn vị
được yêu cầu phải cung cấp thông tin, trừ trường hợp nội dung thông tin đã được công
khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, được phát hành ấn phẩm hoặc niêm yết
công khai; trường hợp không cung cấp hoặc chưa cung cấp được thì phải trả lời bằng văn
bản cho cơ quan, tổ chức yêu cầu biết và nêu rõ lý do.
Quyền yêu cầu cung cấp thông tin của cá nhân
- Cán bộ, công chức, viên chức và người lao động khác có quyền yêu cầu người
đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi mình làm việc cung cấp thông tin về hoạt động của
cơ quan, tổ chức, đơn vị đó.
- Công dân có quyền yêu cầu Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi
mình cư trú cung cấp thông tin về hoạt động của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn đó.
- Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu, người được yêu cầu có
trách nhiệm cung cấp thông tin, trừ trường hợp nội dung thông tin đã được công khai trên
các phương tiện thông tin đại chúng, được phát hành ấn phẩm hoặc niêm yết công khai;
trường hợp không cung cấp hoặc chưa cung cấp được thì phải trả lời bằng văn bản cho
người yêu cầu biết và nêu rõ lý do.
101
2. Xây dựng và thực hiện các chế độ, định mức, tiêu chuẩn
Việc quy định này nhằm xác định ranh giới giữa hành vi nên thực hiện và hành vi trái với
quy tắc nghề nghiệp thông qua “yếu tố chuẩn” là chế độ, định mức, tiêu chuẩn. Tùy thuộc
vào từng ngành nghề, các điều kiện đặc thù của cơ quan, đơn vị mà chế độ, định mức,
tiêu chuẩn có thể khác nhau. Tuy nhiên, tất cả những định mức, chế độ này phải thống
nhất với các văn bản quy phạm pháp luật ở trung ương, các hướng dẫn của đơn vị quản lý
ngành và văn bản ở địa bàn địa phương đó.
3. Thiết lập các quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp, việc chuyển đổi vị trí
công tác của cán bộ, công chức, viên chức
Cán bộ, công chức phải ứng xử theo các quy tắc nhất định như: báo cáo và xử lý báo cáo
về dấu hiệu tham nhũng, trách nhiệm trong việc tặng quà, nhận quà, thực hiện quy tắc đạo
đức nghề nghiệp, việc thực hiện chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức nhằm
phòng ngừa tham nhũng. Đặc biệt, những việc được làm và không được làm được quy
định cụ thể trong Luật phòng chống tham nhũng.
Cán bộ, công chức, viên chức không được làm những việc sau đây:
- Cửa quyền, hách dịch, gây khó khăn, phiền hà đối với cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá
nhân trong khi giải quyết công việc;
- Thành lập, tham gia thành lập hoặc tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp tư
nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã, bệnh
viện tư, trường học tư và tổ chức nghiên cứu khoa học tư, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác;
- Làm tư vấn cho doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân khác ở trong nước và nước ngoài
về các công việc có liên quan đến bí mật nhà nước, bí mật công tác, những công việc
thuộc thẩm quyền giải quyết của mình hoặc mình tham gia giải quyết;
- Kinh doanh trong lĩnh vực mà trước đây mình có trách nhiệm quản lý sau khi thôi
giữ chức vụ trong một thời hạn nhất định theo quy định của Chính phủ;
- Sử dụng trái phép thông tin, tài liệu của cơ quan, tổ chức, đơn vị vì vụ lợi.
102
Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, vợ hoặc chồng của những
người đó không được góp vốn vào doanh nghiệp hoạt động trong phạm vi ngành, nghề
mà người đó trực tiếp thực hiện việc quản lý nhà nước.
Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị không được bố
trí vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột của mình giữ chức vụ quản lý về tổ chức
nhân sự, kế toán - tài vụ, làm thủ quỹ, thủ kho trong cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc giao
dịch, mua bán vật tư, hàng hoá, ký kết hợp đồng cho cơ quan, tổ chức, đơn vị đó.
Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan không được để vợ hoặc chồng,
bố, mẹ, con kinh doanh trong phạm vi do mình quản lý trực tiếp.
Cán bộ, công chức, viên chức là thành viên Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Phó
tổng giám đốc, Giám đốc, Phó giám đốc, Kế toán trưởng và những cán bộ quản lý khác
trong doanh nghiệp của Nhà nước không được ký kết hợp đồng với doanh nghiệp thuộc
sở hữu của vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột; cho phép doanh nghiệp thuộc
sở hữu của vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột tham dự các gói thầu của doanh
nghiệp mình; bố trí vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột giữ chức vụ quản lý về
tổ chức nhân sự, kế toán - tài vụ, làm thủ quỹ, thủ kho trong doanh nghiệp hoặc giao dịch,
mua bán vật tư, hàng hoá, ký kết hợp đồng cho doanh nghiệp.
4. Minh bạch tài sản, thu nhập
Luật phòng chống tham nhũng quy định rõ nghĩa vụ kê khai tài sản của các đối tượng, các
loại tài sản phải kê khai, thủ tục phải kê khai, cũng như thủ xác minh kê khai tài sản đó.
a. Nghĩa vụ kê khai tài sản
Người có nghĩa vụ kê khai tài sản phải kê khai tài sản, mọi biến động về tài sản thuộc sở
hữu của mình và tài sản thuộc sở hữu của vợ hoặc chồng và con chưa thành niên. Người
có nghĩa vụ kê khai tài sản phải kê khai trung thực và chịu trách nhiệm về việc kê khai.
