PHẢI CHĂNG ĐỨC CHÚA TRỜI CỦA BẠN QUÁ NHỎ BÉ filePHẢI CHĂNG ĐỨC CHÚA TRỜI...
Transcript of PHẢI CHĂNG ĐỨC CHÚA TRỜI CỦA BẠN QUÁ NHỎ BÉ filePHẢI CHĂNG ĐỨC CHÚA TRỜI...
PHẢI CHĂNG ĐỨC CHÚA TRỜI CỦA BẠN
QUÁ NHỎ BÉ
Lời giới thiệu
Chưa ai có thể dễ dàng đối diện với cái mà chúng ta gọi là “sự sống” và “sự chết”
mà không có một niềm tin tôn giáo. Khó khăn đối với nhiều người ngày nay là họ
không thấy được Đức Chúa Trời đáp ứng đủ cho những nhu cầu trong thời buổi
hiện đại này. Trong khi đó, kinh nghiệm về cuộc sống của họ phát triển trong hàng
chục chiều hướng, và phạm vi nhận thức của trí tuệ họ được mở mang đến đỉnh
điểm của trạng thái bối rối do bởi những sự kiện trên thế giới và những khám phá
khoa học, những ý niệm của họ về Đức Chúa Trời phần lớn vẫn còn trong tình
trạng bất động. Đối với người trưởng thành rõ ràng họ không thể tôn thờ một quan
niệm về Đức Chúa Trời; một quan niệm đơn sơ về Đức Chúa Trời tồn tại trong tâm
trí của một đứa trẻ trong lứa tuổi trường Chúa nhật, trừ khi anh ta được sửa soạn để
phủ nhận kinh nghiệm của chính mình về cuộc sống. Nếu bởi sự nỗ lực hết sức của
ý chí anh ta làm được điều này anh ta sẽ luôn giấu trong lòng nỗi lo sợ một chân lý
mới nào đó có thể phơi trần sự non trẻ của đức tin anh ta. Và luôn bởi sự nỗ lực
như vậy mà anh ta hoặc thờ phượng hoặc hầu việc một Đức Chúa Trời, Đấng thật
sự quá nhỏ bé để có thể điều khiển lòng trung tín và sự tự nguyện đã trưởng thành
của anh ta.
Đối với những người ở bên ngoài các Hội Thánh tôi có vẽ như đây chính là thái độ
của người Cơ Đốc. Nếu họ không tích cực bảo vệ quan niệm vượt bậc về Đức
Chúa Trời thì họ đang ấp ủ một Đức Chúa Trời nhà kính, Đức Chúa Trời có thể chỉ
tồn tại giữa những trang Kinh Thánh hoặc trong 4 bức tường của một nhà thờ. Vì
vậy tham dự giờ thờ phượng của một Hội Thánh sẽ chỉ để gia nhập vào một nhóm
đạo đức giả và để muếy nghĩa của sự bình an với giá ý nghĩa của chân lý, và nhiều
người có thiện chí sẽ không tán đồng cuộc giao dịch như vậy.
Không thể phủ nhận rằng có một sự thật nhỏ trong lời phê bình này. Chắc chắn có
những Cơ Đốc nhân tự xưng với những quan niệm non trẻ về Đức Chúa Trời,
những quan niệm này không thể nào đứng vững trước những cơ bão cuộc đời thật
chỉ trong vài giây phút ngắn ngủi. Nhưng Cơ Đốc nhân không phải luôn không
hiểu biết, ngây ngô, hoặc không trưởng thành. Rất nhiều trong số họ đã giữ đức tin
trong Đức Chúa Trời, một đức tin từng được tinh luyện và phát triển bởi những sức
ép và tình trạng phức tạp của thời hiện đại, cũng như bởi kinh nghiệm trực tiếp tuy
ít ỏi nhưng đáng kể về chính Đức Chúa Trời. Họ đã nhận thấy đủ để biết rằng Đức
Chúa trời vô cùng “lớn hơn” so với các tổ phụ của chúng ta đã tưởng tượng về
Ngài, và sự khám phá khoa học thời hiện đại chỉ khẳng định niềm tin của họ rằng
con người chỉ mới bắt đầu hiểu đầy đủ một Đấng rất phức tạp ấy, Đấng ở đằng sau
cái mà chúng ta gọi là “sự sống”.
Ngày nay nhiều người, thường với sự không thoả lòng, đang sống mà không có
chút đức tin nào nơi Đức Chúa Trời. Điều này không bởi vì họ quá xấu xa hoặc ích
kỷ hoặc như cách nói của những người xưa là “vô thần” nhưng bởi với một trí tuệ
trưởng thành họ đã không thấy Đức Chúa Trời đủ ớn để “giải thích” cuộc sống,
không đủ lớn để phù hợp với thời đại khoa học mới, không đủ lớn để khiến họ hết
lòng ngưỡng mộ và tôn vinh, và cuối cùng để khiến họ hết lòng tình nguyện cho
Đức Chúa Trời đó.
Mục đích của sách này là cố gắng thực hiện hai điều thứ nhât là phơi bày những
quan niệm không thoả đáng về Đức Chúa Trời vẫn còn vương vấn một cách vô
thức trong tâm trí nhiều người, và những quan niệm ngăn trở chúng ta nhìn thấy,
Đức Chúa Trời thật và thứ hai là đưa ra những phương cách mà qua đó chúng ta có
thể tìm gặp một Đức Chúa Trời thật cho chính mình. Nếu quả thật rằng có Đấng
nào đó đang kiểm soát toàn bộ sự huyền bí của sự sống và sự chết, chúng ta khó có
thể mong chờ thoát khỏi một nhận thức về sự vô ích và sự nãn lòng cho đến khi
chúng ta bắt đầu nhận ra Ngài như thế nào và những mục đích của Ngài là gì.
I. Viên cảnh sát thường trú:
Đối với nhiều người lương tâm hầu như là tất cả con đường để họ nhận biết Đức
Chúa Trời. Tiếng nói nhỏ nhẹ của lương tâm khiến họ cảm thấy tội lỗi và bất hạnh
trước, trong lúc và sau khi làm điều sai phạm là tiếng nói Đức Chúa Trời dành cho
họ. Chính tiếng nói này ít nhất đối với phạm vi nào đó, kiểm soát tư cách đạo đức
của họ. Chính giọng nói này, đã thúc đẩy họ chen vai sát cánh vào chức vụ không
mấy lý thú này và chọn lựa con đường gian khó hơn.
Ngày nay không có người nào nghiêm túc ủng hộ cho một tôn giáo trưởng thành
thật sự lại phủ nhận chức năng của lương tâm, hoặc phủ nhận rằng tiếng nói của nó
ít nhất có thể đưa ra khái niệm mơ hồ nào đó về trật tự đạo đức nằm đằng sau cái
thế giới hiển nhiên mà chúng ta sống trong đó. Tuy nhiên để đặt lương tâm vào
trong Đức Chúa Trời là một việc làm rất nguy hiểm. Bởi một mặt, như chúng ta sẽ
nhận ra ngay rằng lương tâm không phải là một kim chỉ nam luôn luôn chính xác,
và mặt khác chắc chắn chúng ta sẽ không bao giờ bị cảm động để thờ phượng, yêu
thương và hầu việc một tiếng nói bên trong liên tục rầy rà, tiếng nói tệ nhất là làm
hại đến sự thoả lòng của chúng ta và may mắn lắm là tiếp tục để chúng ta có thái
độ phủ nhận hơn hướng đi của đạo đức.
Lương tâm có thể quá dễ dàng bị lệch lạc hoặc được phát triển không lành mạnh ở
người nhạy cảm, và quá dễ dàng bị bỏ qua và bị lấn át bởi loại người vô tình, đến
nỗi nó tạo ra một thần tượng, rất không thoả lòng. Bởi trong khi có thể đúng khi
cho rằng mỗi người bình thường đều có một nhận thức sơ khai về đạo đức bởi đó
anh ta có thể phân biệt đúng và sai thì phát triển, không phát triển hoặc sự lệch lạc
của nhận thức đó phần lớn là một vấn đề về sự nuôi nấng, dạy dỗ, và sự truyền bá.
Ví dụ về ý thức nhất, chúng ta có thể giả thiết một đứa trẻ được nuôi nấng bởi bố
mẹ là những người ăn chay rất nghiêm khắc. Nếu đứa trẻ đó, giờ là một thanh niên
trưởng thành, cố ăn thịt thì anh ta rất có thể sẽ chịu sự công kích vô cùng tồi tệ của
“lương tâm”. Nếu anh ta được nuôi dạy phải xem những thú vui chính đáng nào đó
là “trần tục” và đáng trách thì anh ta cũng sẽ chịu sự cắn rứt của lương tâm nếu anh
ta tìm kiếm những nguồn giải trí bị ngăn cấm ấy. Tiếng nói ấy chắc chắn có vẻ
giống tiếng nói của Chúa, nhưng nó chỉ là tiếng nói của sự dạy dỗ ban đầu; Sự dạy
dỗ rằng đã quy định nhận thức đạo đức của anh ta.
Ví dụ về sự ảnh hưởng thứ hai trên nhận thức đạo đức, chúng ta có thể rút ra nhận
xét từ một “người có tinh thần thượng vỏ”, người đã được huấn luyện từ bé rằng
“không đúng” khi bắn một con chim đang đậu. Nếu anh ta làm như vậy, dù vô tình,
chắc chắn anh ta sẽ cảm thấy xấu hổ và nhận thức mình đã hành động sai, mặc dù
khi bắn một con chim đang bay khoảng 20 mét ở trước nòng súng của anh ta sẽ
không có chút cảm giác tội lỗi nào. Lương tâm của anh ta được dạy dỗ cách không
tự nhiên và chính như vậy mà “những điều nghiêm cấm vẫn được duy trì trong
vòng những người lễ độ cũng như những người không lễ độ.
Mọi môn thể thao, và quả thật nhiều ngành nghề, có thể cung cấp rất nhiều ví dụ
nhận thức về đạo đức được dạy dỗ phải biết rằng những điều nào đó “không được
làm”. Cảm giác phạm tội và thất bại do làm điều cấm kỵ có thể khá sai lầm, và
trong nhiều trường hợp rất không cân đối với điều sai trái thật sự về đạo đức, nếu
quả thật có bất kỳcảm giác nào như vậy.
Về ví dụ về cách thứ ba; nhận thức đạo đức có thể được qui định, chúng ta có thể
rút ra được một cách mà trong đó sự truyền bá công khai ảnh hưởng đến những
người có ý thức nhạy cảm suốt chiến tranh thế giới sau cùng. Nhận thức cực đoan
về tội lỗi hoàn toàn có thể bị khuấy đọng nếu trang giấy bị thiêu huỷ (bởi sự truyền
bá đã nói rằng nó nên được tận dụng), hoặc nếu một hành trình bằng đường sắt
được thừa nhận (phải chăng sự truyền bá hét vào tai mọi người rằng “hành trình
của bạn thật sự cần thiết không?”).
Trong quốc xã Đức, dĩ nhiên, sự truyền bá như vũ khí làm hư hại đến nhận thức
đạo đức đã trở nên một nghệ thuật tạo hình. Ví dụ thù ghét người Do Thái dường
như là một bổn phận xác thực, và một đảng viên quốc xã tốt chắc chắn phải chịu
lương tâm cắn rứt nếu anh ta đã tử tế đối với người thuộc chủng tộc bị khinh miệt
ấy.
Những ví dụ này có thể quá đủ để chứng tỏ sự ngu dại khi gọi lương tâm là Đức
Chúa Trời. Rõ ràng nhận thức đạo đức vô giá này có thể được giáo dục đúng đắn
bởi sự truyền bá, miễn chúng ta có thể tin chắc điều chúng ta muốn nói là đúng
đắn. Nhưng để định nghĩa từ đó chúng ta cần phải tìm biết Đức Chúa Trời - vì nếu
không có Đức Chúa Trời không ai có quyền thúc đẩy ủng hộ những quan niệm về
“sự đúng đắn” của mình, ngoại trừ nhận thức đạo đức của riêng anh ta. Nếu không
có Đức Chúa Trời mà bởi Ngài “cái đúng” và “cái sai” có thể được khẳng định một
cách đáng tin cậy, thì những phán xét về đạo đức có thể không là gì khác hơn một
quan điểm, chịu ảnh hưởng bởi sự dạy dỗ, giáo dục và sự truyền bá.
Trong nước Anh này, hàng thế kỷ truyền thống Cơ Đốc đã ngấm vào đời sống của
người ta đến nỗi họ quên đi bằng cách nào nhận thức đạo đức của họ đã được qui
định bởi một Cơ Đốc giáo bị pha loãng, nhưng chân thật. Thái độ của họ đối với
đàn bà và con trẻ, đối với người yếu đuối và cô thế, hoặc đối với súc vật, chẳng
hạn gần như không “bẩm sinh” như chúng ta nghĩ là một sự chấn động đối với
nhiều người trong những lực lượng vũ trang của dân này, những lực lượng được
đặt ở nước ngoài suốt cuộc chiến cuối cùng, khi phát hiện nhận thức đạo đức nghèo
nàn và mù quáng thế nào trong chiều hướng này trong các nước không có truyền
thống Cơ Đốc, chắc chắn nhiều người quy điều này cho sự thật rằng các cư dân của
những nước này bất hạnh vì không phải là người Anh! Sẽ đúng hơn khi nói rằng họ
đã bất hạnh vì không có nhận thức đạo đức được khích lệ và phát triển bởi sự dạy
dỗ, giáo dục và sự truyền bá theo Cơ Đốc.
Nhiều nhà luân lý học, cả Cơ Đốc nhân và không phải Cơ Đốc nhân, đã cfhỉ ra sự
giảm sút trong nhận thức đạo đức của chúng ta qua những năm gần đây. Ít nhất có
thể tranh luận rằng sự giảm sút này hầu như hoàn toàn do người ta không còn toàn
tâm chú ý đến những lý tưởng Cơ Đốc như trước. Cơ Đốc giáo thật không bao giờ
có một đối thủ quan trọng nào trong sự giáo dục nhận thức đạo đức tồn tại trong
những người bình thường.
Tuy nhiên có nhiều người, thậm chí trong vòng những người tự xưng là Cơ Đốc, bị
khốn khổ bởi lương tâm trưởng thành không lành mạnh mà họ sai lầm khi cho đó
là tiếng của Đức Chúa Trời. Nhiều bà nội trợ buộc mình phải dốc hết sức để làm
hài lòng tiếng nói bên trong nào đó đang đòi hỏi sự hoàn hảo. Tiếng nói này có thể
là chính những yêu cầu của cô đặt ra hoặc là những dấu tích của sự giáo dục thời
thơ ấu, nhưng chắc chắn nó không thể là tiếng nói của Đấng Quyền năng đứng
đằng sau vũ trụ.
Mặt khác, một thương buôn tuổi trung niên, người từ lâu đã dạy lương tâm anh ta
phải biết phục tùng, có lẽ tự thuyết phục mình rằng anh ta là một người sống tốt.
Với vẽ tự hào thậm chí anh ta có thể thốt lên rằng mình không bao giờ làm gì trái
với lương tâm. Nhưng không thể nào tin rằng tiếng nói yếu ớt của sự mơ hồ mà
anh ta gọi lại là tiếng nói Đức Chúa Trời trong bất kỳ nghĩa thực nào.
Chắc chắn lương tâm hoặc quá trưởng thành hoặc được giáo dục sai lạc, hoặc suy
tàn đều không thể được xem như Đức Chúa Trời hay thậm chí là một phần của
Ngài. Vì nếu nó là Ngài, thì Đức Chúa trời có thể trở thành một bạo chúa đòi hỏi
quá cao đứng trước những người nhạy cảm, và là “tiếng nói bên trong” dễ chịu đối
với những người vô tình, tiếng nói này sẽ không bao giờ can thiệp vào niềm thoả
lòng của con người.
II. Ký ức về cha mẹ
Nhiều nhà tâm lý làm cho chúng ta tin rằng khuynh hướng của toàn bộ cuộc đời
con người phần lớn được xác định bởi thái độ của người đó trong những năm đầu
sống với cha mẹ. Nhiều người bình thường, những người có một thời thơ ấu hạnh
phúc, có lẽ chế nhạo điều này, nhưng tuy thế các bệnh viện và văn phòng tư vấn
của các nhà tâm lý luôn đông đúc những người có cuộc sống nội tâm bị sức ép đè
nặng trong thời thơ ấu bởi mối liên quan của họ với cha mẹ. Khá nhiều bình
thường, những người chẳng bao giờ nghĩ đến sợ quay sang bệnh học tâm thần, tuy
nhiên có một nổi sự khác thường về cơ quan quyền lực, hoặc về một cá nhân có
ảnh hưởng lớn thuộc một trong hai giới tính, điều này có thể dễ dàng được truy
nguyên từ sự chuyên chế của cha hoặc mẹ. Ngược lại có nhiều người phải chịu
lăng mạ bởi tên gọi “người bị loạn thần kinh”, nhưng tuy nhiên họ được thích nghi
cách không hoàn toàn với cuộc sống và nhận thức bên trong của họ về tính ưu việt
làm cho họ rất khó khăn để làm việc là sống trong cuộc đời. Cũng dễ dàng không
kém để truy nguyên trong lịch sử của họ một thời thơ ấu được nuông chiều quá
mức đến nỗi hư hỏng, trong đó tình yêu thương tự nhiên của đứa trẻ đó không bao
giờ được kiểm soát hoặc hướng dẫn phải quan tâm đến người khác. Đứa trẻ này
thật là “cha của thiên hạ”.
Nhưng phải làm gì với khái niệm không thích đáng về Đức Chúa Trời? Điều này
cho rằng khái niệm đầu tiên về Đức Chúa Trời hầu hết được xây dựng cách cố định
trên quan niệm của con trẻ về cha chúng. Nếu nó may mắn có một người cha tốt thì
điều này hoàn toàn tốt, dĩ nhiên nếu khái niệm về Đức Chúa Trời tăng trưởng với
những nhân cách còn lại. Nhưng nếu đứa trẻ đó e sợ (hoặc tồi tệ hơn, lo sợ và cảm
thấy tội lỗi bởi nó lo sợ) cha ruột của nó, thì có khả năng là Cha Thiên thượng sẽ là
một Đấng đáng sợ trong mắt chúng. Lại nữa, nếu nó may mắn, nó sẽ bỏ qua khái
niệm này, và quả thật nó sẽ phân biệt giữa ý niệm “đáng sợ” ban đầu và khái niệm
trưởng thành sau này của nó. Nhưng nhiều người không thể bỏ qua cảm giác tội lỗi
và sợ hãi, và trong những năm trưởng thành vẫn bị ám ảnh bởi cảm giác ấy, mặc
dù thực sự không có gì dính dáng với mối tương quan thật của họ với Đức Chúa
Trời hằng sống. Điều này không có gì khác hơn là tiềm thức về cha mẹ. Nhiều thầy
tế lễ và các giáo sĩ Cơ Đốc có một số hiểu biết về tâm lý học chắc hẳn sẽ gặp một
người có nỗi sợ hãi bất thường đối với Đức Chúa Trời, và có thể nhận ra ý nghĩa
của sự sợ hãi về tâm lý học hơn là theo tôn giáo. Một vài người trong số họ chắc sẽ
vui mừng vì nhận thấy đức tin tôn giáo phát triển trong niềm vui và sự tin tưởng,
khi sự không hoà hợp về tâm lý đã được phân tích và giải quyết. Mô tả tiến trình
đó nằm ngoài phạm vi của sách này, nhưng đáng phải theo dõi vì lợi ích của những
người phải chịu đựng nỗi sợ hãi của, hoặc cảm giác quá kinh sợ từ, ý niệm về Đức
Chúa Trời cho rằng cội rễ của những khó khăn của họ thật không phải là “tội lỗi”
hoặc “sự bất trị” của họ nhưng là điều họ cảm nhận về cha mẹ họ khi họ còn thơ
bé.
Mặt dù rất không thoả đáng nhưng thật thú vị khi chú ý ở đây rằng thành công của
một loại Cơ Đốc giáo nào đó hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào cảm giác tội lỗi
này. Vì “Phúc Âm” sẽ được tiếp nhận chỉ bởi những người mà trong họ cảm giác
tội lỗi có thể dễ dàng bị đánh thức hoặc khích động. Thật vậy, các nhà truyền giáo
loại Cơ Đốc giáo này (trái với thí dụ của chính Chúa Cứu Thế) sẽ nỗ lực để thuyết
phục và khích lệ “sự lên án tội lỗi” trong lòng những thính giả của họ. Những kết
quả của sự nỗ lực này thường không lớn, các nhà truyền giáo qui cho sự việc này là
do sự cứng lòng của các thính giả. Thực sự do bởi phản ứng lành mạnh chống lại
sự tiêm nhiễm tội lỗi không tự nhiên luôn ám ảnh tất cả nhưng chỉ những người mà
thời thơ ấu bất hạnh của họ đã khiến họ sẵn sàng tiếp nhận hình thức công kích
thuộc linh này.
Dĩ nhiên điều này không phủ nhận sự thật về tội lỗi loài người hay phủ nhận tính
cần thiết của sự tha thứ bởi Chúa. Có một “sự lên án tội lỗi” thật nó rất khác trong
phẩm chất với cái được sinh ra bởi sự truyền bá Phúc Âm áp lực cao. Những vấn
đề này sẽ được quan tâm hồn trong một chương sau. Điều mà chúng ta cần quan
tâm ở đây là việc thiết lập một khái niệm về Đức Chúa Trời một khái niệm dựa vào
mối tương quan sợ hãi trong thời thơ ấu, không phải là nền móng thoả đáng cho
một Cơ Đốc giáo trưởng thành. Kính sợ Đức Chúa Trời là đặc điểm của thế hệ
trước, sự kính sợ này là kết quả của sự sợ hãi cha mẹ, và không khó để khơi gợi
nhận thức về tội lỗi hoặc sự sợ hãi địa ngục trong những người thời thơ ấu bị
nhuộm đầy những ký ức về tội lỗi, tủi hổ và nỗi sợ sự trừng phạt.
Cũng in đậm nét trong tâm trí một số nhà tâm lý không phải người Cơ Đốc sự
chuyển tiếp giữa hình ảnh người cha trong thời thơ ấu và khái niệm sau đó về Đức
Chúa Trời, họ sẽ đi đến chỗ nói rằng mọi tôn giáo đều có xu hướng thoái lui, đó là
nỗ lực để trở về tình trạng phụ thuộc của thời thơ ấu bằng cách bám chặt vào ý
niệm về cha hoặc mẹ. Người ta khó có thể phủ nhận rằng điều này đúng trong một
vài trường hợp, nhưng nó rõ ràng là ý nghĩ vô lý trong trường hợp của một số nhân
vật vĩ đại nhất và chín chắn nhất mà thế giới này nhận thấy họ là những người giữ
niềm tin kiên định nơi chính Đức Chúa Trời. Hơn nữa nó là kinh nghiệm của các
Cơ Đốc nhân, những người từng được chưa trị bằng phân tâm học mặc dầu tiến
trình này đưa ra khỏi đức tin của họ điều gì đó như trẻ con và thậm chí uỷ mị đa
cảm, tuy nhiên ở đó vẫn giữ một phần cốt lõi vững chắc của sự tin quyết và đức tin
trưởng thành hoàn toàn thoả đáng.
Nhưng chắc chắn, nó có thể bị phản đối, chính Chúa Cứu Thế đã dạy chúng ta phải
xem Đức Chúa Trời là Cha. Chúng ta phải từ bỏ sự tương tự của chính Ngài
không? Dĩ nhiên không, miễn là chúng ta nhớ rằng đó là sự tương tự. Khi Cứu
Chúa dạy dỗ các môn đồ hãy xem Đức Chúa Trời như Cha Thiên Thượng Ngài
không có ý nói rằng ý niệm của họ về Đức Chúa Trời nhất thiết phải dựa vào
những ý niệm của họ về cha của mình. Cho dù chúng ta biết có thể rất nhiều người
trong số những người nghe Ngài dạy dỗ có những người cha không xứng đáng, bạo
ngược, ngu dại, tự phụ, vô trách nhiệm hoặc hay nuông chiều. Đây là mối liên hệ
mà Cứu Chúa đang nhấn mạnh. Tình yêu thương và sự quan tâm dành cho con cái
ở người cha tốt trong thế gian mô tả cho con người một mối tương quan mà họ có
thể hiểu được, thậm chí khi chính họ không còn cha! Cũng chính mối tương giao
mà Cứu Chúa đang nói đến có thể được con người tin tưởng dựa vào trong mối
quan hệ của họ với Đức Chúa Trời.
Có những Cơ Đốc nhân dường như không hiểu điều này cách đúng đắn. Bởi Chúa
Cứu Thế phán rằng loài người phái trở nên “như con trẻ” (tức loại bỏ tất cả sự xấu
hổ, sự thoả hiệp và tính hoài nghi của tuổi trưởng thành) trước khi họ có thể đặt
chân vào Nước Thiên Đàng với tính giản dị và sự chân thành một số người từng
cho rằng Ngài đánh giá cao tính non trẻ của con người. Thật buồn cười khi cho
rằng Đức Chúa Trời có thể mong ước những người đã trưởng thành cứ mãi đi
chậm chạp trong tình trạng thuộc linh con trẻ để giữ cho mối tương quan cha con
tình cảm hơn. Quả thật, kinh nghiệm cho thấy rằng chính người Cơ Đốc trưởng
thành là những người có thể bắt đầu nhận thấy rất ít về “độ lớn” của Chúa mình.
Trước đây anh ta có thể nghĩ rằng sự so sánh mối quan hệ giữa một em bé đi chập
chững và ngưới cha trưởng thành của nó với mối quan hệ của chính anh ta với Đức
Chúa Trời quả là sự phóng đại của hố sâu ngăn cách, ít nhất trong sự hiểu biết.
Nhưng trong sự trưởng thành càng hơn của mình anh ta có thể nhận thấy Cứu
Chúa, trong tấm lòng nhơn từ của Ngài, chắc chắn không phóng đại sự khác biệt
đáng kinh sợ giữa con người và Đức Chúa Trời.
Có một Đức Chúa Trời, Đấng lớn hơn chúng ta lớn hơn rất nhiều so với chúng ta là
người lớn hơn một đứa trẻ con đang bò lê trên tấm thảm trước lò sưởi, không phải
là giữ khái niệm như đứa trẻ về Đức Chúa Trời, nhưng đúng hơn là ngược lại. Chỉ
khi chúng ta giới hạn những sự khuấy đọng của tâm trí sau Đấng Tạo ra nó bằng
cách áp đặt trên nó những ý nghĩ dễ bị quên lãng về cha mẹ phần xác của chúng ta,
rằng chúng ta dần trở nên chán nản trong thuộc linh và tự hỏi tại sao đối với chúng
ta những nguồn mạch của sự thờ phượng và tình yêu không tuôn chảy. Chúng ta
phải để lại đằng sao “ký ức về cha mẹ” nếu chúng ta muốn thấy được một Đức
Chúa Trời “đủ lớn”.
III. Một ông lão đáng kính.
Chuyện kể lại rằng một số trẻ em ở tuổi trường Chúa Nhật một lần được bảo phải
viết ra suy nghĩ của chúng về Đức Chúa Trời. Ngoại trừ một số ít còn lại tất cả
những bài làm đều bắt đầu như sau: “Đức Chúa Trời là một ông lão rất già sống ở
Thiên Đàng…” Dù câu chuyện này có thật hay không, nhưng chắc chắn có một
điều rằng trong nhiều tâm trí của trẻ thơ. Đức Chúa Trời là một “ông già”. Dĩ nhiên
điều này một phần do những người bề trên của chúng luôn luôn là những người
“già” đối với chúng và Đức Chúa Trời vì vậy mà phải “già” hơn tất cả. Hơn nữa,
một đứa trẻ thường được dạy rằng nó sẽ làm được điều này hoặc sẽ hiểu được điều
kia “khi nó lơn hơn”, như thế rất tự nhiên mà Nguồn của mọi sức mạnh và sự khôn
ngoan quả thật đối với nó dường như rất già. Thêm nữa, tâm trí của nó có thể được
làm đầy bằng những câu chuyện về những việc làm của Đức Chúa Trời đã xảy ra
“lâu rồi”. Kết quả là đứa trẻ này có thể cảm thấy và thậm chí hình dung Đức Chúa
Trời như một người nào đó rất già.
Có thể nói rằng không có điều hại đặc biệt nào trong vấn đề này. Vì một đứa trẻ
phải biến đổi chính nó để phù hợp với thế giới của người lớn, ở đó có thể không có
gì sai trong khái niệm của nó về một Đức Chúa Trời “cao tuổi”. Tuy vậy vẫn có
một mối nguy hiểm đó là đứa trẻ sẽ hình dung Đức Chúa Trời này không chỉ như
một “ông lão”, mà còn là người „cố hư, lỗi thời”, và thật vậy nó có thể bị ấn tượng
với những việc làm của Đức Chúa Trời trong “thời xa xưa” mà nó có thể không
hiểu được quan điểm cho rằng Đức Chúa Trời đang vận hành với một năng lực
không hề suy yếu trong hiện tại và đang dẫn dắt đến một tương lai đầy hi vọng.
Nhưng thậm chí nếu công nhận rằng hình dung Đức Chúa Trời như “ông lão” sẽ
không hại gì cho đứa trẻ thì sự bền bỉ của quan niệm trong thời thơ ấu dưới bề mặt
của tâm trí có thể khiến cho nó rất khó khăn để tăng trưởng và hiểu quan niệm thoả
đáng về Đức Chúa Trời trong những năm sau đó. Để thử khái niệm “lỗi thời” này
có đang còn trong những người trẻ tuổi trong hiện đại hay không, thuộc thử
nghiệm tâm lý đơn giản gần đây được áp dụng đối với một nhóm thanh niên gồm
nhiều thành phần. Họ được hỏi và phải trả lời ngay mà không có suy nghĩ, một câu
hỏi “Theo bạn Đức Chúa Trời có hiểu ra-đa không?” Gần như tất cả đều đáp
“không” và dĩ nhiên kèm theo một trận cười, vì với một tâm trí có ý thức đã nhận
ra sự vô lý của câu trả lời này. Nhưng, cũng đơn giản như cuộc thử nghiệm, nó đủ
để chứng tỏ rằng ở đàng sau tâm trí họ, những thanh niên này vẫn giữ quan điểm
cho rằng Đức Chúa Trời không thoả đáng cho thời hiện đại. Cuộc thảo luận sau đó
chỉ cho thấy trong khi “họ thật sự không nghĩ nhiều về điều này” họ đã tự do công
nhận rằng quan điểm về Đức Chúa Trời, được hấp thụ một vài năm trước, tồn tại
trong một ngăn tách biệt khỏi kinh nghiệm, kiến thức và quan điểm hiện đại của
họ. Như thế, họ đang tôn kính ký ức về một ông lão đáng kính, Đấng rất có quyền
năng trong thời của Ngài, nhưng bị cho là không thể tiến kịp sự phát triển thời hiện
đại.
Ngày nay có thể có nhiều người với một “vết rạn” tương tự trong những khái niệm
thuộc trí thức của họ. “Ông lão đáng kinh” được đối đãi với lòng tôn sùng và kính
trọng - hãy xem Ngài đã phù hộ thế nào cho các tổ phụ chúng ta - nhưng Ngài khó
có thể được trông đợi để đương đầu với những sự phức tạp và những vấn đề của
cuộc sống ngày nay! Nếu sự vô lý của “vết rạn” này làm chúng ta bật cười, thì tốt
hơn nhiều.
Có nhiều người trong các Hội Thánh của chúng ta và nhiều lời giảng dạy mang
tính tôn giáo nói chung có xu hướng khích lệ khái niệm “lỗi thời”, Kinh Thánh
được đọc bằng ngôn ngữ đẹp nhưng cổ xưa, đó là một luật. Những giờ thờ phượng
của chúng ta thường được dẫn dắt hoàn toàn trong một thứ ngôn ngữ mà không ai
sử dụng ngày nay. Chúng ta xưng hô Đức Chúa Trời trong lời cầu nguyện của
mình bằng ngôi thứ 2 số ít rất cổ xưa - và chính những lời cầu nguyện này thường
tạo ra một cảm giác phải trình bày nó với một hình thức mà để Ông Lão đáng kính
ấy vừa có thể hiểu được vừa có thể chấp nhận được. Những bài thánh ca của chúng
ta, với một số ngoại lệ đáng chú ý, thường diễn tả một người thuộc triều đại
Victoria và rất hiếm khi là một quan điểm “đủ lớn” về Đức Chúa Trời. Để đánh giá
đúng giá trị thật của những bài thánh ca này chúng phải được đọc lớn tiếng với
giọng lạnh lùng và khác biệt với giọng điệu được ưa thích. Trong lễ báp-tem, hôn
lễ và lễ tang, chúng ta luôn sử dụng thứ ngôn ngữ mà người bình thường khó có
thể hiểu được, nhưng ngôn ngữ mà họ cảm thấy mơ hồ này rất cổ xưa và không có
liên hệ gì với cuộc sống thật của họ. Họ tôn kính Ông Lão đáng kính ấy và những
đặc điểm lạ thường của Ngài, nhưng họ không cảm thấy muốn thờ phượng Ngài
như một Đức Chúa Trời hằng sống.
Các bài giảng và những bài thuyết trình hết lần này đến lần khác bị nhồi nhét với
biệt ngữ mang tính tôn giáo và những từ thuật ngữ chuyên môn mà không được
nhận sự đồng cảm nào từ những người thời nay. Chắc chắn niềm vui của một nhà
truyền giáo là biết được rằng ông không chỉ đang hầu việc chính Đức Chúa Trời
như những vị thánh trong quá khứ, mà còn đang sử dụng những cụm từ đã đi vào
truyền thông lâu đời nhưng có nhiều ý nghĩa đối với họ. Nhưng đối với các thính
giả hiện đại của mình (nếu họ có thể trong phạm vi nghe được!), nhà truyền giáo
ấy chỉ có thể cảm thấy yêu thương thời quá khứ. Những lời của ông có thể có nét
đẹp và chân giá trị, nhưng nó là nét đẹp và chân giá trị của quá khứ, và sứ điệp của
ông thường tỏ ra không hoàn toàn thích hợp cho những vấn đề của hôm nay.
Nơi nào con người chịu “tác động” bởi sự nuôi dạy theo Cơ Đốc thì sự thờ phượng
của một Hội Thánh bình thường ở đó có thể làm hài lòng đối với phạm vi nào đó.
Qua thời gian rèn luyện lâu dài, rất có thể họ đang “thể hiện ra” như họ cứ tiếp tục.
Nhưng đối với lớp trẻ ngày nay, được nuôi dạy mà không có nền tảng như vậy, sự
thờ phượng Cơ Đốc theo tập quán dường như lỗi thời mà mang tính phản động, và
những quan niệm về Đức Chúa Trời đượ ckhơi gợi trong tâm trí họ sẽ thuộc kiểu
Ông Lão đáng kính. Nhu cầu cấp bách, dù không rõ ràng của họ không dành cho
Đức Chúa Trời của dân Do Thái cổ xưa, cũng không dành cho Đức Chúa Trời của
nước Anh thời đại Victoria, nhưng Đức Chúa Trời của thời đại nguyên tử - Đức
Chúa Trời của năng lực sự khôn ngoan và tình yêu thương ngày nay.
