Phụ Lục Kinh A Di Đà Pháp Số Viễn LưuPhụ Lục Kinh A Di Đà Pháp Số Viễn Lưu 1...
Transcript of Phụ Lục Kinh A Di Đà Pháp Số Viễn LưuPhụ Lục Kinh A Di Đà Pháp Số Viễn Lưu 1...
Phụ Lục Kinh A Di Đà Pháp Số Viễn Lưu
1
Phục Lục Kinh A Di Đà Pháp Số Viễn Lƣu Version 1.0
Email: [email protected]
Website: bachyhuynhde.org
(Tài Liệu Tu Hành Nội Bộ của BYHĐ)
Mục đích của bài viết này là để bổ túc thêm cho bài
viết “Kinh A Di Đà Pháp Số”. Một số mật nghĩa chứa
đựng trong những con số và tên của các vị La-Hán,
Bồ-Tát, và Phật trong Kinh A Di Đà đã được trình
bày. Nhưng quan trọng và khó khăn nhất là sự giải mã
tên của những vị ấy ra thành những luồng điển liên hệ
đến ngũ tạng trong cơ thể. Đỗ tổ sư là người tiên
phong làm công việc này trong tác phẩm “Kinh A Di
Đà”. Ở đây, chúng tôi sẽ trình bày với quí vị những
chi tiết chưa được chia sẻ trong bài viết trước vì e
rằng sẽ quá dài và làm loãng ý chính của kinh.
Mở đầu:
Trong bài viết “Kinh A Di Đà Pháp Số”, chúng tôi
chỉ mới trình bày một số mật nghĩa chứa đựng trong
những con số và tên của các vị La-Hán, Bồ-Tát và
Phật trong Kinh A Di Đà nhưng chưa có dịp trình bày
cách giải mã và những dị biệt giữa bản kinh Phạn và
Hán ngữ. Một thắc mắc lớn cần được giải thích là khi
ngài Cưu Ma La Thập dịch tên những nhân vật này từ
Sankrit qua Hán văn, ngài dịch theo âm của tên hay
theo nghĩa của tên hay cả hai?
Nếu ngài Cưu Ma La Thập dịch theo âm của chữ
Sankrit thì sự lý giải về mật nghĩa của tên, của kinh
bởi những vị tu hành bên Trung Quốc hay Việt Nam
sau này chỉ là sự tưởng tượng cá nhân không có cơ sở
vững chắc, mà lại còn mang tính cách phá hoại Phật
Pháp bằng cách pha trộn Tiên Đạo vào Phật Đạo.
Ngược lại, nếu ngài Cưu Ma La Thập dịch theo
nghĩa của tên từng nhân vật thì mỗi tên có thể có
nghĩa riêng mà người đọc phải hiểu mật nghĩa của nó
thì mới mong hiểu được ý kinh. Nếu như thế thì sự
diễn giải mật nghĩa bằng “Điển Quang” của Đỗ Tổ
Sư trong cuốn “Kinh A Di Đà” là việc làm có cơ sở
vững chắc. Sự lý giải thì tùy theo trình độ tu hành, đắc
pháp, đắc đạo, văn hóa và nghề nghiệp của tác giả nên
sẽ có dị biệt.
Trong bài viết này, chúng tôi sẽ trình bày chi tiết hơn
về cách lý giải tên những nhân vật trong Kinh.
Những điểm cần chú ý trước khi vào đề:
1) Những kinh đại thừa được dịch từ Sankrit, Phạn,
qua Hán Văn bởi nhiều vị tăng Thiên Trúc khác nhau,
khác thời điểm, nhưng có lẽ cùng một nơi Trung
Quốc. Nội dung tuy có chỗ dị biệt nhưng dường như
Phụ Lục Kinh A Di Đà Pháp Số Viễn Lưu
2
tên của các nhân vật dùng trong kinh thì ĐỒNG
NHẤT. Đây là một điểm lạ đáng chú ý! Ví dụ, Xá Lợi
Phất hay Xá Lị Phất, Mục Kiền Liên hoặc Mục Kiều
Liên, hay Văn Thù Sư Lợi đều được các dịch giả
dịch/dùng giống nhau trong mọi kinh Đại Thừa. Duy
chữ “maha”, có chỗ để nguyên “Ma Ha” và chỗ khác
dịch là “Đại”.
2) Số 4 của Ấn Độ và số 5 của Trung Quốc:
Đạo Phật xuất xứ từ Ấn Độ có pháp số là 4, tức tứ đại
(đất, nước, gió, lửa) trong lúc Đạo Tiên của Trung
Quốc có pháp số là 5, tức ngũ hành (kim, mộc, thủy,
hỏa, thổ). Mẫu số chung của 2 pháp số này là 4x5 =
20. Do đó cần để ý khi sử dụng pháp số. Phải biết lúc
nào dùng hệ thống 4 hay 5 cho đúng chỗ. Việt Nam
thì quen thuộc với cả 2 hệ thống nên nhiều lúc dùng
lẫn lộn với nhau. Đông Y căn bản là ngũ hành nên khi
đem mật nghĩa của kinh A Di Đà vào cơ thể thì không
thể tránh được tình trạng pha trộn danh từ, nghĩa lý
của hai hệ thống Tiên và Phật gia … tuy nhiên lý của
mật nghĩa thì đồng nhất vì cơ thể thì chỉ có một.
Giải mã tên của các vị La-Hán, Bồ-Tát và Phật:
Bản kinh A Di Đà dùng ở đây được Ngài Pháp Sư
Cưu Ma La Thập đời Dao Tần dịch từ tiếng Phạn qua
tiếng Hán. Tiếng Việt là âm Hán Việt. Rồi được các
sư dịch ra tiếng Việt.
Mật nghĩa của kinh theo thiển ý được tàng ẩn trong
tên và số của những vị Đại La-Hán, Đại Bồ Tát và
chư Phật mười phương trong bài kinh bằng chữ Hán.
Như đã trình bày trong bài viết “Kinh A Di Đà Pháp
Số”, tên của những vị Phật này đã được ngài Cưu Ma
La Thập dịch qua Hán Ngữ một cách tài tình, hàm
chứa lý lẽ cao siêu và được sắp xếp theo một cách rất
thứ tự và logic theo lý đạo tu hành. Vì thế chúng ta
cần trả lời cho câu hỏi: nguyên thủy kinh A Di Đà
bằng Phạn Ngữ đã có tàng ẩn những mật ý đó hay
không?
Với một người thông thạo chữ Phạn, chữ Hán và văn
hóa 2 nước Ấn Độ và Trung Quốc thì câu trả lời trên
chắc không khó cho lắm. Rất tiếc là chúng tôi không
rành Phạn Ngữ và văn hóa Ấn Độ. Tuy nhiên không
vì thế mà chúng ta không thể tìm ra câu trả lời. Bằng
cách quan sát tỉ mỉ giữa 2 bản kinh A Di Đà Phạn và
Hán, chúng ta có thể kết luận là ngài Cưu Ma La Thập
đã dịch tên những vị Phật này bằng nghĩa hay bằng
âm. Nếu bằng nghĩa thì rõ ràng ngài Cưu Ma La Thập
muốn duy trì nguyên bộ ý nghĩa từ Phạn qua Hán ngữ.
Dịch tên theo nghĩa thì khó khăn gấp bội phần so với
việc dịch tên theo âm mà không cần giữ ý.