Những người sau đây phải kê khai tài sản:
- Cán bộ từ Phó trưởng phòng của Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh trở lên và tương đương trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị;
103
- Một số cán bộ, công chức tại xã, phường, thị trấn; người làm công tác quản lý
ngân sách, tài sản của Nhà nước hoặc trực tiếp tiếp xúc và giải quyết công việc của cơ
quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân;
- Người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân.
- Chính phủ quy định cụ thể những người phải kê khai tài sản.
b. Tài sản phải kê khai
Các loại tài sản phải kê khai bao gồm:
- Nhà, quyền sử dụng đất;
- Kim khí quý, đá quý, tiền, giấy tờ có giá và các loại tài sản khác mà giá trị của mỗi
loại từ năm mươi triệu đồng trở lên;
- Tài sản, tài khoản ở nước ngoài;
- Thu nhập phải chịu thuế theo quy định của pháp luật.
c. Thủ tục kê khai tài sản
- Việc kê khai tài sản được thực hiện hằng năm tại cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi
người có nghĩa vụ kê khai làm việc và được hoàn thành chậm nhất vào ngày 31 tháng 12.
- Người có nghĩa vụ kê khai tài sản phải ghi rõ những thay đổi về tài sản so với lần
kê khai trước đó.
- Bản kê khai tài sản được nộp cho cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền quản lý
người có nghĩa vụ kê khai tài sản.
d. Xác minh tài sản
Việc xác minh tài sản chỉ được thực hiện khi có quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền quản lý người có nghĩa vụ kê khai tài sản. Việc xác minh tài sản được thực hiện
trong các trường hợp sau đây:
- Phục vụ cho việc bầu cử, bổ nhiệm, cách chức, miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc kỷ
luật đối với người có nghĩa vụ kê khai tài sản khi xét thấy cần thiết;
- Theo yêu cầu của Hội đồng bầu cử hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền;
104
- Có hành vi tham nhũng.
e. Xử lý người kê khai tài sản không trung thực
- Người kê khai tài sản không trung thực bị xử lý kỷ luật theo quy định của pháp
luật. Quyết định kỷ luật đối với người kê khai tài sản không trung thực phải được công
khai tại cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người đó làm việc.
- Người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân mà kê khai tài sản
không trung thực thì bị xoá tên khỏi danh sách những người ứng cử; người được dự kiến
bổ nhiệm, phê chuẩn mà kê khai tài sản không trung thực thì không được bổ nhiệm, phê
chuẩn vào chức vụ đã dự kiến.
5. Chế độ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị kinh tế khi để
xảy ra tham nhũng
Luật phòng chống tham nhũng hiện hành không chỉ quy định trách nhiệm của người có
hành vi tham nhũng, mà cả trách nhiệm của cán bộ quản lý để xảy ra hành vi tham nhũng.
Điều này phù hợp với Luật cán bộ, công chức vì cán bộ, công chức lãnh đạo ngoài việc
chịu trách nhiệm về hành vi do chính mình thực hiện, còn phải chịu trách nhiệm về hành
vi của cán bộ, công chức thuộc quyền.
a. Trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra hành vi
tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách
- Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phải chịu trách nhiệm về việc để xảy ra
hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách.
- Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phải chịu trách nhiệm trực tiếp về việc
để xảy ra hành vi tham nhũng của người do mình trực tiếp quản lý, giao nhiệm vụ.
- Cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phải chịu trách nhiệm trực
tiếp về việc để xảy ra hành vi tham nhũng trong lĩnh vực công tác và trong đơn vị do
mình trực tiếp phụ trách.
- Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phải chịu trách nhiệm liên đới về việc để
xảy ra hành vi tham nhũng trong lĩnh vực công tác và trong đơn vị do cấp phó của mình
trực tiếp phụ trách.
105
- Người đứng đầu đơn vị trực thuộc cơ quan, tổ chức phải chịu trách nhiệm trực
tiếp về việc để xảy ra hành vi tham nhũng trong đơn vị do mình quản lý.
- Việc xử lý trách nhiệm người đứng đầu và cá nhân khác có trách nhiệm trong tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các tổ chức khác
có sử dụng ngân sách nhà nước về việc để xảy ra hành vi tham nhũng được thực hiện theo
quy định của Luật phòng chống tham nhũng và điều lệ, quy chế của tổ chức đó.
- Trách nhiệm của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức,
đơn vị được loại trừ trong trường hợp họ không thể biết được hoặc đã áp dụng các biện
pháp cần thiết để phòng ngừa, ngăn chặn hành vi tham nhũng.
b. Xử lý trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra hành vi
tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách
- Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi phải chịu trách nhiệm trực tiếp về
việc để xảy ra hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ
trách thì bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi phải chịu trách nhiệm liên đới về
việc để xảy ra hành vi tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ
trách thì bị xử lý kỷ luật.
- Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị được xem xét miễn hoặc giảm trách
nhiệm pháp lý nếu đã thực hiện các biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn, khắc phục hậu
quả của hành vi tham nhũng; xử lý nghiêm minh, báo cáo kịp thời với cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền về hành vi tham nhũng.