Người tài giỏi thường phê phán nghiêm khắc giới trẻ ngày nay “không có ý thức về
lịch sử”. Nhưng chắc chắn điều đó không làm người ta kinh ngạc. Những thay đổi
trong cuộc sống hiện đại quá lớn và ảnh hưởng sâu rộng đến nỗi giới trẻ ngày nay
không thể nhận thấy gì ngoài mối liên hệ mong manh nhất giữa điều có vẻ đơn
giản với họ và cuộc sống bình ổn của một thế hệ đã qua và cuộc sống chuyển động
quá nhanh quá phức tạp của thế giới ngày nay. Nhận thức về lịch sử thường là kết
quả của sự trưởng thành, và trong khi một Cơ Đốc nhân có kinh nghiệp có thể vui
mừng nghĩ rằng mình đang thờ phượng chính Đức Chúa Trời mà Áp-ra-ham,
Môi-se, Đa-vít và các thánh của Hội Thánh Cơ Đốc đã thờ phượng, thì giới trẻ
ngày nay, thậm chí họ biết Áp-ra-ham Môi-se, Đa-vít là ai, sẽ rất thản nhiên trước
mối liên hệ mang tính lịch sử này. Nhu cầu của họ là dành cho một Đức Chúa Trời
thoả đáng của thời đại ngày nay; nhận thức lịch sử có thể sẽ đến sau đó.
Sẽ rất cần thiết, như chúng ta thấy trong một chương sau, để nhìn lại lịch sử nhân
loại về những sự kiện có thật làm nền tảng cho cái nhìn của Cơ Đốc nhân về Đức
Chúa Trời. Nhưng cũng cần thiết như vậy để trở lại thế giới hiện đại, khi đã được
trang bị với những sự kiện lịch sử thiết yếu. Tuy nhiên không có hình ảnh nào huy
hoàng và đáng nhớ trong lịch sử có thể làm thoả mãn những tấm lòng đang tìm
kiếm một Đức Chúa Trời hằng sống đương thời.
IV. Nhu mì và hiền lành
Rất đáng tiếc là từ “con trẻ” chỉ có một vài từ có vần với nó để thích hợp cho việc
sáng tác thánh ca. Nhưng đối với sự ít ỏi của ngôn từ này chúng ta cũng có được
hai câu thơ mà hàng trăm ngàn người chắc chắn đã được học trong thời thơ ấu của
họ.
Chúa Giê-xu hiền lành nhu mì
Ngài dịu dàng nhìn xem con trẻ
Nhưng có lẽ không phải do những qui tắc của sự đặt câu mà tác giả dùng từ “hiền
lành” để nói đến Chúa Cứu Thế Giê-xu, vì ở đâu đó trong một bài thánh ca cho trẻ
em bắt đầu như sau:
Trẻ thơ trong nhà Chúa phải luôn
hiền lành vâng lời và tử tế như Ngài
Tại sao lại “hiền lành”. Trong số tất cả những tính từ có thể được dùng chỉ Cứu
Chúa, từ này có vẻ là một trong những từ ít thích hợp nhất. Khi được áp dụng chỉ
một người nào đó thì từ này gợi lên điều gì trong tâm trí chúng ta? Chắc chắn là
một hình ảnh của người nào đó quá hiền lành chẳng dám mở miệng, người nào đó
không thích dính dáng đến chuyện gì để khỏi gây chuyện và tránh phiền phức bất
cứ nơi nào có thể, một người có khí chất trầm lặng hầu như xa lạ với những cảm
xúc của một bản chất đầy nhiệt huyết, một người hơi tầm thường, vừa tẻ nhạt vừa
không hứa hẹn gì.
Từ “hiền lành” này rõ ràng được sự dùng có cân nhấc để mô tả một người không
do dự để thách thức và chỉ ra những hành động đạo đức giả của những người mộ
đạo trong thời của Ngài. Ngài đã bước đi vô hại qua một đám đông sát hại, một
người không hề tầm thường, Ngài được đánh giá bởi những nhà chức trách như
một mối nguy hiểm chung, một người có thể bị xúc động đến giận dữ bởi sự bốc
lột trơ tráo hoặc bởi tính ngưỡng tự mãn; một người can đảm mà Ngài quyết tâm
bước đến nơi mà Ngài biết rõ nơi đó có nghĩa là sự chết, mặc dù đứng trước những
âm mưu của những bạn bè có thiện chí! Hiền lành! Quả một từ dùng để chỉ tính
cách mà sự thách thức của nó và tính hấp dẫn lạ lùng của nó suốt 19 thế kỷ không
suy kiệt chút nào. Chúa Cứu Thế Giê-xu có thể được gọi là “nhu mì”, trong nghĩa
chỉ sự khiêm nhường và quên mình và hoàn toàn tận hiến cho điều mà Ngài xem là
đúng, dù bản thân phải trả bất cứ giá nào, nhưng “hiền lành” thì chẳng bao giờ!
Tuy nhiên chính sự kết hợp của “nhu mì và hiền lành” này đã được, thậm chí đang
được áp dụng rất thường để chỉ về Ngài. Chúng ta khó có thể bị bất ngờ nếu con
trẻ sớm cảm thấy ngay rằng chúng đã bỏ qua “Đấng chăn Chiên hiền lành” và tìm
kiếm những vị anh hùng cho chúng ở những nơi khác.
Nhưng nếu ấn tượng về một Chúa Giê-xu nhu nhược và đa cảm được tạo ra (giả
sử, tất cả thường bởi những bài thánh ca ngọt ngào và những hình ảnh mang tính
tôn giáo xinh đẹp), sự tổn hại của nó không qua đi khi giới thanh niên chối bỏ khái
niệm ngốc nghếch và như trẻ con này. Có thể ở đó sẽ lưu giữ trong tâm trí họ ý
tưởng rằng Đấng Christ và Cơ Đốc giáo là sự nhu nhược và đa cảm mà không có
ích gì cho thế giới bình thường này. Vì chắc chắn rằng “thần không thoả đáng” đặc
biệt này, thần hiền lành, nhu nhược và đa cảm, vẫn tồn tại trong tâm trí nhiều
người đã trưởng thành. Thật vậy chính từ “Giê-xu” gọi lên cho nhiều người sự
nhân hậu ngọt ngào nào đó (điều này một cách vô tình có thể dễ dàng được đặt
trong vị trí thích hợp của nó bởi sự hiểu biết các sách Phúc Âm ở những người lớn
có đầu óc hiểu biết). Sự hấp dẫn của đặc điểm ngọt ngào đáng chán này, hoặc của
những người mà những phương cách của họ được tìm thấy trong khái niệm như
vậy, được những người bình thường đánh giá đúng đắn “một cách không ngay
thẳng”. Nhưng thật ra không có mối liên hệ nào giữa cái được gọi là phương pháp
“creeping -Jesus” về cuộc đời và bản tánh của một Cứu Chúa thật. Nét đẹp, tình
yêu thương và lòng nhân từ thật của bản tánh Đấng Christ dĩ nhiên không bị phủ
nhận hoặc đánh giá thấp, nhưng khi một đặc tính bị chế diễu do làm tổn hại đến
những đặc tính khác chúng ta gây ra sự bóp méo cách lố bịch có thể hấp dẫn loại
người uỷ mị bệnh hoạn.
Mối nguy hiểm của khái niệm về nhu mì và hiền lành tăng gấp hai lần. Thứ nhất, vì
Cơ Đốc nhân tin rằng bản tánh của Đấng Christ là sự thể hiện chính xác trong
không gian và thời gian bản tánh của Thượng Đế vĩnh hằng, rất thích đáng để đưa
đến khái niệm về Đức Chúa Trời, một khái niệm mơ hồ uỷ mị. Chúng ta sẽ nói
nhiều hơn điều này ở một chương sau và ở đây chúng ta chỉ đưa ra sự bất khả năng
của cảm giác ở một người đã trưởng thành bị thúc ép thờ phượng một thần mà sự
trang bị về cảm xúc của thần này ít được phát triển hơn chính người đó. Mối nguy
hại thứ hai đó là từ đó rất hiển nhiên Cơ Đốc nhân sẽ cho rằng Đức Chúa Trời là
tình yêu thương, một trong những tất cả đức tính đẹp đẽ và đánh kính nhất này bị
giảm giá trị.
Dường như khái niệm “nhu mì và hiền lành” của Thượng Đế có thể được nhận
thấy bản chất cách dễ dàng, nhất là trong những người có thời thời thơ ấu được tô
vẽ đầy màu sắc đến thái độ uỷ mị đối với “Đức Chúa Giê-xu”, tuy nhiên kinh
nghiệm cho thầy rằng khái niệm này đang vận hành dưới mức độ ý thức của nhiều
Cơ Đốc nhân. Những người này thấy những hành vi, thậm chí những tư tưởng của
họ, bị kiềm chế bởi lý cớ lệch lạc về “tình yêu thương”. Họ không thể sử dụng
những khả năng phê bình của họ cũng không thể nói một chân lý rõ ràng cũng
không gặp gỡ các bạn của họ “cách tự nhiên” vì họ sợ hãi họ phạm tội nghịch cùng
Chúa “nhu mì và hiền lành” này. Đối với người không phải Cơ Đốc nhân tỏ ra
không thật hoặc thậm chí như những người đạo đức giả, trong khi “tình yêu
thương” mà họ cố gắng bày tỏ đối với người khác thường là sự bắt chước đáng
khinh của một điều có thật. Vì, giống những người đa cảm, Chúa nhu mì và hiền
lành này thực ra độc ác, và những người mà cuộc sống của họ chịu sự kiểm soát
của Chúa này từ những năm đầu của thời thơ ấu, đã không bao giờ được phép phát
triển cái tôi thật của họ. Bị thúc ép phải tỏ lòng yêu thương nên họ không bao giờ
tự do để yêu thương.
Có một nhánh khác của sự thờ phượng thần giả này, thần mà chắc chắn được đề
cập. Đâu là lý tưởng Cơ Đốc uỷ mị về “sự thánh thiện”. Chúng ta nghe, hoặc đọc,
về một người nào đó được cho là một người thực sự thánh thiện anh ta không bao
giờ nhìn thấy bất kỳ sự gì gây tổn hại trong bất cứ ai và không bao giờ nói một lời
nghịch cùng bất cứ ai trong suốt cuộc đời. Nếu đây thực sự là sự thánh thiện theo
Cơ Đốc thì Chúa Cứu Thế Giê-xu không phải là thánh. Quả thật Ngài đã dạy loài
người không nên xét đoán lẫn nhau, nhưng Ngài không bao giờ có ý rằng họ phải
nhắm mắt với sư xấu hoặc làm ra vẻ mọi người đều vô tội. Chính Ngài không
nhượng bộ những ảo mộng màu hồng của bản chất loài người: Ngài “biết điều gì
trong con người” như Giăng nói cách ngắn gọn: chúng ta cũng không thể hình
dung Ngài hoặc dùng hoặc bào chữa cho sự sử dụng cố định của những từ về “sự
yêu thương”. Đối với Ngài, nói về chân lý rõ ràng đối với Ngài quan trọng hơn làm
cho cử toạ của Ngài dễ chịu: mặc dù cũng rõ ràng tình yêu chân thật của Ngài dành
cho loài người tạo cho Ngài sự khéo léo, khôn ngoan và sự thông cảm. Ngài là
Tình yêu thương trong hành động, nhưng Ngài không nhu mì và hiền lành.
V. Sự hoàn hảo tuyệt đối
Trong số những thần giả có thễ không có mối phiền lòng nào trong thế giới thần
linh lớn hơn “một vị thần một trăm phần trăm”. Vì thần này có vẻ tin cậy được. Có
thể dễ dàng lý luận rằng vì Đức Chúa Trời là Đấng toàn vẹn, và vì Ngài yêu cầu sự
trung tín hoàn toàn trong những vật thọ tạo của Ngài, thì cách tốt nhất của sự hầu
việc, sự làm vui lòng và sự thờ phượng Ngài phải được thiết lập trên những tiêu
chuẩn 100% tuyệt đối và đảm bảo chắc chắn rằng chúng ta vâng theo chúng. Trên
hết Chúa Cứu Thế phán:
“Các ngươi phải trọn vẹn”
Tiêu chuẩn 100% này là mối đe doạ thật sự đối với Cơ Đốc nhân thuộc nhiều
nhóm tự tưởng khác nhau, và đã dẫn dắt một số đông những người có lương tâm
nhạy cảm đối với điều rất thường được gọi “sự suy sụp và thần kinh”. Và nó lấy đi
niềm vui và tính tự phát khỏi đời sống Cơ Đốc của nhiều người mơ hồ nhận ra rằng
điều có nghĩa là cuộc sống “tự do hoàn toàn” đã trở nên một sự nô lệ tù túng.
Có thể chỉ những người có những nền móng hoặc khí chất vững chắc tìm thấy
được trong “một chúa 100% ấy” một sự chuyên chế kinh khủng. Một người hướng
ngoại trẻ tuổi và có sức mạnh về thể chất có thể nói liếng thoáng về “sự trong sạch,
trung thực. sự yêu thương và không ích kỷ 100%”. Nhưng dù anh ta là gì đi nữa,
anh ta cũng không có khái niệm mờ mịt nhất về “ý nghĩa 100%” là gì. Anh ta
không có sự trang bị về tri thức cũng không có sự trí tưởng tượng để có thể hiểu
thấu sự trọn vẹn thật sự là gì. Anh ta không phải loại người để phân tích những
động lực của chính mình, hoặc xây dựng một lương tâm giả tạo để giám sát những
hành vi của chính mình, hoặc bị đối diện với hình ảnh tinh thần đáng sợ về ý nghĩa
của sự toàn vẹn 100% là gì trong mối quan hệ đến đời sống và sự nỗ lực của chính
mình. Điều mà anh ta nói bởi “sự trong sáng, chân thật. 100% chỉ là sự trong sáng
và chân thật như anh ta thật lòng biết là thế nào. Và đó là một vấn đề rất khác.
Nhưng một người có ý thức, nhạy cảm, có óc tưởng tượng phong phú, người hơi
thiếu tự tin và bị thiên về sự tự xét nội tâm, sẽ nhận thấy sự toàn vẹn 100 % là điều
thật sự kinh khủng. Anh ta càng nghĩ về nó theo mạng lệnh của Đức Chúa Trời,
anh ta sẽ càng cảm thấy tội lỗi và khổ sở, và anh ta không thể nào nhìn thấy gì
ngoài sự bế tắc của mình. Nếu anh ta giảm bớt 100% đó thì anh ta đang phản bội
lại ảo tưởng thuộc linh của chính mình, và chính Đức Chúa Trời, Đấng có thể giúp
anh ta sẽ là tác giả (như anh ta tưởng) của những mạng lệnh kinh khủng ấy! Không
lấy làm lạ tại sao anh ta thường “suy sụp”. Bi kịch thường là “chúa 100%” này
được đưa vào cuộc đời của những người nhạy cảm bởi những người không nhạy
cảm khi được so sánh, những người không nhạy cảm này không thể hình dung
cách chính xác sự tổn hại mà họ đang làm.
Cách này tiết lộ điều gì? Những lời của Chúa Cứu Thế “Hãy học theo ta” cung cấp
một manh mối tốt nhất. Một số Cơ Đốc nhân nhiệt thành trong thời hiện đại của
chúng ta thuộc loại thành thật này có xu hướng xem Cơ Đốc giáo như một môn
trình diễn. Nhưng cũng như nguyên thuỷ nó vẫn là cách sống, và không có nghĩa
một màn trình diễn được thực hiện cho lợi ích của thế giới xung quanh. “Học theo”
ám chỉ tăng trưởng, chỉ sự sai phạm và sự sửa chữa lỗi lầm, chỉ một tiến trình đi
lên đều đặn hướng đến một lý tưởng, “sự toàn vẹn” đối với điều mà Đấng Christ
đòi hỏi con người phải tiến lên là lý tưởng này. Một Cơ Đốc nhân năng nổ thời
hiện đại thuộc những nhóm nào đó thích lợi dụng sự toàn vẹn 100% như một tập
hợp những luật lệ phải được tuân phục ngay tức khắc, thay vì như một lý tưởng nổi
bật phải được theo đuổi một cách thành tâm. Con đường tắt của anh ta thực tế làm
cho những người không có trí tưởng tượng thoả lòng trước khi anh ta phải là người
có trí tưởng tượng và đưa những người ấy đến chỗ thất vọng. Sự xuyên tạc chân lý
Cơ Đốc như vậy không thể bắt nguồn từ Đấng đã từng nói rằng “ách ta êm ái” và
“gánh ta nhẹ nhàng” cũng không thể từ Phai-lô môn đồ Ngài, người đã tuyên bố
sau nhiều năm trải nghiệm rằng ông “tạo một dấu ấn như thể ông đã không đạt
được và đã không toàn vẹn”.
Nhưng thậm chí đối với những người không bối rối bởi Cơ Đốc giáo “100%” thì
sự tưởng tượng về sự toàn vẹn giống như vậy có thể đang giả dạng là Đức Chúa
Trời trong tâm trí họ. Bởi chính sự tưởng tượng mà nó sinh ra sự tê liệt và cảm
gíac bất mãn. Lý tưởng thật, như chúng ta sẽ nhận thấy sau, khích động, khích lệ
và sinh ra sự tương tự với chính nó.
Nếu chúng ta tin vào Đức Chúa Trời, tự nhiên chúng ta phải tin rằng Ngài là Đấng
Toàn vẹn. Nhưng chắc không nghĩ, nếu nói theo cách thông thường, rằng Ngài vì
vậy mà không thể quan tâm đến bất cứ điều gì ít toàn vẹn hơn (Nếu quả thật vậy thì
nhân loại này sẽ rơi vào tình trạng thật tồi tệ).
Cơ Đốc nhân có thể nói thành thật rằng chính “mong muốn” của Đức Chúa Trời dễ
chi phối tình yêu thương và lòng trung tín hết lòng của con cái Ngài, nhưng để
hình dung rằng Ngài sẽ không có quan hệ nào với họ cho đến khi họ được sửa soạn
dành cho Ngài sự tận hiến hoàn toàn chỉ là sự phát lộ khác của “chúa 100%” đó.
Cuối cùng thì người nào, ngoài những người rất tự mãn và toại nguyện, ai sẽ khẳng
định rằng mình hoàn toàn “chịu chi phối” hoặc “cải đạo” bởi tình yêu thương? Và
ai sẽ phủ nhận mối quan tâm của người cha dành cho đứa con trai hoang đàng khi
chỉ số thuộc linh của anh ta thật sự chỉ ở mức thấp nhất?
Đức Chúa Trời quả là Đấng Toàn vẹn, nhưng Ngài không là người cầu toàn, và
100% không phải Đức Chúa Trời.
VI. Chỗ dựa nương trên trời
Những người phê bình Cơ Đốc giáo thường tranh cãi rằng đức tin tôn giáo là một
dạng của “sự chạy trốn thực tại “về mặt tâm lý. Họ nói rằng người nào tìm kiếm
những vấn đề và những yêu cầu của đời sống trưởng thành quá nhiều đối với anh ta
sẽ nỗ lực nhìn lại sự dễ chịu và lệ thuộc của thời thơ ấu bằng cách vẽ ra cho mình
một hình ảnh người cha hoặc người mẹ đầy tình yêu thương, người mà anh ta gọi
là Đức Chúa Trời. Phải công nhận rằng có rất nhiều đạn dược sẵn cho cuộc tấn
công như vậy, và câu đầu tiên của một bài thánh ca rất nổi tiếng và rất được yêu
thích cho chúng ta là một ví dụ rõ ràng.
Giê-xu Đấng hằng yêu thương tôi
Tôi mong đến nghiêng trên ngực Ngài
Lúc sóng bủa ầm bên chân tôi
Trong khi bão tố đang vang dội
Xin che tôi, xin giấu kín luôn
Cho qua cơn mưa, ác gió ôn
Thẳng đến bến bình yên thiên môn
Mong ơn Chúa tiếp rước linh hồn
Nếu những từ này được hiểu theo giá trị bên ngoài của chúng thì đây là sự chạy
trốn thực tại, sự ao ước có ý thức để được che giữ an bình cho đến khi cơn bão tố
và sức ép của cuộc sống trôi qua, và không có lời thanh minh nào từ những người
yêu thích bài thánh ca này có thể thay đổi ý nghĩa rõ ràng của nó. Người ta khó có
thể phủ nhận rằng nếu đây là Cơ Đốc giáo thật thì lời buộc tội về sự “trốn tránh
thực tại”, về sự non nớt dễ xúc động và sự thoái hư như con trẻ, phải được thẳng
thắng thừa nhận là đúng. Nhưng mặc dù “Đức Chúa Trời của sự giải thoát” này rất
thông thường, nhưng hướng đi của Cơ Đốc nhân thật được lập theo một chiều
hướng rất khác. Không ai cáo buộc Người sáng lập nó non trẻ trong sự hiểu biết,
trong suy nghĩ, sự dạy dỗ, hoặc trong tư cách đạo đức, và lịch sử của Hội Thánh
Cơ Đốc cung cấp hàng ngàn thí dụ về những tính cách phát triển nửa vời rất rụt rè,
những người này không chỉ nhận thấy trong đức tin họ điều mà các nhà tâm lý gọi
là sự hoà nhập, mà còn đương đầu với những khó khăn và nguy hiểm, trong cách
mà khiến cho mọi sự chế nhạo, sự trốn tránh thực tại trở nên buồn cười cách thô
thiển.
Tuy vậy trong Cơ Đốc giáo có hay không một yếu tố chính đáng về điều mà người
thù địch có thể gọi là sự chạy trốn thực tại?
Truyền thống Cơ Đốc đáng tin cậy, và đặc biệt tiểu sử của những người có thể
được xem là “các thánh” trong hàng Cơ Đốc nhân đầu tiên, cho thấy rằng suốt
những thời kỳ này những nam nữ anh hùng đã tìm thấy trong Đức Chúa Trời “nơi
ẩn núp” cũng như “sức mạnh” cho họ. Thật vô lý khi nghĩ rằng những người có
tầm vóc thuộc linh như vậy đã chịu dưới sự ảnh hưởng của sự thoái lui như con trẻ,
và chúng ta buộc phải tìm kiếm xa hơn lời giải thích này.
Các nhà tâm lý thời hiện đại thường nói rằng không phải những cơn bão tố và
những áp lực bên ngoài cuộc sống đã đánh ngã và phá vỡ nhân cách, nhưng chính
là những sự chiến đấu và sự đau khổ bên trong nó. Nếu một người có lòng vui
mừng và ổn định, anh ta có thể đối diện, thậm chí với sự thích thú, với những khó
khăn nằm ngoài nhân cách của anh ta. Ví dụ, một người có hạnh phúc trong hôn
nhân và mỗi ngày có thể trở về với gia đình hạnh phúc mình thì không thể bị đánh
bại những căng thẳng bên ngoài. Nhưng cũng một người đó có thể rất dễ bị xúc
động và cảm thấy cuộc đời nói chung quá sức anh ta nếu hôn nhân của anh ta, ví
dụ, bị tan vỡ - thật ra nếu trung tâm của những hoạt động của anh ta bị phá huỷ.
Ngày nay Cơ Đốc nhân vẫn khẳng định rằng chính xác trung tâm kiên cố này do
đức tin nơi Đức Chúa Trời qui định. Một Cơ Đốc nhân chân thành có thể và loại bỏ
sự mạo hiểm trong tất cả loại hoạt động đòi hỏi cao và đầy nguy hiểm, nhưng mọi
lúc anh ta đều biết rằng mình có một trung tâm của những hoạt động hoàn toàn ổn
định và không thay đổi mà trở lại với nó anh ta có thể có sức mạnh, sự tươi mới và
sự phục hồi. Trong ý nghĩa đó anh ta “trốn chạy” đến Đức Chúa Trời, dù anh ta
không trốn tránh những trách nhiệm và gánh nặng của cuộc đời. Chính “sự trốn
chạy” của anh ta làm anh ta thích nghi với cuộc đối đầu hàng ngày với những căng
thẳng và khó khăn của cuộc sống.
Nhưng điều này đã nói vì nó phải được nói - vì sự thoái lui có chu kỳ hợp lý của
Cơ Đốc nhân trong sự liên hệ có ý thức với Đức Chúa Trời của anh ta, chúng ta
hãy trở về quan niệm không thoả đáng về Đức Chúa Trời, quan niệm hoàn toàn
quá thông thường với những người nào đó - một chúa mà dưới ngực Ngài chúng ta
có thể ẩn núp “cho qua cơn, mưa ác gió ôn”.
Những người nào dù không có ý thức nhưng thật đang tìm kiếm một người thay
thế cha hoặc mẹ, bởi sự luyện tập thường xuyên, có thể sẵn sàng hình dung một
chúa dễ chịu và sẵn có đúng nơi đúng lúc như vậy. Họ có thể gọi chúa đó là
“Giê-xu” và thậm chí viết những bài thánh ca hay về chúa này, nhưng chúa của họ
không là Chúa Giê-xu của các Phúc Âm, Đấng thật sự đã làm nản lòng bất kỳ
người nào uỷ mị, chạy đến bên ngực Ngài và thường bảo con người hãy ra đi và
làm những điều khó khăn nhất và gian khổ nhất, sự thấu hiểu và thông cảm của
Ngài luôn luôn dành sẵn cho cần đến Ngài, tuy nhiên ấn tượng chung về tính cách
của Ngài trong các sách Phúc Âm cho thấy Ngài là Đấng đang dẫn dắt con người
đi đến sự hiểu biết và tăng trưởng hơn. Ngoài khích lệ họ thoát khỏi cuộc đời, Ngài
đến, theo lời của Ngài, để đem lại “sự sống dư dật hơn”, và cuối cùng Ngài để các
môn đồ Ngài làm thành một nhiệm vụ mà chắc hẳn đã làm nản lòng trái tim cứng
cỏi nhất. Cơ Đốc giáo nguyên thuỷ chắc chắn không có dấu vết xấu nào về sự trốn
tránh thực tại.
Nhưng ngày nay người nào còn cố tâm gìn giữ chúa không thoả đáng dặc biệt này
bằng cách vẫn muốn có được sự bảo vệ dễ chịu như thời thơ ấu có thể gây rất
nhiều tổn hại mà họ không hay biết. Đây là những thí dụ.
1. Họ cản trở chính mình trong sự tăng trưởng. Nếu họ tưởng tượng rằng Đức
Chúa Trời đang nói “Hãy đến với ta” nhưng thật ra Ngài đang nói “Hãy nhơn danh
ta mà ra đi”, thì họ đang cản trở chính mình khỏi sự phát triển sức lực thuộc linh,
hoặc sự tăng trưởng tính độc lập đúng mức - ngoài sự thật rằng họ đạt được rất ít
cho mục tiêu mà họ tin rằng họ hết lòng với.
2. Bằng cách lây sang những người khác với hình thức ngoan đạo “nương trên
ngực Ngài”, họ có thể dễ dàng khích lệ những người này có xu hướng giữ thái độ
như trẻ con và lãnh tránh trách nhiệm.
3. Bằng cách cung cấp cho những nhà phê bình những ví dụ sống động về “sự trốn
tránh thực tại” họ có trách nhiệm đối với sự xuyên tạc đức tin chính thống, đức tin
này chống lại những người trưởng thành về tâm lý, những người này tự nhiên
không mong chấp nhận một Chúa Giê-xu uỷ mị.
4. Bằng cách “thoái lui khỏi nổi đau đớn về tinh thần” thay vì chiến đấu với nó, họ
cản trở những ẩn ý của sứ điệp Cơ Đốc khỏi đụng chạm đến toàn bộ đời sống và
hành vi của con người đang rất cần sự cứu chuộc. Oswald Chambers đã quá cố có
lần khẳng định rằng “Cơ Đốc nhân không có quyền ẩn núp trong Chúa Giê-xu bởi
chính suy nghĩ của họ gây khó khăn cho họ - Lời nói trên tổng kết khía cạnh này
của vấn đề rất rõ ràng.
Lời nhạo báng nhắm vào Hội Thánh đầu tiên cho rằng Cơ Đốc nhân hầu như đều
xuất thân từ những tầng lớp tội phạm hoặc nô lệ thấp kém. Câu trả lời cho những
sự thật trong sức ép đó này là những người nào biết mình là tội nhân, và những
người nào biết cuộc đời này khó khăn thế nào thì tự nhiên có thể đáp ứng lại Phúc
Âm, Nguồn đem lại cách giải quyết cho tội nhân và kẻ bị áp bức, hơn những người
nghĩ rằng họ “tốt lành” và được bảo vệ một cách thoải mái chống lại những điều
gây đau đớn của cuộc đời. Nhưng Cơ Đốc nhân không giữ nguyên tình trạng tội ác
sau khi cải đạo, và nhiều nô lệ yếu đuối đã trở nên những đầy tớ có năng lực và có
trách nhiệm.
Ngày nay lời buộc tội rằng sứ điệp của cơ Đốc giáo chỉ thu hút lớp người non trẻ
về tâm lý. Thậm chí nếu lời cáo buộc đó là đúng, thì câu trả lời cho nó sẽ là: những
người nào biết rằng mình ở tại những con số 6 và những con số 7 với chính họ,
chắc chắn đáp lại Phúc Âm mà đưa ra sự hoà nhập về tâm lý (trong số những điều
khác) hơn những người cảm thấy hoàn toàn có đủ năng lực và được thích nghi tốt.
Tuy nhiên một Cơ Đốc nhân thật không còn duy trì sự non nớt hoặc còn ở trong sự
tranh chiến nội tâm. Chỉ nếu khi anh ta bị “gắn chặt” với Chúa không thoả đáng
cho sự giải cứu thì anh ta bộc lộ đặc điểm thảm hại của một người quen thói dựa
nương nơi ngực.
VII. Đức Chúa Trời trong chiếc hộp
Một người mà bề ngoài được đưa vào tổ chức Cơ Đốc giáo, có thể có, và thường
có, sự kính trọng sâu sắc đối với Đức Chúa Trời, và sự tôn kính thật lòng nào đó
đối với Chúa Cứu Thế Giê-xu (dù có thể rất hiếm khi quan tâm đến Ngài và những
yêu cầu của Ngài bằng tâm trí trưởng thành của anh ta). Nhưng điều khó nói của
anh ta về Cơ Đốc giáo của các Hội Thánh không chỉ là sự khác nhau của họ trong
nhóm giáo phái, nhưng còn là tinh thần “đi nhà thờ”, tinh thần này có vẻ thâm nhập
họ hoàn toàn. Đối với người ấy, họ dường như đã chiếm được và đã thuần hoá và
giáo dục với sự liên kết của chính họ. Đó thật sự rất to lớn nhưng bị bó buộc trong
những cái hộp nhỏ bé do con người tạo ra với những cái nhãn gọn gàng dính trên
chúng. Người ấy có thể không bao giờ nghĩ đến việc nói thành lời những điều mình
nghĩ và cảm nhận.
Những Hội Thánh có vẻ đang nói với người này “Nếu anh nhảy qua vòng xiếc
hoặc dấu hiệu riêng của chúng tôi trên đường kẻ được chấm những điểm tròn đặc
biệt của chúng tôi thì chúng tôi sẽ giới thiệu Kinh Thánh cho anh. Nhưng nếu
không thì không có Đức Chúa Trời nào dành cho anh cả”. Điều này đối với anh ta
dường như là ý nghĩa ngớ ngẩn, và sự vô lý, ngạo mạn và làm khó chịu. “Nếu có
một Đức Chúa Trời toàn tại”, anh ta cảm thấy rất giận gữ, “thì Ngài ở đây trong
nhà và ở ngoài đường, ở đây trong quán rượu và ở hiệu sách. Và nếu quả thật Ngài
quan tâm đến tôi và muốn tôi yêu thương và hầu việc Ngài, thì Ngài sẵn có cho tôi,
và cho mọi người khác nư Tom, Dick, hay Harry những người cũng cần Ngài, mà
không có bất kỳ sự can thiệp nào từ những người chuyên môn. Nếu Chúa là Đức
Chúa Trời, Ngài sẽ vĩ đại, và rộng lượng và oai nghiêm, và tôi không thể nhận thấy
rằng bất kỳ ai có thể nói họ đã tạo ra một “góc” trong Ngài, hoặc nhốt Ngài trong
cái hộp riêng của họ”.
Dĩ nhiên, rất dễ dàng để vượt qua sự phòng vệ của các Hội Thánh, và lưu ý rằng
mọi nguyên nhân phải được đưa vào tổ chức nếu nó có hiệu quả, rằng mọi xã hội
phải có luật lệ của nó, rằng chính Chúa Cứu Thế đã lập nên Hội Thánh, vân
vân….Nhưng nếu các Hội Thánh tạo ấn tượng cho người ngoài rằng Đức Chúa trời
hầu như hoạt động cách riêng biệt qua một hệ thống tổ chức mà họ đã xây dựng
nên và tồi tệ hơn chẳng có hệ thống tổ chức nào khác mang nhãn hiệu của họ, thì
họ không thể ngạc nhiên nếu nhận thấy phiên bản của họ về Đức Chúa Trời bị hạn
chế, không thoả đáng và không chịu “gia nhập tổ chức hiệp nhất của họ”.
Chắc chắn có nhiều nguyên do cho tình trạng thái hoá của Cơ Đốc giáo trở thành
việc đến nhà thờ, và sự thu hẹp của Phúc Âm đối với toàn nhân loại thành một
nhóm niềm tin được ủng hộ, nhưng nguyên nhân chính phải là do sự thờ phượng
một chúa không thoả đáng, một chúa bị giới hạn và bị điều chỉnh, là “một người tốt
ở trong nhà thờ” theo từ ngữ của những người thờ phượng. Vì thái độ thật tiết lộ
cách chắc chắn đối tượng thật của sự thờ phượng của loài người.
Tất cả Cơ Đốc nhân, dù Hội Thánh của họ thế nào, dĩ nhiên sẽ bác bỏ ngay lập tức
quan điểm cho rằng chúa của họ là một siêu mẫu mực của giáo phái họ, và người ta
không cho rằng sự thờ phượng nói thẳng ra là bị. Tuy nhiên, dưới mức độ phê bình
có ý thức này về một tâm trí, ví dụ đối với người công giáo Anh quốc, họ hoàn
toàn có thể nghĩ về Đức Chúa Trời như được hài lòng đặc biệt đối với Công giáo
Anh quốc, đầy nghi ngờ về Tin Lành, và thẳng thắng làm bất mãn bởi tất cả - hình
thức của tín ngưỡng không theo quốc giáo. Người Công giáo La Mã, những người
khẳng định tích cực rằng lễ phong chức trong Hội Thánh Anh quốc là “không có
hiệu lực”, và không có “ân điển” nào có thể được nhận qua các lễ ban phước thuộc
giáo hội Anh, chỉ đang thờ phượng một chúa là một người Công giáo La Mã, và
hoạt động cách miễn cưỡng, nếu trong bất kỳ cách nào qua các nguồn thông tin
không thuộc La Mã. Mặc khác một người ở cấp thấp nhất trong nhà thờ phải công
nhận, nếu anh ta trung thực, rằng chúa mà anh ta thờ phượng phản đối mạnh mẽ
những lễ phục, khói hương và nhang đèn trên bàn thờ. Bi kịch của những ví dụ
này, điều có thể được mô phỏng đến mức độ thái quá bất cứ lúc nào, không phải là
sự khác biệt về quan điểm, mà có thể sẽ tồn tại với chúng ta cho đến ngày phán xét,
nhưng là tội lỗi về ý nghĩ điên rồ quá mức và đáng ghét vì cố xem Đức Chúa Trời
như một lãnh đạo của nhóm người theo một quan điểm đặc biệt.
