PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... -...

248
PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG NHÀ TRƯỜNG TỪ GÓC ĐỘ NGÔN NGỮ PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG NHÀ TRƯỜNG TỪ GÓC ĐỘ NGÔN NGỮ Tác giả: TS. NGUYỄN TRỌNG KHÁNH LỜI NÓI ĐẦU Cảm thụ, phân tích tác phẩm văn học trong nhà trường là công việc thường xuyên, đồng thời cũng là một yêu cầu bắt buộc đối với tất cả các thầy, cô giáo dạy văn, tất cả các em học sinh. Làm thế nào để có thể cảm thụ, phát hiện được những vẻ đẹp đích thực về tư tưởng, nghệ thuật của các tác phẩm văn chương là một vấn đề lâu nay các nhà nghiên cứu, các thầy, cô giáo dạy văn vẫn hằng trăn trở. Cuốn sách này giới thiệu những bài viết theo hướng cảm thụ, phân tích các tác phẩm văn học trong nhà trường từ góc độ ngôn ngữ. Hầu hết các bài viết tập hợp trong sách đều là những bài nghiên cứu được rút ra từ thực tiễn giảng dạy, ôn luyện thi môn Ngữ văn cho đối tượng học sinh các lớp cuối cấp học phổ thông của chính tác giả và một số bài đã được đăng rải rác trên các báo, tạp chí Ngôn ngữ, Ngôn ngữ và đời sống, Văn học và tuổi trẻ v.v… Đây là một công việc khó, bởi các tác phẩm văn học trong chương trình trung học phổ thông đều là những tác phẩm đã

Transcript of PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... -...

Page 1: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG NHÀ TRƯỜNG TỪ GÓC ĐỘ NGÔN NGỮ

PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG NHÀ TRƯỜNG TỪ GÓC ĐỘ NGÔN NGỮ

Tác giả: TS. NGUYỄN TRỌNG KHÁNH

LỜI NÓI ĐẦU

Cảm thụ, phân tích tác phẩm văn học trong nhà trường là công việc

thường xuyên, đồng thời cũng là một yêu cầu bắt buộc đối với tất cả các thầy,

cô giáo dạy văn, tất cả các em học sinh. Làm thế nào để có thể cảm thụ, phát

hiện được những vẻ đẹp đích thực về tư tưởng, nghệ thuật của các tác phẩm

văn chương là một vấn đề lâu nay các nhà nghiên cứu, các thầy, cô giáo dạy

văn vẫn hằng trăn trở.

Cuốn sách này giới thiệu những bài viết theo hướng cảm thụ, phân tích

các tác phẩm văn học trong nhà trường từ góc độ ngôn ngữ. Hầu hết các bài

viết tập hợp trong sách đều là những bài nghiên cứu được rút ra từ thực tiễn

giảng dạy, ôn luyện thi môn Ngữ văn cho đối tượng học sinh các lớp cuối cấp

học phổ thông của chính tác giả và một số bài đã được đăng rải rác trên các

báo, tạp chí Ngôn ngữ, Ngôn ngữ và đời sống, Văn học và tuổi trẻ v.v… Đây

là một công việc khó, bởi các tác phẩm văn học trong chương trình trung học

phổ thông đều là những tác phẩm đã quen thuộc với nhiều người, được

nghiên cứu khá kĩ, không ít tác phẩm từng là đối tượng của những cuộc tranh

luận học thuật sôi nổi trong đời sống văn học. Do vậy, cảm thụ, phân tích tác

phẩm từ góc độ ngôn ngữ đương nhiên không phải là một con đường tiếp

nhận văn học hoàn toàn mới mẻ; nó cũng không đối lập hay phủ nhận sự kế

thừa kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước. Tuy nhiên, xuất phát từ góc

độ ngôn ngữ, không ít ý nghĩa chân chính của các từ ngữ, hình ảnh, chi tiết

trong tác phẩm văn học đã được phát hiện, không ít những cách lí giải có tính

chất áp đặt chủ quan hoặc xa rời tác phẩm tồn tại bấy lâu trong nhiều tài liệu

Page 2: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

giảng dạy, đã được xem xét, điều chỉnh lại một cách có cơ sở khoa học và

phù hợp hơn; góp phần khơi dậy niềm hứng thú, say mê văn học từ chính

quá trình nhận thức và làm chủ ngôn ngữ – phương tiện biểu hiện chủ yếu

của tác phẩm.

Đối tượng phục vụ của cuốn sách là các học sinh đang chuẩn bị cho

các kì thi tốt nghiệp phổ thông, thi tuyển sinh đại học, cao đẳng…, các thầy,

cô giáo dạy văn, sinh viên Ngữ văn, học sinh năng khiếu môn Ngữ văn. Do

đó, chúng tôi chỉ tập trung chủ yếu vào một số tác phẩm trong chương trình

trung học phổ thông hiện còn tồn tại những cách hiểu chưa thống nhất, hoặc

từ góc độ ngôn ngữ vẫn có thể khai thác được những ý nghĩa mới, làm phong

phú, sinh động thêm giá trị tư tưởng – nghệ thuật của tác phẩm. Chúng tôi

cũng hướng sự chú ý của mình vào những tác phẩm có mặt trong Bộ sách

giáo khoa biên soạn theo Chương trình thí điểm Trung học phổ thông, đã

được Bộ Giáo đục và Đào tạo ban hành kèm theo Quyết định số471/ 2002/

QĐ - BGD&ĐT ngày 19/ 11/ 2002 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo. Cấu

trúc của sách được sắp xếp theo trình tự các bài viết về các tác phẩm văn

học trong Chương trình sách giáo khoa Trung học phổ thông hiện hành. Bài

cuối cùng chúng tôi đưa vào tập sách này là bài viết về những sai sót về ngôn

ngữ trong các đề thi tuyển sinh đại học, cao đẳng môn Văn. Thiết nghĩ, đây

cũng là vấn đề thiết thực trong cảm thụ, phân tích tác phẩm và cả trong việc

ra đề thi – một công diệc không kém phần hệ trọng đối với quá trình giảng

dạy, học tập và thi cử môn Ngữ văn trong nhà trường.

Hi vọng cuốn sách sẽ góp một tiếng nói vào việc nâng cao hiệu quả của

công việc dạy văn, học văn trong nhà trường. Chúng tôi thành thực mong

nhận được ý kiến trao đổi và chỉ giáo của các bậc thức giả và đồng nghiệp

gần xa để cuốn sách hoàn thiện hơn ở lần in sau.

Hà Nội, tháng 6 năm 2005 TS.

NGUYỄN TRỌNG KHÁNH

Page 3: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

1. TỪ CÁCH TIẾP CẬN NGÔN NGỮ TÁC PHẨM VĂN HỌC…Việc giảng dạy, học tập môn Ngữ văn trong nhà trường, nhất là ở các

cấp học phổ thông, có một vấn đề tồn tại đã lâu nhưng chưa được giải quyết

triệt để và hiện vẫn còn đang làm nhiều thầy, cô giáo, nhiều nhà khoa học tâm

huyết phải băn khoăn, trăn trở. Đó là tình trạng ngày càng có nhiều em học

sinh tỏ ra chán ghét môn Văn học. Nhiều nguyên nhân đã được đề cập và

làm sáng tỏ, nhiều biện pháp đã được áp dụng, trong đó đáng kể nhất là công

tác cải tiến, đổi mới nội dung chương trình sách giáo khoa, đổi mới phương

pháp dạy văn, học văn theo xu hướng ngày càng tiến gần hơn và tiếp cận với

những thuộc tính đặc trưng của bộ môn v.v… Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải

thừa nhận một thực tế là cho đến nay, môn Văn học trong nhà trường vẫn

chưa thật sự tạo ra được sức hấp dẫn, lôi cuốn cần thiết, do vậy cũng vẫn

chưa có được chỗ đứng vững chắc trong tâm hồn, tình cảm của các em học

sinh như vị trí xứng đáng vốn có của nó.

Về mặt bản chất, khoa học tìm hiểu, khám phá, cảm thụ văn chương

cũng giống với mọi khoa học nhận thức có tính sáng tạo khác về quy luật và

đặc trưng của tâm lí nhận thức. Hứng thú và niềm say mê khoa học ở phía

chủ thể nhận thức chỉ có thể được hình thành, xây đựng một cách bền vững

trên cơ sở những phát hiện mới lạ trong quá trình tìm hiểu, khám phá đối

tượng nghiên cứu. Một học sinh học kém môn Toán chắc chắn sẽ chán và sợ

học Toán, trong khi Toán học là một mềm say mê lớn với đại đa số các em

học sinh khác. Trong Văn học cũng vậy, đối tượng tìm hiểu, khám phá là tác

phẩm văn chương, do đó, mặc dù có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc các em

học sinh không hứng thú với những giờ dạy văn trong nhà trường, thì nguyên

nhân cơ bản nhất vẫn là do các em không hiểu được tác phẩm. Từ chỗ không

hiểu tác phẩm, không cảm thụ được những gì nhà văn thể hiện trong tác

phẩm nên các em không thể có những phát hiện mới lạ, không thể xuất hiện

những rung động thẩm mĩ trong tâm hồn, tình cảm – cội nguồn của niềm say

mê sáng tạo trong quá trình nhận thức, cảm thụ văn học nơi các em.

Page 4: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Điều đáng lo ngại hơn là, mặc dù không hiểu tác phẩm, hoặc chỉ hiểu

một cách khá mơ hồ nhưng các em vẫn phải phân tích, thể hiện sự cảm thụ

của mình về tác phẩm trong các bài làm văn, nên dần dần đã hình thành ở

các em một thói quen ít chú ý đến văn bản tác phẩm, cứ dựa theo sự phân

tích có sẵn trong lời giảng của thầy hoặc trong các tài liệu tham khảo rồi gán

cho tác phẩm những ý nghĩa lớn lao, những mĩ từ to tát…, nhiều khi rất xa lạ

với nội dung tư tưởng và ý nghĩa chân chính, đích thực của tác phẩm. Thói

quen ấy, một mặt rất dễ gây ra tâm lí “phản cảm”, khiến các em ngày càng

chán học văn, sợ học văn. Mặt khác, thói quen ấy cũng tạo ra một lối học văn

theo kiểu “mang máng”, thiếu căn cứ, không bám sát tác phẩm, hoặc “tầm

chương, trích cứ” một cách hời hợt, máy móc, hoặc “xã hội học dung tục”, tác

phẩm chỉ là một cái cớ để bàn luận về một vấn đề luân lí, đạo đức, xã hội nào

đấy. Nhiều em học sinh không hề đọc tác phẩm trước khi nghe giảng hoặc

phân tích tác phẩm. Có em đã học xong trung học phổ thông mà vẫn không

thuộc nổi dù chỉ một bài thơ, thậm chí một khổ thơ nào đấy trong chương

trình! Cho nên, cũng không phải chuyện lạ, trong các kì thi tuyển sinh đại học

hằng năm, mặc dù môn Văn là môn học đã được các em học sinh ở các khối

C, D… định hướng từ trước, nhưng việc chép không đúng hoặc nhầm lẫn các

câu thơ từ bài nọ sang bài kia, nhầm lẫn nhân vật nọ với nhân vật kia v.v… là

hiện tượng khá phổ biến. Ví dụ, nhầm bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Đình

Thi với chương “Đất nước” (trích trong trường ca “Mặt đường khát vọng”) của

Nguyễn Khoa Điềm, nhầm nhân vật Độ (trong truyện ngắn “Đôi mắt”) với

nhân vật Hộ (trong “Đời thừa”) của Nam Cao; thậm chí nhầm nhân vật Chí

Phèo với nhân vật Tràng, nên khi đề yêu cầu phân tích nhân vật Chí Phèo

trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao thì có thí sinh vẫn say sưa viết hàng

năm, bảy trang giấy phân tích tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân. Có học sinh

còn gọi Chí Phèo là “đồng chí”, Hộ là “người chiến sĩ cách mạng” v.v…

Phân tích tác phẩm văn học phải xuất phát từ việc khai thác trực tiếp những yếu tố ngôn ngữ trong văn bản tác phẩm

Page 5: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Việc cảm thụ, phân tích văn học không xuất phát từ khâu tìm hiểu, khai

thác nội dung tư tưởng tác phẩm trực tiếp từ những yếu tố ngôn ngữ của văn

bản tác phẩm còn dẫn đến một thực trạng viết lan man, “tán” một cách sao

rỗng, áp đặt những cách hiểu suy diễn, chủ quan, vô căn cứ, không gắn với

tác phẩm, nhan nhản trong các bài làm văn của học sinh. Đề thi tuyển sinh đại

học – cao đẳng, khối D, năm 2002, yêu cầu bình giảng bốn câu thơ sau trong

bài Đây mùa thu tới của Xuân Diệu:

Hơn một loài hoa đã rụng cành

Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh

Những luồng run rẩy rung rinh lá

Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh

Rất nhiều thí sinh đã đành phải bó tay trước dạng đề này vì không hiểu

đoạn thơ. Ở những bài làm khá hơn, một số em có thể viết khá dài dòng về

sự lãng mạn của Xuân Diệu, về nỗi buồn mông lung vô cớ trong thơ ông,

thậm chí cả về những cách tân mới mẻ, sự “Tây hoá” cảm xúc và ngôn từ của

một nhà thơ hiện đại vào bậc nhất trong làng thơ Việt Nam hồi ấy, một nhà

thơ “mới nhất trong các nhà Thơ mới”, nhưng vẫn không thể nào chỉ rõ ra

được cụ thể bốn câu thơ đang miêu tả cái gì và qua sự miêu tả ấy đã thể hiện

vẻ đẹp trong cảm xúc của một tâm hồn thơ trước thiên nhiên tạo vật như thế

nào, trong khi, đây mới thật sự là cái đích nhận thức thẩm mĩ mà sự cảm thụ,

phân tích đoạn thơ cần phải đạt được.

Đề tuyển sinh khối D, năm 2003 (Câu 2) yêu cầu: “Phân tích những bức

tranh mùa thu trong đoạn thơ sau để làm rõ sự biến đổi tâm trạng của nhà

thơ:

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

Những phố dài xao xác hơi may

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy

Page 6: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Mùa thu nay khác rồi

Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi

Gió thổi rừng tre phấp phới

Trời thu thay áo mới

Trong biếc nói cười thiết tha

Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta

Những cánh đồng thơm mát

Những ngả đường bát ngát

Những dòng sông đỏ nặng phù sa”.

Hầu hết các bài viết của thí sinh đều chỉ phân tích về “bức tranh mùa

thu” hoặc về mùa thu nói chung; đa số “tán” dông dài, có em còn viện rất

nhiều dẫn chứng về mùa thu trong thơ ca cổ, kim, đông, tây nhưng chẳng đả

động gì đến tác phẩm. Rất ít thí sinh đặt những bức tranh mùa thu và tâm

trạng tác giả trong dòng mạch cảm hứng chung về đất nước, vốn là dòng

mạch cảm hứng chủ đạo bao trùm, xuyên suốt trong toàn bộ bài thơ Đất

nước của Nguyễn Đình Thi.

Tiếp nhận tác phẩm văn học từ các yếu tố ngôn ngữ

Một trong những biện pháp nhằm khắc phục tình trạng trên là phải xuất

phát từ những yếu tố ngôn ngữ để tìm hiểu, khám phá và phân tích tác phẩm

văn học. Đây cũng chính là con đường cảm thụ, phân tích văn học đi từ nghệ

thuật đến nội dung tư tưởng, lấy việc giảng nghệ thuật để phát hiện và làm

nổi bật ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm – một vấn đề phương pháp đã từng

được giới nghiên cứu đề cập và bàn luận khá sôi nổi từ nhiều năm nay. Sở dĩ

nói xuất phát từ ngôn ngữ cũng đồng thời có nghĩa là xuất phát từ nghệ thuật

bởi vì, văn học là nghệ thuật ngôn từ”; tác phẩm văn chương là sản phẩm của

một loại hình nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ làm chất liệu vừa để gửi gắm lại

vừa để phô diễn, giãi bày tâm hồn, tư tưởng, tình cảm của chủ thể cảm xúc

Page 7: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

trước các hiện tượng đời sống. Xét từ góc độ giao tiếp thì thông qua tác

phẩm của mình, nhà văn, nhà thơ thực hiện một sự giao tiếp xã hội và tác

phẩm là một dạng ngôn bản. sản phẩm của quá trình giao lưu đồng cảm và

đồng sáng tạo giữa tác giả với các thế hệ độc giả. Dẫu rằng cách diễn đạt,

trình bày của ngôn ngữ văn chương có những thuộc tính đặc trưng riêng biệt

thế nào thì nó vẫn không thể vượt ra ngoài phạm vi những khuôn phép, quy

luật biểu đạt của ngôn ngữ giao tiếp nói chung: Tuy nhiên, trong hoạt động

giao tiếp đó, quy trình sáng tạo và tiếp nhận tác phẩm văn học là hai con

đường ngược chiều nhau. Đó là quá trình “mã hoá” và quá trình “giải mã”

lượng thông tin tâm hồn. Nhà văn, nhà thơ xuất phát từ những cảm xúc,

những trăn trở, suy tư (tư tưởng – cảm xúc của tác giả) mà sáng tạo ra

những hình tượng nghệ thuật rồi dùng ngôn ngữ để diễn đạt, thể hiện hình

tượng nghệ thuật và tư tưởng ấy. Tác phẩm văn học đến với độc giả và đến

lượt mình, người tiếp nhận tác phẩm lại đi từ việc tiếp xúc với văn bản tác

phẩm, thông qua các yếu tố ngôn ngữ và thế giới hình tượng trong tác phẩm

để phát hiện ra tư tưởng nghệ thuật – những cảm xúc, những suy tư trăn trở

của nhà văn, nhà thơ gửi gắm trong đó (xem sơ đồ dưới đây). Nói theo cách

nói của một nhà phê bình: nhà thơ “gói” tâm tình của mình lại, còn nhà phê

bình (độc giả) thì lại tìm cách “mở” tâm tình ấy ra. Cả hai việc “gói” và “mở” ấy

đều phải được thực hiện bằng phương tiện ngôn ngữ – yếu tố trung tâm của

tác phẩm văn học. Vì vậy, tiếp nhận tác phẩm văn học từ các yếu tố ngôn ngữ

có thể coi như chiếc chìa khoá duy nhất để mở cánh cửa đi vào khám phá thế

giới nghệ thuật của tác phẩm, tìm hiểu tâm hồn, tư tưởng, tình cảm của nhà

văn, nhà thơ gửi gắm và biểu hiện trong đó.

Quy trình sáng tạo văn học

TÁC GIẢ TƯ TƯỞNG CẢM XÚC

HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT NGÔN NGỮ

Quy trình tiếp nhận văn học

Page 8: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

TƯ TƯỞNG TÁC PHẨM HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT

NGÔN NGỮ ĐỘC GIẢ

Dĩ nhiên, tiếp cận ngôn ngữ tác phẩm văn học không phủ nhận hay loại

trừ các phương pháp và con đường khác trong cảm thụ, phân tích văn học

như: tìm hiểu hoàn cảnh sáng tác, tìm hiểu lịch sử, những chi tiết đời tư của

tác giả, vận dụng các kiến thức xã hội, tri thức khoa học và lí luận văn học

hiện đại, tham khảo ý kiến của chính tác giả v.v… mà vẫn vận đụng, tích hợp

tất cả các phương pháp ấy trong nghiên cứu. Phương pháp phân tích, cảm

thụ tác phẩm văn học đi từ các yếu tố ngôn ngữ thực chất chỉ nhằm mục đích

hướng người đọc chú ý trực tiếp vào đối tượng nghiên cứu, lấy việc khai thác

văn bản làm căn cứ xác thực để phát hiện và suy luận trong nghiên cứu. Từ

kinh nghiệm thực tế của bản thân đã nhiều năm dạy và luyện thi môn Văn cho

đối tượng học sinh các lớp cuối cấp học phổ thông, dưới đây chúng tôi xin đề

cập đến một vài phương diện, thao tác cụ thể của phương pháp tiếp cận ngôn

ngữ tác phẩm văn học mà theo chúng tôi là có hiệu quả thiết thực, có thể giúp

người đọc hiểu được tác phẩm một cách có căn cứ, gây được hứng thú cho

học sinh trong các giờ dạy văn, học văn.

Phát hiện và hiểu đúng ý nghĩa của từ ngữ

Trước hết, trong cảm thụ, phân tích văn học cần phải biết phát hiện và

hiểu đúng ý nghĩa của các từ ngữ trong tác phẩm. Đây chính là thao tác phát

hiện ở người tiếp nhận: phát hiện ra các từ ngữ cần thiết và phát hiện được ý

nghĩa tư tưởng chứa đựng (biểu hiện) trong các đơn vị từ ngữ ấy. Có thể đó

là những từ ngữ chứa đựng những ý nghĩa trừu tượng, khó hiểu nhưng cũng

có khi chúng chỉ là những từ ngữ hết sức thông thường. Đã thành một thói

quen trong giới nghiên cứu, giảng dạy tác phẩm văn học, cứ nói đến việc khai

thác từ ngữ là người ta nghĩ ngay đến “nhãn tự”, tức là những chữ có “thần”,

những từ ngữ chứa đựng nhiều thủ pháp nghệ thuật (ẩn dụ, hoán dụ, chơi

chữ, khoa trương v.v…), thể hiện dụng công của tác giả. Điều ấy quả không

sai, nhưng như thế sẽ bỏ sót rất nhiều từ ngữ mà thiếu nó, tư tưởng nghệ

Page 9: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

thuật của tác phẩm không thể nào nổi bật lên được. Bởi vì, cùng với các hình

tượng nghệ thuật, nhiều khi cảm xúc và tư tưởng của nhà văn, nhà thơ còn

được diễn đạt trực tiếp bằng các từ ngữ bình thường. Lại cũng có trường

hợp, do sự mẫn cảm ngôn ngữ đặc biệt và năng lực ngôn ngữ tiềm tàng, nhà

văn, nhà thơ - những nghệ sĩ ngôn từ – đã “vô tình” đem đến cho các từ ngữ

bình thường những phẩm chất nghệ thuật mới, những khả năng biểu đạt đặc

biệt, tạo nên những chữ “xuất thần” mà có khi, chính người sử dụng nó cũng

không ngờ tới. Nhưng vì có vẻ “bình thường” nên người đọc rất dễ bỏ qua khi

nghiên cứu tác phẩm. Người cảm thụ, phân tích văn học, với tư cách là người

đồng sáng tạo với chủ thể cảm xúc, vừa phải biết phát hiện những từ ngữ

chứa đựng các biện pháp tu từ, đồng thời cũng vừa phải biết phát hiện cho

thật trúng và không để lọt những từ ngữ bình thường nhưng lại có giá trị biểu

đạt “xuất thần” ấy. Trở lại bốn câu thơ trên trong bài Đây mùa thu tới thì, riêng

ở nhan đề bài thơ, người đọc cần phải đặc biệt chú ý đến chữ tới – một chữ

quả là rất bình thường, nhưng nếu bị bỏ qua thì tư tưởng cơ bản của tác

phẩm cũng không thể nói rõ được. Bởi vì, bài thơ không chỉ nói về mùa thu

chung chung, mà chủ yếu nhằm thể hiện những xúc cảm tinh tế của chủ thể

trữ tình trước cái khoảnh khắc chuyển mùa của thiên nhiên tạo vật lúc thu

sang: Đây (là một) mùa thu (đang) tới. Bám sát vào một số từ ngữ trong khổ

thơ đó như: vườn, hoa đã rụng cành, sắc đỏ rũa màu xanh, nhánh (cây) khô

gầy… chúng ta sẽ nhận ra ngay đây là bốn câu thơ tập trung miêu tả khung

cảnh một vườn thu. Để ý kĩ chút nữa, chúng ta sẽ phát hiện ra sự quan sát rất

tinh tế của một tâm hồn thơ, thể hiện qua cách diễn đạt độc đáo, mới lạ của

rất nhiều từ ngữ bình thường ở đoạn thơ này. Nét đặc trưng của mùa thu là

cảnh lá rụng hoa tàn. Nhưng vì thu mới ở vào độ thu tới, thu sang, lúc thời tiết

còn đang chuyển giao từ mùa hạ nóng nực sang mùa thu se lạnh nên sự tàn

rụng ấy cũng chưa nhiều. Trong vườn mới chỉ có hơn một loài hoa đã rụng

cành. “Hơn một” có nghĩa là chưa nhiều lắm, chỉ mới vài ba loài hoa chớm lụi

tàn, còn “đã rụng” nghĩa là sự rụng tàn chỉ mới xảy ra mà thôi. Những sắc lá

úa vàng của mùa thu đang lấn dần màu xanh, làm cho màu xanh bị rũa dần

đã từng tí một. Rũa ở đây là một động từ tiếng Việt, chỉ hoạt động bào mòn,

Page 10: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

chứ không phải là sự rữa nát, cũng không phải từ rủa (sắc đỏ rủa màu xanh),

với nghĩa là càu nhàu, chửi rủa hay đối ngược, học theo cách diễn đạt của

tiếng Pháp như có người vẫn nghĩ. Và đôi nhánh cây (chỉ “đôi nhánh” thôi chứ

chưa nhiều) đã bị rụng lá, trơ trọi như những chiếc xương khô gầy mỏng

mảnh trong làn gió se lạnh lúc đầu thu… Rõ ràng những chữ “hơn một”, “đã

rụng cành”, “đôi nhánh”, “rũa” đâu phải là những biện pháp tu từ từ vựng hay

những thủ pháp nghệ thuật tân kì? Những chính nhờ những chữ ấy mà thiên

nhiên, cảnh vật bỗng trở nên hết sức sinh động, gợi cảm. Ta bỗng nhận thấy

một mùa thu mới xôn xao hiện về và một cặp mắt xanh non, ngơ ngác, một

tâm hồn thơ tinh tế, nhạy cảm cũng đang khẽ rung lên trước mỗi biến thái tinh

vi, mong manh, huyền diệu của thiên nhiên tạo vật lúc chuyển mùa…

Một ví dụ khác, trong bài thơ Đất Nước (trích Chương V, trường ca Mặt

đường khát vọng) của Nguyễn Khoa Điềm, nếu không chú ý đến các chữ bình

thường và một cấu trúc ngữ pháp phổ biến của kiểu câu định nghĩa được lặp

đi lặp lại rất nhiều lần trong toàn bộ Phần I của bài thơ như: “đất nước đã có

rồi”, “đất nước có trong”, “đất nước bắt đầu”, “đất nước lớn lên”, “đất nước có

từ”, “đất là”, “nước là”, “đất nước là”..: thì sẽ không thể phát hiện ra ý tưởng

và sự cảm nhận độc đáo của tác giả về đất nước. Bằng việc đưa ra những sự

vật, hiện tượng rất bình dị mà gắn bó sâu sắc với đời sống và tinh thần, tình

cảm của mỗi con ngời tự thuở ấu thơ để định nghĩa về đất nước, Nguyễn

Khoa Điềm đã đưa ra một quan niệm hết sức giản dị nhưng không kém phần

mới mẻ: đất nước không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì

gần gũi, thân thuộc, là sự sống, máu thịt và tinh thần của mỗi con người nên

mỗi người đều phải có trách nhiệm với đất nước, bởi vì trách nhiệm với đất

nước cũng là trách nhiệm với chính sự sống của bản thân mình. Khi phân tích

đoạn thơ tiếp theo ở Phần II:

Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng

Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống mái

Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Page 11: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Chín mươi chín con voi góp mình dựng thành đất Tổ Hùng Vương

Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên

Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà

Điểm…

thì người phân tích cần phải biết phát hiện và bám vào khai thác động

từ “góp” lặp đi lặp lại ở mỗi dòng thơ: góp, góp cho, góp nên, góp mình… Đây

là một từ tuy được sử dụng hết sức thông thường, không chứa đựng bất kì

một thủ pháp nghệ thuật nào nhưng lại có khả năng biểu đạt rất tập trung cô

đọng, thể hiện sự cảm nhận sâu sắc của tác giả về vai trò, sứ mệnh, những hi

sinh đóng góp to lớn của nhân dân đối với đất nước.

Phát hiện đúng các từ ngữ, hình ảnh cần thiết trong tác phẩm gắn liền

với yêu cầu phát hiện và hiểu đúng ý nghĩa cửa các từ ngữ, hình ảnh ấy.

Không phát hiện được ý nghĩa hoặc hiểu không đúng ý nghĩa của các đơn vị

ngôn ngữ đều dẫn đến những cách hiểu sai lầm trong cảm thụ, phân tích tác

phẩm văn học. Không hiểu đúng ý nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ còn khiến

cho tác phẩm trở nên khó hiểu, làm giảm sút niềm hứng thú của đối tượng

tiếp nhận trong khi theo dõi tác phẩm. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, giờ dạy

văn sẽ sôi động hẳn lên khi tác phẩm trở nên dễ hiểu dưới sự dẫn dắt, gợi

mở và phân tích của thầy giáo. Các em học sinh đều tỏ ra hứng khởi và chăm

chú theo dõi hơn khi phát hiện trúng ý nghĩa của một từ ngữ, hình ảnh trong

tác phẩm mà vốn trước đây các em chưa hiểu được hoặc chưa ngờ tới.

Chẳng hạn, khi phân tích hai câu thơ.

Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu

Lả lả cành hoang nắng trở chiều

thì, câu thơ trên sẽ hoàn toàn dễ hiểu và sẽ gây được sự chú ý theo dõi

của học sinh nếu biết gợi ý cho các em hiểu “cành hoang” nghĩa là những

Page 12: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

cành cây rụng lá vào mùa thu. Ngược lại, nếu không làm sáng tỏ được ý

nghĩa của hai từ đó thì dẫu thầy cô giáo có phân tích bao nhiêu đi nữa, sự

phân tích ấy cũng không đủ sức thuyết phục, không làm đọng lại nơi tâm hồn

các em những ấn tượng sâu sắc. Bởi vì, khi không hiểu ý nghĩa của từ ngữ,

trí tưởng tượng của các em không thể hình dung được các hình ảnh miêu tả

trong tác phẩm – một trong những đặc trưng quan trọng nhất của hoạt động

nhận thức, cảm thụ văn học:

Nhưng các từ ngữ, hình ảnh trong tác phẩm văn học thường chứa

đựng nhiều loại ý nghĩa: nghĩa gốc, nghĩa chuyển, nghĩa đen, nghĩa bóng,

nghĩa sự vật, nghĩa biểu niệm, nghĩa biểu cảm… Khai thác loại ý nghĩa nào là

tuỳ ở sự nhạy cảm của người nghiên cứu, song nguyên tắc chung là phải khai

thác những ý nghĩa phù hợp với chủ đề tư tưởng tác phẩm và cảm xúc của

tác giả. Chẳng hạn, trong đoạn thơ sau:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ.

(Quang Dũng, Tây Tiến)

Đối với cụm từ “hội đuốc hoa”, hướng khai thác chỉ nên tập trung vào ý

nghĩa biểu thị nét lãng mạn trong cảm xúc của Quang Dũng. Đây là đoạn thơ

tác giả hồi tưởng về một đêm liên hoan văn nghệ của đơn vị Tây Tiến tại một

bản làng nơi đóng quân. Nhưng trong nỗi nhớ về đơn vị cũ, nhà thơ đã gọi kỉ

niệm đó bằng cái tên “hội đuốc hoa” – với ý nghĩa chỉ hội cưới và cái đêm

“động phòng hoa chúc” của một đời người. Đó quả là một liên tưởng hết sức

lãng mạn mà có lẽ chỉ những người lính Tây Tiến tài hoa như Quang Dũng

mới có được những xúc cảm như vậy.

Trong nhiều trường hợp, chủ đề tư tưởng của tác phẩm thường được

biểu hiện qua những ý nghĩa biểu trưng của một vài từ ngữ, hình ảnh nào đó

trong tác phẩm. Chẳng hạn, Đôi mắt là một tên truyện bộc lộ trọn vẹn chủ đề

Page 13: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

tác phẩm. “Đôi mắt” là biểu tượng cho cách nhìn và lập trường tư tưởng, thái

độ của người cầm bút đối với con người và cuộc kháng chiến cứu nước của

dân tộc. Trong bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên, “Tây Bắc” là tên

một vùng đất xa xôi của Tổ quốc nhưng cũng là biểu tượng cho cuộc sống

cần lao rộng lớn, còn nhiều gian khó của nhân dân. “Con tàu” là hình ảnh của

một tâm hồn thơ đang trong hành trình từ bỏ cái tôi cô đơn, đóng khép để trở

về hoà nhập, gắn bó với cuộc đời của nhân dân, đất nước. Hình ảnh ấy chỉ

xuất hiện ở phần đầu và phần cuối của bài thơ. Ở phần đầu bài thơ, con tàu

là một nỗi lòng khao khát, hăm hở, một lời mời gọi lên đường; còn ở phần

cuối bài thơ (nghĩa là khi con tàu đã đến được nơi cần đến), thì đó là một

khúc hát mê say, lôi cuốn và lãng mạn. Do đó, Tiếng hát con tàu cũng là cách

nói hình ảnh thể hiện chủ đề tư tưởng của bài thơ: tiếng hát thiết tha, sôi nổi

và sâu lắng của những tâm hồn thơ trong hành trình tìm về với cuộc sống lớn

của nhân dân đất nước, tìm về với cội nguồn của những cảm hứng thơ ca

chân chính, đích thực. Trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh, ý nghĩa biểu

trưng của hình ảnh con sóng cũng đồng thời chính là chủ đề tư tưởng của bài

thơ, thể hiện khát vọng hạnh phúc và những biểu hiện tâm hồn đẹp đẽ của

người phụ nữ Việt Nam mới trong tình yêu. Trong Mảnh trăng cuối rừng của

Nguyễn Minh Châu, hình ảnh “mảnh trăng” là một hình ảnh có ý nghĩa biểu

trưng cho Vẻ đẹp lấp lánh như những viên ngọc nhưng còn tiềm tàng, ẩn giấu

trong bề sâu tâm hồn con người Việt Nam thời đánh Mĩ. Cái vẻ đẹp ấy cũng

là cội nguồn cảm hứng và ý tưởng nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Minh

Châu mà qua nhân vật chính của thiên truyện - Nguyệt, cô thanh niên xung

phong đẹp người đẹp nết trên tuyến đường Trường Sơn ác liệt – nhà văn đã

tìm thấy được cái ánh sáng lung linh, huyền diệu, đậm màu sắc lí tưởng của

nó…

Phải nắm được các đặc trưng của ngôn ngũ thơ.

Riêng đối với tác phẩm thơ, người cảm thụ, phân tích cần phải nắm

được những đặc trưng của ngôn ngữ thơ. Khác với ngôn ngữ trong giao tiếp

thông thường, do đặc trưng thể loại, ngôn ngữ thơ thường có một con đường

Page 14: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

riêng trong cách biểu hiện và diễn đạt. Đã có nhiều công trình nghiên cứu vấn

đề này. Ở đây chúng tôi xin chỉ đề cập đến một vài điểm chủ yếu. Do nguyên

tắc kiệm lời, ngôn ngữ thơ có tính chất dồn nén, hàm súc và đa nghĩa. Về mặt

cấu trúc, nhiều khi các yếu tố ngôn ngữ không được hiện diện đầy đủ trên bề

mặt văn bản của tác phẩm thơ, hoặc là trong một câu thơ, trật tự các yếu tố

ngôn ngữ không tuân theo những cách diễn đạt thông thường. Nói theo cách

của nhà thơ Ngô Minh thì nhiều khi, “khoảng cách giữa câu thơ đòng trên và

câu thơ tiếp theo không phải theo thứ tự 1, 2, 3… nữa, mà nhảy cóc từ 1 đến

10, 20… Tức là khoảng “lặng” giữa các câu thơ mà nhà thơ dành cho người

đọc tự do nghĩ ngợi, càng rộng thì độ nén của thơ càng cao”. Như những

khoảng lặng giữa các khổ thơ trong bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử và

giữa các câu thơ của hai khổ cuối trong bài thơ ấy là một ví dụ. Kinh nghiệm

của một số nhà nghiên cứu khi gặp những trường hợp như vậy thường tìm

cách đưa những câu thơ trở về với cách diễn đạt thông thường, tức là chuyển

những câu thơ có cấu trúc đặc biệt thành cách diễn đạt của văn xuôi, như

thêm vào một số từ ngữ hoặc làm hiện diện những yếu tố bị tỉnh lược, khiếm

diện trong câu thơ (đoạn thơ), hoặc đảo trật tự các từ ngữ trong câu thơ theo

trật tự của câu văn xuôi v.v… Ngôn ngữ học gọi thủ pháp này là “phép thử”.

Trong thực tế giảng dạy, phân tích thơ, phép thử ấy nhiều khi tỏ ra rất hữu

hiệu, nhất là đối với các em học sinh. Nó gợi mở trí tưởng tượng, lấp đầy các

“khoảng trống” ngữ nghĩa giữa các câu thơ để người đọc có thể hiểu và cảm

thụ chúng. Chẳng hạn, có những câu thơ mới đọc tưởng chừng rất khó hiểu,

song chỉ cần diễn đạt lại câu thơ dưới dạng văn xuôi, lập tức có thể phát hiện

ngay được ý nghĩa lấp lánh của nó. Trong bài Thơ duyên của Xuân Diệu, học

sinh thường bị “vấp” ngay từ những câu thơ đầu tiên:

Chiều mộng hoà thơ trên nhánh duyên

Cây me ríu rít cặp chim chuyền

Song nếu làm một phép thử ngôn ngữ học là đảo trật tự hai câu thơ và

diễn đạt chúng bằng văn xuôi: “Trên cành cây me có đôi chim chuyền cành ríu

rít, khiến cho cành cây me trở thành nhánh duyên, còn không gian của buổi

Page 15: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

chiều thu bỗng biến thành một không gian thơ mộng (của những lứa đôi)”, thì

câu thơ đầu tiên sẽ trở nên hoàn toàn dễ hiểu và hình ảnh về bức tranh buổi

chiều thu đậm đà màu sắc duyên tình tươi vui như thể đã hiển hiện khá sinh

động ngay trước mắt người đọc.

Hay như khi phân tích những câu thơ “hai giọng” (trong bài Tống biệt

hành của Thâm Tâm) thể hiện cái khẩu khí cứng cỏi, khí phách ngang tàng

của người li khách giã nhà theo “chí nhớn”:

Đưa người, ta chỉ đưa người ấy,

Một giã gia đình, một dửng dưng…

– Li khách! Li khách! Con đường nhỏ,

Chí nhớn chưa về bàn tay không,

Thì không bao giờ nói trở lại!

Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.

Giáo sư Trần Đình Sử viết: “Từ ngữ trong câu dồn nén, có nhiều tỉnh

lược, giữa các dòng thơ có nhiều khoảng trống, tạo thành một vẻ ám ảnh bí

ẩn, không dễ gì thuyết minh cho thông (…). Có nhiều chỗ tối nghĩa, phải thêm

chữ vào mới hiểu được. Chẳng hạn, Chí nhớn: chưa về (nếu) bàn tay không.

(Chưa thành công) thì không bao giờ nói trở lại… (Dẫu có là) Ba năm, (thì)

mẹ già cũng đừng mong”.

Thủ pháp này cũng có thể dùng để nhận diện cấu trúc những đoạn thơ,

câu thơ có cách diễn đạt lạ, độc đáo, qua đó phát hiện mạch cảm xúc, suy

tưởng của chủ thể trữ tình. Chẳng hạn, với đoạn thơ sau trong bài Vội vàng

của Xuân Diệu:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật,

Này đây hoa của đồng nội xanh rì,

Này đây lá của cành tơ phơ phất;

Của yến anh này đây khúc tình si,

Page 16: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi.

Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa;

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;

Trước hết, phải thấy rằng, “này đây” là một cụm từ mà về mặt ý nghĩa

và chức năng cú pháp, nó chỉ tương đương với một đại từ chỉ vị trí ở gần,

ngay phía trước mặt người nói: “này” hoặc “đây”. Về cấu trúc, hầu hết các câu

thơ trong đoạn thơ trên đều không tuân theo trật tự ngữ pháp thông thường;

toàn bộ đoạn thơ là một phép so sánh trùng điệp, trong đó vế 2 – cái dùng để

so sánh – là liên tiếp những hình ảnh được miêu tả ở mỗi câu thơ, còn vế 1 –

cái. được so sánh – bị ẩn đi, không hiện diện. Để hiểu ý nghĩa tư tưởng, cảm

xúc được biểu đạt ở đoạn thơ này, chúng ta hãy thiết lập lại trật tự văn xuôi

của các câu thơ, chỉ sử dụng một từ “này” hoặc “đây” theo cách diễn đạt

thông thường và hiện thực hoá vế 1 là “cuộc đời”, ta sẽ có những câu văn

xuôi được diễn đạt như sau:

VẾ 1:

CÁI ĐƯỢC SO SÁNH

Cuộc đời này như là

VẾ 2:

CÁI DÙNG ĐỂ SO SÁNH

– tuần tháng mật của bướm ong

– hoa của đồng nội xanh rì

– lá của cành tơ phơ phất

– khúc tình si của yến anh

– ánh chớp của hàng mi

– tháng giêng của mùa xuân…

Dễ dàng nhận ra đây là đoạn thơ thể hiện sự cảm nhận của nhà thơ về

cuộc đời và sự sống trần thế. Dưới cặp mắt xanh non háo hức và đầy vui

sướng của Xuân Diệu, sự sống trần thế luôn là một thế giới hết sức tươi đẹp,

đẫm nhạc, đẫm hương thơm, đầy màu sắc và tình ái, đầy ánh sáng và âm

nhạc… Tất cả như đang bày ra trước mặt, ngay trong tầm tay của mỗi người

và dâng đón, chào mời…

Page 17: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Ở khổ thơ cuối bài Đất nước của Nguyễn Đình Thi, lấy chất liệu từ một

thực tế ở chiến trường Điện Biên Phủ trong trận đánh chiếm đồi A1, giữa cái

nắng hè gay gắt, dưới ánh chớp lửa đạn rực trời, trưa ngày 7/5/1954, các

chiến sĩ ta từ các chiến hào, mình đầy bùn đất, sau “Năm mươi sáu ngày đêm

khoét núi ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt/ Máu trộn bùn non, gan không núng,

chí không mòn…” (Tố hữu, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên) đã ào ạt xông lên

chiếm cao điểm cuối cùng của giặc, giải phóng hoàn toàn Điện Biên, kết thúc

thắng lợi cuộc kháng chiến, nhà thơ đã tạo nên một hình ảnh biểu trưng khái

quát về Đất Nước kháng chiến:

Súng nổ rung trời giận dữ

Người lên như nước vỡ bờ

Nước Việt Nam từ máu lửa

Rũ bùn đứng dậy, sáng loà

Tuy nhiên, không phải người đọc thơ nào cũng nhận ra ngay cách diễn

đạt biểu trưng ấy, nhất là đối với các em học sinh phổ thông. Vì vậy, khi phân

tích, giảng giải, có thể dùng phép thử của ngôn ngữ học, thêm quan hệ từ

biểu thị ý so sánh “như” vào cuối hai câu thơ đầu để hiện rõ cách diễn đạt

biểu trưng của khổ thơ: bốn câu thơ đã dựng nên bức tượng đài sừng sững

về một Đất Nước kháng chiến từ trong đau thương uất hận, từ trong máu lửa

bùn lầy đã anh dũng đứng dậy chói loà trong niềm tin và chiến thắng.

Một điểm khá quan trọng khi cảm thụ, phân tích thơ mà chúng tôi muốn

đề cập ở đây là vấn đề tìm hiểu mạch lạc của tư tưởng – cảm xúc và cấu trúc

bài thơ. Để hiểu một tác phẩm thơ, ngươi đọc phải cảm thụ, theo dõi được cái

mạch vận động, phát triển của tư tưởng, cảm xúc trong toàn bộ bài thơ mà

ngôn ngữ học gọi là mạch lạc của một tác phẩm thơ. Mạch lạc là một khái

niệm ngôn ngữ học thuộc lĩnh vực phân tích diễn ngôn và có liên quan trực

tiếp tới cấu trúc văn bản của tác phẩm: “Dễ nhận thấy là văn bản văn học

mang tính mạch lạc một cách rõ ràng hơn là hội thoại thường ngày, cũng có

nghĩa là người cầm bút chú ý nhiều hơn tới sự cấu trúc bài viết của mình.

Page 18: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Khái niệm mạch lạc đối với cấu trúc của văn bản là một trong những khái

niệm quan trọng của người cầm bút”. “Người cầm bút” ở đây trước hết là tác

giả, chủ thể sáng tạo văn bản tác phẩm thơ và sau đó là “phận sự của người

đọc”. Theo dõi được mạch lạc của tư tưởng, cảm xúc thơ, chỉ ra được cấu

trúc văn bản của tác phẩm thơ chính là “một phần trong quá trình đọc”, hơn

nữa còn là một phần hết sức quan trọng, bởi từ đó người đọc nắm được

những gì cốt lõi và cảm thụ được tinh thần cơ bản của bài thơ. Thực ra, việc

tìm hiểu mạch lạc và cấu trúc bài thơ cũng đã được tiến hành thông qua việc

phân tích bố cục, cách chia đoạn bài thơ, một công việc khá quen thuộc trong

phân tích, giảng dạy các tác phẩm thơ (và tác phẩm văn học nói chung) trong

nhà trường phổ thông. Bởi vì, bố cục và mạch lạc trong cấu trúc tác phẩm có

quan hệ với nhau một cách chặt chẽ. Tuy nhiên, bố cục chỉ là cái biểu hiện

bên ngoài của cảm xúc, tư tưởng; nó thuộc về hình thức của cấu trúc tác

phẩm. Còn mạch lạc mới chính là trình tự bên trong của dòng mạch cảm xúc;

đó là cái dòng chảy tư tưởng, tình cảm chạy suốt bài thơ; nó thuộc về cái lô

gích bên trong cấu trúc của tác phẩm thơ. Nhìn chung, có hai cách cấu trúc

bài thơ: cấu trúc theo kiểu khai triển đề tài và cấu trúc theo mạch phát triển

tâm trạng cảm xúc của chủ thể trữ tình. Cấu trúc của các bài thơ Đây mùa thu

tới, Đất nước, Bên kia sông Đuống… có thể coi như thuộc kiểu thứ nhất. Còn

cấu trúc của các bài thơ Tống biệt hành, Đây thôn Vĩ Dạ, Sóng, Tiếng hát con

tàu… là thuộc kiểu thứ hai. Có thể cụ thể hoá cấu trúc bài thơ Đây mùa thu

tới của Xuân Diệu thông qua mối quan hệ giữa bố cục và mạch lạc như sau:

BỐ CỤC MẠCH LẠC

Đoạn 1: Tín hiệu báo

thu và tâm trạng con

ngươi lúc thu sang.

(Khổ thơ đầu)

Sự hồ hởi, vui sướng của nhà thơ khi nhận ra

dấu hiệu của mùa thu qua dáng vẻ thướt tha,

yểu điệu của những hàng liễu rủ dưới sắc nắng

chiều thu vàng nhạt.

Đoạn 2: Toàn cảnh

thiên nhiên, đất trời

lúc vào thu.

Cảm nhận tinh tế của nhà thơ trước những

biến thái hết sức tinh vi, mong manh, nhỏ nhặt

của thiên nhiên, tạo vật lúc vào thu qua những

Page 19: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

(Ba khổ thơ cuối) hình ảnh: vườn thu, trăng thu, núi thu – sương

thu, rét thu, sông thu – đò thu, bầu trời thu

(mây, chim, khí trời), thiếu nữ thu.

Bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi có bố cục gồm ba phần:

Đoạn 1: Khung cảnh mùa thu Hà Nội những năm dài nô lệ trước Cách

mạng tháng Tám.

Đoạn 2: Khung cảnh mùa thu đất nước có độc lập, tự do từ sau Cách

mạng tháng Tám.

Đoạn 3: Hình ảnh đất nước đau thương đã đứng dậy và ngời sáng

trong suốt cuộc kháng chiến trường kì. Bố cục đó được xây dựng dựa trên cơ

sở của dòng mạch tư tưởng - cảm xúc chung về đất nước xuyên suốt trong

toàn bộ bài thơ: Khơi nguồn cho niềm xúc cảm và những suy tư về đất nước

là không gian trong trẻo và mùi hương cốm mới rất đặc trưng của một buổi

sáng mùa thu ở chiến khu Việt Bắc trong kháng chiến gợi nhớ về những mùa

thu đất nước trong quá khứ:

Sáng mát trong như sáng năm xưa

Gió thổi mùa thu hương cốm mới

Tôi nhớ những ngày thu đã xa

“Những ngày thu đã xa” ấy là những ngày đất nước còn chìm đắm

trong vòng nô lệ trước Cách mạng tháng Tám, mà hình ảnh biểu trưng là

khung cảnh mùa thu Hà Nội. Hà Nội vào thu: đất nước qua cái nhìn lãng mạn

của Nguyễn Đình Thi vẫn rất đẹp, gợi cảm và đầy khí phách nhưng không

tránh khỏi buồn vắng, hiu hắt:

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

Những phố dài xao xác hơi may

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.

Page 20: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Từ niềm hoài niệm đó, nhà thơ trở về với niềm vui phơi phới và niềm tự

hào sâu lắng trước khung cảnh một đất nước có truyền thống bất khuất, đã

có độc lập tự do sau Cách mạng:

… Trời thu thay áo mới

Trong biếc nói cười thiết tha

Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta

Những cánh đồng thơm mát

Những ngả đường bát ngát

Những dòng sông đỏ nặng phù sa

Nước chúng ta

Nước những người chưa bao giờ khuất…

Cuối cùng là những suy tư về hình ảnh đất nước trong cuộc kháng

chiến trường kì, một đất nước đau thương, uất hận vì chiến tranh tàn phá

nhưng vẫn hết sức anh dũng, bất khuất và ngời sáng trong niềm tin chiến

thắng:

Ôi những cánh đồng quê chảy máu

Dây thép gai đâm nát trời chiều

Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu

(…) Nước Việt Nam từ máu lửa

Rũ bùn đứng dậy sáng loà.

Bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh nhìn hình thức và thi tứ thì có vẻ phóng

túng, tự do nhưng từ chiều sâu của tư tưởng và cảm hứng, người đọc vẫn có

thể nhận thấy rất rõ sự mạch lạc của dòng cảm xúc được triển khai một cách

Page 21: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

khá giản dị theo cái lô gích diễn tiến rất tự nhiên của tình cảm: bắt đầu từ

những khát vọng mãnh liệt về một tình yêu chân chính, không chấp nhận

những tình cảm nhỏ hẹp, vị kỉ (Sông không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể/

Nỗi khát vọng tình yêu/ Bồi hồi trong ngực trẻ), dẫn đến những suy tư đầy xúc

động về các trạng thái tâm hồn trong tình yêu ấy như: sự băn khoăn, trăn trở

về nguồn cội của tình yêu (Sóng bắt đầu từ gió/ Gió bắt đầu từ đâu/ Em cũng

không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau); nỗi nhớ nhung tha thiết, mãnh liệt của

một tình yêu chân chính (Ôi con sóng nhớ bờ/ Ngày đêm không ngủ được…/

Nơi nào em cũng nghĩ/ Hướng về anh một phương); niềm hi vọng tin tưởng

(Trăm ngàn con sóng đó/ Con nào chẳng tới bờ…) và cuối cùng là khát vọng

được hi sinh, dâng hiến, được sống hết mình cho tình yêu đó (Làm sao được

tan ra/ Thành trăm con sóng nhỏ/ Giữa biển lớn tình yêu/ Để ngàn năm còn

vỗ).

Cấu trúc bài thơ Tống biệt hành của Thâm Tâm theo sát mạch vận

động, phát triển tâm trạng của chủ thể trữ tình – người đưa tiễn: bắt đầu là

những băn khoăn trước thái độ và tình cảm của li khách trong giờ phút chia

tay: Sao có tiếng sóng (…)/ Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong/ Đưa người ta

chỉ đưa người ấy…, tiếp đến là những hồi tưởng về cảnh ngộ của người ra đi:

Ta biết người buồn (...) và cuối cùng là lòng ngưỡng vọng, cảm phục đối với

tinh thần trượng nghĩa cùng những tình cảm đầy nhân tính của li khách trong

thời đại ý thức về cái tôi đã được thức tỉnh: Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!

v.v…

Như vậy, nếu chỉ dừng lại ở bố cục thì sự cảm thụ và phân tích vẫn còn

đang ở giai đoạn chia cắt bài thơ thành những bộ phận biểu thị nội dung,

chưa thấy được cấu trúc chỉnh thể tác phẩm, đặc biệt là chưa theo dõi được

mạch vận động, phát triển tư tưởng – cảm xúc của chủ thể trữ tình trong bài

thơ. Phân tích được cấu trúc tác phẩm, theo dõi được mạch lạc tư tưởng,

cảm xúc và thi tứ của bài thơ cũng tức là người đọc đã có thể rung cảm, đồng

điệu được với những xúc động, những trăn trở, suy tư của nhà thơ từ trong

chiều sâu chỉnh thể tác phẩm..

