phan thành khương · phan thành khương văn 2017 . 2 . 1 phan thành khương văn 2017 . 2 ....
Transcript of phan thành khương · phan thành khương văn 2017 . 2 . 1 phan thành khương văn 2017 . 2 ....
4
Một bài tập làm văn lạ
Trần Văn Chương là một thầy giáo dạy Văn đã
trên 30 năm. Học trò rất quí mến anh vì anh luôn
giảng dạy một cách nhiệt tình, kiến thức sâu rộng
và nhất là rất công bằng, rành mạch trong việc
đánh giá, cho điểm bài làm của học sinh. Mới đây,
khi cho học sinh làm bài viết về kiểu bài tự sự,
Trần Văn Chương đã ra đề bài như sau: “Bằng trí
tưởng tượng của mình, anh (hay chị) hãy viết một
bài văn tự sự để kể lại việc An Dương Vương kén
rể.” Bài văn được thầy giáo Trần Văn Chương
cho điểm cao nhất lớp là bài của Nguyễn Thực
Học. Bài văn ấy như sau:
“Triệu Đà đã ba lần đem quân tấn công nước Âu
Lạc của An Dương Vương. Như ông ta nói, là để
“dạy cho Nam bang một bài học”. Cả ba lần đều
thất bại thảm hại. Quân tướng bị thương vong rất
nhiều. Chiến thuật biển người của Triệu Đà hoàn
toàn bị vô hiệu hoá bởi cái Nỏ Thần kì diệu của
An Dương Vương. Cứ mỗi lần bắn đi, có hàng
ngàn mũi tên bay về phía quân địch. Các mũi tên
này lại có khả năng tự tìm đến mục tiêu. Vì thế, dù
trốn, nấp sau các gốc cây, hốc đá, quân của Triệu
5
Đà vẫn bị dính tên. Và trận chiến kết thúc một
cách nhanh chóng.
Triệu Đà vô cùng căm giận. Ông ta nghiến răng
trèo trẹo, quát ầm lên: “Không diệt được nước Âu
Lạc thì ta ăn không ngon, ngủ không yên. Hai
tiếng Âu Lạc khiến ta bực bội lắm. Chúng nó mà
cũng dám mơ “âu” với “lạc”! Ai cho phép lũ man di
ấy “âu lạc”? Các khanh, ai có mưu sâu kế hiểm gì
thì tâu trình cho ta nghe.
Một lúc lâu sau, chẳng ai có ý kiến gì. Bỗng Đặng
Thâm Mưu vái lạy và nói:
- “Tâu bệ hạ! Không đánh được thì ta làm bạn,
làm sui gia vậy”.
- “Hử? Ngươi ăn nói cái kiểu gì vậy?”
Đặng Thâm Mưu đến bên Triệu Đà, nói thì thầm:
- “Bệ hạ cho thái tử Trọng Thuỷ sang ở rể, rồi lấy
cho được cái nỏ lợi hại ấy về và ngay lập tức, ta
đem quân sang hỏi tội chúng nó.”
- “Hay! Ngươi đúng là Thâm Mưu!”
- “Ta giao cho nhà ngươi lo thu xếp việc này. Phải
mang sang Âu Lạc một trăm ngàn lạng vàng, một
trăm ngàn lạng bạc, một trăm ngàn xấp lụa. Mỗi
xấp là mười thước, vậy là một triệu thước lụa.”
6
- “Sao lại nhiều quá thế, tâu bệ hạ?”
- “Ta làm cho chúng nó tin là ta thật lòng, thật dạ
giao hảo với chúng nó đấy mà. Ta sẽ lấy lại tất cả
đấy mà, lấy cả cõi Âu Lạc đấy mà. Có mất tí gì
đâu đấy mà!”
- “Bệ hạ thật anh minh!”
Sau hơn một tháng băng rừng lội suối, đoàn
người do Đặng Thâm Mưu dẫn đầu đã đến kinh
đô Âu Lạc. Thành Cổ Loa sừng sững khiến bọn
họ không khỏi rùng mình. Nhưng tham vọng thôn
tính Âu Lạc đã làm cho bọn họ bình tĩnh lại. Bọn
họ được quan Hộ thành cho nghỉ ở nhà khách để
chờ Thánh chỉ.
Đợi An Dương Vương đánh xong ván cờ, anh lính
cấm vệ mới dám tâu trình sự việc. An Dương
Vương cười ha hả, nói:
“Ta biết thế nào Triệu Đà cũng sẽ sang cầu cạnh
ta. Bọn họ biết điều đấy. Ngày mai, đưa bọn họ
vào gặp ta.”
Sáng hôm sau, khi đông đủ các quan văn võ đã tề
tựu ở sân chầu, hoàng hậu và Mị Châu hớt hải
chạy vào, cúi lạy nhà vua. Mị Châu, nước mắt
nước mũi dầm dề, nói:
7
-“Van xin bệ hạ, bệ hạ đừng gả bán con cho kẻ
ngoại bang xa lạ đó. Con thà lấy một anh nông
dân Âu Lạc chứ quyết không thèm lấy con của kẻ
đã ba lần đem quân đến giày xéo giang sơn Âu
Lạc của ta.”
An Dương Vương nổi trận lôi đình, quát:
-“Bịt mồm nó lại, tống nó vào lãnh cung. Trong
thời hạn một trăm ngày, kể từ hôm nay, ta cấm
khẩu nó. Vi phạm mỗi tiếng sẽ bị cộng thêm mười
ngày cấm khẩu nữa.”
Hoàng hậu vật vã than khóc:
-“Lạy bệ hạ, bệ hạ hãy tha cho con. Từ nhỏ đến
giờ, con gái có dám cãi bệ hạ điều gì đâu!”
An Dương Vương quát :
-“Đưa hoàng hậu về cung. Nhanh lên. Một tiếng
“Dạ” và hoàng hậu bị lôi đi.
Bỗng ngươì ta thấy quan gián nghị Lê Cương
Trực, một vị quan già yếu, râu tóc trắng phau, vái
lạy nhà vua và nói:
-“Tâu bệ hạ, hạ thần xin lấy tính mạng của mình
ra để tấu trình với bệ hạ. Bệ hạ đã bị mắc mưu
của Triệu Đà rồi! Cho người của Triệu Đà vào
8
trong nhà mình thì còn gì là bí mật quốc gia! Nước
mất nhà tan đấy Bệ hạ!”
Nhà vua vô cùng giận dữ, quát:
-“Hỗn láo! Lôi cổ lão già mất nết ấy ra ngoài cổng
thành mà chém ngay cho ta.” Một tiếng “Dạ” nữa
và vị quan già liền bị lính lôi đi. Từ đó, sân chầu
im phăng phắc, chẳng ai còn dám tâu trình gì nữa.
Mãi một lúc lâu sau, người ta mới nghe thấy
những lời xu nịnh nối tiếp nhau:
-“Bệ hạ vô cùng anh minh!”
-“Bệ hạ chí nhân, chí đức!
-“Bệ hạ vạn tuế, vạn tuế!” Họ nói mãi, ca tụng mãi
cho đến khi đoàn người do Đặng Thâm Mưu cầm
đầu xuất hiện, họ mới chịu ngưng.
Đoàn người vái lạy nhà vua. Nhà vua cho họ đứng
dậy tâu trình. Đặng Thâm Mưu nói:
-“Tâu bệ hạ, vua nước tôi muốn kết tình giao hảo
với Âu Lạc, muốn kết tóc xe tơ cho Trọng Thuỷ và
Mị Châu. Vua nước tôi gửi tặng bệ hạ một trăm
ngàn lạng vàng, một trăm ngàn lạng bạc, một triệu
thước lụa loại tốt nhất để tỏ rõ tấm chân tình.”
An Dương Vương tỏ ra rất bằng lòng, nói:
9
-“Sao mà lắm vàng, lắm bạc, lắm lụa thế! Ta chỉ
muốn Triệu hoàng đế và ta cùng thực hiện ba
mươi hai chữ vàng sau đây: “Hai nhà tựa một nhà,
trăm năm đôi trẻ kết tóc xe tơ, tròn mong ước;
Lưỡng quốc như nhất quốc, vạn đại lân bang tình
thâm hữu hảo, mãn nguyện cầu.” Mọi người vỗ
tay tán thưởng đôi câu đối nửa Tàu nửa ta của
nhà vua.
Và nhà vua nói:
-“Quyết định của ta là tối hậu. Đây là quyết định
duy nhất đúng.” Từ hôm đó, An Dương Vương đã
có rể “quí”. Kết cục bi thảm của cái “quyết định
duy nhất đúng” của An Dương Vương thì mọi
người Việt Nam đều đã rõ và chuyện kén rể của
An Dương Vương xin tạm dừng ở đây.”
Trên đây là bài văn tự sự kể về việc An Dương
Vương kén rể, bài văn của học sinh Nguyễn Thực
Học, một học sinh của lớp 10A1 trường THPT
chuyên Lê Quí Đôn, tỉnh X. Nguyễn Thực Học là
một học sinh chuyên Toán nhưng nhờ có sự suy
luận lô gích, lại có cảm xúc chân thật nên những
bài làm văn của Nguyễn Thực Học luôn đạt điểm
cao nhất lớp. Và lần này, thầy giáo Trần Văn
10
Chương cũng đánh giá cao bài làm văn của
Nguyễn Thực Học.
Thầy giáo Trần Văn Chương cho rằng Nguyễn
Thực Học có trí tưởng tượng khá tốt, diễn đạt trôi
chảy, mạch lạc, có chú ý khắc hoạ tính cách nhân
vật, v.v...
Sau khi đọc bài của Nguyễn Thực Học cho cả lớp
nghe, cả lớp 10A1 đều đồng tình với sự đánh giá
của thầy giáo Trần Văn Chương. Và khi thầy giáo
Trần Văn Chương hỏi cảm tưởng của học sinh
sau khi nghe đọc bài làm văn của bạn Nguyễn
Thực Học thì tất cả đều nói: thấy thương Mị Châu
quá, cô ấy là một người yêu nước và có niềm tự
hào dân tộc sâu sắc; vô cùng cảm phục quan gián
nghị Lê Cương Trực, ông tuy tuổi cao lực kiệt
nhưng đầu óc vẫn minh mẫn, sáng suốt và và
cương trực đúng như cái tên của ông; giận An
Dương Vương chủ quan, độc đoán nên đã phạm
phải một sai lầm nghiêm trọng dẫn đến thảm hoạ
nước mất nhà tan, cả dân tộc rơi vào tình cảnh nô
lệ tủi nhục.
Ninh Thuận, 27-5-2009
11
Một lũ điên
(truyện rất ngắn)
Lão Việt có 10 đứa con (5 gái và 5 trai). Chúng
phát triển không tốt lắm cả về thể chất và tinh
thần do nhà quá nghèo khó.
Bị hàng xóm xúi giục và cung cấp hung khí, chúng
tổ chức đánh nhau suốt 2 ngày đêm. Hậu quả là
lão Việt, vợ lão Việt, 3 thằng con trai và 2 đứa con
gái bị giết chết. Mấy đứa còn sống sót đều mang
thương tích trên xác thân và trong tâm hồn.
Hằng năm sau đó, cứ vào ngày đẫm máu ấy, cứ
vào ngày tang thương ấy, chúng tổ chức nhảy
nhót, hát ca ăn mừng. Chúng ăn vô số thịt, xôi và
uống vô số rượu, bia. Chúng làm náo loạn cả xóm
làng. Mọi người chỉ biết thở dài và chép miệng
than: “Một lũ điên!”.
Ninh Thuận, ngày 09-5-2015
12
Hai mẩu chuyện nhỏ về cọp
1. Có ba đứa trẻ chăn trâu trên rừng. Vì trời tối,
không kịp về nhà, ba đứa trẻ nghỉ lại trên một cái
chòi ở giữa một rẫy bắp (ngô). Chòi cao 7-8 mét,
có thang để lên xuống. Cơm mang theo đã ăn hết,
chúng nó nấu chè đậu đen để ăn cho đỡ đói. Nồi
chè đang sôi, đường và đậu đang keo lại.
Bất ngờ chòi rung mạnh. Một đứa nhìn xuống,
thấy hai con mắt sáng rực của một con cọp. Con
cọp đang leo lên chòi. Một đứa thông báo cho hai
đứa kia: “Cọp, bay ơi! Nó đang leo lên.”
Một đứa, có lẽ là đứa thông minh nhất, nói:
“Không sợ. Để đó tau!”. Thằng bé này giành chỗ
quan sát, nó thấy con cọp đang vội vã leo lên
chòi. Đợi khi con cọp chỉ còn cách chòi chừng một
mét, nó bê nồi chè trút thẳng vào mặt con cọp.
Cọp gầm một tiếng vang núi rừng, rớt bịch xuống
đất và chạy thục mạng vào rừng. Cả một hàng
bắp (ngô), bị con cọp giẫm, ngã la liệt.
Đói, ba đứa trẻ phải leo xuống bẻ mấy trái bắp
(ngô), đem lên chòi, nướng ăn thay chè.
13
Không biết con cọp thế nào nhưng nếu còn sống,
chắc là chẳng bao giờ nó dám leo lên chòi để ăn
thịt người nữa!
2. Có một anh kia đi cúng đình về, phải đi qua
rừng. Anh ta là Thủ chinh (Người giữ chiêng) cho
đình. Khi cúng đình, người ta đọc văn tế cùng với
tiếng chiêng tiếng trống.
Vai mang cái chiêng, tay cầm dùi chiêng, anh ta
cắm cúi đi vội về nhà. Bỗng anh ta thấy phía
trước mặt có một con cọp đang đi về phía anh ta.
Anh ta chui ngay vào bụi rậm bên đường mặc cho
gai đâm nhức nhối.
Con cọp tiến gần đến chỗ anh ta, anh ta run cầm
cập. Bất ngờ cái dùi chiêng đụng vào cái chiêng,
vang lên mấy tiếng “cheng, cheng” nho nhỏ. Con
cọp hoảng hốt bỏ chạy. Sẵn đà, anh ta chui ra,
đứng hiên ngang, đánh chiêng inh ỏi.
Té ra nhờ run mà con cọp sợ bỏ chạy! Người ta
nói “miệng hùm gan sứa” là như thế. Tuy dữ dằn
nhưng cọp lại rất sợ tiếng chiêng, tiếng thanh la.
14
Thế mà, khi kể lại chuyện mình gặp cọp, anh ta
chẳng nói đến việc anh ta chui vào bụi rậm, việc
anh ta run cầm cập! Anh ta chỉ nói: “Tao thấy con
cọp, tao bèn gõ chiêng inh ỏi. Con cọp sợ xanh
mặt, chạy trối chết”.
Trên đây là hai câu chuyện nhỏ về cọp mà cha tôi
đã kể cho tôi nghe ngày tôi còn bé. Nay, tôi kể lại
để góp vui cùng các bạn.
Ninh Thuận, 16-12-2016
16
Nhớ mãi món cháo cá nhét (1) tuyệt
vời của mẹ
Như hầu hết mọi đứa trẻ trên đời, hơn nửa thế kỉ
trước, tôi – chú bé con ngày ấy - sống trong tình
yêu thương và sự che chở của mẹ. Mẹ tôi là một
người nông dân chân lấm tay bùn mà tâm hồn thì
sáng trong như trăng rằm mùa thu. Mẹ thân thiện
và ân cần với mọi người. Chưa bao giờ tôi thấy
mẹ giận ai và cũng chưa bao giờ tôi thấy ai giận
mẹ. Trong gia đình, mẹ ý tứ chăm sóc cho chồng
con từ miếng cơm đến tấm áo. Có một món ăn
mẹ nấu mà mãi mãi tôi không bao giờ quên. Đó là
món cháo cá nhét của mẹ. Đúng là của mẹ! Bởi vì
từ nguyên liệu cho tới cách chế biến đều do mẹ
tìm kiếm và thực hiện.
Hôm ấy, tôi bị cảm sốt. Mẹ, từ ngoài đồng về, hỏi
tôi: “Con đã đỡ mệt chưa? Mẹ nấu cháo cá nhét
cho con ăn . Con sẽ khỏi bệnh ngay thôi”. Tôi nhìn
thấy trong cái rổ của mẹ có sáu con cá nhét vàng
óng . Mẹ đem rổ cá nhét đi chà rửa sạch sẽ và bỏ
vào nồi để luộc chín. Tiếp đó, mẹ bỏ cá nhét vào
tô và tách lấy phần thịt . Phần xương được mẹ bỏ
vào cối đá, giã nhỏ để lọc lấy nước. Nước này
17
được đổ vào nồi luộc cá nhét trước đó . Mẹ bỏ
vào nồi ba nắm gạo và thêm củi vào bếp. Và rồi
mẹ giã nén (2), thái hẹ. Hẹ được mẹ thái thật nhỏ.
Khi cháo đã nhừ, mẹ nhấc nồi xuống. Mẹ đặt một
chảo nhỏ lên bếp, đổ vào chảo hai muỗng dầu
phộng (3). Dầu vừa nóng, mẹ bỏ nén vào. Tinh
dầu nén bốc lên thơm ngào ngạt. Mẹ cho phần
thịt cá nhét vào chảo, đảo qua đảo lại mấy lần.
Xong, mẹ bỏ tất cả thịt cá nhét thơm tho này vào
nồi cháo, nêm mắm muối và rắc lá hẹ đã thái nhỏ
vào. Sau này, khi đã có bột ngọt, mẹ không quên
thêm vào nồi cháo một chút bột ngọt.
Tôi cầm chén cháo mẹ nấu mà cảm nhận vô vàn
yêu thương của mẹ, cảm nhận cả những vất vả,
nhọc nhằn của mẹ. Đúng như mẹ nói, sáng hôm
sau, tôi thấy mình đã khỏe nhiều, bệnh sắp khỏi
hẳn. Tôi còn được thưởng thức món cháo cá nhét
tuyệt vời của mẹ ngay cả khi đã lớn, đã vào đời.
Tôi cần nói thêm một điều này nữa. Trong cái rổ
của mẹ, bao giờ cũng chỉ có năm – sáu con cá
nhét. Để ý thấy thế, có lần tôi đã hỏi mẹ. Mẹ nói:
“Mẹ chỉ lựa lấy năm – sáu con lớn, những con
khác mẹ thả lại để chúng còn sinh đẻ nữa chứ!”.
Ôi ! Hơn nửa thế kỉ trước, mẹ đã làm cái điều mà
18
ngày nay cả thế giới đang phải làm: bảo vệ môi
trường, bảo vệ sự sống trên trái đất thân yêu này.
Mẹ tôi qua đời đã hơn hai mươi năm rồi. Mỗi lần
nhìn ảnh mẹ trên bàn thờ, tôi luôn cảm thấy ấm
áp một tình mẫu tử, tôi vẫn thấy mình là một đứa
con nhỏ của mẹ như ngày nào và tôi cũng nhớ rất
rõ hương vị món cháo cá nhét tuyệt vời của mẹ.
Ninh Thuận, 25.5.2008
(1) Cá nhét = con chạch
(2) Nén = hành tăm
(3) Dầu phộng = dầu lạc
19
Lần đầu đến Sài Gòn
(Hôm nay, 24-5-2016, Tổng thống Hợp Chủng
Quốc Hoa Kì (United States of America), Barack
Obama, đến Sài Gòn lần đầu tiên. 43 năm trước,
hè năm 1973, tôi cũng đã lần đầu tiên đến Sài
Gòn . Tôi xin phép kể lại vắn tắt như dưới đây):
Hè 1973, sau khi kết thúc năm học thứ 3 ở ĐHSP
Huế, tôi về Hòa Khánh (cách Đà Nẵng non 10
KM) để nghỉ hè. Gia đình tôi tản cư đến ở đấy.
Nhưng chưa nghỉ được ngày nào thì có người rủ
đi làm thợ nề trên đèo Hải Vân. Tôi đi làm ngay vì
muốn có ít tiền để vào Sài Gòn cho biết “Hòn
Ngọc Viễn Đông” nó như thế nào!
“Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát,
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông”
(“Áo lụa Hà Đông” - Nguyên Sa – Trần Bích Lan)
“Con đường Duy Tân cây dài bóng mát
Buổi chiều khuôn viên mây trời xanh ngát”
(“Trả lại em yêu” – Phạm Duy)
Và ca khúc “Ghé bến Sài Gòn” của Nhạc sĩ Văn
Phụng cứ thôi thúc tôi!
20
Công việc thợ nề của tôi là xây các vách ở hai
đầu các cống thoát nước. Vách có hình thang
vuông: đáy 2 mét, đỉnh 0,2 mét. Cống có đường
kính 2 mét, bằng thép. Và xây các đường dẫn
nước phía vách núi để khi mưa lớn, nước chảy
mạnh, không bị xói lở. Mỗi ngày được trả 250
đồng.
Tôi dự định sẽ bắt xe Phi Long hay Tiến Lực để đi
Sài Gòn. Nhưng, làm được hơn một tháng, đã có
hơn 10.000 đồng (1 xe máy Honda 50 cc nguyên
thùng chỉ 29.000 đồng) thì ông anh họ nói sẽ gửi
đi máy bay. Thích quá!
Đúng ngày giờ hẹn, tôi đến chỗ làm của ông anh
họ (gần Bảo tàng điêu khắc Chăm Đà Nẵng). Chờ
một lát thì có người đọc danh sách những người
được bay chuyến sáng hôm ấy. Nghe tên mình,
tôi lên xe.
Chiếc GMC chở gần 30 người, chạy ra phi trường
Đà Nẵng. Xe đến gần một chiếc máy bay khổng
lồ. Đó là chiếc máy bay Lockheed C-130
Hercules. Chúng tôi được hướng dẫn lên máy bay
từ phía đuôi máy bay và được chia đều ngồi dọc
21
hai bên. Mỗi ghế một người và phải buộc dây
ngang bụng.
Tấm bục lớn ở đuôi máy bay được nâng lên, khép
kín phía đuôi máy bay và chiếc Lockheed C-130
Hercules lăn bánh, cất cánh. Qua ô cửa nhỏ, tôi
thấy bên dưới là núi rừng trùng điệp. Có lẽ “nó”
đang bay trên Tây Nguyên.
Tôi đã bay trên một số loại máy bay trực thăng,
C123, … nhưng phải công nhận anh C130 này rất
êm, rất thoải mái.
Có người bảo: “Đến rồi! Sông Đồng Nai kia rồi!”
Và máy bay hạ dần độ cao rồi đáp xuống phi
trường Tân Sơn Nhất.
Tôi lên một chiếc Lambretta để ra cổng phi trường
rồi đi xích lô về nhà bạn, người bạn cùng lớp thời
trung học, đã vào Sài Gòn để học Đại học.
Ngày thứ nhất, bạn giao cho tôi một chiếc xe máy
Suzuki. Tôi đi đổ xăng và mua một cái bản đồ Thủ
đô Sài Gòn và bắt đầu khám phá “Hòn Ngọc Viễn
Đông”.
Tôi đến đường Trương Minh Kí, ngắm Đại học
Vạn Hạnh. Đi hết đường Trương Minh Giảng, rẽ
trái, đến Ngã tư Bảy Hiền, ngắm Bệnh viện Vì
22
Dân đồ sộ, vào Hương lộ 14 để thăm ông anh cô
cậu. Khu Bảy Hiền có rất đông người Quảng Nam
vào làm ăn sinh sống.
Ở chơi nhà ông anh cô cậu đến 14 giờ, tôi đến
đường Trần Quốc Toản để thăm bà chị kết nghĩa.
Năm 1964, Quảng Nam bị lụt lớn, thiệt hại khủng
khiếp về người và tài sản. Trường Trung học
Trưng Vương (Sài Gòn) của chị N. quyên tiền
giúp học sinh miền Trung. Lớp 11A2 của chị N. đã
gửi tiền giúp lớp tôi. Tôi và bạn tôi, mỗi người
nhận được 200 đồng. Tôi viết thư cảm ơn lớp
11A2 của chị N. Từ đó, chị N. và tôi thường viết
thư cho nhau. Chị N. học trên tôi hai lớp. Tôi cũng
nhận được nhiều thư của các chị cùng lớp với chị
N. nữa. Ba chị N. là một Bác sĩ và sau này chị N.
cũng trở thành một Bác sĩ. 21 năm sau (1973-
1994), trong dịp đi tăng cường cho Bệnh viện đa
khoa tỉnh Ninh Thuận, chị N. có đến Khu tập thể
trường THPT. DTNT. Ninh Thuận để thăm gia
đình tôi.
Từ giã chị N. và gia đình, tôi đến chợ Bến Thành,
đi qua nhà sách Khai Trí, vòng ra đường Bạch
Đằng chiêm ngưỡng tượng đài Đại Vương Hưng
Đạo – Trần Quốc Tuấn.
23
Sau đó, tôi đến dinh Độc Lập, ngắm công trình
của Kiến trúc sư lừng danh Ngô Viết Thụ, đến
chiêm ngưỡng Nhà thờ Đức Bà rồi đến Bảo tàng
Lịch sử.
Tại Bảo tàng Lịch sử, nhìn những cây cọc Bạch
Đằng, hình ảnh Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô
Quyền, Lí Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi,
Quang Trung, … lòng tôi dào dạt cảm xúc tự hào,
cảm phục cha ông mưu trí, anh hùng, kiên cường,
bất khuất! Ngắm những phiên bản trống đồng
Đông Sơn, thạp đồng Đào Thịnh, những mũi tên
đồng, … tôi như thấy lại cả một quá khứ gian khổ,
hào hùng và tài hoa của dân tộc!
Rời Bảo tàng Lịch sử, tôi vào Thảo Cầm Viên để
xem voi, gấu, sư tử, … Con hổ trong Thảo Cầm
Viên, lúc này, trông rất giống con hổ của Thế Lữ
trong bài thơ nức tiếng “Nhớ rừng”. Nó khinh
khỉnh, nghênh ngang, dữ dằn, hung tợn lắm!
Chắc là được ăn uống đầy đủ nên rất sung sức,
mạnh mẽ.
Gần 17 giờ, khát nước và mệt, tôi quay về nhà
bạn. Gặp một chị bán trái cây, đang đẩy xe đi bên
đường, tôi dừng lại, hỏi: “Bao nhiêu một chục cam
vậy chị?”. Chị trả lời ngay: “Bốn đồng chú à!”. Tôi
24
nói: “Chị bán cho em một chục!”. Chị nhặt cam, bỏ
vào một bao giấy đã được dán sẵn. Tôi trả tiền
cho chị.
Cầm bị cam, nghe nằng nặng, tôi mở xem. Thấy
13 trái cam, tôi nói với chị: “Dư 3 trái chị ơi!”. Chị
bảo: “Không dư đâu! Một chục là 12 trái, tôi biếu
chú 1 trái nữa là 13. Nghe tiếng chú, tôi biết chú ở
ngoài Trung mới vào. Quảng Nam phải không? Ở
đây, tôi tính chục 12, chứ chú xuống miền Tây,
người ta tính cho chú chục 14, chục 16 nữa kìa.”.
Tôi vô cùng ngạc nhiên: chục 12, chục 14, chục
16 và còn biếu 1 trái vì “tôi biết chú ở ngoài Trung
mới vào”! Người Sài Gòn sống nghĩa tình quá! Tôi
vô cùng cảm động trước tình cảm của chị bán trái
cây, tôi nói: “Vậy, em cảm ơn chị! Chào chị nhé!”.
Ngày thứ hai, tôi đi lung tung: đến cầu Chữ Y, qua
Khánh Hội, đến Đa Kao, Chợ Lớn, … Đi trên các
con đường Tú Xương, Hồ Xuân Hương, Bà
huyện Thanh Quan, … rợp bóng me, hoa và lá
me rắc vàng trên đường. Đúng là những con
đường dành cho các nhà thơ!
Đến chiều, tôi đến nhà sách Khai Trí, mua gần 20
quyển sách các loại: từ điển, thơ, tiểu thuyết, sách
25
dịch, sau khi tính toán số tiền cần để ăn uống và
đi xe.
Sáng hôm sau, tôi chia tay bạn và lên xe Phi Long
để về lại Đà Nẵng.