Người biết suy nghĩ ở ngoài các Hội Thánh không bị tổn thương nhiều bởi những
sự khác nhau của các giáo phái. Đối với anh ta, trong sự hạnh phúc vì không biết gì
của anh ta, những sự khác nhau này chỉ là những biến đổi về tâm lý rất bình
thường của khí chất và sở thích của nhân loại được mô tả trong môi trường tôn
giáo. Điều mà anh ta không thể cam chịu là sự đòi hỏi khó thực hiện được lập ra
bởi mỗi người để được thành “một người đúng đắn”. Sự đoán phạt của anh ta chính
xác dựa trên cơ sở thực nghiệm - chẳng phải Cứu Chúa đã nói rằng “xem trái biết
cây” hay sao? Nếu anh ta phải nhận thấy rằng Hội Thánh, nơi khiến cho sự đòi hỏi
rõ nét nhất và đặc biệt nhất được tiếp tục và duy trì theo những quan điểm của
chính Chúa Toàn Năng, rõ ràng đang sản sinh ra một tính cách cơ Đốc tốt đẹp
nhất, rõ ràng đang kiểm soát sự ảnh hưởng Cơ Đốc cao nhất, và rõ ràng được đổ
đầy Thánh Linh sống động của Đức Chúa Trời nhất -có lẽ anh ta có thể tha thứ cho
sự đòi hỏi đặc biệt này. Nhưng anh ta không nhận thấy gì giống như vậy. Không có
giáo phái nào có sự độc quyền về “ân điển” của Đức Chúa Trời, và không có giáo
phái nào có một công thức đặc biệt cho sự sinh ra tính cách Cơ Đốc. Đối với người
qua tâm hời hợt thì rất đơn giản. Đức Chúa Trời thật không để ý bất cứ gì về những
chiếc hộp này. “Thánh Linh hà hơi ở nơi nào Thánh Linh được lắng nghe” và là
vấn đề đối với sự bất quy tắc của con người.
Hơn nữa, người quan sát biết suy nghĩ của chúng ta, người ở bên ngoài các Hội
Thánh, có nhiều ý tưởng về chính mình. Những khám phá về ngành khoa học về
vật lý và sinh vật thời hiện đại, về thiên văn học, và về tâm lý học, đã làm ảnh
hưởng sâu sắc khái niệm của anh ta về “độ lớn” của Đức Chúa Trời. Nế có một
người tài trí đằng sau những điều phức tạp bao la của các hiện tượng mà con người
có thể quan sát được, thì đó chính là Đấng đáng kính sợ trong quyền năng và sự
khôn ngoan của Ngài: chắc chắn không phải là một chúa nhỏ bé. Hoàn toàn có thể
tưởng tượng được Đấng này có một ý định tốt lành và ý định đó đang được thực
hiện trên hành tinh nhỏ bé này. Thậm chí có thể tin rằng Đức Chúa Trời này có chú
tâm hạ thấp chính Ngài trở nên hình xác của loài người để đến thế gian trong Thân
vị, như tất cả Cơ Đốc nhân khẳng định. Nhưng có một điều, mà sỉ nhục lý lẽ và
làm dao động sự hiểu biết, phải được nói rằng Đức Chúa Trời này chỉ vận hành nơi
nào có một nhóm các giám mục mạnh mẽ.
“Người ngoài” này, những người không biết gì về sự pha tạp của truyền thống, sự
kết án, sự khác nhau trung thực, và sự phật ý kín giấu, nằm đằng sau những sự
phân rẽ của Hội Thánh Cơ Đốc, nhận thấy rõ ràng ưu điểm của tiền tuyến Cơ Đốc
hợp nhất và không kể nhận biết tại sao các Hội Thánh không thể “hoà nhập với
nhau”. Vấn đề này chắc chắn rất phức tạp, vì có nhiều sự khác nhau trung thực
được ủng hộ với sự chân thành, nhưng nó chỉ làm cho không thể giải quyết được
bởi vì những giáo phái khác (có thể không ý thức) hình dung Đức Chúa Trời là
người La Mã hoặc thành viên giáo hội Anh, hoặc thành viên của giáo phái Tin
Lành hoặc người thuộc hội Giám lý hoặc tín đồ của Giáo hội trưởng lão hoặc là gì
đó mà ta biết. Nếu họ có thể thấy xa hơn một chúa không thỏa đáng của họ, và
thoáng thấy bản chất của Đức Chúa Trời, họ có thể thậm chí dở cười dở khóc. Kết
quả sẽ là một sự thống nhất mà thật sự làm nổi trội hơn những sự khác biệt thay vì
phớt lờ chúng với thái độ lịch sự ngoài mặt và sự khinh rẻ trong lòng.
VIII. Giám đốc quản lý
Có một khái niệm về Đức Chúa Trời mà dường như từ ấn tượng đầu tiên nó rất
diệu kỳ và vinh quang, nhưng khái niệm này chứng minh đủ nghịch lý về sự kiểm
tra một ý khác trong các ý kiến về sự “quá nhỏ bé”. Phải nghĩ rằng Đức Chúa Trời,
Đấng có trách nhiệm trên những sự mênh mông đáng kinh hãi của vũ trụ, không
thể nào quan tâm đến những cuộc đời những chấm nhỏ của ý thức con người tồn
tại trên hành tinh chẳng có ý nghĩa gì này.
Thậm chí có được những bước khởi đầu trong việc sự đánh giá sự vĩ đại của Đấng
quyền năng đang kiểm soát một hệ thống lạ thường mà khoa học đang tiết lộ cho
chúng ta là một kinh nghiệm đáng kinh ngạc nhưng có ích. Vì Đức Chúa Trời quá
vĩ đại và toàn bộ thiên cầu của sự sống chúng ta (chỉ xét trên một người duy nhất)
lại quá nhỏ bé so với Ngài, nên chúng ta có thể cảm giác rằng mình không thể nào
tưởng tượng được Ngài lại đang dành sự quan tâm rất chi tiết đến từng đời sống
của mỗi con người mà như những người nhân vật chủ chốt của Cơ Đốc giáo khẳng
định. Đối với họ, và số người này thường không ít, những người âm thầm mong
ước sự giải thoát khỏi trách nhiệm về đạo đức (và lý lẽ của những người này về tôn
giáo nhuộm đầy ước mong đó), điều này có thể là sự dễ chịu tuyệt vời - loại dễ
chịu mà những học sinh non có thể thấy được khi nhận ra trong một trường có
hàng ngàn đứa con trai thì tội lỗi nhỏ nhặt của nó chắc chắn không bị Thầy hiệu
trưởng để ý. Đối với những người khác, ý tưởng về sự tầm thường của họ có lẽ
đang làm thất vọng - họ không cảm thấy được tự do nhiều như được lang thang
theo gió.
Nhưng phản ứng của con người đối với ý niệm về “độ lớn” kinh khiếp của Đức
Chúa Trời dù thế nào đi nữa, thì điểm dáng chú ý là lời giải thích của họ “Tôi
không thể tưởng tượng một Đức Chúa Trời vĩ đại như vậy lại đang quan tâm đến
tôi” v.v..Anh ta “không thể tưởng tượng”, điều này có nghĩa đon giản rằng tâm trí
của anh ta không có khả năng ghi nhận những ý niệm về sự mênh mông đáng kinh
hãi và về sự quan tâm nhỏ nhặt đến từng chi tiết rất nhỏ cũng một lúc. Nhưng trong
mọi hoàn cảnh nó cho thấy rằng Đức Chúa Trời không thể đáp ứng cả 2 ý niệm (và
nhiều hơn nữa).
Đằng sau sự bất lực để tưởng tượng một Đức Chúa Trời như vậy là một ý lẽ vô
thức cổ xưa nhưng rất thường gặp về “các chúa không thoả đáng” - xu hướng xây
dựng lên một hình ảnh trong tâm trí về Đức Chúa Trời từ sự hiểu biết và kinh
nghiệm của chúng ta về con người. Ví dụ, chúng ta biết rằng nếu một người có
trách nhiệm trên 50 người khác, thì anh ta có thể dễ dàng làm cho mình nên quen
thuộc với gia cảnh, bản tánh, những khả năng và những nét cá biệt của từng người.
Nếu anh ta chịu trách nhiệm trên 500 người anh ta vẫn có thể dành sự quan tâm
riêng của từng người; nhưng đối với anh ta thì không thể nào biết và nhớ từng chi
tiết về từng cá nhân. Nếu anh ta có trách nhiệm trên 5000 người, nói chung anh ta
có thể làm người thông minh và tốt bụng, nhưng anh ta không thể nào biết chừng
ấy người một cách cá nhân, thật ra anh ta cũng không cố gắng để biết hết. Anh ta
càng ở địa vị cao, thì mối liên hệ cá nhân của anh ta càng ít. Bởi trong thế giới hiện
đại này, chúng ta đang có xu hướng ngày càng nhận thấy nhiều người được thêm
lên với con số rất lớn, vì những mục đích khác nhau, chúng ta buộc phải công nhận
ràng sự quan tâm cá nhân của “người có trách nhiệm” càng ít đi. Sự công nhận này
đã ngấm vào những đầu óc vô thức của chúng ta, và chúng ta thấy nó hầu như
khiến chúng ta nghĩ rằng Đấng Cao cả hơn hết chắc chắn quan tâm rất ít đến từng
cá nhân. Quả thật, nếu Ngài là Đấng vô lượng vô biên thì quan điểm về sự liên hệ
với từng cá nhân nhỏ bé trở nên rất buồn cười.
Nhưng chỉ khi chúng ta đang mô tả Đức Chúa Trời dựa trên điều mà chúng ta biết
về con người. Đó là lý do tại sao ở đây người ta tranh luận rằng điều mà từ ấn
tượng đầu tiên xuất hiện như một quan điểm rất thoả đáng về Đức Chúa Trời thật
ra là không thoả đáng - nó dựa vào một nền móng quá nhỏ bé. Con người có thể
được tạo dựng theo hình ảnh của Đức Chúa Trời; nhưng không thích đáng để nghĩ
Đức Chúa Trời không là gì hơn một người được phóng đại lên đến mức vô tận.
Ví dụ, có những người rất lo âu với suy nghĩ làm sao Đức Chúa Trời cùng một lúc
có thể nghe và nhậm những lời cầu nguyện và những ước vọng của loài người trên
khắp thế giới. Họ lo nghĩ như vậy bởi hình ảnh trong tâm trí họ luôn nghĩ đến một
người trực điện thoại tổng đài đang bận rộn đang trả lời những cuộc gọi ở một tổng
đài có kích thước siêu phàm nào đó. Nên nói thẳng rằng “Tôi không thể tưởng
tượng điều này có thể được thực hiện thế nào” (đây là sự thật theo nghĩa đen) tốt
hơn là từ bỏ một tâm trí chứa hình ảnh một con người được phóng đại lên đang
thực hiện những điều hầu như không thể thực hiện.
Tất cả những khái niệm có vẽ “kiêu kỳ” về sự vĩ đại của Đức Chúa Trời cần được
quan tâm cẩn thận kẻo e chúng chỉ trở thành những sự phóng đại các đặc tính nào
đó của con người, ví dụ như chúng ta có thể ngưỡng mộ kiểu tu thân ép xác áp đối
với đồ ăn, sự hấp dẫn của tính dục, và tiện nghi vật chất chẳng hạn. Nhưng nếu
trong sự hình thành một hình ảnh về sự thánh khiết của Đức Chúa Trời chúng ta
chỉ phóng đại tính chất tinh thần và thuyết khổ hạnh đến mức độ thứ n, chúng ta
buộc phả có một số kết luận đặc biệt. Như vậy, chúng ta có thể nhận thấy chính
mình đang sẵn sàng hình dung ra sự quan tâm của Đức Chúa Trời trên con trẻ (vì
chúng nó là những mẫu nhỏ bé của thiên đàng “không”?), nhưng không thể tưởng
tượng sự chấp thuận, chỉ để phát hoạ, những hành động dẫn đến khái niệm của họ!
Tương tự, dĩ nhiên rất tự nhiên và đúng đắn khi cho rằng sự thờ phượng mà chúng
ta dâng lên cho Đức Chúa Trời nơi công cộng phải thuộc đặc tính có thể được chấp
nhận cao nhất. Những điều đó chắc chắn không làm chúng ta nghĩ đến một Chúa
của “chương trình thứ III” êm dịu, Đấng thích chương trình biểu diễn xuất sắc, của
một ban hợp xướng chuyên nghiệp bất chấp đạo lý hơn sự la hét lộn xộn của những
tấm lòng chân thành nhưng không được tập luyện. Giữ khái niệm cho rằng Đức
Chúa Trời chỉ như một con người được phóng đại là có nguy cơ nghĩ Ngài chỉ như
một tổng chỉ huy, người không thể có thờ gian quan tâm chi tiết đến đời sống của
tất cả thuộc hạ mình. Tuy nhiên có một Chúa vượt quá mức của nhân cách và quá
xa cách với bối cảnh của con người, mà trong đó chúng ta chỉ có thể đánh giá đúng
“những giá trị”, tức có một Chúa, Đấng chỉ là một nhóm các phẩm chất hoàn hảo,
điều này có nghĩa là một quan niệm và không còn gì hơn. Chúng ta cần một Đức
Chúa Trời có quyền hạn nắm giữ, cũng như phán truyền, cùng một lúc trong Ngài
có cả sự To Lớn và sự Nhỏ Bé. Điều này là khái niệm thật và thoả đáng về Đức
Chúa Trời được mặc khải bởi Chúa Cứu Thế Giê-xu. Cơ Đốc giáo tin điều này và
chúng ta sẽ nghiên cứu nó nhiều hơn ở một chương sau.
IX. Một Đức Chúa Trời gián tiếp
Bình thường hầu hết con người đều có một tầm nhìn giới hạn nào đó về cuộc sống,
và đối với phạm vi lớn hơn rất nhiều so với điều họ hiểu, họ dựa vào kinh nghiệm
gián tiếp về cuộc sống được tìm thấy trong sách, phim ảnh và kịch nghệ. Chẳng
hạn, rất ít người trong chúng ta biết rõ hoặc thân thiết một thám tử, một nhà tạo
mẫu thời trang, một chủ nhân gánh xiếc, một võ sĩ quyền anh, hay một bác sĩ
chuyên khoa Harley Street. Nhưng một tác giả khéo léo có thể làm cho chúng ta
cảm thấy rằng mình như đã biết rất rõ chính tấm lòng và cuộc đời của những người
này, và nhiều người khác nữa. Hầu như không chút nghi ngờ thắc mắc chúng ta
thêm những điều chúng ta đã đọc và xen vào trong tổng số cuối cùng của cái mà
chúng ta gọi là “kinh nghiệm” của mình. Tiến trình này gần như tự động hoàn toàn
và có thể hầu hết chúng ta đều vô cùng sửng sốt nếu bất ngờ chúng ta biết được tỉ
lệ của “kiến thức về thế giới” mà chúng ta tích luỹ được do sự quan sát và kinh
nghiệm trực tiếp rất nhỏ bé thế nào.
Ý nghĩa của kiến thức gián tiếp về cuộc sống đối với vấn đề chúng ta quan tâm là:
khái niệm về bản tánh của Đức Chúa Trời hình thành dần trong tâm trí chúng ta
phần lớn được tạo nên bởi những kết luận mà chúng ta rút ra được từ “những thần
hựu” và “những sự đoán phạt” trong cuộc đời chủ yếu trong cách Ngài hiện ra để
xử lý (hoặc không xử lý) những vật thọ tạo của Ngài. Vì vậy nếu kiến thức về cuộ
csống của chúng ta (rất có thể là một ẩn số đối với chúng ta) sai lầm, thiên vị hoặc
uỷ mị, chúng ta rất có thể tìm thấy cho một mình một chúa gián tiếp, chúa này rất
khác với Chúa thật.
Có ba con đường chính trong đó tiểu thuyết (chúng ta có thể kể đến sách, phim ảnh
và kịch nghệ) có thể là chúng ta lầm đường lạc lối và kết quả là làm ảnh hưởng sâu
sắc đến quan điểm mà chúng ta vô tình nghĩ về Đức Chúa Trời và sự vận hành của
Ngài trong cuộc sống nhân loại.
1. Sự ngấm ngầm lờ đi Đức Chúa Trời và tất cả những vấn đề về tôn giáo.
Rất nhiều sách tiểu thuyết mô tả cuộc sống như thể chẳng có một Đức Chúa Trời
nào, và con người không có bất cứ một tôn giáo nào trong nhân cách của họ. Ví dụ
chúng ta có thể bắt gặp trong tiểu thuyết những người làm chúng ta say mê họ biểu
lộ những phẩm chất làm chúng ta thích thú nhất như vượt qua được những khó
khăn không thể tin được bằng một lòng can đảm làm xúc động lòng người, làm
những người hy sinh anh dũng nhất và dành được hạnh phúc và sự yên bình vô
cùng - tất cả đều không có ý ám chỉ nhỏ nhất nào về Đức Chúa trời. Độc giả hầu
như buộc phải suy nghĩ rằng tất cả sự quan trọng hoá mà Cơ Đốc giáo tạo ra về “sự
tìm kiếm sức mạnh của Đức Chúa Trời” v.v.. là chẳng có gì đáng quan tâm cả.
Trái lại, chúng ta rất ít đọc về những nhân vật xấu xa, những người chẳng bao giờ
đau khổ bởi sự cắn rứt của lương tâm vì lòng tham lam, độc ác, ti tiện hoặc ngạo
mạn. Dường như không có một sức mạnh thuộc linh đang vận hành nào lưu ý đến
họ, ở những thời điểm dễ bị nguy hiểm, một cách sống tốt hơn, và sự ăn năn là
điều không thể tưởng. Độc giả có thể lại vô tình kết luận rằng Đức Chúa Trời
không có ảnh hưởng gì đến những nhân vật “xấu xa”.
Con đường vòng này, để cẩn thận tránh né Đức Chúa Trời và khiá cạnh tôn giáo,
có lẽ không là đặc tính của tiểu thuyết hay nhất, nhưng nó rất thường thấy. Đặc biệt
trong phim ảnh, trừ một vài ngoại lệ đáng chú ý, “thần hựu” là chủ đề đối với hầu
hết những tập quán vững chắc. Những tập quán này bao gồm hệ thống các qui tắt
đạo đức “có vay mà không trả” rất được mong muốn trong xã hội, và một kết cuộc
có hậu chắc chắn sẽ xảy ra. Nhưng bất kỳ sự giống nhau giữa thần hữu trên phim
ảnh và những hành động thật của Đức Chúa Trời trong những biến cố của loài
người chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên.
Trong cuộc sống thật, như bất cứ mục sư xứng đáng nào cũng biết rõ, con người
bình thường đôi lúc cũng quan tâm đến Đức Chúa Trời và những vấn đề thuộc linh.
Kẻ gian ác, và thậm chí những người không có suy nghĩ, đôi khi cũng bị lương tâm
họ đánh động. Hơn nữa những sự căng thẳng và khủng hoảng, tức hơi thở của cuộc
đời đối với các tác giả tiểu thuyết, chính là những điều thường ngấm ngầm gợi lên
ý nghĩa về tôn giáo và tâm linh. Chính hiện tượng đặc biệt này mà các tác giả thời
hiện đại, tôi không biết tại sao họ lại hơi dè dặt với nó và đôi lúc hầu như phân tích
thiếu lành mạnh những hành động của các nhân vật họ viết ra phải thường dùng
con đường vòng đó để đi tránh qua toàn bộ phạm vi của những mối tương quan
giữa loài người với Đức Chúa Trời của họ.
2. Sự xuyên tạc có chủ ý về tôn giáo.
Dĩ nhiên có thể tranh luận rằng tuyên truyền Cơ Đốc giáo không thuộc bổn phận
của một tác giả viết tiểu thuyết - và điều đó hoàn toàn đúng. Nhưng gây ấn tượng
cho người khác rằng Cơ Đốc giáo và Hội Thánh không hơn gì một vấn đề để người
ta nhạo báng cũng không thuộc công việc của họ. Dĩ nhiên rất thích thú đối với họ
- họ có thể đang loại bỏ lòng hận thù thời trẻ con với một người dì theo Tin Lành -
khi mô tả các tu sĩ như một diễn viên hài, người có niềm tin mù quáng, hoặc thiếu
hiểu biết về cuộc đời như một đứa trẻ, và Cơ Đốc nhân như những người giả hình
kiêu ngạo. Thậm chí họ cảm thấy rằng giá trị kịch nghệ trong một chủ toạ chi hội
(giáo hội Anh), một người chuyên chế trong gia đình, hoặc trong một chấp sự theo
quốc giáo, người có ác tâm ngấm ngầm, nhiều hơn trong các bài báo đích thực.
Nhưng họ không công bằng, cũng không thực hiện công bằng đối với những sự
kiện có thật trong cuộc sống, thậm chí dù bài viết của họ có thể đem lại sự thích
thú cao độ cho độc giả, những người quá sẵn sàng để tiếp nhận sự tán đồng trong
cảm giác của chính họ rằng “dù sao tôn giáo đều là sự mục nát”.
Một lần nữa sẽ không công bằng khi nhắm lời chỉ trích này vào một tiểu thuyết hay
nhất, nhưng nó rất thường gặp trong mẫu phổ biến, và dần dần chắc chắn nó ảnh
hưởng đến khái niệm và tôn giáo và về Đức Chúa Trời trong tâm trí của nhiều độc
giả.
3. Sự vận hành của thần hựu.
Một tác giả viết tiểu thuyết (và điều này không là cái ít nhất trong số những sự thu
hút của nguồn tác giả) ở địa vị của một vị chủ đối với các tác phẩm sáng tạo của
chính mình. Ông ta có thể thúc đẩy trình diện những điều kỳ diệu của ông trong
cách bí ẩn, hoặc tàn bạo, hoặc không công bằng, và không ai có thể nói gì ông ta
và còn hơn thế nữa. Nếu ông ta hành động khéo léo (chẳng hạn như Thomas Haray
đã làm) ông ta có thể đầu độc mạnh mẽ độc giả của ông với nhận thức về Định
mệnh bởn cợt một cách cay đắng thay vì nhận thức về Đức Chúa Trời. Ông có thể
truyền đạt nổi thống khổ bằng thao tác đơn giản nhất trong các thao tác, bởi ông
chính là thần hựu, nhưng ông ta không cung cấp bất kỳ bằng chứng nào về những
quá trình vận hành của sự sống thực bằng cách ấy.
Toàn bộ bi kịch của vua Lear có thể nói là phụ thuộc vào sự điều khiển của
Shakespear qua nhân vật Cordilia. Bởi nàng không thể nhận thấy (dù mọi nữ sinh
ngồi tận cùng hàng cuối của rạp hát đều có thể thấy) hậu quả có thể xảy ra của
“chuyện tầm thường” đần độn của nàng… bi kịch này bị công kích. Nhưng sẽ sai
lầm sâu sắc khi khước từ những thảm hoạ được sắp sếp của tác giả vị đại nhất về bi
kịch này với những tình huống và nhân tố phức tạp có trong những nỗi khổ đau của
đời sống thực sự.
Những kết luận như đối với bản chất của sự sống và Đức Chúa Trời có thể chỉ
được suy ra từ bằng chứng của tiểu thuyết do con người tạo ra trong rất ít trường
hợp. Vậy nên chúng ta cần phải thường xuyên cảnh giác đối với “chúa gián tiếp”
này - một chúa mà sự hấp thụ liên tục những quan điểm tiểu thuyết nuôi dưỡng
trong tiềm thức của chúng ta. Một mảnh nhỏ của cuộc đời thật, được quan sát trực
tiếp cho thấy những nền móng tốt cho những kết luận của chúng ta hơn toàn bộ thế
giới thần tiên của tiểu thuyết cho thấy.
X. Lời ca thán triền miên.
Đối với một vài người hình ảnh trong tâm trí họ về Đức Chúa Trời là một loại mập
mờ của sự thất vọng, họ nói cách phẫn nộ và thường tỏ ra tự thương hại mình.
“Đây là Dấng tôi tin nhưng Ngài làm tôi chán nản”. Cuộc đời còn lại của họ
thường bị che bóng bởi sự chán ngán này. Từ đó có thể không có đề cập nào về
Đức Chúa Trời, Hội Thánh, tôn giáo, hoặc ngay đến vị linh mục mà không bắt đầu
toàn bộ quá trình liên kết này với kết luận buồn thảm của nó. Đức Chúa Trời là
một sự thất vọng.
Dĩ nhiên một vài người khá thích thú sự than vãn triền miên này. Năm tháng không
làm mờ đi chút nào những chi tiết bi thảm của lời cầu xin không được đáp ứng hay
thảm hoạ không xứng đáng. Nhớ lại sự không thành tín của Đức Chúa Trời dường
như đem lại cho họ sự hài lòng đáng ghê tởm giống như sự hài lòng mà những
người khác tìm thấy khi đếm lại những chi tiết rùng rợn trong “hoạt động” của họ.
Dĩ nhiên những người khác thấy rằng một Đức Chúa Trời, Đấng đã thất bại là lời
bào chữa dễ chấp nhận nhất cho những ai không muốn quan tâm đến bất kỳ nỗ lực
hoặc trách nhiệm nào về đạo đức. Mọi gợi ý về sự vâng phục hay đi theo Đức
Chúa Trời có thể bị chống đối nhiều hơn bởi cái nhìn khác của sự than vãn triền
miên này.
Dĩ nhiên một chúa như vậy quả rất không thoả đáng. Đối với những ai tự thuyết
phục mình rằng Đức Chúa Trời đã thất bại, thì không thể thờ phượng và hầu việc
Ngài được trong bất kỳ tinh thần nào ngoại trừ tinh thần miễn cưỡng và chiếu lệ.
Điều thường xảy ra cho những người này là họ đã thiết lập trong tâm trí mình
những điều mà theo họ Đức Chúa Trời phải làm và không nên làm, và khi Ngài có
vẽ không đi theo mệnh lệnh đặc biệt của họ thì họ bắt đầu ca thán bất bình. Tuy
nhiên chắc chắn sáng suốt hơn và phù hợp hơn cho loài người chúng ta khi tìm ra,
đến chừng mức chúng ta có thể, những con đường mà trong đó Đức Chúa Trời
hoạt động. Chúng ta phải phát hiện như chúng ta có thể, những giới hạn mà Ngài
đã đặt ra cho chính Ngài vì những mục đích của cuộc thí nghiệm vĩ đại mà chúng
ta gọi là sự sống, và sau đó hãy làm hết sức để liên kết chính mình với những
nguyên tắc đạo đức và hợp tác với những mục đích mà chúng ta chắc chắn không
có quyền quyết định, nhưng tuy vậy trong thời điểm cao nhất của chúng ta chúng ta
biết những mục đích ấy là đúng đắn. Đức Chúa Trời chắc chắn sẽ xuất hiện để làm
nản lòng những ai đang nỗ lực lợi dụng Ngài như một sự tiện dụng, một chỗ dựa,
hoặc một nguồn an ủi cho những hoạch định của riêng họ. Đức Chúa Trời chẳng
bao giờ làm nản lòng những ai chân thành mong muốn hợp sức với mục đích của
chính Ngài.
Chắc chắn người ta tự do công nhận rằng trong thế giới dùng để thử nghiệm này,
thế giới mà Đức Chúa Trời đã ban cho đặc quyền tự quyết định, không thể không
có “bệnh tật và tai nạn”. Hơn nữa, ảnh hưởng tích tụ qua nhiều thế kỷ bởi sự chọn
lựa của hàng triệu người nhằm làm vừa lòng chính họ hơn vừa lòng Đấng đã thiết
kế ra “toàn bộ màn trình diễn này” đã tiêm nhiễm toàn hành dinh này. Đây là điều
mà các nhà thần học muốn nói khi họ gọi hành tinh này là một thế gian “đầy tội
lỗi”. Rất tự nhiên điều này có nghĩa rằng ở chừng mực mà thế gian này chịu ảnh
hưởng, những người thô bạo, vô tình và ích kỷ sẽ thường xuyên thoát khỏi nó
nhưng người yếu đuối và uỷ mị thường phải gánh chịu. Một khi chúng ta chấp
nhận những khả năng của quyền tự định đoạt này, chúng ta có thể nhận thấy rằng
những sự bất công và những lời kêu ca phàn nàn là điều không thể tránh khỏi (như
Đấng Christ có lần đã nói “nó chắc là những nhu cầu mà tội lỗi xuất hiện”) chúng
ta có lẽ không tán thành sự mạo hiểm mà Đức Chúa Trời đã chọn khi trao cho loài
người quyền tự do chọn lựa - chúng ta chắc hẳn còn thích Đức Chúa Trời tạo ra
một chủng loại người máy lúc nào cũng tốt đẹp vui vẽ và nhơn lành hơn. Nhưng
đây hoàn toàn không là vấn đề. Đức Chúa trời đã có thể làm gì, nhưng là vấn đề
Ngài đã làm gì. Chúng ta phải chấp nhận cách các sự việc đang diễn ra như hiện
nay, và nếu chúng ta phải trách cứ ai đó thì chắc chắn công bằng hơn chúng ta nên
trách Con Người, họ đã lựa chọn sai và tạo ra một thế giới lệch lạc.
Người nào cảm thấy Đức Chúa Trời là sự thất vọng tức họ không hiểu những điều
kiện để chúng ta dựa vào nó để sống trong hành tinh này. Họ luôn muốn có một thế
giới mà trong dó cái tốt được ban thưởng và cái xấu bị trừng trị - như trong một
nhà trẻ được quán lý tốt. Họ muốn nhìn thấy người tốt luôn luôn được thịnh vượng
và kẻ xấuu luôn luôn chịu đau khổ. Dĩ nhiên không có gì sai trái với nhận thức của
họ về sự công bình. Nhưng họ hiểu lầm những điều kiện của cuộc sống tạm hiện
tại này cuộc sống mà Đức Chúa Trời đã rút cánh tay Ngài khơi nó, có thể nói rằng
để tạo cơ hội cho kế hoạch của Ngài về quyền tự quyết định đều tìm ra lời giải cho
nó. Sự công bình sẽ được xác minh đầy đủ khi bức màn hạ xuống trên sân khấu,
đèn nhà hát bật sáng và chúng ta bước ra thế giới thật bên ngoài.
Sẽ luôn có những lúc chúng ta chỉ thấy cây mà không thấy rừng (không hiểu được
chủ đề chính) với tầm nhìn giới hạn hiện nay của chúng ta. Sự bất công và bi kịch
vu vơ đôi lúc nằm ngoài sự kiểm soát và tầm hiểu biết của chúng ta. Dĩ nhiên
chúng ta có thể mặc nhiên công nhận một Đức Chúa Trời trong trí tưởng tượng,
Ngài không có giác quan, tình yêu và sự công bình tốt đẹp bằng chúng ta có cho
mình, và chúng ta có thể tìm thấy sự hài lòng tai ác khi trách cứ Ngài. Nhưng con
đường đó không dẫn đến đâu. Bạn không thể thờ phượng một Đấng làm người ta
thất vọng.
XI. Người Ga-li-lê yếu đuối.
Nếu họ hoàn toàn chân thành, nhiều người sẽ phải công nhận rằng Đức Chúa Trời
đối với họ hầu như là một sức mạnh hoàn toàn tiêu cực trong cuộc sống họ. Không
chỉ Ngài luôn gợi lên “trong chúng ta một tiếng nói nhỏ nhẹ để kiểm soát từng lỗi
lầm”, nhưng còn toàn bộ bản tánh của Ngài dường như khước từ, gây trở ngại và
ức chế bản thân họ. Mặc dù những người như vậy chẳng bao giờ công nhận điều
này, họ đang sống và công nhận những lời cay đắng của Simburne.
Ngài đã không thắng kẻ thù, ôi người Ga-li-lê yếu đuối.
Thế gian này càng u ám bởi hơi thở Ngài
So sánh với những người không phải Cơ Đốc nhân đương thời của họ thì đời sống
họ có vẻ ít sức sống và màu sắc, ít tính tự phát và ít tự tin hơn. Thần của họ bao
xung quanh họ với những điều ngăn cấm, nhưng lại không ban cho họ sinh lực và
lòng can đảm. Có lẽ họ sống dưới bóng của tay thần ấy nhưng nó làm cho họ nên
còi cọc, nhợt nhạt và yếu đuối. Mặc dầu tư tưởng này có vẽ bất kính đối với những
người tôn sùng thần này, một chúa như vậy rất tai hại cho đời sống nhân loại, và
không ai ngạc nhiên khi Chúa ấy không thu hút được lòng trung thành của những
người có tâm hồn và tính độc lập, và có niềm vui thích say mê cuộc sống phong
phú và đầu màu sắc này.
Những từ được viết ra ở trên là sự phơi bày rõ ràng về một thần giả, nhưng dĩ
nhiên những người thờ phượng bất hạnh không bao giờ nhận thấy sự gò bó của họ
rõ ràng như thế họ sẽ trốn thoát khỏi cảnh ấy. Họ bị kết buộc với Chúa tiêu cực của
họ bởi sự nuôi dạy, bởi những truyền thống của Hội Thánh hoặc một đảng phái,
bởi sự điều khiển của những câu Kinh Thánh độc lập nào đó ho8ạc bởi một lương
tâm bệnh hoạn. Cuối cùng họ thật sự cảm nhận ràng bản thân họ là sai, tự do là sai,
thích cái đẹp là sai, mở mang, phát triển là sai. Nếu không có sự chấp thuận của
chúa họ thì họ không thể làm điều gì. Thảm hoạ sẽ luôn luôn đem họ đến gần địa
ngục không sớm thì muộn, nếu họ dám đi xa hơn những giới hạn của “hoạch định
của chúa ấy dành cho họ”.
Một cách tự nhiên những người như vậy chỉ có thể giữ lòng trung thành hạn hẹp
của họ bằng những nỗ lực hết mình. Họ không có cơ hội để tôn trọng, yêu thương
và thờ phượng Đấng vinh quang, đẹp đẽ và đáng yêu. May mắn lắm họ chỉ có thể
yêu thương và thờ phượng bởi chúa của họ là một chúa ghen tuông, và họ phải
theo ý muốn và lời răn dạy của ngài. Đời sống họ quá gò bó, chật hẹp và buồn rầu,
bởi chúa của họ cũng giống như vậy. Chắc chắn có những sự đền bù trong sự thờ
phượng vì chúa này, và những sự đền bù này thường là:
1. Niềm tin rằng niềm vui và sự tự do của những người không tán thành sự thờ
phượng chúa tiêu cực này, chỉ là một ảo tưởng. Nhưng người thờ lạy chúa tiêu cực
thường thể hiện chính mình bằng cách hình dung và giải thích chi tiết những căng
thẳng và những xung đột nội tâm của những ai không biết chúa của họ. Thật ra,
những người có vẻ xét đoán rất đúng đắn khi cảm thấy ưa thích những căng thẳng
và xung đột của đời sống bình thường hơn sự căng thẳng triền miên và không thể
chịu đựng được khi thờ phượng một chúa luôn làm nghèo nàn đi sức sống và màu
sắc của cuộc sống.
2. Có một niềm thích thú từ sự đau khổ về tinh thần nào đó khi bị giằng xé bởi sức
mạnh tàn phá của một thần tiêu cực. Điều này hoàn toàn xuất hiện trong một bài
thánh ca vẫn còn được hát trong những nhóm nào đó
Ôi tôi muốn mình không là gì,
Chỉ may nằm dưới chân Ngài
Như chiếc bình không và vỡ nát
Toàn quyền Ngài sử dụng.
