Nội San Sen Trang Số 28 - GĐPT Úc Đại lợi
-
Upload
tu-sach-ao-lam -
Category
Documents
-
view
215 -
download
0
description
Transcript of Nội San Sen Trang Số 28 - GĐPT Úc Đại lợi
Kính Mừng Phật Đản
Sự Tích Mạnh Thường Quân
Chắp Tay Nguyện Cầu Đức Phật Đản Sanh
Hai Dòng Nước
Tam Độc Tham-Sân-Si
Bức Thư Dành Cho Con
Lòng Mẹ Chuyện Thần Thoại Ấn Độ
thơ Mothers’ Day
Cậu Bé Hiếu Thảo
Lễ Phật Đản OV nữ GĐPT Long Hoa
Retreat at Sunnataram Forest Monastery
Bài dịch sang tiếng Việt: Khóa Tu Tại Tu Viện Sunnataram Forest
Bài dịch sang tiếng Việt: Thử Thách
Walking Meditation
My acrostic poem on Chanh Phap
Niềm Vui
Tôi Yêu GĐPT
8
9
4
6
10
13
15
17
18
19
21
28
33
35
37
38
39
Mừng P
hật
Đản
Mừng N
gày C
ủa M
ẹ
Chủ Trương Ban Hướng Dẫn Gia Đình Phật Tử Việt Nam tại Úc Đại Lợi Thực Hiện: Ban Báo Chí Nguyên Mai Trần Thị Kim Hoàng Quảng Lạc Đỗ Văn Đức Diệu Hạnh Lê Nguyên Thủy Với Sự Đóng Góp Của: Nguyên Phước Tâm Lễ Minh Ngọc Chúc Hòa Tâm Minh Thiếu Nữ GĐPT Chánh Pháp Oanh Vũ GĐPT Long Hoa Thư từ bài vở ý kiến...xin gởi đến: [email protected] Sen Trắng 28 Phát hành vào dịp Đại Lễ Phật Đản PL 2554 Sen Trắng 29 Sẽ phát hành vào dịp Đại Lễ Vu Lan PL 2554
Ảnh Bìa: Sân chùa, Tu Viện Sunnataram Forest
Bundanoon, NSW 2578, Australia.
http://www.sunnataram.org/
rong lúc trò chuyện hay trong văn học Việt nam, có những thành ngữ được dùng để
diễn đạt một ý nghĩ hay một ngụ ý nào đó... mà nếu người đang trò chuyện hay đang đọc văn
không rõ sự tích thì không hiểu rõ hết ý nghĩa của câu chuyện. Ví dụ ta nghe nói: “Xin quí vị
mạnh thường quân ủng hộ cho buổi gây quỹ hôm nay...” Một số vị có thể hiểu rằng mạnh
thường quân là người có hảo tâm trong việc giúp cho cuộc gây quỹ, nhưng không biết tại
sao người ta dùng từ ngữ “mạnh thường quân” mà không dùng từ ngữ hảo tâm?
Một số những từ ngữ đặc biệt như trường hợp vừa kể đã đi vào ngôn ngữ, nhứt là văn chương
Việt nam từ hồi nào không ai biết, nhưng nó đã có mặt và được dùng nhiều khi vô ý, nhiều
khi cố tình, trong ngôn ngữ Việt nam. Để cho anh chị em huynh-trưởng và đoàn-sinh có thêm
tiếng mẹ đẻ, SEN TRẮNG mở mục tích “Chuyện xưa tich cũ”, mở đầu với sự tích Mạnh
Thường Quân”.
Lời giới thiệu:
Mạnh Thường Quân là một nhà nghĩa hiệp
trong lịch sử nước Trung-hoa hơn 2000 năm
trước(lúc bấy giờ nước Trung-hoa còn chia
ra hằng chục nước nhỏ). Mạnh Thường
Quân là con của quan tướng-quốc nước Tề
(tướng-quốc cũng như là thủ-tướng ngày
nay), một trong bảy “nước” mạnh của nước
Trung-hoa thời ấy. Quan tướng-quốc nước
Tề tên Điền Anh, ông có đến mấy chục
người con trai. Mạnh Thường Quân tên là
Điền Văn, con của một người tiểu-thiếp (tức
là vợ bé). Điền Văn sinh nhằm ngày 5 tháng
5 (âm lịch), thời bấy giờ người ta tin đó là
“ngày xấu” nên quan tướng-quốc bảo người
tiểu-thiếp phải bỏ đi (nghĩa là phải giết Điền
Văn ngay từ lúc mới sinh!). Thương con,
người tiểu-thiếp đem dấu Điền Văn, nhờ
người thân trong gia đình nuôi nấng.
Điền Văn là một cậu bé đẹp đẽ và thông
minh. Lên 5 tuổi, người tiểu-thiếp đem con
đến gặp cha. Quan tướng-quốc giận lắm,
nhưng thấy con mặt mũi đẹp đẽ nên nguôi
lòng. Cậu bé Điền Văn biết mình có nhiều
anh em và không có ai bị bỏ phế như mình,
nên hỏi cha: “Thưa cha, con có tội gì
không?” Tất nhiên là quan tướng-quốc giả
vờ nói qua chuyện khác. Qua cuộc đối đáp,
SEN TRẮNG
T
Khi Điền Văn làm tướng-quớc nước Tề, ông giao thiệp càng rộng hơn nên
hằng ngày có hằng ngàn người khách đến xin yết kiến. Ông không từ chối
tiếp kiến bất cứ một ai, dù sang hay hèn. Mọi người muốn gặp quan tướng-
quốc, phải chờ nhiều ngày mới đến phiên mình để được quan tướng-quốc
tiếp kiến. Vì vậy Mạnh Thường Quân phải xây khách xá rộng lớn để khách
chờ đợi. Tất nhiên việc chờ đợi ngày này qua ngày khác nên tại khách xá
phải có chỗ ăn, chỗ ngủ cho khách, có đến hằng ngàn người. Sử sách viết
rằng có đến 3000 vị khách ở lại nhà khách của quan tướng-quốc nước Tề
mỗi ngày. Danh tiếng quan tướng-quốc của nước Tề vang khắp mọi nơi và
được hàng quí tộc các nước phong tặng ông danh hiệu là Mạnh Thường
Quân.
Cuộc đời của vị Mạnh Thường Quân còn dài với nhiều buồn vui, thăng
trầm... nhưng vì trang Sen Trắng có hạn nên chúng ta chỉ cần biết bấy
nhiêu thôi, để hiểu nghĩa thành ngữ mạnh thường quân trong các trường
hợp nghe đến hay đọc thấy Sen Trắng.
quan tướng-quốc thấy đứa con thông
minh nên thương mến, ra lệnh đem về
nuôi nấng như các con khác.
Điền Văn học hành rất giỏi, hơn 10 tuổi đã
được mọi người thương kính. Lớn lên, ông
giao thiệp với nhiều bạn ở các “nước láng
giềng”, tiếng tăm lừng lẫy. Một hôm, ông
hỏi quan tướng-quốc: “Thưa cha, con của
con thì gọi là gì?” – “Gọi là cháu.” – “Con
cuả cháu gọi là gì?” – “Gọi là chắt.” –
“Chắt của chắt gọi là gì?” –... “Cha không
biết!” – “Thưa cha, nhà mình giàu có để
của cải cho ai ăn, khi con ăn không hết,
cháu ăn không hết, chắt... chiu ăn cũng
không hết?” Quan tướng-quốc ngó lơ,
không trả lời… Về sau, Điền Văn nối ngôi
cha làm quan tướng-quốc nước Tề, nước
Tề càng trở nên một nước mạnh trong 7
nước lớn của nước Trung-hoa hơn 2000
năm về trước: Năm 221 trước tây-lịch,
Tần Thủy-hoàng phải dẹp xong nước Tề
mới hoàn thành việc thống-nhất nước
Trung-hoa. Với mộng muôn năm
trường trị, nên ông tự đặt danh hiệu là
“Tần Thủy Hoàng”, các con cháu sẽ là
Tần Nhị Thế, Tam Thế… vạn vạn thế.
Ngày rằm tháng tư âm lịch đối với
người Phật tử chúng ta là một ngày
trọng đại. Đó là ngày được chọn để
làm lễ kỷ niệm ngày Đức Phật Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni sinh ra đời, ngày Đức
Thế Tôn thị hiện cõi Ta-bà. Ngày nầy
được gọi dưới nhiều tên khác nhau:
Theo tiếng Anh thì gọi là Buddha’s
birthday, tiếng Sanscrit thì gọi là Ve-
sak, theo tiếng Pali thì gọi là Vesàkha.
Nam do Thiền sư Thích Tố Liên (Hội
Tăng già Bắc Việt) làm Trưởng Phái
Đoàn, tham dự hội nghị thành lập Hội
Liên Hữu Phật Giáo Thế Giới (World
Fellowship of Buddhism) được tổ chức
tại thủ đô Colombo, Tích Lan từ ngày
26/5 đến 27/6/1950. Tổ chức nầy sau
khi tham khảo kinh sách và các tài liệu
lịch sử, đã công bố Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni đản sanh năm 624 trước Tây
Còn theo tiếng Việt thì có nhiều cách gọi như:
Quán Phật hội, Giáng Đản hội, Phật Đản hội
(pháp hội kỷ niệm ngày Phật đản sanh), Phật
Đản, Khánh Đản, Sinh nhật của Đức Phật…
Theo sự tích Đức Phật Thích Ca, trong kinh sách
ghi lại ngày sanh của Đức Phật có chỗ không
đồng: chỗ thì ghi là ngày mùng tám tháng hai, chỗ
thì ghi là ngày mùng tám tháng tư, lại có chỗ thì
ghi là ngày rằm tháng tư...
Còn năm sanh của Đức Phật, lịch sử cũng ghi lại
có chỗ sai khác:
Theo lịch sử Phật giáo Tây Tạng thì Đức Phật
đản sanh năm 626 trước Tây lịch.
Theo lịch sử Phật giáo Tích Lan thì Đức Phật đản
sanh năm 624 trước Tây lịch.
Theo lịch sử Phật giáo Miến Điện thì Đức Phật
đản sanh năm 561 trước Tây lịch.
Theo chứng tích do các nhà khảo cổ Tây phương
tìm được và công bố thì Đức Phật đản sanh vào
năm 563 trước Tây lịch.
Theo bia đá đặt tại Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya,
Ấn Độ), đánh dấu nơi Đức Phật thành đạo, thì ghi
Đức Phật đản sanh vào năm 623 trước Tây lịch.
Năm 1950, 26 phái đoàn đại diện cho các nước
Phật giáo, trong đó có phái đoàn Phật Giáo Việt
lịch, nhập diệt năm 544 trước Tây lịch và chọn
ngày rằm tháng tư âm lịch hàng năm làm ngày kỷ
niệm Đức Phật đản sanh. Cũng theo đó, vào
ngày Phật Đản, cứ lấy năm dương lịch cộng với
năm Phật nhập diệt (544 trước Tây lịch) để bắt
đầu cho một Phật lịch, (sau ngày rằm tháng tư
năm nay, năm 2010 cộng với 544, Phật lịch sẽ
được bắt đầu tính là Phật lịch 2554).
Trong ngày rằm tháng tư, lễ hội kỷ niệm ngày
Đức Phật đản sanh, có lễ Quán Phật Hội (là lễ
tắm Phật). Chữ Quán Phật Hội ngày nay ít còn
được nghe nhắc tới mà chúng ta thường nghe
đến một tên khác được dùng nhiều hơn là lễ Mộc
Dục. Theo nghĩa Hán-Việt, chữ Mộc nghĩa là gội
rửa, chữ Dục nghĩa là tắm. Nói chung, lễ Mộc
Dục là lễ tắm gội. Theo lệ thường ở Chùa, lễ nầy
được cử hành vào thời công phu lúc 4:30 sáng.
Sở dĩ cử hành lễ Mộc Dục vào sáng sớm vì theo
sự tích ghi lại thì Đức Phật đản sanh vào lúc rạng
đông. Sau khi Phật đản sanh, các vị Phạm
Vương, Đế Thích, Tứ Thiên Vương mang các thứ
nước thơm đến cúng dường, tắm rửa thân Phật
sơ sanh. Sau khi Phật nhập diệt, theo lệ đó, hàng
năm cứ đến ngày Phật đản, để tưởng nhớ đến
công đức của Phật, người Phật tử đều có tổ chức
lễ tắm Phật là do vậy.
