PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... -...
Transcript of PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG ... -...
PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG NHÀ TRƯỜNG TỪ GÓC ĐỘ NGÔN NGỮ
PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG NHÀ TRƯỜNG TỪ GÓC ĐỘ NGÔN NGỮ
Tác giả: TS. NGUYỄN TRỌNG KHÁNH
LỜI NÓI ĐẦU
Cảm thụ, phân tích tác phẩm văn học trong nhà trường là công việc
thường xuyên, đồng thời cũng là một yêu cầu bắt buộc đối với tất cả các thầy,
cô giáo dạy văn, tất cả các em học sinh. Làm thế nào để có thể cảm thụ, phát
hiện được những vẻ đẹp đích thực về tư tưởng, nghệ thuật của các tác phẩm
văn chương là một vấn đề lâu nay các nhà nghiên cứu, các thầy, cô giáo dạy
văn vẫn hằng trăn trở.
Cuốn sách này giới thiệu những bài viết theo hướng cảm thụ, phân tích
các tác phẩm văn học trong nhà trường từ góc độ ngôn ngữ. Hầu hết các bài
viết tập hợp trong sách đều là những bài nghiên cứu được rút ra từ thực tiễn
giảng dạy, ôn luyện thi môn Ngữ văn cho đối tượng học sinh các lớp cuối cấp
học phổ thông của chính tác giả và một số bài đã được đăng rải rác trên các
báo, tạp chí Ngôn ngữ, Ngôn ngữ và đời sống, Văn học và tuổi trẻ v.v… Đây
là một công việc khó, bởi các tác phẩm văn học trong chương trình trung học
phổ thông đều là những tác phẩm đã quen thuộc với nhiều người, được
nghiên cứu khá kĩ, không ít tác phẩm từng là đối tượng của những cuộc tranh
luận học thuật sôi nổi trong đời sống văn học. Do vậy, cảm thụ, phân tích tác
phẩm từ góc độ ngôn ngữ đương nhiên không phải là một con đường tiếp
nhận văn học hoàn toàn mới mẻ; nó cũng không đối lập hay phủ nhận sự kế
thừa kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước. Tuy nhiên, xuất phát từ góc
độ ngôn ngữ, không ít ý nghĩa chân chính của các từ ngữ, hình ảnh, chi tiết
trong tác phẩm văn học đã được phát hiện, không ít những cách lí giải có tính
chất áp đặt chủ quan hoặc xa rời tác phẩm tồn tại bấy lâu trong nhiều tài liệu
giảng dạy, đã được xem xét, điều chỉnh lại một cách có cơ sở khoa học và
phù hợp hơn; góp phần khơi dậy niềm hứng thú, say mê văn học từ chính
quá trình nhận thức và làm chủ ngôn ngữ – phương tiện biểu hiện chủ yếu
của tác phẩm.
Đối tượng phục vụ của cuốn sách là các học sinh đang chuẩn bị cho
các kì thi tốt nghiệp phổ thông, thi tuyển sinh đại học, cao đẳng…, các thầy,
cô giáo dạy văn, sinh viên Ngữ văn, học sinh năng khiếu môn Ngữ văn. Do
đó, chúng tôi chỉ tập trung chủ yếu vào một số tác phẩm trong chương trình
trung học phổ thông hiện còn tồn tại những cách hiểu chưa thống nhất, hoặc
từ góc độ ngôn ngữ vẫn có thể khai thác được những ý nghĩa mới, làm phong
phú, sinh động thêm giá trị tư tưởng – nghệ thuật của tác phẩm. Chúng tôi
cũng hướng sự chú ý của mình vào những tác phẩm có mặt trong Bộ sách
giáo khoa biên soạn theo Chương trình thí điểm Trung học phổ thông, đã
được Bộ Giáo đục và Đào tạo ban hành kèm theo Quyết định số471/ 2002/
QĐ - BGD&ĐT ngày 19/ 11/ 2002 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo. Cấu
trúc của sách được sắp xếp theo trình tự các bài viết về các tác phẩm văn
học trong Chương trình sách giáo khoa Trung học phổ thông hiện hành. Bài
cuối cùng chúng tôi đưa vào tập sách này là bài viết về những sai sót về ngôn
ngữ trong các đề thi tuyển sinh đại học, cao đẳng môn Văn. Thiết nghĩ, đây
cũng là vấn đề thiết thực trong cảm thụ, phân tích tác phẩm và cả trong việc
ra đề thi – một công diệc không kém phần hệ trọng đối với quá trình giảng
dạy, học tập và thi cử môn Ngữ văn trong nhà trường.
Hi vọng cuốn sách sẽ góp một tiếng nói vào việc nâng cao hiệu quả của
công việc dạy văn, học văn trong nhà trường. Chúng tôi thành thực mong
nhận được ý kiến trao đổi và chỉ giáo của các bậc thức giả và đồng nghiệp
gần xa để cuốn sách hoàn thiện hơn ở lần in sau.
Hà Nội, tháng 6 năm 2005 TS.
NGUYỄN TRỌNG KHÁNH
1. TỪ CÁCH TIẾP CẬN NGÔN NGỮ TÁC PHẨM VĂN HỌC…Việc giảng dạy, học tập môn Ngữ văn trong nhà trường, nhất là ở các
cấp học phổ thông, có một vấn đề tồn tại đã lâu nhưng chưa được giải quyết
triệt để và hiện vẫn còn đang làm nhiều thầy, cô giáo, nhiều nhà khoa học tâm
huyết phải băn khoăn, trăn trở. Đó là tình trạng ngày càng có nhiều em học
sinh tỏ ra chán ghét môn Văn học. Nhiều nguyên nhân đã được đề cập và
làm sáng tỏ, nhiều biện pháp đã được áp dụng, trong đó đáng kể nhất là công
tác cải tiến, đổi mới nội dung chương trình sách giáo khoa, đổi mới phương
pháp dạy văn, học văn theo xu hướng ngày càng tiến gần hơn và tiếp cận với
những thuộc tính đặc trưng của bộ môn v.v… Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải
thừa nhận một thực tế là cho đến nay, môn Văn học trong nhà trường vẫn
chưa thật sự tạo ra được sức hấp dẫn, lôi cuốn cần thiết, do vậy cũng vẫn
chưa có được chỗ đứng vững chắc trong tâm hồn, tình cảm của các em học
sinh như vị trí xứng đáng vốn có của nó.
Về mặt bản chất, khoa học tìm hiểu, khám phá, cảm thụ văn chương
cũng giống với mọi khoa học nhận thức có tính sáng tạo khác về quy luật và
đặc trưng của tâm lí nhận thức. Hứng thú và niềm say mê khoa học ở phía
chủ thể nhận thức chỉ có thể được hình thành, xây đựng một cách bền vững
trên cơ sở những phát hiện mới lạ trong quá trình tìm hiểu, khám phá đối
tượng nghiên cứu. Một học sinh học kém môn Toán chắc chắn sẽ chán và sợ
học Toán, trong khi Toán học là một mềm say mê lớn với đại đa số các em
học sinh khác. Trong Văn học cũng vậy, đối tượng tìm hiểu, khám phá là tác
phẩm văn chương, do đó, mặc dù có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc các em
học sinh không hứng thú với những giờ dạy văn trong nhà trường, thì nguyên
nhân cơ bản nhất vẫn là do các em không hiểu được tác phẩm. Từ chỗ không
hiểu tác phẩm, không cảm thụ được những gì nhà văn thể hiện trong tác
phẩm nên các em không thể có những phát hiện mới lạ, không thể xuất hiện
những rung động thẩm mĩ trong tâm hồn, tình cảm – cội nguồn của niềm say
mê sáng tạo trong quá trình nhận thức, cảm thụ văn học nơi các em.
Điều đáng lo ngại hơn là, mặc dù không hiểu tác phẩm, hoặc chỉ hiểu
một cách khá mơ hồ nhưng các em vẫn phải phân tích, thể hiện sự cảm thụ
của mình về tác phẩm trong các bài làm văn, nên dần dần đã hình thành ở
các em một thói quen ít chú ý đến văn bản tác phẩm, cứ dựa theo sự phân
tích có sẵn trong lời giảng của thầy hoặc trong các tài liệu tham khảo rồi gán
cho tác phẩm những ý nghĩa lớn lao, những mĩ từ to tát…, nhiều khi rất xa lạ
với nội dung tư tưởng và ý nghĩa chân chính, đích thực của tác phẩm. Thói
quen ấy, một mặt rất dễ gây ra tâm lí “phản cảm”, khiến các em ngày càng
chán học văn, sợ học văn. Mặt khác, thói quen ấy cũng tạo ra một lối học văn
theo kiểu “mang máng”, thiếu căn cứ, không bám sát tác phẩm, hoặc “tầm
chương, trích cứ” một cách hời hợt, máy móc, hoặc “xã hội học dung tục”, tác
phẩm chỉ là một cái cớ để bàn luận về một vấn đề luân lí, đạo đức, xã hội nào
đấy. Nhiều em học sinh không hề đọc tác phẩm trước khi nghe giảng hoặc
phân tích tác phẩm. Có em đã học xong trung học phổ thông mà vẫn không
thuộc nổi dù chỉ một bài thơ, thậm chí một khổ thơ nào đấy trong chương
trình! Cho nên, cũng không phải chuyện lạ, trong các kì thi tuyển sinh đại học
hằng năm, mặc dù môn Văn là môn học đã được các em học sinh ở các khối
C, D… định hướng từ trước, nhưng việc chép không đúng hoặc nhầm lẫn các
câu thơ từ bài nọ sang bài kia, nhầm lẫn nhân vật nọ với nhân vật kia v.v… là
hiện tượng khá phổ biến. Ví dụ, nhầm bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Đình
Thi với chương “Đất nước” (trích trong trường ca “Mặt đường khát vọng”) của
Nguyễn Khoa Điềm, nhầm nhân vật Độ (trong truyện ngắn “Đôi mắt”) với
nhân vật Hộ (trong “Đời thừa”) của Nam Cao; thậm chí nhầm nhân vật Chí
Phèo với nhân vật Tràng, nên khi đề yêu cầu phân tích nhân vật Chí Phèo
trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao thì có thí sinh vẫn say sưa viết hàng
năm, bảy trang giấy phân tích tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân. Có học sinh
còn gọi Chí Phèo là “đồng chí”, Hộ là “người chiến sĩ cách mạng” v.v…
Phân tích tác phẩm văn học phải xuất phát từ việc khai thác trực tiếp những yếu tố ngôn ngữ trong văn bản tác phẩm
Việc cảm thụ, phân tích văn học không xuất phát từ khâu tìm hiểu, khai
thác nội dung tư tưởng tác phẩm trực tiếp từ những yếu tố ngôn ngữ của văn
bản tác phẩm còn dẫn đến một thực trạng viết lan man, “tán” một cách sao
rỗng, áp đặt những cách hiểu suy diễn, chủ quan, vô căn cứ, không gắn với
tác phẩm, nhan nhản trong các bài làm văn của học sinh. Đề thi tuyển sinh đại
học – cao đẳng, khối D, năm 2002, yêu cầu bình giảng bốn câu thơ sau trong
bài Đây mùa thu tới của Xuân Diệu:
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh
Rất nhiều thí sinh đã đành phải bó tay trước dạng đề này vì không hiểu
đoạn thơ. Ở những bài làm khá hơn, một số em có thể viết khá dài dòng về
sự lãng mạn của Xuân Diệu, về nỗi buồn mông lung vô cớ trong thơ ông,
thậm chí cả về những cách tân mới mẻ, sự “Tây hoá” cảm xúc và ngôn từ của
một nhà thơ hiện đại vào bậc nhất trong làng thơ Việt Nam hồi ấy, một nhà
thơ “mới nhất trong các nhà Thơ mới”, nhưng vẫn không thể nào chỉ rõ ra
được cụ thể bốn câu thơ đang miêu tả cái gì và qua sự miêu tả ấy đã thể hiện
vẻ đẹp trong cảm xúc của một tâm hồn thơ trước thiên nhiên tạo vật như thế
nào, trong khi, đây mới thật sự là cái đích nhận thức thẩm mĩ mà sự cảm thụ,
phân tích đoạn thơ cần phải đạt được.
Đề tuyển sinh khối D, năm 2003 (Câu 2) yêu cầu: “Phân tích những bức
tranh mùa thu trong đoạn thơ sau để làm rõ sự biến đổi tâm trạng của nhà
thơ:
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa”.
Hầu hết các bài viết của thí sinh đều chỉ phân tích về “bức tranh mùa
thu” hoặc về mùa thu nói chung; đa số “tán” dông dài, có em còn viện rất
nhiều dẫn chứng về mùa thu trong thơ ca cổ, kim, đông, tây nhưng chẳng đả
động gì đến tác phẩm. Rất ít thí sinh đặt những bức tranh mùa thu và tâm
trạng tác giả trong dòng mạch cảm hứng chung về đất nước, vốn là dòng
mạch cảm hứng chủ đạo bao trùm, xuyên suốt trong toàn bộ bài thơ Đất
nước của Nguyễn Đình Thi.
Tiếp nhận tác phẩm văn học từ các yếu tố ngôn ngữ
Một trong những biện pháp nhằm khắc phục tình trạng trên là phải xuất
phát từ những yếu tố ngôn ngữ để tìm hiểu, khám phá và phân tích tác phẩm
văn học. Đây cũng chính là con đường cảm thụ, phân tích văn học đi từ nghệ
thuật đến nội dung tư tưởng, lấy việc giảng nghệ thuật để phát hiện và làm
nổi bật ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm – một vấn đề phương pháp đã từng
được giới nghiên cứu đề cập và bàn luận khá sôi nổi từ nhiều năm nay. Sở dĩ
nói xuất phát từ ngôn ngữ cũng đồng thời có nghĩa là xuất phát từ nghệ thuật
bởi vì, văn học là nghệ thuật ngôn từ”; tác phẩm văn chương là sản phẩm của
một loại hình nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ làm chất liệu vừa để gửi gắm lại
vừa để phô diễn, giãi bày tâm hồn, tư tưởng, tình cảm của chủ thể cảm xúc
trước các hiện tượng đời sống. Xét từ góc độ giao tiếp thì thông qua tác
phẩm của mình, nhà văn, nhà thơ thực hiện một sự giao tiếp xã hội và tác
phẩm là một dạng ngôn bản. sản phẩm của quá trình giao lưu đồng cảm và
đồng sáng tạo giữa tác giả với các thế hệ độc giả. Dẫu rằng cách diễn đạt,
trình bày của ngôn ngữ văn chương có những thuộc tính đặc trưng riêng biệt
thế nào thì nó vẫn không thể vượt ra ngoài phạm vi những khuôn phép, quy
luật biểu đạt của ngôn ngữ giao tiếp nói chung: Tuy nhiên, trong hoạt động
giao tiếp đó, quy trình sáng tạo và tiếp nhận tác phẩm văn học là hai con
đường ngược chiều nhau. Đó là quá trình “mã hoá” và quá trình “giải mã”
lượng thông tin tâm hồn. Nhà văn, nhà thơ xuất phát từ những cảm xúc,
những trăn trở, suy tư (tư tưởng – cảm xúc của tác giả) mà sáng tạo ra
những hình tượng nghệ thuật rồi dùng ngôn ngữ để diễn đạt, thể hiện hình
tượng nghệ thuật và tư tưởng ấy. Tác phẩm văn học đến với độc giả và đến
lượt mình, người tiếp nhận tác phẩm lại đi từ việc tiếp xúc với văn bản tác
phẩm, thông qua các yếu tố ngôn ngữ và thế giới hình tượng trong tác phẩm
để phát hiện ra tư tưởng nghệ thuật – những cảm xúc, những suy tư trăn trở
của nhà văn, nhà thơ gửi gắm trong đó (xem sơ đồ dưới đây). Nói theo cách
nói của một nhà phê bình: nhà thơ “gói” tâm tình của mình lại, còn nhà phê
bình (độc giả) thì lại tìm cách “mở” tâm tình ấy ra. Cả hai việc “gói” và “mở” ấy
đều phải được thực hiện bằng phương tiện ngôn ngữ – yếu tố trung tâm của
tác phẩm văn học. Vì vậy, tiếp nhận tác phẩm văn học từ các yếu tố ngôn ngữ
có thể coi như chiếc chìa khoá duy nhất để mở cánh cửa đi vào khám phá thế
giới nghệ thuật của tác phẩm, tìm hiểu tâm hồn, tư tưởng, tình cảm của nhà
văn, nhà thơ gửi gắm và biểu hiện trong đó.
Quy trình sáng tạo văn học
TÁC GIẢ TƯ TƯỞNG CẢM XÚC
HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT NGÔN NGỮ
Quy trình tiếp nhận văn học
TƯ TƯỞNG TÁC PHẨM HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT
NGÔN NGỮ ĐỘC GIẢ
Dĩ nhiên, tiếp cận ngôn ngữ tác phẩm văn học không phủ nhận hay loại
trừ các phương pháp và con đường khác trong cảm thụ, phân tích văn học
như: tìm hiểu hoàn cảnh sáng tác, tìm hiểu lịch sử, những chi tiết đời tư của
tác giả, vận dụng các kiến thức xã hội, tri thức khoa học và lí luận văn học
hiện đại, tham khảo ý kiến của chính tác giả v.v… mà vẫn vận đụng, tích hợp
tất cả các phương pháp ấy trong nghiên cứu. Phương pháp phân tích, cảm
thụ tác phẩm văn học đi từ các yếu tố ngôn ngữ thực chất chỉ nhằm mục đích
hướng người đọc chú ý trực tiếp vào đối tượng nghiên cứu, lấy việc khai thác
văn bản làm căn cứ xác thực để phát hiện và suy luận trong nghiên cứu. Từ
kinh nghiệm thực tế của bản thân đã nhiều năm dạy và luyện thi môn Văn cho
đối tượng học sinh các lớp cuối cấp học phổ thông, dưới đây chúng tôi xin đề
cập đến một vài phương diện, thao tác cụ thể của phương pháp tiếp cận ngôn
ngữ tác phẩm văn học mà theo chúng tôi là có hiệu quả thiết thực, có thể giúp
người đọc hiểu được tác phẩm một cách có căn cứ, gây được hứng thú cho
học sinh trong các giờ dạy văn, học văn.
Phát hiện và hiểu đúng ý nghĩa của từ ngữ
Trước hết, trong cảm thụ, phân tích văn học cần phải biết phát hiện và
hiểu đúng ý nghĩa của các từ ngữ trong tác phẩm. Đây chính là thao tác phát
hiện ở người tiếp nhận: phát hiện ra các từ ngữ cần thiết và phát hiện được ý
nghĩa tư tưởng chứa đựng (biểu hiện) trong các đơn vị từ ngữ ấy. Có thể đó
là những từ ngữ chứa đựng những ý nghĩa trừu tượng, khó hiểu nhưng cũng
có khi chúng chỉ là những từ ngữ hết sức thông thường. Đã thành một thói
quen trong giới nghiên cứu, giảng dạy tác phẩm văn học, cứ nói đến việc khai
thác từ ngữ là người ta nghĩ ngay đến “nhãn tự”, tức là những chữ có “thần”,
những từ ngữ chứa đựng nhiều thủ pháp nghệ thuật (ẩn dụ, hoán dụ, chơi
chữ, khoa trương v.v…), thể hiện dụng công của tác giả. Điều ấy quả không
sai, nhưng như thế sẽ bỏ sót rất nhiều từ ngữ mà thiếu nó, tư tưởng nghệ
thuật của tác phẩm không thể nào nổi bật lên được. Bởi vì, cùng với các hình
tượng nghệ thuật, nhiều khi cảm xúc và tư tưởng của nhà văn, nhà thơ còn
được diễn đạt trực tiếp bằng các từ ngữ bình thường. Lại cũng có trường
hợp, do sự mẫn cảm ngôn ngữ đặc biệt và năng lực ngôn ngữ tiềm tàng, nhà
văn, nhà thơ - những nghệ sĩ ngôn từ – đã “vô tình” đem đến cho các từ ngữ
bình thường những phẩm chất nghệ thuật mới, những khả năng biểu đạt đặc
biệt, tạo nên những chữ “xuất thần” mà có khi, chính người sử dụng nó cũng
không ngờ tới. Nhưng vì có vẻ “bình thường” nên người đọc rất dễ bỏ qua khi
nghiên cứu tác phẩm. Người cảm thụ, phân tích văn học, với tư cách là người
đồng sáng tạo với chủ thể cảm xúc, vừa phải biết phát hiện những từ ngữ
chứa đựng các biện pháp tu từ, đồng thời cũng vừa phải biết phát hiện cho
thật trúng và không để lọt những từ ngữ bình thường nhưng lại có giá trị biểu
đạt “xuất thần” ấy. Trở lại bốn câu thơ trên trong bài Đây mùa thu tới thì, riêng
ở nhan đề bài thơ, người đọc cần phải đặc biệt chú ý đến chữ tới – một chữ
quả là rất bình thường, nhưng nếu bị bỏ qua thì tư tưởng cơ bản của tác
phẩm cũng không thể nói rõ được. Bởi vì, bài thơ không chỉ nói về mùa thu
chung chung, mà chủ yếu nhằm thể hiện những xúc cảm tinh tế của chủ thể
trữ tình trước cái khoảnh khắc chuyển mùa của thiên nhiên tạo vật lúc thu
sang: Đây (là một) mùa thu (đang) tới. Bám sát vào một số từ ngữ trong khổ
thơ đó như: vườn, hoa đã rụng cành, sắc đỏ rũa màu xanh, nhánh (cây) khô
gầy… chúng ta sẽ nhận ra ngay đây là bốn câu thơ tập trung miêu tả khung
cảnh một vườn thu. Để ý kĩ chút nữa, chúng ta sẽ phát hiện ra sự quan sát rất
tinh tế của một tâm hồn thơ, thể hiện qua cách diễn đạt độc đáo, mới lạ của
rất nhiều từ ngữ bình thường ở đoạn thơ này. Nét đặc trưng của mùa thu là
cảnh lá rụng hoa tàn. Nhưng vì thu mới ở vào độ thu tới, thu sang, lúc thời tiết
còn đang chuyển giao từ mùa hạ nóng nực sang mùa thu se lạnh nên sự tàn
rụng ấy cũng chưa nhiều. Trong vườn mới chỉ có hơn một loài hoa đã rụng
cành. “Hơn một” có nghĩa là chưa nhiều lắm, chỉ mới vài ba loài hoa chớm lụi
tàn, còn “đã rụng” nghĩa là sự rụng tàn chỉ mới xảy ra mà thôi. Những sắc lá
úa vàng của mùa thu đang lấn dần màu xanh, làm cho màu xanh bị rũa dần
đã từng tí một. Rũa ở đây là một động từ tiếng Việt, chỉ hoạt động bào mòn,
chứ không phải là sự rữa nát, cũng không phải từ rủa (sắc đỏ rủa màu xanh),
với nghĩa là càu nhàu, chửi rủa hay đối ngược, học theo cách diễn đạt của
tiếng Pháp như có người vẫn nghĩ. Và đôi nhánh cây (chỉ “đôi nhánh” thôi chứ
chưa nhiều) đã bị rụng lá, trơ trọi như những chiếc xương khô gầy mỏng
mảnh trong làn gió se lạnh lúc đầu thu… Rõ ràng những chữ “hơn một”, “đã
rụng cành”, “đôi nhánh”, “rũa” đâu phải là những biện pháp tu từ từ vựng hay
những thủ pháp nghệ thuật tân kì? Những chính nhờ những chữ ấy mà thiên
nhiên, cảnh vật bỗng trở nên hết sức sinh động, gợi cảm. Ta bỗng nhận thấy
một mùa thu mới xôn xao hiện về và một cặp mắt xanh non, ngơ ngác, một
tâm hồn thơ tinh tế, nhạy cảm cũng đang khẽ rung lên trước mỗi biến thái tinh
vi, mong manh, huyền diệu của thiên nhiên tạo vật lúc chuyển mùa…
Một ví dụ khác, trong bài thơ Đất Nước (trích Chương V, trường ca Mặt
đường khát vọng) của Nguyễn Khoa Điềm, nếu không chú ý đến các chữ bình
thường và một cấu trúc ngữ pháp phổ biến của kiểu câu định nghĩa được lặp
đi lặp lại rất nhiều lần trong toàn bộ Phần I của bài thơ như: “đất nước đã có
rồi”, “đất nước có trong”, “đất nước bắt đầu”, “đất nước lớn lên”, “đất nước có
từ”, “đất là”, “nước là”, “đất nước là”..: thì sẽ không thể phát hiện ra ý tưởng
và sự cảm nhận độc đáo của tác giả về đất nước. Bằng việc đưa ra những sự
vật, hiện tượng rất bình dị mà gắn bó sâu sắc với đời sống và tinh thần, tình
cảm của mỗi con ngời tự thuở ấu thơ để định nghĩa về đất nước, Nguyễn
Khoa Điềm đã đưa ra một quan niệm hết sức giản dị nhưng không kém phần
mới mẻ: đất nước không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì
gần gũi, thân thuộc, là sự sống, máu thịt và tinh thần của mỗi con người nên
mỗi người đều phải có trách nhiệm với đất nước, bởi vì trách nhiệm với đất
nước cũng là trách nhiệm với chính sự sống của bản thân mình. Khi phân tích
đoạn thơ tiếp theo ở Phần II:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng
Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng thành đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà
Điểm…
thì người phân tích cần phải biết phát hiện và bám vào khai thác động
từ “góp” lặp đi lặp lại ở mỗi dòng thơ: góp, góp cho, góp nên, góp mình… Đây
là một từ tuy được sử dụng hết sức thông thường, không chứa đựng bất kì
một thủ pháp nghệ thuật nào nhưng lại có khả năng biểu đạt rất tập trung cô
đọng, thể hiện sự cảm nhận sâu sắc của tác giả về vai trò, sứ mệnh, những hi
sinh đóng góp to lớn của nhân dân đối với đất nước.
Phát hiện đúng các từ ngữ, hình ảnh cần thiết trong tác phẩm gắn liền
với yêu cầu phát hiện và hiểu đúng ý nghĩa cửa các từ ngữ, hình ảnh ấy.
Không phát hiện được ý nghĩa hoặc hiểu không đúng ý nghĩa của các đơn vị
ngôn ngữ đều dẫn đến những cách hiểu sai lầm trong cảm thụ, phân tích tác
phẩm văn học. Không hiểu đúng ý nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ còn khiến
cho tác phẩm trở nên khó hiểu, làm giảm sút niềm hứng thú của đối tượng
tiếp nhận trong khi theo dõi tác phẩm. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, giờ dạy
văn sẽ sôi động hẳn lên khi tác phẩm trở nên dễ hiểu dưới sự dẫn dắt, gợi
mở và phân tích của thầy giáo. Các em học sinh đều tỏ ra hứng khởi và chăm
chú theo dõi hơn khi phát hiện trúng ý nghĩa của một từ ngữ, hình ảnh trong
tác phẩm mà vốn trước đây các em chưa hiểu được hoặc chưa ngờ tới.
Chẳng hạn, khi phân tích hai câu thơ.
Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang nắng trở chiều
thì, câu thơ trên sẽ hoàn toàn dễ hiểu và sẽ gây được sự chú ý theo dõi
của học sinh nếu biết gợi ý cho các em hiểu “cành hoang” nghĩa là những
cành cây rụng lá vào mùa thu. Ngược lại, nếu không làm sáng tỏ được ý
nghĩa của hai từ đó thì dẫu thầy cô giáo có phân tích bao nhiêu đi nữa, sự
phân tích ấy cũng không đủ sức thuyết phục, không làm đọng lại nơi tâm hồn
các em những ấn tượng sâu sắc. Bởi vì, khi không hiểu ý nghĩa của từ ngữ,
trí tưởng tượng của các em không thể hình dung được các hình ảnh miêu tả
trong tác phẩm – một trong những đặc trưng quan trọng nhất của hoạt động
nhận thức, cảm thụ văn học:
Nhưng các từ ngữ, hình ảnh trong tác phẩm văn học thường chứa
đựng nhiều loại ý nghĩa: nghĩa gốc, nghĩa chuyển, nghĩa đen, nghĩa bóng,
nghĩa sự vật, nghĩa biểu niệm, nghĩa biểu cảm… Khai thác loại ý nghĩa nào là
tuỳ ở sự nhạy cảm của người nghiên cứu, song nguyên tắc chung là phải khai
thác những ý nghĩa phù hợp với chủ đề tư tưởng tác phẩm và cảm xúc của
tác giả. Chẳng hạn, trong đoạn thơ sau:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ.
(Quang Dũng, Tây Tiến)
Đối với cụm từ “hội đuốc hoa”, hướng khai thác chỉ nên tập trung vào ý
nghĩa biểu thị nét lãng mạn trong cảm xúc của Quang Dũng. Đây là đoạn thơ
tác giả hồi tưởng về một đêm liên hoan văn nghệ của đơn vị Tây Tiến tại một
bản làng nơi đóng quân. Nhưng trong nỗi nhớ về đơn vị cũ, nhà thơ đã gọi kỉ
niệm đó bằng cái tên “hội đuốc hoa” – với ý nghĩa chỉ hội cưới và cái đêm
“động phòng hoa chúc” của một đời người. Đó quả là một liên tưởng hết sức
lãng mạn mà có lẽ chỉ những người lính Tây Tiến tài hoa như Quang Dũng
mới có được những xúc cảm như vậy.
Trong nhiều trường hợp, chủ đề tư tưởng của tác phẩm thường được
biểu hiện qua những ý nghĩa biểu trưng của một vài từ ngữ, hình ảnh nào đó
trong tác phẩm. Chẳng hạn, Đôi mắt là một tên truyện bộc lộ trọn vẹn chủ đề
tác phẩm. “Đôi mắt” là biểu tượng cho cách nhìn và lập trường tư tưởng, thái
độ của người cầm bút đối với con người và cuộc kháng chiến cứu nước của
dân tộc. Trong bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên, “Tây Bắc” là tên
một vùng đất xa xôi của Tổ quốc nhưng cũng là biểu tượng cho cuộc sống
cần lao rộng lớn, còn nhiều gian khó của nhân dân. “Con tàu” là hình ảnh của
một tâm hồn thơ đang trong hành trình từ bỏ cái tôi cô đơn, đóng khép để trở
về hoà nhập, gắn bó với cuộc đời của nhân dân, đất nước. Hình ảnh ấy chỉ
xuất hiện ở phần đầu và phần cuối của bài thơ. Ở phần đầu bài thơ, con tàu
là một nỗi lòng khao khát, hăm hở, một lời mời gọi lên đường; còn ở phần
cuối bài thơ (nghĩa là khi con tàu đã đến được nơi cần đến), thì đó là một
khúc hát mê say, lôi cuốn và lãng mạn. Do đó, Tiếng hát con tàu cũng là cách
nói hình ảnh thể hiện chủ đề tư tưởng của bài thơ: tiếng hát thiết tha, sôi nổi
và sâu lắng của những tâm hồn thơ trong hành trình tìm về với cuộc sống lớn
của nhân dân đất nước, tìm về với cội nguồn của những cảm hứng thơ ca
chân chính, đích thực. Trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh, ý nghĩa biểu
trưng của hình ảnh con sóng cũng đồng thời chính là chủ đề tư tưởng của bài
thơ, thể hiện khát vọng hạnh phúc và những biểu hiện tâm hồn đẹp đẽ của
người phụ nữ Việt Nam mới trong tình yêu. Trong Mảnh trăng cuối rừng của
Nguyễn Minh Châu, hình ảnh “mảnh trăng” là một hình ảnh có ý nghĩa biểu
trưng cho Vẻ đẹp lấp lánh như những viên ngọc nhưng còn tiềm tàng, ẩn giấu
trong bề sâu tâm hồn con người Việt Nam thời đánh Mĩ. Cái vẻ đẹp ấy cũng
là cội nguồn cảm hứng và ý tưởng nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Minh
Châu mà qua nhân vật chính của thiên truyện - Nguyệt, cô thanh niên xung
phong đẹp người đẹp nết trên tuyến đường Trường Sơn ác liệt – nhà văn đã
tìm thấy được cái ánh sáng lung linh, huyền diệu, đậm màu sắc lí tưởng của
nó…
Phải nắm được các đặc trưng của ngôn ngũ thơ.
Riêng đối với tác phẩm thơ, người cảm thụ, phân tích cần phải nắm
được những đặc trưng của ngôn ngữ thơ. Khác với ngôn ngữ trong giao tiếp
thông thường, do đặc trưng thể loại, ngôn ngữ thơ thường có một con đường
riêng trong cách biểu hiện và diễn đạt. Đã có nhiều công trình nghiên cứu vấn
đề này. Ở đây chúng tôi xin chỉ đề cập đến một vài điểm chủ yếu. Do nguyên
tắc kiệm lời, ngôn ngữ thơ có tính chất dồn nén, hàm súc và đa nghĩa. Về mặt
cấu trúc, nhiều khi các yếu tố ngôn ngữ không được hiện diện đầy đủ trên bề
mặt văn bản của tác phẩm thơ, hoặc là trong một câu thơ, trật tự các yếu tố
ngôn ngữ không tuân theo những cách diễn đạt thông thường. Nói theo cách
của nhà thơ Ngô Minh thì nhiều khi, “khoảng cách giữa câu thơ đòng trên và
câu thơ tiếp theo không phải theo thứ tự 1, 2, 3… nữa, mà nhảy cóc từ 1 đến
10, 20… Tức là khoảng “lặng” giữa các câu thơ mà nhà thơ dành cho người
đọc tự do nghĩ ngợi, càng rộng thì độ nén của thơ càng cao”. Như những
khoảng lặng giữa các khổ thơ trong bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử và
giữa các câu thơ của hai khổ cuối trong bài thơ ấy là một ví dụ. Kinh nghiệm
của một số nhà nghiên cứu khi gặp những trường hợp như vậy thường tìm
cách đưa những câu thơ trở về với cách diễn đạt thông thường, tức là chuyển
những câu thơ có cấu trúc đặc biệt thành cách diễn đạt của văn xuôi, như
thêm vào một số từ ngữ hoặc làm hiện diện những yếu tố bị tỉnh lược, khiếm
diện trong câu thơ (đoạn thơ), hoặc đảo trật tự các từ ngữ trong câu thơ theo
trật tự của câu văn xuôi v.v… Ngôn ngữ học gọi thủ pháp này là “phép thử”.
Trong thực tế giảng dạy, phân tích thơ, phép thử ấy nhiều khi tỏ ra rất hữu
hiệu, nhất là đối với các em học sinh. Nó gợi mở trí tưởng tượng, lấp đầy các
“khoảng trống” ngữ nghĩa giữa các câu thơ để người đọc có thể hiểu và cảm
thụ chúng. Chẳng hạn, có những câu thơ mới đọc tưởng chừng rất khó hiểu,
song chỉ cần diễn đạt lại câu thơ dưới dạng văn xuôi, lập tức có thể phát hiện
ngay được ý nghĩa lấp lánh của nó. Trong bài Thơ duyên của Xuân Diệu, học
sinh thường bị “vấp” ngay từ những câu thơ đầu tiên:
Chiều mộng hoà thơ trên nhánh duyên
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Song nếu làm một phép thử ngôn ngữ học là đảo trật tự hai câu thơ và
diễn đạt chúng bằng văn xuôi: “Trên cành cây me có đôi chim chuyền cành ríu
rít, khiến cho cành cây me trở thành nhánh duyên, còn không gian của buổi
chiều thu bỗng biến thành một không gian thơ mộng (của những lứa đôi)”, thì
câu thơ đầu tiên sẽ trở nên hoàn toàn dễ hiểu và hình ảnh về bức tranh buổi
chiều thu đậm đà màu sắc duyên tình tươi vui như thể đã hiển hiện khá sinh
động ngay trước mắt người đọc.
Hay như khi phân tích những câu thơ “hai giọng” (trong bài Tống biệt
hành của Thâm Tâm) thể hiện cái khẩu khí cứng cỏi, khí phách ngang tàng
của người li khách giã nhà theo “chí nhớn”:
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy,
Một giã gia đình, một dửng dưng…
– Li khách! Li khách! Con đường nhỏ,
Chí nhớn chưa về bàn tay không,
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm, mẹ già cũng đừng mong.
Giáo sư Trần Đình Sử viết: “Từ ngữ trong câu dồn nén, có nhiều tỉnh
lược, giữa các dòng thơ có nhiều khoảng trống, tạo thành một vẻ ám ảnh bí
ẩn, không dễ gì thuyết minh cho thông (…). Có nhiều chỗ tối nghĩa, phải thêm
chữ vào mới hiểu được. Chẳng hạn, Chí nhớn: chưa về (nếu) bàn tay không.
(Chưa thành công) thì không bao giờ nói trở lại… (Dẫu có là) Ba năm, (thì)
mẹ già cũng đừng mong”.
Thủ pháp này cũng có thể dùng để nhận diện cấu trúc những đoạn thơ,
câu thơ có cách diễn đạt lạ, độc đáo, qua đó phát hiện mạch cảm xúc, suy
tưởng của chủ thể trữ tình. Chẳng hạn, với đoạn thơ sau trong bài Vội vàng
của Xuân Diệu:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật,
Này đây hoa của đồng nội xanh rì,
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si,
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi.
Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Trước hết, phải thấy rằng, “này đây” là một cụm từ mà về mặt ý nghĩa
và chức năng cú pháp, nó chỉ tương đương với một đại từ chỉ vị trí ở gần,
ngay phía trước mặt người nói: “này” hoặc “đây”. Về cấu trúc, hầu hết các câu
thơ trong đoạn thơ trên đều không tuân theo trật tự ngữ pháp thông thường;
toàn bộ đoạn thơ là một phép so sánh trùng điệp, trong đó vế 2 – cái dùng để
so sánh – là liên tiếp những hình ảnh được miêu tả ở mỗi câu thơ, còn vế 1 –
cái. được so sánh – bị ẩn đi, không hiện diện. Để hiểu ý nghĩa tư tưởng, cảm
xúc được biểu đạt ở đoạn thơ này, chúng ta hãy thiết lập lại trật tự văn xuôi
của các câu thơ, chỉ sử dụng một từ “này” hoặc “đây” theo cách diễn đạt
thông thường và hiện thực hoá vế 1 là “cuộc đời”, ta sẽ có những câu văn
xuôi được diễn đạt như sau:
VẾ 1:
CÁI ĐƯỢC SO SÁNH
Cuộc đời này như là
VẾ 2:
CÁI DÙNG ĐỂ SO SÁNH
– tuần tháng mật của bướm ong
– hoa của đồng nội xanh rì
– lá của cành tơ phơ phất
– khúc tình si của yến anh
– ánh chớp của hàng mi
– tháng giêng của mùa xuân…
Dễ dàng nhận ra đây là đoạn thơ thể hiện sự cảm nhận của nhà thơ về
cuộc đời và sự sống trần thế. Dưới cặp mắt xanh non háo hức và đầy vui
sướng của Xuân Diệu, sự sống trần thế luôn là một thế giới hết sức tươi đẹp,
đẫm nhạc, đẫm hương thơm, đầy màu sắc và tình ái, đầy ánh sáng và âm
nhạc… Tất cả như đang bày ra trước mặt, ngay trong tầm tay của mỗi người
và dâng đón, chào mời…
Ở khổ thơ cuối bài Đất nước của Nguyễn Đình Thi, lấy chất liệu từ một
thực tế ở chiến trường Điện Biên Phủ trong trận đánh chiếm đồi A1, giữa cái
nắng hè gay gắt, dưới ánh chớp lửa đạn rực trời, trưa ngày 7/5/1954, các
chiến sĩ ta từ các chiến hào, mình đầy bùn đất, sau “Năm mươi sáu ngày đêm
khoét núi ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt/ Máu trộn bùn non, gan không núng,
chí không mòn…” (Tố hữu, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên) đã ào ạt xông lên
chiếm cao điểm cuối cùng của giặc, giải phóng hoàn toàn Điện Biên, kết thúc
thắng lợi cuộc kháng chiến, nhà thơ đã tạo nên một hình ảnh biểu trưng khái
quát về Đất Nước kháng chiến:
Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy, sáng loà
Tuy nhiên, không phải người đọc thơ nào cũng nhận ra ngay cách diễn
đạt biểu trưng ấy, nhất là đối với các em học sinh phổ thông. Vì vậy, khi phân
tích, giảng giải, có thể dùng phép thử của ngôn ngữ học, thêm quan hệ từ
biểu thị ý so sánh “như” vào cuối hai câu thơ đầu để hiện rõ cách diễn đạt
biểu trưng của khổ thơ: bốn câu thơ đã dựng nên bức tượng đài sừng sững
về một Đất Nước kháng chiến từ trong đau thương uất hận, từ trong máu lửa
bùn lầy đã anh dũng đứng dậy chói loà trong niềm tin và chiến thắng.
Một điểm khá quan trọng khi cảm thụ, phân tích thơ mà chúng tôi muốn
đề cập ở đây là vấn đề tìm hiểu mạch lạc của tư tưởng – cảm xúc và cấu trúc
bài thơ. Để hiểu một tác phẩm thơ, ngươi đọc phải cảm thụ, theo dõi được cái
mạch vận động, phát triển của tư tưởng, cảm xúc trong toàn bộ bài thơ mà
ngôn ngữ học gọi là mạch lạc của một tác phẩm thơ. Mạch lạc là một khái
niệm ngôn ngữ học thuộc lĩnh vực phân tích diễn ngôn và có liên quan trực
tiếp tới cấu trúc văn bản của tác phẩm: “Dễ nhận thấy là văn bản văn học
mang tính mạch lạc một cách rõ ràng hơn là hội thoại thường ngày, cũng có
nghĩa là người cầm bút chú ý nhiều hơn tới sự cấu trúc bài viết của mình.
Khái niệm mạch lạc đối với cấu trúc của văn bản là một trong những khái
niệm quan trọng của người cầm bút”. “Người cầm bút” ở đây trước hết là tác
giả, chủ thể sáng tạo văn bản tác phẩm thơ và sau đó là “phận sự của người
đọc”. Theo dõi được mạch lạc của tư tưởng, cảm xúc thơ, chỉ ra được cấu
trúc văn bản của tác phẩm thơ chính là “một phần trong quá trình đọc”, hơn
nữa còn là một phần hết sức quan trọng, bởi từ đó người đọc nắm được
những gì cốt lõi và cảm thụ được tinh thần cơ bản của bài thơ. Thực ra, việc
tìm hiểu mạch lạc và cấu trúc bài thơ cũng đã được tiến hành thông qua việc
phân tích bố cục, cách chia đoạn bài thơ, một công việc khá quen thuộc trong
phân tích, giảng dạy các tác phẩm thơ (và tác phẩm văn học nói chung) trong
nhà trường phổ thông. Bởi vì, bố cục và mạch lạc trong cấu trúc tác phẩm có
quan hệ với nhau một cách chặt chẽ. Tuy nhiên, bố cục chỉ là cái biểu hiện
bên ngoài của cảm xúc, tư tưởng; nó thuộc về hình thức của cấu trúc tác
phẩm. Còn mạch lạc mới chính là trình tự bên trong của dòng mạch cảm xúc;
đó là cái dòng chảy tư tưởng, tình cảm chạy suốt bài thơ; nó thuộc về cái lô
gích bên trong cấu trúc của tác phẩm thơ. Nhìn chung, có hai cách cấu trúc
bài thơ: cấu trúc theo kiểu khai triển đề tài và cấu trúc theo mạch phát triển
tâm trạng cảm xúc của chủ thể trữ tình. Cấu trúc của các bài thơ Đây mùa thu
tới, Đất nước, Bên kia sông Đuống… có thể coi như thuộc kiểu thứ nhất. Còn
cấu trúc của các bài thơ Tống biệt hành, Đây thôn Vĩ Dạ, Sóng, Tiếng hát con
tàu… là thuộc kiểu thứ hai. Có thể cụ thể hoá cấu trúc bài thơ Đây mùa thu
tới của Xuân Diệu thông qua mối quan hệ giữa bố cục và mạch lạc như sau:
BỐ CỤC MẠCH LẠC
Đoạn 1: Tín hiệu báo
thu và tâm trạng con
ngươi lúc thu sang.
(Khổ thơ đầu)
Sự hồ hởi, vui sướng của nhà thơ khi nhận ra
dấu hiệu của mùa thu qua dáng vẻ thướt tha,
yểu điệu của những hàng liễu rủ dưới sắc nắng
chiều thu vàng nhạt.
Đoạn 2: Toàn cảnh
thiên nhiên, đất trời
lúc vào thu.
Cảm nhận tinh tế của nhà thơ trước những
biến thái hết sức tinh vi, mong manh, nhỏ nhặt
của thiên nhiên, tạo vật lúc vào thu qua những
(Ba khổ thơ cuối) hình ảnh: vườn thu, trăng thu, núi thu – sương
thu, rét thu, sông thu – đò thu, bầu trời thu
(mây, chim, khí trời), thiếu nữ thu.
Bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi có bố cục gồm ba phần:
Đoạn 1: Khung cảnh mùa thu Hà Nội những năm dài nô lệ trước Cách
mạng tháng Tám.
Đoạn 2: Khung cảnh mùa thu đất nước có độc lập, tự do từ sau Cách
mạng tháng Tám.
Đoạn 3: Hình ảnh đất nước đau thương đã đứng dậy và ngời sáng
trong suốt cuộc kháng chiến trường kì. Bố cục đó được xây dựng dựa trên cơ
sở của dòng mạch tư tưởng - cảm xúc chung về đất nước xuyên suốt trong
toàn bộ bài thơ: Khơi nguồn cho niềm xúc cảm và những suy tư về đất nước
là không gian trong trẻo và mùi hương cốm mới rất đặc trưng của một buổi
sáng mùa thu ở chiến khu Việt Bắc trong kháng chiến gợi nhớ về những mùa
thu đất nước trong quá khứ:
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
“Những ngày thu đã xa” ấy là những ngày đất nước còn chìm đắm
trong vòng nô lệ trước Cách mạng tháng Tám, mà hình ảnh biểu trưng là
khung cảnh mùa thu Hà Nội. Hà Nội vào thu: đất nước qua cái nhìn lãng mạn
của Nguyễn Đình Thi vẫn rất đẹp, gợi cảm và đầy khí phách nhưng không
tránh khỏi buồn vắng, hiu hắt:
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Từ niềm hoài niệm đó, nhà thơ trở về với niềm vui phơi phới và niềm tự
hào sâu lắng trước khung cảnh một đất nước có truyền thống bất khuất, đã
có độc lập tự do sau Cách mạng:
… Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất…
Cuối cùng là những suy tư về hình ảnh đất nước trong cuộc kháng
chiến trường kì, một đất nước đau thương, uất hận vì chiến tranh tàn phá
nhưng vẫn hết sức anh dũng, bất khuất và ngời sáng trong niềm tin chiến
thắng:
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu
(…) Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng loà.
Bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh nhìn hình thức và thi tứ thì có vẻ phóng
túng, tự do nhưng từ chiều sâu của tư tưởng và cảm hứng, người đọc vẫn có
thể nhận thấy rất rõ sự mạch lạc của dòng cảm xúc được triển khai một cách
khá giản dị theo cái lô gích diễn tiến rất tự nhiên của tình cảm: bắt đầu từ
những khát vọng mãnh liệt về một tình yêu chân chính, không chấp nhận
những tình cảm nhỏ hẹp, vị kỉ (Sông không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể/
Nỗi khát vọng tình yêu/ Bồi hồi trong ngực trẻ), dẫn đến những suy tư đầy xúc
động về các trạng thái tâm hồn trong tình yêu ấy như: sự băn khoăn, trăn trở
về nguồn cội của tình yêu (Sóng bắt đầu từ gió/ Gió bắt đầu từ đâu/ Em cũng
không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau); nỗi nhớ nhung tha thiết, mãnh liệt của
một tình yêu chân chính (Ôi con sóng nhớ bờ/ Ngày đêm không ngủ được…/
Nơi nào em cũng nghĩ/ Hướng về anh một phương); niềm hi vọng tin tưởng
(Trăm ngàn con sóng đó/ Con nào chẳng tới bờ…) và cuối cùng là khát vọng
được hi sinh, dâng hiến, được sống hết mình cho tình yêu đó (Làm sao được
tan ra/ Thành trăm con sóng nhỏ/ Giữa biển lớn tình yêu/ Để ngàn năm còn
vỗ).
Cấu trúc bài thơ Tống biệt hành của Thâm Tâm theo sát mạch vận
động, phát triển tâm trạng của chủ thể trữ tình – người đưa tiễn: bắt đầu là
những băn khoăn trước thái độ và tình cảm của li khách trong giờ phút chia
tay: Sao có tiếng sóng (…)/ Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong/ Đưa người ta
chỉ đưa người ấy…, tiếp đến là những hồi tưởng về cảnh ngộ của người ra đi:
Ta biết người buồn (...) và cuối cùng là lòng ngưỡng vọng, cảm phục đối với
tinh thần trượng nghĩa cùng những tình cảm đầy nhân tính của li khách trong
thời đại ý thức về cái tôi đã được thức tỉnh: Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
v.v…
Như vậy, nếu chỉ dừng lại ở bố cục thì sự cảm thụ và phân tích vẫn còn
đang ở giai đoạn chia cắt bài thơ thành những bộ phận biểu thị nội dung,
chưa thấy được cấu trúc chỉnh thể tác phẩm, đặc biệt là chưa theo dõi được
mạch vận động, phát triển tư tưởng – cảm xúc của chủ thể trữ tình trong bài
thơ. Phân tích được cấu trúc tác phẩm, theo dõi được mạch lạc tư tưởng,
cảm xúc và thi tứ của bài thơ cũng tức là người đọc đã có thể rung cảm, đồng
điệu được với những xúc động, những trăn trở, suy tư của nhà thơ từ trong
chiều sâu chỉnh thể tác phẩm..
2. THỜI GIAN VỚI Ý NGHĨA HAI CHỮ “VỘI VÀNG” CỦA XUÂN DIỆU
Trong tập Gửi hương cho gió (1945) Xuân Diệu đã viết những câu thơ
thật giàu hình ảnh về thời gian:
Thời gian rót từng giọt buồn tê héo
Sự sống đi như hương bỏ hoa chiều…
Thời gian vốn là một tồn tại khách quan của tự nhiên. Đó là một đại
lượng vật chất không ngừng biến đổi, diễn ra một chiều, một đi không trở lại,
giống như một dòng chảy vô tình… Nhưng chính nhờ sự cảm nhận của con
người mà thời gian trở nên có ý nghĩa. Trong tác phẩm văn học, mỗi nhà văn,
nhà thơ xuất phát từ một “điểm nhìn” nhất định sẽ có những cách chiếm lĩnh
và thể hiện thời gian khác nhau. Thi pháp học hiện đại gọi đó là thời gian
nghệ thuật. “Thời gian được cảm nhận bằng tâm lí và mang ý nghĩa thẩm mĩ
(…), là hình thức cảm nhận thế giới của con người gắn liền với một quan
niệm nhất định về thế giới”. Độ dài ngắn của thời gian nghệ thuật thường
được đo bằng tâm lí và trạng thái cảm xúc của chủ thể trữ tình: Trăm năm thì
ngắn, một ngày dài ghê (Tản Đà), Sầu đong càng lắc càng đầy/ Ba thu dọn lại
một ngày dài ghê (Nguyễn Du) v.v… Sự cảm nhận thời gian trong thơ Xuân
Diệu bắt nguồn từ nét đặc sắc trong quan niệm và tư tưởng nghệ thuật độc
đáo của thi nhân. Trong các nhà thơ mới trước Cách mạng, Xuân Diệu là một
hồn thơ yêu đời và sống mãnh liệt nhất. Hồn thơ ấy luôn thể hiện khát vọng
được sống, được yêu trong một niềm khát khao giao cảm mãnh liệt với cuộc
đời và thiên nhiên tạo vật. Tác giả Thi nhân Việt Nam nhận xét: “Thơ Xuân
Diệu còn là một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ
này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống
cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như
khi buồn, người đều nồng nàn, tha thiết (…). Sự bồng bột của Xuân Diệu có
lẽ đã phát biểu ra một cách đầy đủ hơn cả trong những rung động tinh vi”. Thi
sĩ có thể cảm nhận được một cách rất tinh tế những sự chuyển vận của thiên
nhiên cùng bước đi của thời gian. Tiếng gõ nhịp thời gian thường tạo ra trong
thơ Xuân Diệu sự rung động và những cảm xúc riêng:
Không gian như có dây tơ,
Bước đi sẽ đứt, động hờ sẽ tiêu,
Êm đềm chiều ngẩn ngơ chiều,
Lòng không sao cả, hiu hiu khẽ buồn….