Dĩ nhiên ý nghĩa hài hước này bị ngăn chặn bởi chúa tiêu cực ấy, hoặc những
người tôn thờ chúa này bị buộc phải nhận thấy sự vô lý với ước muốn của người
nào đó lại muốn mình “không là gì”, là “một chiếc bình vỡ nát” và “trống không”
nằm dưới chân Đức Chúa Trời! Vẫn còn tốt hơn, vì rất vô ích khi nghiên cứu Tân
Ước (một sách tràn ngập sự tự do, niềm vui, lòng can đảm và sức sống trong đó) để
tìm ra bất kỳ sự chứng thực nào về câu thơ thật sự gây sửng sốt ở trên và khái niệm
về Đức Chúa Trời… Nếu có một sách nào dạy dỗ loài người phải là “một điều gì
đó để đứng vững và chiến đấu, phải tràn đầy sự vui mừng, lòng can đảm táo bạo và
đầy sức sống hơn trước đây khi họ không có Đức Chúa Trời thì quyển sách đó là
sách Tân Ước!
3. Quan niệm đem đến nguồn an ủi về tình trạng được làm “một điều gì đó đặc
biệt”. Những người tôn thờ vị chúa tiêu cực thường làm chính họ dễ chịu bởi cảm
giác rằng điều gì đó tốt cho “thế gian này” thì không đủ tốt cho họ những người
được tuyển chọn, những người độc nhất. Thậm chí điều này có nghĩa là một cuộc
sống được vạch trần những vẽ đẹp của nghệ thuật của những niềm vui và sự giải trí
bình thường, một cuộc sống bị hạn chế trong tất cả những ý nghĩa mô tả thông
thường - đó là một giá ít ỏi để phải trả để được làm người biệt lập, những người
độc nhất vô nhị.
Quan niệm đáng khinh về tình trạng được làm “một điều gì đó đặc biệt” này được
nối kết với sự tuyệt vọng, để chúng ta nhận thấy những người thờ lạy chúa tiêu cực
ấy luôn buộc chặt mình vào những luật lệ của họ về “sự riêng biệt”; chúa tiêu cực
của họ là đấng biết rõ tấm lòng sâu kín của họ, những tấm lòng mà cuộc sống họ
thật sự không thể tỏ bày bất kỳ những phẩm chất tốt đẹp nào đối với những người
bạn “trần tục” và những bạn hữu “Cơ Đốc trần tục” - để ít nhất họ có thể cảm nhận
rằng họ được chọn như những người được yêu thương đặc biệt của thần họ thờ lạy!
Tất cả điều này không dễ chịu và không thu hút sự quan tâm, nhưng nó rất thường
gặp trong vòng những người sùng đạo. Vấn đề dành cho họ là: họ có dám công
khai chống lại hoặc từ bỏ chúa trong tưởng tượng này với sự bất bình luôn luôn và
tìm kiếm một Chúa là Đấng tích cực, Đấng ban sự sống, lòng can đảm và sự vui
mừng, và luôn mong các con cái Ngài đứng vững trên đôi chân của chính họ?
XII. Hình ảnh phản chiếu.
Một cái máy chiếu phim chiếu lên màn ảnh một hình ảnh lớn từ một bức ảnh có
kích thước nhỏ bằng một con tem thể nào, thì tâm trí của con người cũng có xu
hướng “chiếu” lên người khác những tư tưởng và tình cảm thật sự tồn tại trong nó
thể ấy. Ví dụ một người phạm tội sẽ chiếu trên người khác sự nghi ngờ và sự chê
trách, thậm chí họ hoàn toàn không biết tội lỗi của anh ta là gì. Dĩ nhiên đây là hiện
tượng tâm lý bình thường.
Chúng ta có khuynh hướng làm điều giống vậy trong khái niệm của tâm trí chúng
ta nghĩ về Đức Chúa Trời (như đã được lưu ý có một số người nói rằng toàn bộ
quan niệm về Đức Chúa Trời chỉ là một “sự phản chiếu” trong cuộc sống của
người trưởng thành với ước muốn như con trẻ là mong được sự bảo vệ của cha,
nhưng điều này chúng ta không thể chấp nhận vì những lý do ở trên). Một xã hội
khắt khe về đạo đức sẽ phản chiếu những phẩm chất thống trị và có thể chấp nhận
cách mặc nhiên một chúa nghiêm khắc và khắt khe về đạo đức. Một xã hội không
nghiêm và dễ chịu có thể sẽ sinh ra một thần với nhiều quyền năng tốt lành như
ông già Noen vậy.
Khuynh hướng tương tự có thể quan sát được trong những trường hợp riêng, chúng
ta được lưu ý trong phần “Đức Chúa Trời trong chiếc hộp” về một loại người nhiệt
tình trong giáo hội có xu hướng sinh ra một chúa của nhóm người chăn đi nhà thờ
như thế nào. Nhưng dĩ nhiên chiều hướng ấy đi xa hơn điều này và luôn có một
mối nguy hiểm đe doạ khi hình dung một chúa có những phẩm chất đạo đức giống
như những phẩm chất của chúng ta, dĩ nhiên được phóng đại và được thanh tẩy, và
với những dấu vết mù quáng giống như vậy. Bằng cách này chúa mà chúng ta hình
dung có thể nhất quyết chống lại sự say sưa. Mặc dù nó không cám dỗ chúng ta,
những là một thói xấu làm đầu lòng chúng ta với sự căm hờn phẫn nộ, có thể nhắm
mắt làm ngơ với những cách thức kinh doanh của chúng ta bởi Ngàicũng cảm thấy
như chúng ta rằng “công việc là công việc”.
Hiển nhiên, nếu khái niệm của Đức Chúa Trời không là điều gì đó cao hơn sự
phóng đại nhưng phẩm chất tốt đẹp của chúng ta, thì sự hầu việc và thờ phượng
của chúng ta sẽ không khác gì sự hầu việc và thờ phượng chính mình. Một chúa
như vậy có thể là chỗ dựa cho lòng tự trọng của chúng ta nhưng đương nhiên
không có khả năng giúp chúng ta có được một chiến thắng về đạo đức và chúa này
sẽ được tìm thấy trong thời gian hoạn nạn khó khăn nhất để rồi biến mất một cách
khó hiểu.
Hơn nữa, chúng ta được tạo dựng nên không phải để chúng ta có thể thật sự hài
lòng với sự phản chiếu nhỏ nhất. Thậm chí Nareissus đôi lúc chắc cũng phát mệt
với việc công nhận hình phản chiếu của chính ông! Trong việc chọn bạn hoặc một
người bạn đời, người ta thương chọn người nào đó rất khác biệt với mình, điều này
đủ để cho thấy rằng họ không chỉ mong tìm kiếm một bản sao của những tính cách
của chính mình. Nếu chúng ta bị xúc động trước sự thờ phượng thật và được thúc
đẩy dâng chính mình, thì chắc chắn bởi một điều gì đó không chỉ cao hơn vô cùng
mà còn bởi một điều gì đó “khác” hơn chính bản thân chúng ta.
Để đáp ứng cho yêu cầu này Cơ Đốc nhân chúng ta sẽ cân nhắc sau, và chúng ta sẽ
không làm gì hơn là lưu ý rằng một chúa này, đấng hoàn toàn, hoặc thậm chí một
phần, chỉ là sự phản chiếu của chính chúng ta, rất không thoả đáng cho những nhu
cầu của cuộc sống và không bao giờ có thể làm thức tỉnh trong chúng ta sự thờ
phượng và hầu việc thực. Thật vậy chúa này thật sự nguy hiểm như một vũng nước
kẻ nghèo cuối cùng trở thành Nareisus.
XIII. Hỗn hợp
Ý nói ở trên có khoảng hàng tá, nó không làm suy biệt những chúa nhỏ bé tràn
ngập tâm trí con người. Để mô tả đầy đủ tất cả phải tốn rất nhiều giấy bút, nhưng
chỉ mô tả ngắn gọn vài vị này cũng đủ bộc lộ rõ hơn sự giả tạo của họ.
Chúa trong lúc khẩn cấp
Nếu có một điều nên được làm rõ ràng cho những ai tiếp nhận sự khải thị của Đức
Chúa trời trong thiên nhiên và Kinh Thánh thì điều đó là Ngài không bao giờ vội
vã. Sự chuẩn bị lâu dài, hoạch định cẩn thận và tiến triển từ từ, có thể xem là
những đặc tính hàng đầu của một đời sống thuộc linh. Tuy nhiên có nhiều người có
tốc độ tín ngưỡng cuồng nhiệt. Với sự xao lãng ngữ cách của nó họ phát triển
nguyên văn đó như một biểu ngữ. “Việc Vua cần khẩn cấp” và tiếp tục dồn ép
chính họ và những người theo họ như muốn điên lên với những căng thẳng và lo
lắng! Những người ủng hộ nhiệt tình cho sự truyền giáo ra nước ngoài kêu gào
“Hãy xem từng phút trôi qua, hàng ngàn linh hồn ngoại đạo bước vào cái chết mà
không có Cứu Chúa”. Hãy truyền bá Phúc Âm đến cùng trái đất trong thế hệ này!
Chúa cho tầng lớn người ưu tú trong xã hội
Chính bản tính của nhân loại đã tạo nên và tôn kính một “tầng lớp có độc quyền
độc lợi”, và một số Cơ Đốc nhân thời hiện đại xem những người mạc khải thần
linh bằng cách này hay cách khác như một người khá hơn những bạn bè họ về
thuộc linh. Những hình thức bình thường của sự thờ phượng và cầu nguyện có thể
đáp ứng đủ cho những người bình thường, nhưng đối với những người có sự hiểu
biết trực tiếp về Đức Chúa Trời, thì theo nghĩa đen anh ta ở trong một tầng lớp bởi
chính Ngài. Bạn không thể mong gặp được một người tham dự lễ cầu kinh buổi tối
trong nhà thờ giáo xứ của anh ta khi có những sư hiện thấy chờ đợi anh ta trong
việc học!
Tân Ước không tán thành cái nhìn tâng bốc này của những người có ân tứ về sự
hiện thấy huyền bí. Nó luôn đích thực và thực tiễn. Chính bởi kết quả của họ mà
con người sẽ biết được Đức Chúa Trời không phân biệt ai: tôn giáo thật được mô
tả, bằng những điều bình thường như vậy, như sự viếng thăm những người gặp khó
khăn và sự kiên tâm giữ đức tin dù những hoàn cảnh bên ngoài có tác động thế
nào. Dĩ nhiên Tân Ứơc không xem việc có khải tượng về Đức Chúa Trời là một
điều làm hại cho con người, nhưng có một sự đòi hỏi lành mạnh trên khải tượng
như vậy đó là chúng phải được tỏ ra trong tình yêu thương và sự phục vụ.
Ít nhất những người chấp nhận lời xưnglà Đức Chúa Trời của Đấng Christ nên chú
ý rằng Ngài không khớp với hình ảnh của Hội Thánh thần bí chút nào. Những ai bị
mê hoặc bởi tính ưu việt được giả thiết của linh hồn thần bí hẳn có thể soạn ra một
bản liệt kê những đặc tính của Đấng Christ, kết quả sẽ có thể đưa ra một kết luận
gây bất ngờ.
Thật ra không có một qui định nào cho một “từng lớp có đặc quyền” trong Cơ Đốc
giáo thuần tuý, Chúa Cứu Thế đã nói với các môn đồ đầu tiên của Ngài rằng
“Trong các ngươi không nên có điều như vậy, các ngươi là anh em nhau”.
Chúa của Bê-tên.
Có nhiều người có niềm tin tôn giáo có thể nói, họ quen thuộc với Giê-hô-va nhiều
hơn với Chúa Cứu Thế Giê-xu, nếu chân lý được nói ra. Cựu Ước có ý nghĩa với
họ hơn Tân Ước, lại nếu chân lý được truyền ra.
Những người này là những người xem tôn giáo như một sự thoả thuận, họ vâng
theo những luật lệ nào đó và Đức Chúa Trời sẽ thành tín chăm sóc họ và những
mối quan tâm của họ. Những người này là những người viết ra và nói “chỉ khi” dân
sự vâng theo 10 điều răn thì Đức Chúa Trời sẽ ban cho họ chiến thắng, hoặc mưa
móc, hoặc thời tiết thuận lợi, hoặc bất cứ điều gì họ cần trong thời điểm nào đó. Họ
thích mọi điều được chuẩn bị từ trước và thậm chí Phúc Âm bị giản lược thành một
công thức, để nếu bạn ký tên vào hàng có chấm, thì có thể nói bạn hoàn được vào
thiên đàng! Họ thích một bức thư hơn một tinh thần, và những điều rất rõ ràng hơn
những nguyên tắc mơ hồ. Họ thường ám chỉ “Giê-hô-va” hơn ám chỉ “Đức Chúa
Trời”.
Những người như vậy đã không đánh giá đúng tính chất cách mạng của sự xâm
nhập thế giới này của Đức Chúa Trời trong Chúa Cứu Thế, mặc dù họ sẽ bị khiếp
sợ nếu được cho rằng họ chưa tiếp nận tầm quan trọng của sự công bố Ngài ban ra.
“Điều nàu đã được nói rồi…. nay Ta nói cùng các ngươi”
Nhưng Đức Chúa Trời thời Cựu Ước của họ sẽ không đáp ứng đủ cho lòng khao
khát của con người thời hiện tại, tuy nhiên họ có thể vỗ tay tán thành sự “vô tín”
trong thời đại ngày nay. Đức Chúa Trời không là Đức Chúa Trời của sự chết
nhưng của sự sống.
Chúa nhưng không phải Thượng Đế.
Khái niệm này là một trong những khái niệm “được khai sáng” nhất và “hiện đại”
nhất. Đức Chúa Trời hoàn toàn được phi cá nhân hoá và trở thành một tập hợp cuối
cùng của giá trị cao nhất. Ý tưởng như vậy luôn có trong tâm trí của những người
khởi đầu những cuộc sống định cư và là những người có ít kinh nghiệm về chất
liệu nguyên thuỷ của đời sống nhân loại bình thường. Rõ ràng không thể xảy ra đối
với bất kỳ khái niệm nào ngoại trừ khái niệm trí tuệ nhất để lưu giữ trong tâm trí
họ (chỉ để thờ phượng và phục vụ) một Đức Chúa Trời không hơn gì điều chúng ta
nghĩ là có những giá trị cao nhất, tăng lên đến mức độ thứ n.
Các chúa với những danh khác bất kỳ
Con người từng được định nghĩa một cách đúng đắn như một “động vật biết thờ
phượng”. Nếu vì một lý do nào đó mà con người không có một Đức Chúa Trời nào
thì đương nhiên họ sẽ thờ phượng một điều gì đó. Những thần tượng thay thế cho
Đức Chúa Trời gặp trong thời hiện đại là một nhà nước, sự thành công, hiệu năng,
tiền bạc, “sự quyến rũ”, quền lực, thậm chí sự an ninh. Dĩ nhiên không ai gọi
chúng là “Đức Chúa Trời”, nhưng chúng có một ảnh hưởng và đòi hỏi sự tận trung
mà lẽ ra chỉ thuộc một mình Đức Chúa Trời thật. Chỉ khi con người tìm thấy Đức
Chúa Trời thì họ mới có thể nhận ra bản năng thờ phượng của họ đã bị méo mó và
lầm đường thể nào.
LỜI CHUYỂN
Trước khi sang phần thứ 2 cùa sách này tác giả thấy cần phải có một lời giải thích
ngắn gọn.
Không phải ý định của chúng ta là lập nên hay chỉ một chúa lớn hơn và tối hơn,
đấng có thể chỉ có tính giả tạo nhiều như bất kỳ thiên sứ không hấp dẫn nào mà
chúng ta đã loại bỏ. Điều mà chúng ta đang cố gắng thực hiện là mở rộng cửa trí và
hồn để nhờ đó mà ánh sáng của Đức Chúa trời thật có thể chiếu vào. Nếu một
người sống trong một căn phòng kiểm tra ánh sáng, mặt trời có thể chiếu sáng
trong sự rực rỡ chói loà và chính người đó sẽ không biết gì về nó. Anh ta có thể
thấp cho mình một cây nến hoặc anh ta có thể khoan một lỗ trong nơi giam hãm
mình. Trong trường hợp đầu có thể anh ta chẳng bao giờ có gì hơn là tia sáng le lói
giả tạo, và trong trường hợp thứ 2 anh ta sẽ chỉ có một cái nhìn rất ít về ánh sáng
ban ngày thật sự: Một số thần mà chúng ta quan tâm, không gì hơn là sự giả tạo,
một số khác là những cái nhìn qua lỗ kim về ánh sáng thật. Điều mà chúng ta đang
cố gắng thực hiện sau đó không phải là thắp một cây nến mới nhưng để hạ những
tấm chắn sáng xuống. Không có nguyên nhân nào giải thích tại sao chúng ta phải
bằng lòng với cây nến hoặc cái lỗ kim ấy nếu một suy nghĩ được xác định một chút
và một hành động chân thật một chút sẽ dời đi những tấm chắn sáng ấy.
I. Đức Chúa Trời không bị giới hạn lại một điểm
Dường như có một số người đã dành quá nhiều thời gian trong việc “dọn sạch mặt
đất” nhưng điều này tuyệt đối không cần thiết. Chúng ta sẽ chẳng bao giờ muốn
hầu việc Đức Chúa Trời bằng tấm lòng chân thật và sâu kín của chúng ta nếu Ngài
hiện ra lờ mờ trong tâm trí thuộc tiềm thức của chúng ta như một đấng đội tài
chuyên quyền hoặc một Người phá bĩnh, hoặc như một đấng đang lợi dụng địa vị
của mình làm cho chúng ta, những thể hay chết khốn khổ này, cảm thấy tội lỗi và
lo sợ. Chúng ta chỉ bị ấn tượng bởi “độ lớn” và quyền năng vô lượng vô biên của
Đức Chúa Trời, chúng ta phải được thúc đẩy lòng tôn sùng, kính trọng và yêu mến
chân thành, nếu chúng ta từng thờ phượng Ngài.
Tuy nhiên, trước hết chúng ta hãy mở rộng tất cả cánh cửa của lòng mình và nỗ lực
đánh giá đúng “tầm cở” của Đức Chúa Trời. Ngài không bị giới hạn đối với những
vấn đề tôn giáo hoặc thậm chí đối với sự giải thích “về tín ngưỡng” của cuộc sống.
Ngài chắc chắn không bị hạn chế về thời gian, chúng ta cũng không nên hình dung
Ngài như một vị thần địa phương của hành tinh này hoặc thậm chí của vũ trụ này,
vũ trụ mà sự khảo sát về thiên văn bấy lâu đã phát hiện ra. Dĩ nhiên nó không là
kích thước vật lý mà chúng ta luôn cố hình thành trong tâm trí mình (kích thước
vật lý không quan trọng. Bằng bất cứ sự sắp xếp hợp lý những giá trị loài người có
giá trị, lớn hơn rất nhiều so với một quả núi có kích thước 10 lần kích thước vật lý
của anh ta). Tốt hơn nên nhận thấy tầm hoạt động rộng hơn vô cùng của đấng Tạo
Hoá, cục diện đáng kin ngạc của những tiến trình thuộc về trí tuệ của Ngài, những
tiến trình mà khoa học phát hiện ra bằng sự lao động vất vã, một đại dương mênh
mông của những điều mà chúng ta chỉ có thể gọi là “Đức Chúa Trời” trong một
góc nhỏ của nó loài người sống đi lại và tồn tại.
Suy gẫm về sự rộng lớn và mênh mong này sẽ giúp ích rất nhiều trong việc phơi
bày các vị chúa nhỏ bé không thoả đáng, nhưng nếu chúng ta dừng lại ở đó thì
chúng ta không thể đi xa hơn ý nghĩa về một Đức Chúa Trời “không bị giới hạn”
rất mơ hồ, một điều gì đó phi cá nhân hoá mà sau đó là sự không thoả lòng cách
lập dị.
Có những người sẽ khiến cho “một điều gì đó này thành Đức Chúa Trời của tương
lai. Dựng lên một khái niệm tinh thần từ những giá trị được biêt đến như đạo đức
tốt, chân lý và cái hay cái đẹp, họ khiến chúng ta suy nghĩ trong trí và thờ phượng
trong lòng. Nguồn của những giá trị cao nhất. Đức Chúa Trời như vậy không phải
là Con người trong bất kỳ ý nghĩa nào, và dù cho ý tưởng này có vẻ làm hài lòng
một số người trí thức nhất trong thời đại của chúng ta nó vẫn không, và có thể
chẳng bao giờ làm hài lòng những người bình thường. Chắc chắn nó không cung
cấp một Phúc Âm để cứu những nỗi thất vọng và những sự vô nghĩa của cuộc
sống, trong thực tế nó cũng không tạo ra một mũi nhọn tấn công chống lại những
sự xấu xa được hình thành lâu đời. Thờ phượng, yêu thương và hầu việc gợi ý cho
hầu hết chúng ta một thân vị, với Ngài chúng ta có thể thiết lập mối tương quan cá
nhân nào đó, mặc dù người ta không thể không lưu ý rằng một sự thu hút rất lớn
của một Đức Chúa Trời không phải là con người đó là không có yêu cầu nào có thể
được đặt trên chúng ta! Ngài (hoặc Nó) có thể được dùng ít hay nhiều tuỳ ý thích
của chúng ta!
Bằng cách này chúng ta có thể nhận thấy một tình thế khó xử, mặc dù thường là vô
tình, của nhiều người trong thời hiện đại không thuộc tôn giáo có tổ chức. Nếu họ
sử dụng trí óc và sự tưởng tượng của họ thì không thể không nhận thấy rằng nếu có
một Đấng Tối Cao thì Ngài chắc chắn vô cùng lớn hơn những khái niệm của các tổ
phụ chúng ta. Họ càng hiểu biết thì khoa học càng tỏ bày cho họ, tầm hiểu biết của
họ càng phát triển thì các vị chúa nhỏ bé ngày xưa càng không thoả đáng. Tuy sự
rộng lớn này dường như càng ngày càng phi cá nhân hoá Đức Chúa Trời cho đến
khi Ngài trở thành một ý niệm trừu tượng mơ hồ không được tập trung lại.
Ở một mặt của tình thế khó xử này nhiều người từ bỏ ý niệm về sự nhận biết Đức
Chúa Trời, và nuôi giữ những hy vọng của họ và dùng năng lực của họ vào “sự
tiến bộ” của nhân loại. Trong sự tuyệt vọng luôn sinh ra những qui định với những
giá trị “vĩnh cửu”, họ có được sự thoả lòng nào đó trong việc cải tiến “ngay tức
khắc”, có liên hệ chính họ với những giá trị hiện tại về điều mà họ khá chắc chắn.
Thật ra, trừ khi chúng ta có thể liên hệ hoạt động này với Đức Chúa Trời, tức với
điều gì đó vượt không gian và thời gian, thực hiện điều này là một sự xuẩn ngốc
khác thường, và chúng ta chỉ cần một vài bước hợp lý để đánh giá đúng nó. Tạm
thời chúng ta hãy công nhận rằng chúng ta đang tiến bộ, rằng nhân loại vì tất cả
những cuộc chiến tàn phá của nó đang từng bước và chắc chắn ngày càng trở nên
khoẻ mạnh, giàu có và khôn ngoan. Giả sử tiến trình này, bất kểnhững trở lực, vẫn
tiến triển hàng ngàn, thậm chí hàng triệu năm. Thì có lẽ trong một lúc nào đó ở một
tương lai rất xa nhân loại đang sống trên hành tinh này sẽ chinh phục thiên nhiên
bởi kiến thức khoa học, sẽ giải quyết được tất cả những căng thẳng và những tình
trạng tâm lý không bình thường của các mối tương quan cá nhân bằng những
phương cách tâm lý tiến bộ vô cùng, và sẽ sống một cuộc đời hầu như khoẻ mạnh
hạnh phúc và thoả lòng đến kinh ngạc, chúng ta có thể nói cách công bằng rằng đó
là mục đích của những người đang tự do cống hiến năng lực cho sự tiến bộ của
nhân loại, và của những người đang hô hào rằng chúng ta hãy sống vì hậu thế.
Nhưng sau đó là gì? Hành tinh này, đến chừng mực kiến thức chúng ta có thể hiểu,
rốt cuộc sẽ trở nên hạnh phúc đến nỗi không thể sống được (thậm chí bởi phương
tiện nhân tạo), hoặc sẽ bị tiêu diệt bởi sự va chạm với vật thể khác nào đó. Những
phương tiện, toàn bộ kết quả từ sự tiến bộ của nhân loại, của mọi nỗ lực và khát
vọng và lý tưởng sẽ là sự huỷ diệt hoàn toàn trong sự giá lạnh chết người của
khoảng không giữa các vì sao. Và không có gì xảy ra hơn nữa.
Tuy nhiên sự tiến bộ của nhân loại đối với nhiều người là giá trị cao nhất để sống
cho nó. Dĩ nhiên nếu họ không muốn đi quá cảnh tượng cuối cùng này, họ có thể
tự thuyết phục mình rằng niềm hạnh phúc sau này của con cháu chúng ta ở một
triệu năm sau tính từ hôm nay là một lý tưởng xứng đáng để sống và chết cho nó.
Nhưng nếu kết cuộc không là gì, và sự tưởng tượng hoàn toàn vô lý, chắc chắn
không có một người hiểu biết nào có thể xem nó như một lý tưởng để đòi hỏi lòng
trung thành hoàn toàn của tâm trí và tấm lòng của người trưởng thành.
II. Manh mối đối với sự thật.
Sự phát minh ra năng lượng khổng lồ được phóng ra bởi sự phân chia hạt nhân
nguyên tử và những minh chứng không thể nào quên về sức tàn phá của “bom
nguyên tử” đã giúp chúng ta trong việc tìm kiếm cho sự thật mà chúng ta khó có
thể nhận ra. Chúng đã chứng minh trước toàn bộ thế giới này rằng cái mà chúng ta
gọi là “vật chất”, thật ra có thể bị phá huỷ. Nhiều điều ma trước đây chúng ta xem
là bất diệt, chẳng hạn thiết giáp và bê tông, dưới điều kiện nào đó có thể bị tan biến
thành hơi nước mỏng manh hơn khói thuốc. Thật ra vì toàn bộ vật chất trong hành
tinh chúng ta, sống động hoặc bất động đều được hình thành từ những nguyên tử
được sắp xếp khác nhau, không thể nghĩ rằng một số thí nghiệm hoặc hành động có
chủ tâm nào đó có thể đưa đến kết quả trong một phản ứng dây chuyền, có thể nói
làm bùng nổ mọi nguyên tử hình thành nên thế giới này. Dù chúng ta thích nó hay
không thì giờ đây chúng ta đang sống dưới bóng của sự tan rã dần dần như vậy của
vũ trụ như vậy. Điều ở đây này khó có thể làm gì khác hơn là để tâm trí chúng ta
đánh giá những giá trị “tinh thần” cao hơn rất nhiều so với trước đây. Bởi những
giá trị này chúng ta muốn nói đến những phẩm chất của tinh thần của nhân cách,
những phẩm chất có thể nhận biết được và có thể đánh giá được, nhưng không thể
nào cân và đo theo phương pháp khoa học - và không thể có sự huỷ diệt về vật
chất. Trong sự hiểu biết về số phận cuối cùng có thể xảy ra cho hành tinh này và về
mối đe doạ hiện tại đối với đời sống nhân loại, chúng ta buộc phải quan tâm xem
cuối cùng có hay không một thực tế ngoài cái thự tế vật chất có thể cân đo được
này, chúng ta bắt đầu tự hỏi không biết toàn bộ tình thế này có là sự trái ngược với
điều loài người từng nghĩ hay không. Họ thường nói về những giá trị “tinh thần”
nhưng điều gì đó mơ hồ và không chắc chắn, và những giá trị vật chất lại vững
chắc, “có thực” và thực tế. Họ đang bắt đầu nhận thấy rằng tình thế này rất có thể
là thật. Chúng ta chắc chắn nhận thấy bằng chứng về tính có thể bị huỷ diệt chung
của vật chất có lẽ dù sao cũng đúng đắn khi cho rằng “sự thật” nằm ở lãnh vực
khác nói chung, và giá trị của nó dù sao cũng không chắc chắn.
Dĩ nhiên điều này được tin tưởng một cách sẵn lòng bởi những tính khí này hơn
bởi những tính khí khác. Các nhà thơ, hoạ sĩ và những triết gia, cũng như nhiều
người tầm thường khác ở mọi lứa tuổi có thể ít nhiều ý thức sâu sắc rằng “tinh
thần” luôn quan trọng hơn vật chất rất nhiều. Nói thẳng ra đối với nhiều người
trong số họ, cuộc sống vật chất hiện tại này là giai đoạn có thể nhìn thấy và hữu
hình hoặc một chiến trường của những sức mạnh tinh thần. Những giá trị phổ quát
như chân lý, đạo đức tốt, cái hay cái đẹp, thường được xem là tồn tại ngoài cũng
như được bày tỏ trong cuộc sống của thế giới này. Đối với một số người trong số
đó cuộc sống hiện tại này chỉ là sự mở đầu, phải sống dưới sự khó khăn và ngăn
trở, của cuộc sống tự do không bị ràng buộc của tinh thần. Quan điểm của nhóm
người sau là thực tế - của nhóm đầu là sự kiện quan trọng nhưng chỉ thoáng qua.
Trực giác lâu dài này giờ được áp đặt trên nhân loại như một giả thuyết mạnh mẽ
và khả thi bởi sự tan rã đang đe doạ của thế giới vật chất nay. Và sự tán thành bên
trong dành cho nó đủ để trong lòng nhiều người có được một manh mối vững chắc
cho sự thật dù bất cứ trường hợp nào. Nó khiến cho quan niệm về Đức Chúa Trời
nên thực tế hơn và đáng có hơn.
Cuối cùng, nếu quả thật bản chất của sự thật này là về tinh thần và nó chỉ liên quan
một cách tạm thời và ngẫu nhiên với vật chất thì bất hợp lý khi mong muốn biết
điều gì đó về Đấng duy tâm đằng sau cách các sự việc diễn ra. Đối với về những
người không có trí tưởng tượng linh hồn luôn có vẻ không thật và kỳ lạ, họ dần dần
thấy rõ ràng hơn thế giới vật chất này, một thế giới có thực và hữu hình đối với họ,
hầu như không xác thực. Con người thường có khả năng dựa vào một số năm trong
cuộc sống vật chất đang vận hành có thể là thật, ở năm này là vật đệm có hiệu quả
nhất giữa họ và những bản chất thuộc linh được phơi bày mà trong những lúc mềm
yếu hơn họ đã nghi ngờ. Giờ đây vật đệm bằng vật chất của họ được chứng minh là
không thể tin cậy được. Bất kỳ lúc nào họ cũng có thể bị đẩy vào thế giới của tâm
linh. Những chiếc neo của họ đang trượt đi, và nếu họ cảm thấy cần một nơi thả
neo (thực chất sao không là một người nào đó) họ chắc phải tìm trong thế giới của
tâm linh - và họ chắc chắn tìm thấy Đức Chúa Trời.
Chú ý: Ta không nên nghĩ rằng những điều gọi là tinh thần lại ít “vững chắc” hơn
vật chất (dù tinh thần hiện tại là điều vô hình). Vì nó có tính bền, nên nó có thể
chứng tỏ là vững chắc hơn trong một ý ngĩha nào đó. Đó là cách riêng của chúng ta
để xem xét những điều mà đã khiến cho những sức lực của một người trở nên vững
chắc hơn những phẩm chất tinh thần của nhân cách anh ta là một ví dụ. Ý tưởng
cho rằng thế giới thật này có tính vững chắc hơn hầu giải thích cách thông thạo và
tài tinh nhất. Tiến sĩ C.S Lewis trong tác phẩm của trí tưởng tượng của ông về
Thiên đàng và Địa ngục. The Great Divoice (Một sự tách biệt lớn).
III. Những gợi ý mối khác cho thực tế
Mọi người đều nhạy cảm với cái đẹp dù rõ ràng sự nhạy cảm ở người này có thể
nhiều hơn ở người khác. Tuy nhiên kinh nghiệm cho thấy rằng ngay cả người ít mơ
mộng nhất cũng bị xúc động bởi những dáng vẻ của cái đẹp. Ranh giới giữa sự u
sầu và kỳ diệu biến đổi rất lớn theo từng người khác nhau. Đối với một số người
nó là đặc ân lôi cuốn của thời thơ ấu, với một số khác là sự dâng trào và tiếng sóng
vỗ của biển cả, số khác lại là sự huy hoàng rực rỡ của đỉnh núi, với một số khác lại
là bài ca mùa xuân của những chú chim, một số khác nữa thì lại là mùi của khói
than củi hoặc của những đêm thu đầy sương tuyết, và một số người khác, nếu kể ra
thì chẳng bao giờ kết thúc. Tất cả mọi loại hình thơ, nhạc, hoạ đều ciân chínhmang
lời chứng cho tình cảm yêu thương cái đẹp luôn tiếp tục trong mỗi con người, và
cho nỗ lực hết mình để khiến cái đẹp sống và làm phong phú cho cuộc sống bình
thường của họ.
Cái đẹp thật dường như luôn mang theo nó một dấu hiệu của sự buồn bã đôi lúc rất
sầu thảm; và chúng ta thường bối rối vì không hiểu tại sao điều này lại xảy ra như
vậy. Nếu cái đẹp được mong chờ và được tiếp đón thì chắc chắn đem lại niềm vui
tuyệt đối. Nỗi buồn hiếm khi đi kèm đồng hành trong, với những niềm vui trần thế
khác. Trong niềm thoả thích của một bữa ăn thân mật, trong sự thành công khi giải
quyết một vấn đề khó khăn, hoặc trong sự làm thành một công việc sáng tạo, thì có
niềm vui mừng nhưng không có nỗi buồn. Rất có thể cái đẹp là một dấu hiệu mờ
nhạt của đều có thực, đúng đắn và vĩnh cửu, để chúng ta cảm nhận mà không có
quá trình ý thức của tư tưởng: “Đây là điều mà cuộc sống phải như vậy, hoặc nó
phải như vậy trong thực tế”. Và như vậy khi so sánh điều đó với kinh nghiệm mỗi
ngày thông thường của chúng ta với tất cả nhược điểm và sự xấu xa của nó có thể
làm tăng nỗi khổ đau cay đắng ấy? Hoặc như một số người nghĩ, có vẻ rất kỳ lạ, nó
là một dạng hoài cổ - điều mà Wordsworth gọi là “Lời gợi ý về tình trạng bất tử”.
Nó có phải là linh hồn bất diệt trong một con người khi nhớ lại ở đây trong ngôi
nhà bằng đất sét những niềm vui nổi bật về Quê Hương thật của mình không?
Dĩ nhiên không ai có thể nói. Nhưng sự hấp dẫn của cái đẹp không thể loại đi cách
thanh thản sự hấp dẫn này rất phổ biến tuy nhiên nó có thể bị bóp méo hoặc giảm
giá trị. Nó là một triển vọng đối với điều gì đó, và chắc chắn nó chỉ rỏ điều đó nằm
ngoài những giới hạn của không gian và thời gian hiện nay. Trong bất cứ trường
hợp nào chúng ta cũng có thể nói rằng cái đẹp khơi gợi lòng khát khao và ước
muốn mãnh liệt không được thoả mãn (và một số người cho rằng nó không bao giờ
có thể được thoả mãn) trong thế giới này.