Đó là tám nhân duyên khiến cho trái đất rung động
do Phật thuyết, được ghi lại trong kinh Du Hành,
Trường A Hàm.
Cũng trong thời công phu sáng của lễ tắm Phật,
chúng ta cũng được nghe bài kệ tán thán công đức
của Phật Thích Ca như sau:
Trong lễ tắm Phật, chúng ta thường được nghe
tụng bài kệ như thế nầy:
Ngã kim quán dục chư Như Lai
Tịnh trí trang nghiêm công đức tụ
Ngũ trược chúng sanh linh ly cấu
Đồng chứng Như Lai hiện pháp thân.
(Hôm nay được tắm cho Như Lai
Trí tuệ quang minh công đức lớn
Chúng sanh ba cõi đang chìm đắm
Được thấy trần gian hiện pháp thân)
Trong sự tích Phật giáo có ghi lại là khi Đức Phật
đản sanh, trái đất rung động. Đức Phật có giải
thích cho Tôn giả A Nan nghe về 8 duyên cớ
khiến cho trái đất rung động như sau:
1. Vì đất nương trên nước, nước nương trên
gió, gió nương ở hư không mà tồn tại. Khi
trong hư không có gió lớn nổi dậy thì nước
lớn bị lay động, nước lớn bị lay động thì quả
đất bị lay động. (Đây chính là nguyên nhân
khiến các mảng địa tầng di chuyển, chạm vào
nhau hay trượt, gối lên nhau, tạo nên động
đất ngày nay, chú thích của người viết).
2. Khi có một vị Tỳ-kheo hay Tỳ-kheo-ni vừa đắc
đạo hoặc có một vị Đại-thiên-thần muốn thử
thần thông thời trái đất rung động.
3. Khi có một vị Bồ-tát từ cung trời Đâu-suất
giáng thần vào thai mẹ.
4. Khi có vị Bồ-tát từ thai mẹ theo hông bên mặt
xuất sanh.
5. Khi có vị Bồ-tát vừa thành ngôi chánh giác.
6. Khi Phật chuyển pháp luân.
7. Khi Phật giáo hóa xong, xả bỏ tuổi thọ.
8. Khi Phật nhập niết bàn.
Tán lễ Thích Tôn
Vô thượng năng nhân
Tăng kỳ cửu viễn tu nhơn
Đẩu suất giáng thần
Trường từ bảo vị kim luân
Tọa bồ đề tòa đại phá ma quân
Nhứt đổ minh tinh đạo thành giáng pháp lâm
Tam thừa chúng đẳng quy tâm, vô sanh dĩ chứng
Hiện tiền chúng đẳng quy tâm, vô sanh tốc chứng.
Tứ sanh cửu hữu đồng đăng Hoa-tạng huyền môn
Bát nạn tam đồ cộng nhập Tỳ-lô tánh hải.
(Kính lạy Thích Ca
Tột bực Bu-da
Nhơn tu nhiều kiếp lâu xa
Xuống giữa Ta-bà
Hy sinh ngôi báu nước nhà
Ngồi gốc đa, chiến thắng quân ma
Đắc đạo sao mai sáng lòa, mưa pháp sa
Theo về xe pháp cả ba, đã chứng Phật-đà
Hiện giờ chúng đối trước tòa, mau chứng Phật-đà
Bốn loài chín cõi đồng lên cửa huyền Hoa-tạng
Tám nạn ba đồ, chung vào biển tánh Tỳ-lô).
Nhân ngày Phật Đản, trong lòng cảm thấy dâng lên
niềm hân hoan, em xin gởi lời kính thăm đến quý
Trưởng lão và anh chị em Áo Lam khắp nơi với lời
cầu chúc:
“ĐẠO NIỆM TĂNG TẤN, PHƯỚC HUỆ SONG TU”.
Tâm Lễ, viết từ Úc Đại Lợi.
Ngày rằm tháng tư năm Canh Dần, dương lịch năm
2010, Phật lịch 2554.
CHẮP TAY NGUYỆN CẦU
Nhắc tới Phật đản, người
ta nghĩ ngay đến vườn Lâm
Tỳ Ni, cách đây hơn hai
mươi lăm thế kỷ, vào một
buổi sáng đẹp trời, chim ca
rộn rã, hoa nở muôn nơi,
hương sen thơm ngát, trong
vườn ngự uyển, hoàng hậu
Maya đang từng bước nhàn
du thưởng hoa, khi đến cội
Vô ưu, thì Đản sinh thái tử.
Đó là Tất Đạt Đa, người mà
sau này, khi tròn mười chín
tuổi xuân đã làm nên một
sự kiện trọng đại trong lịch
sử tư tưởng triết học và tôn
giáo thời bấy giờ: từ bỏ
cung vàng điện ngọc, địa vị
quyền lực cao sang để ra đi
tìm chân lý, và mười một
năm sau đó đã trở thành
Bậc Đạo sư vĩ đại sau khi
khám phá ra con đường
giác ngộ Vô thượng Chính
đẳng Chính giác, mà hôm
nay chúng ta đang tôn thờ
và từng bước noi theo.
Nhưng, hai chữ Phật đản
vốn có nghĩa là một vị Phật
ra đời – hay thị hiện cũng
được. Mà Phật có nghĩa là
giác ngộ và tỉnh thức. Vậy
đáng lý ra, khi nhắc đến
Phật đản, chúng ta nghĩ đến
một chúng sinh vừa giác
ngộ, tỉnh thức. Phật đản
như vậy thì không nhất thiết
ở vườn Lâm Tỳ Ni hay ở
bất cứ một nơi nào mà
chúng ta cần phải khảo cổ
hay xử lý văn bản gì đó để
tìm ra một Đức Phật gọi là
lịch sử! Mà nơi nào, ở đâu
có một chúng sinh sống
trong tỉnh thức và giác ngộ
thì ở đó có một vị Phật ra
đời. Thật vậy, Phật đản đích
thực không phải tại vườn
Lâm Tỳ Ni vào năm 624
trước Tây lịch, mà đã Đản
sinh vào một kiếp thật lâu
xa trước đó rất nhiều. Kinh
A Hàm ghi lại rằng, vào
một kiếp xa xôi, xa lắm, khi
Đức Phật còn là một con
người bình thường, chưa
biết tu tập là gì. Trong kiếp
đó, Ngài làm một người con
bất hiếu với cha mẹ. Vì
nhân ấy, sau khi chết. Ngài
thọ quả báo bị đoạ vào địa
ngục Vô gián, trên đầu phải
đội vòng lửa đỏ, hừng hực
lửa cháy, đau khổ đến tận
cùng. Khi ấy, Ngài hỏi viên
cai ngục rằng mình phải
chịu nỗi khổ đau này đến
bao giờ. Viên cai ngục trả
lời, chừng nào trên trần
gian có một người con bất
hiếu bằng hoặc hơn Ngài bị
đoạ vào đây để thay thế cho
Ngài. Nghe vậy, Ngài liền
khởi niệm mong cho trên
trần gian có thêm nhiều
người bất hiếu để nhanh
chóng bị đoạ vào đây thay
thế chỗ mình. Nhưng oan
nghiệt thay, niệm ấy vừa
khởi, vòng lửa dữ bỗng
nhiên siết chặt vào đầu
Ngài hơn nữa là lửa cháy
càng khốc liệt, khiến cho
Ngài không thể nào chịu
nổi, toàn thân rã rời tưởng
chừng như tan thành tro
bụi. Ngay lúc đó, Ngài cảm
thấy hối hận và thấm thía
nỗi khổ đau của cái quả báo
làm con bất hiếu, tự trong
sâu thẳm tâm thức Ngài
bỗng khởi lên tâm niệm
nguyện cầu cho tất cả mọi
người trên thế gian đừng ai
trở thành người con bất
hiếu nữa và nếu như có ai
lỡ dại trót làm điều bất hiếu
thì Ngài xin chịu thay cho
người đó. Mầu nhiệm thay,
khi tâm niệm ấy vừa khởi
thì Ngài thoát khỏi địa ngục
và sinh lên cõi trời! Kể từ
đó, Ngài tinh tấn tu tập,
hành Bồ tát đạo, vun bồi
công đức, thành tựu Thánh
giới, trải qua vô số kiếp,
đầy đủ tám vạn bốn ngàn
oai nghi tế hạnh, công viên
quả mãn, phạm hạnh đã
thành, Ngài thành Phật quả.
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh
ngay từ lúc phát khởi tâm
niệm nguyện thay thế cho
tất cả chúng sinh đang chịu
khổ đau (Nguyện đại chúng
sinh thọ vô lượng khổ), và
thành Phật khi có thể khiến
cho tất cả chúng sinh đạt
được an vui hạnh phúc, giải
thoát chân thật (Linh chư
chúng sinh tất cánh đại lạc).
Chính vì ý nghĩa này mà
kinh điển Đại thừa nói rằng
Đức Phật đã thành Phật từ
vô lượng kiếp, và sự kiện
lịch sử Đức Phật đản sinh
tại vườn Lâm Tỳ Ni, sinh
bên hông phải, bước đi bảy
bước trên hoa sen và tuyên
ngôn “Thiên thượng thiên
hạ…” là sự thị hiện. Mùa
Phật đản năm nay lại về.
Trong không khí hân hoan
của muôn triệu người con
Phật, chúng ta thành kính
chắp tay nguyện cầu cho tất
cả mọi người đều phát khởi
tâm niệm nghĩ đến nhau,
quan tâm và giúp đỡ cho
nhau thoát khỏi những nỗi
khổ, niềm đau, đó là chúng
ta đang nguyện cầu cho
nhiều vị Phật đản sinh và
thành Phật trong tương lai.
Vì rằng, Phật, trong ý nghĩa
đích thực của từ này, được
làm bằng chất liệu hay yếu
tố từ bi và trí tuệ, là phước
trí nhị nghiêm. Cho nên, khi
nào và ở đâu có một chúng
sinh phát triển được những
yếu tố đó, thì ở đó có một
vị Phật ra đời.
Thích Nguyên Hùng
'On Le Phat Dan, I practiced for a dance and performed it in front of everyone. I was shy.
After that, I bathed Phat. Then we ate and played games. We took a photo with the whole
GDPT. Finally I went home. I had a great day!'
Huynh Phuong Mi
Oanh Vũ Nữ - GĐPT Long Hoa
Vào ngày Lễ Phật Đản, em đã được tập múa và trình diễn cho mọi người
xem. Em thấy mắc cở. Sau đó, em được dự lễ tắm Phật. Kế đến, chúng
em được ăn trưa và chơi trò chơi. Chúng em được chụp hình lưu niệm
với tất cả phụ huynh và anh chị em trong GĐPT Long Hoa. Cuối cùng
em ra về. Em có một ngày tuyệt đẹp.
Học lịch sử đức Phật Thích-Ca từ Sơ sanh đến Xuất gia có nhiều đoạn làm cho chúng ta
xúc động mạnh, ngay từ hồi còn ấu thơ đến khi đã trưởng thành. Thật vậy, đoạn kể thái tử
Tất-đạt-đa không chạy đi xem lễ hạ điền như các vương tôn công tử khác trong hoàng
cung mà tìm đến một gốc cây hồng táo ngồi tĩnh tọa, không phải ngồi trong vài ba phút mà
ngồi hằng giờ, không phải ngồi vọc cát vọc đất chơi mà ngồi tham thiền hẳn hoi... Ôi, con
người có nhân cách đặc biệt đã “phát tiết” ngay khi còn rất bé.
Theo tục truyền, khi đức Phật đản sinh, có
hai vòi nước nóng và lạnh phun ra để tắm
Phật. “Tắm Phật” đối với chúng ta còn có
ý nghĩa sâu xa hơn một chút: đó là khi múc
nước tắm Phật, mỗi người chúng ta đều
phải nghĩ đến sự thanh lọc tâm ý để tâm ý
không bị ô nhiễm bởi ba độc tham, sân, si.