Sau khi tra cứu và so sánh tên các vị La-Hán, Bồ-Tát
Phụ Lục Kinh A Di Đà Pháp Số Viễn Lưu
3
và Phật giữa Phạn và Hán ngữ, chúng tôi kết luận rằng
Ngài Cưu Ma La Thập đã dịch từ Phạn qua Hán ngữ
theo Nghĩa chứ không theo Âm. Vì Phạn và Hán ngữ
là 2 ngôn ngữ cổ của hai nước lớn Ấn Độ và Trung
Quốc, ráp ranh giới, cùng gốc Á, nên ngôn ngữ tuy
khác nhau nhưng có thể có chung đặc tính là tượng
hình và độc âm. Vì thế có những tên dịch sát tưởng
như là dịch theo âm và cũng có nhiều chữ dễ dàng
nhận thấy là dịch theo nghĩa.
Dưới đây xin cử vài ví dụ về Dịch Theo Nghĩa:
Vấn đề dịch chữ “maha” trong Phạn ngữ.
Thử xét 2 tên dưới đây: mahakasyapena (Ma Ha Ca
Diếp) và mahamerunama tathagato (Đại Tu Di Phật).
Chữ “maha” trong tên “mahakasyapena” được dịch
là “MA HA,摩訶”. Trong lúc cũng chữ “maha” đó ở
tên “mahamerumana tathagato” được dịch là “ĐẠI,
大”. Hai tên này vì thế có ý nghĩa khác nhau. Có
nhiều nơi Việt dịch là Đại Ca Diếp và Đại Tu Di Phật
nên sai lạc ý nghĩa!
摩訶迦葉 mahākāśyapena
Ma Ha Ca Diếp: thuộc tạng Phổi (kim).
Ma: gần với Như Lai, con ma.
Ha: quát mắng
Ca: ca, tiếng đệm
Diếp: lá phổi, lá cây
大須 彌佛 mahāmerurnāma tathāgato
Đại Tu Di Phật:
Đại: to lớn
Tu: râu
Di: đầy.
Vài ví dụ khác:
文殊師利 法王子 mañjuśriyā ca kumārabhūtena
Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử
大明佛 mahāratnaketur nāma tathāgataḥ
Đại Minh Phật. (nama tathagatah = phật)
Đại Minh (2 âm) được dịch từ maharatnaketur (6 âm)
寶相佛 śuddharaśmiprabho nāma tathāgataḥ
Bảo Tướng Phật:
Bảo Tướng (2 âm) được dịch từ suddharasmiprabho
(6 âm)
Ở cuối bài chúng tôi có để toàn bộ tên của 38 vị La-
Hán, Bồ-Tát và Phật cho các bạn dễ dàng tham khảo.
Cách tìm mật nghĩa trong tên của các vị La-Hán,
Bồ-Tát và Phật:
Phần này thì khó hơn phần giải mã tên của các vị Bồ
Tát bởi vì nó đòi hỏi nhiều điều kiện nơi người phân
tích: trực giác bén nhạy, trình độ tâm linh tu hành,
kiến thức về Phật, Tiên đạo, đông y, v.v..
Phụ Lục Kinh A Di Đà Pháp Số Viễn Lưu
4
Ở đây chúng tôi xin phân tách 2 tên: Xá Lợi Phất và
Văn Thù Sư Lợi để làm ví dụ.
長老舍利 弗 śāriputreṇa
Trưởng Lão Xá Lợi Phất:
長老: Trưởng Lão = người lớn, người dẫn đầu.
舍利 : Xá Lợi: tro cốt của Phật. Ngọc Xá Lợi.
弗:Phất: người giác ngộ.
Vì thế Trưởng Lão Xá Lợi Phất có mật nghĩa là cục
ngọc xá lợi trong đầu của người tu đắc đạo, còn gọi là
Tự Tánh Di Đà, hay là Hồn. Chữ này thì dễ đoán vì
ai cũng quen thuộc với chữ ngọc Xá Lợi.
文殊師利 法王子 mañjuśriyā ca kumārabhūtena
Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử
Văn: hòa nhã, văn tự
Thù: cắt đứt, đoạn tuyệt, khác biệt,
Sư: nhiều, đông đúc, thầy giáo, sư sãi
Lợi: lợi ích, sắc nhọn
Pháp: giáo lý đạo phật, giỏi
Vương: vua
Tử: con
Gom những chữ Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử lại
chúng ta nhận thấy đây là một vị có chức năng lớn,
quan trọng, một luồng điển chánh đại diện cho nhiều
luồng điển khác. Nhưng vì trước đó đã đọc sách
“Kinh A Di Đà” của Đỗ Tổ Sư nên đã biết Tổ dịch là
Vía. Nhưng chúng tôi có thắc mắc tại sao Tổ lại chọn
như vậy?
Nhờ chữ “Thù” là chia cắt, đoạn tuyệt nên trong lúc
suy gẫm, trực giác gợi ngay một hình ảnh: khi mới
sanh ra đời, nhâm đốc mạch bị gián đoạn, hồn vía xa
lìa, phàm tâm che khuất chân tâm! Nếu Xá Lợi Phất là
Hồn, là Chân Tâm đại diện cho nhóm các vị La-Hán ở
trên thì đây phải là Vía, luồng điển đứng đầu những
luồng điển Bồ-Tát khác đại diện sự sinh hoạt của con
người tức là phàm tâm.
Tiếp tục dùng phương pháp lý luận như trên, chúng
tôi đã tuần tự giải mã mật nghĩa tên các vị Phật trong
bài này theo trình độ hiểu biết giới hạn mình.
Bổ Túc Kinh A Di Đà Pháp Số:
Phần đầu kinh: Như Thị Ngã Văn …
Một thuở nọ, tại vườn Cấp Cô Độc, Đức Phật cùng
1250 vị tỳ kheo gồm các vị: 16 đại A-La-Hán:
Xá Lợi Phất, Ma Ha Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp,
Ma Ha Ca Chiên Diên, Ma Ha Câu Hi La, Ly Bà Đa,
Châu Lợi Bàn Đà, Nan Đà, A Nan Đà, La Hầu La,
Kiêu Phạm Ba Đề, Ca Lưu Đà Ni, Ma Ha Kiếp Tân
Na, Bạc Câu La, A Nậu Lâu Đà, và 4 Bồ Tát là:
Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử, A Dật Đa,
Phụ Lục Kinh A Di Đà Pháp Số Viễn Lưu
5
Kiền Đà Ha Đề, Thường Tinh Tấn.
Đây là hình ảnh mô tả những luồng điển chánh trong
cơ thể con người. Tổng cộng có 1250 vị tỳ kheo chia
đều cho ngũ tạng. Mỗi tạng có 50 vị tỳ kheo. Chia làm
3 phần hạ, trung, thượng. Hạ thừa có lục phủ tượng
trưng bộ phận tiêu hóa và bài tiết, trung thừa có ngũ
tạng tượng trưng cho sinh hoạt tâm lý sinh lý và
thượng thừa có ngũ hành tượng trưng cho sinh hoạt
của não bộ và thần kinh.