Gợi ý thứ 2 về với bản chất của thực tế là điều chúng ta chỉ thể gọi bằng cái tên hơi
kém thân thiện là “đạo đức tốt”. Làm cho tâm trí chúng ta tự ý thức về sự công
nghĩa, sự đạo đức và những điều tốt đẹp, đó là thu hút không thể tránh khỏi về sự
tốt lành. Tuy nhiên ngoài lý tưởng mà sự rèn luyện của chúng ta hướng đến, chúng
ta có một sự tôn kính vô thức dành cho những điều như tính lương thiện, thật thà,
liêm chính, trung tín, nhơn từ, công bình và tôn trọng người khác. Thật ra chúng ta
khó nhận ra ý nghĩa của sự công nhận về giá trị của những điều này cho đến khi
chúng được thử thách trực tiếp bởi chế độ quốc xã Đức. Thậm chí ngày nay rất
nhiều người khó có thể hiểu được ý nghĩa của sự thật phổ biến với hàng triệu người
khác, mà chúng ta đã lên án sự phản bội, hung ác, gian dối và sự phản đối ích kỷ
những giá trị đạo đức truyền thống như “những điều xấu xa”. Nếu cảm xúc về sự
tốt lành của chúng ta không là gợi ý cho thực tế cuối cùng thì điều chúng ta có thể
làm là nói rằng cá nhân chúng ta không thích những đặc tính của triết lý đảng quốc
xã. Nếu không có một tiêu chuẩn nào đó vì đạo đức để chúng ta đặt ra (một cách
vô tình) một câu hỏi về nó, thì chỉ là sự khác biệt về quan điểm. Một đảng viên đế
quốc xã có quyền nói rằng anh ta không thích những giá trị đạo đức của chúng ta,
và ai có thể nói hoặc anh ta hoặc chúng ta là chính nghĩa? Để đối phó những tôn
kính phản bội hung ác và tàn bạo đã làm tổn hại ý thức chung của nhân loại chúng
ta phải thiết lập cách vững chắc hơn một mục tiêu để vươn tới. Tại sao có nhận
thức đạo đức phổ biến này? Tại sao chúng ta cho rằng “điều thiện” thì tốt hơn
“điều ác”? Chắc chắn sự công nhận cái tốt, được cắm rễ sâu và phổ biến, là một
điều khác xa với lời gợi ý không đáng kể về thực tế.
Cả cái đẹp và cái tốt (chắc chắn trong những cách khác nhau) có tác động trên con
người, nó không thể giải thích bằng những từ của thế gian mà chúng ta biết, và đối
với nó chúng ta có thể thêm vào sự tìm kiếm chân lý của nhân loại. Họ không chỉ
muốn biết sự thật, dù sự tích luỹ một cách cẩn thận những sự thật được xác minh là
một trong những hành động đáng được ngưỡng mộ nhất của nhân loại, họ còn
mong tìm kiếm ý nghĩa nào đó đối vì sự bí ẩn của cuộc sống này. Những nghiên
cứu khoa học, triết học và tôn giáo, tất cả trong những phương cách khác nhau của
nó, chứng minh rằng con người muốn vươn tới sự hiểu biết ngày càng nhiều hơn
về chân lý. Nhưng tại sao họ nên làm vậy? Tại sao họ không hài lòng với điều họ
có và họ biết? Tại sao họ không thể chấp nhận sự chết, sự xấu xa và bệnh tật mà
không lo lắng về chúng? Tại sao họ, trong mọi lứa tuổi ở mọi quốc gia, phải nỗ lực
tìm kiếm một điều gì đó - mỗi điều đó sẽ làm hài hoà, giải thích và làm thành
những việc phi thường khiến người ta hoang mang về cuộc sống này. Suy lý như
chúng ta phải thực hiện, từ điều chúng ta biết đến điều chúng ta không biết, chúng
ta có thể nói cách công bằng rằng đồ ăn đáp ứng cho cơn đói, nước cho cơn khát,
và một bạn đời cho sự khát khao về tình dục, nên sự khao khát chung về chân lý
cũng có thể được sự đáp ứng và sự làm trọn tuy nhiên để tìm được thì thật khó
khăn.
IV. Có một Đức Chúa Trời được nhìn thấy rõ hay không?
Cái đẹp, cái tốt và chân lý, dù nó xuất hiện bất cứ nơi đâu đều chắc chắn là những
gợi ý, nhưng chúng có vẽ giống những máy ảnh được điều chỉnh tận “điểm ở vô
tận” chúng ta không thể nói sự thật họ đang chỉ ra nó là thế nào và lớn ra sao.
Mặc dù bây giờ mọi người đều biết cái đẹp, cái tốt và chân lý có nghĩa gì, nhưng
không thể hình dung chúng như những giá trị tuyệt đối, chúng ta có thể hình dung
một vật đẹp nhưng không thể hình dung cái đẹp, một người tốt, nhưng không thể
hình dung cái tốt; một sự kiện có thật nhưng không thể một chân lý. Tuy nhiên một
khi chúng ta suy nghĩ đến một vật xinh đẹp trong tâm trí thì thường đến dễ dàng
làm đầy tâm trí với những cái đẹp khác; một khi chúng ta quan tâm một người tốt
thật sự thì chúng ta có thể mở rộng và phát triển thêm những phẩm chất của anh ta
cho đến khi chúng ta bắt đầu có được quan niệm về đạo đức; nhưng nếu chúng ta
vững tin về một sự thật chắc chắn (đặc biệt nếu tự chúng ta khám phá ra nó), ngay
tức khắc chúng ta nghĩ về một thế giới của chân lý - chúng ta bắt đầu hình dung
một đặc tính tuyệt đối của chân lý.
Sau đó lần đầu tiên chúng ta nhận ra cái đẹp khi được thấy nó trong một vật xinh
đẹp, cái tốt trong một người tốt, sự thật trong sự kiện mà chúng ta tin chắc. Nhưng
giá trị tuyệt đối có thể tồn tại như những khái niệm về tinh thần đối với một triết
gia được huấn luyện, nhưng một người bình thường chắc chắn nhận ra giá trị của
mình tập trung ở những người hoặc những vật mà anh ta biết trước khi anh ta có
thể hiểu chúng.
Bây giờ cúhng ta hãy bước thêm một bước nữa. Người mạc khải thần linh tự nhận
là có thể hiểu về Đức Chúa Trời trong thì tuyệt đối. Nhưng họ khác thường hơn cả
một triết gia, và mọi cố gắng của một người bình thường nhằm “hình dung ra” Đức
Chúa Trời sẽ không đem lại kết quả gì ngoài “khung cảnh lờ mờ” mà những người
đã nỗ lực ở thời hiện tại luôn than phiền về nó. Tuy nhiên nếu một người có thể
nhìn thấy Đức Chúa Trời rõ và tin chắc rằng anh ta đang nhìn thấy Đức Chúa Trời,
bị giảm xuống nhưng vốn xác thực, như trong trường hợp về cái đẹp, cái tốt và
chân lý, anh ta có thể thêm vàot ất cả những ý niệm mơ hồ và những ấn tượng mà
anh ta có về sự oai nghi, tráng lệ và phẩm chất của Đấng vô cùng, và “nhìn thấy
Đức Chúa Trời”.
Nhưng anh ta có thể nhìn thấy một Đức Chúa Trời được thấy rõ như vậy không?
Chắc rằng hơn cả những tia nắng và chớp sáng của thần linh - chắc phải có một
ngọn lửa luôn bùng cháy để ánh sáng của nó có thể được kiểm chứng và đánh giá
cách hợp lý.
Đây là một vấn đề lý thú cho nhân loại chúng ta để quan sát cách mà Đấng vô cùng
- bày tỏ cho loài người Bản Tính có thể thấy được. Tư Tưởng có thể diễn tả được
và mục đích được giải thích của Ngài - có thể giới thiệu chính Ngài trong dòng lịch
sử nhân loại mà không làm xáo trộn hoặc phá vỡ nó. Rõ ràng có một “sự giáng
cấp” không thể tin được về “độ lớn” của Đức Chúa Trời xứng hợp với cuộc sống
trong hành tinh này. Chắc chắn có một sự chấp nhận hoàn toàn về những giới hạn
không gian và thời gian của cuộc sống hiện tại. Điều này phải được thực hiện cách
hợp lý - ví dụ nó không chỉ là một hành động được làm vì ích lợi của con người.
Nếu điều đó được thực hiện thì Đức Chúa Trời là con người. Không thể có sự
thuyết phục rõ ràng nào về một Đức Chúa Trời thật trong một sinh vật lạ lùng nữa
thần thánh. Đấng có những quyền thế siêu nhiên. Mặc dù rõ ràng nhiều người đã
được “hà hơi” để nói chân lý, để tạo nên cái đẹp và để chứng minh cái tốt, nhưng
nó cũng không thể đáp ứng đủ cho sự nhận thấy rõ cách đáng tin và đặc thù để dựa
vào một người “được hà hơi rất mực”. Vì tính đáng tin cậy hoàn toàn, vì tính hấp
dẫn chung vì tính xác thực được bảo đảm cách cá nhân liên quan đến tất cả lẽ thật
khác, chính Đức Chúa Trời phải thực hiện điều này.
Giả sử Đức Chúa Trời đi vào dòng lịch sử và được sinh ra như một hài nhi A.
Trong chừng mực của những giới hạn về không gian, thời gian và hoàn cảnh cho
phép, A sẽ lớn lên như một Đức Chúa Trời “có thể được nhìn thấy” trong bản chất
con người, nói diễn tả suy nghĩ và mô tả cuộc sống bằng những từ mà loài người
có thể hiểu được. Một khi chấp nhận lời A xưng mình là Đức Chúa Trời, Đấng
đang bày tỏ chính Ngài bằng từ ngữ của loài người, con người sẽ có rất nhiều điều
để họ có thể nhờ đó mà sống.
Thứ nhất, giờ đây loài người chắc chắn “bản tánh” của Đức Chúa Trời vĩnh hằng là
gì. Vì Ngài nói chắc chắn rằng người nào nhận thấy Ngài tức nhận thấy Đức Chúa
Trời. Thứ hai những sự thật về con người và Đức Chúa Trời, những nỗi lo lắng
triền miên về sự đau khổ tội lỗi và sự chết, những hy vọng mơ hồ về thế giới vĩnh
cửu theo sau thế giới này - những câu hỏi trên và hàng chục câu hỏi khác giờ đây
có một quan điểm tham khảo phù hợp, bởi quan điểm này con người có thể được
điều chỉnh nếu không ổn định. Thứ ba, loài người có thể nhận được thông tin trực
tiếp cho câu hỏi “cuộc sống này là thế nào?” và bằng cách nào họ có thể phối hợp
với hoạch định và với Đấng quyền năng đứng đàng sau không gian và thời gian?
Thứ tư, nếu họ đã tin chắc, như chúng ta đang thừa nhận, rằng Đấng đằng trước
mắt họ thật sự là Đức Chúa Trời trở nên con người, họ sẽ có thể nhận thấy điều gì
đó hoàn toàn đặc biệt trong lịch sử của thế giới. Chính Đức Chúa Trời đang đương
đầu với cuộc sống với những điều kiện mà chính Ngài đã áp đặt trên những tạo vật
của Ngài. Họ sẽ nhận thấy Đức Chúa Trời không ngự trên ngai cao cả, nhưng Ngài
bước xuống chiến trường của cuộc sống này.
Dĩ nhiên, nếu A thực sự đến với một thế giới của không gian và thời gian này và
trở nên một con người, thì A chắc chắn đã đến trong một thời điểm đặc biệt nào đó
và sống ở một nơi đặc biệt nào đó. Đến chừng mực mà điều ngẫu nhiên và hoàn
cảnh bên ngoài ảnh hưởng Ngài sẽ bị ảnh hưởng, sửa đổi và giới hạn đối với một
số phạm vi. Vì vậy Ngài không thể là sự mô tả đầy đủ và Đức Chúa Trời - không
có thời gian hay không gian nào đủ cho điều đó. Nhưng trong sự giới hạn mà Ngài
đặt cho chính mình, Ngài sẽ là sự hội tụ hoàn toàn chân thật và thoả đáng của bản
tánh Đức Chúa Trời. Ngài không chỉ là thông tin và khuôn mẫu mà còn là một khe
hở để qua đó con người có thể nhìn thấy càng nhiều hơn về Đức Chúa Trời. Nếu
một khi con người tin chắc lời xưng lạ lùng của Ngài là chân thật, họ có thể nhận
thấy rằng Đức Chúa Trời, có thể nói sẽ được nhìn thấy qua khe hở có hình dáng A.
Kiến thức, kinh nghiệm và sự am hiểu, có thể được mở mang càng hơn qua năm
tháng, nhưng điều đó không có nghĩa là loài người trở nên quá lớn đối với Đức
Chúa Trời. Vì A chắc sẽ cho chúng ta một Sự Thật chắc chắn bởi sự chứng minh
của Ngài trong thời gian và không gian, xung quanh sự thật này mọi điều khác về
chân lý, cái tốt và cái đẹp có thể được kêt tinh một cách thích hợp và thoả đáng.
V. Nếu Đức Chúa Trời được nhìn thấy rõ (I)
Nếu A bước vào cuộc sống của hành tinh này như thế, thì chắc hẳn đã có những
hiện tượng nào đó xảy ra trừ khi (về khả năng mà chúng ta không quan tâm) những
luật lệ bình thường của cuộc sống tạm thời không có tác dụng.
Địa điểm đầu tiên không chắc rằng A sẽ được công nhận là Đức Chúa Trời với bất
kỳ ý nghĩa có thực nào, và với bất cứ trường hợp nào trong một thời gian. Con
người hầu như đánh giá và tuyên bố chắn chắn sự hiện diện một cách cá nhân của
Đức ChúaTrời trong cuộc sống bởi hai tiêu chuẩn. Thứ nhất, họ có thể mong chờ
một phẩm chất thiêng liêng rõ ràng và luôn luôn hiển hiện. Họ mong muốn có
được cảm giác kinh hãi hoặc được nhìn thấy ánh hào quang của thần thánh, hoặc
chứng kiến những quyền năng siêu nhiên. Nói cách khác, họ không trông mong,
Đức Chúa Trời thực sự là con người, nhưng chỉ giả vờ là một con người - và hai
điều đó không giống nhau chút nào. Đức Chúa Trời giả vờ làm con người có thể
đạt được tất cả kỳ công phi thường trong lãnh vực về đạo đức, tinh thần, thuộc linh
hay thậm chí về thuộc thể. Điều đó có thể gây ấn tượng, nhưng nó không đưa con
người đi đến đâu; họ không thể hiểu và biết nhiều hơn về Đức Chúa Trời. Họ có
thể bị loá mắt, nhưng họ vẫn không được soi sáng. Thứ ba nếu khả năng đầu tiên
không xảy ra, con người hầu như chắc chắn mong nhìn thấy một “thánh nhân”
thuộc dạng siêu thần bí, Sự khôn ngoan của người quá uyên bác cho lời nói và đôi
mắt người quá mải mê với thế giới thực trên thiên đàng đến nỗi không thể quen với
thế gian bình thường này. Nếu A được mạc khải như một người hoàn toàn được
thích nghi, hoàn toàn lành mạnh, sáng suốt và không cuồng tín như vậy thì lời
xưng nhận mình là Đức Chúa Trời của A sẽ bị xem là kỳ dị và báng bổ (lời tự
xưng mà A phải nói ra trong thời điểm thích hợp, trừ khi người nào đó bất ngờ
hiểu được chân lý này). Nếu A xuất hiện giữa vòng những người luôn đề cao khái
niệm về Đức Chúa Trời rằng đối với Ngài khoác trên mình bản tính tội lỗi của
nhân loại là việc làm mất phẩm giá không thể tượng tượng được đối với Thượng
Đế của A, thì nhiệm vụ đối với A sẽ vô cùng khó khăn hơn. Nhưng nếu A xuất
hiện giữa vòng những người luôn nuôi ý nghĩ rằng có những dấu vết nào đó của
Đức Chúa Trời trong bản tính con người, thì ít nhất cũng có một vài người có thể
thấy rõ điều gì đang xảy ra. Chính là những người gièm phe hoặc khinh thị bản
chất con người để đề cao quan niệm của họ về Đức Chúa Trời, Đấng rất có thể
hoàn toàn không quan tâm đến sự giống hệt của A.
Nhưng tất nhiên sẽ có một điều gì đó về A ngoài nhân cách lành mạnh và vững
vàng. Chẳng hạn như có một giọng nói đầy quyền lực - một sự đảm bảo âm thầm
của một chuyên gia khi nói về đề tài của chính mình khi A nói về những sự thật cơ
bản của cuộc sống của con người và của Đức Chúa Trời. Trừ khi những hiểu biết
qua loa và trực giác của họ sai, con người sẽ nhận thấy, có thể với sự xúc động,
rằng trong sự giảng dạy của A là một tập hợp làm tất cả những tia sáng đơn lẻ
trong sự hiểu biết mà họ đã từng kinh nghiệm. Vài người trong số họ ít nhất buộc
phải cảm nhận “Điều người này đang nói là sự thật. Đây là thực tế. Đây là điều mà
chúng ta từng luôn hy vọng về Đức Chúa Trời, và đây là điều mà chúng ta luôn
cảm giác về cuộc sống”. Ví nếu như thế giới này không hoàn toàn ngu dại hoặc
gian ác thì lời của A hẳn đã đánh một tiêng động trong lòng nhiều người.
Dĩ nhiên không chỉ là lời của A đã nói. Nếu A không có bất kỳ quyền năng siêu
nhiên nào, thì A sẽ gặp nhiều khó khăn, cám dỗ, thử thách và chán nản trong đời,
và phản ứng của A đối với những điều này, cũng như đối với những niềm vui nỗi
buồn khác của cuộc sống sẽ phần nào tạo một ấn tượng rõ ràng. A sẽ mạc khải một
bản tính. Dù bạn hữu của A và những người quan tâm đến A có nhận ra bản tánh
ấy lúc đó hay không, A vẫn cho họ thấy không chỉ một đặc tính của một Đức Chúa
Trời vô hình nhưng được nhìn thấy rõ và đang vận hành trong đời sống bình
thường của con người, còn cho thấy kiểu mẫu của một nhân loại toàn vẹn. Điều
thực sự xảy đến cho A dĩ nhiên tuỳ thuộc vào thời gian và địa điểm mà Đức Chúa
Trời quyết định lồng ghép chính Ngài vào trong lịch sử, nhưng trong một nghĩa
nào dó nó luôn như thế, vì Bản Tánh được mô tả bằng những thuật ngữ của con
người sẽ giống nhau và kiểu mẫu đủ sẽ luôn đi kèm cùng một mẫu giống nhau.
Đây là một điểm quan trọng, vì nó đưa ra một bằng chứng, nếu như có sự ghi chép
chính xác có thể dùng được về nó và về giá trị phổ biến. Sự xâm phạm riêng tư
không cần được lập lại liên tục.
Chúng ta có thể suy đoán cách thích đáng rằng thế giới như nó hiện có, sẽ có
những phản ứng khác hơn là vui vẽ công nhận lời giảng dạy của A là đúng. Vì
trong thực tế con người không phải lúc nào cũng “yêu thích điều cao nhất khi trước
mắt họ” và chân lý không phải luôn là một vị khách được tiếp đón vui vẻ. Do đó
chúng ta có thể đoán trước rằng là có rất nhiều sự chống đối và xuyên tạc. Những
điều này chúng ta sẽ xem trong sự xuất hiện chính thức của A.
1. Một thử thách cho những giá trị đạo đức hiện thời và có thể làm đảo ngược hoàn
toàn của sự xét đoán thông thường. Yêu thích tiền bạc hoặc địa vị, ham muốn
thành công, và mong được tránh khỏi tất cả những vấn đề khó khăn, làm méo mó
sự đoán xét của thế gian và có thể hơn thế nữa. Giá trị của A phải được nhận thấy
không chỉ là một sự nhỏ nhặt làm người ta khó chịu, mặc dù có thể những giá trị ấy
sẽ bị bác bỏ như “những lý tưởng tốt đẹp nhưng hoàn toàn không khả thi”.
2. Một sự dò xét làm xáo trộn động cơ hơn là sự trình diễn có ý nghĩa. Nhìn cuộc
sống từ sự thật thay vì từ quan điểm thông thường, A dường như hiểu biết nhiều về
điều kín nhiệm thông thường. Điều này có thể làm cho A trở thành kẻ thù cũng như
bạn hữu.
3. Sự nhấn mạnh những giá trị thật của con người, đặc biệt nhấn mạnh tình yêu
thương dành cho A tất nhiên sẽ nhận thấy sức quyến rũ và sự thông minh làm lệch
sự đánh giá của nhiều người, và sẽ định rõ vấn đề thật của thế gian, tức là không có
đủ tình yêu để vận hành. Hầu như tình yêu thương hoặc tự thu mình hoặc bị giới
hạn trong một vòng tròn nhỏ đã được chọn. A sẽ cho thấy Sự Sống Thế Giới thực
tế, Đức Chúa Trời và thậm chí những điều đem lại sự an toàn cho nhân loại, yêu
cầu họ nên biết mở rộng vòng tròn yêu thương và sự hiểu biết của mình. A chắc
chắn khẳng định tình yêu đối với Đức Chúa Trời sẽ không tồn tại nếu không có
tình yêu giữa con người với nhau.
4. Chấp nhận việc tìm kiếm chân lý của chính con người. Ví dụ tình yêu thương
thật và sự hy sinh bản thân luôn luôn là những đặc tính làm xúc động nhất ở con
người. A có thể sẽ chứng minh rằng điều này là do những người biết yêu thương và
những người đã hy sinh thân mình cho người khác, những người này gần như đang
phản ánh bản tánh của Đức Chúa Trời hơn là của một ai khác.
5. Có thể hợp lý để chúng ta mong chờ A chấp nhận sự cảm nhận của chúng ta về
sự đáng yêu của thiên nhiên, về đặc ân trong thời thơ ấu về nếp sống lành mạnh
của gia đình. Lý tưởng của A chắc chắn cao hơn lý tưởng của chúng ta, nhưng lý
tưởng ấy không dị thường hoặc hoàn toàn khác biệt với điều chúng ta đã biết, như
một lý tưởng không thể chấp nhận được. Đối với sự mạc khải của A về chân lý
thực, phản ứng của người chân thật có thể sẽ là “Điều này nghe có vẽ đúng. Đây là
điều mà trong sâu kín của lòng tôi, tôi luôn biết nó đúng và thật”.
6. Chúng ta không chờ đợi rằng A, giống như một số người cải cách tôn giáo trong
lịch sử, sẽ lên án con người là “những tội nhân khốn khổ”. Thật vậy điều đó không
cần thiết. Sự không thành thật luôn thấy khó chịu khi sự thành thật hiện diện thật,
sự ảo tưởng trong khi thực tế hiện diện và sự ích kỷ khi tình yêu thương hiện diện,
chúng ta có thể tin tưởng rằng trong sự hiện diện của một người trọn vẹn và đạo
đức có rất nhiều nỗi lo lắng về tinh thần sẽ được khơi gợi cách tự phát, đôi lúc
không rõ ràng đôi lúc sâu sắc. Một số người sẽ được kích thích lòng khao khát
mãnh liệt đối với sự trọn vẹn, nhưng số khác lại tức giận phẫn nộ và quyết định
thoát ra khỏi phạm vị gây ra nỗi lo lắng hoặc loại bỏ nó.
7. Như thế chúng ta có thể tin rằng có một sự xung đột với người theo tín ngưỡng
truyền thống. Ở đây A có khả năng gặp khó khăn hơn bất cứ nơi nào, vì A sẽ
nghịch cùng những thần giả, sự tự cao, tôn giáo “giao dịch”, và đặc biệt những
người tách cuộc sống tôn giáo khỏi cuộc sống thật, và giờ đây đang diễn thay vì
sống một đời sống con người.
8. Chúng ta chắc chắn có thể mong chờ một lời kêu gọi đến thinh giả để tái tập
trung đời sống của họ trên một Đức Chúa Trời có thật thay vì trên những sự vật
hay trên chính họ. Con người, đặc biệt những người có tinh thần thế gian, có thể sẽ
kết luận rằng A đang gọi họ là “những tội nhân khốn khổ” và bảo họ phải “ăn
năn”. Thật ra A hầu như đang van nài họ “hãy suy nghĩ về cuộc sống theo cách
khác” - như chính A biết rõ nó thật sự thế nào - với Đức Chúa Trời là trung tâm và
tất cả những đều khác được bắt nguồn từ Ngài.
VI. Nếu Đức Chúa Trời được nhìn thấy rõ (II)
Mọi điều này, và nhiều điều hơn chúng ta có thể tưởng tượng cách mơ hồ, chắc
chắn sẽ gặp A và sẽ đau lòng nếu A như chúng ta giả thiết, là một con người thật
sự. Vì A sẽ ở địa vị của một người đang nhận thấy chân lý ấy và hầu như không có
khả năng làm cho người khác nhận thấy. A sẽ thấy họ mù mờ về Đức Chúa Trời
của họ và trôi dạt ngày càng xa khỏi thực tế. Đối với một người nhạy cảm điều này
sẽ chứng tỏ một sự đau đớn cực độ về tinh thần; tất nhiên chúng ta không thể
tưởng tượng được sẽ có nghĩa gì đối với Một-người-trở-thành Đức Chúa Trời.
Chúng ta có thể tưởng tượng A như hành ảnh một con người trọn vẹn, không lơ
lững một cách siêu phàm trong không trung huyền bí, nhưng với đôi chân vững
chắc trên đất. Sự vững vàng của A đối với cuộc sống, sự vui mừng của A đối với
cái đẹp và tất cả những điều tốt lành, tình yêu thương cách tự nguyện của A dành
cho con người, cũng như quan điểm “tiêu chuẩn” những giá trị mới của A chắc
chắn sẽ làm sửng sốt một số người. Có lẽ họ sẽ chấp nhận một hình ảnh thánh ở thế
giới khác, người mà chẳng bao giờ nhận thấy sự tổn hại trong bất kỳ người nào, và
xưng nhận là Đức Chúa Trời mang hình dáng con người; nhưng vì là một con
người thật sự, người mà sự hiện thân của tất cả những gì thật sự thuộc về con
người, cũng như chỉ là mối quan hệ với ý nghĩa sâu nhiệm của cuộc sống, mà xưng
là Đức Chúa Trời quả là điều gây nhiều sửng sốt. Đôi mắt nhìn thấu suốt những sự
trá hình nhỏ nhặt của cuộc sống, cái lưỡi diễn đạt chân lý trong một hình thức dễ
nhớ và đúng mức, một nhân tánh hoàn toàn không có sự sợ hãi nào nhưng tràn đầy
tình yêu thương cao cả- những điều này là những điều rất khó đáp ứng, thậm chí
đối với một người tốt nhất trong nhân loại.
Thế gian thường hợp sức khoá miệng hoặc tiêu diệt những người tiên tri đúng đắn
nhất. Con đường của các tiên tri và người cải cách luôn gặp khó khăn và không
tránh khỏi cái chết, không có lý do nào cho rằng A sẽ có số phận khác (dĩ nhiên
luôn đoán rằng A đã buộc chính mình không chấp nhận sự can thiệp của thần
thánh). Thật vậy, chỉ bởi Chân lý thật, sự tốt lành thật, cái đẹp thật, Đức Chúa Trời
thật được nhìn thấy trong hình dáng con người, điều đó hữu lý khi hình dung rằng
tất cả những quyền lực của ác linh ghét sự thật và yêu cái tôi sẽ gia nhập những lực
lượng chống lại người xâm nhập không được đón tiếp cách vui mừng này. Sự
xuyên tạc, sự vu khống, sự đè nặng của tập tục và quyền thế lâu đời, sự tuyên
truyền sai lạc - tất cả vũ khí này sẽ được sử dụng để chống lại A. Nếu A phải
chứng tỏ mình, thì A sẽ không ăn năn và không thể bị mua chuộc và đường đến
hoàn toàn với của cái ác. A có thể sẽ bị bỏ tù, thậm chí bị kết án tử với lời buộc tội
không tưởng nào đó. Nếu điều này xảy ra dĩ nhiên nó sẽ là một trường hợp mỉa mai
không có sự tương ứng trong lịch sử giới! Đức Chúa Trời hoạch định và sắp đặt
một sự thăm viếng thế gian cho chính Ngài, và phản ứng của thế gian này là từ bỏ
Ngài!
Dĩ nhiên đây chỉ là một mặt của bức tranh. Có thể có nhiều người nhận thấy điều A
đang dự định và những người bị khích động sâu sắc bởi tính cách và cuộc đời của
A. Có thể có nhiều người dần dần nhận ra rằng lời xưng mình là Đức Chúa Trời
của A rất có thể là đúng. Tuy nhiên sự nghiệp giảng dạy chân lý của A có dài hay
ngắn, thì điều gì đó trong lời người nói và việc người làm đã được ghi nhớ hoặc
được viết lại trong những văn bản, thậm chí nếu A bị đẩy đến trại tập trung, hoặc
bị giết theo luật pháp thì chân lý ấy vẫn còn. Một số người có thể đã nhận ra ý
nghĩa của con người mà họ đã sống, làm việc và trò chuyện với, và số khác đã hiểu
được giá trị to lớn trong lời A rao giảng cho nhân loại, những người này sẽ nỗ lực
rao truyền ra cho thế giới. Nhưng nếu không là người quá hoài nghi, chúng ta có
thể kết luận cách lôgic rằng một thế giới không chấp nhận sự hướng dẫn của Đức
Chúa Trời khi sự hướng dẫn ấy ở ngay trước mặt họ với một hình thức dễ hiểu, thì
thế giới đó, ngoại trừ một ít người, sẽ không nghiêm túc chấp nhận những lời tuyên
bố của vài người tôn thờ một người đã chết.
VII. A đã đến?
Khá nhiều người trên khắp thế giới đã kết luận rằng A theo giả thiết đó đã xuất hện
trong lịch sử - thật ra A ngang bằng một người, đó là Giê-xu, người đã được sinh ra
ở Palestine khoảng 19 thế kỷ trước. Hầu hết những khả năng mà chúng ta đưa ra có
thể đã xảy ra nếu Đức Chúa Trời phải bước vào thế gian bằng phương tiện của con
người và về một lịch sử đã được ứng nghiệm trong cuộc đời và sự giảng dạy của
Chúa Giê-xu. Và có một số đặc điểm thêm vào rất đáng kể khác khó phỏng đoán,
và chúng ta sẽ quan tâm những đặc điểm ấy khi thích hợp.
Dĩ nhiên nó là một bước tiến rất lớn về tri thức (nó đang được thấy và mất cảm xúc
về đạo đức) để chấp nhận đặc điểm lịch sử nổi bật này như sự nhìn thấy đã được
định trước về Đức Chúa Trời trong cuộc đời của con người. Nó không được thực
hiện dễ dàng hơn bởi con người phần lớn không từ bỏ tính đa cảm, sự tôn sùng tục
mê tín, và những mối liên hệ theo truyền thống xung quanh Ngài. Rõ ràng đây
không phải là một vấn đề dễ dàng cho một tâm trí chân thành trong hiện tại để hiểu
rõ những sự bồi dần, những điều không thích hợp và nhận thấy một Thân vị - một
Bản tính - đặc biệt vì những bản ghi chép, dù chúng được xem xét cách kỹ lưỡng
hơn bất kỳ tài liệu lịch sử nào khác, có số lượng rất ít. Hơn nữa những ai có ảnh
hưởng mơ hồ trong thời thơ ấu về một Chúa Giê-xu, thì không bao giờ dùng những
khả năng trưởng thành của họ để phê bình vấn đề này. Họ dường như khó nhận ra
tầm quan trọng lớn nhất của lên Ngài xưng mình là Đức Chúa Trời. Tuy nhiên nếu
tạm thời chúng ta hình dung lời xưng nhận ấy là đúng thì tâm trí hầu như quay
cuồng với ý nghĩa của nó. Chỉ có thể có nghĩa rằng đây là Chân lý, đây là Bản tánh
của Đức Chúa Trời, Bản Thiết Kế thật cho sự sống, Tiêu Chuẩn so sánh đích thực
cho những giá trị, sự khẳng định hoặc sự sửa đổi đáng tin cậy cho tất cả sự tìm
kiếm và những ý niệm mơ hồ về Cái Đẹp, Chân Lý, và Điều Tốt Lành, về thế gian
này và thế giới mai sau. Cuộc sống không bao giờ hoàn toàn tăm tối hoặc hoàn
toàn vô nghĩa nếu một khi chìa khoá mở ra ý nghĩa của nó nằm trong tay chúng ta.
Mặc dù sự nghiên cứu đúng mức và chân thành về những tài liệu có thể dùng được
là rất cần thiết, nhưng để khẳng định Chúa Giê-xu thật sự là hiện thân của Đức
Chúa Trời trong hình dáng con người, chỉ là một quyết định thuộc về tâm trí. Tâm
trí vô thức của chúng ta sẽ cảm nhận (thậm chỉ nếu một tâm trí có ý thức không
cảm nhận) rằng chấp nhận Sự Thật duy nhất như vậy không thể không ảnh hưởng
đến toàn bộ đời sống chúng ta. Với tính độc lập hoàn toàn chúng ta có thể nghiên
cứu và đánh giá về tôn giáo, nhưng chúng ta không thể duy trì tính độc lập của
mình nếu đối tượng tìm hiểu của chúng ta lại chính là Đức Chúa Trời. Dĩ nhiên đây
là lý do nhiều người trí thức khác dựng nên một con đường vòng hữu hiệu quanh
lời Chúa Giê-xu xưng mình là Đức Chúa Trời. Là người sáng suốt và có trí tưởng
tượng, họ hoàn toàn biết rằng một khi chấp nhận lời xưng nhận ấy là đúng tức họ
phải điều chỉnh lại những mục đích, giá trị và ảnh hưởng của chính mình, đây là
điều họ không muốn thực hiện. Mô tả Chúa Giê-xu như một hình ảnh vĩ đại nhất
của lịch sử hoặc là một thầy giáo đạo đức tốt nhất mà thế gian này từng thấy,
không hứa hẹn gì cho ai. Nhưng một khi để cho tâm trí bị hốt hoảng chấp nhận sự
thật rằng người này thật là Đức Chúa Trời được hiện thân rõ ràng có lẽ hứa hẹn
điều gì đó cho mọi người. Có mọi lời bào chữa cho sự dò dẫm trong bóng tối,
nhưng trong ánh sáng không có gì bị che khuất khỏi thực tế, chính bởi chúng ta
nhận thức rõ điều này, và không chỉ vì chúng ta cảm thấy bằng cớ này quá xa xưa
và ít oi, mà chúng ta lưỡng lự kết buộc chính mình với một niềm tin vượt xa như
vậy, niềm tin cho rằng Chúa Cứu Thế Giê-xu thật sự là Đức Chúa Trời.
