Phap bi - halan - duc 9 ngay 8 dem khoi hanh 30 thang 9 va 19 thang 10 (1)
NTM thang 9-2016.pdf
Transcript of NTM thang 9-2016.pdf
SOÁ 09/2016
Mỹ Đức hướng tới đô thị văn minh hiện đại
Sản xuất hữu cơ, cần gì để phát triển?
Vốn về “đánh thức” đồi rừng
THÖ VIEÄN TÆNH BAØ RÒA - VUÕNG TAØU
Ñòa chæ: Số 04 - Phạm Văn Đồng - P. Phước Trung - Tp. Bà Rịa
Ñieän thoaïi: 064.3742101; Fax: 064.3742105
Email: [email protected]
Website: http://thuvienbrvt.com.vn & http://thuvienbrvt.vn
BAÛN TIN
NOÂNG THOÂN ÑOÅI MÔÙI
Soá 09/2016
-----------------------------------
PHAÙT HAØNH HAØNG THAÙNG
Trưởng Ban biên tập
TRẦN MINH THẾ
Chịu trách nhiệm nội dung
NGUYỄN QUANG PHI
BÙI VĂN MỘT
Biên tập - Trình bày
VŨ HÀ - QUANG SƠN
Thư viện tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
Số 04 - Phạm Văn Đồng - P. Phước Trung
Tp. Bà Rịa
Website:
Email:
MUÏC LUÏC
TIN NÔNG NGHIỆP - NÔNG THÔN
1. Xuất khẩu gạo năm 2016: Bài toán lấy “chất” bù
“lượng”………………………………………..01
2. Trả lại sự “trong sạch” cho tôm………………02
VĂN HÓA NÔNG THÔN MỚI
3. Xã Xà Bang (Huyện Châu Đức): Đời sống người
dân đã thay đổi………………………………..04
4. Trung Hưng hướng đến Xã đạt chuẩn văn hóa nông
thôn mới………………………………………….06
5. Mỹ Đức hướng tới đô thị văn minh hiện đại………07
6. Đổi đời vùng biển Hậu Lộc: Không ồn ào, không
nợ đọng ………………………………………....09
7. Hà Tĩnh xây dựng xã NTM kiểu mẫu: Hướng
đến sự hài lòng của người dân……………….10
KỸ THUẬT NÔNG NGHIỆP
8. Sản xuất hữu cơ, cần gì để phát triển? ……….12
9. Kỹ thuật rồng Na dai…………………………13
10. “Lập trình” cho na ra quả theo ý muốn……….15
11. Chăm sóc gia súc, gia cầm trong mùa mưa bão……17
12. Nuôi lợn bằng men tiêu hóa sống…………….19
13. Nuôi ghép cá rô phi đơn tính và cá chép theo
hướng an toàn sinh học……………………….20
14. Công nghệ tạo bọt khí micro nano…………....21
15. Theo dõi ao nuôi tôm bằng điện thoại di động……23
16. Một số thảo dược thay thế kháng sinh………..26
NHÀ NÔNG LÀM GIÀU
17. Vốn về “đánh thức” đồi rừng………………....29
18. “Miền đất chết” sinh nhiều triệu phú………...33
19. Trồng nấm rơm trong nhà cho hiệu quả kinh tế
rất cao…………………………………………34
20. Trồng cọ dầu kiếm tiền tỷ…………………….38
Nông thôn đổi mới Tin Nông nghiệp - Nông thôn
- 1 -
Xuất khẩu gạo năm 2016: Bài toán lấy “chất” bù “lượng”
háng 7/2016, xuất khẩu gạo ở
mức thấp nhất trong nhiều năm
qua, kéo theo 7 tháng cũng thấp,
chỉ được 3 triệu tấn, giảm gần 600.000 tấn,
tương đương với mức giảm 16,2% so với quý
I/2015. Sụt giảm về lượng là trong quý II, vì
quý I/2016 tăng 30% so với cùng kỳ năm
trước.
Nguyên do là sự giảm nhu cầu, cùng với
việc thay đổi chính sách kiềm chế nhập
khẩu ở các thị trường xuất khẩu gạo chính
của Việt Nam, và không loại trừ áp lực từ
việc Thái Lan xả kho gạo tồn kho. Châu Á
là khu vực thị trường chính về gạo của Việt
Nam, trong đó Trung Quốc chiếm 35%,
nhưng mấy tháng qua lưu lượng gạo vào
Trung Quốc, Philippines, Indonesia giảm.
Thị trường Malyasia có tăng nhưng không
bù lại sự thiếu hụt từ các khách hàng nói
trên. Tình hình tương tự ở Châu Phi, dù có
hai khách hàng mua tăng là Ghana (tăng
41%), Bờ Biển Ngà (tăng31%), song cũng
không bù được sa sút từ các thị trường khác
thuộc châu lục này.
Bù lại sự thiếu hụt về số lượng, giá bình
quân năm nay khả quan, nên số lượng giảm
16,2%, song kim ngạch chỉ hụt 12,2%.
Đóng góp vào sự sáng sủa về giá bình quân
do tỷ lệ lượng gạo thơm, gạo nếp, gạo
Japonica (dòng sản phẩm có nguồn gốc từ
Nhật) tăng đáng kể, trong đó lượng gạo
thơm sau 6 tháng chiếm tỷ trọng 31%.
Cho đến nay các đơn hàng lớn đã tất
toán, đơn hàng mới chưa mở thầu, nghĩa là
nhu cầu bên ngoài chưa lộ diện hết. Trong
khi đó, hiện tượng thời tiết cực đoan hạn,
mặn trên diện rộng đã ảnh hưởng không
nhỏ tới sản xuất lúa gạo, nhất là vựa lúa
Đồng bằng sông Cửu Long. Bên cạnh đó,
hàng trăm ngàn héc-ta lúa mùa của miền
Bắc bị ảnh hưởng bởi cơn bão số 1, một số
phải gieo sạ lại... Tình hình trên báo hiệu
sản lượng thóc năm nay sẽ khó khăn và nhu
cầu gạo trong nước sẽ tăng. Có lẽ do nhận
định trước tình hình này, Hiệp hội Lương
thực Việt Nam (VFA) đã hạ dự báo mức
xuất khẩu gạo năm 2016 từ 6,5 triệu tấn
xuống còn 5,7 triệu tấn - mức thấp nhất
trong 8 năm năm gần đây, tuy vậy, con số
này có thể còn xuống thấp hơn.
Thực sự không vui khi phải hạ dự báo
chỉ tiêu xuất khẩu mặt hàng chủ lực này khi
Nhà nước vẫn giữ nguyên mục tiêu năm
2016 về kinh tế - xã hội nói chung và
thương mại nói riêng. Vì thế, lời giải cho
bài toán xuất khẩu gạo năm 2016 phải lấy
“chất” để bù “lượng”. Đó không chỉ là định
hướng cho năm nay mà còn là định hướng
chiến lược.
Trước tiên phải nâng cao hiệu quả kinh
tế của sản xuất lúa gạo theo hướng thích
ứng với biến đổi khí hậu và phát triển nông
nghiệp bền vững. Phải ưu tiên phát triển
giống gạo chất lượng cao, hợp thị hiếu. Đổi
mới quy trình bảo quản sau thu hoạch, nâng
cao công suất, kỹ thuật chế biến để gạo
T
Nông thôn đổi mới Tin Nông nghiệp - Nông thôn
- 2 -
thành phẩm tỷ lệ gãy vỡ thấp, độ bóng cao.
Có nhiều thành phẩm chế biến từ gạo đưa
thẳng vào hệ thống siêu thị. Với tỷ trọng
gạo chất lượng cao áp đảo, đảm bảo về vệ
sinh an toàn, sẽ là lời giải thuyết phục với
bài toán giảm số lượng, nhưng không giảm
kim ngạch cho hiện nay và mai sau.
Tiếp đó, đẩy nhanh tiến độ xây dựng
thượng hiệu gạo Việt Nam theo Đề án “Phát
triển thương hiệu gạo Việt Nam đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030” được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt ngày 21/5/2015.
Đây là đề án mang tầm quốc gia đầu tiên
của Việt Nam đối với xây dựng thương hiệu
nông sản, là tiền đề cho việc xây dựng
thương hiệu cho các nông sản chủ lực khác.
Mục tiêu của Đề án là xây dựng thương
hiệu gạo Việt Nam nhằm định vị giá trị,
hình ảnh sản phẩm gạo Việt Nam, nâng cao
sự nhận biết của các nhà sản xuất, nhập
khẩu, phân phối và người tiêu dùng trong và
ngoài nước nâng cao giá trị gia tăng, thị
phần và sức cạnh tranh của sản phẩm gạo
Việt Nam trên thị trường thế giới.
Đồng thời, làm tốt công tác thị trường
theo phương châm đa dạng hoá, tận dụng
tối đa các ưu đãi theo những hiệp định
thương mại tự do FTA vừa ký có liên quan
tới mặt hàng này. Tiếp tục củng cố các
khách hàng quen, yêu cầu chất lượng trung
bình. Từng bước mở rộng các thị trường
yêu cầu gạo cao cấp, khắt khe về an toàn vệ
sinh. Tại mỗi thị trường cố gắng tiếp cận
các kênh phân phối, không qua mối lái
trung gian.
Trên cơ sở đó, đẩy mạnh các hoạt động
xúc tiến thương mại, bằng các phương tiện,
trong mọi cơ hội, với sự phối hợp của các
lực lượng trong và ngoài nước để nhiều bạn
bè quốc tế biết tới vị hương vị của hạt gạo
Việt Nam.
Nguyễn Duy Nghĩa
Nguồn http://baodautu.vn/
Báo Đầu tư Online
……………………………………….
Trả lại sự “trong sạch” cho con tôm Vấn nạn tôm bơm tạp chất ở Việt Nam đã xảy ra nhiều năm nay, hệ lụy để lại đã rất
rõ ràng, thế nhưng việc kiểm tra và xử phạt vẫn như “bắt cóc bỏ đĩa”. Đã đến lúc chúng
ta cần một hành động triệt để hơn.
Nguy cơ lớn
Cục Quản lý Chất lượng Nông lâm sản
và Thủy sản (NAFIQAD) xác định tình
trạng bơm chích tạp chất vào tôm nguyên
liệu bắt đầu xuất hiện vào năm 1996 ở
ĐBSCL và thời gian qua tệ nạn này mỗi
năm một trầm kha hơn. Các chủ cơ sở bơm
tạp chất vào tôm đều sử dụng các loại tạp
chất xuất xứ từ Trung Quốc, có tên CMC.
CMC được hòa tan với nước, cho ra một
chất đặc sệt, bơm vào tôm bằng xi lanh
hoặc máy nén.
Cục An ninh Nông nghiệp - Nông thôn
(Tổng cục An ninh II, Bộ Công an), cho
biết sau khi bị bơm chích tạp chất, tôm
nguyên liệu tăng 10 - 20% trọng lượng, kích
Tôm sau khi được bơm chích tạp chất có thể tăng 10 -
20% trọng lượng
Nông thôn đổi mới Tin Nông nghiệp - Nông thôn
- 3 -
cỡ. Cục An ninh Nông nghiệp - Nông thôn
khẳng định qua điều tra, “Nhiều nhà máy cơ
sở tiến hành bơm chích tạp chất vào tôm
nguyên liệu theo yêu cầu của khách hàng
Trung Quốc”.
Thế nhưng, chuyện không đơn giản là
vậy, khi mấy năm gần đây, tôm bơm tạp
chất bắt đầu được tiêu thụ mạnh trong thị
trường nội địa.
Ngày 26/7 vừa qua, lực lượng chức năng
tỉnh Thừa Thiên - Huế đã bắt quả tang 2 cơ
sở kinh doanh thủy sản đang bơm tạp chất
vào tôm sú chết nhằm tạo màu sắc tươi sống
và tăng trọng, bán cho các nhà hàng tổ chức
tiệc cưới, thu giữ 150kg tôm sú chết cùng
202kg tạp chất.
Một nguyên nhân khác là tình hình tiêu
thụ tôm cho Trung Quốc rất bấp bênh,
tháng ít tháng nhiều, do không có hợp đồng
dài hạn. Khi khách hàng Trung Quốc không
mua thì các thương lái đem ra tiêu thụ trên
thị trường trong nước với giá rẻ.
Mỗi ký CMC giá chỉ 100.000 đồng, đổ
nước vào quậy đặc bơm vào tôm, khiến 100
kg tôm sú lên tới 120kg, không chỉ bán
được giá cao hơn mà còn tiêu thụ được tôm
sú đã chết, do sau khi bơm tạp chất thì tôm
vẫn giữ được màu sắc và độ căng mướt.
Các cơ quan chức năng tại Hà Nội đã phát
hiện nhiều nhà hàng tiệc cưới có tôm bơm tạp
chất. Ngay tại ĐBSCL, cũng nhiều lần bắt giữ
các cơ sở thuê người tiêm tạp chất vào tôm rồi
đem đi tiêu thụ giá rẻ. Việc ăn phải tôm tiêm
tạp chất, đặc biệt là tôm đã chết (có thể do bị
bệnh) có thể gây ra ngộ độc và mắc một số
chứng bệnh nguy hiểm như tiêu chảy, rối loạn
tiêu hóa, thương hàn, tả…
Không còn là chuyện nhỏ
Mới đây, ông Lê Thanh Hùng, Phó Chủ
tịch HĐND tỉnh Bạc Liêu, cho biết: “Việc
bơm chích tôm không dừng lại ở dạng dùng
kim chích mà dùng đến công nghệ máy để có
thể chích trong thời gian ngắn đạt số lượng
nhiều nhất. Người thực hiện bơm chích coi đó
là chuyện bình thường”. Điều đó có nghĩa là
số lượng tôm bơm tạp chất sẽ tăng rất nhanh
do các cơ sở từ bỏ thủ đoạn thủ công để
chuyển sang dùng máy bơm chích.
Đầu năm đến nay, lực lượng chức năng
Cà Mau cũng kiểm tra phát hiện 5 vụ bơm
chích tạp chất vào tôm nguyên liệu, thẩm
tra loại bỏ tạp chất và xử lý phạt tiền gần
150 triệu đồng. Tuy vậy chính Chánh Thanh
tra Sở NN&PTNT cũng cho biết “Số vụ
việc bị phát hiện rất ít so với thực tế vụ việc
vi phạm. Hầu hết các vụ tôm có chứa tạp
chất bị phát hiện, xử lý chủ yếu là đang trên
đường vận chuyển”.
Sở dĩ việc phát hiện bắt tại trận hành vi
bơm tạp chất không dễ dàng là do các đối
tượng thường tiêm tạp chất vào ban đêm,
trong những cơ sở đã được bảo vệ nhiều lớp
và dư luận lo ngại một số doanh nghiệp
cũng tham gia vào việc này, theo yêu cầu
của thương lái Trung Quốc.
Trong năm 2015, các ngành chức năng
của tỉnh Bạc Liêu đã phát hiện hơn 2,3 tấn
tôm bơm chích tạp chất. Trong 7 tháng đầu
năm 2016, phát hiện 8 trường hợp vi phạm,
xử phạt 500 triệu đồng... Bà Phan Thị Thu
Oanh - Phó Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh
Bạc Liêu cũng cho rằng tình trạng bơm
chích tạp chất vào tôm hiện nay “diễn ra
ngày càng phức tạp, có tổ chức”.
Mạnh tay hơn nữa
Nhiều người dân nuôi tôm nói rằng:
“Tuyệt đại cơ sở bơm tạp chất vào tôm là
các vựa của thương lái, người nông dân chỉ
đánh bắt và bán ngay cho thương lái tôm
còn tươi sống chứ không ai bơm tạp chất
Nông thôn đổi mới Tin Nông nghiệp - Nông thôn
- 4 -
vào tôm”. Với ngành tôm, việc bơm tạp
chất đã trở thành mối họa lớn. Ngành tôm
Cà Mau, một trong địa phương nuôi tôm
chủ lực cho biết đã có những lô hàng xuất
khẩu bị phát hiện có tôm bơm tạp chất.
Ngành thủy sản nói chung và ngành tôm
Việt Nam nói riêng đang tích cực hội nhập
quốc tế, khôi phục các thị trường bị mất
trong mấy năm qua, tăng giá thành và hiệu
quả kinh tế, nhưng hiện tượng tôm bị bơm
tạp chất có thể sẽ ảnh hưởng rất lớn đến các
chỉ tiêu của ngành nếu không ngăn chặn kịp
thời. Tiêu thụ tôm trong nước cũng có dấu
hiệu tăng trưởng trong mấy năm gần đây,
nhất là ở các tỉnh phía Bắc, nhưng việc các
nhà hàng tiêu thụ tôm bơm tạp chất chắc
chắc cũng sẽ làm người dân phía Bắc ngại
ngần với loại thực phẩm này.
Dư luận hy vọng từ ngày 1/7/2016, Bộ
luật Hình sự 2015 có hiệu lực, nhiều hành
vi vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực
phẩm sẽ bị xử lý nghiêm khắc, có tính răn
đe cao với các mức phạt tù, thì tệ nạn bơm
và tiêu thụ tôm bơm tạp chất sẽ bị ngăn
chặn mạnh mẽ hơn, khi đó ngành tôm mới
có thể lấy lại niềm tin cho người tiêu dùng
trong và ngoài nước.
>> Việc bơm tạp chất vào tôm không chỉ khiến việc xuất khẩu mặt hàng này trở nên khó khăn
mà còn làm cho các quy trình nuôi tôm sạch, nuôi tôm bền vững của người nông dân trở thành
vô ích. Nguy hại hơn, nó làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh dự và quyền lợi của người nuôi
tôm Việt Nam.
Nguyễn Anh
Nguồn http://thuysanvietnam.com.vn/
Tạp chí Thủy sản Việt Nam
……………………………………………..
Xã Xà Bang (Huyện Châu Đức):
Đời sống người dân đã thay đổi
Xà Bang là một trong 21 xã được chọn thực
hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng
nông thôn mới (NTM) giai đoạn 2. Sau hơn 3
năm triển khai thực hiện, đầu tháng 8-2016, xã
Xà Bang đã được UBND tỉnh trao Quyết định
công nhận xã đạt chuẩn NTM.
Ông Nguyễn Văn Trọng, Chủ tịch
UBND xã Xà Bang cho biết, ngay từ khi bắt
đầu thực hiện xây dựng NTM, địa phương
gặp không ít khó khăn, xuất phát điểm chỉ
đạt 10/19 tiêu chí. 9 tiêu chí còn lại chưa
đạt là cơ sở hạ tầng, đường giao thông, thu
nhập của người dân… đòi hỏi vốn đầu tư
lớn. Trong khi đó, Xà Bang là xã thuần
nông, hệ thống giao thông chưa được đầu tư
đồng bộ đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất
Nâng cấp đường liên ấp Liên Sơn -
Liên Lộc xã Xà Bang.
Nông thôn đổi mới Văn hóa Nông thôn mới
- 5 -
lượng đời sống người dân. Do đó, UBND
xã Xà Bang đã chú trọng công tác tuyên
truyền nâng cao nhận thức và trách nhiệm
của người dân trong việc cùng chung sức
xây dựng NTM. Theo ông Trọng, từ các
cuộc vận động, nhân dân đã tự nguyện đóng
góp tài sản, đất đai, hoa màu phục vụ cho
việc xây dựng cơ sở hạ tầng như làm đường
giao thông nông thôn, kiên cố hóa kênh
mương nội đồng. Kết quả, trong hơn 3 năm
triển khai, ngoài nguồn vốn ngân sách
43,192 tỷ đồng, vốn tín dụng 75 tỷ đồng,
vốn lồng ghép 46 tỷ đồng, địa phương còn
huy động được nguồn vốn đóng góp từ nhân
dân quy ra giá trị bằng tiền 41 tỷ đồng, DN
hỗ trợ xây nhà tình nghĩa, đầu tư sản xuất
giúp giải quyết việc làm cho lao động địa
phương, với tổng số tiền 58 tỷ đồng. Từ
nguồn vốn này, xã Xà Bang đã tăng cường
đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu như
giao thông, thủy lợi, điện, đường, trường
học, chợ, nhà ở, cơ sở vật chất…
Xác định rõ, xây dựng NTM không chỉ
thay đổi bộ mặt hạ tầng nông thôn mà còn
phải tập trung nguồn lực nâng cao thu nhập,
ổn định cuộc sống của người dân. Do đó,
thời gian qua, UBND xã đã phối hợp với
các đoàn thể như Hội Nông dân xã, Trung
tâm Khuyến nông - Khuyến ngư (KNKN),
Đoàn Thanh niên, Hội LH Phụ nữ… tạo
điều kiện để người dân tiếp cận với với các
nguồn vốn vay ưu đãi, hỗ trợ khoa học
công nghệ để nâng cao năng suất cây trồng,
vật nuôi. Bà Hồ Thị Mỹ Hòa, Phó Chủ tịch
UBND xã Xà Bang cho biết, trước đây, việc
sản xuất trồng trọt chỉ mang tính nhỏ lẻ,
manh mún, người dân chủ yếu trồng điều,
cà phê, thu nhập mỗi vụ chỉ từ 20-30 triệu
đồng/ha. Thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây
trồng, địa phương đã hỗ trợ, tập huấn kỹ
thuật để người dân chuyển đổi cơ cấu cây
trồng, từ cà phê, điều sang thâm canh cây
tiêu cho thu nhập gấp 10 lần so với trồng
màu và cà phê, điều. Thêm vào đó, do đất
nông nghiệp ngày càng cằn cỗi, bạc màu,
năng suất canh tác giảm, địa phương cũng
đã tuyên truyền, hướng dẫn tạo điệu kiện để
người dân học nghề chuyển đổi cơ cấu sản
xuất tập trung vào chăn nuôi. Đến nay,
nhiều mô hình chăn nuôi như nuôi trùn quế,
nuôi lươn thương phẩm, nuôi dê, nuôi heo
theo mô hình trang trại đã giúp nhiều gia
đình thoát nghèo vươn lên ổn định cuộc
sống, thu nhập mỗi năm gần 100 triệu
đồng/mô hình. Đến nay, thu nhập bình quân
đầu người của người dân ở xã Xà Bang đạt
hơn 37 triệu đồng/người/năm, tăng 17 triệu
đồng so với thời điểm năm 2012; tỷ lệ lao
động có việc làm thường xuyên đạt hơn
90%; đời sống của các hộ nghèo ngày càng
được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn
quốc gia còn dưới 3%. Ông Trần Văn Khoa,
ở ấp Liên Lộc cho biết, những năm 2010-
2011, việc nuôi heo của gia đình ông luôn
thua lỗ do dịch bệnh và giá cả bấp bênh. Từ
khi triển khai xây dựng NTM, hàng năm
ông đều được tham gia các lớp tập huấn,
tuyên truyền phòng ngừa dịch bệnh, hỗ trợ
vắc xin, áp dụng khoa học kỹ thuật, các loại
thuốc mới đã giúp việc chăn nuôi đạt kết
quả rõ rệt. Trong 2 năm 2014-2105, trung
bình 1 lứa nuôi 2.400 con, sau 7-8 tháng
chăn nuôi, trừ chi phí ông Khoa đạt lợi
nhuận gần 1 tỷ đồng.