Page 22: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

2. THỜI GIAN VỚI Ý NGHĨA HAI CHỮ “VỘI VÀNG” CỦA XUÂN DIỆU

Trong tập Gửi hương cho gió (1945) Xuân Diệu đã viết những câu thơ

thật giàu hình ảnh về thời gian:

Thời gian rót từng giọt buồn tê héo

Sự sống đi như hương bỏ hoa chiều…

Thời gian vốn là một tồn tại khách quan của tự nhiên. Đó là một đại

lượng vật chất không ngừng biến đổi, diễn ra một chiều, một đi không trở lại,

giống như một dòng chảy vô tình… Nhưng chính nhờ sự cảm nhận của con

người mà thời gian trở nên có ý nghĩa. Trong tác phẩm văn học, mỗi nhà văn,

nhà thơ xuất phát từ một “điểm nhìn” nhất định sẽ có những cách chiếm lĩnh

và thể hiện thời gian khác nhau. Thi pháp học hiện đại gọi đó là thời gian

nghệ thuật. “Thời gian được cảm nhận bằng tâm lí và mang ý nghĩa thẩm mĩ

(…), là hình thức cảm nhận thế giới của con người gắn liền với một quan

niệm nhất định về thế giới”. Độ dài ngắn của thời gian nghệ thuật thường

được đo bằng tâm lí và trạng thái cảm xúc của chủ thể trữ tình: Trăm năm thì

ngắn, một ngày dài ghê (Tản Đà), Sầu đong càng lắc càng đầy/ Ba thu dọn lại

một ngày dài ghê (Nguyễn Du) v.v… Sự cảm nhận thời gian trong thơ Xuân

Diệu bắt nguồn từ nét đặc sắc trong quan niệm và tư tưởng nghệ thuật độc

đáo của thi nhân. Trong các nhà thơ mới trước Cách mạng, Xuân Diệu là một

hồn thơ yêu đời và sống mãnh liệt nhất. Hồn thơ ấy luôn thể hiện khát vọng

được sống, được yêu trong một niềm khát khao giao cảm mãnh liệt với cuộc

đời và thiên nhiên tạo vật. Tác giả Thi nhân Việt Nam nhận xét: “Thơ Xuân

Diệu còn là một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ

này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống

cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như

khi buồn, người đều nồng nàn, tha thiết (…). Sự bồng bột của Xuân Diệu có

lẽ đã phát biểu ra một cách đầy đủ hơn cả trong những rung động tinh vi”. Thi

sĩ có thể cảm nhận được một cách rất tinh tế những sự chuyển vận của thiên

Page 23: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

nhiên cùng bước đi của thời gian. Tiếng gõ nhịp thời gian thường tạo ra trong

thơ Xuân Diệu sự rung động và những cảm xúc riêng:

Không gian như có dây tơ,

Bước đi sẽ đứt, động hờ sẽ tiêu,

Êm đềm chiều ngẩn ngơ chiều,

Lòng không sao cả, hiu hiu khẽ buồn….

(Chiều)

Nhưng nét độc đáo nhất trong sự cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu

là ông luôn có những xúc cảm thật mạnh mẽ về sự đối lập giữa thời gian của

vũ trụ vô biên với thời gian hữu hạn của cuộc đời mỗi con người. Hơn hai hết,

vị “Tao đàn nguyên suý” của phong trào Thơ mới này ý thức được một cách

thật sâu xa về giới hạn ngắn ngủi của đời người trước thời gian một đi không

trở lại. Trước sự chảy trôi của thời gian, Xuân Diệu có những cảm nhận thật

xót xa, thấm thía:

Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,

Không cho dài thời trẻ của nhân gian;

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,

Nêu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại.

Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi…

(Vội vàng)

Ý thức về thời gian như thế nên trong thơ Xuân Diệu, thời gian thường

gắn liền với những dự cảm về sự tàn phai, mất mát và xa cách:

Thong thả, chiều vàng thong thả lại…

Rồi đi… Đêm xám tới dần dần…

Cứ thế mà bay cho đến hết

Những ngày, những tháng, những mùa xuân.

Page 24: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

(Giờ tàn)

Nỗi sợ thời gian chảy trôi ấy khiến cho thi sĩ có thể cảm nhận được một

cách tinh tế những sắc màu tàn phai, những hương vị chia li sầu tủi ẩn náu

trong bước đi của thời gian: Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi/ Khắp sông

núi bỗng than thầm tiễn biệt (Vội vàng). Xuân Diệu có những dự cảm thật mới

lạ, độc đáo: Trong gặp gỡ đã có mầm li biệt (Giục giã), nên ông tỏ ra rất thấu

hiểu những “lí lẽ ngang ngạnh” của thời gian:

Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua;

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già;

Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.

(Vội vàng)

Với Xuân Diệu, thời gian trở thành một nguy cơ, luôn chứa đựng sự bất

trắc. Thời gian làm cho mọi thứ trở nên không vững bền:

Hết ngày, hết tháng, hết! Em ơi!

Kinh hãi không gian quặn tiếng còi

Anh đến tìm em, em thấy đó

Sắp xa, thôi cũng tựa xa rồi!

(Hết ngày, hết tháng…)

Ý thức về thời gian đời người ngắn ngủi, hữu hạn luôn tạo ra trong thơ

Xuân Diệu những linh cảm bất an và một nỗi lo sợ luôn thường trực trong thơ

ông: sợ tương lai, sợ ngày mai:

Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai;

Đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn.

(Giục giã)

Trong thơ Xuân Diệu, tương lai, ngày mai đã trở thành “lực lượng thù

địch với hạnh phúc, tuổi xuân của con người” (Trần Đình Sử). Nhưng là một

nhà thơ tha thiết với sự sống trần thế, Xuân Diệu vẫn có những xúc cảm hết

Page 25: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

sức sôi nổi trước cuộc đời. Khi đối diện với thời gian, nếu hầu hết các nhà thơ

mới đều muốn thoát li thực tại, thì bằng cảm quan thẩm mĩ tích cực và độc

đáo, Xuân Diệu luôn tìm thấy cái đẹp ngay giữa cuộc đời trần thế. Nhà thơ

Chế Lan Viên nhận xét: “Xuân Diệu đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ

giới”. Cảm xúc về cuộc đời trong Vội vàng là nỗi sung sướng, vồ vập trước

một thế giới tươi non, đầy mật ngọt, hoa thơm, đầy tình ái, ánh sáng và âm

nhạc… tất cả đều cuốn hút, say mê. “Nhà thơ như thể đã phát hiện ra một

thiên đường có thật ngay trên mặt đất này, trong tầm tay của mỗi người”

(Trần Đình Sử). Qua cách diễn đạt độc đáo của Xuân Diệu, thiên đường ấy

như thể đang bày sẵn trước mắt mọi người:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật,

Này đây hoa của đồng nội xanh rì,

Này đây lá của cành tơ phơ phất;

Của yến anh này đây khúc tình si,

“Này”, “đây” là những đại từ chỉ định không gian gần, ở ngay trước mặt,

trong tầm tay, được dùng kết hợp theo lối song trùng tạo thành một cụm từ

đồng chức năng “này đây”, khiến cho cấp độ ý nghĩa của các thành tố được

nhấn mạnh thêm. Những chữ “này đây” ấy lại được dùng theo phương thức

đảo ngữ và lặp đi lặp lại trong mỗi dòng thơ, tạo thành một điệp khúc, có tác

dụng diễn tả rất đạt những xôn xao, náo nức của tâm hồn nhà thơ. Bởi vì,

đằng sau mỗi chữ “này đây” ấy đều là những hình ảnh đầy sinh khí của tình

yêu và sự sống: này đây là tuần tháng mật, này đây là hoa của đồng nội xanh

rì, này đây là lá của cành tơ phơ phất và này đây là khúc tình si… Người đọc

như thấy được cả cái háo hức của chính tâm hồn nhà thơ, một nhà thơ ham

sự sống nên luôn nhìn nó trong trạng thái sinh sôi, nảy nở và giàu sức sống

nhất. Và với Xuân Diệu, cái đẹp nhất của thế giới này vẫn là những vẻ đẹp

của con người:

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi.

Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa;

Page 26: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;

Ánh nắng mỗi buổi sớm mai chiếu rọi xuống thế gian được ví như ánh

“chớp hàng mi” của người con gái đẹp; còn tháng giêng của mùa xuân được

ví như “một cặp môi gần”!

Cảm nhận thời gian và sự sống như thế nên Xuân Diệu thường có

những ý tưởng thật táo bạo. Nhà thơ không muốn tuổi trẻ, tình yêu và những

sắc hương đẹp đẽ trong cuộc đời cứ phải tàn phai theo năm tháng; thi sĩ

muốn tắt nắng, buộc gió, muốn thời gian phải ngừng trôi:

Tôi muôn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất,

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi.

(Vội vàng)

Nhưng mà không được, bởi làm sao có thể cưỡng lại được quy luật

của tự nhiên? Vậy thì, theo Xuân Diệu, chỉ còn một cách thôi là sóng cho thật

mãnh liệt, sống cho thật đủ đầy ý nghĩa trong cái khoảnh khắc hữu hạn của

một đời người: Sống toàn tâm, toàn trí, sống toàn hồn/ Sống toàn thân và

thức nhọn giác quan với cuộc đời. Do vậy, với Xuân Diệu, thời gian sống đích

thực của con người chỉ là thời hiện tại – một thời hiện tại với những hiện hữu

của nó mà không cần biết đến quá khứ hay tương lai:

Cần chi biết ngày mai hay bữa trước?

Gần nhau đây, thì yêu mến là hơn

(Mời yêu)

Thời hiện tại trong thơ Xuân Diệu cũng đồng nghĩa với tình yêu và tuổi

trẻ, thời còn khoe sắc đua hương:

Và hãy yêu tôi một giờ cũng đủ,

Một giây cũng cam, một phút cũng đành.

Page 27: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

(Mời yêu)

Nhưng thời hiện tại cũng không vững bền, nó sẽ mau chóng qua đi rất

nhanh, bởi cái ranh giới mong manh giữa hiện tại và quá khứ, liền ngay sau

hiện tại đã là quá khứ mất rồi! Do đó, Xuân Diệu cho rằng, để níu giữ lấy cái

đang tồn tại, đang hiện hữu; để khắc phục sự hữu hạn ngắn ngủi của kiếp

người thì không chỉ sống hết mình với hiện tại là đủ mà còn cần phải mau lên,

phải thật vội vàng:

– Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối

Còn hơn buôn le lói suốt trăm năm.

(Giục giã)

– Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ!

Em, em ơi! Tình non sắp già rồi…

– Mau với chứ! Thời gian không đứng đợi.

(Giục giã)

Như vậy, vội vàng là một thái độ sống, một triết lí nhân sinh – thẩm mĩ

mang đậm ý nghĩa nhân văn tích cực. Thái độ và triết lí sống đó đã được

Xuân Diệu thể hiện một cách thật thiết tha trong rất nhiều những bài thơ sôi

nổi, đầy nhiệt huyết của mình. Xuân Diệu đã hơn một lần tâm sự: Tôi không

chờ nắng hạ mới hoài xuân (Vội vàng). Bởi vì: Tôi sợ mất sự sống của tôi,/

Tôi không muốn nó rớt chảy trôi theo dòng ngày tháng (Lời đưa duyên) và

Nếu tôi đứng, nếu máu tôi ngừng,/ Thời gian của tôi sẽ không còn nữa

(Thương vay). Cho nên, mô típ giục giã, vội vàng, gấp gáp… xuất hiện nhiều

lần và trở đi trở lại trong thơ Xuân Diệu trước Cách mạng như một nỗi niềm

thiết tha khắc khoải, nhức nhối. Có nhà nghiên cứu nhận xét rằng, trung thơ

Xuân Diệu, người ta thấy ông sử dụng rất nhiều liên từ, tận dụng triệt để thủ

pháp liệt kê; có lẽ cũng là để có thể chuyển tải cho hết những nỗi niềm thiết

tha sôi nổi, rạo rực trong tâm hồn mình đối với thời gian và sự sống. Phải

chăng, đấy cũng là yếu tố tích cực nhất trong thơ Xuân Diệu trước Cách

Page 28: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

mạng, một nhà thơ luôn biết mình hữu hạn nên khao khát không thôi gắn bó

với cuộc đời:

Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,

Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều;

Và non nước. và cây, và cỏ rạng,

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,

Cho no nê thanh sắc của thời tươi;

– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

(Vội vàng)

3. VẺ ĐẸP LỨA ĐÔI, HÌNH ẢNH NGƯỜI THIẾU NỮ VỚI HÌNH TƯỢNG THIÊN NHIÊN TRONG THƠ XUÂN DIỆU

Xuân Diệu là một nhà thơ tình yêu, điều ấy thật đúng bởi ông sáng tác

hơn năm trăm bài thơ tình. Đúng hơn, ông là nhà thơ của vẻ đẹp xuân tình và

hình ảnh người thiếu nữ. Trong tập thơ đầu tay Thơ thơ (1938), người thanh

niên mười tám tuổi đời ấy khai bút bằng những tuyên ngôn và đây là một

trong những tuyên ngôn ấy:

Còn gì khổ bằng yêu không dám nói

Để tháng năm ôm mãi vết thương sầu

Ta thi sĩ kiếp phong lưu lặn lội

Thiếu ái tình, thiếu cả, có chi đâu

Page 29: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Ta vẫn biết nước non đang nũng nịu

Bảo ta nên ngoan ngoãn lựa lời thơ

Ca cái đẹp của hương chiều êm dịu

Của tràng giang lặng khuất bóng trăng mờ

Nhưng mặc kệ, đời ta phụng sự

Cả tài hoa lẫn cảnh trí thiên nhiên

Chỉ biết rằng khi xa người thiếu nữ

Ngòi bút ta mất hết vẻ thần tiên.

Thơ trữ tình vốn bao giờ cũng chủ quan, nhà thơ cảm nhận và biểu

hiện thế giới không phải như thế giới vốn có trong thực tại mà theo sự chiêm

nghiệm và xúc động riêng của tâm hồn nhà thơ. Đến thơ lãng mạn, tính chất

chủ quan ấy đã có một cái tôi cá nhân cụ thể, mãnh liệt và đầy cảm xúc, nằm

ở trung tâm cảm nhận, làm nguyên tắc thế giới quan. Nhà nghiên cứu văn

học Trần Đình Sử viết: “Chất lãng mạn nằm trong cách cảm nhận, biểu hiện

thế giới và con người một cách đặc thù”. Trước đó, nhà nghiên cứu, phê bình

văn học người Nga V. Gri–mum–xki cũng đã từng nói: “Nhà thơ lãng mạn

muốn bày tỏ cho chúng ta trước hết là về chính họ, là phơi bày tâm hồn họ,

cõi lòng họ. Họ thổ lộ cho ta những chiều sâu tâm hồn xúc cảm, sự đa dạng

của cá tính. Họ reo lên vì vui, họ gào lên hay khóc lên vì đau đớn. Họ kể lể,

họ bảo ban, họ vạch trần với khuynh hướng rõ rệt, buộc người nghe phục

tùng cảm giác về đời sống của họ, làm cho người nghe thấy cái gì đang hiện

ra trong trực giác trực tiếp của nhà thơ”. Chất lãng mạn của thơ Xuân Diệu

trước hết bộc lộ ở cặp mắt xanh non háo hức, ở trái tim sôi nổi, rạo rực và

thái độ cuống quýt trong sự gắn bó tha thiết với cuộc đời. Do đó, thi sĩ luôn

cảm nhận và thể hiện sự sống ở trạng thái đắm say, xuân sắc và viên mãn

nhất. Thiên nhiên trong thơ ông phải là một thế giới đương khoe sắc đua

hương, một thế giới của muôn bướm với muôn hoa, lúc nào cũng đẫm nhạc,

Page 30: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

đẫm hương thơm, đầy ánh sáng và tình ái. Thi sĩ đã mĩ hoá thiên nhiên theo

cách riêng của mình, bằng những xúc cảm chủ quan và lãng mạn. Không chỉ

trong những bài thơ trực tiếp về tình yêu đôi lứa mà trong hầu hết những bài

thơ thuộc nhiều đề tài khác của Xuân Diệu, hình tượng thiên nhiên vẫn luôn

thể hiện những nét cố hữu của riêng tâm hồn ông: trẻ trung, tình tứ, mộng mơ

và hết sức lãng mạn. Đó là một loại hình tượng thiên nhiên mang vẻ đẹp và

sức sống của con người, đặc biệt là vẻ đẹp của những lứa đôi và hình ảnh

người thiếu nữ. Bài Thơ duyên diễn tả những cảm nhận tinh tế của nhà thơ

trước sự giao hoà tuyệt diệu của thiên nhiên, cảnh vật và con người trong một

buổi chiều thu. Duyên trong bài thơ này không chỉ có ý nghĩa tình yêu lứa đôi

gắn với quan hệ nam nữ mà còn là cái duyên của đất trời, cỏ cây, hoa lá, cái

duyên của tạo vật và lòng người. Giữa buổi chiều thu trong sáng, dịu êm,

người thanh niên mới lớn nghe dâng lên trong lòng mình những rung động

tình yêu buổi ban đầu với một thiếu nữ không quen biết cũng đang đồng hành

nhẹ bước trên đường. Mối lương duyên ấy tuy cũng mới chỉ từ một phía, chỉ

là “tự lòng ta nghe ý bạn”, nên cũng còn rất mơ hồ, khó diễn tả; nhưng trong

không khí giao hoà của mùa thu, dường như tất cả thiên nhiên tạo vật đâu

đâu cũng “đều có duyên với nhau, cặp đôi với nhau, hiệp vần với nhau trong

âm hưởng của nhạc (“Thu đến nơi nơi động tiếng huyền”), trong không khí

của thơ, mộng (“Chiều mộng hoà thơ”) và trong tình thương yêu (…) để sáng

tạo nên một bài thơ dịu treo lên giữa một buổi chiều thu”:

Chiều mộng hoà thơ trên nhánh duyên,

Cây me ríu rít cặp chim chuyền.

Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,

Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền…

Cách cảm nhận đặc biệt ấy đã đem đến trong thơ Xuân Diệu một không

gian nghệ thuật rất độc đáo. Không gian trong bài thơ Với bàn tay ấy đặc sắc

không chỉ ở sự hoà phối tuyệt diệu giữa màu sắc, âm thanh, nhịp điệu và độ

cao – thấp của vần điệu mà còn ở chỗ, mọi cảnh vật thiên nhiên, dù chỉ là

những “cây, cỏ, hoa, lá, mây, trăng, làn rêu…”, nhưng tất cả đều đã được thi

Page 31: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

sĩ miêu tả giống như những lứa đôi đương dập dìu ân ái rất tình tứ, rất dịu

dàng:

– Một tối bầu trời đắm sắc mây,

Cây tìm nghiêng xuống cánh hoa gầy,

Hoa nghiêng xuống cỏ, trong khi cỏ

Nghiêng xuống làn rêu, một tối đầy.

Những lời huyền bí toả tên trăng,

Những ý bao la rủ xuống trần,

Những tiếng ân tình hoa bảo gió,

Gió đào thỏ thẻ bảo hoa xuân.

Cảm xúc của Xuân Diệu trước thiên nhiên từ điểm nhìn tình yêu đôi lứa

không chỉ thể hiện cái chất men say đắm, nồng nàn, tha thiết mà còn hết sức

tinh tế. Nhà thơ cảm nhận thiên nhiên, đất trời không phải chỉ bằng những

giác quan thông thường vốn có mà còn bằng cả giác quan tâm linh của một

hồn thơ yêu đời, luôn khát khao giao cảm mãnh liệt với sự sống. Xuân Diệu

quan niệm đã là sự sống thì “chẳng bao giờ chán nản” (ông có bài thơ nhan

đề: Sự sống chẳng bao giờ chán nản) và phải sống thật mãnh liệt, phải sống

hết mình: Sống toàn tâm, toàn trí, sống toàn hồn – Sống toàn thân và thức

nhọn giác quan với cuộc đời. Hoặc: Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối/ Còn

hơn buồn le lói suốt trăm năm. Ngôn ngữ thơ Xuân Diệu luôn có những sáng

tạo đột biến rất mới mẻ, mạnh bạo bởi “cảm xúc mạnh mẽ, nồng nàn, luôn ở

trạng thái cực điểm khiến thơ ông không chấp nhận những cách diễn đạt

thông thường, những từ ngữ phẳng lặng”. Thơ Xuân Diệu đầy rẫy những cảm

giác trực giác, những màu sắc, âm thanh, mùi vị… và đặc biệt nhất là hình

ảnh: “Hình ảnh động tới con mắt, nhất là động tới nhận thức, tới trí tuệ; hình

ảnh diễn đạt tình cảm và tư tưởng (…). Thơ nói bằng nhạc điệu và hình ảnh,

mà tôi xin nhắc lại, theo ý tôi, hình ảnh là mãnh liệt nhất”. Với Xuân Diệu, hình

Page 32: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

ảnh ấy phải là hình ảnh của những lứa đôi, hình ảnh của những ái ân xuân

tình, xuân sắc và nhất là hình ảnh của người thiếu nữ. Có thể nói rằng, qua

con mắt, qua cái nhìn nghệ thuật của nhà thơ, thiên nhiên, cảnh vật và sự

sống ở đâu cũng hoá ra bóng hình người con gái. Hãy xem cái cách nhà thơ

vồ vập, cuống quýt tận hưởng mùa xuân của đất trời:

Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu.

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây, và cỏ rạng

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng

Cho no nê thanh sắc của thời tươi;

– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

Thơ xưa thường lấy thiên nhiên để làm tiêu chuẩn miêu tả vẻ đẹp của

con người: Phù dung như diện, liễu như mi (mặt như hoa phù dung, lông mày

như lá liễu), hoặc: Mai cốt cách, tuyết tinh thần (cốt cách yểu điệu như mai,

tinh thần trắng trong như tuyết) thì nay Xuân Diệu làm ngược lại, ông lấy vẻ

đẹp của con người mà chủ yếu là vẻ đẹp của người thiếu nữ làm tiêu chuẩn

để miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên. Để diễn tả được những biến thái tinh vi,

mong manh, huyền diệu của thiên nhiên tạo vật lúc chuyển mùa khi mùa thu

mới tới (Bài Đây mùa thu tới), Xuân Diệu tả liễu. Những cây liễu rủ bên hồ

được tác giả cảm nhận giống như những nàng thiếu nữ thướt tha, yểu điệu,

nghiêng mình buông những suối tóc dài. Trong gió thu lạnh đìu hiu, dáng liễu

cũng giống như dáng người đứng chịu tang/ Tóc buồn buông xuống lệ ngàn

hàng… Một hình ảnh buồn nhưng cũng thật gợi cảm, phảng phất đâu đây

bóng dáng quen thuộc của các nàng thiếu nữ đài các, đẹp và buồn một cách

lãng mạn trong thơ mới dạo ấy nói chung và trong thơ Xuân Diệu nói riêng.

Page 33: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Hai câu thơ thật ra chỉ nhằm gợi tả vẻ yểu điệu, thướt tha của liễu như một tín

hiệu báo thu sang mà thôi. Nhiều khi, thiên nhiên còn được so sánh trực tiếp

với vẻ đẹp của người thiếu nữ “bằng những hình ảnh rất bạo, đầy rẫy cảm

giác và có tính sắc dục” (Nguyễn Đăng Mạnh). Mỗi hình tượng thiên nhiên

thường được ví với một bộ phận trên cơ thể của người thiếu nữ, như một

biểu tượng tuyệt đối về tiêu chuẩn thẩm mĩ và sức sống. Đây là vẻ đẹp của

vầng trăng mà thi sĩ đã hết lời “Ca tụng”:

Trăng vú mộng của muôn đời thi sĩ

Giơ hai tay mơn trớn vẻ tròn đầy

Trăng nguồn sương làm ướt cả gió hây

Trăng võng rượu khiến đêm mờ chếnh choáng

Làn gió đêm được tưởng tượng như trăm ngàn cánh tay mơn man: Gió

canh khuya như nghìn cánh tay ôm/ Trăng mối lái phủ màng tơ mộng ảo, và

ánh bình minh buổi sớm mai được ví với ánh chớp hàng mi của người con gái

đẹp, còn tháng giêng thì được ví với một cặp môi gần.

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi

Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần…

Cách so sánh thật bạo, rất Xuân Diệu nhưng cũng thật đúng. Đúng bởi

tháng giêng là tháng đầu tiên trong năm, là tháng đẹp nhất của mùa xuân –

mùa đẹp nhất, giàu sinh khí và sức sống nhất của các mùa trong năm – thì

còn gì đáng so sánh hơn là một vẻ đẹp trần gian vô cùng trong trắng, tinh khôi

và tràn đầy sức sống như một cặp môi gần!

Xuân Diệu là một nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới” về nhiều

phương diện. Với một thế giới nghệ thuật riêng, độc đáo, mới mẻ từ tư tưởng,

hình ảnh đến ngôn từ, ông đã đem đến cho Thơ mới một nguồn sinh khí mới.

Những tâm hồn còn trẻ vẫn sẽ mãi mãi yêu thích thơ ông. Và đó là một phần

thưởng lớn mà bất kì người nghệ sĩ chân chính nào cũng hằng mơ ước.

Page 34: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

4. CHỮ VÀ NGHĨA TRONG BÀI THƠ “ĐÂY MÙA THU TỚI”Đã có quá nhiều bài bình, phân tích, giảng văn về bài thơ Đây mùa thu

tới của Xuân Diệu. Nhưng cho đến nay vẫn còn tồn tại không ít cách hiểu

khác nhau. Một trong những nguyên nhân là do sự cảm nhận và lí giải về mặt

ngữ nghĩa của tác phẩm. Dưới đây, chúng tôi xin nêu một hướng tiếp cận mới

đối với một số từ ngữ, hình ảnh hiện vẫn còn là điểm gây tranh luận hoặc ít

được chú ý đúng mức trong sự cảm nhận về bài thơ này.

Những tín hiệu báo thu và tâm trạng con người lúc thu tới, thu sang

Nhiều người cho rằng bài thơ mở đầu đã gợi một nỗi buồn sầu đến độ

héo hắt bi thương. Ấn tượng đó trước hết được tạo bởi các chữ “buồn”, “đìu

hiu”, “đứng chịu tang”, “lệ ngàn hàng” trong hai câu thơ đầu:

Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang

Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng

Song, nếu hiểu hai câu thơ này như vậy thì sẽ không thể tránh khỏi

mâu thuẫn với tiếng reo đầy vui sướng của nhà thơ - chủ thể cảm xúc – trước

toàn cảnh đất trời vào thu rực rỡ một sắc thu vàng như màu áo mơ phai của

người thiếu nữ (sắc vàng của nắng và cả lá vàng nữa – lá vàng trong nắng

thu vàng…) ở hai câu thơ tiếp liền sau đó:

Đây mùa thu tới – mùa thu tới

Với áo mơ phai dệt lá vàng.

Đặt trong cấu tứ, bố cục chung của toàn bài thì khổ thơ mở đầu này có

một vị trí khá đặc biệt. Cả bốn câu thơ tập trung gợi tả những dấu hiệu đất trời

vào thu và tâm trạng con người lúc thu tới, thu sang. Cũng phải nói thêm

rằng, thi nhân ấy là một con người còn rất trẻ cả về tuổi tác lẫn cảm xúc.

Xuân Diệu sáng tác Đây mùa thu tới khi ông mới mười tám tuổi đời và hồn

thơ Xuân Diệu lúc ấy đương ở vào độ non tơ rạo rực, sôi nổi và bồng bột

Page 35: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

nhất. Thi sĩ đã từng tự nói về những cảm xúc của mình hồi ấy: “Đây là lòng tôi

đương thời sôi nổi, đây là hồn tôi đương lúc vang ngân, và đây là tuổi xuân

của tôi, và đây là sự sống của tôi nữa”. Với một hồn thơ như thế nên khi bắt

gặp những tín hiệu đầu tiên của mùa thu mới tới, thi sĩ đã mở hết lòng mình

hồ hởi, vồ vập đón nhận tất cả những biến thái mong manh, huyền điệu, dù là

nhỏ nhặt nhất của thiên nhiên, tạo vật lúc chuyển mùa. Câu thơ thứ ba với

điệp ngữ “mùa thu tới” và dấu gạch nối như những tiếng reo vui không thể

kìm nén, bất giác đã bật ra khi nhà thơ chợt nhận thấy những tín hiệu báo thu

sang đầu tiên hiện ra trên hàng liễu rủ...

Khác với thơ ca trung đại phương Đông thường dùng những hình ảnh

ước lệ: sen tàn, cúc nở hoa, lá ngô đồng rụng… để làm biểu tượng cho sự

chuyển mùa lúc thu sang, ở bài thơ này, Xuân Diệu tả liễu. Những cây liễu

bên hồ cành lá mềm mại vào lúc thu tới, thu sang, êm đềm rủ xuống và được

thi sĩ lãng mạn cảm nhận giống như các nàng thiếu nữ thướt tha, yểu điệu,

nghiêng mình buông những suối tóc dài. Trong gió thu lạnh đìu hiu, dáng liễu

cũng giống như dáng người đứng chịu tang, Tóc buồn buông xuống lệ ngàn

hàng (Hai câu thơ đầu sử dụng phép ẩn dụ dựa trên quan hệ liên tưởng

tương đồng nhưng đã lược bỏ từ so sánh và đối tượng so sánh, theo kiểu so

sánh ngầm, do vậy có thể đọc một cách “văn xuôi” thành: “rặng liễu đìu hiu”

như các nàng thiếu nữ “đứng chịu tang” và “tóc buồn buông xuống” như thể

“ngàn hàng” lệ rơi không dứt). Một hình ảnh buồn nhưng cũng thật gợi cảm,

phảng phất đâu đây bóng dáng quen thuộc của các nàng thiếu nữ đài các,

đẹp và buồn một cách lãng mạn trong Thơ mới dạo ấy nói chung và trong thơ

Xuân Diệu nói riêng. Đó là cách nhìn, cách cảm của cả một trào lưu thơ, một

thế hệ các nhà thơ mới nên không thể nói những hình ảnh đó thể hiện một nỗi

buồn tang tóc, bi luỵ. Hai câu thơ thật ra chỉ nhằm gợi tả vẻ yểu điệu, thướt

tha của liễu như một tín hiệu báo thu sang mà thôi. Khi cái hối hả của mùa hạ

nóng nực đi qua, dấu hiệu báo thu sang thường là sự ngưng lại, vẻ chậm

chạp “chùng chình” rất riêng của thời tiết:

Bỗng nhận ra hương ổi

Page 36: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về

sông được lúc dềnh dàng

Nắng bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu…

(Hữu Thỉnh, Sang thu)

Với Xuân Diệu, những cành liễu mềm mại, êm đềm rủ xuống ấy chính

là một dấu hiệu thời tiết, một tín hiệu báo thu sang đầu tiên mà thi sĩ bất chợt

nhận thấy một cách thật ngạc nhiên, thích thú. Thi sĩ bất giác reo lên: Đây

mùa thu tới – mùa thu tới… và đằng sau những tiếng reo hồ hởi của chủ thể

cảm xúc, người đọc có thể hình dung ra ánh mắt trẻ trung ngơ ngác của nhà

thơ đang sững sờ trước sự thay đổi và trước vẻ đẹp đến bất ngờ của thiên

nhiên, cảnh vật lúc chớm vào thu. Bốn câu thơ tả những dấu hiệu mùa thu tới

và tâm trạng con người lúc thu tới, thu sang thật gợi cảm, tươi sáng; tuy có

buồn nhưng không hề ảm đạm, héo hắt; buồn mà vẫn đẹp. Đẹp bởi sự cảm

nhận rất tinh tế và mới mẻ những chuyển vận của thiên nhiên cùng bước đi

của thời gian; đẹp bởi màu sắc, đường nét tươi sáng, bởi vẻ yểu điệu, thướt

tha trẻ trung, lãng mạn rất phù hợp với mùa thu mới chớm. Ấn tượng và cảm

giác đó trong bốn câu thơ mở đầu này đã chi phối không khí và cảm xúc

chung của cả bài thơ.

Toàn cảnh “mùa thu tới”

Ba khổ thơ tiếp theo miêu tả toàn cảnh thiên nhiên, đất trời và con

người mùa thu. Cảm xúc tinh tế nồng nàn của hồn thơ Xuân Diệu có lẽ được

thể hiện rõ nhất qua cách sử dụng ngôn ngữ độc đáo ở đoạn thơ này. Ở đây,

chúng tôi chỉ nhấn mạnh đến những từ ngữ có tính chất đồng hướng lập luận,

tức là những từ ngữ thực hiện chức năng liên kết về nội dung của văn bản tác

Page 37: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

phẩm. Tuy nhiên, do hầu hết những đơn vị thuộc loại này vốn không phải các

biện pháp tu từ ngữ nghĩa nên xưa nay, chúng thường dễ bị các thầy, cô giáo

và các em học sinh bỏ qua khi cảm thụ, phân tích tác phẩm.

Trước hết là tựa đề Đây mùa thu tới, một cái tựa đề đã cho thấy rõ,

mùa thu trong bài thơ này là lúc thu tới, thu sang, mùa thu ở cái thời khắc

chuyển giao từ mùa hạ nóng nực, hối hả sang tiết thu se lạnh… Chắc hẳn khi

đặt cái tựa đề này, Xuân Diệu đã có ý thức cụ thể hoá đề tài, tạo ra một tiêu

điểm cảm xúc nhằm liên kết, quy tụ các từ ngữ, hình ảnh trong toàn bộ bài

thơ về một chủ đề chung. Sau bốn câu thơ đầu gợi tả tín hiệu báo thu và tâm

trạng con người lúc thu tới, thu sang, đây là những đặc tả cận cảnh ở một

vườn thu:

Hơn một loài hoa đã rụng cành

Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh

Những luồng run rẩy rung rinh lá

Đôi nhánh khô gầy, xương mỏng manh.

Cảnh sắc đặc trưng của thiên nhiên mùa thu là lá rụng, hoa tàn…

Nhưng vì thu mới tới nên sự úa vàng, tàn rụng ấy cũng chưa nhiều. Trong

vườn thu, Hơn một loài hoa đã rụng cành. “Hơn một” thì cũng có nghĩa là

chưa nhiều lắm, mới chỉ vài ba loài hoa chớm lụi tàn. Không rõ cách nói: hơn

một lần, hơn một loài v.v… có từ bao giờ trong lời nói Việt, nhưng từ Đây mùa

thu tới, người ta vẫn nghĩ đấy là một trong những lối dùng chữ, đặt câu quá

Tây của Xuân Diệu. Rồi cũng trong Vườn thu, “sắc đỏ rũa màu xanh”. Có

người cho rằng, chữ “rũa” trong câu thơ này đúng ra phải đọc là “rủa” (sắc đỏ

rủa màu xanh): sắc đỏ càu nhàu với màu xanh, do dịch từ nghĩa đen của chữ

jurler tiếng Pháp mà nghĩa bóng là không hợp, là đối ngược. Liệu có đúng

Xuân Diệu “Tây” quá đến mức phải mượn cả một từ tiếng Pháp khiên cưỡng,

xa lạ với ngữ cảnh như vậy chăng? Dẫu có hư thực thế nào thì cho đến hôm

nay, tức là đã sau hơn nửa thế kỉ kể từ hồi Xuân Diệu xuất hiện trên thi đàn

Thơ mới, người đọc thơ cũng chỉ còn thấy “sắc đỏ rũa màu xanh” là một câu

Page 38: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

thơ rất phù hợp với mùa thu mới chớm: trong vườn sắc đỏ úa của những

chiếc lá vàng ngày càng nhiều, nó lấn dần màu xanh, khiến cho màu xanh

như thể bị “rũa” dần, bị mòn dần đi từng tí một. Còn Những luồng run rẩy rung

rinh lá là một câu thơ chứa đựng nhiều biện pháp tu từ, vừa lặp phụ âm r, vừa

dùng đảo ngữ, vừa trộn lẫn cảm giác do cách kết hợp trực tiếp loại từ luồng

với đảo ngữ run rẩy rung rinh lá khiến cho người đọc thơ như có thể cảm giác

được cả cái run rẩy rùng mình vì ớn lạnh của chính tâm hồn nhà thơ. Câu thơ

cũng khiến cho hình ảnh của những nhành cây “khô gầy xương mỏng manh”

bỗng sinh động, cựa quậy, có cảm giác hơn. Và “đôi nhánh” cũng có nghĩa là

không nhiều lắm, mới chỉ có vài ba nhánh cây bị rụng lá, trơ trọi như những

chiếc xương khô gầy, mỏng mảnh đương run rẩy trong làn gió heo may se

lạnh tiết đầu thu…

Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ

Non xa khởi sự nhạt sương mờ

Đã nghe rét mướt luồn trong gió

Đã vắng người sang những chuyến đò

Mây vẩn từng không, chim bay đi

Khí trời u uất hận chia li

Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói

Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì?

Những câu thơ gợi tả không gian, đất trời và con người lúc mùa thu

mới chớm trong hai khổ thơ này vẫn thể hiện rất rõ lối quan sát kĩ càng và sự

cảm nhận hết sức tinh tế, nhạy cảm của hồn thơ Xuân Diệu. Cả thời gian lẫn

không gian, cảnh vật đầu thu như vẫn còn đang trong giai đoạn chuyển vận,

đang trong thế lưỡng phân của thời tiết lúc giao mùa chứ chưa thật rành

mạch, rõ nét: vào những buổi tối vắng vẻ, lạnh lẽo độ thu sang, vầng trăng (dĩ

nhiên, trăng qua cách cảm xúc của Xuân Diệu cũng phải là “nàng trăng” - một

Page 39: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

thiếu nữ trăng) dường như cũng cảm thấy trống trải, lạnh vắng, cô đơn hơn

nên “tự ngẩn ngơ”. Ấy là trăng lạnh: Trăng lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời

(Nguyệt cầm), là trăng suông: Trăng sáng, trăng xa, trăng rộng quá (Lời kĩ

nữ), nhưng cũng chỉ “thỉnh thoảng” mới có những buổi tối có trăng lạnh, trăng

suông như vậy. Sương thu làm mờ, làm nhạt bóng hình dãy núi xa xa phía

đường chân trời, nhưng cũng mới chỉ ở trạng thái bắt đầu, khởi sự chứ chưa

phải đã thường xuyên. Mây xám vẩn lên màu chia li u uất, bởi đấy cũng là lúc

những con chim di cư bắt đầu bay đi tránh rét. Những chuyến đò “đã vắng”

khách: đã vắng cũng tức là khách chỉ mới bắt đầu thưa vắng thôi chứ chưa

phải đã vắng lâu, vắng hẳn. Đặc biệt, cái “rét mướt” đầu thu đã được thi sĩ

lãng mạn diễn tả bằng một câu thơ rất mới mẻ, đầy ấn tượng:

Đã nghe rét mướt luồn trong gió

“Đã nghe” (cũng như “đã vắng” trong câu trên) nghĩa là sự vật đã xuất

hiện nhưng còn ở trạng thái mới bắt đầu. Xuân Diệu rất có tài tả rét, trong

Nguyệt cầm, Lời kĩ nữ… và cả trong Đây mùa thu tới. Đúng hơn, thi sĩ có tài

cảm nhận cái rét mướt, lạnh lẽo theo điệu tâm hồn riêng của mình. Nhờ sự

chuyển đổi, tương giao của các hệ cảm giác, cái rét đầu thu không chỉ được

cảm nhận bằng xúc giác thông thường mà bằng cả thính giác (nghe) và thị

giác (luồn), nói chung bằng tất cả các giác quan tinh nhạy đã căng sẵn và

luôn “thức nhọn” của tâm hồn nhà thơ. Chữ “luồn” và “nghe” còn khiến cho cái

rét được cụ thể hoá thành tiếng, thành hình, thành ảnh, diễn tả một cách tinh

tế nét đặc trưng của cái rét đầu thu, mà trong dân gian vẫn thường gọi là “rét

trộm” (ngắn ngủi, bất ngờ, thoáng đến, thoáng đi như thể lén lút, vụng trộm,

chứ không liên tục, kéo dài như cái rét của mùa đông), đang ẩn thân vào cảnh

vật và lòng người gợi nỗi cô đơn. Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh thiếu nữ

mùa thu, một hình ảnh chứa đựng rất nhiều tâm trạng, bộc lộ cái nét lãng mạn

dịu dàng, tinh tế rất đặc trưng của điệu hồn Xuân Diệu: Không gian như có

dây tơ/ Bước đi sẽ đứt, động hờ sẽ tiêu/ Êm êm chiều ngẩn ngơ chiều/ Lòng

không sao cả hiu hiu khẽ buồn (Chiều – 1938). Hình ảnh “ít nhiều thiếu nữ

Page 40: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

buồn không nói” và mơ màng “tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì” cũng gợi biết bao

liên tưởng lãng mạn, dịu êm cho người đọc trước mỗi độ thu về…

Là một nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới”, và nhất là ở phương

diện ngôn từ, Xuân Diệu đã khiến cả một mùa thu tới xôn xao hiện về trước

mắt người đọc, gợi mở biết bao rung động theo những cảm nhận tinh tế, nhỏ

nhặt mà rất sâu xa. Bằng việc huy động những giá trị lập luận tiềm tàng trong

mỗi từ ngữ giản dị, bình thường, Xuân Diệu đã đem đến những sáng tạo thật

mới lạ, góp phần đổi mới ngôn ngữ, cách diễn đạt và những nếp tư duy quen

thuộc, cố hữu tự bao đời. Điều đáng lưu ý là, đôi khi dẫu có khoác lên mình

bộ “y phục tối tân” (Hoài Thanh), với những cách “dùng chữ, đặt câu quá Tây”

thì ở Xuân Diệu, điều căn bản, cốt lõi nhất vẫn chính là cảm xúc, cảm xúc tinh

tế, nồng nàn, luôn trong trạng thái cực điểm đã khiến thơ ông không chấp

nhận những cách diễn đạt thông thường, những từ ngữ phẳng lặng. Xuân

Diệu đã tìm đến cách diễn đạt của ngôn ngữ khác, của thơ tượng trưng Pháp

và đổi mới chính ngôn ngữ, lối nói sẵn có của tiếng Việt. Nhiều cách đặt câu,

dùng từ của ông nay đã trở thành quen thuộc và phổ biến với mọi người,

nhưng hồi Xuân Diệu mới xuất hiện, đấy là một cuộc cách tân mạnh dạn. Hãy

nghe nhận xét khá thú vị của một người cùng thời với ông cách đây hơn nửa

thế kỉ: “Ngay lời văn của Xuân Diệu cũng có vẻ chơi vơi. Xuân Diệu viết văn

tựa trẻ con học nói hay như người ngoại quốc mới võ vẽ biết tiếng Nam. Câu

văn tuồng bỡ ngỡ. Nhưng cái bỡ ngỡ ấy chính là chỗ Xuân Diệu hơn người.

Dòng tư tưởng sôi nổi không thể đi theo những đường có sẵn. Ý văn xô đẩy

khiến khuôn khổ câu văn phải lung lay”.

5. TỪ Ý NGHĨA CỦA “NHÁNH DUYÊN”… ĐẾN SỰ CẢM NHẬN BÀI “THƠ DUYÊN”

Nét đặc sắc làm nên vẻ đẹp độc đáo của Thơ duyên (in trong tập Thơ

thơ – 1938) của Xuân Diệu là những xúc cảm tinh tế, lãng mạn của một tâm

hồn thơ. Không phải ngẫu nhiên mà trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh cho

rằng Thơ duyên cùng với Đây mùa thu tới và Nguyệt cầm mới là những bài

Page 41: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

thơ “đích thực là Xuân Diệu”, bởi ở đây, “sự bồng bột của Xuân Diệu có lẽ đã

phát biểu ra một cách đầy đủ hơn cả trong những rung động tinh vi”. Bài thơ

cũng là một trong ba tác phẩm của Xuân Diệu được chọn giảng trong chương

trình Ngữ văn bậc Trung học phổ thông (gồm Vội vàng, Đây mùa thu tới và

Thơ duyên) nên đã khá quen thuộc với nhiều người, nhất là các em học sinh

và các thầy cô giáo. Tuy vậy, về cách diễn đạt và ý nghĩa của một số từ ngữ

trong bài thơ thì cho đến nay, ít nhất là trong phạm vi nhà trường, hình như

vẫn là một bức tình thư còn kín, gây nên không ít cách hiểu khác nhau, ảnh

hưởng không nhỏ tới sự cảm thụ, phân tích tác phẩm. Chúng tôi xin đề cập

đến cách hiểu một số từ ngữ để làm điểm xuất phát cho một hướng cảm thụ,

khám phá, phân tích toàn bộ ý nghĩa tư tưởng và cảm xúc thẩm mĩ của bài

thơ.

Từ ý nghĩa của “nhánh duyên”…

Khi học bài thơ này, nhiều em học sinh cảm thấy rất băn khoăn khó

hiểu về mấy chữ “chiều mộng hoà thơ” và “nhánh duyên” trong khổ thơ mở

đầu:

Chiều mộng hoà thơ trên nhánh duyên,

Cây me ríu rít cặp chim chuyền.

Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,

Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền.

Thực ra, để hiểu cụm từ “chiều mộng hoà thơ” thì trước hết phải hiểu

đúng ý nghĩa của hình ảnh “nhánh duyên”, bởi vì, câu thơ đầu tiên có thể diễn

đạt bằng văn xuôi: cái thơ mộng của buổi chiều thu là ở trên nhánh duyên…

Theo các tác giả của cuốn sách 125 bài văn dành cho học sinh lớp 11 và 12

luyện thi tú tài cao đẳng – đại học (NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1998) thì

“nhánh duyên” là cách diễn tả về những “cành cây có duyên”. Và cái duyên ấy

chính là dáng vẻ mềm mại của nhành cây đung đưa trước gió: “Một buổi

chiều mộng mơ, bầu trời trong xanh và như có gió nhẹ nhàng đung đưa,

những cành cây mềm mại có vẻ yếu ớt nhưng rất có duyên”. Theo hướng dẫn

Page 42: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

của Đáp án đề thi tuyển sinh vào Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội, năm

2000 – 2001 (Câu 2b) thì “duyên” lại được hiểu là duyên dáng, nên “nhánh

duyên” nghĩa là nhành cây duyên dáng: “Cái thơ mộng của chiều thu hoà

nhập với cái duyên dáng của nhánh cây (chữ duyên trong câu thơ đầu nên

hiểu là nét duyên dáng – Chú thích trong ngoặc đơn là của Đáp án)”. Còn

trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao đẳng Sư phạm Hoà Bình năm 2000 _

2001 (Câu 1b) thì giải thích duyên là sự giao hoà. Tuy nhiên cũng không rõ

nhánh duyên nghĩa là gì mà buổi chiều lại có thể giao hoà với nó được (!?):

“Duyên có nghĩa là sự giao hoà của vũ trụ, của thiên nhiên, của con người với

đất trời, cây cỏ, với những người khác. Trong cảm nhận của tác giả, (…) cả

đất trời, cảnh và con người đâu đâu cũng có duyên với nhau. Buổi chiều thì

giao hoà với nhánh duyên. Trên cành cây me thì cặp chim ríu rít chuyền từ

cành này qua cành khác. Bầu trời xanh như ngọc thì như sà xuống, đổ xuống

giao hoà với cành cây, kẽ lá” v.v…

Vậy nên hiểu nghĩa của nhánh duyên như thế nào? Chúng tôi cho rằng,

để hiểu đúng về hình ảnh này trước hết cần phải đặt nó trong mạch cảm xúc,

suy tưởng chung của nhà thơ và trong toàn bộ thế giới hình tượng độc đáo

của tác phẩm, một thế giới được Xuân Diệu miêu tả và biểu hiện theo một lối

riêng, rất thi vị và đầy lãng mạn. Nhìn bao quát, toàn cảnh thiên nhiên ở khổ

thơ đầu tiên này là một bức tranh thu tuyệt đẹp, rất tươi sáng và đậm màu

sắc duyên tình thơ mộng, khác hẳn với những buổi chiều buồn tàn tạ thường

thấy trong Thơ mới dạo ấy:

Chiều mộng hoà thơ trên nhánh duyên

Cây me ríu rít cặp chim chuyền

Như vậy, “chiều mộng hoà thơ” có thể hiểu là buổi chiều thu thơ mộng

và vẻ thơ mộng ấy được gợi ra nhờ một hình tượng thơ đặc sắc: trên cành

cây me có đôi chim chuyền cành ríu rít - đấy chính là hình ảnh về một mối

lương duyên tốt đẹp, một lứa đôi ríu rít tươi vui, tràn đầy sức sống. Và hình

ảnh đó đã trở thành hình ảnh trung tâm của bức tranh thu, khiến cho cành cây

me trở thành nhánh duyên – nhánh cây của tình duyên đôi lứa, còn buổi chiều

Page 43: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

thu đã trở thành một không gian thơ mộng. Hai chữ thơ và mộng được tách

riêng ra rồi lại hoà hợp với nhau để tạo thành một chỉnh thể “mộng hoà thơ”

và chỉnh thể thơ mộng ấy đã được thi sĩ nhận thấy trên nhánh duyên…

… Đến ý nghĩa của chữ “duyên”…

Nhiều người không xếp Thơ duyên vào loại thơ tình yêu vì cho rằng,

không nên hiểu chữ “duyên” trong bài thơ này gắn với duyên tình đôi lứa.

Nhưng với ý nghĩa của “nhánh duyên” trong khổ thơ mở đầu như đã phân tích

trên đây thì chữ duyên trước hết phải được hiểu gắn với ý nghĩa của tình yêu

nam nữ, như trong thơ của Hồ Xuân Hương: Có phải duyên nhau thì thắm

lại…, Hay như trong Truyện Kiều của Nguyễn Du: Người đâu gặp gỡ làm chi/

Trăm năm biết có duyên gì hay không?... Tuy nhiên, chữ “duyên” trong toàn

bộ bài Thơ duyên cũng cần phải được hiểu theo nghĩa rộng hơn (trong cái

nghĩa rộng đó có cả tình yêu lứa đôi). Từ điển tiếng Việt (Viện ngôn ngữ học –

Hoàng Phê chủ biên, 2000) giải thích chữ duyên gồm hai nghĩa: 1/ Phần cho

là trời định dành cho mỗi người về khả năng có quan hệ tình cảm (thường là

quan hệ nam nữ, vợ chồng) hoà hợp, gắn bó nào đó trong cuộc đời. Ví dụ:

Duyên ưa phận đẹp. Ép dầu ép mỡ, ai nỡ ép duyên. 2/ Sự hài hoà của một số

nét tế nhị đáng yêu ở con người, tạo nên vẻ hấp dẫn tự nhiên. Ví dụ: Không

đẹp nhưng có duyên. Ăn nói có duyên. Duyên ngầm. Nụ cười duyên. Xét

trong chỉnh thể cấu tứ và mạch cảm xúc chung của toàn bộ bài Thơ duyên thì

có thể hiểu duyên là sự hoà hợp, gắn bó tự nhiên những nét đáng yêu của

vạn vật và lòng người. Giữa chiều thu trong sáng, dịu êm, người thanh niên

mới lớn lắng nghe tiếng đập nhẹ của con tim, lắng nghe nơi lòng mình những

rung động tình yêu buổi ban đầu và cảm thấy dường như vạn vật trong vũ trụ

bao la đâu đâu cũng phải duyên phải lứa với nhau, cặp đôi và hiệp vần với

nhau trong âm hưởng của nhạc, trong không khí của thơ, mộng và trong tình

thương yêu… Đó là một thế giới đầy những sự tương phùng, hội ngộ của

những mối lương duyên tốt đẹp giữa thiên nhiên với thiên nhiên, giữa thiên

nhiên với con người và giữa anh với em – hai người khách bộ hành cùng

trang lứa, cho dù chỉ ngẫu nhiên gặp gỡ trên đường…

Page 44: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

… Và đến sự cảm nhận toàn bộ bài “Thơ duyên”.

Nhan đề Thơ duyên trước hết cho ta biết rằng bài thơ dành để nói về

cái duyên tình độc đáo ấy: cái duyên của đất trời, cái duyên tự trong lòng

người giữa một buổi chiều thu. Trên trục vận động của thời gian tuyến tính,

bắt đầu từ khoảng chiều hôm đến lúc chiều thưa – chiều tàn, một bức tranh

thiên nhiên mùa thu độc đáo và một trạng thái tình cảm đặc biệt của tâm hồn

con người đã được miêu tả hết sức sinh động, tinh tế.

Bức tranh buổi chiều thu trong phần một của bài thơ (gồm 3 khổ thơ

đầu) không chỉ được tạo nên bởi một hình ảnh thơ mộng, tươi vui và đậm đà

màu sắc duyên tình (qua hình ảnh đôi chim ríu rít chuyền trên cành cây me),

mà còn có sự hài hoà kì diệu của màu sắc, ánh sáng và âm thanh:

Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá

Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền.

Ánh sáng hoà lẫn với màu xanh ngọc bích của bầu trời trong buổi chiều

thu. Qua ánh sáng của muôn kẽ lá vẫn có thể nhận thấy rất rõ sắc trời thu –

xanh màu ngọc bích, nên cứ ngỡ màu xanh ấy như thể được rót xuống, được

đổ tràn xuống tự bầu trời. Còn âm thanh thì tràn ngập cả không gian: “Thu

đến nơi nơi động tiếng huyền”. “Tiếng huyền” là tiếng đàn, nhưng đồng thời

tiếng tơ đàn ríu rít, tươi vui của những lứa đôi cũng có thể coi là những âm

thanh huyền diệu nhất của thiên nhiên, của sự sống mùa thu…

Đi giữa khung cảnh huyền diệu và tràn ngập màu sắc duyên tình

thương yêu như thế, trong tâm hồn chàng trai mới lớn bỗng rung lên những

cảm xúc đầu đời: “Lần đầu rung động nỗi thương yêu”, bởi chàng vừa mới

phát hiện thấy ở phía trước có một thiếu nữ cùng trang lứa cũng đang đồng

hành, nhẹ bước trên đường…

Con đường nhỏ nhỏ, gió xiêu xiêu,

Lả lả cành hoang nắng trở chiều.

Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn,

Page 45: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Lần đầu rung động nỗi thương yêu.

Em bước điềm nhiên không vướng chân,

Anh đi lững đững chẳng theo gần

Vô tâm – nhưng giữa bài thơ dịu;

Anh với em như một cặp vần.

Cảnh thiên nhiên buổi chiều thu qua tâm trạng con người bỗng chốc trở

nên dịu dàng hơn mà hình như cũng có vẻ buồn vắng, trống trải hơn. Con

đường như nhỏ bé, vắng vẻ hơn; những cành cây khô gầy khẽ run rẩy trong

làn gió thu se lạnh dưới ánh “nắng trở chiều”… Nhưng không vì thế mà cảnh

vật mùa thu mất đi sự hài hoà. “Con đường nhỏ nhỏ” dường như rất hoà hợp

với ngọn “gió xiêu xiêu” của mùa thu. Và cành cây rụng lá – “cành hoang” –

như thể cũng mềm mại, lả lướt hơn (lả lả cành hoang) trong sắc thu vàng

nhạt lúc “nắng trở chiều”. Đoạn thơ sử dụng nhiều từ láy toàn bộ: nhỏ nhỏ,

xiêu xiêu, lả lả, có tác dụng tăng cường tính chất hài hoà, nhịp nhàng về mặt

âm điệu, vần điệu và nhịp điệu câu thơ. Tất cả đều nhằm gợi tả và làm nổi bật

những nét mềm mại, dịu dàng của cảnh vật trong con mắt mơ màng của một

kẻ đa tình khi “lặng bước thu êm”. “Cảnh như muốn theo lời thơ mà tan ra. Nó

chỉ mất một tí rõ ràng để có được thêm rất nhiều mơ mộng” (Hoài Thanh).

Thi nhân dường như cũng cảm nhận được những rung động tình yêu

buổi ban đầu khẽ dâng lên trong lòng mình:

Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn,

Lần đầu rung động nỗi thương yêu.

Những cảm xúc tinh tế của tâm hồn như thế cứ mỗi độ thu về đã tạo

nên nét đặc sắc và vẻ đẹp riêng trong thơ Xuân Diệu trước Cách mạng:

Không gian như có dây tơ,

Bước đi sẽ đứt, động hờ sẽ tiêu

Page 46: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Êm êm chiều ngẩn ngơ chiều,

Lòng không sao cả, hiu hiu khẽ buồn…

(Chiều)

Ở bài Thơ duyên, cái “hiu hiu” xao động “khẽ” dâng lên trong lòng

người ấy là một rung động đầu đời, rung động tình yêu: “Lần đầu rung động

nỗi thương yêu”. Nỗi khát khao thương yêu ấy chính là ý tình dịu nhẹ, bâng

khuâng với một thiếu nữ cùng trang lứa, không quen biết cũng đang đồng

hành, nhẹ bước trên đường. Tuy đấy mới chỉ là tiếng lòng của riêng ta, một

tình cảm đơn phương, tự “lòng ta nghe ý bạn”, một nỗi khát khao tự gắn bó,

tự sóng đôi trong tâm tưởng, nhưng cũng chính vì thế mà lại có thêm rất

nhiều mơ mộng, lãng mạn:

Vô tâm – nhưng giữa bài thơ dịu,

Anh với em như một cặp vần.

Đây là cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên giữa trai thanh, gái lịch: em là một

khách bộ hành không quen biết và dường như cũng chẳng để ý gì; bởi dáng

điệu người thiếu nữ hồn nhiên lắm: “em bước điềm nhiên”, chẳng vướng víu

gì với ai, cũng chẳng để ý có chàng trai đa tình cùng trang lứa phía sau, nên

bước chân thật nhẹ nhàng thanh thản. Còn anh, thi nhân, có lẽ cũng biết thế

nên chỉ thong thả nhẹ bước theo sau, cũng không muốn rút ngắn khoảng

cách: “Anh đi lững đững chẳng theo gần”. Giữa hai người quả là “vô tâm”,

chưa hề quen biết nhau, giữa họ còn có rất nhiều khoảng cách: anh với em

cũng mới chỉ là ta và bạn, cũng chưa có gì là mật thiết. Nhưng hình ảnh

người thiếu nữ duyên dáng, yêu kiều nhẹ bước trên đường trong khung cảnh

đẹp đẽ, thơ mộng của một buổi thu êm cũng đã gây xáo trộn không ít trong

tâm hồn của người thanh niên cùng trang lứa, chàng trai cũng cảm thấy

dường như là họ cũng đã có duyên với nhau, cùng nhịp nhàng sóng đôi với

nhau như một cặp vần trong trẻo giữa một bài thơ dịu. Đó cũng là cái duyên

chung của mùa thu, cái duyên tự nhiên của đất trời và lòng người. Cái duyên

Page 47: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

ấy thật là thơ mộng, lãng mạn và do vậy, nó cũng gợi rất nhiều bâng

khuâng…

Hai khổ thơ cuối (cũng là phần hai của bài thơ) vẫn tiếp tục mạch cảm

xúc và tâm trạng ấy nhưng bộc lộ rõ hơn những quan sát và cảm nhận hết

sức tinh tế của hồn thơ Xuân Diệu trước thiên nhiên và sự sống:

Mây biếc về đâu bay gấp gấp,

Con cò trên ruộng cánh phân vân.

Chim nghe trời rộng dang thêm cánh,

Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần.

Thời gian đã chuyển dần về phía “chiều thưa” và đây là khung cảnh của

một buổi “thu êm” trước lúc hoàng hôn buông xuống. Ở khổ thơ này, dường

như mọi biến thái mong manh, tinh vi, nhỏ nhặt nhất của thiên nhiên tạo vật

và sự sống mùa thu đều đã được Xuân Diệu phát hiện và miêu tả bằng

những câu thơ thật đẹp và tinh tế. Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh

nhận xét: “Sự sống muôn hình thức mà trong những hình thức nhỏ nhặt lại

thường ẩn náu một nguồn sống dồi dào. Không cần phải là con hổ ngự trị trên

rừng xanh, không cần phải là con chim đại bàng bay một lần chín vạn dặm

mới là sống. Sự bồng bột của Xuân Diệu có lẽ đã phát biểu ra một cách đầy

đủ hơn cả trong những rung động tinh vi”. Thơ cổ miêu tả buổi chiều hoàng

hôn thường dùng những hình ảnh đám mây và cánh chim. Khung cảnh buổi

chiều hoàng hôn ở khổ thơ này cũng có những cảnh tượng ấy, nhưng không

phải là cánh chim lẻ bầy vội vã và đám mây cô đơn lơ lửng giữa trời chiều

chưa biết về đâu như trong thơ xưa mà là những hình ảnh hết sức sinh động,

hoà hợp. Đám mây trong bài Thơ duyên này là đám mây ngũ sắc – “mây

biếc”– rất đẹp và đang trôi “gấp gấp”; nó không buồn bã, mỏi mệt mà còn gợi

được không khí sinh động, vui tươi. Trên cánh đồng xanh bát ngát, con cò

trắng không bay nhưng trước sự chuyển động “gấp gấp” vội vã của chòm

mây ngũ sắc trên trời cao nên đôi cánh của nó dường như cũng đã “phân

Page 48: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

vân” cử động. Nhận xét về hai câu thơ này, Hoài Thanh so sánh với câu thơ

tả buổi chiều của Vương Bột đời Đường:

Lạc hà dữ cô lộ tề phi

Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc

(Ráng chiều và cánh cò đơn chiếc lặng lẽ bay

Nước mùa thu và sắc trời mùa thu cùng một màu)

Và viết: “Từ con cò của Vương Bột lặng lẽ bay với ráng chiều đến con

cò của Xuân Diệu không bay mà cánh phân vân, có sự cách biệt của hơn một

ngàn năm và của hai thế giới”. Sự cách biệt ấy, ngoài khoảng thời gian hơn

một ngàn năm, từ thế giới thơ Đường đến Thơ mới, có lẽ chủ yếu còn ở chỗ:

“một đằng thì miêu tả những sự chuyển vận bên ngoài, hữu hình, mắt thường

có thể quan sát, nhìn thấy được; còn một đằng thì cảm nhận được cả những

vận động vô hình ở tận bên trong đường gân thớ thịt của cánh cò, trong trạng

thái hãy còn đang phân vân, ngập ngừng chuẩn bị cất mình bay theo làn mây

biếc”.

Hai câu thơ tiếp theo miêu tả sự chuyển vận nhẹ nhàng của bước đi

thời gian biểu hiện qua sự vận động của những hình ảnh không gian:

Chim nghe trời rộng dang thêm cánh,

Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần.

Chiều thu dần tàn (“chiều thưa”). Bầu trời thu trong xanh lúc hoàng hôn

dần tắt nên có vẻ như cao rộng, trống trải hơn. Cánh chim đang bay trên bầu

trời hình như cũng cảm nhận được những thay đổi ấy nên nó phải “dang thêm

cánh”. Một cánh chim lẻ bầy hay chính đấy là cánh cò trên ruộng, sau cái giây

phút “phân vân”, giờ đã đang sải rộng đôi cánh trên bầu trời? Bông hoa có lẽ

cũng cảm thấu cái lạnh của buổi “chiều thưa” trong hơi sương đêm mùa thu

toả xuống nên đã vội khép cánh dần… Tất cả đều rất nhẹ nhàng, êm dịu, hoà

hợp; và trong một buổi “thu êm” như thế, lòng người cũng lâng lâng, lan toả

những cảm xúc thật là lãng mạn:

Page 49: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy

Lòng anh thôi đã cưới lòng em.

Thơ duyên nằm trong số rất ít”những thi phẩm mùa thu giàu sức sống.

Bởi lẽ cảnh thu ở đây tuyệt đẹp và thơ mộng, tình thu trong sáng và lãng mạn,

cảm xúc thu dịu dàng, tinh tế và rất thiết tha. Bài thơ giúp ta hiểu thêm ở Xuân

Diệu một hồn thơ nhạy cảm, tinh tế mà rất yêu đời, luôn khát khao giao cảm,

gắn bó với thiên nhiên, cuộc đời và con người. Những xúc cảm tinh tế và rất

lãng mạn, mộng mơ của nhà thơ còn gội mát tâm hồn ta, giúp ta hiểu và thêm

yêu những cung bậc tình cảm tế nhị, kín đáo và vô cùng đẹp đẽ trong cuộc

đời.

6. “ĐÂY THÔN VĨ DẠ” – MỘT BÀI THƠ KHÔNG DỄ HIỂUCội nguồn cảm hứng

Vẻn vẹn chỉ có 12 câu thơ, chia làm 3 khổ, nhưng Đây thôn Vĩ Dạ quả

là một bài thơ không dễ giảng. Đây là một hiện tượng lạ, bởi đã có quá nhiều

bài phân tích, bình giảng, quá nhiều ý kiến tranh luận về bài thơ này nhưng

cho đến nay, hình như vẫn chừa tìm thấy được một tiếng nói thoả đáng trong

hầu hết các tài liệu đã được công bố. Hàn Mặc Tử viết Đây thôn Vĩ Dạ vào

tháng 11 năm 1939, một năm trước khi ông từ giã cõi đời vì căn bệnh quái ác

(ngày 11 tháng 11 năm 1940) và sau đó được in trong tập Thơ điên (tức

Thương đau), một trong ba tập thơ gồm những sáng tác khi ông đã bị lâm

bệnh nặng, vào giai đoạn cuối đời.

Nhiều ý kiến còn chưa nhất trí trong việc nên xem Đây thôn Vĩ Dạ như

một bài thơ tình hay là một bài thơ phong cảnh. Nếu căn cứ vào nhan đề thì

đây rõ là bài thơ về thôn Vĩ Dạ, một làng ở ngoại ô kinh thành Huế, bên bờ

sông Hương, có nhiều quan chức triều đình Huế lui về an trí ở đây. Làng có

những ngôi nhà xinh xắn, ẩn hiện giữa những khuôn viên thoáng rộng, vườn

cảnh đẹp, cây trái tươi tốt sum xuê và mướt xanh… Chắc hẳn với Hàn Mặc

Tử, những năm tháng học ở Trường Trung học Pelerin Huế, thôn Vĩ Dạ còn

Page 50: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

để lại trong kí ức của ông những ấn tượng khó phai mờ… Và sau này, những

ấn tượng sâu đậm nhất về khung cảnh thôn Vĩ Dạ ấy có lẽ đã được tác giả

hồi tưởng nguyên vẹn trong khổ đầu của bài thơ. Tuy nhiên, nguyên cớ trực

tiếp khơi nguồn cảm hứng lại chính là mối tình đơn phương nhưng cũng rất

nồng thắm trong quá khứ của tác giả với một cô gái, người thôn Vĩ Dạ: cô

Hoàng Thị Kim Cúc. Hồi ấy (từ khoảng 1932 – 1935), Hàn Mặc Tử làm ở Sở

Đạc điền Quy Nhơn, đã để ý và thầm yêu, trộm nhớ Hoàng Cúc, cô con gái

18 tuổi của ông chủ Sở, có những nét dịu dàng của một cô gái Huế. Mối tình

đầu ấy, ông cứ chôn chặt trong lòng. Cho đến mùa thu năm 1935, Hàn Mặc

Tử vào Sài Gòn làm báo, rồi hai năm sau đó, Hoàng Cúc theo cha lúc này

nghỉ hưu, trở về quê Vĩ Dạ. Khi bị mắc căn bệnh hiểm nghèo, phải ra Quy

Nhơn chữa bệnh (đầu năm 1939), nỗi giày vò vì bệnh tật lại cộng thêm niềm

nhớ mong người trong mộng lúc trở lại “vườn thuý” khiến Hàn Mặc Tử rất đau

buồn. Để xoa dịu người bệnh, một người bạn của ông gửi tặng Hoàng Cúc

tập thơ Gái quê. Đến lúc này, Hoàng Cúc mới rõ về mối tình thầm kín của

Hàn Mặc Tử đối với mình. Khi được biết Hàn Mặc Tử lâm bệnh hiểm nghèo,

Hoàng Cúc đã gửi cho ông một bức bưu ảnh phong cảnh Huế với lời thăm hỏi

chúc thi sĩ sớm bình phục. Ít lâu sau, Hoàng Cúc nhận được bài thơ Đây thôn

Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử gửi tặng kèm theo mấy hàng chữ, nguyên văn như

sau:

“Túc hạ,

Có nhận được bức ảnh bến Vĩ Dạ lúc hừng đông (hay một đêm trăng?)

với mấy hàng túc hạ gởi thăm. Muôn vàn cảm tạ. Túc hạ còn nhớ đến người

bạn năm nao, thế là phúc hậu lắm rồi, và mong rằng một mùa xuân nào đấy

được gặp lại túc hạ mới phỉ tình cho. Thăm túc hạ bình an và vui vẻ. Ký tên:

Hàn Mặc Tử”.

Như vậy, chắc chắn thi liệu trong bài thơ phải là cảnh vật thiên nhiên và

con người thôn Vĩ Dạ, xứ Huế, nhưng bức thư thăm hỏi của Hoàng Cúc, tấm

bưu thiếp có bức tranh phong cảnh và những hồi ức về mối tình đầu đẹp đẽ

trong lòng thi nhân đang bệnh tật đau đớn cũng là những yếu tố không thể bỏ

Page 51: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

qua khi tìm hiểu bài thơ. Những yếu tố đó không chỉ đóng vai trò là nhân tố

khơi nguồn cảm hứng mà còn là chất liệu hiện thực, đồng thời cũng là cái cầu

nối thể hiện những trạng thái tâm lí và tình cảm đặc biệt của chủ thể trữ tình

trong bài thơ này.

Một đặc điểm khác nữa cũng đáng được lưu ý là ở giai đoạn cuối đời,

thơ Hàn Mặc Tử có những bước nhảy rất lạ cả về cảnh, ý và thi tứ, ngay cả

trong những bài thơ thuộc vào loại trong sáng nhất của đời thơ Hàn Mặc Tử,

mà Đây thôn Vĩ Dạ cũng không phải là một ngoại lệ. Đó là một hồn thơ lãng

mạn đang tiến rất gần đến với cái ranh giới của thơ siêu thực, tượng trưng:

“Đau thương, tức tập Thơ điên, phần nhiều chứa đựng những niềm đau khổ,

rối loạn… phát ra những khúc nhạc buồn thương, day dứt, và toả ra một bầu

không khí ảm đạm của mùa đông. Thơ trong tập này đi từ lãng mạn đến

tượng trưng”. Quả có thế thật, bởi nếu nhìn kĩ vào những hình tượng trong

bài thơ, ta sẽ thấy ngay sự không thuần nhất và sự thiếu phù hợp giữa các

khổ thơ cả về không gian lẫn thời gian: khổ 1 là khung cảnh thiên nhiên tươi

non, mướt xanh, đầy sức sống vào một buổi sáng sớm, rất gần với thôn Vĩ Dạ

trong đời thực; Khổ 2 là khung cảnh thiên nhiên hiu hắt, chia lìa vào một buổi

chiều hôm và ở một đêm trăng; Khổ 3 là những bóng hình đã xa, những khói

sương mộng ảo, còn thời gian thì hoàn toàn mờ mịt, không thể xác định nổi

khi “Áo em trắng quá nhìn không ra” và lúc “sương khói mờ nhân ảnh” là ở

những thời điểm cụ thể nào. Vậy cái mạch ngầm liên kết các khổ thơ để tạo

nên tính chỉnh thể nghệ thuật ở bài thơ này là gì, nếu không phải là hồi ức và

các cung bậc tâm trạng của chủ thể cảm xúc. Nói cách khác, những hình ảnh

kí ức về thôn Vĩ Dạ qua mỗi khổ thơ được “nhìn” bằng các tâm trạng khác

nhau của chính tác giả. Có người nói, đọc thơ Hàn Mặc Tử thì “không nên

đọc theo đề tài, sự việc mà phải đọc vào tâm trạng. Cố để cảm thụ được tâm

trạng người viết, chúng ta sẽ kinh ngạc thấy rằng hoá ra bài thơ của Hàn Mặc

Tử lại liền khối một cách lạ lùng. Bài thơ mười hai câu này không có câu nào

lạc mạch, nằm ngoài “từ trường” cảm hứng”… Cái “từ trường” cảm hứng,

mạch ngầm gắn kết bài thơ thành một khối ấy chính là hồn thơ Hàn Mặc Tử,

Page 52: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

như Yến Lan đã nói: “Thơ của Hàn Mặc Tử có cái mạnh nhất để tồn tại là cái

hồn của nó”.

Sự vận động, chuyển hoá của cảnh, ý và thi tứ

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Có người cho rằng câu hỏi mở đầu bài thơ là của Hoàng Cúc, hoặc của

một cô gái Vĩ Dạ nào đấy nhưng thực chất cũng vẫn là hình bóng của Hoàng

Cúc, do nhân vật Hoàng Cúc đã được trừu tượng hoá đi và được tác giả nhắc

lại như là một lời mời, một lời hờn trách sao Tử không về thăm? Nhưng theo

những tài liệu ít ỏi hiện còn lưu giữ được về mối quan hệ giữa Hoàng Thị Kim

Cúc - Hàn Mặc Tử thì cũng khó có thể khẳng định điều đó một cách chắc

chắn. Tuy nhiên, dẫu có thế nào thì bức bưu thiếp có tranh phong cảnh và

mấy lời thăm hỏi của Hoàng Cúc từ thôn Vĩ Dạ gửi tới cũng đã là một niềm

vui bất ngờ, gây xáo động không nhỏ trong tâm hồn, tình cảm của Hàn Mặc

Tử. Theo dòng cảm xúc, những ấn tượng sâu đậm nhất của nhà thơ về thiên

nhiên cảnh vật và con người Vĩ Dạ đã xôn xao hiện ra dưới đầu ngọn bút:

Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên,

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc,

Lá trúc che ngang mặt chữ điền?

Đây đúng là cảnh trong ấn tượng của kí ức vì rất ít nét. Nó chỉ lưu giữ

những gì gây ấn tượng nổi bật, có thể khắc sâu vào trí nhớ. Vĩ Dạ có những

hàng cau cao vút, có thể nhìn thấy từ rất xa và những vườn cây trái mướt

xanh dễ gây sự chú ý của cảm giác; đó là hai chi tiết nổi bật, như những dấu

hiệu tạo ấn tượng, gợi nhớ lâu như một sự chọn lọc của tiềm thức. Nhưng tả

hàng cau, tác giả cũng chỉ nhấn mạnh đến cái nét tinh khôi của cảnh vật, vào

lúc sáng sớm: Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên. “Nắng mới lên” là ánh nắng

bình minh buổi sớm mai, và hàng cau tồn tại trong trí nhớ Hàn Mặc Tử là tồn

tại với cái sắc nắng ấy. Chữ nắng được lặp lại hai lần trong cùng một dòng

thơ, “nó lưu giữ chính xác một khoảnh khắc của cảnh, nên rất sinh động, gợi

cảm”. Còn khi tả vườn, tác giả cũng chỉ lưu giữ một ấn tượng sâu đậm trong

Page 53: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

lòng mình về vẻ mướt xanh của cây lá trong vườn. Nhà thơ Vũ Quần Phương

bình những câu thơ này đã rất tinh tế khi phát hiện ra một so sánh không phổ

biến: ví cái mướt xanh của vườn với ngọc. “Nhưng đọc câu thơ thì ai cũng

thấy là so sánh đúng, đúng trong cảm giác, (…):

Vườn ai mươi quá xanh như ngọc

Ấn tượng của cái nắng ở câu thơ trên rọi xuống màu xanh của vườn

nên mới tạo ra cái mướt xanh như ngọc”. Trong màu xanh có ánh sáng, có

sương long lanh của buổi sớm mai nên chỉ có thể là ngọc, khó có thể thay thế

ngọc bằng cái gì cho hay hơn được.

Câu thơ thứ tư gợi tả ấn tượng về con người thôn Vĩ:

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Nhiều người cố tìm hiểu xem khuôn “mặt chữ điền” trong câu thơ này là

ai, một cô gái hay một chàng trai? Chúng tôi nghĩ điều đó quả là không cần

thiết, mà chỉ nên hiểu chi tiết trên một cách phù hợp, thống nhất với toàn bộ

hệ thống hình tượng và mạch cảm xúc chung biểu hiện trong khổ thơ: những

hoài niệm xúc động trong tâm hồn Hàn Mặc Tử về cảnh vật và con người

thôn Vĩ Dạ, xứ Huế. Và như vậy, nếu hai câu thơ trên khắc hoạ ấn tượng sâu

đậm về những nét tươi non, mướt xanh của thiên nhiên cây trái trong vườn

nhà ai đó ở Vĩ Dạ thì câu thơ thứ tư này cũng chỉ nhằm gợi tả cái vẻ thuần

hậu, chất phác, một nét đáng mến khó quên của con người thôn Vĩ mà thôi.

Bốn câu thơ tả cảnh Vĩ Dạ thật đẹp, tuy chỉ là ấn tượng của kí ức nhưng cũng

không phải vì thế mà kém phần tinh tế, sinh động, gợi cảm và giàu sức sống;

bởi đằng sau bức tranh đó là một niềm vui gặp gỡ, niềm xúc động mãnh liệt

của một con tim đau đớn nhưng vẫn còn chất chứa bao nhiêu niềm hi vọng,

tin tưởng…

Khổ thơ thứ hai bỗng có bước chuyển rất đột ngột, làm thay đổi hẳn

sắc thái của cảnh, ý và thi tứ:

Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

Page 54: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

Cảnh Vĩ Dạ được mở rộng về mặt không gian, đến những dòng sông,

con thuyền, bến nước, mây, gió, cánh đồng, đêm trăng…, nhưng chứa đầy

tâm trạng. Khác hẳn với khổ thơ đầu, cảnh Vĩ Dạ trong khổ thơ này hầu như

rất ít tính hiện thực; thi liệu chỉ giống như “những cái mắc áo” để treo vào đó

những trạng thái cảm xúc của tâm hồn nhà thơ. Do vậy, nét nổi bật của thiên

nhiên cảnh vật trong khổ thơ này là sự chia lìa, hiu hắt: Dòng nước buồn thiu,

hoa bắp lắt lay; những gì vẫn tồn tại gắn bó cùng nhau thì giờ đây đều chia

tách: gió, mây đôi đường, thuyền và bến rời bỏ nhau – thuyền đã đậu bến

sông trăng nhưng lại đang rời bến để chở trăng đến một nơi bến bờ khác:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

Nhưng thuyền và bến ấy có lẽ cũng chỉ là những hình ảnh trong tâm

tưởng, vì con thuyền là “thuyền ai” không xác định, còn bến là bến “sông

trăng” – một con sông ảo. Đó là những hình tượng cảm xúc rất phù hợp với

cảnh ngộ và tâm trạng của chính tác giả – một con người bệnh tật, cô đơn

nhưng vẫn luôn khắc khoải, tha thiết với cuộc đời.

Khổ thơ thứ ba gợi tả những ấn tượng cảm xúc về người con gái trong

lòng nhà thơ. Nhưng với Hàn Mặc Tử, cô gái Vĩ Dạ năm nao giờ chỉ còn như

người trong mộng, đã hoàn toàn cách biệt, xa vời:

Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,

Ai biết tình ai có đậm đà?

Chữ “mơ” đứng đầu câu thơ hình như chứa đựng cả hai nghĩa: giấc mơ

(mộng) và sự mơ ước. Nhưng dù theo nghĩa nào thì mạch xúc cảm chính

trong cả khổ thơ vẫn là sự cách biệt sâu thẳm giữa hai người: “Em” giờ đã là

Page 55: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

“khách”, thậm chí là ”khách đường xa” – Chữ “khách đường xa” lặp lại hai lần

nhấn mạnh sự cách biệt. Và vì là khách đường xa nên hình bóng rất nhạt

nhoà, chỉ như một ảo ảnh: Áo em trắng quá nhìn không ra / Ở đây sương khói

mờ nhân ảnh. Câu hỏi cuối khổ thơ bộc bạch nỗi lòng: niềm nhớ mong sâu

sắc với người trong mộng, nhưng có pha chút hờn giận đắng cay bởi nỗi cô

đơn tuyệt vọng đã dâng đầy:

Ai biết tình ai có đậm đà?

Linh hồn tác phẩm

Dễ dàng có thể nhận thấy mạch tình cảm nhất quán xuyên suốt các khổ

thơ đó là nỗi lòng tha thiết, ước vọng khôn nguôi đối với thiên nhiên và con

người thôn Vĩ Dạ, xứ Huế; mà sâu nặng hơn là đối với một tình đẹp đẽ, trong

sáng tự trong sâu thẳm tâm hồn của chủ thể cảm xúc. Dẫu trong cảnh ngộ hết

sức khắc nghiệt của “một con người sượng sần vì bệnh hoạn (…), một người

bị giữ riêng ở một nơi, xa tất thảy bạn bè, thân thích và bó tay nhìn cả thể

phách lẫn linh hồn mình cùng tan rã”, nhưng “đôi mắt người ấy vẫn trong trẻo

khi ngắm nhìn cảnh sắc thiên nhiên, trái tim người ấy vẫn giàu yêu thương và

ước vọng”. Đó là một cảm xúc thơ rất giàu chất nhân bản và có lẽ cũng là nhờ

cái chất nhân bản đậm đà, sâu lắng ấy trong tâm hồn nhà thơ mà Đây thôn Vĩ

Dạ vẫn sẽ còn hấp dẫn mạnh mẽ nhiều thế hệ bạn đọc, cho dù bài thơ không

phải là dễ hiểu đối với tất cả mọi người.

7. ĐẶC ĐIỂM NGÔN TỪ VÀ MỐI LIÊN HỆ XƯA – NAY, CŨ – MỚI TRONG BÀI THƠ “TỐNG BIỆT HÀNH” CỦA THÂM TÂM

Đưa người, ta không đưa qua sông

Sao có tiếng sóng ở trong lòng?

Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,

Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?

Đưa người, ta chỉ đưa người ấy,

Page 56: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Một giã gia đình, một dửng dưng…

– Li khách! Li khách! Con đường nhỏ,

Chí nhớn chưa về bàn tay không,

Thì không bao giờ nói trở lại!

Ba năm mẹ già cũng đừng mong.

Ta biết người buồn chiều hôm trước

Bây giờ mùa hạ sen nở nốt.

Một chị, hai chị, cùng như sen,

Khuyên nốt em trai dòng lệ sót.

Ta biết người buồn sáng hôm nay

Giời chưa mùa thu tươi lắm thay,

Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc

Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…

Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!

Mẹ thà coi như chiếc lá bay,

Chị thà coi như là hạt bụi,

Em thà coi như hơi rượu say…

(Văn học 11, SGK chỉnh lí hợp nhất, NXB GD, 2000)

Người ta hay nói đến hiện tượng một bài trong thơ tiếng Việt. Đó là hiện

tượng những bài thơ của những tác giả xuất hiện rất ít, có thể chỉ một lần duy

nhất nhưng đã lập tức chói sáng trên bầu trời thơ Việt Nam. Tống biệt hành

của Thâm Tâm là một trường hợp như vậy. Bài thơ viết về một đề tài không

mới, đề tài “tống biệt”, một đề tài mà thơ ca trung đại trước đó đã có không ít

bài nổi tiếng. Hình tượng “li khách” cũng có thể nói là đã quá quen thuộc trong

Page 57: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

văn chương một thời với những tráng sĩ vung gươm nơi sa trường với da

ngựa bọc thây, thái độ ngang tàng, những lời cảm khái v.v… Có người nói,

chọn đề tài tống biệt, Thâm Tâm đã rơi vào cái thế đứng chênh vênh bên bờ

vực, rất khó tránh khỏi những công thức định sẵn, những cảm xúc sáo mòn.

Phải thật cao tay thì mới có thể thoát hiểm, sáng tạo được những gì mới mẻ

thật sự. Viết Tống biệt hành, Thâm Tâm quả đã làm được điều ấy. Cái hay

của bài thơ, cái tạo ra được sức hấp dẫn lớn chính là ở chỗ tác giả biết lấy cái

cũ để gợi tả cái mới, mượn hình tượng xưa để làm nổi bật vẻ đẹp của li khách

ra đi trong thời đại hôm nay. Với “điệu thơ gấp, lời thơ gắt, câu thơ rắn rỏi,

gân guốc”, bài hành đã làm sống dậy cái không khí khảng khái, ngang tàng

cùng với ý vị bâng khuâng, xốn xang khó tả của một cuộc tiễn đưa vì nghĩa

lớn.

Đưa người, ta không đưa qua sông

Sao có tiếng sóng ở trong lòng?

Bóng chiều không thắm không vàng vọt,

Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?

Trong văn học truyền thống, dòng sông và buổi chiều hoàng hôn vốn là

những hình ảnh gắn liền với sự biệt li. Bằng hai câu hỏi tu từ dạng phủ –

khẳng định: “không… sao có?”, “không… sao đầy?”, mở đầu bài thơ, Thâm

Tâm đã gợi tả trọn vẹn cả không gian, thời gian của cuộc chia tay và những

cảm xúc, tình cảm diễn ra trong lòng kẻ ở, người đi trước giờ phút li biệt.

Cuộc tiễn đưa lần này không diễn ra ở không gian và thời gian li biệt thông

thường, nghĩa là không diễn ra ở một bến sông nào đó và trong buổi chiều

hoàng hôn, nhưng vẫn xốn xang bao tình cảm nhớ nhung, lưu luyến giữa kẻ

ở người đi: có “sóng” trong lòng và “hoàng hôn” trong mắt – biểu tượng cho

những tình cảm muôn thuở của con người muôn nơi trong những cuộc biệt li.

Tuy nhiên, bốn câu thơ trên đây không chỉ có ý nghĩa khẳng định mà

còn chất chứa một nỗi niềm băn khoăn khó tả. Hai câu hỏi nghi vấn “sao

có…?”, “sao đầy…?” với hai chữ sao liên tiếp đặt đầu dòng thơ khiến cho

Page 58: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

đoạn thơ chứa đầy tâm trạng, làm cho những ý nghĩa sâu xa ẩn kín của bài

thơ càng thêm lung linh, khó nắm bắt. Có người nói “câu hỏi của Thâm Tâm

đặt ra chỉ là một cách hành văn, bản chất của nó là trần thuật, giãi bày, nghi

vấn chỉ để nhấn mạnh”. Nếu vậy, xin hãy thử bỏ đi hai chữ “sao” nghi vấn

chất chứa nỗi niềm day dứt trên đây và thay bằng một chữ khác hoàn toàn chỉ

thuần tuý có tính chất trần thuật hay nhấn mạnh (chẳng hạn, “vẫn” hoặc

“nhưng”: Vẫn (nhưng) có tiếng sóng ở trong lòng – Vẫn (nhưng) đầy hoàng

hôn trong mắt…) xem câu thơ sẽ còn lại những gì? Rõ ràng nhãn tự của đoạn

thơ chính là ở cái chữ “sao” đầy tâm trạng này: nó thể hiện sự ngạc nhiên của

người tiễn về những sóng cuộn trong lòng và đặc biệt là cái ánh hoàng hôn

đã dâng đầy trong mắt người ra đi trước giờ phút li biệt.

Nhưng cuộc chia tay nào chả vậy! Sao người tiễn phải băn khoăn ngạc

nhiên vì những biểu hiện của tình người lưu luyến lúc chia xa? “Sóng” trong

lòng ai và “hoàng hôn” trong mắt ai? Lí giải những điều này quả đã từng tốn

không ít giấy mực, bởi đúng như nhiều người nhận xét, “ngôn ngữ của Tống

biệt hành thật khó giảng, chữ nghĩa, câu thơ như không dính nhau”, từ ngữ

dồn nén, “có nhiều tỉnh lược, giữa các dòng thơ có nhiều khoảng trống,tạo

thành một vẻ ám ảnh bí ẩn không dễ gì thuyết minh cho thông… nhiều chỗ tối

nghĩa, phải thêm chữ vào mới hiểu được”. Giải quyết tất cả những điều này,

GS. Trần Đình Sử đã thật có lí và tinh tế khi ông cho rằng: “để hiểu bài thơ

trước hết cần phân biệt rõ người tiễn với người ra đi và phải nhận rõ toàn bài

thơ là lời người tiễn nói về người ra đi”. Một khi đã phân biệt và nhận rõ như

vậy thì không thể phân tích “người tiễn ngạc nhiên về chính những tình cảm

đang diễn ra trong lòng mình”, mà phải hiểu người tiễn không khỏi băn khoăn,

ngạc nhiên trước dáng điệu và tình cảm của kẻ lên đường. Bởi “sóng ở trong

lòng” thì còn có thể nói ấy là tiếng lòng ta (kẻ đưa tiễn), chứ “hoàng hôn trong

mắt” thì chắc chắn phải là mắt của người ra đi, do cái tiếng sóng lòng ngổn

ngang, cuộn xoáy mà người ra đi không thể kìm giữ, nén chặt…, nên đã bộc

lộ hẳn ra bên ngoài; người tiễn quan sát, nhận thấy khiến anh không khỏi

ngạc nhiên, ngỡ ngàng. Ngạc nhiên, ngỡ ngàng vì đây không phải là cuộc

tiễn biệt thông thường một con người bình thường. Đây là cuộc tiễn đưa vì

Page 59: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

nghĩa lớn và “li khách” là một đấng nam nhi ôm chí lớn lên đường, cái người

đã khăng khăng nhất quyết, không xúc động, “một giã gia đình, một dửng

dưng”, tự nguyện lấy “chí nhớn” và danh dự làm lẽ sống, nếu “chí nhớn chưa

thành” thì sẽ chưa trở về với “bàn tay không”, sẽ đừng bao giờ nói đến

chuyện quay “trở lại”, dẫu có “ba năm” thì “mẹ già cũng đừng mong”!. Trong

những cuộc tiễn đưa trượng phu, tráng sĩ xưa kia, người ra đi thường có điệu

bộ khảng khái, dửng dưng, khí phách hiên ngang, ngẩng cao đầu bước đi

(tráng sĩ nhất khứ hề), chứ không thể bị vướng bận bởi tình riêng nhỏ nhặt

(không vương thê nhi, hoặc: người ra đi đầu không ngoảnh lại…); đằng này,

trong lòng li khách lại đang nổi “sóng” và nhất là trong mắt lại “đầy hoàng hôn”

vốn không phải là ánh mắt của kẻ trượng phu lên đường.

Vậy là, trong ý định ban đầu, người tiễn tưởng tiễn đưa một chinh phu

truyền thống nhưng thực tế chỉ có con người thời đại – thời đại của văn học

lãng mạn – con người được thức tỉnh sâu sắc ý thức về cái tôi cá nhân, trong

giờ phút chia tay đã có thể bộc lộ tất cả những tình cảm riêng tư phong phú,

chân thật và đầy nhân tính:

Ta biết người buồn chiều hôm trước

Bây giờ mùa hạ sen nở nốt,

Một chị, hai chị cùng như sen

Khuyên nốt em trai dòng lệ sót.

Ta biết người buồn sáng hôm nay

Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay,

Em nhỏ thơ ngây đôi mắt biếc

Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…

Đây là đoạn người tiễn hồi tưởng và nhớ lại gia cảnh và tình cảm của

người ra đi. Những chữ “ta biết người buồn” lặp lại như một điệp khúc biểu thị

sự thấu hiểu của người tiễn đối với cảnh ngộ và những sóng gió tình cảm đã

và đang diễn ra sâu kín trong lòng của người ra đi. Hoá ra, li khách có một

Page 60: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

cảnh ngộ không thể cầm lòng, chẳng thể dửng dưng: một mẹ già như chiếc

bóng, hai người chị như sen cuối mùa và đứa em nhỏ còn quá thơ ngây. Anh

là trụ cột, là người trai duy nhất trong gia đình và để có cuộc chia tay ở nơi

không có sông, trời cũng chưa hoàng hôn này, anh đã phải trải qua hai cuộc

chia tay đẫm lệ tình ruột thịt trước đó: một “chiều hôm trước” và một “sáng

hôm nay”… Anh đã ra đi như một đấng trượng phu: lấy “chí nhớn” làm lẽ

sống, mẹ già, chị gái, em thơ cũng không cản được bước chân người trai say

lí tưởng. Nhưng khác với trượng phu xưa, li khách hôm nay còn là một con

người (một con người cá nhân), anh đã buồn từ chiều hôm trước, lại buồn

sáng hôm nay, rất day dứt, tràn đầy thương nhớ. Nên anh ra đi mà chẳng thể

dửng dưng, bởi cuộc tiễn đưa hôm nay được dồn nén, được thử thách bằng

lòng quyết tâm thực hiện “chí nhớn” trong sự mâu thuẫn giằng xé với những

tình cảm riêng tư của một con người cá nhân đầy nhân tính. Nhưng cuối cùng

thì chí lớn đã thắng:

Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!

Mẹ thà coi như chiếc lá bay

Chị thà coi như là hạt bụi

Em thà coi như hơi rượu say!

Từ chỗ thấu hiểu cảnh ngộ và nỗi lòng của người ra đi, người tiễn đi từ

ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Nhưng nếu ban đầu còn chút băn

khoăn vì không thấy cái hình bóng quen thuộc của một khách chinh phu

truyền thống thì đến cuối bài thơ, người tiễn hết sức cảm phục: “người đi? Ừ

nhỉ, người đi thực!” Câu thơ có ngữ điệu khá đặc biệt: “Người đi?” là một câu

hỏi tu từ thể hiện tâm trạng ngạc nhiên, còn “Ừ nhỉ, người đi thực?” là lời cảm

thán nhằm xác nhận một sự thật, trong đó có sự bừng thức và cảm phục của

người tiễn trước sự ra đi rất cao cả, mạnh mẽ của “li khách” hôm nay. Tuy

nhiên, đối với người ra đi thì đấy là một sự lựa chọn không mấy dễ dàng,

chọn “chí nhớn” thì phải hi sinh tình riêng, phải bỏ mặc những người ruột thịt,

nên chọn bề nào cũng không tránh khỏi đau đớn, mất mát. Ba dòng thơ cuối

cùng khá độc đáo nhờ tính chất đa thanh, phức điệu của ngôn ngữ thơ. Ở

Page 61: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

đây, cái ranh giới giữa lời của chủ thể trữ tình (người tiễn) với lời của nhân

vật – đối tượng trữ tình (li khách) đã không thể phân biệt rành mạch, bởi đoạn

thơ sử dụng chính ngôn từ, giọng điệu và ý chí của người ra đi lồng trong lời

kể của người tiễn. Ta hãy chú ý đến cách tạo ấn tượng và hiệu quả biểu hiện

nhờ âm hưởng, ngữ điệu và nhịp điệu đặc biệt của đoạn thơ. Sự hoà phối âm

điệu (lâng lâng, lan toả) độc đáo bằng những vần ôm: ”chiếc lá bay…hơi rượu

say” đã gợi được cái tinh thần thanh thản, nhẹ nhõm, cái khí phách ngang

tàng, lãng mạn của kẻ lên đường trong thơ cổ. Ba câu thơ còn độc đáo bởi ba

chữ “thà” lặp lại ở mỗi dòng thơ trong một ngữ điệu và một kết cấu cú pháp

thống nhất (Mẹ thà coi như…, Chị thà coi như…, Em thà coi như…) đã thể

hiện sự chọn lựa dứt khoát, khẳng định quyết tâm không thể gì lay chuyển nổi

của người ra đi. Nhưng “thà” cũng có nghĩa là đành phải chấp nhận, đành

phải hi sinh. Trong văn chương tiếng Việt của ta đã có biết bao nhiêu chữ thà

rỏ máu và rơi nước mắt như thế: Thà rằng liều một thân con/ Hoa dù rã cánh,

lá còn xanh cây (Nguyễn Du), Thà cho trước mắt mù mù/ Chẳng thà ngồi thấy

kẻ thù quân thân (Nguyễn Đình Chiểu). Đúng là mỗi chữ “thà” đều như dao

cứa ngang tim, làm sao có thể dửng dưng mà không nổi “sóng” trong lòng và:

“đầy hoàng hôn trong mắt” được!

Nhiều người căn cứ vào hoàn cảnh sáng tác của bài thơ để gán cho

hình tượng người ra đi trong Tống biệt hành những ý nghĩa có khi trái ngược

hẳn nhau”. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào ngôn ngữ văn bản tác phẩm và đặt nó

trong trường văn hoá chung của những mối liên hệ cũ – mới, xưa – nay thì có

thể khẳng định, hình ảnh li khách trong bài thơ này mang một ý nghĩa thẩm mĩ

khá mới mẻ, sâu sắc: Người trượng phu hôm nay được thức tỉnh bởi lí tưởng

nhân đạo mới và cá tính không thể ra đi một cách thanh thản, nhẹ nhàng như

con người ngày xưa. Li khách hôm nay đã ra đi trong tình cảm lưu luyến sâu

xa của một thế giới nội tâm sâu kín, toàn vẹn, chân thật và đầy nhân tính. Cái

nhìn nhiều chiều và rất sâu sắc của tác giả về “con người thời đại” đã thổi

thêm những ý nghĩa mới, làm tăng thêm vẻ đẹp cho một loại hình tượng vốn

đã rất đẹp, rất cao cả trong văn học truyền thống của dân tộc ta.

Page 62: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

8. ĐÂU LÀ MÀU SẮC CỔ ĐIỂN TRONG “TRÀNG GIANG” – MỘT BÀI THƠ HIỆN ĐẠI CỦA HUY CẬN

Về khái niệm cổ điển và hiện đại

Về bài thơ Tràng giang, một bài thơ rất tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận

trong tập Lửa thiêng (1940), nhiều người hay nói đến màu sắc cổ điển và màu

sắc hiện đại của tác phẩm, mặc dầu điều đó cũng đồng nghĩa với việc phải

đụng chạm đến khá nhiều vấn đề phức tạp về khái niệm thuộc lĩnh vực lí luận

văn học và khoa học nghiên cứu về Ngữ văn. Khái niệm cổ điển ở đây đương

nhiên không có nghĩa là “cổ'kính” hay là một cái gì đó của “một thuở xa

xưa”…, cũng không hướng tới các đặc trưng của chủ nghĩa cổ điển, một

trường phái văn học trong quá khứ, mà chủ yếu là muốn đề cập tới các đặc

điểm của một loại hình thơ ca trung đại phương Đông: loại hình thơ cổ điển.

Khái niệm hiện đại cũng không được dùng với ý nghĩa chỉ các đặc điểm cửa

chủ nghĩa hiện đại trong văn học, mà chỉ đơn giản muốn nói tới các phương

thức biểu hiện phi cổ điển bên cạnh các yếu tố cổ điển trong một tác phẩm

thơ ca hiện đại. Tóm lại, nói màu sắc cổ điển là nói đến những biểu hiện thi

pháp có tính đặc trưng và ổn định của loại hình thơ ca trung đại đã được sử

dụng (hay thể hiện) trong một tác phẩm văn học hiện đại cụ thể.

Để tránh những rắc rối về mặt khái niệm, chúng tôi xin đề cập trực tiếp

đến những khía cạnh của màu sắc cổ điển trong Tràng giang, một bài thơ

hiện đại của Huy Cận, “một bài thơ đã kết hợp được thơ ca truyền thống,

những nét cổ điển của thơ Đường, với những nét hiện đại” được biểu hiện

qua các yếu tố như: hình thức, cấu tứ, thi liệu, bút pháp và thi hứng của tác

phẩm.

Về hình thức

Bài thơ có bốn khổ với 16 câu thơ thất ngôn, mà nếu tách ra thì giống

như bốn bài tứ tuyệt của Đường thi. Sở dĩ có thể tách riêng ra như vậy vì cả

bốn khổ thơ đều có chung một cấu tứ, khổ nào cũng mênh mang sóng nước

và dợn dợn một nỗi buồn sầu. Tuy cảnh vật cụ thể ở mỗi khổ thơ có những

Page 63: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

nét khác nhau nhưng đều là cảnh dòng tràng giang mênh mang và ẩn chứa

trong đó là một tâm trạng chung của chủ thể cảm xúc: nỗi buồn tủi về thân

phận nhỏ bé, bơ vơ, lạc lõng của kiếp người giữa cuộc đời rộng lớn, đầy bất

trắc. Người ta nói, bài thơ mang vẻ đẹp cổ điển thì một trong những khía cạnh

của màu sắc cổ điển ấy là ở đặc điểm hình thức này.

Về cấu tứ

Thơ cổ điển là sự giao hoà tâm – vật, cảnh – tình hô ứng, đối cảnh sinh

tình, hoặc trong cảnh ngụ tình: “Bài thơ bắt đầu từ cảnh, vật, đến tâm cảnh,

đến chí thì kết thúc. Hoặc là ngược lại, bắt đầu từ tình, chí, qua tâm cảnh, tới

cảnh vật ở trước mắt thì kết”. Đặc điểm này đem đến cho thơ cổ điển phương

Đông một lối diễn đạt biểu trưng khá độc đáo: lối mượn cảnh ngụ tình. Tràng

giang cũng được lập tứ và diễn đạt một cách rất “cổ điển” như vậy. Khổ 1 tả

khung cảnh sông nước mênh mang, qua đó bộc lộ nỗi buồn về những thân

phận lạc loài, phiêu dạt. Khổ 2 gợi tả không gian bao la và nỗi buồn về cuộc

sống tàn tạ, bị bỏ quên. Khổ 3 nhấn mạnh về sự mất hết mọi liên hệ giữa các

sự vật và bộc lộ nỗi khát khao những tâm hồn đồng điệu trong cuộc đời. Khổ

4 là khung cảnh buổi chiều hoàng hôn trên sông và tâm trạng buồn nhớ quê

hương tha thiết chất chứa trong lòng người... Như vậy, cả bài thơ tuy là tả

cảnh sông dài, trời rộng, là khung cảnh không gian bao la, trời nước bát ngát

một màu nhưng thực chất vẫn là mượn cảnh ngụ tình. “Tràng giang là một bài

thơ tình gặp cảnh, một bài thơ về tâm hồn”. Theo Huy Cận thì bài thơ lúc đầu

do cảnh sóng nước sông Hồng gợi tứ, nhưng đấy cũng là hình ảnh chung về

các dòng sông khác của quê hương, ẩn chứa bên trong nó là tâm trạng, cảm

xúc, là nỗi lòng của một hồn thơ đại diện cho cả một thế hệ thanh niên lúc bấy

giờ luôn cảm thấy mình nhỏ bé, bơ vơ, lạc lõng trước cuộc đời. “Bài thơ

tưởng là tả cảnh nhưng thật sự là tả tâm hồn, mang ý nghĩa tượng trưng rất

tự nhiên, bằng cái lô–gích bên trong của nó”. Tác giả còn kể lại rằng, cảm

hứng của bài thơ được khơi gợi từ một chiều thu năm 1939 (lúc đầu bài thơ

có nhan đề là Chiều thu trên sông), khi ông đứng ở bờ nam bến Chèm, nhìn

cảnh sông Hồng bao la vắng lặng, bốn bề sóng nước cô liêu, nghĩ về kiếp

Page 64: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

người nổi trôi bé nhỏ. Vậy là, từ một dòng sông cụ thể, nhà thơ nghĩ về dòng

tràng giang mênh mông, từ một nỗi buồn riêng, nhà thơ nghĩ về những kiếp

người nổi trôi, bé nhỏ trong dòng đời vô định…

Về thi liệu, bút pháp và thi hứng

Hình ảnh thiên nhiên trong thơ cổ điển thường là những hình ảnh ước

lệ, có tính biểu trưng cao; được vẽ bằng những nét bút chấm phá, gợi nhiều

hơn tả. Tính chất đó làm cho dòng tràng giang mênh mang trong bài thơ có

vẻ trừu tượng, ít tính hiện thực. Tuy nhiên, phần lớn những chi tiết và hình

ảnh thiên nhiên, tạo vật của dòng sông này lại khá cụ thể, được miêu tả bằng

một bút pháp rất hiện đại. Chính tác giả cũng thừa nhận, hình ảnh thơ tuy

mang tính tượng trưng nhưng “những hình ảnh con thuyền xuôi mái, củi một

cành khô, bèo dạt về đâu hàng nối hàng vv… đều mang tính chân thực của

đời thường, không ước lệ”. Do vậy, về thi liệu, có lẽ cái dáng dấp cổ điển rõ

nét nhất chỉ có thể tìm thấy ở bốn câu thơ kết bài. Hơn nữa, cả bút pháp và

thi hứng ở bốn câu này cũng đều thấy có mối liên hệ rất mật thiết với các đặc

điểm thi pháp của thơ ca trung đại truyền thống:.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Khổ thơ miêu tả khung cảnh một buổi chiều hoàng hôn và tâm trạng

buồn nhớ quê hương của con người, một kiểu tâm trạng và thi hứng rất điển

hình của thơ cổ điển. Buổi chiều hoàng hôn trong hai câu thơ đầu cũng được

“chấm phá” theo bút pháp Đường thi với hai hình ảnh “đám mây” và “cánh

chim”, những thi liệu quen thuộc của thơ ca trung đại phương Đông. Tuy

nhiên, trong thơ xưa, đám mây cô đơn lơ lửng giữa trời chiều và cánh chim lẻ

bầy mỏi mệt thường tạo ra một quan hệ tương đồng, hô ứng chứ không đối

lập. Còn trong bài Tràng giang, hai hình ảnh này có sự tương phản, đối lập

khá gay gắt: trên bầu trời, từng đám mây trắng chồi lên như những núi bạc

Page 65: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

khổng lồ trước ánh hoàng hôn đỏ rực lúc ráng chiều gần tắt, tạo ra một cảnh

tượng hùng vĩ, rạng ngời chưa từng thấy, trong khi cánh chim lại nhỏ bé và

mông lung quá, chỉ như một chấm buồn giữa khung cảnh trời nước bao la

buổi hoàng hôn… Câu thơ gợi cảm giác bé nhỏ, rợn ngợp của con người

trước khung cảnh quá mênh mang, rộng vắng của đất trời.

Hai câu sau là cái tâm trạng cổ điển của người xa quê: chiều hôm nhớ

nhà. Tuy nhiên, khác với thơ xưa, tấm “lòng quê dợn dợn” – nỗi buồn nhớ

quê hương tha thiết trước cảnh chiều hôm mênh mang, xa “vời con nước”

trong bài thơ này lại là một tâm trạng rất “hiện đại”:

Lòng quê dợn dợn vời con nước.

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Câu thơ dùng hình thức phủ – khẳng định: “Không… cũng nhớ… “, gợi

ta nhớ đến hai câu thơ rất nổi tiếng trong bài Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu

đời Đường:

Nhật mộ hương quan hà xứ thị,

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

(Quê hương khuất bóng hoàng hôn,

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.)

Đó là tâm trạng nhớ quê của người xa xứ: Ở chốn bồng lai tận trên cõi

tiên, vào một buổi chiều hoàng hôn, người khách tha hương nhìn khói sóng

trên sông, lòng bỗng chạnh một nỗi buồn nhớ quê nhà. Huy Cận nói, khi

mượn ý của người xưa, ông muốn tả một nỗi buồn nhớ quê hương da diết

hơn, “vì lúc đó, tôi buồn hơn Thôi Hiệu nhà Đường”. Bởi vì, giữa Huy Cận với

người xưa, tuy là cùng một nỗi nhớ nhà, nhớ quê nhưng cái gốc của cảm xúc

và tâm trạng thì hoàn toàn khác hẳn nhau: nỗi nhớ quê hương của người xưa

là do ngoại cảnh; còn thi nhân hôm nay đang sống giữa quê hương mình,

đang ngắm cảnh trời nước mênh mang của sông núi mà lòng vẫn da diết một

nỗi buồn nhớ quê hương. Ấy là tâm cảnh, là nỗi lòng của kẻ thiếu quê hương,

Page 66: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

một nỗi sầu nhớ dường như đã chất chứa sẵn tự trong lòng, nên đâu phải

cần đến “khói hoàng hôn” để mà gợi nhớ!