(Chiều)
Nhưng nét độc đáo nhất trong sự cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu
là ông luôn có những xúc cảm thật mạnh mẽ về sự đối lập giữa thời gian của
vũ trụ vô biên với thời gian hữu hạn của cuộc đời mỗi con người. Hơn hai hết,
vị “Tao đàn nguyên suý” của phong trào Thơ mới này ý thức được một cách
thật sâu xa về giới hạn ngắn ngủi của đời người trước thời gian một đi không
trở lại. Trước sự chảy trôi của thời gian, Xuân Diệu có những cảm nhận thật
xót xa, thấm thía:
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian;
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nêu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại.
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi…
(Vội vàng)
Ý thức về thời gian như thế nên trong thơ Xuân Diệu, thời gian thường
gắn liền với những dự cảm về sự tàn phai, mất mát và xa cách:
Thong thả, chiều vàng thong thả lại…
Rồi đi… Đêm xám tới dần dần…
Cứ thế mà bay cho đến hết
Những ngày, những tháng, những mùa xuân.
(Giờ tàn)
Nỗi sợ thời gian chảy trôi ấy khiến cho thi sĩ có thể cảm nhận được một
cách tinh tế những sắc màu tàn phai, những hương vị chia li sầu tủi ẩn náu
trong bước đi của thời gian: Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi/ Khắp sông
núi bỗng than thầm tiễn biệt (Vội vàng). Xuân Diệu có những dự cảm thật mới
lạ, độc đáo: Trong gặp gỡ đã có mầm li biệt (Giục giã), nên ông tỏ ra rất thấu
hiểu những “lí lẽ ngang ngạnh” của thời gian:
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua;
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già;
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
(Vội vàng)
Với Xuân Diệu, thời gian trở thành một nguy cơ, luôn chứa đựng sự bất
trắc. Thời gian làm cho mọi thứ trở nên không vững bền:
Hết ngày, hết tháng, hết! Em ơi!
Kinh hãi không gian quặn tiếng còi
Anh đến tìm em, em thấy đó
Sắp xa, thôi cũng tựa xa rồi!
(Hết ngày, hết tháng…)
Ý thức về thời gian đời người ngắn ngủi, hữu hạn luôn tạo ra trong thơ
Xuân Diệu những linh cảm bất an và một nỗi lo sợ luôn thường trực trong thơ
ông: sợ tương lai, sợ ngày mai:
Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai;
Đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn.
(Giục giã)
Trong thơ Xuân Diệu, tương lai, ngày mai đã trở thành “lực lượng thù
địch với hạnh phúc, tuổi xuân của con người” (Trần Đình Sử). Nhưng là một
nhà thơ tha thiết với sự sống trần thế, Xuân Diệu vẫn có những xúc cảm hết
sức sôi nổi trước cuộc đời. Khi đối diện với thời gian, nếu hầu hết các nhà thơ
mới đều muốn thoát li thực tại, thì bằng cảm quan thẩm mĩ tích cực và độc
đáo, Xuân Diệu luôn tìm thấy cái đẹp ngay giữa cuộc đời trần thế. Nhà thơ
Chế Lan Viên nhận xét: “Xuân Diệu đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ
giới”. Cảm xúc về cuộc đời trong Vội vàng là nỗi sung sướng, vồ vập trước
một thế giới tươi non, đầy mật ngọt, hoa thơm, đầy tình ái, ánh sáng và âm
nhạc… tất cả đều cuốn hút, say mê. “Nhà thơ như thể đã phát hiện ra một
thiên đường có thật ngay trên mặt đất này, trong tầm tay của mỗi người”
(Trần Đình Sử). Qua cách diễn đạt độc đáo của Xuân Diệu, thiên đường ấy
như thể đang bày sẵn trước mắt mọi người:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật,
Này đây hoa của đồng nội xanh rì,
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si,
“Này”, “đây” là những đại từ chỉ định không gian gần, ở ngay trước mặt,
trong tầm tay, được dùng kết hợp theo lối song trùng tạo thành một cụm từ
đồng chức năng “này đây”, khiến cho cấp độ ý nghĩa của các thành tố được
nhấn mạnh thêm. Những chữ “này đây” ấy lại được dùng theo phương thức
đảo ngữ và lặp đi lặp lại trong mỗi dòng thơ, tạo thành một điệp khúc, có tác
dụng diễn tả rất đạt những xôn xao, náo nức của tâm hồn nhà thơ. Bởi vì,
đằng sau mỗi chữ “này đây” ấy đều là những hình ảnh đầy sinh khí của tình
yêu và sự sống: này đây là tuần tháng mật, này đây là hoa của đồng nội xanh
rì, này đây là lá của cành tơ phơ phất và này đây là khúc tình si… Người đọc
như thấy được cả cái háo hức của chính tâm hồn nhà thơ, một nhà thơ ham
sự sống nên luôn nhìn nó trong trạng thái sinh sôi, nảy nở và giàu sức sống
nhất. Và với Xuân Diệu, cái đẹp nhất của thế giới này vẫn là những vẻ đẹp
của con người:
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi.
Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Ánh nắng mỗi buổi sớm mai chiếu rọi xuống thế gian được ví như ánh
“chớp hàng mi” của người con gái đẹp; còn tháng giêng của mùa xuân được
ví như “một cặp môi gần”!
Cảm nhận thời gian và sự sống như thế nên Xuân Diệu thường có
những ý tưởng thật táo bạo. Nhà thơ không muốn tuổi trẻ, tình yêu và những
sắc hương đẹp đẽ trong cuộc đời cứ phải tàn phai theo năm tháng; thi sĩ
muốn tắt nắng, buộc gió, muốn thời gian phải ngừng trôi:
Tôi muôn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất,
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
(Vội vàng)
Nhưng mà không được, bởi làm sao có thể cưỡng lại được quy luật
của tự nhiên? Vậy thì, theo Xuân Diệu, chỉ còn một cách thôi là sóng cho thật
mãnh liệt, sống cho thật đủ đầy ý nghĩa trong cái khoảnh khắc hữu hạn của
một đời người: Sống toàn tâm, toàn trí, sống toàn hồn/ Sống toàn thân và
thức nhọn giác quan với cuộc đời. Do vậy, với Xuân Diệu, thời gian sống đích
thực của con người chỉ là thời hiện tại – một thời hiện tại với những hiện hữu
của nó mà không cần biết đến quá khứ hay tương lai:
Cần chi biết ngày mai hay bữa trước?
Gần nhau đây, thì yêu mến là hơn
(Mời yêu)
Thời hiện tại trong thơ Xuân Diệu cũng đồng nghĩa với tình yêu và tuổi
trẻ, thời còn khoe sắc đua hương:
Và hãy yêu tôi một giờ cũng đủ,
Một giây cũng cam, một phút cũng đành.
(Mời yêu)
Nhưng thời hiện tại cũng không vững bền, nó sẽ mau chóng qua đi rất
nhanh, bởi cái ranh giới mong manh giữa hiện tại và quá khứ, liền ngay sau
hiện tại đã là quá khứ mất rồi! Do đó, Xuân Diệu cho rằng, để níu giữ lấy cái
đang tồn tại, đang hiện hữu; để khắc phục sự hữu hạn ngắn ngủi của kiếp
người thì không chỉ sống hết mình với hiện tại là đủ mà còn cần phải mau lên,
phải thật vội vàng:
– Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối
Còn hơn buôn le lói suốt trăm năm.
(Giục giã)
– Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ!
Em, em ơi! Tình non sắp già rồi…
– Mau với chứ! Thời gian không đứng đợi.
(Giục giã)
Như vậy, vội vàng là một thái độ sống, một triết lí nhân sinh – thẩm mĩ
mang đậm ý nghĩa nhân văn tích cực. Thái độ và triết lí sống đó đã được
Xuân Diệu thể hiện một cách thật thiết tha trong rất nhiều những bài thơ sôi
nổi, đầy nhiệt huyết của mình. Xuân Diệu đã hơn một lần tâm sự: Tôi không
chờ nắng hạ mới hoài xuân (Vội vàng). Bởi vì: Tôi sợ mất sự sống của tôi,/
Tôi không muốn nó rớt chảy trôi theo dòng ngày tháng (Lời đưa duyên) và
Nếu tôi đứng, nếu máu tôi ngừng,/ Thời gian của tôi sẽ không còn nữa
(Thương vay). Cho nên, mô típ giục giã, vội vàng, gấp gáp… xuất hiện nhiều
lần và trở đi trở lại trong thơ Xuân Diệu trước Cách mạng như một nỗi niềm
thiết tha khắc khoải, nhức nhối. Có nhà nghiên cứu nhận xét rằng, trung thơ
Xuân Diệu, người ta thấy ông sử dụng rất nhiều liên từ, tận dụng triệt để thủ
pháp liệt kê; có lẽ cũng là để có thể chuyển tải cho hết những nỗi niềm thiết
tha sôi nổi, rạo rực trong tâm hồn mình đối với thời gian và sự sống. Phải
chăng, đấy cũng là yếu tố tích cực nhất trong thơ Xuân Diệu trước Cách
mạng, một nhà thơ luôn biết mình hữu hạn nên khao khát không thôi gắn bó
với cuộc đời:
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều;
Và non nước. và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
(Vội vàng)
3. VẺ ĐẸP LỨA ĐÔI, HÌNH ẢNH NGƯỜI THIẾU NỮ VỚI HÌNH TƯỢNG THIÊN NHIÊN TRONG THƠ XUÂN DIỆU
Xuân Diệu là một nhà thơ tình yêu, điều ấy thật đúng bởi ông sáng tác
hơn năm trăm bài thơ tình. Đúng hơn, ông là nhà thơ của vẻ đẹp xuân tình và
hình ảnh người thiếu nữ. Trong tập thơ đầu tay Thơ thơ (1938), người thanh
niên mười tám tuổi đời ấy khai bút bằng những tuyên ngôn và đây là một
trong những tuyên ngôn ấy:
Còn gì khổ bằng yêu không dám nói
Để tháng năm ôm mãi vết thương sầu
Ta thi sĩ kiếp phong lưu lặn lội
Thiếu ái tình, thiếu cả, có chi đâu
Ta vẫn biết nước non đang nũng nịu
Bảo ta nên ngoan ngoãn lựa lời thơ
Ca cái đẹp của hương chiều êm dịu
Của tràng giang lặng khuất bóng trăng mờ
Nhưng mặc kệ, đời ta phụng sự
Cả tài hoa lẫn cảnh trí thiên nhiên
Chỉ biết rằng khi xa người thiếu nữ
Ngòi bút ta mất hết vẻ thần tiên.
Thơ trữ tình vốn bao giờ cũng chủ quan, nhà thơ cảm nhận và biểu
hiện thế giới không phải như thế giới vốn có trong thực tại mà theo sự chiêm
nghiệm và xúc động riêng của tâm hồn nhà thơ. Đến thơ lãng mạn, tính chất
chủ quan ấy đã có một cái tôi cá nhân cụ thể, mãnh liệt và đầy cảm xúc, nằm
ở trung tâm cảm nhận, làm nguyên tắc thế giới quan. Nhà nghiên cứu văn
học Trần Đình Sử viết: “Chất lãng mạn nằm trong cách cảm nhận, biểu hiện
thế giới và con người một cách đặc thù”. Trước đó, nhà nghiên cứu, phê bình
văn học người Nga V. Gri–mum–xki cũng đã từng nói: “Nhà thơ lãng mạn
muốn bày tỏ cho chúng ta trước hết là về chính họ, là phơi bày tâm hồn họ,
cõi lòng họ. Họ thổ lộ cho ta những chiều sâu tâm hồn xúc cảm, sự đa dạng
của cá tính. Họ reo lên vì vui, họ gào lên hay khóc lên vì đau đớn. Họ kể lể,
họ bảo ban, họ vạch trần với khuynh hướng rõ rệt, buộc người nghe phục
tùng cảm giác về đời sống của họ, làm cho người nghe thấy cái gì đang hiện
ra trong trực giác trực tiếp của nhà thơ”. Chất lãng mạn của thơ Xuân Diệu
trước hết bộc lộ ở cặp mắt xanh non háo hức, ở trái tim sôi nổi, rạo rực và
thái độ cuống quýt trong sự gắn bó tha thiết với cuộc đời. Do đó, thi sĩ luôn
cảm nhận và thể hiện sự sống ở trạng thái đắm say, xuân sắc và viên mãn
nhất. Thiên nhiên trong thơ ông phải là một thế giới đương khoe sắc đua
hương, một thế giới của muôn bướm với muôn hoa, lúc nào cũng đẫm nhạc,
đẫm hương thơm, đầy ánh sáng và tình ái. Thi sĩ đã mĩ hoá thiên nhiên theo
cách riêng của mình, bằng những xúc cảm chủ quan và lãng mạn. Không chỉ
trong những bài thơ trực tiếp về tình yêu đôi lứa mà trong hầu hết những bài
thơ thuộc nhiều đề tài khác của Xuân Diệu, hình tượng thiên nhiên vẫn luôn
thể hiện những nét cố hữu của riêng tâm hồn ông: trẻ trung, tình tứ, mộng mơ
và hết sức lãng mạn. Đó là một loại hình tượng thiên nhiên mang vẻ đẹp và
sức sống của con người, đặc biệt là vẻ đẹp của những lứa đôi và hình ảnh
người thiếu nữ. Bài Thơ duyên diễn tả những cảm nhận tinh tế của nhà thơ
trước sự giao hoà tuyệt diệu của thiên nhiên, cảnh vật và con người trong một
buổi chiều thu. Duyên trong bài thơ này không chỉ có ý nghĩa tình yêu lứa đôi
gắn với quan hệ nam nữ mà còn là cái duyên của đất trời, cỏ cây, hoa lá, cái
duyên của tạo vật và lòng người. Giữa buổi chiều thu trong sáng, dịu êm,
người thanh niên mới lớn nghe dâng lên trong lòng mình những rung động
tình yêu buổi ban đầu với một thiếu nữ không quen biết cũng đang đồng hành
nhẹ bước trên đường. Mối lương duyên ấy tuy cũng mới chỉ từ một phía, chỉ
là “tự lòng ta nghe ý bạn”, nên cũng còn rất mơ hồ, khó diễn tả; nhưng trong
không khí giao hoà của mùa thu, dường như tất cả thiên nhiên tạo vật đâu
đâu cũng “đều có duyên với nhau, cặp đôi với nhau, hiệp vần với nhau trong
âm hưởng của nhạc (“Thu đến nơi nơi động tiếng huyền”), trong không khí
của thơ, mộng (“Chiều mộng hoà thơ”) và trong tình thương yêu (…) để sáng
tạo nên một bài thơ dịu treo lên giữa một buổi chiều thu”:
Chiều mộng hoà thơ trên nhánh duyên,
Cây me ríu rít cặp chim chuyền.
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền…
Cách cảm nhận đặc biệt ấy đã đem đến trong thơ Xuân Diệu một không
gian nghệ thuật rất độc đáo. Không gian trong bài thơ Với bàn tay ấy đặc sắc
không chỉ ở sự hoà phối tuyệt diệu giữa màu sắc, âm thanh, nhịp điệu và độ
cao – thấp của vần điệu mà còn ở chỗ, mọi cảnh vật thiên nhiên, dù chỉ là
những “cây, cỏ, hoa, lá, mây, trăng, làn rêu…”, nhưng tất cả đều đã được thi
sĩ miêu tả giống như những lứa đôi đương dập dìu ân ái rất tình tứ, rất dịu
dàng:
– Một tối bầu trời đắm sắc mây,
Cây tìm nghiêng xuống cánh hoa gầy,
Hoa nghiêng xuống cỏ, trong khi cỏ
Nghiêng xuống làn rêu, một tối đầy.
Những lời huyền bí toả tên trăng,
Những ý bao la rủ xuống trần,
Những tiếng ân tình hoa bảo gió,
Gió đào thỏ thẻ bảo hoa xuân.
Cảm xúc của Xuân Diệu trước thiên nhiên từ điểm nhìn tình yêu đôi lứa
không chỉ thể hiện cái chất men say đắm, nồng nàn, tha thiết mà còn hết sức
tinh tế. Nhà thơ cảm nhận thiên nhiên, đất trời không phải chỉ bằng những
giác quan thông thường vốn có mà còn bằng cả giác quan tâm linh của một
hồn thơ yêu đời, luôn khát khao giao cảm mãnh liệt với sự sống. Xuân Diệu
quan niệm đã là sự sống thì “chẳng bao giờ chán nản” (ông có bài thơ nhan
đề: Sự sống chẳng bao giờ chán nản) và phải sống thật mãnh liệt, phải sống
hết mình: Sống toàn tâm, toàn trí, sống toàn hồn – Sống toàn thân và thức
nhọn giác quan với cuộc đời. Hoặc: Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối/ Còn
hơn buồn le lói suốt trăm năm. Ngôn ngữ thơ Xuân Diệu luôn có những sáng
tạo đột biến rất mới mẻ, mạnh bạo bởi “cảm xúc mạnh mẽ, nồng nàn, luôn ở
trạng thái cực điểm khiến thơ ông không chấp nhận những cách diễn đạt
thông thường, những từ ngữ phẳng lặng”. Thơ Xuân Diệu đầy rẫy những cảm
giác trực giác, những màu sắc, âm thanh, mùi vị… và đặc biệt nhất là hình
ảnh: “Hình ảnh động tới con mắt, nhất là động tới nhận thức, tới trí tuệ; hình
ảnh diễn đạt tình cảm và tư tưởng (…). Thơ nói bằng nhạc điệu và hình ảnh,
mà tôi xin nhắc lại, theo ý tôi, hình ảnh là mãnh liệt nhất”. Với Xuân Diệu, hình
ảnh ấy phải là hình ảnh của những lứa đôi, hình ảnh của những ái ân xuân
tình, xuân sắc và nhất là hình ảnh của người thiếu nữ. Có thể nói rằng, qua
con mắt, qua cái nhìn nghệ thuật của nhà thơ, thiên nhiên, cảnh vật và sự
sống ở đâu cũng hoá ra bóng hình người con gái. Hãy xem cái cách nhà thơ
vồ vập, cuống quýt tận hưởng mùa xuân của đất trời:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu.
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Thơ xưa thường lấy thiên nhiên để làm tiêu chuẩn miêu tả vẻ đẹp của
con người: Phù dung như diện, liễu như mi (mặt như hoa phù dung, lông mày
như lá liễu), hoặc: Mai cốt cách, tuyết tinh thần (cốt cách yểu điệu như mai,
tinh thần trắng trong như tuyết) thì nay Xuân Diệu làm ngược lại, ông lấy vẻ
đẹp của con người mà chủ yếu là vẻ đẹp của người thiếu nữ làm tiêu chuẩn
để miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên. Để diễn tả được những biến thái tinh vi,
mong manh, huyền diệu của thiên nhiên tạo vật lúc chuyển mùa khi mùa thu
mới tới (Bài Đây mùa thu tới), Xuân Diệu tả liễu. Những cây liễu rủ bên hồ
được tác giả cảm nhận giống như những nàng thiếu nữ thướt tha, yểu điệu,
nghiêng mình buông những suối tóc dài. Trong gió thu lạnh đìu hiu, dáng liễu
cũng giống như dáng người đứng chịu tang/ Tóc buồn buông xuống lệ ngàn
hàng… Một hình ảnh buồn nhưng cũng thật gợi cảm, phảng phất đâu đây
bóng dáng quen thuộc của các nàng thiếu nữ đài các, đẹp và buồn một cách
lãng mạn trong thơ mới dạo ấy nói chung và trong thơ Xuân Diệu nói riêng.
Hai câu thơ thật ra chỉ nhằm gợi tả vẻ yểu điệu, thướt tha của liễu như một tín
hiệu báo thu sang mà thôi. Nhiều khi, thiên nhiên còn được so sánh trực tiếp
với vẻ đẹp của người thiếu nữ “bằng những hình ảnh rất bạo, đầy rẫy cảm
giác và có tính sắc dục” (Nguyễn Đăng Mạnh). Mỗi hình tượng thiên nhiên
thường được ví với một bộ phận trên cơ thể của người thiếu nữ, như một
biểu tượng tuyệt đối về tiêu chuẩn thẩm mĩ và sức sống. Đây là vẻ đẹp của
vầng trăng mà thi sĩ đã hết lời “Ca tụng”:
Trăng vú mộng của muôn đời thi sĩ
Giơ hai tay mơn trớn vẻ tròn đầy
Trăng nguồn sương làm ướt cả gió hây
Trăng võng rượu khiến đêm mờ chếnh choáng
Làn gió đêm được tưởng tượng như trăm ngàn cánh tay mơn man: Gió
canh khuya như nghìn cánh tay ôm/ Trăng mối lái phủ màng tơ mộng ảo, và
ánh bình minh buổi sớm mai được ví với ánh chớp hàng mi của người con gái
đẹp, còn tháng giêng thì được ví với một cặp môi gần.
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần…
Cách so sánh thật bạo, rất Xuân Diệu nhưng cũng thật đúng. Đúng bởi
tháng giêng là tháng đầu tiên trong năm, là tháng đẹp nhất của mùa xuân –
mùa đẹp nhất, giàu sinh khí và sức sống nhất của các mùa trong năm – thì
còn gì đáng so sánh hơn là một vẻ đẹp trần gian vô cùng trong trắng, tinh khôi
và tràn đầy sức sống như một cặp môi gần!
Xuân Diệu là một nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới” về nhiều
phương diện. Với một thế giới nghệ thuật riêng, độc đáo, mới mẻ từ tư tưởng,
hình ảnh đến ngôn từ, ông đã đem đến cho Thơ mới một nguồn sinh khí mới.
Những tâm hồn còn trẻ vẫn sẽ mãi mãi yêu thích thơ ông. Và đó là một phần
thưởng lớn mà bất kì người nghệ sĩ chân chính nào cũng hằng mơ ước.
4. CHỮ VÀ NGHĨA TRONG BÀI THƠ “ĐÂY MÙA THU TỚI”Đã có quá nhiều bài bình, phân tích, giảng văn về bài thơ Đây mùa thu
tới của Xuân Diệu. Nhưng cho đến nay vẫn còn tồn tại không ít cách hiểu
khác nhau. Một trong những nguyên nhân là do sự cảm nhận và lí giải về mặt
ngữ nghĩa của tác phẩm. Dưới đây, chúng tôi xin nêu một hướng tiếp cận mới
đối với một số từ ngữ, hình ảnh hiện vẫn còn là điểm gây tranh luận hoặc ít
được chú ý đúng mức trong sự cảm nhận về bài thơ này.
Những tín hiệu báo thu và tâm trạng con người lúc thu tới, thu sang
Nhiều người cho rằng bài thơ mở đầu đã gợi một nỗi buồn sầu đến độ
héo hắt bi thương. Ấn tượng đó trước hết được tạo bởi các chữ “buồn”, “đìu
hiu”, “đứng chịu tang”, “lệ ngàn hàng” trong hai câu thơ đầu:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Song, nếu hiểu hai câu thơ này như vậy thì sẽ không thể tránh khỏi
mâu thuẫn với tiếng reo đầy vui sướng của nhà thơ - chủ thể cảm xúc – trước
toàn cảnh đất trời vào thu rực rỡ một sắc thu vàng như màu áo mơ phai của
người thiếu nữ (sắc vàng của nắng và cả lá vàng nữa – lá vàng trong nắng
thu vàng…) ở hai câu thơ tiếp liền sau đó:
Đây mùa thu tới – mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
Đặt trong cấu tứ, bố cục chung của toàn bài thì khổ thơ mở đầu này có
một vị trí khá đặc biệt. Cả bốn câu thơ tập trung gợi tả những dấu hiệu đất trời
vào thu và tâm trạng con người lúc thu tới, thu sang. Cũng phải nói thêm
rằng, thi nhân ấy là một con người còn rất trẻ cả về tuổi tác lẫn cảm xúc.
Xuân Diệu sáng tác Đây mùa thu tới khi ông mới mười tám tuổi đời và hồn
thơ Xuân Diệu lúc ấy đương ở vào độ non tơ rạo rực, sôi nổi và bồng bột
nhất. Thi sĩ đã từng tự nói về những cảm xúc của mình hồi ấy: “Đây là lòng tôi
đương thời sôi nổi, đây là hồn tôi đương lúc vang ngân, và đây là tuổi xuân
của tôi, và đây là sự sống của tôi nữa”. Với một hồn thơ như thế nên khi bắt
gặp những tín hiệu đầu tiên của mùa thu mới tới, thi sĩ đã mở hết lòng mình
hồ hởi, vồ vập đón nhận tất cả những biến thái mong manh, huyền điệu, dù là
nhỏ nhặt nhất của thiên nhiên, tạo vật lúc chuyển mùa. Câu thơ thứ ba với
điệp ngữ “mùa thu tới” và dấu gạch nối như những tiếng reo vui không thể
kìm nén, bất giác đã bật ra khi nhà thơ chợt nhận thấy những tín hiệu báo thu
sang đầu tiên hiện ra trên hàng liễu rủ...
Khác với thơ ca trung đại phương Đông thường dùng những hình ảnh
ước lệ: sen tàn, cúc nở hoa, lá ngô đồng rụng… để làm biểu tượng cho sự
chuyển mùa lúc thu sang, ở bài thơ này, Xuân Diệu tả liễu. Những cây liễu
bên hồ cành lá mềm mại vào lúc thu tới, thu sang, êm đềm rủ xuống và được
thi sĩ lãng mạn cảm nhận giống như các nàng thiếu nữ thướt tha, yểu điệu,
nghiêng mình buông những suối tóc dài. Trong gió thu lạnh đìu hiu, dáng liễu
cũng giống như dáng người đứng chịu tang, Tóc buồn buông xuống lệ ngàn
hàng (Hai câu thơ đầu sử dụng phép ẩn dụ dựa trên quan hệ liên tưởng
tương đồng nhưng đã lược bỏ từ so sánh và đối tượng so sánh, theo kiểu so
sánh ngầm, do vậy có thể đọc một cách “văn xuôi” thành: “rặng liễu đìu hiu”
như các nàng thiếu nữ “đứng chịu tang” và “tóc buồn buông xuống” như thể
“ngàn hàng” lệ rơi không dứt). Một hình ảnh buồn nhưng cũng thật gợi cảm,
phảng phất đâu đây bóng dáng quen thuộc của các nàng thiếu nữ đài các,
đẹp và buồn một cách lãng mạn trong Thơ mới dạo ấy nói chung và trong thơ
Xuân Diệu nói riêng. Đó là cách nhìn, cách cảm của cả một trào lưu thơ, một
thế hệ các nhà thơ mới nên không thể nói những hình ảnh đó thể hiện một nỗi
buồn tang tóc, bi luỵ. Hai câu thơ thật ra chỉ nhằm gợi tả vẻ yểu điệu, thướt
tha của liễu như một tín hiệu báo thu sang mà thôi. Khi cái hối hả của mùa hạ
nóng nực đi qua, dấu hiệu báo thu sang thường là sự ngưng lại, vẻ chậm
chạp “chùng chình” rất riêng của thời tiết:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
sông được lúc dềnh dàng
Nắng bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu…
(Hữu Thỉnh, Sang thu)
Với Xuân Diệu, những cành liễu mềm mại, êm đềm rủ xuống ấy chính
là một dấu hiệu thời tiết, một tín hiệu báo thu sang đầu tiên mà thi sĩ bất chợt
nhận thấy một cách thật ngạc nhiên, thích thú. Thi sĩ bất giác reo lên: Đây
mùa thu tới – mùa thu tới… và đằng sau những tiếng reo hồ hởi của chủ thể
cảm xúc, người đọc có thể hình dung ra ánh mắt trẻ trung ngơ ngác của nhà
thơ đang sững sờ trước sự thay đổi và trước vẻ đẹp đến bất ngờ của thiên
nhiên, cảnh vật lúc chớm vào thu. Bốn câu thơ tả những dấu hiệu mùa thu tới
và tâm trạng con người lúc thu tới, thu sang thật gợi cảm, tươi sáng; tuy có
buồn nhưng không hề ảm đạm, héo hắt; buồn mà vẫn đẹp. Đẹp bởi sự cảm
nhận rất tinh tế và mới mẻ những chuyển vận của thiên nhiên cùng bước đi
của thời gian; đẹp bởi màu sắc, đường nét tươi sáng, bởi vẻ yểu điệu, thướt
tha trẻ trung, lãng mạn rất phù hợp với mùa thu mới chớm. Ấn tượng và cảm
giác đó trong bốn câu thơ mở đầu này đã chi phối không khí và cảm xúc
chung của cả bài thơ.
Toàn cảnh “mùa thu tới”
Ba khổ thơ tiếp theo miêu tả toàn cảnh thiên nhiên, đất trời và con
người mùa thu. Cảm xúc tinh tế nồng nàn của hồn thơ Xuân Diệu có lẽ được
thể hiện rõ nhất qua cách sử dụng ngôn ngữ độc đáo ở đoạn thơ này. Ở đây,
chúng tôi chỉ nhấn mạnh đến những từ ngữ có tính chất đồng hướng lập luận,
tức là những từ ngữ thực hiện chức năng liên kết về nội dung của văn bản tác
phẩm. Tuy nhiên, do hầu hết những đơn vị thuộc loại này vốn không phải các
biện pháp tu từ ngữ nghĩa nên xưa nay, chúng thường dễ bị các thầy, cô giáo
và các em học sinh bỏ qua khi cảm thụ, phân tích tác phẩm.
Trước hết là tựa đề Đây mùa thu tới, một cái tựa đề đã cho thấy rõ,
mùa thu trong bài thơ này là lúc thu tới, thu sang, mùa thu ở cái thời khắc
chuyển giao từ mùa hạ nóng nực, hối hả sang tiết thu se lạnh… Chắc hẳn khi
đặt cái tựa đề này, Xuân Diệu đã có ý thức cụ thể hoá đề tài, tạo ra một tiêu
điểm cảm xúc nhằm liên kết, quy tụ các từ ngữ, hình ảnh trong toàn bộ bài
thơ về một chủ đề chung. Sau bốn câu thơ đầu gợi tả tín hiệu báo thu và tâm
trạng con người lúc thu tới, thu sang, đây là những đặc tả cận cảnh ở một
vườn thu:
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy, xương mỏng manh.
Cảnh sắc đặc trưng của thiên nhiên mùa thu là lá rụng, hoa tàn…
Nhưng vì thu mới tới nên sự úa vàng, tàn rụng ấy cũng chưa nhiều. Trong
vườn thu, Hơn một loài hoa đã rụng cành. “Hơn một” thì cũng có nghĩa là
chưa nhiều lắm, mới chỉ vài ba loài hoa chớm lụi tàn. Không rõ cách nói: hơn
một lần, hơn một loài v.v… có từ bao giờ trong lời nói Việt, nhưng từ Đây mùa
thu tới, người ta vẫn nghĩ đấy là một trong những lối dùng chữ, đặt câu quá
Tây của Xuân Diệu. Rồi cũng trong Vườn thu, “sắc đỏ rũa màu xanh”. Có
người cho rằng, chữ “rũa” trong câu thơ này đúng ra phải đọc là “rủa” (sắc đỏ
rủa màu xanh): sắc đỏ càu nhàu với màu xanh, do dịch từ nghĩa đen của chữ
jurler tiếng Pháp mà nghĩa bóng là không hợp, là đối ngược. Liệu có đúng
Xuân Diệu “Tây” quá đến mức phải mượn cả một từ tiếng Pháp khiên cưỡng,
xa lạ với ngữ cảnh như vậy chăng? Dẫu có hư thực thế nào thì cho đến hôm
nay, tức là đã sau hơn nửa thế kỉ kể từ hồi Xuân Diệu xuất hiện trên thi đàn
Thơ mới, người đọc thơ cũng chỉ còn thấy “sắc đỏ rũa màu xanh” là một câu
thơ rất phù hợp với mùa thu mới chớm: trong vườn sắc đỏ úa của những
chiếc lá vàng ngày càng nhiều, nó lấn dần màu xanh, khiến cho màu xanh
như thể bị “rũa” dần, bị mòn dần đi từng tí một. Còn Những luồng run rẩy rung
rinh lá là một câu thơ chứa đựng nhiều biện pháp tu từ, vừa lặp phụ âm r, vừa
dùng đảo ngữ, vừa trộn lẫn cảm giác do cách kết hợp trực tiếp loại từ luồng
với đảo ngữ run rẩy rung rinh lá khiến cho người đọc thơ như có thể cảm giác
được cả cái run rẩy rùng mình vì ớn lạnh của chính tâm hồn nhà thơ. Câu thơ
cũng khiến cho hình ảnh của những nhành cây “khô gầy xương mỏng manh”
bỗng sinh động, cựa quậy, có cảm giác hơn. Và “đôi nhánh” cũng có nghĩa là
không nhiều lắm, mới chỉ có vài ba nhánh cây bị rụng lá, trơ trọi như những
chiếc xương khô gầy, mỏng mảnh đương run rẩy trong làn gió heo may se
lạnh tiết đầu thu…
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò
Mây vẩn từng không, chim bay đi
Khí trời u uất hận chia li
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì?
Những câu thơ gợi tả không gian, đất trời và con người lúc mùa thu
mới chớm trong hai khổ thơ này vẫn thể hiện rất rõ lối quan sát kĩ càng và sự
cảm nhận hết sức tinh tế, nhạy cảm của hồn thơ Xuân Diệu. Cả thời gian lẫn
không gian, cảnh vật đầu thu như vẫn còn đang trong giai đoạn chuyển vận,
đang trong thế lưỡng phân của thời tiết lúc giao mùa chứ chưa thật rành
mạch, rõ nét: vào những buổi tối vắng vẻ, lạnh lẽo độ thu sang, vầng trăng (dĩ
nhiên, trăng qua cách cảm xúc của Xuân Diệu cũng phải là “nàng trăng” - một
thiếu nữ trăng) dường như cũng cảm thấy trống trải, lạnh vắng, cô đơn hơn
nên “tự ngẩn ngơ”. Ấy là trăng lạnh: Trăng lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời
(Nguyệt cầm), là trăng suông: Trăng sáng, trăng xa, trăng rộng quá (Lời kĩ
nữ), nhưng cũng chỉ “thỉnh thoảng” mới có những buổi tối có trăng lạnh, trăng
suông như vậy. Sương thu làm mờ, làm nhạt bóng hình dãy núi xa xa phía
đường chân trời, nhưng cũng mới chỉ ở trạng thái bắt đầu, khởi sự chứ chưa
phải đã thường xuyên. Mây xám vẩn lên màu chia li u uất, bởi đấy cũng là lúc
những con chim di cư bắt đầu bay đi tránh rét. Những chuyến đò “đã vắng”
khách: đã vắng cũng tức là khách chỉ mới bắt đầu thưa vắng thôi chứ chưa
phải đã vắng lâu, vắng hẳn. Đặc biệt, cái “rét mướt” đầu thu đã được thi sĩ
lãng mạn diễn tả bằng một câu thơ rất mới mẻ, đầy ấn tượng:
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
“Đã nghe” (cũng như “đã vắng” trong câu trên) nghĩa là sự vật đã xuất
hiện nhưng còn ở trạng thái mới bắt đầu. Xuân Diệu rất có tài tả rét, trong
Nguyệt cầm, Lời kĩ nữ… và cả trong Đây mùa thu tới. Đúng hơn, thi sĩ có tài
cảm nhận cái rét mướt, lạnh lẽo theo điệu tâm hồn riêng của mình. Nhờ sự
chuyển đổi, tương giao của các hệ cảm giác, cái rét đầu thu không chỉ được
cảm nhận bằng xúc giác thông thường mà bằng cả thính giác (nghe) và thị
giác (luồn), nói chung bằng tất cả các giác quan tinh nhạy đã căng sẵn và
luôn “thức nhọn” của tâm hồn nhà thơ. Chữ “luồn” và “nghe” còn khiến cho cái
rét được cụ thể hoá thành tiếng, thành hình, thành ảnh, diễn tả một cách tinh
tế nét đặc trưng của cái rét đầu thu, mà trong dân gian vẫn thường gọi là “rét
trộm” (ngắn ngủi, bất ngờ, thoáng đến, thoáng đi như thể lén lút, vụng trộm,
chứ không liên tục, kéo dài như cái rét của mùa đông), đang ẩn thân vào cảnh
vật và lòng người gợi nỗi cô đơn. Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh thiếu nữ
mùa thu, một hình ảnh chứa đựng rất nhiều tâm trạng, bộc lộ cái nét lãng mạn
dịu dàng, tinh tế rất đặc trưng của điệu hồn Xuân Diệu: Không gian như có
dây tơ/ Bước đi sẽ đứt, động hờ sẽ tiêu/ Êm êm chiều ngẩn ngơ chiều/ Lòng
không sao cả hiu hiu khẽ buồn (Chiều – 1938). Hình ảnh “ít nhiều thiếu nữ
buồn không nói” và mơ màng “tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì” cũng gợi biết bao
liên tưởng lãng mạn, dịu êm cho người đọc trước mỗi độ thu về…
Là một nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới”, và nhất là ở phương
diện ngôn từ, Xuân Diệu đã khiến cả một mùa thu tới xôn xao hiện về trước
mắt người đọc, gợi mở biết bao rung động theo những cảm nhận tinh tế, nhỏ
nhặt mà rất sâu xa. Bằng việc huy động những giá trị lập luận tiềm tàng trong
mỗi từ ngữ giản dị, bình thường, Xuân Diệu đã đem đến những sáng tạo thật
mới lạ, góp phần đổi mới ngôn ngữ, cách diễn đạt và những nếp tư duy quen
thuộc, cố hữu tự bao đời. Điều đáng lưu ý là, đôi khi dẫu có khoác lên mình
bộ “y phục tối tân” (Hoài Thanh), với những cách “dùng chữ, đặt câu quá Tây”
thì ở Xuân Diệu, điều căn bản, cốt lõi nhất vẫn chính là cảm xúc, cảm xúc tinh
tế, nồng nàn, luôn trong trạng thái cực điểm đã khiến thơ ông không chấp
nhận những cách diễn đạt thông thường, những từ ngữ phẳng lặng. Xuân
Diệu đã tìm đến cách diễn đạt của ngôn ngữ khác, của thơ tượng trưng Pháp
và đổi mới chính ngôn ngữ, lối nói sẵn có của tiếng Việt. Nhiều cách đặt câu,
dùng từ của ông nay đã trở thành quen thuộc và phổ biến với mọi người,
nhưng hồi Xuân Diệu mới xuất hiện, đấy là một cuộc cách tân mạnh dạn. Hãy
nghe nhận xét khá thú vị của một người cùng thời với ông cách đây hơn nửa
thế kỉ: “Ngay lời văn của Xuân Diệu cũng có vẻ chơi vơi. Xuân Diệu viết văn
tựa trẻ con học nói hay như người ngoại quốc mới võ vẽ biết tiếng Nam. Câu
văn tuồng bỡ ngỡ. Nhưng cái bỡ ngỡ ấy chính là chỗ Xuân Diệu hơn người.
Dòng tư tưởng sôi nổi không thể đi theo những đường có sẵn. Ý văn xô đẩy
khiến khuôn khổ câu văn phải lung lay”.
5. TỪ Ý NGHĨA CỦA “NHÁNH DUYÊN”… ĐẾN SỰ CẢM NHẬN BÀI “THƠ DUYÊN”
Nét đặc sắc làm nên vẻ đẹp độc đáo của Thơ duyên (in trong tập Thơ
thơ – 1938) của Xuân Diệu là những xúc cảm tinh tế, lãng mạn của một tâm
hồn thơ. Không phải ngẫu nhiên mà trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh cho
rằng Thơ duyên cùng với Đây mùa thu tới và Nguyệt cầm mới là những bài
thơ “đích thực là Xuân Diệu”, bởi ở đây, “sự bồng bột của Xuân Diệu có lẽ đã
phát biểu ra một cách đầy đủ hơn cả trong những rung động tinh vi”. Bài thơ
cũng là một trong ba tác phẩm của Xuân Diệu được chọn giảng trong chương
trình Ngữ văn bậc Trung học phổ thông (gồm Vội vàng, Đây mùa thu tới và
Thơ duyên) nên đã khá quen thuộc với nhiều người, nhất là các em học sinh
và các thầy cô giáo. Tuy vậy, về cách diễn đạt và ý nghĩa của một số từ ngữ
trong bài thơ thì cho đến nay, ít nhất là trong phạm vi nhà trường, hình như
vẫn là một bức tình thư còn kín, gây nên không ít cách hiểu khác nhau, ảnh
hưởng không nhỏ tới sự cảm thụ, phân tích tác phẩm. Chúng tôi xin đề cập
đến cách hiểu một số từ ngữ để làm điểm xuất phát cho một hướng cảm thụ,
khám phá, phân tích toàn bộ ý nghĩa tư tưởng và cảm xúc thẩm mĩ của bài
thơ.
Từ ý nghĩa của “nhánh duyên”…
Khi học bài thơ này, nhiều em học sinh cảm thấy rất băn khoăn khó
hiểu về mấy chữ “chiều mộng hoà thơ” và “nhánh duyên” trong khổ thơ mở
đầu:
Chiều mộng hoà thơ trên nhánh duyên,
Cây me ríu rít cặp chim chuyền.
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền.
Thực ra, để hiểu cụm từ “chiều mộng hoà thơ” thì trước hết phải hiểu
đúng ý nghĩa của hình ảnh “nhánh duyên”, bởi vì, câu thơ đầu tiên có thể diễn
đạt bằng văn xuôi: cái thơ mộng của buổi chiều thu là ở trên nhánh duyên…
Theo các tác giả của cuốn sách 125 bài văn dành cho học sinh lớp 11 và 12
luyện thi tú tài cao đẳng – đại học (NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1998) thì
“nhánh duyên” là cách diễn tả về những “cành cây có duyên”. Và cái duyên ấy
chính là dáng vẻ mềm mại của nhành cây đung đưa trước gió: “Một buổi
chiều mộng mơ, bầu trời trong xanh và như có gió nhẹ nhàng đung đưa,
những cành cây mềm mại có vẻ yếu ớt nhưng rất có duyên”. Theo hướng dẫn
của Đáp án đề thi tuyển sinh vào Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội, năm
2000 – 2001 (Câu 2b) thì “duyên” lại được hiểu là duyên dáng, nên “nhánh
duyên” nghĩa là nhành cây duyên dáng: “Cái thơ mộng của chiều thu hoà
nhập với cái duyên dáng của nhánh cây (chữ duyên trong câu thơ đầu nên
hiểu là nét duyên dáng – Chú thích trong ngoặc đơn là của Đáp án)”. Còn
trong Đáp án đề thi tuyển sinh vào Cao đẳng Sư phạm Hoà Bình năm 2000 _
2001 (Câu 1b) thì giải thích duyên là sự giao hoà. Tuy nhiên cũng không rõ
nhánh duyên nghĩa là gì mà buổi chiều lại có thể giao hoà với nó được (!?):
“Duyên có nghĩa là sự giao hoà của vũ trụ, của thiên nhiên, của con người với
đất trời, cây cỏ, với những người khác. Trong cảm nhận của tác giả, (…) cả
đất trời, cảnh và con người đâu đâu cũng có duyên với nhau. Buổi chiều thì
giao hoà với nhánh duyên. Trên cành cây me thì cặp chim ríu rít chuyền từ
cành này qua cành khác. Bầu trời xanh như ngọc thì như sà xuống, đổ xuống
giao hoà với cành cây, kẽ lá” v.v…
Vậy nên hiểu nghĩa của nhánh duyên như thế nào? Chúng tôi cho rằng,
để hiểu đúng về hình ảnh này trước hết cần phải đặt nó trong mạch cảm xúc,
suy tưởng chung của nhà thơ và trong toàn bộ thế giới hình tượng độc đáo
của tác phẩm, một thế giới được Xuân Diệu miêu tả và biểu hiện theo một lối
riêng, rất thi vị và đầy lãng mạn. Nhìn bao quát, toàn cảnh thiên nhiên ở khổ
thơ đầu tiên này là một bức tranh thu tuyệt đẹp, rất tươi sáng và đậm màu
sắc duyên tình thơ mộng, khác hẳn với những buổi chiều buồn tàn tạ thường
thấy trong Thơ mới dạo ấy:
Chiều mộng hoà thơ trên nhánh duyên
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Như vậy, “chiều mộng hoà thơ” có thể hiểu là buổi chiều thu thơ mộng
và vẻ thơ mộng ấy được gợi ra nhờ một hình tượng thơ đặc sắc: trên cành
cây me có đôi chim chuyền cành ríu rít - đấy chính là hình ảnh về một mối
lương duyên tốt đẹp, một lứa đôi ríu rít tươi vui, tràn đầy sức sống. Và hình
ảnh đó đã trở thành hình ảnh trung tâm của bức tranh thu, khiến cho cành cây
me trở thành nhánh duyên – nhánh cây của tình duyên đôi lứa, còn buổi chiều
thu đã trở thành một không gian thơ mộng. Hai chữ thơ và mộng được tách
riêng ra rồi lại hoà hợp với nhau để tạo thành một chỉnh thể “mộng hoà thơ”
và chỉnh thể thơ mộng ấy đã được thi sĩ nhận thấy trên nhánh duyên…
… Đến ý nghĩa của chữ “duyên”…
Nhiều người không xếp Thơ duyên vào loại thơ tình yêu vì cho rằng,
không nên hiểu chữ “duyên” trong bài thơ này gắn với duyên tình đôi lứa.
Nhưng với ý nghĩa của “nhánh duyên” trong khổ thơ mở đầu như đã phân tích
trên đây thì chữ duyên trước hết phải được hiểu gắn với ý nghĩa của tình yêu
nam nữ, như trong thơ của Hồ Xuân Hương: Có phải duyên nhau thì thắm
lại…, Hay như trong Truyện Kiều của Nguyễn Du: Người đâu gặp gỡ làm chi/
Trăm năm biết có duyên gì hay không?... Tuy nhiên, chữ “duyên” trong toàn
bộ bài Thơ duyên cũng cần phải được hiểu theo nghĩa rộng hơn (trong cái
nghĩa rộng đó có cả tình yêu lứa đôi). Từ điển tiếng Việt (Viện ngôn ngữ học –
Hoàng Phê chủ biên, 2000) giải thích chữ duyên gồm hai nghĩa: 1/ Phần cho
là trời định dành cho mỗi người về khả năng có quan hệ tình cảm (thường là
quan hệ nam nữ, vợ chồng) hoà hợp, gắn bó nào đó trong cuộc đời. Ví dụ:
Duyên ưa phận đẹp. Ép dầu ép mỡ, ai nỡ ép duyên. 2/ Sự hài hoà của một số
nét tế nhị đáng yêu ở con người, tạo nên vẻ hấp dẫn tự nhiên. Ví dụ: Không
đẹp nhưng có duyên. Ăn nói có duyên. Duyên ngầm. Nụ cười duyên. Xét
trong chỉnh thể cấu tứ và mạch cảm xúc chung của toàn bộ bài Thơ duyên thì
có thể hiểu duyên là sự hoà hợp, gắn bó tự nhiên những nét đáng yêu của
vạn vật và lòng người. Giữa chiều thu trong sáng, dịu êm, người thanh niên
mới lớn lắng nghe tiếng đập nhẹ của con tim, lắng nghe nơi lòng mình những
rung động tình yêu buổi ban đầu và cảm thấy dường như vạn vật trong vũ trụ
bao la đâu đâu cũng phải duyên phải lứa với nhau, cặp đôi và hiệp vần với
nhau trong âm hưởng của nhạc, trong không khí của thơ, mộng và trong tình
thương yêu… Đó là một thế giới đầy những sự tương phùng, hội ngộ của
những mối lương duyên tốt đẹp giữa thiên nhiên với thiên nhiên, giữa thiên
nhiên với con người và giữa anh với em – hai người khách bộ hành cùng
trang lứa, cho dù chỉ ngẫu nhiên gặp gỡ trên đường…
… Và đến sự cảm nhận toàn bộ bài “Thơ duyên”.
Nhan đề Thơ duyên trước hết cho ta biết rằng bài thơ dành để nói về
cái duyên tình độc đáo ấy: cái duyên của đất trời, cái duyên tự trong lòng
người giữa một buổi chiều thu. Trên trục vận động của thời gian tuyến tính,
bắt đầu từ khoảng chiều hôm đến lúc chiều thưa – chiều tàn, một bức tranh
thiên nhiên mùa thu độc đáo và một trạng thái tình cảm đặc biệt của tâm hồn
con người đã được miêu tả hết sức sinh động, tinh tế.
Bức tranh buổi chiều thu trong phần một của bài thơ (gồm 3 khổ thơ
đầu) không chỉ được tạo nên bởi một hình ảnh thơ mộng, tươi vui và đậm đà
màu sắc duyên tình (qua hình ảnh đôi chim ríu rít chuyền trên cành cây me),
mà còn có sự hài hoà kì diệu của màu sắc, ánh sáng và âm thanh:
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền.
Ánh sáng hoà lẫn với màu xanh ngọc bích của bầu trời trong buổi chiều
thu. Qua ánh sáng của muôn kẽ lá vẫn có thể nhận thấy rất rõ sắc trời thu –
xanh màu ngọc bích, nên cứ ngỡ màu xanh ấy như thể được rót xuống, được
đổ tràn xuống tự bầu trời. Còn âm thanh thì tràn ngập cả không gian: “Thu
đến nơi nơi động tiếng huyền”. “Tiếng huyền” là tiếng đàn, nhưng đồng thời
tiếng tơ đàn ríu rít, tươi vui của những lứa đôi cũng có thể coi là những âm
thanh huyền diệu nhất của thiên nhiên, của sự sống mùa thu…
Đi giữa khung cảnh huyền diệu và tràn ngập màu sắc duyên tình
thương yêu như thế, trong tâm hồn chàng trai mới lớn bỗng rung lên những
cảm xúc đầu đời: “Lần đầu rung động nỗi thương yêu”, bởi chàng vừa mới
phát hiện thấy ở phía trước có một thiếu nữ cùng trang lứa cũng đang đồng
hành, nhẹ bước trên đường…
Con đường nhỏ nhỏ, gió xiêu xiêu,
Lả lả cành hoang nắng trở chiều.
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn,
Lần đầu rung động nỗi thương yêu.
Em bước điềm nhiên không vướng chân,
Anh đi lững đững chẳng theo gần
Vô tâm – nhưng giữa bài thơ dịu;
Anh với em như một cặp vần.
Cảnh thiên nhiên buổi chiều thu qua tâm trạng con người bỗng chốc trở
nên dịu dàng hơn mà hình như cũng có vẻ buồn vắng, trống trải hơn. Con
đường như nhỏ bé, vắng vẻ hơn; những cành cây khô gầy khẽ run rẩy trong
làn gió thu se lạnh dưới ánh “nắng trở chiều”… Nhưng không vì thế mà cảnh
vật mùa thu mất đi sự hài hoà. “Con đường nhỏ nhỏ” dường như rất hoà hợp
với ngọn “gió xiêu xiêu” của mùa thu. Và cành cây rụng lá – “cành hoang” –
như thể cũng mềm mại, lả lướt hơn (lả lả cành hoang) trong sắc thu vàng
nhạt lúc “nắng trở chiều”. Đoạn thơ sử dụng nhiều từ láy toàn bộ: nhỏ nhỏ,
xiêu xiêu, lả lả, có tác dụng tăng cường tính chất hài hoà, nhịp nhàng về mặt
âm điệu, vần điệu và nhịp điệu câu thơ. Tất cả đều nhằm gợi tả và làm nổi bật
những nét mềm mại, dịu dàng của cảnh vật trong con mắt mơ màng của một
kẻ đa tình khi “lặng bước thu êm”. “Cảnh như muốn theo lời thơ mà tan ra. Nó
chỉ mất một tí rõ ràng để có được thêm rất nhiều mơ mộng” (Hoài Thanh).