Trao đổi về công tác giữ vững các tiêu
chí NTM trong giai đoạn tiếp theo, ông
Nguyễn Văn Trọng cho biết thêm, UBND
xã sẽ tiếp tục vận động người dân cùng
đóng góp để thực hiện nâng cấp, xây mới
thêm cơ sở hạ tầng cơ bản để bộ mặt nông
Nông thôn đổi mới Văn hóa Nông thôn mới
- 6 -
thôn của xã ngày càng khang trang, đồng bộ
hơn. Đồng thời, tạo điều kiện, hỗ trợ mọi
mặt để người dân tiếp cận KHKT, đầu tư
phát triển chăn nuôi, tiếp tục triển khai
nhiều chính sách, chương trình phát triển
kinh tế để góp phần nâng cao thu nhập của
người dân, phấn đấu đến năm 2020 đạt thu
nhập bình quân 58 triệu đồng/người/năm.
Trong đó, tập trung vào triển khai nhân
rộng các mô hình sản xuất hiệu quả, liên kết
thành lập các tổ hợp tác sản xuất, HTX để
nâng cao hiệu quả trong sản xuất…
Bài, ảnh: NGÔ THANH
Nguồn Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
…………………………………………….
Trung Hưng hướng đến Xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới Xã Trung Hưng, huyện Cờ Đỏ đã được công nhận danh hiệu Xã Văn hóa và đang xây
dựng Xã Nông thôn mới. Ngày 3-6 vừa qua, Trung Hưng đã làm lễ phát động xây dựng
Xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới theo Thông tư số 17/2011/TT- BVHTTDL của Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Theo qui định của Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du
lịch, Xã được công nhận
văn hóa nông thôn mới
cần đạt 5 tiêu chuẩn với
21 tiêu chí cụ thể. 5 tiêu
chuẩn đó là: Giúp nhau
phát triển kinh tế; nâng
cao chất lượng xây dựng
gia đình văn hóa, ấp văn
hóa; xây dựng thiết chế và
phong trào văn hóa, thể
thao ở cơ sở; xây dựng
nếp sống văn minh, môi
trường văn hóa nông
thôn; chấp hành chủ
trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước và qui
định của địa phương.
Là xã văn hóa, Trung
Hưng đã có nền tảng về
thiết chế và phong trào
văn hóa - thể thao ở cơ sở.
Hiện nay, 7 ấp của xã đều
có các câu lạc bộ (CLB)
đờn ca tài tử, bóng đá,
bóng chuyền… sinh hoạt thường xuyên. Hằng năm, xã đều tổ
chức thi đấu giao lưu các môn thể thao, đờn ca tài tử giữa các
ấp. Riêng CLB bóng đá của xã đạt giải Nhì Giải vô địch bóng
đá của huyện năm 2015, CLB Đờn ca tài tử luôn đạt giải Nhất
hoặc Xuất sắc trong các hội thi của huyện… Trong đó, có 3
giọng ca đạt giải cao trong cuộc thi "Chuông vàng vọng cổ
2015" là Tô Kim Phương, Trung Đẳng và Tô Tất Loan.
Tình làng nghĩa xóm, tinh thần "tương thân, tương ái" luôn
được bà con ở Trung Hưng gìn giữ. Không chỉ giúp nhau làm
kinh tế, nâng cao đời sống, mọi người còn tương trợ nhau lúc
ốm đau, khó khăn, hoạn nạn, tặng quà, gạo cho người nghèo
dịp lễ, Tết… Hiện xã có trên 50 hộ nghèo, khó khăn được các
mạnh thường quân hỗ trợ 15kg gạo/tháng/hộ. Bà con còn góp
chi phí mua 3 xe cứu thương từ thiện và thường xuyên hỗ trợ
nguồn quỹ để duy trì hoạt động của các xe cứu thương, giúp
vận chuyển người bệnh đến các cơ sở y tế kịp thời.
Ông Nguyễn Văn Phát, Phó Chủ tịch UBND xã Trung
Hưng, cho biết: "Trung Hưng có được nền tảng cơ bản từ việc
xây dựng xã đạt chuẩn văn hóa. Hiện địa phương đang dồn
sức cho việc xây dựng, hoàn thiện các cơ sở hạ tầng, hệ thống
giao thông, trường lớp… Bên cạnh sự tiếp sức từ nguồn ngân
sách của huyện, xã còn nhận được sự hưởng ứng tích cực của
nhân dân qua việc góp tiền, góp sức để thực hiện các công
trình công cộng". Năm 2015, nhân dân xã Trung Hưng đã
đóng góp công sức và trên 3 tỉ đồng xây dựng mới 9 cây cầu
bê tông. Trong đó, cầu Trung Hưng 2 có qui mô lớn nhất với
kinh phí trên 1,4 tỉ đồng. Bà con ở ấp Thạnh Quới 1 và Thạnh
Nông thôn đổi mới Văn hóa Nông thôn mới
- 7 -
Hưng 2 đã góp tiền lắp
đèn chiếu sáng một số
tuyến đường vào ban
đêm; những ấp khác cũng
đang vận động nhân dân
thực hiện. Ngoài ra, trong
quá trình xây dựng xã
nông thôn mới, xã Trung
Hưng được huyện hỗ trợ
kinh phí xây dựng mới và
nâng cấp 4 trường học,
trạm y tế và 4 tuyến
đường dài 9,6km…
Năm 2016, để chuẩn bị
cho quá trình xây dựng
Xã đạt chuẩn văn hóa
nông thôn mới, chính
quyền địa phương tiếp tục
huy động nhiều nguồn lực
thực hiện các công trình
phúc lợi xã hội. Hiện xã
đã nhận được sự hỗ trợ từ
quỹ Vì người nghèo, các
doanh nghiệp, ngân hàng,
Hội Bảo trợ Bệnh nhân
nghèo… để chuẩn bị xây
dựng 34 căn nhà đại đoàn
kết cho các hộ khó khăn
về nhà ở. Tại buổi lễ phát động xây dựng Xã đạt chuẩn văn
hóa nông thôn mới, Trung Hưng đón nhận trên 360 triệu đồng
kinh phí đóng góp của nhân dân, các đoàn thể để chuẩn bị xây
dựng các công trình cầu đường. Trong đó, nhân dân ấp Thạnh
Quới 1 đóng góp 100 triệu đồng và Huyện Đoàn hỗ trợ 20
triệu đồng cùng 100 bao xi măng để xây dựng mới cầu Xẻo
Vừng; nhân dân ấp Thạnh Trung cùng cán bộ xã đóng góp
140 triệu đồng để nâng cấp, mở rộng cầu Kinh Mới… Đặc
biệt, lão nông Lê Văn Sáu ở ấp Thạnh Hưng 2 hiến 2.600 mét
vuông đất cho xã để xây dựng nghĩa trang nhân dân. Ông Sáu
còn là một tấm gương người tốt, việc tốt tiêu biểu ở địa
phương với nhiều hoạt động từ thiện xã hội như: xây cầu, làm
đường, hỗ trợ gạo cho người nghèo, tặng quà trung thu cho trẻ
em có hoàn cảnh khó khăn… Ông Sáu tâm tình: "Bà con đồng
tình ủng hộ việc xây dựng xã văn hóa nông thôn mới nên hết
lòng đóng góp cho các phong trào. Tôi cũng như mọi người,
giúp được gì cho địa phương thì làm, chỉ mong quê hương
ngày càng phát triển, đời sống của bà con ngày càng tốt
hơn!".
Xã Trung Hưng đã có nền tảng vững chắc và khởi đầu tốt
đẹp để tiến tới danh hiệu cao hơn. Ông Huỳnh Văn Bằng, Bí
thư xã Trung Hưng, nhấn mạnh: "Xã sẽ phát huy sức mạnh
của cả hệ thống chính trị và nhân dân, cùng chung sức đưa
mục tiêu được công nhận Xã văn hóa nông thôn mới thành
hiện thực".
Bài, ảnh: Lệ Thu
Nguồn http://www.baocantho.com.vn/
Báo Cần Thơ Online
……………………………………..
Mỹ Đức hướng tới đô thị văn minh hiện đại iệc thực hiện “Năm trật tự và
văn minh đô thị” tại huyện Mỹ
Đức (Hà Nội) được gắn với nâng
cao chất lượng xây dựng gia đình văn hóa,
xây dựng nông thôn mới. Đến nay, diện mạo
đô thị của Mỹ Đức có nhiều đổi thay, hướng
tới đô thị văn minh hiện đại...
V
Diện mạo đô thị của Mỹ Đức có nhiều đổi thay.
Nông thôn đổi mới Văn hóa Nông thôn mới
- 8 -
Đề cao vai trò giám sát của nhân dân
Để nâng cao hơn nữa niềm tin của nhân
dân đối với chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước, những bài học kinh
nghiệm trong quá trình thực hiện phát triển
kinh tế, xã hội nhiều năm qua được huyện
Mỹ Đức đặc biệt coi trọng. Cách đây hơn 2
năm khi triển khai thực hiện “Năm trật tự và
văn minh đô thị” huyện chỉ đạo theo
phương châm “Nhận thức đúng, chỉ đạo
toàn diện, thực hiện quyết liệt”. Do vậy,
ngay sau khi kiện toàn Ban Chỉ đạo từ
huyện đến cơ sở, Phòng Quản lý đô thị cơ
quan thường trực thị sát ở cơ sở, tham mưu
cho UBND huyện xây dựng kế hoạch sát
với thực tế, có trọng tâm, trọng điểm. Thêm
vào đó, vai trò giám sát, phát hiện của nhân
dân được đề cao để xử lý kịp thời vi phạm,
duy trì kỷ cương thực hiện trật tự văn minh
đô thị lâu dài, bền vững.
Nhờ kế hoạch xây dựng sát thực tế với
những giải pháp cụ thể nên quá trình thực
hiện “Năm trật tự và văn minh đô thị” đã
huy động được sự vào cuộc đồng bộ của các
ngành, đoàn thể. Điển hình, Phòng Giáo dục
và Đào tạo triển khai các giải pháp bảo đảm
an ninh, an toàn trường học, giáo dục an
toàn giao thông, sử dụng điện thoại đúng
quy định trong và ngoài nhà trường. Ban An
toàn giao thông huyện thường xuyên phối
hợp với Sở GTVT Hà Nội kiểm tra công tác
an toàn giao thông đường thủy nội địa tại xã
Hương Sơn, hồ Quan Sơn, Bến xe Tế Tiêu
nhằm phục vụ du khách an toàn nhất. Tại
ngã 5 Tế Tiêu, lực lượng Công an, Thanh
tra giao thông vận tải thường xuyên tuần
tra, kiểm soát xử lý xe taxi, xe ôm dừng đỗ
dưới lòng đường, trước cổng cơ quan đón
khách. Thêm vào đó, thực hiện “Năm trật tự
và văn minh đô thị” còn được gắn với nâng
cao chất lượng xây dựng gia đình văn hóa,
xây dựng nông thôn mới. Sau các đợt cao
điểm đều sơ kết rút kinh nghiệm, tăng
cường kiểm tra liên ngành để phát hiện kịp
thời và giải quyết dứt điểm vi phạm.
Gắn trách nhiệm của chính quyền cơ sở
Nhờ có di tích chùa Hương nổi tiếng và
điểm du lịch hồ Quan Sơn nên nhiều năm
qua huyện xác định đẩy mạnh phát triển
kinh tế theo hướng thương mại, dịch vụ và
quan tâm chỉ đạo bảo đảm trật tự đô thị, trật
tự an toàn giao thông. Đây là tiền đề để
huyện triển khai có hiệu quả “Năm trật tự
và văn minh đô thị” trong 3 năm qua.
Những phương án, rồi bài học kinh nghiệm
được đưa ra để giải quyết tồn tại ảnh hưởng
tới cảnh quan, văn minh đô thị. Cùng với
kiểm tra thường xuyên của lực lượng liên
ngành, giải pháp gắn trách nhiệm của chính
quyền sở tại với vi phạm trật tự đô thị là
một trong những giải pháp được duy trì từ
lâu để chống “tái vi phạm”.
Xác định thực hiện “Năm trật tự và văn
minh đô thị” là thời điểm thích hợp tạo
chuyển biến trách nhiệm của các cấp, các
ngành, ý thức của người dân nên huyện đề
cao tuyên truyền, kiểm tra liên ngành. Cùng
với xác định tuyến đường, khu vực trọng
điểm, Mỹ Đức còn tập trung đầu tư duy tu
sửa chữa các tuyến đường, lắp đặt đèn điện
tử trang trí tại thị trấn Đại Nghĩa, khu vực
ngã tư Đục Khê (xã Hương Sơn) và cổng
chào huyện. Trung tâm xã Đốc Tín trước
khi vào Khu di tích chùa Hương cũng được
đầu tư xây dựng hệ thống đèn chiếu sáng
với chiều dài 400m.
Trồng mới hàng trăm cây sao đen,
phượng vĩ, trang trí hàng trăm chậu hoa tại
Nông thôn đổi mới Văn hóa Nông thôn mới
- 9 -
thị trấn Đại Nghĩa. Duy trì thường xuyên hệ
thống đèn chiếu sáng thị trấn Đại Nghĩa, xã
Hương Sơn, Đốc Tín, Hồng Sơn, An Phú,
Thượng Lâm phục vụ chiếu sáng cho nhân
dân và du khách về tham quan chùa Hương
thuận lợi, an toàn. Tổ chức sơn kẻ phân làn,
kẻ vạch sơn 1,5m trên vỉa hè nhằm chống
lấn chiếm, tạo thông thoáng cho tuyến
đường và dành phần đường cho người đi
bộ. Cắm thêm biển hướng dẫn giao thông,
chấn chỉnh hoạt động bến xe, điểm đỗ xe
tĩnh, tụ điểm họp chợ dưới lòng đường và xây
dựng thêm các tuyến phố văn minh đô thị.
Để tạo điểm nhấn, năm 2016 Mỹ Đức
tập trung hoàn thiện vườn hoa dọc tuyến bờ
sông Đáy tại thị trấn Đại Nghĩa với diện
tích 1.856m2 nơi cổng chào huyện tiếp giáp
địa bàn huyện Ứng Hòa. Với hệ thống hạ
tầng kỹ thuật đồng bộ, vườn hoa trở thành
không gian công viên, sân chơi lý tưởng
cho người dân. Hệ thống cây xanh ven sông
sẽ góp phần quan trọng cải thiện khí hậu,
tạo dựng cảnh quan môi trường thân thiện,
xanh, sạch văn minh đô thị cho thị trấn. Đây
là một trong những công trình góp phần
thay đổi diện mạo của huyện theo hướng
hiện đại, văn minh.
Để bảo đảm kỷ cương “Năm trật tự và
văn minh đô thị 2016” và hướng tới đô thị
văn minh hiện đại, trên cơ sở kết quả đạt
được, lãnh đạo huyện Mỹ Đức tiếp tục yêu
cầu các xã, thị trấn rà soát lại kế hoạch, tập
trung giải quyết các tồn tại để có chuyển
biến tích cực hơn nữa. Đẩy mạnh phối hợp
đặt tên các tuyến đường, tiếp tục gắn biển
số nhà, biển ngõ, ngách theo quy định tại thị
trấn Đại Nghĩa và mở rộng ra các xã, vẽ sơ
đồ vị trí trên vỉa hè được phép bán hàng, đỗ
xe taxi... Diện mạo đô thị của Mỹ Đức sẽ có
nhiều đổi thay hơn nữa từ sự quyết liệt của
lãnh đạo huyện cùng sự chung sức đồng
lòng của mỗi người dân nơi đây.
Nhật Hạ
Nguồn http://hanoimoi.com.vn/
Báo Hà Nội Mới
……………………………………….
Đổi đời vùng biển Hậu Lộc:
Không ồn ào, không nợ đọng Với quyết tâm cao, Hưng Lộc đang dần về đích NTM trong năm 2016, còn Đa Lộc
cũng phấn đấu sớm hoàn thành mục tiêu này.
Là những xã bãi ngang của biển huyện
Hậu Lộc, xã Hưng Lộc và Đa Lộc đều đất
chật, người đông, tỷ lệ hộ nghèo cao nên
nguồn vốn huy động xây dựng NTM khó
khăn. Song với quyết tâm cao, Hưng Lộc
đang dần về đích NTM trong năm 2016,
còn Đa Lộc cũng phấn đấu sớm hoàn thành
mục tiêu này.
Dẫn chúng tôi đi thăm mô hình sản xuất
ngô ngọt đạt năng suất, hiệu quả cao trên
con đường liên thôn được trải bê tông
phẳng lì, ông Vũ Văn Liêm, Phó Bí thư
Đảng ủy xã Hưng Lộc cho biết mấy năm
trước, con đường này còn lầy lội ngập cả
bánh xe.
Từ khi xây dựng NTM, với sự đóng góp
của người dân và các nguồn vốn huy động
khác, gần 5km đường nông thôn đã đạt
chuẩn với kinh phí 7,7 tỷ đồng. Bê tông hóa
10km đường trục nội đồng với mức đầu tư
13 tỷ, trong đó ngân sách xã hỗ trợ 4 tỷ, dân
đóng góp 9 tỷ.
Nông thôn đổi mới Văn hóa Nông thôn mới
- 10 -
Cùng với việc hoàn thành các tuyến
đường giao thông, hệ thống rãnh thoát nước
được xây dựng mới, đảm bảo vệ sinh môi
trường. Nhờ đó, bộ mặt nông thôn của xã
thêm khang trang, sạch đẹp. Nếu không có
sự chỉ dẫn của ông Liêm, chúng tôi nghĩ
như lạc vào phố huyện nơi các nhà cao
tầng, ngói mới mọc lên san sát nhau từ
trung tâm xã Hưng Lộc nối sang xã Đa Lộc.
"Trong 5 năm qua với 3,2 tỷ đồng, trong
đó ngân sách xã 1,2 tỷ và nhân dân góp 2 tỷ,
xã đã xây mới và nâng cấp 4 nhà văn hóa
(NVH) thôn, đưa tổng số NVH đạt tiêu chuẩn
lên 12/12. Xã cũng làm mới 6 sân thể thao
thôn, tu sửa sân văn hóa xã đạt tiêu chuẩn.
Đặc biệt công trình trạm y tế xã được
xây mới 2 tầng và khuôn viên trạm với tổng
kinh phí 2,9 tỷ đồng, phục vụ tốt nhu cầu
khám chữa bệnh của người dân trong xã",
ông Nguyễn Văn Biển, Chủ tịch UBND xã
Hưng Lộc cho biết.
Là xã bãi ngang, tuy nhiên với 70% dân
số làm nông nghiệp nên khi bắt tay xây
dựng NTM, phát triển các lĩnh vực nông
nghiệp được xác định là mặt trận hàng đầu.
Vì thế, xã tập trung chỉ đạo chuyển dịch cơ
cấu mùa vụ, cây trồng vật nuôi trên cơ sở
ứng dụng KHKT, phát triển nhiều loại cây
trồng giá trị kinh tế cao như ngô ngọt, ớt,
hành tỏi... Nhờ đó, giá trị sản xuất đạt 160 -
180 triệu đồng/ha/năm.
Bên cạnh đó, chăn nuôi cũng được xã
chăm lo nên bà con yên tâm phát triển đàn
giống, quy mô trang trại. Hiện toàn xã có 17
trang trại, trong đó có 14 trang trại gà, 2
trang trại vịt với tổng đàn con là 119.294
con, bình quân mỗi trang trại sử dụng 2 lao
động có thu nhập cao, ổn định.
Ngoài ra đàn trâu, bò, lợn theo hướng
sản xuất hàng hóa cũng tăng nhanh khi có
luồng gió NTM. Tổng giá trị ngành chăn
nuôi của xã đạt 5,2 tỷ đồng, kết quả này góp
phần nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp
của xã, mang lại thu nhập đáng kể cho
người dân.
Theo ông Nguyễn Văn Biển, qua hơn 5 năm xây dựng NTM, cái được lớn hơn cả của Hưng
Lộc là ý thức xây dựng tập thể, tinh thần vượt khó của người dân. Thực hiện chỉ đạo xây
dựng NTM của huyện là không nợ, không ồn ào, không chạy theo thành tích, việc gì dễ làm
trước, việc gì khó làm sau, đến nay xã đã đạt 16/19 tiêu chí.
Hoàng Bình
Nguồn http://nongnghiep.vn/
Báo Nông nghiệp Việt Nam
……………………………………………
Hà Tĩnh xây dựng xã NTM kiểu mẫu: Hướng đến sự hài lòng
của người dân au 6 năm thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới (NTM), tỉnh Hà
Tĩnh đã có 52 xã về đích. Để duy trì và phát triển bền vững những kết quả đó,
tỉnh Hà Tĩnh đã đi đầu xây dựng xã NTM kiểu mẫu, với mục tiêu từ nay đến
năm 2020 sẽ có 12 xã đạt chuẩn.