Xe chạy tới Sa Huỳnh thì trời tối, những người
anh em con Lạc cháu Hồng đang bắn giết nhau,
xe không thể đi tiếp. Xe phải đưa hành khách
xuống bờ biển để lên 2 chiếc thuyền. Thuyền
chạy cách bờ vài cây số. Nhìn vào trong đất liền,
thấy đạn bay đỏ trời, hỏa châu chiếu sáng, tiếng
súng lớn nhỏ, lúc nhặt lúc thưa. Tôi không hiểu
sao người Việt Nam mình lại thích bắn giết nhau
dữ vậy!
Ra tới quãng thị xã Quảng Ngãi, thuyền mới cập
bến, chúng tôi lên bờ và lên xe – một xe Phi Long
khác – để đi tiếp ra Đà Nẵng.
Đấy, lần đầu đến Sài Gòn của tôi là như thế. Còn
rất nhiều tình tiết nhưng tôi xin thuật vắn tắt như
thế vì sợ làm mất thì giờ của người đọc!
Sài Gòn thật tuyệt vời! Đúng là một Hòn Ngọc!
Hòn Ngọc không chỉ là nhà cửa, lâu đài, cao ốc,
đường sá, … mà quan trọng hơn (tôi nhấn
26
mạnh), đó là Hòn Ngọc của Tình Người, của
Nhân Cách, của Tâm Hồn người Sài Gòn!
Ninh Thuận, 24-5-2016
27
Mấy kỉ niệm nho nhỏ về 4 năm ấy
Trong 4 năm ấy, 4 năm học tại Đại học Sư phạm
Huế (1970-1974), kí ức của tôi đã lưu lại nhiều
điều mà mãi sau gần 40 năm (1974-2013), tôi
vẫn còn nhớ rõ. Tôi xin được chia sẻ mấy kỉ niệm
nho nhỏ sau đây:
1. Lạnh tê cóng hai bàn tay: Năm học thứ nhất,
tôi ở tại Cư xá Huỳnh Thúc Kháng (cơ sở báo
Tiếng Dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng). Cư xá này
dành cho sinh viên Quảng Nam ra học tại cố đô.
Năm đó, Huế lạnh 11 độ. Tôi chẳng có áo ấm. Khi
qua cầu Trường Tiền, gió buốt, tôi run cầm cập.
Đến lớp, thầy giảng, các bạn ghi chép, tôi chẳng
tài nào viết được. Hai bàn tay cứng đơ. Tôi
khoanh tay, kẹp hai bàn tay trong nách mãi cho
tới khi ... hết giờ học!
2. Đi khiếu kiện ở dinh tỉnh trưởng: Hôm nọ, đi
học về thì biết tin cảnh sát vào Cư xá Huỳnh Thúc
Kháng, đánh đập anh em sinh viên ở đây. Chúng
tôi làm ngay một băng rôn “phản đối cảnh sát vô
cớ đánh đâp sinh viên”. Tôi là một trong hai người
cầm băng rôn, chúng tôi kéo qua dinh tỉnh trưởng,
28
đòi gặp tỉnh trưởng để yêu cầu giải quyết vụ việc.
Lính gác không cho vào. Tranh cãi một hồi, họ
bảo cử đại diện vào gặp tỉnh trưởng. Cuối cùng,
ông tỉnh trưởng đã xin lỗi và hứa chăm sóc các
bạn bị đánh. Có lẽ ai đó đã mật báo gì đấy với
cảnh sát?
3. Bơi qua sông Hương: Năm thứ hai, tôi
chuyển qua ở tại Cư xá Đội Cung (số 2 đường
Đội Cung). Chiều hôm ấy, đi học về, trời rất nóng
nực, cúp nước, anh em rủ ra sông tắm. Có bạn
nói “đứa nào bơi qua sông, tao đãi một li chè thập
cẩm”. Tôi, tuy không thích chè thập cẩm nhưng
cũng muốn thử sức mình. Tôi cũng đã nhiều lần
bơi qua bơi lại trên sông Thu Bồn ở Quảng Nam
hồi còn học lớp đệ thất, đệ lục. Và, tuy có hơi mệt
vì khúc sông ở trước trường Đại học Sư phạm
Huế khá rộng, cũng bơi qua bơi lại an toàn.
4. Suốt tuần ngồi đánh máy chữ: Thầy Nguyễn
Văn Dương có nhiều sách hay. Có những cuốn
sách do Giáo sư Hoàng Xuân Hãn từ Pháp gửi về
cho thầy. Thầy Dương giao cho tôi đánh máy để
sao lại. Đánh mỗi lần 6 bản trên giấy pơ-luya
(papier pelure) với 5 tờ giấy than. Tôi ngồi đánh
máy suốt tuần như thế mới xong cuốn “Tú Xương,
29
con người và nhà thơ” của Trần Thanh Mại và
Trần Tuấn Lộ (xuất bản ở ngoài bắc). Và, dĩ
nhiên, thầy cho tôi một bản.
5. Nghe giới thiệu hai ca khúc mới của Trịnh
Công Sơn: Hôm ấy, được tin nhạc sĩ Trịnh Công
Sơn giới thiệu hai ca khúc mới tại Trung tâm Liễu
Quán, tôi đến dự. Trịnh Công Sơn gầy, dong dỏng
cao, kính cận. Anh không hát, chỉ giới thiệu: “Đây
là hai ca khúc tôi mới viết vừa ráo mực, mời các
anh chị nghe”. Đó là các ca khúc “Cõi tạm” và
“Biết đâu nguồn cội”. Tôi thấy, lúc này, Trịnh Công
Sơn đã chịu ảnh hưởng tư tưởng nhà Phật khá
sâu đậm.
6. Dự lễ trao trả tù binh:Chiều hôm đó, năm
1973, khoản 14-15 giờ, tôi từ Thư viện Đại học về
cư xá (lúc này tôi đã chuyển lên ở Cư xá Nam
Giao), đến trước Bệnh viện trung ương Huế, tôi
gặp một chiếc GMC đứng bên đường. Bên hông
xe, có giăng một băng rôn “Phái đoàn Viện Đại
học Huế dự lễ trao trả tù binh”, trên xe có 3 bạn
sinh viên. Tôi nói “tôi đi với được không?”. Họ bảo
“được, lên xe”. Tôi lên xe và xe chạy lên Viện Đại
học. Vài người nữa lên xe, xe quay đầu và thẳng
đường ra Quảng Trị. Thành phố Quảng Trị, bên
30
bờ sông Thạch Hãn, chỉ còn là một bãi gạch vụn!
Tuy nhiên, màu xanh cây cối đã phủ kín mọi nơi.
Rau tàu bay, rau sam, chuối, đu dủ, ... rất xanh
tốt. Xe đến sát bờ sông. Cầu Thạch Hãn đã gãy
đổ. Cờ xí dày đặc hai bên bờ sông: phía bờ bắc là
cờ đỏ sao vàng, cờ xanh đỏ sao vàng và câu
khẩu hiệu “Không có gì quí hơn độc lập, tự do”;
phía bờ nam là cờ vàng ba sọc đỏ và câu khẩu
hiệu “Hoan hô các chiến sĩ trở về từ ngục tù cọng
sản”. Tù binh được chở bằng ca nô từ bờ nam
qua bờ bắc và ngược lại. Tù binh miền Bắc mặc
quần áo màu đà, tù binh miền Nam mặc quần ka
ki vàng áo trắng. Các chiếc ca nô nhỏ, mỗi lần chỉ
chở được 6-7 tù binh. Ngoài bộ quần áo mặc trên
người, mỗi tù binh đều có một túi xách nhỏ. Ra
giữa sông, tù binh hai bên đều vứt túi xách xuống
sông, cởi quần áo vứt luôn xuống sông (may là họ
vẫn giữ lại cái quần đùi). Tôi nghĩ là họ quyết
không thèm lấy, không thèm dùng bất cứ thứ gì
của địch? Dòng sông, vì thế, đầy cả quần áo, túi
xách của tù binh hai miền. Gần 1500 tù binh hai
miền được trao trả hôm ấy. Nhá nhem tối mới
xong việc trao trả. Chúng tôi lên xe GMC để về lại
Huế.
31
7. Trồng rau lang để ăn quanh năm: Đại học xá
Nam Giao khá rỗng rãi, đất trống rất nhiều. Tôi và
hai bạn cùng phòng đã vun một vồng khoai dài cả
trăm mét. Chúng tôi mua dây khoai lang về trồng.
Chỉ vài tháng sau đã có rau để luộc. Cứ cắt từ
đầu A đến đầu B, cắt đến cuối đầu B thì đầu A đã
xanh tốt rồi, có thể cắt để luộc được rồi. Đó là một
luống rau lang để ăn quanh năm.
Còn nhiều kỉ niệm khác nữa nhưng xin hẹn một
dịp khác. Tôi xin khép lại ở đây và xin được khẳng
định rằng: những năm tháng học tập ở Đại học
Sư phạm Huế là những năm tháng đẹp nhất trong
cuộc đời tôi.
Ninh Thuận, 05-12-2012
32
Mấy kỉ niệm be bé trong 7 năm dạy
học tại trường THPT Nguyễn Trãi
(Ninh Thuận)
Tháng 9 năm 1982, tôi được điều về trường
THPT Nguyễn Trãi (Ninh Thuận, trước 1975 là
trường Trung học Duy Tân), sau 7 năm dạy học
tại trường THPT Ninh Hải (Ninh Thuận), từ 1975
đến 1982. Tôi không xin xỏ gì cả. Nghe đồn về
trường THPT Nguyễn Trãi để phụ trách Tổ Văn.
Nhưng đã có anh Duận rồi nên sau đó, tôi được
bầu bổ sung làm Phó Thư kí Công đoàn năm học
1982-1983.
Từ năm học sau, 1983-1984, cho đến khi tôi xin
chuyển ra Trung tâm KTTH-HN-DN Ninh Thuận,
tháng 9 năm 1989, 6 năm tôi liên tục làm Thư kí
Công đoàn rồi Chủ tịch Công đoàn trường THPT
Nguyễn Trãi (khoản năm 1883 hay1984 thì gọi là
Chủ tịch Công đoàn thay vì Thư kí Công đoàn
trường cho tới nay).
33
Tôi xin thuật lại vắn tắt mấy kỉ niệm be bé trong 7
năm dạy học tại trường THPT Nguyễn Trãi (Ninh
Thuận). Vui có, buồn có nhưng đều thật 100%.
1. Trồng dừa ở Bình Sơn
Bờ biển Bình Sơn trước đây, từ resort Hoàn Cầu
cho đến khách sạn Sài Gòn – Ninh Chử đều bỏ
hoang, gồm cỏ lông chông, xương rồng và các
loại cỏ khác.
Lãnh đạo trường THPT Nguyễn Trãi mơ biến nơi
đây thành một rừng dừa trĩu quả. Trường đã mua
và huy động học sinh, phụ huynh học sinh góp
được hơn 2000 cây dừa. Đang mùa mưa, thầy trò
phấn khởi đưa dừa con đi trồng. Dừa đã phủ khắp
khu vực các resort Thái Bình Dương, Đen Giòn,
Hoàn Cầu bây giờ. Mấy tháng đầu, dừa con hầu
hết sống, tươi xanh.
Họa sĩ Nguyễn Khoa Nhi đã vẽ một bức tranh lớn,
khổ 2m x 3m, treo ở cuối Phòng họp Hội đồng.
Bức tranh là một rừng dừa xanh tốt, chi chít quả.
Nhưng rồi mùa mưa qua đi, mùa nắng bắt đầu, lũ
dừa con cũng bắt đầu héo lá rồi lần lượt từ giã cõi
đời! Mấy năm sau, người ta chỉ thấy 5-7 cây còn
sống! Đúng là chúng tôi duy ý chí, phi thực tế, phi
34
khoa học. Bởi lẽ, trong mùa nắng, nếu đào xuống
2-3 mét thì cát vẫn khô ráo, rời từng hạt. Vậy, dừa
con làm sao sống được?
Nếu ta đào rãnh sâu 1 mét, rộng 1 mét rồi đổ đất
sét, đất thịt xuống và trồng thì dừa chắc chắn sẽ
sống. Vì đất sét, đất thịt sẽ giữ ẩm cho cây.
Cuối cùng, hơn 2000 cây dừa hầu như biến mất.
Bức tranh dừa bị rách và ai đó đã gỡ xuống, xếp
lại, …
2. Học và làm thảm xơ dừa:
Lúc này, phong trào lao động sản xuất trong các
trường rất rầm rộ. Chúng tôi gồm 5-6 giáo viên
được trường cử ra Cam Ranh, đến Hợp tác xã
dệt thảm xơ dừa Đồng Tâm để học nghề. Từ việc
đập vỏ dừa khô để lấy xơ, đánh thành sợi thừng
dài 20 mét, mắc các sợi thừng vào khung dệt,
đứng tại khung dệt để dệt và cắt ra từng tấm 0,4 x
0,6 mét, khâu 2 đầu để thành một tấm thảm.
Học khoản 1 tuần, chúng tôi đã thông thạo.
Trường mua 2 khung dệt. Hằng ngày, ngoài các
tiết dạy, tôi đều đứng dệt. Sân trường, trước và
sau, đầy vỏ dừa khô và tươi. Báo chí đưa tin:
trường THPT Nguyễn Trãi (Ninh Thuận) sản xuất
35
thảm xơ dừa, xe ra vào ăn hàng tấp nập! Ha ha
…
Trong dịp tổng kết năm học tại trường Dục Thanh
(Phan Thiết, lúc này là tỉnh Thuận Hải), trường
chở theo một khung dệt và tôi sáng, chiều phải
đứng dệt biểu diễn cho quan khách ngắm nghía,
trầm trồ!
Cuối cùng, hàng trăm tấm thảm chẳng biết bán
cho ai, phải đem tặng nơi này nơi kia. Và kế
hoạch sản xuất thảm xơ dừa để xuất khẩu đã kết
thúc cũng thảm như thảm xơ dừa!
3. Làm ruộng ở Dư Khánh (Khánh Hải, Ninh
Hải, Ninh Thuận):
Nông dân chán làm ruộng, ruộng không người
làm. Trường đã liên hệ và Hợp tác xã nông
nghiệp Dư Khánh đã giao cho trường hơn 10 mẫu
ruộng gồm 27 thửa ruộng rải rác từ núi Cà Đú đến
trường Cao đẳng Sư phạm. Tôi lại được trường
đặc cử đi làm ruộng bởi tôi thông thạo địa bàn này
(7 năm dạy học tại trường THPT Ninh Hải). Thế
là, mỗi tuần tôi chỉ dạy có mấy tiết, thời gian còn
lại là “ nằm dưới ruộng”.
36
Cày, bừa ruộng bằng máy. Hằng ngày, tôi đứng
trên máy cày, bên anh thợ cày. Không sướng
đâu! Máy cày nhào lên, nhào xuống, nghiêng bên
trái, nghiêng bên phải. Không khỏe sẽ xây xẩm
mặt mày ngay. Bừa ruộng thì chỉ thợ làm thôi.
Trước khi bừa ruộng 3 hôm, tôi đã nhận giống
của Hợp tác xã để ngâm, ủ cho ra mầm. Ngày
gieo mạ, tôi và học trò, mỗi người mang 1 bao
giống và 1 cái thúng ra ruộng. Chúng tôi gieo hết
thửa ruộng này qua thửa ruộng khác. Trăng mọc
lên, mới hoàn tất. Tôi bỗng nhớ bài thơ của đại
thi-văn-hào Victor Hugo, bài « Saison des
semailles, le soir » (Mùa gieo hạt, buổi chiều).
C'est le moment crépusculaire.
J'admire, assis sous un portail,
Ce reste de jour dont s'éclaire
La dernière heure du travail.
Dans les terres, de nuit baignées,
Je contemple, ému, les haillons
D'un vieillard qui jette à poignées
La moisson future aux sillons.
37
Sa haute silhouette noire
Domine les profonds labours.
On sent à quel point il doit croire
A la fuite utile des jours.
Il marche dans la plaine immense,
Va, vient, lance la graine au loin,
Rouvre sa main, et recommence,
Et je médite, obscur témoin.
Pendant que, déployant ses voiles,
L'ombre, où se mêle une rumeur,
Semble élargir jusqu'aux étoiles
Le geste auguste du semeur.
Hai dòng cuối hay và lãng mạn nhất:
Vung tay đến trời sao
Hào hùng người gieo hạt !
(Phan Thành Khương dịch)
Bản dịch thơ tiếng Việt:
Mùa gieo hạt buổi chiều
Đấy là buổi hoàng hôn,
38
Tôi nhìn từ khung cửa.
Ánh ngày còn lần lữa,
Cuối buổi làm đồng rồi.
Đất đai ngập bóng đêm,
Nhìn càng xúc động thêm.
Cụ già đang gieo hạt,
Mùa sau được ấm êm.
Chiếc bóng đen vòi vọi
Sừng sững trên đồng sâu.
Vững lòng ông tin tưởng
Tháng ngày sẽ qua mau.
Bước đi trên đồng rộng,
Tới, lui, gieo hạt giống.
Bàn tay ông nắm, mở,
Lặng nhìn, tôi chứng nhân.
Khi màn đêm giang cánh,
Bóng dêm, tiếng rì rào.
Vung tay đến trời sao,
Hào hùng người gieo hạt!
(Phan Thành Khương dịch)
39
Hằng ngày và cả đêm, tôi phải có mặt ở ruộng để
lấy nước vào các thửa ruộng.
Làm cỏ ruộng cũng không dễ dàng. Cỏ phủ kín
mất lúa. Thầy trò phải nhổ cỏ. Cỏ chất đầy bờ
ruộng, có chỗ cao 0,5 đến 0,6 mét!
Bón phân cho lúa thì cũng do thầy trò thực hiện.
Nhận phân NPK, phân đạm của Hợp tác xã. Thầy
trò mỗi người mỗi bao và một thúng nhỏ. Chúng
tôi vãi phân như gieo giống vậy thôi.
Rồi lúa trỗ, lúa chín. Lúa chín, ban đêm thầy trò
phải xuống canh giữ. Chúng tôi trải ni lông nằm
trong các bụi chuối, có đem theo súng AR15. Nửa
đêm, nổ vài phát lên trời cho bọn trộm sợ rồi mình
ngủ tiếp.
Thầy trò lại đi gặt lúa. Có máy suốt lúa. Tới gần
tối thì xong. Năm ấy, được 12 tấn lúa. Thuê xe
chở về trường và bán cho GV, CNV nào cần.
Nói chung, làm ruộng rất mệt, năng suất quá thấp
nhưng cũng có thành quả dù nhiều dù ít.
4. Hái dừa cho cả trường làm mứt tết :
Năm 1984, cách tết chừng 10 ngày, các anh bảo
Công đoàn hái dừa cho cả trường làm mứt. Chủ
40
tịch Công doàn phải lo vụ này. Năm ấy, trường
THPT Nguyễn Trãi quản lí khu vườn ở phía sau
Nhà thờ Phan Rang. Vườn rộng hơn một mẫu.
Trong vườn có chừng 30 cây dừa, 20 cây xoài,
khế, ổi, bạc hà, rau lốt, sả, … Quanh vườn có
mương nước với rất nhiều cá, lươn, …
Tôi, thầy Phố, thầy Đào, thầy Hỉ đi hái dừa. Dừa
đã già lão, khá cao, trừ mấy cây dừa xiêm. Thầy
Đào trèo được một cây, hái được mấy chục trái.
Thầy Phố chỉ trèo được nửa cây rồi hai đầu gối
run run không trèo lên được nữa! Thầy Phố trèo
xuống còn khổ sở hơn trèo lên!
Thế là tôi phải trèo 7-8 cây nữa. Chủ tịch Công
đoàn mà! Thưc ra, tôi là người sống cạnh rừng,
vườn nhà tiếp giáp với rừng, từ bé tôi đã quen leo
trèo. À, tôi nhớ có lần, cũng tại trường THPT
Nguyễn Trãi, khi thầy cô, học sinh đã nghiêm
chỉnh chuẩn bị chào cờ, thầy dạy thể dục đã hô
"Nghiêm" nhưng hai học sinh kéo cờ không thể
kéo cờ được, dây buộc cờ kẹt giữa ròng rọc với
khung sắt. Thế là tôi chạy đến, bỏ giày và như
con khỉ, tôi "đi" lên ngọn trụ cờ để gỡ sợi dây ra,
đăt vào giữa cái ròng rọc rồi tụt xuống cái vèo.
Trở lại chuyện hái dừa,tôi trèo lên ngọn và lựa
41
những buồng dừa có thể làm mứt, đạp xuống ào
ào. Thầy Hỉ đưa ba gác đến chở về trường. Hơn
300 trái, mối thầy, cô, công nhân viên được nhận
3 trái dừa về làm mứt tết. Mùa xuân ấy, toàn
trường đều có mức dừa tự làm, không phụ gia,
không hóa chất độc hại!
5. « Bị » dự giờ bất ngờ:
Giáo sư, Tiến sĩ, Thứ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn
Văn Hạnh về thăm trường. Trong giờ ra chơi, tôi
được thông báo thầy Hạnh sẽ dự tiết dạy sắp tới
của tôi. Hôm ấy, tôi dạy bài văn nghị luận « Giữ
gìn sự trong sáng của tiếng Việt » của Phạm Văn
Đồng ở lớp 12. Bài này dạy trong 2 tiết. Tiết
trước, tôi đã giới thiệu về tác giả, bố cục, đại ý
của bài văn. Tiết tiếp theo, sẽ đi vào phân tích và
đánh giá chung bài văn.
Về sự giàu và đẹp của tiếng Việt, tôi phân tích :
-Tiếng Việt giàu về vốn từ : gồm từ thuần Việt (cá,
đi, đẹp, …), toàn bộ từ tiếng Hán đã được Việt
hóa hoàn toàn (học, tập, định, …) hoặc chỉ được
Việt hóa về cách đọc, có thể dịch ra từ thuần Việt
(hải = biển, mĩ = đẹp, tẩu = chạy, …) các từ vựng
42
Anh, Pháp cũng được tiếp nhận thuận lợi (a xít,
cà vạt, ô xi, …).
- Tiếng Việt giàu trong cách diễn đạt: một khái
niệm có nhiều từ để dùng, một từ diễn đạt nhiều
khái niệm khác nhau. Ví dụ : khái niệm « chết » có
thể nói băng hà, qui tiên, qua đời, về với ông bà,
… hoặc toi, ngủm, ngoẻo, ra Cà Đú, … Từ « ăn »
có thể là : đưa thức ăn vào miệng, nhai, nuốt, có
thể là thắng, hơn (Ván này, tôi ăn anh).
- Tiếng Việt đẹp bởi rất giàu âm điệu. Khi nói
« hoa nở », miệng ta tròn và mở ra như hoa nở ;
khi nói « khép », « ngậm », miệng ta cũng phải
khép, ngậm lại. Có vô số từ láy tượng hình, tượng
thanh : long lanh, róc rách, gập ghềnh, ríu rít, …
- Do học Pháp văn là sinh ngữ một, lại học ban C
nên tôi đã so sánh tiếng Pháp và tiếng Việt để
thấy rõ hơn sự giàu đẹp của tiếng Việt. Người
Pháp chỉ dùng mỗi động từ « porter » : porter un
chapeau,porter des souliers,porter une chemise,
porter un enfant,porter une valise, porter un livre,
… thì người Việt lại nói : đội một cái mũ, mang đôi
giày, mặc một chiếc áo sơ mi, ẵm một em bé,
xách một cái va li, cầm một quyển sách … Như
vậy, « porter » phải dịch bằng nhiều từ tiếng Việt
43
khác nhau: đội, mang, mặc, ẵm (hay bồng, bế),
xách, cầm, … Rõ ràng tiếng Việt của chúng ta rất
giàu và rất đẹp nhưng dĩ nhiên các thứ tiếng nói
khác cũng có sự giàu đẹp riêng. Ta chỉ nên tự hào
về tiếng Việt nhưng không nên chê bai các thứ
tiếng nói khác.
Tổng kết bài dạy, tôi đánh giá chung : bài viết của
Phạm Văn Đồng chặt chẽ, mạch lạc, lập luận và
dẫn chứng giàu sức thuyết phục. Biết rõ sự giàu
đẹp của tiếng Việt, chúng ta phải tích cực học tập
tiếng Việt để nói và viết tiếng Việt vừa đúng vừa
hay, đạt hiệu quả giao tiếp cao. Đó chính là giữ
gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
Chiều đó, trong buổi họp Hội đồng đột xuất, Thứ
trưởng Nguyễn Văn Hạnh bảo anh Khương dạy
rất tốt, có thể dạy ở Đại học. Có lẽ ông quá
thương tôi, thấy tôi hợp ý với ông hay sao mà
khen « dữ » vậy? Chẳng biết!
Ninh Thuận, chiều 18-11-2016
44
Lần đầu đến Đà Lạt
Từ lúc 5-6 tuổi (1955-1956), tôi đã được nghe nói
về Đà Lạt. Lớn hơn, đọc sách, xem TV, nghe
nhạc, … tôi càng ao ước được đến “xứ hoa đào”!
Thế nhưng, mãi đến cuối năm 1974, tôi mới được
ngắm hồ Xuân Hương, khu Hòa Bình, thác Cam
Li, …
Năm 1974, tốt nghiệp ĐHSP Huế, ra trường.
Ngày chọn nhiệm sở, tôi “bận” làm gã tiều phu
trên đèo Hải Vân để có ít tiền bỏ túi trước khi đi
làm một giáo sư trung học đệ nhị cấp thực thụ.
Bạn tôi đã chọn nhiệm sở cho tôi.
Có hơn 20 nhiệm sở cho hơn 20 sinh viên tốt
nghiệp. Bạn có điểm tốt nghiệp cao nhất là người
được lên chọn đầu tiên, bạn có điểm tốt nghiệp
thấp nhất là người phải lên chọn cuối cùng. Công
khai, minh bạch, công bằng và rành mạch! Bạn tôi
đã chọn Ninh Thuận cho tôi.
Cầm Sự vụ lệnh, tôi đến Air Việt Nam Đà Nẵng
lấy vé máy bay Đà Nẵng – Nha Trang. Tôi và một
số bạn cùng khóa bay vào Nha Trang trên một
máy bay bán phản lực DC6.
45
Nghỉ ở Nha Trang một đêm, sáng hôm sau, tôi đi
xe đò vào Phan Rang. Đến Ti Giáo dục & Thanh
niên Ninh Thuận trình giấy tờ và tôi được chuyển
về Trường Trung học Tô Hiến Thành (Tháp
Chàm) vì trường lúc ấy không có thầy cô nào tốt
nghiệp ĐHSP môn Văn.
Tôi được phân công dạy 2 lớp 12 và 3 lớp 11
Dạy được một thời gian thì có mấy em học sinh rủ
tôi đi Đà Lạt. Ôi, thích quá!
Sáng thứ Bảy hôm ấy - tháng 11 năm 1974 – tôi
và 5-6 em học sinh nam đi Đà Lạt bằng xe … đạp.
Lần đầu tiên tôi thấy rừng thông đẹp làm sao! Ở
Huế cũng có nhiều thông nhưng không mênh
mông, bạt ngàn, dày đặc, thẳng tắp và vút cao
như thông ở dọc đường đèo lên Đà Lạt. Và,
những dàn su rộng lớn, chi chít trái! Bây giờ,
thông còn rất ít, một vài đám ven đường. Nhìn ra
xa, chẳng thấy cây thông nào!
Chúng tôi đến Đà Lạt lúc 16 giờ. Đi thuê phòng
trọ. 6-7 người mà chỉ phải trả 40 đồng (tương
đương 40.000 đồng bây giờ). Chúng tôi đi ăn tối
rồi đi dạo phố, ngắm thành phố về đêm, chuyện
trò với mấy người bán hàng rong. Ai cũng vui vẻ,
chân thật và thân thiện!
46
Về phòng trọ, muốn rửa tay, rửa mặt nhưng mở
vòi nước mà không dám chạm tay vào. Lạnh quá!