Bốn vị Bồ Tát và mười sáu La Hán đại diện 2 nhóm
tượng trưng cho thân và tâm. Với Văn Thù Sư Lợi
Pháp Vương Tử là luồng điển vía (âm) dẫn đầu nhóm
thân để đối với vị dẫn đầu nhóm tâm là Xá Lợi Phất,
luồng điển hồn (dương). Nên chi việc Tu hành là làm
sao cho thân tâm hợp nhất, tức là hồn vía tương hội.
Thân tứ đại (đất nước gió lửa) được cai quản bởi 4 vị
Bồ Tát hay 4 luồng điển chánh ở phần hạ thừa (bụng)
để duy trì và nuôi sống cơ thể. Phần Tâm thì được cai
quản bởi 16 vị La-Hán dẫn đầu là Xá Lợi Phất tới A
Nậu Lâu Đà.
Tên Mật Nghĩa Tứ Đại N. Hành
1 Văn Thù Sư Lợi Vía Gió Kim
2 A Dật Đa Điển lạnh Nước Thủy
3 Kiền Đà Ha Đề Điển nóng Lửa Hỏa
4 Thường Tinh Tấn Điển bao tử Đất Thổ
1 Xá Lợi Phất Hồn, tự tánh Lửa Hỏa
2 Mục Kiền Liên Điển mắt Lửa Hỏa
3 Maha Ca Diếp Điển phổi Gió Kim
4 Ca Chiên Diên Điển gan Lửa Mộc
5 Maha Câu Hi La Điển gan Lửa Mộc
6 Li Bà Đa Điển tâm Lửa Hỏa
7 Châu Lợi Bàn Đà Điển thận Nước Thủy
8 Nan Đà Điển thận Nước Thủy
9 A Nan Đà Điển thận nóng Lửa Hỏa
10 La Hầu La Nước miếng Nước Thủy
11 Kiêu Phạm Ba Đề Điển thận nóng Lửa Hỏa
12 Tân Đ. L. P. L. Đọa Điển nước óc Nước Thủy
13 Ca Lưu Đà Ni Điển bao tử Đất Thổ
14 Maha Kiếp Tân Na Điển bao tử Đất Thổ
15 Bạc Câu La Điển bộ bài tiết Nước Thủy
16 A Nậu Lâu Đà Điển xương Gió Kim
Trên đây là bảng giải mật nghĩa tên của 20 vị La Hán
và Bồ Tát dựa theo trị số tứ đại và ngũ hành.
Nhiệm vụ và sự hoạt động của các vị La Hán, Bồ Tát
kể trên đã được tả tỉ mỉ trong “Kinh A Di Đà” của Tổ
Đỗ Thuần Hậu nên không cần lập lại ở đây.
Phần Giữa Kinh: Mô tả Cấu Trúc và Công Đức của
cõi Cực Lạc.
Cách đây 10 vạn cõi ức Phật về phương Tây, có một
cõi Phật tên là Cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.
Cõi thứ 10, D10, tức là Nê Hoàn Cung hay Não Bộ là
vị trí của cõi Cực Lạc.
Phụ Lục Kinh A Di Đà Pháp Số Viễn Lưu
6
Bắc
Na
m
Tây
Biểu Đồ Phương Hướng
Đông
Bắc
Nam
TâyĐông
13
Vĩ Lư
Long Hổ
Mệnh Môn
Giáp Tích
Huyền Xu
Thần Đạo
Đào Đạo
Thiên Trụ
Ngọc Chẩm
Bách Hội
10
1
9
Chín Phương Trời
Mười Phương Phật
Bảy LX, Cửu Khiếu
Nê Hoàn
Cõi cực lạc được mô tả là phần tủy của não bộ, nằm
ở nê hoàn cung. Bên ngoài được bao bọc bởi 7 lớp lan
thuẫn (râu tóc), 7 lớp la võng (da, thịt, mỡ), và 7 lớp
hàng thọ (gân, xương). Khi vào được phần tủy não thì
nơi đây có đủ 4 báu là thường lạc ngã tịnh tức là tánh
chất của niết bàn. Ở nơi đây có đủ thứ tiếng nhạc của
7 loại chim với 7 màu sắc khác nhau. Nhân dân cõi
Cực Lạc có tuổi thọ vô lượng v.v.. Muốn vào tới
được cõi này thì phải dụng nước của tám công đức.
Nghĩa là muốn tới được cõi Di Đà, ngày xưa lúc lập
kinh A Di Đà, tỳ kheo phải tu thiền tứ niệm xứ, phải
dụng công đức của bát chánh đạo mới phá vỡ được 3
lớp vỏ bao bọc cõi Cực Lạc, tức là tánh mệnh song
tu. Ngày nay gần hai ngàn năm sau, chúng ta lại được
Đức Diêu Trì Kim Mẫu nhắc tánh mệnh song tu với
thiền pháp lý vô vi và bát chánh đạo.
Cõi Cực Lạc được bao bọc bởi thất trùng lan thuẫn,
thất trùng la võng, thất trùng hàng thọ = 7 (lan thuẫn,
la võng, hàng thọ) = 7 lớp 3 hàng là 10, cũng là số của
cõi Cực Lạc.
Hằng ngày từ sáng sớm, nhân dân xứ Cực Lạc nhặt
hoa trời đi cúng chư Phật mười phương …, nơi Cực
Lạc có hoa sen nở đủ màu đỏ vàng trắng xanh, và
tiếng nhạc thánh thót cả ngày nhắc nhở nhân dân
hướng về tu hành … đây là trạng thái của thiền giả khi
thông được bộ đầu tức cột tủy sống. Nên lúc ngồi
thiền nhắm mắt sẽ thấy ánh quang chớp nháng đủ màu
như sen nở, tai nghe tiếng điển vang rền như tiếng
nhạc và khí chạy đều khắp cả người … khiến hành giả
vào định và quên đi chuyện đời.
Vì công đức ích lợi trên nên đức Phật khuyên thiện
nam tín nữ nên nguyện sanh về cõi ấy … tức là hãy
lập nguyện tu về cõi Cực Lạc.
Điều kiện để được vãng sanh cõi Cực Lạc là nhất
tâm bất loạn từ 1, 2, 3, 4, 5, 6 cho tới 7 ngày tức là
cách dùng 7 luân xa để điều chỉnh 13 tầng tâm thức từ
nhị nguyên qua nhất nguyên theo biểu đồ sau:
LX Tâm Thức NPNTBL
7 D13 7 ngày
Phụ Lục Kinh A Di Đà Pháp Số Viễn Lưu
7
6 D11, D12 6 ngày
5 D9, D10 (cõi Cực Lạc) 5 ngày
4 D7, D8 4 ngày
3 D5, D6 3 ngày
2 D3, D4 2 ngày
1 D1, D2 1 ngày
Note: NPNTBL: niệm phật nhất tâm bất loạn.
Một ngày nhất tâm bất loạn nghĩa là gì? trong một
ngày có đủ chuyện phải làm: ngủ nghỉ, ăn uống, tắm
rửa, làm việc, ngồi thiền, tụng kinh? Do đó chữ một
ngày nhất tâm bất loạn theo thiển ý hàm nghĩa hành
giả duy trì được trạng thái định cả trong lúc ngồi thiền
và lúc không thiền. Vì thế mới có hai danh từ Đại
Định và Tiểu Định. Đại Định là định 24/24, còn Tiểu
Định là định trong lúc ngồi thiền!