Thi nhân dường như cũng cảm nhận được những rung động tình yêu
buổi ban đầu khẽ dâng lên trong lòng mình:
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn,
Lần đầu rung động nỗi thương yêu.
Những cảm xúc tinh tế của tâm hồn như thế cứ mỗi độ thu về đã tạo
nên nét đặc sắc và vẻ đẹp riêng trong thơ Xuân Diệu trước Cách mạng:
Không gian như có dây tơ,
Bước đi sẽ đứt, động hờ sẽ tiêu
Êm êm chiều ngẩn ngơ chiều,
Lòng không sao cả, hiu hiu khẽ buồn…
(Chiều)
Ở bài Thơ duyên, cái “hiu hiu” xao động “khẽ” dâng lên trong lòng
người ấy là một rung động đầu đời, rung động tình yêu: “Lần đầu rung động
nỗi thương yêu”. Nỗi khát khao thương yêu ấy chính là ý tình dịu nhẹ, bâng
khuâng với một thiếu nữ cùng trang lứa, không quen biết cũng đang đồng
hành, nhẹ bước trên đường. Tuy đấy mới chỉ là tiếng lòng của riêng ta, một
tình cảm đơn phương, tự “lòng ta nghe ý bạn”, một nỗi khát khao tự gắn bó,
tự sóng đôi trong tâm tưởng, nhưng cũng chính vì thế mà lại có thêm rất
nhiều mơ mộng, lãng mạn:
Vô tâm – nhưng giữa bài thơ dịu,
Anh với em như một cặp vần.
Đây là cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên giữa trai thanh, gái lịch: em là một
khách bộ hành không quen biết và dường như cũng chẳng để ý gì; bởi dáng
điệu người thiếu nữ hồn nhiên lắm: “em bước điềm nhiên”, chẳng vướng víu
gì với ai, cũng chẳng để ý có chàng trai đa tình cùng trang lứa phía sau, nên
bước chân thật nhẹ nhàng thanh thản. Còn anh, thi nhân, có lẽ cũng biết thế
nên chỉ thong thả nhẹ bước theo sau, cũng không muốn rút ngắn khoảng
cách: “Anh đi lững đững chẳng theo gần”. Giữa hai người quả là “vô tâm”,
chưa hề quen biết nhau, giữa họ còn có rất nhiều khoảng cách: anh với em
cũng mới chỉ là ta và bạn, cũng chưa có gì là mật thiết. Nhưng hình ảnh
người thiếu nữ duyên dáng, yêu kiều nhẹ bước trên đường trong khung cảnh
đẹp đẽ, thơ mộng của một buổi thu êm cũng đã gây xáo trộn không ít trong
tâm hồn của người thanh niên cùng trang lứa, chàng trai cũng cảm thấy
dường như là họ cũng đã có duyên với nhau, cùng nhịp nhàng sóng đôi với
nhau như một cặp vần trong trẻo giữa một bài thơ dịu. Đó cũng là cái duyên
chung của mùa thu, cái duyên tự nhiên của đất trời và lòng người. Cái duyên
ấy thật là thơ mộng, lãng mạn và do vậy, nó cũng gợi rất nhiều bâng
khuâng…
Hai khổ thơ cuối (cũng là phần hai của bài thơ) vẫn tiếp tục mạch cảm
xúc và tâm trạng ấy nhưng bộc lộ rõ hơn những quan sát và cảm nhận hết
sức tinh tế của hồn thơ Xuân Diệu trước thiên nhiên và sự sống:
Mây biếc về đâu bay gấp gấp,
Con cò trên ruộng cánh phân vân.
Chim nghe trời rộng dang thêm cánh,
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần.
Thời gian đã chuyển dần về phía “chiều thưa” và đây là khung cảnh của
một buổi “thu êm” trước lúc hoàng hôn buông xuống. Ở khổ thơ này, dường
như mọi biến thái mong manh, tinh vi, nhỏ nhặt nhất của thiên nhiên tạo vật
và sự sống mùa thu đều đã được Xuân Diệu phát hiện và miêu tả bằng
những câu thơ thật đẹp và tinh tế. Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh
nhận xét: “Sự sống muôn hình thức mà trong những hình thức nhỏ nhặt lại
thường ẩn náu một nguồn sống dồi dào. Không cần phải là con hổ ngự trị trên
rừng xanh, không cần phải là con chim đại bàng bay một lần chín vạn dặm
mới là sống. Sự bồng bột của Xuân Diệu có lẽ đã phát biểu ra một cách đầy
đủ hơn cả trong những rung động tinh vi”. Thơ cổ miêu tả buổi chiều hoàng
hôn thường dùng những hình ảnh đám mây và cánh chim. Khung cảnh buổi
chiều hoàng hôn ở khổ thơ này cũng có những cảnh tượng ấy, nhưng không
phải là cánh chim lẻ bầy vội vã và đám mây cô đơn lơ lửng giữa trời chiều
chưa biết về đâu như trong thơ xưa mà là những hình ảnh hết sức sinh động,
hoà hợp. Đám mây trong bài Thơ duyên này là đám mây ngũ sắc – “mây
biếc”– rất đẹp và đang trôi “gấp gấp”; nó không buồn bã, mỏi mệt mà còn gợi
được không khí sinh động, vui tươi. Trên cánh đồng xanh bát ngát, con cò
trắng không bay nhưng trước sự chuyển động “gấp gấp” vội vã của chòm
mây ngũ sắc trên trời cao nên đôi cánh của nó dường như cũng đã “phân
vân” cử động. Nhận xét về hai câu thơ này, Hoài Thanh so sánh với câu thơ
tả buổi chiều của Vương Bột đời Đường:
Lạc hà dữ cô lộ tề phi
Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc
(Ráng chiều và cánh cò đơn chiếc lặng lẽ bay
Nước mùa thu và sắc trời mùa thu cùng một màu)
Và viết: “Từ con cò của Vương Bột lặng lẽ bay với ráng chiều đến con
cò của Xuân Diệu không bay mà cánh phân vân, có sự cách biệt của hơn một
ngàn năm và của hai thế giới”. Sự cách biệt ấy, ngoài khoảng thời gian hơn
một ngàn năm, từ thế giới thơ Đường đến Thơ mới, có lẽ chủ yếu còn ở chỗ:
“một đằng thì miêu tả những sự chuyển vận bên ngoài, hữu hình, mắt thường
có thể quan sát, nhìn thấy được; còn một đằng thì cảm nhận được cả những
vận động vô hình ở tận bên trong đường gân thớ thịt của cánh cò, trong trạng
thái hãy còn đang phân vân, ngập ngừng chuẩn bị cất mình bay theo làn mây
biếc”.
Hai câu thơ tiếp theo miêu tả sự chuyển vận nhẹ nhàng của bước đi
thời gian biểu hiện qua sự vận động của những hình ảnh không gian:
Chim nghe trời rộng dang thêm cánh,
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần.
Chiều thu dần tàn (“chiều thưa”). Bầu trời thu trong xanh lúc hoàng hôn
dần tắt nên có vẻ như cao rộng, trống trải hơn. Cánh chim đang bay trên bầu
trời hình như cũng cảm nhận được những thay đổi ấy nên nó phải “dang thêm
cánh”. Một cánh chim lẻ bầy hay chính đấy là cánh cò trên ruộng, sau cái giây
phút “phân vân”, giờ đã đang sải rộng đôi cánh trên bầu trời? Bông hoa có lẽ
cũng cảm thấu cái lạnh của buổi “chiều thưa” trong hơi sương đêm mùa thu
toả xuống nên đã vội khép cánh dần… Tất cả đều rất nhẹ nhàng, êm dịu, hoà
hợp; và trong một buổi “thu êm” như thế, lòng người cũng lâng lâng, lan toả
những cảm xúc thật là lãng mạn:
Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy
Lòng anh thôi đã cưới lòng em.
Thơ duyên nằm trong số rất ít”những thi phẩm mùa thu giàu sức sống.
Bởi lẽ cảnh thu ở đây tuyệt đẹp và thơ mộng, tình thu trong sáng và lãng mạn,
cảm xúc thu dịu dàng, tinh tế và rất thiết tha. Bài thơ giúp ta hiểu thêm ở Xuân
Diệu một hồn thơ nhạy cảm, tinh tế mà rất yêu đời, luôn khát khao giao cảm,
gắn bó với thiên nhiên, cuộc đời và con người. Những xúc cảm tinh tế và rất
lãng mạn, mộng mơ của nhà thơ còn gội mát tâm hồn ta, giúp ta hiểu và thêm
yêu những cung bậc tình cảm tế nhị, kín đáo và vô cùng đẹp đẽ trong cuộc
đời.
6. “ĐÂY THÔN VĨ DẠ” – MỘT BÀI THƠ KHÔNG DỄ HIỂUCội nguồn cảm hứng
Vẻn vẹn chỉ có 12 câu thơ, chia làm 3 khổ, nhưng Đây thôn Vĩ Dạ quả
là một bài thơ không dễ giảng. Đây là một hiện tượng lạ, bởi đã có quá nhiều
bài phân tích, bình giảng, quá nhiều ý kiến tranh luận về bài thơ này nhưng
cho đến nay, hình như vẫn chừa tìm thấy được một tiếng nói thoả đáng trong
hầu hết các tài liệu đã được công bố. Hàn Mặc Tử viết Đây thôn Vĩ Dạ vào
tháng 11 năm 1939, một năm trước khi ông từ giã cõi đời vì căn bệnh quái ác
(ngày 11 tháng 11 năm 1940) và sau đó được in trong tập Thơ điên (tức
Thương đau), một trong ba tập thơ gồm những sáng tác khi ông đã bị lâm
bệnh nặng, vào giai đoạn cuối đời.
Nhiều ý kiến còn chưa nhất trí trong việc nên xem Đây thôn Vĩ Dạ như
một bài thơ tình hay là một bài thơ phong cảnh. Nếu căn cứ vào nhan đề thì
đây rõ là bài thơ về thôn Vĩ Dạ, một làng ở ngoại ô kinh thành Huế, bên bờ
sông Hương, có nhiều quan chức triều đình Huế lui về an trí ở đây. Làng có
những ngôi nhà xinh xắn, ẩn hiện giữa những khuôn viên thoáng rộng, vườn
cảnh đẹp, cây trái tươi tốt sum xuê và mướt xanh… Chắc hẳn với Hàn Mặc
Tử, những năm tháng học ở Trường Trung học Pelerin Huế, thôn Vĩ Dạ còn
để lại trong kí ức của ông những ấn tượng khó phai mờ… Và sau này, những
ấn tượng sâu đậm nhất về khung cảnh thôn Vĩ Dạ ấy có lẽ đã được tác giả
hồi tưởng nguyên vẹn trong khổ đầu của bài thơ. Tuy nhiên, nguyên cớ trực
tiếp khơi nguồn cảm hứng lại chính là mối tình đơn phương nhưng cũng rất
nồng thắm trong quá khứ của tác giả với một cô gái, người thôn Vĩ Dạ: cô
Hoàng Thị Kim Cúc. Hồi ấy (từ khoảng 1932 – 1935), Hàn Mặc Tử làm ở Sở
Đạc điền Quy Nhơn, đã để ý và thầm yêu, trộm nhớ Hoàng Cúc, cô con gái
18 tuổi của ông chủ Sở, có những nét dịu dàng của một cô gái Huế. Mối tình
đầu ấy, ông cứ chôn chặt trong lòng. Cho đến mùa thu năm 1935, Hàn Mặc
Tử vào Sài Gòn làm báo, rồi hai năm sau đó, Hoàng Cúc theo cha lúc này
nghỉ hưu, trở về quê Vĩ Dạ. Khi bị mắc căn bệnh hiểm nghèo, phải ra Quy
Nhơn chữa bệnh (đầu năm 1939), nỗi giày vò vì bệnh tật lại cộng thêm niềm
nhớ mong người trong mộng lúc trở lại “vườn thuý” khiến Hàn Mặc Tử rất đau
buồn. Để xoa dịu người bệnh, một người bạn của ông gửi tặng Hoàng Cúc
tập thơ Gái quê. Đến lúc này, Hoàng Cúc mới rõ về mối tình thầm kín của
Hàn Mặc Tử đối với mình. Khi được biết Hàn Mặc Tử lâm bệnh hiểm nghèo,
Hoàng Cúc đã gửi cho ông một bức bưu ảnh phong cảnh Huế với lời thăm hỏi
chúc thi sĩ sớm bình phục. Ít lâu sau, Hoàng Cúc nhận được bài thơ Đây thôn
Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử gửi tặng kèm theo mấy hàng chữ, nguyên văn như
sau:
“Túc hạ,
Có nhận được bức ảnh bến Vĩ Dạ lúc hừng đông (hay một đêm trăng?)
với mấy hàng túc hạ gởi thăm. Muôn vàn cảm tạ. Túc hạ còn nhớ đến người
bạn năm nao, thế là phúc hậu lắm rồi, và mong rằng một mùa xuân nào đấy
được gặp lại túc hạ mới phỉ tình cho. Thăm túc hạ bình an và vui vẻ. Ký tên:
Hàn Mặc Tử”.
Như vậy, chắc chắn thi liệu trong bài thơ phải là cảnh vật thiên nhiên và
con người thôn Vĩ Dạ, xứ Huế, nhưng bức thư thăm hỏi của Hoàng Cúc, tấm
bưu thiếp có bức tranh phong cảnh và những hồi ức về mối tình đầu đẹp đẽ
trong lòng thi nhân đang bệnh tật đau đớn cũng là những yếu tố không thể bỏ
qua khi tìm hiểu bài thơ. Những yếu tố đó không chỉ đóng vai trò là nhân tố
khơi nguồn cảm hứng mà còn là chất liệu hiện thực, đồng thời cũng là cái cầu
nối thể hiện những trạng thái tâm lí và tình cảm đặc biệt của chủ thể trữ tình
trong bài thơ này.
Một đặc điểm khác nữa cũng đáng được lưu ý là ở giai đoạn cuối đời,
thơ Hàn Mặc Tử có những bước nhảy rất lạ cả về cảnh, ý và thi tứ, ngay cả
trong những bài thơ thuộc vào loại trong sáng nhất của đời thơ Hàn Mặc Tử,
mà Đây thôn Vĩ Dạ cũng không phải là một ngoại lệ. Đó là một hồn thơ lãng
mạn đang tiến rất gần đến với cái ranh giới của thơ siêu thực, tượng trưng:
“Đau thương, tức tập Thơ điên, phần nhiều chứa đựng những niềm đau khổ,
rối loạn… phát ra những khúc nhạc buồn thương, day dứt, và toả ra một bầu
không khí ảm đạm của mùa đông. Thơ trong tập này đi từ lãng mạn đến
tượng trưng”. Quả có thế thật, bởi nếu nhìn kĩ vào những hình tượng trong
bài thơ, ta sẽ thấy ngay sự không thuần nhất và sự thiếu phù hợp giữa các
khổ thơ cả về không gian lẫn thời gian: khổ 1 là khung cảnh thiên nhiên tươi
non, mướt xanh, đầy sức sống vào một buổi sáng sớm, rất gần với thôn Vĩ Dạ
trong đời thực; Khổ 2 là khung cảnh thiên nhiên hiu hắt, chia lìa vào một buổi
chiều hôm và ở một đêm trăng; Khổ 3 là những bóng hình đã xa, những khói
sương mộng ảo, còn thời gian thì hoàn toàn mờ mịt, không thể xác định nổi
khi “Áo em trắng quá nhìn không ra” và lúc “sương khói mờ nhân ảnh” là ở
những thời điểm cụ thể nào. Vậy cái mạch ngầm liên kết các khổ thơ để tạo
nên tính chỉnh thể nghệ thuật ở bài thơ này là gì, nếu không phải là hồi ức và
các cung bậc tâm trạng của chủ thể cảm xúc. Nói cách khác, những hình ảnh
kí ức về thôn Vĩ Dạ qua mỗi khổ thơ được “nhìn” bằng các tâm trạng khác
nhau của chính tác giả. Có người nói, đọc thơ Hàn Mặc Tử thì “không nên
đọc theo đề tài, sự việc mà phải đọc vào tâm trạng. Cố để cảm thụ được tâm
trạng người viết, chúng ta sẽ kinh ngạc thấy rằng hoá ra bài thơ của Hàn Mặc
Tử lại liền khối một cách lạ lùng. Bài thơ mười hai câu này không có câu nào
lạc mạch, nằm ngoài “từ trường” cảm hứng”… Cái “từ trường” cảm hứng,
mạch ngầm gắn kết bài thơ thành một khối ấy chính là hồn thơ Hàn Mặc Tử,
như Yến Lan đã nói: “Thơ của Hàn Mặc Tử có cái mạnh nhất để tồn tại là cái
hồn của nó”.
Sự vận động, chuyển hoá của cảnh, ý và thi tứ
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Có người cho rằng câu hỏi mở đầu bài thơ là của Hoàng Cúc, hoặc của
một cô gái Vĩ Dạ nào đấy nhưng thực chất cũng vẫn là hình bóng của Hoàng
Cúc, do nhân vật Hoàng Cúc đã được trừu tượng hoá đi và được tác giả nhắc
lại như là một lời mời, một lời hờn trách sao Tử không về thăm? Nhưng theo
những tài liệu ít ỏi hiện còn lưu giữ được về mối quan hệ giữa Hoàng Thị Kim
Cúc - Hàn Mặc Tử thì cũng khó có thể khẳng định điều đó một cách chắc
chắn. Tuy nhiên, dẫu có thế nào thì bức bưu thiếp có tranh phong cảnh và
mấy lời thăm hỏi của Hoàng Cúc từ thôn Vĩ Dạ gửi tới cũng đã là một niềm
vui bất ngờ, gây xáo động không nhỏ trong tâm hồn, tình cảm của Hàn Mặc
Tử. Theo dòng cảm xúc, những ấn tượng sâu đậm nhất của nhà thơ về thiên
nhiên cảnh vật và con người Vĩ Dạ đã xôn xao hiện ra dưới đầu ngọn bút:
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc,
Lá trúc che ngang mặt chữ điền?
Đây đúng là cảnh trong ấn tượng của kí ức vì rất ít nét. Nó chỉ lưu giữ
những gì gây ấn tượng nổi bật, có thể khắc sâu vào trí nhớ. Vĩ Dạ có những
hàng cau cao vút, có thể nhìn thấy từ rất xa và những vườn cây trái mướt
xanh dễ gây sự chú ý của cảm giác; đó là hai chi tiết nổi bật, như những dấu
hiệu tạo ấn tượng, gợi nhớ lâu như một sự chọn lọc của tiềm thức. Nhưng tả
hàng cau, tác giả cũng chỉ nhấn mạnh đến cái nét tinh khôi của cảnh vật, vào
lúc sáng sớm: Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên. “Nắng mới lên” là ánh nắng
bình minh buổi sớm mai, và hàng cau tồn tại trong trí nhớ Hàn Mặc Tử là tồn
tại với cái sắc nắng ấy. Chữ nắng được lặp lại hai lần trong cùng một dòng
thơ, “nó lưu giữ chính xác một khoảnh khắc của cảnh, nên rất sinh động, gợi
cảm”. Còn khi tả vườn, tác giả cũng chỉ lưu giữ một ấn tượng sâu đậm trong
lòng mình về vẻ mướt xanh của cây lá trong vườn. Nhà thơ Vũ Quần Phương
bình những câu thơ này đã rất tinh tế khi phát hiện ra một so sánh không phổ
biến: ví cái mướt xanh của vườn với ngọc. “Nhưng đọc câu thơ thì ai cũng
thấy là so sánh đúng, đúng trong cảm giác, (…):
Vườn ai mươi quá xanh như ngọc
Ấn tượng của cái nắng ở câu thơ trên rọi xuống màu xanh của vườn
nên mới tạo ra cái mướt xanh như ngọc”. Trong màu xanh có ánh sáng, có
sương long lanh của buổi sớm mai nên chỉ có thể là ngọc, khó có thể thay thế
ngọc bằng cái gì cho hay hơn được.
Câu thơ thứ tư gợi tả ấn tượng về con người thôn Vĩ:
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Nhiều người cố tìm hiểu xem khuôn “mặt chữ điền” trong câu thơ này là
ai, một cô gái hay một chàng trai? Chúng tôi nghĩ điều đó quả là không cần
thiết, mà chỉ nên hiểu chi tiết trên một cách phù hợp, thống nhất với toàn bộ
hệ thống hình tượng và mạch cảm xúc chung biểu hiện trong khổ thơ: những
hoài niệm xúc động trong tâm hồn Hàn Mặc Tử về cảnh vật và con người
thôn Vĩ Dạ, xứ Huế. Và như vậy, nếu hai câu thơ trên khắc hoạ ấn tượng sâu
đậm về những nét tươi non, mướt xanh của thiên nhiên cây trái trong vườn
nhà ai đó ở Vĩ Dạ thì câu thơ thứ tư này cũng chỉ nhằm gợi tả cái vẻ thuần
hậu, chất phác, một nét đáng mến khó quên của con người thôn Vĩ mà thôi.
Bốn câu thơ tả cảnh Vĩ Dạ thật đẹp, tuy chỉ là ấn tượng của kí ức nhưng cũng
không phải vì thế mà kém phần tinh tế, sinh động, gợi cảm và giàu sức sống;
bởi đằng sau bức tranh đó là một niềm vui gặp gỡ, niềm xúc động mãnh liệt
của một con tim đau đớn nhưng vẫn còn chất chứa bao nhiêu niềm hi vọng,
tin tưởng…
Khổ thơ thứ hai bỗng có bước chuyển rất đột ngột, làm thay đổi hẳn
sắc thái của cảnh, ý và thi tứ:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Cảnh Vĩ Dạ được mở rộng về mặt không gian, đến những dòng sông,
con thuyền, bến nước, mây, gió, cánh đồng, đêm trăng…, nhưng chứa đầy
tâm trạng. Khác hẳn với khổ thơ đầu, cảnh Vĩ Dạ trong khổ thơ này hầu như
rất ít tính hiện thực; thi liệu chỉ giống như “những cái mắc áo” để treo vào đó
những trạng thái cảm xúc của tâm hồn nhà thơ. Do vậy, nét nổi bật của thiên
nhiên cảnh vật trong khổ thơ này là sự chia lìa, hiu hắt: Dòng nước buồn thiu,
hoa bắp lắt lay; những gì vẫn tồn tại gắn bó cùng nhau thì giờ đây đều chia
tách: gió, mây đôi đường, thuyền và bến rời bỏ nhau – thuyền đã đậu bến
sông trăng nhưng lại đang rời bến để chở trăng đến một nơi bến bờ khác:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Nhưng thuyền và bến ấy có lẽ cũng chỉ là những hình ảnh trong tâm
tưởng, vì con thuyền là “thuyền ai” không xác định, còn bến là bến “sông
trăng” – một con sông ảo. Đó là những hình tượng cảm xúc rất phù hợp với
cảnh ngộ và tâm trạng của chính tác giả – một con người bệnh tật, cô đơn
nhưng vẫn luôn khắc khoải, tha thiết với cuộc đời.
Khổ thơ thứ ba gợi tả những ấn tượng cảm xúc về người con gái trong
lòng nhà thơ. Nhưng với Hàn Mặc Tử, cô gái Vĩ Dạ năm nao giờ chỉ còn như
người trong mộng, đã hoàn toàn cách biệt, xa vời:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,
Ai biết tình ai có đậm đà?
Chữ “mơ” đứng đầu câu thơ hình như chứa đựng cả hai nghĩa: giấc mơ
(mộng) và sự mơ ước. Nhưng dù theo nghĩa nào thì mạch xúc cảm chính
trong cả khổ thơ vẫn là sự cách biệt sâu thẳm giữa hai người: “Em” giờ đã là
“khách”, thậm chí là ”khách đường xa” – Chữ “khách đường xa” lặp lại hai lần
nhấn mạnh sự cách biệt. Và vì là khách đường xa nên hình bóng rất nhạt
nhoà, chỉ như một ảo ảnh: Áo em trắng quá nhìn không ra / Ở đây sương khói
mờ nhân ảnh. Câu hỏi cuối khổ thơ bộc bạch nỗi lòng: niềm nhớ mong sâu
sắc với người trong mộng, nhưng có pha chút hờn giận đắng cay bởi nỗi cô
đơn tuyệt vọng đã dâng đầy:
Ai biết tình ai có đậm đà?
Linh hồn tác phẩm
Dễ dàng có thể nhận thấy mạch tình cảm nhất quán xuyên suốt các khổ
thơ đó là nỗi lòng tha thiết, ước vọng khôn nguôi đối với thiên nhiên và con
người thôn Vĩ Dạ, xứ Huế; mà sâu nặng hơn là đối với một tình đẹp đẽ, trong
sáng tự trong sâu thẳm tâm hồn của chủ thể cảm xúc. Dẫu trong cảnh ngộ hết
sức khắc nghiệt của “một con người sượng sần vì bệnh hoạn (…), một người
bị giữ riêng ở một nơi, xa tất thảy bạn bè, thân thích và bó tay nhìn cả thể
phách lẫn linh hồn mình cùng tan rã”, nhưng “đôi mắt người ấy vẫn trong trẻo
khi ngắm nhìn cảnh sắc thiên nhiên, trái tim người ấy vẫn giàu yêu thương và
ước vọng”. Đó là một cảm xúc thơ rất giàu chất nhân bản và có lẽ cũng là nhờ
cái chất nhân bản đậm đà, sâu lắng ấy trong tâm hồn nhà thơ mà Đây thôn Vĩ
Dạ vẫn sẽ còn hấp dẫn mạnh mẽ nhiều thế hệ bạn đọc, cho dù bài thơ không
phải là dễ hiểu đối với tất cả mọi người.
7. ĐẶC ĐIỂM NGÔN TỪ VÀ MỐI LIÊN HỆ XƯA – NAY, CŨ – MỚI TRONG BÀI THƠ “TỐNG BIỆT HÀNH” CỦA THÂM TÂM
Đưa người, ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Đưa người, ta chỉ đưa người ấy,
Một giã gia đình, một dửng dưng…
– Li khách! Li khách! Con đường nhỏ,
Chí nhớn chưa về bàn tay không,
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm mẹ già cũng đừng mong.
Ta biết người buồn chiều hôm trước
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt.
Một chị, hai chị, cùng như sen,
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót.
Ta biết người buồn sáng hôm nay
Giời chưa mùa thu tươi lắm thay,
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…
Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
Chị thà coi như là hạt bụi,
Em thà coi như hơi rượu say…
(Văn học 11, SGK chỉnh lí hợp nhất, NXB GD, 2000)
Người ta hay nói đến hiện tượng một bài trong thơ tiếng Việt. Đó là hiện
tượng những bài thơ của những tác giả xuất hiện rất ít, có thể chỉ một lần duy
nhất nhưng đã lập tức chói sáng trên bầu trời thơ Việt Nam. Tống biệt hành
của Thâm Tâm là một trường hợp như vậy. Bài thơ viết về một đề tài không
mới, đề tài “tống biệt”, một đề tài mà thơ ca trung đại trước đó đã có không ít
bài nổi tiếng. Hình tượng “li khách” cũng có thể nói là đã quá quen thuộc trong
văn chương một thời với những tráng sĩ vung gươm nơi sa trường với da
ngựa bọc thây, thái độ ngang tàng, những lời cảm khái v.v… Có người nói,
chọn đề tài tống biệt, Thâm Tâm đã rơi vào cái thế đứng chênh vênh bên bờ
vực, rất khó tránh khỏi những công thức định sẵn, những cảm xúc sáo mòn.
Phải thật cao tay thì mới có thể thoát hiểm, sáng tạo được những gì mới mẻ
thật sự. Viết Tống biệt hành, Thâm Tâm quả đã làm được điều ấy. Cái hay
của bài thơ, cái tạo ra được sức hấp dẫn lớn chính là ở chỗ tác giả biết lấy cái
cũ để gợi tả cái mới, mượn hình tượng xưa để làm nổi bật vẻ đẹp của li khách
ra đi trong thời đại hôm nay. Với “điệu thơ gấp, lời thơ gắt, câu thơ rắn rỏi,
gân guốc”, bài hành đã làm sống dậy cái không khí khảng khái, ngang tàng
cùng với ý vị bâng khuâng, xốn xang khó tả của một cuộc tiễn đưa vì nghĩa
lớn.
Đưa người, ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm không vàng vọt,
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong?
Trong văn học truyền thống, dòng sông và buổi chiều hoàng hôn vốn là
những hình ảnh gắn liền với sự biệt li. Bằng hai câu hỏi tu từ dạng phủ –
khẳng định: “không… sao có?”, “không… sao đầy?”, mở đầu bài thơ, Thâm
Tâm đã gợi tả trọn vẹn cả không gian, thời gian của cuộc chia tay và những
cảm xúc, tình cảm diễn ra trong lòng kẻ ở, người đi trước giờ phút li biệt.
Cuộc tiễn đưa lần này không diễn ra ở không gian và thời gian li biệt thông
thường, nghĩa là không diễn ra ở một bến sông nào đó và trong buổi chiều
hoàng hôn, nhưng vẫn xốn xang bao tình cảm nhớ nhung, lưu luyến giữa kẻ
ở người đi: có “sóng” trong lòng và “hoàng hôn” trong mắt – biểu tượng cho
những tình cảm muôn thuở của con người muôn nơi trong những cuộc biệt li.
Tuy nhiên, bốn câu thơ trên đây không chỉ có ý nghĩa khẳng định mà
còn chất chứa một nỗi niềm băn khoăn khó tả. Hai câu hỏi nghi vấn “sao
có…?”, “sao đầy…?” với hai chữ sao liên tiếp đặt đầu dòng thơ khiến cho
đoạn thơ chứa đầy tâm trạng, làm cho những ý nghĩa sâu xa ẩn kín của bài
thơ càng thêm lung linh, khó nắm bắt. Có người nói “câu hỏi của Thâm Tâm
đặt ra chỉ là một cách hành văn, bản chất của nó là trần thuật, giãi bày, nghi
vấn chỉ để nhấn mạnh”. Nếu vậy, xin hãy thử bỏ đi hai chữ “sao” nghi vấn
chất chứa nỗi niềm day dứt trên đây và thay bằng một chữ khác hoàn toàn chỉ
thuần tuý có tính chất trần thuật hay nhấn mạnh (chẳng hạn, “vẫn” hoặc
“nhưng”: Vẫn (nhưng) có tiếng sóng ở trong lòng – Vẫn (nhưng) đầy hoàng
hôn trong mắt…) xem câu thơ sẽ còn lại những gì? Rõ ràng nhãn tự của đoạn
thơ chính là ở cái chữ “sao” đầy tâm trạng này: nó thể hiện sự ngạc nhiên của
người tiễn về những sóng cuộn trong lòng và đặc biệt là cái ánh hoàng hôn
đã dâng đầy trong mắt người ra đi trước giờ phút li biệt.
Nhưng cuộc chia tay nào chả vậy! Sao người tiễn phải băn khoăn ngạc
nhiên vì những biểu hiện của tình người lưu luyến lúc chia xa? “Sóng” trong
lòng ai và “hoàng hôn” trong mắt ai? Lí giải những điều này quả đã từng tốn
không ít giấy mực, bởi đúng như nhiều người nhận xét, “ngôn ngữ của Tống
biệt hành thật khó giảng, chữ nghĩa, câu thơ như không dính nhau”, từ ngữ
dồn nén, “có nhiều tỉnh lược, giữa các dòng thơ có nhiều khoảng trống,tạo
thành một vẻ ám ảnh bí ẩn không dễ gì thuyết minh cho thông… nhiều chỗ tối
nghĩa, phải thêm chữ vào mới hiểu được”. Giải quyết tất cả những điều này,
GS. Trần Đình Sử đã thật có lí và tinh tế khi ông cho rằng: “để hiểu bài thơ
trước hết cần phân biệt rõ người tiễn với người ra đi và phải nhận rõ toàn bài
thơ là lời người tiễn nói về người ra đi”. Một khi đã phân biệt và nhận rõ như
vậy thì không thể phân tích “người tiễn ngạc nhiên về chính những tình cảm
đang diễn ra trong lòng mình”, mà phải hiểu người tiễn không khỏi băn khoăn,
ngạc nhiên trước dáng điệu và tình cảm của kẻ lên đường. Bởi “sóng ở trong
lòng” thì còn có thể nói ấy là tiếng lòng ta (kẻ đưa tiễn), chứ “hoàng hôn trong
mắt” thì chắc chắn phải là mắt của người ra đi, do cái tiếng sóng lòng ngổn
ngang, cuộn xoáy mà người ra đi không thể kìm giữ, nén chặt…, nên đã bộc
lộ hẳn ra bên ngoài; người tiễn quan sát, nhận thấy khiến anh không khỏi
ngạc nhiên, ngỡ ngàng. Ngạc nhiên, ngỡ ngàng vì đây không phải là cuộc
tiễn biệt thông thường một con người bình thường. Đây là cuộc tiễn đưa vì
nghĩa lớn và “li khách” là một đấng nam nhi ôm chí lớn lên đường, cái người
đã khăng khăng nhất quyết, không xúc động, “một giã gia đình, một dửng
dưng”, tự nguyện lấy “chí nhớn” và danh dự làm lẽ sống, nếu “chí nhớn chưa
thành” thì sẽ chưa trở về với “bàn tay không”, sẽ đừng bao giờ nói đến
chuyện quay “trở lại”, dẫu có “ba năm” thì “mẹ già cũng đừng mong”!. Trong
những cuộc tiễn đưa trượng phu, tráng sĩ xưa kia, người ra đi thường có điệu
bộ khảng khái, dửng dưng, khí phách hiên ngang, ngẩng cao đầu bước đi
(tráng sĩ nhất khứ hề), chứ không thể bị vướng bận bởi tình riêng nhỏ nhặt
(không vương thê nhi, hoặc: người ra đi đầu không ngoảnh lại…); đằng này,
trong lòng li khách lại đang nổi “sóng” và nhất là trong mắt lại “đầy hoàng hôn”
vốn không phải là ánh mắt của kẻ trượng phu lên đường.
Vậy là, trong ý định ban đầu, người tiễn tưởng tiễn đưa một chinh phu
truyền thống nhưng thực tế chỉ có con người thời đại – thời đại của văn học
lãng mạn – con người được thức tỉnh sâu sắc ý thức về cái tôi cá nhân, trong
giờ phút chia tay đã có thể bộc lộ tất cả những tình cảm riêng tư phong phú,
chân thật và đầy nhân tính:
Ta biết người buồn chiều hôm trước
Bây giờ mùa hạ sen nở nốt,
Một chị, hai chị cùng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót.
Ta biết người buồn sáng hôm nay
Giời chưa mùa thu, tươi lắm thay,
Em nhỏ thơ ngây đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay…
Đây là đoạn người tiễn hồi tưởng và nhớ lại gia cảnh và tình cảm của
người ra đi. Những chữ “ta biết người buồn” lặp lại như một điệp khúc biểu thị
sự thấu hiểu của người tiễn đối với cảnh ngộ và những sóng gió tình cảm đã
và đang diễn ra sâu kín trong lòng của người ra đi. Hoá ra, li khách có một
cảnh ngộ không thể cầm lòng, chẳng thể dửng dưng: một mẹ già như chiếc
bóng, hai người chị như sen cuối mùa và đứa em nhỏ còn quá thơ ngây. Anh
là trụ cột, là người trai duy nhất trong gia đình và để có cuộc chia tay ở nơi
không có sông, trời cũng chưa hoàng hôn này, anh đã phải trải qua hai cuộc
chia tay đẫm lệ tình ruột thịt trước đó: một “chiều hôm trước” và một “sáng
hôm nay”… Anh đã ra đi như một đấng trượng phu: lấy “chí nhớn” làm lẽ
sống, mẹ già, chị gái, em thơ cũng không cản được bước chân người trai say
lí tưởng. Nhưng khác với trượng phu xưa, li khách hôm nay còn là một con
người (một con người cá nhân), anh đã buồn từ chiều hôm trước, lại buồn
sáng hôm nay, rất day dứt, tràn đầy thương nhớ. Nên anh ra đi mà chẳng thể
dửng dưng, bởi cuộc tiễn đưa hôm nay được dồn nén, được thử thách bằng
lòng quyết tâm thực hiện “chí nhớn” trong sự mâu thuẫn giằng xé với những
tình cảm riêng tư của một con người cá nhân đầy nhân tính. Nhưng cuối cùng
thì chí lớn đã thắng:
Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu say!
Từ chỗ thấu hiểu cảnh ngộ và nỗi lòng của người ra đi, người tiễn đi từ
ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Nhưng nếu ban đầu còn chút băn
khoăn vì không thấy cái hình bóng quen thuộc của một khách chinh phu
truyền thống thì đến cuối bài thơ, người tiễn hết sức cảm phục: “người đi? Ừ
nhỉ, người đi thực!” Câu thơ có ngữ điệu khá đặc biệt: “Người đi?” là một câu
hỏi tu từ thể hiện tâm trạng ngạc nhiên, còn “Ừ nhỉ, người đi thực?” là lời cảm
thán nhằm xác nhận một sự thật, trong đó có sự bừng thức và cảm phục của
người tiễn trước sự ra đi rất cao cả, mạnh mẽ của “li khách” hôm nay. Tuy
nhiên, đối với người ra đi thì đấy là một sự lựa chọn không mấy dễ dàng,
chọn “chí nhớn” thì phải hi sinh tình riêng, phải bỏ mặc những người ruột thịt,
nên chọn bề nào cũng không tránh khỏi đau đớn, mất mát. Ba dòng thơ cuối
cùng khá độc đáo nhờ tính chất đa thanh, phức điệu của ngôn ngữ thơ. Ở
đây, cái ranh giới giữa lời của chủ thể trữ tình (người tiễn) với lời của nhân
vật – đối tượng trữ tình (li khách) đã không thể phân biệt rành mạch, bởi đoạn
thơ sử dụng chính ngôn từ, giọng điệu và ý chí của người ra đi lồng trong lời
kể của người tiễn. Ta hãy chú ý đến cách tạo ấn tượng và hiệu quả biểu hiện
nhờ âm hưởng, ngữ điệu và nhịp điệu đặc biệt của đoạn thơ. Sự hoà phối âm
điệu (lâng lâng, lan toả) độc đáo bằng những vần ôm: ”chiếc lá bay…hơi rượu
say” đã gợi được cái tinh thần thanh thản, nhẹ nhõm, cái khí phách ngang
tàng, lãng mạn của kẻ lên đường trong thơ cổ. Ba câu thơ còn độc đáo bởi ba
chữ “thà” lặp lại ở mỗi dòng thơ trong một ngữ điệu và một kết cấu cú pháp
thống nhất (Mẹ thà coi như…, Chị thà coi như…, Em thà coi như…) đã thể
hiện sự chọn lựa dứt khoát, khẳng định quyết tâm không thể gì lay chuyển nổi
của người ra đi. Nhưng “thà” cũng có nghĩa là đành phải chấp nhận, đành
phải hi sinh. Trong văn chương tiếng Việt của ta đã có biết bao nhiêu chữ thà
rỏ máu và rơi nước mắt như thế: Thà rằng liều một thân con/ Hoa dù rã cánh,
lá còn xanh cây (Nguyễn Du), Thà cho trước mắt mù mù/ Chẳng thà ngồi thấy
kẻ thù quân thân (Nguyễn Đình Chiểu). Đúng là mỗi chữ “thà” đều như dao
cứa ngang tim, làm sao có thể dửng dưng mà không nổi “sóng” trong lòng và:
“đầy hoàng hôn trong mắt” được!
Nhiều người căn cứ vào hoàn cảnh sáng tác của bài thơ để gán cho
hình tượng người ra đi trong Tống biệt hành những ý nghĩa có khi trái ngược
hẳn nhau”. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào ngôn ngữ văn bản tác phẩm và đặt nó
trong trường văn hoá chung của những mối liên hệ cũ – mới, xưa – nay thì có
thể khẳng định, hình ảnh li khách trong bài thơ này mang một ý nghĩa thẩm mĩ
khá mới mẻ, sâu sắc: Người trượng phu hôm nay được thức tỉnh bởi lí tưởng
nhân đạo mới và cá tính không thể ra đi một cách thanh thản, nhẹ nhàng như
con người ngày xưa. Li khách hôm nay đã ra đi trong tình cảm lưu luyến sâu
xa của một thế giới nội tâm sâu kín, toàn vẹn, chân thật và đầy nhân tính. Cái
nhìn nhiều chiều và rất sâu sắc của tác giả về “con người thời đại” đã thổi
thêm những ý nghĩa mới, làm tăng thêm vẻ đẹp cho một loại hình tượng vốn
đã rất đẹp, rất cao cả trong văn học truyền thống của dân tộc ta.
8. ĐÂU LÀ MÀU SẮC CỔ ĐIỂN TRONG “TRÀNG GIANG” – MỘT BÀI THƠ HIỆN ĐẠI CỦA HUY CẬN
Về khái niệm cổ điển và hiện đại
Về bài thơ Tràng giang, một bài thơ rất tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận
trong tập Lửa thiêng (1940), nhiều người hay nói đến màu sắc cổ điển và màu
sắc hiện đại của tác phẩm, mặc dầu điều đó cũng đồng nghĩa với việc phải
đụng chạm đến khá nhiều vấn đề phức tạp về khái niệm thuộc lĩnh vực lí luận
văn học và khoa học nghiên cứu về Ngữ văn. Khái niệm cổ điển ở đây đương
nhiên không có nghĩa là “cổ'kính” hay là một cái gì đó của “một thuở xa
xưa”…, cũng không hướng tới các đặc trưng của chủ nghĩa cổ điển, một
trường phái văn học trong quá khứ, mà chủ yếu là muốn đề cập tới các đặc
điểm của một loại hình thơ ca trung đại phương Đông: loại hình thơ cổ điển.
Khái niệm hiện đại cũng không được dùng với ý nghĩa chỉ các đặc điểm cửa
chủ nghĩa hiện đại trong văn học, mà chỉ đơn giản muốn nói tới các phương
thức biểu hiện phi cổ điển bên cạnh các yếu tố cổ điển trong một tác phẩm
thơ ca hiện đại. Tóm lại, nói màu sắc cổ điển là nói đến những biểu hiện thi
pháp có tính đặc trưng và ổn định của loại hình thơ ca trung đại đã được sử
dụng (hay thể hiện) trong một tác phẩm văn học hiện đại cụ thể.
Để tránh những rắc rối về mặt khái niệm, chúng tôi xin đề cập trực tiếp
đến những khía cạnh của màu sắc cổ điển trong Tràng giang, một bài thơ
hiện đại của Huy Cận, “một bài thơ đã kết hợp được thơ ca truyền thống,
những nét cổ điển của thơ Đường, với những nét hiện đại” được biểu hiện
qua các yếu tố như: hình thức, cấu tứ, thi liệu, bút pháp và thi hứng của tác
phẩm.
Về hình thức
Bài thơ có bốn khổ với 16 câu thơ thất ngôn, mà nếu tách ra thì giống
như bốn bài tứ tuyệt của Đường thi. Sở dĩ có thể tách riêng ra như vậy vì cả
bốn khổ thơ đều có chung một cấu tứ, khổ nào cũng mênh mang sóng nước
và dợn dợn một nỗi buồn sầu. Tuy cảnh vật cụ thể ở mỗi khổ thơ có những
nét khác nhau nhưng đều là cảnh dòng tràng giang mênh mang và ẩn chứa
trong đó là một tâm trạng chung của chủ thể cảm xúc: nỗi buồn tủi về thân
phận nhỏ bé, bơ vơ, lạc lõng của kiếp người giữa cuộc đời rộng lớn, đầy bất
trắc. Người ta nói, bài thơ mang vẻ đẹp cổ điển thì một trong những khía cạnh
của màu sắc cổ điển ấy là ở đặc điểm hình thức này.
Về cấu tứ
Thơ cổ điển là sự giao hoà tâm – vật, cảnh – tình hô ứng, đối cảnh sinh
tình, hoặc trong cảnh ngụ tình: “Bài thơ bắt đầu từ cảnh, vật, đến tâm cảnh,
đến chí thì kết thúc. Hoặc là ngược lại, bắt đầu từ tình, chí, qua tâm cảnh, tới
cảnh vật ở trước mắt thì kết”. Đặc điểm này đem đến cho thơ cổ điển phương
Đông một lối diễn đạt biểu trưng khá độc đáo: lối mượn cảnh ngụ tình. Tràng
giang cũng được lập tứ và diễn đạt một cách rất “cổ điển” như vậy. Khổ 1 tả
khung cảnh sông nước mênh mang, qua đó bộc lộ nỗi buồn về những thân
phận lạc loài, phiêu dạt. Khổ 2 gợi tả không gian bao la và nỗi buồn về cuộc
sống tàn tạ, bị bỏ quên. Khổ 3 nhấn mạnh về sự mất hết mọi liên hệ giữa các
sự vật và bộc lộ nỗi khát khao những tâm hồn đồng điệu trong cuộc đời. Khổ
4 là khung cảnh buổi chiều hoàng hôn trên sông và tâm trạng buồn nhớ quê
hương tha thiết chất chứa trong lòng người... Như vậy, cả bài thơ tuy là tả
cảnh sông dài, trời rộng, là khung cảnh không gian bao la, trời nước bát ngát
một màu nhưng thực chất vẫn là mượn cảnh ngụ tình. “Tràng giang là một bài
thơ tình gặp cảnh, một bài thơ về tâm hồn”. Theo Huy Cận thì bài thơ lúc đầu
do cảnh sóng nước sông Hồng gợi tứ, nhưng đấy cũng là hình ảnh chung về
các dòng sông khác của quê hương, ẩn chứa bên trong nó là tâm trạng, cảm
xúc, là nỗi lòng của một hồn thơ đại diện cho cả một thế hệ thanh niên lúc bấy
giờ luôn cảm thấy mình nhỏ bé, bơ vơ, lạc lõng trước cuộc đời. “Bài thơ
tưởng là tả cảnh nhưng thật sự là tả tâm hồn, mang ý nghĩa tượng trưng rất
tự nhiên, bằng cái lô–gích bên trong của nó”. Tác giả còn kể lại rằng, cảm
hứng của bài thơ được khơi gợi từ một chiều thu năm 1939 (lúc đầu bài thơ
có nhan đề là Chiều thu trên sông), khi ông đứng ở bờ nam bến Chèm, nhìn
cảnh sông Hồng bao la vắng lặng, bốn bề sóng nước cô liêu, nghĩ về kiếp
người nổi trôi bé nhỏ. Vậy là, từ một dòng sông cụ thể, nhà thơ nghĩ về dòng
tràng giang mênh mông, từ một nỗi buồn riêng, nhà thơ nghĩ về những kiếp
người nổi trôi, bé nhỏ trong dòng đời vô định…
Về thi liệu, bút pháp và thi hứng
Hình ảnh thiên nhiên trong thơ cổ điển thường là những hình ảnh ước
lệ, có tính biểu trưng cao; được vẽ bằng những nét bút chấm phá, gợi nhiều
hơn tả. Tính chất đó làm cho dòng tràng giang mênh mang trong bài thơ có
vẻ trừu tượng, ít tính hiện thực. Tuy nhiên, phần lớn những chi tiết và hình
ảnh thiên nhiên, tạo vật của dòng sông này lại khá cụ thể, được miêu tả bằng
một bút pháp rất hiện đại. Chính tác giả cũng thừa nhận, hình ảnh thơ tuy
mang tính tượng trưng nhưng “những hình ảnh con thuyền xuôi mái, củi một
cành khô, bèo dạt về đâu hàng nối hàng vv… đều mang tính chân thực của
đời thường, không ước lệ”. Do vậy, về thi liệu, có lẽ cái dáng dấp cổ điển rõ
nét nhất chỉ có thể tìm thấy ở bốn câu thơ kết bài. Hơn nữa, cả bút pháp và
thi hứng ở bốn câu này cũng đều thấy có mối liên hệ rất mật thiết với các đặc
điểm thi pháp của thơ ca trung đại truyền thống:.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Khổ thơ miêu tả khung cảnh một buổi chiều hoàng hôn và tâm trạng
buồn nhớ quê hương của con người, một kiểu tâm trạng và thi hứng rất điển
hình của thơ cổ điển. Buổi chiều hoàng hôn trong hai câu thơ đầu cũng được
“chấm phá” theo bút pháp Đường thi với hai hình ảnh “đám mây” và “cánh
chim”, những thi liệu quen thuộc của thơ ca trung đại phương Đông. Tuy
nhiên, trong thơ xưa, đám mây cô đơn lơ lửng giữa trời chiều và cánh chim lẻ
bầy mỏi mệt thường tạo ra một quan hệ tương đồng, hô ứng chứ không đối
lập. Còn trong bài Tràng giang, hai hình ảnh này có sự tương phản, đối lập
khá gay gắt: trên bầu trời, từng đám mây trắng chồi lên như những núi bạc
khổng lồ trước ánh hoàng hôn đỏ rực lúc ráng chiều gần tắt, tạo ra một cảnh
tượng hùng vĩ, rạng ngời chưa từng thấy, trong khi cánh chim lại nhỏ bé và
mông lung quá, chỉ như một chấm buồn giữa khung cảnh trời nước bao la
buổi hoàng hôn… Câu thơ gợi cảm giác bé nhỏ, rợn ngợp của con người
trước khung cảnh quá mênh mang, rộng vắng của đất trời.
Hai câu sau là cái tâm trạng cổ điển của người xa quê: chiều hôm nhớ
nhà. Tuy nhiên, khác với thơ xưa, tấm “lòng quê dợn dợn” – nỗi buồn nhớ
quê hương tha thiết trước cảnh chiều hôm mênh mang, xa “vời con nước”
trong bài thơ này lại là một tâm trạng rất “hiện đại”:
Lòng quê dợn dợn vời con nước.
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Câu thơ dùng hình thức phủ – khẳng định: “Không… cũng nhớ… “, gợi
ta nhớ đến hai câu thơ rất nổi tiếng trong bài Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu
đời Đường:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.)
Đó là tâm trạng nhớ quê của người xa xứ: Ở chốn bồng lai tận trên cõi
tiên, vào một buổi chiều hoàng hôn, người khách tha hương nhìn khói sóng
trên sông, lòng bỗng chạnh một nỗi buồn nhớ quê nhà. Huy Cận nói, khi
mượn ý của người xưa, ông muốn tả một nỗi buồn nhớ quê hương da diết
hơn, “vì lúc đó, tôi buồn hơn Thôi Hiệu nhà Đường”. Bởi vì, giữa Huy Cận với
người xưa, tuy là cùng một nỗi nhớ nhà, nhớ quê nhưng cái gốc của cảm xúc
và tâm trạng thì hoàn toàn khác hẳn nhau: nỗi nhớ quê hương của người xưa
là do ngoại cảnh; còn thi nhân hôm nay đang sống giữa quê hương mình,
đang ngắm cảnh trời nước mênh mang của sông núi mà lòng vẫn da diết một
nỗi buồn nhớ quê hương. Ấy là tâm cảnh, là nỗi lòng của kẻ thiếu quê hương,
một nỗi sầu nhớ dường như đã chất chứa sẵn tự trong lòng, nên đâu phải
cần đến “khói hoàng hôn” để mà gợi nhớ!
Cảm xúc chính là cái gốc của thơ ca
Nếu xét từ cảm xúc, thi hứng thì Tràng giang trước sau vẫn là một bài
thơ rất hiện đại. Huy Cận đặc biệt tâm đắc khi trong Thi nhân Việt Nam, Hoài
thanh gọi nỗi buồn trong bài thơ là một nỗi buồn được “toả ra từ hồn một
người cơ hồ không biết đến ngoại cảnh. Có người muốn làm thơ phải tìm
những cảnh nên thơ. Huy Cận không thế. Nguồn thơ đã sẵn trong lòng thi
nhân nên không cần có nhiều chuyện…” và ông cho rằng đó là một lời bình
rất tri âm, tri kỉ. Sở dĩ như vậy vì xét đến cùng, nỗi buồn sông núi chất chứa
sẵn trong lòng thi nhân cũng chính là một nỗi buồn thời đại: nỗi buồn về thân
phận con người trong cảnh ngộ đất nước lầm than.