Mỗi khi tắm, chúng ta tự nghĩ: thân mình
dơ thì lấy nước để tắm rửa còn Tâm dơ thì
làm sao, lấy cái gì để rửa? Vì vậy bài học
của “Tắm Phật” là dạy chúng ta phải
thường xuyên “tắm gội” tâm mình trong
đời sống hằng ngày, chứ không phải đợi
đến ngày Phật đản mới nghĩ đến! Không
những chỉ trong lúc tắm Phật hay tắm gội
thân mình mà ngay cả trong những lúc rửa
chén bát hằng ngày nữa, chúng ta cũng
phải quán sát về sự tồn tại của thân tâm ô
nhiễm và nỗ lực chuyển hóa đoạn trừ!
Có bài kệ nói là rửa chén bát với tâm
chánh niệm, thanh lọc tâm ý thì việc rửa
chén bát đó cũng linh thiêng không kém gì
tắm tượng Phật sơ sinh:
Washing the dishes
Is like bathing a baby Buddha
The profane is the sacred
Everyday mind is Buddha’s mind
Thật vậy, nếu tâm ta luôn sống trong từng
sát-na thiện, những việc làm của thân,
miệng, ý đều nhằm huấn luyện tâm, cải tạo
tâm... thì tất cả đều là Phật pháp. Cái tâm
bình thường ấy chính là tâm Đạo, là tâm
Phật; còn trái lại, cho dù chúng ta có đọc
“thiên kinh vạn quyển” nhưng miệng luôn
nói chuyện thị phi, ý luôn nghĩ cách làm
hại người khác nếu họ làm trái ý mình,
v.v... thì thật uổng công. Vì vậy, nếu chúng
ta nghĩ rằng mình đi chùa 5 năm, 10 năm,
30 năm, 40 năm... rồi, nhưng nếu chúng ta
không đi ra khỏi những tham lam (không
tâmminh
Người “được” thì hoan hô, hả hê, khoái
chí, người “mất” thì tuyệt vọng, có thể
đi đến tự tử, điên loạn, v.v...
Đức Phật của chúng ta ở cái tuổi
đắc chí nhất của cuộc đời, có đầy đủ
tuổi trẻ, danh vọng, quyền lực của một
vì vua, vừa đẹp, vừa hùng dũng, chiến
thắng tất cả các vì vua khác, có vợ đẹp,
con ngoan... Ngài không có một giây
phút nào không trăn trở cho số phận con
người trước vô thường của cuộc sống.
Ngài không thao thức vì ngai vàng, vì
giấc mộng đế vương, nghĩ cách chinh
phục đất nước này, vương quốc nọ như
những vị đại đế trong cuộc đời, nét mặt
Ngài luôn u buồn vì nghe được một
tiếng gọi của lương tâm, cầu mong Ngài
tìm đường cứu khổ cho nhân loại, vì
Ngài đã “thấy” rất rõ tuổi trẻ rồi sẽ úa
tàn, sức khỏe rồi sẽ mất, nhường cho
tuổi già và bệnh hoạn, và rồi cái chết sẽ
đến lặng lẽ bất ngờ… ai cũng không
qua khỏi quá trình ấy dù là người mạnh
nhất trần gian; cho nên cái đau của Ngài
là cái đau của nhân loại, của muôn loài
chúng sanh. Ngài đã gánh lên vai mình
những hoài bão lớn lao cao cả cho nên
hai dòng nước nóng lạnh của cuộc đời,
đối với Ngài đâu phải có áp lực lớn như
đối với một con người bình phàm.
phải chỉ tham tiền mới gọi là tham đâu
nha!☺☺!!) thành kiến, cố chấp, ganh tị,
tranh chấp, hẹp hòi, ích kỷ, phe nhóm,
cục bộ… phiền não vẫn còn y nguyên và
như thế thì việc đi chùa của chúng ta
cũng coi như “dỏm” đó nha! ☺☺!!
Trở lại câu chuyện khi thái tử Tất-đạt-
đa ra đời, có hai vị Long vương đến phun
hai dòng nước để tắm cho Ngài; một vị
phun ra dòng nước nóng, một vị phun ra
dòng nước lạnh với ý nghĩa Thái tử là
con người đặc biệt, có thể chịu đựng nổi
sức mạnh của hai dòng nước, kham nhẫn
nổi sức nóng lạnh, tượng trưng cho
những áp lực nặng nề thường xuyên tác
động lên con người đó là khổ-vui, được-
mất, thịnh-suy, khen-chê, thường được
gọi là “bát phong” của cuộc đời. Nghĩa
đen của việc tắm “hai dòng nước” rất dễ
dàng thoải mái nhưng nghĩa bóng, nghĩa
biểu tượng thì thật là khó làm, khó chịu
đựng, khó kham nhẫn. Thật vậy, những
người chịu khổ trước được vui sướng,
sau thường hay quên những ngày khổ
cực, khinh chê những người bần cùng.
Còn những người sướng trước khổ sau
thì than thân trách phận, oán trời trách
đất, làm nhiều chuyện khùng điên hại
mình hại người, làm như trên đời này
mình khổ là một chuyện hết sức vô lý,
người ta khổ thì… OK!☺☺!!
Vì vậy, Đạo của Ngài trao truyền cho
chúng ta hôm nay là Đạo vô ngã. Ngài
tuyên bố Phật pháp không phải là của cá
nhân ai, chư Phật dù có ra đời hay
không thì Phật pháp vẫn hiện hữu, Ngài
không dành độc quyền về Phật pháp,
mặc dù kinh điển Phật giáo dạy về Vô
thường, Vô ngã, Nhân duyên, Duyên
khởi, Nhân quả, Nghiệp báo, v.v...
nhưng Ngài vẫn luôn xác nhận rằng đó
là những định luật Ngài đã phát hiện ra,
chứng minh và dạy cho đệ tử của Ngài,
tất cả chúng sanh đều có quyền áp dụng
những định luật đó vào cuộc sống của
mình để có an lạc, hạnh phúc.
Chúng ta, nếu xưng là Phật tử, là con
của đức Thế Tôn, chúng ta cũng phải
thấm nhuần tinh thần ấy; vì mục đích
của Phật pháp, luôn làm điều lợi ích cho
chúng sanh, Phật pháp để chữa lành
bệnh cho tha nhân, đem hạnh phúc đến
cho chúng sanh chứ không gây nên đau
khổ cho muôn loài.
Đức Phật của chúng ta, ngay khi
Ngài còn tại thế cũng đã bị những người
xấu dùng đủ thủ đoạn để ám hại, đủ mọi
hình thức nói xấu, bôi nhọ vu khống,
v.v... nhưng Ngài luôn im lặng, không
có chuyện “ăn miếng trả miếng” như
phàm phu; đôi khi đối diện với những
người xấu ác, Ngài vẫn ôn tồn bảo
rằng “những lời mắng nhiếc của ông
xem như quà ông đem đến cho mà ta
không nhận, ông hãy đem về đi!” chỉ có
thế thôi!
Đức Phật, không phải của ai cả, cho
nên khi nói “đức Phật của chúng ta”
người viết đã kèm theo một lời xin lỗi
trong tâm mình, đức Phật là người tỉnh
thức, đạo của Ngài là đạo tỉnh thức,
người tự nhận mình Phật tử là người cố
gắng tu học theo Đạo tỉnh thức, sống
chánh niệm trong mọi lúc, ở mọi nơi.
Nếu được như vậy, chúng ta sẽ không
bao giờ nghĩ sai, nói sai, làm sai, nghĩa
là nói, làm những điều bất thiện hại
người hại vật chỉ vì lợi ích bất chánh
của cá nhân mình. Duy trì chánh niệm
trong cuộc sống, chúng ta sẽ đi trong
lòng cuộc đời với những áp lực của hai
dòng nước nóng lạnh khắt khe của cuộc
đời với tâm bình khí hòa, không loạn
động, không nao núng, vì đã có Phật
pháp làm kim chỉ nam, thuyền đời coi
như đã được định hướng.
Nhân mùa Phật đản, chúng ta hãy thành
tâm chúc nhau luôn tinh tấn tu học và tu
tập để xứng đáng là người con Phật -
Phật tử.■
1. Tham: Tham lam. Tánh của Tâm sở
này là người tham lam, tánh hay để ý
dòm rình những cái gì họ ưa thích: tiền
tài, sắc đẹp, danh vọng, miếng ăn, chỗ
ở v.v… Rồi họ lập mưu này kế nọ, để
chiếm đoạt để tìm kiếm cho được, được
mấy cũng không vừa, nên tục ngữ có
câu: " Bể kia dễ lắp, túi tham khó đầy!".
Tham cho mình, rồi tham cho bà con
quyến thuộc. Nói rộng ra, tham cho cả
quốc gia, xã hội của mình. Cũng vì lòng
tham, mà nhân loại tranh giành xâu xé
cướp bóc giết hại lẫn nhau, chịu không
biết bao nhiêu điều thống khổ. Nghiệp
dụng của nó: làm chướng ngại "Vô
Tham" và sanh tội lỗi.
2. Sân: Nổi nóng. Tánh của Tâm sở
này là người có tánh nóng nảy, gặp
những việc trái ý thì nổi nóng lên,
trong tâm bực tức, không an, ngoài mặt
nhăn nhó, xấu xí vô cùng, mắt đỏ tía
hoặc tái xanh. Bộ dạng thô bỉ, thốt ra
lời nói thiếu nhã nhặn, có khi đánh đập
hoặc chém giết người. Phật tử chúng
ta, mỗi khi nổi sân lên, cắc cớ lấy kiến
rọi mặc mình, thật "ngộ" hết sức…
không phải là Phật-tử chút nào! Tánh
"nóng nảy" rất có hại: làm cho anh em
chẳng ưa, trong gia đình không được
hòa nhã, ngoài xã hội chẳng được kính
yêu. Nhiều người vì nóng nảy mà
đánh đập vợ con, lắm khi phải mang
bịnh tật suốt đời, hoặc giết hại đồng
bào, chủng loại. Nghiệp dụng của nó:
làm cho thân tâm không yên ổn,
chướng ngại tánh "Vô Sân" và sanh
các tội lỗi.
3. Si: Ngu si, si mê (trong đạo Phật
gọi là vô minh, không sáng suốt). Đối
với sự vật hiện tiền, tâm tánh mờ ám,
không có trí huệ sáng suốt để phán
đoán việc hay- dở, tốt- xấu, lợi-hại
v.v… nên mới làm những điều tội lỗi,
như có người đã có gia đình vẫn si mê
trai gái hay ngược lại si mê chồng hay
vợ người khác. Có hại cho mình, và
người (theo thế tục gọi là "dại" hay
"ngu"). Cái Si này thường ám ảnh
trong tất cả việc làm. Một người tham
tiền, đánh bài bạc, mê casino, vì si mê
ám ảnh, nên đến lúc thua hết của tiền
mà cũng không chán.
Có một người vì lòng tham, si nổi lên,
giữa lúc ban ngày đông người, vào
tiệm giựt vàng.
Lính bắt được hỏi: "Anh không thấy
lính tráng ở chung quanh và không sợ
tù tội sao?"
mình, người đánh bạc, cậu giựt vàng,
có thể thắng được lòng tham, không
đến nổi bị hết của và mang tù tội. Cho
biết trong lúc Tham mà có Si, thì có hại
rất lớn! Khi nóng giận cũng vậy, nếu
trong lúc nóng giận mà sáng suốt, biết
suy xét việc lợi hại, lúc ấy có thể dằn
bớt sự nóng giận ít nhiều! Trái lại vì bị
si mê ám ảnh, nên nói càn làm bướng,
đến khi hết giận rồi thì tội lỗi quá
nhiều! Nên tục ngữ có câu: "Ăn nóng
mất ngon, giận lắm mất khôn" là vậy.
Nghiệp dụng của nó sanh ra các pháp
tạp nhiễm và chướng ngại tánh "Vô si".