Lần đầu tiên tôi đắp một cái chăn bông to đùng và
dày cộm mà vẫn thấy lạnh. Có lẽ 42 năm trước
Đà Lạt lạnh hơn bây giờ!
Sáng hôm sau, Chủ nhật, chúng tôi trả phòng, đi
ăn sáng rồi đạp xe quanh hồ Xuân Hương, đến
thác Cam Li, ngắm thành phố một lúc rồi chúng tôi
trở về Tháp Chàm để sáng hôm sau, thứ Hai, phải
đi dạy, đi học nữa.
Có thể nói Đà Lạt thật tinh khiết, thiên nhiên và
con người đều rất tinh khiết! Đối với tôi, Đà Lạt lúc
bấy giờ là một chốn thiên đường. Và, tôi đã làm
một bài thơ nho nhỏ mà bây giờ tôi chỉ còn nhớ
vài câu:
...
Để em chờ, em đợi buốt xương da!
...
Ở bên em, anh thấy anh gần trời.
47
Không biết có em học sinh nào của Trường Trung
học Tô Hiến Thành ngày ấy còn nhớ bài thơ của
tôi không? Tôi đã đọc cho các em nghe đôi lần.
Lần đầu đến Đà Lạt của tôi là như vậy đó! Sau đó
một thời gian, thầy trò chúng tôi lại rủ nhau đi Nha
Trang chơi cũng bằng xe … đạp. Và, cũng thứ
Bảy đi, Chủ nhật về. Bây giờ già rồi, tôi mới thấy
ngày ấy mình khỏe thật!
Ninh Thuận, 01-4-2016
48
Một chút kỉ niệm về Hoàng Sa
Năm 1965, cuộc chiến anh em giết nhau trở nên
tàn khốc hơn, các quận lị thường xuyên bị pháo
kích. Để bảo đảm an toàn cho thầy và trò, Trường
Trung học Quế Sơn (Quảng Nam) đã được
chuyển xuống Hội An. Năm ấy, tôi học lớp Đệ
Ngũ (lớp 8), phải xuống Hội An để học tiếp.
Tại Hội An, tôi ở nhà anh ruột của tôi. Để có thêm
thu nhập và cũng để giúp đỡ bạn bè, người quen,
chị dâu của tôi nhận nấu cơm tháng (ăn ngày 2
bữa với số tiền chưa tới ba ngàn đồng mỗi tháng)
cho một số người. Trong số những người ăn cơm
tháng ấy, có các chú lính Địa phương quân thuộc
Tiểu khu Quảng Nam.
Lúc này, tỉnh Quảng Nam được giao trọng trách
quản lí Hoàng Sa. Một Trung đội Địa phương
quân được phái ra canh giữ Hoàng Sa. Sau mỗi
tháng, một Trung đội khác sẽ ra thay.
Qua lời chuyện trò của các chú, tôi đã được biết
đôi điều về Hoàng Sa! Nước biển Hoàng Sa
trong xanh. Hoàng Sa có rất nhiều chim, chúng rất
dạn dĩ. Bãi cát đầy trứng chim, lớp này chồng lên
lớp kia, …
49
Các chú đem về mấy cái vỏ ốc rất đẹp, lốm đốm
và óng ánh. Tôi đã được các chú cho một cái vỏ
ốc rất đẹp ấy nhưng …rất tiếc tôi không còn giữ
nó! Hơn 50 năm rồi, biết bao vật đổi sao dời, tôi
vẫn còn nhớ khá rõ chiếc vỏ ốc ấy: nền màu trắng
và xám với những chấm nâu đen óng ánh,…
Học xong lớp Đệ Tứ (lớp 9) ở Trường Trung học
Quế Sơn, tôi đã nộp đơn gia nhập Hải quân
nhưng không đủ tiêu chuẩn, thiếu trọng lượng!
Và, tôi đã vào Trường Trung học Công lập Trần
Quí Cáp (Hội An) để học tiếp.
Sau ngày giặc Tàu đánh chiếm Hoàng Sa (19-01-
1974), đọc các sách, báo, tài liệu viết về Hoàng
Sa, tôi mới được biết đầy đủ hơn về phần lãnh thổ
thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam.
Hôm nay, 19-01-2016, đúng 42 năm Hoàng Sa
của Việt Nam bị Tàu cộng cưỡng chiếm, tôi muốn
được chia sẻ chút kỉ niệm về Hoàng Sa như trên.
Ninh Thuận, 19-01-2016
51
Phan Bội Châu là nhà cách mạng, nhà thơ, nhà
văn, nhà văn hoá lớn của dân tộc Việt Nam. Năm
1925, Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt ở
Hàng Châu (Chiết Giang, Trung Quốc), bị kết án
chung thân khổ sai. Nhưng nhờ cuộc đấu tranh
quyết liệt của đồng bào ta và sự can thiệp của
quốc tế, Phan Bội Châu được “ân xá” và bị giam
lỏng ở Bến Ngự (Huế) suốt 15 năm cho tới ngày
mất (1940).
Dư luận cho rằng Phan Bội Châu bị người ta bán
đứng cho thực dân Pháp để lấy tiền xài, Phan Bội
Châu vô cùng bi phẫn. Sự nghiệp cứu nước còn
dang dở, tuổi tác lại mỗi ngày mỗi cao, ông vô
cùng đau xót. Theo lời kể của thầy Phan Văn Dật
giảng dạy ở Đại học Văn khoa Huế thì lúc bấy giờ
Phan Bội Châu rất nóng nảy, khó tính. Suốt ngày
ông chửi mắng lũ tay sai của thực dân. Thanh
niên, học sinh hằng ngày đến thăm ông, hỏi han
về việc nước,… nên ông cũng dịu tính đi một
phần:
“Trời đất may còn thân sống sót,
Tháng ngày khuây khoả lũ đầu xanh.”
(“Bài ca chúc tết thanh niên” – Phan Bội Châu)
52
Cũng theo lời kể của thầy Phan Văn Dật, bọn mật
thám suốt ngày đêm rình rập quanh nhà Phan Bội
Châu. Bực mình, một hôm ông đi đại tiện và gói
lại. Nửa đêm, ông ra vườn hì hục đào lỗ để chôn
cái gói ấy. Và ông chờ xem mấy thằng mật thám
làm gì. Chỉ một lát sau, chúng đến moi cái gói ấy
lên. Chẳng thơm tho gì, chúng biết chúng đã bị
ông lừa!
Và trong những ngày tháng u ám ấy, Phan Bội
Châu có hai “người bạn” chí thiết chí thân. Đó là
hai chú cún: con Ky và con Vá. Cả ba gần như
không rời xa nhau nửa bước! Phan Bội Châu
hằng ngày chăm sóc hai chú cún: cho ăn uống,
tắm rửa, lau khô…và chuyện trò với hai chú cún.
Cả ba rất tâm đồng ý hợp.
Nhưng rồi…hai chú cún bỗng…ngã lăn ra chết.
Phan Bội Châu vô cùng đau đớn. Có lẽ lũ mật
thám khốn nạn đã thuốc chết hai chú cún cưng
của ông. Và, Phan Bội Châu đã làm một việc hi
hữu: chôn cất, dựng bia cho hai chú cún. Phan
Bội Châu đã dựng những 6 tấm bia cho hai con
vật thân yêu của mình, mỗi con 3 tấm bia!
53
Chẳng rõ con Ky và con Vá con nào lớn hơn, con
nào nên nói tới trước? Vậy, theo thứ tự abc, tôi
nói đến con Ky trước.
Con Ky được Phan Bội Châu mệnh danh là
“NHÂN - TRÍ CẨU”. Ba tấm bia dành cho chú cún
NHÂN-TRÍ là:
1.Tấm bia thứ nhất ghi bằng chữ Hán: 仁智狗 Ky
之塚 (Nhân Trí cẩu Ky chi trủng).
2. Tấm bia thứ hai là một bài văn ngắn, bằng chữ
Hán, có nội dung ca ngợi những phẩm chất cao
đẹp của con Ky:
近仁者常貧于智,近智者常薄於仁.仁智兩備,難矣哉.
何物畜人,乃兼而有.同事一主,則骨肉是之, 無貓狗
之界: 仁也.見非其主,則仇敵是之,貨利不能餌:智也.
仁且智,汝物而然.天乎!天乎!汝乃不夀.爰隨所感於
汝墓.彼人而獸也,是汝當何如.(南曆丁丑月日, 主人
巢南誌).
Phiên âm:
54
“Cận nhân giả, thường bần vu trí. Cận trí giả,
thường bạc ư nhân. Nhân trí lưỡng bị, nan hĩ tai!
Hà vật súc nhân, nãi kiêm nhi hữu.
Đồng sự nhất chủ, tắc cốt nhục thị chi, vô miêu
cẩu chi giới, nhân dã! Kiến phi kì chủ, tắc cừu địch
thị chi , hoá lợi bất năng nhĩ, trí dã.
Nhân thả trí, nhữ vật nhi nhiên. Thiên hồ! Thiên
hồ! Nhữ nãi bất thọ! Viên tuỳ sở cảm ư nhữ mộ. Bỉ
nhân nhi thú giả, thị nhữ đương hà như.”(Nam lịch
Đinh Sửu nguyệt nhật. Chủ nhân Sào Nam chí).
3/Tấm bia thứ ba là một bài văn ngắn, bằng chữ
quốc ngữ, có nội dung tương tự bài văn chữ Hán
ở tấm bia thứ hai (ảnh 3). Cụ thể là:
“Người hơi có đức nhân thường kém về phần
trí; người hơi có đức trí thường kém về phần
nhân; vừa trí vừa nhân thiệt là hiếm thấy; ai ngờ
con Ky nầy lại đủ hai đức ấy.
Chung nhau thờ một chủ, thời xem là anh em.
Chẳng bao giờ như mèo với chó, thiệt là nhân đó.
Thấy không phải chủ, thời xem bằng cừu thù,
chẳng bao giờ vì miếng ngon dẫn dụ, thiệt là trí
đó.
55
Trí vừa nhân, nhân vừa trí, trong giống súc mà
người, e đến mầy mới thấy.
Mầy sao vội chết!
Hỡi trời! Hỡi trời!
Lòng ta đau đớn, phải tạc mấy lời.
Đau đớn quá! Đau đớn quá!
Kìa những hạng muông người.”
Con Vá được Phan Bội Châu mệnh danh là
“NGHĨA - DŨNG CẨU”. Ba tấm bia dành cho chú
cún Nghĩa-Dũng là:
1.Tấm bia thứ nhất ghi bằng chữ Hán: 義勇狗 con
Vá 之塚 (Nghĩa Dũng cẩu con Vá chi trủng).
2. Tấm bia thứ hai là một bài văn ngắn, bằng chữ
Hán, có nội dung ca ngợi những phẩm chất cao
đẹp của con Vá:
惟勇也,莧強則鬬.惟義也,盡忠於主.言者多,行罕覯.
人且然,况於狗.於维汝厖,乃兼而有.豈若谁哉,面人心
獸. 用是悽然, 竪碑汝墓.
Phiên âm:
56
“Duy dũng dã, kiến cường tắc đấu. Duy nghĩa dã,
tận trung ư chủ. Ngôn giả đa, hành hãn cấu. Nhân
thả nhiên, huống ư cẩu. Ư duy nhữ mang, nãi
kiêm nhi hữu. Khởi nhược thuỳ tai, diện nhân tâm
thú. Dụng thị thê nhiên, thụ bi nhữ mộ.”
3/Tấm bia thứ ba là một bài văn ngắn, bằng chữ
quốc ngữ, có nội dung tương tự bài văn bằng chữ
Hán ở tấm bia thứ hai (ảnh 6). Cụ thể là:
“Vì có dũng, nên liều chết phấn đấu; vì có nghĩa,
nên trung thành với chủ. Nói thời dễ, làm thiệt
khó; người còn vậy, huống gì chó!
Ôi! Con Vá nầy, đủ hai đức đó, há như ai kia, mặt
người lòng thú, nghĩ thế mà đau, dựng bia mộ nó.”
Có lẽ chẳng cần bàn luận gì nhiều, mọi việc đều
đã rõ. Phan Bội Châu dựng những 6 tấm bia cho
hai chú cún cưng của mình là một việc làm hi
hữu! Trước hết, việc làm đó đã thể hiện tình cảm
nồng thắm, thiết tha của ông đối với Nhân-Trí và
Nghĩa-Dũng. Mặt khác, việc dựng bia của Phan
Bội Châu rõ ràng là có ý nghĩa răn đời, khuyên
người: phải biết ăn ở có đạo lí mới xứng đáng làm
người. Trong mỗi con người có con vật và trong
mỗi con vật cũng có con người, chất người. Phan
57
Bội Châu dựng bia cho hai chú cún cưng là để
vinh danh cái chất Người đó.
Tháng 9 năm 1970, khi mới ra Huế để bắt đầu
năm học thứ nhất ở trường Đại học Sư phạm
Huế, tôi đã bắt gặp 6 tấm bia đá kì lạ này. Tôi cứ
nghĩ về những tấm bia này mãi. Và, mãi đến hôm
nay, sau ngót 39 năm, tôi mới có dịp giới thiệu với
bạn đọc. Tôi chân thành cảm ơn Nhà giáo ưu tú
Trần Dư Sinh, Cán bộ Sở Giáo dục và Đào tạo
Thừa Thiên-Huế, một người bạn đồng khoá, đã
chụp và gửi cho tôi những tấm ảnh quí báu để tôi
dùng vào việc viết bài này!
Việc dựng bia cho hai chú cún Nhân-Trí và Nghĩa-
Dũng của Phan Bội Châu có một ý nghĩa giáo dục
vô cùng sâu sắc! Quả thực đây cũng là một việc
làm hiếm và lạ như Phan Bội Châu đã nói trong
bài thơ “Xuất dương lưu biệt”: “Sinh vi nam tử yếu
hi kì” (Sinh ra là con trai thì phải làm được những
việc hiếm và lạ).
Ninh Thuận, 9-2009
59
Lời khấn nguyện của tôi
tại đền thờ Đại Vương Hưng Đạo -
Trần Quốc Tuấn - ở Nam Định
Khoản năm 1996 , tôi được cử tham gia đoàn Cán
bộ của Sở GD & ĐT Ninh Thuận đi coi thi Học
Sinh Giỏi tại Nam Định. Đoàn chúng tôi đã được
Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong, Sở GD-ĐT
và UBND tỉnh Nam Định đón tiếp rất niềm nỡ, chu
đáo!
Nhân dịp này, tôi đã tự tìm đến thăm ngôi nhà cũ
của nhà thơ Trần Tế Xương, viếng mộ và thắp
hương tại mộ Nhà thơ ở bên bờ hồ Vị Xuyên
(sông Vị Hoàng bị lấp).
Thú vị nhất là chúng tôi đã được Sở GD & ĐT
Nam Định đưa đi xem tháp Phổ Minh, viếng đền
thờ các vua Trần, đền thờ Đại Vương Hưng Đạo
– Trần Quốc Tuấn! Các đền thờ đều rất uy nghi,
đèn sáng rực, khói hương nghi ngút. Các pho
tượng được chế tác rất đẹp!
60
Sau khi thắp hương ở đền thờ các vua Trần,
chúng tôi đến viếng đền thờ Đại Vương Hưng
Đạo – Trần Quốc Tuấn. Cầm 3 cây hương mới
vừa được thắp trong tay, tôi đứng ngay ngắn
trước tượng Đại Vương Hưng Đạo – Trần Quốc
Tuấn, tôi khấn nguyện:
“Con hiện nghèo khó lắm, không nhà cửa, đang
ăn ở tập thể trong trường học nhưng con chẳng
cầu xin gì cho con cả, con chỉ cầu xin Đại Vương
Hưng Đạo – Trần Quốc Tuấn - hãy vặn cổ cho
chết tất cả những thằng tham nhũng trên Đất
nước này để Đất nước này có thể vươn lên, để
Dân tộc này không còn lầm than, nghèo khổ nữa.
Con xin hết lòng cảm ơn Ngài!”.
Tứ đó đến nay, gần 20 năm trôi qua nhưng Đại
Vương Hưng Đạo – Trần Quốc Tuấn - vẫn chưa
thực hiện lời cầu khấn của tôi! Bọn tham nhũng
càng đông đúc, béo tốt hơn. Nhưng, hãy đợi đấy!
Ninh Thuận, 19-11-2015
61
Chuyện vui buồn cuối tuần
1. Facebook cũng ... ngu lắm!
Tôi muốn cập nhật thêm thông tin trên trang
Facebook của tôi. Khi bổ sung phần High school
(Trường trung học), tôi gõ đúng từng chữ là:
"Trường Trung học Công lập Trần Quí Cáp (Hội
An)" nhưng Facebook cứ bảo "The school you
entered is not valid" (Trường bạn đã nhập vô giá
trị) và cứ bắt phải là "Trường THPT Trần Quý Cáp
(Hội An)".
Tôi học tại Trường Trung học Công lập Trần Quí
Cáp, Hội An từ năm 1967 đến năm 1970. Ngày ấy
làm gì có Trường THPT Trần Quý Cáp, Hội An!
Facebook cũng chẳng ... thông minh tí nào!
2. Vui vẻ là ... không nghiêm túc, là bậy bạ
Trong thời gian dạy học tại trường THPT Nguyễn
Trãi (Ninh Thuận) (1982-1989), có lần tôi được
thầy Hiệu trưởng X giao cắt khẩu hiệu nhân dịp kỉ
niệm Cách mạng tháng 8 và Quốc khánh 2-9.
Sau khi cắt, dán xong, tôi treo câu khẩu hiệu ở
cuối Phòng Hội đồng (phòng họp Hội đồng GV,
62
CNV) Thầy Hiệu trưởng X vào xem và la toáng
lên: "Lấy xuống ngay, không nghiêm túc, bậy bạ."
Câu khẩu hiệu mà tôi đã cắt, dán và treo trên
tường là: "Vui vẻ kỉ niệm lần thứ ... Cách mạng
tháng 8 và Quốc khánh 2-9!"
Thầy Hiệu trưởng X bảo phải "nhiệt liệt" mới
nghiêm túc, chứ "vui vẻ" thì bậy bạ quá, không
nghiêm túc chút nào.
Tôi không hiểu tại sao "vui vẻ" là không nghiêm
túc, là bậy bạ và "nhiệt liệt" mới nghiêm túc, mới
không bậy bạ?!
3. Dạy gì cũng là sư (thầy) cả, trừ dạy học!
- Dạy vẽ = Họa sư,
- Dạy nhạc = Nhạc sư,
- Dạy võ = Võ sư,
- Dạy khiêu vũ = Vũ sư,
Nhưng:
- Dạy học = Giáo viên.
Viên (giáo viên, học viên, nhân viên, thành viên,
...) = một đơn vị người. Ta có thể dịch là: người,
anh, đứa, ... Viên không phải là thầy (sư).
63
Như vậy, nghề dạy học và người dạy học có
được tôn trọng như người ta nói không?
Ninh Thuận, 2016
64
Tại sao phải “hơn 300 năm sau”?
Trong bài thơ “Độc Tiểu Thanh kí” (Đọc tập kí của
Tiểu Thanh), một bài thơ thất ngôn bát cú (7 chữ
8 dòng), Thi hào Nguyễn Du đã kết lại (dòng 7 và
8):
“Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”
(不知三百餘年後,
天下何人泣素如.)
(Chẳng biết hơn ba trăm năm sau,
Trong thiên hạ, ai khóc Tố Như?)
Nàng Tiểu Thanh sống vào khoản đầu nhà Tàu -
Minh (1368-1644). Bài thơ “Độc Tiểu Thanh kí”
nằm trong “Thanh Hiên thi tập” (Tập thơ của
Thanh Hiên), tập thơ chữ Hán đầu tiên của
Nguyễn Du, được viết trước năm 1805. Như vậy,
từ lúc nàng Tiểu Thanh qua đời tới lúc Nguyễn Du
viết bài thơ “Độc Tiểu Thanh kí” là hơn 300 năm,
gần 400 năm.
65
Sau khi nàng Tiểu Thanh qua đời hơn 300 năm,
Nguyễn Du khóc Tiểu Thanh. Và Nguyễn Du tự
hỏi: “Chẳng biết hơn 300 năm sau khi ông qua
đời, ai sẽ khóc ông (Tố Như, Nguyễn Du)?.
Thực tế thì chưa tới 200 năm sau khi Nguyễn Du
qua đời (1820-1965), chỉ 145 năm thôi, năm 1965,
vào dịp kỉ niệm 200 năm sinh Nguyễn Du (1765-
1965), Việt Nam và thế giới đã “khóc”, đã hiểu
Nguyễn Du, đã tôn vinh Nguyễn Du. Vậy, tại sao
phải cần “hơn 300 năm sau”?
Phải chăng, theo Thi hào Nguyễn Du, cần phải có
một quãng lùi tối thiểu và cần thiết hơn 300 năm
thì một cá nhân nào đó mới được “khóc”, được
hiểu, được đánh giá đúng đắn, chính xác? Vậy,
phải chăng ta chỉ nên tạc tượng, ngợi ca một
người nào đó sau khi người ấy qua đời đã hơn
300 năm? Có lí lắm! Thế nhé!
Ninh Thuận, 16-01-2017
66
Thảm họa mất nước
của An Dương Vương
Từ trước đến nay, người ta đã phê phán An
Dương Vương một cách nhẹ nhàng nhưng lại tập
trung mắng nhiếc, sỉ vả Mị Châu không tiếc lời.
Có nhà văn nổi tiếng đã gọi Mị Châu là “con đĩ Mị
Châu”! Mị Châu mà là “con đĩ” sao?
Mị Châu đã “được” vua cha chọn chồng cho, đám
cưới có lẽ đã được tổ chức linh đình, trang trọng
nhất nước. Và khi đã có chồng, Mị Châu phải hết
lòng vì chồng, người chồng do vua cha chọn lựa
cho mà sao có thể không tin yêu được?
Có ai bảo Mị Châu phải theo dõi, đề phồng thằng
gián điệp Trọng Thủy đâu! Đó là việc của Viện Cơ
mật, chứ đâu phải việc của Mị Châu.
Một việc nữa, cái nỏ thần, một bảo vật quốc gia,
sao lại hớ hênh thế? Lẽ ra phải cử hàng trăm,
hàng ngàn chiến binh tinh nhuệ canh giữ nỏ thần
suốt ngày đêm!
Âm mưu chuyển thù thành “bạn”, thành “sui gia”
của Triệu Đà tuy có thâm độc nhưng đâu có tinh
vi, khó hiểu. Trẻ con cũng có thể nhận thấy không
67
bình thường. Thế mà An Dương Vương và cả cái
triều đình của ông đều chẳng hề nghi ngờ nên
chẳng có ý thức đề phòng! Có thể có người sáng
suốt và can đảm nêu vấn đề nhưng người này đã
bị chém đầu mất rồi. Chỉ còn lại lũ ngu trung mà
thôi!
Xây thành, chế nỏ An Dương Dương đều thỉnh
cầu ý kiến của Rùa Vàng nhưng sao đổi thù thành
“bạn”, thành "sui gia” lại không thèm hỏi mà lại tự
mình quyết định?
Mị Châu trao nỏ thần cho Trọng Thủy xem và rắc
lông ngỗng để Trọng Thủy biết đường tìm nàng là
một việc bình thường của một người vợ tin yêu
chồng. Mị Châu quá hồn nhiên, vô tư, đâu biết
những âm mưu thâm độc của những con cáo già
chính trị!
Còn Rùa Vàng nữa, Rùa Vàng cũng đã nói không
đúng thực chất, bản chất của sự việc. Thay vì nói
“kẻ ngồi sau lưng nhà vua là giặc”, Rùa Vàng nên
nói “chính nhà vua là giặc, nhà vua đã rước giặc
vào nhà, nhà vua đã mắc mưu của Triệu Đà, nhà
vua hãy tự xử đi”. Và thay vì chém Mị Châu, nhà
vua nên tự sát. Tôi tin Mị Châu cũng sẽ tự sát
theo vua cha.
68
Tóm lại, thảm họa mất nước Âu Lạc của An
Dương Vương là do vua lú và triều đình u mê chứ
chẳng phải do cô Mị Châu thơ ngây, hồn nhiên .
Vì vậy, tôi có bài văn vần sau đây:
Vua thơ ngây
Xây thành, chế nỏ, … Đáng quí thay!
Giữ nước cần làm những việc này.
(Dĩ nhiên còn nhiều việc khác nữa)
Nhưng để giặc chui vào … buồng ngủ,
Mất nước đã bắt đầu từ đây!
Ai kia nỡ trách cô gái trẻ:
“Trái tim nhầm chỗ để trên đầu”!
Ta đây chỉ chê ông vua ấy:
Thơ ngây dù đã bạc tóc râu!
Ninh Thuận, 16-11-2015
69
Mấy giai thoại văn chương
Tình cờ tìm thấy mấy tờ giấy cũ, trong đó tôi ghi
một số điều khi tôi đang còn là cậu một học trò, tôi
“gõ” lại đây để các bạn đọc cho vui:
1. Hai câu thơ trứ danh, đầy ắp niềm lạc quan
và sự tự tin của vua Trần Nhân Tông sau chiến
thắng giặc Tàu-Nguyên:
“Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,
Sơn hà thiên cổ điện kim âu.”
(社稷两回劳石马,
山河千古奠金瓯)
Xã tắc hai phen bon ngựa đá,
Non sông thiên cổ vững âu vàng.
(Trần Trọng Kim dịch)
2. Hai câu thơ buồn bã, nhục nhã của Lê Chiêu
Thống : Tương truyền Lê Chiêu Thống, sau
những tháng ngày chầu chực chờ giặc Tàu-Thanh
sang cứu nhưng chẳng hề thấy chúng có hành
động gì, ông ta than thở:
70
« Tảo thức đại bang vô tín nghĩa,
Bối thành nhất chiến tử do vinh.»
(早識大邦無信義,
背城一戰死猶榮.)
Sớm biết nước to quen xỏ lá,
Dựa thành tử chiến chết còn vinh.
(Phan Thành Khương dịch)
3. Bài thơ mang đậm hào khí nhà Trần (quen
gọi “hào khí Đông A”) nhưng phải chăng là “hào
khí Đông Phụ” mới đúng? (Vì chữ Trần 陳 được
ghép bởi chữ Đông 東 và chữ Phụ 阝). Đó là bài
thơ của Thượng Tướng Trần Quang Khải (1241-
1294). Vị Chiến tướng – Thi sĩ này vô cùng sảng
khoái sau những chiến thắng dồn dập Chương
Dương, Hàm Tử, … khiến bọn giặc Tàu-Nguyên
phải thất điên bát đảo:
“Đoạt sáo Chương Dương độ,
Cầm Hồ Hàm Tử quan.
Thái bình tu trí lực,
Vạn cổ thử giang san (sơn). »
71
(奪槊章陽渡,
擒胡鹹子關.
太平須致力,
萬古此江山.)
Cướp giáo đò Chương Dương,
Bắt giặc cửa Hàm Tử.
Thái bình rán sức nha!
Giang sơn ấy muôn thuở. (Nguyễn Hiệt Chi dịch)
Giật giáo bến Chương Dương,
Bắt Hồ (*) cửa Hàm Tử.
Thái bình càng gắng sức,
Nước non này vạn thuở. (Phan Thành Khương
dịch)
(*) Hồ: rợ Hồ, gọi giặc Tàu-Nguyên một cách
khinh miệt.