Nhưng dĩ nhiên chúng ta không hoàn toàn không cam kết chính mình trong sự
miễn cưỡng! Chúng ta muốn làm thoả mãn những ước muốn khát khao của chúng
ta đối với sự thật, chúng ta muốn biết ý nghĩa của cuộc sống và muốn có những cơ
sở thuộc linh mà trên đó chúng ta có thể xây dựng một đức tin để sống. Tóm lại,
chúng ta muốn biết Đức Chúa Trời. Chúa Cứu Thế Giê-xu đã đưa ra ba dấu hiệu
đáng lưu ý! Nhờ ba dấu hiệu này con người có thể biết được lời xưng nhận của
Ngài và sự mặc khải của Ngài là đúng (không bởi “bằng chứng” khoa học, nhưng
bởi lòng tin vững chắc rằng điều đó hoàn toàn hợp lý đối với họ, nó phát sinh trong
họ), ba dấu hiệu nằm trong ba lời phán của Ngài mà mọi người đều biết ngay đến
những người không quen nhiều với các sách Phúc Âm.
- “Nếu ai khứng làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời, thì sẽ biết đạo lý ta có phải
là bởi Đức Chúa Trời, hay là ta nói theo ý ta” (GiGa 7:17)
- “Ai đã thấy ta tức là đã thấy Cha” (GiGa 14:9)
- “Ta là đường đi, lẽ thật, và sự sống, chẳng bởi ta thì không ai được đến cùng
Cha” (GiGa 14:6)
Ba lời này, đặc biệt là hai lời sau, quá ngạo mạn nếu chúng được nói ra bởi một
thầy dạy đạo đức là con người chính cóng, nhưng chúng chắc chắn được nói ra bởi
A hay Chúa Cứu Thế Giê-xu nếu Ngài thật là Đức Chúa Trời. Chúng ta hãy xem ý
nghĩa của ba lời này.
a. Trên thực tế Chúa Giê-xu nói rằng sẽ không có sự chấp nhận nào đối với lẽ thật
về cách sống mà Ngài đưa ra như một cách sống đúng đắn cho đến khi con người
được sửa soạn làm thành ý muốn, tức hợp tác với mục đích của Đức ChúaTrời.
Điều này đồng thời loại trừ những lời phê bình suông về Cơ Đốc giáo và bất kỳ sự
đánh giá hời hợt nào về những phẩm chất tốt của nó. Chúa Cứ Thế đã nói “Các
ngươi không thể biết cho đến khi các ngươi sẵn lòng làm theo”.
Từ các sách Phúc Âm có thể thấy rõ Chúa Cứu Thế xem sự yêu thương bản thân sự
quan tâm đến bản thân và sự làm lợi cho bản thân như đối lập trực tiếp với cách
sống thật. Hai luật lệ cơ bản của Ngài đối với cuộc sống đó là “năng lực tình yêu”,
thay vì bị thu mình nó trước hết nên dành cho Đức Chúa Trời và sau đó cho những
người khác. Ngài nói “Nếu ai theo ta, hãy từ bỏ chính mình (tức từ bỏ xu hướng
yêu bản thân) vác thập giá mình (tức gánh chịu cái giá đau đớn cho sự từ bỏ đó)
mà theo ta (tức sống cách tích cực theo những nguyên tắc mà Ta dạy và giải thích).
Giờ đây khi con người thực hiện điều này, thậm chí cách tạm thời và không quả
quyết, anh ta nhận thấy chính mình có liên hệ với điều gì đó thật hơn điều anh ta
tiếng biết trước đây, có một ý nghĩa rằng anh ta đang chạm phải một dòng suối sâu
và mạnh mẽ, nó chạy xuyên qua cuộc sống. Nói cách khác, ngay lúc anh ta thực sự
biết yêu thương thì anh ta nhận thấy chính mình có mối liên hệ với sự sống của
Đức Chúa Trời (và dĩ nhiên, nếu Đức Chúa Trời là tình yêu thương thì đây là điều
duy nhất được chờ đợi). Bây giờ anh ta biết chắc đây là cách sống thật, cách sống
hạnh phúc và rất hữu ích. Giờ đây anh ta biết rằng lời dạy của Chúa Cứu Thế
không chỉ là một nguyên tắc cư xử của con người, nhưng là một phần của loại thực
tế này. Anh ta có thể cố tâm tìm kiếm cách sống này, anh ta có thể chạm được nó
bởi tình cờ hoặc thậm chí bởi ảnh hưởng của sự cần thiết, chẳng hạn như khi một
người chồng ích kỷ từ bỏ bản tính ích kỷ ấy bởi phải chăm sóc cho người vợ đau
yếu và dĩ nhiên anh ta có thể rơi lại con đường cũ, chỉ yêu bản thân. Nhưng suốt
thời gian anh ta ở gần mục đích sống của Đức Chúa Trời anh ta biết rằng đây là sự
sống thật. Dĩ nhiên điều này có thể làm cản trở và thậm chí chọc tức giới phê bình
vô tư, nhưng nó là sự thử thách hợp lý phổ thông mà hiệu lực của nó thực sự không
thể phủ nhận.
b. Chúa Cứu Thế khẳng định rằng Ngài thể hiện cách chính xác và đáng tin bản
tính của Đức Chúa Trời. Như chúng ta đã thấy ở trên, Ngài không thể bộc lộ hoàn
toàn Đức Chúa Trời, nhưng Ngài có thể thể hiện trong hình ảnh con người một bản
tánh mà con người có thể hiểu, ngưỡng mộ, yêu thương và kính trọng, hoặc thậm
chí sợ hãi và thù ghét.
Những ai chấp nhận lời xưng này sẽ nhận thấy Ngài là một khe hở mà qua đó sự
bao la và huy hoàng của Đức Chúa Trời có thể được nhìn thấy. Không điều gì khoa
học bày tỏ, không điều gì mà tất cả sự phức tạp của tư tưởng hiện đại có thể đòi hỏi
trong khái niệm của nó về Đức Chúa Trời, hoặc bỏ xa hoặc làm lỗi thời Bản Tánh
đã được mạc khải. Thật vậy sẽ là một sai lầm khi cho rằng Đức Chúa Trời vĩnh cửu
đó không “lớn hơn” Chúa Giê-xu người Na-xa-rét, bị giới hạn bởi thời gian, không
gian và hoàn cảnh. Nhưng những ý tưởng lớn nhất, rộng nhất và cao nhất về Đức
Chúa Trời, mà tâm trí có thể nghĩ ra, sắp xếp chính chúng mà không có sự bất hoà
và tính phi lý xung quanh bản tánh mà Chúa Giê-xu đã mạc khải.
Một lần nữa chúng ta không có “chứng cớ” khoa học nào về điều này. Nhưng
ngươc lại những ai khước từ lời xưng nhận của Chúa Gie-xu phải đặt ra, và giữ gìn
một cách tích cực với nỗ lực liên tục về mặt tinh thần, một Đức Chúa Trời mơ hồ
của những giá trị cơ bản, những ai chấp nhận lời xưng này nhận thấy có thể với sự
sửng sốt, rằng Đức Chúa Trời trở nên có thực và “có thể được biết đến” mà không
cần một nỗ lực nào.
c. Nếu Chúa Cứu Thế Giê-xu là Đức Chúa Trời thì Ngài chắc chắn phán rằng Ngài
là đường đi, chân lý và sự sống, hoặc những lời có ý nghĩa tương đương, và chúng
ta nhận thấy Ngài nói thêm một sự thật không thể thay đổi đó là không ai có thể
đến cùng Đức Chúa Trời nếu không qua Ngài. Đây là một thách thức không dựa
vào lý thuyết, Thật sự nếu không qua Ngài thì loài người có thể biết Đức Chúa
Trời hay không? Chắc chắn có một số vấp ngã trên cách sống của Chúa Cứu Thế,
thậm chí trên Thánh Linh của Ngài, mà không nhận ra chúng ở đâu. Nhưng thật rất
ý nghĩa, những người khước từ lời xưng nhận của Chúa Cứu Thế như điều kỳ diệu,
hoặc thậm chí phớt lờ nó, thì không nhận biết Đức Chúa Trời; ngược lại có nhiều
người rất giản dị với một ít giáo lý thần học và triết lý sống lại nhận thấy rằng họ
“biết Đức Chúa Trời” khi họ đặt lòng tin vào bản tánh mà họ có thể tin cậy và kính
yêu. Ít nhất nhiều lời nhạo báng giới trí thức cấp cao do có “đức tin đơn giản” có
thể bắt nguồn từ sự ganh ghét nào đó. Giới trí thức vô tư, những người sẽ không
phó thác chính mình, trong sâu kín tấm lòng họ biết rằng mình không nhận biết
Đức Chúa Trời, thật vậy tất cả những điều họ biết xa cách Ngài hàng triệu dặm.
Tuy nhiên người nào chấp nhận lời xưng của “Đức Chúa Trời được nhìn thấy” thì
nhận ra Đức Chúa Trời là một thực tế sống, và sự tranh luận và sự khinh rẽ tất
nhiên sẽ bỏ họ lại trong lạnh lùng như vậy.
Rõ ràng chấp nhận lời xưng của Chúa Cứu Thế sau khi suy nghĩ cách cẩn thận và
hợp lý, hoàn toàn là sự cầu may. Vì chính quyết định này, như hàng ngàn người đã
chứng minh, sẽ mang theo nó sự chấp nhận trong tấm lòng rất rõ ràng, có bao
nhiêu tranh luận cho sự chấp nhận này cũng xứng đáng.
VIII. Những nguyên tắc cơ bản của cuộc sống (I)
Thật không dễ dàng tóm tắt chính xác Bản Tánh và Chân Lý được mạc khải bởi
Chúa Cứu Thế Giê-xu, thậm chí nếu chúng ta không bỏ qua các phần tóm tắt đó
trong những tài liệu mà chính chúng ta cho rằng chúng ta ghét và không hoà hợp.
Trong nước “Cơ Đốc giáo” này tất cả chúng ta hầu như có quan niệm nào đó được
nhận thức trước, thậm chí rất mờ hờ, về bản tánh Đức Chúa Trời và chúng ta cần
đề phòng “sự đọc to lại” những việc làm và lời phán của Ngài, những điều tâm trí
chúng ta nghĩ về Ngài. Con người đã chế ngự, sửa đổi và “giải thích” quá nhiều về
sứ điệp của Ngài đến nỗi nhiều “lưỡi của nó bị cùn đi”. Và sự tôn sùng của chúng
ta về phẩm chất văn học cao của bản dịch A.V. (Authorized Version) quen thuộc
cũng không làm được gì nhưng chỉ gây cảnt rở mà thôi. Lẽ thật nên được xem như
sự thật, nó được xem là “một tư tưởng đẹp” may mắn lắm là “một chân lý về tôn
giáo” hơn là một sự khả thi và xác thực để chúng ta hoạt động và xây dựng trên nó.
Một “sự thật” trong nghiên cứu tâm lý hoặc trong khoa học y khoa chẳng hạn được
chấp nhận là “đúng” hơn lời phán của Chúa Cứu Thế. Tuy nhiên nếu Cứu Chúa là
Đức Chúa Trời thì sư thật ấy sẽ là một con đường vòng khác.
Vì vậy nó có thể giúp trình bày những nguyên tắc cơ bản của Chúa Cứu Thế
Giê-xu trong một hình thức có phần xa lạ.
Lẽ thật mà Chúa Cứu Thế Giê-xu giảng dạy là cách sống đúng đắn. Nó không là
một tôn giáo, thậm chí không là một tôn giáo tốt nhất, nhưng chính Đức Chúa Trời
đang giải thích bằng ngôn ngữ mà loài người có thể hiểu phải sống thế nào cho có
ý nghĩa. Tất nhiên vì có một Đức Chúa Trời và sự sống là quan niệm của Ngài, và
vì “tôn giáo” bởi được xác định là sự liên kết loài người và Đức Chúa Trời, sẽ có
một tính chất tôn giáo đối với vấn đề này, nhưng chúng ta sẽ phạm một sai lầm
quen thuộc nếu chúng ta không nhận ra Đấng Christ đang hướng dẫn toàn bộ sự
sống, và không phải Ngài, nhưng chính chúng ta đang chia ra một phần riêng và
gọi nó là “tôn giáo”.
Nếu chúng ta chấp nhận lời xưng là Đức Chúa Trời của Chúa Cứu Thế, thì chúng
ta có quyền hy vọng những sự thật cơ bản nào đó sẽ được nói cho chúng ta trên
quyền lực của Ngài, để dù bất cứ trường hợp nào chúng ta cũng có thể trở nên
những người hợp tác thông minh và sẵn lòng với toàn bộ cách các Sự Việc đang
xảy ra mà chúng ta gọi là cuộc sống. Vậy thì đây là những nhu cầu của chúng ta,
được đặt dưới dạng những câu hỏi đơn giản.
1. Đức Chúa Trời là người thế nào?
Câu trả lời của Chúa Cứu Thế rất rõ ràng. Ngài là “cha”. Khi chúng ta nghe chân lý
quen thuộc này chúng ta gần như luôn tra xét Bản Tánh của Đức Chúa Trời theo
điều mà chúng ta biết về người cha. Điều này có thể hiểu đầy đủ, nhưng nó làm
đảo ngược chân lý thực. Nếu Đức Chúa Trời là “Cha” trong Thiên Nhiên, Bản
Tánh và sự Vận Hành, thì chúng ta nhận được những đặc tính của mình từ Ngài
(nếu chúng ta là cha mẹ). Chắc chắn trên một tỉ lệ rất nhỏ và trong tình trạng hoàn
toàn lầm lỗi, chúng ta đang sao lại điều gì đó về bản tánh của Đức Chúa Trời. Nếu
một khi chúng ta chấp nhận rằng toàn bộ quyền năng đằng sau vũ trụ đáng kinh
ngạc này là bản tánh mà Chúa Cứu Thế chỉ có thể mô tả như “Cha”, thì toàn bộ sự
sống này được tôn lên. Nếu thật sự chúng ta đang nhìn thấy những mối quan hệ của
con người rất vụn vặt và không hoàn hảo như là những ảnh hưởng thật của Bản
Tánh Đức Chúa Trời, thì một luồng ánh sáng ngay tức khắc loá lên trên mọi cuộc
sống mà chúng ta có thể nhìn thấy. Con người, và những mối quan hệ của chúng ta
với họ, ngay lập tức nên rất quan trọng. Hầu hết cuộc đời được nhận thấy chỉ là
khung cảnh của nó, giai đoạn của nó, “chỗ dựa” của nó - công việc của nó nằm
trong lãnh vực con người. Vấn đề đó chính là con người không phải sự việc. Như
vậy không thể tách rời Cơ Đốc giáo khỏi đời sống. Những ai đã nỗ lực tách rời tôn
giáo trong thời họ khỏi cuộc sống bình thường được Chúa Cứu Thế gọi là “kẻ giả
hình” tức họ đang thể hiện một vai trò diễn mà không phải dang thực sự sống.
2. Mục đích của cuộc sống là gì?
Chúa Cứu Thế không đưa ra câu trả lời cho câu hỏi này trong dạng yếm thế hiện
đại của nó, dạng này nói rằng “có đáng để sống chút nào không?” nhưng Ngài đáp
lời những ai muốn biết phải làm gì với sức sống, những tình cảm và những tài năng
mà họ được ban cho. Ngài cũng đáp lời cho những ai đã nhận thấy bằng trực giác
rằng cuộc sống hiện tại rất ngắn ngủi và không trọn vẹn và muốn biết làm thế nào
để được hoà nhập trong dòng chảy bất tận của cuộc đời bất tận. Những câu hỏi này
giống nhau rất nhiều. Trong cả hai trường hợp con người điều muốn biết làm thế
nào để họ có thể làm một với mục đích thật của cuộc sống. Và dĩ nhiên họ vẫn còn
muốn biết nữa. Chúa Cứu Thế đã phán có hai nguyên tắc chính về cách sống và
mọi đạo lý và sự uyên bác thật có thể nói phải tuỳ thuộc vào hai nguyên tắc ấy.
Thứ nhất, phải kính yêu Đức Chúa Trời với tất cả tấm lòng mình, và thứ hai phải
yêu thương anh em bằng hữu như yêu chính bản thân mình. Nếu người nào vâng
giữ hai nguyên tắc này thì theo Cứu Chúa người đó được hoà hợp với Mục đích
của sự sống, một mục đích vượt thời gian.
Hai nguyên tắc này, một trong số đó liên quan đến sự Vô Hình và sự không đổi,
nguyên tắc còn lại liên quan đến sự hữu hình và có thể thay đổi, bao gồm toàn bộ
những mối quan hệ trong đời sống một con người. Chúa Cứu Thế làm cho chúng
trở nên rất thiết thực và được liên kết thành một khối vững chắc. Sự biểu lộ tình
yêu dành cho Đức Chúa Trời không nằm ở lòng tôn kính bình thường cũng không
ở sự tư duy huyền bí, nhưng ở sự vâng theo ý muốn của Đức Chúa Trời, thật ra ý
muốn đó thường có nghĩa là cứu giúp và phục vụ cho người khác. Loài người
không thể “làm bạn với” Đức Chúa Trời chỉ với điều kiện là vâng phục Ngài hoàn
toàn, và thậm chí để “làm bạn” với con người cũng vậy. Cứu Chúa phán rõ rằng
không thể nào trong bản chất của sự vật con người vừa hoà thuận với Đức Chúa
Trời lại vừa mâu thuẫn với người lân cận mình. Sự thật làm người ta lo lắng này
thường được bưng bít, nhưng không thể phủ nhận rằng Chúa Cứu Thế đã nói đến
nó, và chân lý của nó được cất giữ (hoặc chúng ta có thể nói cách hợp lý hơn là
được ướp hương) trong lời cầu nguyện xin sự tha thứ trong bài “Cầu nguyện
chung” quen thuộc.
Mục đích của cuộc sống dường như là sự chiến thắng từ từ của con người để đạt
đến sự trung thành hết lòng với hai nguyên tắc này, sự thiết lập luật lệ của Đức
Chúa Trời. Chúa Cứu Thế đã đặt tên cho nguyên tắc thứ nhất là nguyên tắc “chính
và quan trọng nhất”, có thể vì nếu những nguyên tắc và giá trị không được lập nên
bởi tình yêu thương dành cho một Đức Chúa Trời thật thì sẽ “không có đủ tình yêu
thương để vận hành”. Thế gian này sẽ tiếp tục yêu thương cái phạm vi được chọn
của nó, tiếp tục xem thường, lợi dụng hoặc thù ghét phạm vi bên ngoài nó trừ khi
lòng con người trước hết được hoà hợp với “Đức Chúa Cha”. Những ai đề cao
nguyên tắc thứ hai mà quên đi nguyên tắc thứ nhất, đã chứng tỏ hết lần này đến lần
khác sự khôn ngoan của sự chọn lựa của Cứu Chúa về trật tự của họ.
IX. Những nguyên tắc cơ bản của cuộc sống (II)
3. Điều gì thật sự không ổn với thế gian này?
Đây là một câu hỏi cực kỳ quan trọng nếu chỉ vì nó được hỏi quá thường xuyên và
được trả lời bằng quá nhiều cách khác nhau. Chúa Cứu Thế đã giải đáp nó, không
trực tiếp, nhưng chỉ bởi lời bóng gió. Trong lời chẩn đoán, ở đây cho rằng có lẽ
quan trọng nhất trong tất cả khi nhận ra quyền lực tối cao của điều Chúa Cứu Thế
đã nói. Không ai trong chúng ta suy nghĩ hoặc nói hoặc cảm giác mà không có sự
thành kiến, và tất cả chúng ta dễ gắn những sự thật vào một học thuyết. Chúa Cứu
Thế không có thành kiến và không có học thuyết. Ngài đến để ban cho chúng ta
những sự thật, và chúng rất đơn giản là “sức mạnh để yêu thương” mà Ngài giới
thiệu, nên được dành cho Đức Chúa Trời và người xung quanh, sức mạnh tình yêu
này đã từng thu mình lại. Những vấn đề cơ bản về niềm hạnh phúc không thuộc tri
thức nhưng thuộc cảm xúc. Theo Chúa Cứu Thế nó “nằm ngoài tấm lòng” mà ở đó
phát sinh mọi điều làm đổ vỡ những mối tương quan hoặc giữa cá nhân với nhau
hoặc giữa các nhóm người.
Rõ ràng nếu chúng ta chấp nhận hai nguyên tắc lớn nhất của Chúa Cứu Thế, thì
“tội lỗi” đó sẽ nằm trong sự chọn lựa để theo đuổi chúng. Đối với Cứu Chúa
Giê-xu tội lỗi nghiêm trọng nhất không phải là việc dùng không đúng chỗ năng lực
tình yêu, có thể do sự ngu dốt hoặc chỉ do bất cẩn, nhưng là sự chọn lựa cố ý để nó
trôi chảy hoặc đến Đức Chúa Trời hoặc đến với những người khác. Điều này giải
thích một số thay đổi đáng ngạc nhiên của Đức Chúa Trời trong việc xét đoán đạo
đức thông thường. Chính sự kiêu hãnh sự tự cao và sự lợi dụng người khác, đã làm
cho Ngài nổi cơn thịnh nộ. Thật vậy Ngài xem tình yêu cái tôi như một kẻ thù quái
ác. Con người còn phát hiện và tiêu diệt bản tánh này một cách thậnt rọng nếu
muốn đi theo con đường yêu thương mang tính xây dựng của Ngài.
Suy nghĩ một chút chúng ta sẽ thấy sự sáng suốt của Ngài thật sự như thế nào.
Trong khi không có “tội lỗi” nào mà chúng ta có thể biết lại không xuất phát từ
tình yêu cái tôi, tuy nhiên những tội lỗi làm tổn hại nhất là gây đau khổ nhất là
những tội lỗi làm toại nguyện nhất lòng yêu cái tôi.
Trong hoàn cảnh như vậy thời gian của Cứu Chúa rất ngắn và Ngài đã không lãng
phí nó để giải quyết những dấu hiệu tồn tại của cái xấu. Nó là động cơ và thái độ
của tấm lòng tức là trung tâm cảm xúc mà Ngài quan tâm. Nó là điều Ngài kêu gọi
loài người thay đổi, vì rõ ràng một khi những tình cảm trong lòng được liên kết với
Đức Chúa Trời thì sự biểu lộ bên ngoài của cuộc sống sẽ chịu trách nhiệm với
chính nó.
4. Đức Chúa Trời dự định loài người phải là người thế nào?
Đối với câu hỏi này Chúa Cứu Thế đã trả lời rõ ràng và đầy đủ, nếu quan tâm
nghiêm túc nó sẽ thật sự gây sửng sốt cho người học thức, Ngài đã đảo ngược hoàn
toàn những giá trị và những ước muốn bình thường, dù nhiều người bỏ qua sự thật
chắc chắn này bởi vì thể loại thơ và ngôn ngữ rất cổ xưa của những điều mà ngày
nay chúng ta gọi là “Các Phước Lành”. Tính chất cách mạng này trở nên rõ ràng
ngay tức khắc tuy vậy nếu chúng ta thay “hạnh phúc cho” bằng “Phước cho” (điều
này hoàn toàn hợp lý) và nếu chúng ta diễn giải dài dòng những ngữ điệu quen
thuộc của bản dịch A.V. và đặt nhiều suy nghĩ hơn trong hình thức mà trong đó
chúng ta chấp nhận một cách bình thường những sự thật và những sự định nghĩa.
Chúng ta có thể làm giảm nhẹ tính chất thật của chúng bằng cách đối chiếu từng
“phước lành” với cái nhìn bình thường của con người và thế giới trong suốt những
thế kỷ qua, chúng ta có thể thực hiện như sau:
Hầu hết con người đều nghĩ:
Hạnh phúc cho những kẻ trục lợi, vì họ được sống trong thế gian này.
Hạnh phúc cho người ương ngạnh, vì họ không bao giờ để cho cuộc sống làm tổn
thương họ.
Hạnh phúc cho những ai phàn nàn vì cuối cùng họ có con đường riêng của họ.
Hạnh phúc cho kẻ chán chường, vì họ chẳng bao giờ lo lắng vì tội lỗi mình.
Hạnh phúc cho những cai nô vì họ đạt được những thành quả.
Hạnh phúc cho những người am hiểu thế giới này, vì họ biết con đường của họ đó
đây.
Hạnh phúc cho những kẻ gây rối vì người ta phải chú ý đến họ.
Chúa Cứu Thế Giê-xu đã phán:
”Phước cho những kẻ có lòng khó khăn vì Nước thiên đàng là của những kẻ ấy!
Phưtóc cho những kẻ than khóc, vì sẽ được an ủi!
Phước cho những kẻ nhu mì vì sẽ hưởng được đất!
Phước cho những kẻ đói khát sự công bình, vì sẽ được nó đủ!
Phước cho những kẻ hay thương xót, vì sẽ được thương xót!
Phước cho những kẻ có lòng trong sạch, vì sẽ thấy Đức Chúa Trời!
Phước cho những kẻ làm cho người hoà thuận vì sẽ được gọi là con Đức Chúa
Trời!
Phước cho những kẻ chịu bắt bớ vì sự công bình, vì nước Thiên đàng là của những
kẻ ấy!”
Khá rõ ràng Chúa Cứu Thế đang xây dựng những lý tưởng của phẩm chất khác với
những lý tưởng được đại chúng chấp nhận. Ngài đang phát thảo một dạng những
đặ tính của con người mà có thể nói cách thích đáng rằng những đặc tính này đang
hợp tác với mục đích của cuộc sống, và bởi lời bóng gió Ngài đang phơi bày một
phương thức sống thông thường về cơ bản phụ thuộc vào sự yêu cái tôi và phương
thức sống này dẫn đến mọi sự bất hạnh.
Chúng ta nên chú ý “phương cách” để sống hạnh phúc và hữu ích là thuộc nỗ lực
chung. Nó không tương ứng với những sự khác nhau về tính khí và những sự thay
đổi trong khả năng. Nó phát hoạ một loại bản tánh hợp lý đối với mọi người được
ân tứ hoặc không được ân tứ tương đối, mạnh mẽ hoặc yếu đuối, nhanh nhẹn hoặc
chậm chạp (sáng ý hoặc tối đa). Một lần nữa chúng ta nhận thấy Chúa Cứu Thế
vạch rõ những đặc điểm bên ngoài, nhưng trên thái độ quan trọng bên trong.
Cũng nên chú ý mặc dù chúng ta gọi những định nghĩa của Ngài là “sự cải cách”
nhưng chúng rất thực tế. Thật vậy rất nhiều người có thể nhận ra rằng khi theo
chúng con người trở thành những cái tôi thật của họ và không là những bản tánh
tham lam, ganh đua, yêu bản ngã; những bản tánh này là nguyên nhân gây ra nhiều
rắc rối cho thế gian. Chúa Cứu Thế đang khôi phục một trật tự đúng, con người có
thể công nhận nó đúng, Ngài không áp đặt một bộ luật độc đoán.
5. Chúng ta sẽ hiểu thế nào về nỗi đau khổ và bệnh tật, sự bất công và sự gian ác?
Chúng ta nhận thấy những điều mà nhiều người phóng đại lên như một chướng
ngại lớn nhất của niềm tin tôn giáo thì được Chúa Cứu Thế chấp nhận như một
phần tạo nên cuộc sống. Ngài không làm ra vẻ chúng không tồn tại Ngài đương
đầu cách cá nhân với chúng bằng cách lập lại, bất cứ khi nào có thể, trật tự đúng về
sức khoẻ, sự minh mẫn và lòng tốt hữu ích. Ngài không đưa ra lời hứa rằng những
ai đang theo Ngài trong hoạch định tái thiết lập sự sống trên những nguyên tắc cơ
bản và hợp lý sẽ có khả năng miễn dịch đặc biệt đối với nỗi đau khổ và buồn phiền
- chính Ngài cũng không kinh nghiệm khả năng miễn dịch như vậy. Tuy nhiên
Ngài đã hứa hẹn một sự vui mừng và lòng dũng cảm đủ, một tình yêu thương và
lòng tin đủ trong Đức Chúa Trời để những ai đi theo đường lối Ngài có thể làm
được gì đó hơn là chỉ tồn tại trên thế gian. Bởi họ ở trong sự hoà thuận với sự sáng
và Thánh Linh của chính Đức Chúa Trời nên họ có khả năng đánh bại cái ác. Họ
có thể dành thế chủ động và tiêu diệt cái xấu bằng cái tốt.
Mặc dù Chúa Cứu Thế đã không giải thích rõ ràng về sự tồn tại của nỗi đau khổ và
sự gian ác trong thế gian, nhưng Ngài ám chỉ những sự kiện đáng để chúng ta quan
tâm cách nghiêm túc.
a. “Vi phạm những luật lệ” có nghĩa là chịu khổ đau. Hoạt động của lòng yêu cái
tôi ở mức độ lớn, có nghĩa vi phạm hàng loạt hai nguyên tắc cơ bản của Ngài đối
với sự sống con người không thể nhưng có nghĩa là sự “tiêm nhiễm” lan tràn và rất
phức tạp của sự đau khổ. Con người không phải là một đơn vị riêng lẻ và mọi hoạt
động của họ ở một vài mức độ, có ảnh hưởng đến người khác. Sự nhân lên những
ảnh hưởng của vô số hành động bởi hàng triệu con người chỉ quan tâm cái tội thay
vì quan tâm Đức Chúa Trời, có thể được nghĩ cách hợp lý rằng nó đang huỷ hoại
thế giới. Cách duy nhất để con người được giải cứu khỏi vòng lẩn quẩn tội lỗi - đau
khổ mà trong đó thế gian này có liên quan là phải tái tập trung cuộc sống của họ
vào Đức Chúa Trời. Họ có thể thực hiện được điều này bằng cách quyết tâm đặt
niềm tin mình nơi bản tánh mà Chúa Cứu Thế đã bày tỏ trong thân vị và do đó
nhận thấy rằng cuộc sống thật, trong sự hoà thuận với Đức Chúa Trời chính là sự
vâng theo Ngài và những nguyên tắc cơ bản của Ngài.
Như vậy không có câu trả lời dễ dàng nào cho vấn đề về sự gian ác và nỗi đau khổ
và cũng không có con đường dễ dàng nào để giải quyết nó. Nhưng Chúa Cứu Thế
đã khắc phục vấn đề này cách triệt để và thoả đáng bởi được sự ủng hộ của một vài
người đối với cách sống mới. Theo Ngài, hầu hết loài người đang đi trên con
đường rộng rãi với những tiêu chuẩn thông thường, con đường này mang trong nó
mối đe doạ về sự huỷ diệt. Con đường hẹp kèm theo những luật lệ căn bản, những
luật lệ này hoà hợp với Đức Chúa Trời nên không bị ảnh hưởng bởi vật chất,
không ảnh hưởng bởi điều mà chúng ta gọi là sự chết, thì cất rất ít người đi theo.
Hoạch định về sự giải cứu của Ngài (hoặc sự cứu rỗi, một từ được dùng nhiều)
phải được bắt đầu với một ít người. Họ phải là lực lượng tiên phong của cái tốt
chống lại cái xấu.
b. Chúa Cứu Thế đã nói rất rõ về quyền lực của ác linh, và đã sử dụng tiêng nói
của những người đương thời với Ngài, Ngài đã gọi quyền lực này là “Sa-tan”, “ma
quỉ” hoặc “kẻ gian ác”. Giờ đây dù bất cứ sự thuyền bá nào nằm đằng sau sự tồn
tại của quyền lực ác linh như vậy đi nữa - hoặc chúng ta chấp nhận quan niệm
Miltonic về quyền năng của một thiên sứ sa ngã hoặc chúng ta tưởng tượng một ác
linh trong thế giới này như sự phát sinh những ảnh hưởng tích tụ qua nhiều thế kỷ
của cách sống ích kỷ - cũng không thể lẫn tránh được điều Cứu Chúa đã phán và
hành động, trên giả định rằng có một quyền lực của sự xấu xa (ma quỉ) đang vận
hành trong thế gian. Nếu chúng ta chấp nhận lời Đấng Christ xưng Ngài là Đức
Chúa Trời là thật thì điều này khiến chúng ta phải suy nghĩ nghiêm túc.
Chúng ta quá quen với tư tưởng hiện đại xem cái ác no như “lỗi lầm”, như những
“vấn đề phát sinh” của nền văn minh, hoặc chỉ là một vấn đề không thể giải thích
được, một lần nữa những người học thức không sẵn sàng chấp nhận chính lời giải
thích của Đức Chúa Trời - đó là có một ác linh đang vận hành trong thế gian.
Chúng ta nhận thấy Cứu Chúa nói rất rõ ác linh này như có trách nhiệm đối với
bệnh tật và sự mất trí cũng như là một kẻ thu triền miên của những ai muốn đi theo
một trật tự mới và đúng đắn.
Con người hiện đại khao khát một lời giải thích đầy đủ và thường xem mình không
có cách nào giới hạn về mặt đạo đức trừ khi anh ta khống chế trọn vẹn những sự
thật ấy. Dĩ nhiên vì vậy mà thuyết bất khả tri luận lửng lờ trở nên phổ biến. Tuy
nhiên, dường như Chúa Cứu Thế, Đức Chúa Trời trở thành Người, đã không cho
con người lời giải thích đầy đủ về nguồn gốc và sự hoạt động của lực lượng gian ác
này trong thế gian. (Hoàn toàn có thể cho rằng trong sự tồn tại hiện nay của chúng
ta, chúng ta không thể nào hiểu được dù bằng bất cứ cách nào). Nhưng Ngài đã
thừa nhận cái xấu như là cái xấu, không phải như sự thiếu vắng cái tốt. Ngài đã
tiêu diệt cái xấu bất cứ nơi nào Ngài thấy nó tồn tại. Ngài đó chỉ ra những con
đường, mà đi theo nó cái xấu có thể bị đánh bại và Ngài đã nói về những nguồn
tích cực rất cần thiết cho sự đánh bại như vậy, và chúng ta sẽ xem xét nhưng nguồn
này sau.
X. Những câu hỏi cơ bản khác.
Chân lý về tội lỗi và sự tha thứ là gì?
Không sớm thì muộn câu hỏi này hoặc dạng này hay dạng khác phải được đưa ra
và cần lời giải đáp. Vì vấn đề về sự tiếp cận không hoàn toàn của loài người đến
với Sự Trọn Vẹn về đạo đức của Đức Chúa Trời là công việc của mọi tôn giáo
xứng với cái tên đó. Bởi hầu hết con người trong thời hiện đại đều không có nhận
thức nào về Đức Chúa Trời nên hầu như cũng không có nhận thức về “tội lỗi - vì
trong kinh nghiệm của loài người có một mối liên hệ rất ý nghĩa giữa hai nhận thức
này. Nơi nào nhận thức về Đức Chúa Trời trở thành một điều gì đó giống như thực
tế thì ở đó không sớm thì muộn sẽ nảy sinh nhận thức về tội lỗi và sự thất bại. Và
nơi nào có nhận thức về tội lỗi thì nơi đó có một niềm tin cắm rễ sâu rằng “phải
làm điều gì đó về nó”. Hoặc vật, thậm chí cả con người, bị đem làm sinh tế, những
của lễ chuộc tội với nhiều dạng và nhiều hoạt động của lễ rửa tội - tất cả chứng
minh cho sự khao khát muốn “làm điều gì đó” để nối gần hai bờ ngăn cách về đạo
đức giữa sự thánh khiết của Đức Chúa Trời và sự đầy dẫy tội lỗi của loài người.