- Trong kết luận thanh tra, kết luận kiểm toán, kết luận điều tra vụ việc, vụ án tham
nhũng phải nêu rõ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra
hành vi tham nhũng theo các mức độ sau đây:
a) Yếu kém về năng lực quản lý;
b) Thiếu trách nhiệm trong quản lý;
c) Bao che cho người có hành vi tham nhũng.
106
Kết luận phải được gửi cho Ban chỉ đạo trung ương về phòng, chống tham nhũng, cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền.
6. Cải cách hành chính, đổi mới công nghệ quản lý và phương thức thanh tóa
Ngoài các giải pháp ngòng ngừa nêu trên, Luật phòng chống tham nhũng còn đưa ra các
giải pháp phòng ngừa tham nhũng như:
- Cải cách thủ tục hành chính, trong đó có việc công khai minh bạch tất cả các thủ
tục hành chính trên trang thông tin điện tử trung ương (Cơ sở dữ liệu thủ tục hành chính)
và các trang thông tin điện tử của địa phương (trang web ở các tỉnh thành).
- Tăng cường áp dụng khoa học, công nghệ vào công tác quản lý với mục đích chính
là bảo đảm tính khách quan, khoa học và hiệu quả của công tác quản lý nhà nước
- Đổi mới phương thức thanh toán qua ngân hàng là một trong những phương cách
tạo sự rõ ràng, minh bạch trong thanh toán, tài chính.
IV. CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ ĐỐI VỚI HÀNH VI THAM NHŨNG
Khi phát hiện hành vi tham nhũng công dân có trách nhiệm kịp thời tố cáo với cơ quan tổ
chức có thẩm quyền. Các cơ quan này có nhiệm vụ phải kịp thời xử lý các nguồn thông
tin này. Người có chức vụ quyền hạn không thực hiện đầy đủ trách nhiệm, nhiệm vụ được
giao để người khác vi phạm pháp luật thu lợi bất chính thì tuỳ theo tính chất mức độ vi
phạm mà xử lý bằng các hình thức thích hợp. Đối tượng của hành vi tham nhũng rất đa
dạng, bao gồm:
- Người có hành vi tham nhũng.
- Người không báo cáo, tố giác khi biết được hành vi tham nhũng.
- Người không xử lý báo cáo, tố giác, tố cáo về hành vi tham nhũng.
- Người có hành vi đe doạ, trả thù, trù dập người phát hiện, báo cáo, tố giác, tố cáo,
cung cấp thông tin về hành vi tham nhũng.
- Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra hành vi tham nhũng trong cơ
quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách.
107
- Người thực hiện hành vi khác vi phạm quy định của Luật phòng chống tham
nhũng này và quy định khác của pháp luật có liên quan.
Việc xử lý người có hành vi tham nhũng được chia thành hai trường hợp là truy cứu trách
nhiệm hình sự và xử lý bằng hình thức kỷ luật.
1. Truy cứu trách nhiệm hình sự
Người nào có một trong các hành vi tham nhũng theo Luật phòng chống tham nhũng mà
đã có đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì bị xử lý theo qui định của Bộ luật hình sự năm
1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009, trong nhóm các tội phạm về tham nhũng, cụ thể
như sau:
- Tội tham ô tài sản (Ðiều 278).
- Tội nhận hối lộ (Ðiều 279).
- Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Ðiều 280)
- Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Ðiều 281)
- Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ (Ðiều 282)
- Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi (Ðiều
283)
- Tội giả mạo trong công tác (Ðiều 284).
2. Xử lý bằng hình thức kỷ luật
a. Ðiều kiện áp dụng
- Hành vi tham nhũng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Mức độ kỷ luật tùy thuộc vào các yếu tố: mức độ vi phạm, giá trị tài sản tham
nhũng, mức độ thiệt hại, và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ.
c. Các hình thức kỷ luật
Người có hành vi tham nhũng, nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì
tuỳ theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ mà bị
xử lý bằng các hình thức kỷ luật. Đối với cán bộ, các hình thức kỷ luật bao gồm:
- Khiển trách;
- Cảnh cáo;
- Cách chức;
108
- Bãi nhiệm.
Riêng đối với công chức, hình thức kỷ luật bao gồm:
- Khiển trách;
- Cảnh cáo;
- Hạ bậc lương;
- Giáng chức;
- Cách chức;
- Buộc thôi việc.
Trong đó, việc giáng chức, cách chức chỉ áp dụng đối với công chức giữ chức vụ lãnh
đạo, quản lý.
d. Mối quan hệ giữ trách nhiệm kỷ luật và trách nhiệm hình sự trong đối với hành vi vi
phạm về tham nhũng
Người có hành vi tham nhũng trong trường hợp bị kết án về hành vi tham nhũng và bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì phải bị buộc thôi việc; đối với đại biểu Quốc
hội, đại biểu Hội đồng nhân dân thì đương nhiên mất quyền đại biểu Quốc hội, đại biểu
Hội đồng nhân dân.
-------------------------------
Câu hỏi
1. Ðối tượng nào được xem là người có khả năng thực hiện hành vi tham nhũng?
2. Phân biệt hành vi tham ô và hành vi tham nhũng.
3. Ðể phòng ngừa tham nhũng, người có chức vụ, quyền hạn phải công khai những gì?
Việc công khai đó hiện nay được thực hiện như thế nào?