Xây dựng được 12.000 mô hình sản xuất
S
Nông thôn đổi mới Văn hóa Nông thôn mới
- 11 -
Trò chuyện với PV, ông
Trần Huy Oánh - Chánh
Văn phòng Điều phối xây
dựng NTM tỉnh Hà Tĩnh
nói: “Không phải ngẫu
nhiên mà Ban Chỉ đạo
Chương trình xây dựng
NTM T.Ư ghi nhận và
đánh giá cao cách làm sáng
tạo của tỉnh Hà Tĩnh, đồng
thời đề nghị nhân rộng trên
địa bàn.
Để có được sự ghi nhận
đó, trong 6 năm qua cả hệ
thống chính trị từ tỉnh đến
huyện, xã, thôn xóm trên
địa bàn đã xây dựng lộ
trình thực hiện bài bản,
sáng tạo, nhằm góp phần
phát triển sản xuất, nâng
cao thu nhập cho cư dân
nông thôn”.
Ông Oánh nói thêm:
“Quá trình triển khai cho
thấy sự chỉ đạo quyết liệt
và tâm huyết từ tỉnh đến
tận thôn xóm đã thổi luồng
gió mới đến mọi tầng lớp
nhân dân, từ đó hình thành
các mô hình tốt, cách làm
hay. Đến nay, bình quân
các xã đạt 13,7 tiêu chí
(tăng 10,2 tiêu chí/xã so
với 5 năm trước), 52 xã đạt
chuẩn (đạt 23%), không
còn xã dưới 8 tiêu chí. Đặc
biệt, nhờ triển khai thực
hiện tái cơ cấu ngành nông
nghiệp sớm (từ năm 2011
với việc xác định 13 loại
sản phẩm nông nghiệp chủ
lực và thực hiện 4 “hóa”
(doanh nghiệp hóa - liên kết
hóa - xã hội hóa - quốc tế
hóa), nông nghiệp đã phát
triển nhanh với gần 12.000
mô hình sản xuất kinh doanh
đạt hiệu quả cao”.
Xây dựng thêm tiêu
chí 20
Về thôn Tân Văn, xã
Thạch Văn (huyện Thạch
Hà) - thôn đạt chuẩn khu
dân cư NTM kiểu mẫu, nơi
đã vinh dự đón Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng về
thăm hồi tháng 4.2016, ông
Nguyễn Kim Uy - Trưởng
thôn chia sẻ: “Việc kết hợp
phát triển kinh tế vườn với
xây dựng NTM không chỉ
giữ được nét bình dị của
làng quê mà còn giúp bà
con trong thôn có thu nhập
cao. Mỗi khu vườn mẫu
đều cho thu hoạch từ vài
chục đến vài trăm triệu
đồng/năm”.
Đặc biệt, để nâng chất
các xã đạt chuẩn NTM, Hà
Tĩnh đã sáng tạo thêm tiêu
chí 20: “Xây dựng khu dân
cư NTM kiểu mẫu, vườn
mẫu”. Đây được xem là
bước đột phá để duy trì và
tăng thêm các giá trị của xã
về đích NTM mà đến thời
điểm này chưa có tỉnh nào
thực hiện. Sau khi Hà Tĩnh
ban hành bộ tiêu chí riêng
của tỉnh, đã có 12 xã đăng
ký lộ trình đạt chuẩn xã
NTM kiểu mẫu giai đoạn
2015-2020.
“Theo đó, xã đạt chuẩn
NTM kiểu mẫu là xã đã được
công nhận đạt chuẩn NTM
và phải có 6 tiêu chí đạt
chuẩn theo quy định, ví dụ
như phải có mô hình nông
nghiệp ứng dụng công nghệ
cao đạt doanh thu tối thiểu 5
tỷ đồng, sản xuất các mặt
hàng nông nghiệp chủ lực có
liên kết với doanh nghiệp
chiếm 70% trở lên... Đặc biệt
về thu nhập, tối thiểu phải
bằng 1,2 lần so với mức quy
định xã đạt chuẩn trong năm
xét công nhận. Đường giao
thông phải được bê tông hóa,
nhựa hóa và có hệ thống đèn
chiếu sáng đạt từ 90% trở
lên...” - ông Oánh nói.
Hữu Anh - Ngô Thắng
Nguồn http://danviet.vn/
TW Hội ND Việt Nam
Xây dựng các tiêu chí NTM
phải tránh dàn hàng ngang
và phải chọn điểm nhấn. Xã
NTM kiểu mẫu phải thực
chất, vượt trội, bền vững,
đồng thời là nhân tố để nhân
ra diện rộng, trở thành
những miền quê đáng sống,
làm cho người dân hài
lòng”.
Bí thư Tỉnh ủy Hà Tĩnh
Lê Đình Sơn
Nông thôn đổi mới Kỹ thuật nông nghiệp
- 12 -
Sản xuất hữu cơ, cần gì để phát triển?
Để tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp sản
xuất nông nghiệp hữu
cơ tiếp tục đứng vững
và mở rộng sản xuất,
đại diện một số đơn vị
đã có nhiều kiến nghị.
Một trang trại nông nghiệp hữu cơ
Dù một vài đơn vị sản xuất nông nghiệp
hữu cơ tiên phong như Hoa Viên đã nhận
được sự định hướng và giúp đỡ rất tận tình
của Sở NN-PTNT Hà Nội, Chi cục BVTV,
Chi cục Thú y, địa phương sở tại và các
chuyên gia đầu ngành về nông nghiệp, Hiệp
hội Hữu cơ Việt Nam nhưng cơ bản vẫn còn
nhiều khó khăn.
Thứ nhất là tài chính. Hiện nay hầu hết các
doanh nghiệp nông nghiệp đều nhỏ bé, thiếu
vốn đầu tư, đặc biệt là vốn đầu tư dài hạn để
đầu tư cơ sở hạ tầng trang thiết bị công nghệ
hiện đại, nâng cao năng suất và chất lượng
sản phẩm. Nguồn vốn chủ yếu của doanh
nghiệp là đi vay ngân hàng, chưa tiếp cận
được các nguồn vốn hỗ trợ khác. Do nguồn
tài chính hạn hẹp nên doanh nghiệp chỉ có thể
đầu tư trên diện tích hạn chế, sản lượng ít,
chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Chi
phí đầu vào lớn trong khi thu nhập từ sản
phẩm hữu cơ còn chưa tương xứng với giá trị
thực nên trong sản xuất rau hữu cơ doanh
nghiệp vẫn đang phải bù lỗ.
Thứ hai là việc tiêu thụ sản phẩm gặp
nhiều khó khăn do nhận thức về lợi ích
của đa số người tiêu dùng về sản phẩm
hữu cơ còn hạn chế. Mặt khác tâm lý hoài
nghi sạch, bẩn lẫn lộn cũng ảnh hưởng
không nhỏ.
Thứ ba, nhà nước chưa có chính sách
chứng nhận sản phẩm hữu cơ cho thị trường
nội địa, dù doanh nghiệp sản hữu hữu cơ
tuân thủ tuyệt đối quy trình vẫn chưa được
công nhận, ảnh hưởng rất lớn đến phát triển
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Thứ tư là, bản thân doanh nghiệp sản xuất
hữu cơ không thể kiểm soát chặt chẽ được
sản phẩm đến tay người tiêu dùng, việc làm
hàng giả, hàng nhái có thể xảy ra gây mất
lòng tin ảnh hưởng đến uy tín của những
người sản xuất hữu cơ chân chính.
Thứ năm là công tác kiểm tra giám sát
chất lượng sản phẩm nông nghiệp của cơ
quan quản lý còn nhiều hạn chế nên vẫn có
tình trạng các sản phẩm rau quả kém chất
lượng được tiêu thụ tại thị trường nên ảnh
Nông thôn đổi mới Kỹ thuật nông nghiệp
- 13 -
hưởng đến khả năng tiêu thụ và tâm lý của
những doanh nghiệp làm ăn chân chính...
Cuối cùng, việc vận chuyển rau hữu cơ
trong nội thành Hà Nội bị hạn chế do quy
định cấm, hạn chế xe tải nên doanh nghiệp
phải sử dụng các phương tiện thay thế dẫn
đến chi phí cao, hiệu quả kinh tế thấp.
Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
sản xuất nông nghiệp hữu cơ tiếp tục đứng
vững và mở rộng sản xuất đại diện một số
đơn vị đã kiến nghị như sau:
1. Cơ chế chính sách: Nhà nước cần có
hệ thống văn bản pháp quy về tiêu chuẩn,
quy chuẩn quản lý nhà nước về nông nghiệp
hữu cơ từ sản xuất, chế biến, chứng nhận
chất lượng sản phẩm hữu cơ. Nhà nước cần
có cơ chế bảo lãnh, hỗ trợ doanh nghiệp tiếp
cận nguồn vốn vay dài hạn với lãi suất thấp
để doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ cao
trong vấn đề sản xuất hữu cơ; đầu tư cơ sở
hạ tầng cho sản xuất và chế biến. Ngoài ra,
cần có cơ chế chính sách hỗ trợ tiêu thụ sản
phẩm hữu cơ, hỗ trợ 100% kinh phí tham
gia các gian hàng tại hội chợ, hỗ trợ tiền
thuê cửa hàng, hỗ trợ trang thiết bị cơ sở hạ
tầng thương mại.
2. Hỗ trợ chuyển giao công nghệ: Nhà
nước cần hỗ trợ cho doanh nghiệp được tiếp
cận với quy trình sản xuất nông nghiệp hữu
cơ của các nước tiên tiến trên thế giới.
3. Công tác tuyên truyền quảng bá sản
phẩm: Nhà nước cần tăng cường công tác
tuyên truyền quảng bá để người tiêu dùng
hiểu rõ hơn về các sản phẩm sản xuất hữu
cơ. Tổ chức PR truyền thông để đưa sản
phẩm chất lượng đến với người tiêu dùng
một cách hiệu quả nhất.
4. Quản lý giám sát: Công tác thanh tra
kiểm tra chất lượng sản phẩm nông nghiệp
cần được thực hiện một cách nghiêm ngặt, có
cơ chế thưởng phạt minh bạch rõ ràng để
khích lệ các doanh nghiệp làm ăn chân chính.
Xử lý nghiêm minh các đơn vị cá nhân làm
hàng nhái hàng giả để đảm bảo công bằng
cho các doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc và
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
5. Đào tạo nâng cao năng lực, trình độ,
nhận thức cho các doanh nghiệp sản xuất
hữu cơ.
VÂN ĐÌNH
Nguồn http://nongnghiep.vn/
Báo Nông nghiệp Việt Nam
…………………………………………
Kỹ thuật trồng Na dai Na sau khi cho thu hoạch 3 vụ thì quả nhỏ dần, cây cao khó lấy quả. Để có quả to
mập cần đốn trẻ lại từ năm thứ 5 trở đi, sau đó cứ 3 năm đốn một lần. Lần đốn đầu cách
mặt đất 0,5m, những lần sau cách lần trước 0,2-0,3m.
1. Nhân giống
Na được trồng chủ yếu
bằng hạt. Vào giữa vụ chọn
cây mẹ năng suất cao, chất
lượng tốt, đã cho thu 4-5 vụ
quả ổn định. Chọn quả mắt to,
tròn đều, trọng lượng 200-300g/quả, để chín
kỹ. Sau khi ăn, thu lấy hạt cho vào rổ nhựa
mắt nhỏ, dùng tro bếp, cát to xát bỏ hết thịt
quả, đãi sạch, phơi khô giòn
trong nắng nhẹ 20-30°C (không
phơi vào buổi trưa nắng to). 15-
20 ngày sau đem gieo. Trước
khi gieo ngâm hạt trong nước
sạch 12-24 giờ, đãi sạch, ủ hạt
trong cát ẩm. 15-20 ngày sau hạt nứt nanh,
cho vào bầu nylon thủng hai đáy kích thước
5x20cm; chất độn bầu gồm 70% đất bùn ải
Nông thôn đổi mới Kỹ thuật nông nghiệp
- 14 -
khô đập vụn + 29% phân chuồng mục + 1%
supe lân, hạt đặt sâu 2-3cm. Xếp bầu thành
luống, làm giàn che mưa to, nắng rát, sương
lạnh. Cây con 2-3 tháng tuổi cao 20-25cm,
có 5-6 lá thật, thân mập thì xuất vườn.
Có thể nhân giống na bằng phương pháp
nhân giống vô tính (ghép mắt, ghép cành).
Gốc ghép dùng cây gieo bằng hạt của nó
hoặc mãng cầu xiêm, bình bát. Khi đường
kính cây đạt 0,8-1cm có thể tiến hành ghép.
Mắt ghép lấy trên cành đã rụng lá. Nếu gỗ
đủ già mà lá chưa rụng thì cắt phiến lá để
lại cuống, 2 tuần sau cuống sẽ rụng và có
thể lấy mắt ghép.
2. Trồng và chăm sóc
Chọn đất đồi dốc dưới 15°C, tầng đất
đáy dưới 1m, tốt nhất là đất dỏi cơm, đất đá
vôi. Na ưa độ pH trung tính. Đất chua cần
bón 30g vôi bột/sào Bắc bộ/năm (1 sào Bắc
bộ = 360m2).
3. Thời vụ
Vụ xuân trồng tháng 2-4, vụ thu trồng
tháng 8-10. Na dai nên trồng mật độ cao,
mỗi cây chiếm diện tích 2x3m. Hố trồng
được chuẩn bị trước 2-3 tháng, sâu 0,5m,
rộng 0,5m, hình vuông, chữ nhật hoặc hình
tròn. Mỗi hố bón 20-30g phân chuồng hoai
mục + 0,2kg supe lân trộn đều với đất, ủ
trước 2-3 tháng. Cây trồng ở giữa hố, bầu
đặt ngang với mặt đất (không trồng sâu gây
nghẹt rễ, sinh trưởng kém), tưới nước, ấn
cho chặt gốc, duy trì độ ẩm 70-80%.
4. Chăm sóc thời kỳ kiến thiết cơ bản:
Trong 3 năm đầu cần bón nhiều đạm để
cây sinh trưởng thân, lá tốt. Bón NPK tỷ lệ
2:1:1. Cứ 1-2 tháng bón một lần khi thời tiết
mưa ẩm. Mỗi cây bón 0,1-0,2kg urê + 0,05-
0,1kg kali + 0,2-0,5kg supe lân, cách gốc
30-50cm. Phân chuồng bón 30-50kg, cách
gốc 50-60cm vào hai hốc đối xứng (đông-
tây hoặc nam-bắc).
5. Chăm sóc thời kỳ kinh doanh:
Bón làm 3 đợt trong năm, đợt 1 vào
tháng 2, tỷ lệ NPK là 1:1:1; đợt 2 vào tháng
6, tỷ lệ NPK là 1:1:2; đợt 3 sau khi thu quả
tháng 9, tỷ lệ NPK là 2:1:1. Lượng phân
bón ít hay nhiều tùy cây lớn hay nhỏ. Trung
bình mỗi cây bón 0,5-1kg urê, 0,5-1kg kali,
2-4kg supe lân, 30-50kg phân chuồng/năm.
Bón theo tán cây, thành 4 hốc đối xứng
nhau, độ sâu lấp phân 3-5cm.
Đốn trẻ: Na sau khi cho thu hoạch 3 vụ
thì quả nhỏ dần, cây cao khó lấy quả. Để có
quả to mập cần đốn trẻ lại từ năm thứ 5 trở
đi, sau đó cứ 3 năm đốn một lần. Lần đốn
đầu cách mặt đất 0,5m, những lần sau cách
lần trước 0,2-0,3m.
Kích thích cây ra hoa, quả sớm: Để có
na bán vào tháng 7 (giá gấp 1,5 lần chính
vụ) thì từ đầu tháng 11 tiến hành phun
Ethell (3 lọ thuốc rấm chuối Trung Quốc
15ml pha với 10 lít nước) lên tán lá, sau 10-
15 ngày vặt hết lá na xanh còn lại, cây sẽ ra
hoa vào đầu tháng 4.
6. Phòng trừ sâu bệnh
Mối hại gốc: Cây đang xanh tốt, lá úa
vàng, dùng thuốc Padan 0,2% tưới vào gốc
2-3 lần, mỗi lần cách nhau 6-7 ngày (mốc
hốc 2-3 lít nước thuốc để đuổi mối).
Làm sạch gốc na: Thường xuyên giữ
gốc thoáng sạch, không ủ bằng rơm, rạ, thân
lá để tránh mối hại rễ.
Nhện đỏ làm úa vàng, rụng lá, quả:
Dùng thuốc Sông Mã 24WG, Pegasus,
Regent… phun trừ.
Sâu đục quả: Thường gây hại khi quả có
đường kính 0,5-1cm, phòng chống bằng
thuốc Padan, Regent.
Theo Báo Kinh tế nông thôn
Nông thôn đổi mới Kỹ thuật nông nghiệp
- 15 -
“Lập trình” cho na ra quả theo ý muốn Nông dân huyện Lục Nam (Bắc Giang) có “tuyệt chiêu” bắt cây na ra hoa, đậu quả ở
bất kỳ vị trí nào trên thân, cành và bất cứ thời điểm nào
Ra quả từ thân
Chưa bao giờ, nông dân xã Huyền Sơn
thấy phấn khích với cây na như lúc này. Bởi
theo ông Bùi Văn Quang, Giám đốc HTX
Na dai Lục Nam: Một là, giá na rất cao. Hai
là, trồng na không bao giờ sợ mất mùa.
Cái thông tin phía sau chữ “hai là...” ấy
khiến tôi choáng. Nghĩ thầm, chắc vị này
“chém gió” cho vui. Nhưng, đó là sự thực.
Hồi ông Quang còn bé, đã thấy cây na
đứng chân ở vùng đồi núi Huyền Sơn. Mỗi
nhà chỉ trồng 2 - 3 cây, ăn chơi ăn bời trong
gia đình là chính. Từ năm 1995, nhờ có
thương lái miền xuôi làm “cầu nối”, thức
quả đặc sản này đã đến được bàn ăn của
người dân Thủ đô. Một làn na khoảng 50
quả bán được 260.000 đồng (tương đương
2/3 chỉ vàng thời bấy giờ). Thấy lợi nhuận
khủng, các đại gia vác tiền về đây mua đất,
trồng na.
Tuy nhiên, do không được chăm sóc
đúng cách, na cho năng suất thấp và bấp
bênh. Có năm, chỉ sau trận bão quét qua,
quả rụng đầy gốc. Nguyên do bởi trong điều
kiện tự nhiên, na thường ra hoa, đậu quả ở
đầu cành nên dễ bị gió quật. Cũng có năm,
na chín rộ chỉ trong 3 - 4 ngày, chủ vườn
không cắt kịp, trái lìa cành rơi bình bịch
xuống đất, vỡ nát.
Nắm thóp những điểm yếu trên, người
trồng na mày mò cách hoá giải. Trung tuần
tháng 11/2013, một nông dân xóm Khuyên,
xã Huyền Sơn thử nghiệm cắt cành để cho
cây thấp bớt, tránh gió bão. Nhưng khổ nỗi,
sang xuân, cây chỉ chồi lộc ở thân chứ
không ra hoa. Nguy cơ mất mùa hiện rõ.
Chủ vườn tiếp tục đánh liều, cắt cụt ngọn
cành non mới mọc ra từ thân cây. Bất ngờ,
sau 20 - 25 ngày, từ những kẽ lá của cành
cây cụt đua nhau nhú hoa, đậu quả. Quả na
hút dinh dưỡng trực tiếp từ thân cây nên
căng mọng, ngọt lịm và nhiều nước. Dù ra
hoa chậm hơn 1 tháng, nhưng năng suất
vườn na diện tích 3 sào của ông vẫn đạt 2,1
tấn (tương đương 20 tấn/ha). Một thành tích
mơ ước người trồng na.
Ép hoa nở bất cứ lúc nào
“Kỹ nghệ” trồng na độc nhất vô nhị này
được phổ biến ra toàn vùng. Nhờ đó, người
ta có thể điều khiển cây na chín sớm, chín
muộn hay chín đúng vụ tùy thích bằng
cách... cắt cành. Từ trung tuần tháng 6 âm
lịch, thương lái đã đánh xe tải lên Lục Nam
mua na, trong khi ở các vựa na khác như
Chi Lăng (Lạng Sơn), Chí Linh (Hải
Dương), quả na vẫn xanh lét. Giá bán na
đầu mùa bao giờ cũng đắt (45.000 - 50.000
đồng/kg), thậm chí có thời điểm lên tới
60.000 đồng/kg.
Ngay trong vùng na dai Lục Nam, cùng
một thời điểm, khi quả na vườn nhà này đã
to bằng quả trứng gà, chủ vườn bên cạnh
mới bắt đầu thụ phấn cho hoa để đón vụ na
chín muộn, bán giá cao. Nhờ đó, na Lục
Nam có thể rải vụ hơn 4 tháng (từ trung
tuần tháng 6 đến hết tháng 10 âm lịch). Na
không chín rộ trong thời gian ngắn, nghĩa là
không có chuyện ứ hàng. Và tất nhiên, cánh
thương lái không thể ép giá. Thậm chí,
thương lái ở Vĩnh Phúc, Nam Định, Thái
Bình, Hà Tĩnh, Thừa Thiên - Huế kéo đến
tận vườn để đặt cọc. Hiện tại, giá na loại 1
khoảng 28.000 - 30.000 đồng/kg, khá cao.