Tham Sân Si theo đạo Phật, ba thứ độc
nầy không phải do thần linh tạo ra, do
định mệnh an bài, hay có ra một cách
may rủi. Vì tất cả mọi phản ứng tâm lý
(tâm sở) đều do nhân duyên, ở đây có
nghĩa là do tâm lý và cảnh vật xúc tác
với nhau mà phát sinh ra. Có thể nói
tham sân si là sản phẩm của tâm lý chủ
quan xấu xa. Ba pháp nầy được duy trì
và phát triển liên tục theo giòng sống
của chúng sanh trong hiện tại cũng như
trong quá khứ và nếu không được diệt
trừ thì chúng vẫn tồn tại và phát triển
trong tương lai: phút sau cùng như các
đời sau của mỗi chúng sanh. Chúng
hiện hữu và phát triển nơi những con
người không giác ngộ giải thoát qua
hành động xấu ác của thân (như giết
hại,trộm cướp, tà hạnh) trong lời nói xấu ác của miệng (như nói dối, nói thêu
dệt, nói hai lưỡi, nói thô ác) trong tư
tưởng xấu ác của ý (tham muốn, tàn bạo,
hiểu sai).Chúng có thể được tìm thấy
một cách dễ dàng nơi hành động, ngôn
ngữ, và ý nghĩ của bản thân cũng như
của bản thân của kẻ khác. Kinh nghiệm
cho ta biết bất cứ ở đâu hay lúc nào, nếu
tham sân si có mặt và ngự trị thì cuộc
sống riêng hay chung đều trở nên xấu xa
đau khổ. Điều cần lưu ý là không nên
xem tham sân si như là những gì trừu
tượng, chỉ hiện hữu trong tâm lý con
người mà phải tìm thấy sự hiện hữu cựu
thể của chúng qua những hành động
chiếm đoạt, bốc lột, tàn bạo, giết hại,
qua những tư tưởng tối tăm, lầm lạc
trong mọi sinh hoạt cá nhân và tập thể.
Ngọc Mai
“Hãy chăm sóc Tâm Ý của bạn vì chúng
sẽ trở thành Lời Nói của bạn.”
“Hãy chăm sóc Lời Nói của bạn vì
chúng sẽ trở thành Hành Động của bạn.”
“Hãy chăm sóc Hành Động của bạn vì
chúng sẽ trở thành Thói Quen của bạn.”
“Hãy chăm sóc Thói Quen của bạn vì
chúng sẽ hình thành Bản Tánh của bạn.”
“Hãy chăm sóc Bản Tánh của bạn vì
chúng sẽ hình thành Định Mệnh của
bạn.”
“Và Định Mệnh của bạn sẽ là Cuộc Đời
của bạn."
Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh trả lời rằng: "Lúc đó tôi chỉ thấy vàng thôi; nếu
thấy lính tráng, thì tôi đâu dám làm như thế!"
Đây là những bằng chứng, trong lúc tham, vì có si mê
ám ảnh, nên người đánh bạc nọ mới hết cửa hết nhà;
anh giựt vàng kia mới mang gông cùm từ tội! Nếu
trong lúc ấy, được sáng suốt, phân biệt lợi hại, thì anh
thanh niên kia có thể thắng lại được dục vọng của
“Óc chỉ thấy tên con và
dáng dấp. Tim chỉ chứa
bóng hình con tấp nập.”
Con yêu dấu, khi đến tuổi về già.
Cha mẹ không còn tươi như hoa
Mà nhăn nhó, mặt cau, mắt ướt.
Con sẽ thấy không còn vui như trước.
Nhưng cũng đừng cau có lại mẹ cha.
Vì khi xưa, con khóc óe vang nhà.
Mẹ cha vẫn vui tươi như hội.
Nếu cha mẹ tay run không cầm nổi.
Một tô cơm mà đánh đổ ra nhà.
Xin con đừng gắt mắng hạng người già.
Vì lúc bé, con vẫn thường rơi vãi.
Mẹ cha vẫn phải khom lưng nhặt lại.
Từng miếng cơm, chút thịt con làm
văng.
Mẹ vừa cười vừa nhìn con lăng xăng.
Nghe con “xin lỗi” mà ấm lòng hơn Tết.
Nếu cha mẹ có nói nhiều, phát mệt.
Có những câu lảm nhảm, không đầu
đuôi.
Con hãy nhớ năm xưa, nằm trong nôi
Mẹ kể mãi một chuyện xưa cổ tích
Cha cũng vậy, những khi con không
thích,
Lên giường nằm để ngủ giấc hồn nhiên.
Cha kể đi kể lại chuyện ông Tiên.
Chuyện Tướng Cướp, Thạch Sanh, nhiều
chuyện bịa.
Nếu cha mẹ rồi ít năng tắm rửa.
Con cũng đừng bịt mũi, dang xa.
Bởi khi xưa, mẹ phải gọi cả nhà.
Mới tắm được cho con một lát.
Con nghịch chơi, người dính đầy bụi cát.
Mực lấm lem, tay chân bẩn như ma.
Mẹ mới dội nước, con đã khóc la.
Không chịu tắm, không chịu vào bồn rửa.
Cha phải dỗ con hoài, con mới sửa.
Mãi lớn khôn, mới đi tắm một mình.
Nếu mẹ cha rồi không hiểu văn minh.
Máy móc mới đủ hình đủ kiểu.
Cũng đừng cười chê ông bà già hủ lậu.
Mà nên giảng cho cha mẹ cách dùng.
Vì năm con hai tuổi, cái gì cũng lạ lùng.
Cha mẹ phải cầm tay con, chỉ dẫn.
Rồi lớn lên, cha dậy con cẩn thận.
Đừng nghịch máy này, đừng đụng vật kia.
Cha giảng cho con từng chút, từng ly.
Cách mở radio, bật đèn, mở bếp, vặn
tivi.
Con đã nở những nụ cười hạnh phúc.
Nếu mẹ cha mà nhớ, quên tùy lúc.
Đừng cằn nhằn cha mẹ ngu khờ.
Biết bao lần con quên sách vở ở nhà.
Cha phải chạy như bay về nhà lấy.
Điều quan trọng là cha mẹ cần được
thấy.
Dáng hình con quanh quẩn đâu đây.
Ngửi hơi con mà trong mắt cay cay.
Con còn đó, tim cha đầy máu nóng.
Nếu mẹ cha quá già không muốn sống.
Con hãy hiểu cho: rồi tới lúc con cũng
già.
Sẽ tới hồi cuộc sống như lướt qua.
Ý sống hết, mà chỉ còn tồn tại.
Một cây khô, một cánh hoa vương vãi.
Một bộ xương có hiểu biết vật vờ.
Những kỷ niệm xưa đầy ắp, chan hòa.
Trong ánh mắt, trong dấu tay run rẩy.
Hơi thở ngập ngừng, âm thanh lẩy bẩy.
Không ham vui, chỉ còn chút tình yêu.
Tình yêu con, yêu cháu thật nhiều.
Óc chỉ thấy tên con và dáng dấp.
Tim chỉ chứa bóng hình con tấp nập.
Dấu chân xưa chạy nhẩy tung tăng.
Từng nốt muỗi đau, từng cơn nhức trong
răng.
Từng cơn sốt đổi da, đổi thịt.
Mẹ cha đã từng bao đêm quên mệt.
Ngồi bên con, nghe hơi thở đều hòa.
Dù cho con khó chịu, khóc la.
Cha mẹ vẫn dấu yêu con trên hết.
Và, bây giờ, khi tới gần cõi chết.
Vật dụng mang theo vẫn chỉ bóng hình
con.
Còn chút hơi tàn, cha mẹ mong tặng con:
Niềm hạnh phúc, sướng vui bất tận.
Thôi, vài hàng, của mấy người sắp lẫn.
Cha mẹ sẽ quên đã từng tặng hành trang.
Kiến thức, thông minh, sắc đẹp... con
đang mang.
Những hiểu biết về cuộc đời gian khó.
Những can đảm, chai lì, không biết sợ.
Để con thành người tài giỏi hôm nay.
Những bằng cấp mà con có trong tay.
Là kết quả của bao đêm mẹ khóc.
Là rụng rơi của bao nhiêu sợi tóc.
Của ngàn ngày đưa đón con đi.
Thôi, nói làm chi? Nhắc làm chi?
Mẹ đang nói: hãy đừng làm con mệt...
Nghỉ đi con, để vui thỏa ngày mai...
Chàng Mohandas thuộc dòng dõi quý tộc, đến tuổi trưởng thành. Ngày nọ
khi đi săn, chàng cỡi ngựa ngang làng kia, ghé vào một căn nhà để xin nước
uống. Khi gặp thiếu nữ trong nhà, chàng như người mất hồn. Tình yêu chớm nở
và mãnh liệt ngay lúc ban đầu. Nhưng oái oăm thay, hai dòng họ lại
Chuyện thần thoại Ấn Độ kể rằng:
Tuy là câu chuyện không có thật, để dạy dỗ người đời, song nó phản ảnh
một vẻ đẹp cao cả trong tình yêu của mẹ. Chính giây phút mà lẽ ra trái tim mẹ
phải hận thù và nguyền rủa đứa con bất hiếu, thì trái tim ấy lại thương yêu và
lo lắng khi có bất cứ điều gì làm con mình bị tổn thương. Tình yêu của mẹ thật
ngọt ngào biết bao!
có một mối thù truyền kiếp. Không gì chia cắt được, họ lén lút gặp nhau. Khi
Mohandas muốn đám cưới, nàng lạnh lùng nói: “Nếu chàng thật yêu em hơn bất
cứ ai trong đời nầy, hãy về nhà giết mẹ, mang trái tim đem sang cho em, và hôn
lễ sẽ cử hành ngay lập tức.”
Là đứa con hiếu thảo, Mohandas không thể làm một việc đại ác như thế,
nhưng tình yêu thôi thúc, nỗi khao khát được sống với người yêu, khiến chàng
nghĩ rằng: Trước sau gì mẹ ta cũng sẽ qua đời! Thế là, một đêm nọ, lúc gia đình
ngủ yên, Mohandas vào phòng, đâm mẹ chết, mổ lấy quả tim, cầm trên tay,
phóng ngựa qua khu rừng để đem đến cho người yêu. Trái tim người mẹ vẫn còn
nóng và đẫm máu. Trong lúc phi ngựa quá nhanh, trái tim tuột khỏi tay chàng,
rơi vào bụi gai rừng. Mohandas dừng ngựa nhảy xuống, vạch gai tìm kiếm, chàng
trở nên tức giận khi gai xước rách da thịt làm chảy máu. Chàng càu nhàu, nguyền
rủa vì tìm mãi mà không thấy quả tim. Một lúc sau, chàng bỗng thấy trong đám
bụi rậm có hào quang phát ra như hình trái tim, và một tiếng nói thân thương nhỏ
nhẹ của mẹ bảo rằng: “Mohandas, gai nhọn có làm con đau không?"
"M" is for the million things she gave me,
"O" means only that she's growing old,
"T" is for the tears she shed to save me,
"H" is for her heart of purest gold;
"E" is for her eyes, with love-light shining,
"R" means right, and right she'll always be,
Put them all together, they spell
“MOTHER",
A word that means the world to me.
Ward Johnson (c. 1915)
There were some flowers waiting
for us,
But stopped and looked when I
passed.
They were beautiful, pretty and pale,
Though they were not for sale.
Realised that they were for mum,
So I looked at them and up some.
Stuck them in this small, green ball,
And left them till we leave.
So to mum here
Happy Mothers day.
I love you mum dear.
Diệu Lý - Vũ Tố Uyên
Thiếu Nữ Chánh-Pháp
làng nọ có một cậu bé rất nghèo. Mỗi ngày phải đi lượm những thức ăn
rơi rớt ngoài chợ đem về cho mẹ ăn qua ngày.
Một hôm trên đường đi ra chợ cậu bé vô tình nghe được đám trẻ nhà giàu thách
nhau đá chén cơm đầy lên cao để vui thỏa thích.
Cậu ta liền nghĩ: “Nếu họ thách nhau đá chén cơm, thì chiều nay Mẹ sẽ có cơm
ăn. Mẹ chắc mừng lắm! vì lâu lắm rồi Mẹ chưa được ăn chén cơm nào.”
Trong khi cậu ngồi chờ cho chén cơm rớt xuống, thì cả bọn nhà giàu đuổi không
cho câu ngồi đó và nói rằng:
“mày dơ dáy quá và hôi thúi nữa, ngồi đây làm gì hãy đi chỗ khác.”
Cậu bé không nói gì và cứ ngồi lì. Bọn nhà giàu tức quá nên cùng nhau đánh
đập cậu bé, nhưng cậu bé vẫn không nhúc nhích.