4. Một đoạn văn của Đại úy – Nhà văn
Gosselin, kẻ có tham gia đánh dẹp các đảng
72
Văn Thân, nói về lòng yêu nước và bất khuất
của người Việt Nam:
“Il faut réellement que cette nation annamite soit
douée d’une vitalité bien puissante pour avoir pu
supporter la lutte pendant d’aussi longues
années ; étant donnée la pénurie des moyens de
défense dont le pays disposait, le gouvernement
imprévoyant et aveugle n’ayant rien su préparer ni
trésor, ni approvisionnement, ni munitions, ni
armée, ni marine pour le jour qu’il pressentait
cependant très prochain où il devrait se défendre
contre une puissance européenne. Placés en face
de nos armés, les Annamites ont eu la seule
ressource de mourir pour la défence de leur
liberté ; tout ont affronté la mort avec le plus
tranquille courage et parmi ceux, si nombreux, qui
sont tombés par la balles des pelotons
d’exécution ou sous le glaive des bourreaux, nous
n’avons jamais eu à enregistrer une seule
défaillance … »
Quả thật nước An Nam được phú cho một sức
sống rất mạnh mẽ mới chịu nổi một cuộc chiến
tranh trường kì như vậy. Nước thiếu phương tiện
phòng thủ, triều đình thì không biết lo xa và mù
73
quáng không chuẩn bị một tí gì về kho tàng, sự
cung cấp, đạn dược, bộ binh, thủy binh cho cái
ngày mà họ cảm thấy rất cần phải đối địch với
một cường quốc châu Âu. Bị đặt dưới họng súng
của ta, người Việt chỉ còn có cách chết để bảo vệ
tự do và tất cả đều nhìn mặt cái chết với một tấm
lòng can đảm trầm tĩnh trước những viên đạn của
đội lính hành hình hay dưới lưỡi gươm của đao
phủ. Chúng ta không ghi chép được một trường
hợp hèn nhát nào … (Phan Thành Khương dịch)
NinhThuận, 06-02-2017
74
Mấy kinh nghiệm đối phó với cọp khi
đi rừng
Thật ra, hiện nay, cọp chẳng còn bao nhiêu. Bây
giờ đi rừng, không phải sợ cọp như 60-70 năm về
trước. Tuy vậy, tôi muốn chia sẻ mấy kinh nghiệm
mà khi tôi còn bé, cha tôi đã chỉ vẽ cho tôi để các
bạn đọc cho vui.
Nhà tôi, trước những năm 60 của thế kỉ 20, ở
ngay chân núi. Đi hết vườn là xem như đã vào
rừng. Vì vậy, biết những điều này là cần thiết.
1. Cọp không chạy thẳng đến vồ ta. Nó thường
đứng cách ta 3-4 mét. Vẫy đuôi 3 lần rồi mới nhảy
đến vồ ta. Do đó, khi nó vẫy đuôi lần 1, ta bước lùi
1 bước; khi nó vẫy đuôi lần 2, ta bước lùi 1 bước
nữa và khi nó vẫy đuôi lần 3, ta đưa cái rựa (hay
cây gậy) lên, giáng mạnh xuống đầu nó đồng thời
hét lớn. Nếu không chết, nó cũng hốt hoảng bổ
chạy.
2. Cọp thường rình ta ở các ngã ba, ngã tư để
vồ ta. Do đó, khi đến gần các ngã ba, ngã tư (trên
rừng), ta nhặt một cục đá lớn, ném ào tới chỗ
75
đường cắt ngang đường ta đi và hét lớn. Cọp sẽ
giật mình bỏ chạy.
3. Nếu thấy cọp lẻo đẻo theo sau lưng ta, ta
chặt một cành cây và kéo cành cây ấy phía sau là
an toàn. Cọp sẽ không nhảy tới vồ ta từ phía sau.
Tuy nhiên, cọp có thể chạy quanh để đón ta ở ngã
ba, ngã tư trước mặt.
4. Khi đi cả đoàn 5-7 người thì người đi giữa
thường bị cọp vồ. Cọp không bao giờ vồ người đi
đầu và người đi cuối. Vì vậy, mấy bạn nhát gan,
giành đi giữa hàng, hãy cẩn thận!
Đấy là mấy kinh nghiệm nhỏ mà cha tôi đã dạy
cho tôi khi tôi còn rất bé. Có lần đi rừng với cha,
tôi đã gặp cọp. Nó đứng bên kia bờ suối. Tôi ném
đá đuổi và nó bỏ đi. Có lần, mới chạng vạng, cọp
đã rình sau hè nhà tôi. Mấy con chó chạy hết vào
nhà. Cha tôi cầm gậy và cái thùng dầu lửa bằng
thiết đập thùng thùng đuổi nó đi. Vậy đó, cọp cũng
chẳng ghê gớm lắm đâu. Nó cũng sợ người lắm!
Ninh Thuận, 15-12-2016
76
Tai sao lại là năm con gà, …?
Năm âm lịch vừa qua được gọi là năm con khỉ
(Bính Thân). Năm mới này được gọi là năm con
gà (Đinh Dậu). Tại sao lại là năm con gà ?
Trước hết, tại sao lại chỉ có 12 con vật : chuột,
trâu, cọp, mèo, rồng, rắn, ngựa, dê, khỉ, gà, chó
và heo ? Theo tôi, có lẽ người bịa ra cách tính
năm âm lịch chỉ biết những con vật gần gũi, quen
thuộc (trừ con rồng là con vật huyền thoại), được
nhắc tới nhiều. Người « sáng chế » ra âm lịch rõ
ràng không biết rất nhiều con vật khác, nhất là
những con vật sống dưới biển : cá voi, cá mập, cá
ngừ, cá thu, cá bè, cá mú, bạch tuột, hải sư, hải
mã, … Người này chắc là sống ở miền núi, nơi xa
biển. Những hiểu biết về các loài động vật của
người này rất khiêm tốn. Vì thế, người này đã
ngẫu nhiên chọn 12 con vật nói trên, nhớ đâu ghi
lại đó thôi, không có cơ sở khoa học, khách quan
nào cả !
Nếu năm âm lịch đầu tiên là năm Giáp Tí thì 12
năm sau sẽ trở lại năm Tí (Bính Tí) và 60 năm
sau sẽ trở lại là năm Giáp Tí. Như vậy, âm lịch là
lịch xoay vòng : vòng nhỏ gồm 12 năm và vòng
77
lớn bằng 5 vòng nhỏ, gồm 60 năm. Ngược lại
dương lịch là lịch thẳng tiến : từ năm 0001 đến
nay là năm 2017 và sang năm là 2018, v.v…
Như trên đã nói, việc dùng 12 con vật để tượng
trưng cho chu kì 12 năm là hoàn toàn ngẫu hứng,
ngẫu nhiên. Nhưng rất buồn là từ cái nẫu hứng,
ngẫu nhiên đó lại sinh ra đủ thứ mê tín, dị đoan.
Người tuổi Sửu (trâu) nghĩ mình là con trâu, suốt
đời phải kéo cày, phải chịu khổ (nay đã có máy
cày, trâu không phải kéo cày nữa). Người tuổi
Dần (cọp) bị cho là hung dữ, khó gần. Người tuổi
Hợi (heo) được cho là sung sướng, chỉ nằm chờ
người ta cho ăn, không lao động gì cả. Người tuổi
Tí (chuột) xung khắc với người tuổi Mẹo (mèo).
Người tuổi Dần (cọp) xung khắc với hầu hết các
tuổi khác (trừ Tí - chuột), Thìn - rồng), Tị - rắn),
Dậu - gà) vì cọp chê mấy con vật này ! Toàn là vu
vơ, bậy bạ ! Thế nhưng không ít người bị nhiễm
độc, tin, rất tin vào những thứ vu vơ, bậy bạ đó !
Tôi thấy rất buồn cười là hễ cứ đến năm con gì
đó, người ta lại bỏ ra hàng trăm tỉ, hàng ngàn tỉ
tiền mồ hôi, nước măt và máu để làm những con
vật ấy bằng đủ các loại vật liệu : vàng, đồng,
thạch cao, sắt, cây, hoa, v.v… Năm này, ta thấy
78
quá nhiều gà, có gà trống, gà mái, gà con cao
hàng chục mét. Nhiều người lại vui sướng đứng
chụp hình cạnh những con gà … giả đó ! Đúng là
trẻ con lớn tuổi !
Sang năm là năm con chó (Mậu Tuất), chắc là
người ta lại đua nhau làm đủ các loại chó !
Tóm lại, âm lịch, với cách tính năm xoay vòng, rất
bất tiện : nói năm Kỉ Dậu, năm Đinh Hợi thì ta mù
tịt chẳng biết là năm nào, nếu không đính kèm
năm dương lịch bên cạnh ! Và, các con vật được
ghép vào năm âm lịch gây ra những ngộ nhận,
những thứ mê tín dị đoan rất tai hại. Năm này là
năm con gà (Đinh Dậu) cũng chỉ là sự bịa đặt vô
căn cứ, vô trách nhiệm. Vì vậy, ta chỉ nên dùng
năm dương lịch, vứt bỏ năm âm lịch đi thôi.
Ninh Thuận, 03-02-1-2017
79
Những hủ tục trong dịp tết
cần loại bỏ
1. Tục đưa “ông táo” về Trời: Chẳng có ông, bà
táo nào cả! Trước đây, đó là 3 cục đất sét được
nặn thành 3 “ông bà táo” để đặt nồi, trã, chảo,
soong, … lên nấu. Chỉ có 3 “ông bà táo” vì như
thế dễ giữ cân bằng hơn cả. Sau đó, người ta
dùng kiềng 3 chân – không dùng “ông táo” đất
nữa vì lôi thôi, bất tiện. Hiện nay, người ta dùng
bếp ga, bếp điện, nồi cơm điện, lẩu điện, … và
các “ông bà táo” xem như đã bị “diệt chủng”. “Ông
táo” cũng không bay về Trời bằng cá chép được!
Muốn bay về Trời, phải lên tàu vũ trụ với tên lửa
có sức đẩy khủng khiếp thì may ra mới khả thi.
Nói chung, “ông táo” và chuyện “cưỡi cá chép để
bay về Trời” chỉ là chuyện bịa đặt để lừa trẻ con
thôi!
2. Xuất hành giờ nào, hướng nào: Cũng chỉ là
chuyện vu vơ, không có cơ sở khoa học. Đúng
giờ, đúng hướng vẫn kẹt xe và nếu bị xe khác
tông vào thì cũng bị thương hay là chết. Thế thôi.
Tốt nhất là nên đi lúc không kẹt xe hay ít kẹt xe và
phải chấp hành luật giao thông, cẩn thận, phải
80
làm chủ tốc độ, không phóng nhanh, không chạy
ẩu.
3. Chọn người đến “đạp đất”: Cũng là sự bịa
đặt vô căn cứ, phi khoa học. Dĩ nhiên người thân
thiện, vui vẻ, tử tế đến “đạp đất” là tốt nhất. Vì
như thế, đầu năm sẽ vui, không bực mình, không
rắc rối. Vậy, nếu chọn người đến “đạp đất” thì
không cần căn cứ vào tuổi tác, giới tính mà chỉ
nên căn cứ vào tính cách, phẩm hạnh của người
ấy thôi.
4.Cử quét nhà ngày đầu năm: Quét nhà ngày
đầu năm sẽ “quét hết của cải đi”. Vu vơ! Chỉ quét
rác đi thôi. Dĩ nhiên khi có khách, ta không nên
quét nhà. Khi cần quét nhà, cứ quét. Nên quét
nhẹ nhàng, không làm bụi, rác bay tung tóe. Dùng
máy hút bụi thì tốt hơn!
Còn nhiều hủ tục, mê tín khác nữa nhưng vì gấp
vội, tôi chỉ nêu 4 thứ mê tín, dị đoan nói trên để
mong mọi người loại bỏ càng sớm càng tốt. Vì chỉ
có loại bỏ các hủ tục, các thứ mê tín dị đoan, Đất
nước ta, Dân tộc ta mới có thể mạnh mẽ vươn
lên, mạnh mẽ phát triển. Vì chỉ có loại bỏ các hủ
tục, các thứ mê tín dị đoan, Đất nước ta, Dân tộc
81
ta mới mong đuổi kịp các nước, mới mong không
bị tụt lại phái sau ngày càng xa. Mong lắm!
Ninh Thuận, 23-01-2017
83
Cùng nhau giữ gìn sự trong sáng của
tiếng Việt!
1. Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt không thể
là việc của một nhóm người, càng không thể là
việc của một người. Đó là việc của toàn dân, của
cả dân tộc Việt Nam. Vì thế mà chúng ta, mọi
người Việt Nam, phải cùng nhau giữ gìn sự trong
sáng của tiếng Việt.
Trong quá trình phát triển của quốc gia, dân tộc,
tiếng Việt có vai trò to lớn của nó và tiếng Việt
cũng đồng thời phát triển trong quá trình đó. Từ
hàng trăm, thậm chí hàng nghìn năm trước, cha
ông ta cũng đã có ý thức về việc giữ gìn sự trong
sáng của tiếng Việt và nó đã là một tư tưởng có
tính truyền thống.
Tuy vậy, việc nói và viết tiếng Việt hiện nay vẫn có
những vấn đề cần bàn để tiếng Việt yêu quý của
chúng ta luôn luôn trong sáng.
2. Từ vựng tiếng Việt đương đại bao gồm:
- Từ thuần Việt: vui, trẻ, nhà, đi, về, v.v…
84
- Từ của các dân tộc thiểu số anh em: cây kơnia,
chim chơrao, trống ginăng, đàn tơrưng, v.v…
- Từ đã được Việt hoá hoàn toàn hay chỉ mới
được Việt hóa về cách đọc từ chữ Hán (chữ Nho):
độc lập, dân chủ, học, tập, v.v…
- Từ được “vay mượn” từ các ngôn ngữ nước
ngoài khác (Pháp, Anh, Nga…): axit, kilômet… rất
nhiều từ ngữ được dùng trong các ngành khoa
học – kỹ thuật, báo chí…
Đó là 4 nhóm từ vựng chính góp phần tạo nên
kho từ vựng cực kỳ phong phú của tiếng Việt.
Trong khi nói và viết, về mặt từ ngữ, ta phải xử trí
thoả đáng để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt
(sẽ nêu ở phần sau).
3. Là một sinh ngữ, tiếng Việt tồn tại ở cả 2 dạng,
nói và viết. Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt
thực chất là nói và viết đúng chuẩn ở 4 mặt: chính
âm và chính tả, từ ngữ, ngữ pháp-lôgích và phong
cách. Mỗi người Việt Nam yêu nước, có lòng tự
hào dân tộc đều phải nói và viết đúng chuẩn,
hướng tới chuẩn ở cả 4 mặt nêu trên. Dưới đây là
một số lỗi thường thấy trong thực tế nói, viết, trên
báo, đài, trên các phương tiện thông tin đại chúng
85
khác. Thấy sai và sửa lại cho đúng là tích cực góp
phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
a. Về chính âm và chính tả:
Nói phải đúng chính âm, viết phải đúng chính tả.
Phát âm sai dẫn đến viết sai. Trong thực tế, ở một
số vùng miền trên đất nước ta, có những cách
phát âm không đúng chuẩn:
- Nam bộ nói /dề/ hay /dìa/ thay vì /về/, …
- Bắc bộ nói /giời/ thay vì /trời/, /nhớn/ thay vì
/lớn/, /châu/ thay vì /trâu/, ….
- Nam trung bộ nói /bốc/ thay vì /bóc/, /xử/ thay vì
/sử/, …
Về mặt này, đề nghị nếu chỉ nói với người cùng
quê, trong thôm xóm thì ta có thể nói theo giọng
quê, giọng địa phương để khỏi bị mắng là “lai
căng”, “mất gốc”. Nhưng khi lên tỉnh, lên phố, khi
nói, viết cho người cả nước thì ta phải nói viết
theo chuẩn quốc gia: Chuẩn Hà Nội hay chuẩn
Sài Gòn. Có như thế, ta không những không bị
chê là “nhà quê”, “tỉnh lẻ” mà hiệu quả giao tiếp
mới như mong đợi được. Còn viết thì nhất thiết
phải viết đúng chuẩn, đúng chính tả.
86
b. Về từ ngữ: Trong 4 bộ phận chính của từ vựng
tiếng Việt nêu ở trên thì những từ ngữ có nguồn
gốc từ chữ Nho (có người gọi là từ Hán Việt) và
những từ ngữ có nguồn gốc từ tiếng nước ngoài
(Pháp, Anh, Nga, …) là có vấn đề:
- Từ ngữ có nguồn gốc từ chữ Nho, theo nguyên
tắc, được cấu tạo bằng các từ tố gốc chữ Nho với
nhau: vô + biên = vô biên, thuỷ + quân = thuỷ
quân. Tuy nhiên, gần đây người ta đã không theo
nguyên tắc đó nên việc tạo từ đã khá lộn xộn,
đem ghép một từ tố thuần Việt với một từ tố Nho:
vô + bờ bến = vô bờ bến (có thể hiểu nhầm là vào
bờ, vào bến), rồi nào là đinh tặc (đinh + tặc), cá
tặc (cá + tặc), bò tặc (bò + tặc)… loạn cả! Ta có
thể nói, viết: hải tặc, lâm tặc, không tặc… nhưng
cũng nên nói, viết: thằng (đứa, con, tên) rải đinh,
trộm cá, trộm bò … mà thôi bởi vì chúng chưa
phải là “giặc” và cũng không nên ghép nửa Việt
với nửa Nho như thế!
Mặt khác, do không hiểu rõ nghĩa của những từ
ngữ có nguồn gốc từ chữ Nho mà nhiều người, kể
cả những nhà văn, nhà thơ có tên tuổi cũng viết…
sai! Ví dụ: “Trương buồn và ghen, đay nghiến vợ
đến nỗi nàng phải nhảy xuống sông để tự vẫn”
87
(không cần nêu xuất xứ). “Tự vẫn” là tự dùng
gươm, dao để giết chết mình, còn nhảy xuống
sông để chết thì gọi là “tự trầm” và nếu dùng dây
để thắt cổ chết thì gọi là “tự ải”. Nếu không thông
thì ta chỉ cần nói “tự tử” cho gọn. Như vậy, ta phải
hiểu rõ nghĩa của từ thì mới dùng và việc tạo ra từ
mới phải theo đúng qui luật.
- Đối với những từ ngữ có nguồn gốc từ các tiếng
nước ngoài (Pháp, Anh, Nga, …) hiện có quá
nhiều cách phiên âm khác nhau.
Ví dụ: Măcxim Gócki, Macxim Gorơki, Macxim
Gorki. Trong khi chờ có một sự thống nhất, ta nên
mở vòng ghi chú từ ngữ nguyên văn bên cạnh ở
lần xuất hiện đầu tiên trong văn bản. Ví dụ:
Uyliam Sêcxpia (William Shakespear). Ghi chú
một lần thôi, không tốn kém là bao.
c. Về ngữ pháp và lô-gích: Ngoài những câu thiếu
chủ ngữ, vị ngữ mà ta quen gọi là “câu cụt”, “câu
què” là những câu sai ngữ pháp, sai lô-gích, ta
cũng rất cần phải chú ý khi sử dụng các quan hệ
từ. Ở một tỉnh nọ có câu khẩu hiệu: “Hãy nói
không với ma túy”, “Hãy lánh xa với ma túy”.
“Hãy nói không với ma túy” thì đúng rồi nhưng
“Hãy lánh xa với ma túy” = “Hãy xéo đi với ma túy”
88
= “Hãy cùng ma túy đi trốn”! Ở đây, sau động từ
“lánh xa” không thể có quan hệ từ “với”. Một
người dẫn chương trình (MC) danh tiếng nói với
người tham gia gam-sô (game show): “Vì chị
không tin vào sự lựa chọn của mình nên chị đã
đúng”. Không phải “vì không tin”, không thể “vì
không tin” mà “đúng” được. Ở đây, chỉ có thể là
“Tuy chị không tin…” hay “Dù chị không tin…”
“nhưng chị đã đúng”.
d. Về phong cách: Ngoài việc nói, viết phải đúng
chuẩn, hướng tới chuẩn về chính âm và chính tả,
từ ngữ, ngữ pháp, ta còn phải nói, viết đúng
chuẩn, hướng tới chuẩn về phong cách nữa.
Trong bữa cơm trưa, ông bố nói với vợ con: “Căn
cứ vào chức năng, quyền hạn của một người
chồng, người cha, tôi quyết định tối nay cả nhà sẽ
đi ăn phở”. Nói thế thì nghe rất buồn cười vì ông
dùng phong cách ngôn ngữ hành chính thay vì
phải dùng phong cách ngôn ngữ sinh hoạt!
4. Cha ông ta từng răn bảo:
- “Học ăn, học nói, học gói, học mở”.
- “Ăn nên đọi, nói nên lời”.
- “Lời nói chẳng mất tiền mua,
89
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
Tự hào về nền văn hóa dân tộc, tự hào về tiếng
Việt rất giàu và rất đẹp, mọi người Việt Nam
chúng ta phải phấn đấu, rèn luyện nói và viết
đúng chuẩn, hướng tới chuẩn, cùng nhau giữ gìn
sự trong sáng của tiếng Việt muôn vàn yêu quí
của chúng ta.
Ninh Thuận, năm 2010
90
Âm lịch: ưu điểm, nhược điểm, nên
làm gì?
Âm lịch còn gọi là lịch mặt trăng (lunar calender).
Tuy cùng dựa vào chu kì quay của mặt trăng để
làm lịch nhưng có nhiều loại âm lịch khác nhau:
âm lịch Hồi giáo, âm lịch Việt Nam, âm lịch Tàu,
… Hiện chỉ còn 5-6 nước ăn tết âm lịch.
Người Nhật đã bỏ ăn tết âm lịch từ năm 1873, đã
143 năm rồi! Và ai cũng thấy rõ khoa học, kĩ thuật,
công nghệ, văn hóa, giáo dục, văn học, nghệ
thuật, … của người Nhật đều phát triển mạnh mẽ,
vượt trội, được cả thế giới ngưỡng mộ.
1. Ưu điểm của âm lịch
a. Âm lịch cho ta biết được ngày trăng tròn.
Đúng ngày rằm (15 âm lịch) thì trăng tròn.
b. Âm lịch giúp tín đồ các tôn giáo biết ngày
ăn chay.
Các tín đồ Phật giáo, Cao Đài, Phật giáo Hòa
Hảo, … thường ăn chay vào các ngày 01 (mồng
một) và 15 (rằm) … âm lịch. Nhưng, nếu quí vị
chuyển sang ăn chay vào các ngày 01 và 15
91
dương lịch thì cũng tốt thôi. Trời, Phật, Thượng
Đế, … vẫn chứng giám cho quí vị. Ăn chay chỉ
như một sự tự nhắc nhở, tự khuyên răn mà thôi.
Một cốc nước đun sôi có hàng tỉ sinh linh trong
đó.
Ngoài ra, ta còn ăn tết, chạp mả, tảo mộ, giỗ kị …
theo âm lịch. Nếu ta chuyển sang ăn tết dương
lịch như người Nhật thì có lẽ tốt hơn. Ta vẫn tất
niên, cũng rước ông bà, tổ tiên, cũng đón giao
thừa, cũng lì xì cho con trẻ, … Và như thế, ta
hòa cùng niềm vui mừng chào đón năm mới
với hầu hết các dân tộc, các quốc gia trên thế
giới. Công việc làm ăn ở cơ quan, nhà máy, xí
nghiệp, … cũng phù hợp, thuận tiện hơn. Và, ta
cũng chỉ nên nghỉ tết 1-2 ngày thôi. Nghỉ tết càng
nhiều ngày, ta càng tụt hậu, lạc hậu thôi. Chạp
mả, tảo mộ, giỗ kị cũng thế: nên chuyển sang
ngày dương lịch. Ví dụ: ông X mất ngày hôm nay,
18 tháng 12 năm ất mùi (27-01-2016) thì ta giỗ
ông X vào một ngày trước ngày mất là26 tháng
01 dương lịch. Ta có thể dựa vào luận án tiến sĩ
của Tiến sĩHồ Ngọc Đức để chuyển đổi ngày âm
ra ngày dương và ngược lại tại link dưới đây:
http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/amlich/
92
c. Âm lịch gắn với 24 tiết (tiết khí) của dương
lịch trong một năm
Theo Wikipedia, “Tiết khí là 24 điểm đặc biệt trên
quỹ đạo của Trái Đất xung quanh Mặt Trời, mỗi
điểm cách nhau 15°. Tiết khí có xuất xứ từ Trung
Quốc. Nó được sử dụng trong công tác lập lịch
của các nền văn minh phương đông cổ đại như
Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên để
đồng bộ hóa các mùa.” Như vậy, người Tàu đã
“tích hợp” 24 tiết khí này với âm lịch.
Bình quân mỗi tiết khí gồm 14-16 ngày. 24 tiết khí
đó là: lập xuân, vũ thủy, kinh trập, xuân phân,
thanh minh, cốc vũ, lập hạ, tiểu mãn, mang
chủng, hạ chí, tiểu thử, đại thử, lập thu, xử thử,
bạch lộ, thu phân, hàn lộ, sương giáng, lập đông,
tiểu tuyết, đại tuyết, đông chí, tiểu hàn, đại hàn.
Điều này giúp nhà nông nói riêng, mọi người nói
chung, biết được thời tiết nắng, mưa, nóng, lạnh,
… Ví dụ: sương giáng (sương rơi), đại hàn (lạnh
to), đại tuyết (tuyết lớn), … Nhưng 24 tiết khí này
nếu có đúng thì đúng ở đâu chứ ở Việt Nam thì
chẳng đúng bao nhiêu. Ngày đại hàn (lạnh to)
nhiều khi lại nắng nóng! Mặt khác, sự biến đổi khí
hậu toàn cầu mà ai cũng đều biết và cả thế giới
93
đang lo sốt vó đã làm sai lệch 24 tiết khí này mất
rồi! Nông dân nên theo dự báo khí tượng thủy văn
trên đài, trên báo, trên tablet, trên internet, … mà
gieo trồng là tốt nhất!
Như vậy, xem ra ưu điểm của âm lịch chẳng có
bao nhiêu.
2. Nhược điểm của âm lịch
a. Không xác định được thời điểm cụ thể, rõ
ràng.
Âm lịch dựa vào 10 can (giáp, ất, bính, đinh, mậu,
kỉ, canh, tân, nhâm, quí) và 12 chi (tí, sửu, dần,
mẹo, thìn, tị, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi) để tính
năm. Vì vậy, cứ 60 năm thì nó lặp lại như cũ. Ví
dụ: ông X sinh năm giáp tí, đến năm 61 tuổi, ông
X sinh đứa con út thì đứa con út này cùng tuổi
giáp tí với cha nó. Khi nói năm kỉ dậu, năm mậu
tí, năm nhâm thìn, … thì chả ai biết nó là năm nào
nếu không đặt năm dương lịch trong ngoặc đơn ở
bên cạnh (tốn thêm giấy mực)! Không chỉ có năm
là tí, sửu, dần, mẹo, … mà tháng, ngày và giờ
cũng tí, sửu, dần, mẹo, … nữa. Rối rắm vô cùng!
Nói “ngày mồng 5 tết năm kỉ dậu, vua Quang
Trung tiến vào Thăng Long, thằng Tôn Sĩ Nghị
94
vội trèo lên ngựa không yên để chạy trốn về
Tàu” thì ta chẳng biết sự việc đó xảy ra mấy năm
rồi. Vậy, thay vì nói ngày mồng 5 tết năm kỉ dậu,
ta nói ngày 30 tháng 01 năm 1789 thì rõ ràng
biết bao. Và ngày 30 tháng 01 năm 2016 này là
Ngày Kỉ niệm 227 năm vua Quang Trung đại
thắng giặc Tàu-Thanh.
b. Nguồn gốc của vô số thảm họa và của
muôn kiểu mê tín dị đoan.
Tại sao tí là chuột, sửu là trâu, dần là cọp, … mà
không là voi, hà mã, tê giác, …? Toàn là ngẫu
hứng, tùy tiện, không có một tí tẹo cơ sở khoa
học nào cả! Mấy cô gái tuổi dần (cọp) rất khó lấy
chồng! Rồi tuổi này khắc với tuổi kia như tí (chuột)
khắc với mẹo (mèo), tị (rắn) khắc với dậu (gà), …
Đó là nguồn gốc của bao điều bi thảm, khổ đau.
Kẻ nào bịa ra mấy cái này quả thật rất vô trách
nhiệm và độc ác!