9. LỜI QUÊ, LỐI NÓI QUÊ, CẢNH QUÊ VÀ HỒN QUÊ NGUYỄN BÍNH TRONG “TƯƠNG TƯ”
TƯƠNG TƯ
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người.
Gió mưa là bệnh của giời.
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.
Bảo rằng cách trở đò giang
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi…
Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho!
Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?
Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
(Ngữ văn 11, SGK thí điểm, NXB Giáo dục, 2004)
Tương tư và các biểu hiện của tâm trạng tương tư
Tương tư là một trạng thái tình cảm đặc biệt của tình yêu lứa đôi. Sách
Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê Chủ biên, NXB KHXH – 2000) định nghĩa
tương tư là nỗi nhớ da diết. Như vậy, thực chất tương tư là nỗi nhớ nhung về
nhau, một trong những biểu hiện nổi bật của tình yêu. Tuy nhiên, tương tư là
nỗi nhớ đã ở vào một mức độ da diết, mãnh liệt đến tột cùng; thậm chí, có
người tương tư còn bị rơi vào tình trạng gần như suy sụp hẳn cả về thể chất
lẫn tinh thần, héo hắt, gầy mòn, gọi là “ốm tương tư” (một dạng của căn bệnh
trầm cảm). Ngọn nguồn của tâm trạng tương tư thực ra là nỗi khao khát được
chung tình, kề cận với người mình yêu. Và nhớ thương chính là một nỗ lực
tâm lí để vượt qua mọi khoảng cách hay trở ngại về không gian, thời gian,
hoàn cảnh v.v… giữa hai người. Nhưng càng nỗ lực bao nhiêu thì cái mục
đích khát vọng chung tình kia dường như lại càng trở nên xa ngái, huyễn
hoặc bấy nhiêu. Do đó, tương tư là hiện tượng thường hay xảy ra đối với
những người yêu đơn phương, những kẻ “thất tình”, khi tình yêu chỉ nảy sinh
từ một phía mà không dễ gì có thể thổ lộ, nói ra với “đối tượng” của mình
được: “Biết cho ai, hỏi ai người biết cho!”. Khi đó, tâm trạng tương tư thường
có những biểu hiện tâm lí khá phức tạp, phong phú: nó không chỉ có nhớ
thương mà còn đầy những ước ao xen lẫn cả những hờn giận, trách móc, thở
than… Tình yêu của chàng trai với cô gái làng bên trong bài thơ của Nguyễn
Bính trên đây cũng vậy, có lẽ nó cũng chỉ xuất phát từ một phía cho nên đã
thành một thứ “bệnh”, gặm nhấm tâm hồn chàng:
Gió mưa là bệnh của giời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Các biểu hiện tâm lí, tình cảm của căn bệnh này cũng có thể coi là khá
“điển hình”, bởi tất cả các cung bậc trạng thái cảm xúc chính của nó hầu như
đều đã xuất hiện và được miêu tả đầy đủ. Và sự diễn biến, chuyển hoá một
cách tự nhiên, chân thực các trạng thái tâm hồn của tâm trạng tương tư đó
cũng chính là mạch phát triển cảm xúc, làm nên một cấu tứ rất giản dị, mạch
lạc của bài thơ. Đầu tiên là nỗi nhớ nhung nôn nao, thao thức trong lòng
người trai quê. rồi một chút băn khoăn mà cứ như dỗi hờn, muốn trách cứ
(một cách vô cớ) thật nhiều đối với người mình thương:
Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Chàng trai cảm thấy sốt ruột vì thời gian thấm thoắt thoi đưa mà người
thương vẫn không thấy tới:
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.
Nên chàng mới hờn trách mát mẻ về sự vô tình của nàng:
Bảo rằng cách trở đò giang
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi…
Rồi than thở, bày tỏ:
Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho!
Cuối cùng, như mọi kẻ đang yêu, người trai đang tương tư cũng hi
vọng, tin tưởng. Chàng nôn nao mơ tưởng:
Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?
Thậm chí còn bóng gió xa xôi về một ước vọng chung tình với người
mình yêu:
Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
Như vậy, cấu trúc bài thơ cũng chính là cấu trúc của tâm trạng tương
tư. Thường thì trong tình yêu, người con trai ít khi trong thế thụ động ngồi
chờ. Nhưng đây là một tình yêu đơn phương. Người trai quê tương tư vì yêu
trộm, nhớ thầm cô gái làng bên nên đành phải rơi vào cái thế thụ động, chỉ
còn một cách thổ lộ, bày tỏ nỗi niềm bằng thơ. Do quá mong nhớ người mình
yêu và sự giày vò của nỗi nhớ mong ấy khiến người tương tư dễ tưởng mình
bị hờ hững nên sinh ra “hờn ngược trách xuôi” vô cớ. Tình huống trữ tình đó
đã khiến một trạng thái tâm hồn rất khó diễn tả là tâm trạng tương tư càng có
thêm điều kiện để giãi bày, thổ lộ một cách tự nhiên, dễ nhận được sự đồng
cảm, sẻ chia từ phía người nghe – đối tượng trữ tình của bài thơ.
Cảnh quê, lời quê, lối nói quê và cách diễn tả tâm trạng tinh tế của hồn quê Nguyễn Bính
Đây là nét đặc sắc riêng của thơ Nguyễn Bính nói chung. Nguyễn Bính
quê ở làng Thiện Vịnh, xã Cộng Hoà, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Cái miền
quê đồng chiêm trũng quanh năm trắng trời trắng nước ấy với những thôn
xóm, các xứ đồng, cánh diều bay, với những hoa cà, dây hoa lí, giàn trầu
không, con đò, bến nước và cả những tre pheo, bờ bụi, mưa giăng… đều đã
đi vào thơ Nguyễn Bính, tạo nên một gương mặt riêng trên thi đàn hồi ấy:
“Nguyễn Bính chỉ thật riêng một góc trời ở những bài thơ đầu với một mảng
chân quê”. Từ cảm xúc đến ngôn từ, Tương tư chính là một tấm tình chân
quê tiêu biểu cho hồn thơ ấy. Toàn bài thơ là nỗi lòng tha thiết của người trai
quê đối với người thương, nhưng đồng thời các biểu hiện tâm trạng tương tư
ấy cũng gắn liền với một khoảng không gian quê, một ngôn ngữ và lối nói
quê. Những hình ảnh, sự vật chốn làng quê tự bao đời nay cứ theo dòng chảy
tâm trạng tương tư của người trai quê mà hiện ra một cách dung dị, tự nhiên
hình thành như các cặp đôi sinh động trước mắt người đọc: thôn Đoài – thôn
Đông, hai thôn – một làng, bên ấy – bên này, bên – đò, đò giang – đầu đình,
hoa khuê các – bướm giang hồ, giàn giầu – hàng cau liên phòng v.v…
Thường thì những tâm trạng trữ tình, đặc biệt là sự bày tỏ nỗi lòng tương tư
bao giờ cũng phải hướng tới một đối tượng trữ tình đã xác định, do đó những
hình ảnh, sự vật đậm chất thôn quê trong bài thơ vừa có chức năng tạo ra
một cái nền không gian quê kiểng vừa là phương tiện để chủ thể trữ tình kín
đáo bày tỏ mối tương tư của mình với một đối tượng trữ tình cụ thể: một cô
gái quê ở thôn bên trong làng. Mặt khác, những sự vật, hình ảnh của không
gian quê ấy cũng giúp cho tác giả dễ dàng sử dụng lối diễn tả tâm trạng, tình
cảm mang đậm chất dân gian trong toàn bài thơ. Trong cách diễn đạt tình
cảm của ca dao, dân ca, do bối cảnh giao tiếp và diễn xướng trực tiếp nên
nếu các biểu hiện tâm trạng trữ tình luôn được bộc bạch một cách hết sức cụ
thể, hồn nhiên thì chủ thể trữ tình và đối tượng trữ tình lại thường có tính chất
phiếm chỉ, không xác định:
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất,
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt trên vai.
Đèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt,
Mắt thương nhớ ai
Mà mắt ngủ không yên…
Trong bài thơ của Nguyễn Bính cũng vậy, một chàng trai thôn Đoài
mong nhớ một cô gái thôn Đông, nhưng vì chỉ yêu đơn phương thôi nên anh
dùng lối nói ỡm ờ, vòng vo, bóng gió xa xôi của người nhà quê: “Thôn Đoài
ngồi nhớ thôn Đông – Một người chín nhớ mười mong một người…”. Một cái
làng có hai thôn: “Hai thôn chung lại một làng”, một ở bên phía đông – thôn
Đông, còn một ở phía tây – thôn Đoài. Những cách gọi tên địa danh dân đã
ấy khá phổ biến ở khắp mọi vùng quê đồng bằng Bắc Bộ nên chúng vừa cụ
thể lại cũng vừa không xác định. “Một người chín nhớ mười mong một
người”: hai chữ “một người” trong cùng một dòng thơ nhưng được dùng để
chỉ hai đối tượng, hai nhân vật khác nhau: chàng trai thôn Đoài, và cô gái thôn
Đông, điều ấy, những người trong cuộc hiểu rõ hơn ai hết nhưng khách quan
thì vẫn chưa có gì là cụ thể. Vì các nhân vật trữ tình trong bài thơ vẫn giữ
được cái vỏ ngoài có tính chất chung chung, không xác định như thế nên
chàng trai mới có thể thoải mái bộc bạch nỗi lòng “chín nhớ mười mong” của
mình: “Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”, có thể làm như hai người đã thân
mật, gần gụi từ lâu để mà hờn mát, trách yêu với người con gái trong lòng:
“Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?”, “Bảo rằng cách trở đò giang, Không
sang là chẳng đường sang đã đành. Nhưng đây cách một đầu đình…”, mạnh
dạn ngỏ ước muốn được chung tình: “Bao giờ bến mới gặp đò? Hoa khuê
các, bướm giang hồ gặp nhau”, thậm chí còn bóng gió xa xôi đề cập đến
chuyện trầu cau, cưới hỏi”: “Nhà anh có một giàn giầu, Nhà em có một hàng
cau liên phòng. Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông, Cau thôn Đoài nhớ giầu không
thôn nào?” v.v… Cách dùng những đại từ chỉ người “đây”, “đấy”, “bên ấy”,
“bên này” thay thế cho các nhân vật giao tiếp và cách nói trống chủ ngữ của
những câu thơ trên đây là một trong những đặc trưng nổi bật của lối nới vòng
vo, ỡm ờ, bóng gió xa xôi trong ca dao, dân ca truyền thống đã được Nguyễn
Bính vận dụng rất thành công, tạo cho bài thơ một giọng điệu, một dáng vẻ
riêng khá độc đáo.
Các biểu hiện tâm trạng tương tư trong bài thơ cũng được diễn tả một
cách tinh tế. Trước hết là sự chờ mong mòn mỏi của chủ thể trữ tình:
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.
Tâm trạng sốt ruột vì chờ mong mòn mỏi ấy không tách rời những cảm
nhận tinh tế về sự thay đổi của không gian, thời gian. ”Ngày qua ngày lại qua
ngày” – Một câu thơ với những từ ngữ bình thường và lối nói tưởng như rất
giản dị nhưng lại có khả năng diễn tả khá độc đáo về cảm giác của con người
mang bệnh tương tư trước sự lặp đi lặp lại từng chuỗi ngày vô vị dài lê thê,
chậm chạp trong sự chờ mong khắc khoải. Một câu thơ mà chữ “ngày” được
nhắc tới ba lần, nhấn mạnh cảm xúc về khái niệm đơn vị thời gian như thể
được đếm từng ngày. Nhịp 2/ 2/ 2 của câu sáu trong thơ lục bát truyền thống
đã được ngắt thành nhịp 3/ 8: “Ngày qua ngày/ lại qua ngày” chia ý nghĩa câu
thơ thành hai vế với nội dung song trùng, ý của vế sau lặp lại vế trước và sự
nhấn mạnh chữ “lại” gợi tả nỗi chán ngán trong lòng kẻ đa tình tương tư trước
đòng thời gian vô tình, đơn điệu cứ chậm chạp trôi qua… Cảm giác về thời
gian nói trên còn được diễn tả một cách hết sức sinh động thông qua những
biến đổi màu sắc của những sự vật không gian trong câu tám: “Lá xanh
nhuộm đã thành cây lá vàng”. Thời gian hiện lên qua sự chuyển màu của cây
lá: lá màu xanh đã chuyển thành lá màu vàng. Cùng với chuỗi ngày chờ đợi
dài đằng đẵng chậm chạp qua đi, nhưng người thương vẫn chưa thấy tới, cho
dù chẳng có xa xôi cách trở gì. Chữ “nhuộm” là một động từ ngoại động,
khiến cho sự chuyển màu của cây lá dường như không phải là sự vận động,
phát triển nội tại của thực vật mà như thể là do sự tác động của thời gian và
tâm trạng con người thấm vào sắc màu của cây lá. Và nỗi lòng tương tư héo
hon, mòn mỏi của con người cũng đã nhuộm màu lá xanh thành ra màu héo
úa. Vậy là thời gian, không gian và tâm trạng của con người tương tư đã có
một mối quan hệ, mối tương giao thật là kì diệu. Tương tư mỏi mòn làm cho
thời gian kéo dài lê thê, chậm chạp hơn; tương tư cũng nhuộm màu cho cây
lá trở nên vàng vọt, úa héo hơn…
Sức sống của thơ Nguyễn Bính
Có lẽ không mấy người Việt Nam nào lại không in trong tâm trí mình
một vài câu thơ đây đó của Nguyễn Bính trong những bài thơ quen thuộc
như: Chân quê, Qua nhà, Người hàng xóm, Cô lái đò, Cô hái mơ, Tương tư…
Cái sức hút mãnh liệt ấy chính là ở chất thôn quê dân dã, hồn hậu vẫn còn in
đậm nét trong mỗi vần thơ của Nguyễn Bính: “Thơ Nguyễn Bính đã đánh thức
người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta”. Nhà văn Chu Văn kể lại: Tết năm ấy
(1965), cái máu giang hồ vặt lại nổi lên, Nguyễn Bính muốn tạo ra một mùa
xuân tha hương nữa, anh đến chơi vợ chồng nhà một người bạn yêu thơ ở xã
Nhân Nghĩa, huyện Lí Nhân, tỉnh Hà Nam, đã ngỏ ý mời từ lâu. Ngờ đâu, khi
ra thăm vườn cam, một luồng gió lạnh khiến Nguyễn Bính rùng mình… Anh
mất đúng ngày 30 Tết năm ấy, để lại một nỗi trống vắng và tiếc thương vô
hạn. “Một buổi chiều, tôi từ chợ Chủ, qua đò sông Châu, về cơ quan ở xã
Nhân Nghĩa. Vẫn con đò gỗ cũ kĩ, và vẫn cô lái đò năm ngoái – cô Thoa. Tôi
tưởng nên lịch sự, thông báo với cô cái tin về Bính.
– Cô Thoa ạ.
– Dạ!
Tiếng cô bé có vẻ xa vắng.
– Cô Thoa, bác Bính làm thơ, vẫn hằng ngày đi chợ nhờ đò cô đưa
sang ngang, bác ấy đã mất rồi, cô ạ.
Một tiếng nấc tắc nghẹn. Cô Thoa gục mặt lên mái chèo, tiếng lạc đi.
– Cháu biết! Giá chết thay được, thì cháu tự nguyện chết thay để bác
ấy sống, bác ấy làm thơ.
Tôi bàng hoàng…”
Vậy là Nguyễn Bính vẫn sống, bởi “những câu thơ Nguyễn Bính như
một dấu tích tâm hồn dân tộc sẽ còn nuôi lòng nhiều thế hệ bạn đọc”.
10. TỪ NGỮ VÀ CÚ PHÁP TRONG CÁCH HIỂU Ý NGHĨA MỘT CÂU THƠ
Trên tạp chí Ngôn ngữ & đời sống số 23 (tháng 9/1997) có đăng bài
Thuở thiếu thời, từ văn học đến học văn của Lê Hoài Thao bàn về lời chú giải
trong sách giáo khoa Văn học lớp 8, tập 1 (sách chỉnh lí năm 1995) đối với tổ
hợp từ “thuở thiếu thời” trong bài thơ Nắng mới của Lưu Trọng Lư. Trước hết,
về mặt văn bản, căn cứ vào cuốn Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài
Chân (NXB Văn học, 1988) thì có hai điểm cần lưu ý: Một là, tác giả Nắng
mới dùng chữ “me” không có dấu nặng như trong bài viết của Lê Hoài Thao
và cũng không viết hoa như trong sách giáo khoa. Hai là, ở câu: “Tôi nhớ me
tôi, thuở thiếu thời” có dấu phẩy ngăn cách giữa câu thơ, nhưng sách giáo
khoa bỏ sót không in và Lê Hoài Thao đã tinh ý “thử thêm vào”. Bài thơ ấy
như sau:
NẮNG MỚI
Mỗi lần nắng mới hắt bên song,
Xao xác, gà trưa gáy não nùng,
Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng,
Chập chờn sống lại những ngày không.
Tôi nhớ me tôi, thuở thiếu thời
Lúc người còn sống, tôi lên mười;
Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội,
Áo đỏ người đưa trước giậu phơi.
Hình dáng me tôi chửa xoá mờ
Hãy còn mường tượng lúc vào ra:
Nét cười đen nhánh sau tay áo
Trong ánh trưa hè trước giậu thưa.
Tiếng thu, 1939 (Hoài Thanh – Hoài Chân.
Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, 1988).
Trong bài viết công phu của mình, Lê Hoài Thao đã tra cứu nhiều cuốn
từ điển đáng tin cậy và cũng nhận thấy rằng chú giải trong sách giáo khoa đối
với câu thơ đầu, khổ thơ thứ hai: “Thuở thiếu thời: thời còn ở tuổi thiếu niên”
(khoảng từ 10 – 14 tuổi) là đúng theo cách giải nghĩa của từ điển, phù hợp
với, “quan niệm và sự hiểu biết thông thường” về cụm từ này.
Tuy vậy, tác giả bài viết vẫn còn không ít băn khoăn, bởi lẽ nếu đứng
về mặt cú pháp của câu thơ, chú giải như sách giáo khoa rất dễ làm cho “các
em học sinh sẽ hiểu là người mẹ còn ở tuổi thiếu niên”, mà như thế, xét về
ngữ nghĩa sẽ không phù hợp. Cho nên, theo tác giả cần phải hiểu tổ hợp từ
“thuở thiếu thời” một cách khác đi: “Trong trường hợp này, ta đành chấp nhận
“thuở thiếu thời” là thời còn trẻ của người mẹ” như cách hiểu của Trần Trung
trên tạp chí Thế giới mới số 145, ra ngày 8/7/1995. Mặc dù, chính tác giả
cũng cảm thấy hiểu như thế vẫn còn cái gì đó chưa thật ổn: “Viết như vậy,
dùng như vậy theo như bạn Trần Trung lí giải, thì theo tôi, đấy là một trường
hợp đặc biệt, một trường hợp ngoại lệ duy nhất trung văn học hiện đại, chỉ có
Lưu Trọng Lư mới dùng và chỉ dùng có một lần vì nó rất khiên cưỡng”…
Vậy phải hiểu câu thơ trên như thế nào cho đúng? Theo chúng tôi,
vướng mắc chính không phải ở chỗ nên giải thích “thuở thiếu thời” là thời còn
ở tuổi thiếu niên hay thời tuổi còn trẻ mà chính là ở chỗ cần phải xác định
xem “thuở thiếu thời” là của ai: của người mẹ (đối tượng trữ tình) hay của
chính tác giả (chủ thể trữ tình) – Lưu Trọng Lư – trong bài thơ này?
Trở lại câu thơ trên, quả là với nghĩa thời còn ở tuổi thiếu niên, thì
đương nhiên tổ hợp từ “thuở thiếu thời” sẽ không phù hợp với người mẹ (còn
ở tuổi thiếu niên thì sao đã làm mẹ được?!). Nhưng nếu hiểu “thuở thiếu thời”
là thời tuổi còn trẻ, và câu thơ: “Tôi nhớ me tôi, thuở thiếu thời” nghĩa là: tôi
nhớ thời tuổi còn trẻ của mẹ toi, thì cũng vẫn không phù hợp với ngữ cảnh và
nội dung cụ thể của bài thơ. Bởi trước hết, cách hiểu ấy đưa đến một tiền giả
định rằng người mẹ đã có thời tuổi già. Đó là một giả định sai, nó không phù
hợp với trường hợp của tác giả Lưu Trọng Lư trong đời thực (mẹ ông mất
sớm), mà chúng ta biết rằng: “Tiền giả định là những hiểu biết được xem là
bất tất phải bàn cãi (…) đã được các nhân vật giao tiếp mặc nhiên thừa nhận,
dựa vào chúng mà người nói tạo nên ý nghĩa tường minh trong phát ngôn của
mình”, nghĩa là tiền giả định phải có thật. Hơn nữa, xét về mặt tâm lí tình cảm,
khi hồi ức về người mẹ, trong một tình mẫu tử thiêng liêng, thường không
mấy khi có sự phân biệt rạch ròi về tuổi tác; vả lại, có ai trong tâm trí in đậm
thời tuổi trẻ của mẹ mà lại lãng quên hình ảnh của Người lúc chiều tà xế
bóng? Về cấu trúc và ngữ nghĩa của các câu thơ, nếu câu trên nghĩa là: tôi
nhớ thời tuổi còn trẻ của mẹ tôi thì câu dưới: “lúc người còn sống” dường như
là những chữ thừa không cần thiết phải có. Đặt trong chỉnh thể và cấu tứ toàn
vẹn của bài thơ: những kỉ niệm tươi sáng về người mẹ đã khuất gắn liền với
tuổi thơ êm đẹp của tác giả trong quá khứ, ta có thể thấy tổ hợp từ “thuở thiếu
thời” thuộc về nhân vật tôi, chủ thể trữ tình chứ không thể thuộc về người mẹ
– đối tượng trữ tình của tác phẩm. Câu thơ có nghĩa là: Tôi nhớ mẹ tôi, thuở
tôi thiếu thời. Cách hiểu ấy hoàn toàn phù hợp với giọng, lời của tác giả (Lưu
Trọng Lư), đồng thời, với câu thơ tiếp theo, câu dưới cụ thể hoá câu trên,
những hình ảnh của người mẹ được xác định bởi sự gắn liền với tuổi niên
thiếu của tác giả:
Tôi nhớ me tôi, thuở thiếu thời
Lúc người còn sống, tôi lên mười;
Câu trên là một câu thơ có cấu trúc cú pháp mờ, không hiển hiện đủ
các thành phần do lược bỏ chủ ngữ “tôi” trong tổ hợp từ “thuở thiếu thời”. Đây
cũng là một hiện tượng thường gặp, một nét đặc thù của ngôn ngữ thơ ca
“một thứ ngôn ngữ bộc lộ thế giới chủ quan thiên về ấn tượng, cảm xúc, cảm
giác. Những mạch biểu cảm thường đan chéo nhau, chiếm những cấp độ
thiếu quan hệ nội tại trên bề mặt cú pháp. Do vậy, cấu trúc cú pháp câu thơ
thường khó phân tích theo nguyên tắc của ngữ pháp thông thường như trong
văn xuôi”…
Dẫu sao, Nắng mới vẫn là một kỉ niệm thời thơ ấu thật hồn hậu và xúc
động về mẹ. Nó đã khơi dậy được cái phần thẳm sâu tha thiết nhất trong tâm
hồn mỗi con người. Những cách hiểu đây đó đều là sự trăn trở của một tấm
lòng.
11. XIN GIỮ LẠI CHỮ “NỞ” CHO BÀI CA DAO ẤYTrên tạp chí Ngôn ngữ & đời sống, số 30 (4/1998) có đăng bài Hãy trả
lại một từ cho bài ca dao của Nguyễn Bảo. Theo tác giả thì trong bài ca dao
Trèo lên cây bưởi hái hoa được chọn giảng trong Chương trình Văn học lớp
10 phổ thông, chữ nở trong câu ca dao thứ ba: “Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc”
phải đổi lại thành nảy thì mới đúng. Lí do ở chỗ, từ nụ thì phải đi với xanh
biếc: chỉ có “nụ” thì mới “xanh biếc” chứ “nụ” đã nở thành hoa rồi thì còn
“xanh biếc” sao được nữa. Bài viết cũng đã phát hiện được cái tinh tế trong
tâm trạng và cảm nhận của chàng trai trước cảnh ngộ của cô gái: “Nội dung
bài ca dao ẩn chứa ở chỗ này: em như cái nụ tầm xuân, còn xanh biếc, mới
nhú ra ở đầu cành, nách lá, đã có người ngắt, bẻ, đem về làm của riêng. Sao
mà vội vàng, sớm sủa quá thế? Vậy không thể là nở được mà phải là… nảy”.
Tuy nhiên, theo chúng tôi thì văn bản của bài ca dao từ xưa tới nay vẫn
đúng. Mặc dù dị bản có nhiều nhưng cho đến nay trong “13 cuốn sách sưu
tầm ghi chép lời bài ca này” thì dị bản vẫn rơi vào những chữ khác chứ chữ
nở duy nhất trong bài ca vẫn được chép đúng. Điều ấy chắc phải có lí do từ
chính bản thân tác phẩm.
Bài ca là tiếng hát sầu hận, tiếc nuối và xót xa về một cảnh ngộ bất
hạnh, của đôi trai gái yêu nhau mà không lấy được nhau. Dưới hình thức đối
đáp giao duyên quen thuộc của ca dao dân ca, bốn câu đầu có thể coi là lời
của chàng trai còn sáu câu sau là lời đáp của cô gái. Lời chàng trai mở đầu
khúc hát được cất lên bằng thể hứng theo thi pháp quen thuộc của ca dao
truyền thống “lấy cảnh ngụ tình”, nhưng thật ra cái tình cảnh và tâm trạng của
chàng trai đến muộn mới là yếu tố trung tâm, là tâm cảnh chi phối ngoại cảnh.
Từ lòng người đến thiên nhiên đều hiện rõ sự lỡ làng, trễ muộn: nụ đã nở
thành hoa, người yêu đã đi lấy chồng:
Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em đã có chồng anh tiếc lắm thay!
Hoa chưa đến thì, hoa còn đang nụ mà đã phải nở rồi, cũng như em
chưa đến duyên đã phải lấy chồng, khiến chàng trai cảm thấy xót xa nuối tiếc!
Còn nếu nụ tầm xuân mới chỉ nảy ra xanh biếc thôi, thì có gì là đột ngột, bất
ngờ, đáng phải bận tâm? Hơn nữa, “nụ' tức là đã phải nảy ra rồi, không nảy
ra làm sao thành nụ? Nghệ sĩ dân gian chắc hẳn đã không quá “giản dị” đến
như thế!
Nhưng còn màu sắc của hoa tầm xuân sao lại trái với thực tế làm vậy?
Bởi vì ngôn ngữ thơ ca là loại “ngôn ngữ – tín hiệu thẩm mĩ” và “vật quy chiếu
của tín hiệu thẩm mĩ có thể là một cảm xúc”, một tâm trạng cụ thể của chủ thể
trữ tình; do vậy, người đọc không phải bao giờ cũng chỉ tiếp nhận nó theo
ngữ nghĩa và cú pháp thông thường. Cái màu sắc của hoa tầm xuân trong bài
ca dao có vẻ phi lí, bởi lẽ nụ tầm xuân nở ra phải chúm chím ửng hồng. Đằng
này:
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Nhưng đó là cái phi lí hợp với lô gích tình cảm: đấy là màu của hoa nở
ép, hoa còn đương thì nụ, là màu của cảnh ngộ và nỗi lòng của con người,
một môtíp khá phổ biến trong thơ ca viết về những cuộc tình duyên éo le, trắc
trở:
– Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc tím
Em lấy chồng rồi trả yếm cho anh!
- Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc xanh
Yếm em em mặc, yếm gì anh anh đòi!
(Ca dao)
Và “chính cái phi lí này lại nói lên điều hữu lí của tình yêu trong sự trớ
trêu của nó (…). Người nghệ sĩ dân gian đã sử dụng phạm trù “cái phi lí” để
đặc tả tâm trạng thông qua biểu tượng như vậy. Nhưng chính hình ảnh “Nụ
tầm xuân nở ra xanh biếc” ở đây phải chăng còn nói với ta điều này nữa: dù
em đã có chồng, lòng yêu em xưa kia ở trong anh vẫn còn nguyên vẹn (…).
Bông hoa kia dù có phải nở non, nở ép thì cái xanh nguyên, xanh biếc của nụ
hoa vẫn còn đọng mãi trong mắt người đã từng thương nhớ…”.
12. VỀ NHỮNG CÂU HỎI TRONG MỘT BÀI THƠ CỦA NGUYỄN DUY“Biết rồi vẫn hỏi. Thương là thế…”
(Bảo Định Giang)
HỎI THĂM ÁO TÍM
Vừa xa mà đã nghe lâu
Hỏi thăm áo tím qua cầu gió bay
Ớt Đông Ba có còn cay
Gạo de An Cựu dạo này còn thơm
Hỏi thăm hoa phượng bên đường
Sông Hương mấy độ mưa nguồn còn trong
Quán cơm Âm Phủ còn không
Cô gì hôm ấy có chồng hay chưa?
Tôi được đọc lần đầu bài thơ này trên cuốn Lịch thơ Nguyễn Duy năm
2000, tờ tháng Ba và tháng Tư. Nó gây sự chú ý vì toàn bài thơ có tám câu
thì trừ câu đầu tiên, còn bảy câu sau đó đều có hình thức của những câu hỏi,
nhưng phần lớn trong số đó lại đều là các câu hỏi vẩn vơ, hỏi về những
chuyện không thể hỏi hoặc về những chuyện đã biết, những chuyện mà chắc
là muôn đời vẫn vậy. Tôi chắc khi Nguyễn Duy viết những câu hỏi ấy, anh
cũng chẳng băn khoăn thắc mắc gì đâu mà còn đinh ninh rằng “ớt Đông Ba”
vẫn ”còn cay” lắm, “gạo de An Cựu” vẫn thơm, “Sông Hương” vẫn “trong” như
xưa và “quán cơm Âm Phủ” vẫn còn nguyên đấy… Tức là người hỏi không
thực sự muốn biết thông tin về những điều mình đang hỏi. Duy chỉ có câu hỏi
cuối cùng có lẽ may ra mới đúng là cái chuyện người hỏi thực sự đang băn
khoăn muốn biết: “Cô gì hôm ấy có chồng hay chưa?”.
Trong ngữ pháp truyền thống thì câu hỏi cuối cùng trên đây được gọi là
câu hỏi chính danh hay là câu nghi vấn đích thực, dùng để nêu lên cái điều
mình còn chưa được biết hoặc còn hoài nghi và chờ đợi sự trả lời. Các câu
hỏi khác còn lại ở trong bài đều có thể được coi là dạng câu hỏi (hoặc câu
nghi vấn) tu từ học. Đó là cách dùng hình thức nghi vấn để nói về những điều
đã biết, hoặc về những điều không cần sự trả lời, chủ yếu nhằm thu hút sự
quan tâm của người cùng tham gia đối thoại. Ngữ dụng học gọi cách dùng
câu hỏi mà không yêu cầu, mong muốn một sự trả lời tương ứng là dạng
hành vi ở lời gián tiếp (hay phái sinh). Loại câu hỏi này được dùng trong
trường hợp khi người nói sử dụng hành vi ngôn ngữ này nhưng lại nhằm đạt
đến hiệu lực ở lời của một hành vi ngôn ngữ khác. Trong tiếng Việt, thường
thấy cách dùng câu hỏi để đạt đến hiệu quả của các hành vi ở lời gián tiếp
như chào, khẳng định, phủ định, xin, mời, ra lệnh, mong muốn… Trước
những câu hỏi như vậy, người hỏi không chờ đợi sự trả lời mà chờ đợi một
hành động chào lại, xác nhận, bác bỏ, đồng ý hoặc tuân theo… Còn người
được hỏi cũng không cảm thấy lạ trước những điều được nêu ra trong nội
dung câu hỏi, bởi anh ta đã sẵn sàng hướng tới hành động đáp ứng ý định
của người hỏi chứ không hướng tới sự trả lời như đối với các câu hỏi chính
danh thông thường.
Tuy nhiên, trong các tác phẩm văn học, nhất là trong tác phẩm thơ ca
thì sự phân biệt nói trên không phải bao giờ cũng có thể rành mạch. Chẳng
hạn, trong bài thơ Hỏi thăm áo tím của Nguyễn Duy trên đây, nếu xét kĩ thì cả
cái câu hỏi cuối cùng trên đây hoá ra cũng chỉ là chuyện vẩn vơ nốt, bởi ngay
đến đối tượng của câu hỏi cũng là cái người tận đẩu tận đâu, chứ nào có
quen biết gì (cô gì hôm ấy), nên cái chuyện cháy lòng, cháy dạ kia (có chồng
hay chưa) thật ra cũng chỉ là chuyện vơ vào, là nỗi lòng vơ vẩn của một kẻ đa
tình. Bài thơ diễn tả một tâm trạng, một “giây phút chạnh lòng”: đôi khi, có
những cuộc gặp gỡ thoáng qua, nhưng “người đâu gặp gỡ làm chi” khiến ta
cứ bâng khuâng, thấy lâu, thấy nhớ: “Vừa xa mà đã nghe lâu”. Song cũng vì
chỉ là cái chuyện vu vơ tận đẩu tận đâu ấy nên cứ phải vòng vo mãi, hỏi thăm
bao nhiêu thứ không đâu rồi mới dám chạm đến cái điều cốt yếu, đáng quan
tâm nhất của lòng mình: “Cô gì hôm ấy có chồng hay chưa?”. Vậy thì câu hỏi
này là câu nghi vấn đích thực hay lại cũng chỉ là một biện pháp tu từ? Kể
cũng khó mà trả lời cho thật chính xác được…
Cảm ơn nhà thơ đã cho ta một bài thơ hay và một ví dụ sinh động về
sự hoạt động của ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương.
13. TÌNH HUỐNG, GIỌNG KỂ VÀ NHỮNG SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT ĐỘC ĐÁO TRONG TRUYỆN NGẮN “VI HÀNH”
Truyện ngắn Vi hành được đăng trên báo Nhân đạo, cơ quan ngôn luận
của Đảng Cộng sản Pháp, số ra ngày 19 tháng 2 năm 1923, đúng vào dịp
thực dân Pháp mở cuộc triển lãm thuộc địa Mác–xây, chuẩn bị cho công cuộc
khai thác thuộc địa lần thứ hai. Trong cuộc triển lãm lần này, để thu hút đầu
tư, thực dân Pháp ra sức tuyên truyền về tiềm năng và sự “an toàn” của các
xứ thuộc địa. Và để lừa gạt dân Pháp, chúng đưa tên vua bù nhìn Khải Định
sang dự đấu xảo như là sự đại diện cho các dân tộc thuộc địa đã chính thức
quỳ gối đầu hàng, thần phục chính quốc. Hướng vào đối tượng độc giả là
công chúng Pháp, tác phẩm nhằm đồng thời vào mấy cái đích: vừa vạch trần
âm mưu, thủ đoạn chính trị xảo trá của thực dân Pháp, vừa lật tẩy bộ mặt
phản dân hại nước của Khải Định trên đất Pháp. Tác giả muốn nói với họ
rằng, Khải Định chẳng qua cũng chỉ là một tên vua bù nhìn làm tay sai cho
bọn cướp nước; bởi vì, trong lúc y và các quan thầy thực dân đang diễn trò ở
đây thì đám dân chúng của y vẫn nghèo xác xơ và đang rên xiết vì thực chất
họ chỉ được bọn thực dân “bảo hộ” và “khai hoá” bằng rượu cồn, thuốc phiện
cùng với roi vọt mà thôi…
Hoàn cảnh đánh địch ngay giữa thủ đô của nước Pháp, trước một công
chúng ưa những chuyện hài hước, dí dỏm thì ngoài việc viết bằng tiếng Pháp,
tác phẩm còn phải có những sáng tạo về nghệ thuật. Đầu tiên là sự sáng tạo
trong cách đặt tên truyện với hàm ý giễu cợt, châm biếm nhẹ nhàng nhưng
tác dụng đả kích thì thật sâu cay. Vi hành là một cụm từ gốc Hán dùng để chỉ
những cuộc đi cải trang kín đáo của các bậc vua chúa tiến bộ trong lịch sử,
mục đích nhằm thấy được hiện thực đời sống và dư luận của dân chúng để
từ đó điều chỉnh chính sách cai trị có lợi cho quốc kế, dân sinh. Ví như
chuyện vua Thuấn cải trang làm dân cày đi cày ruộng cùng với nông dân, vua
Pi–e đại đế giả làm công nhân vào lao động trong các công xưởng nước Anh
v.v… Nhưng ở đây, Nguyễn Ái Quốc đã dùng chữ “vi hành” với ý nghĩa hoàn
toàn ngược lại để gọi những cuộc đi lén lút chỉ nhằm thoả mãn lạc thú cá
nhân của Khải Định trong chuyến thăm Pháp. Tên truyện đã gây cho người
đọc tiếng cười châm biếm bởi sự liên tưởng tự nhiên giữa những ý nghĩa tốt
đẹp vốn có của từ này với những hành vi xấu xa, không xứng đáng mà cũng
được gọi là vi hành của Khải Định trên đất Pháp.
Độc đáo hơn là sự sáng tạo tình huống và lựa chọn giọng kể trong
truyện. Truyện ngắn mượn hình thức một bức thư của nhân vật “tôi” (tác giả)
gửi cho cô em họ kể về một tình huống nhầm lẫn lộn tùng phèo. Trên chuyến
xe điện ngầm ở thủ đô Pa–ri, đôi trai gái trẻ yêu nhau người Pháp tưởng tác
giả là Khải Định và họ đinh ninh rằng cái “anh vua” An Nam này không hiểu gì
về tiếng Pháp nên cứ thoải mái bàn tán: “Hắn đấy! Chính hắn đấy!”, “Em thì
em thấy hắn khác cơ”, “Chẳng phải vẫn cái mũi tẹt ấy, vẫn cái mắt xếch và
nước da bủng như vỏ chanh ấy à?” v.v… Trong thời gian đó, công chúng ở
khắp thủ đô Pa–ri cũng đều nhầm thế cả, họ tưởng những người da vàng mà
họ gặp trên đường phố, hay ở những nơi công cộng đều là vị hoàng đế của
cái đất nước thuộc địa bản xứ xa lạ “đang đi chơi vi hành”. Đến nỗi ngay cả
Chính phủ Pháp cũng không thể nhận ra đâu là vị khách thật của mình nên,
để khỏi thất thố trong nghi lễ ngoại giao, Chính phủ bèn đối đãi với tất cả mọi
người An Nam trên đất Pháp “vào hàng vua chúa và phái tuỳ tùng đi hộ giá
tuốt!”. Thật ra thì đấy là bọn mật thám được phái đi theo dõi những người Việt
Nam yêu nước, song nó lại có vẻ rất hợp lô gích với cái sự nhầm lẫn bi hài
trên đây, nên tác giả vẫn có thể kể lại với cô em họ của mình một cách “xúc
động”: “Đó là những người phục vụ thầm kín, rụt rè, vô tư và hết sức tận tuỵ.
Các vị chẳng nề hà chút công sức nào để bảo vệ bọn tôi, và giá cô được
trông thấy các vị ân cần theo dõi tôi chẳng khác nào bà mẹ hiền rình đứa con
thơ chập chúng bước đi thứ nhất, thì hẳn cô phải phát ghen lên được về nỗi
niềm âu yếm của các vị đối với tôi”… Như vậy, nhờ mượn hình thức một bức
thư viết cho người thân và “bịa” ra tình huống nhầm lẫn, tác giả đã khéo léo
đặt nhân vật “tôi – người kể chuyện” vào một điểm nhìn hoàn toàn khách
quan, điểm nhìn của một người bỗng nhiên được tai nghe mắt thấy sự đánh
giá của công chúng Pháp đối vôi một ông vua An Nam trong chuyến công du
“mẫu quốc” rất đáng xấu hổ của y. Điểm nhìn đó cũng giúp tác giả dễ tạo ra
giọng kể đa thanh, phức điệu, đan xen giữa quan sát miêu tả và bình luận
bằng chất giọng hài hước, dí dỏm khá độc đáo, gây được sự chú ý và sức
thuyết phục đối với người đọc.
Thông qua những lời nhận xét, bình phẩm về Khải Định của đôi trai gái
người Pháp mà nhân vật “tôi – người chứng kiến” trực tiếp nghe được, hình
ảnh Khải Định vốn đã lố bịch lại càng thêm phần lố bịch và vốn đã thảm hại lại
càng thảm hại hơn. Lố hịch vì lối ăn mặc và bộ dạng của một ông vua phong
kiến vốn đã chẳng hợp chút nào với xã hội hiện đại trên đất Pa–ri hoa lệ thì
trong con mắt của người Pháp, hình dong dung mạo của ông ta lại càng trở
nên xấu xí, lố bịch, tức cười hơn: “mũi tẹt”, ”mắt xếch” và màu da vàng trở
nên “bủng như vỏ chanh”, thái độ thì “lén lút”, ăn mặc thì quỷnh, khoác lên
người “đủ cả lụa là gấm vóc, ngón tay đeo đầy những nhẫn”, lại có cả “cái
chụp đèn” chụp lên đầu, trông rất chướng (thực ra đó là cái vương miện của
nhà vua)?! Người Pháp cũng cảm thấy thật tức cười với sự lố bịch của “đám
thê thiếp đông đúc” và “tụi các ông quan bà kiếc” đi theo tuỳ tòng Khải Định
diễu trên các đường phố… Còn thảm hại vì Khải Định chẳng qua cũng chỉ là
một ông vua bù nhìn, là kẻ nô lệ mất nước mà trong con mắt của người Pháp,
y lại càng trở nên thảm hại hơn, giống như một “con vật lạ”, chỉ đáng làm trò
giải trí rẻ tiền cho đám công chúng ở một xứ sở vốn ưa thích những chuyện
hài hước, trong khi cái kho giải trí ở đây thì đã cạn ráo như nhà băng Đông
Dương rồi! Vì thế nên đám công chúng Pháp ở thủ đô cứ nghĩ mình đã được
xem một trò hề mà không phải trả tiền: ”Thế em còn nhớ buổi dạ hội thuộc địa
ở nhà hát ca vũ đấy chứ? Phải trả những nghìn rưởi phrăng để xem vợ lẽ
nàng hầu vua Cao Miên, xem tụi làm trò leo trèo nhào lộn của sư thánh xứ
Công–gô; hôm nay chúng mình có mất tí tiền nào đâu mà được xem vua ngay
bên cạnh? Nghe nói ông bầu Nhà hát múa rối có định kí giao kèo thuê đấy…”.
Tất cả những lời nhận xét, bình phẩm ấy được đặt vào miệng hai thanh niên
người Pháp nên đã giữ được thái độ khách quan của người kể chuyện, do đó
cũng đồng thời làm tăng sức thuyết phục đối với người đọc. Bởi đây là công
chúng Pháp nhìn và đánh giá một ông vua An Nam rẻ mạt, thảm hại đến như
vậy chứ không phải là Nguyễn Ái Quốc cố tình bôi nhọ tên vua bù nhìn.
Những lời nhận xét, bình phẩm ấy nếu đặt vào miệng tác giả – một người Việt
Nam – thì sẽ không tránh khỏi là những lời thoá mạ, hằn học thiếu tự nhiên,
song đặt vào miệng người Pháp thì lại hết sức thoải mái, hợp lí; vì họ là
người Pháp…, hơn nữa, vua chúa đối với họ đã thành một thứ đồ cổ quá lỗi
thời rồi.
Việc thể hiện truyện ngắn này dưới dạng một bức thư gửi cho cô em họ
cũng có thể coi như một sáng tạo nghệ thuật. Bởi lối văn phóng túng, vốn
không bị ràng buộc vào bất kì một quy định chặt chẽ nào về văn phạm của thể
loại thư từ cho người thân cũng đã giúp cho tác giả có thể dễ dàng đổi từ
giọng thuật chuyện sang giọng châm biếm hay trữ tình thân thiết, có thể tự do
chuyển cảnh để cốt truyện biến hoá một cách linh hoạt. Trong khi kể chuyện,
nhà văn có thể thoải mái liên hệ, tạt ngang, sử dụng hồi ức, chuyển từ chuyện
nọ sang chuyện kia một cách khá thoải mái, tự nhiên. Chẳng hạn, đang kể
chuyện bị nhầm lẫn trên chuyến xe điện ngầm ở thủ đô Pa–ri, tác giả liên hệ
tới chuyện vi hành của các bậc vua chúa tiến bộ ngày xưa ở bên Tàu, bên
Tây nhằm châm biếm những cuộc đi kín đáo rất đáng xấu hổ của Khải Định
trên đất Pháp: “Tàu đỗ, cặp trai gái bước xuống, mắt cứ liếc nhìn trộm tôi, và
tôi thì buồn cười quá, bỗng đâm ra nghĩ, và nghĩ đến cô Tôi như còn trông
thấy cái ngày mà cô với tôi, đôi chúng ta, như đôi chim ấy thôi, đậu vắt vẻo
trên đầu gối ông bác thân yêu, nghe bác kể chuyện cổ tích. Tôi nhớ chuyện
vua Thuấn (…). Lại nhớ chuyện vua Pi–e (…). Bên những bậc cải trang vĩ đại
ấy muốn đi sâu vào cuộc sống của nhân dân, ngày nay, còn có những ông
hoàng, ông chúa, để tiện việc riêng và vì những lí do không cao thượng bằng,
cũng vi hành đấy”. Rồi thoắt cái, lại chuyển sang châm biếm chính sách bảo
hộ và khai hoá dân thuộc địa bản xứ bằng rượu cồn và thuốc phiện: “Tôi
không được rõ ý đồ nhà “vi hành” của chúng ta ra sao. Phải chăng là ngài
muốn biết dân Pháp, dưới quyền ngự trị của bạn ngài là A–lếch–xăng đệ
nhất, có được sung sướng, có được uống nhiều rượu và được hút nhiều
thuốc phiện bằng dân Nam, dưới quyền ngự trị của ngài hay không? Phải
chăng ngài muốn (…) sau cuộc ngao du, đem về chút no ấm mà đám “dân”
bất hạnh của ngài tới nay hoàn toàn chẳng biết đến? Hay là, chán cảnh làm
một ông vua to, bây giờ ngài lại muốn nếm thử cuộc đời của các cậu công tử
bé?”. Hoặc vạch trần thủ đoạn ngầm theo dõi những người Việt Nam yêu
nước của bọn mật thám Pháp: “Có thể nói là các vị bám lấy đế giày tôi, dính
chặt với tôi như hình với bóng. Và thật tình là các vị cuống cuồng cả lên nếu
mất hút tôi chỉ trong năm phút! Cô thử nghĩ, làm sao mà không xúc động sâu
xa được, khi được đối đãi như thế?”. Tất cả những “tiện ích” ấy đều được thể
hiện bằng giọng điệu tâm tình của thư từ nên hiệu quả châm biếm lại càng
sâu cay. Tóm lại, lối viết thư được sử dụng sáng tạo cùng với ngòi bút biến
hoá linh hoạt, tài hoa đã khiến cho tác giả, trong khuôn khổ một truyện ngắn
rất ngắn, chỉ chừng hơn hai trang sách, đã cùng một lúc nói được nhiều
chuyện, châm biếm, đả kích được nhiều đối tượng, từ nhiều phía, bằng nhiều
giọng điệu khác nhau, tạo được sức hấp dẫn, lôi cuốn lớn đối với người đọc.
Có thể coi Vi hành là tác phẩm đánh địch rất trúng và rất hiểm, như một
mẫu mực về sự kết hợp nhuần nhuyễn, hài hoà giữa nghệ thuật và chính trị
trong một tác phẩm văn chương. Truyện cũng rất tiêu biểu cho phong cách
nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh: ngắn gọn, hiện đại,
hiệu quả và hết sức sâu sắc, thâm thuý.
14. BÚT PHÁP CHÍNH LUẬN MẪU MỰC TRONG “TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP”
Tuyên ngôn độc lập được Chủ tịch Hồ Chí Minh tự tay soạn thảo và
tuyên đọc tại Lễ mừng Quốc khánh đầu tiên, ngày 2 tháng 9 năm 1945, tuyên
bố chấm dứt chế độ thực dân phong kiến ở nước ta và mở ra kỉ nguyên độc
lập, tự do của dân tộc, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Nội dung tư tưởng chính của bản Tuyên ngôn là nêu cao khát vọng độc
lập cháy bỏng của toàn dân tộc, khẳng định quyền độc lập chân chính, xứng
đáng của dân tộc ta, khẳng định ý chí sắt đá của toàn dân ta quyết tâm bảo
vệ vững chắc nền tự do độc lập ấy.
Tư tưởng chủ đề nói trên đã được làm nổi bật bằng một bút pháp chính
luận mẫu mực: hệ thống lí lẽ sắc bén, đanh thép; sự lập luận chặt chẽ; chứng
cứ xác thực, không thể bác bẻ được; văn phong ngắn gọn, súc tích, hùng
hồn, có sức thuyết phục mạnh mẽ đối với người đọc.
Phân tích Tuyên ngôn độc lập, điều cốt yếu nhất là phải nêu bật được
nghệ thuật lập luận thể hiện tư duy chính luận mạch lạc, chặt chẽ, nhãn quan
chính trị sắc bén và sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của dân tộc và
tình hình chính trị thế giới lúc đó đối với nền độc lập của nước nhà. Từ mạch
ngầm tư tưởng – nghệ thuật của tác phẩm, có thể thấy bố cục của bản Tuyên
ngôn bao gồm những luận điểm chính như sau:
Luận điểm 1: Cơ sở nền độc lập của Việt Nam là những quyền lợi cơ
bản của con người và quyền độc lập, tự quyết của các dân tộc.
Luận điểm 2: Nền độc lập của Việt Nam được khẳng định đồng thời
trên hai phương diện cơ bản nhất: phường diện đạo lí và phương diện pháp
lí.
Luận điểm 3: Chính nghĩa sáng ngời của Cách mạng tháng Tám, cuộc
đấu tranh giành độc lập của nhân dân Việt Nam.
Luận điểm 4: Tuyên ngôn về nền độc lập của Việt Nam.
Những quyền lợi cơ bản của con người: Nguyên lí tư tưởng, cơ sở nền độc lập của nhân dân Việt Nam
Với mọi văn bản chính luận, dù kiểu dạng có khác nhau đến mấy thì
phần mở đầu cũng đều thực hiện một chức năng chung, đó là nêu lên những
căn cứ làm nguyên lí tư tưởng, cơ sở cho sự lập luận – cơ sở cho vấn đề
được bàn luận đến trong tác phẩm. Lần giở lại những áng văn bất hủ của cha
ông, những bản tuyên ngôn về nền độc lập dân tộc trong suốt quá trình lịch
sử hào hùng bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước càng cho thấy tầm quan
trọng to lớn của những nguyên lí tư tưởng đã được đề cập. Với bài thơ Thần
thời Lí Thường Kiệt thì đó là vấn đề chủ quyền thiêng liêng đối với toàn bộ
non sông, toàn bộ bờ cõi, lãnh thổ của đất nước:
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời…
Đến Bình Ngô đại cáo, nguyên lí tư tưởng đó đã được mở rộng đến
trình độ rất sâu sắc và toàn diện; bởi vì cùng với chủ quyền lãnh thổ, Nguyễn
Trãi còn đề cập đến các vấn đề như nhân nghĩa (mà nhân nghĩa với Nguyễn
Trãi là yên dân, trừ bạo), văn hiến và lịch sử…
Trong phần mở đầu bản Tuyên ngôn về nền độc lập của dân tộc Việt
Nam, nguyên lí tư tưởng làm cơ sở cho sự lập luận được Chủ tịch Hồ Chí
Minh nêu lên trước hết là những quyền lợi cơ bản và thiêng liêng nhất của
con người. Bằng cách dẫn ra những lời văn bất hủ ghi trong bản Tuyên ngôn
độc lập của nước Mĩ năm 1776: Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình
đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong
những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc và trong bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng
Pháp năm 1791: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải
luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi, tác giả đã chỉ rõ những
quyền lợi cơ bản và thiêng liêng nhất của con người đó là quyền bất khả xâm
phạm và quyền bình đẳng, tự do trong việc mưu cầu sung sướng, hạnh phúc.