Cảm xúc chính là cái gốc của thơ ca

Nếu xét từ cảm xúc, thi hứng thì Tràng giang trước sau vẫn là một bài

thơ rất hiện đại. Huy Cận đặc biệt tâm đắc khi trong Thi nhân Việt Nam, Hoài

thanh gọi nỗi buồn trong bài thơ là một nỗi buồn được “toả ra từ hồn một

người cơ hồ không biết đến ngoại cảnh. Có người muốn làm thơ phải tìm

những cảnh nên thơ. Huy Cận không thế. Nguồn thơ đã sẵn trong lòng thi

nhân nên không cần có nhiều chuyện…” và ông cho rằng đó là một lời bình

rất tri âm, tri kỉ. Sở dĩ như vậy vì xét đến cùng, nỗi buồn sông núi chất chứa

sẵn trong lòng thi nhân cũng chính là một nỗi buồn thời đại: nỗi buồn về thân

phận con người trong cảnh ngộ đất nước lầm than.

9. LỜI QUÊ, LỐI NÓI QUÊ, CẢNH QUÊ VÀ HỒN QUÊ NGUYỄN BÍNH TRONG “TƯƠNG TƯ”

TƯƠNG TƯ

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,

Một người chín nhớ mười mong một người.

Gió mưa là bệnh của giời.

Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.

Hai thôn chung lại một làng,

Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?

Ngày qua ngày lại qua ngày,

Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.

Bảo rằng cách trở đò giang

Không sang là chẳng đường sang đã đành.

Nhưng đây cách một đầu đình,

Page 67: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Có xa xôi mấy mà tình xa xôi…

Tương tư thức mấy đêm rồi,

Biết cho ai, hỏi ai người biết cho!

Bao giờ bến mới gặp đò?

Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?

Nhà em có một giàn giầu,

Nhà anh có một hàng cau liên phòng.

Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,

Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?

(Ngữ văn 11, SGK thí điểm, NXB Giáo dục, 2004)

Tương tư và các biểu hiện của tâm trạng tương tư

Tương tư là một trạng thái tình cảm đặc biệt của tình yêu lứa đôi. Sách

Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê Chủ biên, NXB KHXH – 2000) định nghĩa

tương tư là nỗi nhớ da diết. Như vậy, thực chất tương tư là nỗi nhớ nhung về

nhau, một trong những biểu hiện nổi bật của tình yêu. Tuy nhiên, tương tư là

nỗi nhớ đã ở vào một mức độ da diết, mãnh liệt đến tột cùng; thậm chí, có

người tương tư còn bị rơi vào tình trạng gần như suy sụp hẳn cả về thể chất

lẫn tinh thần, héo hắt, gầy mòn, gọi là “ốm tương tư” (một dạng của căn bệnh

trầm cảm). Ngọn nguồn của tâm trạng tương tư thực ra là nỗi khao khát được

chung tình, kề cận với người mình yêu. Và nhớ thương chính là một nỗ lực

tâm lí để vượt qua mọi khoảng cách hay trở ngại về không gian, thời gian,

hoàn cảnh v.v… giữa hai người. Nhưng càng nỗ lực bao nhiêu thì cái mục

đích khát vọng chung tình kia dường như lại càng trở nên xa ngái, huyễn

hoặc bấy nhiêu. Do đó, tương tư là hiện tượng thường hay xảy ra đối với

những người yêu đơn phương, những kẻ “thất tình”, khi tình yêu chỉ nảy sinh

từ một phía mà không dễ gì có thể thổ lộ, nói ra với “đối tượng” của mình

được: “Biết cho ai, hỏi ai người biết cho!”. Khi đó, tâm trạng tương tư thường

có những biểu hiện tâm lí khá phức tạp, phong phú: nó không chỉ có nhớ

Page 68: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

thương mà còn đầy những ước ao xen lẫn cả những hờn giận, trách móc, thở

than… Tình yêu của chàng trai với cô gái làng bên trong bài thơ của Nguyễn

Bính trên đây cũng vậy, có lẽ nó cũng chỉ xuất phát từ một phía cho nên đã

thành một thứ “bệnh”, gặm nhấm tâm hồn chàng:

Gió mưa là bệnh của giời,

Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.

Các biểu hiện tâm lí, tình cảm của căn bệnh này cũng có thể coi là khá

“điển hình”, bởi tất cả các cung bậc trạng thái cảm xúc chính của nó hầu như

đều đã xuất hiện và được miêu tả đầy đủ. Và sự diễn biến, chuyển hoá một

cách tự nhiên, chân thực các trạng thái tâm hồn của tâm trạng tương tư đó

cũng chính là mạch phát triển cảm xúc, làm nên một cấu tứ rất giản dị, mạch

lạc của bài thơ. Đầu tiên là nỗi nhớ nhung nôn nao, thao thức trong lòng

người trai quê. rồi một chút băn khoăn mà cứ như dỗi hờn, muốn trách cứ

(một cách vô cớ) thật nhiều đối với người mình thương:

Hai thôn chung lại một làng,

Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?

Chàng trai cảm thấy sốt ruột vì thời gian thấm thoắt thoi đưa mà người

thương vẫn không thấy tới:

Ngày qua ngày lại qua ngày,

Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.

Nên chàng mới hờn trách mát mẻ về sự vô tình của nàng:

Bảo rằng cách trở đò giang

Không sang là chẳng đường sang đã đành.

Nhưng đây cách một đầu đình,

Có xa xôi mấy mà tình xa xôi…

Rồi than thở, bày tỏ:

Tương tư thức mấy đêm rồi

Page 69: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Biết cho ai, hỏi ai người biết cho!

Cuối cùng, như mọi kẻ đang yêu, người trai đang tương tư cũng hi

vọng, tin tưởng. Chàng nôn nao mơ tưởng:

Bao giờ bến mới gặp đò?

Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?

Thậm chí còn bóng gió xa xôi về một ước vọng chung tình với người

mình yêu:

Nhà em có một giàn giầu,

Nhà anh có một hàng cau liên phòng.

Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,

Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?

Như vậy, cấu trúc bài thơ cũng chính là cấu trúc của tâm trạng tương

tư. Thường thì trong tình yêu, người con trai ít khi trong thế thụ động ngồi

chờ. Nhưng đây là một tình yêu đơn phương. Người trai quê tương tư vì yêu

trộm, nhớ thầm cô gái làng bên nên đành phải rơi vào cái thế thụ động, chỉ

còn một cách thổ lộ, bày tỏ nỗi niềm bằng thơ. Do quá mong nhớ người mình

yêu và sự giày vò của nỗi nhớ mong ấy khiến người tương tư dễ tưởng mình

bị hờ hững nên sinh ra “hờn ngược trách xuôi” vô cớ. Tình huống trữ tình đó

đã khiến một trạng thái tâm hồn rất khó diễn tả là tâm trạng tương tư càng có

thêm điều kiện để giãi bày, thổ lộ một cách tự nhiên, dễ nhận được sự đồng

cảm, sẻ chia từ phía người nghe – đối tượng trữ tình của bài thơ.

Cảnh quê, lời quê, lối nói quê và cách diễn tả tâm trạng tinh tế của hồn quê Nguyễn Bính

Đây là nét đặc sắc riêng của thơ Nguyễn Bính nói chung. Nguyễn Bính

quê ở làng Thiện Vịnh, xã Cộng Hoà, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Cái miền

quê đồng chiêm trũng quanh năm trắng trời trắng nước ấy với những thôn

xóm, các xứ đồng, cánh diều bay, với những hoa cà, dây hoa lí, giàn trầu

không, con đò, bến nước và cả những tre pheo, bờ bụi, mưa giăng… đều đã

Page 70: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

đi vào thơ Nguyễn Bính, tạo nên một gương mặt riêng trên thi đàn hồi ấy:

“Nguyễn Bính chỉ thật riêng một góc trời ở những bài thơ đầu với một mảng

chân quê”. Từ cảm xúc đến ngôn từ, Tương tư chính là một tấm tình chân

quê tiêu biểu cho hồn thơ ấy. Toàn bài thơ là nỗi lòng tha thiết của người trai

quê đối với người thương, nhưng đồng thời các biểu hiện tâm trạng tương tư

ấy cũng gắn liền với một khoảng không gian quê, một ngôn ngữ và lối nói

quê. Những hình ảnh, sự vật chốn làng quê tự bao đời nay cứ theo dòng chảy

tâm trạng tương tư của người trai quê mà hiện ra một cách dung dị, tự nhiên

hình thành như các cặp đôi sinh động trước mắt người đọc: thôn Đoài – thôn

Đông, hai thôn – một làng, bên ấy – bên này, bên – đò, đò giang – đầu đình,

hoa khuê các – bướm giang hồ, giàn giầu – hàng cau liên phòng v.v…

Thường thì những tâm trạng trữ tình, đặc biệt là sự bày tỏ nỗi lòng tương tư

bao giờ cũng phải hướng tới một đối tượng trữ tình đã xác định, do đó những

hình ảnh, sự vật đậm chất thôn quê trong bài thơ vừa có chức năng tạo ra

một cái nền không gian quê kiểng vừa là phương tiện để chủ thể trữ tình kín

đáo bày tỏ mối tương tư của mình với một đối tượng trữ tình cụ thể: một cô

gái quê ở thôn bên trong làng. Mặt khác, những sự vật, hình ảnh của không

gian quê ấy cũng giúp cho tác giả dễ dàng sử dụng lối diễn tả tâm trạng, tình

cảm mang đậm chất dân gian trong toàn bài thơ. Trong cách diễn đạt tình

cảm của ca dao, dân ca, do bối cảnh giao tiếp và diễn xướng trực tiếp nên

nếu các biểu hiện tâm trạng trữ tình luôn được bộc bạch một cách hết sức cụ

thể, hồn nhiên thì chủ thể trữ tình và đối tượng trữ tình lại thường có tính chất

phiếm chỉ, không xác định:

Khăn thương nhớ ai

Khăn rơi xuống đất,

Khăn thương nhớ ai

Khăn vắt trên vai.

Đèn thương nhớ ai

Mà đèn không tắt,

Page 71: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Mắt thương nhớ ai

Mà mắt ngủ không yên…

Trong bài thơ của Nguyễn Bính cũng vậy, một chàng trai thôn Đoài

mong nhớ một cô gái thôn Đông, nhưng vì chỉ yêu đơn phương thôi nên anh

dùng lối nói ỡm ờ, vòng vo, bóng gió xa xôi của người nhà quê: “Thôn Đoài

ngồi nhớ thôn Đông – Một người chín nhớ mười mong một người…”. Một cái

làng có hai thôn: “Hai thôn chung lại một làng”, một ở bên phía đông – thôn

Đông, còn một ở phía tây – thôn Đoài. Những cách gọi tên địa danh dân đã

ấy khá phổ biến ở khắp mọi vùng quê đồng bằng Bắc Bộ nên chúng vừa cụ

thể lại cũng vừa không xác định. “Một người chín nhớ mười mong một

người”: hai chữ “một người” trong cùng một dòng thơ nhưng được dùng để

chỉ hai đối tượng, hai nhân vật khác nhau: chàng trai thôn Đoài, và cô gái thôn

Đông, điều ấy, những người trong cuộc hiểu rõ hơn ai hết nhưng khách quan

thì vẫn chưa có gì là cụ thể. Vì các nhân vật trữ tình trong bài thơ vẫn giữ

được cái vỏ ngoài có tính chất chung chung, không xác định như thế nên

chàng trai mới có thể thoải mái bộc bạch nỗi lòng “chín nhớ mười mong” của

mình: “Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”, có thể làm như hai người đã thân

mật, gần gụi từ lâu để mà hờn mát, trách yêu với người con gái trong lòng:

“Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?”, “Bảo rằng cách trở đò giang, Không

sang là chẳng đường sang đã đành. Nhưng đây cách một đầu đình…”, mạnh

dạn ngỏ ước muốn được chung tình: “Bao giờ bến mới gặp đò? Hoa khuê

các, bướm giang hồ gặp nhau”, thậm chí còn bóng gió xa xôi đề cập đến

chuyện trầu cau, cưới hỏi”: “Nhà anh có một giàn giầu, Nhà em có một hàng

cau liên phòng. Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông, Cau thôn Đoài nhớ giầu không

thôn nào?” v.v… Cách dùng những đại từ chỉ người “đây”, “đấy”, “bên ấy”,

“bên này” thay thế cho các nhân vật giao tiếp và cách nói trống chủ ngữ của

những câu thơ trên đây là một trong những đặc trưng nổi bật của lối nới vòng

vo, ỡm ờ, bóng gió xa xôi trong ca dao, dân ca truyền thống đã được Nguyễn

Bính vận dụng rất thành công, tạo cho bài thơ một giọng điệu, một dáng vẻ

riêng khá độc đáo.

Page 72: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Các biểu hiện tâm trạng tương tư trong bài thơ cũng được diễn tả một

cách tinh tế. Trước hết là sự chờ mong mòn mỏi của chủ thể trữ tình:

Ngày qua ngày lại qua ngày,

Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.

Tâm trạng sốt ruột vì chờ mong mòn mỏi ấy không tách rời những cảm

nhận tinh tế về sự thay đổi của không gian, thời gian. ”Ngày qua ngày lại qua

ngày” – Một câu thơ với những từ ngữ bình thường và lối nói tưởng như rất

giản dị nhưng lại có khả năng diễn tả khá độc đáo về cảm giác của con người

mang bệnh tương tư trước sự lặp đi lặp lại từng chuỗi ngày vô vị dài lê thê,

chậm chạp trong sự chờ mong khắc khoải. Một câu thơ mà chữ “ngày” được

nhắc tới ba lần, nhấn mạnh cảm xúc về khái niệm đơn vị thời gian như thể

được đếm từng ngày. Nhịp 2/ 2/ 2 của câu sáu trong thơ lục bát truyền thống

đã được ngắt thành nhịp 3/ 8: “Ngày qua ngày/ lại qua ngày” chia ý nghĩa câu

thơ thành hai vế với nội dung song trùng, ý của vế sau lặp lại vế trước và sự

nhấn mạnh chữ “lại” gợi tả nỗi chán ngán trong lòng kẻ đa tình tương tư trước

đòng thời gian vô tình, đơn điệu cứ chậm chạp trôi qua… Cảm giác về thời

gian nói trên còn được diễn tả một cách hết sức sinh động thông qua những

biến đổi màu sắc của những sự vật không gian trong câu tám: “Lá xanh

nhuộm đã thành cây lá vàng”. Thời gian hiện lên qua sự chuyển màu của cây

lá: lá màu xanh đã chuyển thành lá màu vàng. Cùng với chuỗi ngày chờ đợi

dài đằng đẵng chậm chạp qua đi, nhưng người thương vẫn chưa thấy tới, cho

dù chẳng có xa xôi cách trở gì. Chữ “nhuộm” là một động từ ngoại động,

khiến cho sự chuyển màu của cây lá dường như không phải là sự vận động,

phát triển nội tại của thực vật mà như thể là do sự tác động của thời gian và

tâm trạng con người thấm vào sắc màu của cây lá. Và nỗi lòng tương tư héo

hon, mòn mỏi của con người cũng đã nhuộm màu lá xanh thành ra màu héo

úa. Vậy là thời gian, không gian và tâm trạng của con người tương tư đã có

một mối quan hệ, mối tương giao thật là kì diệu. Tương tư mỏi mòn làm cho

thời gian kéo dài lê thê, chậm chạp hơn; tương tư cũng nhuộm màu cho cây

lá trở nên vàng vọt, úa héo hơn…

Page 73: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Sức sống của thơ Nguyễn Bính

Có lẽ không mấy người Việt Nam nào lại không in trong tâm trí mình

một vài câu thơ đây đó của Nguyễn Bính trong những bài thơ quen thuộc

như: Chân quê, Qua nhà, Người hàng xóm, Cô lái đò, Cô hái mơ, Tương tư…

Cái sức hút mãnh liệt ấy chính là ở chất thôn quê dân dã, hồn hậu vẫn còn in

đậm nét trong mỗi vần thơ của Nguyễn Bính: “Thơ Nguyễn Bính đã đánh thức

người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta”. Nhà văn Chu Văn kể lại: Tết năm ấy

(1965), cái máu giang hồ vặt lại nổi lên, Nguyễn Bính muốn tạo ra một mùa

xuân tha hương nữa, anh đến chơi vợ chồng nhà một người bạn yêu thơ ở xã

Nhân Nghĩa, huyện Lí Nhân, tỉnh Hà Nam, đã ngỏ ý mời từ lâu. Ngờ đâu, khi

ra thăm vườn cam, một luồng gió lạnh khiến Nguyễn Bính rùng mình… Anh

mất đúng ngày 30 Tết năm ấy, để lại một nỗi trống vắng và tiếc thương vô

hạn. “Một buổi chiều, tôi từ chợ Chủ, qua đò sông Châu, về cơ quan ở xã

Nhân Nghĩa. Vẫn con đò gỗ cũ kĩ, và vẫn cô lái đò năm ngoái – cô Thoa. Tôi

tưởng nên lịch sự, thông báo với cô cái tin về Bính.

– Cô Thoa ạ.

– Dạ!

Tiếng cô bé có vẻ xa vắng.

– Cô Thoa, bác Bính làm thơ, vẫn hằng ngày đi chợ nhờ đò cô đưa

sang ngang, bác ấy đã mất rồi, cô ạ.

Một tiếng nấc tắc nghẹn. Cô Thoa gục mặt lên mái chèo, tiếng lạc đi.

– Cháu biết! Giá chết thay được, thì cháu tự nguyện chết thay để bác

ấy sống, bác ấy làm thơ.

Tôi bàng hoàng…”

Vậy là Nguyễn Bính vẫn sống, bởi “những câu thơ Nguyễn Bính như

một dấu tích tâm hồn dân tộc sẽ còn nuôi lòng nhiều thế hệ bạn đọc”.

Page 74: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

10. TỪ NGỮ VÀ CÚ PHÁP TRONG CÁCH HIỂU Ý NGHĨA MỘT CÂU THƠ

Trên tạp chí Ngôn ngữ & đời sống số 23 (tháng 9/1997) có đăng bài

Thuở thiếu thời, từ văn học đến học văn của Lê Hoài Thao bàn về lời chú giải

trong sách giáo khoa Văn học lớp 8, tập 1 (sách chỉnh lí năm 1995) đối với tổ

hợp từ “thuở thiếu thời” trong bài thơ Nắng mới của Lưu Trọng Lư. Trước hết,

về mặt văn bản, căn cứ vào cuốn Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài

Chân (NXB Văn học, 1988) thì có hai điểm cần lưu ý: Một là, tác giả Nắng

mới dùng chữ “me” không có dấu nặng như trong bài viết của Lê Hoài Thao

và cũng không viết hoa như trong sách giáo khoa. Hai là, ở câu: “Tôi nhớ me

tôi, thuở thiếu thời” có dấu phẩy ngăn cách giữa câu thơ, nhưng sách giáo

khoa bỏ sót không in và Lê Hoài Thao đã tinh ý “thử thêm vào”. Bài thơ ấy

như sau:

NẮNG MỚI

Mỗi lần nắng mới hắt bên song,

Xao xác, gà trưa gáy não nùng,

Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng,

Chập chờn sống lại những ngày không.

Tôi nhớ me tôi, thuở thiếu thời

Lúc người còn sống, tôi lên mười;

Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội,

Áo đỏ người đưa trước giậu phơi.

Hình dáng me tôi chửa xoá mờ

Hãy còn mường tượng lúc vào ra:

Nét cười đen nhánh sau tay áo

Page 75: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Trong ánh trưa hè trước giậu thưa.

Tiếng thu, 1939 (Hoài Thanh – Hoài Chân.

Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, 1988).

Trong bài viết công phu của mình, Lê Hoài Thao đã tra cứu nhiều cuốn

từ điển đáng tin cậy và cũng nhận thấy rằng chú giải trong sách giáo khoa đối

với câu thơ đầu, khổ thơ thứ hai: “Thuở thiếu thời: thời còn ở tuổi thiếu niên”

(khoảng từ 10 – 14 tuổi) là đúng theo cách giải nghĩa của từ điển, phù hợp

với, “quan niệm và sự hiểu biết thông thường” về cụm từ này.

Tuy vậy, tác giả bài viết vẫn còn không ít băn khoăn, bởi lẽ nếu đứng

về mặt cú pháp của câu thơ, chú giải như sách giáo khoa rất dễ làm cho “các

em học sinh sẽ hiểu là người mẹ còn ở tuổi thiếu niên”, mà như thế, xét về

ngữ nghĩa sẽ không phù hợp. Cho nên, theo tác giả cần phải hiểu tổ hợp từ

“thuở thiếu thời” một cách khác đi: “Trong trường hợp này, ta đành chấp nhận

“thuở thiếu thời” là thời còn trẻ của người mẹ” như cách hiểu của Trần Trung

trên tạp chí Thế giới mới số 145, ra ngày 8/7/1995. Mặc dù, chính tác giả

cũng cảm thấy hiểu như thế vẫn còn cái gì đó chưa thật ổn: “Viết như vậy,

dùng như vậy theo như bạn Trần Trung lí giải, thì theo tôi, đấy là một trường

hợp đặc biệt, một trường hợp ngoại lệ duy nhất trung văn học hiện đại, chỉ có

Lưu Trọng Lư mới dùng và chỉ dùng có một lần vì nó rất khiên cưỡng”…

Vậy phải hiểu câu thơ trên như thế nào cho đúng? Theo chúng tôi,

vướng mắc chính không phải ở chỗ nên giải thích “thuở thiếu thời” là thời còn

ở tuổi thiếu niên hay thời tuổi còn trẻ mà chính là ở chỗ cần phải xác định

xem “thuở thiếu thời” là của ai: của người mẹ (đối tượng trữ tình) hay của

chính tác giả (chủ thể trữ tình) – Lưu Trọng Lư – trong bài thơ này?

Trở lại câu thơ trên, quả là với nghĩa thời còn ở tuổi thiếu niên, thì

đương nhiên tổ hợp từ “thuở thiếu thời” sẽ không phù hợp với người mẹ (còn

ở tuổi thiếu niên thì sao đã làm mẹ được?!). Nhưng nếu hiểu “thuở thiếu thời”

là thời tuổi còn trẻ, và câu thơ: “Tôi nhớ me tôi, thuở thiếu thời” nghĩa là: tôi

nhớ thời tuổi còn trẻ của mẹ toi, thì cũng vẫn không phù hợp với ngữ cảnh và

Page 76: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

nội dung cụ thể của bài thơ. Bởi trước hết, cách hiểu ấy đưa đến một tiền giả

định rằng người mẹ đã có thời tuổi già. Đó là một giả định sai, nó không phù

hợp với trường hợp của tác giả Lưu Trọng Lư trong đời thực (mẹ ông mất

sớm), mà chúng ta biết rằng: “Tiền giả định là những hiểu biết được xem là

bất tất phải bàn cãi (…) đã được các nhân vật giao tiếp mặc nhiên thừa nhận,

dựa vào chúng mà người nói tạo nên ý nghĩa tường minh trong phát ngôn của

mình”, nghĩa là tiền giả định phải có thật. Hơn nữa, xét về mặt tâm lí tình cảm,

khi hồi ức về người mẹ, trong một tình mẫu tử thiêng liêng, thường không

mấy khi có sự phân biệt rạch ròi về tuổi tác; vả lại, có ai trong tâm trí in đậm

thời tuổi trẻ của mẹ mà lại lãng quên hình ảnh của Người lúc chiều tà xế

bóng? Về cấu trúc và ngữ nghĩa của các câu thơ, nếu câu trên nghĩa là: tôi

nhớ thời tuổi còn trẻ của mẹ tôi thì câu dưới: “lúc người còn sống” dường như

là những chữ thừa không cần thiết phải có. Đặt trong chỉnh thể và cấu tứ toàn

vẹn của bài thơ: những kỉ niệm tươi sáng về người mẹ đã khuất gắn liền với

tuổi thơ êm đẹp của tác giả trong quá khứ, ta có thể thấy tổ hợp từ “thuở thiếu

thời” thuộc về nhân vật tôi, chủ thể trữ tình chứ không thể thuộc về người mẹ

– đối tượng trữ tình của tác phẩm. Câu thơ có nghĩa là: Tôi nhớ mẹ tôi, thuở

tôi thiếu thời. Cách hiểu ấy hoàn toàn phù hợp với giọng, lời của tác giả (Lưu

Trọng Lư), đồng thời, với câu thơ tiếp theo, câu dưới cụ thể hoá câu trên,

những hình ảnh của người mẹ được xác định bởi sự gắn liền với tuổi niên

thiếu của tác giả:

Tôi nhớ me tôi, thuở thiếu thời

Lúc người còn sống, tôi lên mười;

Câu trên là một câu thơ có cấu trúc cú pháp mờ, không hiển hiện đủ

các thành phần do lược bỏ chủ ngữ “tôi” trong tổ hợp từ “thuở thiếu thời”. Đây

cũng là một hiện tượng thường gặp, một nét đặc thù của ngôn ngữ thơ ca

“một thứ ngôn ngữ bộc lộ thế giới chủ quan thiên về ấn tượng, cảm xúc, cảm

giác. Những mạch biểu cảm thường đan chéo nhau, chiếm những cấp độ

thiếu quan hệ nội tại trên bề mặt cú pháp. Do vậy, cấu trúc cú pháp câu thơ

Page 77: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

thường khó phân tích theo nguyên tắc của ngữ pháp thông thường như trong

văn xuôi”…

Dẫu sao, Nắng mới vẫn là một kỉ niệm thời thơ ấu thật hồn hậu và xúc

động về mẹ. Nó đã khơi dậy được cái phần thẳm sâu tha thiết nhất trong tâm

hồn mỗi con người. Những cách hiểu đây đó đều là sự trăn trở của một tấm

lòng.

11. XIN GIỮ LẠI CHỮ “NỞ” CHO BÀI CA DAO ẤYTrên tạp chí Ngôn ngữ & đời sống, số 30 (4/1998) có đăng bài Hãy trả

lại một từ cho bài ca dao của Nguyễn Bảo. Theo tác giả thì trong bài ca dao

Trèo lên cây bưởi hái hoa được chọn giảng trong Chương trình Văn học lớp

10 phổ thông, chữ nở trong câu ca dao thứ ba: “Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc”

phải đổi lại thành nảy thì mới đúng. Lí do ở chỗ, từ nụ thì phải đi với xanh

biếc: chỉ có “nụ” thì mới “xanh biếc” chứ “nụ” đã nở thành hoa rồi thì còn

“xanh biếc” sao được nữa. Bài viết cũng đã phát hiện được cái tinh tế trong

tâm trạng và cảm nhận của chàng trai trước cảnh ngộ của cô gái: “Nội dung

bài ca dao ẩn chứa ở chỗ này: em như cái nụ tầm xuân, còn xanh biếc, mới

nhú ra ở đầu cành, nách lá, đã có người ngắt, bẻ, đem về làm của riêng. Sao

mà vội vàng, sớm sủa quá thế? Vậy không thể là nở được mà phải là… nảy”.

Tuy nhiên, theo chúng tôi thì văn bản của bài ca dao từ xưa tới nay vẫn

đúng. Mặc dù dị bản có nhiều nhưng cho đến nay trong “13 cuốn sách sưu

tầm ghi chép lời bài ca này” thì dị bản vẫn rơi vào những chữ khác chứ chữ

nở duy nhất trong bài ca vẫn được chép đúng. Điều ấy chắc phải có lí do từ

chính bản thân tác phẩm.

Bài ca là tiếng hát sầu hận, tiếc nuối và xót xa về một cảnh ngộ bất

hạnh, của đôi trai gái yêu nhau mà không lấy được nhau. Dưới hình thức đối

đáp giao duyên quen thuộc của ca dao dân ca, bốn câu đầu có thể coi là lời

của chàng trai còn sáu câu sau là lời đáp của cô gái. Lời chàng trai mở đầu

khúc hát được cất lên bằng thể hứng theo thi pháp quen thuộc của ca dao

Page 78: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

truyền thống “lấy cảnh ngụ tình”, nhưng thật ra cái tình cảnh và tâm trạng của

chàng trai đến muộn mới là yếu tố trung tâm, là tâm cảnh chi phối ngoại cảnh.

Từ lòng người đến thiên nhiên đều hiện rõ sự lỡ làng, trễ muộn: nụ đã nở

thành hoa, người yêu đã đi lấy chồng:

Trèo lên cây bưởi hái hoa

Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân

Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc

Em đã có chồng anh tiếc lắm thay!

Hoa chưa đến thì, hoa còn đang nụ mà đã phải nở rồi, cũng như em

chưa đến duyên đã phải lấy chồng, khiến chàng trai cảm thấy xót xa nuối tiếc!

Còn nếu nụ tầm xuân mới chỉ nảy ra xanh biếc thôi, thì có gì là đột ngột, bất

ngờ, đáng phải bận tâm? Hơn nữa, “nụ' tức là đã phải nảy ra rồi, không nảy

ra làm sao thành nụ? Nghệ sĩ dân gian chắc hẳn đã không quá “giản dị” đến

như thế!

Nhưng còn màu sắc của hoa tầm xuân sao lại trái với thực tế làm vậy?

Bởi vì ngôn ngữ thơ ca là loại “ngôn ngữ – tín hiệu thẩm mĩ” và “vật quy chiếu

của tín hiệu thẩm mĩ có thể là một cảm xúc”, một tâm trạng cụ thể của chủ thể

trữ tình; do vậy, người đọc không phải bao giờ cũng chỉ tiếp nhận nó theo

ngữ nghĩa và cú pháp thông thường. Cái màu sắc của hoa tầm xuân trong bài

ca dao có vẻ phi lí, bởi lẽ nụ tầm xuân nở ra phải chúm chím ửng hồng. Đằng

này:

Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc

Nhưng đó là cái phi lí hợp với lô gích tình cảm: đấy là màu của hoa nở

ép, hoa còn đương thì nụ, là màu của cảnh ngộ và nỗi lòng của con người,

một môtíp khá phổ biến trong thơ ca viết về những cuộc tình duyên éo le, trắc

trở:

– Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc tím

Em lấy chồng rồi trả yếm cho anh!

Page 79: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

- Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc xanh

Yếm em em mặc, yếm gì anh anh đòi!

(Ca dao)

Và “chính cái phi lí này lại nói lên điều hữu lí của tình yêu trong sự trớ

trêu của nó (…). Người nghệ sĩ dân gian đã sử dụng phạm trù “cái phi lí” để

đặc tả tâm trạng thông qua biểu tượng như vậy. Nhưng chính hình ảnh “Nụ

tầm xuân nở ra xanh biếc” ở đây phải chăng còn nói với ta điều này nữa: dù

em đã có chồng, lòng yêu em xưa kia ở trong anh vẫn còn nguyên vẹn (…).

Bông hoa kia dù có phải nở non, nở ép thì cái xanh nguyên, xanh biếc của nụ

hoa vẫn còn đọng mãi trong mắt người đã từng thương nhớ…”.

12. VỀ NHỮNG CÂU HỎI TRONG MỘT BÀI THƠ CỦA NGUYỄN DUY“Biết rồi vẫn hỏi. Thương là thế…”

(Bảo Định Giang)

HỎI THĂM ÁO TÍM

Vừa xa mà đã nghe lâu

Hỏi thăm áo tím qua cầu gió bay

Ớt Đông Ba có còn cay

Gạo de An Cựu dạo này còn thơm

Hỏi thăm hoa phượng bên đường

Sông Hương mấy độ mưa nguồn còn trong

Quán cơm Âm Phủ còn không

Cô gì hôm ấy có chồng hay chưa?

Tôi được đọc lần đầu bài thơ này trên cuốn Lịch thơ Nguyễn Duy năm

2000, tờ tháng Ba và tháng Tư. Nó gây sự chú ý vì toàn bài thơ có tám câu

thì trừ câu đầu tiên, còn bảy câu sau đó đều có hình thức của những câu hỏi,

Page 80: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

nhưng phần lớn trong số đó lại đều là các câu hỏi vẩn vơ, hỏi về những

chuyện không thể hỏi hoặc về những chuyện đã biết, những chuyện mà chắc

là muôn đời vẫn vậy. Tôi chắc khi Nguyễn Duy viết những câu hỏi ấy, anh

cũng chẳng băn khoăn thắc mắc gì đâu mà còn đinh ninh rằng “ớt Đông Ba”

vẫn ”còn cay” lắm, “gạo de An Cựu” vẫn thơm, “Sông Hương” vẫn “trong” như

xưa và “quán cơm Âm Phủ” vẫn còn nguyên đấy… Tức là người hỏi không

thực sự muốn biết thông tin về những điều mình đang hỏi. Duy chỉ có câu hỏi

cuối cùng có lẽ may ra mới đúng là cái chuyện người hỏi thực sự đang băn

khoăn muốn biết: “Cô gì hôm ấy có chồng hay chưa?”.

Trong ngữ pháp truyền thống thì câu hỏi cuối cùng trên đây được gọi là

câu hỏi chính danh hay là câu nghi vấn đích thực, dùng để nêu lên cái điều

mình còn chưa được biết hoặc còn hoài nghi và chờ đợi sự trả lời. Các câu

hỏi khác còn lại ở trong bài đều có thể được coi là dạng câu hỏi (hoặc câu

nghi vấn) tu từ học. Đó là cách dùng hình thức nghi vấn để nói về những điều

đã biết, hoặc về những điều không cần sự trả lời, chủ yếu nhằm thu hút sự

quan tâm của người cùng tham gia đối thoại. Ngữ dụng học gọi cách dùng

câu hỏi mà không yêu cầu, mong muốn một sự trả lời tương ứng là dạng

hành vi ở lời gián tiếp (hay phái sinh). Loại câu hỏi này được dùng trong

trường hợp khi người nói sử dụng hành vi ngôn ngữ này nhưng lại nhằm đạt

đến hiệu lực ở lời của một hành vi ngôn ngữ khác. Trong tiếng Việt, thường

thấy cách dùng câu hỏi để đạt đến hiệu quả của các hành vi ở lời gián tiếp

như chào, khẳng định, phủ định, xin, mời, ra lệnh, mong muốn… Trước

những câu hỏi như vậy, người hỏi không chờ đợi sự trả lời mà chờ đợi một

hành động chào lại, xác nhận, bác bỏ, đồng ý hoặc tuân theo… Còn người

được hỏi cũng không cảm thấy lạ trước những điều được nêu ra trong nội

dung câu hỏi, bởi anh ta đã sẵn sàng hướng tới hành động đáp ứng ý định

của người hỏi chứ không hướng tới sự trả lời như đối với các câu hỏi chính

danh thông thường.

Tuy nhiên, trong các tác phẩm văn học, nhất là trong tác phẩm thơ ca

thì sự phân biệt nói trên không phải bao giờ cũng có thể rành mạch. Chẳng

Page 81: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

hạn, trong bài thơ Hỏi thăm áo tím của Nguyễn Duy trên đây, nếu xét kĩ thì cả

cái câu hỏi cuối cùng trên đây hoá ra cũng chỉ là chuyện vẩn vơ nốt, bởi ngay

đến đối tượng của câu hỏi cũng là cái người tận đẩu tận đâu, chứ nào có

quen biết gì (cô gì hôm ấy), nên cái chuyện cháy lòng, cháy dạ kia (có chồng

hay chưa) thật ra cũng chỉ là chuyện vơ vào, là nỗi lòng vơ vẩn của một kẻ đa

tình. Bài thơ diễn tả một tâm trạng, một “giây phút chạnh lòng”: đôi khi, có

những cuộc gặp gỡ thoáng qua, nhưng “người đâu gặp gỡ làm chi” khiến ta

cứ bâng khuâng, thấy lâu, thấy nhớ: “Vừa xa mà đã nghe lâu”. Song cũng vì

chỉ là cái chuyện vu vơ tận đẩu tận đâu ấy nên cứ phải vòng vo mãi, hỏi thăm

bao nhiêu thứ không đâu rồi mới dám chạm đến cái điều cốt yếu, đáng quan

tâm nhất của lòng mình: “Cô gì hôm ấy có chồng hay chưa?”. Vậy thì câu hỏi

này là câu nghi vấn đích thực hay lại cũng chỉ là một biện pháp tu từ? Kể

cũng khó mà trả lời cho thật chính xác được…

Cảm ơn nhà thơ đã cho ta một bài thơ hay và một ví dụ sinh động về

sự hoạt động của ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương.

13. TÌNH HUỐNG, GIỌNG KỂ VÀ NHỮNG SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT ĐỘC ĐÁO TRONG TRUYỆN NGẮN “VI HÀNH”

Truyện ngắn Vi hành được đăng trên báo Nhân đạo, cơ quan ngôn luận

của Đảng Cộng sản Pháp, số ra ngày 19 tháng 2 năm 1923, đúng vào dịp

thực dân Pháp mở cuộc triển lãm thuộc địa Mác–xây, chuẩn bị cho công cuộc

khai thác thuộc địa lần thứ hai. Trong cuộc triển lãm lần này, để thu hút đầu

tư, thực dân Pháp ra sức tuyên truyền về tiềm năng và sự “an toàn” của các

xứ thuộc địa. Và để lừa gạt dân Pháp, chúng đưa tên vua bù nhìn Khải Định

sang dự đấu xảo như là sự đại diện cho các dân tộc thuộc địa đã chính thức

quỳ gối đầu hàng, thần phục chính quốc. Hướng vào đối tượng độc giả là

công chúng Pháp, tác phẩm nhằm đồng thời vào mấy cái đích: vừa vạch trần

âm mưu, thủ đoạn chính trị xảo trá của thực dân Pháp, vừa lật tẩy bộ mặt

phản dân hại nước của Khải Định trên đất Pháp. Tác giả muốn nói với họ

rằng, Khải Định chẳng qua cũng chỉ là một tên vua bù nhìn làm tay sai cho

Page 82: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

bọn cướp nước; bởi vì, trong lúc y và các quan thầy thực dân đang diễn trò ở

đây thì đám dân chúng của y vẫn nghèo xác xơ và đang rên xiết vì thực chất

họ chỉ được bọn thực dân “bảo hộ” và “khai hoá” bằng rượu cồn, thuốc phiện

cùng với roi vọt mà thôi…

Hoàn cảnh đánh địch ngay giữa thủ đô của nước Pháp, trước một công

chúng ưa những chuyện hài hước, dí dỏm thì ngoài việc viết bằng tiếng Pháp,

tác phẩm còn phải có những sáng tạo về nghệ thuật. Đầu tiên là sự sáng tạo

trong cách đặt tên truyện với hàm ý giễu cợt, châm biếm nhẹ nhàng nhưng

tác dụng đả kích thì thật sâu cay. Vi hành là một cụm từ gốc Hán dùng để chỉ

những cuộc đi cải trang kín đáo của các bậc vua chúa tiến bộ trong lịch sử,

mục đích nhằm thấy được hiện thực đời sống và dư luận của dân chúng để

từ đó điều chỉnh chính sách cai trị có lợi cho quốc kế, dân sinh. Ví như

chuyện vua Thuấn cải trang làm dân cày đi cày ruộng cùng với nông dân, vua

Pi–e đại đế giả làm công nhân vào lao động trong các công xưởng nước Anh

v.v… Nhưng ở đây, Nguyễn Ái Quốc đã dùng chữ “vi hành” với ý nghĩa hoàn

toàn ngược lại để gọi những cuộc đi lén lút chỉ nhằm thoả mãn lạc thú cá

nhân của Khải Định trong chuyến thăm Pháp. Tên truyện đã gây cho người

đọc tiếng cười châm biếm bởi sự liên tưởng tự nhiên giữa những ý nghĩa tốt

đẹp vốn có của từ này với những hành vi xấu xa, không xứng đáng mà cũng

được gọi là vi hành của Khải Định trên đất Pháp.

Độc đáo hơn là sự sáng tạo tình huống và lựa chọn giọng kể trong

truyện. Truyện ngắn mượn hình thức một bức thư của nhân vật “tôi” (tác giả)

gửi cho cô em họ kể về một tình huống nhầm lẫn lộn tùng phèo. Trên chuyến

xe điện ngầm ở thủ đô Pa–ri, đôi trai gái trẻ yêu nhau người Pháp tưởng tác

giả là Khải Định và họ đinh ninh rằng cái “anh vua” An Nam này không hiểu gì

về tiếng Pháp nên cứ thoải mái bàn tán: “Hắn đấy! Chính hắn đấy!”, “Em thì

em thấy hắn khác cơ”, “Chẳng phải vẫn cái mũi tẹt ấy, vẫn cái mắt xếch và

nước da bủng như vỏ chanh ấy à?” v.v… Trong thời gian đó, công chúng ở

khắp thủ đô Pa–ri cũng đều nhầm thế cả, họ tưởng những người da vàng mà

họ gặp trên đường phố, hay ở những nơi công cộng đều là vị hoàng đế của

Page 83: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

cái đất nước thuộc địa bản xứ xa lạ “đang đi chơi vi hành”. Đến nỗi ngay cả

Chính phủ Pháp cũng không thể nhận ra đâu là vị khách thật của mình nên,

để khỏi thất thố trong nghi lễ ngoại giao, Chính phủ bèn đối đãi với tất cả mọi

người An Nam trên đất Pháp “vào hàng vua chúa và phái tuỳ tùng đi hộ giá

tuốt!”. Thật ra thì đấy là bọn mật thám được phái đi theo dõi những người Việt

Nam yêu nước, song nó lại có vẻ rất hợp lô gích với cái sự nhầm lẫn bi hài

trên đây, nên tác giả vẫn có thể kể lại với cô em họ của mình một cách “xúc

động”: “Đó là những người phục vụ thầm kín, rụt rè, vô tư và hết sức tận tuỵ.

Các vị chẳng nề hà chút công sức nào để bảo vệ bọn tôi, và giá cô được

trông thấy các vị ân cần theo dõi tôi chẳng khác nào bà mẹ hiền rình đứa con

thơ chập chúng bước đi thứ nhất, thì hẳn cô phải phát ghen lên được về nỗi

niềm âu yếm của các vị đối với tôi”… Như vậy, nhờ mượn hình thức một bức

thư viết cho người thân và “bịa” ra tình huống nhầm lẫn, tác giả đã khéo léo

đặt nhân vật “tôi – người kể chuyện” vào một điểm nhìn hoàn toàn khách

quan, điểm nhìn của một người bỗng nhiên được tai nghe mắt thấy sự đánh

giá của công chúng Pháp đối vôi một ông vua An Nam trong chuyến công du

“mẫu quốc” rất đáng xấu hổ của y. Điểm nhìn đó cũng giúp tác giả dễ tạo ra

giọng kể đa thanh, phức điệu, đan xen giữa quan sát miêu tả và bình luận

bằng chất giọng hài hước, dí dỏm khá độc đáo, gây được sự chú ý và sức

thuyết phục đối với người đọc.

Thông qua những lời nhận xét, bình phẩm về Khải Định của đôi trai gái

người Pháp mà nhân vật “tôi – người chứng kiến” trực tiếp nghe được, hình

ảnh Khải Định vốn đã lố bịch lại càng thêm phần lố bịch và vốn đã thảm hại lại

càng thảm hại hơn. Lố hịch vì lối ăn mặc và bộ dạng của một ông vua phong

kiến vốn đã chẳng hợp chút nào với xã hội hiện đại trên đất Pa–ri hoa lệ thì

trong con mắt của người Pháp, hình dong dung mạo của ông ta lại càng trở

nên xấu xí, lố bịch, tức cười hơn: “mũi tẹt”, ”mắt xếch” và màu da vàng trở

nên “bủng như vỏ chanh”, thái độ thì “lén lút”, ăn mặc thì quỷnh, khoác lên

người “đủ cả lụa là gấm vóc, ngón tay đeo đầy những nhẫn”, lại có cả “cái

chụp đèn” chụp lên đầu, trông rất chướng (thực ra đó là cái vương miện của

nhà vua)?! Người Pháp cũng cảm thấy thật tức cười với sự lố bịch của “đám

Page 84: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

thê thiếp đông đúc” và “tụi các ông quan bà kiếc” đi theo tuỳ tòng Khải Định

diễu trên các đường phố… Còn thảm hại vì Khải Định chẳng qua cũng chỉ là

một ông vua bù nhìn, là kẻ nô lệ mất nước mà trong con mắt của người Pháp,

y lại càng trở nên thảm hại hơn, giống như một “con vật lạ”, chỉ đáng làm trò

giải trí rẻ tiền cho đám công chúng ở một xứ sở vốn ưa thích những chuyện

hài hước, trong khi cái kho giải trí ở đây thì đã cạn ráo như nhà băng Đông

Dương rồi! Vì thế nên đám công chúng Pháp ở thủ đô cứ nghĩ mình đã được

xem một trò hề mà không phải trả tiền: ”Thế em còn nhớ buổi dạ hội thuộc địa

ở nhà hát ca vũ đấy chứ? Phải trả những nghìn rưởi phrăng để xem vợ lẽ

nàng hầu vua Cao Miên, xem tụi làm trò leo trèo nhào lộn của sư thánh xứ

Công–gô; hôm nay chúng mình có mất tí tiền nào đâu mà được xem vua ngay

bên cạnh? Nghe nói ông bầu Nhà hát múa rối có định kí giao kèo thuê đấy…”.

Tất cả những lời nhận xét, bình phẩm ấy được đặt vào miệng hai thanh niên

người Pháp nên đã giữ được thái độ khách quan của người kể chuyện, do đó

cũng đồng thời làm tăng sức thuyết phục đối với người đọc. Bởi đây là công

chúng Pháp nhìn và đánh giá một ông vua An Nam rẻ mạt, thảm hại đến như

vậy chứ không phải là Nguyễn Ái Quốc cố tình bôi nhọ tên vua bù nhìn.

Những lời nhận xét, bình phẩm ấy nếu đặt vào miệng tác giả – một người Việt

Nam – thì sẽ không tránh khỏi là những lời thoá mạ, hằn học thiếu tự nhiên,

song đặt vào miệng người Pháp thì lại hết sức thoải mái, hợp lí; vì họ là

người Pháp…, hơn nữa, vua chúa đối với họ đã thành một thứ đồ cổ quá lỗi

thời rồi.

Việc thể hiện truyện ngắn này dưới dạng một bức thư gửi cho cô em họ

cũng có thể coi như một sáng tạo nghệ thuật. Bởi lối văn phóng túng, vốn

không bị ràng buộc vào bất kì một quy định chặt chẽ nào về văn phạm của thể

loại thư từ cho người thân cũng đã giúp cho tác giả có thể dễ dàng đổi từ

giọng thuật chuyện sang giọng châm biếm hay trữ tình thân thiết, có thể tự do

chuyển cảnh để cốt truyện biến hoá một cách linh hoạt. Trong khi kể chuyện,

nhà văn có thể thoải mái liên hệ, tạt ngang, sử dụng hồi ức, chuyển từ chuyện

nọ sang chuyện kia một cách khá thoải mái, tự nhiên. Chẳng hạn, đang kể

chuyện bị nhầm lẫn trên chuyến xe điện ngầm ở thủ đô Pa–ri, tác giả liên hệ

Page 85: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

tới chuyện vi hành của các bậc vua chúa tiến bộ ngày xưa ở bên Tàu, bên

Tây nhằm châm biếm những cuộc đi kín đáo rất đáng xấu hổ của Khải Định

trên đất Pháp: “Tàu đỗ, cặp trai gái bước xuống, mắt cứ liếc nhìn trộm tôi, và

tôi thì buồn cười quá, bỗng đâm ra nghĩ, và nghĩ đến cô Tôi như còn trông

thấy cái ngày mà cô với tôi, đôi chúng ta, như đôi chim ấy thôi, đậu vắt vẻo

trên đầu gối ông bác thân yêu, nghe bác kể chuyện cổ tích. Tôi nhớ chuyện

vua Thuấn (…). Lại nhớ chuyện vua Pi–e (…). Bên những bậc cải trang vĩ đại

ấy muốn đi sâu vào cuộc sống của nhân dân, ngày nay, còn có những ông

hoàng, ông chúa, để tiện việc riêng và vì những lí do không cao thượng bằng,

cũng vi hành đấy”. Rồi thoắt cái, lại chuyển sang châm biếm chính sách bảo

hộ và khai hoá dân thuộc địa bản xứ bằng rượu cồn và thuốc phiện: “Tôi

không được rõ ý đồ nhà “vi hành” của chúng ta ra sao. Phải chăng là ngài

muốn biết dân Pháp, dưới quyền ngự trị của bạn ngài là A–lếch–xăng đệ

nhất, có được sung sướng, có được uống nhiều rượu và được hút nhiều

thuốc phiện bằng dân Nam, dưới quyền ngự trị của ngài hay không? Phải

chăng ngài muốn (…) sau cuộc ngao du, đem về chút no ấm mà đám “dân”

bất hạnh của ngài tới nay hoàn toàn chẳng biết đến? Hay là, chán cảnh làm

một ông vua to, bây giờ ngài lại muốn nếm thử cuộc đời của các cậu công tử

bé?”. Hoặc vạch trần thủ đoạn ngầm theo dõi những người Việt Nam yêu

nước của bọn mật thám Pháp: “Có thể nói là các vị bám lấy đế giày tôi, dính

chặt với tôi như hình với bóng. Và thật tình là các vị cuống cuồng cả lên nếu

mất hút tôi chỉ trong năm phút! Cô thử nghĩ, làm sao mà không xúc động sâu

xa được, khi được đối đãi như thế?”. Tất cả những “tiện ích” ấy đều được thể

hiện bằng giọng điệu tâm tình của thư từ nên hiệu quả châm biếm lại càng

sâu cay. Tóm lại, lối viết thư được sử dụng sáng tạo cùng với ngòi bút biến

hoá linh hoạt, tài hoa đã khiến cho tác giả, trong khuôn khổ một truyện ngắn

rất ngắn, chỉ chừng hơn hai trang sách, đã cùng một lúc nói được nhiều

chuyện, châm biếm, đả kích được nhiều đối tượng, từ nhiều phía, bằng nhiều

giọng điệu khác nhau, tạo được sức hấp dẫn, lôi cuốn lớn đối với người đọc.

Có thể coi Vi hành là tác phẩm đánh địch rất trúng và rất hiểm, như một

mẫu mực về sự kết hợp nhuần nhuyễn, hài hoà giữa nghệ thuật và chính trị

Page 86: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

trong một tác phẩm văn chương. Truyện cũng rất tiêu biểu cho phong cách

nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh: ngắn gọn, hiện đại,

hiệu quả và hết sức sâu sắc, thâm thuý.

14. BÚT PHÁP CHÍNH LUẬN MẪU MỰC TRONG “TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP”

Tuyên ngôn độc lập được Chủ tịch Hồ Chí Minh tự tay soạn thảo và

tuyên đọc tại Lễ mừng Quốc khánh đầu tiên, ngày 2 tháng 9 năm 1945, tuyên

bố chấm dứt chế độ thực dân phong kiến ở nước ta và mở ra kỉ nguyên độc

lập, tự do của dân tộc, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Nội dung tư tưởng chính của bản Tuyên ngôn là nêu cao khát vọng độc

lập cháy bỏng của toàn dân tộc, khẳng định quyền độc lập chân chính, xứng

đáng của dân tộc ta, khẳng định ý chí sắt đá của toàn dân ta quyết tâm bảo

vệ vững chắc nền tự do độc lập ấy.

Tư tưởng chủ đề nói trên đã được làm nổi bật bằng một bút pháp chính

luận mẫu mực: hệ thống lí lẽ sắc bén, đanh thép; sự lập luận chặt chẽ; chứng

cứ xác thực, không thể bác bẻ được; văn phong ngắn gọn, súc tích, hùng

hồn, có sức thuyết phục mạnh mẽ đối với người đọc.

Phân tích Tuyên ngôn độc lập, điều cốt yếu nhất là phải nêu bật được

nghệ thuật lập luận thể hiện tư duy chính luận mạch lạc, chặt chẽ, nhãn quan

chính trị sắc bén và sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của dân tộc và

tình hình chính trị thế giới lúc đó đối với nền độc lập của nước nhà. Từ mạch

ngầm tư tưởng – nghệ thuật của tác phẩm, có thể thấy bố cục của bản Tuyên

ngôn bao gồm những luận điểm chính như sau:

Luận điểm 1: Cơ sở nền độc lập của Việt Nam là những quyền lợi cơ

bản của con người và quyền độc lập, tự quyết của các dân tộc.

Luận điểm 2: Nền độc lập của Việt Nam được khẳng định đồng thời

trên hai phương diện cơ bản nhất: phường diện đạo lí và phương diện pháp

lí.

Page 87: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Luận điểm 3: Chính nghĩa sáng ngời của Cách mạng tháng Tám, cuộc

đấu tranh giành độc lập của nhân dân Việt Nam.

Luận điểm 4: Tuyên ngôn về nền độc lập của Việt Nam.