Âm lịch còn gắn với ngũ hành (kim, mộc, thủy,
hỏa, thổ). Người mạng mộc khắc với người mạng
kim (cây, cỏ, thảo, mộc khắc với rìu, rựa, búa,
liềm). Người mạng thủy khắc với người mạng hỏa
(nước khắc với lửa), … Đó cũng là nguồn gốc của
bao điều bi thảm, khổ đau nữa! Có anh mạng hỏa
95
lại hiền như đất, có chị mạng thủy lại nóng như
lửa, … Toàn là vu vơ, bậy bạ!
Và, cũng từ đó, “thầy” bói, “thầy” tướng số, “thầy”
địa, … sống bằng sự lừa bịp những người nhẹ dạ,
cả tin và thiếu tự tin.
Tóm lại, ta thấy âm lịch chẳng có mấy ưu điểm.
Trái lại, nhược điển của âm lịch lại quá nhiều,
nhất là nó kéo theo vô số những điều mê tín dị
đoan, những bi kịch, những khổ đau phi lí. Từ hơn
100 năm trước, năm 1907, khi viết “Tỉnh quốc hồn
ca I”, Nhà cách mạng kiệt xuất Phan Châu Trinh
đã kịch liệt đả kích thói mê tín dị đoan của dân ta
vì nó cản trở chủ trương “khai dân trí, chấn dân
khí, hậu dân sinh” của ông:
Người mình không tự cường, tự miễn,
Chỉ mơ màng những chuyện hư vô.
Đổ cho tại mả, tại mồ,
Đổ cho số phận, đổ cho tại thời.
Việc gì cũng cầu Trời, khấn Phật,
Còn mình thì tính quất toan quanh.
Thượng lương, giá thú, xuất hành, …
96
Trăm điều giữ lấy ngũ hành khư khư.
Người Việt Nam ta nên chuyển sang (không phải
bỏ đi) ăn tết, chạp mả, tảo mộ, giỗ kị, … theo
dương lịch. Sách, báo nói chung, sách lịch sử, tài
liệu lịch sử nói riêng, chỉ nên dùng giây, phút, giờ,
ngày, tháng, năm dương lịch để được rõ ràng, dễ
hiểu, dễ nhớ, dễ vận dụng.
Ninh Thuận, ngày 27-01-2016
97
Cách tính năm âm lịch
Người xưa đã bịa ra 10 can (giáp, ất, bính, đinh,
mậu, kỉ, canh, tân, nhâm, quí) và 12 chi (tí, sửu,
dần, mẹo, thìn, tị, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi)
để ghép lại mà tính năm. Năm cũ là năm Bính
Thân, năm mới là năm Đinh Dậu và tiếp sau năm
Đinh Dậu là năm Mậu Tuất, v.v… Như vậy, cứ 12
năm sau sẽ là năm Kỉ Dậu, 24 năm sau sẽ là năm
Tân Dậu, 36 năm sau sẽ là năm Quí Dậu, … Và
đúng 60 năm sau sẽ trở lại là năm Đinh Dậu. Cứ
60 năm thì tên năm quay vòng trở lại như cũ.
Cách tính năm âm lịch như vậy rất bất tiện. Nói
“Tôi tuổi Dậu” thì chẳng biết là Dậu nào! Nối “Tôi
tuổi Đinh Dậu” thì cũng chẳng biết là Đinh Dậu
nào! Vì thế, người ta phải mở ngoặc đơn ghi năm
dương lịch rồi đóng ngoặc đơn. Thật phiền phức!
Năm dương lịch lại rất rõ ràng. Nói “ Năm 1789,
vua Quang Trung đánh tan giặc Tàu-Thanh” thì ta
biết ngay đó là ở cuối thế kỉ 18, cách năm 2017
này 228 năm. Nếu nói “Mùa xuân năm Kỉ Dậu,
vua Quang Trung đánh tan giặc Tàu-Thanh” thì ta
chẳng biết năm Kỉ Dậu là năm nào nếu không chú
thích năm dương lịch bên cạnh.
98
Ngoài ra, năm âm lịch còn gắn với 12 con vật
được chọn lựa ngẫu hứng, do hiểu biết ít ỏi về
loài vật ( không biết: tê giác, linh dương, hưu cao
cổ, sư tử, hà mã, …), gắn với ngũ hành (kim,
mộc, thủy, hỏa, thổ). Từ đó, mới đẻ ra việc hợp
hoặc khắc về tuổi, về mạng. Từ đó, mấy “ông thầy
bói” mới bịa chuyện kiếm tiền! Thực ra, nếu có
xung khắc người này với người kia thì đó là xung
khắc về tính cách, về lẽ sống chứ chẳng hề có
xung khắc về tuổi, về mạng.
Tóm lại, năm âm lịch không rõ ràng, mù mờ lại
gắn với những tín điều phi khoa học, phi lí và phi
nhân (gây đau thương, khốn khổ cho không ít
người vì “không hợp tuổi”, “không hợp mạng”). Ta
nên vứt âm lịch, dùng dương lịch. Sách báo, tài
liệu lịch sử chỉ ghi ngày dương lịch mà thôi. Từ
đó, việc nghiên cứu, học tập cũng dễ dàng, thuận
lợi hơn.
Qua đối chiếu âm và dương lịch thì ngày mồng 5
tết năm Kỉ Dậu (1789) là ngày 30 tháng 01 năm
1789. Và như thế, ngày 30-01-2017 tới đây,cả
nước sẽ kỉ niệm 228 năm chiến thắng Ngọc Hồi –
Đống Đa, người anh hùng Quang Trung và đoàn
quân Tây Sơn đã quét sạch lũ giặc Tàu-Thanh ra
100
Tú Xương trước bản thân
và cuộc đời
TỰA
Đã có nhiều tác giả viết về Tú Xương (*) qua
nhiều khía cạnh. Người viết bài này chỉ xin góp
một cái nhìn về nhà thơ “Tài cao phận thấp khí khí
uất” (**) của chúng ta mà thôi.
Từ lâu, người viết hằng thắc mắc, không hiểu tại
sao một con người chan chứa những ý tình cao
đẹp như Tú Xương lại có thể “ăn chơi trụy lạc”
như người ta nói và như chính ông đã viết được.
Qua bài này, người viết sẽ thử cố gắng trả lời câu
hỏi đó.
Người viết sẽ giới thiệu những tính chất căn bản
nhằm phát họa thái độ của Tú Xương trước bản
thân và cuộc đời. Bởi lẽ, sống là chọn lựa một
thái độ, không có thái độ nào cả cũng đã là có một
thái độ rồi.
Do đó, bài viết này sẽ được giới hạn trong việc
tìm hiểu xem Tú Xương đã “xử kỉ tiếp vật”, đã ở
đời ra làm sao và người viết trộm nghĩ rằng sự
tìm hiểu này sẽ có một lợi ích nào chăng.
Viết tại E4, Đại Học Xá Nam Giao,
101
Huế, đêm 18 tháng 4 năm 1974
DẪN NHẬP
Nếu hiểu con người là một tinh thần nhập thể và
nhập thế thì sống đối với con người, có nghĩa là
sống với, sống cùng, sống trong, sống giữa và do
đó, dù muốn dù không, con người phải đối diện
với hai thực tại: thực tại cá nhân và thực tại xã
hội.
Đối với thực tại cá nhân: trước hết, con người
phải sống trong một xác thân riêng, với những
ảnh hưởng tiên thiên khác nhau, nghĩa là có một
quá trình hiện hữu dị biệt.
Đối với thực tại xã hội: cái xã hội không ngừng tác
động trên từng cá nhân, con người hầu như là
phải “chấp nhận” nó từ khi có mặt trên đời: xã hội
thanh bình hay loạn lạc, đạo đức hay hư hỏng,
tiến bộ hay lạc hậu, .v.v…
Con người chỉ còn một chọn lựa là cách thế hiện
hữu của mình hay nói khác đi là cách thế đối diện
với những thực tại nói trên. Sống không có nghĩa
là thuận thụ, a tòng, hoàn toàn thụ động. Trái lại,
sống còn có nghĩa là đối phó, hoạt động và lắm
khi là phản động (chữ “phản động” ở đây không
102
có nghĩa xấu, không phải là phản tiến hóa, phản
tiến bộ).
Nhà thơ của chúng ta, Tú Xương, sinh trưởng
trong hoàn cảnh đất nước bị ngoại bang thống trị.
Những tập tục lễ nghi, những giá trị luân lí, đạo
đức từ ngàn xưa đã bị lung lay và khuynh đảo.
Bao nhiêu hình ảnh, sự việc diễn ra trước mắt,
không thể ông không nhìn thấy. Mặt khác, nhà thơ
còn có một hoàn cảnh cá nhân riêng: một người
của lớp tàn nho, gia đình lại lâm vào sự quẫn
bách và hầu như mọi lối thoát đối với ông đều đã
bế tắc.
Chúng ta cũng nên hiểu rằng dù chạy trốn thực tại
thì con người cũng đã đối diện với thực tại và
chạy trốn chỉ là một cách thế, một thái độ trước
thực tại đó. Dù sống trong lao tù con người vẫn
phải đối diện bốn bức tường hay sống trong một
tháp ngà ảo tưởng, con người vẫn phải đối diện
với những gì mà ảo tưởng đó tạo ra.
Vậy thì sống bao hàm ý nghĩa là một thái độ đối
diện, một cách thế “đứng trước” thực tại. Và trước
một thực tại, con người sẽ hoặc chấp nhận nó, đề
huề với nó hoặc tác động để đổi thay nó hoặc
đứng xa mà nhìn ngắm, mô tả. Nhà thơ của
103
chúng ta ở vào trường hợp này. Nhưng từ một
quan điểm, từ một vị trí quan sát nào đó, sự mô tả
cũng nhằm một sự tố cáo và cũng có nghĩa là một
ước vọng cải tạo, đổi thay.
Vậy, khi khảo sát về thái độ của nhà thơ Vị Xuyên
trước bản thân và cuộc đời, chúng ta phải có một
quan điểm thích nghi. Quan điểm mà người viết
chọn lựa ở đây là tình tự dân tộc và nhân loại.
Người viết sẽ tìm cách hiểu nhà thơ, cảm thông
với nhà thơ, nghĩa là trả lại cho nhà thơ cái gì là
của nhà thơ.
I. TÚ XƯƠNG TRƯỚC BẢN THÂN
Nói đến nhà thơ Vị Xuyên, chúng ta nghĩ ngay
đến một số phận hẩm hiu, một cuộc đời với toàn
những thất bại và trắc trở. Bao nhiêu tài sản của
cha ông để lại, Tú Xương đã “hiến dâng” cả cho
khoa cử, nhưng rồi khoa cử lại phụ bạc ông một
cách tàn nhẫn và trắng trợn.
Từ thuở 15 tuổi (1885), nhà thơ đã “tỏ tình” với
khoa cử và cũng chính trong lần này, nhà thơ đã
đón nhận sự hắt hủi đầu tiên. Hai lần thất bại nữa,
đến năm 24 tuổi (1894), ông mới nhận được của
khoa cử cái tú tài, cái tú tài vô dụng, nhưng đã
làm khổ ông không ít và cũng chỉ có chừng ấy, dù
104
sau đó Tú Xương đã đến với khoa cử bốn lần
nữa; lần cuối cùng là năm 1906, để rồi năm sau
(1907) nhà thơ vĩnh viễn từ giã cõi đời. Cũng chỉ
bởi khoa cử mà con người đó đã phải “Van nợ
lắm khi trào nước mắt” hay “Chạy ăn từng bữa
mướt mồ hôi”(Than nghèo). Nhà thơ đã phải sống
bám vào người vợ tảo tần “Năm nắng mười mưa
…” suốt trọn cuộc đời. Tất cả sự thật này nhà thơ
Vị Xuyên đã không một mảy may che dấu. Thi sĩ
non Côi sông Vị đã quay cái nhìn vào chính mình,
ông không ngừng tìm cách xác định con người
ông trong cuộc đời.
Mặc dù, từ thế kỉ XIX, các văn nhân nho sĩ nước
ta đã có nói đến cái tôi thay vì cái ta chung chung
như trước, nhưng không ai nói nhiều và nói kĩ
như Tú Xương.
Bằng thơ phú, nhà thơ đã tự họa một bức chân
dung với đầy đủ các chi tiết. Tuy nhiên không phải
nhà thơ chỉ mô tả phần ngoại diện, trái lại ông còn
chiếu rọi “đôi mắt” vào tận các hang cùng, ngõ
hẻm của tâm hồn mình. Có thể nói nhà thơ đã cố
tìm một bút pháp hay một ngôn từ để diễn tả cho
trọn vẹn, chính xác những gì ông nhận thấy khi
trực diện với chính bản thân.
105
Thiết tưởng chúng ta nên tìm hiểu một vài tính
chất căn bản trong cái nhìn tự phản của nhà thơ.
Vì qua sự tìm hiểu này, may ra chúng ta có thể
tìm thấy được một cách đúng đắn, phần nào tâm
trạng và chí hướng của nhà thơ Vị Xuyên.
1. Tú Xương, một người thành khẩn
Đây là đặc điểm trước hết trong cái nhìn tự phản
của nhà thơ. Thành khẩn với người đã là khó và
không mấy ai có thể thực hiện một cách trọn vẹn,
thành khẩn với chính mình lại càng khó hơn.
Thành khẩn với chính mình có nghĩa là tự khách
quan hóa để nhìn ngắm, phê phán chính mình.
Thật chưa có tác giả nào viết về bản thân và cuộc
đời mình một cách trắng trợn, chân thành đến …
sỗ sàng như nhà thơ Vị Xuyên.
Ta cũng nên nói ngay ở đây là không phải tác giả
không biết đến liêm sỉ và không trọng liêm sỉ,
không coi liêm sỉ là một vấn đề thiết yếu. Nhà thơ
cũng không hề tìm cách nói quanh co để giấu che
bớt sự thật hay để văn chương hóa. Trái lại, nhà
thơ đã phô bày không úp mở, gạn lọc, ông còn
muốn tô đậm nét nữa là khác. Ta nên hiểu sự nói
thật của ông là một trực tính tự nhiên và cũng là
sự liêm khiết của kẻ hiểu biết.
106
Hơn nữa, ông lại chính là nạn nhân, là người
trong cuộc đã gánh chịu bao nhiêu bất hạnh, trắc
trở: nạn nhân của một bản chất nghệ sĩ ngông
nghênh, nạn nhân của một buổi giao thời và trực
tiếp, gần gũi nhất là nạn nhân của nghèo túng và
hỏng thi. Vậy thì nói ra, dĩ nhiên là nói trong niềm
tin sẽ được nghe, được thông cảm, cũng là cách
làm cho vơi bớt đi những “ngổn ngang trăm mối
trong lòng” đó.
Tuy nhiên, ta cũng khôngthể tin hoàn toàn tất cả
những gì ông đã nói ra vì lắm khi ông đã phóng
đại một hình ảnh hoặc cường điệu hóa một ý
tưởng, nghĩa là chúng ta nên hiểu văn chương
như một cái cớ, một công cụ, văn chương không
phải là một biên bản điều tra của cơ quan an ninh.
Văn chương cũng như chiếc thuyền, ta chỉ sử
dụng nó để sang sông và ta sẽ không mang nó
lên người khi đã đạt được mục đích.
Để ý như thế, chúng ta sẽ có thể đến gần sự thật
hơn. Mặt khác, về nhân vật ngôi thứ nhất tôi, ta,
min, tớ, ông mà nhà thơ tự xưng, ta phải hiểu
rằng đó chỉ là một nhân vật mà thôi. Vì ai cấm nhà
thơ đứng vào vị trí của một người khác để tự nói
ra ý nghĩ, tình cảm, tâm tư của “mình”. Nhà văn
107
có thể “là” bất cứ ai miễn là họ có văn tài để diễn
tả: văn chương không phải là sự thật mà là cái có
vẻ thật. Nhà văn phải làm thế nào để thể hiện
được những đặc tính khả xúc, và đó chính là sự
thành công của một nhà văn.
Trong trường hợp nhà thơ của chúng ta, Tú
Xương, ta phải thận trọng khi phê phán về nhân
cách, đạo đức của ông và không có lí do gì để
chúng ta dựa vào những lời bông đùa, bỡn cợt
của ông để có một quan niệm, một kết luận vì
quan niệm cũng như kết luận đó sẽ không tránh
khỏi hàm hồ, vụ hình thức, sai lầm.
Xem lời tự giới thiệu trong bài “Tự cười mình” hay
trong bài phú “Thầy đồ dạy học” ta thấy cái dáng
vẻ bên ngoài đã được nhà thơ phát họa rõ ràng:
Ở phố hàng Nâu có phổng Sành,
Mặt thì lơ láo, mắt thì nhanh(Tự cười mình I)
Râu rậm bằng chổi
Đầu to tày giành (Thầy đồ dạy học, phú, bài I)
Quần áo rách rưới
Ăn nói xô bồ (Thầy đồ dạy học, phú, bài II)
108
Thật thì mặt ông có “lơ láo” vì ông đã kinh qua
bao nhiêu thất bại ê chề, nhận chịu bao nhiêu đớn
đau, bất trắc, ông muốn tìm một người tri kỉ
chăng? Vậy thì chúng ta còn đợi gì mà không mở
rộng lòng mình để cảm thông với nhà thơ vì đôi
mắt sáng của ông đang nhìn về phía chúng ta,
mời gọi chúng ta lắng nghe.
Nhưng nhà thơ đâu có “Râu râm bằng chổi đầu to
tày giành”, nhà thơ thực ra râu thưa và đầu thì
nhỏ thôi. Vậy thì, đây chỉ là một cách “đùa” cho
vui, mong xoa dịu những nỗi ê ẩm, chán ngán
trong lòng và ông đùa thật dai vì ông đã đau đớn
quá nhiều. Ta nên hiểu đây là phản ứng của một
bản chất cá nhân riêng. Trước một thất bại, cá
nhân con người có thể phản ứng bằng nhiều
cách: hoặc chìm đắm trong đau đớn, gặm nhắm
những nỗi thất vọng để rồi đi đến suy nhược, lụn
bại tinh thần hoặc cười xòa, xem như không đáng
quan thiết đến để cho nguôi ngoi, phai lạt bớt tính
chất quan trọng của sự kiện mà ngày nào ta đã
xem là quan trọng và ta đã đặt vào nó tất cả hi
vọng để tự hóa giải với chính mình, tìm cho mình
một lối thoát, một an ủi.
109
Yves Berger đã nhận thấy rằng: “Văn chương bao
giờ cũng chỉ là một nỗ lực tự giải thoát cá nhân”
(3). Tuy nhiên, cái bi đát sẽ lộ liễu, ta sẽ thấy rõ
ràng là nhà thơ đã cười ra nước mắt.
Phải chăng thất bại có to lớn đấy, nỗi đớn đau có
dằn vặt mình đấy, song nhà thơ vẫn còn yêu đời
và còn ham sống nên ông can đảm bộc bạch tất
cả cái gì riêng tư của mình mà không sợ ai cười
chê hay mai mỉa. Ông đã tự khách quan hóa
chính mình để mà “tự trào”, tự cười mình.
Thế thì, Tú Xương, tôi, ta, ông, min, tớ … chỉ là
một nhân vật, không hoàn toàn trùng hợp với ông
Tú Xương ngụ tại nhà số 280, phố Đình Hữu, làng
Vị Xuyên, huyện Mĩ Lộc, tỉnh Nam Định trong
những năm từ 1870 đến 1907, tức là phố hàng
Nâu nối liền với phố hàng Song, khu Đình Hữu,
thị xã Nam Định bây giờ (năm 1974). Nhận định
như thế, chúng ta sẽ tránh được lầm lẫn khi phê
phán về giá trị đạo đức, phẩm hạnh của nhà thơ.
Ta có thể đặt câu hỏi là tại sao quần chúng lại
truyền tụng câu ca dao nói về xuất xứ và bản chất
của nhà thơ rằng:
Vị Xuyên có bác Tú Xương
110
Quanh năm ăn quịt chơi lường mà thôi (4).
Ta thấy rằng, một người ăn nói hoạt bát, vui vẻ và
lại hay bỡn cợt, bông đùa như Tú Xương thì
người ta làm thân với ông chẳng khó khăn gì và
rồi “giỡn với chó, chó liếm mặt” (5), họ sẽ cùng
ông pha trò và sự kiện được mô tả chắc chắn sẽ
không trung thực với sự thật bao giờ. Có lẽ, đôi
khi vì kẹt lắm, nhà thơ đã mua chịu hay mượn mõ
ít nhiều và rồi quên đi nên không trả như có lần
ông đã hỏi mua sực tắc:
Sực tắc mày rao đã điếc tai,
Tiền thì không có biết vay ai?
Mày ơi bán chịu tao vài bát,
Sáng mai tao trả một thành hai. (Bảo người bán
sực tắc)
Chỉ chừng ấy người ta có thể phóng đại ra, vì dư
luận có thể biến một con muỗi thành một con voi
và hơn thế nữa! Do đó, sự kiện mà người ta nói là
“Quanh năm ăn quịt chơi lường mà thôi” đó chỉ để
đùa, để triêu chọc Tú Xương hơn là mô tả một sự
thật.
Mặt khác, một người đã lên án, chỉ trích gay gắt
những thói hư tật xấu của người đời, đã không
111
tiếc lời phỉ báng mọi tệ trạng của xã hội mình,
không thể là kẻ như những kẻ mà mình đã chỉ
trích, lên án đó.
Hơn nữa, Tú Xương còn có một tâm trạng u uất
đối với quê hương đất nước, có một nhiệt tình yêu
mến cách mạng, kính trọng các nhà chí sĩ (đối với
Phan Bội Châu, Tú Xương đã bày tỏ một sự hâm
mộ và tôn kính sâu xa) thì không thể nào nhà thơ
lại làm những việc thiếu ý thức và không mấy tốt
đẹp như vậy.
Tuy nhiên, ta cũng phải công nhận rằng với bản
chất của một nghệ sĩ ngông nghênh và cái “phẩm
giá” của kẻ sĩ, nó đã tạo ra ở Tú Xương cái tính
hào phóng, bất cần và ông thành thật cho biết:
Cho hay công nợ là như thế
Mà vẫn phong lưu suốt cả đời (Tự cười mình, bài
II)
hoặc:
Kiết cú như ai cũng rượu chè (Năm mới)
Đấy phải chăng là một phản diện tâm lý tất nhiên
của một con người muốn chối bỏ thực tại này,
hoàn cảnh cũ để vươn tới, tiếp xúc một thực tại
khác, hoàn cảnh mới. Chắn chắn là ước muốn
112
thay đổi đó sẽ không bao giờ có thể thành sự thật
nếu vẫn cứ “phong lưu suốt cả đời” và “như ai
cũng rượu chè”.
“Xấu che tốt khoe”, đó là cái gì thường tình nhân
thế, vậy mà nhà thơ của chúng ta dám nhìn thẳng
vào sự thật, nhìn thật kĩ và mô tả nó thật tỉ mỉ nữa
là khác. Kiểm điểm lại sự nghiệp, gia thế, ông
thấy:
Ba luống vườn hoang bán sạch rồi,
Gạo cứ bữa ăn, đong bữa một. (Than nghèo II)
Người bảo ông cùng mãi
Ông cùng thế này thôi
Vợ lăm le ở vú
Con tấp tênh đi bồi
Khách hỏi nhà ông đến,
Nhà ông đã bán rồi. (Than cùng)
Một tuồng rách rưới con như bố, (Mùa nực mặc
áo bông)
Còn gì thật hơn, còn gì thấm thía và cảm động
hơn và nếu ai đã một lần khốn khó sẽ thấy hai
câu thơ sau đúng một cách … tuyệt đối:
113
Van nợ lắm khi trào nước mắt,
Chạy ăn từng bữa mướt mồ hôi. (Than nghèo)
Gia thế càng xuống dốc, càng quẫn bách thì khoa
cử lại như toa rập để đẩy ông vào bước đường
cùng. Công danh, sự nghiệp, nhân phẩm, tất cả
thảy đều phải đi qua cổng trường thi. Nhưng khoa
cử phụ bạc thì mọi công trình xây dựng cho chính
bản thân cũng như xã hội đều tiêu tan.
Chính vì nền giáo dục theo lề thói phong kiến lạc
hậu, quá khe khắt đã bóp nghẹt và bóp chết đi
biết bao nhân tài, biết bao kẻ giàu thiện chí. Hơn
nữa, nền giáo dục khuôn mẫu, từ chương đó
cũng chẳng tạo ra được những người có sáng
kiến kinh doanh, thực nghiệm và thực dụng. Thế
mà phải chìu lụy nó, không thể qua mặt nó bởi lẽ
nếu không thì:
Trăm năm thân thể có ra gì (Buồn thi hỏng)
Và nhà thơ, người đã đón nhận từ thất bại này
đến thất bại khác, hầu như cứ mỗi lần đi thi là mỗi
lần ông hỏng thi, hơn ai hết, ông đã thấm thía trọn
nghĩa của sự đớn đau, cay đắng, chua chát, tủi
hổ:
114
Đau quá đòn ghen,
Rát hơn lửa bỏng.
Hổ bút, hổ nghiên,
Tủi lều, tủi chõng. (Hỏng thi khoa Canh tí)
Bụng buồn còn muốn nói năng chi,
Đệ nhất buồn là cái hỏng thi.
Tám khoa chưa khỏi phạm trường qui (6) (Buồn
thi hỏng)
Để có một ý niệm chung, ta thấy rằng Tú Xương
đã làm thơ không phải để chạy trốn thực tại,
không phải để mơ mộng thoát ly. Trái lại, nhà thơ
của chúng ta bám chặt lấy cái thực tế phũ phàng,
bi đát của mình và nói ra như một tâm sự, lời nói
vì thế có sự tiềm ẩn của một mong ước cảm
thông, chia sẻ và đi thẳng vào tâm hồn người
nghe. Ông đã quá thành khẩn, thì chúng ta còn
trách ông vào đâu nữa!
Mặt khác, có người cho rằng Tú Xương ăn chơi
trụy lạc và mạt sát ông thậm tệ vì họ không nhìn
thấy cái tế nhị trong lời thơ cũng như thực chất
của những lời thơ đó hoặc giả họ muốn tìm một
“đồng minh” chăng, muốn dối mình chăng, điều đó
115
hãy để cho họ tự trả lời. Nhận định về các quan
niệm lệch lạc này, ông Trần Thanh Mại đã có cái
nhìn khá sắc bén khả dĩ lột mặt nạ của những kẻ
ngụy tín nói trên:
“Mấy quan niệm sai lầm này kể ra cũng có nguồn
gốc sâu xa của nó, có nguyên nhân của nó. Trước
hết, nó xuất phát từ quan điểm thực dân và phong
kiến, bù nhìn, thường ghét và sợ những con người
như Tú Xương. Nó xuất phát từ âm mưu của
chúng muốn xuyên tạc sự thật về nhà thơ, muốn
bôi nhọ đời sống thanh cao và tâm hồn trong sạch
của nhà thơ, đấy là thủ đoạn của thực dân pháp
và tay sai (7) vào khoảng những năm 30 của thế
kỉ này, hòng phủ nhận hoặc xóa mờ giá trị hiện
thực sâu sắc của thơ văn Tú Xương và đánh tan,
hay ít ra cũng giảm bớt lòng hâm mộ của công
chúng đối với nhà thơ” (8).
Sau hết, hẳn chúng ta phải công nhận rằng Tú
Xương có một cốt cách hơn người, có một ý thức
cao độ về sự liêm khiết. Nhà thơ đã chẳng quanh
co chối từ hay biện hộ cho những nhược điểm
của mình. Trái lại, ông đã thành thật phơi bày tất
cả trước mắt chúng ta. Hơn thế, ông còn dùng
ngôi thứ nhất (chỉ chính mình) để cười đùa và tự
116
tố cáo. Điều này có nghĩa là Tú Xương đòi hỏi sự
tự giác của những kẻ không mấy tốt đẹp quanh
ông. Và đây cũng là một cách xỏ xiên nhằm nhắc
khéo người khác để họ có dịp tự vấn, tự nhìn
ngắm lại chính mình, hầu có thể không tiến sâu
vào lối đi không lấy gì làm tốt đẹp của họ.