Rất nhiều chủ đề uỷ mị (tức không thật) đã được nói và viết ra về vấn đề tội lỗi và
sự tha thứ, vì vậy chúng ta phải dọn lòng mình trước khi chúng ta nhận thấy ý
nghĩa của những điều Chúa Cứu Thế phải nói về chủ đề rất quan trọng này. Sau đó
chúng ta hãy bắt đầu bằng cách thực hiện những quan sát sau:
1. Chúng ta không đề cập đến vi phạm hay tội lỗi “giả tạo”
Trong phần đầu của quyển sách này chúng ta đã xem lương tâm có thể khiến cho
con người cảm thấy tội lỗi như thế nào, đơn giản bởi vì có những tiêu chuẩn và
những điều cấm kỵ nào đó đã được thiết lập trong tâm trí con người và anh ta đã
không “tuân theo giới hạn đó”. Tất cả các tôn giáo, đáng tiếc là không ngoại trừ Cơ
Đốc giáo, có xu hướng khuấy động trong nhóm người nào đó nhận thức giả tạo về
tội lỗi này, điều này có thể có ít hoặc không có liên hệ gì với địa vị thật của con
người trước Đức Chúa Trời. Có thể Pha-ri-si giáo bằng những lời khinh miệt cay
đắng; là tôn giáo thể hiện xu hướng này ở mức cao nhất; nhưng sẽ sai lầm khi nghĩ
rằng Pha-ri-si giáo đã biến mất sau khi Chúa Cứu Thế chịu thương khó. Mối nguy
hiểm của hệ thống này, và lý do tại sao Chúa Cứu Thế đã công kích nó gay gắt; đó
là những giá trị của nó là giả tạo. Những người kiêu ngạo và theo chuẩn mực cảm
thấy “tốt lành trước mặt Đức Chúa Trời” chỉ khi họ không được như vậy, và những
người khiêm nhuờng và nhạy cảm, cảm thấy tuyệt vọng và lo âu vì những lý do sai
lầm (phân đoạn ngắn mô tả về người Pha-ri-si và người thâu thuế của Chúa Cứu
Thế trong những lời cầu nguyện của họ là một lời tường thuật không thể quên về
quan điểm này).
2. Chúng ta không đề cập sự so sánh nhỏ nhặt với sự trọn vẹn.
Chúng ta đã nói ở phần đầu của sách này về những mối nguy hiểm của sự thờ lạy
Chúa “100 phần trăm” như Đức Chúa Trời. Nhiều nhận thức về tội lỗi, sự xấu hổ
và mặc cảm tội lỗi có trong những loại người nào đó đơn giản chỉ vì sự so sánh
(tưởng tượng) của họ về những tiêu chuẩn con người với điều mà họ nghĩ là những
tiêu chuẩn thần thánh. Dĩ nhiên họ cảm thấy thất vọng! Để khiến cho bất kỳ ai cảm
giác như một kẻ ngốc nghếch lầm lạc vô vọng, bạn chỉ cần dựng nên một tiêu
chuẩn, và tiếp tục nuôi dưỡng nó. Đây có thể là điều mà chúng ta so sánh với sự
khôn ngoan của Đức Chúa Trời, nhưng để ước chừng sự chưa hoàn chỉnh nhất của
nó, chỉ tiếp tục nuôi dưỡng tiêu chuẩn đó sẽ là điều vô cùng thấp kém đối với
Ngài! Tóm lại kết quả có thể dự báo chắc chắn đó là không có ai có thể sánh được
với Đấng tạo dựng nên họ, và không có nhận thức hay đáng giá nào cho rằng Đấng
Tạo Hoá muốn những vật thọ tạo của Ngài cảm thấy thấp kém và bị sỉ nhục vĩnh
viễn khi được so sánh với Ngài! Tuy nhiên sự so sánh này, luôn được che đậy và
cải trang, thường được thực hiện ở trong một dạng bài giảng nào đó và một dạng
sách tôn giáo nào đó. Nhưng cảm giác của sự tuyệt vọng và không thoả đáng mà
nó gây ra bị hiểu sai lầm là “sự lên án của tội lỗi”.
3. Chúng ta không đề cập đến sự nhục nhã không đáng kể
Nếu được kiểm tra tâm lý sẽ có rất nhiều người phản ứng với lòng oán giận dành
cho những từ như “tội lỗi”, “phạm lỗi”, “không vâng lời”, “hình phạt”, v.v.. Điều
này không nhất thiết vì cuộc sống trưởng thành của họ quá kiêu ngạo và tự mãn
đến nỗi họ phẫn nộ trước những lời phê bình, nhưng bởi trong lòng họ vẫn tồn tại
một vùng dễ đổ vỡ, dễ động lòng được nối kết với những tội nhẹ của thời thơ ấu.
Trừ khi họ may mắn khác thường thì có thể vẫn nhớ lờ mờ sự xấu hổ, sự nóng
giận, sự yếu đuối và sự nhục nhã của những lần tinh nghịch trong thời thơ ấu và
những hình phạt vì chúng, mặc dù họ đã quên những tình huống ấy lâu rồi. Nó
chính là sức ép và sự xung đột, mà chúng ta đã thắng hơn và thoát khỏi sự chi phối
ở lứa tuổi trưởng thành, và đối với họ xưng mình là “tội nhân” giống như tiếp tục
tình nguyện chịu đựng sự nhục nhã thời thơ ấu. Vì một cậu bé bị đánh vào mông
chẳng có gì quan trọng, nhưng đối với một người trưởng thành bị đánh là sự mất
danh giá không kể xiết. Dĩ nhiên nó thật sự không là sự lập lại tội lỗi và sự nhục
nhã thời thơ ấu mà một nhà truyền giáo đáng kính cố làm thức tỉnh, nhưng ông ta
dường như đang làm vậy. Có một nhận thức thật về tội lỗi không giống tình trạng
bị sỉ nhục chút nào.
Một nhận thức đúng mức về tội lỗi, mặc cảm tội lỗi, sự xấu hổ, nhận thức này liên
hệ với một Đức Chúa Trời thật, dường như bao giờ cũng để thức tỉnh (mặc dù
không lúc nào cũng thức tỉnh ngay) để xuất hiện ít nhất bốn con đường khác nhau,
chúng ta sẽ cố gắng minh hoạ 4 con đường này.
a. Chúng ta giả sử rằng có một người rất tự hào vì khả năng của anh ta có thể vẽ
xong rất nhanh một bức hoạ nhỏ với kết quả như ý, một lần anh ta phát hiện một
mảnh vải được gắn trên tường. Vì sự hài lòng của chính mình và sự đánh giá cao
của các bạn bè, anh ta vẽ nhanh một bức tranh nhỏ sáng đẹp, có hiệu quả và khiến
người ta thích thú. Bước lui ngắm tác phẩm của mình rõ hơn, đột nhiên anh ta phát
hiện rằng mình đã vẽ một chút vô nghĩa của mình trên một góc của bức tranh lớn
tuyệt vời nhất, nó lớn đến nỗi anh ta không nhận ra chiều dài của nó hoặc thậm chí
không nhận ra có một bức tranh ở đó. Cảm giác của anh ta rất giống với cảm giác
của một người khi anh ta đột nhiên nhận ra phạm vi rộng lớn của bản thiết kế của
Đức Chúa Trời trong cuộc sống, và thấy nỗ lực đáng khinh thường và không hoà
hợp mà cách sống của chính anh ta bấy lâu thể hiện trái ngược với cái nền đó. Đó
thật là sự lên án của tội lỗi.
b. Để minh hoạ con đường thứ hai để nhận thức thật về tội lỗi có thể đến, chúng ta
sẽ dùng một câu chuyện mà chúng ta tin có thật mặc dù không thể kiểm tra được
nguồn gốc của nó. Một người trẻ tuổi thuộc loại “hết thuốc chữa” lớn lên trong sự
lười biếng, bởi sự nhanh nhẹn bẩm sinh nào đó và tính hài hước vốn có anh ta xoay
sở được trong nhiều năm qua để tránh khỏi trở ngại nghiêm trọng trong đời. Câu
nói anh ta rất thích thốt ra là “Tôi sống cuộc đời của chính mình, và tôi không cần
bận tâm đến ai”. Tuy nhiên dần dần sự tự tin của anh ta vượt quá sức và anh ta bị
kết án với trọng tội và bị đi tù 3 năm. Ở trong tù anh ta vẫn cứng lòng và không hề
hối hận. Anh ta ngang bướng nói “Tôi làm gì với cuộc đời tôi không phải là
chuyện của người khác. Tôi sẽ không phạm cùng bốn lỗi lầm hai lần”. Sau này khi
ra tù, vì không có nơi nào khác để đi, anh ta quyết định ở nhà vài đêm để có thời
gian “đắn đo suy tính”. Anh ta đã không gặp mẹ mình kể từ ngày thấy bà to tròn
hồng hào đang đứng khóc như mưa ở góc xa trong phiên toàn xử án anh. Nhưng
khi cánh cửa nhà anh bật mở, một người đàn bà già yếu, tóc bạc phơ trước mặt anh,
ngay lúc đó anh ta không hiểu điều gì đã xảy ra, một vài giây nhìn chầm chầm
người đàn bà ấy rồi anh ta bật khóc “Ôi, mẹ con đã làm gì với mẹ rồi?” anh ta nức
nở nước mắt ràn rụa, không có hình phạt hay cảnh tù tội nào từng làm anh ta đau
buồn đến như vậy.
Câu chuyện này chỉ minh hoạ hình ảnh một người khi đột nhiên nhận ra nỗi đau
mà mình gây ra cho người khác bởi chỉ nghĩ đến bản thân mình. Thật đáng tiếc,
không có mấy ai nhận ra hậu quả bởi những việc làm sai trái của mình một cách
sống động như trong câu chuyện trên. Nhưng khi anh ta nhận ra anh ta có thể trải
nghiệm sự lên án trung thực của tội lỗi. Khi Saul Knore trong tác phẩm Everlasting
Mary của Masefield, mở to mắt mình, anh ta đột nhiên nhận ra “tổn hại nào tôi gây
ra thuộc về tôi”. Điều đó chính sự lên án của tội lỗi. Khi con người không chỉ nhận
thấy cuộc đời của mình nằm ngoài sự hoà hợp với mục đích của Đức Chúa Trời,
mà còn nhận ra sự bất hoà này đã gây tổn hại và tiêm nhiểm đến đời sống của
nhiều người, đó là lúc anh ta bắt đầu cảm nhận mạnh mẽ rằng mình là “một tội
nhân”.
c. Để minh hoạ điểm tiếp theo chúng ta phải nói đến một câu chuyện đơn giản, câu
chuyện này chắc chắn sẽ làm cho một người từng trải phải mĩm cười. Có hai thanh
niên cùng tuổi chọn hai con đường ở hai hướng khác nhau. A cương quyết tận
dụng mọi điều thú vị trong cuộc sống, mà anh ta có thể. B cũng cương quyết không
kém để “thành đạt”. Mặc dù bị bạn mình chế giễu B theo học “các lớp ban đêm” và
lúc rãnh rỗi anh ta chăm chỉ vùi mài với môn học anh ta đã chọn. Chúng ta giả sử
rằng hai người bạn này đi trên hai con đường khác nhau và không gặp nhau trong
nhiều năm. Sau thời gian đó, chắc chắn B đã thành đạt và có một địa đầy trọng
trách với mức lương cao. Còn A đã được rất ít. phản ứng của A khi gặp lại B có thể
là một chút ganh tị vô cớ, nhưng cũng có thể A sẽ tự nủh “Tôi quả là một thằng
ngốc, bao nhiêu cơ hội tôi để bỏ qua. B chính là loại người mà lẽ ra tôi phải
giống!”
Câu chuyện chất phát này minh hoạ khá rõ “sự lên án của tội lỗi” có thể phát sinh
thế nào. Một người sống cách ích kỹ và tình cờ gặp người nào đó đã tìm thấy hạnh
phúc và sự thoả lòng khi phối hợp với mục đích của Đức Chúa Trời mà anh ta biết.
Người thứ nhất có lẽ mạo nhận toàn bộ sự việc như một trò đùa. “Dĩ nhiên một lão
già luôn có chút ý thức về tôn giáo” - nhưng ông ta rất có thể nhận thấy trong
những người khác loại người mà lẽ ra chính ông phải giống như vậy. Những tiêu
chuẩn mà ông đã chế giễu và Đức Chúa Trời mà ông luôn giữ khoảng cách, đã tạo
ra một điều gì đó trong người khác, điều mà ông rất mong muốn. Nếu suy nghĩ của
ông về việc đã qua là “Tôi thật là một thằng ngốc” thì ông ta cũng đang bắt đầu có
một ý thức trung thực về tội lỗi.
d. Con đường thứ tư khó giải thích hơn; con đường để “sự lên án của tội lỗi” có thể
xuất hiện. Thật sự đó là sự phát hiện sức mạnh to lớn và không thể lay chuyển của
cái tốt thật và tình yêu thật. Người không trung thực căm ghét và lo sợ chân lý;
người thiếu trách nhiệm về tình dục tỏ vẻ hoài nghi về sự đam mê thật đang trải
qua, nhưng nơi sâu kín trong lòng anh ta căm ghét và sợ nó: người chỉ coi trọng
bản thân ghét và sợ sự ảnh hưởng không kể xiết của một nhân cách tận hiến quên
mình cho một sự nghiệp. Tóm lại người gian ác và chỉ quan tâm đến bản thân thật
sự e ngại người tốt. Họ biểu lộ sự e sợ ấy bằng những lời nhạo báng và thái độ hoài
nghi, và sự khủng bố tích cực khi hoàn cảnh cho phép.
Giờ đây khi ý thức về sức mạnh của cái tốt và tình yêu thương tác động trên một
người, hoặc bởi đời sống của một người khác, bởi điều gì đó anh ta đọc và thấy
được, hoặc bởi sự tác động bên trong tâm hồn anh ta, thì anh ta thật sự bị lên án vì
tội lỗi. Anh ta biết rằng sớm hay muộn gì trò chơi này cũng xảy ra - Bản Chất của
Sự Sống là Tốt Lành không phải Xấu Xa. Anh ta bất ngờ nhận thấy rằng sự tốt
lành và tình yêu thương mà anh ta khinh thường là sự hèn yếu thực tế lại mạnh mẽ
lạ thường. Phi-e-rơ có lần cảm thấy điều này về Chúa Cứu Thế và trong một phút
hoảng loạn đã kêu lên “Chúa ơi xin rời khỏi tôi vì tôi là người có tội”. Dĩ nhiên
một số người thành công trong việc kiềm giữ nỗi sợ hãi điều tốt lành (mà thật sự
nó là nỗi sợ Đức Chúa Trời) ở khoảng cách an toàn trong cả đời sống của họ,
nhưng họ sống trong mối đe doạ liên tục bởi sợ thực tế phơi bày, và khi nó phơi
bày thì sẽ có một ý thức mạnh mẽ về tội lỗi.
XI. Chúa Cứu Thế và vấn đề về tội lỗi.
Dĩ nhiên có nhiều con đường đích thực khác mà trong đó con người thấy sự thất
bại về đạo đức trước Đức Chúa Trời. Tuy nhiên anh ta có thể đi đến mức độ nhận
thức, sớm hay muộn thì anh ta cũng nhận ra điều gì có thể mô tả như sự phá sản
của địa vị anh ta. Ví dụ anh ta nhận thấy rằng cuộc sống của anh ta đã làm hại
nhiều người rằng mình đã phá hỏng bản thiết kế, rằng anh ta đã đóng vai một thằng
ngốc quá lâu trong cuộc đời mình. Có lẽ anh ta nhận rằng anh ta đã vi phạm trật tự
của sự vật. Tuy nhiên anh ta không thể làm được gì nhiều về điều đó. Có thể anh ta
hối tiếc và có thể anh ta nhận lỗi. Anh ta có thể quyết định làm tốt hơn trong tương
lai. Nhưng nếu ý thức của anh ta về tội lỗi không chỉ là sự biểu hiện bên ngoài thì
anh ta sẽ cảm nhận hai điều. Thứ nhất, việc lập lại mối quan hệ nào đó phải được
thực hiện giữa bản ngã tội lỗi của anh ta và sự trọn vẹn về đạo đức của Đức Chúa
Trời và đến đây anh ta có thể cảm thấy đồng cảm chút ít với quan niệm chung về
sự tế lễ được tìm thấy trong những tôn giáo chính). Thứ hai, anh ta cần đảm bảo
rằng mình có thể được và được chấp nhận trong mối thông công với Đức Chúa
Trời. Anh ta mong muốn, đôi lúc có cố ý, được hoà hợp với ý nghĩa và mục đích
của cuộc sống, và tuy vậy anh ta cảm thấy không ai giúp mình có thể chuộc lỗi,
một việc làm mà anh ta ý thức được sự cần thiết của nó.
Vì vậy đối với bất kỳ người nào hiểu được lời xưng nhận đặc biệt của Chúa Cứu
Thế cách nghiêm túc thì nhìn nhận cách Ngài giải quyết vấn đề tội lỗi và sự hoà
giải giữa loài người với Đức Chúa Trời là việc làm có ý nghĩa và đáng quan tâm
nhất. Những sự kiện sau đây nổi bật trong những tài liệu.
1. Chúa Cứu Thế rất ít khi gọi loài người là “tội nhân” và cho đến mức chúng ta
biết. Ngài không bao giờ chú tâm khiến họ cảm thấy mình là tội nhân, ngoại trừ
trong trường hợp của những kẻ tự cao và cứng lòng, trong trường hợp đó Ngài
dùng sự đột kích để vạch trần cách nghiêm khắc tội lỗi (chúng ta có thể mô phỏng
đây là một trường hợp Ngài nhận thấy như một căn bệnh trầm kha cần một phương
thuốc mạnh). Một số nhà truyền giáo Phúc Âm với vũ khí chính là việc gây cho
người ta có ý thức về tội lỗi, sẽ nhận thấy chính họ như một loại đạn dược phi
thường nếu họ không được dùng gì khác hơn là lờ được chép của Chúa Cứu Thế.
Dĩ nhiên điều này không nói lên rằng cuộc đời và lời của Chúa Cứu Thế không tạo
ra ý thức đích thực về tội lỗi và sự thất bại được phát hoạ ở trên, nhưng không thể
phủ nhận rằng Ngài đã không khởi sự chức vụ với mục đích làm cho các thính giả
của Ngài nhận thấy rõ ý thức về tội lỗi.
2. Chúng ta nhận thấy Chúa Cứu Thế xưng rằng Ngài có quyền “tha thứ tội lỗi”
nhưng những nền tảng mà trên đó tội lỗi của con người có thể được tha thứ, trong
lời được chép lại của Cứu Chúa, không phải là những nên tảng thông thường được
nhiều Cơ Đốc nhân giả định. Chúng ta nhận thấy trong Chúa Cứu Thế một mối liên
kết gần gũi giữa sự tha thứ tội lỗi và sự tồn tại của tình yêu thương trong tấm lòng
con người. “Xin tha tội cho chúng con như chúng con tha kẻ phạm tội nghịch cùng
chúng con” là lời quá quen thuộc đối với chúng ta đến nỗi khó có thể hiểu được sự
thật rằng Chúa Cứu Thế đã kết nối mối thông công với Đức Chúa Trời và mối
thông công với nhân loại cách vững chắc, có chỗ chép lại lời Ngài phán sau khi
đưa ra một thí dụ rằng “Nếu mỗi người trong các ngươi không hết lòng tha lỗi cho
anh em mình, thì Cha ta ở trên trời cũng sẽ xử với các ngươi như vậy”. Hơn nữa có
một lần Ngài nói về một người đàn bà rất mang tiếng xấu rằng “tội lỗi đàn bà này
nhiều lắm, đã được tha hết vì người đã yêu mến nhiều”. Dường như đối với tôi phù
hợp với lời dạy của Cứu Chúa để giữ vững tình yêu thương đó là điều kiện tiên
quyết của sự tha thứ, và tôi thấy câu chuyện ngắn tiếp theo sau của Ngài về người
Pha-ri-si là một cái khác trong số những lời không nhất quán đó. Về điều này, lời
đáp cho câu hỏi “Ai là người lân cận ta” là một ví dụ điển hình.
Mặt khác, dường như có khả năng mà loài người đặt chính họ ra ngoài sự tha thứ
bằng cách “phạm tội nghịch cùng Đức Thánh Linh. Từ sự xem xét bối cảnh, điều
này sẽ xuất hiện như sự pha trộn của việc khước từ sự công nhận chân lý và việc
không cho phép lòng mình yêu thương người khác. Nếu chính Đức húa Trời vừa là
Chân lý vừa là tình yêu thương thì rất hợp lý khi cho rằng sự cương quyết từ chối
chân lý và tình yêu thương sẽ gây ra một thái độ, thái độ này khiến cho sự hoà
thuận với Đức Chúa Trời không thể xảy ra.
Giờ đây nếu đúng Đức Chúa Trời là Chân lý và Tình Yêu Thương thì dễ dàng nhận
thấy những tội lỗi lớn nhất sẽ là sự không thực tế, giả hình, lừa gạt nói dối, hoặc
bất kỳ điều gì mà chúng ta gọi là tội lỗi trái ngược với chân lý, và sự yêu cái tôi,
điều này làm cho mối tương quan với mọi người xung quanh và cách cư xử hợp lẽ
của con người không thể thực hiện được. Sự tha thứ vì vậy mà phải cốt ở sự phục
hồi thực tế, tức Chân Lý và Tình Yêu Thương.
3. Giờ đây chắc chắn chúng ta thắc mắc có phải Chúa Cứu Thế đã nói điều gì đó về
vấn đề “sự hoà giải” được đề cập ở trên. Ngài chắc đã nói bóng gió về điều này,
Ngài đã nói về sự phó mạng sống Ngài làm “giá chuộc nhiều người” và trong bữa
tiệc cuối cùng với các môn đồ, Ngài đã nói vè thân thể Ngài bị đánh đập và huyết
Ngài bị đổ ra để trả “thay cho tội lỗi”.
Giờ đây chắc chắn có thể nói rằng đối với vấn đề về sự hoà giải (như đối với vấn
đề về sự chết rồi sống lại) Chúa Cứu Thế, Đấng mà chúng ta xem như Đức Chúa
Trời trong hình dạng con người, có thể đưa ra một câu trả lời tốt nhất và đầy đủ
nhất bằng minh chứng trên thực tế. Bản thân Ngài, vừa là Đức Chúa Trời vừa là
một con người, có ảnh hưởng đến sự hoà giải này, một mình con người thì không
đủ quyền năng để thực hiện điều đó.
Có vô số học thuyết tập trung quanh sự chết của Chúa Cứu Thế như sự cứu chuộc
tội lỗi cho cả thế gian, và rất nhiều học thuyết trong số đó không tán tụng chính
chúng như một trí tuệ hiện đại đích thực, chúng ta có thể đưa ra cách sau đây để
xem xét vấn đề này.
Chúng ta đã từng nói về vòng lẩn quẩn của tội lỗi - khốn khổ - cái chết mà trong đó
thế gian này bị ảnh hưởng, và về sự bất lực của cá nhân con người khi muốn giải
phóng mình khỏi cái bẫy của những việc làm sai trái của chính mình, để tự mìnht
ẩy sạch khỏi sự tiêm nhiễm tích tụ của cách sống ích kỷ trong thế gian.
Bây giờ giả sử rằng Đức Chúa trời, Đấng đã trở thành một con người và bộc lộ
trong con người đó Thần tánh và Nhân tánh, cho phép chính Ngài dính dáng trong
sự phức tạp này, dù bản thân Ngài là vô tội. Đức Chúa Trời, Đấng đã lập nên
những luật lệ bất di bất dịch về nguyên nhân và kết quả, chủ tâm tự phơi bày cho
những hậu quả của sự yêu cái tôi và tội lỗi của thế gian. Bởi Ngài là Đức Chúa
Trời, để làm điều như vậy đúng lúc là biểu thị cho một thái độ vĩnh cửu, và chúng
ta nhìn thấy bản tánh của Đức Chúa Trời trong một điểm sáng hoàn toàn khác nếu
chúng ta nhận ra Ngài không bài bỏ công lý, không đưa ra một nhiệm vụ làm đảo
ngược luật pháp và trật tự tự nhiên, nhưng vượt qua sự thù ghét mà chúng ta không
thể tưởng bằng cách chính Ngài trở nên một Người thay thế và Ngài chịu đựng
trong Thân Vị sự khốn khổ và cái chết phù hợp với tự nhiên và không thể tránh
được mà thế gian này đã chịu, Đấng Trọn Vẹn về đạo đức mà con người kính sợ
bằng lòng trở thành một nhân tánh chịu dưới những giới hạn, trung tâm của sự tấn
công của cái ác. Chúng ta không thể tưởng tượng điều này liên quan đến gì, nhưng
thậm chí bắt đầu nghĩ rằng nó có thể là sự thật làm người ta sửng sốt.
Cơ Đốc nhân tin rằng hành động hoà giải này có ý nghĩa bên trong đằng sau sự
kiện mang tính lịch sử về sự chết của Chúa Cứu Thế. Sự không thực tế, tôn giáo
giả tạo, lòng căm thù cay đắng, tính tham lam và ganh tị nằm đằng sau án tử hình
hợp pháp của Chúa Cứu Thế là điều không đáng kể, sự thật chắc hẳn giống như
vậy dù bất cứ khi nào và bất cứ ở đâu Chúa Cứu Thế xuất hiện cái xấu cũng sẽ giao
chiến với cái tốt hiện thân, và dù cho nó là thập tự giá, dây treo cổ, máy chém hay
phòng hơi ngạc đi nữa, thì Chúa Cứu Thế cũng quyết chọn cái chết vì ích lợi của
nhân loại.
XII. Sự giảng hoà thoả đáng.
Ở đây chúng ta sẽ không cố vượt qua học thuyết về sự hoà giải, nhưng có lời chép
đơn giản rằng nó là vấn đề về sự thật không thể tranh cãi, ấy là khi con người nhận
biết Đức Chúa Trời đã chủ động trong việc tái thiết lập mối quan hệ giữa Ngài và
loài người, và đã phải chịu sự nhục nhã khốn cùng của cái chết, thì thái độ của họ
đối với Đức Chúa Trời từ đó trở đi được thay đổi một cách sâu sắc. Một nhận thức
có phần lủng củng nhưng không thể thay đổi được cho rằng “phải làm diều gì đó
về nó”, đây là nhận thức được chúng ta đề cập ở phần trên, hầu như nó tạo ra một
điểm dừng cách lạ lùng. Mặc dù nó có thể đánh bại nguyên nhân của con người khi
xác định chính xác điều gì từng được thực hiện, nhưng họ biết rằng “một điều gì
đó” đã được thực hiện. Quan niệm về Đức Chúa Trời đã được thay đổi hoàn toàn.
Quan niệm này hầu như chắc chắn gây khó chịu và có thể là một mối đe doạ, tuy
nhiên nguyên nhân có thể biểu thị điểm này. Vị quan xét thường được nhắc đến
trước đây giờ được xem là Đấng Yêu Thương và Đấng Giải Cứu, và nếu như việc
xét lại những quan niệm này xảy ra đột ngột thì buộc phải có sự giải thoát đáng kể
về cảm xúc.
Đối với những loại người trí thức việc tán thành về mặt tinh thần cho lời gợi ý
“Chúa Giê-xu đã chết thay cho tôi” đáng tiếc lại quá dễ dàng. Nhưng thật sự tin
rằng chính Đức Chúa Trời đã giải quyết vấn đề then chốt về những vướng mắc của
loài người bằng việc làm phải trả giá quá cao đến mức không tưởng và bằng chính
bản thân Ngài lại là một việc làm có chiều sâu hơn nhiều. Khái niệm về Đức Chúa
Trời càng lớn thì giới trí thức càng choáng váng với tư tưởng này, nhưng một khi
nó được công nhận là đúng thì không quá lời khi nói rằng toàn bộ nhân cách sẽ
được định hướng lại. Vì hầu hết những người nào trong lòng có ý thức đạo đức vận
hành bằng cách này hay cách khác, thì luôn cố gắng, có thể bởi vô thức “đưa ra
một trường hợp” để thanh minh cho tình trạng đạo đức của chính mình. Sự cố gắng
này có thể ít khi nào đạt đến mức độ tỉnh táo của tinh thần, nhưng chính là ở đó, và
“sự lên án của tội lỗi” mà chúng ta đã xác định ở trên luôn sớm xảy ra, mặc dù
phần nhiều nó có thể nó được giữ ở khoảng cách khá xa. Nhận ra rằng nỗ lực này
để bào chữa cho chính mình là một sự khuây khoả lớn. Nỗ lực vô vọng để hoàn trả
“cho việc làm quá mức cho phép” này có thể được bỏ qua một cách thanh thản. Nó
đã được dựa vào một quan niệm giả tạo, đó là niềm tin trung tâm của cuộc sống
phải nằm trong bản thân nó. Nó là một đòn nặng giáng vào bộ mặt tự hào và là một
cú xoáy mạnh vào những thói quen của người có trí thức để dịch chuyển niềm tin
trung tâmdó sang Một Người trọn vẹn thật sự, Đấng này đã và cũng đang là Đức
Chúa Trời. Nhưng nếu sự thay đổi này có kết quả thì sự khuây khoả và sự giải
thoát sẽ rất lớn, và năng lực bị đè nén trước đây được giải phóng. Đây là điều mà
Tân Ước muốn nói đến bởi được cứu nhờ đức tin nơi Chúa Cứu Thế.
Dĩ nhiên điều này vượt xa hơn một học thuyết, con người ở mọi độ tuổi, mọi quốc
gia, và mọi tính khí khác nhau đều có phản ứng giống nhau đối với hoà giải của
Chúa Cứu Thế. Thật vậy, tác dụng của bằng chứng này quá lớn đến nỗi sẽ rất sáng
suốt khi công nhận ở đây có sự huyền bí ngoài những khả năng định nghĩa của
chúng ta, nếu chúng ta không thể hiểu điều gì đã xảy ra và lúng túng khi giải thích
nó. Thậm chí chúng ta có thể khiêm tốn nói rằng Đức Chúa Trời trở nên con người
ấy đã làm điều gì đó quá lớn lao, sự vĩ đại của nó chúng ta chỉ có thể hiểu được
trong mức độ hết sức giới hạn.
Nhưng dù cho chúng ta có thể rất sợ hãi, chúng ta cũng không cần phải ngưng vận
dụng trí tuệ của mình, và chúng ta không thể thôi ngưỡng mộ tính chính xác rất cao
về tâm lý mà với nó công việc này được dự tính để tác động đến những bản tánh
của con người. Những ai ở mức độ nào đó, đã sống trong tình yêu thương và lẽ thật
sẽ nhận thấy hầu như bằng trực giác sức mạnh và điểm quan trọng của công việc
này. Tuy nhiên những ai âm thầm giữ tính kiêu ngạo và yêu cái tôi mình thì sẽ
không nhận thấy gì đáng ngạc nhiên và có rất ít điều để họ có thể công nhận - mặc
dù công việc này có thể ám ảnh họ cách kỳ lạ như thể nó là chìa khoá của cánh cửa
nào đó đã bị lãng quên đã lâu trong ý nghĩa thật của cuộc đời. Chính những người
đó là người nhận ra sự nghèo nàn thuộc linh của mình và là người nhận thấy trong
công việc của Chúa Cứu Thế một con đường dẫn vào mối tương giao với Đức
Chúa trời, chính những người giàu có” bị “quay lưng ngoảnh mặt”.
Mặc dù ở đây chúng ta có một tiêu chuẩn để tỏ bày bản chất đang tồn tại, nhưng
chúng ta có rất nhiều điều hơn điều đó. Nếu một người kiêu ngạo và yêu cái tôi
một khi nhận thấy rằng Đức Chúa Trời là như thế đó thì có thể, và đôi lúc, cải cách
toàn bộ tỉ lệ những giá trị của anh ta. Nếu một người có cách sống cẩu thả một khi
thấy công việc này là sự kết toán đúng lúc của điều luôn xảy ra - đó là một loại tội
lỗi, bao gồm cả tính thờ ơ, về cơ bản đang cố tìm cách phá hại Đức Chúa Trời -
anh ta cũng có thể nhìn cuộc đời với cặp mắt rất khác. Đức Chúa Trời có thể phán
ra những điều răn của Ngài từ núi Si-nai và loài người có thể rất kinh hãi, tuy nhiên
về thực chất của mình họ vẫn chính xác là họ như trước đây. Nhưng để một người
nhận thấy Đức Chúa Trời của anh ta xuống thế gian như một con người, chịu khổ,
chịu cám dỗ, phải lao động vất vả và khổ sở để rồi cuối cùng đã chết như một
người có tội, anh ta thật là một người cứng lòng;, người không dễ xúc động. Vì lời
khẳng định của Chúa Cứu Thế rằng Ngài không chỉ là Đức Chúa Trời mà còn là
một Người Đại Diện, có quyền năng rất lớn hầu như không thể tin được. Hơn 19
thế kỷ trôi qua từ khi án tử hình hợp pháp nhưng bị coi là sai trái ấy xảy ra ở đất
nước Palestine nhỏ bé nhưng hỗn loạn đó, con người vẫn xem sự chết ấy như một
vấn đề cá nhân. Sự chết này dường như được dự tính để đáp ứng những nhu cầu
không có ý thức rõ ràng của họ “Con Đức Chúa Trời, Đấng yêu thương tôi và phó
chính mình Ngài vì tôi”. Phao-lô đã viết, như thế lúc đó công việc ấy chỉ ảnh
hưởng đến một mình ông; nhưng những lời đó đã được nhắc lại cách tự phát bởi
một số người đạo mạo từ thời của ông. Việc chấp nhận sự hoà giải này lan rộng
đến nỗi chúng ta không hể nào dễ dàng gạt bỏ nó, đặc biệt vì cách suy nghĩ tích
cực khác chỉ đơn giản là khước từ sự bế tắc, mà sự bế tắc này là “sự thật” đối với
người nhạy cảm thuộc linh.
XIII. Sự chứng minh với kẻ thù nghịch.
Chúng ta đề cập ở trên rằng Chúa Cứu Thế Giê-xu, theo mức độ mà chúng ta biết
đã không nói nhiều về vấn đề tội lỗi và sự tha thứ tội lỗi, nhưng đã đưa ra câu trả
lời đầy đủ và thoả dáng bằng sự chứng minh bởi cá nhân Ngài. Lời giải đáp của
Ngài cũng như vậy đối với một vấn đề khác luôn hiện diện trong tâm trí con người
đó là “có sự sống sau sự chết không?”. Cho dù trong lời dạy đã được ghi lại của
Ngài sự tồn tại của một thế giới thật, một thế giới không chịu ảnh hưởng bởi thời
gian và không gian, được chấp nhận nhưng câu trả lời đầy đủ và thoả đáng cho câu
hỏi con người có thể sống qua được trải nghiệm chung về sự chết hay không đã
được giải bày bằng minh chứng bởi cá nhân. Một sự kiện lịch sử được quan tâm,
như trong trường hợp về công việc hoà giải, đã cho chúng ta câu trả lời thiết thực
nhất cho thắc mắc của nhân loại.
Dĩ nhiên không thể nào phóng đại tầm quan trọng của tính chất có thật của một sự
kiện, sự kiện này thường được biết đến với cáit ên: sự phục sinh. Sau tất cả lời
xưng nhận và lời hứa của Ngài, nếu Chúa Cứu Thế đã chết luôn và chỉ tiếp tục tồn
tại như một ký ức dễ chịu thì Ngài chỉ có thể được tôn sùng như một điều rất tốt
đẹp nhưng như một người bị hiểu lầm sâu sắc. Những lời Ngài xưng mình là Đức
Chúa Trời, những lời Ngài khẳng định mình là nguyên tắc của sự sống, sẽ chỉ là sự
sự ảo tưởng mà thôi. Những tuyên bố đầy quyền uy của Ngài về bản chất của Đức
Chúa Trời, của Con Người và của Sự sống ngay lập tức sẽ bị người ta đặt nghi vấn.