Bọn trẻ ngạc nhiên và hỏi nhau: “Sao nó không biết đau, bị chảy máu tùm lum
mà không la, không bỏ chạy mà ngồi đó rướm nước mắt.”
Có đứa trả lời: “Chắc nó khùng.”
Có đứa hỏi thêm: “Sao mày bị đánh mà còn ngồi
yên đó, không bỏ chạy?”
Cậu liền trả lời: “Thà tôi bị đánh nhưng Mẹ tôi sẽ
có cơm ăn.”
rong
Một cậu trong bọn lại hỏi: “Tại
sao bị đánh thì Mẹ của mày có
cơm ăn? Mẹ của mày đâu?”
Cậu vừa khóc vừa trả lời: “Vì Mẹ tôi mù lòa nên mỗi ngày tôi phải đi lượm
những thức ăn rơi rớt ngoài chợ đem về cho Mẹ tôi ăn. Hôm nay nghe được các
anh thách nhau đá chén cơm, tôi nghĩ rằng thế nào cơm cũng rớt xuống đất và
các anh sẽ không bao giờ ăn cơm bị rớt xuống đất. Lâu lắm rồi mẹ tôi chưa
được ăn cơm, nên tôi ngồi đây chờ.”
Bọn trẻ nghe đều giựt mình trước câu trả lời của cậu bé và làm cho chúng hổ
thẹn và tội lỗi cho việc phung phí của mình. Chúng liền bảo nhau không đá
chén cơm nữa mà tặng cho cậu bé đem về cho Mẹ cậu.
Cậu bé hết lòng biết ơn đám trẻ và trước khi cậu ra về, cậu tặng đám trẻ một câu
ngắn gọn:
“Hãy quý những gì bạn đang có!”
Ngọc Mai
On 25 April 2010 and 26 April 2010, taking ad-
vantage of the Anzac Day long weekend,
GĐPT Chánh Pháp organised a retreat for 60
people to Sunnataram Forest Monastery [SFM]
near Bundanoon NSW [www.sunnataram.org].
These 60 people comprised of 16 guardians/
parents [phụ huynh], 10 huynh trưởng
[leaders], and 34 đoàn sinh of all Ngành. We
hired 2 Fairfield Council buses.
This summary of that retreat concentrates on the eye-opening experiences we had rather
than the mundane accounts like we left Chùa Thiên Ấn at 7:20 and arrived at 9:10, ...
The abbot introduced himself as Venerable Phra
Mana. To me, the word <<venerable>> was re-
dundant as Phra already means venerable in
Thai, equivalent to Thượng Toạ in Viet. Phra
gave us a 45 minute orientation in which he sub-
divided the 34 đoàn sinh into 8 teams whose
names were Right Understanding [Chánh Kiến],
Right Thought [aka Right Aspiration, Chánh Tư
Duy], Right Speech [Chánh Ngữ], Right Action
[aka Right Behaviour, Chánh Mạng], Right Liveli-
hood [Chánh Nghiệp], Right Effort [Chánh Tinh
Tấn], Right Mindfulness [Chánh Niệm], Right Concentration [Chánh Định] [http://
en.wikipedia.org/wiki/Eightfold_Path]. Our homework was to research meanings of those
names and to show Phra at the end.
For a start, SFM was of the Theravada traditions whereas GĐPT Chánh Pháp had Maha-
yana background, we took a while to adjust. The difference was enhanced by the fact that
SFM was founded in Thai Buddhist traditions. The Buddha statues looked different. The
sculptures were more pointy.
And we had to observe more rules:
A clear demarcation was drawn between the sexes. Females were not to approach male sleeping quarters and vice versa, without authorisations.
An Ưu Bà Di [Upàsika] was not to touch Thầy, preferably keeping a distance of 2 metres. When she wanted to hand Thầy something, she was best to ask an Ưu Bà Tắc [Upàsaka] to help, or she could place the item on a tray where Thầy would collect from.
We were not to point our feet at the Buddha nor Thầy. Observing this rule was hard for a group of young Viet Buddhists who had no reservation about the feet at all in both Viet and Australian cultures, and who hardly practised meditation at all. When their legs hurt, naturally they either wanted to change or streched the legs.
It was offensive to touch Thầy's head. I doubt that we ever wanted, or had the need, to touch Thầy's head ?
It was impolite to turn one's back, especially one's rear end, to Buddha or Thầy, hence retreating was the preferred way of leaving.
Preserve water.
At lunch, we experienced for the first time Dana [offering, Đàn-Na]. I had hoped to wit-
ness Dana but actually involved in Dana, not once but twice, was beyond expectation.
It was beautiful to see an Oanh Vũ spooned
rice into a monk's alms bowl. The practice
of Dana put a Buddhist that much closer to
his teacher in every respect. We savoured
this Dana experience that we can never get
with our Mahayana venerables.
Food was exceptional. On the first day we
had something like 10 courses, 7 of which, I
was told, were made by Jue Eam's group.
They had a lot of experience among themselves. Jue Eam asked Cô Nhàn to be the chef
because Cô Nhàn had cooked for SFM and many retreats like this. The other 3 food
courses were Thai cooking, contributed by the Thai volunteers who regularly came from
Sydney to help with the ongoing construction. According to Theravada traditions, they
have light refreshment instead of proper dinner. However, as GDPT Chánh Pháp’s young
members were not familiar with this tradition, we had a permission from Phra to have
light dinner. Dinner was not light. After dinner, we had 4 types of chè [sweet soup
desserts], which most people thought 1 sweet soup would suffice. The Vietnamese
say <<Có thực mới vực được Đạo>> meaning <<Food gives energy to uplift
Dharma>>. It was so true here, the food was so fresh, so tasty, and so abundant
that if we failed to learn Dharma, we only had ourselves to blame.
Bowing was different. Bowing was natural and frequent at SFM. We saw Thai Buddhists
bowed to Buddha and Thầy in the Main Hall [Chánh Điện], and in the garden. I under-
stood bowing was a way to pay respect to person[s] with higher Dharma experience, an
obvious measurement of which was the number of years that they were in the Dharma.
In contrast, the Mahayana venerables that we know gave us the impression that bowing
was so significant, so serious. I witnessed one Thầy moved aside when bowed to, as if
he wanted to divert the bow energy to the Buddha altar behind. Another Thay's face
turned so serious as he put his hands together in lotus bud configuration to receive a
bow, as if he was about to receive a kung fu blow from the bower. We hardly saw a Ma-
hayana venerable bow to another whereas at SFM, in one morning chanting session, we
saw Phra Mana bowed twice [6 bows in total] to a venerable of higher rank, even though
Phra Mana was the abbot. At SFM, the xá [half bow] was hardly seen, one either per-
formed the full bow [touching the ground at 5
points] or one did not.
After lunch, we were lectured inside the Egypt Ex-
hibition Hall. Phra Mana showed how the lotus had
significant place in Egyptian art long before the
Buddha. A bottle of Egyptian lotus perfume was
passed around among other artefacts. He came to
the conclusion that India borrowed the lotus
In the afternoon of the 25th, Phra Mana took
us to a spacious area. On the ground was
half the map of the World stretching from
Europe to the Far East. He told us that
this map was that of the World 4,000
years ago. Significant features on this
map were the location of Egypt, location
of the Silk Road, location of India, the
field ofi nfluence of Buddha, and location of
symbolism from Egypt. This idea was reinforced the next morning by 2 Indian carved
stones dated 2,200 years ago. One carved stone showed the lotus flower with 7 seeds in
the middle, representing 7 Steps to Enlightenment [Thất Bồ Đề Phần, aka Thất Giác Chi,
http://www.thuvienhoasen.org/phathocphothong-03-09(2).htm], outside of which were 8
petals, representing the 8 Fold Noble Path [Bát Chánh Đạo, http://
www.thuvienhoasen.org/phathocphothong-03-10.htm], which is in turn surrounded by 12
petals, representing 12 Links Of Existence [12 Nhân Duyên, http://
www.thuvienhoasen.org/u-phcb2-1-1.htm]. The other carved stone was a marriage of 2
sacred symbols: the same lotus flower sacred in Egypt, silhouetted by a white elephant
sacred in India.
the Far East. The map also showed known locations of pillars by Asoka Emperor. Also
shown were locations where Buddhism spread to at the time. In the background was a
copy of one of Asoka pillars supporting a 4-face lion. Again, the purpose of this map
reading was to show how sacred symbolism changed shape from one culture to the next.
Phra guided us on a bushwalk that afternoon. I considered the bushwalk as a different
form of Theravada training. As the bushwalk was
long, it tested the endurance of the participants.
Of prime importance here was the breadth. One
had to regulate the breadth to minimise expensed
energy as one climbed hills. Please read an ac-
count by Tu <<Walking Meditation>> dedicated
to this bushwalk.
That evening could be filled with fun around a
camp fire, but it poured down until 22:00. The
camp firewood that we collected after the bushwalk had to be used some other time. We
changed the program to acting. Every of the 8 teams had 15 minutes to consult among
themselves and huynh trưởng, before acting out the meaning of their team's name.
Chương and Hoàng were assigned judges. We had so much laughter. The people's choice
was team Right Concentration with 9 votes out of 33, basically because of Đức's dancing.
9/33, though the highest score, could not reflect
the opinion of the majority. Chương and Hoàng
were surprised that all teams understood their
team's name, hence understood the Eightfold No-
ble Path. This was the first time these people en-
countered the Eightfold Noble Path which was re-
served for huynh trưởng [leaders]. The judges
gave the highest score 8/10 to Right Mindfulness
and Right Thought. To be fair, Right Mindfulness
had an edge over Right Thought. Most huynh
trưởng agreed. For a start, Right Mindfulness [Chánh Niệm] happens to be at the core OF
ALL BUDDHIST PRACTICES. To put it John Wayne's way of saying: <<All 8
branches in the Eightfold Noble Path were equal, but Right Mindfulness was more
equal !>> The team chose to act out application of Right Mindfulness to the Five
Precepts. They acted 5 examples. Good planning. Good coverage. They struck
the nail on the head as Precepts are at the core of Right Mindfulness. Their fre-
quent use of the words <<stop>> and <<really>> surprised the judges
with their insights and creativity. Mindfulness is a tool best used in the mind, when the
idea is being formed, before any deed is performed.
The morning of the 26th started with meditation at 5:30 then chanting. Then we had
<<yochi>> exercises in the garden under Phra Mana's instruction. The term <<yochi>>
was coined by Phra to mean a marriage between Yoga and Taichi. Some movements
were from Yoga, some from
Taichi. It was a glorious morn-
ing. Following Phra's words,
we embraced the loving kind-
ness of nature, of the moun-
tains, of the plants, of our
teachers, of our parents, of
the people who love us, ...
and we took all that love inside. At this point, I recalled having done the same exercises
6 years before, in the same garden. Miền Tịnh Khiết had organised a retreat like this in
2004. At that time there was no standing Buddha statue yet. Everyday of those 6 years,
Phra took into himself the loving kindness of nature, while I took into myself defilements.
Oh Buddha, what a difference that made us ? A trickling water leak can make a big dif-
ference in 6 years. Then after we took in the loving kindness, we absorbed in our hands
all the tiredness, the pain, the sickness, the suffering, ... and threw them back at the re-
cycling bin of Jervis Bay in 3 loud throws. The term <<loving kindness>> was frequently
used and practised at SFM. The term <<recycle>> was so apt and fashionable.
It was that same morning when my eyes really got opened. Phra Mana led us to a series
of stones. Before looking at what the stones were about, we practised sitting meditation
in which one meditated where one sat even with legs dangling. It was a glorious morn-
ing. The birds were singing to the freshness and regrowth following the night's heavy
rain. There was no time to tell us what to contemplate upon during sitting meditation, so
I just used the breadth as the object. At one stage I fell asleep and almost tipped over.
In lotus posture meditation one could not fall but here one could. After sitting meditation,
Phra Mana showed us the first stone carving of Prince Siddharta leaving the palace.
I looked at the stone carving as just <<another depiction of Buddha's life>> de
spite Phra informing us that the stone was a copy of the 2,200 year old original
stone.
I had learned the story 30 years before and saw it through the Chinese eyes.
The story of Buddha's life got repeated many times as I grew up in GĐPT, and
reconfirmed by series of pictures by Chinese artists in Phap Bao Pagoda in
Bonnyrigg NSW.