Cho nên ở đây nói đến trạng thái cơ thể trong người,
với kinh mạch thông suốt, tâm thức hành giả trụ sâu
được vào trong tủy não một cách tự nhiên 24/24,
không cần phải cố gắng như vận công, trì chú, tụng
kinh, v.v…
Phần Cuối Kinh:
Đoạn cuối kết thúc Kinh A Di Đà là đoạn ca tụng
công đức của kinh. Trong đoạn này Kinh nói có vô
lượng chư phật ở mười phương xuất hiện ca tụng tán
thán Kinh A Di Đà. Sau đó Kinh nêu tên những vị
Phật tiêu biểu sáu phương (Đông, Tây, Nam, Bắc,
Thƣợng, Hạ) như sau:
Đông có 5 vị: A-Súc-Bệ (Bất Động), Tu-Di Tướng,
Đại Tu-Di, Tu-Di Quang.
Nam có 5 vị: Nhật Nguyệt Đăng, Danh Văn Quang,
Đại Diệm Kiên, Tu Di Đăng, Vô Lượng Tinh Tấn.
Tây có 7 vị: Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Tướng, Vô
Lượng Tràng, Đại Quang, Đại Minh, Bảo Tướng,
Tịnh Quang.
Bắc có 5 vị: Diệm Kiên, Tối Thắng Âm, Nan Trở,
Nhật Sanh, Võng Minh.
Hạ có 6 vị: Sư Tử, Danh Văn, Danh Quang, Đạt Ma,
Pháp Tràng, Trì Pháp.
Thƣợng có 10 vị: Phạm-Âm, Đại Diệm, Tú Vương,
Kiến Nhất Thiết Nghĩa, Hương Quang, Hương
Thượng, Tu Di Sơn, Ta La Thọ Vương, Tạp Sắc Bửu
Hoa Nghiêm, Bửu Hoa Đức.
Qua cách dịch những tên gọi của những phương
Đông, Tây, Nam, Bắc, Thượng, Hạ, chúng ta nhận ra
ngay những tên này chứa ẩn ý. Ví dụ phương Đông,
theo thuyết ngũ hành thuộc Mộc, tượng là rừng cây,
núi rừng. Quả nhiên các vị Phật ở Phương Đông phần
lớn đều mang tên có chữ Tu-Di, là núi Tu-Di. Tương
tự, phương Nam thuộc hỏa nên những vị Phật phương
này có chữ Đăng là đèn, là lửa!
Phụ Lục Kinh A Di Đà Pháp Số Viễn Lưu
8
Từ đây chúng ta dễ dàng nhận ra Đông, Tây, Nam,
Bắc, Hạ Phương tượng cho Mộc, Kim, Hỏa, Thủy,
Thổ tức ngũ hành. Mỗi nơi mỗi hành riêng biệt làm
chủ.
Tứ Đại Ngũ Hành
Đất Kim
Nước Thủy
Gió Mộc
Lửa Hỏa
Hạ Phương Thổ
Thượng Phương là Đầu, là nơi mà ngũ khí triều
nguyên, tức là nơi qui tụ tinh túy của ngũ hành. Nên
chi nơi đây có tới 10 vị Phật. Nếu phân tích kỹ sẽ thấy
mỗi hành có 2 vị chia đều cho âm dương.
Phạm Âm, Kiến Nhất Thiết Nghĩa Thủy
Đại Diệm, Tú Vương Hỏa
Hương Quang Hương Thượng Kim
Tu Di Sơn, Ta La Thọ Vương Mộc
Tạp Sắc Bửu Hoa N., Bửu Hoa Đ. Thổ
Hạ Thượng phương cộng lại là 6+10 = 16 = 4 x 4,
vừa vặn 4 tổ Tứ Đại.
Đông, Nam, và Bắc mỗi phương có 5 vị. Nhưng
riêng Tây phương thì lại có 7 vị Phật! Tại sao vậy?
Theo thiển ý, hướng Bắc Nam là từ dưới lên trên, từ
vĩ lư tới nê hoàn cung. Cộng lại có 10 vị hay 10 cõi ức
Phật là vị trí của cõi Cực Lạc Di Đà.
Hành giả tu hành thì đi từ Đông qua Tây, y như thầy
trò Đường Tăng đi thỉnh kinh từ Đông Độ qua Tây
Thiên … có 5 + 7 = 12 chặng tâm thức phải vượt thì
mới đạt tầng tâm thức 13, tức là phật giới.
Hoặc nói một cách khác là đây là ẩn dụ của hành giả
phải phá xong được Thập Nhị Nhân Duyên mới về
được cõi Phật (mười phương Phật).
Khi giải ra những ẩn số này thì mới thấy sự sâu sắc
của người đặt Kinh A Di Đà!
Giờ hãy thử xét biểu đồ Lạc Thơ (Hậu Thiên Bát
Quái) của bên Tiên Gia:
Note: Sở dĩ xét Lạc Thơ mà không xét Hà Đồ (Tiên Thiên Bát
Quái) là vì cõi ta bà hiện giờ là thuộc Hậu Thiên. Tâm thức
loài người hiện giờ là D3/D4 thuộc hậu thiên.
Phụ Lục Kinh A Di Đà Pháp Số Viễn Lưu
9
5 7 3
1
9
Nê Hoàn
Hỏa
Ngọ
c Chẩ
m
Tốn
Vĩ L
ư
Ch
ấn
Cốc
Đạo C
ấn
Bàng Quang
Khảm
Quan N
gươn
Càn
Tru
ng
Ch
iên
Đo
ài
Huyền Tẩn
Khôn
2
8 6
4
Đây là một ma phương khá đặc biệt. Nếu cộng các
số từ mọi hướng qua trung tâm Mồ Kỷ Thổ (5) thì sẽ
được số 15 giống nhau. 15 = 5+5+5 là 3 lần 5. Tương
tự như số 125 = 5 * 5 * 5 là 3 lần 5 trong kinh A Di
Đà.
Trong truyện Tây Du Ký, Tôn Ngộ Không đưa
Đường Tam Tạng đi thỉnh kinh từ Đông Độ (Chấn số
3) qua Tây Trúc (Đoài số 7), gặp đủ 81 nạn (81= 9x9
= 9 khiếu, tức vượt tam quan cửu khiếu). Sau cùng
mới tới được cõi Phật để thỉnh kinh Vô Tự đem về!
tức là cõi phật Di Đà, số 10.
Trong Lạc Thơ, hướng Tây hay Đoài có trị số 7. Vô
Tình hay Cố Ý? Hướng Tây của kinh A Di Đà cũng
có tên của 7 vị Phật!
Nhìn vào Lạc Thơ, Đông thuộc tạng gan có hành
Mộc mang số 3, Tây thuộc tạng Phổi có hành Kim
mang số 7. Qua đây ta nhận ra câu nói “ba hồn bảy
vía” trong dân gian. Nên Hồn nằm trong gan/tim (mộc
sinh hỏa), Vía nằm ở phổi/thận (kim sinh thủy). Nên
việc tu hành là tu sao cho hồn vía tƣơng hội, mộc +
kim = 3+7 = 10, hoặc là chiết khảm điền ly tức thủy +
hỏa = 1+9 = 10. Tuy nhiên muốn tu hành thì phải
dùng thể xác này, là phải qua mồ kỷ thổ (5). Nên chi
mộc + kim + thổ = 15 hoặc thủy + hỏa + thổ = 15. Số
15 cũng là 5+5+5 hay 3 lần 5 - là số kỳ diệu của Lạc
Thơ.