4. Các biện pháp xử lý đối với hành vi tham nhũng.
109
Chương VII. CẢI CÁCH NỀN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
I. SỰ CẦN THIẾT CẢI CÁCH NỀN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Thực trạng về đời sống kinh tế, chính trị, xã hội nước ta trong những năm 70 và 80 đã có
dấu hiệu trì trệ, kinh tế bị khủng hoảng điều đó đặt ra nhu cầu cấp bách là phải thay đổi
một cách mạnh mẽ cơ cấu nền kinh tế cơ chế quản lý kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị
trường có điều tiết của nhà nước bao gồm nhiều thành phần phát triển theo định hướng xã
hội chủ nghĩa loại bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp làm cho nền kinh tế thoát
khỏi sự trì trệ và đẩy mạnh tốc độ phát triển làm tiền đề đổi mới và phát triển các mặt đời
sống xã hội, bảo đảm ổn định về chính trị.
Trong quá trình xây dựng đất nước theo nền kinh tế thị trường, bộ máy hành chính nhà
nước với tư cách là chủ thể chính yếu trong quá trình vận hành phải đổi mới, chuyển biến
về nhận thức và khả năng giải quyết công việc hành chính. Mặc dù nhà nước đã khởi
xướng công cuộc cải cách hành chính từ rất sớm, nhưng hiệu quả về đổi mới quản lý nhà
nước vẫn còn là vấn đề cần phải quan tâm, chú ý, trong đó có ba nội dung không thể
thiếu:
- Sắp xếp lại bộ máy quản lý nhà nước theo hướng tinh giản; phân định lại chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan, tổ chức và cán bộ cho rành mạch, rõ ràng.
- Ðổi mới về tổ chức phải gắn liền với đổi mới về hình thức và phương pháp quản lý,
phong cách công tác nhất là thủ tục giải quyết công việc, quy trình ra quyết định thực
hiện quyết định phải có căn cứ khoa học.
- Ðổi mới toàn diện công tác cán bộ cần xây dựng tiêu chuẩn, yêu cầu đối với cán bộ đến
đổi mới quy trình đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn sắp xếp, bố trí cán bộ, hoàn thiện chính
sách đãi ngộ, chế độ trách nhiệm rõ ràng.
1. Những ưu điểm của nền hành chính
- Đã có những bước thay đổi về nhận thức và chuyển biến về hoạt động quản lý
hành chính trong nền kinh tế thị trường, hướng đến mục tiêu xây dựng nhà nước của dân,
do dân, vì dân.
- Luôn luôn là một bộ phận hợp thành của hệ thống chính trị, phục vụ nhiệm vụ
chính trị của Ðảng lãnh đạo, thực hiện chức năng hành pháp của quyền lực Nhà nước.
110
- Xây dựng được nhiều văn bản pháp quy cơ bản về tổ chức bộ máy Nhà nước, về
hành chính Nhà nước.
- Có đội ngũ những người quản lý Nhà nước và công chức có tinh thần yêu nước
XHCN, trung thành với Tổ quốc, tôn trọng sự lãnh đạo của Ðảng và lợi ích của nhân dân.
- Hiệu quả của bộ máy nhà nước có một số chuyển biến đáng khích lệ trong thời kỳ
hội nhập.
2. Những khuyết tật và yếu kém
- Là một cơ cấu tổ chức chưa hợp lý, trong đó chưa xác định đúng và phân biệt rõ sự
lãnh đạo của Ðảng và vai trò, chức năng quản lý của Nhà nước, cơ quan quyền lực chính
trị nắm công quyền quản lý toàn xã hội. Các chức năng lập pháp hành pháp, tư pháp, đặc
biệt là thẩm quyền của bộ máy Nhà nước chưa được phân định rõ ràng.
- Quyền lập quy và hoạt động lập quy của hệ thống hành pháp chưa đủ, trên cơ sở
hoạt động lập pháp và hệ thống luật chưa đầy đủ; hệ thống pháp luật (Hiến pháp - luật -
pháp lệnh - văn bản pháp quy dưới luật) vừa thiếu, không đồng bộ, không hoàn chỉnh,
vừa có những mặt lạc hậu, không đáp ứng kịp yêu cầu của cơ cấu kinh tế và cơ chế thị
trường mới, cũng như yêu cầu chính trị, xã hội, văn hóa trong giai đoạn mới.
- Bộ máy quản lý Nhà nước và nền hành chính không xác định rõ sự phân biệt và sự
kết hợp biện chứng giữa Nhà nước và kinh tế, giữa quản lý Nhà nước và quản lý kinh
doanh.
- Cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính bộc lộ nhiều nhược điểm, xét về phân bố các
chức năng giữa cơ quan quyền lực hành pháp và bộ hành chính ở Trung ương cũng như
về mặt phân cấp quyền hạn, nhiệm vụ, trách nhiệm giữa Trung ương và địa phương các
cấp. Bộ máy tổ chức cồng kềnh, nhiều tầng nấc trung gian, nhiều đầu mối rườm rà, không
đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Ðội ngũ cán bộ, công chức nhìn chung còn thừa, vừa thiếu kiến thức quản lý Nhà
nước, quản lý hành chính, pháp luật. Tinh thần trách nhiệm kỷ luật, mẫn cán, ý thức học
tập, rèn luyện vươn lên và hiệu suất công tác nói chung chưa đáp ứng được yêu cầu của
nền kinh tế hội nhập hiện nay.