The story funnelled down through generations of huynh trưởng, but no one could tell me
where the source was. I gradually became bored with the story and questioned its validity:
how a new born baby could walk 7 steps and lotus blossomed under his feet ? I misunder-
stood that the story of Buddha's life was conjured up by Chinese scholars a few hundred
years ago. Until a week before the retreat, I stumbled on a Mahayana sutra named Ma-
haparinirvana Sutra [Kinh Đại Bát Niết Bàn], the Viet translation by HT Thích Trí Tịnh
[http://www.thuvienhoasen.org/kinh-dbnb-00.htm, http://lirs.ru/do/
Mahaparinirvana_Sutra,Yamamoto,Page,2007.pdf]. At the 7th chapter, Phẩm Tứ Tướng,
the Sutra explained the depiction that a new born baby walked 7 steps and lotus blos-
somed under his feet was symbolic and should not be taken literally. I read that there is a
Theravada version of the same sutra. That gave the story of Buddha's life a historical ba-
sis, and confirmed it in many very different places. Mahaparinirvana Sutra was supposed to
be discoursed by Buddha before Nirvana, so His life story must be 2,500 years old. One
can gain a deeper understanding at http://www.thuvienhoasen.org/phatdan-92.htm.
Let us return to the stone carvings in front of us. Here I was standing in front of a 2,200
year old stone carving. I checked again, the sign really said <<Bharhut Stupa, Sunga Pe-
riod 200BC-100AD>>. Here was a 2,200 years old pictorial confirmation of the story of
Buddha's life. Most likely, I deduced, the story I had learned 30 years ago was based on
these stone carvings. Oh my Buddha, the sky
crumbled ! For a moment, I felt I was the ar-
chaeologist Indiana Jones, learning from the
source. My first hand information was slightly dif-
ferent. The figures looked different, they looked
more Indian, of course. What was important was
that the stone carvings did not show Prince
Siddharta. The artist[s] obviously had the ability
to carve his figure but chose not to. In the stone
carving depicting how Prince Siddharta left the palace [Sanchi Stupa, Sunga Period 200BC-
100AD], said goodbye to the city's pipal tree, arrived at the Anoma River, then let Channa
return with the horse Kanthaka, we still could not find the Prince's
figure anywhere. Phra Mana did not explain why the artist[s] left out the Prince's
figure. We speculated:
1. The artist[s] were forbidden to show the Prince's figure, or
2. The artist[s] were waiting for an agreed standard figure of the Prince, and did
not want to show a figure that could become wrong, all out of reverence for the
Prince. I regretted not having brought my camera. One needed a high resolution
camera to take detailed photos of these carvings. Should I make a return visit to this
place ?
Then Phra showed us a 1 metre high bo-
dhi tree. Phra said that before the name
bodhi, this tree was called pipal tree.
This was the first time I heard of the
term <<pipal>>. Phra continued that the
pipal tree already had a revered place in
Indian culture before Buddha. Buddha
chose to attain enlightenment under the
pipal tree, much like one gets a good job
easily if one can show an applicable degree from Harvard University ! From the point of
his enlightenment, people referred to the pipal tree as the bodhi tree.
As all impermanent things must end, our visit was no exception. Before we ended our
visit, Phra Mana walked through what we had done in the last 30 hours then he resolved
our queries. He stressed that The Eightfold Noble Path is one package [singular], not
eight separate paths [plural]. The name Eightfold Noble Path implies that one has to util-
ise all 8 branches as 1 package because one branch depends on the other seven
branches.
We left SFM at around 3pm of the 26th. I said in my farewell speech that we had learned
so much under Phra Mana's guidance. Where else could we find a 4,000 year old World
map, 2,200 year old stone carvings, and an expert teacher on the subject, all in one
spot ? The presentation was so pictorial and hands on that benefitted young learners im-
mensely, and the result of which is this summary you are reading. I, on behalf of GĐPT
Chánh Pháp, presented Phra with 4 gifts for 4 venerables, 1 gift for Kun Kim, and a dona-
tion for SFM. <<How does one say goodbye?>> I asked, meaning I wished we could
stay longer to experience more fruitfulness. Kun Kim expressed that GĐPT Chánh Pháp
was one of the best groups to visit SFM and that we were welcome to return any time.
As I left the Monastery's gate I regretted missing the chance to say <<Kop Kun Krap>> !
Chúc Hoà Phan Hồng Chương - 2010/04/28.
“the pipal tree already had a revered
...From the point of his enlightenment, people
referred to the pipal tree as the bodhi tree”
place in Indian culture before Buddha…
THE END
ào các ngày 2010/4/25 và 2010/4/26,
nhân dịp nghỉ lễ Anzac Day, GĐPT
Chánh Pháp tổ chức một khoá tu cho 60
người tại tu viện Sunnataram Forest Monas-
t e r y g ầ n B u n d a n o o n N S W
[www.sunnataram.org]. 60 người này gồm
16 phụ huynh, 10 huynh trưởng, và 34 đoàn
sinh từ mọi Ngành. Chúng tôi thuê 2 xe buýt
cỡ 25 chỗ ngồi từ Fairfield Council. Bài viết
này chú trọng vào những kinh nghiệm mở
nhãn quan chúng tôi thay vì những chi tiết
thông thường như xe buýt rời Chùa Thiên
Ấn lúc 7:20 và đến nơi lúc 9:10, ... Vị trụ trì
tự giới thiệu là Venerable Phra Mana. Theo
tôi nghĩ, tĩnh tự <<venerable>> là dư thừa
vì Phra, trong tiếng Thái, đã có nghĩa tôn
đức, tương đương với Thượng Toạ trong
tiếng Việt. Thầy dẫn nhập chúng tôi trong
45 phút, người chia 34 đoàn sinh thành 8
chúng và đặt tên là Chánh Kiến, Chánh Tư
Duy, Chánh Ngữ, Chánh Mạng, Chánh
Nghiệp, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm,
Chánh Định [http://en.wikipedia.org/wiki/
Eightfold_Path].Thầy giao cho bài làm là tìm
hiểu ý nghĩa của 8 từ ngữ đó và cho thấy sự
hiểu biết của mình trước khi ra về.
Đầu tiên SFM theo Phật Giáo Nguyên Thuỷ
mà GĐPT Chánh Pháp lại theo Phật Giáo Đại
Thừa, chúng tôi cần một lát để thích nghi.
Thêm vào đó SFM là chùa Thái, có những
tục lệ của Phật Giáo Thái Lan. Tượng Phật
trông khác. Kiến trúc trông <<nhọn>> hơn.
Và chúng tôi phải giữ những luật lệ sau đây:
Có ranh giới rõ rệt 2 giới nam nữ. Chưa có phép, phái nữ không được đến gần chỗ ngủ của phái nam và ngược lại.
Ưu bà di [Upàsika, Phật tử nữ] không được chạm Thầy, tốt hơn là giữ khoảng cách 2 mét. Khi người nữ muốn dâng Thầy vật gì, cô ta nên để vật ấy trên một bệ để Thầy nhận, hay cô có thể nhờ một Ưu Bà Tắc [Upàsaka] giúp.
Chúng tôi không được chỉ bàn chân về hướng Phật hay Thầy. Lệ này khó cho nhóm Phật tử Việt chúng tôi, vì trong cả hai văn hoá Việt và Úc, bàn chân không được xem là vật dơ. Lại nữa, chúng tôi rất ít toạ thiền, khi chân đau là chúng tôi muốn đổi thế ngồi. Mà hễ đổi chân thì khó tránh khỏi, một lúc nào đó, hướng chân về Phật hay về Thầy.
Không được chạm đầu Thầy, hành động này là vô lễ. Tôi không nghĩ ra được khi nào muốn chạm đầu Thầy, hay khi nào cần chạm đầu Thầy.
Xoay lưng lại, nhất là mông đít, hướng Phật hay Thầy là vô lễ. Cách tốt nhất là đi lui.
Tiết kiệm nước.
Vào Ngọ trai, chúng tôi được dự vào Đàn Na
[offering]. Tôi hy vọng chỉ được thấy Đàn
Na nhưng không ngờ được dự vào không
những một lần mà hai lần. Thật là đẹp cảnh
em Oanh Vũ múc cơm vào bình bát của
Thầy. Nghi thức Đàn Na đưa người Phật tử
đến gần Thầy trên mọi phương diện. Chúng
tôi quý báu nghi thức Đàn Na này mà chúng
tôi không kinh nghiệm được với quý thầy
Đại Thừa của chúng tôi.
Thức ăn ngon tuyệt. Ngày thứ nhất có
khoảng 10 món ăn, mà tôi được cho biết là
7 món trong đó là do nhóm của Jue Eam.
Nhóm của anh có nhiều kinh nghiệm. Anh
nhờ cô Nhàn làm đầu bếp vì cô Nhàn đã nấu
cho SFM và nhiều khoá tu như vậy. 3 món
kia là món Thái do nhóm Phật tử Thái từ
Sydney thường đến giúp việc xây cất. Theo
Phật Giáo Nguyên Thuỷ, buổi tối chỉ được ăn
nhẹ. Nhưng GĐPT Chánh Pháp được Thầy
cho phép ăn tối nhẹ. Bữa ăn tối không có
nhẹ. Tráng miệng có 4 thứ chè, mà nhiều
người nghĩ 1 thứ đủ rồi. Tiếng Việt có câu
<<có thực mới vực được Đạo>> thật đúng
ở đây. Thức ăn thật tươi, ngon miệng, và
nhiều ê hề, nên nếu chúng tôi không học
được Đạo thì chỉ có mình tự trách mình.
Lễ lạy ở đây khác. Cái lạy tự nhiên và xảy ra
thường hơn. Chúng tôi thấy Phật tử Thái lạy
Phật và Thầy trong Chánh Điện, rồi cả ngoài
vườn sau. Tôi hiểu lạy là để tỏ lòng
cung kính người có kinh nghiệm Đạo
cao hơn, mà thường được đo bằng
hạ lạp. Tương phản với quý thầy
Đại Thừa chúng tôi biết, họ tạo
cảm tưởng lễ lạy là chuyện hệ
trọng lắm. Tôi chứng kiến một vị
thầy khi nhận 3 lạy thì đứng né
sang bên như thể hướng năng lượng của
cái lạy kia lên bàn thờ Phật đàng sau, còn
vị thầy khác nghiêm sắc diện, chắp tay lại
mà nhận lạy như thể thầy nhận một
chưởng kungfu. Chúng tôi chưa thấy một vị
thầy Đại Thừa lạy vị thầy Đại Thừa khác,
nhưng ở SFM, trong thời công phu sáng,
chúng tôi thấy Thầy Mana lạy thầy khác,
chắc là cao hạ lạp hơn, 2 lần [tổng cộng 6
lạy], mặc dầu Thầy Mana là trụ trì. Ở SFM,
cái xá ít khi được làm, người ta làm nguyên
cái lạy, 5 điểm chấm đất, hay là không làm
gì cả.
Sau bữa trưa, chúng tôi được thuyết giảng
trong phòng triển lãm về Ai Cập. Thầy
Mana chứng minh hoa sen đã có vị trí kính
trọng trong nghệ thuật Ai Cập, lâu trước
đức Phật. Một lọ dầu thơm hoa sen và các
vật cụ lịch sử khác được truyền đi vòng
vòng. Thầy kết luận là Ấn Độ mượn huy
hiệu hoa sen từ Ấn Độ. Điều này được
chứng minh hùng hồn hơn vào sáng hôm
sau bằng 2 tảng đá điêu khắc 2.200 năm
trước. Một tảng đá chứa hình hoa sen với 7
hạt chính giữa tượng trưng Thất Bồ Đề
Phần [http://www.thuvienhoasen.org/
phathocphothong-03-09(2).htm], chung
quanh là 8 cánh tượng trưng Bát Chánh
Đạo [http://www.thuvienhoasen.org/
phathocphothong-03-10.htm], rồi vòng
ngoài lại được bao bọc bởi 12 cánh, tượng
trưng cho Thập Nhị Nhân Duyên [http://
www.thuvienhoasen.org/u-phcb2-1-1.htm].