Mặt khác, ta thấy rằng những bài thơ bông đùa
của Tú Xương là nhằm một hài tính, cốt để mua
vui. Do đó thực tính của những bài thơ đó không
có là bao, khác hẳn với giọng thơ u hoài, trang
trọng khi ông tỏ lộ tâm tình của mình đối với quê
hương, đất nước hay đối với những con người
mà nhà thơ ngưỡng mộ, tôn kính.
Tuy nhiên, gạt ra ngoài tính cách cười đùa cũng
như việc sử dụng nhân vật ngôi thứ nhất để nhắc
nhở, chê trách người đời một cách khéo léo đó,
nhà thơ đã thành khẩn tỏ bày tất cả những gì
riêng tư của mình khiến cho thơ văn của ông có
một cảm xúc tính mãnh liệt, đi thẳng vào tâm hồn
người đọc. Ta có thể nói rằng giá trị thơ văn cũng
như giá trị làm người của Tú Xương khởi đi từ
chính lòng thành khẩn đó.
2. Tú Xương, một người phá chấp
117
Phá chấp nghĩa là đã chấp nhận tất cả, đã xem tất
cả là có đó dù rằng nó không hợp với chủ trương,
tư tưởng cùng mong ước của mình chăng nữa.
Phải là một con người đã thâm hiểu ý nghĩa cuộc
đời và thân phận làm người, vượt lên trên mọi
thành kiến, xu hướng và nhất là phải có một đảm
lực phi thường mới có thể độc lập với chính mình
và với người khác. Cũng như đã có một con
đường rõ rệt, chính đáng mới có thể không sợ sẽ
bị hiểu lầm, không sợ những lời mai mỉa, khen
chê.
Đặt vấn đề này, ở đây, chúng ta không có ý đề
cao nhà thơ Tú Xương vì có nghĩa lí gì đối với
người đã vội vã và sớm sủa giã từ cuộc đời?
Khen chê đối với ông, một kẻ đã vĩnh viễn về với
yên lặng không còn là cái gì quan trọng. Chúng ta
chỉ cố gắngđể hiểu nhà thơ một cách đúng
đắnhơn mà thôi.
Trước hết, chúng ta phải nhận rằng nhà thơ Vị
Xuyên đã có một ý thức cao độ về sự liêm khiết
nên ông đã không tự dối lừa mình cũng như đã
không phĩnh phờ người khác, vì thế mà khi nghe
người đời bông đùa:
Vị Xuyên có bác Tú Xương,
118
Quanh năm ăn quịt chơi lường mà thôi. (9)
thì không những ông không oán hận, không đính
chính mà hơn thế ông còn đẩy đến cực độ, cụ thể
hóa bằng sự kiện:
Cao lâu thường ăn quịt,
Thổ dĩ lại chơi lường (10).
Chúng ta đừng vội kết luận là ông đã “bất cố liêm
sỉ”! Nghĩ như thế thì thật đơn giản và cũng thật dễ
dàng nhưng chưa chắc đã đúng với sự thật,
không phải nhà thơ Vị Xuyên đã gồng mình để nói
như thế. Trái lại, ông đã thật tỉnh táo, sáng suốt
nữa là khác. Ta thấy rằng một người đã suốt đời
nâng niu, gìn giữ cái giá trị mà mình tôn thờ:
Danh giá nhường này không nhẽ bán,
Nhân duyên đến thế hãy còn theo. (Nghèo)
và đã thấu hiểu thói đời thường khen chê vì một
lợi riêng nào đó hay ít ra cũng cảm thấy yên hàn
và có ảo tưởng rằng mình không tội lỗi hoặc tội lỗi
của mình cũng không đến nỗi trầm trọng lắm:
Kẻ yêu người ghét hay gì chữ,
Đứa trọng thằng khinh chỉ vị tiền. (Thói đời)
119
thì những điều đồn đãi đó có gì đáng kể đâu. Vậy
thì nói cho tệ hại hơn như thế có ý nghĩa gì? Phải
chăng là để bày tỏ một sự bất chấp và muốn nói
rằng giá trị của một con người không phải là cái gì
ngoại tại mà chính là những gì con người đó đã
thể hiện trong suốt cuộc sống của mình. Và nhà
thơ của chúng ta đã thể hiện bằng việc từ chối sự
giúp đỡ của thực dân để có cơ kiếm tiền, ông đã
bất chấp cả cái nghèo mà ít ai có thể cưỡng lại
được:
Người bảo ông cùng mãi,
Ông cùng thế này thôi:
Vợ lăm le ở vú,
Con tấp tểnh đi bồi. (Than cùng)
Xem thế, những bày tỏ của ông không phải để
cầu xin một sự thương hại, chắc chắn một người
tự trọng như ông sẽ chẳng khoái gì nếu không nói
là e dè, ghê sợ điều đó nữa là khác. Chẳng qua
như nhận xét của Hàn Xương Lê (Hàn Dũ) đời
Đường “Đại phàm vật bất đắc kì bình tắc minh”
(vật hễ không được thỏa mãn ắt phải kêu lên) mà
thôi. Và tiếng kêu, ở đây, là tiếng kêu của một con
người đại diện cho loài người. Đây là lời báo động
120
của một con người đang bị những thực tế phi
nhân chèn ép. Tiếng kêu đó nhắc nhở chúng ta
một tình tự nhân loại cũng như cái thân phận làm
người và qua thơ văn Tú Xương chúng ta còn
nghe thấy tiếng kêu của một kẻ đau lòng vì đất tổ,
quê cha đang bị ngoại bang dày xéo, đồng bào
đang phải lầm than khốn khổ. Nhà văn Đặng Thai
Mai nhận xét:
« Trong văn chương các nhà nho nước ta, nước
Tàu xưa nay, chả có cò gì nhạt nhẽo hơn là các
thứ văn thơ thù tạc những bài phú lục, tán tụng
ông nọ bà kia. Tưởng nếu đem mà đốt cho hết
những thứ văn nước ốc ấy đi, thì văn học của một
nước, tư tưởng của nhân loại cũng không vì thế
mà gầy gò, ốm yếu đi tí nào. Nếu khối óc của nhà
văn không có những luồng sóng bất bình, nếu tâm
hồn của những kẻ cầm bút không cảm thấy những
nỗi đau đớn, thiếu thốn của kiếp người, những
điều mong mỏi thiết tha của thời đại, nếu không
lĩnh hội được tính cách luôn luôn biến thiên của
thế giới, của nhân sinh, nếu như đối với hiện tại
với tương lai không có một yêu cầu, một hi vọng,
tin tưởng gì, thì cái thứ văn mơn trớn béo tốt như
đẫy thịt, trơn như tản trán hói của nhà trưởng giả,
121
cũng chỉ là một “văn chơi” mà thôi, chả có ý nghĩa
gì là văn học (11).
Sở dĩ người viết phải trích dẫn dài dòng vì muốn
nói rằng giá trị thơ văn Tú Xương là ở chỗ nó thể
hiện được tình tự nhân loại và dân tộc, gắn liền
với thực tế bản thân và thực tế của quê hương,
đất nước.
Lại nữa, cũng vì muốn đi đến cái thực chất của sự
kiện, nhà thơ đã đập vỡ cái hình thức bưng bít
ngụy trang để nhìn thấy chân diện mục của nó.
Chúng ta thấy Tú Xương đã không giản đơn chấp
nhận cái hình thức bên ngoài. Trái lại, ông còn đòi
một nội dung thật nữa:
Khăn khăn áo áo thêm rầy chuyện,
Bút bút nghiên nghiên khéo giở tuồng. (Đêm hè)
Vậy, cái lí tưởng đối với nhà thơ phải là: một nội
dung tốt được gói ghém bởi một hình thức đẹp.
Tuy nhiên, nhà thơ cũng thấy được rằng loài
người có kẻ thánh thiện, nhưng cũng có kẻ tội lỗi
và đối với hạng trung bình, mỗi người đều có hai
phản diện tương khắc: thánh và tội.
Người biết điều, liêm khiết, bao giờ cũng có cái
nhìn công bình sáng suốt, không ngụy tín, không
122
tự ái hay bảo thủ. Dám nói sự thật không phải để
được khen là can đảm, là hơn người, nhưng là để
xứng đáng mình là kẻ biết sống và biết nhận định
hay không. Phải là người có sức mạnh nghị lực
mới gạt bỏ được những tiếng thị phi, bất chấp mọi
đố kị, xem thường mọi khen chê.
Nhận định như thế, chúng ta thấy rằng nhà thơ
chẳng e dè gì nữa mà không dùng ngôi thứ nhất
(chỉ chính mình) như một nhân vật, để cười đùa.
Ta nói rằng đây cũng là một phương thức hiện
tthực, hiện thực trong chiều hướng phản tỉnh, nó
dễ dàng tố cáo cũng như vạch trần những cái
xấu, cái rỡm của cuộc đời.
Và, ta cũng nên nhớ rằng hiện thực không phải là
thú thực, khai thực và nghệ thuật cũng không phải
là nói thẳng, có sao nói vậy và nếu hiểu hiện thực
là nói thẳng, có sao nói vậy, thì không bao giờ văn
chương có thể là văn chương thiện thực. Bởi lẽ
ngôn ngữ văn chương là ngôn ngữ ám chỉ, ngôn
ngữ gián tiếp.
Do đó, ta thấy rằng Tú Xương phải có một niềm
tin vững chắc ở những giá trị mà mình tôn thờ. Từ
đó, ông có thể múa bút tứ tung, miễn sao những
gì ông viết ra, nó phục vụ đắc lực cho chủ đích tố
123
cáo những tệ trạng của xã hội ông đang sống mà
thôi. Tú Xương đã sống một cuộc đời, tuy không
quang vinh, không dọc ngang vùng vẫy, nhưng
thật đẹp. Sở dĩ ông chỉ tri mà không hành, đúng ra
Tú Xương đã hành theo cách thế của một nhà thơ
văn, vì sức ông chỉ có chừng ấy hay nói khác đi
bản tính cũng như sự chọn lựa của ông đã khiến
ông không phải là một mẫu người hành động hiểu
như là một kẻ trực tiếp tác động nhằm cải tạo
cuộc đời.
Tuy nhiên, nhà thơ đã sống thật với những gì
mình nghĩ, một điều đáng nói là Tú Xương đã có
một ý thức về tha nhân, vượt lên trên cái nhận
thức ấu trĩ, chỉ biết có mình, vị kỉ và tự mãn. Nhà
thơ của chúng ta không thể sung sướng, không
thể vui được khi con người còn khổ đau, dân tộc
còn bị chà đạp, rẻ khinh.
Thật vậy, có gì đáng vui, có gì đáng hãnh diện khi
ngoại bang, kẻ đô hộ, xem dân mình như trâu
ngựa và bất công áp bức còn dẫy đầy:
Người đói ta đây cũng chẳng no,
Cha thằng nào có tiếc không cho
Họ đầy đọa mãi dân cày cuốc, (Gặp người ăn xin)
124
Nhà thơ đã có một ý thức cao độ về sự liên đới,
nếu không như lời nguyện của Phật Di Lặc rằng
ngài chỉ thành Phật khi cả thảy chúng sinh thành
Phật, nhà thơ Vị Xuyên cũng chỉ vui buồn với dân
nước, cùng với bao con người quanh ông mà thôi.
Do đó, Tú Xương đã bất chấp cả tù tội, cái chết
có thể đến mình một cách dễ dàng, ông đã can
đảm giấu giếm các nhà cách mạng như Phan Bội
Châu, Tăng Bạt Hổ trong nhà mình. Ta thấy rằng
hai người, Phan Bội Châu và Tú Xương, đã chia
sẻ công việc với nhau: một đàng dùng mưu trí, vũ
lực để thu hồi chủ quyền, độc lập; một đàng dùng
văn thơ để chỉnh đốn lòng người (dĩ nhiên Phan
Bội Châu cũng dùng thơ văn để cổ vũ, động viên,
khích lệ lòng yêu nước và ý chí quật khởi). Nhà
thơ Vị Xuyên đã thực hiện tốt nhiệm vụ của mình,
hăng hái trong việc tố cáo, phê phán xã hội, lột
trần mọi hình thức ngụy trang của nó.
Dù sao đi nữa, dù kịch liệt chỉ trích, cực lực phê
phán, nhà thơ cũng thâm cảm và nhận thấy rằng
tất cả đều đáng thương. Kẻ thù thực dân dù có
tàn ác, đè nén bóc lột đến đâu thì cũng chỉ vì họ
chưa có một ý thức bình đẳng, chưa có một ý
thức về tha nhân, họ còn ở trong một trình độ
125
nhận thức con nít, thấp kém chỉ biết ta mà chưa
biết người. Đấy hẳn không hoàn toàn là lỗi ở họ,
mà lỗi ở chế độ thực dân và phong kiến đã bưng
bít, che đậy không cho người ta thấy đâu là sự
bình đẳng giữa người với người. Bởi thế, nhà thơ
đã tỏ ra quảng đại, không chấp nhất:
Những là thương cả(12) cho đời bạc,
Nào có căm đâu đến kẻ thù. (Hỏi mình)
Vì thành khẩn khi nhìn vào chính bản thân mình
và nhờ có một tâm hồn phóng khoáng, không
chấp nê, Tú Xương đã tự tạo cho mình một luật
sống, một cách thế xử kỉ tiếp vật và cũng nhờ đó
nhà thơ có một ý thức rõ rệt về bản thân cũng
như thấy được bổn phận và trách nhiệm của mình
đối với gia đình, xã hội, quê hương, đất nước.
3. Tú Xương, một người phản tỉnh
Luật lệ chỉ có ý nghĩa khi nó là luật lệ mà chính cá
nhân ý thức và chấp nhận. Thế nên kỉ luật tự giác
là kỉ luật lí tưởng nhất.
Hẳn chúng ta phải công nhận rằng Tú Xương có
một lương tri vững vàng và một điểm linh quang
chói sáng, nó khiến ông biết ... nhiều quá: biết về
mình và biết về người, biết rõ hoàn cảnh riêng tư
126
của ông cũng như hoàn cảnh của quốc gia, dân
tộc.
Dòng máu nho gia đạo lí tiềm tàng trong ông và
sự cảm nhận bén nhạy của một tâm hồn nghệ sĩ
đã tạo cho ông một cốt cách, một thái độ đáng
cho ta suy ngẫm. Mặc dù ông đã không tích cực
góp sức vào việc thúc đẩy bánh xe lịch sử, nhưng
mỗi người một việc, ta đã không thể luận hơn
thua giữa con ngựa kí, ngựa kì với một con kiến,
thì ta cũng phải nhìn nhà thơ Vị Xuyên với những
đóng góp riêng của ông. Phần thi ca hiện thực
phê phán của Tú Xương có một giá trị nhân bản,
một giá trị cải tạo không phải là nhỏ.
Vậy thì cái gì đã giữ Tú Xương lại, khiến ông
không cộng tác với thực dân và tay sai trong khi
cơ hội đã có (người ta chịu giúp ông) và cái gì
khiến ông yêu mến cách mạng, kính trọng những
con người tranh đấu cho độc lập, tự do của dân
tộc? Phải chăng đấy là cái lương tri của một con
người chưa bị đánh mất và cái ý thức về nhân
phẩm, về giá trị làm người chưa hề bị khuất lấp
trong ông. Như thế, luật sống của nhà thơ là luật
người đối với người trên tiêu chuẩn bình đẳng và
127
trách nhiệm. Đối với bản thân, Tú Xương thường
xuyên tự vấn:
Trải mấy mươi năm vẫn thế ru?
Rằng khôn? Rằng dại? Lại rằng ngu? (Hỏi mình)
Rồi ông suy luận, tra hỏi thế nào là dại, thế nào là
khôn:
Thế sự đua nhau nói dại khôn,
Biết ai là dại, biết ai khôn ?
Khôn nghề cờ bạc là khôn dại,
Dại chốn văn chương ấy dại khôn
Mấy kẻ nên khôn đều có dại,
Làm người có dại mới nên khôn.
Cái khôn ai cũng khôn là thế,
Mới biết trần ai kẻ dại khôn. (Dại khôn)
và ông “tự đắc”:
Ta nghĩ như ta có dại gì.
Ai chơi, chơi với, chẳng cần chi. (Tự đắc)
Rõ ràng Tú Xương là một con người có óc độc
lập, biết phán xét và biết tự chủ. Ông có nô lệ
chăng là “nô lệ” người vợ đảm đang hết lòng vì
128
chồng vì con mà nhà văn Trần Thanh Mại gọi là
“một vị thiên thần” ấy thôi.
Thật vậy, nhà thơ đã sống bám vào bà Tú để có
thể đứng thẳng ở giữa cuộc đời, để có thể mai
mỉa những kí, những thông … mà bao người ao
ước. Sự thật này nhà thơ đã nhìn nhận một cách
thẳng thắn:
Tiền bạc phó cho con mụ kiếm, (Tự hỏi mình)
Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ, (Quan tại gia)
No ấm chưa qua vòng mẹ đĩ (Hỏi mình)
Biết thế, nhà thơ cảm thương vợ vô cùng, nhưng
lối thoát thì không có, mọi việc đều do thực dân
lèo lái, ông không thể làm kẻ thừa hành để phản
dân, hại nước. Tuy vậy, ông vẫn phải lo thi cử.
Đây là một điểm trông có vẻ mâu thuẫn đối với
ông. Nhưng ta có thể thấy rằng chẳng qua ông chỉ
muốn làm vui lòng người vợ đã quá khổ cực vì
ông:
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi (nơi) quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông. (Thương vợ)
129
và nhất là đối với tấm chân tình của bà, khi ông
ốm đau, bà đã không ngớt nguyện cầu:
Chỉ bền một nén tâm hương nguyện, (Đang ốm
nghe vợ khấn)
Vì thế, Tú Xương thấy mình có lỗi với vợ, thấy
mình như là đồ bỏ đi, vô tích sự:
Bác này mới thật thái vô tích:
Sáng vác ô đi tối vác về! (Vô tích)
Nghĩ vậy, có lúc ông tự trách mình:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không! (Thương vợ)
Để bù đắp lại những khổ nhọc của vợ, nhà thơ lại
đi thi. Nhưng chưa biết là khi đỗ đạt ông sẽ làm gì
với mảnh bằng đó. Dù sao, ta cũng không thể nói
một cách vô căn cứ, hàm hồ, rằng ông cố sao cho
đỗ đạt cốt chỉ để vinh thân phì gia như bao con
người khác.
Liệu một người yêu mến cách mạng, kính trọng
các nhà chí sĩ tranh đấu cho độc lập, tự do của
dân nước, có thể nào can tâm làm tay sai cho
ngoại bang chăng? Có một điều chắc chắn và gần
130
gũi nhất là nhà thơ muốn làm vui lòng vợ cũng
như cha mẹ, họ hàng:
Anh lăm le bia đá bảng vàng cho vang mặt vợ,
(Văn tế sống vợ)
Mở mặt quyết cho vua chúa biết
Đua danh kẻo nữa mẹ cha già.(Than thân chưa
đạt)
Điều này cho ta thấy rằng tình nghĩa của ông đối
với gia đình thật gắn bó. Tú Xương bao giờ cũng
chỉ có thể vui khi mọi người khác cùng vui, nhất là
những người thân yêu. Thành công trong việc thi
cử, nếu có đối với ông thật chẳng nghĩa lí gì khi
không có sự san sẻ của cha mẹ, vợ con. Và biết
đâu khi đã đỗ đạt, có được cái thế ăn nói, ông lại
không giúp ích cho đời nhiều hơn. Các ông Phan
Bội Châu, Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, …
cũng phải lo thi cử để có thể vận động dân chúng,
để có thể nói cho dân chúng tin. Làm sao có thể
lơ là với khoa bảng khi nó như là một tín hiệu đối
với tất cả mọi người. Hơn nữa, Tú Xương cũng
đã hiểu rõ bước đi của thế hệ mình:
Đạo học ngày nay đã chán rồi, (Than đạo học)
Nào có ra gì cái chữ nho,
131
Ông Nghè, ôngCống cũng nằm co. (Chữ nho)
Xem thế, ta không thể kết luận rằng thi cử là cứu
cánh cuối cùng của Tú Xương và nhất là ta không
thể nói một cách hàm hồ là ông gắng gỏi cho đỗ
đạt cốt để vinh thân phì gia mà chẳng qua Tú
Xương đi thi vì không biết làm gì khác hơn thôi.
Nhưng dù sao, ta cũng phải công nhận rằng nhà
thơ chẳng tìm ra lối thoát để giải quyết những vấn
đề của chính mình. Với sự thành khẩn, với cái tri
thức liêm khiết, Tú Xương đã dám nhìn thẳng vào
thực trạng của đời ông và ông đã ý thức được tất
cả những khiếm khuyết, sai hỏng của cuộc đời
đó, nhưng cũng chỉ chừng ấy mà thôi. Thành ra
đó là sự trở ngại và là sự mâu thuẫn lớn khiến
cho nhà thơ khổ tâm không ít. Ta có thể nói Tú
Xương là nạn nhân của một tri thức. Ông đã
phóng tầm hiểu biết của mình đi quá xa trong khi
năng lực và thực tế vẫn cầm chân ông một chỗ.
Về sinh kế, nhà nho nghèo vẫn còn giữ quan niệm
cổ hủ, trọng văn khinh nghiệp, nghĩa là coi kiến
thức và kinh sử thánh hiền là quí còn các sinh
hoạt khác thì không xứng đáng, coi mưu sinh
không phải là trí thức. Thế nên, cho đến ngày từ
giã cuộc đời, nhà thơ vẫn lang thang, đói khổ, nhờ
132
vã vào người bạn đường tận tụy hết mình cho
chồng con.
Một đôi khi phẫn chí, nhà thơ có ý nghĩ:
Muốn bỏ văn chương học võ biền (Thói đời)
Chẳng kí không thông cũng cậu bồi (Than nghèo)
Nhưng chẳng qua đó chỉ là một lời mai mỉa thâm
trầm, làm sao ông có thể “bỏ văn chương học võ
biền” để làm một tên khố đỏ, khố xanh hà hiếp
dân chúng hay làm một tên tay sai cho phường
cướp nước khi nhà thơ đã chẳng vì đống tiền mà
bán rẻ lương tâm:
Tiền dẫu hết, hết rồi lại có,
Chữ bất nhân tạc đó không mòn,
Ai ôi giữ lấy lòng son!. (Đồng tiền)
Cũng có khi nhà thơ tìm cách thoát li thực tại:
Gần chùa gần cảnh ta tu quách,
Cửa Phật quanh năm vẫn áo sòng. (Mùa nực mặc
áo bông)
Và đây cũng chỉ là ý nghĩ thoáng qua, một sự
thoát li có tính chất bốc đồng mà thôi. Nó chỉ phản
133
ánh le lói sự chống đối của con người bị khép
chặt trong một hoàn cảnh.
Nếu muốn tìm một bài học cho bản thân thì đối
với Tú Xương, chúng ta chẳng có gì đáng học hỏi.
Nhà thơ Vị Xuyên đã không cách mạng được
cuộc đời ông, quanh đi quẩn lại ông vẫn ở trong
một sự bế tắc, không lối thoát, thế tung hoành ông
đã chẳng tìm ra hay cùng lắm một sinh hoạt nào
đó để giúp vợ con nâng cao mức sống gia đình,
ông cũng không đương nỗi.
Một điểm mà người ta có thể khen phục ông, và
cũng để đánh giá con người ông là nhà thơ họ
Trần có một tâm hồn phản tỉnh: ông đã tự nhận
diện, tự phê phán, tự lột trần bằng tất cả tự tín.
Ông đã không ngụy tín, đã không dối lừa mình
cũng như không phĩnh phờ người khác. Đấy
chính là cái liêm khiết đáng cho ta suy ngẫm.
Phải chăng cái bản chất con người ông, hoàn
cảnh của bản thân và xã hội không cho phép ông
xông xáo với đời, tranh đấu vẫy vùng một cách
quyết liệt. Nhưng dù sao ta cũng có thể cảm
thông với Tú Xương một con người thành khẩn và
phản tỉnh, đã biết nhìn nhận tất cả những khuyết
điểm của mình. Lời bày tỏ của nhà thơ vì thế
134
mang tính chất của một tâm sự. Tâm sự luôn luôn
là tiếng nói xuất phát từ chỗ trũng sâu nhất của
lòng người, là tiếng nói trung thực nhất của tâm
tư. Nhưng tâm sự chỉ nhằm nói lên, bày tỏ, không
dễ dàng dẫn tới hành động.
Trong một đêm khuya vắng lặng, lúc cõi tâm linh
nhà thơ lắng đọng, trong ngần, nhà thơ đã thầm
hỏi:
Tình này ai tỏ cho ta nhỉ!
Tâm sự năm canh một ngọn đèn? (Dạ hoài)
Thật chẳng còn gì thiết tha và cảm động hơn vì
đấy là sự thật.
Vả lại, sự đóng góp giá trị của Tú Xương là chính
ở phần thi ca hiện thực, phê phán, có tác dụng cải
tạo xã hội, chỉnh đốn nhân tâm, thế đạo không
phải là không quan trọng như sẽ được tìm hiểu
sau đây.
II. TÚ XƯƠNG TRƯỚC CUỘC ĐỜI
Tú Xương là một nhà thơ. Điều đó hẳn chúng ta
đã công nhận vì ông đã viết nên những bài thơ
thật, những bài thơ có sức rung động lòng người.
Nhưng trước hết, Tú Xương là một con người và
là một con người thì phải sống giữa cuộc đời và
135
sống với con người. Hẳn nhiên, một người đã
tuyệt đối dứt bỏ mọi liên hệ với người thì sẽ
không còn là người nữa và thiết tưởng con người
đó cũng không đáng để cho ta phải nhọc công
bàn đến.
Đằng này, nhà thơ của chúng ta, Tú Xương, đã
sống một cuộc đời thật gắn bó và thiết thân với
người cũng như với quê hương đất nước. Mối liên
hệ đó ở nhà thơ Vị Xuyên, ta thấy chẳng khác mối
liên hệ môi - răng. Xã hội, cuộc đời trước mắt Tú
Xương đã không phải là cái gì bàng quan, xa
cách. Trái lại, nhà thơ đã gắn chặt đời mình vào
đó. Mọi đổi thay, diễn biến, mọi hình ảnh, âm
thanh, sắc màu, ... của cuộc đời đó đều có tác
động vào tâm tư nhà thơ.
Điều này đưa đến một câu hỏi: “Nhà văn có thể
nào thoát li khỏi xã hội mình đang sống để thực
hiện tác phẩm của mình một cách vô thưởng vô
phạt, nhất là có thể nào làm ngơ trước những ưu
tư của thời đại, trước những rên xiết, khổ đau của
tha nhân chăng?(13). Trả lời câu hỏi này tức là trả lời
cho câu hỏi đâu là sứ mệnh nhà văn.
Những người có công với quê hương dân tộc, có
công với nhân loại, được chúng ta ngưỡng mộ,
136
tôn sùng. Các vị cứu tinh như Trần Quốc Tuấn, Lê
Lợi, Nguyễn Huệ … đời đời được dân tộc nhớ ơn,
các tác giả « Đoạn trường tân thanh », « Chinh
phụ ngâm », … đời đời được chúng ta yêu mến.
Vì sao? Vì việc làm, công trình, tác phẩm của các
vị ấy thấm đượm tình dân tộc, tình nhân loại.
Nhà văn, nếu muốn được đón nhận cái vình dự
đó, không thể nào lìa xa con người để thu mình
sống một cuộc đời vị kỉ. Tác phẩm của họ sẽ
không được đồng loại đón nhận nếu nó không
nhằm làm đẹp cho cuộc đời.
Tú Xương sống giữa một xã hội hỗn loạn, đất
nước trong tay người ngoài, dân tộc lầm than,
khốn khổ. Trước cảnh đó, nhà thơ Vị Xuyên đã
dùng vũ khí của mình, ngòi bút, để bắn, đánh vào
những điều phi nhân, những khổ ải bất công,
những đồi trụy … Nói chung là những cái xấu, cái
rỡm của xã hội nhằm tố cáo, vạch trần trước
lương tâm và lương tri con người, để kêu đòi một
sự cải tạo, chỉnh đốn. Trên cương vị một nhà văn,
nhà thơ, đây là một thái độ dấn thân tích cực. Vì
người cầm bút không phải bao giờ cũng có thể
bày tỏ những chống đối của mình.