- Quy chế hoạt động của hệ thống hành chính, một mặt chưa được quy định hoàn
chỉnh, chặt chẽ, mặt khác là một hệ thống thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp,
111
phiền toái, trì trệ có tính chất bàn giấy, sự chậm trễ do thiếu kỹ năng nghiệp vụ hành
chính, bệnh cửa quyền và bệnh tham nhũng trở nên thực sự phổ biến và nghiêm trọng.
- Nghiệp vụ và kỹ thuật hành chính còn thủ công, lạc hậu, ít sử dụng những kỹ thuật
máy móc thông thường trong nghiệp vụ hành chính; hệ thống thông tin rất cũ, chưa thực
sự đáp ứng kịp sự phát triển của xã hội và sự đòi hỏi của một nhà nước hiện đại.
3. Nguyên nhân của những yếu kém
Thiếu một hệ thống nhận thức, quan điểm, nguyên tắc có đủ căn cứ khoa học về xây dựng
hệ thống các cơ quan nhà nước trong một nền kinh tế thị trường, về bộ máy quản lý hành
chính nhà nước trong thời kỳ hội nhập. Nếu nhìn tổng hợp thì có thể quy lại thành 5 điểm
lớn:
- Bệnh quan liêu, vô cảm, xa dân, xa cấp dưới và cơ sở;
- Nạn tham nhũng và lãng phí của công;
- Tình trạng phân tán, thiếu trật tự, kỷ cương trong hệ thống hành chính và trong xã hội.
- Bộ máy hành chính cồng kềnh, nặng nề, vận hành không đồng bộ.
- Ðội ngũ cán bộ công chức, tuy đã được cải thiện, nhưng vẫn còn thiếu kiến thức, năng
lực, một bộ phận không nhỏ kém phẩm chất, thậm chí hư hỏng.
II. QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
- Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, đặc biệt là quyền tiếp cận thông tin
trong một nền hành chính công khai, minh bạch.
- Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặc chẽ giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Cần nhận
thức rõ được tầm quan trọng của từng hệ thống cơ quan. Tiến tới ghi nhận và áp dụng án
lệ và tăng cường vai trò của tòa án, mở rộng phạm vi khiếu nại, khiếu kiện của người dân.
- Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động và tổ chức của nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được quy định sát hợp với tính chất, chức năng của từng
tổ chức, từng lĩnh vực hoạt động.
112
- Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam quản
lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức xã hội chủ
nghĩa.
- Tăng cường vai trò lãnh đạo của Ðảng đối với nhà nước, dựa trên cơ sở đổi mới chỉnh
đốn Ðảng, bao gồm đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo Ðảng.
1. Tư tưởng chỉ đạo
- Nền hành chính nhà nước là một bộ phận chủ yếu của hệ thống chính trị; cải cách
nền hành chính là trọng tâm của việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước, gắn với
đổi mới và chỉnh đốn Ðảng.
- Cải cách hành chính phải phối hợp chặt chẽ với đổi mới tổ chức và hoạt động của
Quốc hội, của các cơ quan tư pháp, phân công rành mạch và phối hợp chặt chẽ
giữa các cơ quan nhà nước nhằm nâng cao hiệu lực trong việc thực thi cả ba quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp.
- Xây dựng nền hành chính của một nhà nước pháp quyền hướng đến lợi ích của
người dân, một nền hành chính dân chủ, trong sạch, phục vụ đắc lực nhân dân và
giữ vững trật tự, kỷ cương xã hội theo pháp luật.
- Cải cách hành chính phải phục vụ đắc lực và thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc đổi mới
và phát triển đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Mọi chủ trương cải cách nền hành chính nhà nước đều phải xuất phát từ yêu cầu
của cuộc sống, sát với điều kiện thực tế, nhằm thu được kết quả thiết thực trong
việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả của nền hành chính, tác động tích cực tới các
lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Tiến đến xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp với tính chuyên môn hóa cao, áp
dụng được công nghệ kỹ thuật vào quản lý nhưng vẫn bảo đảm sự uyển chuyển,
linh động trong khuôn khổ pháp luật.
2. Mục tiêu và quan điểm cải cách nền hành chính
Những khuyết điểm nêu trên làm cho bộ máy Nhà nước không đủ quyền lực, năng lực,
hiệu lực, hiệu quả để quản lý Nhà nước - đặc biệt để đảm đương chức năng, nhiệm vụ
mới của Nhà nước trong công cuộc đổi mới kinh tế, tạo điều kiện cho các bệnh quan liêu,
113
tham nhũng tồn tại và phát triển. Khắc phục những căn bệnh ấy tức là xây dựng một nền
hành chính trong sạch, có đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực và từng bước hiện đại hóa
để quản lý có hiệu lực và hiệu quả công việc của Nhà nước, được dân tin, dân yêu. Muốn
vậy, không thể chỉ sửa đổi cục bộ, chắp vá mà phải tạo ra sự biến đổi căn bản, có hệ
thống của nền hành chính trên cơ sở giữ vững sự ổn định chính trị. Với ý nghĩa đó, phải
tiến hành một cuộc cải cách sâu sắc và toàn diện với nền hành chính.