Tảng đá kia khắc huy hiệu hoa sen được
tôn kính bên Ai Cập, đứng trước bóng một
hình con voi trắng được tôn kính bên Ấn
Độ.
Chiều ngày 25, Thầy Mana đưa chúng tôi
đến một khoảng đất trống. Trên mặt đất là
bản đồ nửa thế giới trải rộng từ Âu Châu
sang Viễn Đông. Thầy nói đây là bản đồ của
thế giới vào thời 4.000 năm trước. Những
điểm đáng chú ý là vị trí của Ai Cập, Con
Đường Lụa, vị trí của Ấn Độ, không gian
hoằng hoá của đức Phật, và vị trí của Miền
Viễn Đông. Bản đồ chỉ những chỗ mà Vua A
Dục đặt trụ đá, và những vùng mà ánh sáng
Phật Giáo lan đến. Đồng thời bản đồ này
cũng cho thấy huy hiệu được tôn kính thay
đổi theo văn hoá của từng sắc dân. Đứng
sừng sững cao 4m đàng sau bản đồ là bản
sao trụ đá của Vua A Dục tại Lâm Tỳ Ni, trên
đó có con sư tử 4 đầu.
Thầy hướng dẫn chúng tôi lên núi chiều
hôm đó. Đối với tôi, Thiền Hành Lên Núi là
cách thực tập khác của Phật Giáo Nguyên
Thuỷ. Thiền Hành lâu như vậy nhằm nuôi
sức dẻo dai của người tham dự. Chung quy
cũng ở chỗ hơi thở. Người tham dự phải
điều vận hơi thở để giảm thiểu năng lượng
khi trèo núi. Xin đọc bài riêng về cuộc leo
núi của Tú mang tên <<Thử Thách>>.
Tối hôm ấy đáng lý chúng tôi rất vui quanh
lửa trại nhưng trời trút nước đến 22 giờ. Củi
để đốt lửa trại mà chúng tôi nhặt sau Thiền
Hành Lên Núi đành để dùng vào dịp khác.
Chúng tôi đổi chương trình thành diễn kịch.
8 chúng có 15 phút để bàn thảo giữa họ với
nhau và với huynh trưởng trước khi trình
diễn ý nghĩa của tên chúng. Chương và
Hoàng là giám khảo. Chúng tôi cười bể
bụng. Mọi người chọn chúng Chánh Định với
số phiếu 9 trên 33, vì vũ khúc của anh Đức.
9/33 là số phiếu cao nhất nhưng nó không
phản ảnh được ý của số đông đại chúng.
Chương và Hoàng ngạc nhiên là các chúng
am hiểu ý nghĩa tên chúng của mình, hay
nói cách khác là hiểu Bát Chánh Đạo. Đây là
lần đầu tiên các em gặp gỡ Bát Chánh Đạo,
một đề tài dành riêng cho huynh trưởng.
Giám khảo chọn chúng Chánh Niệm và
Chánh Tư Duy với số điểm đồng hạng 8/10.
Công bằng mà nói, Chánh Niệm vượt trội
Chánh Tu Duy. Các huynh trưởng khác đồng
ý. Trước tiên đề tài Chánh Niệm là trọng
tâm của MỌI PHÁP MÔN PHẬT GIÁO. Nói
theo kiểu John Wayne là: <<8 chi của Bát
Chánh Đạo đều quan trọng bằng nhau,
riêng Chánh Niệm là bằng hơn cả !>>
Chúng Chánh Niệm trình diễn chánh niệm
trong 5 trường hợp giữ 5 giới. Sắp đặt tài
tình. Bao quát. Họ gõ đúng chỗ vì Giới là
trọng tâm của Chánh Niệm. Hai từ
<<ngưng>> và <<chắc không ?>> thường
được dùng làm kinh ngạc giám khảo về mức
độ am tường và sáng tạo của họ. Chánh
Niệm hữu hiệu nhất khi còn trong tâm, khi
tác ý, trước khi khẩu nghiệp và thân nghiệp
được tạo.
Ngày 26 bắt đầu lúc 5giờ30 bằng thiền toạ
rồi tụng kinh Pali. Sau đó Thầy hướng dẫn
chúng tôi tập <<yochi>> trong vườn. Từ
<<yochi>> do Thầy Mana lập ra từ hai từ
yoga và taichi. Thầy lấy vài động tác từ
yoga, vài động tác từ taichi. Trời hôm ấy
đẹp làm sao.
Theo lời Thầy, chúng tôi ôm vào lòng
sự từ ái của thiên nhiên, của rừng
núi, của thầy tổ, của cha mẹ, của
người thương yêu ta, ... Ở điểm này,
tôi nhớ lại Miền Tịnh Khiết đã tổ
chức khoá tu tương tự 6 năm trước,
vào năm 2004. Lúc đó chưa có tượng Phật
A Di Đà đứng. Mỗi ngày trong 6 năm,
Thầy vơ vào năng lượng từ ái của thiên
nhiên còn tôi vơ vào phiền não. Phật ơi, 6
năm làm cho Thầy khác tôi như thế nào ?
Giọt nước nhỏ trong 6 năm còn tụ thành
ao lớn huống hồ gì ...? Sau khi vơ vào sự
từ ái, chúng tôi thấm vào bàn tay tất cả
những mệt nhọc, đau đớn, bệnh hoạn
trong người và ném chúng, trong 3 lần
hoà tiếng reo to, ra xa tận thùng tái biến
chế của Jervis Bay. Từ <<sự từ ái>>
thường được dùng và thực tập tại SFM,
còn từ <<tái biến chế>> thật thích nghi
và hợp thời.
Cũng trong sáng hôm ấy huệ nhãn của tôi
được mở. Thầy Mana dẫn chúng tôi đến
một khu có nhiều phiến đá điêu khắc.
Trước khi xem hình trên đá, chúng tôi
thiền ngồi tại chỗ với đôi chân thòng
xuống. Sáng hôm ấy đẹp tuyệt vời. Chim
hót ca ngợi sự tươi mát và sự đâm chồi
sau cơn mưa lớn tối hôm trước. Thầy
không có thời giờ để hướng dẫn chúng tôi
chú tâm vào gì trong lúc toạ thiền, nên tôi
dùng hơi thở làm đối tượng. Có lúc, tôi
ngủ gật và xém ngã bật ngửa. Trong tư
thế kiết già hay bán già bạn không thể
ngã được nhưng ở đây bạn có thể. Sau
thiền toạ, Thầy Mana cho chúng tôi xem
phiến đá thứ nhất khắc quang cảnh Thái
Tử Tất Đạt Đa rời hoàng cung. Tôi xem
phiến đá như bao nhiêu hình cuộc đời đức
Phật đã thấy qua, mặc dầu Thầy có nói
phiến đá là bản sao của phiến đá nguyên
thuỷ 2.200 năm. Tôi đã được học cuộc đời
đức Phật 30 năm trước qua con mắt của
người nghệ sĩ Trung Quốc. Câu chuyện
được lập đi lập lại khi tôi lớn lên trong
GĐPT, và được lập lại lần chót qua một bộ
tranh của hoạ sĩ Trung Quốc tại chùa
Pháp Bảo Bonnyrigg NSW. Chuyện cuộc
đời của đức Phật được truyền qua nhiều
thế hệ huynh trưởng nhưng không ai
khẳng định được nguồn gốc của nó. Tôi
dần dần trở thành chai với truyền thuyết
và bắt đầu có những thắc mắc tính khả tín
của nó: làm sao một trẻ sơ sinh đi được 7
bước và hoa sen nở dưới gót chân? Tôi
hiểu lầm rằng truyền thuyết cuộc đời đức
Phật được chế ra bởi các học giả Trung
Hoa mấy trăm năm trước. Cho đến một
tuần trước khoá tu, tôi tình cờ đọc được
một kinh Đại Thừa tên Đại Bát Niết Bàn,
bản dịch của HT Thích Trí Tịnh
[http://www.thuvienhoasen.org/kinh-dbnb
-00.htm, http://lirs.ru/do/
Mahaparinir-
vana_Sutra,Yamamoto,Page,2007.pdf].
Ở chương thứ 7, Phẩm Tứ Tướng, Kinh
giải thích hình ảnh một trẻ sơ sinh đi 7
bước và hoa sen nở dưới gót chân là sự
thị hiện, không nên diễn nghĩa theo đúng
văn tự. Tôi đọc rằng Kinh này cũng có
một bản trong Phật Giáo Nguyên Thuỷ.
Như vậy truyền thuyết cuộc đời đức Phật
có căn bản lịch sử, được lập lại ở nhiều
nơi trong kinh tạng. Kinh Đại Bát Niết Bàn
được nói bởi đức Phật trước Niết Bàn nên
truyền thuyết về cuộc đời Ngài đã có
2.500 năm. Độc giả có thể tìm hiểu
nhiều hơn tại
http://www.thuvienhoasen.org/phat
dan-92.htm.
Trở về với những phiến đá trước mắt. Tôi
đang đứng trước một phiến đá có 2.200
năm tuổi. Tôi kiểm lại: lời chú thích thật đề
<<Bharhut Stupa, Sunga Period 200BC-
100AD>>. Đây là một chứng minh bằng
hình, đã 2.200 năm, về cuộc đời đức Phật.
Bài học 30 năm trước rất có thể xuất phát
từ những phiến đá điêu khắc này. Lạy Phật,
bầu trời xụp xuống! Trong một thoáng tôi
cảm tưởng như mình là nhà khảo cổ Indi-
ana Jones nghiên cứu từ nguồn gốc. Đối
tượng đầu tay của tôi dĩ nhiên trông khác,
các hình điêu khắc trông Ấn Độ hơn. Quan
trọng hơn cả là không tìm thấy hình Thái Tử
Tất Đạt Đa nơi nào trên các phiến đá. Nghệ
nhân có đủ tài để khắc hình Ngài nhưng
không cố tình không làm. Trong cảnh tượng
khi Thái Tử rời thành [Sanchi Stupa, Sunga
Period 200BC-100AD], đến lễ bái cây pipal
lớn [tiền thân của giống cây bồ đề], dừng
vó câu tại giòng sông Anôma, sau đó để Sa-
nặc trở về với ngựa Kiền-trắc, hình của Thái
Tử vẫn được để trống. Thầy Mana không
giải thích tại sao để trống. Chúng tôi đặt giả
thuyết:
1. Nghệ nhân bị cấm khắc hình của Thái
Tử, hoặc
2. Nghệ nhân đang chờ các nghệ nhân khác
thoả hiệp trên một tiêu chuẩn nào đó, họ
không muốn khắc trước một hình mà sau
này sẽ thành sai, chỉ vì tôn kính Thái Tử.
Tôi tiếc là không đem theo máy chụp
ảnh. Ở đây cần một máy có độ giải
cao để chụp chi tiết các phiến đá.
Tôi có nên trở lại đây với máy ảnh
không ? Sau đó, Thầy và chúng
tôi ngồi quanh một cội bồ đề cao
khoảng 1 mét.
Thầy nói cây này có tên nguyên thuỷ là pi-
pal, trước khi đổi tên là bồ đề. Đây là lần
đầu tôi nghe thấy tên pipal. Thầy tiếp, cây
pipal đã được người Ấn Độ tôn kính trước
Phật. Đức Phật chọn thành đạo dưới cây pi-
pal để phát huy Đạo của Ngài. Người ta dễ
chấp nhận những gì Ngài giảng dạy khi biết
Ngài thành đạo dưới cội pipal, tương tự như
một người tốt nghiệp từ đại học Harvard thì
dễ kiếm việc tốt. Từ khi Ngài thành đạo
người ta gọi cây pipal là cây bồ đề. Như mọi
thứ khác vô thường, khoá tu của chúng tôi
cũng không ngoại lệ. Trước khi chúng tôi ra
về, Thầy Mana ôn lại những gì xảy ra trong
30 giờ qua. Thầy nhấn mạnh Bát Chánh Đạo
là 1 pháp [số ít] chứ không phải là 8 pháp
[số nhiều]. 1 pháp này chia làm 8 chi nhánh
và phải dùng cả 8 vì một nhánh nhờ vào
những nhánh kia mà thành tựu.