Nông thôn đổi mới Kỹ thuật nông nghiệp
- 16 -
Điểm khác biệt nhất của na dai Lục Nam
nằm ở màu sắc vỏ sáng bóng và độ bền của
quả. Dù đặt trên bàn thờ cả tuần, quả na
cũng không bị thâm vỏ như các loại na
trồng ở vùng đất khác. Bởi, na Lục Nam
được trồng ở những vùng đất rất khác biệt:
Địa hình cao, ráo nước nhưng chất đất giàu
dinh dưỡng, màu đen như kiểu mùn giun.
Nông dân Lục Nam tuyệt đối không bón
phân hóa học cho vườn na, thay vào đó là
phân bón hữu cơ gồm phân trâu (hoặc phân
gà) trộn lẫn tro rơm ủ hoai mục trong 8
tháng. Trong tro rơm có nhiều kali nên quả
ngọt, rất bền và cây khỏe mạnh, đủ dưỡng
chất nên gần như không có sâu bệnh.
Cá biệt, thu 800 triệu đồng/ha
Trước đây, nông dân để vườn na thụ
phấn tự nhiên nhờ côn trùng. Buổi sáng,
chiều tối con ong đi ăn phấn của hoa già.
Khi trời nắng, chúng chui vào bông hoa non
mới hé để trú ngụ vô tình thụ phấn cho hoa,
nhưng phấn dính trên chân lông con ong
không đều dẫn đến quả tròn quả vẹo, tỷ lệ
đậu quả không cao.
Thấy thế, bà con tự thụ phấn bằng cách
gom phấn hoa già sau đó thụ phấn cho hoa
non, quả non lớn lên rất đẹp mã. Nếu phát
hiện quả nào còi cọc, méo mó, chủ vườn có
thể cắt bỏ đi và cho ra hoa lứa khác để lấy
quả đẹp hơn.
Hộ ông Trần Văn Báo (xóm Khuyên) chỉ
có 5 sào trồng na. Lão nông này rải vụ na ra
làm hai đợt. Riêng đợt 1 đã thu được 100
triệu nhưng chưa cắt hết quả. Còn vụ na đợt
2 dự kiến thu được 50 triệu nữa. Như vậy,
nếu diện tích trồng na của nhà ông Báo là
1ha, thì số tiền thu được sẽ là trên 830 triệu
đồng. Trừ chi phí đầu tư phân bón khoảng
50 triệu đồng, lợi nhuận mà nông dân thu
được rất lớn.
Những hộ gia đình có vườn na cho năng
suất thuộc loại trung bình như ông Phương
Minh Hiến (xóm Khuyên) cũng đạt năng suất
từ 18 - 20 ha/vụ. Mặc dù vừa thu hoạch xong
lứa na thứ nhất (bắt đầu từ 25/6 - 24/8), thu
260 triệu đồng. Tuy nhiên, ông vẫn còn lứa na
thứ hai, dự kiến trung tuần tháng 10 sẽ bắt đầu
cho thu, giá trị 200 triệu nữa.
Để có na chín thường xuyên, bí quyết
của ông Phương Minh Hiến là: Từ tháng
giêng trở đi, mỗi ngày ông phương chỉ cắt
cành khoảng 10 gốc na. Nếu là cây khỏe,
đúng 20 ngày sau chúng sẽ ra hoa, còn cây
yếu hơn là 25 ngày. Như vậy, hoa được thụ
phấn theo từng đợt, rải đều trong nhiều
tháng và quả chín từ từ.
Được biết, hiện toàn huyện Lục Nam có
hơn 1.700ha na, doanh thu hàng trăm tỷ
đồng mỗi năm. Để xây dựng và phát triển
thương hiệu na dai Lục Nam, trước mắt,
UBND huyện đã hỗ trợ cho HTX Na dai
Lục Nam chi phí về túi ni lông (có in địa
chỉ và hình ảnh của vùng na Lục Nam) để
phát không cho thương lái (tương ứng với
số lượng na bán ra), từ đó dễ dàng truy xuất
nguồn gốc. Đồng thời, huyện cũng đang
nghiên cứu cơ chế hỗ trợ một phần phân
bón và các loại thuốc BVTV cho nông dân
theo đúng quy trình sản xuất VietGAP.
Ông Quang bên một cây na ra quả từ thân
Nông thôn đổi mới Kỹ thuật nông nghiệp
- 17 -
Theo ông Bùi Văn Quang, hiện tại,
tổng diện tích trồng na của HTX Na dai
Lục Nam có gần 100ha, trong số đó có
3,6ha đã được chứng nhận sản xuất theo
tiêu chuẩn VietGAP. Cách đây chừng 1
tuần, Cty CP Nông lâm nghiệp Việt Nam
đã bắt đầu thu mua na dai của HTX và
xuất khẩu sang thị trường Trung Đông.
Đây là tín hiệu vô cùng đáng mừng.
MINH PHÚC - TRẦN LONG
Nguồn http://nongnghiep.vn/
Báo Nông nghiệp Việt Nam
…………………………………………………..
Chăm sóc gia súc, gia cầm trong mùa mưa bão
Mưa bão là yếu tố bất lợi, ảnh
hưởng rất lớn đến sức khỏe gia
súc, gia cầm; đồng thời khi mưa to,
có thể gây ngập úng cục bộ hoặc
lụt trên diện rộng, tạo cơ hội phát
tán mầm bệnh, là điều kiện thuận
lợi để phát sinh dịch bệnh trên đàn
gia súc, gia cầm.
Khi gió lớn, những cơn gió giật có thể gây
đổ nhà, chuồng nuôi gia súc, gia cầm. Vì vậy,
chăm sóc gia súc, gia cầm trong mùa mưa bão,
để tăng sức khỏe cho gia súc, gia cầm, tăng
khả năng chống chịu các tác động bất lợi của
ngoại cảnh và sự đe dọa của bệnh dịch là rất
cần thiết.
Để làm được điều đó, bà con phải thực hiện
tốt một số công việc sau đây:
1. Chuồng trại
Vị trí chuồng nuôi nên chọn nơi cao ráo, dễ
thoát nước, cách các chuồng nuôi khác, xa khu
đông dân nhằm hạn chế nguy cơ truyền lây
dịch bệnh cho con người và ngược lại. Chuồng
nuôi nên xây dựng xa vùng lũ quét.
Chuồng nuôi phải chắc chắn, chống dột,
ngập lụt, có tấm che chắn mưa gió để bảo vệ
gia súc, gia cầm khi mưa to, gió lớn; phù hợp
với số lượng, đặc tính, lứa tuổi gia súc, gia
cầm. Ở những vùng đất trũng, nền chuồng
phải làm cao để tránh ngập úng. Có đủ bạt để
che mưa hắt.
Kiểm tra hệ thống thoát nước chung của cả
khu vực, đặc biệt phải củng cố hệ thống thoát
nước thải, nơi chứa chất thải để hạn chế ô
nhiễm khi mưa to hoặc ngập lụt.
Đảm bảo cách ly giữa chuồng nuôi và khu
sinh hoạt hoặc giữa các chuồng nuôi. Nên có
hố sát trùng trước cửa chuồng nuôi.
Khu chứa chất thải (phân, rác và nước thải)
phải xa chuồng nuôi, cuối hướng gió, vị trí
thấp và xa nguồn nước ngầm, trường học,
bệnh viện…
2. Chăm sóc, nuôi dưỡng gia súc, gia cầm
Tăng cường chăm sóc, nuôi dưỡng cho gia
súc, gia cầm, để tăng sức khỏe, giúp gia súc,
Phun sát trùng trong chuồng nuôi
Nông thôn đổi mới Kỹ thuật nông nghiệp
- 18 -
gia cầm có đủ khả năng chống lại các tác động
bất lợi, hạn chế phát sinh dịch bệnh. Thực hiện
tốt kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng, phù hợp với
giống, lứa tuổi, tính biệt và mục đích sản xuất
của từng loại gia súc, gia cầm.
Đảm bảo nguồn thức ăn: cây cỏ là nguồn
thức ăn chính cho gia súc ăn cỏ, khi mưa bão,
cây cỏ dễ bị ngập, đổ và chết vì vậy cần chú ý
chủ động dự trữ nguồn thức ăn xanh, có thể
phơi khô (rơm và cỏ), ủ chua cỏ hoặc thân cây
bắp để đảm bảo nguồn thức ăn cho gia súc
trong mùa mưa bão. Đặc biệt nên lưu ý cung
cấp thêm cho gia súc ăn cỏ nguồn thức ăn tinh
để chúng có thêm nguồn dinh dưỡng cần thiết
giúp chống chọi với điều kiện thời tiết bất lợi
(nhưng chú ý tập cho gia súc ăn cỏ ăn thức ăn
tinh, ăn ít và tăng dần đến khoảng
2kg/con/ngày; cho ăn khô, không được hòa
nước cho uống). Với thức ăn, cần cung cấp đầy
đủ về số lượng và chất lượng, thức ăn cần bảo
quản ở những nơi khô ráo để tránh bị ẩm mốc.
3. Phòng bệnh cho gia súc, gia cầm
Tăng cường vệ sinh phòng bệnh cho gia súc,
gia cầm: thường xuyên quét dọn, vệ sinh sạch sẽ
trong và ngoài chuồng nuôi; định kỳ vệ sinh
máng ăn, máng uống, các dụng cụ chăn nuôi;
phun khử trùng trong và ngoài chuồng nuôi gia
súc, gia cầm để diệt mầm bệnh có trong môi
trường. Chuẩn bị dự phòng một số thuốc thú y
thiết yếu như thuốc trợ sức, trợ lực, kháng sinh
phổ rộng, thuốc sát trùng…
Đảm bảo vệ sinh thức ăn, nước uống, có
thể sử dụng Chloramin-B, Clorin… để khử
trùng nước đối với những nơi nguồn nước bị ô
nhiễm, đảm bảo cung cấp đủ nước sạch cho
vật nuôi.
Chủ động phòng bệnh bằng vắc xin: tiêm
phòng đầy đủ các vắc xin phòng bệnh thường
gặp ở vật nuôi như tụ huyết trùng cho trâu bò;
dịch tả lợn, tụ huyết trùng, đóng dấu lợn, phó
thương hàn, lở mồm long móng, tai xanh cho
lợn; cúm gia cầm, Newcastle, Gumboro, tụ
huyết trùng cho gà; cúm gia cầm, dịch tả vịt,
tụ huyết trùng cho vịt, ngan.
- Bổ sung các vitamin, thuốc trợ sức, trợ
lực, men tiêu hóa cho gia súc, gia cầm khi thời
tiết bất lợi.
- Thường xuyên kiểm tra sức khỏe đàn gia
súc, gia cầm, đặc biệt dễ nhận biết những bất
thường vào sáng sớm thông qua:
+ Lắng nghe: để phát hiện được những âm
thanh bất thường hoặc thiếu vắng âm thanh
hằng ngày.
+ Quan sát trạng thái vật nuôi để phát hiện
được những bất thường như uể oải, ủ rũ hoặc
hung hăng; kiểm tra trạng thái phân, nước
tiểu; đồng thời kiểm tra lượng thức ăn, nước
uống tiêu thụ hàng ngày của gia súc, gia cầm.
+ Ngửi: Nhận ra có mùi khác thường hay
sự kém thông thoáng… giúp biết được tình
trạng sức khoẻ đàn gia súc, gia cầm.
- Cách ly kịp thời những vật nuôi có biểu
hiện khác thường, chẩn đoán và điều trị nếu
cần thiết, không được bán hoặc phát tán gia
súc, gia cầm ốm, chết và chất thải của chúng
ra xung quanh, tránh lây lan dịch bệnh.
4. Khi gia súc, gia cầm bị mưa ướt
Khi gia súc, gia cầm bị mưa hắt hoặc dột…
ngâm nước hoặc ướt lâu sẽ làm mất nhiệt,
giảm sức đề kháng và dễ phát sinh bệnh., vì
vậy cần đưa ngay gia súc, gia cầm ướt vào
chuồng khô và ấm. Với gia cầm phải đưa lên
chuồng lồng, sàn hoặc nền có đệm lót khô. Bổ
sung vitamin, men tiêu hóa để tăng sức đề
kháng cho gia súc, gia cầm, nếu có biểu hiện
bệnh như rối loạn tiêu hóa, bệnh đường hô
hấp… thì phải điều trị kịp thời.
Nguyễn Liên Hương
Nguồn http://www.khuyennongvn.gov.vn/
Trung tâm Khuyến nông Quốc gia
Nông thôn đổi mới Kỹ thuật nông nghiệp
- 19 -
Nuôi lợn bằng men tiêu hóa sống Hương Canh là một trong 3 xã, thị trấn đầu tiên của huyện Bình Xuyên (Vĩnh Phúc)
thực hiện thí điểm sử dụng men tiêu hóa sống trong chăn nuôi lợn, góp phần giảm thiểu ô
nhiễm môi trường và nâng cao hiệu quả kinh tế.
Mô hình “Sử dụng men tiêu hóa sống trong
chăn nuôi lợn” do Trạm Khuyến nông huyện
Bình Xuyên phối hợp với Công ty TNHH
Thương mại và dịch vụ phát triển chăn nuôi
thực hiện từ năm 2013. Đến nay, người dân ở
thị trấn Hương Canh vẫn hưởng ứng sử dụng
men tiêu hóa sống cùng với thức ăn chăn nuôi,
đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Điển hình là gia đình bà Nguyễn Thị Hồng
ở tổ dân phố Vam Dộc. Năm 2013, bà đi tập
huấn ở UBND thị trấn và biết đến loại men
tiêu hóa sống này. “Dùng thử nghiệm, thấy
phân khô xốp, mùi hôi thối giảm bớt, hệ thống
chuồng trại bao quanh nhà không còn ảnh
hưởng như trước đây”, bà Hồng cho biết.
Chia sẻ kinh nghiệm, bà bảo: "Trộn thức ăn
theo tỷ lệ 1 thìa cafe men sống với 4 kg cám
ăn thẳng, rồi hòa với nước cho lợn ăn. Tuy
nhiên, tùy vào cân nặng cũng như thời gian
sinh trưởng của lợn mà thức ăn được điều
chỉnh cho phù hợp. Lợn xách tai mang về nuôi
ăn 200 gram cám/con/bữa, có khi lên tới 400
gram cám/con/bữa khi lợn phát triển lớn".
Để đảm bảo cho lợn sinh trưởng tốt và
nhanh xuất chuồng, mỗi ngày bà Hồng cho lợn
ăn 4 bữa, theo từng giờ 7 giờ, 12 giờ, 18 giờ
và 22 giờ. Ba bữa đầu, thức ăn là cám gạo, bột
ngô nấu trộn với men sống. Bữa phụ lúc 22
giờ, cho lợn ăn cám tổng hợp.
Mỗi con lợn nuôi từ khi "xách tai" đến khi
xuất bán khoảng 4 tháng, đạt trọng lượng 90 -
100kg, tiêu tốn 1kg men sống.
Ngoài việc làm tốt chế độ thức ăn, bà Hồng
cũng đảm bảo môi trường thuận lợi, thoáng
mát cho lợn sinh trưởng. Mùa hè, quạt mát sử
dụng triệt để, mùa đông che chắn bạt cẩn thận,
tránh lợn nhiễm rét. Hệ thống chuồng trại
được vệ sinh sạch sẽ, ngăn ngừa dịch bệnh.
Sau một lứa lợn xuất bán, việc vệ sinh chuồng
trại được tiến hành rửa chuồng bằng nước đun
sôi, quét vôi, phun khử trùng bằng thuốc
Benkocid hoặc Haliotis. Sau đó, để chuồng
trại khô ráo 10 - 15 ngày thì thả lứa lợn mới.
Với kinh nghiệm hơn 3 năm nuôi lợn dùng
men sống, bà Trần Thị Lan ở Tổ dân phố Nội
Giữa cho hay, trước đây gia đình xử lý hầm
biogas nhưng vẫn chưa giải quyết triệt để ô
nhiễm. Khi sử dụng men tiêu hoá sống cho lợn
ăn, mùi hôi thối giảm rõ rệt.
Bà Lan cũng cho biết thêm, sử dụng men
tiêu hoá sống trong thức ăn cho lợn giúp cung
cấp các vi sinh vật có lợi, thức ăn được tiêu
hóa triệt để, không còn chất dư thừa nên phân
xốp, mùi hôi thối giảm. Ngoài ra, lợn sinh
trưởng, phát triển tốt, quy trình chăn nuôi
giảm thiểu 10 - 15 ngày nhờ lợn ăn khỏe, hấp
thu tốt và đạt trọng lượng xuất bán.
Bên cạnh đó, lợn sử dụng men sống giúp
ngăn ngừa và hạn chế các bệnh tiêu chảy, thừa
chất và phù đầu. “Khi thời tiết thay đổi hoặc
chuyển đổi chuồng trại, lợn có dấu hiệu bị tiêu
Bà Trần Thị Lan tiến hành vệ sinh chuồng
trại thường xuyên, 3 lần/ngày
Nông thôn đổi mới Kỹ thuật nông nghiệp
- 20 -
chảy, chỉ cần tăng lượng men sống, giảm thiểu
thức ăn sẽ ngăn chặn được bệnh tiêu chảy ở
lợn”, bà Lan chia sẻ.
Ông Trần Đình Độ, Phó Chủ tịch Hội Nông
dân thị trấn Hương Canh cho biết: Sử dụng
men vi sinh bổ sung vào thức ăn, mùi hôi
chuồng trại chăn nuôi giảm đến 60%. Men
tiêu hoá sống trộn vào thức ăn cho lợn ăn hàng
ngày giúp lợn tiêu hoá và hấp thu triệt để thức
ăn, phân thải ra không còn lượng thức ăn dư
thừa nên giảm mùi hôi thối rõ rệt.
Ông Độ chia sẻ, nuôi lợn ở 60 hộ thí điểm
trong 2 đợt, đến nay các hộ chăn nuôi trên địa
bàn vẫn tiếp tục sử dụng men sống. Thấy hiệu
quả chăn nuôi cao nên hầu hết các hộ chăn
nuôi lợn ở thị trấn đều sử dụng, góp phần
giảm thiểu ô nhiễm môi trường, tăng hiệu quả
chăn nuôi.
Đỗ Thùy Mỵ
Nguồn: Báo Nông nghiệp Việt Nam
……………………………………………………
Nuôi ghép cá rô phi đơn tính và cá chép theo hướng
an toàn sinh học Là một trong 7 xã bán sơn địa của huyện Chương Mỹ (Hà Nội) với nguồn nước sạch từ
khe suối, xã Nam Phương Tiến có thế mạnh nuôi trồng thủy sản.
Được sự hỗ trợ của Trung tâm Khuyến
nông Hà Nội, xã triển khai mô hình nuôi ghép
cá rô phi đơn tính và cá chép theo hướng an
toàn sinh học.
Mô hình được triển khai trên tổng diện tích
3ha mặt nước của 7 hộ gia đình. Giữa tháng
6/2016, các hộ bắt đầu thả cá giống, mật độ 3
con/m2, tỷ lệ nuôi ghép 40% cá chép và 60%
rô phi. Cá giống đạt kích cỡ từ 6 - 8cm, trung
bình 6 gram/con.
Trong hơn 2 tháng thả nuôi, cá sinh trưởng và
phát triển tốt, trung bình đạt 400 gram/con. Ông
Nguyễn Văn Cường (thôn Nam Hài) tham gia
mô hình cho hay: “Cá nuôi truyền thống với thức
ăn là cỏ, bột ngô và cám tăng trưởng chậm, hơn 2
tháng đạt chưa đến 100 gram. Tính đến thời điểm
này cá trong mô hình tăng trưởng gấp 5 lần so
với nuôi truyền thống”.
Ông Cường cho biết thêm, với mô hình
nuôi truyền thống phải mất 9 - 10 tháng mới
cho được thu hoạch. Với tốc độ cá sinh trưởng
trong mô hình như hiện nay, thời gian xuất
bán có thể rút ngắn chỉ còn 6 tháng.
Được biết, mỗi ngày ông Cường tiến hành
cho cá ăn 2 lần, buổi sáng 6 - 8 giờ, buổi chiều
16 - 18 giờ. Tùy theo trọng lượng của cá để
điều chỉnh khẩu phần ăn cho phù hợp với
trọng lượng của cơ thể. Cá nhỏ hơn 100 gram
ăn theo tỷ lệ 3 - 5% trọng lượng cơ thể. Khẩu
phần ăn điều chỉnh giảm dần khi cá lớn hơn,
cá 100 - 300 gram cho ăn 2 - 3%, và chỉ còn
1,5% khi cá lớn hơn 300 gram. Việc điều
chỉnh lượng thức ăn trong mỗi giai đoạn phát
triển của cá hạn chế nguồn dư thừa thải ra môi
trường ao nuôi. Khi thời tiết thay đổi, khả
năng ăn của cá giảm nên giảm thiểu lượng
thức ăn. “Khi cá có hiện tượng nổi đầu thì
không cần cho ăn”, ông Cường cho biết.
Để xử lý môi trường ao nuôi, gia đình ông
Cường tiến hành xử lý bằng chế phẩm sinh
học. Với diện tích ao nuôi rộng 4.300m2, chu
kỳ 20 ngày một lần, ông dùng 1,5kg men vi
sinh pha loãng 100 lít nước rồi tạt đều mặt ao.
“Nguồn nước suối dẫn vào ao rất sạch nên
công nghệ xử lý men vi sinh chỉ được thực
hiện 20 ngày/lần nhưng nước ao vẫn trong,
Nông thôn đổi mới Kỹ thuật nông nghiệp
- 21 -
sạch, màu xanh nõn chuối, cá sinh trưởng tốt”,
ông cũng cho biết thêm.
Sử dụng hệ thống quạt khí nhằm tăng
cường ôxy cho cá phụ thuộc vào thời tiết, khối
lượng và mật độ cá trong ao. Với thời tiết
thuận lợi, quạt khí chỉ sử dụng 12 tiếng/ngày.
Thời tiết lặng trời, nhu cầu ôxy của cá cao nên
quạt khí được sử dụng 24/24h.