- Cải cách nền hành chính theo mục tiêu đề ra là công việc nặng nề, phức tạp, phải tiến
hành từng bước, liên tục trong nhiều năm, không thể nóng vội, giản đơn. Những bệnh
trạng của nền hành chính mang tính chất phổ biến, nghiêm trọng và kéo dài có căn
nguyên xã hội và lịch sử, không thể chữa trong một thời gian ngắn.
- Nền hành chính là một bộ phận của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Ðảng. Cải
cách nền hành chính liên quan mật thiết với đổi mới hệ thống chính trị. Những vấn đề đã
xác định trong nghị quyết Ðại hội Ðảng, hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ và trong Hiến
pháp hiện hành, có thể tiến hành ngay.
- Cơ sở kinh tế đổi mới và phát triển đòi hỏi khuôn khổ thể chế phải thích ứng và làm
thay đổi chức năng của bộ máy Nhà nước, trước hết là bộ máy hành chính; từ đó, cơ cấu
tổ chức và con người trong hệ thống hành chính cũng phải đổi mới cho phù hợp.
- Hiện nay, một trở lực lớn đang kìm hãm tiến trình đổi mới và phát triển kinh tế là nền
hành chính chậm được cải cách, thể chế chưa được đổi mới đồng bộ, bộ máy cồng kềnh,
vận hành không thông suốt, một bộ phận đội ngũ cán bộ công chức yếu kém cả năng lực
và phẩm chất.
- Mọi chủ trương cải cách nền hành chính Nhà nước đều phải xuất phát từ yêu cầu của
cuộc sống, sát với điều kiện thực tế, nhằm thu được kết quả thiết thực, tác động tích cực
tới các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ðối với những vấn đề đang gây bất bình, nhức nhối
trong xã hội, như nạn tham nhũng, các tệ nạn xã hội, tình trạng thiết trật tự, kỷ cương...
cần phải có thái độ kiên quyết, bền bỉ đấu tranh, ngăn chặn, nhưng mức độ giải quyết phụ
thuộc vào nhiều yếu tố phức tạp, không thể vì sức ép của dư luận mà đặt vấn đề một cách
giản đơn, nóng vội, thoát ly điều kiện và khả năng thực tế.
114
III. NỘI DUNG CẢI CÁCH MỘT BƯỚC NỀN HÀNH CHÍNH
Cuộc cải cách một bước nền hành chính phải tiến hành đồng bộ trên cả ba mặt: cải cách
thể chế, chấn chỉnh bộ máy và xây dựng, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, công chức, song
trên từng mặt phải tập trung giải quyết một số việc như:
1. Cải cách thể chế của nền hành chính
Hệ thống hành chính, trước hết là Chính phủ có vai trò chính trong việc cải cách và hoàn
thiện thể chế đáp ứng hai yêu cầu cơ bản giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân
dân và với kinh tế thị trường.
Một là, xây dựng thể chế của nền hành chính dân chủ thực hiện quyền lực của dân, phục
vụ lợi ích và đáp ứng nguyện vọng của dân, phát huy trí tuệ của dân, đòi hỏi nghĩa vụ ở
dân và thiết lập trật tự, kỷ cương theo pháp luật trong đời sống xã hội.
Hai là, đổi mới và hoàn chỉnh thể chế quản lý Nhà nước phù hợp với kinh tế thị trường,
tạo sự thích ứng về thể chế trong quan hệ đối ngoại với luật pháp và tập quán quốc tế.
Việc thực hiện là một quá trình tiến hành từng bước và không ngừng nâng cao theo trình
độ phát triển kinh tế - xã hội và trình độ dân trí. Trước mắt, có 5 vấn đề bức xúc cần tập
trung giải quyết:
- Cải cách một bước cơ bản các thủ tục hành chính.
- Ðẩy mạnh việc giải quyết các khiếu nại, khiếu kiện của dân.
- Tiếp tục xây dựng hoàn chỉnh thể chế kinh tế mới.
- Ðổi mới quy trình lập pháp và lập quy.
- Nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật.
2. Chấn chỉnh tổ chức bộ máy và quy chế hoạt động của hệ thống hành chính
Chấn chỉnh tổ chức và quy chế hoạt động của hệ thống hành chính xuất phát từ hai căn
cứ:
Một là, sự thay đổi chức năng của Nhà nước khi chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường,
thể hiện trong việc đổi mới và hoàn thiện thể chế đi đôi với sắp xếp lại khu vực kinh tế
Nhà nước như đã nêu trên.
Hai là, mối quan hệ giữa Trung ương và địa phương, giữa tập thể và cá nhân trong bộ
máy hành chính được làm rõ hơn trên cơ sở vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ phù
115
hợp với đặc điểm của hệ thống hành chính, gắn với nguyên tắc kết hợp quản lý theo
ngành và theo lãnh thổ.
- Cơ cấu tổ chức bộ máy Chính phủ được điều chỉnh theo hướng giảm dần số lượng bộ,
cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ. Giảm số lượng bộ trên cơ sở thay đổi
chức năng thì đồng thời tinh giản được bộ máy, bớt được đầu mối quản lý nhà nước.
- Trách nhiệm và thẩm quyền của Bộ trưởng được tăng cường, tạo điều kiện cho Thủ
tướng tập trung được vào những vấn đề lớn, vượt khỏi thẩm quyền của Bộ trưởng.