Đường đi phải qua ba chặng 5x5x5 tức là hạ điền,
trung điền, và thượng điền phải hợp nhất. Hạ điền là
chỗ của lục phủ, trung điền là chỗ của ngũ tạng và
thượng điền là chỗ của ngũ hành hay ngũ khí. Thượng
Trung Hạ hợp nhất gọi là đắc nhất, tức là tinh khí
thần hợp nhất, hay bi trí dũng đầy đủ
Sự dị biệt về Phƣơng Hƣớng và Số giữa những bản
kinh A Di Đà chữ phạn và chữ Hán:
Dị biệt về phƣơng hƣớng: 6 và 10 phương.
Theo tác giả Phước Nguyên trong bài “ Vài Vấn Đề
Về Văn Bản Kinh A Di Đà”, thì có nhiều bản dịch
khác nhau nhưng đa số dịch giả đều dùng 6 phương
Phụ Lục Kinh A Di Đà Pháp Số Viễn Lưu
10
(đông, tây, nam, bắc, thượng, hạ). Duy chỉ bản dịch
vào đời Đường của Thầy Huyền Trang thì có 10
phương.[Thiển nghĩ 10 phương có thể là 4 phương
chính (đông, tây, nam, bắc) + 4 phương phụ (đông
nam, tây nam, đông bắc, tây bắc) + thượng hạ]. Bản
này ít có người dùng. Bản thông dụng nhất là của
Ngài Cưu Ma La Thập dịch vào đời Dao Tần, 420s.
Dị biệt về số Phật ở phần sáu phƣơng của bài kinh
giữa phạn ngữ và hán ngữ:
Dưới đây là sự khác biệt giữa 2 bản phạn ngữ và hán
ngữ (Cưu Ma La Thập).
Số Phật Phạn Hán Tên vị Phật thiếu sót
Đông 5 5
Nam 5 5
Tây 7 7
Bắc 7 5 Jaleniprabho, Prabhākaro
Hạ 6 6
Thượng 11 10 Indraketudhvajarājo
Tổng số 41 38
Dưới góc cạnh pháp số, hai con số 38 và 41 đều
không có ý nghĩa vì nó không chia chẵn cho số 4, tứ
đại. Do bản Hán Văn của Ngài Cưu Ma La Thập đã
được đa số dùng gần 2000 năm qua, và nay được Đỗ
Tổ Sư (vị chân tu đắc đạo hiện đời) dùng nên chúng ta
có thể dùng làm gốc để từ đó suy ra giải đáp cho sự
sai biệt về những ẩn số trên.
Ta có thể vẽ lại biểu đồ tượng trưng số vị phật trong
sáu phương của phạn kinh như sau:
10
Phạn
6 7 5
5
7
NAM
BẮC
TÂYĐÔNG
Từ hình đồ của Phạn kinh, ta thấy:
Từ Đông qua Tây = 5+ 7 = 12, tức12 nhân duyên cần
phá.
Từ Bắc lên Nam = 5+7 = 12, tức12 tâm thức nhị
nguyên phải đoạn
Thêm vào Thượng Hạ = 10 + 6 = 16 = 4 x 4, tức tứ
thiền và thân xác tứ đại.
Cộng lại tất cả = 12 +12+16 = 40 = 4 x 10. Số 10 là
cõi Cực Lạc và số 4 là phẩm chất niết bàn (thường,
lạc, ngã, tịnh). Ngoài ra, hai số 5 còn tượng trưng cho
Ngũ Căn, Ngũ Lực và số 7 là thất giác chi.
Tổng kết lại có nghĩa như sau:
Phụ Lục Kinh A Di Đà Pháp Số Viễn Lưu
11
Vị tỳ kheo tu thiền (tứ niệm xứ + bát chánh đạo, 12),
sau khi phá được vòng thập nhị nhân duyên, chuyển
được 12 tầng tâm thức nhị nguyên thì sẽ thành Phật
đắc chánh đẳng chánh giác tam miệu tam bồ đề, và
được sanh vào cõi cực lạc,10, của đức A Di Đà, nơi
ấy có đầy đủ 4 báu: thường, lạc, ngã, tịnh.
Note: Thượng phương của phạn kinh có 11vị Phật, khiến cho
Thượng Hạ Phương có tổng số là 11+6 = 17, là số không có ý
nghĩa theo pháp số. Ở đây, ta có thể dễ dàng nhận thấy có sự
sai sót khi chép kinh nên Ngài Cưu Ma La Thập đã nhận ra và
loại bỏ ngay phật Indraketudhvajarājo để cho Thượng Hạ
phương có tổng số 16, mới có ý nghĩa theo pháp số. Xét về việc
loại bỏ vị Phật trên cũng có lý vì như đã trình bày, thượng
phương là nơi ngũ khí triều nguyên. Nên tên của vị Phật ở đây
phải là tên, hoặc có tên gần giống với tên của những vị phật ở
ngũ phương bên dưới. Về số thì phải là 5 hoặc 10.
Hai số 7 ở phương Tây và Nam trong hình đồ có ẩn
ý gì?
Đây là chỗ trong kinh nói xứ Cực Lạc được bao bọc
bởi thất trùng lan thuẫn, thất trùng la võng và thất
trùng hàng thọ! Bởi vì:
Phương Tây là Đoài là Kim. Tượng trong người là
lông, da, xương, và phổi.
Phương Nam là Ly là Hỏa. Tượng trong người là đầu,
tim, chỗ Tây Phương Cực Lạc.
Cho nên những số 4, 7, 12, 40 ở trong Phạn kinh đều
là những số có đầy đủ ý nghĩa.
Có thể gọi hình trên là biểu đồ pháp số của kinh A Di
Đà – Phạn.
Dưới đây là biểu đồ pháp số của Kinh A Di Đà – Hán.
10
Hán
6 7 5
5
5
NAM
BẮC
TÂYĐÔNG
Từ hình đồ của Hán kinh, ta có:
Từ Đông qua Tây = 5+ 7 = 12, tức phải phá được 12
nhân duyên.
Từ Bắc lên Nam = 5+5 = 10, tức là phải thăng hoa tới
tầng tâm thức 10 là đủ.
Thêm Thượng và Hạ = 10 + 6 = 16 = 4 x 4 = 4 tầng
thiền x thân tứ đại.
Cộng lại tất cả = 12 +10+16 = 38, là số thiếu ý nghĩa
trong pháp số. Hai số 5 là Ngũ căn, Ngũ lực và số 7 là
Thất Giác Chi.
Tổng kết lại có nghĩa như sau:
Phụ Lục Kinh A Di Đà Pháp Số Viễn Lưu
12
Vị tỳ kheo tu thiền (tứ niệm xứ + bát chánh đạo, 12),
sau khi phá được vòng thập nhị nhân duyên, chuyển
được 10 tầng tâm thức nhị nguyên thì đắc A La Hán,
tới được cõi Cực Lạc, 10, của Đức A Di Đà.
Qua đây ta thấy giữa hai số 38 và 40 của A Di Đà Hán
và Phạn kinh tuy đều có đầy đủ ý nghĩa, nhưng nếu
xét về phương diện pháp số thì số 40 đúng nhất.