Cũng tham gia mô hình nuôi cá an toàn
sinh học, anh Nguyễn Tự Dũng (thôn Núi Bé)
chia sẻ, mô hình vẫn còn mới mẻ với các hộ
dân nhưng nhờ sự hướng dẫn tận tình của cán
bộ kỹ thuật Trung tâm Khuyến nông Hà Nội
và Trạm Khuyến nông Chương Mỹ nên khi
nuôi cũ không gặp phải khó khăn.
Quy trình nuôi cá theo hướng an toàn sinh
học được thực hiện nghiêm ngặt từ công đoạn
tát cạn, vét bùn, phát quang bờ bụi tạo mặt
thoáng cho ao, bờ bao chắc chắn, kiểm tra và
lấp các chỗ rò rỉ đến khử trùng bằng vôi bột
theo liều lượng 7-10kg/100m2 diện tích ao nuôi.
Sau 3 ngày khử trùng bằng vôi, tiến hành
bón lót bằng cách rải đều khắp ao 20 - 30kg
phân chuồng ủ hoai và 50kg lá xanh băm nhỏ
rải cho 100m2. Sau đó, lấy nước vào ao từ 0,3
- 0,4m, ngâm 5 - 7 ngày, vớt hết bã xác phân
xanh. Đây là giai đoạn quan trọng để tạo màu
ao. Ao có màu xanh nõn chuối là đạt chuẩn
theo quy định.
Kết thúc quá trình cải tạo, ao nuôi được cấp
đủ lượng nước sâu 1,5 - 1,8m, màu xanh nõn
chuối, độ trong từ 25 - 30cm, độ pH đạt 7,5 - 8,
hàm lượng ôxy hòa tan đạt từ 4,5 - 5,5mg/l đảm
bảo đủ điều kiện để tiến hành thả cá giống.
Trước khi thả cá giống, bao cá ngâm trong ao từ
10 - 15 phút rồi mở miệng túi ra từ từ để cá
không bị sốc trong môi trường nước mới.
Đỗ Thùy Mỵ
Nguồn Báo Nông Nghiệp Việt Nam
………………………………………………
Công nghệ tạo bọt khí micro nano Ứng dụng công nghệ
bọt khí micro nano trong
nuôi tôm được đánh giá
cho hiệu quả cao, đảm
bảo hàm lượng ôxy hòa
tan, ổn định môi trường
nước. Theo đó, có thể
giúp nghề nuôi tôm của
Việt Nam chuyển hướng
tích cực trong thời gian
tới.
Ao nuôi của anh Dũng nước trong, màu
xanh nõn chuối giúp cá sinh trưởng tốt
Công nghệ tạo bọt khí micro nano giúp đảm bảo lượng ôxy hòa tan
trong ao nuôi
Nông thôn đổi mới Kỹ thuật nông nghiệp
- 22 -
Ưu điểm
Công nghệ Micro bubles lần đầu tiên được
nghiên cứu thử nghiệm trong nuôi trồng thủy
sản tại Nhật Bản, tại các mô hình nuôi hàu,
điệp quạt. Theo đó, tốc độ tăng trưởng của các
đối tượng nuôi được cải thiện do đảm bảo hàm
lượng ôxy hòa tan luôn ở mức tối ưu trong
suốt quá trình nuôi.
Trong nuôi tôm, để tăng cường hàm lượng
ôxy hòa tan, người nuôi thường sử dụng thiết
bị sục khí. Các thiết bị này có khả năng tạo
các bọt khí có kích thước từ vài mm đến cm.
Các bọt khí trao đổi ôxy với nước trong quá
trình di chuyển từ phía dưới lên trên bề mặt,
rồi vỡ ra khi tiếp xúc với không khí. Kích
thước bọt khí càng lớn tốc độ di chuyển càng
nhanh, do đó hiệu suất làm giàu ôxy hòa tan
trong nước thấp. Công nghệ tạo bọt khí cỡ
micro hoặc nano khắc phục được những điểm
yếu này do tạo ra bọt khí có kích thước siêu
nhỏ, cỡ vài trăm nm đến 40 micromet. Bọt khí
cỡ micro có tốc độ di chuyển rất chậm trong
môi trường nước làm gia tăng hiệu suất làm
giàu ôxy trong môi trường nước. Ngoài ra, vì
kích thước càng nhỏ thì áp suất bên trong càng
cao, giúp ôxy có trong bọt khí sẽ dễ hòa tan
vào trong môi trường nước hơn.
Các bọt khí có kích thước micro sẽ di
chuyển lên phía trên, gia tăng về kích thước
(do áp suất giảm dần). Hiệu suất làm giàu ôxy
cao và sự hiện diện của các bọt khí nano chìm
giúp cho hàm lượng ôxy hòa tan trong ao nuôi
ứng dụng công nghệ mới này luôn ở mức cao
hơn cả mức bão hòa trong điều kiện bình
thường. Cùng đó, áp suất riêng phần của ôxy
trong nước lớn sẽ đẩy bớt các loại khí khác
vào không khí, trong đó có CO2, nhờ vậy hạn
chế sự phát triển của tảo, ổn định môi trường
nước.
Cùng đó, bọt khí cỡ nano có thể giúp tách
các chất ô nhiễm ra khỏi môi trường nước, đặc
biệt là chất béo và được cho là ảnh hưởng rất
nhiều đến độ pH của nước. Theo một số
nghiên cứu khi các bọt khí cỡ micro hoặc nano
khi bị teo nhỏ lại rồi vỡ ra sẽ phóng thích
nhiều gốc tự do, có khả năng diệt khuẩn, khử
mùi hôi.
Ứng dụng trong nuôi tôm tại Việt Nam
Ở Việt Nam, nghiên cứu ứng dụng công
nghệ micro nano trong nuôi tôm được ông
Trần Bá Cương, Giám đốc Công ty TNHH
Công nghệ HTC bắt đầu thực hiện năm 2014.
Đến nay, ông đã nghiên cứu và chế tạo thành
công thiết bị tạo bọt khí cỡ nhỏ và siêu nhỏ
bằng nhựa gọi là Micro Nano Oxygen và đã
được ứng dụng, nuôi thử nghiệm tại nhiều cơ
sở ở một số vùng nuôi. Theo đó, thu được các
kết quả ban đầu rất khả quan.
Ao nuôi tôm 5.000m2 sử dụng 3 máy tạo
Micro Nano Oxygen tại Bình Đại, Bến Tre
cho kết quả tốt. Hàm lượng ôxy hòa tan tối
thiểu vào buổi sáng sớm ở mức trên 6mg/l so
với mức yêu cầu 4mg/l. Việc luôn đảm bảo
hàm lượng ôxy hòa tan giúp tôm không bị
stress, khỏe mạnh và có tốc độ tăng trưởng tốt.
Cùng đó, khi ứng sử dụng thiết bị Micro Nano
Oxygen, 15 ngày đầu của vụ nuôi, pH ổn định
trong khoảng 7,4 - 7,8, màu nước ao khá bền
trong suốt vụ nuôi. Đồng thời, các chất cặn
bẩn được đẩy lên trên bề mặt ao nuôi giúp dễ
dàng loại bỏ, tăng độ trong của nước. Cùng
đó, tảo khuê phát triển tốt, làm nguồn thức ăn
tự nhiên cho tôm. Hệ số chuyển hóa thức ăn sẽ
thấp (có thể đạt khoảng 0,9).
Nông thôn đổi mới Kỹ thuật nông nghiệp
- 23 -
>> Hiện, Công ty HTC Nanotech đã sản xuất được 2 loại máy với công suất khác nhau, phù
hợp với từng điều kiện sản xuất. Máy Micronano Bubble MNO-1 có công suất 70 m3/giờ, 3 - 4
hp, 380 volt - 220 volt, có độ hòa tan ôxy tinh chất là 600 lít/giờ. Và máy MNO-2 có công suất
bơm là 36 m3/giờ, 2 hp, 220 volt, độ hòa tan ôxy tinh chất là 300 lít/giờ.
Nhật Minh
Nguồn http://thuysanvietnam.com.vn/
Tạp chí Thủy sản
……………………………………………..
Theo dõi ao nuôi tôm bằng điện thoại di động ệ thống giám sát môi trường nước bằng điện thoại di động hiện được nhiều
địa phương nghiên cứu và ứng dụng vào trong nuôi trồng thủy sản như An
Giang, Sóc Trăng. Theo đó, người nuôi dễ dàng kiểm soát và chủ động xử lý
khi yếu tố môi trường bất lợi với đối tượng nuôi.
Nguyên lý hoạt động
Hệ thống giám sát nồng độ ôxy hòa tan và
nhiệt độ qua điện thoại di động sẽ liên tục thu
tín hiệu môi trường nước ao nuôi bằng thiết bị
lấy mẫu nước; thiết bị này được kết nối với bộ
phận cảm biến thu số liệu rồi chuyển thông tin
tới bộ điều khiển. Theo đó, các dữ liệu về môi
trường sẽ được xử lý bởi bộ điều khiển trung
tâm. Bộ điều khiển sẽ đọc, xử lý tín hiệu và
gửi giá trị nhiệt độ, nồng độ ôxy, thời gian đo
và vị trí điểm đo lên điện thoại di động thông
qua phần mềm chuyên dụng được cài đặt trên
điện thoại. Dựa vào đó, người nuôi dễ dàng
giám sát giá trị nhiệt độ và ôxy của ao nuôi
trực tuyến.
Khi nhiệt độ và nồng độ ôxy nằm ngoài
ngưỡng cho phép đã cài đặt sẵn thì hệ thống sẽ
tự động: Cảnh báo bằng đèn báo động, còi báo
động ngay tại ao tôm, giúp người nuôi có thể
xử lý kịp thời như quạt nước cung cấp ôxy…
Ngoài ra, hệ thống có thể cảnh báo từ xa, như:
Phần mềm trên điện thoại di động sẽ phát loa
thông báo hoặc gửi tin nhắn, nhờ đó người
nuôi có thể giám sát và xử lý ở bất cứ nơi đâu.
Ứng dụng trong thực tiễn
Hệ thống giám sát này được Trung tâm
Ứng dụng tiến bộ Khoa học và Công nghệ An
Giang thử nghiệm tại hộ ông Nguyễn Bá
Thạnh, xã Phú Thuận, huyện Thoại Sơn từ
25/4/2016. Đối tương nuôi thử nghiệm là tôm
càng xanh trong ao nuôi diện tích 4.000m2.
Với mật độ thả nuôi tôm giống 30 con/m2.
Nguồn tôm giống do hộ nuôi tự sản xuất,
trong quá trình nuôi sử dụng thức ăn công
nghiệp và thức ăn tươi sống.
Hiện tại, tôm đang phát triển tốt. Điểm thu
mẫu nước giám sát được đặt tại 2 vị trí (giữa
ao và bờ ao). Hệ thống giám sát gồm thiết bị
lấy mẫu nước từ ao tôm thông qua bộ điều
H
Hệ thống giám sát nồng độ ôxy hòa tan và
nhiệt độ bằng điện thoại di động
Nông thôn đổi mới Kỹ thuật nông nghiệp
- 24 -
khiển máy bơm và các van chọn vị trí đo và
phần mềm giám sát trên điện thoại di động.
Sau đó, nước được bơm vào 1 bồn có đặt 2
cảm biến: 1 cảm biến đo nhiệt độ, 1 cảm biến
đo nồng độ ôxy (DO). Hệ thống giám sát chất
lượng nước được cài đặt các giá trị: Nhiệt độ
cao nhất 300C, nhiệt độ thấp nhất 280C; nồng
độ ôxy cao nhất 6mg/lít, nồng độ ôxy thấp
nhất 3mg/lít.
Kết quả cho thấy: Nhiệt độ nước ao nuôi có
sự chênh lệnh giữa ngày và đêm dao động
trong khoảng 28,9 - 330C. Nhiệt độ thấp nhất
rơi vào khoảng 4 - 8 giờ sáng, cao nhất rơi vào
khoảng 12 - 17 giờ. Khi nhiệt độ cao hơn 300C
hoặc thấp hơn 280C, hệ thống sẽ phát tín hiệu
và gửi tin nhắn đến điện thoại của chủ hộ. Từ
đó, chủ hộ có biện pháp xử lý phù hợp.
Ôxy nước ao nuôi cũng có sự chênh lệnh
giữa ngày và đêm dao động trong khoảng 2,6 -
8,7mg/lít. Ôxy thấp nhất rơi vào khoảng 4 - 7
giờ sáng, cao nhất vào khoảng 13 - 15 giờ. Khi
ôxy cao hơn 6 mg/lít hoặc thấp hơn 3mg/lít, hệ
thống sẽ phát tín hiệu và gửi tin nhắn đến điện
thoại của chủ hộ. Chủ hộ sẽ vận hành quạt
nước để cung cấp ôxy cho ao nuôi trong
trường hợp ôxy xuống thấp hơn 3mg/lít.
Ông Trần Phú Vinh, Phó Giám đốc Trung
tâm Ứng dụng tiến bộ Khoa học và Công nghệ
An Giang cho biết, bằng hệ thống giám sát
ôxy hòa tan và nhiệt độ bằng điện thoại di
động, người nuôi có thể nắm bắt được tình
hình nhiệt độ, ôxy hòa tan trong ao nuôi vào
mọi thời điểm trong ngày. Theo đó, có thể đưa
ra các giải pháp xử lý phù hợp như: giảm
lượng thức ăn, tăng cường quạt nước hay nâng
cao mực nước trong ao để có thể ổn định môi
trường nước. Hệ thống này hứa hẹn sẽ tạo ra
mô hình sản xuất có giá trị cao hơn.
>> Theo Trung tâm Ứng dụng tiến bộ Khoa học và Công nghệ An Giang: Đến cuối tháng
9/2016, tôm nuôi trong mô hình thử nghiệm sẽ tiến hành thu hoạch và đánh giá hiệu quả kinh tế
một cách toàn diện hơn. Qua đó, có thể áp dụng vào thực tiễn và nhân rộng.
Gia Phong
Nguồn http://thuysanvietnam.com.vn/
Tạp chí Thủy sản
……………………………………………
Phòng, chữa bệnh cho cá bằng thảo dược iệc tận dụng những loại thảo dược trong tự nhiên như lá xoan, cây nghể, tỏi…
giúp xử lý môi trường ao nuôi, phòng ngừa dịch bệnh và hạn chế việc sử dụng
thuốc kháng sinh, giúp cá sinh trưởng và phát triển tốt.
Anh Hoàng Văn Nam (SN 1982) ở xã Nam
Phương Tiến, huyện Chương Mỹ, Hà Nội có
thâm niên nuôi cá thương phẩm hơn 10 năm
qua. Anh cho biết mình thường sử dụng triệt
để nguồn thảo dược tự nhiên, dễ kiếm để
phòng trị bệnh cho cá.
Bắt đầu quy trình nuôi mới, anh Nam tiến
hành cải tạo, nạo vét ao và khử trùng bằng vôi
bột. Sau đó dùng cây văn tiết (tên gọi khác là
phân xanh) băm nhỏ, dìm xuống bùn và ngâm
trong nước từ 5 - 7 ngày để lá cây phân hủy.
Sau đó, anh vớt hết bã phân xanh và dẫn
nước vào ao nuôi. Đây là công đoạn quan
trọng trong việc khử trùng môi trường nước,
tạo nước ao có màu xanh nõn chuối, thích hợp
trong nuôi cá. Ngoài ra, cây văn tiết khi phân
V
Nông thôn đổi mới Kỹ thuật nông nghiệp
- 25 -
hủy cũng tạo ra các vi chất, vi sinh vật có lợi,
hình thành nguồn thức ăn ban đầu tự nhiên
cho cá.
Kết hợp việc sử dụng chế phẩm sinh học để
xử lý môi trường nước, đều đặn 15 ngày một
lần, anh Nam hòa loãng 2 - 3kg vôi với nước
cho 100m3 để khử trùng nước ao. Tuy nhiên,
việc vệ sinh này được thực hiện trong điều
kiện thời tiết mát mẻ, tránh ánh nắng mặt trời
và hạn chế tia cực tím.
Theo kinh nghiệm của anh Nam, khi lội
xuống ao có cảm giác nước bó vào chân và da
khô ráp khi lên bờ, anh rắc phân đạm và phân
lân để điều chỉnh nước ao, cho cá dễ dàng di
chuyển, bơi lội.
Anh Nam cho hay: Khi cá trong ao nuôi bị
dịch bệnh, nguy cơ lan tràn ra toàn ao là khó
tránh khỏi. Vì vậy giai đoạn phòng bệnh còn
quan trọng hơn chống bệnh. Ngoài việc xử lý,
cải tạo ao nuôi bằng vôi và thảo dược tự
nhiên, anh cũng có những bí quyết riêng trong
việc đưa thảo dược vào thức ăn cho cá, giúp
cá kháng bệnh và sinh trưởng tốt.
Anh chia sẻ, thường anh sử dụng 1kg tỏi
xay nhuyễn trộn với 100kg thức ăn, ngâm
trong 15 - 20 phút rồi cho cá ăn từ 3 - 6 ngày
trong một tháng, vừa phòng bệnh, vừa tốt cho
hệ tiêu hóa của cá phát triển.
Ngoài ra, thân và lá cây nghể băm nhỏ nấu
kỹ rồi lấy nước trộn vào thức ăn cho cá. Liều
lượng cho ăn 1 - 1,5kg thân, lá nghể
tươi/100kg cá, cho ăn 3 - 6 ngày liên tục, chữa
bệnh thối mang và viêm ruột ở cá hiệu quả.
Điều đáng lưu ý, cây nghể có tính nóng nên
dùng đúng liều lượng và không được lạm
dụng. Ngoài ra, lá xoan trị bệnh trùng mỏ neo
và trùng bánh xe rất tốt, lá và thân cây chuối
vừa làm thức ăn, vừa khử độc. Trồng cúc tần
bao quanh ven ao giúp cân bằng độ pH trong
ao, nhất là khi trời mưa.
Anh Nam cũng chia sẻ thêm, ngoài những
tác dụng phòng ngừa dịch bệnh của các loại
thảo dược, chủ hộ nuôi cũng cần tránh những
cây tự nhiên có hại cho ao nuôi, tránh trồng
ven ao nuôi cây gấc, cây bạch đàn...
Cũng sử dụng thảo dược trong nuôi cá, ông
Nguyễn Văn Thự (xã Võng Xuyên, huyện Phúc
Thọ) chia sẻ: Trong quy trình nuôi cá, ông cũng
sử dụng lá xoan trị bệnh trùng mỏ neo và trùng
bánh xe. Đặc tính của cây xoan có vị đắng, cá
được cọ xát thì những con trùng mỏ neo, trùng
bánh xe không bám vào vây và da. Theo kinh
nghiệm, sau khi cá có dấu hiệu nhiễm bệnh, bà
con nên chặt lá xoan buộc thành bó lớn, buộc ở
các góc ao và các cọc nhô lên trong ao. Cá bị
trùng bám sẽ bơi qua, cọ xát khiến trùng rơi ra
và bị chết. Để tránh thối ao, khi thấy bó xoan
chỉ còn cành thì vớt lên.
Ông Thự cũng chia sẻ thêm: Với cá trắm
cỏ, dùng lá cây xuyến chi vừa làm thức ăn cho
cá, vừa giảm phân đi ngoài, khử sạch mặt
nước và trị được bệnh đường ruột của cá.
Ngoài ra, ông Thự cũng sử dụng cây bươm
bướm, lá ổi làm thức ăn cho cá. Các loại thuốc
nam này đều điều trị bệnh đường ruột rất tốt ở cá.
Sử dụng thảo dược giúp cá nuôi của ông Thự
phát triển tốt, tránh mầm bệnh
Nông thôn đổi mới Kỹ thuật nông nghiệp
- 26 -
Ông Nguyễn Hồng Sơn, Trưởng phòng
Khuyến nông chăn nuôi - thủy sản (Trung
tâm Khuyến nông Hà Nội) cho biết: Thảo
dược có 2 công dụng chủ yếu là xử lý môi
trường nước và diệt bệnh hại, ký sinh trùng
ở cá. Nguồn thảo dược đều có sẵn trong tự
nhiên. Bà con nên tận dụng nguồn thuốc
quý này, hạn chế việc sử dụng hóa chất và
thuốc kháng sinh cho cá.
Nguồn http://nongnghiep.vn/
Báo Nông nghiệp Việt Nam
……………………………………………….
Một số thảo dược thay thế kháng sinh
ứng trước những thách
thức trong việc tìm giải
pháp thay thế kháng sinh
thì lựa chọn các thảo dược an toàn, dễ
kiếm, tiết kiệm chi phí và hiệu quả luôn
được các nhà khoa học ưu tiên. Dưới
đây là một số thảo dược tại Việt Nam có
thể sử dụng hiệu quả trong điều trị một
số bệnh cho động vật thủy sản.
Thuốc KN-04-12
Thành phần thuốc gồm các cây thuốc có
kháng sinh thực vật (tỏi, sài đất, nhọ nồi, cỏ
sữa, chó đẻ răng cưa...), vitamin và một số vi
lượng khác. Thuốc được nghiền thành bột, có
mùi đặc trưng; có tác dụng phòng trị bệnh
nhiễm khuẩn (xuất huyết đốm đỏ, thối mang,
viêm ruột của thủy sản nuôi lồng bè).
Liều dùng: Cá giống: 4g thuốc/kg cá/ngày;
cá thịt: 2g thuốc/kg cá/ngày; thuốc được trộn
với thức ăn tinh nấu chín để nguội.
Phòng bệnh: trước mùa xuất hiện bệnh
(mùa xuân, mùa thu) cho cá ăn 1 đợt 3 ngày
liên tục. Trong mùa bệnh cứ 30 - 45 ngày cho
cá ăn một đợt. Chữa bệnh cho cá ăn 6 - 10
ngày liên tục.