- Xác định rành mạch, cụ thể trách nhiệm và thẩm quyền quản lý của bộ và của chính
quyền địa phương phù hợp với tính chất, đặc điểm từng ngành, từng lĩnh vực, trên cơ sở
đó quy định hợp lý tổ chức bộ máy và quy chế hoạt động của từng bộ và các cơ quan
chuyên môn cấp dưới, bảo đảm sự chỉ đạo của cơ quan ngành dọc cấp trên và của ủy ban
nhân dân địa phương. Một số ngành do yêu cầu quản lý tập trung thống nhất cao có thể tổ
chức cơ quan cấp dưới theo khu vực, không nhất thiết gắn với địa giới cấp hành chính,
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cũng phải sắp xếp lại bộ máy các sở, ban
ngành cho phù hợp.
3. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, làm trong sạch một bước bộ máy hành
chính
Yêu cầu đầu tiên là hoàn thiện chế độ công cụ và quy chế công chức, tiếp tục hoàn
thiện hệ thống ngạch, bậc, tiêu chuẩn chức danh và cải tiến từng bước chế độ tiền lương.
Ðó là những căn cứ cho việc sắp xếp, đào tạo, đãi ngộ đội ngũ cán bộ, công chức, từng
bước làm trong sạch và nâng cao chất lượng bộ máy hành chính.
Vấn đề tinh giản biên chế không đặt ra một cách máy móc, nhất loạt mà xuất phát từ cơ
cấu tổ chức được điều chỉnh theo sự thay đổi chức năng, từ việc soát xét đội ngũ cán bộ
theo tiêu chuẩn chức danh; sa thải những người thoái hóa, biến chất; đưa đi đào tạo và sắp
xếp lại những người không đủ năng lực có chính sách thỏa đáng tạo điều kiện cho những
người đi ra tìm việc làm, ổn định đời sống; thực hiện chế độ nghỉ hưu đúng tuổi.
Phải tạo sự lưu chuyển bình thường trong đội ngũ công chức để thu hút được những
người trẻ, đã qua đào tạo vào bộ máy qua thi tuyển hoặc kiểm tra sát hạch, khắc phục tình
trạng "lão hóa" đang diễn ra phổ biến trong cơ quan Nhà nước.
116
Xúc tiến việc hiện đại hóa từng bước các công sở, hình thành mạng tin học trong hệ
thống hành chính.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức phải mở rộng nhanh nhưng thiết thực, có chất
lượng, đáp ứng yêu cầu xây dựng nền hành chính có năng lực, hiệu lực và hiệu quả, từng
bước theo kịp trình độ hiện đại, bao gồm cả tiêu chuẩn về ngoại ngữ và ứng dụng tin học,
cấp bách hiện nay là xây dựng chương trình, soạn thảo tài liệu giảng dạy và đào tạo gắn
với kỹ năng ngành nghề trong công tác quản lý chuyên môn, chuyên ngành.
Cuộc đấu tranh chống quan liêu tệ tham nhũng, lãng phí của công trong nghị quyết lần
này được đặt trong nội dung cải cách hành chính kết hợp chặt chẽ với công tác chỉnh đốn
Ðảng trong sạch, vững mạnh. Hàng loạt chủ trương, biện pháp pháp trong cuộc cải cách
này như việc cải cách thể chế và thủ tục hành chính, chấn chỉnh bộ máy và áp dụng, chế
độ công vụ, quy chế công chức... có tác dụng ngăn chặn từ gốc tệ tham nhũng, lãng phí
của công.
Tăng cường kỷ luật và thi hành nghiêm chế độ trách nhiệm không chỉ đối với người vi
phạm mà còn phải quy định hình thức kỷ luật tương ứng với mức độ trách nhiệm của tập
thể và cá nhân có cương vị chủ chốt của cơ quan, của tổ chức Ðảng, tổ chức quần chúng
ở đơn vị xảy ra tham nhũng hoặc có lãng phí của công nghiêm trọng.
---------------------------------------------
Câu hỏi
1. Những khuyết tật yếu kém của nền hành chính nước ta? Nguyên nhân dẫn đến
những khuyết tật ấy?
2. Nội dung của việc cải cách một bước nền hành chính quốc gia? Theo anh (chị),
trong các nội dung trên, nội dung nào là cơ bản, có tính chất đột phá trong quá trình cải
cách?