Kết Luận:
Chúng tôi hy vọng bài viết này có thể chứng minh
cho các bạn thấy Kinh A Di Đà ẩn chứa mật nghĩa
trong tên các vị La-Hán, Bồ-Tát và Phật ngay trong
bản văn Phạn Ngữ. Ngài Cưu Ma La Thập đã tài tình
dịch qua Hán Ngữ mà vẫn duy trì được mật nghĩa này
bằng cách khéo léo chọn lựa những chữ có tượng hình
rất là chính xác. Bài viết cũng trình bày cách thức giải
mã mật ý của kinh qua cách ứng dụng pháp số và mật
nghĩa của tên các vị Phật.
Bài viết cũng trình bày sự tương đồng của hai hệ
thống pháp số 4 (Ấn Độ) và 5 (Trung Quốc) qua biểu
đồ pháp số của Kinh A Di Đà và Lạc Thơ.
10
Phạn
6 7 5
5
7
NAM
BẮC
TÂYĐÔNG
5 7 3
1
9
Nê Hoàn
Hỏa
Ngọ
c Chẩ
m
Tốn
Vĩ L
ư
Ch
ấn
Cốc
Đạo C
ấn
Bàng Quang
Khảm
Quan N
gươn
Càn
Tru
ng
Ch
iên
Đo
ài
Huyền Tẩn
Khôn
2
8 6
4
Bắc
Na
m
Tây
Biểu Đồ Phương Hướng
Đông
Bắc
Nam
TâyĐông
13
Vĩ Lư
Long Hổ
Mệnh Môn
Giáp Tích
Huyền Xu
Thần Đạo
Đào Đạo
Thiên Trụ
Ngọc Chẩm
Bách Hội
10
1
9
Chín Phương Trời
Mười Phương Phật
Bảy LX, Cửu Khiếu
Nê Hoàn
Mƣời Phƣơng Phật Chín Phƣơng Trời Não Bộ - Nê Hoàn Cung
Biểu đồ pháp số đơn giản trên đã tóm trọn ý nghĩa
của kinh A Di Đà. Ba biểu đồ pháp số trên cho thấy
Tiên gia (5), Phật gia (4) tuy bề mặt thì thấy khác
nhưng bề trong thì không hề đối chọi. Thế mới biết
mọi đạo đều từ một gốc Đại Đạo mà ra.
Bài viết cũng trình bày sự khác biệt giữa hai bản
kinh Phạn và Hán ngữ. Sự việc Ngài Cưu Ma La Thập
loại bỏ tên ba vị Phật trong bản Hán dịch là chính xác
về mặt lý giải pháp số. Điều này chứng minh rằng
Ngài rất am tường về pháp số trong đạo học Ấn Độ và
có thể luôn cả Trung Quốc.
Cõi Cực Lạc của Đức Di Đà nằm sâu trong não bộ.
Đường độc đạo tới đó là phải từ trong tủy sống từ
dưới bụng đi lên. Vì cõi Cực Lạc hay Nê Hoàn Cung
nằm ở phần đầu, là phần cao nhất trong cơ thể. Theo
qui luật áp suất, trước khi tâm thức theo nước tủy bò
lên được tới đó thì toàn bộ tủy bên dưới trong từng
lóng xương toàn thân từ chân đến đầu phải được thanh
lọc và đầy ắp nước tủy trước. Trong sách đạo có dạy
người 16 tuổi xuất gia đi tu mau thành đạo, chứ người
Phụ Lục Kinh A Di Đà Pháp Số Viễn Lưu
13
40, 50, càng già, càng nhiễm trần thì tu hành đắc đạo
càng khó hay rất khó. Cớ sao vậy? bạn thấy không,
xương của gà non thì mềm, trong trẻo vì tủy xương
còn trong sạch … ngược lại, tủy xương của gà già thì
đen, cứng và dễ gẫy!
Phật Giáo hơn 2500 năm qua đã có nhiều pháp tu rất
hay. Nhưng cần để ý những pháp tu ấy dành cho
những vị xuất gia, hàng ly gia cắt ái, ẩn tu sâu trong
rừng núi. Còn đối với hàng cư sĩ tại gia, độ nhiễm ô
trần trược thì chắc chắn phải nhiều hơn các vị trên bội
phần, cộng thêm sự động loạn đời xưa với nay khác
nhau như đêm với ngày, nên cần phải có một pháp tu
cho thích hợp với hoàn cảnh.
Để giúp hàng cư sĩ tuy lấm trần nhưng lòng muốn tu
hành giải thoát, Đức Di Đà và Thích Ca đã phải phân
thân/điển xuống trần trao pháp thiền đời đạo song tu
quí báu, và mở khoa Pháp Lý Vô Vi Khoa Học
Huyền Bí Phật Pháp cho chúng sanh vào buổi Hạ
Ngươn mạt kiếp này. Phải có thử nhiều pháp khác
nhau rồi mới có thể kết luận pháp nào hay, mau và
thực tiễn!
Chúng tôi nhờ pháp thiền Vô Vi khai mở bản thể, rồi
một hôm tự nhiên ngộ ra cách giải mã kinh kệ bằng
pháp số, rất lấy làm lý thú nên hôm nay có dịp viết bài
chia sẻ với các bạn.
Chúng tôi hy vọng bài viết này sẽ mang lại nhiều
hữu ích cho các bạn.
Trước thềm năm mới, xuân Đinh Dậu 2017, xin
chúc mọi người thân tâm an lạc và tu hành như ý!
Thơ Chúc Xuân Đinh Dậu:
Tây Phương Giáo Chủ đợi chờ
Đàn con lạc bước hạ ngươn chợ tàn
Vô Vi Pháp Lý ban ra
Độ thời sanh chúng tầm đàng về quê
Thượng ngươn Đinh Dậu mở màn
Thế cơ tận diệt pháp mầu triển khai
Cực Lạc Pháp Số giải ra
Rõ thời mật ý Kinh A Di Đà
Từ nay sự lý viên thông
Ngày ngày tinh tấn tam công vun bồi
Sen vàng rộ khắp cõi Đà
Xuân về lớp lớp lên thoàn qua sông!
Kính Bái : Viễn Lưu
Note: tam công = công phu, công quả, công trình
Kính bút,
Viễn Lưu,
Jan/28/2017, Tết Đinh Dậu
--oOo--
Phụ Lục Kinh A Di Đà Pháp Số Viễn Lưu
14
TÊN 16 LA-HÁN và 4 BỒ-TÁT
--oOo--
長老舍利 弗 śāriputreṇa
1) Trưởng Lão Xá Lợi Phất: Tự Tánh Di Đà, Hồn.
Xá Lợi: tro cốt của Phật. Ngọc Xá Lợi.
Phất: người giác ngộ.
Đây là cục ngọc trong đầu, hay tự tánh Di Đà.
Ma: Gần với Như Lai.
Ha: Quát mắng.
Ma Ha: Đại.
摩訶目 乾連 mahāmaudgalyāyanena
2) Ma Ha Mục Kiền Liên: thuộc tạng Tâm (Hỏa).
Mục = mắt
Kiền = Càn = quẻ càn = đầu.
Liên: chì nấu chưa lọc.
摩訶迦葉 mahākāśyapena
3) Ma Ha Ca Diếp: thuộc tạng Phổi (kim).
Ca: Tiếng dùng để dịch âm kinh tạng.
Diếp: lá phổi.
Ca Diếp = Kassapa = Ẩm Quang (uống ánh sáng).