137
Nhà thơ của chúng ta, Tú Xương, đã chấp nhận
mọi đe dọa, thử thách cũng như nguy hiểm đến
bản thân ông để có thể nói lên, tố cáo cái xấu và
kêu đòi cái tốt đẹp cho cuộc đời, cho quê hương,
đồng bào của ông.
Ta có thể tìm hiểu một vài sắc thái, đặc tính căn
bản trong thái độ đối kháng, tố cáo của nhà thơ.
Thiết tưởng khi tìm hiểu như thế, chúng ta sẽ có
thể nhận xét đúng đắn hơn về giá trị phần thi ca
hiện thực phê phán của Tú Xương.
1.Tú Xương, một người thẳng thắn
Trước một thực tế phũ phàng, không phải ai cũng
có thể nhìn thẳng vào nó để hiểu rõ nó, hiểu đúng
nó và rồi tìm phương cải thiện hay kêu đòi cải
thiện. Bởi lẽ sự phũ phàng, cái gì đã là “chướng
tai gai mắt” thì nó chẳng còn an ủi và khích lệ,
nhất là khi niềm tin vi chính không còn sống mạnh
trong tâm tư con người. Không phải bao giờ, con
người nói chung, nhà thơ, nhà văn nói riêng, cũng
có thể nói thẳng, nói thật. Trái lại người ta dễ có
thái độ ngụy tín để có thể tự hóa giải với lương
tâm của mình, nhất là khi việc bày tỏ ngay thật đó
sẽ đem đến cho mình một đe dọa, một hiểm nguy.
138
Sở dĩ nhà thơ Vị Xuyên có thể hình thành được
những bài thơ hiện thực sống động, có khả năng
tố cáo mạnh mẽ vì ông đã xem xã hội, cuộc đời
như một sân khấu. Nhà thơ đã đến với cuộc đời như
là người đi xem diễn tuồng ở hí trường, thành ra ông
có cái nhìn khách quan và bao quát như trong một
bài thơ tứ tuyệt ông viết:
Nào có ra chi cái lũ tuồng
Cũng hò, cũng hét, cũng y uông.
Dẫu rằng dối được đàn con trẻ,
Cái mặt bôi vôi nghĩ cũng buồn. (Hát tuồng)
Thật vậy, xã hội Việt Nam nói chung, Nam Định
nói riêng thời Tú Xương, là một xã hội hỗn loạn.
Chủ nghĩa thực dân là một hình thái xấu xa mặc
dù nó đã cố gắng tự biện chính hoặc ẩn nấp dưới
những chiêu bài nọ kia. Nó đã làm hư hỏng con
người có khi đến vong thân mất gốc để nó dễ
thao túng, trục lợi. Lại nữa, vua quan Việt Nam lúc
bấy giờ chỉ còn là một cái bung xung, hữu danh
vô thực, bất lực và đầy dẫy những tệ trạng, …
Thử hỏi xã hội đó có khác gì một nơi diễn tuồng?
Nhưng không phải Tú Xương chỉ nói một cách xa
xôi, bóng gió như thế. Trái lại, ông đã vạch trần
139
chỉ trỏ một cách thẳng thắn, cụ thể và nhiều khi
thật chi tiết nữa là khác.
Có ai yêu mến quê hương thắm thiết như Tú
Xương, con sông Vị Hoàng bị lấp vì hiện tượng
đoạt giang, nhà thơ đã đau lòng không ít cho sự
đổi thay đó. Đêm đêm ông vẫn hằng thao thức,
nghĩ tưởng về dòng sông ấy:
Sông kia rày đã nên đồng,
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai.
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai,
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò. (Sông lấp)
Thế mà nhà thơ vẫn không thể dấu che những sự
thật đã xảy ra trên quê hương yêu dấu của ông.
Chắc hẳn ông phải đau lòng lắm khi “vạch áo cho
người xem lưng”, chỉ cho người ta thấy những
điều bất như ý, những xấu xa, những tệ hại nơi
chôn nhau cắt rốn của mình:
Có đất nào như đất ấy không ?
Phố phường tiếp giáp với bờ sông
Nhà kia lỗi phép, con khinh bố,
Mụ nọ chanh chua, vợ chưởi chồng.
140
Keo cú người đâu như cứt sắt,
Tham lam chuyện thở những hơi đồng.
Bắc Nam hỏi khắp người bao tỉnh,
Có đất nào như đất ấy không ? (Đất Vị Hoàng)
Câu thơ được lặp lại theo phép “thủ vĩ ngâm” ở
đây (có đất nào như đất ấy không) không phải vì
nhà thơ thiếu chữ mà đây là tiếng kêu than tức tối
của một người đã hết tình với quê hương. Lời tố
cáo của ông, do đó, không phải là một lời tố cáo
suông, nó còn là một sự kêu đòi, một sự mong
mỏi và đợi chờ … Bởi lẽ người ta chỉ lo âu, băn
khoăn đến một cái gì đó khi người ta đã đặt một
tin tưởng, một kì vọng, một mong ước nào đó ở
nó.
Dẫu vậy, Tú Xương vẫn phải nói ra những sự
thật, những sự thật không tốt đẹp gì nơi quê
hương của ông, hẳn đây là một bổn phận, một sự
thẳng thắn khổ đau của thi sĩ.
Hơn thế nữa, Tú Xương có khi chẳng ngần ngại,
úp mở, nói thẳng ra sự thật một cách trắng trợn
với những tên họ rõ ràng:
Ở phố hàng Song thật lắm quan!
141
Thành thì đen kịt, Đốc thì lang.
Chồng chung vợ chạ kìa cô Bố,
Đậu lạy quan xin nọ chú Hàn. (Phố hàng Song)
Thật vậy, mỗi dịp cuối năm là cơ hội cho những
kẻ giàu có bỏ tiền ra mua địa vị, chức trước cho
dù mình có bất tài vô tướng. Đây là một lề thói đã
trở thành tập quán trong các thời vua chúa hư
hỏng ngày trước. Và cho đến ngày nay, giữa xã
hội chúng ta cũng chưa hẳn đã gột sạch. Câu thơ
của Tú Xương chắc rằng sẽ trở nên bất hủ cho
đến khi nào xã hội vẫn còn có những bất công,
tham nhũng, …:
Nó lại chúc nhau cái sự sang,
Đứa thì mua tước, đứa mua quan. (Năm mới chúc
nhau, bài II)
Nhà thơ Vị Xuyên, về phương diện mô tả, tố cáo
cái xấu, cái rỡm của xã hội, phải được nhìn nhận
là hơn hẳn nhà thơ Yên Đỗ (Nguyễn Khuyến) vì
Tú Xương đã dám vạch mặt, chỉ tên từng nhân
vật, từng mẫu người một cách không sợ sệt,
thẳng thắn, chẳng hạn: một ông huyện dốt nát mà
làm chủ khảo một trường thi, một ông đốc học chỉ
có tài ăn chơi, ông huấn đạo kiêu kì, ông tiến sĩ
142
học dở mà thi đậu, ông tri phủ Xuân Trường hay
ăn hối lộ, ông ấmxấu tướng mà phong lưu … ông
sư mà vẫn phạm tội bị tù như kẻ bất lương, ông
cò đất Hà Nam quá khe khắc đã bị nhà thơ chưởi
khéo, cho ăn đồ dơ và còn nhiều hạng bình dân
hư hỏng, tham lam, kiết cú khác trong rất nhiều
bài thơ.
Ta phải công nhận rằng Tú Xương quả đã gan
lắm mới có thể thẳng thắn tố cáo những kẻ có thế
lực, quyền hành. Phải chăng nhà thơ đã có một
đức tin. Ông tin tưởng mãnh liệt vào công lí, vào
một lẽ phải mà ông đã nhìn thấy. Sở dĩ ông đã
dám bất chấp mọi hiểm nguy có thể đến với mình
vì lương tâm và lương tri của ông không cho phép
ông dửng dưng, mặc kệ với những khổ đau,
những bất công của xã hội. Nhà thơ thấy đó như
là một trách nhiệm bó buộc ông phải nhận lãnh: tố
cáo những tệ trạng của xã hội và kêu đòi cải
thiện. Giá trị làm người của Tú Xương khởi đi từ
sự thẳng thắn của ông đối với cuộc đời vì không
dễ gì “thẳng” giữa một xã hội không còn đâu là
công lí, không còn đâu là lẽ phải. Nếu không là
phi thường thì ít ra Tú Xương cũng là một con
người khác thường.
143
Ta thấy rằng Tú Xương làm thơ không phải để
tiêu khiển, chạy trốn thực tại, xa lánh cuộc đời,
trái lại, ông làm thơ để sống với cuộc đời, sống
cho cuộc đời. Thơ văn của ông là những nhát dao
chém vào bao thói hư, tật xấu của con người. Tú
Xương là một thi sĩ, hẳn nhiên. Nhưng hơn thế,
ông còn là một chiến sĩ chiến đấu cho một lí
tưởng. Thái độ thẳng thắn của nhà thơ Vị Xuyên
còn là một điều liêm sỉ, bởi lẽ ông đã dám chấp
nhận sự thù ghét, nếu có, của những hạng người
mà ông tố cáo chỉ trích. Ông đã không lừa mị họ
bằng những lời ve vuốt, tán tụng.
Tuy nhiên, ta thấy rằng Tú Xương không phải là
người làm đạo đức dạy đời, cũng không xướng
ngôn cho một chủ thuyết mô phạm, ông chỉ thấy
bất bình mà nói lên thôi.
Trong một thời buổi có nhiều giao động mạnh
giữa mới và cũ, bao nhiêu nền nếp kỉ cương
được áp dụng từ xưa bỗng lung lay nghiêng ngả,
bao nhiêu thị hiếu người đời chỉ đổ xô đi tìm vật
dục, thì hẳn nhiên phải có nhiều điều trái tai, gai
mắt, nhiều xấu xa hơn tốt đẹp khiến cho bất cứ ai
còn có chút lương tri đều phải thấy bất bình. Và
nhà thơ Vị Xuyên đã chưa đánh mất phần lương
144
tri đó nên ông đã mạnh dạn tố cáo, lên án tất cả
những gì mà qua cái lương tri ấy ông thấy không
thể nào chấp nhận được.
Thật vậy, nhiều khi sự thẳng thắn của Tú Xương
là một bộc phát tự nhiên, nó như là một phản ứng
lí hóa vậy. Nhận xét như thế, ta sẽ thấy được
thực chất của nhà thơ Vị Xuyên: tâm hồn ông quả
là trong trắng và vô tư. Tú Xương tố cáo những
thói hư tật xấu của người đời không vì một ác ý
nào cả, có lẽ vì thế mà người ta sẽ lặng yên nhận
chịu và để cho ông chỉ trích, vì họ thấy rằng ông
xứng đáng làm việc đó. Và có lẽ họ còn kính phục
ông nữa là đằng khác. Chẳng hạn một người
ngây thơ, không biết vợ mình dan díu với kẻ khác,
bực lòng quá, nhà thơ đã phải kêu hắn ra mà nói:
Thọ ơi mầy có biết hay chăng?
Con vợ mầy kia xiết nói năng!
Vợ đẹp, của người không giữ được,
Chồng ngu mượn đứa để chơi nhăng. (Để vợ chơi
nhăng)
Hay một tên công tử nghênh ngang, ra điều sang
trọng lắm, hắn ta có ngờ đâu là làm thế chỉ tổ cho
người ta cười chê vì mẹ nó chẳng tốt đẹp gì.
145
Không cầm lòng được, ông phải kêu nó mà nhắn
nhủ:
Thôi đừng điếu tráp nghênh ngang nữa,
Thằng tiểu Phù Long nó chửi mầy (14). (Thằng
tiểu Phù Long).
Còn gì bộc trực, thẳng thắn hơn, nhưng không
phải Tú Xương chỉ thẳng thắn đối với những hạng
bình dân mà ngay cả đối với những viên chức,
những ông cử, ông hàn cũng bị đả kích một cách
không kiêng dè:
Sơ khảo khoa nầy bác cử Nhu,
Thực là vừa dốt lại vừa ngu.
Văn chương nào phải là đơn thuốc,
Chớ có khuyên xằng chết bỏ bu. (Ông cử Nhu)
Sống thẳng là sống nguy hiểm nhưng là sống
đẹp, chỉ có những loài đại thụ mới dám vươn
mình lên sống thẳng và mới dám đón nhận bão
táp từ bốn phương. Tú Xương đã không uốn cong
ngòi bút của mình để xuphụ theo các thế lực, hầu
mong vinh thân phì gia. Trái lại, nhà thơ đã thẳng
thắn nói ra sự thực, tố cáo một cách mạnh mẽ
những bất công, thối nát, những hư hỏng, xấu xa
146
của xã hội mình. Ông đã sống, nếu không trọn
vẹn thì cũng đã đạt đến một cao độ, theo tôn chỉ
của một nho gia: “phú quý bất năng dâm, bần tiện
bất năng di, uy vũ bất năng khuất (giàu sang
không ham hố, nghèo khó không đổi thay, uy vũ
không khuất phục)”. Phải chăng nhà thơ Vị Xuyên
đã luôn nhìn lên vùng ánh sáng, những hình ảnh
cao đẹp của đạo lí, của truyền thống dân tộc và
xem đó như là những lí tưởng dẫn đạo cho một
cuộc đời đáng sống.
2.Tú Xương, một người trung thực
Chúng ta hẳn đã biết rằng một nhà thơ hiện thực
không phải là người sao chép thực tại một cách
máy móc. Làm như thế chắc chắn là họ sẽ phản
bội thực tại hay nói cách khác đi họ sẽ « hiện
thực » một cách lệch lạc, sai lầm. Bởi lẽ cái thực
chất, cái bản chất không phải bao giờ cũng sẵn
sàng phơi bày ra trước mắt.
Xã hội thời Tú Xương là một xã hội hỗn tạp, vàng
thau lẫn lộn. Ngay chính chế độ thực dân là cái lò
sản xuất những bình phong, những chiêu bài để
che đậy, ngụy trang (15). Và trong buổi giao thời
đó thì khó mà phân biệt người hiền, kẻ ngu, người
chân, kẻ ngụy, … vì có biết bao nhiêu người “đục
147
nước béo cò” hay “thừa nước đục thả câu”. Nhà
văn phải có một cặp mắt tinh đời mới hi vọng nhìn
thấu suốt được, qua cái lớp vỏ hào nhoáng, lịch
sự, hiền lành, … tốt đẹp đó, một thực chất không
tốt đẹp gì. Bởi thế cho nên một nhà văn, muốn
hiện thực một cách sâu sắc và trung thực, phải
chọc thủng mọi bình phong, mọi mặt nạ, loại bỏ
mọi hình thức đánh lừa. Có như thế, nhà văn ấy
mới làm công việc tố cáo một cách đúng mức,
nghĩa là có trung thực hay không.
Trước hết, đối với việc thi cử, được tổ chức tưng
bừng nhất là khoa Đinh dậu (1897), Toàn quyền
Paul Doumer vừa qua nhận chức, ông ta muốn
biểu dương một khí thế như là để trấn áp bao
người còn ôm ấp mộng của Kì Đồng - Nguyễn
Văn Cẩm trong mưu đồ khởi nghĩa. Quan cảnh
học trò thi với lều chiếu đã được nhà thơ Vị Xuyên
phát họa rất sắc nét. Có thể là sĩ tử ăn mặc tề
chỉnh (ít ra là tề chỉnh theo thời gian tính của nó),
gọn gàng nghĩa là không “lôi thôi” và quan trường
thì hô hét ầm ĩ đến khủng khiếp chứ không “ậm
ọe”, nhưng nhà thơ đã dùng những từ ngữ đó để
diễn tả họ, bởi lẽ Tú Xương đã thấy rõ một sự bế
tắc, một sự quờ quạng, cùng đường của họ. Thi
148
cử có rầm rộ cho lắm rồi cũng chẳng đi đến đâu,
nước mất và dân tộc vẫn phải chịu cảnh nô lệ:
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa. (Lễ xướng
danh khoa Đinh dậu, 1897).
Thực thế, biểu tượng của sự nô lệ là đây:
Long cằm rợp trời quan sứ đến,
Váy lê quét đất mụ đầm ra. (Lễ xướng danh khoa
Đinh dậu, 1897).
Trong một bài thơ khác, hình ảnh lại càng sống
động hơn, sự kiện lại càng chua chát hơn. Nhà
thơ Vị Xuyên đã mô tả một cảnh tượng mà mới
nhìn qua ta thấy không khỏi phì cười, nhưng sau
đó ta sẽ thấy chẳng còn gì thấm thía, xót xa, bi
đát hơn nữa:
Một đàn thằng hỏng đứng mà trông,
Nó đỗ khoa này nó sướng không?
Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt,
Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng. (Giễu người thi
đỗ)
149
Thực chất ở đây là những kẻ đỗ đạt đó tưởng là
vinh dự lắm, tưởng họ sẽ giúp dân, giúp nước, ai
ngờ họ, với áo mũ cân đai, thập thò dưới sân
trong khi thê thiếp của các quan lại thực dân ở
trên ghế cao và … không thèm quay mặt về phía
họ, nghĩa là không có một tương giao nhân vị nào
cả.
Trung thực mà người viết muốn nói ở đây là lột tả
được thực chất, bản chất của sự kiện, nghĩa là
trước hết nhà văn phải ý thức được nội dung ẩn
tàng của vấn đề cũng như cứu cánh của nó để
truyền đạt lại cho người đọc. Và Tú Xương đã ý
thức được bước đi của hàng sĩ tử đỗ đạt kia nên
ông đã nhủ với họ rằng:
Câu văn đắc ý đừng nguây ngẩy,
Chén rượu mềm môi chớ gật gù. (Dặn học trò thi)
vì:
Nhân tài đất bắc nào ai đó?
Ngoảnh cổ mà trông lại nước nhà. (Lễ xướng
danh khoa Đinh dậu, 1897).
và Phan Bội Châu, người mà Tú Xương vô cùng
ngưỡng mộ, đã nói rõ hơn ý nghĩa trên:
150
Giang sơn đã mất, mình khôn sống,
Hiền thánh đâu còn, học cũng hoài.
(Giang sơn tử hĩ, sinh đồ nhuế,
Hiền thánh liêu nhiên, tụng diệc si)(16).
Ta thấy Tú Xương đã thành công vì trước hết ông
không bóp méo sự thật, ông đã diễn tả quan cảnh
trường thi vô cùng rộn rịp, tưng bừng. Nhưng ông
còn đặt sự kiện vào hoàn cảnh quê hương, dân
tộc trong chiều hướng đi tới của lịch sử. Do đó,
ông đã phản ánh một cách trung thực những gì
mà mà ông muốn diễn tả, bày tỏ với người đọc.
Riêng đối với các thói hư tật xấu, nhà thơ Vị
Xuyên đã không ngần ngại vạch trần sự thật,
nhưng trước hết ông ca tụng họ, đưa họ đến một
giá trị như là họ tưởng, rồi nhà thơ mới đặt một
câu hỏi xem tài ba, sự hữu ích của họ là đâu. Bấy
giờ sự thật sẽ nổ tung, mọi manh giáp ngụy trang
không còn sức dấu che nữa. Đấy là nói về các trò
đồng bóng dị đoan mà trong đó ẩn dấu nhiều điều
đồi phong bại tục: sự hư hỏng của các sư sãi
chẳng hạn. Như đã nói, trước hết nhà thơ tỏ ra
biểu đồng tình với họ:
Khen ai khéo vẽ sự lên đồng,
151
Một lúc lên ngay sáu bảy ông.
Sát quỉ ông dùng thanh kiếm gỗ,
Ra oai bà giắt cái khăn hồng.
Cô giương tay ấn tan tành núi,
Cậu chỉ ngọn cờ cạn rốc sông. (Lên đồng)
Nhưng rồi nhà thơ mới nhỏ nhẹ hỏi họ rằng:
Đồng giỏi sao đồng không giúp nước,
Hay là đồng sợ súng thần công? (Lên đồng)
Với câu hỏi đó, Tú Xương đã đánh thức những
người đang mê, đã làm tỉnh trí những người đang
mộng. Thì ra, họ chẳng có tài cán gì như họ
tưởng, họ chỉ quay cuồng trong một trò mê muội
hay tệ hại hơn là nhờ trò “ảo thuật” đó, các ả “gần
gũi” được các sư :
Thấp thoáng bên đèn lên bóng cậu,
Thướt tha dưới án nguýt sư ông.
Chị em thủ thỉ đêm thanh vắng
Chẳng sướng gì hơn lúc thượng đồng (Ông sư và
mấy ả lên đồng)
Tú Xương đã tỏ ra vô cùng trung thực khi ông
diễn tả, cùng một lúc, hình thức và thực chất,
152
song nhà thơ đã không dừng lại ở hình thức, ông
đã vượt qua nó. Do đó, ông đã tố cáo trước công
luận bằng cách chỉ cho người ta thấy cái thực
chất. Giả sử nhà thơ chỉ mô tả cái hình thức thì
ông đã vô tình phản lại tất cả và như thế hẳn ông
đã không phản ánh được sự kiện một cách trung
thực.
Một điểm đáng cho chúng ta chú ý là nhà thơ luôn
luôn tỏ ra băn khoăn về việc giải phóng dân tộc,
về việc cứu nước. Tú Xương bao giờ cũng như
thấy có một câu hỏi ám ảnh mình không dứt,
“Làm như thế, có cứu nước được không?”, khi ông
nhìn vào mọi sinh hoạt của người khác. Điều này
còn giúp ta khẳng định rằng Tú Xương không thể
nào là một người ăn chơi truy lạc vì tâm hồn ông
bao giờ cũng được chiếm ngự bởi những tư
tưởng vì dân tộc, vì quê hương.
Mặt khác, không những nhà thơ Vị Xuyên chỉ diễn
tả một cách trung thực những xấu xa hư hỏng của
xã hội. Trái lại, còn trung thực với những gì tốt
đẹp nữa. Trong một bài văn tế làm hộ cho bà
Phạm Tuấn Phú tế chồng, nhà thơ đã tỏ ra
ngưỡng mộ người quá cố vì quả thực ông Phạm
153
là một nhà nho có tâm huyết, có cốt cách, đạo
đức, ta hãy đọc một đoạn:
Con thơ vợ dại, sống càng thương mà chết lại càng
thương.
Cửa vắng nhà thanh, nghĩ cũng khổ mà nói ra cũng
khổ.
Cầu Trời cầu Phật, nào thiếu cầu đâu,
Tại thuốc tại thầy, hay là tại số.
Nhớ chàng xưa
Cháu giống con giòng
Người kim chất cổ.
...
Trừ ông cử, ông tú, ông đồ chi ngoại, phường
ngựa xe, điếu tráp ít chơi
Lấy câu văn, câu thơ, câu phú làm vui, thú cờ bạc
rượu chè chẳng mộ. (Văn tế làm hộ bà Phạm
Tuấn Phú tế chồng).
Ta thấy rằng tâm hồn Tú Xương quả như một tấm
gương, cái gì được chiếu rọi qua đó đều có một
phản ánh rõ ràng, thực và giả lại được phần minh.
Cái gì tốt đẹp sẽ có một phản ánh tốt đẹp, cái gì
154
bề ngoài trông tốt đẹp mà bên trong xấu xa sẽ
cũng có một phản ánh đúng như thế.
Qua phần trình bày giản đơn ở trên, chúng ta có
thể rút ra một vài nhận xét. Trước hết, một nhà
văn muốn hiện thực xã hội một cách sâu sắc và
trung thực không phải anh ta chỉ “chụp ảnh” cái xã
hội đó là đủ, nghĩa là nhà văn không phải chỉ cần
liệt kê tất cả những gì đập vào giác quan của
mình. Trái lại, nhà văn phải phân tích, xong rồi
phải chọn lựa những khía cạnh đặc biệt, thiết yếu
cần phải được hiện thực. Chính ở sự chọn lựa đó,
chúng ta thấy được phần nào chủ trương và thái
độ của nhà văn.
Hơn nữa, nhà văn còn gởi gắm những suy tư chín
chắn của mình cũng như những nhận xét sắc bén
riêng. Có như thế, nhà văn mới có thể cung hiến
cho người đọc những dữ kiện để họ có thể thấy
được những mặt trái, mặt sau của sự kiện và đấy
chính là vấn đề then chốt đánh giá trình độ hiện
thực, phê phán, tố cáo của một nhà văn.
Mặt khác, nhà văn dù khách quan đến đâu trong
việc mô tả, nhà văn cũng vẫn là một con người,
sống trong một hoàn cảnh, một xã hội, nhà văn
155
cũng vẫn có những trách nhiệm đối với xã hội đó
như mọi người khác.
Ở đây, nhà thơ Vị Xuyên không những chỉ phản
ánh trung thực những sự kiện xã hội, ông còn kí
thác vào thơ văn tâm sự và chí hướng của mình.
Điều này có nghĩa là nhà thơ hiện thực không
phải chỉ để hiện thực , mô tả một thói hư tật xấu
không phải chỉ để mô tả mà thôi. Trái lại, nhà thơ
đã bộc lộ một cách kín đáo chủ trương, quan
niệm cũng như lí tưởng dẫn đạo của chính mình.
Tú Xương đã ý thức được trách nhiệm của chính
ông trong khi cầm bút mô tả xã hội, vạch trần
những tệ đoan, tố cáo những điều phi nhân,
những giả trá, những lố lăng, mê muội của xã hội
mà ông đang hiện diện trong đó.
Ta thấy rằng nhà thơ của chúng ta, Tú Xương, đã
chẳng những trung thực với sự kiện được diễn tả,
trung thực với thực chất của chúng, Tú Xương
còn trung thực với chính mình, cũng như trung
thực với những nguyện vọng, mong ước của con
người nói chung và người Việt Nam nói riêng
trong một giai đoạn đen tối của lịch sử dân tộc.
Qua hai đặc tính thẳng thắn và trung thực vừa
được trình bày ở trên, Tú Xương xứng đáng được
156
gọi là chứng nhân của một giai đoạn lịch sử Việt
Nam thời thuộc Pháp.
3.Tú Xương, một chứng nhân
Không phải ai cũng có thể là một chứng nhân tốt
cho một thời đại, một giai đoạn lịch sử nào đó.
Bởi lẽ ngoài cái vốn kiến thức sâu rộng để có thể
hiểu được các nguyên nhân xa gần của một sự
kiện, kẻ đảm nhận vai trò này còn phải có một vài
đức tính khác không kém thiết yếu.
Trước hết, chứng nhân phải là một người trung
thực, phản ánh sự kiện một cách đúng đắn và
phải là một người can đảm, dám nói lên sự thật
một cách thẳng thắn.
Mặt khác, chứng nhân cũng cần phải có khả năng
hiểu vấn đề, hiểu mặt trái, mặt sau của nó để có
thể đưa ra những nhận xét xác đáng. Riêng đối
với nhà văn, họ còn phải có khả năng sáng tạo và
sử dụng ngôn ngữ sao cho thích hợp, diễn tả
được trọn vẹn ý tưởng của mình, nói khác đi là
làm sao có thể gởi đến người đọc tất cả những gì
mà nhà văn muốn gởi đến họ.
Nhà văn không phải là một viên biện lý, nhà văn
sử ngôn ngữ một cách gián tiếp. Ngôn ngữ đối
157
với nhà văn như một chiếc cầu, nhà văn phải “bắc
cầu” thế nào để cho người đọc có thể đi đến đích.
Vì rằng sự thật nhiều khi bị giấu che, một vết bẩn
tự nó là một kháng tố chống lại lòng yêu cái thanh
khiết. Do đó, một nhà văn, muốn hiện thực để tố
cáo những hư hỏng, xấu xa của xã hội, phải có
một ý thức sâu sắc về cái tốt đẹp. Có như thế nhà
văn mới vững tin ở việc mình làm và đấy chính là
tiềm năng, nội lực mà nhà văn cần đến để có thể
hoàn thành sứ mệnh của mình một cách tốt đẹp.