Thuốc chữa bệnh cá - VTS1-C
Chuyên trị các bệnh xuất huyết, thối mang,
hoại tử (đốm trắng) nội tạng và viêm ruột của
cá nuôi lồng bè, cá nuôi tăng sản và cá bố mẹ.
Thành phần gồm tinh dầu các cây thuốc có tác
dụng diệt khuẩn.
Phòng bệnh: Trước mùa xuất hiện bệnh
(mùa xuân, mùa thu) cho cá ăn một đợt 3 ngày
liên tục. Trong mùa bệnh, cứ 30 - 45 ngày cho
ăn một đợt.
Chữa bệnh: Cho cá ăn liên tục 6 - 10 ngày.
Cách dùng: Liều dùng 0,1 - 0,2g/kg
cá/ngày. Trộn 100 g thuốc với 20kg thức ăn
tinh (5g thuốc/kg thức ăn) cho 500 - 1.000kg
cá ăn/ngày. Có thể dùng dầu mực (10g/kg thức
ăn) bao thức ăn và thuốc.
Thuốc chữa bệnh tôm - VTS1-T
Chuyên trị các bệnh ăn mòn vỏ kitin, viêm
ruột và phân trắng của tôm nuôi bán thâm
Đ
Nông thôn đổi mới Kỹ thuật nông nghiệp
- 27 -
canh và thâm canh; gồm tinh dầu các cây
thuốc có tác dụng diệt khuẩn.
Cách dùng: Liều dùng 0,2g/kg tôm/ngày.
Trộn 100g thuốc với 10kg thức ăn (10g
thuốc/kg thức ăn) cho 500kg tôm ăn/ngày. Có
thể dùng dầu mực (10g/kg thức ăn) bao thức
ăn và thuốc.
Phòng bệnh: Mỗi tháng cho tôm ăn một
đợt 5 ngày liên tục.
Chữa bệnh: Cho tôm ăn liên tục 6 - 10
ngày đến khi khỏi bệnh.
Thuốc EKAVARINE
Thuốc gồm 10% tinh dầu thực vật sản xuất
bằng công nghệ nano. Chuyên trị các bệnh
nhiễm khuẩn: viêm ruột, xuất huyết và đốm
trắng gan thận của cá nuôi thâm canh. Các
bệnh ăn mòn vỏ kitin, bệnh viêm ruột, bệnh
hoại tử gan tụy cấp và bệnh phân trắng của
tôm nuôi bán thâm canh và thâm canh. Thuốc
xuất xứ từ EU.
Cách dùng: Tắm 100 - 250ml/m3 (0,1 -
0,25ml/lít)/giờ hoặc ngâm 10ml/m3 (0,01ml/lít) nước;
hoặc trộn 5ml thuốc/kg thức ăn, cho 50kg cá tôm
ăn/ngày.
Phòng bệnh: Hàng tháng cho cá tôm ăn một
đợt 3 ngày liên tục; hoặc ngâm cho cá 1 đợt.
Chữa bệnh: Cho cá ăn liên tục 6 - 10 ngày đến
khi khỏi bệnh.
Tỏi (Allium sativum L.)
Thành phần kháng khuẩn chủ yếu của tỏi là
chất alixin (C6H10OS2). Đây là một hợp chất
Sulphur có tác dụng diệt khuẩn mạnh, phổ diệt
khuẩn rộng với nhiều loại vi khuẩn.
Dùng tỏi trị bệnh viêm ruột của cá do vi
trùng gây ra mỗi ngày dùng 50 g củ tỏi nghiền
nát cho 10kg khối lượng cá ăn liên tục 6 ngày.
Tỏi phòng trị bệnh đường ruột của tôm nuôi
(bệnh phân trắng, ăn mòn vỏ kitin…), dùng 10
- 15g tỏi tươi/kg thức ăn tôm/ngày, nghiền nát
hòa với nước vừa đủ trộn đều với thức ăn, mỗi
tháng cho ăn một đợt 5 ngày liên tục.
Kết quả thử tác dụng của các cao tách chiết
thảo dược tỏi đều có tác dụng (mẫn cảm) với
cả 6 loài vi khuẩn (Vibrio parahaemolyticus,
V. harveyi, V. alginolyticus, Aeromonas
hydrophila, Edwardsiella tarda và Hafnia
alvei) gây bệnh ở nước ngọt và lợ mặn (Bùi
Quang Tề, 2006). Tỏi tách chiết thành cao dầu
phối chế thành thuốc chữa bệnh tôm cá (xem
mục thuốc VTS1-C và VTS1-T), có tác dụng
phòng trị bệnh xuất huyết, hoại tử nội tạng
(bệnh đốm trắng) do vi khuẩn cho cá tra. Kết
quả sử dụng chế phẩm phối chế từ hoạt chất
tách chiết của tỏi và sài đất (VTS1-T) có tác
dụng phòng trị bệnh ăn mòn vỏ kitin do vi
khuẩn Vibrio spp cho tôm nuôi.
Cây xuyên tâm liên (Andrographus
panicullata (Burmif.f))
Dùng trị bệnh viêm ruột cho cá trắm. Dùng
toàn cây xuyên tâm liên khô 1kg hay 1,5kg
cây tươi cho 50kg cá ăn một lần trong ngày ăn
liên tục 5 - 7 ngày.
Cỏ nhọ nồi (Eclipta alba Hassk)
Đối với cá dùng cỏ nhọ nồi phòng trị bệnh
xuất huyết, viêm ruột đạt kết quả tốt. Kết quả thử
tác dụng của các cao tách chiết thảo dược cao nhọ
nồi có tác dụng với 3 vi khuẩn (V. harveyi, V.
Nông thôn đổi mới Kỹ thuật nông nghiệp
- 28 -
alginolyticus và A. hydrophila) (Bùi Quang Tề,
2006). Bột cỏ nhọ nồi phơi khô nghiền bột là một
trong thành phần của thuốc KN-04-12.
Chó đẻ răng cưa (Phyllanthus urinaria L)
Chó đẻ răng cưa có tác dụng kháng sinh đối với vi
khuẩn Aeromonas hydrophyla, Edwasdsiella tarda
gây bệnh hoại tử ở cá trê, vòng kháng khuẩn 11 -
20mm (Bộ môn bệnh cá Viện Nghiên cứu NTTS I,
1993). Liều dùng cho cá xem cây sài đất, nhọ nồi, bột
khô cũng đã được phối chế thành thuốc KN - 04 - 12.
Cây xoan (Melia azedarach L)
Để phòng trị bệnh cho cá thường dùng cành lá
xoan bón lót xuống ao với số lượng 0,3kg/m3
trước khi thả cá vào ương 3 ngày có thể phòng và
trị ký sinh trùng thuộc ngành nguyên sinh động
vật như Trichodina, Cryptobia, ký sinh trên cá
hương, cá giống. Bón 0,4 - 0,5kg/m3 trị bệnh
Lernaosis.
Cây cau (Areca catechu L)
Dùng hạt cau tẩy giun tròn (Spinitectus
clariasi) ký sinh trong ruột cá trê (theo Bùi
Quang Tề, 1985). Liều dùng: 4g hạt cau/kg cá/
ngày. Ăn liên tục trong 3 ngày.
Trị bệnh sán dây: Bothriocephalus
gowkongensis ký sinh trong ruột cá trắm cỏ
(Ctepharyngodon idellus). Liều dùng: 1g hạt
cau/2kg thức ăn cho ăn liên tục trong 7 ngày.
Cây keo giậu (Leucaena glauca Benth)
Theo Bùi Quang Tề, 1984, thí nghiệm tẩy
giun cho cá trê đen, liều lượng 2g bột hạt keo
khô/kg cá/ngày và cho ăn 3 ngày liên tục, kết
quả tẩy được giun trong ruột và dạ dày cá trê.
Dây thuốc cá (Derris spp)
Dây thuốc cá có chất hoạt kích chính là
Rotenon (hay Tubotoxin; Derris). Ở nước ta
dùng rễ dây thuốc cá để diệt cá tạp trong khi
tẩy dọn ao ương nuôi tôm giống, tôm thương
phẩm. Đập dập rễ dây thuốc cá ngâm cho ra
chất nhựa trắng, để nước trong ao sâu 15 -
20cm, té nước ngâm rễ dây thuốc cá, sau 5 -
10 phút cá tạp nổi lên chết. Liều lượng dùng
thường 3 - 5kg rễ/1.000m3 nước
Thàn mát (Milletia ichthyochtona Drake)
Trong hạt thàn mát có chứa 38 - 40% dầu,
có chứa các chất độc đối với cá như Rotenon,
Sapotoxin, chất gôm và albumin. Công dụng
tương tự dây thuốc cá, liều dùng 0,5 - 1kg
hạt/1.000m3
Cây trâm bầu
(Combretum quadrangulare)
Hạt cây trâm bầu có nhiều tinh dầu (12%),
tanan, axit axalic, canxi và các axit béo
palmitic, linoleic. Vỏ lá chứa nhiều tanan,
flavonoit. Hạt làm thuốc tẩy giun sán. Lá và
vỏ cây cũng có tác dụng như hạt. Dùng tinh
dầu bằng cách phun xuống ao, bể cá sau 12
giờ diệt sán lá đơn chủ, liều lượng 1 ppm.
TS Bùi Quang Tề
Nguồn http://thuysanvietnam.com.vn/
Tạp chí Thủy sản Việt Nam
Nông thôn đổi mới Nhà nông làm giàu
- 29 -
Vốn về “đánh thức” đồi rừng Nhờ được vay vốn ưu đãi Ngân hàng
Chính sách xã hội (CSXH), nhiều hộ dân ở
xã Hòa Cuông, huyện Trấn Yên, Yên Bái có
điều kiện đầu tư sản xuất, tăng thu nhập,
tạo việc làm cho nhiều lao động địa
phương.
Chưa đầy 2 năm đã thoát nghèo
Dù có 1 xưởng bóc tách ván gỗ nhỏ, nhưng
cuộc sống của vợ chồng anh Phạm Văn Đức,
thôn 4, xã Hòa Cuông, huyện Trấn Yên (Yên
Bái) vẫn chật vật. “Bóc ván gỗ cần sự chính
xác trong khâu ra thành phẩm, nhưng do thiếu
vốn đầu tư mua sắm máy móc, nên xưởng nhà
tôi ít đơn hàng, ít việc. Muốn vay vốn ngân
hàng thương mại nhưng lại sợ lãi suất cao…” -
anh Đức thổ lộ. Thông qua Hội ND xã, giữa
năm 2015, vợ chồng anh Đức được vay 50
triệu đồng tín dụng chính sách cho hộ sản xuất
kinh doanh vùng khó khăn. Anh đầu tư mua
máy móc, từ đó công việc bớt vất vả, chất
lượng và sản lượng sản phẩm tăng lên trông
thấy, có thêm nhiều đơn hàng.
Giải quyết được khó khăn, nhất là về vốn
đầu tư, xưởng bóc ván gỗ của anh Đức đã thu
hút tới 7 lao động, thời điểm đơn hàng nhiều
lên tới hơn 10 lao động. “Từ khi được vay
vốn, không chỉ tạo thêm được nhiều việc làm
cho bà con mà doanh thu của xưởng cũng tăng
cao, đạt tới 3 tỷ đồng/năm, lãi ròng gần 500
triệu đồng/năm. Có đồng vốn, tôi trồng thêm
rừng nguyên liệu gỗ, trồng quế, đứng ra thu
mua gỗ nguyên liệu”-anh Đức cho hay.
Cũng là đồng vốn ưu đãi của Ngân hàng
CSXH, nhưng gia đình anh Nguyễn Đức Hội
(thôn 3, xã Hòa Cuông, huyện Trấn Yên) lại
được vay chương trình hộ nghèo. Gia đình
thuần nông quanh năm bán mặt cho đất bán
lưng cho trời những cuộc sống vẫn không khá
lên được. “Khi được vay vốn, qua tham khảo
sự tư vấn của Hội ND xã, cán bộ tín dụng
Phòng Giao dịch Ngân hàng CSXH huyện, tôi
quyết định chăn nuôi gà thịt. Đầu năm 2015,
được Ngân hàng CSXH cho vay 50 triệu đồng,
tôi xây dựng 300m2 chuồng trại để nuôi gà
thịt. Hiện nay, gia đình tôi đang nuôi gần
3.000 con gà thịt. Bình quân mỗi năm xuất
chuồng 3 lứa. Năm ngoái, bán 2 lứa gà thịt với
số lượng vài ngàn con, gia đình tôi có lãi gần
200 triệu đồng. Sau khi được vay vốn, chưa
đầy 2 năm sau tôi đã thoát nghèo”-anh Hội
cho hay.
Khai thác hiệu quả thế mạnh đồi rừng
Hòa Cuông là 1 trong những xã có tiềm
năng, thế mạnh phát triển kinh tế nông, lâm
nghiệp của huyện Trấn Yên. Hiện dư nợ tín
dụng chính sách qua ủy thác tại xã Hòa Cuông
là hơn 7,5 tỷ đồng với tổng số 750 hộ đang
được vay, trong đó chủ yếu tập trung ở 2
chương trình tín dụng lớn là cho vay hộ nghèo
và hộ cận nghèo.
Ông Đỗ Viết Bảo - Chủ tịch Hội ND xã
Hòa Cuông chia sẻ: “Tiềm năng, thế mạnh mà
không có vốn đầu tư thì “nó” vẫn cứ ngủ yên
trong đất đai, nguồn lao động thôi. Nếu không
có vốn của các chương trình tín dụng của
Nhờ được vay vốn ưu đãi, anh Phạm Văn
Đức (trái) đầu tư mở rộng xưởng bóc ván
gỗ. T.V.P
Nông thôn đổi mới Nhà nông làm giàu
- 30 -
Ngân hàng CSXH, bà con không biết xoay xở
vay vốn ở đâu. Nhiều hộ từ nghèo, cận nghèo
vươn lên khá, giàu ở Hòa Cuông cũng nhờ tác
động của các chương trình tín dụng của Ngân
hàng CSXH…”.
Theo lãnh đạo Phòng Giao dịch Ngân hàng
CSXH huyện Trấn Yên, đơn vị này đang triển
khai 11 chương trình tín dụng ưu đãi trên địa
bàn. Một số chương trình tín dụng ưu đãi đã tỏ
rõ vai trò giảm nghèo bền vững ở miền núi,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số như cho vay
hộ nghèo, cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, hộ
sản xuất-kinh doanh vùng khó khăn…Tổng dư
nợ vốn tín dụng chính sách qua ủy thác đến
hết 8.2016 trên địa bàn huyện Trấn Yên đạt
hơn 291,1 tỷ đồng, nợ quá hạn chỉ có 238 triệu
đồng, chiếm tỷ lệ 0,08% trên tổng dư nợ ủy
thác.
Ông Trương Viết Tân - Phó Giám đốc
Phòng Giao dịch Ngân hàng CSXH huyện
Trấn Yên lý giải: “Một trong những yếu tố
đảm bảo sự tăng trưởng tín dụng đi đôi với
nâng cao chất lượng tín dụng là sự quan tâm
chỉ đạo, lãnh đạo của các cấp ủy, sự vào cuộc
mạnh mẽ của các cấp chính quyền…”.
Việt Phương
Nguồn http://danviet.vn/
TW Hội ND Việt Nam
……………………………………………………
Chuyện “làm giàu không khó” ở Bình Phước “Làm giàu không khó” là câu khẳng định của anh Bùi Văn Thuấn ngụ ở ấp Thanh An,
xã Thanh Lương, thị xã Bình Long khi nói chuyện với chúng tôi trong chương trình
“Cùng nhà nông bàn cách làm giàu” do Trung tâm Khuyến nông Khuyến ngư Bình Phước
kết hợp với Đài Truyền thanh – Truyền hình tỉnh thực hiện.
Nghe có vẻ nghi ngờ, chúng tôi cùng nhau
đi “giải mã” câu nói trên, được anh Thuấn
chia sẻ rất cởi mở, thẳng thắn và thấy rằng câu
nói đó không phải không có cơ sở.
Có đất sản xuất, có kiến thức khoa học
kỹ thuật
Nếu không có đất phải đi thuê sẽ khó có thể
đầu tư một cách bài bản, đúng mức. Không có
kiến thức thì như người mù dò dẫm, tìm sự
may rủi sẽ thất bại lớn. Hiểu rất rõ điều này
nên trước khi nuôi heo, gà, anh đã chịu khó
tìm tòi, học hỏi kỹ thuật chăn nuôi, phòng trị
bệnh cho gia súc gia cầm ở trên mạng, báo,
đài, cán bộ khuyến nông, tham gia lớp học
nghề chăn nuôi, tham gia tất cả các buổi tập
huấn, hội thảo về chăn nuôi, tham quan, học
tập kinh nghiệm ở những trang trại, những
người chăn nuôi trong vùng, tham gia vào
CLB khuyến nông của xã. Theo đó, anh đã
tích luỹ được vốn kiến thức đảm bảo cho chăn
nuôi của gia đình đạt hiệu quả kinh tế cao.
Bên cạnh việc học hỏi kiến thức về KHKT
anh còn tìm hiểu các thông tin về thị trường
đầu vào như con giống, thức ăn, thuốc thú y,
dụng cụ chăn nuôi để có được vật tư, con
Tham quan chuồng heo nái sinh sản theo tiêu
chuẩn VietGAHP của gia đình anh Thuấn
Nông thôn đổi mới Nhà nông làm giàu
- 31 -
giống chất lượng tốt, giá cả phù hợp; tìm kiếm
thị trường tiêu thụ, giải bài toán quản trị trong
chăn nuôi để hạ giá thành, nâng cao năng suất,
chất lượng sản phẩm.
Đi trước một bước về ứng dụng KHKT
công nghệ
Ứng dụng KHKT công nghệ mới vào chăn
nuôi là vấn đề còn rất hạn chế, nhiều bà con
nông dân trong xã e ngại vì chưa tin tưởng vào
kết quả, song với suy nghĩ “nếu không áp
dụng sẽ bị tụt hậu về mọi mặt” nên ngay từ
đầu anh đã đầu tư con giống, chuồng trại, vật
tư chăn nuôi một cách bài bản như: sử dụng
giống heo siêu nạc, gà thả vườn Minh Dư; hệ
thống cho ăn, cho uống tự động; chăm sóc,
phòng bệnh đúng quy trình; chuồng trại
thoáng mát đúng quy chuẩn, sử dụng hầm bi-
o-gas để xử lý chất thải… Đặc biệt là sử dụng
các loại chế phẩm men sinh học thế hệ mới để
tăng sức đề kháng cho vật nuôi, giảm mùi hôi,
hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm,
rút ngắn thời gian nuôi, chăn nuôi theo hướng
VietGAHP.
Tháng 7 vừa qua, đại diện cho CLB chăn
nuôi heo của xã, anh đã ký hợp đồng với Công
ty Cổ phần Vi sinh Thiên nông tại Tp. Hồ Chí
Minh thực hiện chuỗi liên kết giá trị về sản
xuất, bao tiêu sản phẩm heo thịt. Anh cũng là
hộ chăn nuôi heo đầu tiên của thị xã Bình
Long được cấp giấy chứng nhận “Thực hành
chăn nuôi tốt” theo tiêu chuẩn VietGAHP vào
tháng 1/2016.
Với hơn 2ha đất, anh đầu tư trồng nhãn, kết
hợp với chăn nuôi heo gà để tăng thu nhập
trên một đơn vị diện tích. Hiện nay, với quy
mô 4000 con gà thịt, 30 heo nái sinh sản, hơn
300 heo thịt, thu nhập trung bình mỗi năm
khoảng 600 – 700 triệu đồng sau khi đã trừ hết
chi phí, chỉ với 2 lao động chính là 2 vợ
chồng. Ngoài ra anh còn trang bị một xe tải
nhỏ chuyên chở gà của gia đình và các hộ
xung quanh cung ứng cho các đầu mối tiêu thụ
tại tỉnh Bình Dương, Đồng Nai và Tp. Hồ Chí
Minh. Dự định cuối năm nay anh tăng quy mô
đàn heo lên 60 nái với khoảng 700 heo thịt.
Điều mong muốn nhất của anh Thuấn là
được Nhà nước quan tâm, tìm kiếm thị trường
tiêu thụ ổn định, giúp người chăn nuôi tiếp cận
nguồn vốn vay ưu đãi để mở rộng quy mô, yên
tâm đầu tư sản xuất; có cơ chế chính sách để
thu hút các nhà doanh nghiệp về xã đồng hành
cùng người dân phát triển chăn nuôi, xây dựng
thương hiệu. Đồng thời lập được một “cái
chợ” ở trên mạng để mọi người chăn nuôi
được giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm, có thêm
nhiều thông tin kịp thời, bổ ích.
Với suy nghĩ và cách làm của anh như vậy,
đúng là “làm giàu không khó”.
Nguyễn Thị Hạnh
Trạm KN thị xã Bình Long, Bình Phước
Nguồn http://www.khuyennongvn.gov.vn/
TT Khuyến nông quốc gia
…………………………………………………….
Thành triệu phú miến dong dù không... biết chữ à phụ nữ dân tộc Dao không biết chữ, nhưng với cách nghĩ, cách làm mạnh
dạn, sáng tạo, chị Triệu Thị Tá ở xã Yến Dương, huyện Ba Bể (Bắc Kạn) đã
tạo dựng cho mình thương hiệu miến dong nổi tiếng, được nhiều người tiêu
dùng trong và ngoài tỉnh tin dùng.
L
Nông thôn đổi mới Nhà nông làm giàu
- 32 -
Miến dong Triệu Thị Tá
Chúng tôi đến thăm khi chị Tá cùng các
con đang đóng gói miến dong. Chỉ tay vào
bao bì sản phẩm in chính hình “bà chủ” xinh
đẹp mặc bộ quần áo truyền thống của dân
tộc Dao, vai đeo gùi miến dong, chị Tá cười
nói: “Tôi tự lên ý tưởng làm bao bì sản
phẩm rồi xuống Hà Nội đặt in đấy. Lần đầu
xuống thủ đô đặt in bao bì, tôi run và bỡ ngỡ
lắm. Tôi thấy chất lượng sản phẩm miến
dong tốt chưa đủ mà phải thêm bao bì đẹp
mới thu hút khách mua”.