117
MỤC LỤC
A. CÁCH THỨC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ................................................................................................................ 1
Chương I. NỘI DUNG - HÌNH THỨC- PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC............................................. 1I. NỘI DUNG, HÌNH THỨC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ................................................................................................ 1II. PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC .............................................................................................................. 8
Chương II. QUYẾT ÐỊNH HÀNH CHÍNH............................................................................................................. 15I. QUAN NIỆM VỀ QUYẾT ÐỊNH HÀNH CHÍNH.................................................................................................. 15II. PHÂN LOẠI QUYẾT ÐỊNH HÀNH CHÍNH ........................................................................................................ 16III. TRÌNH TỰ XÂY DỰNG VÀ BAN HÀNH QUYẾT ÐỊNH HÀNH CHÍNH....................................................... 20IV. TÍNH HỢP PHÁP VÀ HỢP LÝ CỦA CÁC QUYẾT ÐỊNH HÀNH CHÍNH ...................................................... 21V. QUYỀN PHẢN KHÁNG QUYẾT ÐỊNH HÀNH CHÍNH BẤT HỢP PHÁP, BẤT HỢP LÝ .............................. 26VI. PHÂN BIỆT QUYẾT ÐỊNH HÀNH CHÍNH VỚI MỘT SỐ QUYẾT ÐỊNH PHÁP LUẬT KHÁC .................. 27
Chương III. VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ TRÁCH NHIỆM HÀNH CHÍNH ................................................... 30I. VI PHẠM HÀNH CHÍNH........................................................................................................................................ 30II. NHỮNG VẤN ÐỀ CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM HÀNH CHÍNH....................................................................... 36III. TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÀNH CHÍNH..................................................................................................... 38IV. CÁC HÌNH THỨC CHÍNH YẾU TRONG TRUY CỨU TRÁCH NHIỆM HÀNH CHÍNH ............................... 43V. KHIẾU NẠI VÀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI ........................................................................................................ 56
Chương IV. THỦ TỤC HÀNH CHÍNH ................................................................................................................... 58I. KHÁI NIỆM, ÐẶC ÐIỂM, Ý NGHĨA CỦA THỦ TỤC HÀNH CHÍNH................................................................ 58II. CHỦ THỂ CỦA THỦ TỤC HÀNH CHÍNH .......................................................................................................... 61III. QUY PHẠM VÀ QUAN HỆ THỦ TỤC HÀNH CHÍNH..................................................................................... 62IV. CÁC LOẠI THỦ TỤC HÀNH CHÍNH................................................................................................................. 64V. CÁC NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN THỦ TỤC HÀNH CHÍNH .............................................. 67VI. THỰC HIỆN THỦ TỤC HÀNH CHÍNH.............................................................................................................. 69VII. CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH ............................................................................................................... 71
B. CÁC BIỆN PHÁP BẢO ÐẢM HIỆU QUẢ TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ............................................... 74
Chương V. NHỮNG BIỆN PHÁP BẢO ÐẢM PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ KỶ LUẬT NHÀNƯỚC TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ................................................................................................................ 74I. KHÁI NIỆM, YÊU CẦU ÐỐI VỚI VIỆC BẢO ÐẢM PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ KỶ LUẬT NHÀNƯỚC TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC................................................................................................................... 74II. CÁC BIỆN PHÁP BẢO ÐẢM PHÁP CHẾ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ KỶ LUẬT NHÀ NƯỚC TRONG QUẢNLÝ NHÀ NƯỚC .......................................................................................................................................................... 79
Chương VI. THAM NHŨNG, PHÒNG VÀ CHỐNG THAM NHŨNG ................................................................ 89I. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG ................................................................................................................................ 89II. VAI TRÒ, NHIỆM VỤ CỦA CÁC CƠ QUAN, TỔ CHỨC VÀ CÔNG DÂN TRONG VIỆC PHÒNG CHỐNGTHAM NHŨNG........................................................................................................................................................... 93III. CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA THAM NHŨNG........................................................................................... 98IV. CÁC BIỆN PHÁP XỬ LÝ ĐỐI VỚI HÀNH VI THAM NHŨNG ..................................................................... 106
Chương VII. CẢI CÁCH NỀN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC ............................................................................. 109I. SỰ CẦN THIẾT CẢI CÁCH NỀN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC ........................................................................ 109II. QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH .................................................................................... 111III. NỘI DUNG CẢI CÁCH MỘT BƯỚC NỀN HÀNH CHÍNH ............................................................................. 114
118
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Văn bản qui phạm pháp luật
Hiến pháp 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001.
Bộ luật hình sự nước CHXHCN Việt Nam năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009.
Luật khiếu nại tố cáo 1998, sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005.
Luật thanh tra 2004.
Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2004.
Luật phòng, chống tham nhũng 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2007.
Luật ban hành văn bản qui phạm pháp luật 2008.
Luật cán bộ, công chức 2008, có hiệu lực ngày 01/01/2010.
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996, sửa đổi, bổ sung năm
1998, 2006.
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính có hiệu lực năm 2002, sửa đổi, bổ sung năm
2007, 2008.
Sách, giáo trình
Ðinh Văn Mậu, PTS và Phạm Hồng Thái, PTS: Nhập môn Hành chính Nhà nước,
Nxb Tp. Hồ Chí Minh;
Ðoàn Trọng Truyến, GS: Hành chính học đại cương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1997;
Jean Michel De Forges: Luật hành chính, Nxb Khoa học - xã hội, Hà Nội, 1995;
Lê Sĩ Dược, TS: Cải cách bộ máy hành chính cấp trung ương trong công cuộc đổi
mới hiện nay ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia - Hà Nội, 2000;
Nguyễn Cửu Việt, PGS.TS: Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2008.
Phan Trung Hiền, TS: Để hoàn thành tốt luận văn ngành luật, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2009.
Phan Trung Hiền, TS: Hướng dẫn học tốt môn Pháp luật đại cương, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2009.
119
Phùng Văn Tửu: Xây dựng, hoàn thiện nhà nước và pháp luật của dân, do dân và
vì dân ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia;
Trường Ðại học Luật Hà Nội: Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nxb Công an
Nhân dân, Hà Nội, 1998;
Vũ Huy Từ, GS.TS chủ biên: Hành chính học và cải cách hành chính, Nxb Chínhtrị quốc gia.