Điều quan trọng hơn là, từ quyền lợi của con người, Hồ Chủ tịch đã phát
triển, nâng lên thành quyền độc lập, tự quyết của các dân tộc. Đó là một sự
suy luận hết sức sáng tạo, nhạy bén và hoàn toàn hợp lí. Người viết tiếp: Suy
rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình
đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Tác dụng lập luận và sức thuyết phục mạnh mẽ của những lời trích dẫn này
trước hết bởi đó là những chân lí của lịch sử, đã được cả thế giới thừa nhận.
Như chính tác giả cho thấy, đó là “những lời bất hủ”, là “những lẽ phải không
ai chối cãi được” và đã được ghi trong những văn kiện nổi tiếng của nhân
loại.
Nhưng ý nghĩa của hai lời dẫn mở đầu bản Tuyên ngôn không chỉ có
vậy. Đặt vào hoàn cảnh lịch sử đặc biệt thời điểm bản Tuyên ngôn ra đời,
những lời trích dẫn nói trên còn có tác dụng đập lại luận điệu xảo trá của bọn
đế quốc đang lăm le xâm lược nước ta lúc ấy, theo kiểu “gậy ông đập lưng
ông”. Như mọi người đều biết, cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 vừa
mới giành thắng lợi chưa được bao lâu thì dân tộc ta lại đứng trước hoạ ngoại
xâm. Theo hiệp ước của các nước thắng trận, dưới danh nghĩa là quân Đồng
minh vào tước khí giới của phát xít Nhật, ở phía Bắc nước ta, 20 vạn quân
Tưởng, theo sau là đế quốc Mĩ đã kéo vào Hải Phòng, còn ở miền Nam, núp
sau lưng quân Anh là quân đội viễn chinh Pháp. Tại Hội nghị Đảng toàn quốc
trong Tổng khởi nghĩa (ngày 15/ 8/ 1945), Hồ Chủ tịch đã nhận định: Mâu
thuẫn giữa Anh, Pháp, Mĩ với Liên Xô có thể làm cho Anh, Mĩ nhân nhượng
với Pháp để cho Pháp quay trở lại Đông Dương. Thực tế tình hình đã diễn ra
đúng như vậy và để chuẩn bị cho âm mưu xâm lược mới này, thực dân Pháp
tuyên bố: Đông Dương, trong đó có Việt Nam vốn là thuộc địa của Pháp
nhưng bị phát xít Nhật chiếm, nay Nhật đã đầu hàng Đồng minh nên Pháp có
quyền lấy lại Việt Nam. Ra đời trong hoàn cảnh ấy, bản Tuyên ngôn không chỉ
hướng tới quốc dân đồng bào mà còn hướng tới nhân dân thế giới, đặc biệt là
hướng vào bọn đế quốc lúc đó nhằm bác bỏ luận điệu xâm lược xảo trá của
chúng. Mà bác bỏ luận điệu xâm lược của kẻ thù thì còn gì đích đáng và thú
vị hơn là dùng ngay lí lẽ của chính tổ tiên họ nói về quyền tự do bình đẳng
của mỗi con người và quyền độc lập tự quyết của các dân tộc!
Bác bỏ lí lẽ của kẻ xâm lược cũng đồng thời là nhằm khẳng định quyền
tự do, độc lập chính đáng của dân tộc ta. Việc trích dẫn những nguyên lí về
quyền bình đẳng của con người để làm cơ sở lập luận như vậy còn là một
cách nói vừa khéo léo vừa kiên quyết. Khéo léo vì nó thể hiện sự tôn trọng
chân lí, tôn trọng lẽ phải của dân tộc ta, cho dù chân lí và lẽ phải ấy do chính
người Mĩ hay người Pháp phát biểu. Kiên quyết vì đã nhắc nhở họ đừng phản
bội lại những lí tưởng cao cả của Cách mạng Dân tộc dân chủ, đừng làm vấy
bẩn lá cờ nhân đạo và chính nghĩa nếu họ vẫn quyết tâm xâm lược Việt Nam.
Việc mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam mà nhắc đến hai
bản tuyên ngôn nổi tiếng của hai cuộc cách mạng vĩ đại trong lịch sử nhân
loại như thế thì cũng có nghĩa là đặt ba bản tuyên ngôn ngang hàng nhau, ba
cuộc cách mạng và ba nền độc lập ngang hàng nhau. Mà đăng đối, bình
đẳng, ngang hàng nhau cũng phải bởi cuộc cách mạng tháng Tám của ta
cũng giải quyết chính những nhiệm vụ dân tộc dân chủ và nhân đạo của hai
cuộc cách mạng ấy, phù hợp với lí tưởng cao cả và chính nghĩa của loài
người. Một cách kín đáo hơn, việc đưa hai lời dẫn trong bản Tuyên ngôn độc
lập như vậy còn có tác dụng ngầm gợi lên niềm tự hào dân tộc theo cách của
tác giả Bình Ngô đại cáo khi xưa đã làm: đặt các triều đại của nước ta với các
triều đại của Bắc quốc trong hai vế cân xứng, ngang hàng, đăng đối nhau khi
mở đầu bài Cáo.
Khẳng định nền độc lập của Việt Nam trên cả phương diện: pháp lí và đạo lí
Vì kẻ thù trực tiếp, nguy hiểm nhất đang đe doạ nền độc lập non trẻ mà
dân tộc ta vừa mới giành được là thực dân Pháp nên cần phải tập trung chĩa
mũi nhọn vào chúng. Sau khi trích dẫn những nguyên lí làm cơ sở cho sự lập
luận, bản Tuyên ngôn tiếp tục xoáy vào việc bác bỏ luận điệu xâm lược của
thực dân Pháp. Trong luận điệu đó, thực dân Pháp đã viện dẫn những căn cứ
pháp lí (Việt Nam là thuộc địa của Pháp - mà cơ sở pháp lí của nó là các Hiệp
ước cắt đất đầu hàng do triều đình nhà Nguyễn đã kí với chính phủ Pháp) và
cả căn cứ đạo lí (Pháp có công khai hoá, bảo hộ Việt Nam – nghĩa là về đạo lí
và nhân tình, nhân dân ta phải mang ơn chúng!?…) cho sự quay trở lại Đông
Dương của chúng. Nhưng bằng những lí lẽ sắc sảo, chặt chẽ, bằng những
dẫn chứng thực tế hùng hồn, đầy sức thuyết phục, tác giả bản Tuyên ngôn đã
chứng minh cho cả thế giới biết rằng, thực tế lịch sử cho thấy, thực dân Pháp
không hề có quan hệ đạo lí – nhân tình hay quan hệ pháp lí nào đối với nhân
dân Việt Nam. Không có quan hệ đạo lí, nhân tình bởi chúng là kẻ xâm lược
phi nghĩa. Trong suốt hơn 80 năm qua, dưới chiêu bài “bảo hộ” và “khai hoá”
nhưng thực chất chúng đã đến cướp nước ta, áp bức đồng bào ta, nô dịch
dân ta bằng một chính sách đô hộ trái đạo lí và dã man nhất. Chúng thủ tiêu
quyền tự do dân chủ của nhân dân ta, chia nước ta thành ba miền Bắc,
Trung, Nam để dễ bề cai trị. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể
máu. Chúng thi hành chính sách ngu dân, đầu độc nòi giống ta bằng rượu và
thuốc phiện. Chúng vơ vét, bóc lột dân ta đến tận xương tuỷ khiến cho hơn
hai triệu đồng bào miền Bắc bị chết đói. Đoạn văn vạch tội ác của giặc Pháp
lời lẽ rào rào, ràn rạt, có thể sánh với đoạn kể tội ác của bọn xâm lược
Nguyên – Mông trong áng “thiên cổ hùng văn” của Nguyễn Trãi khi xưa, khiến
cho âm mưu kể công của thực dân Pháp bị lật tẩy, không còn ai có thể tin vào
cái trò bảo hộ, khai hoá giả hiệu của chúng nữa. Không còn quan hệ pháp lí vì
từ năm 1940, Pháp đã hai lần dâng nước ta cho phát xít Nhật (bằng các văn
bản pháp lí mà Pháp đã kí để đầu hàng phát xít Nhật), cho nên, cả về văn bản
pháp lí lẫn trên thực tế, Việt Nam đã không còn là thuộc địa của Pháp nữa và
dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp. Đó
là những sự thật lịch sử đầy sức thuyết phục; hơn nữa, đấy lại là những sự
thật về chính nghĩa của nhân dân ta nên nó có sức mạnh, một sức mạnh còn
cao hơn cả mọi thuật hùng biện. Vì thế, trong bản Tuyên ngôn, Hồ Chủ tịch
luôn nhắc đi nhắc lại hai chữ “sự thật”, “sự thật là”… và cuối cùng là một sự
thật hùng hồn nhất: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự
thật đã thành một nước tự do, độc lập. Trên cơ sở những chứng cứ và lí lẽ
đó, bản Tuyên ngôn đi đến lời tuyên bố thật dõng dạc, đường hoàng: Bởi thế
cho nên, chúng tôi, Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho
toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát li hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xoá bỏ
hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước Việt Nam, xoá bỏ tất cả mọi đặc
quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam. Lô gích lập luận và dẫn dắt đến
được kết luận như thế quả thật là vô cùng chặt chẽ, sắc bén; đồng thời cũng
hết sức hợp lí và sáng tạo trong bối cảnh tình hình chính trị nhạy cảm của thế
giới và Đông Dương lúc đó. Đương nhiên, lập luận và tuyên bố được như thế
cũng hoàn toàn không phải là chuyện dễ dàng, nếu không dựa trên những
chứng cứ lịch sử xác thực, được dư luận và công pháp quốc tế thừa nhận.
Nêu cao chính nghĩa sáng ngời của Cách mạng tháng Tám – cuộc đấu tranh chống phát xít giành độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam
Đồng thời với việc bác bỏ lí lẽ của kẻ thù và khẳng định quyền tự do,
độc lập chính đáng của dân tộc ta, bản Tuyên ngôn còn nêu rõ chính nghĩa
sáng ngời của cuộc Cách mạng tháng Tám và vị trí tiên phong của nhân dân
Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, giải phóng dân
tộc. Vẫn bằng những lí lẽ sắc sảo, chặt chẽ và súc tích, những dẫn chứng
thực tế xác thực, hùng hồn, Hồ Chủ tịch vạch rõ, kể từ khi phát xít Nhật nhảy
vào Đông Dương, trong khi thực dân Pháp là kẻ phản bội Đồng minh, đầu
hàng phát xít Nhật thì nhân dân Việt Nam đã luôn dũng cảm đứng về phía
Đồng minh chống phát xít và cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 chính là
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc có chính nghĩa ngời sáng. Nhân dân ta đã
giành được độc lập từ chính trong sự nghiệp đấu tranh anh dũng đó: Trước
ngày 9 tháng 3, biết bao lần Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để
chống Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng, lại thẳng tay khủng bố
Việt Minh hơn nữa… Vậy là, giữa Việt Nam và thực dân Pháp, ai có chính
nghĩa, ai trung thành với Đồng minh chống phát xít, ai phản bội lại Đồng minh
tưởng đã quá rõ. Từ đó, bản Tuyên ngôn có thể đi đến sự khẳng định đầy tính
thuyết phục về quyền làm chủ chân chính của nhân dân Việt Nam đối với toàn
bộ non sông đất nước của mình, khẳng định vị trí xứng đáng của dân tộc Việt
Nam trên trường quốc tế, làm cho bọn đế quốc phải cứng họng. Bởi lẽ, các
nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các
hội nghị Tê–hê–răng và Cựu Kim Sơn quyết không thể không công nhận
quyền độc lập của dân Việt Nam. Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của
Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh
chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải
được độc lập! Đó cũng đồng thời vừa là cơ sở pháp lí vừa là chính nghĩa
sáng ngời về nền độc lập của việt Nam trong cuộc Cách mạng tháng Tám
năm 1945 mà chính bọn đế quốc cũng phải thừa nhận. Do vậy mà sau này,
khi muốn treo một chiêu bài hòng xâm lược nước ta, chúng đành chỉ còn một
cách là già mồm vu khống chứ không thể tìm ra được một luận cứ ra trò, dù
chỉ là hình thức.
Tuyên ngôn về nền độc lập của Việt Nam
Nội dung của lời tuyên ngôn là tuyên bố về nền độc lập của Việt Nam
và nêu rõ ý chí sắt đá của toàn thể nhân dân Việt Nam quyết tâm bảo vệ, gìn
giữ nền độc lập mới giành được: Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ Lâm
thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, trịnh trọng tuyên bố với thế giới
rằng: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập (…). Toàn thể dân tộc
Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để
giữ vững quyền tự do, độc lập ấy. Với cách diễn đạt rõ ràng, đanh thép, lời
tuyên ngôn đã thâu tóm được tinh thần, tư tưởng và khát vọng độc lập cháy
bỏng của nhân dân ta thể hiện trong toàn bộ tác phẩm.
Tuyên ngôn độc lập quả là một tác phẩm không những có giá trị lịch sử
vô cùng to lớn mà còn có thể coi là một áng thiên cổ hùng văn trong nền văn
học nước nhà. Nét độc đáo và hấp dẫn của bản Tuyên ngôn không chỉ ở hệ
thống lập luận chặt chẽ, sắc sảo, ở những lí lẽ đanh thép và những chứng cớ
xác thực, hùng hồn, không ai bác bẻ được mà còn ở chỗ, đằng sau nó là tầm
tư tưởng vĩ đại của một trí tuệ lớn và một nhân cách văn hoá lớn có thể đúc
kết một cách ngắn gọn mà sâu sắc, khúc chiết về chân lí và kinh nghiệm đấu
tranh của nhân loại bao nhiêu thế kỉ đối với nền độc lập tự do của nước nhà
trong cuộc Cách mạng tháng Tám…
15. BÀN THÊM VỀ BẢN DỊCH VÀ MỘT SỐ TỪ NGỮ CHƯA THỐNG NHẤT CÁCH HIỂU TRONG BÀI THƠ “GIẢI ĐI SỚM” CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
Giải đi sớm (Tảo giải) là chùm thơ gồm hai bài đứng chung một đầu đề
(bài số 42 và 43), lấy đề tài trực tiếp từ chuyện chuyển lao của Bác. Bài I tả
cảnh chuyển lao từ lúc còn trong đêm khuya, Bài II tả cảnh chuyển lao đã ở
vào lúc bình minh lên. Nhưng giữa hai bài có sự liên hệ bên trong rất chặt
chẽ, tạo thành một tứ thơ trọn vẹn. Chính vì thế cũng có thể coi đó như hai
khổ của một bài thơ hoàn chỉnh.
GIẢI ĐI SỚM
(Tảo giải)
Phiên âm:
I
Nhất thứ kê đề dạ vị lan,
Quần tinh ủng nguyệt thướng thu san;
Chinh nhân dĩ tại chính đồ thượng,
Nghênh diện thu phong trận trận hàn.
II
Đông phương bạch sắc dĩ thành hồng,
U ám tàn dư tảo nhất không;
Noãn khí bao la toàn vũ trụ,
Hành nhân thi hứng hốt gia nồng.
Dịch nghĩa:
I
Gà gáy lần thứ nhất, đêm chưa tàn,
Chòm sao nâng vầng trăng lên đỉnh núi mùa thu;
Người đi xa đã cất bước trên đường xa,
Gió thu táp mặt từng cơn, từng cơn lạnh lẽo.
II
Phương đông màu trắng chuyển thành hồng,
Bóng đêm còn rơi rớt đã sớm sạch hết;
Hơi ấm bao la khắp vũ trụ,
Người đi thi hứng bỗng thêm nồng.
Dịch thơ:
I
Gà gáy một lần đêm chửa tan,
Chòm sao nâng nguyệt vượt lên ngàn;
Người đi cất bước trên đường thẳm,
Rát mặt, đêm thu, trận gió hàn.
II
Phương đông màu trắng chuyển sang hồng,
Bóng tối đêm tàn, sớm sạch không;
Hơi ấm bao la trùm vũ trụ,
Người đi, thi hứng bỗng thêm nồng.
Nam Trân dịch (SGK Văn học 12, NXB GD, 2001)
Bài thơ được chọn giảng trong chương trình lớp 12 Trung học phổ
thông nên đã quen thuộc với nhiều người. Cho đến nay, về cơ bản cách hiểu
đã khá thống nhất. Mặc dầu vậy, vẫn còn nhiều từ ngữ, chi tiết chưa được
khai thác đúng mức, chưa được hiểu một cách sát đúng với tinh thần nguyên
tác, hoặc vẫn còn là điểm gây tranh luận kép dài. Xem ra, bài thơ vẫn còn
dành cho người đọc những ẩn số bất ngờ, thú vị.
Ở đây chúng tôi xin góp thêm đôi điều cảm nhận được rút ra từ quá
trình suy ngẫm và giảng dạy đã nhiều năm đối với một số từ ngữ trong bài thơ
trên của Bác. Đây là những từ ngữ mà bản dịch cũng như cách hiểu phổ biến
hiện còn khác nhau khá xa. Trước hết, ở câu thứ 3, khổ I: “Chinh nhân dĩ tại
chinh đồ thượng” (Người đi cất bước trên đường thẳm) là câu thơ có những
chữ còn tồn tại nhiều cách hiểu thiếu thống nhất hơn cả. Các chữ “dĩ tại” mà
dịch là “cất bước” thì dễ đưa đến cách hiểu là Bác bị giải đi vào lúc gà mới
gáy lần thứ nhất. Hiểu như thế rõ ràng là chưa thật sát đúng với ý thơ trong
nguyên tác. “Dĩ tại” là đã đang ở tại, cũng có nghĩa là Bác Hồ đã bị giải đi từ
lúc trời còn rất sớm, khi gà chưa gáy lần nào và lúc gà gáy lần thứ nhất thì
Bác đã đang ở trên đường rồi. Vì đang ở trên đường nên tai mới nghe thấy
gà gáy lần thứ nhất, mắt mới nhìn thấy trăng sao hiện lên trên đỉnh núi mùa
thu. Như vậy, câu thơ trong nguyên tác một mặt làm rõ thêm hoàn cảnh và
thời điểm Bác Hồ bị giải đi từ lúc trời hãy còn rất sớm được gợi ra ở hai câu
thơ đầu. Hai chữ “chinh nhân” và “chinh đồ” cũng chưa thể làm người đọc yên
lòng vì tinh thần của lời dịch còn rất xa với tinh thần nguyên tác. “Chinh nhân”
mà dịch là “người đi” vừa không sát nghĩa vừa “đánh đồng chinh nhân ở khổ I
với hành nhân ở khổ II, đồng thời làm mất đi sự chuyển biến từ chinh nhân ở
khổ I đến hành nhân ở khổ II”. “Chinh đồ” mà dịch là “đường thẳm” cũng vậy,
vừa không chính xác lại vừa làm cho câu thơ đuối hẳn, mất đi cái khí vị hào
hứng lãng mạn vốn có của câu thơ. “Chinh nhân” có thể hiểu là người đi
chinh chiến, người ra trận hoặc là người đi đường trường, con người trường
chinh dạn dày sương gió. Còn “chinh đồ” nghĩa là con đường xa, con đường
trường chinh xa xôi, dài dặc: Ngữ nghĩa của “chinh nhân” và “chinh đồ” phối
hợp với cách điệp âm của hai chữ chinh trong cùng một dòng thơ đã tạo cho
câu thơ có âm hưởng trầm hùng và khí vị hào hứng, lãng mạn rất đặc biệt. Có
lẽ vì thế mà nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Đăng Mạnh cũng cho rằng “lẽ
ra, câu thơ cần phải dịch là: Người đi xa đã đang ở trên đường xa”. Nó gợi ra
hình ảnh một khách chinh phu, một con người đang dấn bước trên con
đường trường chinh phong trần, dầu dãi và đầy hào hứng chứ không phải chỉ
là một người đi đường bình thường, lại càng không phải là một tù nhân đang
bị áp giải trên đường.
Ở câu thơ thứ tư: “Nghênh diện thu phong trận trận hàn” (Rát mặt đêm
thu trận gió hàn) có chữ “nghênh diện”, theo nhà nghiên cứu Nguyễn Cảnh
Phức “đã làm cho nhiều độc giả Việt Nam khó hiểu hoặc hiểu nhầm trong gần
40 năm nay”. Chữ này từng được hiểu là: Mặt ngẩng đón từng trận gió thu
lạnh thổi tới, thể hiện tư thế hiên ngang làm chủ thiên nhiên, bất chấp giá rét
của Hồ Chí Minh. Cách hiểu phổ biến một thời ấy đã bị phê phán nhiều bởi nó
trái với lẽ thường là “một người bình thường khi gặp gió rét, theo phản xạ tự
nhiên cũng biết cúi xuống tránh rét…”. Câu thơ có thể được hiểu một cách
hiện thực, trực tiếp, phù hợp với hệ thống của toàn bài, phù hợp với tư thế,
hành động của chủ thể ở các câu thơ trước đó: “Muốn nhìn trăng sao, đỉnh
núi mùa thu thì mặt phải ngẩng lên. Như vậy “nghênh diện” là ngẩng mặt (…).
Nhưng ngẩng mặt không phải là hiên ngang bất chấp với giá rét, thiên nhiên”.
Chữ “nghênh diện” cũng có một cách hiểu khác nữa. Theo ông Nguyễn Cảnh
Phức thì “đối với người Trung Quốc, từ nghênh diện là một từ phổ biến, thông
thường. Từ điển Quốc ngữ của Trung Quốc giải nghĩa nghênh diện là đối diện
(…) và câu thơ “nghênh diện thu phong trận trận hàn” có lẽ nên dịch là Trước
mặt gió thu rét thổi tràn thì hơn”. Như vậy, dầu thế nào đi nữa thì tư thế ung
dung chủ động trước mọi nghịch cảnh của chủ thể trữ tình cũng chủ yếu
được gợi ra từ âm hưởng, hào khí và phong vị của chinh nhân lên đường thể
hiện trong cả khổ I bài thơ chứ nhất quyết không nằm ở bản thân ngữ nghĩa
của hai chữ “nghênh diện” nói trên. Cảnh đi đầy ở khổ I được miêu tả giống
như những cảnh đi sớm đường trường thường gặp trong Đường thi. Nếu tạm
quên đi cái nhan đề Giải đi sớm thì rõ ràng đây là một hành khúc lên đường.
Chúng tôi cho rằng, bản dịch hiện nay đối với khổ I là chưa thật tốt,
mặc dầu chúng tôi vẫn biết rằng, đòi hỏi một bản dịch hoàn toàn tương
đương với nguyên tác là một điều không tưởng. Còn ở bản dịch khổ II thì đã
bỏ qua những chữ khá quan trọng. Cả khổ thơ truyền đạt một sự chuyển vận,
thay đổi hết sức mau lẹ cả về thời gian lẫn không gian, tạo ra một ấn tượng
bừng sáng đột ngột rất đặc biệt. Các chữ “chuyển”, chữ “quét”, chữ “trùm” của
bản dịch chưa lột tả được ấn tượng bừng sáng đột ngột đó trong nguyên tác.
Ở câu 1: “Phương đông màu trắng chuyển sang hồng”, các chữ “chuyển
sang” diễn tả một hiện tượng, một quá trình đang diễn ra và có thể quan sát
được. Còn trong nguyên tác sử dụng chữ “dĩ thành” (bạch sắc dĩ thành hồng)
nghĩa là: màu trắng đã thành màu hồng, cũng tức là quá trình chuyển sang
kia đã diễn ra từ trước, khi người đi đường để ý đến thì đã thấy tất cả thành
màu hồng rồi, không còn thấy màu trắng đâu nữa. Ở câu 2: “U ám tàn dư tảo
nhất không”, trước đây bản dịch đã bỏ mất chữ tảo có nghĩa là sớm và thay
bằng chữ quét (Bóng tối đêm tàn quét sạch không). “Quét sạch” là một cụm
động từ chỉ quá trình, cũng giống như “chuyển sang” ở câu 1 vậy. Dĩ nhiên,
chỗ này cũng có lí do riêng. Nguyên là trong các bản in Nhật kí trong tù kể từ
năm 1960, những nhà soạn sách đã cố ý thay chữ tảo có nghĩa là sớm của
Bác thành chữ tảo đồng âm có nghĩa là quét (có lẽ là để cho có khí thế hơn
chăng?!). Mãi đến năm 1995, trong cuốn Suy nghĩ mới về Nhật ký trong tù,
“chữ “tảo” có nghĩa là sớm của Bác mới được trả về đúng với vị trí như trong
nguyên tác của nó”. Theo chúng tôi, chữ “tảo” (sớm) này phải được coi là
nhãn tự. Câu thơ cho thấy tâm trạng bất ngờ khi Bác bỗng nhận ra mọi u ám,
tàn dư của đêm tối đã nhất loạt sạch không tự lúc nào, chắc là từ lúc còn rất
sớm mà người đi đường chẳng hề hay biết. Còn ở câu thứ ba phải dịch là:
“Noãn khí bao la toàn vũ trụ “bởi chữ “toàn” có nghĩa là tất cả, là toàn bộ, từ
trên chí dưới, từ trong ra ngoài, khác hẳn với chữ “trùm” là bao phủ, bao trùm
từ trên xuống. Một chữ (toàn) cho thấy tất cả vũ trụ, hơi ấm đã hoàn toàn thay
thế lạnh lẽo, còn chữ kia (trùm) lại diễn tả sự thay thế ấy đang diễn ra. Thật là
khác nhau nhiều lắm!
Và có lẽ, trước khung cảnh đất trời đang chuyển vận mau lẹ cùng với
ấn tượng bừng sáng đột ngột đã khiến cho thi hứng của “hành nhân” bỗng trở
nên nồng nàn: “Người đi thi hứng bỗng thêm nồng”.
Nhân đây, chúng tôi cũng xin đề xuất một cách dịch mới cho bài thơ
Tảo giải của Bác như sau:
GIẢI ĐI SỚM
(Tảo giải)
I
Gà gáy một lần đêm chửa tan
Chòm sao nâng nguyệt vượt lên ngàn
Chinh nhân dấn bước đường chinh chiến
Trước mặt gió thú rét thổi tràng.
II
Phương đông màu trắng đã thành hồng
Bóng tối đêm tàn sớm sạch không
Hơi ấm bao la toàn vũ trụ
Người đi thi hứng bỗng thêm nồng.
Đúng như nhà nghiên cứu văn học Trần Đình Sử đã nhận xét, đại ý:
Bài thơ nhan đề là Giải đi sớm mà toàn bài hầu như chỉ thấy nới tới thiên
nhiên, cảm hứng lên đường và cảm hứng bình minh lên mà bỏ qua cái
chuyện bị áp giải tù đày hiện thực. Sự tương phản giữa thực tế khổ ải và tự
do nội tâm một lần nữa khẳng định tâm hồn mạnh mẽ, phóng khoáng, tư thế
ung dung chủ động trước mọi nghịch cảnh của nhà thơ Hồ Chí Minh, người
luôn nhìn đời từ phía tươi sáng, lạc quan.
16. GIỌNG KỂ, NGHỆ THUẬT DỰNG CHÂN DUNG NHÂN VẬT VÀ Ý NGHĨA “VẤN ĐỀ ĐÔI MẮT” TRONG TRUYỆN NGẮN CÙNG TÊN CỦA NAM CAO
Đôi mắt là một truyện ngắn xuất sắc của Nam Cao sau Cách mạng
tháng Tám. Truyện được viết đầu năm 1948, một thời điểm mà vấn đề “nhận
đường” đang đặt ra khá gay gắt cho giới trí thức, văn nghệ sĩ hồi đó. “Nhận
đường” là một khái niệm hết sức quan trọng cần phải được làm rõ khi cảm
thụ, phân tích tác phẩm. Đó là vấn đề nhận thức và lựa chọn con đường đúng
đắn của người nghệ sĩ trí thức trước thực tiễn sự nghiệp kháng chiến cứu
nước của dân tộc; mà muốn nhận chân con đường đó, trước hết cần phải có
cách nhìn đúng về quần chúng cách mạng, phải có thái độ đúng trước cuộc
sống. Như thế, việc chọn nhan đề Đôi mắt (lúc đầu, nhà văn định lấy lời của
nhân vật ở cuối truyện để đặt tên cho tác phẩm là Tiên sư thằng Tào Tháo)
cũng không phải là việc ngẫu nhiên mà chính là một dụng ý nghệ thuật, có sự
chọn lựa, cân nhắc kĩ bởi tên truyện cũng góp phần bộc lộ tư tưởng chủ đề
tác phẩm.
Tất cả những điều trên đây khiến cho tác phẩm có dáng dấp của một
thể loại tiểu thuyết luận đề. Cốt truyện cũng khá đơn giản, chỉ xoay quanh một
buổi thăm viếng, trò chuyện giữa hai người bạn văn chương: Độ đến thăm
Hoàng, một bạn văn từ thời tiền khởi nghĩa tại một vùng quê sơ tán với ý định
vận động Hoàng tham gia phong trào văn hoá kháng chiến. Tuy được vợ
chồng bạn đón tiếp nhiệt tình nhưng qua một buổi trò chuyện, Độ thấy Hoàng
vẫn giữ cách nhìn người, nhìn đời lạc hậu, cũ kĩ nên anh đành bỏ ý định ban
đầu của mình. Câu chuyện nhỏ nhưng mang chủ đề lớn. Mượn biểu tượng
đôi mắt để nói lên cách nhìn nhận về cuộc đời, mà cụ thể ở đây là cách nhìn
nhận về con người kháng chiến và cuộc kháng chiến của dân tộc, xét cho
cùng, “vấn đề đôi mắt” cũng chính là vấn đề cách nhìn, vấn đề quan điểm lập
trường và thái độ của người nghệ sĩ khi cầm bút.
Bên cạnh thế đối lập, tương phản giữa hai nhân vật – đôi mắt – là Độ
và Hoàng, nét độc đáo trong nghệ thuật dựng chân dung nhân vật của truyện
ngắn này chính là giọng kể: việc nhà văn nhập thân vào nhân vật, mượn
giọng kể của Độ, dưới cái vai “tôi - người chứng kiến đã đem đến cho ngôn
ngữ tác phẩm một cấu trúc đa thanh, đa giọng với những thế mạnh riêng,
buộc nhân vật phải tự bộc lộ đến tận cùng con người bên trong của mình.
Nhờ vậy, nhân vật hiện lên hết sức sinh động, chân thực chứ không hề chỉ là
cái loa phát ngôn cho những vấn đề tư tưởng mà nhà văn định thể hiện. Tính
ưu trội trong giọng kể của Độ còn nằm ở các điều kiện sử dụng ý nghĩa tiền
giả định ngữ dụng của đại từ xưng hô “tôi”: tôi vốn là bạn thân cũ của Hoàng,
đã quen thuộc cả từ giọng nói cho đến nết ăn, ở, sở thích, cá tính của anh; vì
thế, những gì tôi kể về Hoàng là hoàn toàn có thể tin cậy được; gặp lại anh,
chỉ tôi mới có thể dễ dàng cảm nhận chính xác được về con người thật của
Hoàng bây giờ thế nào sau mấy năm xa cách…
“Vào vai” một người bạn thân quen với Hoàng từ trước như thế cũng
giúp cho Nam Cao có thể sử dụng lối miêu tả nhân vật theo kiểu đối chiếu,
bằng cách kết hợp sự quan sát, miêu tả trực tiếp đan xen với những hồi
tưởng của Độ về Hoàng. Ngay từ lúc mở đầu truyện, theo lời chỉ dẫn của một
anh thanh niên làng, đứng trước ngôi nhà trọ nơi Hoàng tản cư, Độ đã thật sự
ngạc nhiên khi nghe nói anh vẫn nuôi một con chó béc–giê to và dữ; bởi vì,
điều đó gợi cho Độ nhớ ngay đến con chó lai giống Đức của Hoàng hồi anh
còn làm chủ bút một toà báo ở Hà Nội, trước Cách mạng tháng Tám: “Tôi mở
to đôi mắt, khẽ reo lên một tiếng thú vị. Tôi nhớ những lần đến chơi nhà anh
Hoàng ở Hà Nội. Bấm chuông xong, bao giờ tôi cũng phải chờ anh Hoàng
thân hành ra nắm chặt cái vòng da ở cổ một con chó tây to bằng con bê, dúi
đầu nó vào gầm cái cầu thang rồi tôi mới có đủ can đảm bước vội qua đằng
sau cái đuôi nó để vào phòng khách. (…) Thế mà bây giờ đến thăm anh
Hoàng ở chỗ gia đình anh tản cư về, cách Hà Nội hàng trăm cây số, tôi lại
được nghe đến một con chó dữ. Thật là thú vị!… “. Trên cái trục thời gian đối
chiếu giữa hiện tại với quá khứ như vậy, từ dáng điệu, cử chỉ, ngôn ngữ cho
đến những tính cách, thói quen sinh hoạt của Hoàng cứ lần lượt được hiện ra
theo dòng hồi tưởng và những quan sát, cảm nhận trực tiếp của Độ. Hoàng
có dáng dấp của người no đủ, nhàn hạ và phong lưu. Cái ngoại hình ấy được
Nam Cao diễn tả bằng những câu văn đặc sắc, có pha chút hài hước nhưng
vẫn giàu sức tạo hình: “Anh Hoàng đi ra. Anh vẫn bước khệnh khạng, thong
thả bởi vì người khí to béo quá, vừa bước vừa bơi cánh tay kềnh kệnh ra hai
bên, những khối thịt ở bên dưới nách kềnh ra, trông tủn ngủn như ngắn
quá…”. Có nghĩa là Hoàng vẫn chẳng khác gì ngày trước, mà hình như bây
giời nhàn hạ, anh lại càng có điều kiện chăm chút, tỉa tót cho bản thân mình
nhiều hơn; bởi vì, Độ đã kịp nhận thấy trên ria mép của Hoàng có thêm “một
cái vành móng ngựa ria, như một cái bàn chải nhỏ”. Cả đến hành động, Cử
chỉ, ngôn ngữ, giọng điệu của Hoàng cũng vẫn hệt như xưa. Gặp Độ quá bất
ngờ, Hoàng rất mừng nhưng vẫn giữ thái độ kẻ cả, có phần trịch thượng của
một văn sĩ đàn anh như trước đây: “Anh đứng lại bên trong cổng, một bàn tay
múp míp hơi chìa về phía tôi, đầu hơi ngửa về đằng sau, miệng hé mở, bộ
điệu một người ngạc nhiên hay mừng rỡ quá. (…) Sững người ra một lúc rồi
anh mới lâm li kêu lên những tiếng ở trong cổ họng”. Rồi những tính cách
khác người, khác giới của Hoàng cũng thế. Ngày trước, anh là một nhà văn
nhưng đồng thời cũng là một tay chợ đen tài tình thì bây giờ, mặc dầu phải đi
chạy tản cư nhưng anh vẫn lo cho mình được một ngôi nhà khang trang,
tươm tất, vẫn giữ những nếp sinh hoạt rất cầu kì: chè đậm, thuốc thơm, ăn
mía ướp hoa bưởi, nằm màn tuyn trắng toát và thảnh thơi đọc truyện “Tam
quốc” mỗi buổi tối. Hoàng lại còn có cái tính hay đố kị, chơi với bạn rồi bỗng
nhiên quay ra đá bạn đột ngột nếu thấy bạn có cái gì đó nổi trội hơn mình.
Bây giờ, cái nhân cách đó của anh cũng vẫn chẳng hề thay đổi, thấy các nhà
văn viết bài ca ngợi kháng chiến là anh nổi đoá lên, có lẽ chỉ vì bây giờ anh
chẳng thể viết nổi một chữ nào cả v.v… Nhờ sự liên tưởng giữa hiện tại với
quá khứ, Nam Cao đã làm hiển hiện thật sống động trước mắt người đọc
chân dung về một văn sĩ Hoàng không hề thay đổi giữa ngày xưa với bây giờ:
trước báo nhiêu biến cố lớn lao cả thời cuộc, nhưng anh ta vẫn “chưa chịu
đổi, chưa chịu lột xác”, vẫn “hoàn toàn là con người cũ”, hay vẫn cứ y hệt như
cũ trong một hoàn cảnh đã hoàn toàn khác cũ…
Trong cách nhìn người (nhất là nhìn người nông dân) và cách nhìn đời
(cụ thể là sự nghiệp kháng chiến cứu nước của dân tộc), Nam Cao cho ta
thấy Hoàng là con người chỉ nhìn thấy được một phía của sự thật, tức là rất
phiến diện, lệch lạc, một chiều chứ không phải là kẻ cố ý nói sai sự thật hay
cố tình bôi nhọ, vu cáo người nông dân. Điều đáng tiếc là, ở cái phía sự thật
mà Hoàng nhìn thấy lại chỉ toàn là những gì còn non kém, bất cập, còn ấu trĩ,
lạc hậu của người nông dân chứ không phải tinh thần hăng hái, dũng cảm,
nhiệt tình cách mạng và “sức mạnh quần chúng” nơi họ. Tai hại hơn, Hoàng
lại là một nhà văn, một nhà văn đàn anh trong văn giới nên cái nhìn của anh
ta khá sắc sảo và tinh tế. Có điều, chỉ sắc sảo, tinh tế ở một phía thôi, cho
nên sự lệch lạc, phiến diện của Hoàng lại càng thêm nổi bật. Bằng con mắt
nghệ sĩ sắc sảo của mình, Hoàng có thể phát hiện rất nhanh các chi tiết thể
hiện cái phần chưa được hoàn thiện hay những tật xấu của người nông dân,
biết diễn tả thật sống động những điều mình thấy và biết làm nổi bật những
suy nghĩ, nhận xét của mình bằng những câu chuyện ý vị, sắc sảo và rất có
ấn tượng. Hãy nghe Hoàng kể chuyện một anh vốn bán cháo lòng ở đầu phố,
nơi anh ở, sau Cách mạng thành công, ra làm Chủ tịch phường: “Bán cháo
lòng thì nó biết đánh tiết canh, chứ biết làm uỷ ban thế nào mà bắt nó làm uỷ
ban? Ông Chủ tịch làng này, xem giấy của nhà tôi, thấy đề Nguyễn Thục
Hiền, cứ nhất định bảo là giấy mượn của đàn ông. Theo ông ấy thì đàn bà ai
cũng cứ phải thị này thị nọ”. Từ anh bán cháo lòng ra làm Chủ tịch phường
mà liên hệ đến cách làm việc theo cái kiểu “đánh tiết canh” của ông nông dân
làm Chủ tịch Uỷ ban nơi anh đang sơ tán một cách tự nhiên, sinh động như
thế thì quả người bình thường ít có ai làm được… Do đó, trong câu chuyện,
nhiều lúc thậm chí Độ còn phụ hoạ với Hoàng về những hiện tượng tương tự
của người nông dân như nói ngọng, nhút nhát, nhịn nhục một cách đáng
thương v.v… Những điều trên đây khiến cho tính tư tưởng của các nhân vật
trong Đôi mắt càng thêm sâu sắc. Hoàng đúng là hiện thân sinh động cho
mẫu trí thức cũ kĩ, lạc hậu lúc đó với lối sống kiêu ngạo, ích kỉ, xa rời quần
chúng, xa rời thực tiễn cuộc sống kháng chiến của dân tộc. Bằng con mắt
phiến diện, lệch lạc, vốn “đã quen nhìn đời, nhìn người từ một phía thôi”,
Hoàng đã quan sát, tìm hiểu rất kĩ đối tượng nhưng chỉ từ một phía; và cái tài
biết kể chuyện rất sinh động, hài hước của một văn sĩ có tài như anh cũng chỉ
dùng để hài hước, châm chọc hay lố bịch hoá những gì mà mình không ưa.
Cho nên, những kẻ như anh chỉ nhìn thấy được cái phía tiêu cực, cái non
kém bề ngoài mà không thể nào thấy được cái “nguyên cớ thật đẹp đẽ ở bên
trong” là nhiệt tình cách mạng và “sức mạnh làm nên lịch sử” của những con
người kháng chiến.
Đôi mắt được coi là tuyên ngôn nghệ thuật khẳng định tư tưởng và lập
trường cách mạng, khẳng định cái nhìn tích cực của văn nghệ sĩ kháng chiến
về vai trò của quần chúng nhân dân và về sự nghiệp kháng chiến cứu nước vĩ
đại của dân tộc. Khái niệm “vấn đề đôi mắt” cũng còn cần phải được đánh giá
ở những khía cạnh ý nghĩa sâu sắc hơn, bởi tác phẩm là một dấu mốc quan
trọng thể hiện bước chuyển biến mạnh mẽ có tính chất đột biến của Nam Cao
trong vấn đề sống và viết, cụ thể là vấn đề cách nhìn đối với quần chúng nhân
dân và cảm hứng nghệ thuật. Không phải đợi đến Đôi mắt, vấn đề cách nhìn
đối với người dân quê thực chất đã từng được Nam Cao đặt ra ngay trong
những tác phẩm viết về họ từ hồi trước Cách mạng tháng Tám với những Dì
Hảo, Chí Phèo, Lão Hạc, Nước mắt… Trong những tác phẩm đó, Nam Cao
đã chỉ ra rằng, để hiểu được cái tình cảnh đáng thương của người nông dân,
để thấy được cái bản tính tốt thường bị che lấp đi bởi những nỗi buồn đau,
ích kỉ của cuộc đời họ, thì cần phải có lòng thương yêu và sự cảm thông. Câu
nói của F. Copée được lấy làm lời đề từ cho truyện ngắn Nước mắt đã thể
hiện rõ tư tưởng đó của Nam Cao: “Người ta chỉ xấu xa, hư hỏng trước đôi
mắt ráo hoảnh của phường ích kỉ. Và nước mắt là một miếng kính biến hình
vũ trụ…”. Nước mắt ấy chính là biểu hiện của tình yêu và sự cảm thông. Ý đó
cũng đã từng được ông phát biểu một cách trực tiếp trong truyện ngắn Lão
Hạc: “Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu
họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi…, toàn những
cớ để cho ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thấy họ là những người đáng
thương, không bao giờ ta thương (…) Cái bản tính tốt của người ta bị những
nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất”. Nhưng nếu như trước Cách mạng,
Nam Cao mới chỉ thấy cần phải có lòng thương và sự cảm thông để có thể
cảm nhận được bản tính lương thiện của những người nông dân, thì nay, sau
Cách mạng tháng Tám năm 1945 và trong cuộc kháng chiến cứu nước, Nam
Cao đã có một sự giác ngộ mới về họ. Ông thật sự ngạc nhiên trước bản chất
khoẻ khoắn, tinh thần cách mạng hăng hái và sức mạnh tiềm tàng có thể làm
nên lịch sử của họ. Và theo Nam Cao, muốn nhìn thấy được điều đó thì cần
phải biết hoà nhập, sống cùng với họ, tứ là tham gia tích cực vào sự nghiệp
kháng chiến của dân tộc mà chính họ là lực lượng nòng cốt, càng không thể
giữ thái độ miệt thị, bàng quan, đứng ngoài cuộc rồi ra sức chửi đổng như
hạng văn sĩ Hoàng. Bằng cái nhìn sâu sắc về quần chúng và kháng chiến như
vậy, Đôi mắt cũng đặt ra và giải đáp dứt khoát, rõ ràng vấn đề tập trường tư
tưởng và cảm hứng sáng tác của người nghệ sĩ lúc ấy trước cuộc kháng
chiến và sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Đó là, văn nghệ sĩ yêu nước phải
thay đổi cách nhìn cũ kĩ, không còn phù hợp với thời cuộc, phải đứng hẳn về
phía kháng chiến, sát cánh cùng nhân dân, ra sức phục vụ cuộc kháng chiến.
17. NGÔN NGỮ, BỐ CỤC VÀ NHỮNG CUNG BẬC NỖI NHỚ TRONG “TÂY TIẾN” CỦA QUANG DŨNG
Tây Tiến – bài thơ viết về nỗi nhớ đơn vị cũ của một người lính Tây Tiến
Tây Tiến là nhan đề bài thơ nhưng trước hết là phiên hiệu của một
Trung đoàn Vệ quốc quân (Trung đoàn 52), được thành lập hồi đầu năm 1947
trong kháng chiến chống Pháp. Thành phần chủ yếu của đơn vị là những
thanh niên trí thức Hà Nội mà Quang Dũng, tác giả bài thơ, một Đại đội
trưởng của Trung đoàn, cũng là một trong số đó. Những con người rất giàu
chất lãng mạn, tài hoa ấy đầu quân trong không khí hăm hở đầy khí thế của
những ngày đầu kháng chiến, trong tâm hồn còn náo nức bao hình ảnh thanh
gươm yên ngựa, tráng sĩ xông pha trận mạc, gửi thây nơi sa trường… mà họ
đã được tiếp thu từ trong trang sách khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Địa
bàn hoạt động của đơn vị là vùng rừng núi rộng lớn và rất hiểm trở suốt miền
Tây Bắc Tổ quốc cho đến tận miền thượng Lào xa xôi. Quang Dũng viết bài
thơ vào tháng 5 năm 1948, khi anh mới xa đơn vị một thời gian. Bài thơ lúc
đầu có tựa đề Nhớ Tây Tiến, nhưng sau chữ “nhớ” được bỏ đi, có lẽ vì cảm
hứng bao trùm, xuyên suốt toàn bài thơ chính là nỗi nhớ về một thời Tây Tiến
gian khổ, hào hùng…
Thể hiện nỗi nhớ trong lòng người xa Tây Tiến, bài thơ tự nó chia làm
bốn đoạn (ba đoạn chính và một đoạn kết). Đó là một bố cục tự nhiên, tuân
theo dòng mạch cảm xúc gắn liền với những hồi ức và kỉ niệm sâu sắc trong
lòng người chiến sĩ về Trung đoàn Tây Tiến năm xưa:
Đoạn 1: Nhớ những kỉ niệm Tây Tiến dọc đường hành quân qua miền
núi rừng mênh mông, hiểm trở Tây Bắc (14 câu đầu).
Đoạn 2: Nhớ những kỉ niệm lãng mạn nhất trong cuộc đời hành quân
chiến đấu của người chiến sĩ Tây Tiến (8 câu tiếp).
Đoạn 3: Nhớ kỉ niệm về những người lính Tây Tiến, đồng đội thân yêu
của nhà thơ (8 câu tiếp theo).
Đoạn 4: Khẳng định lại nỗi nhớ Tây Tiến (4 câu cuối).
Nỗi nhớ “chơi vơi” da diết về một miền đất dữ dội, mênh mang
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Hai câu thơ mở đầu như một tiếng gọi tha thiết tự nhiên được thốt ra tự
trong lòng người chiến sĩ. “Nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ chập chờn, đứt nối nhưng
day dứt khôn nguôi. Cách diễn đạt hơi lạ nhưng hoàn toàn hợp lí, tự nhiên,
bởi vì “Tây Tiến” với “Sông Mã” và “rừng núi” tuy là ba đối tượng khác hẳn
nhau, nhưng trong thực tế lại có liên quan mật thiết với nhau; đặc biệt là trong
tâm thức của một người lính Tây Tiến thì dường như chúng đã hoà vào nhau
làm một, nên xa Sông Mã cũng tức là xa Tây Tiến, nhớ Tây Tiến mà rừng núi
cứ ùa về… Tất cả đã trở thành một nỗi nhớ chung trong lòng người xa đơn vị.
Nỗi nhớ ấy đưa cảm xúc của nhà thơ trôi về miền hoài niệm chiến trường xưa
với hình ảnh của núi rừng trong sương giăng và đoàn quân trập trùng, ẩn
hiện:
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Hai câu thơ tạo được không khí rất đặc biệt, vừa thiêng liêng huyền bí
lại vừa khơi gợi một khí vị lãng mạn. Các địa danh Sài Khao, Mường Lát gợi
cảm giác về một vùng đất còn xa ngái, hoang sơ. Nhưng cách diễn đạt độc
đáo của Quang Dũng còn tạo được một âm hưởng lạ, một khí vị rất khó tả:
“sương lấp đoàn quân mỏi”, “hoa về trong đêm hơi”. Nhiều ý kiến đều cho
rằng, nếu bỏ đi các chữ “mỏi”, “hơi” để trở về cách diễn đạt thông thường
“sương lấp đoàn quân” và “hoa (trôi) về trong đêm” thì câu thơ chỉ còn lại sự
tả thực trần trụi, không còn đâu cái nét lãng mạn và gợi cảm của núi rừng Tây
Bắc qua hình ảnh những gương mặt của đoàn quân dãi dầu, phong trần mỏi
mệt ẩn hiện trong màn sương giăng và thấp thoáng những cánh hoa trôi về
trong đêm hơi. Theo những nẻo đường in dấu chân hành quân của người lính
Tây Tiến, thiên nhiên Tây Bắc dữ dội, hiểm trở nhưng cũng rất mênh mang,
tình tứ:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Đoạn thơ sử dụng nhiều từ ngữ, hình ảnh diễn tả địa hình cheo leo,
quanh co, hiểm trở với độ chính xác đến trần trụi: dốc, cồn, khúc khuỷu, thăm
thẳm, ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống…, xen lẫn với giọng điệu hóm
hỉnh, tinh nghịch của lính: “súng ngửi trời”. Đặc biệt, cách lặp lại hai lần các
chữ “dốc” và “ngàn thước” trong cùng một dòng thơ đã tạo được cảm giác về
sự trùng điệp, hiểm trở: đã “dốc” lại thêm “dốc”, đã “ngàn thước lên cao” rồi lại
“ngàn thước xuống”…, khiến cho khung cảnh thiên nhiên dữ dội của miền Tây
Bắc hiện lên rất sinh động, cụ thể, gây ấn tượng mạnh cho người đọc. Nghệ
thuật tương phản cũng được sử dụng khá thành công ở đoạn thơ này. Có khi
tương phản ở trong một dòng thơ: Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
với dấu phẩy ngắt nhịp ở giữa, khiến câu thơ bị bẻ đôi, diễn tả rất đạt sự
chênh vênh, cheo leo của đèo và dốc giữa lưng chừng núi. Sự tương phản
còn được tạo ra trong một đoạn thơ: sau ba câu thơ diễn tả sự hiểm trở,
chênh vênh, heo hút của những dốc núi, đèo mây, câu thơ thứ tư gồm toàn
thanh bằng mở ra một không gian mênh mang, huyền ảo của núi rừng:”Nhà ai
Pha Luông mưa xa khơi”. Có thể hình dung cảnh những người lính Tây Tiến
hành quân nơi lừng chừng núi, tạm dừng chân và phóng tầm mắt ra xa, chợt
nhận thấy những ngôi nhà ai đó thấp thoáng, chơi vơi, bồng bềnh ẩn hiện
trong một không gian mênh mang, mịt mùng sương rừng, mưa núi. Qua nét
vẽ tài hoa của Quang Dũng, thiên nhiên Tây Bắc trong kí ức của người chiến
sĩ không chỉ có sự dữ dội, khắc nghiệt mà còn có cả những nét duyên dáng,
mộng mơ, đằm thắm. Sau ba câu thơ với những nét vẽ gân guốc, đậm và sắc
thì câu thơ toàn thanh bằng này giống như một nét vẽ mềm mại, làm dịu mát
cả khổ thơ. Đây chính là nét đặc sắc riêng của Tây Tiến, bởi nó không đưa trí
tưởng tượng của người đọc về một vùng đất dữ “ma thiêng nước độc” mà chỉ
gợi những xúc cảm lãng mạn, hùng tráng về bước trường chinh đầy thử
thách của dân tộc trong kháng chiến.