Những quyền lợi cơ bản của con người: Nguyên lí tư tưởng, cơ sở nền độc lập của nhân dân Việt Nam

Với mọi văn bản chính luận, dù kiểu dạng có khác nhau đến mấy thì

phần mở đầu cũng đều thực hiện một chức năng chung, đó là nêu lên những

căn cứ làm nguyên lí tư tưởng, cơ sở cho sự lập luận – cơ sở cho vấn đề

được bàn luận đến trong tác phẩm. Lần giở lại những áng văn bất hủ của cha

ông, những bản tuyên ngôn về nền độc lập dân tộc trong suốt quá trình lịch

sử hào hùng bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước càng cho thấy tầm quan

trọng to lớn của những nguyên lí tư tưởng đã được đề cập. Với bài thơ Thần

thời Lí Thường Kiệt thì đó là vấn đề chủ quyền thiêng liêng đối với toàn bộ

non sông, toàn bộ bờ cõi, lãnh thổ của đất nước:

Sông núi nước Nam vua Nam ở

Rành rành định phận ở sách trời…

Đến Bình Ngô đại cáo, nguyên lí tư tưởng đó đã được mở rộng đến

trình độ rất sâu sắc và toàn diện; bởi vì cùng với chủ quyền lãnh thổ, Nguyễn

Trãi còn đề cập đến các vấn đề như nhân nghĩa (mà nhân nghĩa với Nguyễn

Trãi là yên dân, trừ bạo), văn hiến và lịch sử…

Trong phần mở đầu bản Tuyên ngôn về nền độc lập của dân tộc Việt

Nam, nguyên lí tư tưởng làm cơ sở cho sự lập luận được Chủ tịch Hồ Chí

Minh nêu lên trước hết là những quyền lợi cơ bản và thiêng liêng nhất của

con người. Bằng cách dẫn ra những lời văn bất hủ ghi trong bản Tuyên ngôn

độc lập của nước Mĩ năm 1776: Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình

đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong

những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh

phúc và trong bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng

Pháp năm 1791: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải

Page 88: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi, tác giả đã chỉ rõ những

quyền lợi cơ bản và thiêng liêng nhất của con người đó là quyền bất khả xâm

phạm và quyền bình đẳng, tự do trong việc mưu cầu sung sướng, hạnh phúc.

Điều quan trọng hơn là, từ quyền lợi của con người, Hồ Chủ tịch đã phát

triển, nâng lên thành quyền độc lập, tự quyết của các dân tộc. Đó là một sự

suy luận hết sức sáng tạo, nhạy bén và hoàn toàn hợp lí. Người viết tiếp: Suy

rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình

đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

Tác dụng lập luận và sức thuyết phục mạnh mẽ của những lời trích dẫn này

trước hết bởi đó là những chân lí của lịch sử, đã được cả thế giới thừa nhận.

Như chính tác giả cho thấy, đó là “những lời bất hủ”, là “những lẽ phải không

ai chối cãi được” và đã được ghi trong những văn kiện nổi tiếng của nhân

loại.

Nhưng ý nghĩa của hai lời dẫn mở đầu bản Tuyên ngôn không chỉ có

vậy. Đặt vào hoàn cảnh lịch sử đặc biệt thời điểm bản Tuyên ngôn ra đời,

những lời trích dẫn nói trên còn có tác dụng đập lại luận điệu xảo trá của bọn

đế quốc đang lăm le xâm lược nước ta lúc ấy, theo kiểu “gậy ông đập lưng

ông”. Như mọi người đều biết, cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 vừa

mới giành thắng lợi chưa được bao lâu thì dân tộc ta lại đứng trước hoạ ngoại

xâm. Theo hiệp ước của các nước thắng trận, dưới danh nghĩa là quân Đồng

minh vào tước khí giới của phát xít Nhật, ở phía Bắc nước ta, 20 vạn quân

Tưởng, theo sau là đế quốc Mĩ đã kéo vào Hải Phòng, còn ở miền Nam, núp

sau lưng quân Anh là quân đội viễn chinh Pháp. Tại Hội nghị Đảng toàn quốc

trong Tổng khởi nghĩa (ngày 15/ 8/ 1945), Hồ Chủ tịch đã nhận định: Mâu

thuẫn giữa Anh, Pháp, Mĩ với Liên Xô có thể làm cho Anh, Mĩ nhân nhượng

với Pháp để cho Pháp quay trở lại Đông Dương. Thực tế tình hình đã diễn ra

đúng như vậy và để chuẩn bị cho âm mưu xâm lược mới này, thực dân Pháp

tuyên bố: Đông Dương, trong đó có Việt Nam vốn là thuộc địa của Pháp

nhưng bị phát xít Nhật chiếm, nay Nhật đã đầu hàng Đồng minh nên Pháp có

quyền lấy lại Việt Nam. Ra đời trong hoàn cảnh ấy, bản Tuyên ngôn không chỉ

hướng tới quốc dân đồng bào mà còn hướng tới nhân dân thế giới, đặc biệt là

Page 89: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

hướng vào bọn đế quốc lúc đó nhằm bác bỏ luận điệu xâm lược xảo trá của

chúng. Mà bác bỏ luận điệu xâm lược của kẻ thù thì còn gì đích đáng và thú

vị hơn là dùng ngay lí lẽ của chính tổ tiên họ nói về quyền tự do bình đẳng

của mỗi con người và quyền độc lập tự quyết của các dân tộc!

Bác bỏ lí lẽ của kẻ xâm lược cũng đồng thời là nhằm khẳng định quyền

tự do, độc lập chính đáng của dân tộc ta. Việc trích dẫn những nguyên lí về

quyền bình đẳng của con người để làm cơ sở lập luận như vậy còn là một

cách nói vừa khéo léo vừa kiên quyết. Khéo léo vì nó thể hiện sự tôn trọng

chân lí, tôn trọng lẽ phải của dân tộc ta, cho dù chân lí và lẽ phải ấy do chính

người Mĩ hay người Pháp phát biểu. Kiên quyết vì đã nhắc nhở họ đừng phản

bội lại những lí tưởng cao cả của Cách mạng Dân tộc dân chủ, đừng làm vấy

bẩn lá cờ nhân đạo và chính nghĩa nếu họ vẫn quyết tâm xâm lược Việt Nam.

Việc mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam mà nhắc đến hai

bản tuyên ngôn nổi tiếng của hai cuộc cách mạng vĩ đại trong lịch sử nhân

loại như thế thì cũng có nghĩa là đặt ba bản tuyên ngôn ngang hàng nhau, ba

cuộc cách mạng và ba nền độc lập ngang hàng nhau. Mà đăng đối, bình

đẳng, ngang hàng nhau cũng phải bởi cuộc cách mạng tháng Tám của ta

cũng giải quyết chính những nhiệm vụ dân tộc dân chủ và nhân đạo của hai

cuộc cách mạng ấy, phù hợp với lí tưởng cao cả và chính nghĩa của loài

người. Một cách kín đáo hơn, việc đưa hai lời dẫn trong bản Tuyên ngôn độc

lập như vậy còn có tác dụng ngầm gợi lên niềm tự hào dân tộc theo cách của

tác giả Bình Ngô đại cáo khi xưa đã làm: đặt các triều đại của nước ta với các

triều đại của Bắc quốc trong hai vế cân xứng, ngang hàng, đăng đối nhau khi

mở đầu bài Cáo.

Khẳng định nền độc lập của Việt Nam trên cả phương diện: pháp lí và đạo lí

Vì kẻ thù trực tiếp, nguy hiểm nhất đang đe doạ nền độc lập non trẻ mà

dân tộc ta vừa mới giành được là thực dân Pháp nên cần phải tập trung chĩa

mũi nhọn vào chúng. Sau khi trích dẫn những nguyên lí làm cơ sở cho sự lập

luận, bản Tuyên ngôn tiếp tục xoáy vào việc bác bỏ luận điệu xâm lược của

Page 90: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

thực dân Pháp. Trong luận điệu đó, thực dân Pháp đã viện dẫn những căn cứ

pháp lí (Việt Nam là thuộc địa của Pháp - mà cơ sở pháp lí của nó là các Hiệp

ước cắt đất đầu hàng do triều đình nhà Nguyễn đã kí với chính phủ Pháp) và

cả căn cứ đạo lí (Pháp có công khai hoá, bảo hộ Việt Nam – nghĩa là về đạo lí

và nhân tình, nhân dân ta phải mang ơn chúng!?…) cho sự quay trở lại Đông

Dương của chúng. Nhưng bằng những lí lẽ sắc sảo, chặt chẽ, bằng những

dẫn chứng thực tế hùng hồn, đầy sức thuyết phục, tác giả bản Tuyên ngôn đã

chứng minh cho cả thế giới biết rằng, thực tế lịch sử cho thấy, thực dân Pháp

không hề có quan hệ đạo lí – nhân tình hay quan hệ pháp lí nào đối với nhân

dân Việt Nam. Không có quan hệ đạo lí, nhân tình bởi chúng là kẻ xâm lược

phi nghĩa. Trong suốt hơn 80 năm qua, dưới chiêu bài “bảo hộ” và “khai hoá”

nhưng thực chất chúng đã đến cướp nước ta, áp bức đồng bào ta, nô dịch

dân ta bằng một chính sách đô hộ trái đạo lí và dã man nhất. Chúng thủ tiêu

quyền tự do dân chủ của nhân dân ta, chia nước ta thành ba miền Bắc,

Trung, Nam để dễ bề cai trị. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể

máu. Chúng thi hành chính sách ngu dân, đầu độc nòi giống ta bằng rượu và

thuốc phiện. Chúng vơ vét, bóc lột dân ta đến tận xương tuỷ khiến cho hơn

hai triệu đồng bào miền Bắc bị chết đói. Đoạn văn vạch tội ác của giặc Pháp

lời lẽ rào rào, ràn rạt, có thể sánh với đoạn kể tội ác của bọn xâm lược

Nguyên – Mông trong áng “thiên cổ hùng văn” của Nguyễn Trãi khi xưa, khiến

cho âm mưu kể công của thực dân Pháp bị lật tẩy, không còn ai có thể tin vào

cái trò bảo hộ, khai hoá giả hiệu của chúng nữa. Không còn quan hệ pháp lí vì

từ năm 1940, Pháp đã hai lần dâng nước ta cho phát xít Nhật (bằng các văn

bản pháp lí mà Pháp đã kí để đầu hàng phát xít Nhật), cho nên, cả về văn bản

pháp lí lẫn trên thực tế, Việt Nam đã không còn là thuộc địa của Pháp nữa và

dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp. Đó

là những sự thật lịch sử đầy sức thuyết phục; hơn nữa, đấy lại là những sự

thật về chính nghĩa của nhân dân ta nên nó có sức mạnh, một sức mạnh còn

cao hơn cả mọi thuật hùng biện. Vì thế, trong bản Tuyên ngôn, Hồ Chủ tịch

luôn nhắc đi nhắc lại hai chữ “sự thật”, “sự thật là”… và cuối cùng là một sự

thật hùng hồn nhất: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự

Page 91: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

thật đã thành một nước tự do, độc lập. Trên cơ sở những chứng cứ và lí lẽ

đó, bản Tuyên ngôn đi đến lời tuyên bố thật dõng dạc, đường hoàng: Bởi thế

cho nên, chúng tôi, Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho

toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát li hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xoá bỏ

hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước Việt Nam, xoá bỏ tất cả mọi đặc

quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam. Lô gích lập luận và dẫn dắt đến

được kết luận như thế quả thật là vô cùng chặt chẽ, sắc bén; đồng thời cũng

hết sức hợp lí và sáng tạo trong bối cảnh tình hình chính trị nhạy cảm của thế

giới và Đông Dương lúc đó. Đương nhiên, lập luận và tuyên bố được như thế

cũng hoàn toàn không phải là chuyện dễ dàng, nếu không dựa trên những

chứng cứ lịch sử xác thực, được dư luận và công pháp quốc tế thừa nhận.

Nêu cao chính nghĩa sáng ngời của Cách mạng tháng Tám – cuộc đấu tranh chống phát xít giành độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam

Đồng thời với việc bác bỏ lí lẽ của kẻ thù và khẳng định quyền tự do,

độc lập chính đáng của dân tộc ta, bản Tuyên ngôn còn nêu rõ chính nghĩa

sáng ngời của cuộc Cách mạng tháng Tám và vị trí tiên phong của nhân dân

Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, giải phóng dân

tộc. Vẫn bằng những lí lẽ sắc sảo, chặt chẽ và súc tích, những dẫn chứng

thực tế xác thực, hùng hồn, Hồ Chủ tịch vạch rõ, kể từ khi phát xít Nhật nhảy

vào Đông Dương, trong khi thực dân Pháp là kẻ phản bội Đồng minh, đầu

hàng phát xít Nhật thì nhân dân Việt Nam đã luôn dũng cảm đứng về phía

Đồng minh chống phát xít và cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 chính là

cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc có chính nghĩa ngời sáng. Nhân dân ta đã

giành được độc lập từ chính trong sự nghiệp đấu tranh anh dũng đó: Trước

ngày 9 tháng 3, biết bao lần Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để

chống Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng, lại thẳng tay khủng bố

Việt Minh hơn nữa… Vậy là, giữa Việt Nam và thực dân Pháp, ai có chính

nghĩa, ai trung thành với Đồng minh chống phát xít, ai phản bội lại Đồng minh

tưởng đã quá rõ. Từ đó, bản Tuyên ngôn có thể đi đến sự khẳng định đầy tính

thuyết phục về quyền làm chủ chân chính của nhân dân Việt Nam đối với toàn

Page 92: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

bộ non sông đất nước của mình, khẳng định vị trí xứng đáng của dân tộc Việt

Nam trên trường quốc tế, làm cho bọn đế quốc phải cứng họng. Bởi lẽ, các

nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các

hội nghị Tê–hê–răng và Cựu Kim Sơn quyết không thể không công nhận

quyền độc lập của dân Việt Nam. Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của

Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh

chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải

được độc lập! Đó cũng đồng thời vừa là cơ sở pháp lí vừa là chính nghĩa

sáng ngời về nền độc lập của việt Nam trong cuộc Cách mạng tháng Tám

năm 1945 mà chính bọn đế quốc cũng phải thừa nhận. Do vậy mà sau này,

khi muốn treo một chiêu bài hòng xâm lược nước ta, chúng đành chỉ còn một

cách là già mồm vu khống chứ không thể tìm ra được một luận cứ ra trò, dù

chỉ là hình thức.

Tuyên ngôn về nền độc lập của Việt Nam

Nội dung của lời tuyên ngôn là tuyên bố về nền độc lập của Việt Nam

và nêu rõ ý chí sắt đá của toàn thể nhân dân Việt Nam quyết tâm bảo vệ, gìn

giữ nền độc lập mới giành được: Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ Lâm

thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, trịnh trọng tuyên bố với thế giới

rằng: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập (…). Toàn thể dân tộc

Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để

giữ vững quyền tự do, độc lập ấy. Với cách diễn đạt rõ ràng, đanh thép, lời

tuyên ngôn đã thâu tóm được tinh thần, tư tưởng và khát vọng độc lập cháy

bỏng của nhân dân ta thể hiện trong toàn bộ tác phẩm.

Tuyên ngôn độc lập quả là một tác phẩm không những có giá trị lịch sử

vô cùng to lớn mà còn có thể coi là một áng thiên cổ hùng văn trong nền văn

học nước nhà. Nét độc đáo và hấp dẫn của bản Tuyên ngôn không chỉ ở hệ

thống lập luận chặt chẽ, sắc sảo, ở những lí lẽ đanh thép và những chứng cớ

xác thực, hùng hồn, không ai bác bẻ được mà còn ở chỗ, đằng sau nó là tầm

tư tưởng vĩ đại của một trí tuệ lớn và một nhân cách văn hoá lớn có thể đúc

kết một cách ngắn gọn mà sâu sắc, khúc chiết về chân lí và kinh nghiệm đấu

Page 93: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

tranh của nhân loại bao nhiêu thế kỉ đối với nền độc lập tự do của nước nhà

trong cuộc Cách mạng tháng Tám…

15. BÀN THÊM VỀ BẢN DỊCH VÀ MỘT SỐ TỪ NGỮ CHƯA THỐNG NHẤT CÁCH HIỂU TRONG BÀI THƠ “GIẢI ĐI SỚM” CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

Giải đi sớm (Tảo giải) là chùm thơ gồm hai bài đứng chung một đầu đề

(bài số 42 và 43), lấy đề tài trực tiếp từ chuyện chuyển lao của Bác. Bài I tả

cảnh chuyển lao từ lúc còn trong đêm khuya, Bài II tả cảnh chuyển lao đã ở

vào lúc bình minh lên. Nhưng giữa hai bài có sự liên hệ bên trong rất chặt

chẽ, tạo thành một tứ thơ trọn vẹn. Chính vì thế cũng có thể coi đó như hai

khổ của một bài thơ hoàn chỉnh.

GIẢI ĐI SỚM

(Tảo giải)

Phiên âm:

I

Nhất thứ kê đề dạ vị lan,

Quần tinh ủng nguyệt thướng thu san;

Chinh nhân dĩ tại chính đồ thượng,

Nghênh diện thu phong trận trận hàn.

II

Đông phương bạch sắc dĩ thành hồng,

U ám tàn dư tảo nhất không;

Noãn khí bao la toàn vũ trụ,

Hành nhân thi hứng hốt gia nồng.

Dịch nghĩa:

I

Page 94: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Gà gáy lần thứ nhất, đêm chưa tàn,

Chòm sao nâng vầng trăng lên đỉnh núi mùa thu;

Người đi xa đã cất bước trên đường xa,

Gió thu táp mặt từng cơn, từng cơn lạnh lẽo.

II

Phương đông màu trắng chuyển thành hồng,

Bóng đêm còn rơi rớt đã sớm sạch hết;

Hơi ấm bao la khắp vũ trụ,

Người đi thi hứng bỗng thêm nồng.

Dịch thơ:

I

Gà gáy một lần đêm chửa tan,

Chòm sao nâng nguyệt vượt lên ngàn;

Người đi cất bước trên đường thẳm,

Rát mặt, đêm thu, trận gió hàn.

II

Phương đông màu trắng chuyển sang hồng,

Bóng tối đêm tàn, sớm sạch không;

Hơi ấm bao la trùm vũ trụ,

Người đi, thi hứng bỗng thêm nồng.

Nam Trân dịch (SGK Văn học 12, NXB GD, 2001)

Bài thơ được chọn giảng trong chương trình lớp 12 Trung học phổ

thông nên đã quen thuộc với nhiều người. Cho đến nay, về cơ bản cách hiểu

đã khá thống nhất. Mặc dầu vậy, vẫn còn nhiều từ ngữ, chi tiết chưa được

khai thác đúng mức, chưa được hiểu một cách sát đúng với tinh thần nguyên

Page 95: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

tác, hoặc vẫn còn là điểm gây tranh luận kép dài. Xem ra, bài thơ vẫn còn

dành cho người đọc những ẩn số bất ngờ, thú vị.

Ở đây chúng tôi xin góp thêm đôi điều cảm nhận được rút ra từ quá

trình suy ngẫm và giảng dạy đã nhiều năm đối với một số từ ngữ trong bài thơ

trên của Bác. Đây là những từ ngữ mà bản dịch cũng như cách hiểu phổ biến

hiện còn khác nhau khá xa. Trước hết, ở câu thứ 3, khổ I: “Chinh nhân dĩ tại

chinh đồ thượng” (Người đi cất bước trên đường thẳm) là câu thơ có những

chữ còn tồn tại nhiều cách hiểu thiếu thống nhất hơn cả. Các chữ “dĩ tại” mà

dịch là “cất bước” thì dễ đưa đến cách hiểu là Bác bị giải đi vào lúc gà mới

gáy lần thứ nhất. Hiểu như thế rõ ràng là chưa thật sát đúng với ý thơ trong

nguyên tác. “Dĩ tại” là đã đang ở tại, cũng có nghĩa là Bác Hồ đã bị giải đi từ

lúc trời còn rất sớm, khi gà chưa gáy lần nào và lúc gà gáy lần thứ nhất thì

Bác đã đang ở trên đường rồi. Vì đang ở trên đường nên tai mới nghe thấy

gà gáy lần thứ nhất, mắt mới nhìn thấy trăng sao hiện lên trên đỉnh núi mùa

thu. Như vậy, câu thơ trong nguyên tác một mặt làm rõ thêm hoàn cảnh và

thời điểm Bác Hồ bị giải đi từ lúc trời hãy còn rất sớm được gợi ra ở hai câu

thơ đầu. Hai chữ “chinh nhân” và “chinh đồ” cũng chưa thể làm người đọc yên

lòng vì tinh thần của lời dịch còn rất xa với tinh thần nguyên tác. “Chinh nhân”

mà dịch là “người đi” vừa không sát nghĩa vừa “đánh đồng chinh nhân ở khổ I

với hành nhân ở khổ II, đồng thời làm mất đi sự chuyển biến từ chinh nhân ở

khổ I đến hành nhân ở khổ II”. “Chinh đồ” mà dịch là “đường thẳm” cũng vậy,

vừa không chính xác lại vừa làm cho câu thơ đuối hẳn, mất đi cái khí vị hào

hứng lãng mạn vốn có của câu thơ. “Chinh nhân” có thể hiểu là người đi

chinh chiến, người ra trận hoặc là người đi đường trường, con người trường

chinh dạn dày sương gió. Còn “chinh đồ” nghĩa là con đường xa, con đường

trường chinh xa xôi, dài dặc: Ngữ nghĩa của “chinh nhân” và “chinh đồ” phối

hợp với cách điệp âm của hai chữ chinh trong cùng một dòng thơ đã tạo cho

câu thơ có âm hưởng trầm hùng và khí vị hào hứng, lãng mạn rất đặc biệt. Có

lẽ vì thế mà nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Đăng Mạnh cũng cho rằng “lẽ

ra, câu thơ cần phải dịch là: Người đi xa đã đang ở trên đường xa”. Nó gợi ra

hình ảnh một khách chinh phu, một con người đang dấn bước trên con

Page 96: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

đường trường chinh phong trần, dầu dãi và đầy hào hứng chứ không phải chỉ

là một người đi đường bình thường, lại càng không phải là một tù nhân đang

bị áp giải trên đường.

Ở câu thơ thứ tư: “Nghênh diện thu phong trận trận hàn” (Rát mặt đêm

thu trận gió hàn) có chữ “nghênh diện”, theo nhà nghiên cứu Nguyễn Cảnh

Phức “đã làm cho nhiều độc giả Việt Nam khó hiểu hoặc hiểu nhầm trong gần

40 năm nay”. Chữ này từng được hiểu là: Mặt ngẩng đón từng trận gió thu

lạnh thổi tới, thể hiện tư thế hiên ngang làm chủ thiên nhiên, bất chấp giá rét

của Hồ Chí Minh. Cách hiểu phổ biến một thời ấy đã bị phê phán nhiều bởi nó

trái với lẽ thường là “một người bình thường khi gặp gió rét, theo phản xạ tự

nhiên cũng biết cúi xuống tránh rét…”. Câu thơ có thể được hiểu một cách

hiện thực, trực tiếp, phù hợp với hệ thống của toàn bài, phù hợp với tư thế,

hành động của chủ thể ở các câu thơ trước đó: “Muốn nhìn trăng sao, đỉnh

núi mùa thu thì mặt phải ngẩng lên. Như vậy “nghênh diện” là ngẩng mặt (…).

Nhưng ngẩng mặt không phải là hiên ngang bất chấp với giá rét, thiên nhiên”.

Chữ “nghênh diện” cũng có một cách hiểu khác nữa. Theo ông Nguyễn Cảnh

Phức thì “đối với người Trung Quốc, từ nghênh diện là một từ phổ biến, thông

thường. Từ điển Quốc ngữ của Trung Quốc giải nghĩa nghênh diện là đối diện

(…) và câu thơ “nghênh diện thu phong trận trận hàn” có lẽ nên dịch là Trước

mặt gió thu rét thổi tràn thì hơn”. Như vậy, dầu thế nào đi nữa thì tư thế ung

dung chủ động trước mọi nghịch cảnh của chủ thể trữ tình cũng chủ yếu

được gợi ra từ âm hưởng, hào khí và phong vị của chinh nhân lên đường thể

hiện trong cả khổ I bài thơ chứ nhất quyết không nằm ở bản thân ngữ nghĩa

của hai chữ “nghênh diện” nói trên. Cảnh đi đầy ở khổ I được miêu tả giống

như những cảnh đi sớm đường trường thường gặp trong Đường thi. Nếu tạm

quên đi cái nhan đề Giải đi sớm thì rõ ràng đây là một hành khúc lên đường.

Chúng tôi cho rằng, bản dịch hiện nay đối với khổ I là chưa thật tốt,

mặc dầu chúng tôi vẫn biết rằng, đòi hỏi một bản dịch hoàn toàn tương

đương với nguyên tác là một điều không tưởng. Còn ở bản dịch khổ II thì đã

bỏ qua những chữ khá quan trọng. Cả khổ thơ truyền đạt một sự chuyển vận,

Page 97: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

thay đổi hết sức mau lẹ cả về thời gian lẫn không gian, tạo ra một ấn tượng

bừng sáng đột ngột rất đặc biệt. Các chữ “chuyển”, chữ “quét”, chữ “trùm” của

bản dịch chưa lột tả được ấn tượng bừng sáng đột ngột đó trong nguyên tác.

Ở câu 1: “Phương đông màu trắng chuyển sang hồng”, các chữ “chuyển

sang” diễn tả một hiện tượng, một quá trình đang diễn ra và có thể quan sát

được. Còn trong nguyên tác sử dụng chữ “dĩ thành” (bạch sắc dĩ thành hồng)

nghĩa là: màu trắng đã thành màu hồng, cũng tức là quá trình chuyển sang

kia đã diễn ra từ trước, khi người đi đường để ý đến thì đã thấy tất cả thành

màu hồng rồi, không còn thấy màu trắng đâu nữa. Ở câu 2: “U ám tàn dư tảo

nhất không”, trước đây bản dịch đã bỏ mất chữ tảo có nghĩa là sớm và thay

bằng chữ quét (Bóng tối đêm tàn quét sạch không). “Quét sạch” là một cụm

động từ chỉ quá trình, cũng giống như “chuyển sang” ở câu 1 vậy. Dĩ nhiên,

chỗ này cũng có lí do riêng. Nguyên là trong các bản in Nhật kí trong tù kể từ

năm 1960, những nhà soạn sách đã cố ý thay chữ tảo có nghĩa là sớm của

Bác thành chữ tảo đồng âm có nghĩa là quét (có lẽ là để cho có khí thế hơn

chăng?!). Mãi đến năm 1995, trong cuốn Suy nghĩ mới về Nhật ký trong tù,

“chữ “tảo” có nghĩa là sớm của Bác mới được trả về đúng với vị trí như trong

nguyên tác của nó”. Theo chúng tôi, chữ “tảo” (sớm) này phải được coi là

nhãn tự. Câu thơ cho thấy tâm trạng bất ngờ khi Bác bỗng nhận ra mọi u ám,

tàn dư của đêm tối đã nhất loạt sạch không tự lúc nào, chắc là từ lúc còn rất

sớm mà người đi đường chẳng hề hay biết. Còn ở câu thứ ba phải dịch là:

“Noãn khí bao la toàn vũ trụ “bởi chữ “toàn” có nghĩa là tất cả, là toàn bộ, từ

trên chí dưới, từ trong ra ngoài, khác hẳn với chữ “trùm” là bao phủ, bao trùm

từ trên xuống. Một chữ (toàn) cho thấy tất cả vũ trụ, hơi ấm đã hoàn toàn thay

thế lạnh lẽo, còn chữ kia (trùm) lại diễn tả sự thay thế ấy đang diễn ra. Thật là

khác nhau nhiều lắm!

Và có lẽ, trước khung cảnh đất trời đang chuyển vận mau lẹ cùng với

ấn tượng bừng sáng đột ngột đã khiến cho thi hứng của “hành nhân” bỗng trở

nên nồng nàn: “Người đi thi hứng bỗng thêm nồng”.

Page 98: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Nhân đây, chúng tôi cũng xin đề xuất một cách dịch mới cho bài thơ

Tảo giải của Bác như sau:

GIẢI ĐI SỚM

(Tảo giải)

I

Gà gáy một lần đêm chửa tan

Chòm sao nâng nguyệt vượt lên ngàn

Chinh nhân dấn bước đường chinh chiến

Trước mặt gió thú rét thổi tràng.

II

Phương đông màu trắng đã thành hồng

Bóng tối đêm tàn sớm sạch không

Hơi ấm bao la toàn vũ trụ

Người đi thi hứng bỗng thêm nồng.

Đúng như nhà nghiên cứu văn học Trần Đình Sử đã nhận xét, đại ý:

Bài thơ nhan đề là Giải đi sớm mà toàn bài hầu như chỉ thấy nới tới thiên

nhiên, cảm hứng lên đường và cảm hứng bình minh lên mà bỏ qua cái

chuyện bị áp giải tù đày hiện thực. Sự tương phản giữa thực tế khổ ải và tự

do nội tâm một lần nữa khẳng định tâm hồn mạnh mẽ, phóng khoáng, tư thế

ung dung chủ động trước mọi nghịch cảnh của nhà thơ Hồ Chí Minh, người

luôn nhìn đời từ phía tươi sáng, lạc quan.

16. GIỌNG KỂ, NGHỆ THUẬT DỰNG CHÂN DUNG NHÂN VẬT VÀ Ý NGHĨA “VẤN ĐỀ ĐÔI MẮT” TRONG TRUYỆN NGẮN CÙNG TÊN CỦA NAM CAO

Đôi mắt là một truyện ngắn xuất sắc của Nam Cao sau Cách mạng

tháng Tám. Truyện được viết đầu năm 1948, một thời điểm mà vấn đề “nhận

Page 99: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

đường” đang đặt ra khá gay gắt cho giới trí thức, văn nghệ sĩ hồi đó. “Nhận

đường” là một khái niệm hết sức quan trọng cần phải được làm rõ khi cảm

thụ, phân tích tác phẩm. Đó là vấn đề nhận thức và lựa chọn con đường đúng

đắn của người nghệ sĩ trí thức trước thực tiễn sự nghiệp kháng chiến cứu

nước của dân tộc; mà muốn nhận chân con đường đó, trước hết cần phải có

cách nhìn đúng về quần chúng cách mạng, phải có thái độ đúng trước cuộc

sống. Như thế, việc chọn nhan đề Đôi mắt (lúc đầu, nhà văn định lấy lời của

nhân vật ở cuối truyện để đặt tên cho tác phẩm là Tiên sư thằng Tào Tháo)

cũng không phải là việc ngẫu nhiên mà chính là một dụng ý nghệ thuật, có sự

chọn lựa, cân nhắc kĩ bởi tên truyện cũng góp phần bộc lộ tư tưởng chủ đề

tác phẩm.

Tất cả những điều trên đây khiến cho tác phẩm có dáng dấp của một

thể loại tiểu thuyết luận đề. Cốt truyện cũng khá đơn giản, chỉ xoay quanh một

buổi thăm viếng, trò chuyện giữa hai người bạn văn chương: Độ đến thăm

Hoàng, một bạn văn từ thời tiền khởi nghĩa tại một vùng quê sơ tán với ý định

vận động Hoàng tham gia phong trào văn hoá kháng chiến. Tuy được vợ

chồng bạn đón tiếp nhiệt tình nhưng qua một buổi trò chuyện, Độ thấy Hoàng

vẫn giữ cách nhìn người, nhìn đời lạc hậu, cũ kĩ nên anh đành bỏ ý định ban

đầu của mình. Câu chuyện nhỏ nhưng mang chủ đề lớn. Mượn biểu tượng

đôi mắt để nói lên cách nhìn nhận về cuộc đời, mà cụ thể ở đây là cách nhìn

nhận về con người kháng chiến và cuộc kháng chiến của dân tộc, xét cho

cùng, “vấn đề đôi mắt” cũng chính là vấn đề cách nhìn, vấn đề quan điểm lập

trường và thái độ của người nghệ sĩ khi cầm bút.

Bên cạnh thế đối lập, tương phản giữa hai nhân vật – đôi mắt – là Độ

và Hoàng, nét độc đáo trong nghệ thuật dựng chân dung nhân vật của truyện

ngắn này chính là giọng kể: việc nhà văn nhập thân vào nhân vật, mượn

giọng kể của Độ, dưới cái vai “tôi - người chứng kiến đã đem đến cho ngôn

ngữ tác phẩm một cấu trúc đa thanh, đa giọng với những thế mạnh riêng,

buộc nhân vật phải tự bộc lộ đến tận cùng con người bên trong của mình.

Nhờ vậy, nhân vật hiện lên hết sức sinh động, chân thực chứ không hề chỉ là

Page 100: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

cái loa phát ngôn cho những vấn đề tư tưởng mà nhà văn định thể hiện. Tính

ưu trội trong giọng kể của Độ còn nằm ở các điều kiện sử dụng ý nghĩa tiền

giả định ngữ dụng của đại từ xưng hô “tôi”: tôi vốn là bạn thân cũ của Hoàng,

đã quen thuộc cả từ giọng nói cho đến nết ăn, ở, sở thích, cá tính của anh; vì

thế, những gì tôi kể về Hoàng là hoàn toàn có thể tin cậy được; gặp lại anh,

chỉ tôi mới có thể dễ dàng cảm nhận chính xác được về con người thật của

Hoàng bây giờ thế nào sau mấy năm xa cách…

“Vào vai” một người bạn thân quen với Hoàng từ trước như thế cũng

giúp cho Nam Cao có thể sử dụng lối miêu tả nhân vật theo kiểu đối chiếu,

bằng cách kết hợp sự quan sát, miêu tả trực tiếp đan xen với những hồi

tưởng của Độ về Hoàng. Ngay từ lúc mở đầu truyện, theo lời chỉ dẫn của một

anh thanh niên làng, đứng trước ngôi nhà trọ nơi Hoàng tản cư, Độ đã thật sự

ngạc nhiên khi nghe nói anh vẫn nuôi một con chó béc–giê to và dữ; bởi vì,

điều đó gợi cho Độ nhớ ngay đến con chó lai giống Đức của Hoàng hồi anh

còn làm chủ bút một toà báo ở Hà Nội, trước Cách mạng tháng Tám: “Tôi mở

to đôi mắt, khẽ reo lên một tiếng thú vị. Tôi nhớ những lần đến chơi nhà anh

Hoàng ở Hà Nội. Bấm chuông xong, bao giờ tôi cũng phải chờ anh Hoàng

thân hành ra nắm chặt cái vòng da ở cổ một con chó tây to bằng con bê, dúi

đầu nó vào gầm cái cầu thang rồi tôi mới có đủ can đảm bước vội qua đằng

sau cái đuôi nó để vào phòng khách. (…) Thế mà bây giờ đến thăm anh

Hoàng ở chỗ gia đình anh tản cư về, cách Hà Nội hàng trăm cây số, tôi lại

được nghe đến một con chó dữ. Thật là thú vị!… “. Trên cái trục thời gian đối

chiếu giữa hiện tại với quá khứ như vậy, từ dáng điệu, cử chỉ, ngôn ngữ cho

đến những tính cách, thói quen sinh hoạt của Hoàng cứ lần lượt được hiện ra

theo dòng hồi tưởng và những quan sát, cảm nhận trực tiếp của Độ. Hoàng

có dáng dấp của người no đủ, nhàn hạ và phong lưu. Cái ngoại hình ấy được

Nam Cao diễn tả bằng những câu văn đặc sắc, có pha chút hài hước nhưng

vẫn giàu sức tạo hình: “Anh Hoàng đi ra. Anh vẫn bước khệnh khạng, thong

thả bởi vì người khí to béo quá, vừa bước vừa bơi cánh tay kềnh kệnh ra hai

bên, những khối thịt ở bên dưới nách kềnh ra, trông tủn ngủn như ngắn

quá…”. Có nghĩa là Hoàng vẫn chẳng khác gì ngày trước, mà hình như bây

Page 101: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

giời nhàn hạ, anh lại càng có điều kiện chăm chút, tỉa tót cho bản thân mình

nhiều hơn; bởi vì, Độ đã kịp nhận thấy trên ria mép của Hoàng có thêm “một

cái vành móng ngựa ria, như một cái bàn chải nhỏ”. Cả đến hành động, Cử

chỉ, ngôn ngữ, giọng điệu của Hoàng cũng vẫn hệt như xưa. Gặp Độ quá bất

ngờ, Hoàng rất mừng nhưng vẫn giữ thái độ kẻ cả, có phần trịch thượng của

một văn sĩ đàn anh như trước đây: “Anh đứng lại bên trong cổng, một bàn tay

múp míp hơi chìa về phía tôi, đầu hơi ngửa về đằng sau, miệng hé mở, bộ

điệu một người ngạc nhiên hay mừng rỡ quá. (…) Sững người ra một lúc rồi

anh mới lâm li kêu lên những tiếng ở trong cổ họng”. Rồi những tính cách

khác người, khác giới của Hoàng cũng thế. Ngày trước, anh là một nhà văn

nhưng đồng thời cũng là một tay chợ đen tài tình thì bây giờ, mặc dầu phải đi

chạy tản cư nhưng anh vẫn lo cho mình được một ngôi nhà khang trang,

tươm tất, vẫn giữ những nếp sinh hoạt rất cầu kì: chè đậm, thuốc thơm, ăn

mía ướp hoa bưởi, nằm màn tuyn trắng toát và thảnh thơi đọc truyện “Tam

quốc” mỗi buổi tối. Hoàng lại còn có cái tính hay đố kị, chơi với bạn rồi bỗng

nhiên quay ra đá bạn đột ngột nếu thấy bạn có cái gì đó nổi trội hơn mình.

Bây giờ, cái nhân cách đó của anh cũng vẫn chẳng hề thay đổi, thấy các nhà

văn viết bài ca ngợi kháng chiến là anh nổi đoá lên, có lẽ chỉ vì bây giờ anh

chẳng thể viết nổi một chữ nào cả v.v… Nhờ sự liên tưởng giữa hiện tại với

quá khứ, Nam Cao đã làm hiển hiện thật sống động trước mắt người đọc

chân dung về một văn sĩ Hoàng không hề thay đổi giữa ngày xưa với bây giờ:

trước báo nhiêu biến cố lớn lao cả thời cuộc, nhưng anh ta vẫn “chưa chịu

đổi, chưa chịu lột xác”, vẫn “hoàn toàn là con người cũ”, hay vẫn cứ y hệt như

cũ trong một hoàn cảnh đã hoàn toàn khác cũ…

Trong cách nhìn người (nhất là nhìn người nông dân) và cách nhìn đời

(cụ thể là sự nghiệp kháng chiến cứu nước của dân tộc), Nam Cao cho ta

thấy Hoàng là con người chỉ nhìn thấy được một phía của sự thật, tức là rất

phiến diện, lệch lạc, một chiều chứ không phải là kẻ cố ý nói sai sự thật hay

cố tình bôi nhọ, vu cáo người nông dân. Điều đáng tiếc là, ở cái phía sự thật

mà Hoàng nhìn thấy lại chỉ toàn là những gì còn non kém, bất cập, còn ấu trĩ,

lạc hậu của người nông dân chứ không phải tinh thần hăng hái, dũng cảm,

Page 102: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

nhiệt tình cách mạng và “sức mạnh quần chúng” nơi họ. Tai hại hơn, Hoàng

lại là một nhà văn, một nhà văn đàn anh trong văn giới nên cái nhìn của anh

ta khá sắc sảo và tinh tế. Có điều, chỉ sắc sảo, tinh tế ở một phía thôi, cho

nên sự lệch lạc, phiến diện của Hoàng lại càng thêm nổi bật. Bằng con mắt

nghệ sĩ sắc sảo của mình, Hoàng có thể phát hiện rất nhanh các chi tiết thể

hiện cái phần chưa được hoàn thiện hay những tật xấu của người nông dân,

biết diễn tả thật sống động những điều mình thấy và biết làm nổi bật những

suy nghĩ, nhận xét của mình bằng những câu chuyện ý vị, sắc sảo và rất có

ấn tượng. Hãy nghe Hoàng kể chuyện một anh vốn bán cháo lòng ở đầu phố,

nơi anh ở, sau Cách mạng thành công, ra làm Chủ tịch phường: “Bán cháo

lòng thì nó biết đánh tiết canh, chứ biết làm uỷ ban thế nào mà bắt nó làm uỷ

ban? Ông Chủ tịch làng này, xem giấy của nhà tôi, thấy đề Nguyễn Thục

Hiền, cứ nhất định bảo là giấy mượn của đàn ông. Theo ông ấy thì đàn bà ai

cũng cứ phải thị này thị nọ”. Từ anh bán cháo lòng ra làm Chủ tịch phường

mà liên hệ đến cách làm việc theo cái kiểu “đánh tiết canh” của ông nông dân

làm Chủ tịch Uỷ ban nơi anh đang sơ tán một cách tự nhiên, sinh động như

thế thì quả người bình thường ít có ai làm được… Do đó, trong câu chuyện,

nhiều lúc thậm chí Độ còn phụ hoạ với Hoàng về những hiện tượng tương tự

của người nông dân như nói ngọng, nhút nhát, nhịn nhục một cách đáng

thương v.v… Những điều trên đây khiến cho tính tư tưởng của các nhân vật

trong Đôi mắt càng thêm sâu sắc. Hoàng đúng là hiện thân sinh động cho

mẫu trí thức cũ kĩ, lạc hậu lúc đó với lối sống kiêu ngạo, ích kỉ, xa rời quần

chúng, xa rời thực tiễn cuộc sống kháng chiến của dân tộc. Bằng con mắt

phiến diện, lệch lạc, vốn “đã quen nhìn đời, nhìn người từ một phía thôi”,

Hoàng đã quan sát, tìm hiểu rất kĩ đối tượng nhưng chỉ từ một phía; và cái tài

biết kể chuyện rất sinh động, hài hước của một văn sĩ có tài như anh cũng chỉ

dùng để hài hước, châm chọc hay lố bịch hoá những gì mà mình không ưa.

Cho nên, những kẻ như anh chỉ nhìn thấy được cái phía tiêu cực, cái non

kém bề ngoài mà không thể nào thấy được cái “nguyên cớ thật đẹp đẽ ở bên

trong” là nhiệt tình cách mạng và “sức mạnh làm nên lịch sử” của những con

người kháng chiến.

Page 103: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Đôi mắt được coi là tuyên ngôn nghệ thuật khẳng định tư tưởng và lập

trường cách mạng, khẳng định cái nhìn tích cực của văn nghệ sĩ kháng chiến

về vai trò của quần chúng nhân dân và về sự nghiệp kháng chiến cứu nước vĩ

đại của dân tộc. Khái niệm “vấn đề đôi mắt” cũng còn cần phải được đánh giá

ở những khía cạnh ý nghĩa sâu sắc hơn, bởi tác phẩm là một dấu mốc quan

trọng thể hiện bước chuyển biến mạnh mẽ có tính chất đột biến của Nam Cao

trong vấn đề sống và viết, cụ thể là vấn đề cách nhìn đối với quần chúng nhân

dân và cảm hứng nghệ thuật. Không phải đợi đến Đôi mắt, vấn đề cách nhìn

đối với người dân quê thực chất đã từng được Nam Cao đặt ra ngay trong

những tác phẩm viết về họ từ hồi trước Cách mạng tháng Tám với những Dì

Hảo, Chí Phèo, Lão Hạc, Nước mắt… Trong những tác phẩm đó, Nam Cao

đã chỉ ra rằng, để hiểu được cái tình cảnh đáng thương của người nông dân,

để thấy được cái bản tính tốt thường bị che lấp đi bởi những nỗi buồn đau,

ích kỉ của cuộc đời họ, thì cần phải có lòng thương yêu và sự cảm thông. Câu

nói của F. Copée được lấy làm lời đề từ cho truyện ngắn Nước mắt đã thể

hiện rõ tư tưởng đó của Nam Cao: “Người ta chỉ xấu xa, hư hỏng trước đôi

mắt ráo hoảnh của phường ích kỉ. Và nước mắt là một miếng kính biến hình

vũ trụ…”. Nước mắt ấy chính là biểu hiện của tình yêu và sự cảm thông. Ý đó

cũng đã từng được ông phát biểu một cách trực tiếp trong truyện ngắn Lão

Hạc: “Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu

họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi…, toàn những

cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thấy họ là những người đáng

thương, không bao giờ ta thương (…) Cái bản tính tốt của người ta bị những

nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất”. Nhưng nếu như trước Cách mạng,

Nam Cao mới chỉ thấy cần phải có lòng thương và sự cảm thông để có thể

cảm nhận được bản tính lương thiện của những người nông dân, thì nay, sau

Cách mạng tháng Tám năm 1945 và trong cuộc kháng chiến cứu nước, Nam

Cao đã có một sự giác ngộ mới về họ. Ông thật sự ngạc nhiên trước bản chất

khoẻ khoắn, tinh thần cách mạng hăng hái và sức mạnh tiềm tàng có thể làm

nên lịch sử của họ. Và theo Nam Cao, muốn nhìn thấy được điều đó thì cần

phải biết hoà nhập, sống cùng với họ, tứ là tham gia tích cực vào sự nghiệp

Page 104: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

kháng chiến của dân tộc mà chính họ là lực lượng nòng cốt, càng không thể

giữ thái độ miệt thị, bàng quan, đứng ngoài cuộc rồi ra sức chửi đổng như

hạng văn sĩ Hoàng. Bằng cái nhìn sâu sắc về quần chúng và kháng chiến như

vậy, Đôi mắt cũng đặt ra và giải đáp dứt khoát, rõ ràng vấn đề tập trường tư

tưởng và cảm hứng sáng tác của người nghệ sĩ lúc ấy trước cuộc kháng

chiến và sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Đó là, văn nghệ sĩ yêu nước phải

thay đổi cách nhìn cũ kĩ, không còn phù hợp với thời cuộc, phải đứng hẳn về

phía kháng chiến, sát cánh cùng nhân dân, ra sức phục vụ cuộc kháng chiến.

17. NGÔN NGỮ, BỐ CỤC VÀ NHỮNG CUNG BẬC NỖI NHỚ TRONG “TÂY TIẾN” CỦA QUANG DŨNG

Tây Tiến – bài thơ viết về nỗi nhớ đơn vị cũ của một người lính Tây Tiến

Tây Tiến là nhan đề bài thơ nhưng trước hết là phiên hiệu của một

Trung đoàn Vệ quốc quân (Trung đoàn 52), được thành lập hồi đầu năm 1947

trong kháng chiến chống Pháp. Thành phần chủ yếu của đơn vị là những

thanh niên trí thức Hà Nội mà Quang Dũng, tác giả bài thơ, một Đại đội

trưởng của Trung đoàn, cũng là một trong số đó. Những con người rất giàu

chất lãng mạn, tài hoa ấy đầu quân trong không khí hăm hở đầy khí thế của

những ngày đầu kháng chiến, trong tâm hồn còn náo nức bao hình ảnh thanh

gươm yên ngựa, tráng sĩ xông pha trận mạc, gửi thây nơi sa trường… mà họ

đã được tiếp thu từ trong trang sách khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Địa

bàn hoạt động của đơn vị là vùng rừng núi rộng lớn và rất hiểm trở suốt miền

Tây Bắc Tổ quốc cho đến tận miền thượng Lào xa xôi. Quang Dũng viết bài

thơ vào tháng 5 năm 1948, khi anh mới xa đơn vị một thời gian. Bài thơ lúc

đầu có tựa đề Nhớ Tây Tiến, nhưng sau chữ “nhớ” được bỏ đi, có lẽ vì cảm

hứng bao trùm, xuyên suốt toàn bài thơ chính là nỗi nhớ về một thời Tây Tiến

gian khổ, hào hùng…

Thể hiện nỗi nhớ trong lòng người xa Tây Tiến, bài thơ tự nó chia làm

bốn đoạn (ba đoạn chính và một đoạn kết). Đó là một bố cục tự nhiên, tuân

Page 105: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

theo dòng mạch cảm xúc gắn liền với những hồi ức và kỉ niệm sâu sắc trong

lòng người chiến sĩ về Trung đoàn Tây Tiến năm xưa:

Đoạn 1: Nhớ những kỉ niệm Tây Tiến dọc đường hành quân qua miền

núi rừng mênh mông, hiểm trở Tây Bắc (14 câu đầu).

Đoạn 2: Nhớ những kỉ niệm lãng mạn nhất trong cuộc đời hành quân

chiến đấu của người chiến sĩ Tây Tiến (8 câu tiếp).

Đoạn 3: Nhớ kỉ niệm về những người lính Tây Tiến, đồng đội thân yêu

của nhà thơ (8 câu tiếp theo).

Đoạn 4: Khẳng định lại nỗi nhớ Tây Tiến (4 câu cuối).

Nỗi nhớ “chơi vơi” da diết về một miền đất dữ dội, mênh mang

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi

Hai câu thơ mở đầu như một tiếng gọi tha thiết tự nhiên được thốt ra tự

trong lòng người chiến sĩ. “Nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ chập chờn, đứt nối nhưng

day dứt khôn nguôi. Cách diễn đạt hơi lạ nhưng hoàn toàn hợp lí, tự nhiên,

bởi vì “Tây Tiến” với “Sông Mã” và “rừng núi” tuy là ba đối tượng khác hẳn

nhau, nhưng trong thực tế lại có liên quan mật thiết với nhau; đặc biệt là trong

tâm thức của một người lính Tây Tiến thì dường như chúng đã hoà vào nhau

làm một, nên xa Sông Mã cũng tức là xa Tây Tiến, nhớ Tây Tiến mà rừng núi

cứ ùa về… Tất cả đã trở thành một nỗi nhớ chung trong lòng người xa đơn vị.

Nỗi nhớ ấy đưa cảm xúc của nhà thơ trôi về miền hoài niệm chiến trường xưa

với hình ảnh của núi rừng trong sương giăng và đoàn quân trập trùng, ẩn

hiện:

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi.

Hai câu thơ tạo được không khí rất đặc biệt, vừa thiêng liêng huyền bí

lại vừa khơi gợi một khí vị lãng mạn. Các địa danh Sài Khao, Mường Lát gợi

cảm giác về một vùng đất còn xa ngái, hoang sơ. Nhưng cách diễn đạt độc

Page 106: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

đáo của Quang Dũng còn tạo được một âm hưởng lạ, một khí vị rất khó tả:

“sương lấp đoàn quân mỏi”, “hoa về trong đêm hơi”. Nhiều ý kiến đều cho

rằng, nếu bỏ đi các chữ “mỏi”, “hơi” để trở về cách diễn đạt thông thường

“sương lấp đoàn quân” và “hoa (trôi) về trong đêm” thì câu thơ chỉ còn lại sự

tả thực trần trụi, không còn đâu cái nét lãng mạn và gợi cảm của núi rừng Tây

Bắc qua hình ảnh những gương mặt của đoàn quân dãi dầu, phong trần mỏi

mệt ẩn hiện trong màn sương giăng và thấp thoáng những cánh hoa trôi về

trong đêm hơi. Theo những nẻo đường in dấu chân hành quân của người lính

Tây Tiến, thiên nhiên Tây Bắc dữ dội, hiểm trở nhưng cũng rất mênh mang,

tình tứ:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây, súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Đoạn thơ sử dụng nhiều từ ngữ, hình ảnh diễn tả địa hình cheo leo,

quanh co, hiểm trở với độ chính xác đến trần trụi: dốc, cồn, khúc khuỷu, thăm

thẳm, ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống…, xen lẫn với giọng điệu hóm

hỉnh, tinh nghịch của lính: “súng ngửi trời”. Đặc biệt, cách lặp lại hai lần các

chữ “dốc” và “ngàn thước” trong cùng một dòng thơ đã tạo được cảm giác về

sự trùng điệp, hiểm trở: đã “dốc” lại thêm “dốc”, đã “ngàn thước lên cao” rồi lại

“ngàn thước xuống”…, khiến cho khung cảnh thiên nhiên dữ dội của miền Tây

Bắc hiện lên rất sinh động, cụ thể, gây ấn tượng mạnh cho người đọc. Nghệ

thuật tương phản cũng được sử dụng khá thành công ở đoạn thơ này. Có khi

tương phản ở trong một dòng thơ: Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,

với dấu phẩy ngắt nhịp ở giữa, khiến câu thơ bị bẻ đôi, diễn tả rất đạt sự

chênh vênh, cheo leo của đèo và dốc giữa lưng chừng núi. Sự tương phản

còn được tạo ra trong một đoạn thơ: sau ba câu thơ diễn tả sự hiểm trở,

chênh vênh, heo hút của những dốc núi, đèo mây, câu thơ thứ tư gồm toàn

thanh bằng mở ra một không gian mênh mang, huyền ảo của núi rừng:”Nhà ai

Pha Luông mưa xa khơi”. Có thể hình dung cảnh những người lính Tây Tiến

Page 107: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

hành quân nơi lừng chừng núi, tạm dừng chân và phóng tầm mắt ra xa, chợt

nhận thấy những ngôi nhà ai đó thấp thoáng, chơi vơi, bồng bềnh ẩn hiện

trong một không gian mênh mang, mịt mùng sương rừng, mưa núi. Qua nét

vẽ tài hoa của Quang Dũng, thiên nhiên Tây Bắc trong kí ức của người chiến

sĩ không chỉ có sự dữ dội, khắc nghiệt mà còn có cả những nét duyên dáng,

mộng mơ, đằm thắm. Sau ba câu thơ với những nét vẽ gân guốc, đậm và sắc

thì câu thơ toàn thanh bằng này giống như một nét vẽ mềm mại, làm dịu mát

cả khổ thơ. Đây chính là nét đặc sắc riêng của Tây Tiến, bởi nó không đưa trí

tưởng tượng của người đọc về một vùng đất dữ “ma thiêng nước độc” mà chỉ

gợi những xúc cảm lãng mạn, hùng tráng về bước trường chinh đầy thử

thách của dân tộc trong kháng chiến.