摩訶迦栴延 mahākapphiṇena
4) Ma Ha Ca Chiên Diên: thuộc tạng Can (mộc)
Chiên: Chiên Đàn. Gỗ Thơm. Tiếng phạn candana.
Diên: kéo dài, lan rộng.
摩訶拘絺 羅 mahākauṣṭhilena
5) Ma Ha Câu Hi La: điển lửa trong thể xác trần dùng
để thở và soi sáng mắt. (lửa gan)
Câu: cong, gốc cây khô
Hi: vải nhỏ
La: cái lưới.
離婆多 revatena
6) Li Bà Đa: gốc là lò lửa lư hương trước trán. Lửa
tâm, hà sa.
Li: Quẻ li, phương nam
Bà: đàn bà, mẹ chồng. Theo dịch, tốn là trưởng nữ.
Đa: nhiều
周梨槃陀迦 śuddhipanthakena
7) Chu Lê Bàn Đà Ca: Lửa trong trái cật dương, tinh
để luyện đạo hay tà dâm.
Chu: vòng quanh, chu đáo
Lê: cây lê, hí viện (lê viên).
Bàn: mâm gỗ, nhạc khí giống mâm gỗ.
Đà: chỗ đất gập ghềnh (Thận)
Ca: tiếng dùng để dịch âm kinh tạng.
Phụ Lục Kinh A Di Đà Pháp Số Viễn Lưu
15
難陀 nandena
8) Nan Đà: Điển quang sắc vàng thuộc thận
Nan: Khó khăn
Đà: Chỗ đất gập ghềnh.
阿難陀 ānandena
9) A Nan Đà: Điển quang sắc xanh thuộc thận
A: dài mà dẹp.
Nan Đà: chỗ đất gập ghềnh.
Nan Đà và A Nan Đà là điển của 2 trái thận.
羅睺 羅 rāhulena
10) La Hầu La: nước Ba La Mật, nước miếng.
La: Lưới đánh chim.
Hầu: Lõm xuống, cổ họng.
憍梵波提 gavāṃpatinā
11) Kiêu Phạm Ba Đề: nước trong thận.
Kiêu: kiêu căng, nhàn hạ.
Phạm: thanh tịnh
Ba: làn sóng nhỏ.
Đề: Gáo múc nước.
賓頭盧頗羅墮 bharadvājena
12) Tân Đầu Lô Phả La Đọa: Nước óc tinh túy.
Tân: khách, thông (tĩnh từ)
Đầu: đầu, đầu đà (phạn)
Lô: màu đen, chén đựng cơm
Phả: nghiêng, lệch, hơi hơi.
La: vải lụa, cái lưới
Đọa: rơi xuống, đổ nát.
迦留陀夷 kālodayinā
13) Ca Lưu Đà Di: (bao tử)
Ca: Thích Ca, Già Lam.
Lưu: lưu giữ, đình trệ
Đà: chỗ gập ghềnh (tĩnh từ), vật hình tròn (danh)
Di: cái cuốc cái cào.
摩訶 劫 賓那 vakkulena
14) Ma Ha Kiếp Tân Na: điển của bao tử.
Kiếp: cướp đoạt, ép buộc, tai họa
Tân: tùy thuận nghe theo
Na: từ dùng để phiên âm tiếng ngoại quốc (tiếng
phạn)
薄俱 羅 aniruddhena
15) Bạc Câu La: bộ bài tiết
Bạc: cây cỏ mọc rậm rạp, đất cằn cỗi
Câu: đi cùng, đi theo, đều, tất cả
La: lưới đánh chim, bắt cá.
Phụ Lục Kinh A Di Đà Pháp Số Viễn Lưu
16
阿[少/兔 ]樓馱 etaiścānyaiś
16) A Lậu Lâu Đà: bộ xương, thân thể.
A: dài mà dẹp.
Lậu: rò rỉ, dột
Lâu: nhà lầu
Đà: ngựa cõng, thồ
文殊師利 法王子 mañjuśriyā ca kumārabhūtena
17) Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử: Vía
Văn: hòa nhã, văn tự
Thù: cắt đứt, đoạn tuyệt, khác biệt,
Sư: nhiều, đông đúc, thầy giáo, sư sãi
Lợi: lợi ích, sắc nhọn
Pháp: giáo lý đạo phật, giỏi
Vương: vua
Tử: con
阿逸多菩薩 ajitena ca bodhisattvena
18) A Dật Đa Bồ Tát: điển lạnh, thủy điển
A: a dua, nương tựa, đống gò cao
Dật: phóng túng, lầm lỗi, ẩn dật
Đa: nhiều
Bồ Tát: tự giác ngộ lại giác ngộ cho chúng sanh.
乾陀訶提菩薩 gandhahastinā ca bodhisattvena
19) Kiền Đà Ha Đề Bồ Tát: điển nóng, hỏa điển
Kiền: càn, trời, con trai, khô ráo.
Đà: chỗ gập ghềnh, vật hình tròn
Ha: Quát mắng, giận dữ
Đề: Nâng lên, cái gáo
常精進菩薩 nityodyuktena ca bodhisattvena
20) Thường Tinh Tấn Bồ Tát: gió, điển của phần lục
phủ bộ máy tiêu hóa.
Thường: ngũ thường, thông thường, lâu dài
Tinh: tinh túy, tinh lực
Tấn: tiến lên
TÊN CHƢ PHẬT SÁU PHƢƠNG
--oOo--
Đông Phương 東方 pūrvasyāṃ có 5 vị
阿閦鞞佛 akṣobhyo nāma tathāgato
A Súc Bệ Phật: Bất Động Phật
A: Đống gò, chân núi
Súc: Đông người
Bệ: bệ vệ.
Phật: bậc giác ngộ
須彌相佛 merudhvajo nāma tathāgato
Tu Di Tướng Phật:
Tu: râu, chậm trễ
Di: trọn đầy
Phụ Lục Kinh A Di Đà Pháp Số Viễn Lưu
17
Tướng: tướng mạo, vị tướng
Phật: bậc giác ngộ
大須 彌佛 mahāmerurnāma tathāgato
Đại Tu Di Phật:
Đại: to lớn
須彌光 佛 meruprabhāso nāma tathāgato
Tu Di Quang Phật:
Quang: ánh sáng.
妙音佛 mañjudhvajo nāma tathāgataḥ
Diệu Âm Phật:
Diệu: kỳ diệu
Âm: âm thanh, tiếng.
Nam Phương 南方 dakṣiṇasyāṃ có 5 vị Phật:
日月燈佛 candrasūryapradīpo nāma tathāgato
Nhật Nguyệt Đăng Phật:
Nhật: mặt trời
Nguyệt: mặt trăng
Đăng: cái đèn
名聞光 佛 yaśaḥprabho nāma tathāgato
Danh Văn Quang Phật: lửa của thận trí
Danh: nổi tiếng
Văn: nghe, trí thức, ngửi
Quang: ánh sáng.
大焰肩佛 mahārciḥskandho nāma tathāgato
Đại Diệm Kiên Phật:
Đại: to, lớn
Diệm, Diễm: ngọn lửa, ánh lửa
Kiên: gánh vác, nhiệm vụ lớn.