Sinh ra trong gia đình thuần nông nghèo,
học hết lớp 3 chị đã phải nghỉ học theo bố
mẹ lên nương. Đến bây giờ chị Tá vẫn chưa
biết đọc hết mặt chữ. Ở xã Yến Dương, từ
nhiều năm nay, cây dong riềng là nguồn thu
nhập chính của người dân. Giống như mọi
người, chị Tá cũng bắt đầu từ việc trồng
dong riềng rồi đến đi buôn bột dong. Đến
các tỉnh bạn, thấy mọi người sản xuất miến
dong cho thu nhập cao hơn rất nhiều, chị
nghĩ họ làm được thì tại sao mình không thể.
Năm 2011, chị một mình xuống Thái
Nguyên xin làm công nhân tại một cơ sở
làm miến, vừa học vừa quan sát. Sau hơn
một tháng chị quay về quê mạnh dạn vay
vốn đầu tư. Vốn sống ở thôn Phiêng Khăm
nhưng vì đường sá đi lại khó khăn, chị bèn
“hạ sơn” mua đất gần tỉnh lộ 258 thuộc thôn
Nà Viễn để dựng cơ sở. Chị đặt tên cơ sở
sản xuất là “Miến dong Triệu Thị Tá”.
Lấy chữ tín làm đầu
Chị Tá tâm sự, lúc đầu chưa nhiều kinh
nghiệm nên cũng có những mẻ miến không
thành. Không nản, chị rút kinh nghiệm qua
những lần thất bại, dần dà sợi miến thành
phẩm vừa đều, mịn, dai, có thể nấu đi nấu lại
nhiều lần không bị nát. “Khi miến dong làm
ra đã ưng cái bụng mình, tôi mới đi giới
thiệu, biếu không sản phẩm để mọi người
dùng thử. Nhận được lời khen của mọi
người tôi càng có thêm động lực mở rộng
quy mô sản xuất” - chị Tá thổ lộ.
Từ năm 2012, cơ sở sản xuất “Miến
dong Triệu Thị Tá” được cấp giấy phép kinh
doanh, có bao bì riêng và đăng ký nhãn hiệu.
Hiện, mỗi năm cơ sở của chị Tá tiêu thụ
khoảng 200 tấn bột dong cho bà con để sản
xuất ra hơn 60 tấn miến thành phẩm. Chị Tá
chia sẻ: “Để làm được miến dong ngon đòi
hỏi người chế biến phải giàu kinh nghiệm.
Điều quan trọng nhất trong làm ăn là phải
đặt chữ tín lên đầu”.
Đến nay chị Tá không cần phải mang
miến đi đâu bán nữa, bởi đã có nhiều tiểu
thương đến đặt hàng trước. Từ làm miến
dong, trừ chi phí chị Tá bỏ túi khoảng 400
triệu đồng/năm.
Vui hơn cả là chị được nhiều khách hàng
yêu mến, tin tưởng. Chị Tá thổ lộ: “Không
biết chữ nên số chị vất vả cả một đời, khổ
đến nỗi chồng đi làm ăn xa rồi biệt tăm tung
tích cả chục năm nay. Chị vẫn nói với hai
đứa con trai là học đi, học cho cả phần mẹ
nữa. Hiện con trai út nhà chị đang học Đại
học Lâm nghiệp”.
Chị Triệu Thị Tá (ngoài cùng bên phải)
giới thiệu sản phẩm miến dong đến các
khách hàng. Ảnh: Thu Hà
Nông thôn đổi mới Nhà nông làm giàu
- 33 -
"Là phụ nữ dân tộc thiểu số nhưng chị Triệu Thị Tá rất mạnh dạn, giỏi giang và năng
động. “Miến dong Triệu Thị Tá” bây giờ đã nổi tiếng đến các tỉnh gần, xa. Năm 2014,
“Miến dong Triệu Thị Tá” đã được T.Ư Hội NDVN tôn vinh là sản phẩm nông nghiệp tiêu
biểu”.
Ông Lưu Hữu Oánh – Phó Chủ tịch Hội ND huyện Ba Bể
Thu Hà
Nguồn http://danviet.vn/
Báo điện tử TW Hội ND Việt Nam
…………………………………………………
“Miền đất chết” sinh nhiều triệu phú Nằm lọt giữa dãy Pu Ta Cao và Pu Tếnh Hươn, vùng Noong Lào, Chiềng Pha (huyện
Thuận Châu, Sơn La), trước đây vốn được mệnh danh là “miền đất chết”, nhưng nay đã
khoác lên một bức tranh hoàn toàn khác. Họ, những người “mở đường” ngày ấy, đã trở
thành những triệu phú và là những hạt nhân đem lại cho Noong Lào màu xanh trù phú,
hưng thịnh!
Khai sáng đất nghèo
Ở tỉnh Sơn La, đặc biệt là khu vực huyện
Thuận Châu, Noong Lào vốn được coi là
miền đất hiểm, hình thành bởi sự “cùm kẹp”
của 2 dãy núi có tên Pu Ta Cao và Pu Tếnh
Hươn. Nghiệt thay, hai dãy này lại nằm
xuôi theo hướng mà vào kỳ cao điểm gió
Lào cứ thông thốc thổi về. Những cơn gió
nóng, khô và lấy nhiều nước nên cỏ cây vào
mùa nóng héo hon, xơ xác; mùa đông thì
gió lạnh thổi buốt rạt nên muông thú cũng
phải bỏ đi.
Xót xa trước miền đất rộng hàng trăm ha
bị bỏ hoang, hơn nữa, trước tình trạng
“người sinh nhưng… đất không nở”, nhiều
người đã quyết dấn thân về vùng đất này
kiếm kế sinh nhai, tiêu biểu là các ông Lò
Văn Pâng, Lò Văn Bun, Lò Văn Chum, Lò
Văn Thưng…
Đến với Noong Lào ngày nay, nói về
những tấm gương tỷ phú, người đầu tiên hay
được nhắc đến là ông Lò Văn Pâng. Trong
ngôi nhà khá bề thế cùng những vật dụng hiện
đại để phục vụ cuộc sống gia đình, ông Pâng
ngược lại thời cơ cực đi mở đất.
Ông bảo: “Lên Noong Lào, sức lực bỏ
ra, người dân vỡ đất mở ruộng trồng lúa,
mở đồi trồng ngô. Nhưng do khí hậu khắc
nghiệt, nên có “khéo co” thì người dân cũng
chỉ đủ ăn. Không chấp nhận cảnh giẫm chân
tại chỗ, ông và nhiều người dân ở đây đã
suy tính về một hướng đi mới để đem lại
bứt phá cho mình”.
Đang lúc loay hoay, may mắn, một chủ
trương về cây chè và cây cà phê đã được
cấp trên đưa về. Tuy nhiên, để các thứ cây
xa lạ ấy cắm chân, sống lại và làm giàu cho
dân đất này như hiện nay thì ban đầu cũng
Nhờ việc đầu tư đúng đắn mà ông Lò Văn
Bun đã có nguồn thu trăm triệu đồng từ
chè, cà phê và chăn nuôi gia súc.
Ảnh: Đ.T
Nông thôn đổi mới Nhà nông làm giàu
- 34 -
không đơn giản. Sau nhiều đêm suy nghĩ,
đoán định được lợi nhuận, ông Pâng đã
thuyết phục vợ con để lấy đất canh tác của
gia đình trồng chè và cà phê. Chè và cà phê
trồng ở Noong Lào hợp khí hậu thổ nhưỡng
đã bám đất phát triển nhanh chóng.
Thung lũng xanh Noong Lào
Khoát tay một vòng chỉ những diện tích
cà phê, chè xanh mướt hiện có, ông Pâng
vui vẻ nói: “Mỗi năm, nó đem về cho gia
đình tôi cả trăm triệu đồng đấy. Nhà này, xe
này, đồ dùng này, lại cả tiền cho con cái đi
học nữa…, đều nhờ nó cả. Nếu không mạnh
dạn, nếu không dám phá cách mà chỉ nhìn
vào cây lúa, cây ngô thì chả bao giờ có
được đâu”.
Ngoài gia đình ông Pâng, đến Noong
Lào ngày nay, khách xa phải ngạc nhiên về
những mô hình kinh tế trang trại và chăn
nuôi ở đây. Cùng với màu xanh của chè, cà
phê và tiếng mõ trâu lốc cốc, tiếng chuông
bò rình rang là ngày càng nhiều gia đình
triệu phú ra đời. Trong đó có gia đình ông
Lò Văn Bun. Sở dĩ ông Bun là người dẫn
đầu về kinh tế của bản do là người đầu tiên
mạnh dạn “xui” vợ con đem chè và cà phê
về đây trồng trước nhất. Từ vài nghìn m2
đất hoang cằn ban đầu, nay quỹ đất đai nhà
ông đã phủ xanh màu chè và cà phê. Hiện
nay, với gần 5ha chè và cà phê kết hợp với
chăn nuôi gia súc, mỗi năm gia đình ông đã
có thu đến cả trăm triệu đồng. “Ngang ngửa”
với gia đình triệu phú Lò Văn Pâng, Lò Văn
Bun, ở đất Noong Lào hiện nay còn có các
tên tuổi khác nữa như Lò Văn Chum, Lò Văn
Thưng…
Từ miền đất “vứt đi”, bằng sự dấn thân,
dám nghĩ, dám làm của nhiều người dân, hiện
nay cây chè và cây cà phê đang trở thành cây
trồng có thế mạnh, lan tỏa và để nhiều gia
đình học theo để làm giàu. Từ những cá nhân
ban đầu, hiện nay hai thứ cây trồng này đang
ngày lan rộng và phủ xanh cho đất nghèo một
thời có tên Noong Lào.
Đơn Thương
Nguồn http://danviet.vn/
Báo điện tử TW Hội ND Việt Nam
………………………………………………
Trồng nấm rơm trong nhà cho hiệu quả kinh tế rất cao Không bị ảnh hưởng bởi thời tiết mưa,
nắng, trồng nấm rơm trong nhà có thể làm
từ 6 - 8 vụ/năm, rơm nguyên liệu giảm,
năng suất tăng nên mang lại hiệu quả kinh
tế rất cao.
Mô hình này đang được nhiều hộ nông dân
ở Kiên Giang đầu tư làm, mang lại nguồn thu
nhập khá.
Kiên Giang là tỉnh có đất trồng lúa lớn nhất
ĐBSCL, với trên 300.000ha, trong đó nhiều
diện tích trồng được 2 - 3 vụ/năm. Sau khi thu
hoạch lúa xong, nguồn rơm rạ thường được
đốt hoặc bỏ luôn tại ruộng, gây ô nhiễm môi
trường. Nhất là khi thâm canh tăng vụ, thời
gian cách ly giữa các vụ rất ngắn, chỉ khoảng
20 ngày nên rơm rạ không kịp phân hủy, gây
ngộ độc hữu cơ cho lúa vụ tiếp theo.
Để khắc phục tình trạng này, ngành nông nghiệp
Kiên Giang đã hỗ trợ nông dân triển khai mô hình
máy thu rơm, cuộn lại thành bánh (bó). Ông Phù Khí
Nguyên, PGĐ Trung tâm Khuyến nông Kiên Giang
cho biết, máy thu rơm sử dụng công nghệ của Trung
Quốc, loại gắn vào đầu máy kéo, có giá 60 triệu
đồng/máy, trong đó trung tâm hỗ trợ 20 triệu đồng.
Máy có thể thu được 3 - 4 ha/ngày từ nguồn rơm do
máy gặt đập thải ra trên đồng ruộng.
Nông thôn đổi mới Nhà nông làm giàu
- 35 -
“Với máy cuốn rơm, nông dân hạn chế việc
đốt đồng, giảm ô nhiễm khói bụi. Đồng thời
việc vệ sinh đồng ruộng chuẩn bị cho vụ lúa
tiếp theo cũng dễ đàng hơn, tránh được hiện
tượng ngộ độc hữu cơ do rơm ra không kịp
phân hủy. Do đó, thời gian tới chúng tôi sẽ
tăng cường hỗ trợ thêm loại máy này cho nông
dân”, ông Nguyên cho biết thêm.
Từ nguồn rơm rạ do máy thu rơm mang về,
Trạm Khuyến nông huyện Tân Hiệp đã hỗ trợ
nông dân triển khai mô hình trồng nấm rơm
trong nhà. Anh Cao Hoàng Anh, nông dân ở
xã Thạnh Đông A tham gia mô hình chia sẻ:
“Trồng nấm rơm trong nhà có chi phí đầu tư
ban đầu cao hơn so với làm ngoài trời, nhưng
bù lại năng suất cao và làm được nhiều
vụ/năm nên hiệu quả kinh tế hơn hẳn”.
Theo tính toán của anh Hoàng Anh, để làm
250m2 nhà trồng nấm, tổng chi phí khoảng 36
triệu đồng, gồm cây, tôn làm mái che, mô tơ
bơm nước, hệ thống máy phun sương, nhiệt
kế… Nhờ đó, việc trồng nấm sẽ chủ động hơn,
tiết kiệm được công lao động, kiểm soát tốt
yếu tố môi trường như nhiệt độ, ẩm độ và
không bị phụ thuộc vào thời tiết như khi trồng
nấm rơm ngoài trời. Thời gian sử dụng được 3
năm, mỗi năm làm được 6 vụ, tính ra chi phí
tăng thêm là 2 triệu đồng/vụ.
Về kỹ thuật trồng nấm, nông dân tham gia
mô hình được cán bộ kỹ thuật của Trạm
Khuyến nông huyện hỗ trợ, tập huấn hội thảo
ngay từ đầu vụ. Trồng nấm trong nhà nên rơm
có thể chất mô theo luống, chất trên kệ tầng
hoặc chất từng cây đứng (chất quanh cọc) để
tiết kiệm không gian.
Qua thực tế sản xuất, anh Hoàng Anh chia
sẻ: “Nấm rơm cần nhiệt độ và độ ẩm cao.
Nhiệt độ thích hợp cho nấm phát triển tốt ở
giai đoạn ủ tơ là 33 - 35oC và 28 - 30oC khi ra
quả thể. Ẩm độ không khí trong nhà nấm khoảng
80 - 90% và rơm ủ là 65 - 70% (nắm rơm bóp
nhẹ nếu có nước rịn ra ở kẽ tay là vừa).
Sau khi rơm đã được ủ chín đúng kỹ thuật
thì tiến hành cấy meo (chất nấm) và khoảng 8
- 11 ngày thì có quả thể. Nấm lớn rất nhanh,
cần theo dõi thường xuyên để thu hoạch đúng
giai đoạn khi nấm hình trứng. Mỗi được chất
nấm thu hoạch được 2 đợt, cách nhau khoảng
7 - 8 ngày”. Với diện tích 250m2 nhà, mỗi vụ
gia đình anh Hoàng Anh thu hoạch được
khoảng 750kg, cao gần gấp đôi so với cách ủ
ngoài trời. Trong khi đó lượng rơm nguyên
liệu lại giảm, chỉ 7 - 8 kg rơm/kg nấm, so với
ủ ngoài trời cần tới 10kg rơm. Nấm thương
phẩm tiêu thụ khá thuận lợi, chủ yếu bán ăn
tươi, thương lái đến tận nơi thu mua với giá
60.000 đồng/kg.
Với mức giá này, mỗi vụ chất nấm gia đình
anh Hoàng Anh thu lợi nhuận gần 20 triệu
đồng. Nếu giá cả ổn định và năng suất tương
đương thì ước tính với 6 vụ nấm/năm, nguồn
thu mang lại cho gia đình anh hơn 110 triệu
đồng/diện tích 250m2.
Mới đây, Trung tâm Khuyến nông Kiên
Giang tổ chức hội thảo, đánh giá hiệu quả về
mô hình “Trồng nấm rơm trong nhà”, thu hút
nhiều nông dân trong vùng tham gia, học hỏi
kinh nghiệm và mạnh dạn đầu tư làm theo. Từ
đó, nguồn rơm nguyên liệu cũng trở nên hút
hàng, dịch vụ máy cuốn rơm làm không hết
việc mỗi khi vào vụ thu hoạch rộ.
D.T. Chánh
Nguồn http://nongnghiep.vn/
Báo Nông nghiệp Việt Nam
Nông thôn đổi mới Nhà nông làm giàu
- 36 -
Người bắt đất cằn nở hoa Tuy tuổi cao nhưng ông Đặng Đình Thị, ở bản Hoa Mai, xã Chiềng Ban, huyện Mai Sơn
(Sơn La) đã năng động áp dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất. Trang trại của ông đã
vinh dự được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và đoàn công tác tới thăm.
Bứt phá từ kinh tế vườn, đồi
Rời quân ngũ từ những năm đầu thập kỷ
90, về định cư tại bản Hoa Mai, xã Chiềng
Ban - nơi vợ đang công tác, ông Đặng Đình
Thị không khỏi có những lo âu. Chiềng Ban
vốn là vùng đồi đất rộng nhưng khô cằn nổi
tiếng, chỉ thích hợp với loài hoa ban vốn
khẳng khiu, chịu hạn. Quyết tâm khắc phục
gian khó của người lính Cụ Hồ trong ông Thị
đã gặp thời bởi khi ấy kinh tế hàng hóa ở Sơn
La manh nha phát triển.
Lúc đầu, trên mấy ha đất nương, ông Thị
lấy cây ngô lai VNL10 để xóa nghèo. Được
mấy năm sau thì cây mía xuất hiện và ông Thị
nhanh chóng chuyển đổi sang trồng mía
nguyên liệu cho nhà máy đường. Chưa kịp vui
với những nguồn thu mới thì cây mía ở
Chiềng Ban bị ảnh hưởng sương muối, Nhà
máy Mía đường Sơn La không thu mua kịp,
mía chất thành đống đốt như đốt củi trong nỗi
xót xa của các chủ vườn.
Ông Thị lại một lần nữa chấp nhận thay đổi
cây trồng. Lần này, cẩn thận hơn, ông chia đất
vườn ra thành nhiều lô, 1 phần diện tích trồng
ngô, còn lại chủ yếu trồng cây cà phê nhưng
có dành đất để trồng thêm cây ăn quả và kết
hợp cả chăn nuôi…
Ông Thị thổ lộ: “Với cách làm ấy, thu nhập
của gia đình tôi khá đảm bảo và nhanh chóng
bứt phá thành hộ khá, hộ giàu chỉ trong 7-8
năm. Tuy đã an toàn hơn nhưng tôi vẫn khao
khát nghề chăn nuôi hơn trồng trọt…”.
Ban đầu ông chỉ lựa chọn nuôi 4 con bò cái
và từ đấy nhân đàn lên. Nhưng khi đàn bò lên
tới 10 con thì thức ăn cho bò trở thành bài
toán nan giải bởi rừng đã có chủ nên bãi chăn
thả gia súc không còn. Muốn nuôi nhiều trâu,
bò chỉ còn cách nuôi nhốt chuồng và phải
chấp nhận bỏ bớt đất trồng cà phê để trồng cỏ
nuôi bò. Nhưng bò ăn tốn lắm, 25 con bò
trồng tới 1ha cỏ mà vẫn thiếu…” – ông Thị kể.
Công nghệ mới hóa giải khó khăn
Về công nghệ tưới ẩm áp dụng trong trồng
cỏ nuôi bò, ông Thị nhớ lại: “Tôi được Hội
ND và các cán bộ khuyến nông tập huấn, đưa
đi tham quan các mô hình kinh tế hiệu quả
nhiều lần nên khi ông Hoàng Văn Chất - Bí
thư Tỉnh ủy Sơn La đưa công nghệ tưới ẩm
của Israel về, tôi mạnh dạn xin ứng dụng
ngay... Có công nghệ tưới ẩm, tôi vận dụng
không chỉ trên diện tích cây ăn quả, cây cà phê
mà đưa sang cả diện tích trồng cỏ…” – ông
Thị hào hứng kể.
Có tưới ẩm, vừa không tốn nước mà lại dư
dả cỏ quanh năm, ông đã tăng đàn bò nái lên
tới 35 con. Năm 2015 ông đã bán được gần 20
con bê, nghé các loại. “Năm nay, dự kiến tôi
có số nghé lên tới 22-23 con. Tính ra, thu nhập
Nhờ công nghệ tưới ẩm, cỏ quanh năm tươi tốt,
đàn bò nái nhà ông Thị ngày càng phát triển. K.T
Nông thôn đổi mới Nhà nông làm giàu
- 37 -
của tôi năm nay ước đạt gần 2 tỷ đồng cả từ
chăn nuôi và trồng trọt, tăng gấp 3 lần so với
năm 2013 và gần gấp đôi so với năm 2014.
Một vinh dự lớn đã đến với tôi là tháng
1.2014, trang trại của gia đình được Tổng Bí
thư Nguyễn Phú Trọng và đoàn công tác cấp
cao tới thăm và động viên…”.
Trong sản xuất, ông Thị đã tạo việc làm
thường xuyên cho 20 người. Ngoài ra, trong 3
năm vừa qua, ông Thị còn trực tiếp giúp 6 hộ
trong bản Chiềng Ban thoát nghèo nhờ những
kinh nghiệm làm ăn hay, hỗ trợ giống, vốn và
cho nuôi bò rẽ sinh sản.
Kiều Thiện
Nguồn http://danviet.vn/
TW Hội ND Việt Nam
………………………………………………….
Kỹ sư cơ khí thành tỷ phú nhờ... cam, bưởi Tốt nghiệp kỹ sư ngành cơ khí Đại học
Bách khoa Hà Nội, nhưng nhiều người biết
tới Hoàng Hữu Quốc khi anh làm chủ trang
trại Bống Vàng tại quê nhà - xã Tiên Tiến,
huyện Phù Cừ (Hưng Yên). Quốc là 1 trong
những gương làm kinh tế giỏi tại địa
phương...