Cảm quan lãng mạn cũng in dấu trong kí ức của Quang Dũng hình ảnh

đẹp đẽ về những chặng đường hành quân của người chiến sĩ Tây Tiến:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục bên súng mũ bỏ quên đời

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Sau này, tác giả kể lại, chính những tháng ngày hành quân gian khổ

bằng đôi chân, những chuyến mở rừng, ngủ rừng, thực sự nếm trải “mùi Tây

Tiến” đã khiến những kỉ niệm mà Quang Dũng hồi tưởng trong bài thơ là hoàn

toàn thực tế, không hề tô vẽ: “Những cái dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây,

súng ngửi trời, những chiều oai linh thác gầm thét, những đêm Mường Hịch

cọp trêu người; rồi rải rác dọc biên cương những nấm mồ viễn xứ… tôi mô tả

trong bài thơ Tây Tiến là rất thực, có pha chút âm hưởng Nhớ rừng của Thế

Lữ, nhưng mà vô tình, sau này tôi mới nhận ra…”.

Đoạn thơ kết thúc đột ngột bằng một kỉ niệm ấm tình quân dân:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi!

Page 108: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Hai tiếng: “nhớ ôi” được thốt ra như một tiếng lòng không thể kìm nén.

Bởi sự lắng đọng sâu nhất vẫn là những kỉ niệm tình người ấm áp, tình quân

dân đằm thắm qua những bản làng đọc đường hành quân. Sau bao nhiêu

gian khổ băng rừng, vượt núi, lội suối, trèo đèo, người chiến sĩ được dừng

chân ở bản Mai Châu, trong mùa nếp mới, cùng quây quần bên nồi xôi bốc

khói thơm lừng với các cô gái xinh đẹp như những bông hoa rừng khiến bao

nhiêu vất vả, mệt nhọc đều tan biến hết. Câu thơ tạo cảm giác dịu ngọt, ngây

ngất, lâng lâng lan toả khép lại một đoạn thơ, nhưng cũng vì thế mà càng

khắc khoải thêm nỗi nhớ.

Có một đêm “hội đuốc hoa” thời kháng chiến

Ấy là cái đêm liên hoan lửa trại của bộ đội tại một bản làng miền Tây

Bắc, nơi tạm đóng quân của Trung đoàn Tây Tiến dọc đường hành quân. Đây

cũng là nội trong những kỉ niệm lãng mạn sâu đậm nhất trong cuộc đời hành

quân chiến đấu của người chiến sĩ Tây Tiến được Quang Dũng ghi lại trong

bài thơ. Trong hồi ức của người xa Tây Tiến, cái đêm liên hoan lửa trại của

đơn vị có đồng bào địa phương đến chung vui ấy hiện về như một điểm sáng

lung linh, kì ảo:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ.

Nhiều người phân tích chất lãng mạn tài hoa của Quang Dũng chỉ chú ý

đến chi tiết cụ thể, như hình ảnh e ấp và man điệu của cô gái vùng cao mà

không thấy cái ấn tượng sâu đậm trong kí ức nhà thơ là khung cảnh, không

khí chung của đàn liên hoan. Cái ấn tượng sâu đậm ấy thật đáng lưu ý vì

trong sự hồi tưởng của mình, Quang Dũng đã gọi cái đêm liên hoan lửa trại

đáng nhớ của đơn vị bằng một cái tên rất lãng mạn là đêm “hội đuốc hoa”.

“Đuốc hoa” vốn bắt nguồn từ chữ “hoa chúc” của tiếng Hán, chỉ cái đuốc, cái

đèn thắp trong phòng cưới lộng lẫy của đôi trai gái đêm hợp cẩn. Theo tác giả

Page 109: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Trịnh Mạnh, Từ điển văn liệu của Long Điền Nguyễn Văn Minh giải thích:

“Ngày xưa, lúc cưới, trong phòng cô dâu đốt đuốc cho thật sáng nên thường

dùng hai tiếng đuốc hoa nói hôm rước dâu hay việc cưới”. Trong Truyện Kiều

của Nguyễn Du, lúc Kim – Kiều đoàn viên tái hợp, Thuý Kiều đã khéo léo từ

chối một đám cưới linh đình theo đề nghị của Kim Trọng, vì nàng nghĩ mình

đã mười lăm năm lưu lạc, ong qua bướm lại ê chề rồi, nên không còn xứng

đáng nữa:

Chữ trinh đáng giá nghìn vàng

Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa?

Như vậy, cái đêm “đuốc hoa” cũng có nghĩa là đêm động phòng hoa

chúc lộng lẫy, linh đình của một đời người. Dùng “đuốc hoa” theo hình thức

ẩn dụ với ý nghĩa như vậy để chỉ cái đêm liên hoan lửa trại của đơn vị, quả

thực Quang Dũng đã khá mạnh dạn trong việc sử dụng từ ngữ, tạo nên một

liên tưởng lãng mạn khá bất ngờ, độc đáo mà vẫn không kém phần hợp lí.

Trước hết, cần lưu ý đến bối cảnh, không khí đặc biệt của đêm liên hoan.

Giữa màn đêm dày đặc bao phủ khắp núi rừng bỗng ánh lửa đuốc bừng

sáng, bỗng tiếng khèn, tiếng trống, tiếng nhạc… bừng dậy khi đêm hội bắt

đầu, khiến lòng người cũng bừng lên một niềm hân hoan, phấn chấn. Khung

cảnh rực rỡ, tưng bừng, náo nhiệt của đêm hội và đặc biệt là sự xuất hiện của

các cô gái vùng cao đã khiến cho các chàng trai Tây Tiến như chợt bừng tỉnh.

Họ rất đỗi ngạc nhiên trước những “xiêm áo” lộng lẫy, trước cái vẻ đẹp duyên

dáng, tình tứ vừa kín đáo, thẹn thùng, “e ấp” lại vừa ánh lên vẻ nồng nàn,

quyết liệt trong vũ đạo “man điệu” của các cô, những người con gái vùng cao

vốn rất giản dị mà thường ngày chắc các anh vẫn gặp trên khắp nẻo đường

Tây Bắc. Hai chữ “kìa em” như một tiếng reo vui và câu hỏi tu từ: “Kìa em

xiêm áo tự bao giờ” đã góp phần làm nổi bật tâm trạng ngạc nhiên thích thú

nhưng rất hồn nhiên của các anh. Đoạn thơ có 4 câu thì 2 câu dành để nói về

các cô gái cho thấy hình ảnh đó đã trở thành tâm điểm và linh hồn của đêm

liên hoan cuốn hút các chàng trai, khiến các chàng lính trẻ Tây Tiến đi từ bất

ngờ này đến bất ngờ khác. Và hình như trong đêm hội “đuốc hoa” kéo dài

Page 110: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

suốt đêm ấy, những chàng trai Hà Nội đa tình, hào hoa cũng ngả nghiêng

cùng bốc men say theo tiếng khèn, tiếng nhạc dập dìu, réo rắt, theo những

điệu xoè nồng nàn, ngây ngất của các cô gái vùng cao…

Trong cuộc đời chiến chinh gian khổ, những người lính Tây Tiến đã

từng trải qua bao đêm rừng hoang sương muối, có đêm băng rừng vượt núi

“cọp trêu người”, cũng có lúc “hoa về trong đêm hơi”, có buổi tối được quây

quần bên nồi cơm nếp đầm ấm tình quân dân “Mai Châu mùa em thơm nếp

xôi”…, nhưng những kỉ niệm như đêm nay không nhiều. Cho nên, trong

những hồi ức về Tây Tiến, đêm liên hoan lửa trại của đơn vị vẫn là một sự

kiện đặc biệt, không thể nguôi quên. Song, gọi đó là đêm “hội đuốc hoa” – cái

đêm động phòng hoa chúc lộng lẫy của đời mình – thì có lẽ chỉ có nhà thơ

chiến sĩ Quang Dũng, hoặc là chính những người lính Tây Tiến năm xưa, bởi

tâm hồn lãng mạn của các anh vẫn được ghi nhận như một nét đẹp riêng

trong văn học một thời kháng chiến.

Có gì khác nhau giữa “có thấy” và “có nhớ”?

Đó là các từ ngữ rất bình thường, không hề chứa đựng bất kì thủ pháp

nghệ thuật nào trong đoạn hồi tưởng về những cảm xúc lãng mạn dâng lên

trong lòng người chiến sĩ Tây Tiến khi đứng trước khung cảnh sông nước Tây

Bắc vào một buổi chiều Châu Mộc:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?

Kí ức gợi nhớ về chặng đường hành quân giữa vùng rừng núi hiểm trở,

dữ dội miền Tây Bắc: khung cảnh một buổi chiều sương lặng lẽ bên bờ suối

lũ mênh mang với ngàn lau san sát, hoang dại như một nỗi niềm cổ tích, đã

gợi lên trong tâm hồn Quang Dũng và những người lính Tây Tiến tài hoa, hay

mơ mộng nhiều xúc cảm lãng mạn, nên thơ. Qua tâm hồn các anh, lau lách

bên bờ suối mùa nước lũ dường như cũng có linh hồn: “hồn lau nẻo bến bờ”,

Page 111: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

ấy là cái hồn của cỏ cây, sông nước, linh hồn của tạo vật. Một bông hoa trôi

trên dòng suối lũ mênh mang cũng có cái dáng vẻ đong đưa tình tứ. Và đặc

biệt nhất là hình ảnh người con gái đẩy thuyền: “dáng người trên độc mộc”,

cái dáng người chắc hẳn đã gợi cho các chàng trai hào hoa, đa tình biết bao

liên tưởng mơ mộng lãng mạn nên nó được khắc sâu vào nỗi nhớ. Câu thơ

không tả, chỉ nêu hình ảnh nhưng bằng hình thức câu hỏi day dứt: “Có nhớ

dáng người trên độc mộc…” đã khiến người đọc liên tưởng đến một cái dáng

tạo hình rất đẹp.

Đoạn thơ mang hình thức hồi tưởng khá rõ nhờ đại từ chỉ định ấy

(chiều sương ấy) kết hợp với những cụm từ nhắc nhở kí ức: “có thấy”, “có

nhớ” rất có nhịp điệu và phù hợp với tâm trạng hoài niệm. Nó nhắc nhở và gợi

nhớ về những xúc cảm bâng khuâng khi đứng trước khung cảnh sông nước

miền Tây trong một chiều sương lặng lẽ dọc đường hành quân năm xưa.

Nhưng để gợi nhắc kí ức, tại sao phải dùng đến hai cụm từ “có thấy” và “có

nhớ”, trong khi chúng chỉ cùng thực hiện chung một chức năng gợi nhớ? Có

gì khác nhau giữa “có thấy” và “có nhớ”? Liệu có thể chỉ dùng một trong hai

cụm từ nói trên? Hay liệu có thể đổi vị trí của hai cụm từ này thành: “Có nhớ

hồn lau nẻo bến bờ – Có thấy dáng người trên độc mộc…”? Phép thử ngôn

ngữ học không thành công đã cho ta thấy cách dùng chữ thật kĩ, thật tinh mà

cũng thật tài hoa của Quang Dũng, ngay cả đối với những từ ngữ có thể nói là

hết sức bình thường trong bài thơ. Ở đây chắc không hẳn chỉ vì những lí do

về âm điệu, vần điệu, nhịp điệu… mà nguyên nhân chính vẫn là ở vấn đề ngữ

nghĩa. Sở dĩ không thể chỉ dùng một trong hai cụm từ, hoặc không thể đổi vị

trí của “có thấy” và “có nhớ” cho nhau trên trục kết hợp ngang trong hai câu

thơ trên vì chúng được sử dụng để gợi nhớ về hai loại hình ảnh khác nhau

trong tiềm thức: một oại hình ảnh của sự tưởng tượng trừu tượng (hồn lau),

còn loại kia là những hình ảnh thị giác cụ thể (dáng người trên con đò độc

mộc và bông hoa trôi trên dòng suối lũ). Đứng trước khung cảnh ngàn lau

man mác đôi bờ mùa nước lũ, phải là những tâm hồn lãng mạn, giàu trí

tưởng tượng mới cảm thấy tạo vật dường như cũng có linh hồn. Do vậy, chỉ

có thể viết: “Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”, bởi cái “hồn lau” trừu tượng ấy có

Page 112: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

người “thấy”, có người không “thấy”, mà nếu không thấy thì sao có thể “nhớ”

về “hồn lau” được. Ở câu thơ tiếp sau đó cũng không thể dùng “có thấy” thay

vì “có nhớ”, hởi cái dáng người đẩy thuyền và bông hoa trôi trên dòng suối lũ

cụ thể, hữu hình kia thì ai chẳng “thấy” (bằng mắt thường), nhưng không phải

ai cũng “nhớ”. Chỉ có những tâm hồn nhạy cảm, hay mơ mộng lãng mạn mới

có thể nhận ra vẻ đong đưa tình tứ của bông hoa rừng cùng cái dáng tạo hình

rất đẹp của người con gái đẩy thuyền, để rồi “nhớ” mãi…, và sau này, khi đã

xa Tây Tiến, lại có dịp cùng nhau gợi nhớ trong những hồi tưởng bâng

khuâng, da diết, bồi hồi:

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?

Người ta hay nhắc đến những giày vò, trăn trở khó nhọc của các nhà

thơ trong việc dụng công tìm chữ, chọn từ cho một câu thơ. Tuy nhiên, Tây

Tiến của Quang Dũng không thuộc những trường hợp như vậy. Sau này,

Quang Dũng kể lại, ông đã làm bài thơ rất nhanh, mà viết một cách rất tự

nhiên trong khi dự Đại hội thi đua toàn quân ở Liên khu III, làng Phù Lưu

Chanh (tên một tổng của Hà Nam thời Pháp), làm xong đọc ngay trong Đại

hội: “Hồi đó tấm lòng và cảm xúc của mình ra sao thì viết vậy. Tôi chả có chút

lí luận gì về thơ cả…”. Mặc dầu vậy, tác phẩm vẫn cho người đọc thấy lấp

lánh không ít những sáng tạo ngôn ngữ độc đáo, thể hiện nét tài hoa của

Quang Dũng, một người chiến sĩ của Trung đoàn Tây Tiến năm xưa, trong

đó, sự chính xác và phù hợp của những cụm từ gợi nhớ trên đây cũng có thể

coi là một điểm sáng nghệ thuật trong bài thơ này.

Chất liệu hiện thực và bức chân dung lãng mạn, bi tráng về những người đồng đội thân yêu của nhà thơ

Bức chân dung ấy được thể hiện qua tám câu thơ của đoạn thứ ba.

Bốn câu đầu là hình ảnh khái quát vừa hiện thực lại vừa có phần kì lạ về đoàn

quân Tây Tiến:

Page 113: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Đó là những con người ngang tàng, khí phách và có cái gì đó rất dữ

dội, nhưng bên trong tâm hồn, họ cũng là những con người rất lãng mạn, giàu

tình cảm. Hiện thực đời sống kháng chiến gian khổ, thiếu thốn trên địa bàn

rừng núi Tây Bắc khắc nghiệt, hiểm trở khiến cho các chiến sĩ trẻ trung đoàn

Tây Tiến mắc phải căn bệnh sốt rét rừng quái ác, đến nỗi rụng cả tóc, mắt

trắng, môi thâm, da xanh bủng như tàu lá… Đấy là chất liệu hiện thực của

bức chân dung đầy ấn tượng về người lính Tây Tiến, chứ không phải Quang

Dũng đã thi vị hoá thực tế gian khổ như có người vẫn nghĩ. Có lần, anh đã lí

giải như sau về câu thơ “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”: “Hồi ấy, trung

đoàn chúng tôi rất nhiều người sốt rét trọc cả đầu. Trong điều kiện gian khổ,

thiếu thốn, mình lại không giữ vệ sinh, vả lại có giữ cũng chả được, nên bộ

đội không những bị ốm mà còn chết vì sốt rét cũng nhiều. Chúng tôi đóng

quân ở nhà dân, cứ mỗi lần nghe tiếng cồng nổi lên, lại tập trung đến nhà

trưởng thôn để tiễn một con người vĩnh biệt rừng núi...”. Tuy nhiên, qua xúc

cảm lãng mạn, “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc” vẫn là câu thơ khá độc

đáo bởi tính chất đa thanh, đa giọng, thể hiện khẩu khí ngang tàng, khí phách

của những người lính trẻ hồn nhiên, tinh nghịch: tóc không thèm mọc chứ

không phải bị sốt rét đến trọc cả đầu. Cũng vậy, câu thơ “Quân xanh màu lá

dữ oai hùng” trước hết cũng là bắt nguồn từ cái nước da xanh bủng của

người bị sốt rét rừng, nhưng hình ảnh “dữ oai hùm” vẫn gợi được cái cứng

cỏi, dữ dội của những con người vào sinh ra tử, rất dạn dày trong hiểm nguy,

gian khổ. Những con người ấy đồng thời cũng rất giàu tình cảm và hay mơ

mộng lãng mạn. Dẫu có lúc tận ở thượng Lào xa xôi và luôn phải đối mặt với

cái chết, nhưng bằng trái tim khao khát yêu đương, họ vẫn hằng đêm “gửi

mộng qua biên giới”, để mơ về một “dáng kiều thơm” giữa thủ đô thân yêu.

Page 114: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Bốn câu thơ tiếp theo tập trung thể hiện tinh thần, thái độ của các chiến

sĩ Tây Tiến trước cái chết, sự hi sinh:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Một đặc điểm của cảm hứng lãng mạn anh hùng là không lẩn tránh cái

bi mà ngược lại luôn coi cái chết, sự hi sinh nơi sa trường của người chiến sĩ

với da ngựa bọc thây như là một biểu hiện cao nhất của cái đẹp. Đó là tinh

thần bi tráng trong văn học truyền thống. Cái bi như vậy được coi như một đối

tượng thẩm mĩ của cảm hứng lãng mạn. Trong những tháng ngày hành quân

chiến đấu gian khổ của Trung đoàn Tây Tiến, đã có bao người đồng đội ngã

xuống trong lúc họ còn rất trẻ, đang lúc “đời xanh” với bao hoa mộng đẹp.

Nhưng bằng cảm hứng lãng mạn, những câu thơ xúc động viết về sự hi sinh

mất mát ấy vẫn thể hiện được một tinh thần bi tráng. Đoạn thơ sử dụng thủ

pháp đối lập về ý nghĩa giữa các cụm từ “mồ viễn xứ” với “chẳng tiếc đời

xanh”, kết hợp với âm hưởng trầm hùng, trang nghiêm của những từ Hán

Việt: biên cương, viễn xứ, độc hành…, đặc biệt là hình ảnh chiếc áo bào đỏ

thắm (áo bào thay chiếu) đã khiến cho những nấm mồ chiến sĩ nằm rải rác

nơi biên cương xa xôi không trở thành một bức tranh xám lạnh, u buồn mà

vẫn tạo được không khí thiêng liêng, hùng tráng. Cụm từ “về đất” là cách nới

giảm nhẹ thay cho từ chết đã thể hiện được thái độ thanh thản nhẹ nhàng

trước cái chết, đồng thời nói lên được ý nghĩa lớn lao của sự hi sinh: đó là sự

hoá thân vào đất nước, sự trở về với hồn thiêng sông núi. Cho nên, dòng

sông Mã ngày đêm gầm réo như tấu mãi lên khúc nhạc trầm hùng để tiễn đưa

linh hồn người chiến sĩ về với cõi bất tử, về với đất mẹ thiêng liêng:

Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

Page 115: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

18. CON SÔNG ĐUỐNG VÀ KHÔNG GIAN TÂM TƯỞNG TRONG NIỀM XÚC CẢM VỀ MỘT MIỀN QUÊ

Đối với Hoàng Cầm, con sông Đuống chắc chắn phải có một vị trí khá

đặc biệt trong tâm hồn ông ngay từ thuở ấu thơ. Con sông này là một nhánh

của sông Hồng nối với sông Thái Bình, nằm giữa hai miền quê hương của

nhà thơ, chia xứ quan họ Kinh Bắc cổ kính thành hai nửa. Quê nội Hoàng

Cầm ở thôn Phúc Tằng, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang, nằm về mạn phía

bắc sông Đuống. Ông tên thật là Bùi Tằng Việt, do ghép một chữ tên làng và

một chữ tên huyện của quê cha mà thành. Còn quê ngoại, nơi ông đã sinh ra

và sống trọn tuổi ấu thơ là thôn Đông Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh

lại nằm ngay bên bờ nam sông Đuống. Người cha thân sinh ra Hoàng Cầm là

một ông đồ, thời trai trẻ đi dạy học xứ người và yêu say đắm cô gái làng tranh

dân gian Đông Hồ, họ thành vợ thành chồng rồi Hoàng Cầm được sinh ra và

lớn lên ở đấy. Ông có bài thơ nói về nguồn gốc của mình như sau:

Tôi người quan họ

Quê mẹ bên này sông

Cách quê cha một dòng

Nước trắng…

Dòng “nước trắng” ấy chính là con sông Đuống chảy giữa đôi bờ quê

hương. Nó đi vào tâm trí nhà thơ như một dòng ánh sáng lung linh kì ảo, khắc

sâu trong kí ức và cái thi tứ bên này – bên kia sông Đuống dường như cũng

đã được định sẵn từ lâu, chỉ chờ dịp là có thể bùng lên mạnh mẽ. Và dịp ấy

đã đến, vào một đêm tháng Tư năm 1948, khi đang đóng quân tại một đơn vị

thuộc Quân khu II trên chiến khu Việt Bắc, nghe bản tin chiến sự, được biết

miền đất quê hương ông ở bên kia sông Đuống đã bị rơi vào tay giặc, Hoàng

Cầm “cực kì xao xuyến, tâm tư chồng chất nỗi nhớ thương, đau đớn và xót

xa, tiếc nuối cùng với niềm căm giận quân giặc sâu lắng”, ông không sao ngủ

được, “lòng buồn nôn nao nỗi nhớ tiếc quê hương bị chiếm đóng, tàn phá.

Bao tình cảm riêng chung lẫn lộn cứ trào lên mãnh liệt”, và ông tiền cầm bút

viết một mạch bài thơ mà sau đó, ông đặt cho cái tên là Bên kia sông Đuống.

Page 116: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Bài thơ có kết cấu hai phần, một kết cấu khá phù hợp, tuân theo mạch

hồi tưởng tự nhiên, thể hiện được tâm trạng cảm xúc và tình cảm đặc biệt của

một con người đứng từ bên này sông (phía bờ bắc) hướng về mảnh đất quê

hương ở bờ nam, bên kia sông Đuống đang bị rơi vào tay giặc. Bắt đầu là nỗi

lòng đau xót, nhớ tiếc và căm hận quân giặc đã giày xéo, tàn phá cuộc sống

thanh bình, huỷ hoại những truyền thống văn hoá đẹp đẽ của quê hương

(Phần I: gồm 79 câu đầu) và kết thúc là niềm hi vọng, tin tưởng quê hương sẽ

được giải phóng, trở lại cảnh yên bình, tươi đẹp như xưa (Phần II: 55 câu còn

lại). Trong toàn bộ dòng mạch cảm xúc đó, con sông Đuống đóng vai trò là

trung tâm của không gian tâm tưởng; nó như là điểm tựa của cảm xúc, là

chiếc cầu nối để nhà thơ suy tưởng về miền quê hương thân thiết ở bên kia

sông Đuống, tạo nên một điểm nhìn nghệ thuật độc đáo của chủ thể trữ tình ở

thi phẩm này.

Mượn hình thức trò chuyện tâm tình với một người con gái của quê

hương, mười câu thơ đầu có một vị trí khá đặc biệt trong việc khơi nguồn cảm

xúc và hình thành cấu tứ chung của bài thơ:

Em ơi buồn làm chi

Anh đưa em về sông Đuống

Ngày xưa cát trắng phẳng lì…

Sông Đuống trôi đi

Một dòng lấp lánh

Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì.

Xanh xanh bãi mía bờ dâu

Ngô khoai biêng biếc

Đứng bên này sông sao nhớ tiếc

Sao xót xa như rụng bàn tay

Ta có thể nhận thấy một sự xúc động mãnh liệt xảy ra trong tâm hồn

nhà thơ lúc chợt nghe tin dữ, những tình cảm quê hương trái ngược nhưng

Page 117: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

thống nhất: niềm mến yêu tha thiết một vùng quê, nỗi đau đớn, xót xa, tiếc

nuối, lòng căm giận quân giặc và niềm hi vọng, tin tưởng v.v... cùng lúc dồn

đến, hoà trộn, dâng trào và cuối cùng đã bật lên thành một lời hứa hẹn, an ủi

dành cho người con gái yêu thương: “Em ơi buồn làm chi/ Anh đưa em về

sông Đuống…”. Nhưng em trong bài thơ này (cũng như hình ảnh những cô

thôn nữ Kinh Bắc ngày xưa mà chúng ta vẫn thường bắt gặp trong thơ Hoàng

Cầm) chỉ là một nhân vật tưởng tượng, được tạo ra như một thủ pháp nghệ

thuật quen thuộc nhằm làm cho những tình cảm quê hương có thêm màu sắc

trữ tình, dễ tạo ra mối đồng cảm trong lòng người đọc. Cho nên, thực chất

đấy cũng là một cách tác giả tự trấn tĩnh, kìm nén và tự chế ngự lòng mình:

sau những giây phút bàng hoàng chợt nghe tin dữ, nhà thơ đã tự an ủi, động

viên mình và hi vọng, tin tưởng. Lời tự động viên, an ủi ấy tự nhiên đưa tác

giả đến những hồi ức mãnh liệt về quê hương và trong dòng hoài niệm đó,

trên hết là hình ảnh con sông Đuống, được tái hiện ở trung tâm của không

gian tâm tưởng như là một biểu tượng đẹp đẽ và khái quát về một vùng quê

hương giàu có, trù phú mà cũng rất yên ả, thanh bình. Con sông quê có cái

dáng “nằm nghiêng nghiêng” ấy êm đềm, lặng lẽ chảy từ quá khứ xa xăm xuôi

về hiện tại, hiện lên trong tâm trí nhà thơ với một dòng nước “lấp lánh”, với

dải “cát trắng phẳng lì” và những “bãi mía bờ dâu/ Ngô khoai giêng biếc” trải

dài hai bên triền sông… Trong sự tưởng tượng xúc động của nhà thơ, con

sông quê hương ấy đã không còn chỉ là một sự vật cụ thể, một cảnh trí thiên

nhiên thông thường mà đã trở thành một hình ảnh tâm lí có ý nghĩa biểu

tượng cho quê hương, được tưởng tượng, nhân hoá và cảm nhận như một

vật thể sống động, có tâm trạng, có linh hồn. Hồi ức mạnh mẽ về quê hương

đã làm cho những nét biểu trưng khái quát tiêu biểu nhất của miền đất bên bờ

nam sông Đuống hoà nhập làm một với hình ảnh của con sông xứ sở. Nó thể

hiện rất rõ tấm lòng thao thức, đau đáu của một con người đứng từ bờ bắc

nhìn sang bờ nam, đứng ở vị trí tự do nhìn về vùng quê hương đang bị địch

tạm chiếm ở bên kia sông Đuống: “Đứng bên này sông sao nhớ tiếc/ Sao xót

xa như rụng bàn tay”.

Page 118: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Niềm xúc cảm thiết tha, mạnh mẽ được khơi dậy từ mười câu thơ đầu

trên đây đã dẫn dắt dòng hồi ức tự nhiên đến những nét đặc trưng nổi bật về

cảnh vật và con người thân thiết của quê hương ở “Bên kia sông Đuống”:

– Bên kia sông Đuống: Lúa nếp thơm nồng, tranh Đông Hồ gà lợn nét

tươi trong, màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp…

– Bên kia sông Đuống: Những hội hè đình đám, những tấm the đen,

những phiên chợ quê, chuông chùa văng vẳng…

– Bên kia sông Đuống. Những cụ già phơ phơ tóc trắng, những em sột

soạt quần nâu, những gương mặt búp sen, những cô hàng xén răng đen, cười

như mùa thu toả nắng…

– Bên kia sông Đuống: Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong…

– Bên kia sông Đuống: Ta có đàn con thơ v.v…

Mỗi đoạn thơ ở phần này đều được mở đầu bằng cách gợi lên những

hình ảnh tưởng tượng về cuộc sống yên ả, thanh bình, giàu đẹp vốn có ngày

xưa của quê hương, tiếp đó là sự tàn phá, huỷ hoại của quân giặc đang diễn

ra hằng ngày và cuối cùng đều được kết thúc bằng một câu hỏi nghẹn ngào,

nuối tiếc: “Bây giờ tan tác về đâu?”, hoặc: “Biết đi đâu về đâu?”… Kiểu kết

cấu trùng điệp như vậy có tác dụng góp phần diễn tả tâm trạng đặc biệt của

chủ thể cảm xúc lúc tình cảm dâng trào, dẫn đến những tưởng tượng tràn đầy

lạc quan về một ngày kia, tác giả sẽ cùng những đoàn quân trở về giải phóng

quê hương, thực hiện lời hẹn ước “đưa em về sông Đuống”:

– Đêm sông Đuống: Bộ đội bên sông đã trở về, dao loé giữa chợ, gậy

lùa cuối thôn, giặc mất hồn, quay cuồng trên đống lửa mà cánh đồng ta thì

chan chứa nắng đẹp mùa xuân, thợ cấy đánh giặc, dân quân cày bừa…

– Bao giờ về bên kia sông Đuống: Anh lại tìm em, em mặc yếm thắm,

thắt lụa hồng, đi trẩy hội non sông, cười mê ánh sáng muôn dòng xuân xanh.

Nhà thơ kể lại: “Quá 12 giờ đêm, tôi thắp đèn dầu ngồi viết. Viết một

mạch, có lúc cảm xúc trào lên mạnh, chỉ sợ viết không kịp với cảm xúc. Gọi là

Page 119: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

một mạch nhưng cũng đôi ba lúc ngừng hơi, nín thở để nghe ngóng một điều

gì, tuy châm điếu thuốc lào rít nhẹ nhẹ, nhưng toàn tâm trí vẫn đang cuồn

cuộn trong cái mạch từ đầu chảy ra, mỗi giờ một lớn ra và mạnh lên. Đến khi

thấy hình như trong người, các nỗi niềm đau đớn, nhớ tiếc xót xa ấy đã được

giải toả, tức là đã đến hết những câu thơ cuối cùng: “Bao giờ về bên kia sông

Đuống… Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh”, tôi thở đài nhẹ nhõm,

nước mắt rưng rưng suốt mấy tiếng đồng hồ cũng như không còn ướt tròng

nữa, tôi đặt bút thì đã nghe tiếng gà gáy sắp sáng”. Bài thơ được đăng lần

đầu trên báo Cứu quốc tháng 6 năm 1948 nhưng đã nhanh chóng được phổ

biến rộng rãi từ chiến khu Việt Bắc cho đến khắp toàn quốc. Nhiều người nhớ

và thuộc; bởi vì, tuy chỉ nói về một vùng quê Kinh Bắc cụ thể với những tên

núi, tên sông, tên đất và những con người của quê hương nhưng những hình

ảnh đó cũng rất tiêu biểu cho các làng quê Việt Nam nói chung. Cảnh tượng

quê hương bị giặc tàn phá cũng là cảnh ngộ chung của cả đất nước thời

kháng chiến và nhất là tình cảm mến yêu của tác giả với những nét đẹp

truyền thống của quê hương, với những con người của xứ sở đã lay động

mạnh mẽ và đánh thức tình cảm quê hương đất nước tha thiết của mỗi người

chiến sĩ hồi ấy, bởi trong mỗi con người, ai chẳng có một vùng quê như thế!

Nhưng thật đáng tiếc, bản thảo và cả bản in báo đầu tiên đều đã bị thất lạc,

những văn bản sau này được chỉnh lí nhiều lần dựa trên sự khôi phục trí nhớ

của chính nhà thơ và những người biên tập. Do đó, sự băn khoăn đối với một

vài từ ngữ, hình ảnh cụ thể trong bài thơ cũng là điều khó tránh khỏi. Dẫu

sao, Bên kia sông Đuống vẫn là một bài thơ hay, ghi lại được những tình cảm

quê hương đất nước thật xúc động trong văn học của một thời kháng chiến.

19. NGÔN NGỮ, CẤU TỨ VÀ MẠCH CẢM XÚC, SUY TƯỞNG VỀ “ĐẤT NƯỚC” CỦA NGUYỄN ĐÌNH THI

Đặc điểm về xuất xứ, cấu tứ và thi hứng của bài thơ

Cuối bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi có ghi một dấu mốc thời

gian: “1948 – 1955”. Vậy là bài thơ được sáng tác trong một khoảng thời gian

Page 120: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

khá dài: những cảm xúc, suy ngẫm về đất nước có lẽ đã theo tác giả gần như

suốt cuộc kháng chiến trường kì. Sự thật thì bài thơ được “lắp ghép” từ 3 bộ

phận: phần đầu là những câu thơ được rút gần như nguyên vẹn trong hai bài

thơ của Nguyễn Đình Thi sáng tác hồi đầu kháng chiến và tiếp đó là những ý

thơ được hình thành trong suốt thời gian kháng chiến chống Pháp cho đến

những năm 1954 – 1955, tạo cho bài thơ có một cấu trúc (bố cục) ba đoạn

khá rõ. Đoạn thứ nhất gồm 7 câu thơ đầu, rút trong bài Sáng mát trong như

sáng năm xưa, sáng tác năm 1948, có sửa chữa đôi chút. Đoạn thứ hai gồm

14 câu tiếp theo, vẫn tiếp tục những câu ở bài thơ trên nối với những câu thơ

rút trong bài Đêm mít tinh, sáng tác năm 1949 (từ chỗ: “Trời xanh đây là của

chúng ta…” và đoạn ba gồm 28 câu còn lại. Cả hai bài thơ tiền thân đều viết

từ Việt Bắc và viết về Việt Bắc kháng pháp “trong một tâm trạng nhớ Hà Nội,

nỗi nhớ thấm thía, xao xác”. Tuy nhiên, khi đi vào Đất nước, về mặt ý nghĩa,

những câu thơ trên đây đã tách hẳn khỏi tác phẩm ban đầu đã sinh ra nó để

mang một ý nghĩa mới, trong sự quy tụ cảm xúc, suy tưởng chung của nhà

thơ về đất nước. Từ ý nghĩa cụ thể về khung cảnh mùa thu Hà Nội và mùa

thu Việt Bắc trong bài Sáng mát trong như sáng năm xưa đã chuyển thành ý

nghĩa biểu trưng về khung cảnh đất nước xưa và nay, trước và sau Cách

mạng tháng Tám – khi đất nước còn trung vòng nô lệ đau thương và khi đất

nước đã được giải phóng, có độc lập, tự do. Từ những cảnh thực của đêm

mít tinh ở rừng Phan Lương trên chiến khu và cảnh trong tâm tưởng nhớ về

Hà Nội xuống đường trong cuộc mít tinh lớn của dân tộc (Cách mạng tháng

Tám) ở bài Đêm mít tinh đã chuyển thành những câu thơ đầy niềm tự hào

kiêu hãnh và sâu lắng về quyền được làm chủ một đất nước rộng lớn, có

truyền thống bốn ngàn năm không chịu sống quỳ. Nhờ sự chuyển hoá, đổi

mới ý nghĩa của ngôn ngữ và các hình tượng thơ nên bài thơ vẫn có được

tính chỉnh thể của một tác phẩm nghệ thuật, đảm bảo sự thống nhất cả về cấu

tứ lẫn tư tưởng và cảm xúc. Cố nhiên, người đọc vẫn có thể thấy được sự

khác biệt giữa các phần về cả thể thơ, nhịp điệu cũng như mạch cảm xúc.

Nhưng chính điều đó lại tạo ra cho thi phẩm này một sự vận động riêng về

hình thức cũng như về cảm hứng và tư tưởng, vừa nhất quán vừa biến đổi

Page 121: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

như một nét đặc sắc về nghệ thuật. Bài thơ là sự đúc kết những cảm xúc và

suy ngẫm đầy tự hào kiêu hãnh về một đất nước tươi đẹp, đau thương nhưng

anh dũng, bất khuất, có độc lập chủ quyền của Nguyễn Đình Thi trong suốt

thời gian cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược từ 1948 đến

1955.

Mạch vận động cảm xúc, suy tưởng về đất nước

Theo trục thời gian tuyến tính (trước, sau Cách mạng tháng Tám và

trong kháng chiến chống thực dân Pháp), hình tượng đất nước nằm ở tầm

khái quát của tư tưởng, cảm xúc và là điểm quy tụ mạch suy tưởng của nhà

thơ xuyên suốt cả 3 đoạn thơ: từ những cảm xúc tinh tế, đầy ấn tượng trong

một buổi sáng mùa thu cụ thể của đất nước gợi niềm hoài niệm về những

mùa thu Hà Nội năm xưa, từ đó dẫn đến những suy tư về mùa thu mới của

đất nước sau cách mạng và cuối cùng là những suy ngẫm về đất nước trong

hiện tại cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Bắt đầu là những câu thơ gợi dòng hoài niệm.

Sáng mát trong như sáng năm xưa

Gió thổi mùa thu hương cốm mới

Tôi nhớ những ngày thu đã xa…

Ấn tượng về một sáng mùa thu trong kháng chiến được gợi ra bởi một

không gian trong trẻo, khoáng đạt. Bầu trời rất cao và trong xanh, không một

gợn mây. Thoảng trong gió thu nhẹ thổi là mùi hương cốm mới, một hương vị

rất đặc trưng của mùa thu Bắc Bộ, trong mát và tinh khiết như kết tinh được

tất cả cái tinh tuý, sâu đậm của đất trời, cây cỏ mùa thu. Trong Hà Nội ba

mươi sáu phố phường, Thạch Lam đã từng viết rất hay về mùi hương ấy:

“Phảng phất hương vị ngàn hoa cỏ (…) là thức dâng của đồng lúa bát ngát

xanh, mang trong hương vị tất cả cái mộc mạc, giản dị mà thanh khiết của

đồng quê nội cỏ”. Từ một không gian trong trẻo và mùi hương đặc trưng ấy

mà hoài niệm về mùa thu Hà Nội, Nguyễn Đình Thi quả đã gợi được đúng cái

Page 122: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

thần – nét biểu trưng rất riêng của hồn quê xứ sở, chứng tỏ sự gắn bó rất sâu

nặng, thiết tha của ông với thủ đô yêu dấu.

Những câu thơ về mùa thu Hà Nội có lẽ là những câu thơ đẹp nhất của

bài thơ. Qua sự hoài niệm của nhà thơ, Hà Nội trong những ngày quân thù

còn chiếm đóng năm xưa tuy vẫn rất đẹp và gợi cảm nhưng khung cảnh thật

vắng vẻ và phảng phất buồn:

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

Những phố dài xao xác hơi may

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.

Người đọc có thể thấy được những cảm nhận hết sức tinh tế của một

tâm hồn nhạy cảm. Cái “chớm lạnh” của một buổi sáng mùa thu qua làn gió

“hơi may” nhẹ thoảng giữa lòng Hà Nội làm cho phố phường dường như có

vẻ lạnh lẽo, trống trải và vắng vẻ hơn. Những đường phố không người qua lại

dường như cũng dài thêm ra, bởi người ta có thể nghe thấy rất rõ cả tiếng

“xao xác” đến nao lòng của những chiếc lá khô lăn theo làn gió heo may se

lạnh trong một không gian lặng lẽ. Với Nguyễn Đình Thi, Hà Nội bao giờ cũng

rất đẹp và gợi cảm nhưng kí ức về những năm tháng mất nước đã khiến cho

Hà Nội trong hoài niệm của nhà thơ không tránh khỏi vẻ buồn vắng, trống trải,

hiu hắt. Đó cũng là xúc cảm về khung cảnh chung của đất nước những năm

dài nô lệ trước Cách mạng tháng Tám. Song, điều quan trọng là đất nước

trong cảm nhận của Nguyễn Đình Thi vẫn luôn gợi được những nét lãng mạn,

đầy hào khí. Do đó, trong kí ức về những ngày đất nước còn trong nô lệ đau

thương vẫn thấp thoáng hình ảnh những con người ra đi cứu nước. Câu thơ

tả hình ảnh “người ra đi” giữa mùa thu Hà Nội năm xưa thật là đẹp, lãng mạn,

vừa gợi được cái nét ngang tàng, khí phách: “Người ra đi đâu không ngoảnh

lại”, vừa thể hiện được tấm lòng xiết bao lưu luyến với thành phố quê hương

của những lớp người ra đi ấy. Bởi thế, không phải là ánh mắt mà bằng cả tâm

hồn, họ vẫn có thể cảm nhận được rất rõ những “thềm nắng lá rơi đầy” đằng

Page 123: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

sau cái dáng vẻ dửng dưng” đầu không ngoảnh lại” ấy. Đoạn thơ này thực ra

bắt nguồn từ những ấn tượng cụ thể về Hà Nội trong cảm nhận của những

người chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô vào cuối thu năm 1946, khi họ phải dời lên

chiến khu, bỏ lại thành phố sau lưng trong sự chiếm đóng của quân thù.

Nguyễn Đình Thi đã kể lại tâm trạng của mình và của những người chiến sĩ

thủ đô khi đó: “Những câu thơ tôi viết về Hà Nội với nhiều cảm xúc và kỉ niệm.

Người Hà nội ra đi kháng chiến đều có những tình cảm như thế với mảnh đất

thiêng liêng của Tổ quốc. Hà Nội vào thu, khung cảnh thiên nhiên rất đẹp

nhưng chiến tranh đã tạo ra những khung cảnh không bình thường. Câu thơ:

“Người ra đi (…) lá rơi đầy” rất gần gũi với tâm trạng của tôi”.

Từ niềm hoài niệm mùa thu Hà Nội năm xưa, nhà thơ chuyển cảm xúc

về mùa thu hiện tại giữa khung cảnh rộng lớn của núi rừng ở chiến khu Việt

Bắc khi đất nước đã được giải phóng, với một niềm vui phơi phới bốc men

say:

Mùa thu nay khác rồi

Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi

Gió thổi rừng tre phấp phới

Trời thu thay áo mới

Trong biếc nói cười thiết tha.

Nhịp điệu đoạn thơ này biến đổi hẳn với những câu thơ ngắn, tiết tấu

biến đổi nhanh với 4 vần ôm ở 4 câu thơ liên tiếp (rồi, đồi, phới, mới) tạo nên

một không khí và âm điệu tươi vui náo nức, rộn ràng. Đoạn thơ mở ra một

không gian rộng rãi với những cảnh sắc tươi tắn, trong sáng, rộn rã: khác rồi,

vui nghe, phấp phới, thay áo mới, trong biếc nói cười thiết tha. Tất cả đều hoà

chung với tâm trạng phấn chấn, náo nức của con người trong mùa thu mới

của đất nước đã được giải phóng và đang ngẩng cao đầu chiến đấu vì độc

lập, tự do. Giữa không gian rộng lớn của núi rừng Việt Bắc, tựa lòng mình vào

cuộc kháng chiến anh dũng, bất khuất của dân tộc, nhà thơ không còn cảm

Page 124: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

thấy mùa thu đất nước buồn vắng, hiu hắt như xưa nữa mà đã hết sức tươi

sáng, trong trẻo, rộn ràng.

Mạch cảm xúc về đất nước tiếp tục vận động một cách khá tự nhiên

đến niềm tự hào được làm chủ toàn bộ cả thiên nhiên đất nước rộng lớn:

Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta

Những cánh đồng thơm mát

Những ngả đường thơm ngát

Những dòng sông đỏ nặng phù sa.

Cảm hứng thơ từ đây mang đậm chất sử thi và lãng mạn. Tiếng nói trữ

tình được chuyển từ tư thế phát ngôn của cá nhân “tôi” (tôi đứng, tôi nghe, tôi

nhớ) ở đoạn thơ trên sang tiếng nói chung của cộng đồng “của chúng ta”.

Nhưng sự chuyển giọng điệu ấy cũng rất tự nhiên bởi ở đây, tác giả không chỉ

nói lên tình cảm đất nước riêng tư của mình mà chính là ông đang nhân danh

dân tộc và cộng đồng để hùng biện một cách say sưa, đầy hào hứng về tư

thế và ý thức làm chủ một đất nước có độc lập, tự do. Những câu thơ này

chính là sự kế tục dòng cảm hứng yêu nước và tự hào dân tộc mãnh liệt,

dòng cảm hứng đã trở thành truyền thống của văn học và thơ ca Việt Nam.

Nhưng lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc ấy trong bài thơ này còn mang

đậm dấu ấn của thời đại mới được mở ra từ sau Cách mạng tháng Tám, đó là

tinh thần yêu nước và niềm tự hào dân tộc đã gắn liền với quyền được làm

chủ thật sự đối với non sông, đất nước của mình. Đoạn thơ sử dụng nhiều

câu thơ có hình thức khẳng định mạnh mẽ, được tạo bởi điệp từ chỉ định

“đây” và điệp ngữ “của chúng ta” giống như những tiếng nói kiêu hãnh thể

hiện niềm tự hào được làm chủ tất cả một đất nước rộng lớn. Ý thơ đi từ sự

khẳng định đất nước qua những cái hữu hình trong không gian như trời xanh,

núi rừng, cánh đồng, ngả đường, dòng sông… có kèm theo điệp từ chỉ số

lượng lớn và không xác định “những” đã nêu bật được ý nghĩa bao quát về

sự rộng lớn và tươi đẹp của đất nước cụ thể và hữu hình, đến sự cảm nhận

Page 125: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

những cái vô hình của đất nước ở bề sâu trong nguồn mạch tinh thần, tình

cảm dân tộc. Đó là hồn nước, là truyền thống anh dũng bất khuất ngàn đời

của cha ông:

Nước chúng ta

Nước những người không bao giờ khuất

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về

Những câu thơ trên đã tạo được không khí trầm lắng thiêng liêng vì nó

đã khơi đúng mạch truyền thống ngàn đời của dân tộc. Qua hình tượng âm

thanh “Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất…“, Nguyễn Đình Thi đã diễn tả được

một cách sinh động những cái tưởng như vô hình, trừu tượng, làm hiện lên

thật cụ thể về hồn đất nước và tinh thần dân tộc bất khuất bằng chính những

âm vang trầm lắng, hào hùng, thiêng liêng đó.

Đoạn 3 của bài thơ (28 câu cuối) là những cảm xúc, suy tư của nhà thơ

về hình ảnh của đất nước trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm

lược. Ý thơ hướng hẳn về hiện thực của một đất nước đang tiến hành cuộc

kháng chiến thần kì, một đất nước từ trong đau thương, căm phẫn đã anh

dũng đứng dậy chiến đấu và ngời sáng trong chiến thắng. Tiếp nối ý thơ từ

cuối đoạn trên, ở đây tác giả tập trung khẳng định về một đất nước không chỉ

anh dũng, bất khuất trong quá khứ mà cũng rất đỗi anh dũng, bất khuất trong

hiện tại của cuộc kháng chiến. Hình ảnh đau thương của đất nước bị quân

thù giày xéo trong chiến tranh cũng được Nguyễn Đình Thi miêu tả thật xúc

động:

Ôi những cánh đồng quê chảy máu

Dây thép gai đâm nát trời chiều

Nét độc đáo của hai câu thơ này nói riêng và trong cả đoạn thơ thứ ba

là sự chuyển hoá tự nhiên từ ý nghĩa cụ thể của các hình ảnh thơ sang những

ý nghĩa biểu tượng. Hình ảnh thơ gây được ấn tượng rất mạnh nhờ thủ pháp

Page 126: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

“ngược sáng”, làm nổi bật những đường nét, màu sắc tương phản gay gắt.

Trong ánh mặt trời chiều tà, lúc hoàng hôn phản chiếu chính diện với góc

nhìn, cánh đồng hoang vắng vùng vành đai trắng quanh đồn giặc đỏ rực như

thể bị nhuộm đỏ một màu máu. Phía chân trời xa, những hàng rào dây thép

gai quanh đồn giặc tua tủa đâm ngược lên như muốn cào rách, xé nát bầu

trời. Nhưng những hình tượng thơ trên đây cũng không phải chỉ được tạo

dựng bằng các thủ pháp nghệ thuật thuần tuý mà đó còn là sản phẩm của

một trí tưởng tượng phong phú và cả tấm lòng đau đớn tha thiết của nhà thơ

với đất nước, quê hương. Nhiều người nhận xét rằng, cánh đồng và bầu trời

là những hình tượng quê hương đất nước hay xuất hiện trong thơ Nguyễn

Đình Thi. Điều ấy cũng không phải ngẫu nhiên, bởi trong tâm hồn của mỗi con

người Việt Nam, cánh đồng và bầu trời quê hương vốn là những hình ảnh

yên ả, thanh bình thì nay trong chiến tranh, quê hương đang bị quân giặc

chiếm đóng và tàn phá, cánh đồng vùng vành đai trắng đã thành một mảnh

đất chết, không bóng người, thiếu vắng màu xanh sự sống… Những câu thơ

gợi cảm giác hoang vắng, chết chóc rất đau thương. Vậy là, từ một hình ảnh

thực, tác giả bắt gặp trong một chiều hành quân qua vùng Bắc Giang, khi đưa

vào bài thơ này đã trở thành một hình ảnh khái quát, có ý nghĩa biểu tượng

sâu sắc và hết sức sinh động về một đất nước đau thương bị tàn phá trong

chiến tranh, dưới ách chiếm đóng của quân giặc tàn bạo.

Nếu ở hai câu thơ trên, lòng đau xót và căm hờn được chất chứa trong

hình ảnh ngoại cảnh có ý nghĩa biểu tượng thì ở hai câu thơ tiếp theo lại bộc

lộ trực tiếp tâm trạng, tình cảm của người chiến sĩ trong khung cảnh quen

thuộc của cuộc đời hành quân chiến đấu:

Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu

Vượt lên những đau thương và gian lao của cuộc chiến tranh ác liệt,

đất nước ấy vẫn có những con người với tâm hồn cao đẹp, đầy lãng mạn.

Trên cái nền lửa máu của chiến tranh khốc liệt, trong hoàn cảnh đất nước bị

tàn phá đau thương, người chiến sĩ trên mọi nẻo đường hành quân chiến đấu

Page 127: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

không chỉ “nung nấu” trong lòng niềm căm thù cháy bỏng và ý chí diệt thù giải

phóng quê hương mà trong tâm tưởng vẫn luôn ngời sáng hình ảnh đôi mắt

của người yêu, như ngôi sao lấp lánh trong đêm đen, đầy hi vọng và bồn

chồn, khao khát, cứ cháy mãi lên ở phía chân trời xa. Trong những câu thơ

trên, tình yêu và tình đất nước, cái chung và cái riêng đã hoà vào nhau làm

một, rất khó lòng có thể tách bạch. Ở một bài thơ khác trong thời kì kháng

chiến chống Pháp, Nguyễn Đình Thi cũng nói lên ý đó qua hình ảnh ngôi sao

và ngọn lửa:

Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh

Soi sáng đường chiến sĩ dưới ngàn mây

Ngọn lửa nhớ ai mà hồng đêm lạnh

Sưởi ấm lòng chiến sĩ dưới ngàn cây…

Ngôi sao trong đêm không bao giờ tắt

Chúng ta yêu nhau chiến đấu suốt đời

Ngọn lửa trong rừng bập bùng đỏ rực

Chúng ta yêu nhau kiêu hãnh làm người.

(Nguyễn Đình Thi. Nhớ)

Những khổ thơ tiếp theo mang tính chính luận rõ nét nhưng cũng đầy

cảm xúc. Đây là hình ảnh một đất nước đau thương uất hận, được diễn tả

bằng những câu thơ sáu chữ ngắn gọn, đanh thép, rực lửa căm hờn:

Bát cơm chan đầy nước mắt

Bay còn giằng khỏi miệng ta

Thằng giặc Tây, thằng chúa đất

Đứa đè cổ, đứa lột da

Nhưng đất nước đó vẫn không hề chịu khuất phục:

Xiềng xích chúng bay không khoá được

Page 128: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Trời đầy chim và đất đầy hoa

Súng đạn chúng bay không bắn được

Lòng dân ta yêu nước thương nhà

Từ đó dẫn đến sự khái quát cao độ về những hi sinh mất mát to lớn của

đất nước trong chiến tranh: “ngày nắng đốt theo đêm mưa giội/ Mỗi bước

đường mỗi bước hi sinh”, nhưng vẫn tràn đầy lạc quan: “Trán cháy rực nghĩ

trời đất mới/ Lòng ta bát ngát ánh bình minh”. Do đó, đất nước ấy vẫn hồi

sinh: “Khói nhà máy cuộn trong sương núi/ Kèn gọi quân văng vẳng cánh

đồng/ Ôm đất nước những người áo vải/ Đã đứng lên thành những anh hùng.

Bức tượng đài sừng sững về đất nước

Bài thơ khép lại bằng hình ảnh khái quát về đất nước trong suốt cuộc

kháng chiến trường kì:

Súng nổ rung trời giận dữ

Người lên như nước vỡ bờ

Nước Việt Nam từ máu lửa

Giũ bùn đứng dậy sáng loà.