Cảm quan lãng mạn cũng in dấu trong kí ức của Quang Dũng hình ảnh
đẹp đẽ về những chặng đường hành quân của người chiến sĩ Tây Tiến:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục bên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Sau này, tác giả kể lại, chính những tháng ngày hành quân gian khổ
bằng đôi chân, những chuyến mở rừng, ngủ rừng, thực sự nếm trải “mùi Tây
Tiến” đã khiến những kỉ niệm mà Quang Dũng hồi tưởng trong bài thơ là hoàn
toàn thực tế, không hề tô vẽ: “Những cái dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây,
súng ngửi trời, những chiều oai linh thác gầm thét, những đêm Mường Hịch
cọp trêu người; rồi rải rác dọc biên cương những nấm mồ viễn xứ… tôi mô tả
trong bài thơ Tây Tiến là rất thực, có pha chút âm hưởng Nhớ rừng của Thế
Lữ, nhưng mà vô tình, sau này tôi mới nhận ra…”.
Đoạn thơ kết thúc đột ngột bằng một kỉ niệm ấm tình quân dân:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi!
Hai tiếng: “nhớ ôi” được thốt ra như một tiếng lòng không thể kìm nén.
Bởi sự lắng đọng sâu nhất vẫn là những kỉ niệm tình người ấm áp, tình quân
dân đằm thắm qua những bản làng đọc đường hành quân. Sau bao nhiêu
gian khổ băng rừng, vượt núi, lội suối, trèo đèo, người chiến sĩ được dừng
chân ở bản Mai Châu, trong mùa nếp mới, cùng quây quần bên nồi xôi bốc
khói thơm lừng với các cô gái xinh đẹp như những bông hoa rừng khiến bao
nhiêu vất vả, mệt nhọc đều tan biến hết. Câu thơ tạo cảm giác dịu ngọt, ngây
ngất, lâng lâng lan toả khép lại một đoạn thơ, nhưng cũng vì thế mà càng
khắc khoải thêm nỗi nhớ.
Có một đêm “hội đuốc hoa” thời kháng chiến
Ấy là cái đêm liên hoan lửa trại của bộ đội tại một bản làng miền Tây
Bắc, nơi tạm đóng quân của Trung đoàn Tây Tiến dọc đường hành quân. Đây
cũng là nội trong những kỉ niệm lãng mạn sâu đậm nhất trong cuộc đời hành
quân chiến đấu của người chiến sĩ Tây Tiến được Quang Dũng ghi lại trong
bài thơ. Trong hồi ức của người xa Tây Tiến, cái đêm liên hoan lửa trại của
đơn vị có đồng bào địa phương đến chung vui ấy hiện về như một điểm sáng
lung linh, kì ảo:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ.
Nhiều người phân tích chất lãng mạn tài hoa của Quang Dũng chỉ chú ý
đến chi tiết cụ thể, như hình ảnh e ấp và man điệu của cô gái vùng cao mà
không thấy cái ấn tượng sâu đậm trong kí ức nhà thơ là khung cảnh, không
khí chung của đàn liên hoan. Cái ấn tượng sâu đậm ấy thật đáng lưu ý vì
trong sự hồi tưởng của mình, Quang Dũng đã gọi cái đêm liên hoan lửa trại
đáng nhớ của đơn vị bằng một cái tên rất lãng mạn là đêm “hội đuốc hoa”.
“Đuốc hoa” vốn bắt nguồn từ chữ “hoa chúc” của tiếng Hán, chỉ cái đuốc, cái
đèn thắp trong phòng cưới lộng lẫy của đôi trai gái đêm hợp cẩn. Theo tác giả
Trịnh Mạnh, Từ điển văn liệu của Long Điền Nguyễn Văn Minh giải thích:
“Ngày xưa, lúc cưới, trong phòng cô dâu đốt đuốc cho thật sáng nên thường
dùng hai tiếng đuốc hoa nói hôm rước dâu hay việc cưới”. Trong Truyện Kiều
của Nguyễn Du, lúc Kim – Kiều đoàn viên tái hợp, Thuý Kiều đã khéo léo từ
chối một đám cưới linh đình theo đề nghị của Kim Trọng, vì nàng nghĩ mình
đã mười lăm năm lưu lạc, ong qua bướm lại ê chề rồi, nên không còn xứng
đáng nữa:
Chữ trinh đáng giá nghìn vàng
Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa?
Như vậy, cái đêm “đuốc hoa” cũng có nghĩa là đêm động phòng hoa
chúc lộng lẫy, linh đình của một đời người. Dùng “đuốc hoa” theo hình thức
ẩn dụ với ý nghĩa như vậy để chỉ cái đêm liên hoan lửa trại của đơn vị, quả
thực Quang Dũng đã khá mạnh dạn trong việc sử dụng từ ngữ, tạo nên một
liên tưởng lãng mạn khá bất ngờ, độc đáo mà vẫn không kém phần hợp lí.
Trước hết, cần lưu ý đến bối cảnh, không khí đặc biệt của đêm liên hoan.
Giữa màn đêm dày đặc bao phủ khắp núi rừng bỗng ánh lửa đuốc bừng
sáng, bỗng tiếng khèn, tiếng trống, tiếng nhạc… bừng dậy khi đêm hội bắt
đầu, khiến lòng người cũng bừng lên một niềm hân hoan, phấn chấn. Khung
cảnh rực rỡ, tưng bừng, náo nhiệt của đêm hội và đặc biệt là sự xuất hiện của
các cô gái vùng cao đã khiến cho các chàng trai Tây Tiến như chợt bừng tỉnh.
Họ rất đỗi ngạc nhiên trước những “xiêm áo” lộng lẫy, trước cái vẻ đẹp duyên
dáng, tình tứ vừa kín đáo, thẹn thùng, “e ấp” lại vừa ánh lên vẻ nồng nàn,
quyết liệt trong vũ đạo “man điệu” của các cô, những người con gái vùng cao
vốn rất giản dị mà thường ngày chắc các anh vẫn gặp trên khắp nẻo đường
Tây Bắc. Hai chữ “kìa em” như một tiếng reo vui và câu hỏi tu từ: “Kìa em
xiêm áo tự bao giờ” đã góp phần làm nổi bật tâm trạng ngạc nhiên thích thú
nhưng rất hồn nhiên của các anh. Đoạn thơ có 4 câu thì 2 câu dành để nói về
các cô gái cho thấy hình ảnh đó đã trở thành tâm điểm và linh hồn của đêm
liên hoan cuốn hút các chàng trai, khiến các chàng lính trẻ Tây Tiến đi từ bất
ngờ này đến bất ngờ khác. Và hình như trong đêm hội “đuốc hoa” kéo dài
suốt đêm ấy, những chàng trai Hà Nội đa tình, hào hoa cũng ngả nghiêng
cùng bốc men say theo tiếng khèn, tiếng nhạc dập dìu, réo rắt, theo những
điệu xoè nồng nàn, ngây ngất của các cô gái vùng cao…
Trong cuộc đời chiến chinh gian khổ, những người lính Tây Tiến đã
từng trải qua bao đêm rừng hoang sương muối, có đêm băng rừng vượt núi
“cọp trêu người”, cũng có lúc “hoa về trong đêm hơi”, có buổi tối được quây
quần bên nồi cơm nếp đầm ấm tình quân dân “Mai Châu mùa em thơm nếp
xôi”…, nhưng những kỉ niệm như đêm nay không nhiều. Cho nên, trong
những hồi ức về Tây Tiến, đêm liên hoan lửa trại của đơn vị vẫn là một sự
kiện đặc biệt, không thể nguôi quên. Song, gọi đó là đêm “hội đuốc hoa” – cái
đêm động phòng hoa chúc lộng lẫy của đời mình – thì có lẽ chỉ có nhà thơ
chiến sĩ Quang Dũng, hoặc là chính những người lính Tây Tiến năm xưa, bởi
tâm hồn lãng mạn của các anh vẫn được ghi nhận như một nét đẹp riêng
trong văn học một thời kháng chiến.
Có gì khác nhau giữa “có thấy” và “có nhớ”?
Đó là các từ ngữ rất bình thường, không hề chứa đựng bất kì thủ pháp
nghệ thuật nào trong đoạn hồi tưởng về những cảm xúc lãng mạn dâng lên
trong lòng người chiến sĩ Tây Tiến khi đứng trước khung cảnh sông nước Tây
Bắc vào một buổi chiều Châu Mộc:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?
Kí ức gợi nhớ về chặng đường hành quân giữa vùng rừng núi hiểm trở,
dữ dội miền Tây Bắc: khung cảnh một buổi chiều sương lặng lẽ bên bờ suối
lũ mênh mang với ngàn lau san sát, hoang dại như một nỗi niềm cổ tích, đã
gợi lên trong tâm hồn Quang Dũng và những người lính Tây Tiến tài hoa, hay
mơ mộng nhiều xúc cảm lãng mạn, nên thơ. Qua tâm hồn các anh, lau lách
bên bờ suối mùa nước lũ dường như cũng có linh hồn: “hồn lau nẻo bến bờ”,
ấy là cái hồn của cỏ cây, sông nước, linh hồn của tạo vật. Một bông hoa trôi
trên dòng suối lũ mênh mang cũng có cái dáng vẻ đong đưa tình tứ. Và đặc
biệt nhất là hình ảnh người con gái đẩy thuyền: “dáng người trên độc mộc”,
cái dáng người chắc hẳn đã gợi cho các chàng trai hào hoa, đa tình biết bao
liên tưởng mơ mộng lãng mạn nên nó được khắc sâu vào nỗi nhớ. Câu thơ
không tả, chỉ nêu hình ảnh nhưng bằng hình thức câu hỏi day dứt: “Có nhớ
dáng người trên độc mộc…” đã khiến người đọc liên tưởng đến một cái dáng
tạo hình rất đẹp.
Đoạn thơ mang hình thức hồi tưởng khá rõ nhờ đại từ chỉ định ấy
(chiều sương ấy) kết hợp với những cụm từ nhắc nhở kí ức: “có thấy”, “có
nhớ” rất có nhịp điệu và phù hợp với tâm trạng hoài niệm. Nó nhắc nhở và gợi
nhớ về những xúc cảm bâng khuâng khi đứng trước khung cảnh sông nước
miền Tây trong một chiều sương lặng lẽ dọc đường hành quân năm xưa.
Nhưng để gợi nhắc kí ức, tại sao phải dùng đến hai cụm từ “có thấy” và “có
nhớ”, trong khi chúng chỉ cùng thực hiện chung một chức năng gợi nhớ? Có
gì khác nhau giữa “có thấy” và “có nhớ”? Liệu có thể chỉ dùng một trong hai
cụm từ nói trên? Hay liệu có thể đổi vị trí của hai cụm từ này thành: “Có nhớ
hồn lau nẻo bến bờ – Có thấy dáng người trên độc mộc…”? Phép thử ngôn
ngữ học không thành công đã cho ta thấy cách dùng chữ thật kĩ, thật tinh mà
cũng thật tài hoa của Quang Dũng, ngay cả đối với những từ ngữ có thể nói là
hết sức bình thường trong bài thơ. Ở đây chắc không hẳn chỉ vì những lí do
về âm điệu, vần điệu, nhịp điệu… mà nguyên nhân chính vẫn là ở vấn đề ngữ
nghĩa. Sở dĩ không thể chỉ dùng một trong hai cụm từ, hoặc không thể đổi vị
trí của “có thấy” và “có nhớ” cho nhau trên trục kết hợp ngang trong hai câu
thơ trên vì chúng được sử dụng để gợi nhớ về hai loại hình ảnh khác nhau
trong tiềm thức: một oại hình ảnh của sự tưởng tượng trừu tượng (hồn lau),
còn loại kia là những hình ảnh thị giác cụ thể (dáng người trên con đò độc
mộc và bông hoa trôi trên dòng suối lũ). Đứng trước khung cảnh ngàn lau
man mác đôi bờ mùa nước lũ, phải là những tâm hồn lãng mạn, giàu trí
tưởng tượng mới cảm thấy tạo vật dường như cũng có linh hồn. Do vậy, chỉ
có thể viết: “Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”, bởi cái “hồn lau” trừu tượng ấy có
người “thấy”, có người không “thấy”, mà nếu không thấy thì sao có thể “nhớ”
về “hồn lau” được. Ở câu thơ tiếp sau đó cũng không thể dùng “có thấy” thay
vì “có nhớ”, hởi cái dáng người đẩy thuyền và bông hoa trôi trên dòng suối lũ
cụ thể, hữu hình kia thì ai chẳng “thấy” (bằng mắt thường), nhưng không phải
ai cũng “nhớ”. Chỉ có những tâm hồn nhạy cảm, hay mơ mộng lãng mạn mới
có thể nhận ra vẻ đong đưa tình tứ của bông hoa rừng cùng cái dáng tạo hình
rất đẹp của người con gái đẩy thuyền, để rồi “nhớ” mãi…, và sau này, khi đã
xa Tây Tiến, lại có dịp cùng nhau gợi nhớ trong những hồi tưởng bâng
khuâng, da diết, bồi hồi:
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?
Người ta hay nhắc đến những giày vò, trăn trở khó nhọc của các nhà
thơ trong việc dụng công tìm chữ, chọn từ cho một câu thơ. Tuy nhiên, Tây
Tiến của Quang Dũng không thuộc những trường hợp như vậy. Sau này,
Quang Dũng kể lại, ông đã làm bài thơ rất nhanh, mà viết một cách rất tự
nhiên trong khi dự Đại hội thi đua toàn quân ở Liên khu III, làng Phù Lưu
Chanh (tên một tổng của Hà Nam thời Pháp), làm xong đọc ngay trong Đại
hội: “Hồi đó tấm lòng và cảm xúc của mình ra sao thì viết vậy. Tôi chả có chút
lí luận gì về thơ cả…”. Mặc dầu vậy, tác phẩm vẫn cho người đọc thấy lấp
lánh không ít những sáng tạo ngôn ngữ độc đáo, thể hiện nét tài hoa của
Quang Dũng, một người chiến sĩ của Trung đoàn Tây Tiến năm xưa, trong
đó, sự chính xác và phù hợp của những cụm từ gợi nhớ trên đây cũng có thể
coi là một điểm sáng nghệ thuật trong bài thơ này.
Chất liệu hiện thực và bức chân dung lãng mạn, bi tráng về những người đồng đội thân yêu của nhà thơ
Bức chân dung ấy được thể hiện qua tám câu thơ của đoạn thứ ba.
Bốn câu đầu là hình ảnh khái quát vừa hiện thực lại vừa có phần kì lạ về đoàn
quân Tây Tiến:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Đó là những con người ngang tàng, khí phách và có cái gì đó rất dữ
dội, nhưng bên trong tâm hồn, họ cũng là những con người rất lãng mạn, giàu
tình cảm. Hiện thực đời sống kháng chiến gian khổ, thiếu thốn trên địa bàn
rừng núi Tây Bắc khắc nghiệt, hiểm trở khiến cho các chiến sĩ trẻ trung đoàn
Tây Tiến mắc phải căn bệnh sốt rét rừng quái ác, đến nỗi rụng cả tóc, mắt
trắng, môi thâm, da xanh bủng như tàu lá… Đấy là chất liệu hiện thực của
bức chân dung đầy ấn tượng về người lính Tây Tiến, chứ không phải Quang
Dũng đã thi vị hoá thực tế gian khổ như có người vẫn nghĩ. Có lần, anh đã lí
giải như sau về câu thơ “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”: “Hồi ấy, trung
đoàn chúng tôi rất nhiều người sốt rét trọc cả đầu. Trong điều kiện gian khổ,
thiếu thốn, mình lại không giữ vệ sinh, vả lại có giữ cũng chả được, nên bộ
đội không những bị ốm mà còn chết vì sốt rét cũng nhiều. Chúng tôi đóng
quân ở nhà dân, cứ mỗi lần nghe tiếng cồng nổi lên, lại tập trung đến nhà
trưởng thôn để tiễn một con người vĩnh biệt rừng núi...”. Tuy nhiên, qua xúc
cảm lãng mạn, “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc” vẫn là câu thơ khá độc
đáo bởi tính chất đa thanh, đa giọng, thể hiện khẩu khí ngang tàng, khí phách
của những người lính trẻ hồn nhiên, tinh nghịch: tóc không thèm mọc chứ
không phải bị sốt rét đến trọc cả đầu. Cũng vậy, câu thơ “Quân xanh màu lá
dữ oai hùng” trước hết cũng là bắt nguồn từ cái nước da xanh bủng của
người bị sốt rét rừng, nhưng hình ảnh “dữ oai hùm” vẫn gợi được cái cứng
cỏi, dữ dội của những con người vào sinh ra tử, rất dạn dày trong hiểm nguy,
gian khổ. Những con người ấy đồng thời cũng rất giàu tình cảm và hay mơ
mộng lãng mạn. Dẫu có lúc tận ở thượng Lào xa xôi và luôn phải đối mặt với
cái chết, nhưng bằng trái tim khao khát yêu đương, họ vẫn hằng đêm “gửi
mộng qua biên giới”, để mơ về một “dáng kiều thơm” giữa thủ đô thân yêu.
Bốn câu thơ tiếp theo tập trung thể hiện tinh thần, thái độ của các chiến
sĩ Tây Tiến trước cái chết, sự hi sinh:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
Một đặc điểm của cảm hứng lãng mạn anh hùng là không lẩn tránh cái
bi mà ngược lại luôn coi cái chết, sự hi sinh nơi sa trường của người chiến sĩ
với da ngựa bọc thây như là một biểu hiện cao nhất của cái đẹp. Đó là tinh
thần bi tráng trong văn học truyền thống. Cái bi như vậy được coi như một đối
tượng thẩm mĩ của cảm hứng lãng mạn. Trong những tháng ngày hành quân
chiến đấu gian khổ của Trung đoàn Tây Tiến, đã có bao người đồng đội ngã
xuống trong lúc họ còn rất trẻ, đang lúc “đời xanh” với bao hoa mộng đẹp.
Nhưng bằng cảm hứng lãng mạn, những câu thơ xúc động viết về sự hi sinh
mất mát ấy vẫn thể hiện được một tinh thần bi tráng. Đoạn thơ sử dụng thủ
pháp đối lập về ý nghĩa giữa các cụm từ “mồ viễn xứ” với “chẳng tiếc đời
xanh”, kết hợp với âm hưởng trầm hùng, trang nghiêm của những từ Hán
Việt: biên cương, viễn xứ, độc hành…, đặc biệt là hình ảnh chiếc áo bào đỏ
thắm (áo bào thay chiếu) đã khiến cho những nấm mồ chiến sĩ nằm rải rác
nơi biên cương xa xôi không trở thành một bức tranh xám lạnh, u buồn mà
vẫn tạo được không khí thiêng liêng, hùng tráng. Cụm từ “về đất” là cách nới
giảm nhẹ thay cho từ chết đã thể hiện được thái độ thanh thản nhẹ nhàng
trước cái chết, đồng thời nói lên được ý nghĩa lớn lao của sự hi sinh: đó là sự
hoá thân vào đất nước, sự trở về với hồn thiêng sông núi. Cho nên, dòng
sông Mã ngày đêm gầm réo như tấu mãi lên khúc nhạc trầm hùng để tiễn đưa
linh hồn người chiến sĩ về với cõi bất tử, về với đất mẹ thiêng liêng:
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
18. CON SÔNG ĐUỐNG VÀ KHÔNG GIAN TÂM TƯỞNG TRONG NIỀM XÚC CẢM VỀ MỘT MIỀN QUÊ
Đối với Hoàng Cầm, con sông Đuống chắc chắn phải có một vị trí khá
đặc biệt trong tâm hồn ông ngay từ thuở ấu thơ. Con sông này là một nhánh
của sông Hồng nối với sông Thái Bình, nằm giữa hai miền quê hương của
nhà thơ, chia xứ quan họ Kinh Bắc cổ kính thành hai nửa. Quê nội Hoàng
Cầm ở thôn Phúc Tằng, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang, nằm về mạn phía
bắc sông Đuống. Ông tên thật là Bùi Tằng Việt, do ghép một chữ tên làng và
một chữ tên huyện của quê cha mà thành. Còn quê ngoại, nơi ông đã sinh ra
và sống trọn tuổi ấu thơ là thôn Đông Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh
lại nằm ngay bên bờ nam sông Đuống. Người cha thân sinh ra Hoàng Cầm là
một ông đồ, thời trai trẻ đi dạy học xứ người và yêu say đắm cô gái làng tranh
dân gian Đông Hồ, họ thành vợ thành chồng rồi Hoàng Cầm được sinh ra và
lớn lên ở đấy. Ông có bài thơ nói về nguồn gốc của mình như sau:
Tôi người quan họ
Quê mẹ bên này sông
Cách quê cha một dòng
Nước trắng…
Dòng “nước trắng” ấy chính là con sông Đuống chảy giữa đôi bờ quê
hương. Nó đi vào tâm trí nhà thơ như một dòng ánh sáng lung linh kì ảo, khắc
sâu trong kí ức và cái thi tứ bên này – bên kia sông Đuống dường như cũng
đã được định sẵn từ lâu, chỉ chờ dịp là có thể bùng lên mạnh mẽ. Và dịp ấy
đã đến, vào một đêm tháng Tư năm 1948, khi đang đóng quân tại một đơn vị
thuộc Quân khu II trên chiến khu Việt Bắc, nghe bản tin chiến sự, được biết
miền đất quê hương ông ở bên kia sông Đuống đã bị rơi vào tay giặc, Hoàng
Cầm “cực kì xao xuyến, tâm tư chồng chất nỗi nhớ thương, đau đớn và xót
xa, tiếc nuối cùng với niềm căm giận quân giặc sâu lắng”, ông không sao ngủ
được, “lòng buồn nôn nao nỗi nhớ tiếc quê hương bị chiếm đóng, tàn phá.
Bao tình cảm riêng chung lẫn lộn cứ trào lên mãnh liệt”, và ông tiền cầm bút
viết một mạch bài thơ mà sau đó, ông đặt cho cái tên là Bên kia sông Đuống.
Bài thơ có kết cấu hai phần, một kết cấu khá phù hợp, tuân theo mạch
hồi tưởng tự nhiên, thể hiện được tâm trạng cảm xúc và tình cảm đặc biệt của
một con người đứng từ bên này sông (phía bờ bắc) hướng về mảnh đất quê
hương ở bờ nam, bên kia sông Đuống đang bị rơi vào tay giặc. Bắt đầu là nỗi
lòng đau xót, nhớ tiếc và căm hận quân giặc đã giày xéo, tàn phá cuộc sống
thanh bình, huỷ hoại những truyền thống văn hoá đẹp đẽ của quê hương
(Phần I: gồm 79 câu đầu) và kết thúc là niềm hi vọng, tin tưởng quê hương sẽ
được giải phóng, trở lại cảnh yên bình, tươi đẹp như xưa (Phần II: 55 câu còn
lại). Trong toàn bộ dòng mạch cảm xúc đó, con sông Đuống đóng vai trò là
trung tâm của không gian tâm tưởng; nó như là điểm tựa của cảm xúc, là
chiếc cầu nối để nhà thơ suy tưởng về miền quê hương thân thiết ở bên kia
sông Đuống, tạo nên một điểm nhìn nghệ thuật độc đáo của chủ thể trữ tình ở
thi phẩm này.
Mượn hình thức trò chuyện tâm tình với một người con gái của quê
hương, mười câu thơ đầu có một vị trí khá đặc biệt trong việc khơi nguồn cảm
xúc và hình thành cấu tứ chung của bài thơ:
Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì…
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì.
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay
Ta có thể nhận thấy một sự xúc động mãnh liệt xảy ra trong tâm hồn
nhà thơ lúc chợt nghe tin dữ, những tình cảm quê hương trái ngược nhưng
thống nhất: niềm mến yêu tha thiết một vùng quê, nỗi đau đớn, xót xa, tiếc
nuối, lòng căm giận quân giặc và niềm hi vọng, tin tưởng v.v... cùng lúc dồn
đến, hoà trộn, dâng trào và cuối cùng đã bật lên thành một lời hứa hẹn, an ủi
dành cho người con gái yêu thương: “Em ơi buồn làm chi/ Anh đưa em về
sông Đuống…”. Nhưng em trong bài thơ này (cũng như hình ảnh những cô
thôn nữ Kinh Bắc ngày xưa mà chúng ta vẫn thường bắt gặp trong thơ Hoàng
Cầm) chỉ là một nhân vật tưởng tượng, được tạo ra như một thủ pháp nghệ
thuật quen thuộc nhằm làm cho những tình cảm quê hương có thêm màu sắc
trữ tình, dễ tạo ra mối đồng cảm trong lòng người đọc. Cho nên, thực chất
đấy cũng là một cách tác giả tự trấn tĩnh, kìm nén và tự chế ngự lòng mình:
sau những giây phút bàng hoàng chợt nghe tin dữ, nhà thơ đã tự an ủi, động
viên mình và hi vọng, tin tưởng. Lời tự động viên, an ủi ấy tự nhiên đưa tác
giả đến những hồi ức mãnh liệt về quê hương và trong dòng hoài niệm đó,
trên hết là hình ảnh con sông Đuống, được tái hiện ở trung tâm của không
gian tâm tưởng như là một biểu tượng đẹp đẽ và khái quát về một vùng quê
hương giàu có, trù phú mà cũng rất yên ả, thanh bình. Con sông quê có cái
dáng “nằm nghiêng nghiêng” ấy êm đềm, lặng lẽ chảy từ quá khứ xa xăm xuôi
về hiện tại, hiện lên trong tâm trí nhà thơ với một dòng nước “lấp lánh”, với
dải “cát trắng phẳng lì” và những “bãi mía bờ dâu/ Ngô khoai giêng biếc” trải
dài hai bên triền sông… Trong sự tưởng tượng xúc động của nhà thơ, con
sông quê hương ấy đã không còn chỉ là một sự vật cụ thể, một cảnh trí thiên
nhiên thông thường mà đã trở thành một hình ảnh tâm lí có ý nghĩa biểu
tượng cho quê hương, được tưởng tượng, nhân hoá và cảm nhận như một
vật thể sống động, có tâm trạng, có linh hồn. Hồi ức mạnh mẽ về quê hương
đã làm cho những nét biểu trưng khái quát tiêu biểu nhất của miền đất bên bờ
nam sông Đuống hoà nhập làm một với hình ảnh của con sông xứ sở. Nó thể
hiện rất rõ tấm lòng thao thức, đau đáu của một con người đứng từ bờ bắc
nhìn sang bờ nam, đứng ở vị trí tự do nhìn về vùng quê hương đang bị địch
tạm chiếm ở bên kia sông Đuống: “Đứng bên này sông sao nhớ tiếc/ Sao xót
xa như rụng bàn tay”.
Niềm xúc cảm thiết tha, mạnh mẽ được khơi dậy từ mười câu thơ đầu
trên đây đã dẫn dắt dòng hồi ức tự nhiên đến những nét đặc trưng nổi bật về
cảnh vật và con người thân thiết của quê hương ở “Bên kia sông Đuống”:
– Bên kia sông Đuống: Lúa nếp thơm nồng, tranh Đông Hồ gà lợn nét
tươi trong, màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp…
– Bên kia sông Đuống: Những hội hè đình đám, những tấm the đen,
những phiên chợ quê, chuông chùa văng vẳng…
– Bên kia sông Đuống. Những cụ già phơ phơ tóc trắng, những em sột
soạt quần nâu, những gương mặt búp sen, những cô hàng xén răng đen, cười
như mùa thu toả nắng…
– Bên kia sông Đuống: Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong…
– Bên kia sông Đuống: Ta có đàn con thơ v.v…
Mỗi đoạn thơ ở phần này đều được mở đầu bằng cách gợi lên những
hình ảnh tưởng tượng về cuộc sống yên ả, thanh bình, giàu đẹp vốn có ngày
xưa của quê hương, tiếp đó là sự tàn phá, huỷ hoại của quân giặc đang diễn
ra hằng ngày và cuối cùng đều được kết thúc bằng một câu hỏi nghẹn ngào,
nuối tiếc: “Bây giờ tan tác về đâu?”, hoặc: “Biết đi đâu về đâu?”… Kiểu kết
cấu trùng điệp như vậy có tác dụng góp phần diễn tả tâm trạng đặc biệt của
chủ thể cảm xúc lúc tình cảm dâng trào, dẫn đến những tưởng tượng tràn đầy
lạc quan về một ngày kia, tác giả sẽ cùng những đoàn quân trở về giải phóng
quê hương, thực hiện lời hẹn ước “đưa em về sông Đuống”:
– Đêm sông Đuống: Bộ đội bên sông đã trở về, dao loé giữa chợ, gậy
lùa cuối thôn, giặc mất hồn, quay cuồng trên đống lửa mà cánh đồng ta thì
chan chứa nắng đẹp mùa xuân, thợ cấy đánh giặc, dân quân cày bừa…
– Bao giờ về bên kia sông Đuống: Anh lại tìm em, em mặc yếm thắm,
thắt lụa hồng, đi trẩy hội non sông, cười mê ánh sáng muôn dòng xuân xanh.
Nhà thơ kể lại: “Quá 12 giờ đêm, tôi thắp đèn dầu ngồi viết. Viết một
mạch, có lúc cảm xúc trào lên mạnh, chỉ sợ viết không kịp với cảm xúc. Gọi là
một mạch nhưng cũng đôi ba lúc ngừng hơi, nín thở để nghe ngóng một điều
gì, tuy châm điếu thuốc lào rít nhẹ nhẹ, nhưng toàn tâm trí vẫn đang cuồn
cuộn trong cái mạch từ đầu chảy ra, mỗi giờ một lớn ra và mạnh lên. Đến khi
thấy hình như trong người, các nỗi niềm đau đớn, nhớ tiếc xót xa ấy đã được
giải toả, tức là đã đến hết những câu thơ cuối cùng: “Bao giờ về bên kia sông
Đuống… Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh”, tôi thở đài nhẹ nhõm,
nước mắt rưng rưng suốt mấy tiếng đồng hồ cũng như không còn ướt tròng
nữa, tôi đặt bút thì đã nghe tiếng gà gáy sắp sáng”. Bài thơ được đăng lần
đầu trên báo Cứu quốc tháng 6 năm 1948 nhưng đã nhanh chóng được phổ
biến rộng rãi từ chiến khu Việt Bắc cho đến khắp toàn quốc. Nhiều người nhớ
và thuộc; bởi vì, tuy chỉ nói về một vùng quê Kinh Bắc cụ thể với những tên
núi, tên sông, tên đất và những con người của quê hương nhưng những hình
ảnh đó cũng rất tiêu biểu cho các làng quê Việt Nam nói chung. Cảnh tượng
quê hương bị giặc tàn phá cũng là cảnh ngộ chung của cả đất nước thời
kháng chiến và nhất là tình cảm mến yêu của tác giả với những nét đẹp
truyền thống của quê hương, với những con người của xứ sở đã lay động
mạnh mẽ và đánh thức tình cảm quê hương đất nước tha thiết của mỗi người
chiến sĩ hồi ấy, bởi trong mỗi con người, ai chẳng có một vùng quê như thế!
Nhưng thật đáng tiếc, bản thảo và cả bản in báo đầu tiên đều đã bị thất lạc,
những văn bản sau này được chỉnh lí nhiều lần dựa trên sự khôi phục trí nhớ
của chính nhà thơ và những người biên tập. Do đó, sự băn khoăn đối với một
vài từ ngữ, hình ảnh cụ thể trong bài thơ cũng là điều khó tránh khỏi. Dẫu
sao, Bên kia sông Đuống vẫn là một bài thơ hay, ghi lại được những tình cảm
quê hương đất nước thật xúc động trong văn học của một thời kháng chiến.
19. NGÔN NGỮ, CẤU TỨ VÀ MẠCH CẢM XÚC, SUY TƯỞNG VỀ “ĐẤT NƯỚC” CỦA NGUYỄN ĐÌNH THI
Đặc điểm về xuất xứ, cấu tứ và thi hứng của bài thơ
Cuối bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi có ghi một dấu mốc thời
gian: “1948 – 1955”. Vậy là bài thơ được sáng tác trong một khoảng thời gian
khá dài: những cảm xúc, suy ngẫm về đất nước có lẽ đã theo tác giả gần như
suốt cuộc kháng chiến trường kì. Sự thật thì bài thơ được “lắp ghép” từ 3 bộ
phận: phần đầu là những câu thơ được rút gần như nguyên vẹn trong hai bài
thơ của Nguyễn Đình Thi sáng tác hồi đầu kháng chiến và tiếp đó là những ý
thơ được hình thành trong suốt thời gian kháng chiến chống Pháp cho đến
những năm 1954 – 1955, tạo cho bài thơ có một cấu trúc (bố cục) ba đoạn
khá rõ. Đoạn thứ nhất gồm 7 câu thơ đầu, rút trong bài Sáng mát trong như
sáng năm xưa, sáng tác năm 1948, có sửa chữa đôi chút. Đoạn thứ hai gồm
14 câu tiếp theo, vẫn tiếp tục những câu ở bài thơ trên nối với những câu thơ
rút trong bài Đêm mít tinh, sáng tác năm 1949 (từ chỗ: “Trời xanh đây là của
chúng ta…” và đoạn ba gồm 28 câu còn lại. Cả hai bài thơ tiền thân đều viết
từ Việt Bắc và viết về Việt Bắc kháng pháp “trong một tâm trạng nhớ Hà Nội,
nỗi nhớ thấm thía, xao xác”. Tuy nhiên, khi đi vào Đất nước, về mặt ý nghĩa,
những câu thơ trên đây đã tách hẳn khỏi tác phẩm ban đầu đã sinh ra nó để
mang một ý nghĩa mới, trong sự quy tụ cảm xúc, suy tưởng chung của nhà
thơ về đất nước. Từ ý nghĩa cụ thể về khung cảnh mùa thu Hà Nội và mùa
thu Việt Bắc trong bài Sáng mát trong như sáng năm xưa đã chuyển thành ý
nghĩa biểu trưng về khung cảnh đất nước xưa và nay, trước và sau Cách
mạng tháng Tám – khi đất nước còn trung vòng nô lệ đau thương và khi đất
nước đã được giải phóng, có độc lập, tự do. Từ những cảnh thực của đêm
mít tinh ở rừng Phan Lương trên chiến khu và cảnh trong tâm tưởng nhớ về
Hà Nội xuống đường trong cuộc mít tinh lớn của dân tộc (Cách mạng tháng
Tám) ở bài Đêm mít tinh đã chuyển thành những câu thơ đầy niềm tự hào
kiêu hãnh và sâu lắng về quyền được làm chủ một đất nước rộng lớn, có
truyền thống bốn ngàn năm không chịu sống quỳ. Nhờ sự chuyển hoá, đổi
mới ý nghĩa của ngôn ngữ và các hình tượng thơ nên bài thơ vẫn có được
tính chỉnh thể của một tác phẩm nghệ thuật, đảm bảo sự thống nhất cả về cấu
tứ lẫn tư tưởng và cảm xúc. Cố nhiên, người đọc vẫn có thể thấy được sự
khác biệt giữa các phần về cả thể thơ, nhịp điệu cũng như mạch cảm xúc.
Nhưng chính điều đó lại tạo ra cho thi phẩm này một sự vận động riêng về
hình thức cũng như về cảm hứng và tư tưởng, vừa nhất quán vừa biến đổi
như một nét đặc sắc về nghệ thuật. Bài thơ là sự đúc kết những cảm xúc và
suy ngẫm đầy tự hào kiêu hãnh về một đất nước tươi đẹp, đau thương nhưng
anh dũng, bất khuất, có độc lập chủ quyền của Nguyễn Đình Thi trong suốt
thời gian cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược từ 1948 đến
1955.
Mạch vận động cảm xúc, suy tưởng về đất nước
Theo trục thời gian tuyến tính (trước, sau Cách mạng tháng Tám và
trong kháng chiến chống thực dân Pháp), hình tượng đất nước nằm ở tầm
khái quát của tư tưởng, cảm xúc và là điểm quy tụ mạch suy tưởng của nhà
thơ xuyên suốt cả 3 đoạn thơ: từ những cảm xúc tinh tế, đầy ấn tượng trong
một buổi sáng mùa thu cụ thể của đất nước gợi niềm hoài niệm về những
mùa thu Hà Nội năm xưa, từ đó dẫn đến những suy tư về mùa thu mới của
đất nước sau cách mạng và cuối cùng là những suy ngẫm về đất nước trong
hiện tại cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Bắt đầu là những câu thơ gợi dòng hoài niệm.
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa…
Ấn tượng về một sáng mùa thu trong kháng chiến được gợi ra bởi một
không gian trong trẻo, khoáng đạt. Bầu trời rất cao và trong xanh, không một
gợn mây. Thoảng trong gió thu nhẹ thổi là mùi hương cốm mới, một hương vị
rất đặc trưng của mùa thu Bắc Bộ, trong mát và tinh khiết như kết tinh được
tất cả cái tinh tuý, sâu đậm của đất trời, cây cỏ mùa thu. Trong Hà Nội ba
mươi sáu phố phường, Thạch Lam đã từng viết rất hay về mùi hương ấy:
“Phảng phất hương vị ngàn hoa cỏ (…) là thức dâng của đồng lúa bát ngát
xanh, mang trong hương vị tất cả cái mộc mạc, giản dị mà thanh khiết của
đồng quê nội cỏ”. Từ một không gian trong trẻo và mùi hương đặc trưng ấy
mà hoài niệm về mùa thu Hà Nội, Nguyễn Đình Thi quả đã gợi được đúng cái
thần – nét biểu trưng rất riêng của hồn quê xứ sở, chứng tỏ sự gắn bó rất sâu
nặng, thiết tha của ông với thủ đô yêu dấu.
Những câu thơ về mùa thu Hà Nội có lẽ là những câu thơ đẹp nhất của
bài thơ. Qua sự hoài niệm của nhà thơ, Hà Nội trong những ngày quân thù
còn chiếm đóng năm xưa tuy vẫn rất đẹp và gợi cảm nhưng khung cảnh thật
vắng vẻ và phảng phất buồn:
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Người đọc có thể thấy được những cảm nhận hết sức tinh tế của một
tâm hồn nhạy cảm. Cái “chớm lạnh” của một buổi sáng mùa thu qua làn gió
“hơi may” nhẹ thoảng giữa lòng Hà Nội làm cho phố phường dường như có
vẻ lạnh lẽo, trống trải và vắng vẻ hơn. Những đường phố không người qua lại
dường như cũng dài thêm ra, bởi người ta có thể nghe thấy rất rõ cả tiếng
“xao xác” đến nao lòng của những chiếc lá khô lăn theo làn gió heo may se
lạnh trong một không gian lặng lẽ. Với Nguyễn Đình Thi, Hà Nội bao giờ cũng
rất đẹp và gợi cảm nhưng kí ức về những năm tháng mất nước đã khiến cho
Hà Nội trong hoài niệm của nhà thơ không tránh khỏi vẻ buồn vắng, trống trải,
hiu hắt. Đó cũng là xúc cảm về khung cảnh chung của đất nước những năm
dài nô lệ trước Cách mạng tháng Tám. Song, điều quan trọng là đất nước
trong cảm nhận của Nguyễn Đình Thi vẫn luôn gợi được những nét lãng mạn,
đầy hào khí. Do đó, trong kí ức về những ngày đất nước còn trong nô lệ đau
thương vẫn thấp thoáng hình ảnh những con người ra đi cứu nước. Câu thơ
tả hình ảnh “người ra đi” giữa mùa thu Hà Nội năm xưa thật là đẹp, lãng mạn,
vừa gợi được cái nét ngang tàng, khí phách: “Người ra đi đâu không ngoảnh
lại”, vừa thể hiện được tấm lòng xiết bao lưu luyến với thành phố quê hương
của những lớp người ra đi ấy. Bởi thế, không phải là ánh mắt mà bằng cả tâm
hồn, họ vẫn có thể cảm nhận được rất rõ những “thềm nắng lá rơi đầy” đằng
sau cái dáng vẻ dửng dưng” đầu không ngoảnh lại” ấy. Đoạn thơ này thực ra
bắt nguồn từ những ấn tượng cụ thể về Hà Nội trong cảm nhận của những
người chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô vào cuối thu năm 1946, khi họ phải dời lên
chiến khu, bỏ lại thành phố sau lưng trong sự chiếm đóng của quân thù.
Nguyễn Đình Thi đã kể lại tâm trạng của mình và của những người chiến sĩ
thủ đô khi đó: “Những câu thơ tôi viết về Hà Nội với nhiều cảm xúc và kỉ niệm.
Người Hà nội ra đi kháng chiến đều có những tình cảm như thế với mảnh đất
thiêng liêng của Tổ quốc. Hà Nội vào thu, khung cảnh thiên nhiên rất đẹp
nhưng chiến tranh đã tạo ra những khung cảnh không bình thường. Câu thơ:
“Người ra đi (…) lá rơi đầy” rất gần gũi với tâm trạng của tôi”.
Từ niềm hoài niệm mùa thu Hà Nội năm xưa, nhà thơ chuyển cảm xúc
về mùa thu hiện tại giữa khung cảnh rộng lớn của núi rừng ở chiến khu Việt
Bắc khi đất nước đã được giải phóng, với một niềm vui phơi phới bốc men
say:
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha.
Nhịp điệu đoạn thơ này biến đổi hẳn với những câu thơ ngắn, tiết tấu
biến đổi nhanh với 4 vần ôm ở 4 câu thơ liên tiếp (rồi, đồi, phới, mới) tạo nên
một không khí và âm điệu tươi vui náo nức, rộn ràng. Đoạn thơ mở ra một
không gian rộng rãi với những cảnh sắc tươi tắn, trong sáng, rộn rã: khác rồi,
vui nghe, phấp phới, thay áo mới, trong biếc nói cười thiết tha. Tất cả đều hoà
chung với tâm trạng phấn chấn, náo nức của con người trong mùa thu mới
của đất nước đã được giải phóng và đang ngẩng cao đầu chiến đấu vì độc
lập, tự do. Giữa không gian rộng lớn của núi rừng Việt Bắc, tựa lòng mình vào
cuộc kháng chiến anh dũng, bất khuất của dân tộc, nhà thơ không còn cảm
thấy mùa thu đất nước buồn vắng, hiu hắt như xưa nữa mà đã hết sức tươi
sáng, trong trẻo, rộn ràng.
Mạch cảm xúc về đất nước tiếp tục vận động một cách khá tự nhiên
đến niềm tự hào được làm chủ toàn bộ cả thiên nhiên đất nước rộng lớn:
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường thơm ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa.
Cảm hứng thơ từ đây mang đậm chất sử thi và lãng mạn. Tiếng nói trữ
tình được chuyển từ tư thế phát ngôn của cá nhân “tôi” (tôi đứng, tôi nghe, tôi
nhớ) ở đoạn thơ trên sang tiếng nói chung của cộng đồng “của chúng ta”.
Nhưng sự chuyển giọng điệu ấy cũng rất tự nhiên bởi ở đây, tác giả không chỉ
nói lên tình cảm đất nước riêng tư của mình mà chính là ông đang nhân danh
dân tộc và cộng đồng để hùng biện một cách say sưa, đầy hào hứng về tư
thế và ý thức làm chủ một đất nước có độc lập, tự do. Những câu thơ này
chính là sự kế tục dòng cảm hứng yêu nước và tự hào dân tộc mãnh liệt,
dòng cảm hứng đã trở thành truyền thống của văn học và thơ ca Việt Nam.
Nhưng lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc ấy trong bài thơ này còn mang
đậm dấu ấn của thời đại mới được mở ra từ sau Cách mạng tháng Tám, đó là
tinh thần yêu nước và niềm tự hào dân tộc đã gắn liền với quyền được làm
chủ thật sự đối với non sông, đất nước của mình. Đoạn thơ sử dụng nhiều
câu thơ có hình thức khẳng định mạnh mẽ, được tạo bởi điệp từ chỉ định
“đây” và điệp ngữ “của chúng ta” giống như những tiếng nói kiêu hãnh thể
hiện niềm tự hào được làm chủ tất cả một đất nước rộng lớn. Ý thơ đi từ sự
khẳng định đất nước qua những cái hữu hình trong không gian như trời xanh,
núi rừng, cánh đồng, ngả đường, dòng sông… có kèm theo điệp từ chỉ số
lượng lớn và không xác định “những” đã nêu bật được ý nghĩa bao quát về
sự rộng lớn và tươi đẹp của đất nước cụ thể và hữu hình, đến sự cảm nhận
những cái vô hình của đất nước ở bề sâu trong nguồn mạch tinh thần, tình
cảm dân tộc. Đó là hồn nước, là truyền thống anh dũng bất khuất ngàn đời
của cha ông:
Nước chúng ta
Nước những người không bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về
Những câu thơ trên đã tạo được không khí trầm lắng thiêng liêng vì nó
đã khơi đúng mạch truyền thống ngàn đời của dân tộc. Qua hình tượng âm
thanh “Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất…“, Nguyễn Đình Thi đã diễn tả được
một cách sinh động những cái tưởng như vô hình, trừu tượng, làm hiện lên
thật cụ thể về hồn đất nước và tinh thần dân tộc bất khuất bằng chính những
âm vang trầm lắng, hào hùng, thiêng liêng đó.
Đoạn 3 của bài thơ (28 câu cuối) là những cảm xúc, suy tư của nhà thơ
về hình ảnh của đất nước trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược. Ý thơ hướng hẳn về hiện thực của một đất nước đang tiến hành cuộc
kháng chiến thần kì, một đất nước từ trong đau thương, căm phẫn đã anh
dũng đứng dậy chiến đấu và ngời sáng trong chiến thắng. Tiếp nối ý thơ từ
cuối đoạn trên, ở đây tác giả tập trung khẳng định về một đất nước không chỉ
anh dũng, bất khuất trong quá khứ mà cũng rất đỗi anh dũng, bất khuất trong
hiện tại của cuộc kháng chiến. Hình ảnh đau thương của đất nước bị quân
thù giày xéo trong chiến tranh cũng được Nguyễn Đình Thi miêu tả thật xúc
động:
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Nét độc đáo của hai câu thơ này nói riêng và trong cả đoạn thơ thứ ba
là sự chuyển hoá tự nhiên từ ý nghĩa cụ thể của các hình ảnh thơ sang những
ý nghĩa biểu tượng. Hình ảnh thơ gây được ấn tượng rất mạnh nhờ thủ pháp
“ngược sáng”, làm nổi bật những đường nét, màu sắc tương phản gay gắt.
Trong ánh mặt trời chiều tà, lúc hoàng hôn phản chiếu chính diện với góc
nhìn, cánh đồng hoang vắng vùng vành đai trắng quanh đồn giặc đỏ rực như
thể bị nhuộm đỏ một màu máu. Phía chân trời xa, những hàng rào dây thép
gai quanh đồn giặc tua tủa đâm ngược lên như muốn cào rách, xé nát bầu
trời. Nhưng những hình tượng thơ trên đây cũng không phải chỉ được tạo
dựng bằng các thủ pháp nghệ thuật thuần tuý mà đó còn là sản phẩm của
một trí tưởng tượng phong phú và cả tấm lòng đau đớn tha thiết của nhà thơ
với đất nước, quê hương. Nhiều người nhận xét rằng, cánh đồng và bầu trời
là những hình tượng quê hương đất nước hay xuất hiện trong thơ Nguyễn
Đình Thi. Điều ấy cũng không phải ngẫu nhiên, bởi trong tâm hồn của mỗi con
người Việt Nam, cánh đồng và bầu trời quê hương vốn là những hình ảnh
yên ả, thanh bình thì nay trong chiến tranh, quê hương đang bị quân giặc
chiếm đóng và tàn phá, cánh đồng vùng vành đai trắng đã thành một mảnh
đất chết, không bóng người, thiếu vắng màu xanh sự sống… Những câu thơ
gợi cảm giác hoang vắng, chết chóc rất đau thương. Vậy là, từ một hình ảnh
thực, tác giả bắt gặp trong một chiều hành quân qua vùng Bắc Giang, khi đưa
vào bài thơ này đã trở thành một hình ảnh khái quát, có ý nghĩa biểu tượng
sâu sắc và hết sức sinh động về một đất nước đau thương bị tàn phá trong
chiến tranh, dưới ách chiếm đóng của quân giặc tàn bạo.
Nếu ở hai câu thơ trên, lòng đau xót và căm hờn được chất chứa trong
hình ảnh ngoại cảnh có ý nghĩa biểu tượng thì ở hai câu thơ tiếp theo lại bộc
lộ trực tiếp tâm trạng, tình cảm của người chiến sĩ trong khung cảnh quen
thuộc của cuộc đời hành quân chiến đấu:
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu
Vượt lên những đau thương và gian lao của cuộc chiến tranh ác liệt,
đất nước ấy vẫn có những con người với tâm hồn cao đẹp, đầy lãng mạn.
Trên cái nền lửa máu của chiến tranh khốc liệt, trong hoàn cảnh đất nước bị
tàn phá đau thương, người chiến sĩ trên mọi nẻo đường hành quân chiến đấu
không chỉ “nung nấu” trong lòng niềm căm thù cháy bỏng và ý chí diệt thù giải
phóng quê hương mà trong tâm tưởng vẫn luôn ngời sáng hình ảnh đôi mắt
của người yêu, như ngôi sao lấp lánh trong đêm đen, đầy hi vọng và bồn
chồn, khao khát, cứ cháy mãi lên ở phía chân trời xa. Trong những câu thơ
trên, tình yêu và tình đất nước, cái chung và cái riêng đã hoà vào nhau làm
một, rất khó lòng có thể tách bạch. Ở một bài thơ khác trong thời kì kháng
chiến chống Pháp, Nguyễn Đình Thi cũng nói lên ý đó qua hình ảnh ngôi sao
và ngọn lửa:
Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh
Soi sáng đường chiến sĩ dưới ngàn mây
Ngọn lửa nhớ ai mà hồng đêm lạnh
Sưởi ấm lòng chiến sĩ dưới ngàn cây…
Ngôi sao trong đêm không bao giờ tắt
Chúng ta yêu nhau chiến đấu suốt đời
Ngọn lửa trong rừng bập bùng đỏ rực
Chúng ta yêu nhau kiêu hãnh làm người.
(Nguyễn Đình Thi. Nhớ)
Những khổ thơ tiếp theo mang tính chính luận rõ nét nhưng cũng đầy
cảm xúc. Đây là hình ảnh một đất nước đau thương uất hận, được diễn tả
bằng những câu thơ sáu chữ ngắn gọn, đanh thép, rực lửa căm hờn:
Bát cơm chan đầy nước mắt
Bay còn giằng khỏi miệng ta
Thằng giặc Tây, thằng chúa đất
Đứa đè cổ, đứa lột da
Nhưng đất nước đó vẫn không hề chịu khuất phục:
Xiềng xích chúng bay không khoá được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn chúng bay không bắn được
Lòng dân ta yêu nước thương nhà
Từ đó dẫn đến sự khái quát cao độ về những hi sinh mất mát to lớn của
đất nước trong chiến tranh: “ngày nắng đốt theo đêm mưa giội/ Mỗi bước
đường mỗi bước hi sinh”, nhưng vẫn tràn đầy lạc quan: “Trán cháy rực nghĩ
trời đất mới/ Lòng ta bát ngát ánh bình minh”. Do đó, đất nước ấy vẫn hồi
sinh: “Khói nhà máy cuộn trong sương núi/ Kèn gọi quân văng vẳng cánh
đồng/ Ôm đất nước những người áo vải/ Đã đứng lên thành những anh hùng.
Bức tượng đài sừng sững về đất nước
Bài thơ khép lại bằng hình ảnh khái quát về đất nước trong suốt cuộc
kháng chiến trường kì:
Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Giũ bùn đứng dậy sáng loà.