須彌燈佛 merupradīpo nāma tathāgato
Tu Di Đăng Phật:
Tu: đợi, râu
Di: lấp đầy
Đăng: ngọn đèn
無量精進佛 nantavīryo nāma tathāgataḥ
Vô Lượng Tinh Tấn Phật:
Vô: không có
Lượng: dung lượng
Tinh: tinh túy
Tấn: tiến lên
Tây Phương 西方 paścimāyāṃ có 7 vị Phật
無量壽佛 amitāyurnāma tathāgato
Vô Lượng Thọ Phật:
Vô Lượng: Không hạn lượng
Thọ: sống lâu
無量相佛 amitaskandho nāma tathāgato
Vô Lượng Tướng Phật:
Tướng: tướng mạo
Phụ Lục Kinh A Di Đà Pháp Số Viễn Lưu
18
無量幢佛 amitadhvajo nāma tathāgato
Vô Lượng Tràng Phật:
Tràng: tòa, ngôi
大光 佛 mahāprabho nāma tathāgato
Đại Quang Phật:
Đại: to lớn
Quang: ánh sáng
大明佛 mahāratnaketurnāma tathāgataḥ
Đại Minh Phật:
Minh: sáng.
寶相佛 śuddharaśmiprabho nāma tathāgataḥ
Bảo Tướng Phật:
Bảo: quí giá
Tướng: tướng mạo
淨光 佛 śuddharaśmiprabho nāma tathāgataḥ
Tịnh Quang Phật:
Tịnh: thanh tịnh
Quang: ánh sáng.
Bắc Phương 北方 evamuttarāyāṃ có 5 vị Phật:
焰肩佛 mahārciḥskandho nāma tathāgato
Diệm Kiên Phật: đã dùng ở phương nam
Diệm: ngọn lửa, ánh lửa
Kiên: gánh vác, cái vai
最勝音佛 vaiśvānaranirghoṣo nāma tathāgato
Tối Thắng Âm Phật:
Tối: cực kỳ, hơn nhất
Thắng: hơn
Âm: tiếng, hay âm/dương.
難 沮佛 dundubhisvaranirghoṣo nāma tathāgato
Nan Trở Phật:
Nan: khó khăn
Trở: ẩm thấp, ẩm ướt
日生佛 duṣpradharṣo nāma tathāgataḥ
Nhật Sinh Phật:
Nhật: ban ngày, mặt trời
Sinh: sinh đẻ
網明佛 ādityasaṃbhavo nāma tathāgato
Võng Minh Phật:
Võng: mạng lưới
Minh: sáng
Hạ Phương 下方 evamadhastāyāṃ có 6 vị Phật:
師子佛 siṃho nāma tathāgato
Sư Tử Phật:
Sư: nhiều, sư sãi
Tử: Thầy
名聞佛 yaśo nāma tathāgato
Danh Văn Phật:
Danh: tiếng tăm
Phụ Lục Kinh A Di Đà Pháp Số Viễn Lưu
19
Văn: nghe thấy, ngửi thấy
名光 佛 yaśaḥprabhāso nāma tathāgato
Danh Quang Phật:
Quang: ánh sáng, rực rỡ
達摩佛 dharmo nāma tathāgato
Đạt Ma Phật:
Đạt: thông suốt
Ma: tan mất, tiêu diệt, mài giũa
法幢佛 dharmadharo nāma tathāgato
Pháp Tràng Phật:
Pháp: khuôn phép, đạo lý phật pháp
Tràng: tòa ngôi
持法佛 dharmadhvajo nāma tathāgataḥ
Trì Pháp Phật:
Trì: cầm, giữ, nắm.
Pháp: phật pháp.
Thượng Phương 上方 evamupariṣṭhāyāṃ có 10 vị
Phật:
梵音佛 brahmaghoṣo nāma tathāgato
1)Phạm Âm Phật:
Phạm: Phạm Thiên
Âm: âm
宿王佛 nakṣatrarājo nāma tathāgata
2)Tú Vương Phật:
Tú: chỗ nghỉ ngơi, ngôi sao
Vương: vua
香上 佛 gandhottamo nāma tathāgato
3)Hương Thượng Phật:
Hương: mùi thơm, con gái
Thượng: ở phía trên
香光 佛 gandhaprabhāso nāma tathāgato
4)Hương Quang Phật:
Quang: sáng sủa, rực rỡ
大焰肩佛 mahārciskandho nāma tathāgato
5)Đại Diệm Kiên Phật:
Đại: Lớn
Diệm: ngọn lửa
Kiên: đảm nhiệm, gánh vác
雜色寶華嚴身佛
ratnakusumasaṃpuṣpitagātro nāma tathāgataḥ
6)Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân Phật:
Tạp: hỗn tạp, lẫn lộn
Sắc: màu sắc
Bảo: quí giá
Hoa: đẹp, quầng trăng, mặt trời
Nghiêm: nghiêm khắc
Thân: thân thể
娑羅 樹王佛 sālendrarājo nāma tathāgato
7)Sa La Thụ Vương Phật:
Phụ Lục Kinh A Di Đà Pháp Số Viễn Lưu
20
Sa: sa bà, cõi trần tục, dáng uốn éo
La: cái lưới
Thụ: cái cây
Vương: vua
寶華德佛 ratnotpalaśrīr nāma tathāgataḥ
8)Bảo Hoa Đức Phật:
Bảo: quí giá.
Hoa: đẹp
Đức: đạo đức
見一 切義佛 sarvārthadarśī nāma tathāgataḥ
9)Kiến Nhất Thiết Nghĩa Phật:
Kiến: thấy
Nhất: một
Thiết: điểm quan trọng
Nghĩa: nghĩa lý.
如須彌山佛 sumerukalpo nāma tathāgataḥ
10)Như Tu Di Sơn Phật
Tu: râu, chậm trễ
Di: trọn đầy
Sơn: núi
SAI BIỆT VỀ SỐ PHẬT TRONG SÁU PHƢƠNG
--oOo--
Bắc Phương trong Phạn kinh có 7 vị Phật. Vì không
rành phạn ngữ, nên theo thứ tự chúng tôi chọn 2 vị
cuối có tên bôi đỏ là 2 tên bị ngài Cưu Ma La Thập
loại bỏ khi dịch qua Hán ngữ.
evamuttarāyāṃ diśi mahārciḥskandho nāma tathāgato
vaiśvānaranirghoṣo nāma tathāgato
dundubhisvaranirghoṣo nāma tathāgato duṣpradharṣo
nāma tathāgataḥ ādityasaṃbhavo nāma tathāgato
jaleniprabho nāma tathāgataḥ prabhākaro nāma
tathāgataḥ
Thượng Phương trong phạn kinh có 11 tên Phật. Vị có
tên bôi đỏ được ngài Cưu Ma La Thập loại bỏ trong
bản Hán Dịch.
evamupariṣṭhāyāṃ diśi brahmaghoṣo nāma tathāgato
nakṣatrarājo nāma tathāgata indraketudhvajarājo
nāma tathāgato gandhottamo nāma tathāgato
gandhaprabhāso nāma tathāgato mahārciskandho
nāma tathāgato ratnakusumasaṃpuṣpitagātro nāma
tathāgataḥ sālendrarājo nāma tathāgato
ratnotpalaśrīrnāma tathāgataḥ sarvārthadarśī nāma
tathāgataḥ sumerukalpo nāma tathāgataḥ |
evaṃpramukhāḥ śāriputra upariṣṭhāyāṃ diśi