Tại sao Ngài phải đúng đối với những việc nhỏ nếu Ngài đã bị chứng minh là hoàn
toàn sai trong việc lớn?
Vì vậy hoàn toàn tự nhiên khi cả Cơ Đốc nhân và những người không phải là Cơ
Đốc nhân nên xem vấn đề: có phải Sự Sống Lại thật sự đã xảy ra hay không, như
một vấn đề cơ bản mà toàn bộ sự khẳng định của Cơ Đốc nhân thật sự dựa vào nó.
Cuộc tranh luận trên cả hai phía đã được kéo dài và rất quyết liệt qua nhiều thế kỷ,
và ở khoảng cách từ sự kiện này không thể nào có bất kỳ bằng chứng mới hoặc
ngay cả quan điểm mới nào có thể xuất hiện. Dường như đây không phải là vấn đề
mà cuối cùng có thể được lắng dịu bằng việc nghiên cứu cẩn thận hoặc bởi cuộc
tranh luận tài tình nhất. Thiếu sự sắp xếp lịch đại và thiếu sự chấp nhận thận trọng
lẫn nhau mà biểu thị đặc điểm những câu chuyện về sự sống lại dường như một
mặt là bằng chứng về bản chất bất cẩn và thậm chí giàu trí tưởng tượng của con
người, trong khi mặt khác những điều tương tự dường như là sự ngây thơ của
những người tin vào điều mà mình không cần xây dựng một phần hết sức rõ ràng
cho bằng chứng. Một lần nữa những lần xuất hiện được ghi lại chỉ dành cho những
người đứng về phía “Chúa Giê-xu” là đủ cho nhóm người kết luận rằng chúng
thuộc về giá trị hoàn toàn chủ quan, trong khi đối với nhóm khác nó chỉ là một
bằng í¬ đơn giản rằng chỉ có những ai thực chất được hoà giải với Đức Chúa Trời
mới có thể nhận biết tính thực tế cuộc sống một khi nó được thoát ra khỏi những
giới hạn của không gian và thời gian trong hiện tại.
Như vậy chúng ta không định cố gắng sắp xếp theo trật tự những cuộc tranh luận
về phía này hay phía kia, nhưng chỉ đưa ra 3 câu hỏi, các câu hỏi này phải được trả
lời cách vô tư nếu sự kiện lịch sử về sự sống lại không được công nhận.
1. Điều gì đã làm thay đổi các môn đồ đầu tiên?
Không có lời ghi chép nào có thể phủ nhận sự kiện hầu hết các môn đồ của Chúa
Giê-xu đã lìa bỏ Ngài khi Ngài chịu đóng đinh, và sau đó, với cái chết của Thầy
mìnhvà những niềm hy vọng của họ tan mất, họ đã sống trong nỗi lo lắng vô cùng
cho tương lai. Nhưng chỉ trong một khoảng thời gian rất ngắn sau đó chúng ta nhận
thấy họ tràn đầy sinh lực và sức sống thuộc linh và bất chấp quyền lực của các nhà
chức trách ngoại đạo và người Do Thái, họ công khai công bố rằng chính mắt họ
đã nhìn thấy Chúa Giê-xu đang sống, không phải chỉ thấy một lần nhưng nhiều lần
sau khi Ngài chịu đóng đinh trước công chúng, và họ đã kêu gọi tất cả mọi người
cùng chia sẻ niềm tin với họ rằng Người này thật là Đức Chúa Trời. Đây không
phải là lòng can đảm thách thức chỉ bộc phát trong thời gian ngắn, nhưng là ngọn
lửa đức tin cháy đều đặn và mạnh mẽ bắt đầu lan rộng khắp thế giới được biết sau
đó, lòng tin vững chắc này nhiều năm qua như một phong trào làm cản trở, làm
lúng túng và chọc giận các nhà cầm quyền. Chắc chắn chính là sự lạm dụng quá
mức sự cả tin khi tin rằng sự thay đổi thái độ cách đột ngột và kéo dài này được
xây dựng trên ảo giác, sự cuồng loạn hoặc trên sự giả tạo tài tình. Chúng ta hoàn
toàn có thể phản đối đức tin Cơ Đốc này, nhưng không thể phủ nhận các Cơ Đốc
nhân đầu tiên đã tin tưởng chắc chắn họ đã nhìn thấy, rờ đụng và trò chuyện với
Chúa Cứu Thế sau khi đã đã bị đóng đinh, được đem xuống, và được đặt trong
phần mộ đá có niêm phong và được lính La Mã canh gác cẩn thận.
2. Nếu sự sống lại đã không xảy ra, thì Chúa Cứu Thế là ai?
Những ai không được đọc các sách Phúc Am từ nhỏ sẽ nghĩ rằng họ có thể dễ dàng
dứt bỏ yếu tố “huyền bí” của sự sống lại, và họ vẫn giữ suy nghĩ rằng Chúa Cứu
Thế như một Lý tưởng, như một Thầy giáo dạy đạo đức tốt nhất mà thế giới từ biết
đến - và còn nhiều điều khác nữa. Nhưng các sách Phúc Am, cả 4 sách, chứa đựng
rất nhiều lời khẳng định mang tính siêu nhiên về vai trò của Chúa Cứu Thế và nếu
mỗi con người không tiếp tục xem xét điều Chúa Cứu Thế đã nói và điều Ngài
không nói, thì không thể nào tránh khỏi kết luận rằng Ngài đã tin chính Ngài là
Đức Chúa Trời và vì vậy đã phán vớ quyền năng rất đặc biệt. Nếu Ngài đã tin như
vậy và đã phán như vậy mà lại không sống lại từ kẻ chết thì không còn nghi ngờ gì
Ngài đã là một người mất trí. Ngài chỉ là một người trẻ tuổi có lý tưởng cao và cam
tâm chịu khổ trên nấc thang cao nhất đó, và vì lý do này mà không thể được xem
như vị Thầy vĩ đại nhất của thế giới, không có vị Môhamet hay Phật hay vị thầy vĩ
đại nào khác lại đi bộ qua nhiều dặm đường chỉ để nói những lời tâng bốc chính
mình. Sự thân quen đã làm nhiều người không nhận ra tính lạ lùng của lời xưng
nhận của Chúa Cứu Thế và lòng tôn kính theo truyền thống đã ngăn trở họ trong
việc đánh giá đúng mức nó. Nếu thực tế Ngài không sống lại, thì lời xưng nhận của
Ngài là giả dối và quả thật Ngài đã là một nhân vật quá nguy hiểm.
3. Tại sao nhiều Cơ Đốc nhân tin chắc rằng Chúa Cứu Thế không chỉ đã sống lại,
mà vẫn còn đang sống ngày nay?
Mặc dù câu hỏi này có thể làm giới phê bình nổi giận nhưng nó là một câu hỏi hợp
lý. Trải nghiệm thông thường của các Cơ Đốc nhân về mọi tính khí và về mọi dân
tộc 19 thế kỷ qua không thể bị gạt đi một cách ung dung được. Hàng ngàn người
ngày nay có niềm tin vững chắc rằng Đấng mà họ hầu việc không phải là một hình
ảnh của vị anh hùng trong quá khứ, nhưng là một nhân vật hằng sống với những
nguồn mạch thuộc linh tuôn đổ trên họ. Người ta sẽ thấy rất khó khăn để viết một
bài thơ, nhưng nếu anh ta than khóc “William Shakespeare ơi, xin giúp tôi” thì
chẳng có điều gì xảy ra cả. Người ta có thể vô cùng lo sợ, nhưng nếu chỉ kêu gào
“Horatio Neleon ơi, hãy giúp tôi” thì cũng không có câu trả lời nào đáp lại. Nhưng
nếu ở nơi tận cùng của các nguồn đạo đức hoặc bằng nỗ lực của ý chí mình anh ta
vẫn không thể nào tập trung được tình yêu thương và điều tốt đẹp có ý nghĩa tích
cực, và anh ta kêu cầu “xin Cứu Chúa giúp con”, tức thì sẽ có điều gì đó xảy ra.
Nhận thức về sự tăng trưởng thuộc linh, về việc có được sức sống thuộc linh từ
một nguồn hằng sống, rất rõ ràng đến nỗi các Cơ Đốc nhân không thể không tin vị
anh hùng của họ vượt xa hơn một hình ảnh nổi bật lạ lùng trong quá khứ.
Việc niềm tin này chỉ đến với những ai đã tập trung lòng tin thầm kín của mình nơi
Chúa Cứu Thế Giê-xu dường như lấy đi khỏi nó tất cả sức sống trong mắt của giới
phê bình thù nghịch. Tuy nhiên nếu, bởi cố gắng tưởng tượng nhà phê bình ấy sẽ
thừa nhận trong chốc lát rằng những lời khẳng định của Chúa Cứu Thế là đúng,
chắc chắn anh ta công nhận tình huống đó hợp lý. Nếu Chúa Cứu Thế mạc khải
một cách sống đúng đắn và ban cho loài người khả năng được hoà hợp với sự sống
của Đức Chúa Trời (tức “sự sống đời đời”), thì chắc chắn kết quả là hễ ai sống theo
cách sống khác thì không thể đánh giá đúng đặt tính của cách sống thật bằng một
hành động liên tục đó trừ khi và cho đến khi anh ta “quyết tâm lao vào nó. Một
người có thể viết, tranh luận hoặc thậm chí có thể viết, những bài thơ về tình yêu
của nhân loại, nhưng anh ta không biết yêu thương cho đến khi anh ta ở trong nó,
và ngay cả sau đó sự hiểu biết của anh ta về nó chỉ tăng lên khi anh ta vứt bỏ bản
tính yêu cái tôi của mình và chấp nhận những nổi đau, trách nhiệm cũng như
những niềm vui khi yêu thương người khác.
Chúa Cứu Thế đã nói rằng: “Hễ ai nhận biết lời dạy ta là Chân lý của con người
hay Chân lý của thần linh thì hãy làm theo ý muốn của Đức Chúa Trời”.
Người nào tiếp nhận sự thử thách sâu sắc này, tin chắc rằng Chúa Cứu Thế vẫn
sống.
XIV. Sự huỷ diệt sự chết.
Đức Chúa Trời được nhìn thấy, Chúa Cứu Thế Giê-xu, đã mạc khải cho con người
không chỉ những lời hướng dẫn thoả đáng để đáp ứng cho một đời sống hạnh phúc
và hữu ích nhưng còn là những phương tiện mà bởi đó con người có thể kết nối với
sự sống vô tận của Đức Chúa Trời. “Thiên đàng” có thể nói không phải là phần
thưởng cho “một cậu bé ngoan” (mặc dù nhiều người dường như nghĩ vậy), nhưng
là sự tiếp tục và phát triển đặc tính của sự sống được bắt đầu khi niềm tin trung tâm
của một người được chuyển từ chính họ sang Đức Chúa Trời trở bên con người.
“Đức tin này liên kết anh ta ngay với chân lý và tình yêu thương và thật ý nghĩa.
Khi Chúa Cứu Thế Giê-xu nhiều lần đã nói “sự sống đời đời” như được bước vào
ngay tức khắc, mặc dù rõ ràng kéo dài không có giới hạn sau việc xảy ra trong hiện
tại mà chúng ta gọi là cuộc sống. Hễ ai tin vào tính xác thực của sứ điệp Ngài rao
giảng và đặt lòng tin mình vào đó thì đã nhận được đặc tính của “sự sốtng đời đời”
rồi (GiGa 3:36; 5:24; 6:47 v.v..). Ngài đến không chỉ cho con người được “sự
sống” mà còn cho họ sự sống mới với đặc tính sâu sắc hơn và lâu dài hơn (GiGa
10:10; 10:28; 17:3 v.v…).
Nếu tiếp nhận điều này chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi nhận thấy lời dạy đáng
kinh ngạc của Chúa Cứu Thế về sự chết vật lý. Sự chết này không chỉ là một trải
nghiệm mà trong đó nỗi kinh hãi về nó được cất đi mà còn như một thử nghiệm
trong đó sự kinh hãi về nó không hề tồn tại chút nào. Đối với một số lý do hoặc
những lời nói khác của Chúa Cứu Thế (điều này rõ ràng được hiểu rất chính xác
khi con người đang cố gắng chứng minh quan điểm về chủ nghĩa hoà bình hay về
sự ly hôn chẳng hạn) người ta thường tỏ thái độ hoài nghi khi Ngài nói về kinh
nghiệm thông thường về sự chết khi nó ảnh hưởng đến những người có niềm tin
căn bản đặt nơi chính Ngài “Nếu kẻ nào giữ lời ta, sẽ chẳng thấy sự chết bao giờ”
(GiGa 8:51), “còn ai sống và tin ta thì không hề chết” (GiGa 11:26). Không thể
không kết luận rằng ý nghĩa Chúa Cứu Thế định truyền đạt đó là sự chết là một
kinh nghiệm hoàn toàn không đáng kể đối với những ai đã bắt đầu sống một đời
sống có đặc tính vĩnh cửu.
Rất nhiều năm trước Phao-lô đã viết “Đức Chúa Giê-xu Christ đã huỷ diệt sự chết”
nhưng chỉ một vài người từ thời của ông có vẻ tin điều đó. Quyền lực của thần tối
tăm ngày xưa, chắc chắn đã được phát sinh trong nỗi lo sợ bản năng, rất khó lay
chuyển và rất nhiều trước giả Cơ Đốc có vẻ không thể chấp nhận sự huỷ diệt cái
chết ấy, mặc dù có những hy vọng sáng láng về “sự sống đời sau”. “Trũng bóng
chết”, “cửa tăm tối của tử thần”, “những nổi đau khổ đắng cay của sự chết” và
hàng ngàn câu mô tả khác đã cho thấy rõ ràng rằng rất nhiều Cơ Đốc nhân không
thật sự tin điều Chúa Cứu Thế đã nói. Có thể nói người có tội lớn nhất là John
Bunjan, ông đã viết trong quyển Pilgrim‟s Pross (Hành trình của người hành
hương) của mình về một dòng sông băng mà những người hành hương phải đi qua
trước khi đến thành phố thiên đàng (Celestial City). Hàng ngàn người, có thể đến
hàng triệu người có thể đã chịu ảnh hưởng trong những năm dễ bị tác động của họ
khi đọc quyển sách này. Tuy nhiên “dòng sông băng” đó hoàn toàn là sản phẩm
của nổi sợ hãi của chính Bunyan, và sẽ vô ích khi muốn tìm sự chấp nhận nhỏ nhất
trong Tân Ước về quan niệm này của ông. “Ngủ yên trong Chúa”, “qua đời và về
với Chúa”, “ngủ yên” - đây là những từ mà Tân Ước sử dụng. Đã đến lúc “dòng
sông băng”, “cửa tử thần”, “nổi đau khổ đắng cay” và tất cả những hình ảnh u sầu
còn lại phải được đặt đối diện với sự thật. “Đức Chúa Giê-xu Christ đã huỷ diệt sự
chết”.
Đối với nhiều người sự thật này có vẻ quá tốt đẹp đến nỗi nó không thể có thật.
Nhưng nếu nó có vẻ như vậy thật, thì chính bởi chúng ta không sẵn sàng chấp nhận
tính chất cách mạng của sự kiện chính Đức Chúa Trời bước vào thế gian này. Một
khi chúng ta dần dần nhận thấy rõ rằng Đức Chúa Trời (nghe có vẻ khó tin) thật sự
đã đồng hoá chính Ngài với Con Người, rằng Ngài đã chủ động trong việc thực
hiện sự hoà giải rất cần thiết giữa con người với chính mình Ngài, và đã vạch ra
một con đường mà bởi đó những bản tính của loài người nhỏ bé có thể bắt đầu dấn
thân vào cuộc phiêu lưu bao la của cách sống có Đức Chúa Trời làm trung tâm, sự
chết có thể được xem là không đáng kể - như sự mất tác dụng của một cổ máy tạm
thời được sửa chữa lại chỉ để phù hợp cho một giai đoạn nhất thời.
Cho đến bây giờ chúng ta chỉ nói đến “sự chết” khi nó ảnh hưởng trên những
người đặt niềm tin nơi Chúa Cứu Thế, bản tánh Ngài, giá trị của Ngài, và trên hết
là lời Ngài xưng nhận mình chính là bản tính được mạc khải của một Đức Chúa
Trời vô cùng vĩ đại. Không có một ghi chú vui vẻ đầy hứa hẹn nào hoặc trong các
sách Phúc Am hoặc trong các sách còn lại của Tân Ước dành cho những ai đặt lòng
trông cậy vào những khả năng của chính mình hoặc vào những sự sắp xếp và
những giá trị của hệ thống thế giới trong hiện tại. Chỉ “trong” Chúa Cứu Thế,
“trong” Người Đại Diện cũng là Đức Chúa Trời sự chết có thể bị quên đi với tâm
trạng bình an và “Thiên Đàng” được tiếp đón với lòng tự tin. Chúng ta không có lý
do gì để cho rằng sự chết là bất cứ điều gì ngoài một thảm hoạ cho những ai không
bám chặt vào sự sống vô tận của Đức Chúa Trời.
XIV. Học thuyết đến thực tế.
Nếu con người chấp nhận sự thật cho rằng bản tánh của Đức Chúa Trời được nhìn
thấy trong Chúa Cứu Thế, nếu họ công nhận công việc hoà giải và sự chứng minh
với cái chết là đúng, và nếu chính họ sẵn lòng từ bỏ cách sống đặt cái tôi làm trung
tâm và theo cách sống được Cứu Chúa giải bày và rao giảng, thì họ sẽ chưa hoàn
toàn hết gặp những khó khăn. Vì họ nhận thấy rằng ngoài nỗ lực không bình
thường hoặc cách giải quyết không đều đặn thì họ không đủ sức mạnh thuộc linh
để sống một đời sống trên cấp độ mới. Đơn giản họ không có sức ấy để sống lâu
dài như một người tiên phong của con người mới. Họ có thể thấy nó đúng, và có
thể ao ước, thậm chí với lòng thiết tha nhất, đi theo con đường mới này, nhưng
trong thực tế họ không đạt được đặt tính mới của cách sống này. Họ có lẽ trách cứ
quá khứ của mình, họ có thể trách sự ảnh hưởng hiện tại của một thế giới không
nhận biết Đức Chúa Trời mà họ đang sống trong đó, họ thậm chí có thể đưa ra kết
luận đáng buồn rằng nó hoàn toàn là một học thuyết tốt đẹp nhưng không cót ác
dụng trong thực tế.
Dĩ nhiên sự bế tắc rất tự nhiên này được Chúa Cứu Thế dự đoán trước. Chẳng hạn
Ngài biết rất rõ rằng các môn đồ trong thời của Ngài sẽ suy sụp rất nhanh ngay khi
sự ủng hộ và hà hơi của Ngài trên họ bị cất đi bởi sự chết. Vì vậy Ngài đã hứa cho
họ một Thánh Linh mới, Đấng này sẽ ban cho họt ất cả lòng con đảm, sự củng cố
về mặt đạo đức, tình yêu thương, tính kiên trì nhẫn nại, sức chịu đựng và
nhữngphẩm chất khác mà họ cần. Đọc thêm các sách tân Ước khác ngoài 4 sách
Phúc Am ta có thể nhậnt hấy rõ ràng lời hứa này đã được thực hiện. Những người
bình thường không chỉ “cải đạo” từ thái độ yêu cái tôi trước đây của họ, mà còn
nhận được sức sống thuộc linh đầy đủ để không gây ra một khuấy động nhỏ nào
trong thế giới họ đã sống. Thật sai lầm khi nghĩ rằng việc nhận được ân tứ này nói
chung dẫn đến sự biểu hiện dễ kích động. Chức năng, bình thường của nó là sinh ra
trong đời sống con người những phẩm hạnh như Phao-lô đã liệt kê trong Ga-la-ti
đoạn 5 : lòng yêu thương, sự vui mừng, bình an, nhịn nhục, nhơn từ, hiền lành,
trung tín, mềm mại, tiết độ. Thật ra đây chính là những đức tính mà loài người dễ
“lạm dụng” và nếu kết hợp với nhau chúng cùng tạo thành một bản tánh tương ứng
với Người Đại Diện đó, tức chính Chúa Cứu Thế.
Chính sự xâm nhập của một điều gì đó (hoặc một ai đó) từ bên ngoài vào đời sống
của con người mà những người trí thức hiện đại thấy khó chấp nhận. Chúng ta đều
bị “qui định bởi quan điểm hiện đại, quan điểm này xem toàn bộ cuộc sống như
một hệ thống dành riêng. Rất nhiều điều có thể xảy ra trong hệ thống này nhưng
không thể nghĩ rằng toàn bộ tiến trình nguyên nhân và hậu quả rộng lớn ấy sẽ bị
cản trở từ bên ngoài bằng bất cứ cách nào.
Nhưng khi chúng ta cho rằng, thậm chí chỉ vì lợi ích tranh luận, lời rao giảng của
Chúa Cứu Thế là sự thật - rằng cuộc sống nhỏ bé này giữ vai trò tương phản với
tấm phong vĩ đại của sự tồn tại không bị ảnh hưởng của thời gian - thì ít nhất cũng
có thể cho rằng dưới những điều kiện nào đó của sự hoà hiệp giữa sự tồn tại không
hoàn hảo này với sự trọn vẹn của sự sống đời đời có thể thiếp lập một điểm tiếp
xúc. Đối với chúng ta kết quả sẽ là siêu nhiên theo nghĩa đen. Thật vậy, chúng ta
đã thấy con người có thể tình cờ nhận ra điều gì đó thuộc về cái đẹp chân lý, sự tốt
lành, hoặc tình yêu thương và nhận ra “điểm tận cùng kia” được nối với sự vĩnh
cửu. Ở những lần như vậy quan niệm về hệ thống dành riêng rõ ràng không thoả
đáng.
Giờ đây chúng ta có lẽ ao ước rằng những sự xâm nhập này sẽ xảy ra thường
xuyên hơn và dễ thấy rõ hơn, nhất là nếu chúng ta khá mệt mỏi với quan niệm về
hệ thống dành riêng và ý thức mơ hồ nhưng dứt khoát về thế giới thật. Tuy nhiên
chúng ta biết nhiều về điều này, và có thể tin tưởng cách thích đáng rằng nếu người
nào thật lòng muốn đi theo con đường của Chúa Cứu Thế, và mở lòng mình với
Đức Chúa Trời, có thể nói anh ta chắc chắn sẽ nhận được điều gì đó từ Thánh Linh
của Đức Chúa Trời. Khi sức chứa trong anh ta tăng lên và nguồn mạch của sự
thông công mở rộng thêm thì anh ta sẽ nhận được nhiều hơn. Giăng sẵn sàng gọi
điều này là việc nhận sự di truyền của chính Đức Chúa Trời (IGi1Ga 3:9). Dĩ nhiên
điều này không làm cho con người ở trong tình trạng trung dung thuộc linh. Cái tôi
của người đó được thanh tẩy và được nâng lên, và mặc dù anh ta sẽ mang nét
chung giống nhau rõ rệt của dòng dõi Đấng Christ, nhưng khá nghịch lý anh ta sẽ
là “chính mình” hơn trước đây.
Ở đây chúng ta có thể chỉ ra một điểm khác nhau lớn, sự khác nhau này tồn tại
giữa Cơ Đốc giáo của những ngày đầu và Cơ Đốc giáo ngày nay. Đối với chúng ta
nó đã trở thành một sự trình diễn, một sự giữ gìn các luật lệ, trong khi đối với
những người trong thời đó, đơn giản nó là sự xâm nhập vào đời sống nói chung. Sự
khác nhau này chắc chắn do bởi chúng ta quá do dự (thậm chí chúng ta nhận ra sự
bất lực của mình) để bác bỏ quan niệm về hệ thống dành riêng đó. Chúng ta có quá
ít cái mà Tân Ước gọi là “đức tin”. Vì rõ ràng” đức tin” là sự đòi hỏi đầu tiên để
thiết lập mối liên hệ giữa thế giới này và thế giới vĩnh hằng nên chắc chắn chúng ta
không thể kinh ngạc về sự khác nhau quá lớn trong đặc tính giữa Cơ Đốc giáo của
thế kỷ đầu tiên và Cơ Đốc giáo của thế kỷ 19.
Không có quyền lực bên ngoài thì lời giảng dạy của Cứu Chúa vẫn còn là quan
niệm tốt đẹp, trêu ngươi nhưng không thể đạt đến được. Với hệ thống dành riêng
đó không sớm thì muộn chúng ta cũng thốt lên rằng: “Ta không thể thay đổi bản
chất của con người”. Những lý tưởng không thành công vì sự quá nghèo nàn về
thuộc linh, và thái độ hoài nghi và tuyệt vọng thay thế cho chúng.
Nhưng sự kiện Chúa Cứu Thế đến thế gian bản thân nó là sự phủ nhận làm người
ta bối rối về quan niệm hệ thống dành riêng luôn luôn chi phối suy nghĩ của chúng
ta. Và lời khuyên lập đi lập lại của Ngài rằng phải “tin nơi Chúa” còn gì hơn là lời
kêu gọi chúng ta không nên, dù với vẻ bề ngoài, để mình bị rơi vào lối suy nghĩ
theo hệ thống dành riêng đó? “hãy xin, sẽ được, hãy tìm sẽ gặp, hãy gõ cửa, sẽ mở
cho” - những lời quen thuộc này còn là gì ngoài lời mời gọi chúng ta hãy vươn đến
sự vĩnh hằng và thực tại? Nếu chúng ta muốn hợp tác, Thánh Linh ngay tức khắc
sẵn sàng giúp cho chúng ta. “Vậy nếu các ngươi vốn là xấu, còn biết cho con cái
mình các vật tốt thay, huống chi Cha các ngươi ở trên trời lại chẳng ban các vật tốt
cho những người xin Ngài sao?”
XV. Tóm lược.
Có lẽ giờ đây chúng ta có thể tóm tắt được những lẽ thật cơ bản về sự tồn tại của
chúng ta trên hành tinh này, những lẽ thật đó có thể được người ta thành tâm tán
thưởng để đáp ứng cho cả hai sự kiện của một tình huống khi chúng ta nhận thấy
được chúng và những nhu cầu sâu xa của tinh thần con người.
Chúng ta không thể nào có khái niệm quá lớn về Đức Chúa Trời, và kiến thức khoa
học (ở mọi lãnh vực) càng tiến bộ thì quan niệm của chúng ta về sự khôn ngoan vô
cùng và phức tạp của Ngài càng lớn hơn. Tuy nhiên, trừ khi chúng ta vẫn còn bối
rối, lúng túng và từ bỏ tất cả hy vọng nhận biết Đức Chúa Trời như một Thân vị,
chúng ta phải chấp nhận hoạch định của riêng đó muốn mạc khải chính Ngài trong
một con người, Chúa Cứu Thế Giê-xu.
Nếu chúng ta chấp nhận điều này như một sự thật, như sự thật của lịch sử, thì có
thể tìm thấy câu trả lời thoả đáng và toàn diện cho rất nhiều vấn đề, và điều quan
trọng tương tự đó là sẽ tìm thấy một “nền” phù hợp mà trên đó những tình trạng
khó khăn không được giải quyết có thể được bỏ qua với sự tin quyết.
“Con đường đi đến” đức tin này một phần thuộc về trí tuệ, một phầnlà vấn đề liên
quan đến sự ràng buộc về đạo đức. Sự yếu đuối của thế gian này (và như vậy là sự
yếu đuối của những cá nhân tạo thành thế gian) được cho là do năng lực của tình
yêu thương đó đi sai hướng, hoặc nó tự thu mình hoặc được dành cho những điều
sai trái. Triệu chứng bên ngoài, và hậu quả của sự lệch hướng này rất dễ nhận thấy
(ít nhất trong những người khác) trong cái mà chúng ta gọi là “tội lỗi” hay “lòng
ích kỷ”. “Sự biến đổi” đầy quyết tâm mà Đức Chúa Trời trở nên Con Người đã kêu
gọi, là sự thay đổi thái độ sai trái đó, cương quyết dành toàn bộ năng lực của tình
yêu ấy trước hết cho Đức Chúa Trời và sau là cho những người xung quanh. Nếu
không có sự thay đổi này, Ngài đã nói rất thẳng thắng đến một thế giới mà sự tận
diệt đang chờ nó. Ở đâu có sự thay đổi này xảy ra một cách chân thành thì Ngài nói
rằng ở đó loài người có thể “nhận biết” Đức Chúa Trời, bắt đầu một đặc tính mới
của cách sống mà sự chết vật lý không có quyền lực trên nó. Có 3 vấn đề nảy sinh,
(a) vấn đề về sự lập lại mối tương giao giữa loài người bị tiêm nhiễm về đạo đức
với sự tốt lành của Đức Chúa Trời, sự tái thiết lập mối tương giao này tất yếu là
một đòn chí tử đối với cái xấu. (b) Thật sự sống vẫn tiếp tục sau cái chết về vật lý
hay không và (c) bằng cách nào loài người có thể tìm thấy quyền năng để làm như
vậy nếu như họ muốn sống một đời sống trên cấp độ mới, là hai vấn đề còn lại -
Chúa Cứu Thế đã giải quyết bằng 3 minh chứng, như chúng ta thấy ở trên.
Cho đến đây chúng ta làm thay đổi về mặt tri thức, nhưng chúng ta phải lập lại
điều đã được nói ở một chương trước, đó là sự thật về giải pháp ngoài khả năng
con người đối với sự bế tắc của thế gian chỉ sống động khi nó bị tác động đến.
Những nhà phê bình suông phải từ bỏ tính vô bổ của mình nếu họ muốn gia nhập
vào nhóm người có niềm tin vững chắc đây là một Chân lý.
Có vẽ như chiến lược của Chúa Cứu Thế là để giành được lòng trung thành của
một số người thật lòng đáp ứng lại cách sống mới. Họsẽ là người tiên phong của
trật tự mới, những người dẫn đầu trong cuộc cải tiến chống lại sự ngu dốt, ích kỷ,
độc ác, “giả hình” và sự thờ ơ tích tụ của rất nhiều người trong nhân loại. Mục đích
ở trước mặt họ, vì mục đích này họ phải làm việc và cầu nguyện - và nếu cần họ
phải chịu đau khổ và thậm chí phải chết, mục đích đó là xây dựng một Nước mới
của lòng trung tín cao nhất trong mỗi người. Vương Quốc của Đức Chúa Trời.
Vương quốc này phải vượt qua mọi rào cản về sắc tộc và quan trọng là vượt qua
mọi ranh giới của không gian và thời gian.
“Hội Thánh”, tên của nhóm người đi tiên phong đó, đã và đang mở ra nhiều lời phê
bình, nhưng nó đã thực hiện được rất nhiều sự tiến bộ bất ngờ. Trong bất cứ trường
hợp nào nó cũng đang cố gắng hoàn thành hoạch định thiêng liêng, và trong mức
độ có thể nó hoạt động cùng với những đường lối của chân lý thật và tình yêu thật,
dĩ nhiên nó không thể thất bại, bất cứ điều gì hơn điều Đức Chúa Trời có thể không
tiếp tục tồn tại.
Ở giữa thời kỳ của chủ nghĩa lạc quan giữa những cuộc chiến tranh thế giới một số
Cơ Đốc nhân phấn khởi nói rằng “sự hiểu biết về Đức Chúa Trời đầy dẫy trong thế
gian như nước đầy dẫy trên biển và “các nước của thế gian đang trở thành Nước
của Đức Chúa Trời và của Chúa Cứu Thế” như thể toàn thể nhân loại sắp chấp
nhận sự tể trị của Đức Chúa Trời. Dĩ nhiên điều này thật vô lý Những người đáp lại
chân lý này đã luôn chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, và khi Đức Chúa Trời đến thế gian
trong Thân vị thì số người đáp lại Thân vị đó cũng không nhiều. Thật vậy dường
như Đấng Christ (nhận biết cái xấu và lòng ích kỷ được ăn sâu bám rễ vững chắc
thế nào và con người phải khó khăn rao sao để bứt ra khỏi bản tánh yêu cái tôi của
chính họ) đã không dự định trước việc thiết lập trọn vẹn một vương quốc của Đức
Chúa Trời trên hành tinh này thậm chí vào thời gian dừng sự thử nghiệm mà chúng
ta gọi là sự sống (ví dụ xem LuLc 18:8).
Vì vậy người theo đường lối mới được kêu gọi phải hết mình rao truyền “tin lành
về Nước Đức Chúa Trời” nhưng để lúc nào cũng nhận biết sự thành công hoặc thất
bại của Vương quốc này không bao giờ có thể được đánh giá chỉ bằng sự tham
khảo những số liệu thống kê số “Cơ Đốc nhân” vào khoảng thời gian bất kỳ nào
đó. Vương quốc này được bám rễ trong sự sống thật (đôi lúc chúng ta gọi là “sự
sống đời đời”, và khi thời gian tiếp tục trôi qua con số người thuộc nước này và dự
phần vào các hoạt động của nó, nhưng những người đã vượt qua cơ cấu của không
gian và thời gian tất nhiên sẽ vượt nhiều hơn con số những thành viên tích cực
đang sống trong khoảng thời gian đặc biệt nào dó trong thế giới hiện tại.
Giới phê bình thường phàn nàn rằng nếu thế giới này vẫn còn trong tình trạng hiện
nay của nó sau 19 thế kỷ có Cơ Đốc giáo thì nó không thể là một tôn giáo tốt. họ
đã phạm hai sai lầm rất buồn cười. Đầu tiên Cơ Đốc giáo - quả thật - không bao
giờ được chấp nhận ở tỉ lệ cao và vì vậy chưa bao giờ giữ vị trí điêu khiển “tình
trạng của thế giới” mặc dầu ảnh hưởng của nó cũng rất đáng kể, và thứ hai, họ đã
hiểu sai bản chất của Cơ Đốc giáo. Không nên đánh giá nó bằng sự thành công hay
thất bại trong sự cải cách một thế giới luôn khước từ nó. Nếu nó thất bại ở nơi nó
được chấp nhận thì có thể có cơ sở để phàn nàn, nhưng nó không thất bại như vậy.
Nó là sự mạc khải một cách sống thật, là con đường để nhận biết Đức Chúa Trời,
con đường để sống một đời sống có thuộc tính vĩnh hằng, và không được xem như
một công cụ của xã hội để giảm tỷ lệ li dị hay giảm tình trạng phạm pháp của thanh
thiếu niên. Bất kỳ “tôn giáo” nếu nó được chấp nhận bởi một số ít dân chúng nào
đó, cũng có thể áp dụng loại sức ép có giới hạn đó. Tôn giáo của Chúa Cứu Thế
làm thay đổi con người (nếu họ sẵn lòng trả giá cho sự thay đổi đó) để họ sống một
cách tự nhiên và bình thường như “những con trai và con gái” của Đức Chúa Trời
và dĩ nhiên họ vận dụng một ảnh hưởng lớn trên cộng đồng. Nhưng nếu Cơ Đốc
giáo thất bại, nó thất bại vì những lý do giống như những lý do mà Chúa Cứu thế
đã thất bại và mọi sự định án đều rơi đúng ngay trên thế giới nào khước từ Ngài và
tôn giáo của Ngài.