Khổ thơ chuyển phương thức biểu hiện từ cụ thể sang ý nghĩa tượng
trưng khá nhuần nhuyễn, tự nhiên. Từ một chất liệu hiện thực tác giả quan sát
trực tiếp được ở chiến trường Điện Biên Phủ (súng nổ rung trời, người lên
như nước vỡ bờ, máu lửa, giũ bùn đứng dậy), qua thủ pháp của nghệ thuật
điện ảnh và ngôn ngữ thơ ca khái quát, giàu tính hình tượng (Nước Việt
Nam), Nguyễn Đình Thi đã tạo nên một khung cảnh có ý nghĩa biểu tượng hết
sức hoành tráng về đất nước trong đấu tranh và chiến thắng. Trưa ngày
7/5/1954, trong tiếng đại bác ầm vang rung trời chuyển đất, dưới ánh nắng hè
gay gắt và ánh chớp lửa đạn rực trời, các chiến sĩ ta vừa trải qua “Năm mươi
sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt/ Máu trộn bùn non/
Gan không núng, chí không mòn”(Tố Hữu), mình mẩy đầy bùn đất, đã ào ạt
xông lên chiếm đồi A1, cao điểm cuối cùng của giặc, giải phóng hoàn toàn
Điện Biên, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến:
Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng
Bằng thủ pháp của nghệ thuật điện ảnh vừa quay cận cảnh để đặc tả
chi tiết, vừa lùi xa để bao quát được toàn cảnh một không gian rộng lớn của
chiến trường, kết hợp với những từ ngữ giàu tính khái quát, tác giả đã phát
huy được hiệu quả nghệ thuật tổng hợp, tác động mạnh mẽ vào trí tưởng
tượng của người đọc, làm cho những hình ảnh hiện thực mà nhà thơ ghi
được trên đây trở thành một hình ảnh có ý nghĩa biểu tượng, vừa cụ thể vừa
khái quát về một đất nước kháng chiếp trên cái nền của một bối cảnh rộng
lớn. Đó không còn là một khung cảnh cụ thể của thực tế chiến trường Điện
Biên trong trận chiến đấu cuối cùng trên đồi A1 lịch sử nữa mà đã thực sự là
hình ảnh của “nước Việt Nam” trong suốt chín năm kháng chiến “từ máu lửa,
giũ bùn đứng dậy sáng loà”, một đất nước đã vượt qua bao gian khổ, đau
thương, từ trong hi sinh, căm phẫn đã anh dũng đứng dậy chiến đấu và chói
ngời chiến thắng.
Đây cũng là khổ thơ thứ hai trong bài dùng hình thức thơ sáu chữ.
Cách ngắt nhịp 2/ 2/ 2 đều đặn, ngắn gọn tạo ra một âm hưởng rắn chắc,
hùng tráng, diễn tả rất đạt tư thế đĩnh đạc đường hoàng, tầm vóc uy nghi
sừng sững và khí thế hào hùng của cả đất nước trong suốt cuộc kháng chiến
bền bỉ dẫn đến chiến thắng lịch sử kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến, giành
lại nền độc lập, tự do. Đoạn thơ kết thúc tác phẩm mang đậm tính chất sử thi
hoành tráng đã dựng lên được bức tượng đài sừng sững về đất nước chói
ngời trên cái nền của máu lửa, bùn lầy, trong một không gian dồn dập, ầm
vang tiếng súng nổ rung trời. Đó cũng là cao trào trong cảm xúc về đất nước
của tác giả ở bài thơ này.
20. VỀ THI PHÁP TÊN NHÂN VẬT VÀ NGƯỜI ĐÀN BÀ KHÔNG CÓ TÊN TRONG TRUYỆN NGẮN “VỢ NHẶT” CỦA KIM LÂN
Nhân vật trong tiểu thuyết, truyện ngắn… cũng giống như trong cuộc
đời vậy, thường bao giờ cũng phải có một cái tên, dù đấy là nhân vật chính
hay có khi chỉ là những nhân vật phụ. Các nhà văn đặt tên cho nhân vật của
mình thường là ngẫu nhiên, chỉ dùng để gọi là chính chứ ít khi lại có liên quan
trực tiếp tới những ý tưởng nghệ thuật mà nhà văn định thể hiện trong tác
phẩm. Nhưng đôi khi, tên nhân vật cũng bao hàm một dụng ý nào đó, chẳng
hạn trong truyện ngắn Mảnh trăng cuối rừng của Nguyễn Minh Châu: Nguyệt
cũng có nghĩa là trăng, một mảnh trăng khuyết, sáng trong như một mảnh bạc
nhưng lại ở tít tận cuối rừng xa xôi, như thực, như mơ, giống như những vẻ
đẹp sâu kín trong tâm hồn những người quanh ta, gần gũi mà lung linh, khó
nắm bắt; Lãm nghĩa là chiêm ngưỡng, còn chị Tính là tính toán, thấy cô gái
đẹp người đẹp nết trong đơn vị liền tính ngay cho em trai mình v.v… Trường
hợp ngược lại, khi nhà văn cố tình không đặt tên cho nhân vật của mình thì
chắc hẳn phải là một dụng ý nghệ thuật. Như trong tuỳ bút Sông Đà, người ta
thấy Nguyễn Tuân rất tỉ mỉ, kĩ lưỡng trong việc kể tên các nhân vật nhưng
không ai biết ông lái đò điệu nghệ trên sông Đà tên là gì. Hoá ra, người lái đò
sông Đà là một biểu tượng, là hiện thân vẻ đẹp của con người lao động mới,
những con người tài ba, dũng cảm đang ngày đêm khám phá, chinh phục
dòng thác dữ sông Đà, bắt nó phải toả ra nguồn điện phục vụ đời sống con
người, làm giàu cho Tổ quốc…
Kiểu dụng ý nghệ thuật trên đây cũng có thể coi như một thi pháp tên
nhân vật trong truyện. Tôi muốn nói đến cái thi pháp ấy trong Vợ nhặt của
Kim Lân, một truyện ngắn đã từng được nhà văn Nguyễn Khải xếp vào trong
số rất ít những tác phẩm văn học đương đại Việt Nam “dường như chẳng có
gì cả nhưng lại có khả năng làm kinh động lòng người”. Truyện ngắn này có
ba nhân vật mà hình như cả ba đều là nhân vật chính: anh cu Tràng, bà cụ
Tứ (mẹ Tràng) và người phụ nữ là vợ Tràng; chị không có tên, người ta gọi
chị là “vợ nhặt”. Nhân thể cũng xin nói thêm một chút về cái nhan đề Vợ nhặt;
đúng ra, nhan đề của tác phẩm này phải đảo lại thành Nhặt vợ. Bởi đây là câu
chuyện xoay quanh cái sự kiện “nhặt vợ” rất trớ trêu của anh cu Tràng. Nhà
Tràng chỉ có hai mẹ con ở cái xóm ngụ cư nghèo nên lép vế, bị khinh rẻ; anh
ta lại xấu trai, hơi dở hơi nên ế vợ. Nếu trong hoàn cảnh bình thường, có lẽ
khó có thể Tràng lại cô vợ được, ấy vậy mà trong nạn đói khủng khiếp năm Ất
Dậu, anh ta lại lấy được vợ một cách rất dễ dàng. Đúng hơn là anh ta nhặt
được một cô vợ, mà nhặt một cách “tầm phơ tầm phào” chứ chẳng cần phải
cưới treo gì. Vợ anh là một người phụ nữ trong đám hành khất tha hương,
giữa lúc sắp chết đói đến nơi, cùng đường đành phải theo Tràng về làm vợ.
Vậy thì việc đặt nhan đề như thế, ắt là Kim Lân – ít nhất là tự trong tâm thức –
đã muốn dành hẳn câu chuyện này để kể với chúng ta về chị vợ nhặt, người
đàn bà không có tên ấy rồi còn gì!
Mà quả có thế thật. Nếu không thì sao một nhân vật không có tên mà
nhà văn lại để tâm miêu tả tỉ mỉ, kỹ càng đến thế. Người đọc cứ nghĩ chắc
hẳn đây phải là một người phụ nữ, hay nếu là một cô gái thì có lẽ cũng đã
luống tuổi một chút rồi, bởi cứ theo sự miêu tả của Kim Lân, cái cách ăn nói,
đi đứng… của chị thì rõ ra là một người phụ nữ lao động rất mực hiền thục,
chất phác. Song điều đáng nói nhất trong cách thể hiện nhân vật này (và cả
hai nhân vật còn lại của truyện cũng vậy) là nhà văn đã làm nổi bật được quá
trình chuyển biến tâm lí rất tích cực của con người trong cảnh ngộ khốn cùng
thông qua những biểu hiện tâm trạng hết sức sinh động, tinh tế. Trên “con
đường khẳng khiu” theo Tràng về xóm ngụ cư, trong lòng người phụ nữ ấy
vừa xấu hổ, tủi nhục lại vừa lo lắng, phấp phỏng. Xấu hổ, tủi nhục vì dẫu có là
bước đường cùng, nhưng chị làm sao tránh khỏi cái tiếng xấu là “đàn bà theo
giai” trong bối cảnh của cái xã hội phong kiến lạc hậu còn đầy rẫy những định
kiến nặng nề lúc đó. Còn lo lắng, phấp phỏng vì không biết liệu cái anh chàng
mà chị đánh liều theo về làm vợ này có giúp chị tránh khỏi phải chết đói? Liệu
những người trong gia đình anh ta có thông cảm và chấp nhận chị? Một biến
cố cuộc đời đến quá bất ngờ khiến lòng chị không yên với bao tâm trạng, suy
tư. Do đó, bên cạnh dáng điệu phởn phơ tự đắc của Tràng, vẻ e thẹn,
ngượng ngập của chị lại càng nổi bật. “Người đàn bà đi sau hắn chừng ba
bốn bước. Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng
nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn”. Cả đến lúc
đã gặp cụ Tứ, được Tràng giới thiệu là vợ và bà đã chấp nhận thì trong bóng
tối của căn nhà, chị vẫn không khỏi e dè, khép nép. Nhà văn dường như đã
hiểu thấu nỗi lòng chị và thể hiện được những gì đang diễn ra trong lòng
người đàn bà kể từ khi chị đặt bước trên con đường xa lạ về nhà chồng.
Chắc là với chị, con đường ấy dài dặc và xa lắm, bởi không biết cái gì đang
chờ đợi chị, liệu chị có được đón nhận một cách dễ dàng? Liệu cái hạnh phúc
“thử liều nhắm mắt đưa chân” này có cho chị được chút ấm áp hay lại còn
khốn nạn, cay đắng hơn?... Bao nhiêu lo lắng, phấp phỏng khiến sự sốt ruột
trong lòng chị đôi lúc phải bật ra thành tiếng: “Sắp đến chưa?”, “Vẫn chưa đến
à?“, rồi: “Nhà có ai không?”… Chị rơi vào tình cảnh phải theo không Tràng
cũng chỉ là sự bất đắc dĩ, cốt tìm một nơi nương tựa qua ngày, hi vọng có thể
may ra khỏi phải chết đói, nên khi tận mắt chứng kiến gia cảnh của Tràng chỉ
là một “cái nhà vắng teo, đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những
bụi cỏ dại” thì “cái ngực gày lép nhô hẳn lên, nén một tiếng thở dài”. Hoá ra
cái gia cảnh của anh chàng mới ban chiều còn vỗ vỗ vào túi khoe: “Rích bố
cu, hả!” là thế này đây. Chị còn biết sao được nữa. Thất vọng, buồn tủi, chua
xót quá nên mặc cho Tràng lăng xăng, đon đả, “thị chỉ nhếch mép cười nhạt
nhẽo (…) hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần...”. Tôi cứ nghĩ mãi về
cái sự kĩ càng, tỉ mẩn đến mức ghê người của Kim Lân ở cái chi tiết tưởng
như rất bình thường này. Sao đã đứng giữa căn nhà của mẹ con Tràng rồi
mà nhà văn vẫn cứ để tay chị ôm khư khư cái thúng như thế? Phải chăng vì
“căn nhà rúm ró” của mẹ con Tràng quá chật chội, chị chẳng biết để cái thúng
vào đâu? Hay vì giờ đây, cái thúng (dụng cụ đi xin ăn của chị) là tài sản còn
lại duy nhất nên chị chẳng nỡ rời?…
Tuy nhiên, ngòi bút của Kim Lân không chỉ tinh tế mà còn rất nhân hậu,
ông không muốn khoét sâu vào những nỗi trớ trêu xót xa, đau lòng ấy. Bởi
ngay khi viết Vợ nhặt, mặc dầu lấy bối cảnh là nạn đói khủng khiếp do phát xít
Nhật và thực dân Pháp gây ra đầu năm Ất Dậu (1945) làm hơn hai triệu đồng
bào miền Bắc nước ta bị chết đói, nhưng ông không muốn dìm người đọc
trong cái buồn Khổ, đói nghèo: “Khi viết về cái đói, thường mọi người có ý
nghĩ là khi đói, người ta cảm thấy khổ cực và chỉ muốn chết. Tôi có ý định viết
một số truyện ngắn nhưng với ý khác là khi đói, người ta không nghĩ đến con
đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống. Dù trong tình huống bi thảm
đến đâu, dù kề bên cái chết, họ vẫn khao khát hạnh phúc, vẫn hướng về ánh
sáng, vẫn tin vào sự sống và hi vọng ở tương lai, vẫn muốn sống và sống cho
ra người”. Ý thức muốn “chú ý làm nổi bật ý nghĩa nhân bản trong truyện” đó
của Kim Lân đã khiến cho cái khát vọng mãnh liệt muốn được sống, được
hạnh phúc của con người trong nhân vật người đàn bà nghèo khổ là vợ nhặt
cứ thế mà lộ ra một cách hết sức hồn hậu, tự nhiên. Không tìm thấy sự no đủ
nhưng dẫu sao, chị cũng vơi bớt được một nỗi lo trong dạ khi biết nhà Tràng
chỉ có một mẹ già; dĩ nhiên, chị hiểu điều ấy là đỡ phức tạp, khả năng bị hắt
hủi, xua đuổi giảm xuống mức thấp nhất… Mà đấy chẳng phải đã là một nửa
sự sống rồi sao! Cho nên, lúc ấy chị đã có thể “tủm tỉm cười” nhại đùa lại câu
nói của Tràng: “Đã một mình lại còn mấy u: Bé lắm đấy!”. Và mặc dù vẫn còn
rất buồn vì thất vọng, hầu như chị chẳng còn nói được gì kể từ lúc chứng kiến
gia cảnh của mẹ con Tràng, nhưng trước sự cảm thông, yêu thương trong
một mái ấm gia đình, sáng hôm sau, chị đã săm sắn cùng với mẹ chồng quét
dọn, thu vén lại nhà cửa, vườn tược như một người con dâu thật sự trong
nhà. Sự thay đổi ấy lớn đến nỗi chính Tràng cũng không khỏi ngạc nhiên:
“Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng
mực, không có vẻ gì chao chát, chỏng lỏng như mấy lần Tràng gặp ở ngoài
tỉnh”.
Đặc biệt, trong bữa ăn của một ngày mới (dù chỉ là cháo loãng với cám)
người nói “toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này” lại là một bà
cụ sắp gần đất xa trời, còn người nói đến đấu tranh, “phá kho thóc của Nhật
chia cho người đói” lại chính là chị “vợ nhặt”, người đàn bà không có tên trong
tác phẩm. Hình ảnh từng đoàn “những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi
trên đê Sộp (…) và lá cờ đỏ bay phấp phới…” do câu chuyện của chị gợi ra
có thể còn “ít nhiều gượng gạo” như có người đã từng nhận xét nhưng theo
Kim Lân thì nó bắt nguồn từ một bối cảnh có thực là phong trào cách mạng
vùng lên ở ngay tại làng ông và các vùng lân cận khi đó. Ông tâm sự: “Khi
viết, tôi không nghĩ nhiều đến xuất xứ, hoàn cảnh của câu chuyện mà tất cả
gần như tự nhiên đến. Nhân vật do hoàn cảnh của câu chuyện mà nảy ra
những tâm tư, hành động, cách xử sự mà tôi không định trước”. Tuy nhiên,
những chi tiết kết thúc tác phẩm trên đây chắc chắn phải là một ý đồ nghệ
thuật có định trước của tác giả. Theo ông, cái kết ấy nhằm “giải đáp nỗi băn
khoăn cho truyện vì nếu cứ để cái đói kéo dài thì mọi việc tối quá, cần phải có
một hướng mở ra (…). Sau khi Tràng lấy được vợ, cảnh sống gia đình có
triển vọng hơn, tuy không thật rõ rệt nhưng đã tạo được niềm tin. Trong cuộc
sống như có một cái gì đổi thay, biến chuyển…”.
Nhiều người cho rằng, ở truyện ngắn này, nhân vật bà cụ Tứ, một
người mẹ nhân hậu, từng trải là một nhân vật làm người đọc xúc động nhiều
nhất. Điều ấy quả không sai. Nhưng đọc đến những dòng chữ cuối cùng của
truyện ngắn này và gấp trang sách lại, cái dư vị đọng lại, ám ảnh mãi tâm trí
ta, khiến ta phải động lòng trắc ẩn nhất vẫn là người đàn bà không có tên làm
“vợ nhặt” của anh cu Tràng (nếu có gọi chị là “vợ nhặt” thì đấy cũng không
phải là tên). Ta vẫn thấy như đang ở trước mắt mình hình ảnh người đàn bà
cái ngày “vu quy” ảm đạm ấy, thân hình gầy gò, hốc hác, quần áo rách rưới tả
tơi, rón rén, e thẹn, mặt bần thần, tay ôm khư khư cái thúng (cái thúng không
thôi nhưng hình như nó là tài sản duy nhất của chị lúc ấy)…, vậy mà sáng
hôm sau đã tươi tắn bừng sáng cùng với ánh bình minh của một ngày mới.
Sự hồi sinh ấy phải chăng là biểu hiện rõ nhất sức sống mãnh liệt và khát
vọng hạnh phúc đầy tính nhân bản của con người…
21. TIẾNG “HÁT CON TÀU” – TIẾNG HÁT CỦA NGUỒN CẢM HỨNG MỚI TRONG MỘT TÂM HỒN THƠ
Từ một tâm trạng và một hình ảnh có ý nghĩa biểu tượng: con tàu lên Tây Bắc
Tiếng hát con tàu (rút trong tập Ánh sáng và phù sa, in năm 1960) là kết
quả sự thúc đẩy cảm hứng mạnh mẽ trong tâm hồn Chế Lan Viên về sự trăn
trở ý thức nghệ thuật chung của giới văn nghệ sĩ lúc đó: tha thiết gắn bó với
công cuộc xây dựng cuộc sống mới của nhân dân, sẵn sàng đến với những
miền xa xôi của Tổ quốc đang còn gặp nhiều khó khăn, gian khổ… Bài thơ
thể hiện nỗi khát khao cháy bỏng và niềm hạnh phúc lớn lao của một tâm hồn
thơ khi được trở về hoà nhập với cuộc đời cần lao nhưng rộng lớn của nhân
dân, đất nước.
Để diễn đạt cảm xúc và chủ đề tư tưởng trên đây, bài thơ bắt đầu từ
một hình ảnh có ý nghĩa biểu trưng: con tàu lên Tây Bắc. Hình ảnh này hoàn
toàn không có nghĩa hiện thực vì trong thực tế không có con tàu và đường tàu
lên Tây Bắc, nó chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng nhằm thể hiện một khát
vọng mãnh liệt trong tâm hồn nhà thơ ở một hoàn cảnh đặc biệt. Lúc đầu, bài
thơ có nhan đề là Con tàu Tây Bắc. Chế Lan Viên nhớ lại: Bài thơ “được viết
ra từ một tâm trạng, hồi ấy tôi đau yếu không đi đâu được và tôi lại đặt câu
hỏi: Nếu mình không đi được thì sao? Tôi đã tìm một cách an ủi để tự yên
lòng:
Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hoá những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu?
Nói thế thôi nhưng trong lòng rất day dứt. Lúc này cảm thấy như cuộc
sống của mình sẽ chật hẹp, nhỏ bé nếu không hoà vào được với cuộc đời
chung. Những câu thơ đầu là nói cho mình, cho cảnh ngộ của mình:
“Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp
Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?
Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia”
Từ tâm trạng cụ thể và hình ảnh con tàu tâm tưởng đó mà khơi gợi
những kỉ niệm kháng chiến sâu nặng nghĩa tình với miền đất Tây Bắc và gửi
trọn lòng mình trong sự gắn bó tha thiết với cuộc sống của nhân dân, Chế
Lan Viên đã tìm ra được mạch phát triển cảm xúc – tư tưởng hợp lí, xúc động
và rất tự nhiên, dễ đi vào lòng người:
Trên Tây Bắc! Ôi, mười năm Tây Bắc
Xứ thiêng liêng, rừng núi đã anh hùng
Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất
Nay dạt dào đã chín trái đầu xuân
Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa
Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đường
Con đã đi nhưng con cần vượt nữa
Cho con về gặp lại Mẹ yêu thương
“Mẹ” ở đây là cuộc sống rộng lớn của nhân dân, là Đất Mẹ của quê
hương trên Tây Bắc. Như vậy, con tàu là một hình ảnh biểu tượng cho tâm
hồn của chính nhà thơ – chủ thể trữ tình – và “tiếng hát con tàu” là tiếng hát
của một tâm hồn thơ trong hành trình trở về gắn bó với cuộc đời, hoà nhập
với cuộc sống của nhân dân, đất nước. Tiếng hát đó lại càng hào hứng, thiết
tha và xúc động hơn vì nó là tiếng lòng của một hồn thơ đang nỗ lực tự vượt
chính mình với tinh thần: “Phá cô đơn ta hoà hợp với người”, từ bỏ cái tôi cô
đơn, đóng khép để hoà nhập với cuộc đời chung.
Mượn biểu tượng con tàu và nương theo trình tự bám sát hành trình
của con tàu lên Tây Bắc, kết cấu bài thơ thể hiện diễn biến tâm trạng của chủ
thể trữ tình trong mạch cảm xúc, suy tưởng của một tư duy chính luận rất rõ
nét. Ngoài 4 câu thơ đề từ của bài mà tác giả có ý định dùng làm lời đề từ
chung cho cả một chùm thơ trong Ánh sáng và phù sa, hai khổ thơ đầu là
những trăn trở của một tâm hồn thơ đồng thời cũng là một sự thôi thúc, một
lời mời gọi lên đường. Chín khổ sau khơi gợi những kỉ niệm nghĩa tình sâu
nặng với nhân dân, qua đó bộc lộ khát vọng và niềm hạnh phúc lớn lao của
nhà thơ khi được trở về hoà nhập với cuộc đời rộng lớn và bốn khổ cuối là
khúc hát lên đường sôi nổi, say mê, tin tưởng và lãng mạn. Giọng điệu, âm
hưởng cửa bài thơ cũng biến đổi phù hợp với mạch tâm trạng và sự phát triển
cảm xúc của từng đoạn nói trên: đoạn đầu có tính chất đối thoại, tranh luận và
thuyết phục; đoạn hai thiết tha, sâu lắng và cảm động; đoạn ba dồn dập, lôi
cuốn, bay bổng. Và cuối cùng cũng phải kể đến một nét đặc sắc nghệ thuật
nổi bật của thơ Chế Lan Viên nói chung và của bài thơ này nói riêng, đó là
chất trí tuệ và sự sáng tạo hình ảnh. Câu thơ của Chế Lan Viên thường được
cấu tạo bằng các hình ảnh kết thành từng chuỗi, tầng tầng lớp lớp, vừa hiện
thực, vừa tượng trưng. Nhiều biện pháp xây dựng hình ảnh được sử đụng,
nhất là biện pháp so sánh (đôi khi khá cầu kì), tạo ra được những liên tưởng
bất ngờ, độc đáo và gợi mở trí tưởng tượng phong phú cửa người đọc.
Nhưng điều quan trọng nhất là đằng sau những kĩ xảo ngôn từ, bài thơ vẫn
đạt được sự nhuần nhuyễn giữa cảm xúc và suy tưởng, giữa tí trí và tình
cảm. Từ sự khơi gợi nghĩa tình gắn bó sâu nặng với nhân dân mà mời gọi,
giục giã những tâm hồn thơ đến với mọi miền của Tổ quốc, đến với cuộc sống
cần lao nhưng rộng lớn của nhân dân nên bài thơ vẫn tạo ra được sự rung
động và lắng đọng cần thiết, gợi mở những suy tưởng sâu xa về chân lí cuộc
sống và chân lí của thơ ca, nghệ thuật.
Ý nghĩa của bốn câu thơ đề từ: sự khái quát về quy luật của cảm xúc thơ ca, nghệ thuật
Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hoá những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu?
Như mọi lời đề từ cho tác phẩm, bốn câu thơ trên đây cũng có thể coi
như sự đúc kết, sự khái quát hoá mạch suy tưởng của Chế Lan Viên trong
toàn bộ bài thơ về một chân lí của cảm xúc thơ ca nghệ thuật: mối quan hệ
gắn bó biện chứng giữa tâm hồn, tình cảm của người nghệ sĩ với cuộc đời
chung. Một mặt, Chế Lan Viên ý thức rất rõ vai trò quyết định của chủ thể cảm
xúc “khi lòng ta đã hoá những con tàu”, nhưng mặt khác, hiện thực đời sống
“Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát” cũng là một yếu tố vô cùng quan trọng trong
việc tạo nên những xúc cảm thơ ca chân chính, đẹp đẽ. Nói cách khác, khi
tâm hồn, tình cảm của nhà thơ đã hoà làm một với hơi thở và tinh thần của
cuộc sống lớn thì cũng là lúc nhà thơ liền tìm thấy những cảm xúc thơ ca đích
thực cho hồn thơ của mình: “Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu”. Chế Lan
Viên tâm sự: “Lúc làm bài thơ Con tàu Tây Bắc tôi chưa lên Tây Bắc (…)
nhưng tôi có vốn hiểu biết về núi rừng Trường Sơn kháng chiến. Trung thơ ca
cũng có hiện tượng lạ. Nguyên Chẩn đi thì viết hay, Bạch Cư Dị không đi lại
viết hay hơn. Bài thơ Con tàu say của Rim–bô được viết ra khi tác giả của nó
chưa đi biển. Cái căn bản trong thơ là nhiệt tình lớn, nhiệt tình lớn hỗ trợ với
hiện thực nên toả ra cường độ cao. Có khi là nhiệt tình mới, mơ ước mới
cộng với vốn sống cũ. Trong bài thơ, tôi nói nhiều về kỉ niệm kháng chiến, nó
sống lại trong lòng tác giả như một chất liệu trực tiếp. Trong cuộc đời sáng
tác, có những chất liệu, vốn sống đến với mình một cách tự nhiên ở lúc này,
lúc khác và đến một lúc nào đó mới phát huy tác dụng trong thơ. Tôi nghĩ đó
cũng là trường hợp bài thơ Con tàu Tây Bắc”
Những kỉ niệm kháng chiến và niềm hạnh phúc lớn lao của nhà thơ khi được trở về gắn bó với cuộc sống của nhân dân
Sự trở về gắn bó với nhân dân cũng chính là sự trở về với những gì
sâu nặng nhất của lòng mình. Vì vậy, sau những hình ảnh giục giã lên Tây
Bắc của con tàu tâm tưởng ở đầu bài thơ, tác giả chuyển cảm xúc của mình
về những kỉ niệm sâu nặng nghĩa tình với nhân dân trong kháng chiến. Chế
Lan Viên viết bài thơ này khi đất nước đã qua năm, sáu năm xây dựng trong
hoà bình. Kháng chiến đã lùi vào dĩ vãng nhưng đó là những năm tháng
không thể nào quên. Nhất là với các nhà thơ lớp trước Cách mạng như Chế
Lan Viên thì cuộc kháng chiến cứu nước còn có một ý nghĩa đặc biệt, bởi đó
là thời kì đã diễn ra những biến đổi mạnh mẽ về cuộc đời và con đường nghệ
thuật đến với nhân dân và cách mạng của họ. Vì thế, nhà thơ đã nhắc đến
kháng chiến với một tấm lòng đặc biệt biết ơn và những tình cảm thiêng liêng,
sâu nặng:
Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa
Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đường.
Kháng chiến cũng gắn liền với Tây Bắc, mảnh đất đã từng in dấu bao kỉ
niệm riêng – chung: “Xứ thiêng liêng, rừng núi đã anh hùng/ Nơi máu rỏ tâm
hồn ta thấm đất”, nay đang náo nức hồi sinh cuộc sống mới: “Nay dạt dào đã
chín trái đầu xuân”. Do đó, lên Tây Bắc cũng tức là trở về với những gì thiết
tha, sâu nặng nhất của lòng mình. Có thể nói, đoạn thơ giãi bày những tình
cảm thắm thiết, sâu nặng nghĩa tình của nhà thơ với nhân dân qua những kỉ
niệm kháng chiến là đoạn tạo được sự xúc động mạnh mẽ nhất trong toàn bộ
bài thơ:
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa,
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa.
Để diễn tả được ý nghĩa sâu xa của niềm hạnh phúc lớn lao khi được
trở về gắn bó với nhân dân, đoạn thơ sử dụng lối so sánh trùng điệp giữa một
bên là “con gặp lại nhân dân” với một bên là những hình ảnh so sánh liên tiếp:
“nai về suối cũ”, “cỏ đón giêng hai”, “chim én gặp mùa”, “trẻ thơ đói lòng gặp
sữa”, “nôi ngừng gặp cánh tay đưa”. Ở vế đầu, nhà thơ đã chuyển cách xưng
hô từ cái “ta” chung sang cái tôi cá nhân “con”. Dùng đại từ “con”, một đại từ
chỉ quan hệ thân tộc để xưng gọi với “nhân dân”, tác giả vừa thể hiện được
tấm lòng thành kính thiêng liêng đối với nhân dân vừa nói lên được niềm vui
sướng, hạnh phúc tột đỉnh của mình, bởi cách xưng gọi đó gợi những tình
cảm yêu thương thân tình, bền chặt. Trong những năm kháng chiến, nhân
dân đã trở thành những người thân, thành ruột thịt của nhà thơ nên khát vọng
gặp lại nhân dân cũng là khát vọng trở về với những con người thân thiết
trong ngôi nhà của mình. Những hình ảnh so sánh ở vế sau đều rất hợp với lẽ
tự nhiên, thể hiện được sự hoà hợp giữa nhu cầu, khát vọng của bản thân và
sự đáp ứng của hiện thực nên đã có tác dụng nhấn mạnh niềm hạnh phúc tột
độ và ý nghĩa sâu xa của việc trở về hoà nhập, gắn bó với cuộc sống của
nhân dân. Những hình ảnh so sánh liên tiếp đó cũng được sử dụng như một
thủ pháp nghệ thuật trùng điệp nhằm diễn tả cho đủ, cho thoả hết mọi khía
cạnh ý nghĩa và niềm hạnh phúc lớn lao trong cuộc “phục sinh” của Chế Lan
Viên, một hồn thơ lãng mạn siêu hình vào bậc nhất và có thời đã tự giam
mình trong cái tôi cô đơn, đóng khép. Đọc những câu thơ này, ta có thể thấy
được sự rung động hết sức sâu sắc, mãnh liệt và thiết tha của một hồn thơ
trong phút giây bừng sáng sự giác ngộ về một chân lí đời sống, cũng là chân
lí của thơ ca, nghệ thuật: sự trở về với nhân dân cũng tức là trở về với cội
nguồn sự sống, trở về với những cảm hứng thơ ca chân chính, đích thực.
Những hình ảnh so sánh ở đoạn thơ này rất cụ thể và dung dị chứ không cầu
kì theo cách quen thuộc của Chế Lan Viên, tất cả đều được rút ra từ đời sống
tự nhiên, trong cuộc đời thường nhật nên rất gần gũi và gợi cảm: Tuy nhiên,
sự tương hợp tự nhiên giữa hai vế so sánh vẫn tạo được sự bất ngờ lớn, bởi
nó thể hiện khả năng phát hiện khá sắc sảo, tinh tế mà vẫn mang đậm chất
suy tư, triết lí của nhà thơ. Đó cũng là điểm mạnh trong tư duy nghệ thuật và
phong cách thơ của Chế Lan Viên từ sau Cách mạng tháng Tám.
Niềm hạnh phúc lớn lao đó còn khơi gợi kí ức đầy xúc động về sự cưu
mang, đùm bọc của nhân dân đối với cách mạng, trong đó có các nhà thơ
kháng chiến năm xưa. Hình ảnh nhân dân qua sự hồi tưởng của nhà thơ
không còn là một khái niệm chung chung trừu tượng mà hết sức cụ thể, sinh
động bởi những kỉ niệm đó gắn liền với những con người rất gần gũi và đầy
đức hi sinh. Nhân dân, đó là “anh con, người anh du kích/ Chiếc áo nâu anh
mặc đêm công đồn/ Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách/ Đêm cuối cùng còn
gửi lại cho con.” Đó là “em con, thằng em liên lạc/ Mười năm tròn chưa mất
một phong thư,” là bà “mế” già “lửa hồng soi tóc bạc/ Năm con đau, mế thức
một mùa dài”... Bằng cách đưa ra những hình ảnh liên tiếp sau động từ “nhớ”
được lặp đi lặp lại như một điệp khúc: “Con nhớ anh con”, “Con nhớ em con”,
“Con nhớ mế”, “Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ”… đoạn thơ chồng
chất, ăm ắp những kỉ niệm xúc động, ân tình theo dòng hồi ức tuôn trào và
thổn thức hiện ra trong nỗi nhớ của nhà thơ. Những câu thơ nói về tình nghĩa
với nhân dân trong đoạn thơ này đã tạo được sự rung động sâu lắng cần thiết
cho mạch suy tưởng, triết lí chung của cả bài thơ. Bởi nó biểu lộ tấm lòng biết
ơn sâu nặng và sự xúc động chân thành của một tâm hồn giàu xúc cảm đã
được trải nghiệm thấm thía trong sự gắn bó với nhân dân suốt mười năm
kháng chiến.
Những chiêm nghiệm giàu chất triết lí về chân lí cuộc sống, chân lí của thơ ca nghệ thuật
Từ những kỉ niệm kháng chiến sâu nặng với nhân dân, Chế Lan Viên
đã nâng lên thành những suy ngẫm, chiêm nghiệm giàu tính khái quát về quy
luật của đời sống tình cảm trong tâm hồn con người:
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!
Đoạn thơ như một châm ngôn, được đúc kết một cách thật sắc sảo, súc
tích, quen thuộc mà vẫn có cái gì đó rất mới lạ, tất yếu mà vẫn thấy thật bất
ngờ: “Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn”. Kết hợp nhuần
nhuyễn giữa cảm xúc và suy tưởng đồng thời nâng cảm xúc, suy tưởng lên
thành những triết lí khái quát là ưu điểm chung của thơ Chế Lan Viên, được
thể hiện rất rõ nét trong đoạn thơ này.
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương.
Đến đây, mạch thơ bỗng đột ngột tưởng như rẽ sang một hướng suy
tưởng khác nhưng kì thực vẫn tiếp tục khơi sâu thêm mạch suy ngẫm và triết
luận ở khổ thơ trước. Nhìn hình thức tưởng như đó là những câu thơ viết về
tình yêu đôi lứa nhưng thực chất là tác giả vẫn tiếp tục hướng tới lí giải, cắt
nghĩa làm bừng sáng ý nghĩa của sự gắn bó giữa nhà thơ với cuộc sống cần
lao rộng lớn của nhân dân. Cả khổ thơ là một quan hệ so sánh ngầm ẩn: Sự
gắn bó của nhà thơ với nhân dân được ví như trong tình yêu, cần phải có sự
hoà hợp, đồng điệu của hai tâm hồn. Các hình ảnh so sánh ở đoạn thơ này
đều thấm đẫm chất chiêm nghiệm và triết lí: mỗi sự vật, hiện tượng chỉ có thể
tồn tại, sinh thành và có ý nghĩa trong mối quan hệ gắn bó sinh tử với một sự
vật, hiện tượng khác, như mùa đông với cái rét, như cánh kiến (là một loài kí
sinh) với hoa vàng (loài cây chủ), như mùa xuân với sự trở biếc của lông chim
rừng. Đó cũng là bản chất của tình yêu với sự gắn bó khăng khít của hai tâm
hồn. Nhưng ý thơ lại hướng tới một tình cảm lớn lao hơn, đó là mối quan hệ
máu thịt giữa cuộc sống của cá nhân với đời sống của cộng đồng, là sự gắn
bó không thể tách rời giữa thực tiễn đời sống của đất nước với cảm xúc của
thơ ca, nghệ thuật v.v… Vì vậy, tâm trí nhà thơ như thể reo lên khi phát hiện
ra một quy luật giản dị trong đời sống tình cảm của con người: “Tình yêu làm
đất lạ hoá quê hương”. Đó cũng là sự đúc kết tư tưởng và cảm xúc chung của
cả bài thơ, là nguồn gốc khát vọng và niềm hạnh phúc lớn lao của nhà thơ
trong sự trở về hoà nhập, gắn bó với cuộc đời rộng lớn của nhân dân, đất
nước.
Tiếng hát con tàu là một thành công lớn của Chế Lan Viên sau Cách
mạng tháng Tám. Đây cũng là điểm đánh đấu bước chuyển mình mạnh mẽ
của một hồn thơ lãng mạn đóng khép và siêu hình vào bậc nhất trong nền thơ
ca Việt Nam trước Cách mạng. Bài thơ cũng góp phần khẳng định rằng chính
cách mạng và nhân dân đã làm hồi sinh tâm hồn và thăng hoa những cảm
xúc lãng mạn khoẻ khoắn cho những hồn thơ biết hoà nhập, gắn bó với cuộc
sống chung của nhân dân, đất nước.
22. NÊN HIỂU THẾ NÀO VỀ “RỪNG PHÁCH” TRONG BÀI THƠ “VIỆT BẮC”
Trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu, đoạn thơ dưới đây có thể coi là một
trong những đoạn đặc sắc nhất:
Ta về, mình có nhớ ta,
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng,
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng,
Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Rừng thu trăng rọi hoà bình,
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Nét độc đáo riêng của đoạn thơ này là chỉ với 10 câu thơ nhưng đã gợi
tả trọn vẹn được cả nỗi nhớ thiên nhiên cảnh vật và con người Việt Bắc trong
lòng người cán bộ về xuôi trước giờ phút chia xa. Những câu thơ được viết
khá tự nhiên, nhuần nhuyễn, từ ngữ, hình ảnh bình dị, có vẻ như không một
chút dụng công, cảnh và người nơi miền đất chiến khu, quê hương cách
mạng cứ lần lượt hiện ra như một dòng hồi ức tuôn chảy đào dạt tự trong
lòng của người ra đi. “Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”: Hoa với người,
cảnh Việt Bắc và người Việt Bắc cứ quyện vào nhau trong nỗi nhớ… Song,
nếu chú ý hơn một chút, sẽ thấy ngay sự chọn lựa khá kĩ càng của một cây
bút điêu luyện. Sau hai câu mở đầu, tám câu thơ tiếp theo cứ một câu nhớ
cảnh lại một câu nhớ người, mà cảnh và người đều rất đặc trưng cho Việt
Bắc, tạo thành một bộ tranh tứ bình độc đáo, có đủ cả bốn mùa xuân, hạ, thu,
đông. Mùa xuân mơ nở trắng rừng, mùa hạ ve kêu rừng phách đổ vàng, mùa
thu trăng rọi hoà bình và mùa đông hoa chuối đỏ tươi. Cách diễn tả cũng rất
tinh tế, gợi cảm: màu sắc, cảnh vật trong mỗi bức tranh của bộ tứ bình ấy đều
mang những nét riêng, nổi bật của từng mùa; đặc biệt, không hề có cái vẻ hiu
hắt, tàn tạ như thường vẫn thấy trong bao cuộc chia li mà tất cả đều vẫn rất
đẹp, rất tươi sáng. Giữa bạt ngàn màu xanh hoa lá, nổi bật một sắc màu nóng
ấm đỏ tươi của bông hoa chuối rừng làm cho bức tranh mùa đông của núi
rừng Việt Bắc không còn vẻ hoang lạnh, u ám vốn có của nó. Mùa xuân tràn
ngập một sắc trắng hoa mơ vừa tinh khiết vừa giàu sức Sống. Mùa hè rộn rã
tiếng ve ran. Còn mùa thu lại hiện ra bình yên bởi ánh trăng trung thu rọi tỏ
ước mơ về cuộc sống hoà bình, yên vui giữa những ngày kháng chiến gian
khổ. Bốn bức tranh của bốn mùa cảnh nào cũng đẹp, mùa nào cũng đáng
yêu, cũng giàu sức sống và tinh tế, mỗi mùa thực là một bức hoạ nên thơ…
Việc hiểu toàn bộ đoạn thơ và từng câu thơ như thế, tưởng cũng chẳng
còn gì đáng phải bàn. Tuy vậy, khi giảng dạy bài thơ này, chúng tôi vẫn còn
băn khoăn về câu thơ tả mùa hè: Ve kêu rừng phách đổ vàng. Mới đọc qua,
câu thơ tưởng như không có gì khó hiểu, nhưng trên thực tế đã và đang tồn
tại không ít sự cảm nhận khác nhau, nhất là khi đi vào ý nghĩa cụ thể của
từng từ ngữ, hình ảnh. Vẫn biết rằng đôi khi từ ngữ, hình ảnh thơ chỉ là các
biểu hiện nhằm diễn tả những ấn tượng cảm xúc và đòi hỏi sự rành mạch, cụ
thể đến mức xác thực, trần trụi là không cần thiết đối với ngôn ngữ thơ ca,
thứ ngôn ngữ nghệ thuật giàu sức gợi, thiên về “cảm” hơn là “hiểu”. Vẫn biết
rằng ở đây, sự “mờ nhoè” về nghĩa được coi như một đặc trưng và nhiều khi
phải bằng sự “cảm thơ” thì mới thấy hết được mọi sắc màu huyền diệu, lung
linh của nó… Nhưng có điều, nếu không dựa trên sự “hiểu” chính xác các từ
ngữ, hình ảnh thì việc “cảm” thơ cũng khó tránh khỏi chông chênh hoặc
những suy diễn chủ quan, vô căn cứ. Trường hợp câu thơ tả mùa hè nói trên
của Tố Hữu là một ví dụ. Có người cho rằng “phách” là hổ phách, một thứ
nhựa thông quý đã qua ngàn năm tuổi, màu vàng óng, nên “rừng phách” cũng
tức là rừng thông. Và câu thơ tả tiếng ve mùa hè là tả bằng trí tưởng tượng,
trong một trường liên tưởng khá độc đáo. Nghe tiếng ve kêu hối hả dưới nắng
hè chói chang mà ngỡ như cả rừng hổ phách (nhựa thông) đổ tràn xuống một
màu vàng chói óng ánh. Lại có tác giả hiểu “phách” là một loại nhạc cụ, nên
Ve kêu rừng phách đổ vàng nghĩa là tiếng ve ran như nhịp phách giòn giã của
núi rừng khi hè về. Đa số căn cứ vào chú giải trong SGK Văn học 12 phổ
thông, hiểu “phách” là cây phách, một loài cây ở rừng Việt Bắc; nhưng đi theo
hướng này, sự cảm nhận câu thơ vẫn chưa phải đã thống nhất, đôi khi còn
khác nhau khá xa. Có lẽ một phần cũng do lời chú giải của SGK Văn học 12
phổ thông xưa nay chưa nhất quán nên mỗi người hình dung về cây phách
mỗi khác: câu thơ khi thì được giải thích là lúc ve kêu, nắng vàng đổ tràn
xuống trong rừng phách; khi là rừng phách chuyển sang màu vàng, hoặc cho
rằng đấy là những trận mưa hoa vàng của cây phách trong rừng Việt Bắc khi
hè về v.v…
Vậy phách ở đây là gì? Và “rừng phách” là rừng thông, rừng (cây)
phách hay là nhạc điệu của rừng? Chúng tôi đã trực tiếp tìm hỏi nhà thơ Tố
Hữu về chi tiết này và được ông khẳng định: chữ phách nghĩa là cây phách
trong rừng Việt Bắc, đúng như chú giải khá thống nhất của các văn bản SGK
phổ thông. Có điều, nó không nở hoa vàng vào mùa hè, lúc ve kêu mà đó là
một loài cây thân mộc, trông gần giống như cây long não, mọc rất nhiều
quanh vùng ATK trong kháng chiến chống thực dân Pháp, bà con địa phương
gọi là cây phách. Loài cây này rụng lá vào mùa đông, khi ve kêu vào hè,
những chiếc lá bánh tẻ có màu vàng lốm đốm xanh. Dưới ánh nắng hè, chúng
tạo cho rừng Việt Bắc những mảng màu vàng rực rỡ rất đẹp và “rừng phách
đổ vàng” là một ẩn dụ dựa trên cơ sở của những quan sát hiện thực, chứ
không phải chỉ là những liên tưởng có tính chất tưởng tượng chủ quan của
nhà thơ. Vậy là, từ một cảnh sắc rất đặc trưng của núi rừng quê hương cách
mạng, Tố Hữu đã sáng tạo được một câu thơ thuộc vào loại hay nhất của bài
thơ Việt Bắc: nội trong một câu thơ tả mùa hè mà cho thấy được sự luân
chuyển sống động cả về không gian lẫn thời gian: tiếng ve kêu báo hiệu mùa
hè – hè đến – rừng phách chuyển thành màu vàng…
Nhân việc tìm hiểu một vài từ ngữ, hình ảnh để hiểu đúng một câu thơ
của Tố Hữu, chúng tôi cũng xin được bổ sung đôi nét để lời chú giải trong
SGK được rõ ràng thêm, tránh những cách hiểu quá xa nhau khi giảng dạy,
phân tích về bài thơ này.
23. KIỂU HÌNH TƯỢNG SONG HÀNH, LỐI BIỂU ĐẠT SÓNG ĐÔI VÀ SỰ THỂ HIỆN NỖI NHỚ ĐỘC ĐÁO CỦA XUÂN QUỲNH TRONG BÀI THƠ “SÓNG”
Sóng là một bài thơ khá tiêu biểu của Xuân Quỳnh, được sáng tác vào
năm 1967, khi chị vừa tròn 25 tuổi. Trong toàn bộ bài thơ này, để tỏ bày trực
tiếp những rung động tình yêu vừa hồn nhiên chân thật vừa thiết tha sôi nổi
của một trái tim phụ nữ, Xuân Quỳnh đã sử dụng phương thức diễn đạt ẩn dụ
thông qua một hình ảnh có ý nghĩa biểu trưng rất phù hợp là hình ảnh con
sóng, khiến cho những biểu hiện tình cảm đa dạng của tâm hồn bỗng trở nên
hết sức sinh động, cụ thể. Và đây cũng là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo
của bài thơ bởi mỗi trạng thái, mỗi biểu hiện phong phú, phức tạp trong tâm
hồn người con gái trong tình yêu đều có thể tìm thấy sự tương hợp tuyệt diệu
với một khía cạnh, một đặc tính nào đó của sóng. Tuy nhiên, khi mạch cảm
xúc dâng trào mãnh liệt, dường như dùng hình tượng sóng diễn tả vẫn chưa
đủ, chưa thoả, nhà thơ còn dùng cách bộc bạch trực tiếp thông qua nhân vật
“em”; do vậy, bài thơ có dạng hình tượng song hành và lối biểu đạt sóng đôi.
Song, em và sóng, tuy hai nhưng thực ra cũng chỉ là một, đều là tâm trạng và
nỗi lòng của một người con gái đang yêu, là sự phân thân và hoá thân cái tôi
trữ tình của tác giả. Hai hình tượng này trong bài thơ có lúc phân đôi ra để bổ
sung, soi sáng cho nhau nhưng vẫn luôn luôn thống nhất, hoà hợp với nhau
nhằm diễn tả một cách thật mãnh liệt và thấm thía về những cung bậc tình
cảm đằm thắm nhưng đầy khao khát đang dâng trào trong trái tim nữ thi sĩ…
Đoạn thơ diễn tả nỗi nhớ, một trong những biểu hiện tình cảm nổi bật
của tình yêu được coi là đoạn đặc sắc nhất. Có lẽ, không thể nói lòng ta yêu
nếu ta không đang nhớ về ai đó, bởi những khao khát yêu đương thường gắn
liền với nỗi nhớ nhưng về nhau: “Nhớ gì như nhớ người yêu…” (Tố Hữu). Nỗi
nhớ của một trái tim đang yêu trong thơ ca cổ, kim, đông, tây cũng đã từng có
không biết bao nhiêu cách, bao nhiêu lời để diễn tả; còn ở bài thơ này, nỗi
nhớ ấy đã được Xuân Quỳnh bộc bạch một cách thật là tự nhiên qua hình
ảnh con sóng. Nó dạt đào, sôi nổi như những đợt sóng cuồn cuộn, triền miên
trên mặt nước, nó âm thầm và chẳng thể nguôi yên như những con sóng
ngầm dưới lòng sâu đại dương. Nỗi nhớ choán đầy cả không gian, thời gian,
thường trực cả khi thức, khi ngủ:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Sóng được nhân hoá để so sánh với nỗi nhớ của con người: “sóng nhớ
bờ”, sống thao thức “ngày đêm không ngủ được”, khiến cho nỗi nhớ càng
thêm sinh động, cụ thể. Nhưng nỗi nhớ da diết đang dâng trào mạnh mẽ trong
tâm hồn người con gái được diễn tả qua hình tượng con sóng như vậy dường
như vẫn còn chưa đủ, chưa thoả nên để có thể diễn đạt hết mức độ mãnh liệt
của nỗi nhớ ấy, Xuân Quỳnh đã tìm đến cách diễn đạt trực tiếp thông qua
nhân vật “em”:
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Ý thơ rõ ràng không có gì là mới, “sóng nhớ bờ” đến nỗi ”ngày đêm
không ngủ được” thì cũng chẳng khác nào “lòng em nhớ đến anh” đến nỗi “cả
trong mơ còn thức”. Nhưng nhờ sự biểu hiện ý nghĩa tương đồng của hai
hình tượng sóng và em, nhà thơ dễ dàng chuyển từ cách nói biểu tượng sang
cách trực tiếp bộc bạch nỗi lòng của người con gái đang yêu, đồng thời cũng
là nỗi lòng tác giả, chủ thể trữ tình của bài thơ. Ý thơ lặp lại nhưng thái độ tình
cảm đã khác: đó là một tiếng nói thật bạo dạn mà vẫn chân thành, mạnh mẽ
mà vẫn gần gũi, thân thương. Như vậy, bằng cách đưa thêm hình tượng em
để bổ sung, tô đậm và soi sáng thêm ý nghĩa của hình tượng sóng, đoạn thơ
đã nói được thật xúc động và chân thành nỗi nhớ mãnh liệt, thổn thức, bồi hồi
trước một tình yêu chân chính, rộng lớn. Việc đưa thêm hình tượng em và
cách bộc bạch trực tiếp cõi lòng như trên cũng đem đến cho đoạn thơ này
một sự biến đổi bất thường về mặt hình thức, tạo ra một khổ thơ duy nhất
trong bài có tới 6 câu, trong khi các khổ thơ khác chỉ có 4 câu. Sự phá vỡ
khuôn khổ cấu trúc, kéo dài khổ thơ nói về nỗi nhớ cũng cho ta thấy được sự
táo bạo và mới mẻ trong tình cảm của những người phụ nữ mới (người phụ
nữ ở thời đại đã được giải phóng) dám dứt khoát từ bỏ những tình cảm nhỏ
hẹp, vị kỉ để tìm đến với chân trời cao rộng của một tình yêu chân chính.
Nỗi nhớ trong đoạn thơ này cũng còn là nỗi nhớ của một tình yêu thuỷ
chung, trong sáng:
Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương.