“Nặng nợ” với quê hương
Năm 2006, Hoàng Hữu Quốc tốt nghiệp
Đại học Bách khoa Hà Nội với tấm bằng kỹ sư
cơ khí. Ra trường, Quốc quyết tâm bám trụ và
gây dựng sự nghiệp ở thủ đô. Quốc làm cho
nhiều công ty, cơ sở sản xuất cơ khí. Với kiến
thức đã học cộng tính cách nhanh nhẹn, chịu
vất vả, sau 1 thời gian làm thuê, Quốc tự mở 1
cơ sở buôn bán phụ tùng ô tô tại Hà Nội.
Cửa hàng đang lúc ăn nên làm ra thì ở quê bố
anh cũng thành lập trang trại Bống Vàng. Trang
trại Bống Vàng có quy mô hơn 6,5ha với cây
trồng chủ lực là các loại cam, bưởi đặc sản và
nuôi gia cầm, thủy sản. Quốc là người góp ý, tư
vấn với bố nhiều trong việc thiết kế, quy hoạch,
lập kế hoạch phát triển cho trang trại.
Những tưởng mọi thứ đều thuận lợi, tới
năm 2012, bố Quốc lâm trọng bệnh và qua
đời. Trang trại lớn ở quê nhà không có ai trông
nom, sau nhiều đêm mất ngủ, suy đi tính lại,
Quốc quyết định về quê tiếp quản và điều
hành trang trại Bống Vàng theo tâm nguyện
của bố.
“Việc kinh doanh của tôi có thể quay lại
trong thời gian thích hợp, chứ không thể bỏ lơi
công việc phát triển trang trại Bống Vàng, bởi
đó là tâm huyết cả đời của bố tôi và gia đình.
Tôi muốn tiếp quản và phát triển trang trại ở
mức cao hơn…”- Quốc thổ lộ.
Thu tiền tỷ
Khi anh tiếp quản trang trại, mặc dù sinh ra
và lớn lên ở đồng quê chiêm trũng, có thể thạo
cày, cấy, nhưng để phát triển và vận hành hiệu
quả 1 trang trại tương đối lớn, Quốc lại gần
như “mù tịt”. Nhưng bằng sự nhanh nhẹn,
tháo vát, không quản ngại khó khăn và đặc
biệt là không bảo thủ trước những kiến thức
khoa học kỹ thuật mới, Quốc từng bước học
hỏi, mạnh dạn áp dụng mô hình mới.
Trang trại Bống Vàng được Quốc xác định
trồng cam đường Canh, cam Vinh, bưởi Diễn
là chủ yếu. Quốc cho mở rộng và tu sửa hệ
thống ao và tập trung vào nuôi các loại cá có
giá trị kinh tế cao như chép lai, rô phi đơn tính
và trắm đen.
Ông Đặng Đình Thị là người dám nghĩ, dám
làm và thành công là hội viên gương mẫu với
cái tâm trong sáng sẵn sàng giúp người
nghèo.
Ông Nguyễn Thanh Huy - Trưởng ban Kinh
tế Hội ND tỉnh Sơn La
Nông thôn đổi mới Nhà nông làm giàu
- 38 -
Từ 1 anh chàng kỹ sư cơ khí còn
ngu ngơ về nông nghiệp ngày nào, giờ
đây Quốc đã trở thành 1 trong những
chủ trang trại giàu kiến thức nhất địa
phương khiến bà con nông dân trong
vùng phải tìm đến học hỏi, trao đổi.
Cũng trồng các loại cây có múi, nhưng
trang trại của Quốc trồng với mật độ
thưa hơn và chú trọng đến việc tỉa, tạo
tán, phát huy tối đa sinh lực của cây trong việc
ra hoa, đậu quả. Quốc còn áp dụng các biện
pháp phòng, trừ sâu bệnh bằng phương pháp
sinh học, hạn chế dùng các loại thuốc bảo vệ
thực vật có nguồn gốc hóa học.
Doanh thu năm 2015 của trang trại Bống
Vàng đạt hơn 4,5 tỷ đồng, sau khi trừ chi phí,
lãi ròng 2,5 tỷ đồng.
Trang trại Bống Vàng là
một trong những trang trại
trọng điểm nhận được sự
quan tâm của cấp ủy, chính
quyền và Hội ND huyện
Phù Cừ bởi vai trò dẫn dắt
và là địa chỉ học hỏi, tham
quan nhân rộng mô hình sản
xuất nông nghiệp hàng hóa
hiệu quả. Năm 2016, trang trạng của Quốc đã
được tạo điều kiện mở rộng thêm 2,7ha, nâng
tổng diện tích lên 9,2ha như hiện nay.
Việt Phương
Nguồn http://danviet.vn/
TW Hội ND Việt Nam
………………………………………………
Trồng cọ dầu, kiếm tiền tỷ Có ai nghĩ trên vùng đất lung phèn nặng như huyện Bình Chánh (Tp. HCM) lại xuất
hiện nông trại cây cọ dầu rộng hàng chục ha? Thế mà nông dân (ND) xã Bình Lợi đã kiếm
tiền tỷ trên vùng đất này với những cây trồng mới.
Tôi vẫn nghĩ, cây cọ dầu
không thể thích nghi tốt với
điều kiện thổ nhưỡng trên
vùng đất Bình Lợi vốn lung
phèn nặng và khả năng ngập
úng cao, bởi cây cọ dầu phát
triển tốt trên đất pha cát và ưa
nơi có nhiều nắng. Thế
nhưng, khi chứng kiến thực tế
cây cọ dầu phát triển tốt và
cho năng suất trái cao, mới
thấy chủ nhân của nông trang
này không phải… “ném tiền
qua cửa sổ”.
Dám đột phá mới có ăn!
Như đã hẹn, tôi cùng
nhóm thương nhân Italia đến
nông trang cây cọ dầu của
anh Lê Phong Phú (xã Bình
Lợi, huyện Bình Chánh).
Trong phân xưởng nhỏ, anh
Phú cùng hai công nhân đang
ép dầu.
Trong khi ông Ianiele
Miccione - một nhà báo của tờ
La Gazzetta Dello Sport cùng
đi chung đoàn tỏ ra khá thích
thú khi thấy mấy ND Việt vật
lộn với cái máy ép dầu cọ thủ
công, thì vợ ông - một thương
nhân, lại luôn miệng hỏi anh
Phú về quy trình sản xuất và
giá bán dầu cọ tại thị trường
Việt Nam hiện ra sao. Bà cho
hay, tại Italia, thị trường rất
chuộng dầu cọ vì không nặng
mùi khi sử dụng như các loại
dầu ăn khác.
Theo anh Phú, mỗi ngày
anh thu hoạch khoảng 2-3 tấn
trái cọ dầu. Sau quy trình ép
dầu, anh thu khoảng 500kg
dầu thô. Hiện, anh bán dầu
thô này cho các xưởng sản
xuất công nghiệp chứ chưa
tinh luyện để làm dầu ăn.
“Tôi trồng cọ dầu để lấy trái.
Mỗi quầy trái có thể cân nặng
khoảng 10kg. Sau khi thu
hoạch, toàn bộ quả (cùi thịt,
hạt) đều được dùng để sản
xuất xà phòng và dầu ăn. Tuy
nhiên, tại xưởng mới chỉ làm
dầu thô vì chưa trang bị quy
Hoàng Hữu Quốc là
thành viên sáng lập nên
câu lạc bộ làm vườn của
địa phương. Câu lạc bộ
quy tụ 18 thành viên là
các chủ trang trại lớn của
xã cùng nhau trao đổi, hỗ
trợ kinh nghiệm, kiến thức
phát triển kinh tế.
Nông thôn đổi mới Nhà nông làm giàu
- 39 -
trình tinh luyện dầu. Các
phẩm cấp dầu cọ thu được từ
hạt hay cùi thịt như bã sẽ
được dùng làm phân bón và
thức ăn cho gia súc, gia cầm”
- anh nói.
Hiện, anh Phú trồng gần
50ha cây cọ dầu. Phần lớn
diện tích này tại xã Bình Lợi,
số còn lại ở các tỉnh Long An,
Bình Thuận. Theo tính toán,
mỗi ha cọ dầu được thu hoạch
quanh năm sẽ cho sản lượng
vào khoảng 10 tấn quả. Từ
đây, có thể sản xuất được 3
tấn dầu cọ từ vỏ quả và 250kg
dầu cọ từ hạt.
Không những vậy, trên đất
Bình Lợi còn hình thành một
làng mai rộng khoảng 200ha
với 200 hộ ND sản xuất. Chỉ
tính riêng trong Câu lạc bộ
Sinh vật cảnh xã Bình Lợi
hơn chục thành viên thì mỗi
năm xuất bán 200.000 cây
nguyên liệu, hàng ngàn cây
thành phẩm. Ông Phan Tiến
Đạt - Chủ nhiệm câu lạc bộ
cho biết, mỗi năm nông trại
của ông xuất bán hơn 1.000
cây mai thành phẩm, thu nhập
vài tỷ đồng.
Chỉ dấu phát triển
Bình Lợi là xã thuần nông,
thuộc diện nghèo nhất huyện
Bình Chánh. Diện tích đất tự
nhiên của xã khoảng 1.900ha,
trong đó có gần 1.600ha đất
nông nghiệp. Hiện xã đã hoàn
thành Chương trình xây dựng
nông thôn mới.
Theo ông Phan Tiến Đạt,
trước đây vùng đất Bình Lợi
được thành phố quy hoạch trồng
cây dứa cayene theo Chương
trình “hai cây hai con”. “ND cày
ải riết mà có thấy đời sống khấm
khá lên đâu. Đất phèn ngày càng
bạc màu, cây dứa ngày càng còi
cọc, năng suất đi xuống trông
thấy. Cây dứa cayene “chết” từ
đó. Bỏ cây dứa, ND chuyển
sang trồng mía. Cho đến giờ giá
mía vẫn bấp bênh, đời sống ND
cũng 3 chìm, 7 nổi” - ông Đạt
cho hay.
Xác định phát triển kinh tế
là nhiệm vụ trọng tâm, hàng
đầu, xã Bình Lợi đã chỉ đạo
người dân chăm lo sản xuất,
chuyển dịch cơ cấu cây trồng,
vật nuôi. Các mô hình kinh tế
hiệu quả trên địa bàn được
nhân rộng như: Trồng dừa
xiêm Mã Lai, mai vàng, cá
kiểng, ổi… “Khi mới triển
khai, xã gặp không ít khó
khăn. Nguyên nhân là do các
mô hình chuyển đổi cây trồng
trước đó như dứa cayene hay
chanh đều thất bại, khiến
người dân mất niềm tin và
nghi ngờ các chính sách
chuyển đổi cơ cấu cây trồng.
Tuy nhiên, các mô hình
chuyển đổi đã khẳng định
được hiệu quả kinh tế nên bà
con hăng hái tham gia” - ông
Trương Thái Ngọc - Chủ tịch
UBND xã Bình Lợi nói.
Trần Đáng
Nguồn http://danviet.vn/
TW Hội ND Việt Nam
……………………………………………….
Nuôi cua đồng thương phẩm
đạt hiệu quả
Cua đồng là loại sống hoang dã, nhưng
anh Võ Minh Quang (thôn 1 xã Hồng Sơn,
Hàm Thuận Bắc, Bình Thuận) đưa vào
nuôi trong ao, ruộng… với thời gian nuôi
ngắn và mang lại nguồn thu nhập đáng kể.
Thả cua giống. Ảnh: N.L
Nông thôn đổi mới Nhà nông làm giàu
- 40 -
Sau một vài lần xem chương trình khuyến
nông về mô hình nuôi cua đồng, anh Quang tự
hỏi sao mình không nuôi trong khi cua đồng
ngoài tự nhiên ngày càng ít. Đặc biệt mùa nắng,
cua đồng rất hiếm, giá thị trường khá cao. Với
cách nghĩ ấy, anh Quang tiếp tục đọc nhiều tài
liệu trên mạng về phương pháp nuôi thả, cách
xây dựng ao nuôi và cho cua ăn… Năm 2014,
anh quyết định đầu tư nuôi cua đồng.
Với 2.000m2 đất vườn thanh long, anh
Quang cải tạo đắp bờ bao kiên cố, gắn ống để
điều tiết nước thuận tiện, bên trên quây bằng
prô-xi măng chắc chắn để hạn chế cua bò ra
ngoài. Trong ao, đắp nhiều bờ đất, trồng rau
muống tạo độ che phủ mặt ao trong lúc trời
nắng, đồng thời cua có thể đào hang trú ẩn và
lột xác. Để có nguồn cua trong ao, anh Quang
chọn giống khỏe, đồng đều, không bị bệnh và
gãy càng từ việc thu mua lại nguồn cua ngoài
tự nhiên tại địa phương, với 1.000 kg cua. Bởi
cua tại địa phương sống hoang dã, ít bệnh dễ
thích nghi theo điều kiện nuôi. Hơn nữa cua
đồng chưa có nơi sản xuất con giống.
Anh Quang cho biết: “Thức ăn cho cua rất
đa dạng từ cám, khoai, cá, ốc… kể cả thanh
long (hàng dạt) cắt nhỏ, sử dụng nguồn thức
ăn sẵn có. Tùy thuộc vào điều kiện thời tiết mà
điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp. Cua
thường bắt mồi vào buổi chiều tối nên cho cua
ăn vào khoảng 17 giờ đến 19 giờ, mỗi tuần 1
lần. Có thể thả nuôi vài con cá trê, cá rô đồng
để ăn thức ăn thừa của cua, giảm ô nhiễm
nguồn nước.
Theo anh Quang, sau 4 tháng nuôi dùng lờ
đặt vào ao để thu tỉa bán cua thương phẩm. Với
cua nhỏ, cua cái đang mang trứng được để lại
nuôi. Nuôi cua đồng một lời một, cứ đầu tư 15
triệu đồng tiền giống thì thu về 30 triệu đồng.
Vào mùa nắng, thương lái thu mua giá cua đồng
khoảng 45.000 - 50.000 đồng/kg, là mặt hàng
được thị trường ưa chuộng, thương lái tìm đến
tận nhà thu mua. Nuôi cua đồng vừa đỡ tốn chi
phí, thu hoạch được nhiều lần/vụ. Có thể nói
rằng, mô hình nuôi cua đồng thương phẩm của
anh Quang đã mang lại hiệu quả kinh tế. Mô
hình này có thể tận dụng những diện tích đất
trũng, đất trồng kém hiệu quả để phát triển sản
xuất, góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống
người dân địa phương.
Trang Hiếu
Theo Báo Bình Thuận
………………………………………..
Nuôi ngọc trai nước ngọt kiếm tiền tỷ mỗi năm
gọc nuôi cấy từ trai nước ngọt ở
Ninh Bình có độ dày, rất tròn,
kích cỡ to, màu sắc bóng đẹp
cho hiệu quả kinh tế cao. Mỗi 1ha nuôi trai
lấy ngọc cho thu nhập hàng trăm triệu đồng,
nông dân dễ dàng kiếm tiền tỷ mỗi năm.
N
Công đoạn ghép ngọc vào trai được thực hiện
rất cẩn thận.
Nông thôn đổi mới Nhà nông làm giàu
- 41 -
Thời gian gần đây, tại tỉnh Ninh Bình đang
thực hiện thành công nghề nuôi trai nước ngọt
lấy ngọc tại xã Khánh Lợi, huyện Yên Khánh.
Mô hình đặc biệt này đem lại hiệu quả kinh tế
cao cho nhiều hộ nông dân. Thu nhập kinh tế
từ việc nuôi trai lấy ngọc cao gấp 5 - 10 lần so
với các loại vật nuôi khác.
Anh Đặng Văn Lưu, người thực hiện
nghiên cứu đề tài đặc biệt này cho biết, mô
hình được triển khai áp dụng ở xã Khánh Lợi,
trên diện tích 2ha từ năm 2013. Đây là phương
pháp cấy ghép mô tế bào và nhân vào khu vực
xoang màng áo ngoài của trai nước ngọt.
“Kỹ thuật ghép cấy tiên tiến này cho ra sản
phẩm ngọc trai nước ngọt hình tròn, kích
thước từ 4 - 12mm, có chất lượng cao, màu
sắc rất đẹp”, anh Lưu chia sẻ.
Ông Đinh Văn Việt, đơn vị đầu tư nghiên
cứu, ứng dụng mô hình cho hay, Ninh Bình có
rất nhiều loài trai nước ngọt sinh sống. Vì thế,
việc nghiên cứu và phát triển nghề nuôi trai
lấy ngọc là rất hiệu quả, phục vụ du lịch đem
lại hiệu quả kinh tế cao.
Để có được viên ngọc trai nước ngọt, ban
đầu phải tìm được loài trai xanh cánh mỏng và
trai đen cánh dày. Hai loại trai này có tuổi thọ
cao, sức sống bền, khi trưởng thành có kích cỡ
lớn từ 20 - 35cm, trọng lượng hơn 2kg/con.
Cũng theo anh Lưu, thời gian nuôi thả trai
cấy ngọc từ 18 tháng đến 3 năm tùy thuộc vào
chất lượng nguồn nước ao nuôi và nhiệt độ
thời tiết từng năm. Kỹ thuật ghép ngọc trai
được thực hiện rất cẩn thận để trai sạch sẽ và
không bị nhiễm khuẩn. Theo đó, kỹ thuật cấy
ghép và nuôi dưỡng làm sao để trai không đào
thải nhân, tỷ lệ trai ngậm nhân cao.
Ông Việt chia sẻ thêm: “Sau khi cấy ghép
sức khỏe của trai rất yếu, vị trí các viên nhân và
tế bào chưa ổn định trong túi ngọc. Quá trình
thao tác phẫu thuật có những chấn thương làm
cho con trai bị đau và rất dễ nhiễm trùng. Vì
thế, khi nuôi dưỡng phải luôn giữ môi trường
bể nuôi sạch sẽ, các thao tác thực hiện phải nhẹ
nhàng mới giảm được tỷ lệ trai chết”.
Sau hai năm nuôi trồng, đến nay số trai cấy
ngọc còn sống của đơn vị ông Việt đạt 55,9%,
tương đương 11.200 con/ha và số ngọc trai thu
được 14.300 viên/ha. Sản phẩm ngọc trai thu
hoạch được phân làm sáu loại từ loại 1-5 và
loại ngọc tự nhiên, trong đó có viên ngọc trị
giá lên đến 5,5 triệu đồng.
“Ngoài sản phẩm chính là ngọc, vỏ trai còn
được tận dụng làm các đồ thủ công mỹ nghệ.
Thịt trai dùng làm thực phẩm hoặc thức ăn
chăn nuôi. Bên cạnh đó, loài trai sống ở tầng
đáy bể nuôi có thể kết hợp với các loài thủy
sản khác để tận dụng tầng nước mặt. Sau khi
trừ chi phí, tổng lợi nhuận trên 1ha ao nuôi đạt
trên 400 triệu đồng/năm.
Đến nay, trai nuôi nước ngọt ở Ninh Bình đã
cho ra thị trường ba dòng sản phẩm ngọc gồm:
ngọc trai tròn, ngọc trai cấy mô, ngọc trai hình
Khi thu hoạch, ngoài ngọc trai cho giá trị
kinh tế chính thì vỏ và thịt trai cũng được
tận dụng để làm hàng mỹ nghệ, thực phẩm
hoặc thức ăn chăn nuôi.
Nông thôn đổi mới Nhà nông làm giàu
- 42 -
tượng. Các sản phẩm này được tiêu thụ chủ yếu
tại Ấn Độ, Nhật Bản, Hà Nội, Tp. HCM...
Gia đình bà Đinh Thị Ân có 1.400m2 ao,
trước đây chỉ nuôi các loại cá truyền thống
không mấy hiệu quả. “Khi được chuyển giao
kỹ thuật, cung cấp về con giống và bao tiêu
toàn bộ sản phẩm, thu nhập của gia đình tôi
cao hơn nhiều lần so với nuôi các loại cá
truyền thống trước đây”, bà Ân nói.
Không chỉ gia đình bà Ân mà một số gia
đình khác tại địa phương hiện cũng đang nuôi
trai nước ngọt lấy ngọc.
Ông Hoàng Trọng Lễ, Phó Giám đốc Sở
Khoa học và Công nghệ tỉnh Ninh Bình cho
hay, mô hình nuôi trai nước ngọt lấy ngọc rất
mới. Kết quả đạt được ban đầu cho thấy có thể
nhân rộng được nghề này.
“Sở sẽ tiếp tục hỗ trợ, tạo điều kiện như tập
huấn, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật để triển khai
nhân rộng mô hình trong thời gian tới. Khi nuôi
trồng thành công sẽ nhân rộng ra phát triển ở
diện tích ao hồ các huyện như: Yên Khánh,
Nho Quan, Gia Viễn”, ông Lễ nói.
Thái Bá
Nguồn: http://dantri.com.vn/
Báo điện tử Dân trí
Công nghệ Tưới nhỏ giọt là gì?
Tưới nhỏ giọt là kỹ thuật tưới cung cấp nước vào rễ cây dưới dạng các giọt nước nhỏ ra chậm
với lưu lượng không đổi nhờ các cơ chế đều tiết áp lực nước của các đầu nhỏ giọt gắn chìm
trong ống dẫn hay lắp bên ngoài ống.
Đến nay, hệ thống tưới nhỏ giọt là biện pháp tưới tiêu tiết kiệm nước nhất, giảm đến 30-60%
nước so với phương pháp tưới truyền thống. Nông dân có thể cung cấp nước, phân bón đến đúng
vùng rễ tích cực với liều lượng nhỏ, vừa đủ để cây trồng hấp thu hết thông qua hệ thống máy
bơm, van, đường ống dẫn nước, đường ống nhỏ giọt, và hiện đại hơn là kết nối với hệ thống
máy tính kiểm soát.