Khổ thơ chuyển phương thức biểu hiện từ cụ thể sang ý nghĩa tượng

trưng khá nhuần nhuyễn, tự nhiên. Từ một chất liệu hiện thực tác giả quan sát

trực tiếp được ở chiến trường Điện Biên Phủ (súng nổ rung trời, người lên

như nước vỡ bờ, máu lửa, giũ bùn đứng dậy), qua thủ pháp của nghệ thuật

điện ảnh và ngôn ngữ thơ ca khái quát, giàu tính hình tượng (Nước Việt

Nam), Nguyễn Đình Thi đã tạo nên một khung cảnh có ý nghĩa biểu tượng hết

sức hoành tráng về đất nước trong đấu tranh và chiến thắng. Trưa ngày

7/5/1954, trong tiếng đại bác ầm vang rung trời chuyển đất, dưới ánh nắng hè

gay gắt và ánh chớp lửa đạn rực trời, các chiến sĩ ta vừa trải qua “Năm mươi

sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt/ Máu trộn bùn non/

Gan không núng, chí không mòn”(Tố Hữu), mình mẩy đầy bùn đất, đã ào ạt

Page 129: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

xông lên chiếm đồi A1, cao điểm cuối cùng của giặc, giải phóng hoàn toàn

Điện Biên, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến:

Chín năm làm một Điện Biên

Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng

Bằng thủ pháp của nghệ thuật điện ảnh vừa quay cận cảnh để đặc tả

chi tiết, vừa lùi xa để bao quát được toàn cảnh một không gian rộng lớn của

chiến trường, kết hợp với những từ ngữ giàu tính khái quát, tác giả đã phát

huy được hiệu quả nghệ thuật tổng hợp, tác động mạnh mẽ vào trí tưởng

tượng của người đọc, làm cho những hình ảnh hiện thực mà nhà thơ ghi

được trên đây trở thành một hình ảnh có ý nghĩa biểu tượng, vừa cụ thể vừa

khái quát về một đất nước kháng chiếp trên cái nền của một bối cảnh rộng

lớn. Đó không còn là một khung cảnh cụ thể của thực tế chiến trường Điện

Biên trong trận chiến đấu cuối cùng trên đồi A1 lịch sử nữa mà đã thực sự là

hình ảnh của “nước Việt Nam” trong suốt chín năm kháng chiến “từ máu lửa,

giũ bùn đứng dậy sáng loà”, một đất nước đã vượt qua bao gian khổ, đau

thương, từ trong hi sinh, căm phẫn đã anh dũng đứng dậy chiến đấu và chói

ngời chiến thắng.

Đây cũng là khổ thơ thứ hai trong bài dùng hình thức thơ sáu chữ.

Cách ngắt nhịp 2/ 2/ 2 đều đặn, ngắn gọn tạo ra một âm hưởng rắn chắc,

hùng tráng, diễn tả rất đạt tư thế đĩnh đạc đường hoàng, tầm vóc uy nghi

sừng sững và khí thế hào hùng của cả đất nước trong suốt cuộc kháng chiến

bền bỉ dẫn đến chiến thắng lịch sử kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến, giành

lại nền độc lập, tự do. Đoạn thơ kết thúc tác phẩm mang đậm tính chất sử thi

hoành tráng đã dựng lên được bức tượng đài sừng sững về đất nước chói

ngời trên cái nền của máu lửa, bùn lầy, trong một không gian dồn dập, ầm

vang tiếng súng nổ rung trời. Đó cũng là cao trào trong cảm xúc về đất nước

của tác giả ở bài thơ này.

Page 130: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

20. VỀ THI PHÁP TÊN NHÂN VẬT VÀ NGƯỜI ĐÀN BÀ KHÔNG CÓ TÊN TRONG TRUYỆN NGẮN “VỢ NHẶT” CỦA KIM LÂN

Nhân vật trong tiểu thuyết, truyện ngắn… cũng giống như trong cuộc

đời vậy, thường bao giờ cũng phải có một cái tên, dù đấy là nhân vật chính

hay có khi chỉ là những nhân vật phụ. Các nhà văn đặt tên cho nhân vật của

mình thường là ngẫu nhiên, chỉ dùng để gọi là chính chứ ít khi lại có liên quan

trực tiếp tới những ý tưởng nghệ thuật mà nhà văn định thể hiện trong tác

phẩm. Nhưng đôi khi, tên nhân vật cũng bao hàm một dụng ý nào đó, chẳng

hạn trong truyện ngắn Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu: Nguyệt

cũng có nghĩa là trăng, một mảnh trăng khuyết, sáng trong như một mảnh bạc

nhưng lại ở tít tận cuối rừng xa xôi, như thực, như mơ, giống như những vẻ

đẹp sâu kín trong tâm hồn những người quanh ta, gần gũi mà lung linh, khó

nắm bắt; Lãm nghĩa là chiêm ngưỡng, còn chị Tính là tính toán, thấy cô gái

đẹp người đẹp nết trong đơn vị liền tính ngay cho em trai mình v.v… Trường

hợp ngược lại, khi nhà văn cố tình không đặt tên cho nhân vật của mình thì

chắc hẳn phải là một dụng ý nghệ thuật. Như trong tuỳ bút Sông Đà, người ta

thấy Nguyễn Tuân rất tỉ mỉ, kĩ lưỡng trong việc kể tên các nhân vật nhưng

không ai biết ông lái đò điệu nghệ trên sông Đà tên là gì. Hoá ra, người lái đò

sông Đà là một biểu tượng, là hiện thân vẻ đẹp của con người lao động mới,

những con người tài ba, dũng cảm đang ngày đêm khám phá, chinh phục

dòng thác dữ sông Đà, bắt nó phải toả ra nguồn điện phục vụ đời sống con

người, làm giàu cho Tổ quốc…

Kiểu dụng ý nghệ thuật trên đây cũng có thể coi như một thi pháp tên

nhân vật trong truyện. Tôi muốn nói đến cái thi pháp ấy trong Vợ nhặt của

Kim Lân, một truyện ngắn đã từng được nhà văn Nguyễn Khải xếp vào trong

số rất ít những tác phẩm văn học đương đại Việt Nam “dường như chẳng có

gì cả nhưng lại có khả năng làm kinh động lòng người”. Truyện ngắn này có

ba nhân vật mà hình như cả ba đều là nhân vật chính: anh cu Tràng, bà cụ

Tứ (mẹ Tràng) và người phụ nữ là vợ Tràng; chị không có tên, người ta gọi

chị là “vợ nhặt”. Nhân thể cũng xin nói thêm một chút về cái nhan đề Vợ nhặt;

đúng ra, nhan đề của tác phẩm này phải đảo lại thành Nhặt vợ. Bởi đây là câu

Page 131: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

chuyện xoay quanh cái sự kiện “nhặt vợ” rất trớ trêu của anh cu Tràng. Nhà

Tràng chỉ có hai mẹ con ở cái xóm ngụ cư nghèo nên lép vế, bị khinh rẻ; anh

ta lại xấu trai, hơi dở hơi nên ế vợ. Nếu trong hoàn cảnh bình thường, có lẽ

khó có thể Tràng lại cô vợ được, ấy vậy mà trong nạn đói khủng khiếp năm Ất

Dậu, anh ta lại lấy được vợ một cách rất dễ dàng. Đúng hơn là anh ta nhặt

được một cô vợ, mà nhặt một cách “tầm phơ tầm phào” chứ chẳng cần phải

cưới treo gì. Vợ anh là một người phụ nữ trong đám hành khất tha hương,

giữa lúc sắp chết đói đến nơi, cùng đường đành phải theo Tràng về làm vợ.

Vậy thì việc đặt nhan đề như thế, ắt là Kim Lân – ít nhất là tự trong tâm thức –

đã muốn dành hẳn câu chuyện này để kể với chúng ta về chị vợ nhặt, người

đàn bà không có tên ấy rồi còn gì!

Mà quả có thế thật. Nếu không thì sao một nhân vật không có tên mà

nhà văn lại để tâm miêu tả tỉ mỉ, kỹ càng đến thế. Người đọc cứ nghĩ chắc

hẳn đây phải là một người phụ nữ, hay nếu là một cô gái thì có lẽ cũng đã

luống tuổi một chút rồi, bởi cứ theo sự miêu tả của Kim Lân, cái cách ăn nói,

đi đứng… của chị thì rõ ra là một người phụ nữ lao động rất mực hiền thục,

chất phác. Song điều đáng nói nhất trong cách thể hiện nhân vật này (và cả

hai nhân vật còn lại của truyện cũng vậy) là nhà văn đã làm nổi bật được quá

trình chuyển biến tâm lí rất tích cực của con người trong cảnh ngộ khốn cùng

thông qua những biểu hiện tâm trạng hết sức sinh động, tinh tế. Trên “con

đường khẳng khiu” theo Tràng về xóm ngụ cư, trong lòng người phụ nữ ấy

vừa xấu hổ, tủi nhục lại vừa lo lắng, phấp phỏng. Xấu hổ, tủi nhục vì dẫu có là

bước đường cùng, nhưng chị làm sao tránh khỏi cái tiếng xấu là “đàn bà theo

giai” trong bối cảnh của cái xã hội phong kiến lạc hậu còn đầy rẫy những định

kiến nặng nề lúc đó. Còn lo lắng, phấp phỏng vì không biết liệu cái anh chàng

mà chị đánh liều theo về làm vợ này có giúp chị tránh khỏi phải chết đói? Liệu

những người trong gia đình anh ta có thông cảm và chấp nhận chị? Một biến

cố cuộc đời đến quá bất ngờ khiến lòng chị không yên với bao tâm trạng, suy

tư. Do đó, bên cạnh dáng điệu phởn phơ tự đắc của Tràng, vẻ e thẹn,

ngượng ngập của chị lại càng nổi bật. “Người đàn bà đi sau hắn chừng ba

bốn bước. Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng

Page 132: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn”. Cả đến lúc

đã gặp cụ Tứ, được Tràng giới thiệu là vợ và bà đã chấp nhận thì trong bóng

tối của căn nhà, chị vẫn không khỏi e dè, khép nép. Nhà văn dường như đã

hiểu thấu nỗi lòng chị và thể hiện được những gì đang diễn ra trong lòng

người đàn bà kể từ khi chị đặt bước trên con đường xa lạ về nhà chồng.

Chắc là với chị, con đường ấy dài dặc và xa lắm, bởi không biết cái gì đang

chờ đợi chị, liệu chị có được đón nhận một cách dễ dàng? Liệu cái hạnh phúc

“thử liều nhắm mắt đưa chân” này có cho chị được chút ấm áp hay lại còn

khốn nạn, cay đắng hơn?... Bao nhiêu lo lắng, phấp phỏng khiến sự sốt ruột

trong lòng chị đôi lúc phải bật ra thành tiếng: “Sắp đến chưa?”, “Vẫn chưa đến

à?“, rồi: “Nhà có ai không?”… Chị rơi vào tình cảnh phải theo không Tràng

cũng chỉ là sự bất đắc dĩ, cốt tìm một nơi nương tựa qua ngày, hi vọng có thể

may ra khỏi phải chết đói, nên khi tận mắt chứng kiến gia cảnh của Tràng chỉ

là một “cái nhà vắng teo, đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những

bụi cỏ dại” thì “cái ngực gày lép nhô hẳn lên, nén một tiếng thở dài”. Hoá ra

cái gia cảnh của anh chàng mới ban chiều còn vỗ vỗ vào túi khoe: “Rích bố

cu, hả!” là thế này đây. Chị còn biết sao được nữa. Thất vọng, buồn tủi, chua

xót quá nên mặc cho Tràng lăng xăng, đon đả, “thị chỉ nhếch mép cười nhạt

nhẽo (…) hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần...”. Tôi cứ nghĩ mãi về

cái sự kĩ càng, tỉ mẩn đến mức ghê người của Kim Lân ở cái chi tiết tưởng

như rất bình thường này. Sao đã đứng giữa căn nhà của mẹ con Tràng rồi

mà nhà văn vẫn cứ để tay chị ôm khư khư cái thúng như thế? Phải chăng vì

“căn nhà rúm ró” của mẹ con Tràng quá chật chội, chị chẳng biết để cái thúng

vào đâu? Hay vì giờ đây, cái thúng (dụng cụ đi xin ăn của chị) là tài sản còn

lại duy nhất nên chị chẳng nỡ rời?…

Tuy nhiên, ngòi bút của Kim Lân không chỉ tinh tế mà còn rất nhân hậu,

ông không muốn khoét sâu vào những nỗi trớ trêu xót xa, đau lòng ấy. Bởi

ngay khi viết Vợ nhặt, mặc dầu lấy bối cảnh là nạn đói khủng khiếp do phát xít

Nhật và thực dân Pháp gây ra đầu năm Ất Dậu (1945) làm hơn hai triệu đồng

bào miền Bắc nước ta bị chết đói, nhưng ông không muốn dìm người đọc

trong cái buồn Khổ, đói nghèo: “Khi viết về cái đói, thường mọi người có ý

Page 133: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

nghĩ là khi đói, người ta cảm thấy khổ cực và chỉ muốn chết. Tôi có ý định viết

một số truyện ngắn nhưng với ý khác là khi đói, người ta không nghĩ đến con

đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống. Dù trong tình huống bi thảm

đến đâu, dù kề bên cái chết, họ vẫn khao khát hạnh phúc, vẫn hướng về ánh

sáng, vẫn tin vào sự sống và hi vọng ở tương lai, vẫn muốn sống và sống cho

ra người”. Ý thức muốn “chú ý làm nổi bật ý nghĩa nhân bản trong truyện” đó

của Kim Lân đã khiến cho cái khát vọng mãnh liệt muốn được sống, được

hạnh phúc của con người trong nhân vật người đàn bà nghèo khổ là vợ nhặt

cứ thế mà lộ ra một cách hết sức hồn hậu, tự nhiên. Không tìm thấy sự no đủ

nhưng dẫu sao, chị cũng vơi bớt được một nỗi lo trong dạ khi biết nhà Tràng

chỉ có một mẹ già; dĩ nhiên, chị hiểu điều ấy là đỡ phức tạp, khả năng bị hắt

hủi, xua đuổi giảm xuống mức thấp nhất… Mà đấy chẳng phải đã là một nửa

sự sống rồi sao! Cho nên, lúc ấy chị đã có thể “tủm tỉm cười” nhại đùa lại câu

nói của Tràng: “Đã một mình lại còn mấy u: Bé lắm đấy!”. Và mặc dù vẫn còn

rất buồn vì thất vọng, hầu như chị chẳng còn nói được gì kể từ lúc chứng kiến

gia cảnh của mẹ con Tràng, nhưng trước sự cảm thông, yêu thương trong

một mái ấm gia đình, sáng hôm sau, chị đã săm sắn cùng với mẹ chồng quét

dọn, thu vén lại nhà cửa, vườn tược như một người con dâu thật sự trong

nhà. Sự thay đổi ấy lớn đến nỗi chính Tràng cũng không khỏi ngạc nhiên:

“Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng

mực, không có vẻ gì chao chát, chỏng lỏng như mấy lần Tràng gặp ở ngoài

tỉnh”.

Đặc biệt, trong bữa ăn của một ngày mới (dù chỉ là cháo loãng với cám)

người nói “toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này” lại là một bà

cụ sắp gần đất xa trời, còn người nói đến đấu tranh, “phá kho thóc của Nhật

chia cho người đói” lại chính là chị “vợ nhặt”, người đàn bà không có tên trong

tác phẩm. Hình ảnh từng đoàn “những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi

trên đê Sộp (…) và lá cờ đỏ bay phấp phới…” do câu chuyện của chị gợi ra

có thể còn “ít nhiều gượng gạo” như có người đã từng nhận xét nhưng theo

Kim Lân thì nó bắt nguồn từ một bối cảnh có thực là phong trào cách mạng

vùng lên ở ngay tại làng ông và các vùng lân cận khi đó. Ông tâm sự: “Khi

Page 134: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

viết, tôi không nghĩ nhiều đến xuất xứ, hoàn cảnh của câu chuyện mà tất cả

gần như tự nhiên đến. Nhân vật do hoàn cảnh của câu chuyện mà nảy ra

những tâm tư, hành động, cách xử sự mà tôi không định trước”. Tuy nhiên,

những chi tiết kết thúc tác phẩm trên đây chắc chắn phải là một ý đồ nghệ

thuật có định trước của tác giả. Theo ông, cái kết ấy nhằm “giải đáp nỗi băn

khoăn cho truyện vì nếu cứ để cái đói kéo dài thì mọi việc tối quá, cần phải có

một hướng mở ra (…). Sau khi Tràng lấy được vợ, cảnh sống gia đình có

triển vọng hơn, tuy không thật rõ rệt nhưng đã tạo được niềm tin. Trong cuộc

sống như có một cái gì đổi thay, biến chuyển…”.

Nhiều người cho rằng, ở truyện ngắn này, nhân vật bà cụ Tứ, một

người mẹ nhân hậu, từng trải là một nhân vật làm người đọc xúc động nhiều

nhất. Điều ấy quả không sai. Nhưng đọc đến những dòng chữ cuối cùng của

truyện ngắn này và gấp trang sách lại, cái dư vị đọng lại, ám ảnh mãi tâm trí

ta, khiến ta phải động lòng trắc ẩn nhất vẫn là người đàn bà không có tên làm

“vợ nhặt” của anh cu Tràng (nếu có gọi chị là “vợ nhặt” thì đấy cũng không

phải là tên). Ta vẫn thấy như đang ở trước mắt mình hình ảnh người đàn bà

cái ngày “vu quy” ảm đạm ấy, thân hình gầy gò, hốc hác, quần áo rách rưới tả

tơi, rón rén, e thẹn, mặt bần thần, tay ôm khư khư cái thúng (cái thúng không

thôi nhưng hình như nó là tài sản duy nhất của chị lúc ấy)…, vậy mà sáng

hôm sau đã tươi tắn bừng sáng cùng với ánh bình minh của một ngày mới.

Sự hồi sinh ấy phải chăng là biểu hiện rõ nhất sức sống mãnh liệt và khát

vọng hạnh phúc đầy tính nhân bản của con người…

21. TIẾNG “HÁT CON TÀU” – TIẾNG HÁT CỦA NGUỒN CẢM HỨNG MỚI TRONG MỘT TÂM HỒN THƠ

Từ một tâm trạng và một hình ảnh có ý nghĩa biểu tượng: con tàu lên Tây Bắc

Tiếng hát con tàu (rút trong tập Ánh sáng và phù sa, in năm 1960) là kết

quả sự thúc đẩy cảm hứng mạnh mẽ trong tâm hồn Chế Lan Viên về sự trăn

trở ý thức nghệ thuật chung của giới văn nghệ sĩ lúc đó: tha thiết gắn bó với

Page 135: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

công cuộc xây dựng cuộc sống mới của nhân dân, sẵn sàng đến với những

miền xa xôi của Tổ quốc đang còn gặp nhiều khó khăn, gian khổ… Bài thơ

thể hiện nỗi khát khao cháy bỏng và niềm hạnh phúc lớn lao của một tâm hồn

thơ khi được trở về hoà nhập với cuộc đời cần lao nhưng rộng lớn của nhân

dân, đất nước.

Để diễn đạt cảm xúc và chủ đề tư tưởng trên đây, bài thơ bắt đầu từ

một hình ảnh có ý nghĩa biểu trưng: con tàu lên Tây Bắc. Hình ảnh này hoàn

toàn không có nghĩa hiện thực vì trong thực tế không có con tàu và đường tàu

lên Tây Bắc, nó chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng nhằm thể hiện một khát

vọng mãnh liệt trong tâm hồn nhà thơ ở một hoàn cảnh đặc biệt. Lúc đầu, bài

thơ có nhan đề là Con tàu Tây Bắc. Chế Lan Viên nhớ lại: Bài thơ “được viết

ra từ một tâm trạng, hồi ấy tôi đau yếu không đi đâu được và tôi lại đặt câu

hỏi: Nếu mình không đi được thì sao? Tôi đã tìm một cách an ủi để tự yên

lòng:

Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc

Khi lòng ta đã hoá những con tàu

Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát

Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu?

Nói thế thôi nhưng trong lòng rất day dứt. Lúc này cảm thấy như cuộc

sống của mình sẽ chật hẹp, nhỏ bé nếu không hoà vào được với cuộc đời

chung. Những câu thơ đầu là nói cho mình, cho cảnh ngộ của mình:

“Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp

Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?

Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép

Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia”

Từ tâm trạng cụ thể và hình ảnh con tàu tâm tưởng đó mà khơi gợi

những kỉ niệm kháng chiến sâu nặng nghĩa tình với miền đất Tây Bắc và gửi

trọn lòng mình trong sự gắn bó tha thiết với cuộc sống của nhân dân, Chế

Page 136: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Lan Viên đã tìm ra được mạch phát triển cảm xúc – tư tưởng hợp lí, xúc động

và rất tự nhiên, dễ đi vào lòng người:

Trên Tây Bắc! Ôi, mười năm Tây Bắc

Xứ thiêng liêng, rừng núi đã anh hùng

Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất

Nay dạt dào đã chín trái đầu xuân

Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa

Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đường

Con đã đi nhưng con cần vượt nữa

Cho con về gặp lại Mẹ yêu thương

“Mẹ” ở đây là cuộc sống rộng lớn của nhân dân, là Đất Mẹ của quê

hương trên Tây Bắc. Như vậy, con tàu là một hình ảnh biểu tượng cho tâm

hồn của chính nhà thơ – chủ thể trữ tình – và “tiếng hát con tàu” là tiếng hát

của một tâm hồn thơ trong hành trình trở về gắn bó với cuộc đời, hoà nhập

với cuộc sống của nhân dân, đất nước. Tiếng hát đó lại càng hào hứng, thiết

tha và xúc động hơn vì nó là tiếng lòng của một hồn thơ đang nỗ lực tự vượt

chính mình với tinh thần: “Phá cô đơn ta hoà hợp với người”, từ bỏ cái tôi cô

đơn, đóng khép để hoà nhập với cuộc đời chung.

Mượn biểu tượng con tàu và nương theo trình tự bám sát hành trình

của con tàu lên Tây Bắc, kết cấu bài thơ thể hiện diễn biến tâm trạng của chủ

thể trữ tình trong mạch cảm xúc, suy tưởng của một tư duy chính luận rất rõ

nét. Ngoài 4 câu thơ đề từ của bài mà tác giả có ý định dùng làm lời đề từ

chung cho cả một chùm thơ trong Ánh sáng và phù sa, hai khổ thơ đầu là

những trăn trở của một tâm hồn thơ đồng thời cũng là một sự thôi thúc, một

lời mời gọi lên đường. Chín khổ sau khơi gợi những kỉ niệm nghĩa tình sâu

nặng với nhân dân, qua đó bộc lộ khát vọng và niềm hạnh phúc lớn lao của

nhà thơ khi được trở về hoà nhập với cuộc đời rộng lớn và bốn khổ cuối là

khúc hát lên đường sôi nổi, say mê, tin tưởng và lãng mạn. Giọng điệu, âm

Page 137: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

hưởng cửa bài thơ cũng biến đổi phù hợp với mạch tâm trạng và sự phát triển

cảm xúc của từng đoạn nói trên: đoạn đầu có tính chất đối thoại, tranh luận và

thuyết phục; đoạn hai thiết tha, sâu lắng và cảm động; đoạn ba dồn dập, lôi

cuốn, bay bổng. Và cuối cùng cũng phải kể đến một nét đặc sắc nghệ thuật

nổi bật của thơ Chế Lan Viên nói chung và của bài thơ này nói riêng, đó là

chất trí tuệ và sự sáng tạo hình ảnh. Câu thơ của Chế Lan Viên thường được

cấu tạo bằng các hình ảnh kết thành từng chuỗi, tầng tầng lớp lớp, vừa hiện

thực, vừa tượng trưng. Nhiều biện pháp xây dựng hình ảnh được sử đụng,

nhất là biện pháp so sánh (đôi khi khá cầu kì), tạo ra được những liên tưởng

bất ngờ, độc đáo và gợi mở trí tưởng tượng phong phú cửa người đọc.

Nhưng điều quan trọng nhất là đằng sau những kĩ xảo ngôn từ, bài thơ vẫn

đạt được sự nhuần nhuyễn giữa cảm xúc và suy tưởng, giữa tí trí và tình

cảm. Từ sự khơi gợi nghĩa tình gắn bó sâu nặng với nhân dân mà mời gọi,

giục giã những tâm hồn thơ đến với mọi miền của Tổ quốc, đến với cuộc sống

cần lao nhưng rộng lớn của nhân dân nên bài thơ vẫn tạo ra được sự rung

động và lắng đọng cần thiết, gợi mở những suy tưởng sâu xa về chân lí cuộc

sống và chân lí của thơ ca, nghệ thuật.

Ý nghĩa của bốn câu thơ đề từ: sự khái quát về quy luật của cảm xúc thơ ca, nghệ thuật

Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc

Khi lòng ta đã hoá những con tàu

Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát

Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu?

Như mọi lời đề từ cho tác phẩm, bốn câu thơ trên đây cũng có thể coi

như sự đúc kết, sự khái quát hoá mạch suy tưởng của Chế Lan Viên trong

toàn bộ bài thơ về một chân lí của cảm xúc thơ ca nghệ thuật: mối quan hệ

gắn bó biện chứng giữa tâm hồn, tình cảm của người nghệ sĩ với cuộc đời

chung. Một mặt, Chế Lan Viên ý thức rất rõ vai trò quyết định của chủ thể cảm

xúc “khi lòng ta đã hoá những con tàu”, nhưng mặt khác, hiện thực đời sống

Page 138: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

“Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát” cũng là một yếu tố vô cùng quan trọng trong

việc tạo nên những xúc cảm thơ ca chân chính, đẹp đẽ. Nói cách khác, khi

tâm hồn, tình cảm của nhà thơ đã hoà làm một với hơi thở và tinh thần của

cuộc sống lớn thì cũng là lúc nhà thơ liền tìm thấy những cảm xúc thơ ca đích

thực cho hồn thơ của mình: “Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu”. Chế Lan

Viên tâm sự: “Lúc làm bài thơ Con tàu Tây Bắc tôi chưa lên Tây Bắc (…)

nhưng tôi có vốn hiểu biết về núi rừng Trường Sơn kháng chiến. Trung thơ ca

cũng có hiện tượng lạ. Nguyên Chẩn đi thì viết hay, Bạch Cư Dị không đi lại

viết hay hơn. Bài thơ Con tàu say của Rim–bô được viết ra khi tác giả của nó

chưa đi biển. Cái căn bản trong thơ là nhiệt tình lớn, nhiệt tình lớn hỗ trợ với

hiện thực nên toả ra cường độ cao. Có khi là nhiệt tình mới, mơ ước mới

cộng với vốn sống cũ. Trong bài thơ, tôi nói nhiều về kỉ niệm kháng chiến, nó

sống lại trong lòng tác giả như một chất liệu trực tiếp. Trong cuộc đời sáng

tác, có những chất liệu, vốn sống đến với mình một cách tự nhiên ở lúc này,

lúc khác và đến một lúc nào đó mới phát huy tác dụng trong thơ. Tôi nghĩ đó

cũng là trường hợp bài thơ Con tàu Tây Bắc”

Những kỉ niệm kháng chiến và niềm hạnh phúc lớn lao của nhà thơ khi được trở về gắn bó với cuộc sống của nhân dân

Sự trở về gắn bó với nhân dân cũng chính là sự trở về với những gì

sâu nặng nhất của lòng mình. Vì vậy, sau những hình ảnh giục giã lên Tây

Bắc của con tàu tâm tưởng ở đầu bài thơ, tác giả chuyển cảm xúc của mình

về những kỉ niệm sâu nặng nghĩa tình với nhân dân trong kháng chiến. Chế

Lan Viên viết bài thơ này khi đất nước đã qua năm, sáu năm xây dựng trong

hoà bình. Kháng chiến đã lùi vào dĩ vãng nhưng đó là những năm tháng

không thể nào quên. Nhất là với các nhà thơ lớp trước Cách mạng như Chế

Lan Viên thì cuộc kháng chiến cứu nước còn có một ý nghĩa đặc biệt, bởi đó

là thời kì đã diễn ra những biến đổi mạnh mẽ về cuộc đời và con đường nghệ

thuật đến với nhân dân và cách mạng của họ. Vì thế, nhà thơ đã nhắc đến

kháng chiến với một tấm lòng đặc biệt biết ơn và những tình cảm thiêng liêng,

sâu nặng:

Page 139: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa

Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đường.

Kháng chiến cũng gắn liền với Tây Bắc, mảnh đất đã từng in dấu bao kỉ

niệm riêng – chung: “Xứ thiêng liêng, rừng núi đã anh hùng/ Nơi máu rỏ tâm

hồn ta thấm đất”, nay đang náo nức hồi sinh cuộc sống mới: “Nay dạt dào đã

chín trái đầu xuân”. Do đó, lên Tây Bắc cũng tức là trở về với những gì thiết

tha, sâu nặng nhất của lòng mình. Có thể nói, đoạn thơ giãi bày những tình

cảm thắm thiết, sâu nặng nghĩa tình của nhà thơ với nhân dân qua những kỉ

niệm kháng chiến là đoạn tạo được sự xúc động mạnh mẽ nhất trong toàn bộ

bài thơ:

Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ

Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa,

Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa

Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa.

Để diễn tả được ý nghĩa sâu xa của niềm hạnh phúc lớn lao khi được

trở về gắn bó với nhân dân, đoạn thơ sử dụng lối so sánh trùng điệp giữa một

bên là “con gặp lại nhân dân” với một bên là những hình ảnh so sánh liên tiếp:

“nai về suối cũ”, “cỏ đón giêng hai”, “chim én gặp mùa”, “trẻ thơ đói lòng gặp

sữa”, “nôi ngừng gặp cánh tay đưa”. Ở vế đầu, nhà thơ đã chuyển cách xưng

hô từ cái “ta” chung sang cái tôi cá nhân “con”. Dùng đại từ “con”, một đại từ

chỉ quan hệ thân tộc để xưng gọi với “nhân dân”, tác giả vừa thể hiện được

tấm lòng thành kính thiêng liêng đối với nhân dân vừa nói lên được niềm vui

sướng, hạnh phúc tột đỉnh của mình, bởi cách xưng gọi đó gợi những tình

cảm yêu thương thân tình, bền chặt. Trong những năm kháng chiến, nhân

dân đã trở thành những người thân, thành ruột thịt của nhà thơ nên khát vọng

gặp lại nhân dân cũng là khát vọng trở về với những con người thân thiết

trong ngôi nhà của mình. Những hình ảnh so sánh ở vế sau đều rất hợp với lẽ

tự nhiên, thể hiện được sự hoà hợp giữa nhu cầu, khát vọng của bản thân và

sự đáp ứng của hiện thực nên đã có tác dụng nhấn mạnh niềm hạnh phúc tột

Page 140: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

độ và ý nghĩa sâu xa của việc trở về hoà nhập, gắn bó với cuộc sống của

nhân dân. Những hình ảnh so sánh liên tiếp đó cũng được sử dụng như một

thủ pháp nghệ thuật trùng điệp nhằm diễn tả cho đủ, cho thoả hết mọi khía

cạnh ý nghĩa và niềm hạnh phúc lớn lao trong cuộc “phục sinh” của Chế Lan

Viên, một hồn thơ lãng mạn siêu hình vào bậc nhất và có thời đã tự giam

mình trong cái tôi cô đơn, đóng khép. Đọc những câu thơ này, ta có thể thấy

được sự rung động hết sức sâu sắc, mãnh liệt và thiết tha của một hồn thơ

trong phút giây bừng sáng sự giác ngộ về một chân lí đời sống, cũng là chân

lí của thơ ca, nghệ thuật: sự trở về với nhân dân cũng tức là trở về với cội

nguồn sự sống, trở về với những cảm hứng thơ ca chân chính, đích thực.

Những hình ảnh so sánh ở đoạn thơ này rất cụ thể và dung dị chứ không cầu

kì theo cách quen thuộc của Chế Lan Viên, tất cả đều được rút ra từ đời sống

tự nhiên, trong cuộc đời thường nhật nên rất gần gũi và gợi cảm: Tuy nhiên,

sự tương hợp tự nhiên giữa hai vế so sánh vẫn tạo được sự bất ngờ lớn, bởi

nó thể hiện khả năng phát hiện khá sắc sảo, tinh tế mà vẫn mang đậm chất

suy tư, triết lí của nhà thơ. Đó cũng là điểm mạnh trong tư duy nghệ thuật và

phong cách thơ của Chế Lan Viên từ sau Cách mạng tháng Tám.

Niềm hạnh phúc lớn lao đó còn khơi gợi kí ức đầy xúc động về sự cưu

mang, đùm bọc của nhân dân đối với cách mạng, trong đó có các nhà thơ

kháng chiến năm xưa. Hình ảnh nhân dân qua sự hồi tưởng của nhà thơ

không còn là một khái niệm chung chung trừu tượng mà hết sức cụ thể, sinh

động bởi những kỉ niệm đó gắn liền với những con người rất gần gũi và đầy

đức hi sinh. Nhân dân, đó là “anh con, người anh du kích/ Chiếc áo nâu anh

mặc đêm công đồn/ Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách/ Đêm cuối cùng còn

gửi lại cho con.” Đó là “em con, thằng em liên lạc/ Mười năm tròn chưa mất

một phong thư,” là bà “mế” già “lửa hồng soi tóc bạc/ Năm con đau, mế thức

một mùa dài”... Bằng cách đưa ra những hình ảnh liên tiếp sau động từ “nhớ”

được lặp đi lặp lại như một điệp khúc: “Con nhớ anh con”, “Con nhớ em con”,

“Con nhớ mế”, “Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ”… đoạn thơ chồng

chất, ăm ắp những kỉ niệm xúc động, ân tình theo dòng hồi ức tuôn trào và

thổn thức hiện ra trong nỗi nhớ của nhà thơ. Những câu thơ nói về tình nghĩa

Page 141: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

với nhân dân trong đoạn thơ này đã tạo được sự rung động sâu lắng cần thiết

cho mạch suy tưởng, triết lí chung của cả bài thơ. Bởi nó biểu lộ tấm lòng biết

ơn sâu nặng và sự xúc động chân thành của một tâm hồn giàu xúc cảm đã

được trải nghiệm thấm thía trong sự gắn bó với nhân dân suốt mười năm

kháng chiến.

Những chiêm nghiệm giàu chất triết lí về chân lí cuộc sống, chân lí của thơ ca nghệ thuật

Từ những kỉ niệm kháng chiến sâu nặng với nhân dân, Chế Lan Viên

đã nâng lên thành những suy ngẫm, chiêm nghiệm giàu tính khái quát về quy

luật của đời sống tình cảm trong tâm hồn con người:

Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ

Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?

Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!

Đoạn thơ như một châm ngôn, được đúc kết một cách thật sắc sảo, súc

tích, quen thuộc mà vẫn có cái gì đó rất mới lạ, tất yếu mà vẫn thấy thật bất

ngờ: “Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn”. Kết hợp nhuần

nhuyễn giữa cảm xúc và suy tưởng đồng thời nâng cảm xúc, suy tưởng lên

thành những triết lí khái quát là ưu điểm chung của thơ Chế Lan Viên, được

thể hiện rất rõ nét trong đoạn thơ này.

Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét

Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng

Như xuân đến chim rừng lông trở biếc

Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương.

Đến đây, mạch thơ bỗng đột ngột tưởng như rẽ sang một hướng suy

tưởng khác nhưng kì thực vẫn tiếp tục khơi sâu thêm mạch suy ngẫm và triết

luận ở khổ thơ trước. Nhìn hình thức tưởng như đó là những câu thơ viết về

tình yêu đôi lứa nhưng thực chất là tác giả vẫn tiếp tục hướng tới lí giải, cắt

Page 142: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

nghĩa làm bừng sáng ý nghĩa của sự gắn bó giữa nhà thơ với cuộc sống cần

lao rộng lớn của nhân dân. Cả khổ thơ là một quan hệ so sánh ngầm ẩn: Sự

gắn bó của nhà thơ với nhân dân được ví như trong tình yêu, cần phải có sự

hoà hợp, đồng điệu của hai tâm hồn. Các hình ảnh so sánh ở đoạn thơ này

đều thấm đẫm chất chiêm nghiệm và triết lí: mỗi sự vật, hiện tượng chỉ có thể

tồn tại, sinh thành và có ý nghĩa trong mối quan hệ gắn bó sinh tử với một sự

vật, hiện tượng khác, như mùa đông với cái rét, như cánh kiến (là một loài kí

sinh) với hoa vàng (loài cây chủ), như mùa xuân với sự trở biếc của lông chim

rừng. Đó cũng là bản chất của tình yêu với sự gắn bó khăng khít của hai tâm

hồn. Nhưng ý thơ lại hướng tới một tình cảm lớn lao hơn, đó là mối quan hệ

máu thịt giữa cuộc sống của cá nhân với đời sống của cộng đồng, là sự gắn

bó không thể tách rời giữa thực tiễn đời sống của đất nước với cảm xúc của

thơ ca, nghệ thuật v.v… Vì vậy, tâm trí nhà thơ như thể reo lên khi phát hiện

ra một quy luật giản dị trong đời sống tình cảm của con người: “Tình yêu làm

đất lạ hoá quê hương”. Đó cũng là sự đúc kết tư tưởng và cảm xúc chung của

cả bài thơ, là nguồn gốc khát vọng và niềm hạnh phúc lớn lao của nhà thơ

trong sự trở về hoà nhập, gắn bó với cuộc đời rộng lớn của nhân dân, đất

nước.

Tiếng hát con tàu là một thành công lớn của Chế Lan Viên sau Cách

mạng tháng Tám. Đây cũng là điểm đánh đấu bước chuyển mình mạnh mẽ

của một hồn thơ lãng mạn đóng khép và siêu hình vào bậc nhất trong nền thơ

ca Việt Nam trước Cách mạng. Bài thơ cũng góp phần khẳng định rằng chính

cách mạng và nhân dân đã làm hồi sinh tâm hồn và thăng hoa những cảm

xúc lãng mạn khoẻ khoắn cho những hồn thơ biết hoà nhập, gắn bó với cuộc

sống chung của nhân dân, đất nước.

22. NÊN HIỂU THẾ NÀO VỀ “RỪNG PHÁCH” TRONG BÀI THƠ “VIỆT BẮC”

Trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu, đoạn thơ dưới đây có thể coi là một

trong những đoạn đặc sắc nhất:

Page 143: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Ta về, mình có nhớ ta,

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng,

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.

Ve kêu rừng phách đổ vàng,

Nhớ cô em gái hái măng một mình.

Rừng thu trăng rọi hoà bình,

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

Nét độc đáo riêng của đoạn thơ này là chỉ với 10 câu thơ nhưng đã gợi

tả trọn vẹn được cả nỗi nhớ thiên nhiên cảnh vật và con người Việt Bắc trong

lòng người cán bộ về xuôi trước giờ phút chia xa. Những câu thơ được viết

khá tự nhiên, nhuần nhuyễn, từ ngữ, hình ảnh bình dị, có vẻ như không một

chút dụng công, cảnh và người nơi miền đất chiến khu, quê hương cách

mạng cứ lần lượt hiện ra như một dòng hồi ức tuôn chảy đào dạt tự trong

lòng của người ra đi. “Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”: Hoa với người,

cảnh Việt Bắc và người Việt Bắc cứ quyện vào nhau trong nỗi nhớ… Song,

nếu chú ý hơn một chút, sẽ thấy ngay sự chọn lựa khá kĩ càng của một cây

bút điêu luyện. Sau hai câu mở đầu, tám câu thơ tiếp theo cứ một câu nhớ

cảnh lại một câu nhớ người, mà cảnh và người đều rất đặc trưng cho Việt

Bắc, tạo thành một bộ tranh tứ bình độc đáo, có đủ cả bốn mùa xuân, hạ, thu,

đông. Mùa xuân mơ nở trắng rừng, mùa hạ ve kêu rừng phách đổ vàng, mùa

thu trăng rọi hoà bình và mùa đông hoa chuối đỏ tươi. Cách diễn tả cũng rất

tinh tế, gợi cảm: màu sắc, cảnh vật trong mỗi bức tranh của bộ tứ bình ấy đều

mang những nét riêng, nổi bật của từng mùa; đặc biệt, không hề có cái vẻ hiu

hắt, tàn tạ như thường vẫn thấy trong bao cuộc chia li mà tất cả đều vẫn rất

đẹp, rất tươi sáng. Giữa bạt ngàn màu xanh hoa lá, nổi bật một sắc màu nóng

Page 144: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

ấm đỏ tươi của bông hoa chuối rừng làm cho bức tranh mùa đông của núi

rừng Việt Bắc không còn vẻ hoang lạnh, u ám vốn có của nó. Mùa xuân tràn

ngập một sắc trắng hoa mơ vừa tinh khiết vừa giàu sức Sống. Mùa hè rộn rã

tiếng ve ran. Còn mùa thu lại hiện ra bình yên bởi ánh trăng trung thu rọi tỏ

ước mơ về cuộc sống hoà bình, yên vui giữa những ngày kháng chiến gian

khổ. Bốn bức tranh của bốn mùa cảnh nào cũng đẹp, mùa nào cũng đáng

yêu, cũng giàu sức sống và tinh tế, mỗi mùa thực là một bức hoạ nên thơ…

Việc hiểu toàn bộ đoạn thơ và từng câu thơ như thế, tưởng cũng chẳng

còn gì đáng phải bàn. Tuy vậy, khi giảng dạy bài thơ này, chúng tôi vẫn còn

băn khoăn về câu thơ tả mùa hè: Ve kêu rừng phách đổ vàng. Mới đọc qua,

câu thơ tưởng như không có gì khó hiểu, nhưng trên thực tế đã và đang tồn

tại không ít sự cảm nhận khác nhau, nhất là khi đi vào ý nghĩa cụ thể của

từng từ ngữ, hình ảnh. Vẫn biết rằng đôi khi từ ngữ, hình ảnh thơ chỉ là các

biểu hiện nhằm diễn tả những ấn tượng cảm xúc và đòi hỏi sự rành mạch, cụ

thể đến mức xác thực, trần trụi là không cần thiết đối với ngôn ngữ thơ ca,

thứ ngôn ngữ nghệ thuật giàu sức gợi, thiên về “cảm” hơn là “hiểu”. Vẫn biết

rằng ở đây, sự “mờ nhoè” về nghĩa được coi như một đặc trưng và nhiều khi

phải bằng sự “cảm thơ” thì mới thấy hết được mọi sắc màu huyền diệu, lung

linh của nó… Nhưng có điều, nếu không dựa trên sự “hiểu” chính xác các từ

ngữ, hình ảnh thì việc “cảm” thơ cũng khó tránh khỏi chông chênh hoặc

những suy diễn chủ quan, vô căn cứ. Trường hợp câu thơ tả mùa hè nói trên

của Tố Hữu là một ví dụ. Có người cho rằng “phách” là hổ phách, một thứ

nhựa thông quý đã qua ngàn năm tuổi, màu vàng óng, nên “rừng phách” cũng

tức là rừng thông. Và câu thơ tả tiếng ve mùa hè là tả bằng trí tưởng tượng,

trong một trường liên tưởng khá độc đáo. Nghe tiếng ve kêu hối hả dưới nắng

hè chói chang mà ngỡ như cả rừng hổ phách (nhựa thông) đổ tràn xuống một

màu vàng chói óng ánh. Lại có tác giả hiểu “phách” là một loại nhạc cụ, nên

Ve kêu rừng phách đổ vàng nghĩa là tiếng ve ran như nhịp phách giòn giã của

núi rừng khi hè về. Đa số căn cứ vào chú giải trong SGK Văn học 12 phổ

thông, hiểu “phách” là cây phách, một loài cây ở rừng Việt Bắc; nhưng đi theo

hướng này, sự cảm nhận câu thơ vẫn chưa phải đã thống nhất, đôi khi còn

Page 145: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

khác nhau khá xa. Có lẽ một phần cũng do lời chú giải của SGK Văn học 12

phổ thông xưa nay chưa nhất quán nên mỗi người hình dung về cây phách

mỗi khác: câu thơ khi thì được giải thích là lúc ve kêu, nắng vàng đổ tràn

xuống trong rừng phách; khi là rừng phách chuyển sang màu vàng, hoặc cho

rằng đấy là những trận mưa hoa vàng của cây phách trong rừng Việt Bắc khi

hè về v.v…

Vậy phách ở đây là gì? Và “rừng phách” là rừng thông, rừng (cây)

phách hay là nhạc điệu của rừng? Chúng tôi đã trực tiếp tìm hỏi nhà thơ Tố

Hữu về chi tiết này và được ông khẳng định: chữ phách nghĩa là cây phách

trong rừng Việt Bắc, đúng như chú giải khá thống nhất của các văn bản SGK

phổ thông. Có điều, nó không nở hoa vàng vào mùa hè, lúc ve kêu mà đó là

một loài cây thân mộc, trông gần giống như cây long não, mọc rất nhiều

quanh vùng ATK trong kháng chiến chống thực dân Pháp, bà con địa phương

gọi là cây phách. Loài cây này rụng lá vào mùa đông, khi ve kêu vào hè,

những chiếc lá bánh tẻ có màu vàng lốm đốm xanh. Dưới ánh nắng hè, chúng

tạo cho rừng Việt Bắc những mảng màu vàng rực rỡ rất đẹp và “rừng phách

đổ vàng” là một ẩn dụ dựa trên cơ sở của những quan sát hiện thực, chứ

không phải chỉ là những liên tưởng có tính chất tưởng tượng chủ quan của

nhà thơ. Vậy là, từ một cảnh sắc rất đặc trưng của núi rừng quê hương cách

mạng, Tố Hữu đã sáng tạo được một câu thơ thuộc vào loại hay nhất của bài

thơ Việt Bắc: nội trong một câu thơ tả mùa hè mà cho thấy được sự luân

chuyển sống động cả về không gian lẫn thời gian: tiếng ve kêu báo hiệu mùa

hè – hè đến – rừng phách chuyển thành màu vàng…

Nhân việc tìm hiểu một vài từ ngữ, hình ảnh để hiểu đúng một câu thơ

của Tố Hữu, chúng tôi cũng xin được bổ sung đôi nét để lời chú giải trong

SGK được rõ ràng thêm, tránh những cách hiểu quá xa nhau khi giảng dạy,

phân tích về bài thơ này.

Page 146: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

23. KIỂU HÌNH TƯỢNG SONG HÀNH, LỐI BIỂU ĐẠT SÓNG ĐÔI VÀ SỰ THỂ HIỆN NỖI NHỚ ĐỘC ĐÁO CỦA XUÂN QUỲNH TRONG BÀI THƠ “SÓNG”

Sóng là một bài thơ khá tiêu biểu của Xuân Quỳnh, được sáng tác vào

năm 1967, khi chị vừa tròn 25 tuổi. Trong toàn bộ bài thơ này, để tỏ bày trực

tiếp những rung động tình yêu vừa hồn nhiên chân thật vừa thiết tha sôi nổi

của một trái tim phụ nữ, Xuân Quỳnh đã sử dụng phương thức diễn đạt ẩn dụ

thông qua một hình ảnh có ý nghĩa biểu trưng rất phù hợp là hình ảnh con

sóng, khiến cho những biểu hiện tình cảm đa dạng của tâm hồn bỗng trở nên

hết sức sinh động, cụ thể. Và đây cũng là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo

của bài thơ bởi mỗi trạng thái, mỗi biểu hiện phong phú, phức tạp trong tâm

hồn người con gái trong tình yêu đều có thể tìm thấy sự tương hợp tuyệt diệu

với một khía cạnh, một đặc tính nào đó của sóng. Tuy nhiên, khi mạch cảm

xúc dâng trào mãnh liệt, dường như dùng hình tượng sóng diễn tả vẫn chưa

đủ, chưa thoả, nhà thơ còn dùng cách bộc bạch trực tiếp thông qua nhân vật

“em”; do vậy, bài thơ có dạng hình tượng song hành và lối biểu đạt sóng đôi.

Song, em và sóng, tuy hai nhưng thực ra cũng chỉ là một, đều là tâm trạng và

nỗi lòng của một người con gái đang yêu, là sự phân thân và hoá thân cái tôi

trữ tình của tác giả. Hai hình tượng này trong bài thơ có lúc phân đôi ra để bổ

sung, soi sáng cho nhau nhưng vẫn luôn luôn thống nhất, hoà hợp với nhau

nhằm diễn tả một cách thật mãnh liệt và thấm thía về những cung bậc tình

cảm đằm thắm nhưng đầy khao khát đang dâng trào trong trái tim nữ thi sĩ…

Đoạn thơ diễn tả nỗi nhớ, một trong những biểu hiện tình cảm nổi bật

của tình yêu được coi là đoạn đặc sắc nhất. Có lẽ, không thể nói lòng ta yêu

nếu ta không đang nhớ về ai đó, bởi những khao khát yêu đương thường gắn

liền với nỗi nhớ nhưng về nhau: “Nhớ gì như nhớ người yêu…” (Tố Hữu). Nỗi

nhớ của một trái tim đang yêu trong thơ ca cổ, kim, đông, tây cũng đã từng có

không biết bao nhiêu cách, bao nhiêu lời để diễn tả; còn ở bài thơ này, nỗi

nhớ ấy đã được Xuân Quỳnh bộc bạch một cách thật là tự nhiên qua hình

ảnh con sóng. Nó dạt đào, sôi nổi như những đợt sóng cuồn cuộn, triền miên

trên mặt nước, nó âm thầm và chẳng thể nguôi yên như những con sóng

Page 147: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

ngầm dưới lòng sâu đại dương. Nỗi nhớ choán đầy cả không gian, thời gian,

thường trực cả khi thức, khi ngủ:

Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

Sóng được nhân hoá để so sánh với nỗi nhớ của con người: “sóng nhớ

bờ”, sống thao thức “ngày đêm không ngủ được”, khiến cho nỗi nhớ càng

thêm sinh động, cụ thể. Nhưng nỗi nhớ da diết đang dâng trào mạnh mẽ trong

tâm hồn người con gái được diễn tả qua hình tượng con sóng như vậy dường

như vẫn còn chưa đủ, chưa thoả nên để có thể diễn đạt hết mức độ mãnh liệt

của nỗi nhớ ấy, Xuân Quỳnh đã tìm đến cách diễn đạt trực tiếp thông qua

nhân vật “em”:

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức

Ý thơ rõ ràng không có gì là mới, “sóng nhớ bờ” đến nỗi ”ngày đêm

không ngủ được” thì cũng chẳng khác nào “lòng em nhớ đến anh” đến nỗi “cả

trong mơ còn thức”. Nhưng nhờ sự biểu hiện ý nghĩa tương đồng của hai

hình tượng sóng và em, nhà thơ dễ dàng chuyển từ cách nói biểu tượng sang

cách trực tiếp bộc bạch nỗi lòng của người con gái đang yêu, đồng thời cũng

là nỗi lòng tác giả, chủ thể trữ tình của bài thơ. Ý thơ lặp lại nhưng thái độ tình

cảm đã khác: đó là một tiếng nói thật bạo dạn mà vẫn chân thành, mạnh mẽ

mà vẫn gần gũi, thân thương. Như vậy, bằng cách đưa thêm hình tượng em

để bổ sung, tô đậm và soi sáng thêm ý nghĩa của hình tượng sóng, đoạn thơ

đã nói được thật xúc động và chân thành nỗi nhớ mãnh liệt, thổn thức, bồi hồi

trước một tình yêu chân chính, rộng lớn. Việc đưa thêm hình tượng em và

cách bộc bạch trực tiếp cõi lòng như trên cũng đem đến cho đoạn thơ này

một sự biến đổi bất thường về mặt hình thức, tạo ra một khổ thơ duy nhất

trong bài có tới 6 câu, trong khi các khổ thơ khác chỉ có 4 câu. Sự phá vỡ

Page 148: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

khuôn khổ cấu trúc, kéo dài khổ thơ nói về nỗi nhớ cũng cho ta thấy được sự

táo bạo và mới mẻ trong tình cảm của những người phụ nữ mới (người phụ

nữ ở thời đại đã được giải phóng) dám dứt khoát từ bỏ những tình cảm nhỏ

hẹp, vị kỉ để tìm đến với chân trời cao rộng của một tình yêu chân chính.

Nỗi nhớ trong đoạn thơ này cũng còn là nỗi nhớ của một tình yêu thuỷ

chung, trong sáng:

Dẫu xuôi về phương Bắc

Dẫu ngược về phương Nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh một phương.

Vẫn bằng những câu thơ dùng lối diễn đạt trực tiếp, Xuân Quỳnh đã nói

lên một cách rất giản dị, chân thành và không hề giấu giếm những khát vọng

tình yêu cuồng nhiệt, sôi nổi của một trái tim phụ nữ, điều thật hiếm thấy trong

văn học Việt Nam trước đấy. Đó là một tình yêu hết mình và luôn đòi hỏi sự

duy nhất, tuyệt đối, sự gắn bó thuỷ chung: em chỉ nhớ đến anh cũng như

sóng chỉ nhớ tới bờ. Thật là minh bạch và quyết liệt! Nhưng nét độc đáo là

trong cách diễn đạt của chị, ta vẫn nhận thấy có một cái gì đó thật là con gái,

thật là dễ thương. Trong tiếng Việt, người ta thường nói xuôi Nam, ngược

Bắc chứ không mấy ai “nhầm lẫn” và “nói ngược”: “xuôi về phương Bắc/

ngược về phương Nam” như chị. Nhưng đấy là một sự “nhầm lẫn” rất Xuân

Quỳnh và cũng thật dễ thương. Dường như trong trạng thái nhớ nhung tràn

ngập, nữ thi sĩ đã không còn để ý đến câu chữ, cú pháp nữa mà cứ để mặc

nỗi lòng, để mặc cho những dòng tình cảm mãnh liệt tuôn trào trên trang giấy

thành những câu thơ giản dị nhưng thật xúc động lòng người: “Nơi nào em

cũng nghĩ/ Hướng về anh một phương…”

Xuân Quỳnh là người phụ nữ sinh ra để yêu và làm thơ. Sóng là một

bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách thơ chị ở giai đoạn đầu, một bài thơ xinh

xắn, duyên dáng với những tình cảm hồn nhiên, trong sáng, đồng thời lại

cũng rất sôi nổi, mạnh mẽ, thiết tha. Cách biểu hiện độc đáo, đầy cá tính của

Page 149: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

chị về nỗi nhớ trong bài thơ cùng với sự chân thành, say đắm đã làm cho

những tình cảm mới mẻ, mạnh bạo, quyết liệt về khát vọng hạnh phúc và tình

yêu của tuổi trẻ trở nên rất gần gũi với mọi người, vì thực chất nó vẫn có gốc

rễ sâu xa từ trong quan niệm và tâm thức của dân tộc.