Chúng ta cần thấy rằng mọi hình thức ngụy trang,
đơn giản cũng như tinh vi, phức tạp, đều là vũ khí
của kẻ yếu.
Trước nhất, một người không đủ sức gìn giữ thỏi
vàng mình có, người ấy phủ lại bằng đất, bằng vôi
chẳng hạn. Đấy là trường hợp có chính nghĩa mà
lại không có sức bảo vệ cái chính nghĩa của mình.
Trường hợp “Mẹ Mốc” của nhà thơ Yên Đỗ
(Nguyễn Khuyến), nàng đã tự che giấu nhan sắc
để tránh bất trắc trong việc đi tìm chồng của nàng.
Nhưng không phải chỉ có những kẻ thế cô lực
thiểu như vậy mới sử dụng “nghệ thuật” ngụy
trang, mà cả đến những kẻ đứng ở thế mạnh, thế
tấn công, thế chủ động cũng vẫn sử dụng đến
158
“nghệ thuật” này. Đây là khi kẻ mạnh nói trên lại
yếu kém về mặt lí luận, khi mà họ không có chính
nghĩa, phản lại lương tâm và lương tri con người:
trường hợp thực dân Pháp ở Việt Nam. Người
Pháp mở trường học với khẩu hiệu phát triển văn
hóa, nâng cao dân trí, họ hô hào việc học chữ
quốc ngữ (chữ Việt ABC) nhưng thực chất là họ
muốn tìm người cộng tác, chọn lựa tay sai đắc lực
để khai thác “thực dân” mà thôi. Hoặc giả, người
Pháp thiết lập bệnh viện với chiêu bài bảo vệ sinh
mạng cho người dân, nhưng chủ đích sau cùng
và chính yếu của họ là nhằm duy trì nhân công
cho các hầm mỏ, đồn điền mà họ đang cần.
Xem thế, một chứng nhân lí tưởng phải là người
biết phân tích vấn đề để có thể hiểu rõ những ẩn
tàng sâu kín bên trong. Hiện thực không phải chỉ
là phơi bày mà phải là phơi bày chân lí.
Bây giờ, chúng ta thử xét xem Tú Xương đã thực
hiện sứ mệnh chứng nhân của ông tới một mức
độ nào.
Chúng ta biết rằng một quốc gia thịnh suy phần
lớn được quyết định bởi đường lối giáo dục của
quốc gia đó, tổ chức giáo dục phải phù hợp với
sự phát triển các tài năng mới để mọi người có
159
thể đóng góp vào việc xây dựng thịnh vượng, tiến
bộ chung. Việc học hành thi cử của ta lúc bấy giờ,
thời Tú Xương, chẳng những không nhằm vào
đường thực dụng, chỉ vụ từ chương với những
thi, phú… mà còn có những luật tắc phi lí, những
bất công ở chốn trường thi để rồi chẳng chọn
được người hiền tài ra giúp dân, giúp nước. Trái
lại, những kẻ bất tài vô tướng lại đỗ đạt. Có lẽ họ
nhờ một phép phù nào đó (?). Nhà thơ của chúng
ta, Tú Xương, thấy thế không những ngạc nhiên,
ông còn sửng sốt kêu lên:
Cử nhân cậu ấm Kỉ!
Tú tài con đô Mĩ!
Thi thế mà cũng thi!
Ối khỉ ơi là khỉ! (Than sự thi)
Thử hỏi những người như thế khi họ nắm giữ các
chức vụ điều hành, hướng dẫn, họ sẽ đưa dân
tộc, đất nước đi về đâu. Phải chăng là đưa đến
diệt vong. Nhưng dù sao Nho học cũng mang
chứa trong lòng nó những tư tưởng đạo đức cao
đẹp. Nhà Nho dù tỏ ra bất lực trước hoàn cảnh
mới, vẫn giữ được cái khí tiết, cái cốt cách, cái
liêm sỉ khiến họ không thể nào đi ngược lại
160
nguyện vọng của quốc gia, dân tộc. Thực dân đã
hiểu như thế, chúng đã cho cải đổi việc học, việc
thi và giáo dục bây giờ chỉ tạo ra những tay sai
đắc lực cho mưu đồ khai thác trục lợi của thực
dân:
Đỗ đâu hết cả nhà thông kí
Phần của nhà nho có một li (Bảo nhau đi thi)
Giáo dục cứ trên đà đi xuống, thực dân Pháp đã
tận dụng mọi hình thức ru ngủ và không quên sử
dụng tiền bạc, vật chất để mua chuộc. Người ta
không còn học để sống một cách đáng sống mà
chỉ học sao để hái ra tiền:
Đạo học ngày nay đã chán rồi,
Mười người đi học chín người thôi.
Cô hàng bán sách lim dim ngủ,
Thấy khóa tư lương nhấp nhổm ngồi.
Sĩ khí rụt rè gà thấy cáo,
Văn chương liều lĩnh đấm ăn xôi. (Than đạo học)
hoặc:
Nào có ra gì cái chữ nho,
Ông Nghè ông Cống cũng nằm co.
161
Sao bằng đi học làm ông Phán,
Tối rượu sâm banh sáng sữa bò. (Chữ nho)
Đọc thơ Tú Xương, dù bài nào cũng pha vẻ bông
đùa, ta thấy có một sự ngao ngán tràn trề, một cái
gì chua chát, lần thấm vào nơi thẳm sâu trong
lòng ta. Phải chăng nhà thơ đã u hoài, ray rứt
nhiều lắm, khổ đau, tức tối nhiều lắm mới hạ sinh
những đứa con với vẻ mặt của thằng hề mà lòng
thì chứa đầy cay đắng.
Từ đó, chúng ta có thể thấy rõ nỗi lòng của nhà
thơ trước tiền đồ dân tộc, trước hướng đi của quê
hương. Nhà thơ mô tả sự thật và ông đã đau đớn
bởi chính những sự thật mà ông đã nhìn thấy, đã
“hiểu” vì ông chưa đánh mất tình tự con người nói
chung, tình tự con người Việt Nam nói riêng.
Và xã hội trong âm mưu đầu độc của thực dân,
những lố lăng kể sao cho xiết, mỗi lần bắt gặp
những “chướng tai gai mắt”, nhà thơ đã chẳng
đặng đừng ghi lại những nét đơn sơ mà đầy đủ
tính chất hợm hĩnh, giả hình, dối trá, ti tiện của nó.
Ta có thể kể ra một số đề tài hay đúng hơn là
những sự việc trái ngang đã đập vào nhãn quan
của nhà thơ, khiến ông đã phải bật cười lên trong
khi lòng ông xót xa, đau đớn không biết là bao
162
nhiêu: “Tiến sĩ giấy”, “Chế ông đốc học”, “Giễu
ông đội C”, “Chế ông huyện D”, “Bỡn ông ấm Kế”,
“Bỡn ông Bát”, “Sư ở tù”, “Bợm già”, “Lấy lẻ”,
“Làm lẻ thứ tư”, “Lên đồng”, … và rất nhiều những
bài thơ “chế”, “bỡn” khác của nhà thơ đối với bao
hạng người hư hỏng trong xã hội.
Chúng ta đã phải nhận rằng nhà thơ đã mang
nặng trong ông một nỗi thao thức triền miên rằng
thế nào là một con người đúng với ý nghĩa của
nó. Chính vì thế mà Tú Xương đã không ngừng
nhận định, phê phán về lẻ phải trái của người đời.
Tú Xương luôn luôn đứng trên quan điểm đạo
đức để xem cái nào là cao đẹp để đề cao, cái nào
là xấu xa, đồi trụy để “chế”, “bỡn”, “đùa”, “giiễu”,
… làm thế phải chăng Tú Xương muốn có một xã
hội tốt đẹp hơn, muốn có những lòng người chân
thiện hơn và phải chăng đấy là cái xã hội trong đó
gồm những con người mà nhà thơ hằng ngưỡng
mộ và cầu mong cho tất cả loài người trong một
trở thành toàn diện sẽ là:
Chúc cho khắp cả hết trong đời
Vua quan sĩ thứ người muôn nước
Sao được cho ra cái giồng người! (Năm mới chúc
nhau, bài V)
163
Xã hội bệ rạc, hư đốn là vậy, nhưng không phải
nhà thơ chỉ nhìn thấy có thế. Tú Xương còn nhìn
về tương lai của đất nước, ngày mai của dân tộc
và rồi ông gióng giã những hồi chuông báo nguy,
thức tỉnh lòng người.
Chúng ta biết rằng thực dân Pháp, khi đã gần xây
được cơ sở, guồng máy cai trị của họ ở Việt Nam
và với chủ trương thực dân, họ đã cố gắng bằng
mọi phương tiện để khai thác, vơ vét càng nhiều
càng tốt, tài nguyên trên đất nước này. Paul
Monet, một người Pháp không thực dân, đã tố
cáo những tàn ác của thực dân, và đây là câu
chuyện trong một đồn điền: Họ giết chúng tôi từng
bọn 5, 6 người, và bao giờ cũng báo cáo với tòa
án. “Chết vì sốt rét” không những người cu li
không phải chết vì sốt rét. Họ bị giết như là lũ chó
sói, vì họ chỉ là một đàn cừu ngoan ngoãn …bọn
chủ đồn điền ở đây tàn ác không thể tưởng tượng
được. Họ làm vua ở đây và không phải theo một
luật pháp nào ngoài sở thích của họ. Họ coi chúng
tôi như loài vật, con nai, con hươu, con chó, con
mèo. Và giết chúng tôi như giết thú vật, họ đánh
đập chúng tôi bằng những gót giầy sắt, không còn
164
cho chúng tôi kêu ca, hoặc biểu lộ sự đau đớn
bằng nước mắt … (17).
Thật vậy, thực dân đồng nghĩa với “duy lợi”, thực
dân chỉ biết có thực dân, chỉ biết có ta mà không
biết có người. Do đó, có việc làm tàn ác nào mà
họ chẳng làm khi nó có “lợi”
Tú Xương trong bài “Lo xa” đã bày tỏ sự lo ngại
của ông trước nạn diệt chủng và âm mưu của
thực dân trong việc dọn con đường bể để chuyên
chở tài nguyên của ta về nước họ.
Giống người có nhẽ sạch sành sanh
Núi non đào mãi lâu dần đổ
Sông bể khơi đường mãi cũng vênh. (Lo xa)
Qua thơ văn Tú Xương, chúng ta thấy lại những
khuôn mặt nham nhở, những mẫu người “bất cố
liêm sĩ” nhan nhãn đó đây trong xã hội ta thời
thuộc Pháp, cũng như chính sách phi nhân, tàn ác
của thực dân trên đất nước này. Nhà thơ Vị
Xuyên đã là một chứng nhân khá quan trọng trong
giai đoạn lịch sử đen tối của quê hương chúng ta
hồi cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX.
Tuy nhiên, ta cũng phải nhận rằng việc tố cáo của
Tú Xương, nhất là đối với chính sách cai trị tàn ác
165
của thực dân chưa lấy gì làm quyết liệt, mạnh mẽ
cho lắm. Phải chăng vì sự kiểm soát gắt gao của
chính quyền thực dân và nhất là bọn mật thám
khiến ông không thể dễ dàng bày tỏ, nói ra tất cả
những điều tai nghe mắt thấy. Dù sao, Tú Xương
cũng đã lột trần được bộ mặt thật của xã hội ta
thời bấy giờ và “thuốc đắng đả tật”, Tú Xương đã
làm chùn bước bao kẻ sa đọa, đang đi vào tội lỗi,
làm chùn bước bao kẻ toan cam tâm đảm nhiệm
vai trò tay sai cho ngoại bang, phản bội quê
hương, dân tộc và nhất là Tú Xương đã cảnh tỉnh
quốc dân chớ quên cái nhục mất nước, cái nhục
nô lệ bằng một giọng văn vô cùng chua chát và
cay đắng nhưng cũng thật nồng nàn và tha thiết.
Và quả thật Tú Xương sống chỉ để làm một chứng
nhân:
Sống lâu, lâu để làm gì nhỉ?
Lâu để mà xem cuộc chuyển vần. (Tự trào)
KẾT TỪ
Thi sĩ của chúng ta, Tú Xương, là một người khá
cô đơn ở trong cuộc đời. Thuở sinh thời, nhà thơ
đã chẳng có mấy ai là tri âm tri kỉ. Và mãi cho đến
bây giờ đây, cũng chẳng mấy ai thấu rõ lòng dạ
166
của Người. Nói thế, có người sẽ hỏi chúng ta:
“Vậy chứ người đàn bà mang tên Phạm Thị Mẫn
ấy không an ủi, chia sẻ với nhà thơ được một
phần nào chăng?”. Vâng “vị thiên thần” đó đã vì
ông trọn đời, đã cho ông tất cả và đến cả quên
mình. Nhưng, chí hướng, hoài bão của nhà thơ
thì người-đàn-bà-trọn-đời-hi-sinh-cho-chồng-con
đó vẫn chưa thấu rõ. Hay có chăng, cũng chỉ mơ
hồ cảm nhận mà thôi.
Ngày nọ, sau khi hình thành một tác phẩm, Tú
Xương liền đem khoe với người bạn đời và chờ
đợi lời phẩm bình, bà Tú chỉ bảo:
Thưa rằng hay thực là hay,
Chẳng hay sao lại đỗ ngay Tú tài!
Xưa nay em vẫn chịu ngài … (Tết dán câu dối)
Chỉ có thế sao! “đỗ ngay Tú tài” là “hay” sao? Thơ
văn còn là máu huyết, tim óc, còn là chí hướng,
mong ước, còn là nỗi u hoài, còn là niềm uất hận
và còn là gì gì nữa chứ? Vì nếu chỉ có thế, những
kẻ đỗ Cử nhân, Tiến sĩ còn “hay” biết chừng nào,
còn cao cả hơn Tú Xương biết bao nhiêu. Do đó,
bà Tú chỉ là người bạn đồng tâm của nhà thơ mà
167
thôi và Tú Xương còn chờ trông một người bạn
đồng chí nữa.
Đấy là chưa nói đến việc Tú Xương đã không thể
thỏa hiệp được với thực tại, thỏa hiệp sao được
khi thực tại đó dẫy đầy những xấu xa, những đê
tiện, sung mãn những bất công, gian trá cho nên
nhà thơ là khách bộ hành cô đơn giữa cuộc đời,
giữa cái huyên náo của phố phường Nam Định.
Và cho mãi đến khi gặp được Phan Bội Châu
(năm 1897), Tú Xương thấy như gặp được mộng
ước của mình. Nhà thơ chờ đợi để được gặp nhà
cách mạng Sào Nam chẳng khác gì Diogène ngày
xưa thắp đuốc đi tìm để được gặp “con người” mà
nhà hiền triết muốn gặp. Và giữa hai kẻ làm nên
sự gặp gỡ đó, phải có một mối dây liên hệ ý nghĩa
nào chứ? Phải chăng vì “đồng thanh tương ứng,
đồng khí tương cầu” mà họ đã gặp nhau và mãi
mãi như được buộc ràng vào nhau.
Một điều ta có thể nói thêm là biết đâu khi cái chết
không đến với Tú Xương một cách sớm sủa, Tú
Xương đã chẳng tham gia cách mạng, đã chẳng
sát cánh cùng với Phan Bội Châu trong mưu đồ
giành lại độc lập tự do cho quê hương dân tộc.
168
Mặt khác, như trên đã nói, Tú Xương sống thật
thiết thân với cuộc đời. Mọi vi động của cuộc đời
đều có tác động vào tâm hồn vô cùng bén nhạy
của nhà thơ. Vậy phải chăng chính vì lòng ưu thời
mẫn thế, chính vì nỗi dằn vặt không nguôi, chính
vì những tra hỏi bất tận về ý nghĩa cuộc đời, thế
nào là con người đúng nghĩa và sống thế nào là
xứng đáng … đã giết chết nhà thơ giữa cái tuổi
đầy nhựa sống!
Và, đến đây, thiết tưởng chúng ta nên đọc, đọc
thật kĩ những câu thơ vô cùng chân thành, tha
thiết mà Tú Xương nhằm gởi gắm cho nhà cách
mạng Sào Nam:
Mấy năm vượt bể lại trèo non,
Em hỏi thăm qua bác hãy còn. (Gởi Thủ khoa
Phan)
Và càng chân thành, gắn bó, cấp bách, thiết tha hơn:
Ta nhớ người xa cách núi sông,
Người xa, xa lắm, nhớ ta không?
…
Khi nhớ nhớ cùng trong mộng tưởng,
Nỗi riêng riêng cả đến tình chung.
169
Tương tư lọ phải là trai gái,
Một ngọn đèn xanh trống điểm thùng. (Nhớ bạn
phương trời)
Nhắc lại sự kiện trên đây, chúng ta có ý muốn nói
rằng người ta sẽ có lí khi bảo nên hiểu Tú Xương
qua hình ảnh người bạn và cũng là đối tượng mà
Tú Xương mến phục, nể vì, ngưỡng mộ, tôn kính,
… Đó là Phan Bội Châu. Kinh nghiệm để “biết”
người này, bình dân Pháp đã diễn tả trong câu
“Hãy nói cho tôi biết bạn thường giao du với ai, tôi
sẽ nói cho bạn biết bạn là người như thế nào”
(Dis moi qui tu hantes, je te dirais qui tu es). Thiết
tưởng với lối xét người như trên, ta sẽ có thể
tránh được sai lầm khi phán đoán về trường hợp
của Tú Xương.
Sau hết, chúng ta thấy rằng cần phải có một quan
điểm hợp lí, thích nghi khi nhìn vào văn chương,
văn học trong thời kì mà nhà văn, nhà thơ không
thể viết những gì mình muốn viết, khi mà tự do tư
tưởng, tự do ngôn luận chỉ còn là “tự do” một
chiều. Bởi lẽ kẻ mạnh đã sử dụng mọi hình thức
ngụy trang để che đậy thực chất phi chính nghĩa
của mình. Do đó, họ sẽ tạo một cái nhìn sai lạc về
170
những gì bất lợi cho họ, những gì phản lại đường
lối chủ trương phi nhân của họ.
Mặt khác, cần phải có một sự khảo đính và hiệu
đính các sáng tác phẩm trong những giai đoạn
này vì không nhiều thì ít những sáng tác phẩm đó
đã bị kiểm duyệt, cắt xén hay sửa đổi, cũng như
cần thiết phải sưu tầm và phổ biến những sáng
tác phẩm đã bị xem là “quốc cấm”.
Trở lại trường hợp Tú Xương, chúng ta thấy rằng
nhà thơ đối với mình đã không ngụy tín, đối với
người, với cuộc đời đã chẳng xu phụ, a tòng. Nhà
thơ đã thẳng thắn tố cáo tất cả, vạch trần tất cả
những gì mà qua nhất điểm lương tâm và lương
tri của mình, nhà thơ thấy bất bình.
Bằng sự thành khẩn và thẳng thắn, Tú Xương đã
gây nên sự cảm mến và kính phục trong lòng
chúng ta. Chúng ta chắc chắn sẽ không tự dối lừa
mình để hiểu lầm về lòng khiết bạch, nỗi thiết tha
với quê hương, dân tộc của nhà thơ.
Và hơn ai hết, nhà thơ biết mình, với bản chất
nghệ sĩ ngông nghênh và kiêu bạc, sẽ dễ dàng bị
ngộ nhận, nhà thơ đã nhắn nhủ:
Tình này ai tỏ cho ta nhỉ?
171
Tâm sự năm canh một ngọn đèn. (Dạ hoài)
Chúng ta có nghe Tú Xương nói gì không? Nhà
thơ đã moi tim óc mình để làm thơ dâng tặng
cuộc đời trong một mong ước duy nhất và chân
thành nhất là đời sẽ đẹp hơn và người đời sẽ tốt
hơn.
Huế, năm 1974
CHÚ THÍCH:
(*) Tú Xương là tên gọi thân mật của nhà thơ Trần
Tế Xương (1870-1907). Trần Tế Xương và
Nguyễn Khuyến là hai nhà thơ hàng đầu Việt Nam
giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX – nửa đầu thế kỉ XX.
(**) Thơ của Tản Đà, Nguyễn Khắc Hiếu. Tản Đà
Vận văn. Hà Nội, Hương Sơn năm 1952, trang
42.
(1) Thơ văn của Tú Xương được người viết trích dẫn
đều theo bản hiệu đính của Trần Thanh Mại và Trần
Tuấn Lộ trong “Tú Xương con người và nhà thơ”. Hà
Nội, nhà xuất bản Văn Hóa, viện Văn Học, năm 1968
vì nhận thấy sự hiệu đính của các tác giả có giá trị.
(2) Theo sự tìm hiểu của các ông Trần Thanh Mại
và Trần Tuấn Lộ, các tác giả này đã tiếp xúc cụ
172
Trần Tất Đạt là con nhà thơ, cũng như các cụ già
đồng thời với nhà thơ.
(3) Yves Berger, Chúng Tôi Không Phải Là
Những Con Người Phản Bội. Express số 25-5-
1964.
(4) Đây là câu ca dao mà quần chúng Nam Định
truyền tụng lúc bấy giờ.
(5) Dùng câu tục ngữ này ở đây, người viết không
có ý mạ lị đám người chơi bời với nhà thơ mà chỉ
để diễn tả một sự kiện: “có qua có lại” giữa những
kẻ bông đùa với nhau.
(6) Tú Xương đi thi từ khi 15 tuổi và tám khoa đó
là: Ất dậu (1885), Mậu tí (1888), Tân mão (1891),
Giáp ngọ (1894) (khoa này ông đỗ Tú Tài), Đinh
dậu (1897), Canh tí (1900), Quý mão (1903) và
Bính ngọ (1906). Tám khoa phải mất ít nhất là 21
năm và nhà thơ thọ không quá 37 tuổi.
(7) Một chính quyền cách mạng thật sự, đáp ứng
được mọi nguyện vọng của dân nước, thiết tưởng
phải xét lại các quan điểm phê bình, vạch trần mọi
thủ đoạn bưng bít, che đậy hoặc bóp méo sự thật
đã xảy ra trong dòng văn học công khai, được
thực dân chấp nhận, bảo trợ và lèo lái (ghi chú
của người viết).
173
(8) Tú Xương Con Người và Nhà Thơ, sđd, trang
36.
(9) Xem chú thích (4)
(10) Đây là hai câu thơ trong bài “Phú đắc” mà
các tác giả “Tú Xương, Con Người Và Nhà Thơ”
đã cho vào phần “Những bài có vấn đề tồn nghi”,
nhưng thiết tưởng dù là của chính nhà thơ Vị
Xuyên, thì hẳn đây là một cách trả lời đích đáng
đối với dư luận.
(11) Đặng Thai Mai, Văn Học Khái Luận (Tài Liệu
tham khảo dành cho Sinh viên Đại học Văn khoa
Sài Gòn), trang 30-31.
(12) Người viết muốn nhấn mạnh.
(13) vấn đề chỉ đặt ra mà không giải quyết vì
phạm vi bài này không cho phép. Mặt khác, nhà
văn cũng có thể toa rập với những trào lưu phản
động, thoái hóa, phi nhân và dĩ nhiên những kẻ đó
sẽ bị đào thải.
14) Phù Long là tên chùa làng. Nói “thằng tiểu
Phù Long nó chửi” là vì nó dám dan díu với mẹ
tên công tử, nó “đ. mẹ” tên công tử. Tú Xương
Con Người và Nhà Thơ, sđd, trang 197, chú thích (3).
174
(15) Xin đọc Nguyễn Văn Trung, Chủ Nghĩa Thực
Dân Pháp Ở Việt Nam: Thực Chất Và Huyền
Thoại, Sài gòn, Nam Sơn năm 1963.
(16) Nguyễn Hiến Lê, Đông Kinh Nghĩa Thục, Sài
Gòn, Lá Bối, năm 1968, trang 32.
(17) Trích dẫn theo Nguyễn Văn Trung trong Chủ
Nghĩa Thực Dân Pháp Ở Việt Nam : Thực chất và
huyền thoại. Sài Gòn, Nam Sơn 1963, trang 41.
SÁCH THAM KHẢO
01. Trần Thanh Mại và Trần Tuấn Lộ. Tú Xương
Con Người và Nhà Thơ, Hà Nội, nhà xuất bản văn
hóa, viện Văn Học, 1961.
02. Trần Thanh Mại. Trông Giòng Sông Vị, Sài
Gòn, Tân Việt in lần thứ tư, 1956.
03. Hoàng Xuân. Trần Thế Xương Thi Tập, Sài
Gòn, Anh Phương, 1960.
04. Lê Dư. Vị Xuyên Thi Văn Tập, Hà Nội, Nam
Ký, 1931.
05. Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề. Việt Nam Ca
Trù Biên Khảo, Sài Gòn, Tác Giả xuất bản, 1962.
175
06. Phan Văn Dật. Ông Tú Xương Với Câu
Chuyện Thi Cử, Huế, tạp chí Đại Học, số 6, năm
1958.
07. Minh Văn và Xuân Tước. Luận Đề Trần Tế
Xương, Sài Gòn, Sống Mới, 1971.
08. Trần Trung Viên và Hư Chu. Văn Đàn Bảo
Giám, Sài Gòn, Mặc Lâm, 1969.
09. Thái Bạch. Thi Văn Quốc Cấm Thời Thuộc
Pháp, Sài Gòn, Khai Trí, 1968.
10. Đặng Thái Mai. Văn Học Khái Luận. Tài liệu
dành cho Sinh Viên Văn Khoa Sài Gòn, k.n..
11. Phan Bội Châu. Tự Phán, Huế, Anh Minh,
1956.
12. Nguyễn Văn Trung, Chủ Nghĩa Thực Dân
Pháp Ở Việt Nam: Thực Chất Và Huyền Thoại,
Sài Gòn, Nam Sơn, 1963.
13. Nguyễn Hiến Lê. Đông Kinh Nghĩa Thục, Sài
Gòn, Lá Bối in lần thứ hai, 1968.
14. Dương Quảng Hàm. Việt Nam Văn Học Sử
Yếu, Sài Gòn, Trung Tâm Học Liệu, 1968.
15. Trần Trọng Kim. Việt Nam Sử Lược, quyển 2,
Sài Gòn, Trung Tâm Học Liệu, 1971.
176
Mục lục
I. Truyện:
1. Một bài tập làm văn lạ .......................................... 3
2. Một lũ điên ........................................................... 10
3. Hai chuyện nhỏ về cọp ........................................ 11
II. Kí:
1. Nhớ mãi món cháo cá nhét (*) của mẹ ............... 15
2. Lần đầu đến Sài Gòn ........................................... 18
3. Mấy kỉ niệm nho nhỏ về 4 năm ấy ...................... 26
4. Mấy kỉ niệm be bé trong 7 năm dạy học tại trường
THPT Nguyễn Trãi (Ninh Thuận) ........................ 31
5. Lần đầu đến Đà Lạt ............................................ 43
6. Một chút kỉ niệm về Hoàng Sa ............................ 47
7. Phan Bội Châu và hai chú cún cưng .................. 49
III. Đoản văn:
1. Lời khấn nguyện của tôi tại Đền thờ Đại Vương
Hưng Đạo - Trần Quốc Tuấn - ở Nam Định ....... 58
2. Chuyện vui buồn cuối tuần ................................. 60
3. Tại sao phải “hơn 300 năm sau”? ....................... 63
4. Thảm họa mất nước của An Dương Vương ....... 65
5. Mấy giai thoại về văn chương ............................. 68
177
6. Mấy kinh nghiệm đối phó với cọp khi đi rừng ..... 73
7. Tại sao lại là năm con gà? ................................. 75
8. Những hủ tục trong dịp tết cần phải loại bỏ ....... 78
IV. Nghị luận:
1. Cùng nhau giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt...82
2. Âm lịch : ưu điểm, nhược điểm, nên làm gì ? .... 89
3. Cách tính năm theo âm lịch ............................... 96
4. Tú Xương trước bản thân và cuộc đời ............... 99