Vẫn bằng những câu thơ dùng lối diễn đạt trực tiếp, Xuân Quỳnh đã nói
lên một cách rất giản dị, chân thành và không hề giấu giếm những khát vọng
tình yêu cuồng nhiệt, sôi nổi của một trái tim phụ nữ, điều thật hiếm thấy trong
văn học Việt Nam trước đấy. Đó là một tình yêu hết mình và luôn đòi hỏi sự
duy nhất, tuyệt đối, sự gắn bó thuỷ chung: em chỉ nhớ đến anh cũng như
sóng chỉ nhớ tới bờ. Thật là minh bạch và quyết liệt! Nhưng nét độc đáo là
trong cách diễn đạt của chị, ta vẫn nhận thấy có một cái gì đó thật là con gái,
thật là dễ thương. Trong tiếng Việt, người ta thường nói xuôi Nam, ngược
Bắc chứ không mấy ai “nhầm lẫn” và “nói ngược”: “xuôi về phương Bắc/
ngược về phương Nam” như chị. Nhưng đấy là một sự “nhầm lẫn” rất Xuân
Quỳnh và cũng thật dễ thương. Dường như trong trạng thái nhớ nhung tràn
ngập, nữ thi sĩ đã không còn để ý đến câu chữ, cú pháp nữa mà cứ để mặc
nỗi lòng, để mặc cho những dòng tình cảm mãnh liệt tuôn trào trên trang giấy
thành những câu thơ giản dị nhưng thật xúc động lòng người: “Nơi nào em
cũng nghĩ/ Hướng về anh một phương…”
Xuân Quỳnh là người phụ nữ sinh ra để yêu và làm thơ. Sóng là một
bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách thơ chị ở giai đoạn đầu, một bài thơ xinh
xắn, duyên dáng với những tình cảm hồn nhiên, trong sáng, đồng thời lại
cũng rất sôi nổi, mạnh mẽ, thiết tha. Cách biểu hiện độc đáo, đầy cá tính của
chị về nỗi nhớ trong bài thơ cùng với sự chân thành, say đắm đã làm cho
những tình cảm mới mẻ, mạnh bạo, quyết liệt về khát vọng hạnh phúc và tình
yêu của tuổi trẻ trở nên rất gần gũi với mọi người, vì thực chất nó vẫn có gốc
rễ sâu xa từ trong quan niệm và tâm thức của dân tộc.
24. HIỆN THỰC VÀ BIỂU TRƯNG, NÉT ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT CỦA “MẢNH TRĂNG CUỐI RỪNG”
Mảnh trăng cuối rừng được in trong tập truyện ngắn Những vùng trời
khác nhau, xuất bản năm 1973, kể về mối tình khá độc đáo giữa Nguyệt – cô
thanh niên xung phong, và Lãm – anh lính lái xe trên tuyến đường Trường
Sơn ác liệt thời chống Mĩ. Nguyệt đã tự nguyện gắn bó và thuỷ chung với
Lãm, người mà cô chưa một lần gặp mặt hay hẹn ước điều gì nhưng suốt bao
năm bom đạn, tình yêu ấy trong cô vẫn không hề phai nhạt mà lại ngày càng
sáng đẹp thêm qua thời gian và thử thách. Lần ấy, anh và cô đi tìm nhau, có
lúc họ đã cùng ngồi trên một ca–bin xe, rồi cùng trải qua một chặng đường
đánh bom ác liệt của giặc, họ đã hiểu nhau, khâm phục và tin tưởng ở nhau
hơn nhưng vẫn không hề nhận ra nhau. Đến lúc Lãm biết được rằng người
con gái ấy chắc chắn là Nguyệt thì họ lại đã xa nhau…, “giống như một trò
chơi ú tim” vậy!
Tác phẩm từ lâu đã được chọn giảng trong chương trình bậc Trung học
phổ thông vì nó có một vị trí rất đặc biệt. Đây là một truyện ngắn khá tiêu biểu
cho bút pháp và tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu giai đoạn trước
1975: tập trung thể hiện vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và khám
phá sức mạnh kì diệu của con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống
Mĩ cứu nước. Nhà văn trong những năm tháng chiến tranh ấy đặc biệt khao
khát muốn tìm kiếm vẻ đẹp kì diệu nhưng còn rất kín đáo như những hạt ngọc
ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người Việt Nam, và theo Nguyễn Minh
Châu, dường như đó chính là nguồn gốc sức mạnh lạ kì để họ có thể vượt
lên chiến thắng mọi sự huỷ diệt tàn bạo của kẻ thù. Trong Mảnh trăng cuối
rừng, bên cạnh sự tái hiện hiện thực chiến tranh, cách diễn đạt biểu trưng
cũng có thể được coi như một nét đặc sắc nghệ thuật riêng của tác phẩm, bởi
nhờ đó mà cái đẹp tiềm tàng còn ẩn giấu trong mỗi con người Việt Nam thời
đánh Mĩ đã hiện ra khá sinh động và bộc lộ được ánh sáng lung linh đậm màu
sắc lí tưởng của nó. Ở đây, chúng tôi chỉ đi sâu tìm hiểu ý nghĩa của hai chi
tiết hiện thực nhưng giàu tính biểu trưng, đó là hình tượng mảnh trăng và mối
tình đặc biệt của Nguyệt với Lãm.
Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu lại đặt tên cho tác
phẩm của mình là Mảnh trưng cuối rừng – một nhan đề vừa hiện thực lại vừa
có tính biểu trưng cao bởi nó gợi nhiều ý nghĩa. Ở khía cạnh hiện thực thì đây
là trăng đầu tháng, trăng non nên chỉ có thể là “mảnh trăng” chứ không thể là
vầng trăng tròn đầy như trong những đêm hạ huyền. “Mảnh trăng” ấy lại ở tít
tận “cuối rừng” nên khi ngồi trong ca–bin xe trên cung đường gồ ghề vì bị
bom đạn địch cày xới, có lúc cảm thấy trăng như ở rất gần ngay trên đầu, lại
có lúc thấy trăng như bị rơi tõm xuống một cánh rừng già trước mặt như một
trò chơi ú tim… Song có lẽ, mảnh trăng ấy không chỉ nhằm tái hiện một mảng
hiện thực chiến tranh ở một cung đường Trường Sơn ác liệt mà điều quan
trọng hơn, chi tiết mảnh trăng được đưa vào tác phẩm như một dụng ý nghệ
thuật nhằm thể hiện những ý đồ tư tưởng và nghệ thuật riêng của nhà văn.
Nguyệt – tên cô gái, cũng đồng thời có nghĩa là trăng, do đó đã tạo nên trong
tác phẩm hai hình ảnh tương đồng ngữ nghĩa, có tác dụng soi chiếu, bổ sung
cho nhau, đặc biệt trong việc khơi gợi liên tưởng về những vẻ đẹp huyền
diệu, lung linh, khó diễn tả của nhân vật. Trước hết, mảnh trăng khuyết là một
hình ảnh thường chứa đựng những ẩn số, khơi gợi những khao khát tìm hiểu,
khám phá. Nó biểu trưng cho những gì hiển hiện: “một mảnh trăng khuyết
đứng yên ở cuối trời, sáng trong như một mảnh bạc” nhưng còn rất lung linh,
khó nắm bắt “Qua tấm kính ướt hơi sương, mảnh trăng nằm giữa những tảng
mây hiện ra tái ngắt, ánh sáng loè nhoè (...)”, có lúc, “mảnh trăng lại chập
chờn lay động”… thật giống với hình ảnh người con gái trong lòng Lãm, một
cô gái tên trăng giản dị vừa gần gũi mà lại vừa như cách xa…, thậm chí đôi
lúc còn khiến anh phải bất ngờ, sửng sốt, “choáng ngợp như trông vào ảo
ảnh” và trong lòng “bỗng dậy lên một tình yêu Nguyệt gần như mê muội lẫn
cảm phục”. Mảnh trăng ấy ở tít tận cuối rừng xa xôi nhưng có lúc lại hiện ra
ngay trên đỉnh đầu như thực như mơ cũng rất tương hợp với cảnh ngộ “chơi
trò ú tim” của Lãm với cô gái mở đường Trường Sơn đẹp người đẹp nết. Do
vậy mà trong tác phẩm, trăng và Nguyệt là hai hình ảnh thường rất ít khi tách
rời nhau. Không phải ngẫu nhiên mà mỗi khi Lãm nhìn cô gái hay có những
cảm nhận nào đó về cô thì lúc đó mảnh trăng đều có mặt: “Xe tôi chạy trên
lớp sương bồng bềnh (…). Khung cửa xe phía cô gái ngồi lồng đầy bóng
trăng”. Sao lại cứ phải là khung cửa xe phía cô gái chứ không phải là phía
chàng trai? Không gian ấy có lúc làm ùa tới trong Lãm một niềm tin chắc chắn
rằng hình như đấy chính là Nguyệt, cô gái mà chị anh vẫn thường hay nhắc
tới. Nhưng rồi niềm tin ấy trong anh chỉ như một tia chớp thoáng qua, bởi ánh
trăng đã làm cho ”từng sợi tóc của Nguyệt đều sáng lên. Mái tóc thơm ngát,
dày và trẻ trung làm sao (…). Có lúc, tôi thấy cô quay lại, khuôn mặt đẹp lộng
lẫy đầy ánh trăng”, có lúc “trăng sáng soi thẳng vào khuôn mặt Nguyệt làm
cho khuôn mặt tươi mát ngời lên và đẹp lạ thường”, khiến cho Lãm “bị
choáng ngợp như thể vừa trông vào ảo ảnh”. Ánh trăng đã làm cho không
gian của một vùng đất chiến trường dữ dội vốn là trọng điểm bắn phá của
giặc đến nỗi số lượng tấn bom đạn phải được tính trên từng mét vuông bỗng
trở nên yên ả, thanh bình và như được bao phủ bởi một lớp sương bồng
bềnh huyền thoại: “Từng khúc đường trước mặt cũng thếp từng mảnh ánh
trăng…”. Nó sẽ giúp cho Lãm kịp nhận thấy ở Nguyệt toàn những vẻ đẹp
khác lạ: “một đôi gót chân hồng hồng sạch sẽ…” giữa một cung đường
Trường Sơn lúc nào đất đá cũng bị cày xới lên bởi bom đạn và vết bánh xe;
đặc biệt là “vẻ xinh đẹp của cô gái, một vẻ đẹp giản dị và mát mẻ như sương
núi toả ra từ nét mặt, lời nói và tấm thân mảnh dẻ, khác hẳn với nhiều cô gái
công trường thường cô nào cũng thấp và đẫy đà”... Có thể nói, hình tượng
mảnh trăng là một cách biểu thị khá độc đáo của khúc trữ tình lãng mạn đầy
xúc động về đất nước và con người Việt Nam trong chiến tranh. Đồng thời, nó
cũng góp phần khẳng định thêm về một phong cách luôn gợi mở những ý
tưởng huyền diệu, lung linh trước các vấn đề của hiện thực đời sống của
Nguyễn Minh Châu.
Về mối tình đặc biệt của Nguyệt dành cho Lãm, có ý kiến cho rằng hình
như đấy là một câu chuyện rất ít tính hiện thực. Đọc truyện ngắn này, nhà
nghiên cứu văn học Nga Ni–cu–lin cũng có nhận xét đại ý rằng: trong Mảnh
trăng cuối rừng, dường như nhà văn đã “tắm' rửa” một cách sạch sẽ cho nhân
vật của mình và bao bọc họ trong bầu không khí vô trùng. Quả thực, một tình
yêu như thế thật khó có thể xảy ra trong cuộc đời thường nhật (mà nếu có thì
cũng chưa chắc đã là một điều đáng ngợi ca), nhưng cũng không phải là điều
hiếm thấy ở thực tế chiến trường miền Nam thời đánh Mĩ. Vậy thì đâu là cơ
sở nảy nở và duy trì tình yêu giữa Nguyệt và Lãm?; đâu là nguyên nhân sâu
xa của cái mối tình kì lạ mà trong suất như pha lê của họ, nếu không phải là
niềm tin tuyệt đối về con người, nhất là giữa những con người đang cùng
chung một chiến hào đánh Mĩ? Ai đã đi qua những năm tháng ác liệt ấy mới
có thể cảm nhận hết được tình cảm thiết tha cùng với ý nghĩa thiêng liêng và
chiều sâu vô tận của niềm tin yêu giữa những con người nơi chiến trường ác
liệt qua những từ đồng đội, đồng hương, hay trong một tiếng gọi “quê ơi!” dân
dã… Dường như khi hằng ngày, hằng giờ phải đối mặt với sự sống và cái
chết, người ta dễ hiểu nhau và tin nhau hơn… Nguyệt tin chị Tính, tin Lãm và
yêu Lãm vì Lãm là em trai chị Tính, được chị Tính giới thiệu, nhưng quan
trọng hơn, anh cũng là người đồng đội của Nguyệt, là một trong bao chiến sĩ
lái xe dũng cảm vẫn vào sống ra chết với cô suốt bao năm trên cung đường
trọng điểm bắn phá của địch. Do đó, cô đã yêu anh một cách vô điều kiện,
một tình yêu hoàn toàn được xây dựng chỉ dựa trên cơ sở của một niềm tin
tuyệt đối, trọn vẹn đối với một người đồng đội, mà sâu xa hơn, đó còn là tình
yêu và niềm tin mãnh liệt, sâu xa đối với con người và cuộc sống của đất
nước trong những năm tháng chiến tranh gian khổ, ác liệt. Như thế, mối tình
của Nguyệt và Lãm đâu chỉ mang ý nghĩa hiện thực thông thường, nó còn là
hình ảnh biểu trưng cho sự bất diệt của tình yêu và niềm tin cuộc sống. Qua
mối tình đặc biệt của họ, Nguyễn Minh Châu dường như đã khám phá và thể
hiện được một cách thật đầy đủ về vẻ đẹp ẩn giấu sâu kín tận trong bề sâu
tâm hồn con người Việt Nam thời đánh Mĩ. Nó giống như sợi chỉ xanh nhỏ bé,
óng ánh nhưng không thể đứt. Nó kì diệu và có sức sống say người đến nỗi
ngay với Lãm là người trong cuộc cũng đã phải tới hai lần cất lên những lời
ngây ngất: “Và cũng thật lạ, qua bấy nhiêu năm sống giữa bom đạn và tàn
phá, vậy mà một người con gái vẫn giữ bên lòng hình ảnh một người con trai
chưa hề gặp và chưa hứa hẹn một điều gì ư? Trong lòng cô ta, cái sợi chỉ
xanh nhỏ bé và óng ánh, qua thời gian và bom đạn, vẫn không phai nhạt,
không hề đứt ư?”... Sức sống ấy cũng chính là cái mạch ngầm bền bỉ để có
thể vượt lên và chiến thắng, là nguồn gốc sức mạnh diệu kì của con người
Việt Nam trong một cuộc chiến quá đỗi bạo tàn. Cái nhìn và cảm hứng lãng
mạn đầy tinh thần nhân đạo của tác giả về con người và cuộc sống dân tộc
thời chống Mĩ cứu nước như thế đã trở thành âm hưởng chủ đạo của tác
phẩm, làm xúc động trái tim người đọc.
Toàn bộ câu chuyện được thực hiện bằng chính giọng kể của Lãm, một
người trong cuộc và qua sự hồi tưởng xúc động của anh, một trái tim đang
hạnh Phúc, đang yêu say đắm, thực tế cuộc sống ở chiến trường cũng có
thêm những sắc màu lấp lánh… Nhờ vậy, thiên truyện thấm đẫm chất lãng
mạn mà vẫn giàu tính hiện thực. Song điều quan trọng hơn, ấy là một hiện
thức có ý nghĩa biểu trưng khái quát về con người và cuộc sống của đất nước
trong những năm tháng chiến tranh chống Mĩ ác liệt. Nó đã nói được điều cần
nói: các nhân vật không chỉ khẳng định sự bất diệt của vẻ đẹp tâm hồn trong
sự vượt lên mọi huỷ diệt tàn bạo của kẻ thù mà còn gợi lên những khao khát
kiếm tìm và ý thức vươn tới để có thể cảm nhận được chiều sâu vô tận của
cái đẹp trong thế giới nội tâm con người.
25. KIỂU CÂU THƠ VĂN XUÔI VÀ MÀU SẮC CHÍNH LUẬN TRONG CHƯƠNG “ĐẤT NƯỚC”
(Trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm)
Trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm được sáng
tác vào năm 1971 ở chiến trường Bình Trị Thiên và Đất Nước là chương V,
trích trong bản trường ca này. Nhan đề “Đất nước” cũng đồng thời là sự quy
tụ chủ đề tư tưởng trọn vẹn, khái quát chung của toàn chương, tạo nên tính
độc lập tương đối về mặt văn bản nên chương V cũng được xem như một bài
thơ hoàn chỉnh. Sự suy tưởng chặt chẽ mang đậm màu sắc chính luận và
cách diễn đạt mạch lạc, tự nhiên, sử dụng phần lớn những kiểu câu thơ văn
xuôi cần phải được chú ý như một nét đặc sắc của bài thơ. Ở đây, Nguyễn
Khoa Điềm đã đưa ra một quan niệm hoàn toàn mới mẻ và toàn diện về đất
nước thông qua sự cảm nhận về vai trò và những hi sinh to lớn của nhân dân
trong công cuộc dựng nước và giữ nước lâu dài của dân tộc. Cảm hứng về
đất nước sôi nổi, dạt dào và sâu lắng trong toàn chương đều tập trung nhằm
làm nổi bật tư tưởng cốt lõi trong sự cảm nhận nói trên của tác giả. Và chính
tư tưởng chủ đạo, bao trùm đó – tư tưởng Đất nước của nhân dân, đất nước
của ca dao thần thoại đã chi phối toàn bộ dòng mạch cảm xúc lẫn kết cấu,
hình thức chung của chương V trong bản trường ca này.
Mượn lời trò chuyện tâm tình với một người con gái yêu thương, kết
cấu chương V của bản trường ca có vẻ phóng túng, tự do nhưng từ trong
chiều sâu của thi tứ và cảm xúc vẫn bộc lộ một hệ thống lập luận khá chặt
chẽ trong một hình thức thơ trữ tình – chính luận rõ nét, từng phần đều bám
rất chắc vào tư tưởng chủ đạo của tác phẩm. Cái lí lẽ mà tác giả đưa ra để
thuyết phục người đọc thật giản dị: Không phải ai khác mà chính là nhân dân,
những con người vô danh, bằng chiến đấu hi sinh và lao động sáng tạo đã
dựng xây, gìn giữ và bảo vệ non sông đất nước này từ lãnh thổ cho đến lịch
sử, truyền thống văn hoá và tâm hồn, cốt cách dân tộc. Có điều, “lí lẽ ấy nhà
thơ không phát biểu một cách khô khan, trừu tượng mà bằng những hình ảnh
thơ gợi cảm, bằng cảm xúc thơ sôi nổi, tha thiết và sâu lắng của mình. Qua
đó, Nguyễn Khoa Điềm muốn thức tỉnh tinh thần, ý thức dân tộc và tình cảm
gắn bó với nhân dân – đất nước của thế hệ trẻ trong những năm đánh Mĩ”.
Bài thơ có tất cả 110 câu thơ, kết cấu làm hai phần: phần 1 gồm 42 câu
đầu, phần 2 là 68 câu thơ còn lại. Sách giáo khoa chỉ trích giảng 99 câu, lược
bỏ đi 21 câu ở cuối phần 2. Phần đầu của bài thơ thể hiện một quan niệm bao
quát có tính chất thời đại về đất nước: đất nước là những gì gần gũi, bình dị,
gắn bó thân thiết, sâu nặng nhất với mỗi con người. Bằng những câu thơ có
hình thức của câu văn định nghĩa và bằng cách nêu lên những sự vật vốn rất
bình thường mà mỗi người đều đã tiếp xúc, quen thuộc từ thuở ấu thơ để
định nghĩa về đất nước, nhà thơ đã tìm ra được cách diễn đạt khái niệm thật
tự nhiên, dễ đi vào lòng người. Những sự vật nêu ra để định nghĩa về đất
nước ấy vừa thân thương, hiền hậu và thơ ngây, đậm màu sắc cổ tích trong
lời kể chuyện “ngày xửa ngày xưa” của mẹ, trong “miếng trầu bây giờ bà ăn”,
vừa gần gũi, dân dã, cụ thể mà lại cũng rất sâu xa trong “cái kèo cái cột thành
tên, trong bát cơm ta ăn, hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần,
sàng”, cho đến chuyện “dân mình biết trồng tre mà đánh giặc/ Tóc mẹ thì bới
sau đầu/ Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn…” Mỗi hình ảnh vừa
dung dị vừa có sức khơi gợi sâu xa ấy được dùng để định nghĩa về một khía
cạnh của khái niệm đất nước, qua hình thức của những câu văn xuôi chính
luận khẳng định, được lặp đi lặp lại như một điệp ngữ vừa biến đổi vừa nhấn
mạnh, xoáy sâu: “đất nước có trong”, “đất nước lớn lên khi”, “đất nước có từ”,
“đất là”, “nước là”, “đất nước là” vv… đã có tác dụng làm cho tình cảm đất
nước vốn là một tình cảm thiêng liêng, đậm chất triết lí trở thành một tình cảm
hết sức hồn hậu, tự nhiên, mang màu sắc trữ tình đằm thắm và sâu nặng,
thân thương. Cách chia tách khái niệm đất nước thành hai yếu tố là “đất” và
”nước”, rồi sau đó lại hợp lại thành một chỉnh thể “đất nước” là một cách diễn
tả sáng tạo, giúp tác giả thể hiện được những phát hiện khá độc đáo và mới
lạ trong quan niệm và cảm nhận của bản thân và thế hệ mình về đất nước:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi “
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ…
Đó cũng là một quan niệm và sự cảm nhận khá toàn diện, sâu sắc: Đất
nước là sự thống nhất của tất cả các phương diện: thời gian, không gian, lịch
sử truyền thống và cội nguồn dân tộc. Do đó, đất nước chính là tất cả cuộc
sống của mỗi con người, trở thành máu thịt và hành trang của mỗi người từ
vật chất cho đến tinh thần, tình cảm. Đất nước đã hoá thân vào mỗi cá nhân
cho nên trong mỗi con người đều đã có một phần đất nước:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Nhà thơ đã nói lên được một cách giản dị mà bao quát và sâu sắc về
sự gắn bó máu thịt giữa số phận của cá nhân với vận mệnh của cộng đồng
đất nước, qua đó khẳng định trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi con người đối
với đất nước của mình. Đó cũng là tư tưởng chung của thời đại khi mà vấn đề
dân tộc và cộng đồng nổi lên như một vấn đề cơ bản, bao trùm nhất, chi phối
mọi vấn đề khác của đời sống. Bằng những câu thơ chính luận, ngắn gọn,
dứt khoát, có tính khẳng định cao nhưng lại thông qua hình thức tâm tình giữa
anh và em, Nguyễn Khoa Điềm đã diễn đạt được một vấn đề có ý nghĩa tư
tưởng lớn, mang tầm vóc thời đại thông qua một giọng điệu trữ tình nhẹ
nhàng, dung dị, rất dễ đi vào lòng người. Từ sự khái quát sinh động đó, tác
giả lại tiếp tục “diễn dịch”, phát triển và mở rộng suy tư về mối quan hệ gắn bó
giữa mỗi cá nhân với đất nước, về sự “hài hoà nồng thắm” giữa “hai đứa” với
“mọi người”, giữa “một phần” với sự “vẹn tròn to lớn” của đất nước, về cả sự
kế tục và phát triển từ đất nước “hôm nay” đến đất nước “mai này” của các
thế hệ tương lai, con cháu chúng ta:
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hoà nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
Những suy tư đó mang nặng tính chất chiêm nghiệm, triết lí nhưng vẫn
thấm đượm một màu sắc trữ tình giản dị mà sâu xa. Sự gắn bó tốt đẹp của
tình yêu đôi lứa được diễn đạt bằng những từ ngữ, hình ảnh thật giản dị: “hai
đứa cầm tay”, song hạnh phúc của lứa đôi cũng là cơ sở bền chặt của tình
đất nước, nên “khi hai đứa cầm tay” thì cũng là lúc “đất nước hài hoà nồng
thắm” và “khi chúng ta cầm tay mọi người” thì ”đất nước” tất yếu sẽ “vẹn tròn,
to lớn”. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi trong kháng chiến chống Pháp cũng đã
từng nói lên mối quan hệ gắn bó máu thịt, thiêng liêng ấy:
Anh yêu em như anh yêu đất nước…
Đó là sự thống nhất có tính biện chứng giữa cá nhân với cộng đồng
trên tinh thần của thời đại mới. Và trong xu thế suy tưởng vững chắc đó, cảm
hứng của nhà thơ đã hướng tới các thế hệ tương lai với những lời nhắn nhủ
sáng ngời niềm tin:
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày thơ mộng…
Nguyễn Khoa Điềm viết bài thơ này trong tuyến lửa, vào thời điểm gay
go, ác liệt nhất của cuộc kháng chiến cứu nước. Điều ấy cho thấy tình cảm
đất nước trong ông thật là khoẻ khoắn và sâu nặng, một phần cũng bởi nó
được bám rất chắc vào tinh thần thời đại. Từ những suy ngẫm, chiêm nghiệm
sâu xa và sự khái quát vững chắc đó, bài thơ dẫn đến trách nhiệm và bổn
phận của mỗi con người đối với đất nước trong một quy nạp hết sức tự nhiên:
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…
Sang phần sau của bài thơ (68 câu cuối), tác giả tập trung thể hiện sự
cảm nhận về đất nước thông qua vai trò, những hi sinh, đóng góp to lớn của
nhân dân trên các phương diện cụ thể, từ không gian địa lí – lãnh thổ đến thời
gian lịch sử – truyền thống và cuối cùng là cội nguồn văn hoá – tâm hồn, cốt
cách dân tộc. Cả ba phương diện ấy đều thống nhất và hoà quyện vào nhau
một cách chặt chẽ. Nhiều khi một chi tiết, một hình ảnh được đưa ra đồng
thời cùng thể hiện về cả ba phương diện trên đây nhưng nhìn chung là, dù ở
phương diện nào thì tư tưởng Đất nước của Nhân dân vẫn luôn là tư tưởng
cốt lõi, là hệ quy chiếu mọi cảm xúc và suy tưởng của nhà thơ về đất nước.
Ở phương diện không gian địa lí – lãnh thổ, ý tưởng nhân dân chính là
người làm ra đất nước đã đưa đến một cách nhìn mới mẻ, có chiều sâu về
thiên nhiên đất nước. Những vị trí địa lí, những danh lam thắng cảnh được
chọn lựa đưa vào tác phẩm một cách có ý thức nhằm thể hiện không gian
mênh mông bởi những danh lam thắng cảnh đó nằm trên những địa danh trải
rộng ra theo suốt chiều dài đất nước, từ miền ngược cho đến miền xuôi, từ
rừng xanh cho đến biển xa… Mặt khác, những cái đó qua con mắt nhà thơ đã
không chỉ là những địa danh hoặc những cảnh thú thiên nhiên thông thường
nữa mà nó được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ và số phận của nhân
dân, được nhìn nhận như là sự hoá thân và đóng góp của nhân dân:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng
Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho đất nước mình núi Bút, non Nghiên
Con cóc con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà
Điểm…
Điều đáng chú ý là những cảm nhận nói trên của tác giả không phải là
sự suy diễn chủ quan, vô căn cứ mà đều được rút từ kho tàng thần thoại,
truyền thuyết và những sự tích dân gian phong phú, rất cảm động và giàu tính
nhân dân của dân tộc ta. Do đó, người đọc vừa thấy tự nhiên vừa bị thuyết
phục mạnh mẽ bởi những cảm nhận và suy tư của nhà thơ thật giản dị nhưng
lại rất mới mẻ và sâu sắc. Thiên nhiên đất nước qua con mắt của Nguyễn
Khoa Điềm đã hiện lên như là sự quy tụ, tập hợp tất cả những đóng góp của
nhân dân, bởi chính nhân dân chứ không phải ai khác, từ thế hệ này qua thế
hệ khác, bằng chiến đấu hi sinh và lao động sáng tạo đã hoá thân và ghi dấu
vết của mình lên mỗi ngọn núi, con sông, lên mỗi tấc đất này của đất nước.
Từ những phát hiện đó, nhà thơ đã quy nạp, nâng lên thành một khái quát hết
sức sâu sắc:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng, gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…
Ở phương diện thời gian lịch sử – truyền thống, đất nước được cảm
nhận không phải bằng sự hiện diện của các triều đại trong lịch sử, hoặc các vĩ
nhân đã được ghi danh trong sử sách mà bằng chính cuộc đời của những
con người bình thường, vô danh, không ai nhớ mặt đặt tên. Với truyền thống
lao động và đánh giặc giữ nước của các thế hệ tiếp nối, chính nhân dân đã
làm nên lịch sử đất nước bốn nghìn năm. Đoạn thơ mang tính chính luận
nhưng được diễn đạt dưới hình thức tâm tình, bằng những câu thơ dài, ngắn
gần với giọng điệu khẩu ngữ, giống như những lời nhắc nhủ thầm thì, tha
thiết của những lứa đôi, của anh với em, nên dễ đi vào lòng người:
Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm Đất Nước…
Vẫn với những hình ảnh bình dị, thân thương, những từ ngữ dân dã
hoặc rút từ ca dao, thành ngữ, Nguyễn Khoa Điềm đã làm nổi bật sự đóng
góp một cách rất tự nhiên của nhân dân vào lịch sử dài lâu của đất nước. Nhà
thơ đã nói lên một biện chứng lịch sử gần gũi với tư duy và phong cách của
dân gian, đó là: trong cuộc sống cần cù làm lụng của người dân, việc đánh
giặc giữ nước và duy trì bồi đắp cho các thế hệ tiếp nối như là một lẽ tự nhiên
của người Việt và chính bằng sự đóng góp một cách tự nhiên đó mà họ đã
làm nên lịch sử – truyền thống lâu đời của đất nước:
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng.
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Đặc điểm lập luận ở đoạn thơ này là vừa sử dụng phương pháp quy
nạp trực tiếp để dẫn đến tư tưởng khái quát “nhân dân làm ra lịch sử”, lại vừa
kết hợp với phương pháp diễn dịch nhằm triển khai tư tưởng đó một cách
toàn diện, sinh động và sâu sắc hơn:
Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
(…)
Họ truyền giọng điệu của mình cho con tập nói,
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái,
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại…
Ở phương diện cội nguồn văn hoá tinh thần vở tâm hồn, cốt cách dân
tộc, tư tưởng đất nước của nhân dân được khái quát từ nguồn mạch văn hoá
dân gian phong phú là tục ngữ, ca dao, dân ca, truyền thuyết và cổ tích v.v…
Trong cái kho tàng văn hoá giàu có của nhân dân ấy, tác giả tập trung nhấn
mạnh và làm nổi bật những nét chủ yếu thể hiện cội nguồn văn hoá tinh thần
dân tộc, đó là những tính cách nổi bật của con người Việt Nam tiêu biểu cho
tâm hồn và cốt cách dân tộc. Những nét tính cách đó là: thật say đắm và hết
sức thuỷ chung trong tình yêu, trọng đạo lí, tình nghĩa: Cha mẹ thương nhau
bằng gừng cay muối mặn/ Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”/ Biết quý
công cầm vàng những ngày lặn lội…, biết sống nhân hậu: Ôi những dòng
sông bắt nước từ đâu/ Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát…, nhưng
cũng hết sức quyết liệt: Biết trồng tre đợi ngày thành gậy/ Đi trả thù mà không
sợ dài lâu v.v…
Hai mươi mốt câu thơ (bị lược đi trong chương trình do quá dài) nằm ở
cuối phần 2 cũng là những câu thơ khá đặc sắc nhằm nhấn mạnh thêm về
tính cách nhân hậu, trọng đạo lí, tình nghĩa của dân tộc. Nhờ vậy, toàn bộ
chiều sâu cội nguồn văn hoá và tinh thần của đất nước càng được khắc hoạ
tập trung, nổi bật, tạo được ấn tượng rất riêng:
Người dạy ta nghèo ăn cháo ăn rau,
Biết ăn ớt để đánh lừa cái lưỡi,
Cái cuốc, con dao, đánh lừa cái tuổi,
Chén rượu đánh lừa cơn mỏi, cơn đau
Con nộm nang tre đánh lừa cái chết.
Đánh lừa cái rét là ăn miếng trầu,
Đánh lừa thuồng luồng xăm mình xăm mặt
Đánh lừa thằng giặc là chuyện Trạng Quỳnh
Nhưng lạ kì thay, nhân dân thông minh
Không hề lừa ta dù ca dao, cổ tích
Ta lớn lên bằng niềm tin rất thật
Biết bao nhiêu hạnh phúc có trên đời
Dẫu phải khi cay đắng dập vùi
Rằng cô Tấm cũng về làm hoàng hậu
Cây khế chua có đại bàng đến đậu
Chim ăn rồi trả ngon ngọt cho ia
Đất đai cỗi cằn thì người sẽ nở hoa
Hoa của đất, người trồng cây dựng cửa
Khi ta đến gõ lên từng cánh cửa
Thì tin yêu ngay thẳng đón ta vào
Ta nghẹn ngào, Đất Nước Việt Nam ơi!...
Chương Đất Nước có thể coi là một chương tiêu biểu nhất cho trường
ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm. Toàn chương thấm đượm
một không khí văn hoá dân gian. Bóng dáng của ca dao, thần thoại, cổ tích…
đã thấm sâu vào trong từng câu chữ, hình ảnh của toàn chương cho thấy
nhận thức và sự thâm nhập rất sâu sắc của tác giả đối với vốn văn hoá và đời
sống tinh thần dân tộc. Cảm hứng về đất nước ở đây tuy mang đậm màu sắc
chính trị và tính chất chính luận nhưng bài thơ vẫn tạo được những rung động
và âm vang trong lòng người đọc chính là vì đã xuất phát từ những cảm xúc
chân thành, sâu lắng và từ sự trải nghiệm của chính bản thân tác giả và cả
thế hệ mình về đất nước.
26. NHỮNG SAI SÓT VỀ NGÔN NGỮ TRONG CÁC ĐỀ THI TUYỂN SINH ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG MÔN VĂN
Đề thi tuyển sinh vào các trường đại học, cao đẳng hằng năm có lẽ là
một dạng văn bản thuộc vào loại ngắn nhất nhưng lại chiếm số thời gian soạn
thảo ra nó nhiều nhất. Theo quy chế ra đề thi thì để soạn thảo một đề thi Văn
(khoảng từ vài dòng trở lên) cho thí sinh làm trong vòng 3 tiếng đồng hồ,
những người ra đề phải cách li hoàn toàn với thế giới bên ngoài (để đảm bảo
bí mật và cũng là để toàn tâm toàn ý biên soạn đề thi!) trong khoảng từ 3 đến
10 ngày đêm. Vậy mà cứ sau mỗi kì tuyển sinh lại vẫn có không ít chuyện
đáng buồn bởi có quá nhiều sai sót, từ những sai sót “động trời” như ra đề thi
ngoài phạm vi chương trình… cho đến những sai sót về từ ngữ, diễn đạt,
trình bày. Ở đây, chúng tôi chỉ đề cập đến những sai sót về tiếng Việt, chữ
Việt trong các đề thi tuyển sinh môn Văn.
1. Chép sai văn bản tác phẩm
Trong đề thi năm 2000 vào các trường: Cao đẳng Kinh tế đối ngoại
(Câu 2b), Cao đẳng Sư phạm Phú Yên (Câu 2a), Cao đẳng Sư phạm Đắc Lắc
(Câu 2b), kki yêu cầu bình giảng 10 câu thơ đầu trong bài Bên kia sông
Đuống của Hoàng Cầm, đã chép thừa chữ “bên kia” một cách rất phi lô gích:
Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về bên kia sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì…
…
Đây là đoạn thơ thể hiện tâm trạng cái nhìn toàn cảnh (bằng hồi ức) về
quê hương thông qua một hình ảnh có ý nghĩa biểu tượng là con sông
Đuống. Phải qua con sông này đã, rồi đến các đoạn hồi ức và tưởng tượng
sau đó, nhà thờ mới có thể về được quê hương ở bên kia sông chứ?!.
Đề thi tuyển sinh vào Đại học Biên phòng, năm 1999 (Câu 2a), đoạn
thơ yêu cầu bình giảng đoạn trích trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan
Viên, chữ “đã” bị chép nhầm thành chữ “bỗng”:
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất bỗng hoá tâm hồn!
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng,
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương.
Câu dưới “Anh bỗng nhớ em…”, chẳng lẽ câu trên cũng lại “bỗng” nữa
hay sao? Vả chăng, từ “đã” mới thực có ý nghĩa, nó biểu thị một quá trình;
còn bỗng là chuyện bỗng nhiên. Phải có một quá trình gắn bó sâu nặng với
mảnh đất Tây Bắc, phải trải qua mười năm kháng chiến, nơi “mười năm chiến
tranh, vàng ta đau trong lửa”, “nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất” (Tiếng hát con
tàu), thì khi xa, đất mới (đã) hoá tâm hồn, chứ ngẫu nhiên, đất sao bỗng hoá
tấm hồn dễ dàng thế được?!
Đề thi của Trường Đại học Hồng Đức, năm 2000 (khối C, Câu 2a), khi
trích đoạn thơ gồm 14 câu trong bài Đất nước của Nguyễn Đình Thi để yêu
cầu thí sinh bình giảng đã viết liền, không chia thành các khổ thơ như sau:
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về
Trong văn bản tác phẩm, đoạn thơ chia làm 3 khổ: khổ đầu 5 câu, khổ
hai 5 câu và khổ cuối 4 câu. Mỗi khổ diễn tả tư tưởng, tình cảm riêng. Việc bỏ
các dấu chấm và không tách khổ thơ như trong đề thi sẽ làm cho thí sinh lúng
túng khi phân tích và xác định các ý thơ.
Đề thi của Đại học Tây Nguyên, năm 2000 (Câu 1, Phần I) đã trích
thiếu mất 2 chữ hư hỏng và ráo hoảnh trong câu văn sau của Nam Cao:
“người ta chỉ xấu xa, hư hỏng dưới con mắt ráo hoảnh của phường ích kỉ…”.
Con mắt ráo hoảnh mà Nam Cao đề cập ở đây là “con mắt” – thái độ lạnh
lùng vô cảm, thiếu vắng tình người, tình thương yêu đồng loại…Vì thế, chữ
hư hỏng thiếu thì còn tạm chấp nhận được, chứ chữ ráo hoảnh mà thiếu thì
quan điểm của Nam Cao chẳng thể rõ ràng được. Ấy vậy mà đằng sau câu
văn trích dẫn sai một cách tai hại đó, đề vẫn yêu cầu thí sinh: “Hãy phân tích
cách nhìn của nhân vật Hoàng về quần chúng nhân dân và cuộc kháng chiến
trong truyện ngắn Đôi mắt để làm rõ quan điểm đó của tác giả” (?!).
2. Lỗi dùng từ và diễn đạt
Đề thi Khối D năm 2000, Câu 2b của các trường: Đại học Quốc gia Hà
Nội, Đại học Bách khoa Hà Nội. Học viện Ngân hàng Hà Nội: “Bình giảng khổ
thơ sau trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi:
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa”.
Đề trích dẫn 2 khổ thơ nên không thể nói: “Bình giảng khổ thơ” mà phải
gọi là đoạn thơ mới đúng. Hơn nữa, đã là khổ thơ hay đoạn thơ trong một bài
thơ nào đấy thì không nên viết lặp lại chữ “thơ” một cách không cần thiết. Câu
trên có thể diễn đạt gọn hơn mà vẫn đảm bảo rõ ý: Bình giảng đoạn thơ sau
trong bài Đất nước của Nguyễn Đình Thi. Đây cũng là lỗi của Câu 2a trong
cùng đề thi nói trên và xuất hiện khá phổ biến ở dạng đề thi này nói chung
của nhiều trường khác nữa.
Đề thi của Trường Đại học Dân lập Hải Phòng (Khối D, năm 2000):”Bài
thơ Sóng in trong tập Hoa dọc chiến hào là một trong những bài thơ tiêu biểu
của Xuân Quỳnh, thể hiện một tâm hồn luôn luôn trăn trở, khát khao được
yêu thương, gắn bó. Anh (chị) bình giảng khổ thơ sau góp phần làm rõ ý kiến
trên (…)”. Sau chữ Anh (chị) đáng lẽ phải có thêm chữ hãy và trước chữ góp
phần phải có thêm chữ để thì câu văn mới hợp với phong cách văn bản và rõ
ràng hơn.
Đề thi tuyển sinh vào Viện Đại học Mở Hà Nội, Khối D, năm 2000, Câu
1: “Sau khi ở tù về, Chí Phèo đã ba lần đến nhà Bá Kiến. Anh (chị) hãy:
1. Kể lại một cách ngắn gọn nội dung sự việc mỗi lần đến của Chí
Phèo.
2. Phân tích ý nghĩa tư tưởng trong lần đến cuối cùng”.
Tuy vẫn hiểu được yêu cầu của đề, nhưng hai câu hỏi là hai câu văn
dài dòng và có phần lủng củng, tối nghĩa do chữ lần đến. Có thể diễn đạt lại
hai câu hỏi ấy như sau:
1. Kể một cách ngắn gọn nội dung sự việc của mỗi lần.
2. Phân tích ý nghĩa tư tưởng của lần cuối cùng.
Đề của Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Tĩnh (Khối C, năm 2000): “Việt
Bắc là đỉnh cao thơ Tố Hữu, tiêu biểu cho phong cách nhiều mặt của nhà thơ
đồng thời cũng là thành tựu lớn của thơ ca cách mạng Việt Nam giai đoạn
1945 – 1954 (…)”. Phong cách nhiều mặt của nhà thơ là một câu văn tối
nghĩa, rất khó xác định về mặt nội hàm khái niệm, do đó thí sinh chắc chắn
khó thực hiện được yêu cầu tiếp theo của đề như: “Anh, chị hãy: 1/ Trình bày
những đặc điểm của phong cách thơ Tố Hữu được thể hiện trong phần trích
giảng bài thơ (…)” v.v…
Đề thi khối D trong kì thi tuyển sinh đại học – cao đẳng năm 2003, tức
là sau khi đã thực hiện cơ chế cải cách “ba chung” (chung đề, chung đợt,
chung điểm xét tuyển) trong toàn quốc, Câu 3: “Phân tích ngắn gọn tư tưởng
nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của Nam Cao trong truyện ngắn Đời thừa”. Hai
chữ mới mẻ trong cụm từ “tư tưởng nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của Nam Cao”
là sự không chính xác về khái niệm, từ ngữ. Bởi lẽ, sách giáo khoa và các
thầy, cô giáo xưa nay chỉ đánh giá tư tưởng nhân đạo của Nam Cao ở khía
cạnh sâu sắc và tích cực, chứ chưa thấy nói đến tính chất mới mẻ của nó.
Hẳn ai cũng biết rằng, cái mới phải là cái lần đầu tiên xuất hiện, trước đó
chưa từng có và một tư tưởng mới mẻ chưa hẳn đã là một tư tưởng sâu sắc,
tích cực. Xét cụ thể trong tác phẩm Đời thừa, những biểu hiện tư tưởng nhân
đạo của Nam Cao (1/ Thái độ trân trọng, ngợi ca khát vọng và lẽ sống đẹp đẽ
của người nghệ sĩ, trí thức; 2/ Mối đồng cảm, sẻ chia của nhà văn với những
trăn trở, đớn đau và tấn bi kịch tinh thần của họ; 3/ Sự quan tâm sâu sắc đến
số phận, quyền sống của người trí thức trong xã hội đương thời) thực ra vẫn
là sự tiếp nối những giá trị nhân đạo truyền thống; nó sâu sắc, tích cực hơn
so với các tác giả khác trong trào lưu văn học hiện thực phê phán và trào lưu
văn học lãng mạn đương thời, nhưng không phải là những gì mới mẻ. Cho
nên, nói “tư tưởng nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của Nam Cao trong truyện
ngắn Đời thừa” rõ ràng là một nhận định vừa không chính xác về từ ngữ lại
vừa không chuẩn về kiến thức, một điều khó chấp nhận đối với một đề thì,
hơn nữa lại là một đề thi tuyển sinh đại học!
3. Lỗi trình bày
– Đề thi của Đại học An ninh nhân dân, năm 2000 (Khối C, Câu 2a), khi
chép bài Chiều tối của Hồ Chí Minh đã đặt phần dịch thơ lên trước phần
phiên âm chữ Hán. Lẽ ra phải đặt ngược lại mới đúng.
– Đề thi của Đại học Sư phạm Vinh (Khối C, năm 2000) khá dài, kín cả
tờ giấy khổ A4. Vậy mà trong 6 lần chấm xuống dòng, người soạn đề không
lần nào thực hiện quy định lùi vào một chữ ở đầu dòng theo đúng quy tắc về
chính tả tiếng Việt.
Nhưng đề thi của Trường Đại học Tây Nguyên mà chúng tôi đã nhắc
đến dưới đây có lẽ mới là vô địch về chuyện đề thi dài, tới 4 trang giấy khổ
A4! Đúng là “dài như một cái nhà rông” vậy! Ngoài việc trích dẫn sai tác phẩm
ở Câu 1 (chưa nói đến nội dung của Câu 12b nằm ngoài phạm vi Chương
trình theo quy định của Bộ) như đã phân tích, cách trình bày toàn bộ đề văn
này cũng gây ra không ít khó khăn cho người đọc. Xin chép lại một phần của
đề như sau (giữ nguyên văn các chỗ xuống dòng, in đậm, in nghiêng...):
“Phần 1 (bắt buộc)
Câu 1: Trong một tác phẩm của mình, nhà văn Nam Cao viết: “Người ta
chỉ xấu xa dưới con mắt của phường ích kỉ”. Anh (chị) hãy phân tích cách
nhìn của nhân vật Hoàng về quần chúng nhân dân và cuộc kháng chiến trong
truyện ngắn Đôi mắt để làm rõ quan điểm đó của tác giả.
Hãy xác định những nội dung đúng đắn nhất được phát biểu trong các
câu từ 2 đến 11, ghi vào giấy làm bài kí hiệu tương ứng (thí dụ, câu 50: chọn
b).
Câu 2: (…)
Câu 3: (…)
Câu 11: (…)”.
Cách ghi Câu 1, Câu 2 cho đến Câu 11 không có sự phân biệt gì, trong
khi thực chất các câu từ Câu 2 cho đến Câu 11 vốn chỉ là những bộ phận của
một ý nhỏ trong Câu 1. Mặt khác, trong nội dung của riêng Câu 1 này cũng
bao gồm 2 phần: Phần trên hỏi về tác phẩm Đôi mắt theo hình thức của một
đề thi truyền thống, còn phần dưới hỏi về những tác phẩm, tác giả khác theo
kiểu đề thi trắc nghiệm (Xin mở ngoặc: những đáp án trắc nghiệm này cũng
có khối chuyện phải bàn!); vậy mà cả 2 phần đó vẫn có thể gộp được vào
chung trong một câu và giữa chúng cũng không hề có dấu hiệu hay đề mục
phân biệt gì ngoài chuyện ngắt dòng bình thường như mọi chỗ ngắt dòng
khác. Không biết với thời gian làm bài 3 tiếng đồng hồ, thí sinh vừa phải đọc,
vừa phải thực hiện tất cả các yêu cầu của một đề văn quá dài dòng, rắc rối và
có lắm sai sót như vậy thì sao chọn được đúng những nhân tài thực sự cho
tương lai?
Thực chất bài viết của chúng tôi chỉ làm cái công việc “dọn vườn” đề thi
tuyển sinh đại học – cao đẳng hiện nay mà thôi. Khi tôi có ý định dọn vườn thì
có người không tin lắm vì cái “vườn” này quả là quá hẹp (các văn bản đều rất
ngắn), vả chăng nó cũng được vun xới, chăm sóc quá kĩ càng. Không ngờ rồi
cũng “dọn” ra được “cỏ”. Không giống như mọi loại văn bản khác, thiết nghĩ,
tính chuẩn mực và sáng tạo của đề thi phải được đặt lên hàng đầu. Bởi ít
nhất, mỗi đề thi tuyển sinh cũng là một văn bản bắt buộc hàng nghìn, hàng
vạn thí sinh phải đọc, nghiền ngẫm để có được câu trả lời (dưới dạng một bài
luận) quyết định đến sự nghiệp tương lai của bản thân mình. Chỉ mong các
nhà quản lí và những người có trách nhiệm trực tiếp với đề thi tuyển sinh
hằng năm có những giải pháp khắc phục, để các sĩ tử vơi bớt nỗi “đoạn
trường” trong mỗi mùa thi cử.
MỤC LỤCLời nói đầu
1. Từ cách tiếp cận ngôn ngữ tác phẩm văn học…
2. Thời gian với ý nghĩa hai chữ “Vội vàng” của Xuân Diệu
3. Vẻ đẹp lứa đôi, hình ảnh người thiếu nữ với hình tượng thiên nhiên
trong thơ Xuân Diệu
4. Chữ và nghĩa trong bài thơ “Đây mùa thu tới”
5. Từ ý nghĩa của “nhánh duyên”… đến sự cảm nhận bài “Thơ duyên”
6. “Đây thôn Vĩ Dạ” – một bài thơ không dễ hiểu
7. Đặc điểm ngôn từ và mối liên hệ xưa – nay, cũ – mới trong bài thơ
“Tống biệt hành” của Thâm Tâm
8. Đâu là màu sắc cổ điển trong “Tràng giang” – một bài thơ hiện đại
của Huy Cận
9. Lời quê, lối nói quê, cảnh quê và hồn quê Nguyễn Bính trong “Tương
tư”
10. Từ ngữ và cú pháp trong cách hiểu ý nghĩa một câu thơ
11. Xin giữ lại chữ “nở” cho bài ca dao ấy
12. Về những câu hỏi trong một bài thơ của Nguyễn Duy
13. Tình huống, giọng kể và những sáng tạo nghệ thuật độc đáo trong
truyện ngắn “Vi hành”
14. Bút pháp chính luận mẫu mực trong “Tuyên ngôn độc lập”
15. Bàn thêm về bản dịch và một số từ ngữ chưa thống nhất cách hiểu
trong bài thơ “Giải đi sớm” của Chủ tịch Hồ Chí Minh
16. Giọng kể, nghệ thuật dựng chân dung nhân vật và ý nghĩa “vấn đề
đôi mắt” trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao
17. Ngôn ngữ, bố cục và những cung bậc nỗi nhớ trong “Tây Tiến” của
Quang Dũng
18. Con sông Đuống và không gian tâm tưởng trong niềm xúc cảm về
một miền quê
19. Ngôn ngữ, cấu tứ và mạch cảm xúc, suy tưởng về “Đất nước” của
Nguyễn Đình Thi
20. Về thi pháp tên nhân vật và người đàn bà không có tên trong truyện
ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân
21. “Tiếng hát con tàu” – tiếng hát của nguồn cảm hứng mới trong một
tâm hồn thơ
22. Nên hiểu thế nào về “rừng phách” trong bài thơ “Việt Bắc”
23. Kiểu hình tượng song hành, lối biểu đạt sóng đôi và sự thể hiện nỗi
nhớ độc đáo của Xuân Quỳnh trong bài thơ “Sóng”
24. Hiện thực và biểu trưng, nét đặc sắc nghệ thuật của “Mảnh trăng
cuối rừng”
25. Kiểu câu thơ văn xuôi và màu sắc chính luận trong chương “Đất
Nước”
26. Những sai sót về ngôn ngữ trong các Đề thi tuyển sinh đại học, cao
đẳng môn Văn
–––//–––
PHÂN TÍCH TÁC PHẨM VĂN HỌC TRONG NHÀ TRƯỜNG TỪ GÓC ĐỘ NGÔN NGỮ
Tác giả: TS. NGUYỄN TRỌNG KHÁNH
NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc NGÔ TRẦN ÁI
Phó Tổng Giám đốc kiêm Tổng biên tập NGUYỄN QUÝ THAO
Tố chức bản thảo và chịu trách nhiệm nội dụng:
Phó tổng Giám đốc kiêm Giám đốc NXBGD tại TP Hà Nội
NGUYỄN XUÂN HOÀ
Biên tập nội dung: CAO HOÀ BÌNH
Biên tập mĩ thuật: TRẦN TIỂU LÂM
Biên tập kĩ thuật: NGUYỄN MẠNH HÙNG
Trình bày bìa: NGUYỄN MẠNH HÙNG
Sửa bản in: THANH XUÂN – HOA DUNG
Chế bản: PHÒNG CHẾ BẢN (NXB GIÁO DỤC)
Mã số: 8V571M6–TTS
In 3.000 bản (QĐ11TK) khổ 14,3x20,3cm, tại Xí nghiệp in Hưng Yên Số in
24/2006, số xuất bản: 536–2056. In xong và nộp lưu chiểu tháng 4 năm 2006.