24. HIỆN THỰC VÀ BIỂU TRƯNG, NÉT ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT CỦA “MẢNH TRĂNG CUỐI RỪNG”

Mảnh trăng cuối rừng được in trong tập truyện ngắn Những vùng trời

khác nhau, xuất bản năm 1973, kể về mối tình khá độc đáo giữa Nguyệt – cô

thanh niên xung phong, và Lãm – anh lính lái xe trên tuyến đường Trường

Sơn ác liệt thời chống Mĩ. Nguyệt đã tự nguyện gắn bó và thuỷ chung với

Lãm, người mà cô chưa một lần gặp mặt hay hẹn ước điều gì nhưng suốt bao

năm bom đạn, tình yêu ấy trong cô vẫn không hề phai nhạt mà lại ngày càng

sáng đẹp thêm qua thời gian và thử thách. Lần ấy, anh và cô đi tìm nhau, có

lúc họ đã cùng ngồi trên một ca–bin xe, rồi cùng trải qua một chặng đường

đánh bom ác liệt của giặc, họ đã hiểu nhau, khâm phục và tin tưởng ở nhau

hơn nhưng vẫn không hề nhận ra nhau. Đến lúc Lãm biết được rằng người

con gái ấy chắc chắn là Nguyệt thì họ lại đã xa nhau…, “giống như một trò

chơi ú tim” vậy!

Tác phẩm từ lâu đã được chọn giảng trong chương trình bậc Trung học

phổ thông vì nó có một vị trí rất đặc biệt. Đây là một truyện ngắn khá tiêu biểu

cho bút pháp và tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu giai đoạn trước

1975: tập trung thể hiện vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và khám

phá sức mạnh kì diệu của con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống

Mĩ cứu nước. Nhà văn trong những năm tháng chiến tranh ấy đặc biệt khao

khát muốn tìm kiếm vẻ đẹp kì diệu nhưng còn rất kín đáo như những hạt ngọc

ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người Việt Nam, và theo Nguyễn Minh

Châu, dường như đó chính là nguồn gốc sức mạnh lạ kì để họ có thể vượt

lên chiến thắng mọi sự huỷ diệt tàn bạo của kẻ thù. Trong Mảnh trăng cuối

rừng, bên cạnh sự tái hiện hiện thực chiến tranh, cách diễn đạt biểu trưng

Page 150: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

cũng có thể được coi như một nét đặc sắc nghệ thuật riêng của tác phẩm, bởi

nhờ đó mà cái đẹp tiềm tàng còn ẩn giấu trong mỗi con người Việt Nam thời

đánh Mĩ đã hiện ra khá sinh động và bộc lộ được ánh sáng lung linh đậm màu

sắc lí tưởng của nó. Ở đây, chúng tôi chỉ đi sâu tìm hiểu ý nghĩa của hai chi

tiết hiện thực nhưng giàu tính biểu trưng, đó là hình tượng mảnh trăng và mối

tình đặc biệt của Nguyệt với Lãm.

Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu lại đặt tên cho tác

phẩm của mình là Mảnh trưng cuối rừng – một nhan đề vừa hiện thực lại vừa

có tính biểu trưng cao bởi nó gợi nhiều ý nghĩa. Ở khía cạnh hiện thực thì đây

là trăng đầu tháng, trăng non nên chỉ có thể là “mảnh trăng” chứ không thể là

vầng trăng tròn đầy như trong những đêm hạ huyền. “Mảnh trăng” ấy lại ở tít

tận “cuối rừng” nên khi ngồi trong ca–bin xe trên cung đường gồ ghề vì bị

bom đạn địch cày xới, có lúc cảm thấy trăng như ở rất gần ngay trên đầu, lại

có lúc thấy trăng như bị rơi tõm xuống một cánh rừng già trước mặt như một

trò chơi ú tim… Song có lẽ, mảnh trăng ấy không chỉ nhằm tái hiện một mảng

hiện thực chiến tranh ở một cung đường Trường Sơn ác liệt mà điều quan

trọng hơn, chi tiết mảnh trăng được đưa vào tác phẩm như một dụng ý nghệ

thuật nhằm thể hiện những ý đồ tư tưởng và nghệ thuật riêng của nhà văn.

Nguyệt – tên cô gái, cũng đồng thời có nghĩa là trăng, do đó đã tạo nên trong

tác phẩm hai hình ảnh tương đồng ngữ nghĩa, có tác dụng soi chiếu, bổ sung

cho nhau, đặc biệt trong việc khơi gợi liên tưởng về những vẻ đẹp huyền

diệu, lung linh, khó diễn tả của nhân vật. Trước hết, mảnh trăng khuyết là một

hình ảnh thường chứa đựng những ẩn số, khơi gợi những khao khát tìm hiểu,

khám phá. Nó biểu trưng cho những gì hiển hiện: “một mảnh trăng khuyết

đứng yên ở cuối trời, sáng trong như một mảnh bạc” nhưng còn rất lung linh,

khó nắm bắt “Qua tấm kính ướt hơi sương, mảnh trăng nằm giữa những tảng

mây hiện ra tái ngắt, ánh sáng loè nhoè (...)”, có lúc, “mảnh trăng lại chập

chờn lay động”… thật giống với hình ảnh người con gái trong lòng Lãm, một

cô gái tên trăng giản dị vừa gần gũi mà lại vừa như cách xa…, thậm chí đôi

lúc còn khiến anh phải bất ngờ, sửng sốt, “choáng ngợp như trông vào ảo

ảnh” và trong lòng “bỗng dậy lên một tình yêu Nguyệt gần như mê muội lẫn

Page 151: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

cảm phục”. Mảnh trăng ấy ở tít tận cuối rừng xa xôi nhưng có lúc lại hiện ra

ngay trên đỉnh đầu như thực như mơ cũng rất tương hợp với cảnh ngộ “chơi

trò ú tim” của Lãm với cô gái mở đường Trường Sơn đẹp người đẹp nết. Do

vậy mà trong tác phẩm, trăng và Nguyệt là hai hình ảnh thường rất ít khi tách

rời nhau. Không phải ngẫu nhiên mà mỗi khi Lãm nhìn cô gái hay có những

cảm nhận nào đó về cô thì lúc đó mảnh trăng đều có mặt: “Xe tôi chạy trên

lớp sương bồng bềnh (…). Khung cửa xe phía cô gái ngồi lồng đầy bóng

trăng”. Sao lại cứ phải là khung cửa xe phía cô gái chứ không phải là phía

chàng trai? Không gian ấy có lúc làm ùa tới trong Lãm một niềm tin chắc chắn

rằng hình như đấy chính là Nguyệt, cô gái mà chị anh vẫn thường hay nhắc

tới. Nhưng rồi niềm tin ấy trong anh chỉ như một tia chớp thoáng qua, bởi ánh

trăng đã làm cho ”từng sợi tóc của Nguyệt đều sáng lên. Mái tóc thơm ngát,

dày và trẻ trung làm sao (…). Có lúc, tôi thấy cô quay lại, khuôn mặt đẹp lộng

lẫy đầy ánh trăng”, có lúc “trăng sáng soi thẳng vào khuôn mặt Nguyệt làm

cho khuôn mặt tươi mát ngời lên và đẹp lạ thường”, khiến cho Lãm “bị

choáng ngợp như thể vừa trông vào ảo ảnh”. Ánh trăng đã làm cho không

gian của một vùng đất chiến trường dữ dội vốn là trọng điểm bắn phá của

giặc đến nỗi số lượng tấn bom đạn phải được tính trên từng mét vuông bỗng

trở nên yên ả, thanh bình và như được bao phủ bởi một lớp sương bồng

bềnh huyền thoại: “Từng khúc đường trước mặt cũng thếp từng mảnh ánh

trăng…”. Nó sẽ giúp cho Lãm kịp nhận thấy ở Nguyệt toàn những vẻ đẹp

khác lạ: “một đôi gót chân hồng hồng sạch sẽ…” giữa một cung đường

Trường Sơn lúc nào đất đá cũng bị cày xới lên bởi bom đạn và vết bánh xe;

đặc biệt là “vẻ xinh đẹp của cô gái, một vẻ đẹp giản dị và mát mẻ như sương

núi toả ra từ nét mặt, lời nói và tấm thân mảnh dẻ, khác hẳn với nhiều cô gái

công trường thường cô nào cũng thấp và đẫy đà”... Có thể nói, hình tượng

mảnh trăng là một cách biểu thị khá độc đáo của khúc trữ tình lãng mạn đầy

xúc động về đất nước và con người Việt Nam trong chiến tranh. Đồng thời, nó

cũng góp phần khẳng định thêm về một phong cách luôn gợi mở những ý

tưởng huyền diệu, lung linh trước các vấn đề của hiện thực đời sống của

Nguyễn Minh Châu.

Page 152: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Về mối tình đặc biệt của Nguyệt dành cho Lãm, có ý kiến cho rằng hình

như đấy là một câu chuyện rất ít tính hiện thực. Đọc truyện ngắn này, nhà

nghiên cứu văn học Nga Ni–cu–lin cũng có nhận xét đại ý rằng: trong Mảnh

trăng cuối rừng, dường như nhà văn đã “tắm' rửa” một cách sạch sẽ cho nhân

vật của mình và bao bọc họ trong bầu không khí vô trùng. Quả thực, một tình

yêu như thế thật khó có thể xảy ra trong cuộc đời thường nhật (mà nếu có thì

cũng chưa chắc đã là một điều đáng ngợi ca), nhưng cũng không phải là điều

hiếm thấy ở thực tế chiến trường miền Nam thời đánh Mĩ. Vậy thì đâu là cơ

sở nảy nở và duy trì tình yêu giữa Nguyệt và Lãm?; đâu là nguyên nhân sâu

xa của cái mối tình kì lạ mà trong suất như pha lê của họ, nếu không phải là

niềm tin tuyệt đối về con người, nhất là giữa những con người đang cùng

chung một chiến hào đánh Mĩ? Ai đã đi qua những năm tháng ác liệt ấy mới

có thể cảm nhận hết được tình cảm thiết tha cùng với ý nghĩa thiêng liêng và

chiều sâu vô tận của niềm tin yêu giữa những con người nơi chiến trường ác

liệt qua những từ đồng đội, đồng hương, hay trong một tiếng gọi “quê ơi!” dân

dã… Dường như khi hằng ngày, hằng giờ phải đối mặt với sự sống và cái

chết, người ta dễ hiểu nhau và tin nhau hơn… Nguyệt tin chị Tính, tin Lãm và

yêu Lãm vì Lãm là em trai chị Tính, được chị Tính giới thiệu, nhưng quan

trọng hơn, anh cũng là người đồng đội của Nguyệt, là một trong bao chiến sĩ

lái xe dũng cảm vẫn vào sống ra chết với cô suốt bao năm trên cung đường

trọng điểm bắn phá của địch. Do đó, cô đã yêu anh một cách vô điều kiện,

một tình yêu hoàn toàn được xây dựng chỉ dựa trên cơ sở của một niềm tin

tuyệt đối, trọn vẹn đối với một người đồng đội, mà sâu xa hơn, đó còn là tình

yêu và niềm tin mãnh liệt, sâu xa đối với con người và cuộc sống của đất

nước trong những năm tháng chiến tranh gian khổ, ác liệt. Như thế, mối tình

của Nguyệt và Lãm đâu chỉ mang ý nghĩa hiện thực thông thường, nó còn là

hình ảnh biểu trưng cho sự bất diệt của tình yêu và niềm tin cuộc sống. Qua

mối tình đặc biệt của họ, Nguyễn Minh Châu dường như đã khám phá và thể

hiện được một cách thật đầy đủ về vẻ đẹp ẩn giấu sâu kín tận trong bề sâu

tâm hồn con người Việt Nam thời đánh Mĩ. Nó giống như sợi chỉ xanh nhỏ bé,

óng ánh nhưng không thể đứt. Nó kì diệu và có sức sống say người đến nỗi

Page 153: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

ngay với Lãm là người trong cuộc cũng đã phải tới hai lần cất lên những lời

ngây ngất: “Và cũng thật lạ, qua bấy nhiêu năm sống giữa bom đạn và tàn

phá, vậy mà một người con gái vẫn giữ bên lòng hình ảnh một người con trai

chưa hề gặp và chưa hứa hẹn một điều gì ư? Trong lòng cô ta, cái sợi chỉ

xanh nhỏ bé và óng ánh, qua thời gian và bom đạn, vẫn không phai nhạt,

không hề đứt ư?”... Sức sống ấy cũng chính là cái mạch ngầm bền bỉ để có

thể vượt lên và chiến thắng, là nguồn gốc sức mạnh diệu kì của con người

Việt Nam trong một cuộc chiến quá đỗi bạo tàn. Cái nhìn và cảm hứng lãng

mạn đầy tinh thần nhân đạo của tác giả về con người và cuộc sống dân tộc

thời chống Mĩ cứu nước như thế đã trở thành âm hưởng chủ đạo của tác

phẩm, làm xúc động trái tim người đọc.

Toàn bộ câu chuyện được thực hiện bằng chính giọng kể của Lãm, một

người trong cuộc và qua sự hồi tưởng xúc động của anh, một trái tim đang

hạnh Phúc, đang yêu say đắm, thực tế cuộc sống ở chiến trường cũng có

thêm những sắc màu lấp lánh… Nhờ vậy, thiên truyện thấm đẫm chất lãng

mạn mà vẫn giàu tính hiện thực. Song điều quan trọng hơn, ấy là một hiện

thức có ý nghĩa biểu trưng khái quát về con người và cuộc sống của đất nước

trong những năm tháng chiến tranh chống Mĩ ác liệt. Nó đã nói được điều cần

nói: các nhân vật không chỉ khẳng định sự bất diệt của vẻ đẹp tâm hồn trong

sự vượt lên mọi huỷ diệt tàn bạo của kẻ thù mà còn gợi lên những khao khát

kiếm tìm và ý thức vươn tới để có thể cảm nhận được chiều sâu vô tận của

cái đẹp trong thế giới nội tâm con người.

25. KIỂU CÂU THƠ VĂN XUÔI VÀ MÀU SẮC CHÍNH LUẬN TRONG CHƯƠNG “ĐẤT NƯỚC”

(Trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm)

Trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm được sáng

tác vào năm 1971 ở chiến trường Bình Trị Thiên và Đất Nước là chương V,

trích trong bản trường ca này. Nhan đề “Đất nước” cũng đồng thời là sự quy

tụ chủ đề tư tưởng trọn vẹn, khái quát chung của toàn chương, tạo nên tính

Page 154: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

độc lập tương đối về mặt văn bản nên chương V cũng được xem như một bài

thơ hoàn chỉnh. Sự suy tưởng chặt chẽ mang đậm màu sắc chính luận và

cách diễn đạt mạch lạc, tự nhiên, sử dụng phần lớn những kiểu câu thơ văn

xuôi cần phải được chú ý như một nét đặc sắc của bài thơ. Ở đây, Nguyễn

Khoa Điềm đã đưa ra một quan niệm hoàn toàn mới mẻ và toàn diện về đất

nước thông qua sự cảm nhận về vai trò và những hi sinh to lớn của nhân dân

trong công cuộc dựng nước và giữ nước lâu dài của dân tộc. Cảm hứng về

đất nước sôi nổi, dạt dào và sâu lắng trong toàn chương đều tập trung nhằm

làm nổi bật tư tưởng cốt lõi trong sự cảm nhận nói trên của tác giả. Và chính

tư tưởng chủ đạo, bao trùm đó – tư tưởng Đất nước của nhân dân, đất nước

của ca dao thần thoại đã chi phối toàn bộ dòng mạch cảm xúc lẫn kết cấu,

hình thức chung của chương V trong bản trường ca này.

Mượn lời trò chuyện tâm tình với một người con gái yêu thương, kết

cấu chương V của bản trường ca có vẻ phóng túng, tự do nhưng từ trong

chiều sâu của thi tứ và cảm xúc vẫn bộc lộ một hệ thống lập luận khá chặt

chẽ trong một hình thức thơ trữ tình – chính luận rõ nét, từng phần đều bám

rất chắc vào tư tưởng chủ đạo của tác phẩm. Cái lí lẽ mà tác giả đưa ra để

thuyết phục người đọc thật giản dị: Không phải ai khác mà chính là nhân dân,

những con người vô danh, bằng chiến đấu hi sinh và lao động sáng tạo đã

dựng xây, gìn giữ và bảo vệ non sông đất nước này từ lãnh thổ cho đến lịch

sử, truyền thống văn hoá và tâm hồn, cốt cách dân tộc. Có điều, “lí lẽ ấy nhà

thơ không phát biểu một cách khô khan, trừu tượng mà bằng những hình ảnh

thơ gợi cảm, bằng cảm xúc thơ sôi nổi, tha thiết và sâu lắng của mình. Qua

đó, Nguyễn Khoa Điềm muốn thức tỉnh tinh thần, ý thức dân tộc và tình cảm

gắn bó với nhân dân – đất nước của thế hệ trẻ trong những năm đánh Mĩ”.

Bài thơ có tất cả 110 câu thơ, kết cấu làm hai phần: phần 1 gồm 42 câu

đầu, phần 2 là 68 câu thơ còn lại. Sách giáo khoa chỉ trích giảng 99 câu, lược

bỏ đi 21 câu ở cuối phần 2. Phần đầu của bài thơ thể hiện một quan niệm bao

quát có tính chất thời đại về đất nước: đất nước là những gì gần gũi, bình dị,

gắn bó thân thiết, sâu nặng nhất với mỗi con người. Bằng những câu thơ có

Page 155: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

hình thức của câu văn định nghĩa và bằng cách nêu lên những sự vật vốn rất

bình thường mà mỗi người đều đã tiếp xúc, quen thuộc từ thuở ấu thơ để

định nghĩa về đất nước, nhà thơ đã tìm ra được cách diễn đạt khái niệm thật

tự nhiên, dễ đi vào lòng người. Những sự vật nêu ra để định nghĩa về đất

nước ấy vừa thân thương, hiền hậu và thơ ngây, đậm màu sắc cổ tích trong

lời kể chuyện “ngày xửa ngày xưa” của mẹ, trong “miếng trầu bây giờ bà ăn”,

vừa gần gũi, dân dã, cụ thể mà lại cũng rất sâu xa trong “cái kèo cái cột thành

tên, trong bát cơm ta ăn, hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần,

sàng”, cho đến chuyện “dân mình biết trồng tre mà đánh giặc/ Tóc mẹ thì bới

sau đầu/ Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn…” Mỗi hình ảnh vừa

dung dị vừa có sức khơi gợi sâu xa ấy được dùng để định nghĩa về một khía

cạnh của khái niệm đất nước, qua hình thức của những câu văn xuôi chính

luận khẳng định, được lặp đi lặp lại như một điệp ngữ vừa biến đổi vừa nhấn

mạnh, xoáy sâu: “đất nước có trong”, “đất nước lớn lên khi”, “đất nước có từ”,

“đất là”, “nước là”, “đất nước là” vv… đã có tác dụng làm cho tình cảm đất

nước vốn là một tình cảm thiêng liêng, đậm chất triết lí trở thành một tình cảm

hết sức hồn hậu, tự nhiên, mang màu sắc trữ tình đằm thắm và sâu nặng,

thân thương. Cách chia tách khái niệm đất nước thành hai yếu tố là “đất” và

”nước”, rồi sau đó lại hợp lại thành một chỉnh thể “đất nước” là một cách diễn

tả sáng tạo, giúp tác giả thể hiện được những phát hiện khá độc đáo và mới

lạ trong quan niệm và cảm nhận của bản thân và thế hệ mình về đất nước:

Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”

Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi “

Thời gian đằng đẵng

Không gian mênh mông

Page 156: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ

Đất là nơi Chim về

Nước là nơi Rồng ở

Lạc Long Quân và Âu Cơ…

Đó cũng là một quan niệm và sự cảm nhận khá toàn diện, sâu sắc: Đất

nước là sự thống nhất của tất cả các phương diện: thời gian, không gian, lịch

sử truyền thống và cội nguồn dân tộc. Do đó, đất nước chính là tất cả cuộc

sống của mỗi con người, trở thành máu thịt và hành trang của mỗi người từ

vật chất cho đến tinh thần, tình cảm. Đất nước đã hoá thân vào mỗi cá nhân

cho nên trong mỗi con người đều đã có một phần đất nước:

Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần Đất Nước

Nhà thơ đã nói lên được một cách giản dị mà bao quát và sâu sắc về

sự gắn bó máu thịt giữa số phận của cá nhân với vận mệnh của cộng đồng

đất nước, qua đó khẳng định trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi con người đối

với đất nước của mình. Đó cũng là tư tưởng chung của thời đại khi mà vấn đề

dân tộc và cộng đồng nổi lên như một vấn đề cơ bản, bao trùm nhất, chi phối

mọi vấn đề khác của đời sống. Bằng những câu thơ chính luận, ngắn gọn,

dứt khoát, có tính khẳng định cao nhưng lại thông qua hình thức tâm tình giữa

anh và em, Nguyễn Khoa Điềm đã diễn đạt được một vấn đề có ý nghĩa tư

tưởng lớn, mang tầm vóc thời đại thông qua một giọng điệu trữ tình nhẹ

nhàng, dung dị, rất dễ đi vào lòng người. Từ sự khái quát sinh động đó, tác

giả lại tiếp tục “diễn dịch”, phát triển và mở rộng suy tư về mối quan hệ gắn bó

giữa mỗi cá nhân với đất nước, về sự “hài hoà nồng thắm” giữa “hai đứa” với

“mọi người”, giữa “một phần” với sự “vẹn tròn to lớn” của đất nước, về cả sự

kế tục và phát triển từ đất nước “hôm nay” đến đất nước “mai này” của các

thế hệ tương lai, con cháu chúng ta:

Khi hai đứa cầm tay

Page 157: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Đất Nước trong chúng ta hài hoà nồng thắm

Khi chúng ta cầm tay mọi người

Đất Nước vẹn tròn, to lớn

Những suy tư đó mang nặng tính chất chiêm nghiệm, triết lí nhưng vẫn

thấm đượm một màu sắc trữ tình giản dị mà sâu xa. Sự gắn bó tốt đẹp của

tình yêu đôi lứa được diễn đạt bằng những từ ngữ, hình ảnh thật giản dị: “hai

đứa cầm tay”, song hạnh phúc của lứa đôi cũng là cơ sở bền chặt của tình

đất nước, nên “khi hai đứa cầm tay” thì cũng là lúc “đất nước hài hoà nồng

thắm” và “khi chúng ta cầm tay mọi người” thì ”đất nước” tất yếu sẽ “vẹn tròn,

to lớn”. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi trong kháng chiến chống Pháp cũng đã

từng nói lên mối quan hệ gắn bó máu thịt, thiêng liêng ấy:

Anh yêu em như anh yêu đất nước…

Đó là sự thống nhất có tính biện chứng giữa cá nhân với cộng đồng

trên tinh thần của thời đại mới. Và trong xu thế suy tưởng vững chắc đó, cảm

hứng của nhà thơ đã hướng tới các thế hệ tương lai với những lời nhắn nhủ

sáng ngời niềm tin:

Mai này con ta lớn lên

Con sẽ mang Đất Nước đi xa

Đến những tháng ngày thơ mộng…

Nguyễn Khoa Điềm viết bài thơ này trong tuyến lửa, vào thời điểm gay

go, ác liệt nhất của cuộc kháng chiến cứu nước. Điều ấy cho thấy tình cảm

đất nước trong ông thật là khoẻ khoắn và sâu nặng, một phần cũng bởi nó

được bám rất chắc vào tinh thần thời đại. Từ những suy ngẫm, chiêm nghiệm

sâu xa và sự khái quát vững chắc đó, bài thơ dẫn đến trách nhiệm và bổn

phận của mỗi con người đối với đất nước trong một quy nạp hết sức tự nhiên:

Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở

Page 158: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Làm nên Đất Nước muôn đời…

Sang phần sau của bài thơ (68 câu cuối), tác giả tập trung thể hiện sự

cảm nhận về đất nước thông qua vai trò, những hi sinh, đóng góp to lớn của

nhân dân trên các phương diện cụ thể, từ không gian địa lí – lãnh thổ đến thời

gian lịch sử – truyền thống và cuối cùng là cội nguồn văn hoá – tâm hồn, cốt

cách dân tộc. Cả ba phương diện ấy đều thống nhất và hoà quyện vào nhau

một cách chặt chẽ. Nhiều khi một chi tiết, một hình ảnh được đưa ra đồng

thời cùng thể hiện về cả ba phương diện trên đây nhưng nhìn chung là, dù ở

phương diện nào thì tư tưởng Đất nước của Nhân dân vẫn luôn là tư tưởng

cốt lõi, là hệ quy chiếu mọi cảm xúc và suy tưởng của nhà thơ về đất nước.

Ở phương diện không gian địa lí – lãnh thổ, ý tưởng nhân dân chính là

người làm ra đất nước đã đưa đến một cách nhìn mới mẻ, có chiều sâu về

thiên nhiên đất nước. Những vị trí địa lí, những danh lam thắng cảnh được

chọn lựa đưa vào tác phẩm một cách có ý thức nhằm thể hiện không gian

mênh mông bởi những danh lam thắng cảnh đó nằm trên những địa danh trải

rộng ra theo suốt chiều dài đất nước, từ miền ngược cho đến miền xuôi, từ

rừng xanh cho đến biển xa… Mặt khác, những cái đó qua con mắt nhà thơ đã

không chỉ là những địa danh hoặc những cảnh thú thiên nhiên thông thường

nữa mà nó được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ và số phận của nhân

dân, được nhìn nhận như là sự hoá thân và đóng góp của nhân dân:

Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng

Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương

Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

Người học trò nghèo góp cho đất nước mình núi Bút, non Nghiên

Con cóc con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

Page 159: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà

Điểm…

Điều đáng chú ý là những cảm nhận nói trên của tác giả không phải là

sự suy diễn chủ quan, vô căn cứ mà đều được rút từ kho tàng thần thoại,

truyền thuyết và những sự tích dân gian phong phú, rất cảm động và giàu tính

nhân dân của dân tộc ta. Do đó, người đọc vừa thấy tự nhiên vừa bị thuyết

phục mạnh mẽ bởi những cảm nhận và suy tư của nhà thơ thật giản dị nhưng

lại rất mới mẻ và sâu sắc. Thiên nhiên đất nước qua con mắt của Nguyễn

Khoa Điềm đã hiện lên như là sự quy tụ, tập hợp tất cả những đóng góp của

nhân dân, bởi chính nhân dân chứ không phải ai khác, từ thế hệ này qua thế

hệ khác, bằng chiến đấu hi sinh và lao động sáng tạo đã hoá thân và ghi dấu

vết của mình lên mỗi ngọn núi, con sông, lên mỗi tấc đất này của đất nước.

Từ những phát hiện đó, nhà thơ đã quy nạp, nâng lên thành một khái quát hết

sức sâu sắc:

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng, gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…

Ở phương diện thời gian lịch sử – truyền thống, đất nước được cảm

nhận không phải bằng sự hiện diện của các triều đại trong lịch sử, hoặc các vĩ

nhân đã được ghi danh trong sử sách mà bằng chính cuộc đời của những

con người bình thường, vô danh, không ai nhớ mặt đặt tên. Với truyền thống

lao động và đánh giặc giữ nước của các thế hệ tiếp nối, chính nhân dân đã

làm nên lịch sử đất nước bốn nghìn năm. Đoạn thơ mang tính chính luận

nhưng được diễn đạt dưới hình thức tâm tình, bằng những câu thơ dài, ngắn

gần với giọng điệu khẩu ngữ, giống như những lời nhắc nhủ thầm thì, tha

thiết của những lứa đôi, của anh với em, nên dễ đi vào lòng người:

Em ơi em

Hãy nhìn rất xa

Page 160: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Vào bốn nghìn năm Đất Nước…

Vẫn với những hình ảnh bình dị, thân thương, những từ ngữ dân dã

hoặc rút từ ca dao, thành ngữ, Nguyễn Khoa Điềm đã làm nổi bật sự đóng

góp một cách rất tự nhiên của nhân dân vào lịch sử dài lâu của đất nước. Nhà

thơ đã nói lên một biện chứng lịch sử gần gũi với tư duy và phong cách của

dân gian, đó là: trong cuộc sống cần cù làm lụng của người dân, việc đánh

giặc giữ nước và duy trì bồi đắp cho các thế hệ tiếp nối như là một lẽ tự nhiên

của người Việt và chính bằng sự đóng góp một cách tự nhiên đó mà họ đã

làm nên lịch sử – truyền thống lâu đời của đất nước:

Năm tháng nào cũng người người lớp lớp

Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta

Cần cù làm lụng.

Khi có giặc người con trai ra trận

Người con gái trở về nuôi cái cùng con

Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh

Nhiều người đã trở thành anh hùng

Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ

Đặc điểm lập luận ở đoạn thơ này là vừa sử dụng phương pháp quy

nạp trực tiếp để dẫn đến tư tưởng khái quát “nhân dân làm ra lịch sử”, lại vừa

kết hợp với phương pháp diễn dịch nhằm triển khai tư tưởng đó một cách

toàn diện, sinh động và sâu sắc hơn:

Nhưng em biết không

Có biết bao người con gái, con trai

Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi

Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Page 161: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước

(…)

Họ truyền giọng điệu của mình cho con tập nói,

Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân

Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái,

Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm

Có nội thù thì vùng lên đánh bại…

Ở phương diện cội nguồn văn hoá tinh thần vở tâm hồn, cốt cách dân

tộc, tư tưởng đất nước của nhân dân được khái quát từ nguồn mạch văn hoá

dân gian phong phú là tục ngữ, ca dao, dân ca, truyền thuyết và cổ tích v.v…

Trong cái kho tàng văn hoá giàu có của nhân dân ấy, tác giả tập trung nhấn

mạnh và làm nổi bật những nét chủ yếu thể hiện cội nguồn văn hoá tinh thần

dân tộc, đó là những tính cách nổi bật của con người Việt Nam tiêu biểu cho

tâm hồn và cốt cách dân tộc. Những nét tính cách đó là: thật say đắm và hết

sức thuỷ chung trong tình yêu, trọng đạo lí, tình nghĩa: Cha mẹ thương nhau

bằng gừng cay muối mặn/ Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”/ Biết quý

công cầm vàng những ngày lặn lội…, biết sống nhân hậu: Ôi những dòng

sông bắt nước từ đâu/ Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát…, nhưng

cũng hết sức quyết liệt: Biết trồng tre đợi ngày thành gậy/ Đi trả thù mà không

sợ dài lâu v.v…

Hai mươi mốt câu thơ (bị lược đi trong chương trình do quá dài) nằm ở

cuối phần 2 cũng là những câu thơ khá đặc sắc nhằm nhấn mạnh thêm về

tính cách nhân hậu, trọng đạo lí, tình nghĩa của dân tộc. Nhờ vậy, toàn bộ

chiều sâu cội nguồn văn hoá và tinh thần của đất nước càng được khắc hoạ

tập trung, nổi bật, tạo được ấn tượng rất riêng:

Người dạy ta nghèo ăn cháo ăn rau,

Biết ăn ớt để đánh lừa cái lưỡi,

Cái cuốc, con dao, đánh lừa cái tuổi,

Page 162: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Chén rượu đánh lừa cơn mỏi, cơn đau

Con nộm nang tre đánh lừa cái chết.

Đánh lừa cái rét là ăn miếng trầu,

Đánh lừa thuồng luồng xăm mình xăm mặt

Đánh lừa thằng giặc là chuyện Trạng Quỳnh

Nhưng lạ kì thay, nhân dân thông minh

Không hề lừa ta dù ca dao, cổ tích

Ta lớn lên bằng niềm tin rất thật

Biết bao nhiêu hạnh phúc có trên đời

Dẫu phải khi cay đắng dập vùi

Rằng cô Tấm cũng về làm hoàng hậu

Cây khế chua có đại bàng đến đậu

Chim ăn rồi trả ngon ngọt cho ia

Đất đai cỗi cằn thì người sẽ nở hoa

Hoa của đất, người trồng cây dựng cửa

Khi ta đến gõ lên từng cánh cửa

Thì tin yêu ngay thẳng đón ta vào

Ta nghẹn ngào, Đất Nước Việt Nam ơi!...

Chương Đất Nước có thể coi là một chương tiêu biểu nhất cho trường

ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm. Toàn chương thấm đượm

một không khí văn hoá dân gian. Bóng dáng của ca dao, thần thoại, cổ tích…

đã thấm sâu vào trong từng câu chữ, hình ảnh của toàn chương cho thấy

nhận thức và sự thâm nhập rất sâu sắc của tác giả đối với vốn văn hoá và đời

sống tinh thần dân tộc. Cảm hứng về đất nước ở đây tuy mang đậm màu sắc

chính trị và tính chất chính luận nhưng bài thơ vẫn tạo được những rung động

và âm vang trong lòng người đọc chính là vì đã xuất phát từ những cảm xúc

Page 163: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

chân thành, sâu lắng và từ sự trải nghiệm của chính bản thân tác giả và cả

thế hệ mình về đất nước.

26. NHỮNG SAI SÓT VỀ NGÔN NGỮ TRONG CÁC ĐỀ THI TUYỂN SINH ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG MÔN VĂN

Đề thi tuyển sinh vào các trường đại học, cao đẳng hằng năm có lẽ là

một dạng văn bản thuộc vào loại ngắn nhất nhưng lại chiếm số thời gian soạn

thảo ra nó nhiều nhất. Theo quy chế ra đề thi thì để soạn thảo một đề thi Văn

(khoảng từ vài dòng trở lên) cho thí sinh làm trong vòng 3 tiếng đồng hồ,

những người ra đề phải cách li hoàn toàn với thế giới bên ngoài (để đảm bảo

bí mật và cũng là để toàn tâm toàn ý biên soạn đề thi!) trong khoảng từ 3 đến

10 ngày đêm. Vậy mà cứ sau mỗi kì tuyển sinh lại vẫn có không ít chuyện

đáng buồn bởi có quá nhiều sai sót, từ những sai sót “động trời” như ra đề thi

ngoài phạm vi chương trình… cho đến những sai sót về từ ngữ, diễn đạt,

trình bày. Ở đây, chúng tôi chỉ đề cập đến những sai sót về tiếng Việt, chữ

Việt trong các đề thi tuyển sinh môn Văn.

1. Chép sai văn bản tác phẩm

Trong đề thi năm 2000 vào các trường: Cao đẳng Kinh tế đối ngoại

(Câu 2b), Cao đẳng Sư phạm Phú Yên (Câu 2a), Cao đẳng Sư phạm Đắc Lắc

(Câu 2b), kki yêu cầu bình giảng 10 câu thơ đầu trong bài Bên kia sông

Đuống của Hoàng Cầm, đã chép thừa chữ “bên kia” một cách rất phi lô gích:

Em ơi buồn làm chi

Anh đưa em về bên kia sông Đuống

Ngày xưa cát trắng phẳng lì…

Đây là đoạn thơ thể hiện tâm trạng cái nhìn toàn cảnh (bằng hồi ức) về

quê hương thông qua một hình ảnh có ý nghĩa biểu tượng là con sông

Page 164: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Đuống. Phải qua con sông này đã, rồi đến các đoạn hồi ức và tưởng tượng

sau đó, nhà thờ mới có thể về được quê hương ở bên kia sông chứ?!.

Đề thi tuyển sinh vào Đại học Biên phòng, năm 1999 (Câu 2a), đoạn

thơ yêu cầu bình giảng đoạn trích trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan

Viên, chữ “đã” bị chép nhầm thành chữ “bỗng”:

Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ

Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?

Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi, đất bỗng hoá tâm hồn!

Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét

Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng,

Như xuân đến chim rừng lông trở biếc

Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương.

Câu dưới “Anh bỗng nhớ em…”, chẳng lẽ câu trên cũng lại “bỗng” nữa

hay sao? Vả chăng, từ “đã” mới thực có ý nghĩa, nó biểu thị một quá trình;

còn bỗng là chuyện bỗng nhiên. Phải có một quá trình gắn bó sâu nặng với

mảnh đất Tây Bắc, phải trải qua mười năm kháng chiến, nơi “mười năm chiến

tranh, vàng ta đau trong lửa”, “nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất” (Tiếng hát con

tàu), thì khi xa, đất mới (đã) hoá tâm hồn, chứ ngẫu nhiên, đất sao bỗng hoá

tấm hồn dễ dàng thế được?!

Đề thi của Trường Đại học Hồng Đức, năm 2000 (khối C, Câu 2a), khi

trích đoạn thơ gồm 14 câu trong bài Đất nước của Nguyễn Đình Thi để yêu

cầu thí sinh bình giảng đã viết liền, không chia thành các khổ thơ như sau:

Mùa thu nay khác rồi

Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi

Gió thổi rừng tre phấp phới

Page 165: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Trời thu thay áo mới

Trong biếc nói cười thiết tha

Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta

Những cánh đồng thơm mát

Những ngả đường bát ngát

Những dòng sông đỏ nặng phù sa

Nước chúng ta

Nước những người chưa bao giờ khuất

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về

Trong văn bản tác phẩm, đoạn thơ chia làm 3 khổ: khổ đầu 5 câu, khổ

hai 5 câu và khổ cuối 4 câu. Mỗi khổ diễn tả tư tưởng, tình cảm riêng. Việc bỏ

các dấu chấm và không tách khổ thơ như trong đề thi sẽ làm cho thí sinh lúng

túng khi phân tích và xác định các ý thơ.

Đề thi của Đại học Tây Nguyên, năm 2000 (Câu 1, Phần I) đã trích

thiếu mất 2 chữ hư hỏng và ráo hoảnh trong câu văn sau của Nam Cao:

“người ta chỉ xấu xa, hư hỏng dưới con mắt ráo hoảnh của phường ích kỉ…”.

Con mắt ráo hoảnh mà Nam Cao đề cập ở đây là “con mắt” – thái độ lạnh

lùng vô cảm, thiếu vắng tình người, tình thương yêu đồng loại…Vì thế, chữ

hư hỏng thiếu thì còn tạm chấp nhận được, chứ chữ ráo hoảnh mà thiếu thì

quan điểm của Nam Cao chẳng thể rõ ràng được. Ấy vậy mà đằng sau câu

văn trích dẫn sai một cách tai hại đó, đề vẫn yêu cầu thí sinh: “Hãy phân tích

cách nhìn của nhân vật Hoàng về quần chúng nhân dân và cuộc kháng chiến

trong truyện ngắn Đôi mắt để làm rõ quan điểm đó của tác giả” (?!).

2. Lỗi dùng từ và diễn đạt

Page 166: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Đề thi Khối D năm 2000, Câu 2b của các trường: Đại học Quốc gia Hà

Nội, Đại học Bách khoa Hà Nội. Học viện Ngân hàng Hà Nội: “Bình giảng khổ

thơ sau trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi:

Mùa thu nay khác rồi

Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi

Gió thổi rừng tre phấp phới

Trời thu thay áo mới

Trong biếc nói cười thiết tha

Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta

Những cánh đồng thơm mát

Những ngả đường bát ngát

Những dòng sông đỏ nặng phù sa”.

Đề trích dẫn 2 khổ thơ nên không thể nói: “Bình giảng khổ thơ” mà phải

gọi là đoạn thơ mới đúng. Hơn nữa, đã là khổ thơ hay đoạn thơ trong một bài

thơ nào đấy thì không nên viết lặp lại chữ “thơ” một cách không cần thiết. Câu

trên có thể diễn đạt gọn hơn mà vẫn đảm bảo rõ ý: Bình giảng đoạn thơ sau

trong bài Đất nước của Nguyễn Đình Thi. Đây cũng là lỗi của Câu 2a trong

cùng đề thi nói trên và xuất hiện khá phổ biến ở dạng đề thi này nói chung

của nhiều trường khác nữa.

Đề thi của Trường Đại học Dân lập Hải Phòng (Khối D, năm 2000):”Bài

thơ Sóng in trong tập Hoa dọc chiến hào là một trong những bài thơ tiêu biểu

của Xuân Quỳnh, thể hiện một tâm hồn luôn luôn trăn trở, khát khao được

yêu thương, gắn bó. Anh (chị) bình giảng khổ thơ sau góp phần làm rõ ý kiến

trên (…)”. Sau chữ Anh (chị) đáng lẽ phải có thêm chữ hãy và trước chữ góp

phần phải có thêm chữ để thì câu văn mới hợp với phong cách văn bản và rõ

ràng hơn.

Page 167: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

Đề thi tuyển sinh vào Viện Đại học Mở Hà Nội, Khối D, năm 2000, Câu

1: “Sau khi ở tù về, Chí Phèo đã ba lần đến nhà Bá Kiến. Anh (chị) hãy:

1. Kể lại một cách ngắn gọn nội dung sự việc mỗi lần đến của Chí

Phèo.

2. Phân tích ý nghĩa tư tưởng trong lần đến cuối cùng”.

Tuy vẫn hiểu được yêu cầu của đề, nhưng hai câu hỏi là hai câu văn

dài dòng và có phần lủng củng, tối nghĩa do chữ lần đến. Có thể diễn đạt lại

hai câu hỏi ấy như sau:

1. Kể một cách ngắn gọn nội dung sự việc của mỗi lần.

2. Phân tích ý nghĩa tư tưởng của lần cuối cùng.

Đề của Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Tĩnh (Khối C, năm 2000): “Việt

Bắc là đỉnh cao thơ Tố Hữu, tiêu biểu cho phong cách nhiều mặt của nhà thơ

đồng thời cũng là thành tựu lớn của thơ ca cách mạng Việt Nam giai đoạn

1945 – 1954 (…)”. Phong cách nhiều mặt của nhà thơ là một câu văn tối

nghĩa, rất khó xác định về mặt nội hàm khái niệm, do đó thí sinh chắc chắn

khó thực hiện được yêu cầu tiếp theo của đề như: “Anh, chị hãy: 1/ Trình bày

những đặc điểm của phong cách thơ Tố Hữu được thể hiện trong phần trích

giảng bài thơ (…)” v.v…

Đề thi khối D trong kì thi tuyển sinh đại học – cao đẳng năm 2003, tức

là sau khi đã thực hiện cơ chế cải cách “ba chung” (chung đề, chung đợt,

chung điểm xét tuyển) trong toàn quốc, Câu 3: “Phân tích ngắn gọn tư tưởng

nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của Nam Cao trong truyện ngắn Đời thừa”. Hai

chữ mới mẻ trong cụm từ “tư tưởng nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của Nam Cao”

là sự không chính xác về khái niệm, từ ngữ. Bởi lẽ, sách giáo khoa và các

thầy, cô giáo xưa nay chỉ đánh giá tư tưởng nhân đạo của Nam Cao ở khía

cạnh sâu sắc và tích cực, chứ chưa thấy nói đến tính chất mới mẻ của nó.

Hẳn ai cũng biết rằng, cái mới phải là cái lần đầu tiên xuất hiện, trước đó

chưa từng có và một tư tưởng mới mẻ chưa hẳn đã là một tư tưởng sâu sắc,

tích cực. Xét cụ thể trong tác phẩm Đời thừa, những biểu hiện tư tưởng nhân

Page 168: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

đạo của Nam Cao (1/ Thái độ trân trọng, ngợi ca khát vọng và lẽ sống đẹp đẽ

của người nghệ sĩ, trí thức; 2/ Mối đồng cảm, sẻ chia của nhà văn với những

trăn trở, đớn đau và tấn bi kịch tinh thần của họ; 3/ Sự quan tâm sâu sắc đến

số phận, quyền sống của người trí thức trong xã hội đương thời) thực ra vẫn

là sự tiếp nối những giá trị nhân đạo truyền thống; nó sâu sắc, tích cực hơn

so với các tác giả khác trong trào lưu văn học hiện thực phê phán và trào lưu

văn học lãng mạn đương thời, nhưng không phải là những gì mới mẻ. Cho

nên, nói “tư tưởng nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của Nam Cao trong truyện

ngắn Đời thừa” rõ ràng là một nhận định vừa không chính xác về từ ngữ lại

vừa không chuẩn về kiến thức, một điều khó chấp nhận đối với một đề thì,

hơn nữa lại là một đề thi tuyển sinh đại học!

3. Lỗi trình bày

– Đề thi của Đại học An ninh nhân dân, năm 2000 (Khối C, Câu 2a), khi

chép bài Chiều tối của Hồ Chí Minh đã đặt phần dịch thơ lên trước phần

phiên âm chữ Hán. Lẽ ra phải đặt ngược lại mới đúng.

– Đề thi của Đại học Sư phạm Vinh (Khối C, năm 2000) khá dài, kín cả

tờ giấy khổ A4. Vậy mà trong 6 lần chấm xuống dòng, người soạn đề không

lần nào thực hiện quy định lùi vào một chữ ở đầu dòng theo đúng quy tắc về

chính tả tiếng Việt.

Nhưng đề thi của Trường Đại học Tây Nguyên mà chúng tôi đã nhắc

đến dưới đây có lẽ mới là vô địch về chuyện đề thi dài, tới 4 trang giấy khổ

A4! Đúng là “dài như một cái nhà rông” vậy! Ngoài việc trích dẫn sai tác phẩm

ở Câu 1 (chưa nói đến nội dung của Câu 12b nằm ngoài phạm vi Chương

trình theo quy định của Bộ) như đã phân tích, cách trình bày toàn bộ đề văn

này cũng gây ra không ít khó khăn cho người đọc. Xin chép lại một phần của

đề như sau (giữ nguyên văn các chỗ xuống dòng, in đậm, in nghiêng...):

“Phần 1 (bắt buộc)

Câu 1: Trong một tác phẩm của mình, nhà văn Nam Cao viết: “Người ta

chỉ xấu xa dưới con mắt của phường ích kỉ”. Anh (chị) hãy phân tích cách

Page 169: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

nhìn của nhân vật Hoàng về quần chúng nhân dân và cuộc kháng chiến trong

truyện ngắn Đôi mắt để làm rõ quan điểm đó của tác giả.

Hãy xác định những nội dung đúng đắn nhất được phát biểu trong các

câu từ 2 đến 11, ghi vào giấy làm bài kí hiệu tương ứng (thí dụ, câu 50: chọn

b).

Câu 2: (…)

Câu 3: (…)

Câu 11: (…)”.

Cách ghi Câu 1, Câu 2 cho đến Câu 11 không có sự phân biệt gì, trong

khi thực chất các câu từ Câu 2 cho đến Câu 11 vốn chỉ là những bộ phận của

một ý nhỏ trong Câu 1. Mặt khác, trong nội dung của riêng Câu 1 này cũng

bao gồm 2 phần: Phần trên hỏi về tác phẩm Đôi mắt theo hình thức của một

đề thi truyền thống, còn phần dưới hỏi về những tác phẩm, tác giả khác theo

kiểu đề thi trắc nghiệm (Xin mở ngoặc: những đáp án trắc nghiệm này cũng

có khối chuyện phải bàn!); vậy mà cả 2 phần đó vẫn có thể gộp được vào

chung trong một câu và giữa chúng cũng không hề có dấu hiệu hay đề mục

phân biệt gì ngoài chuyện ngắt dòng bình thường như mọi chỗ ngắt dòng

khác. Không biết với thời gian làm bài 3 tiếng đồng hồ, thí sinh vừa phải đọc,

vừa phải thực hiện tất cả các yêu cầu của một đề văn quá dài dòng, rắc rối và

có lắm sai sót như vậy thì sao chọn được đúng những nhân tài thực sự cho

tương lai?

Thực chất bài viết của chúng tôi chỉ làm cái công việc “dọn vườn” đề thi

tuyển sinh đại học – cao đẳng hiện nay mà thôi. Khi tôi có ý định dọn vườn thì

có người không tin lắm vì cái “vườn” này quả là quá hẹp (các văn bản đều rất

ngắn), vả chăng nó cũng được vun xới, chăm sóc quá kĩ càng. Không ngờ rồi

cũng “dọn” ra được “cỏ”. Không giống như mọi loại văn bản khác, thiết nghĩ,

tính chuẩn mực và sáng tạo của đề thi phải được đặt lên hàng đầu. Bởi ít

nhất, mỗi đề thi tuyển sinh cũng là một văn bản bắt buộc hàng nghìn, hàng

vạn thí sinh phải đọc, nghiền ngẫm để có được câu trả lời (dưới dạng một bài

Page 170: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

luận) quyết định đến sự nghiệp tương lai của bản thân mình. Chỉ mong các

nhà quản lí và những người có trách nhiệm trực tiếp với đề thi tuyển sinh

hằng năm có những giải pháp khắc phục, để các sĩ tử vơi bớt nỗi “đoạn

trường” trong mỗi mùa thi cử.

MỤC LỤCLời nói đầu

1. Từ cách tiếp cận ngôn ngữ tác phẩm văn học…

2. Thời gian với ý nghĩa hai chữ “Vội vàng” của Xuân Diệu

3. Vẻ đẹp lứa đôi, hình ảnh người thiếu nữ với hình tượng thiên nhiên

trong thơ Xuân Diệu

4. Chữ và nghĩa trong bài thơ “Đây mùa thu tới”

5. Từ ý nghĩa của “nhánh duyên”… đến sự cảm nhận bài “Thơ duyên”

6. “Đây thôn Vĩ Dạ” – một bài thơ không dễ hiểu

7. Đặc điểm ngôn từ và mối liên hệ xưa – nay, cũ – mới trong bài thơ

“Tống biệt hành” của Thâm Tâm

8. Đâu là màu sắc cổ điển trong “Tràng giang” – một bài thơ hiện đại

của Huy Cận

9. Lời quê, lối nói quê, cảnh quê và hồn quê Nguyễn Bính trong “Tương

tư”

10. Từ ngữ và cú pháp trong cách hiểu ý nghĩa một câu thơ

11. Xin giữ lại chữ “nở” cho bài ca dao ấy

12. Về những câu hỏi trong một bài thơ của Nguyễn Duy

13. Tình huống, giọng kể và những sáng tạo nghệ thuật độc đáo trong

truyện ngắn “Vi hành”

14. Bút pháp chính luận mẫu mực trong “Tuyên ngôn độc lập”

Page 171: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

15. Bàn thêm về bản dịch và một số từ ngữ chưa thống nhất cách hiểu

trong bài thơ “Giải đi sớm” của Chủ tịch Hồ Chí Minh

16. Giọng kể, nghệ thuật dựng chân dung nhân vật và ý nghĩa “vấn đề

đôi mắt” trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao

17. Ngôn ngữ, bố cục và những cung bậc nỗi nhớ trong “Tây Tiến” của

Quang Dũng

18. Con sông Đuống và không gian tâm tưởng trong niềm xúc cảm về

một miền quê

19. Ngôn ngữ, cấu tứ và mạch cảm xúc, suy tưởng về “Đất nước” của

Nguyễn Đình Thi

20. Về thi pháp tên nhân vật và người đàn bà không có tên trong truyện

ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân

21. “Tiếng hát con tàu” – tiếng hát của nguồn cảm hứng mới trong một

tâm hồn thơ

22. Nên hiểu thế nào về “rừng phách” trong bài thơ “Việt Bắc”

23. Kiểu hình tượng song hành, lối biểu đạt sóng đôi và sự thể hiện nỗi

nhớ độc đáo của Xuân Quỳnh trong bài thơ “Sóng”

24. Hiện thực và biểu trưng, nét đặc sắc nghệ thuật của “Mảnh trăng

cuối rừng”

25. Kiểu câu thơ văn xuôi và màu sắc chính luận trong chương “Đất

Nước”

26. Những sai sót về ngôn ngữ trong các Đề thi tuyển sinh đại học, cao

đẳng môn Văn

–––//–––

PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG NHÀ TRƯỜNG TỪ GÓC ĐỘ NGÔN NGỮ

Tác giả: TS. NGUYỄN TRỌNG KHÁNH

Page 172: PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... - saomaidata.orgsaomaidata.org/library/267.PhanTichTacPhamVanHocT...  · Web viewCòn trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao

NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC

Chịu trách nhiệm xuất bản:

Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc NGÔ TRẦN ÁI

Phó Tổng Giám đốc kiêm Tổng biên tập NGUYỄN QUÝ THAO

Tố chức bản thảo và chịu trách nhiệm nội dụng:

Phó tổng Giám đốc kiêm Giám đốc NXBGD tại TP Hà Nội

NGUYỄN XUÂN HOÀ

Biên tập nội dung: CAO HOÀ BÌNH

Biên tập mĩ thuật: TRẦN TIỂU LÂM

Biên tập kĩ thuật: NGUYỄN MẠNH HÙNG

Trình bày bìa: NGUYỄN MẠNH HÙNG

Sửa bản in: THANH XUÂN – HOA DUNG

Chế bản: PHÒNG CHẾ BẢN (NXB GIÁO DỤC)

Mã số: 8V571M6–TTS

In 3.000 bản (QĐ11TK) khổ 14,3x20,3cm, tại Xí nghiệp in Hưng Yên Số in

24/2006, số xuất bản: 536–2056. In xong và nộp lưu chiểu tháng 4 năm 2006.