Chúng tôi rời SFM khoảng 3 giờ trưa ngày
26. Tôi có thưa trong lời từ biệt là chúng tôi
học được rất nhiều dưới sự hướng dẫn của
Thầy Mana. Chúng tôi không tìm đâu được
nơi quy tụ một bản đồ thế giới 4.000 năm
trước, những phiến đá điêu khắc đã 2.200
năm, và một người hướng dẫn lỗi lạc trong
đề tài. Những điều Thầy trình bày được cho
mục kích và thực nghiệm tại chỗ làm cho
người trẻ thích thú. Đại diện cho GĐPT
Chánh Pháp, tôi dâng 4 Thầy 4 phần quà, 1
phần cho cô Kim, theo sau là phong bì cúng
dường SFM. Tôi hỏi <<Làm sao người ta nói
chia tay ?>> có nghĩa ước gì nhóm chúng
tôi có thể ở lại lâu hơn để hưởng lợi lạc. Cô
Kim nói GĐPT Chánh Pháp là một trong
những nhóm dễ thương nhất đến viếng SFM
và chúng tôi được hoan nghinh trở lại bất cứ
lúc nào. Lúc xe rời cổng tu viện tôi tiếc rằng
mình để lỡ cơ hội nói <<Kop Kun Krap>> !
Chúc Hoà Phan Hồng Chương - 2010/04/28.
For our „walking meditation‟ session, we
expected to go on a peaceful stroll through
the bush. Instead we deviated from the
footpath and bushwalked for more than
two hours through a dense forest to reach
the cliff of the mountain. Nonetheless, the
magnificent view of the expansive forest
was well worth the sweat, leg aches and
tears.
We began our „walk‟ in a single silent line.
We were told by the Venerable to concen-
trate on our breathing with each step we
took. However, our walk turned into a hike
when the Venerable led us through a path
where we began climbing up large, unsta-
ble boulders and sliding down steep slopes.
It was too difficult to stay silent any longer
as we couldn‟t help but shout “Watch out!”
or “Be careful” any time we thought some-
one was about to slip or fall. Although we
were no longer silent, each group showed
great teamwork as they instinctively
worked together to help one another up the
mountain. We were amazed and impressed
to see how fit the Venerable was, as he
swiftly moved ahead of us while we all
struggled to keep up with him.
After much struggle, we finally reached
what we thought was our final destination.
For most of the parents it was, but for all
the enthusiastic youngsters, we continued
to climb all the way to the top of the cliff
and left our parents and older HTR behind
for their much needed rest.
The rest of the climb proved to be twice as
difficult and tiring. The slopes were
steeper, the rocks were a lot more slippery
and we had to continuously fight back
branches that were in our way. We could
feel our leg muscles become tenser and our
sweat seeping through our ao lam. It was a
great relief when we finally reached the
cliff and we felt a sudden rush of exhilara-
tion as we took in the amazing view. For a
few minutes, our prior feelings of pain and
exhaustion were forgotten as we sat and
meditated right on the edge of the cliff,
breathing in the fresh, mountain air. The
Venerable spoke about the mountains, lik-
ening its unrestrained and nurturing nature
to our parent‟s love.
We felt very relaxed and peaceful as it is
not often we get to be so close with nature
and escape our busy working lives and
studies, where it is a lot more difficult for
us to find the time to embrace the natural
wonders which surround us. As the sun
began to set, we couldn‟t stay at the cliff
for much longer. Walking back was just as
agonising and seemed endless. Even the
youngsters had to have rests along the way
and some even found walking sticks to
support themselves on the hike back. But
like all things, our walk came to an end.
Despite our struggles along the way, it felt
very uplifting and satisfying to have com-
pleted the hike.
Sunday and Monday we spent at the Sunnataram Forest Monastery,
Under the guidance of Venerable (Pramana).
Never have we felt so peaceful and calm, taking a break from our busy lives and
Not using technology such as the internet and TV for two days.
Always learning about the history of Buddhism,
The Venerable has ignited our inquisitive minds, to
Always ask questions to gain a deeper understanding of Buddha‟s teachings.
Relaxed is how we felt throughout the entire retreat,
Amazing food was lovingly prepared by our parents.
Meditation helped us to clear our minds,
Freeing our thoughts to concentrate on our breathing.
Our time spent at the Monastery was an enriching and joyous experience,
Remembering all that that Venerable has taught us,
Each day we will attempt to practice Buddha‟s teachings,
So that we can lead a happy and fulfilling life,
To become dutiful Buddhist disciples.
Đến giờ “thiền hành”, mọi
người ai cũng nghĩ rằng mình
sẽ được thanh thản tản bộ trên
những đường lối có sẵn trong
rừng. Nhưng không ngờ trước
đuợc là chúng em phải đi hơn
hai tiếng đồng hồ băng qua khu
rừng rậm để đến vách đá cao.
Từ trên núi cao nhìn xuống là
một khung cảnh thật to lớn và
tuyệt vời, đáng cho chúng em
đổ mồ hôi nước mắt và tê tái cả
chân để được nhìn thấy một
thắng cảnh thanh đẹp như vậy.
Mọi người bắt đầu thiền hành
trong im lặng theo một hàng dài
với sự hướng dẫn của Thầy Pra
Mana, chúng em chăm chú từng
bước đi và tập hít thở nhẹ
nhàng. Tuy bắt đầu là vậy,
nhưng từ từ cuộc “thiền hành”
đã trở thành cuộc đi bộ
đường dài khập khểnh khi phải
trèo lên những hòn đá to lớn hay
có khi phải bước lên những tảng
đá mòn trơn trượt và có lúc còn
phải trượt xuống vực sâu. Thật là
một sự khó khăn khi phải giữ im
lặng, cứ mỗi khi chúng em thấy
một ai đó xém vấp té là không
thể tránh được những lời kêu to
như “coi chừng” hay “cẩn thận”.
Tuy không giữ được sự im lặng
nhưng mỗi đội đã thể hiện tinh
thần đồng đội giúp đỡ lẫn nhau
và dựa vào nhau để trèo lên núi
cao. Thật không ai có thể ngờ
được sự nhanh nhẹn và mạnh
khỏe của Thầy khi Thầy nhẹ
nhàng trèo lên núi cao hay xuống
vực sâu. Chúng em đã phải cố
gắng hết sức mình để duổi theo
kịp Thầy.
Sau nhiều sự khó khăn và mệt
nhọc, chúng em cuối cùng cũng
đến được một nơi mà chúng em
tưởng lầm rằng đã đến đích.
Đối với nhiều bậc phụ huynh
thì nơi này là nơi đi tới cuối
cùng của cuộc “thiền hành”, tuy
nhiên chưa kịp nghĩ ngơi thì
Thầy lại nói con đường tiếp
theo lại khó khăn hơn nhiều và
vì thế là những phụ huynh và
các anh chị huynh trưởng “lớn
tuổi” đã ngừng lại đó nghỉ ngơi
chờ Thầy trở lại dẫn về lại
Chùa. Còn những bậc phụ
huynh và huynh trưởng trẻ,
thanh và thiếu ai cảm thấy mình
vẫn còn sức đã hăng hái tiếp tục
trèo cao theo Thầy lên tới đỉnh
núi.
Cuộc hành trình leo núi tiếp tục
quả thật là khó khăn và mệt
nhọc hơn gấp hai lần. Dốc núi
(Theo sự hướng dẫn của thầy Thái Lan Pra
Mana tại chùa Sunnataram - Bundanoon NSW)
“bắp chân hai bên càng lúc càng co động lại
và mồ hôi thấm rỉ qua áo lam đang mặc!”
“Dốc núi càng lúc càng khó đi hơn…”
nhàng khi hấp thụ được vẻ đẹp
thiên nhiên xung quanh mình vì
ít khi chúng em có những cơ
hội được gần gủi với thiên
nhiên như thế này hay tránh
được những bận rộn của công
việc và việc học hằng ngày của
mình.
Chúng em ngồi đó không lâu
thì mặt trời bắt đầu lăng xuống,
không thể ở lâu trên núi được
nữa chúng em bắt đầu khởi
hành đi xuống núi. Không ngờ
xuống núi cũng càng khổ sở
hơn và đường đi sao như dài
hơn nhiều.
Chúng em tuy trẻ và tương đối
khỏe mạnh cũng phải có lúc
ngưng lại nghỉ ngơi trên đường
về và vài người trong chúng em
cũng cần đến gậy để giúp dìu
chuyến đi về được dễ dàng hơn.
Và cũng như mọi việc, cuộc đi
“thiền hành” cũng đến lúc
chấm dứt. Mặc dù chúng em đã
phải trải qua bao khó nhọc,
nhưng tâm hồn chúng em như
được nâng cao và thật hài lòng
nơi chính mình khi đã hoàn
thành cuộc “thiền hành” này.
Quảng Tăng – Lê Nguyên Tú
GĐPT Chánh-Pháp
Tháng 4, 2010
càng lúc càng khó đi hơn,
những hòn đá lại càng dễ bị
trượt hơn và chúng em còn phải
vừa đi vừa gạt bỏ những cành
cây vướn tầm mắt hay nằm trên
lối đi. Lúc đó bắp chân hai bên
càng lúc càng co động lại và
mồ hôi thấm rỉ qua áo lam đang
mặc. Đến cuối cùng, chúng em
cũng đã trèo lên đến vách núi,
từ trên cao nhìn xuống, phong
cảnh tuyệt vời làm lòng chúng
em nhẹ nhỏm và bổng dưng vui
vẻ, hớt hở hơn. Trong giây phút
ngắn ngủi đó, chúng em đã
quên đi những cảm giác mệt
mỏi và nhức nhối trước đó.
Thầy cho chúng em ngồi xuống
và nhập thiền ngay trên đỉnh
núi, hít vào những luồn khí tươi
mát của núi non.
Thầy bắt đầu nói về núi non,
những thiên nhiên chúng em
đang được hấp thụ tựa như tình
thương không bờ bến và thiên
liêng của những bậc cha mẹ.
Trong giây phút đó, chúng em
cảm thấy rất bình thản và nhẹ
hánh Pháp đối với em đúng như là một gia đình rất lớn, vì mọi
người đều lo lắng và chăm sóc cho nhau.
át, ca và cười nói vui vẻ là điều em thích nhất về GDPT Chánh Pháp.
nh, Chị, Em đến với nhau để sinh hoạt chung cùng đàn.
hững ngày Chủ Nhật, các em đến trường tiểu hoc ở Fairfield để
sinh hoạt.
ọc được rất nhiều điều mà em không học được ở đâu hết.
hải giúp đỡ nhau mới thực hành được bài đã học.
àng tuần em vui vẻ đi đến trường học Chánh Pháp.
nh, Chị, Em ăn chay mỗi tuần, có thức ăn rất là ngon.
hải yêu thương lẫn nhau để cho gia đình ngày càng thêm lớn mạnh.
Jessica Tạ
Thiếu Nữ Chánh-Pháp
Em tên là Nguyễn Kim Chi, pháp danh Diệu Hiền và năm
nay em 17 tuổi. Em sinh hoạt ở GĐPT Pháp-Bảo được
khoảng 10 năm và hiện em đang sinh hoạt với GĐPT
Chánh-Pháp được 6 tháng. Mỗi tuần em cứ mong đến
ngày Chủ Nhật để em được gặp mặt bạn bè và các anh chị em khác nữa. Có những lúc em cảm
thấy làm biếng đi sinh hoạt vì phải dậy sớm vào Chủ Nhật nhưng khi nhớ lại gia đình mỗi tuần
sinh hoạt rất vui làm em có hứng để đi.
Chánh-Pháp đã cho em nhiều kỷ niệm thí dụ như 2 đêm lotto tại Hội Chợ Tết ở Fairfield Show-
ground và 2 ngày 1 đêm tại trại Tu Học Bundanoon. Mỗi lần em thấy anh chị em cười tươi, em
vui lắm và làm em cười theo. Có những lúc em cảm thấy buồn nhưng khi nghĩ lại những chuyện
vui trong gia đình, làm em vui lên và quên đi như không có gì buồn hết.
Trong GĐPT cho em nhiều cơ hội để học Phật Pháp và tiếng Việt. Ba mẹ em rất vui khi họ hàng
của em ở bên Việt Nam họ có thể hiểu được cuộc sống bên Úc của gia đình em vì em thỉnh thoảng
viết thư về cho họ bằng tiếng Việt. Ba mẹ em vui vì từ ngày em vào GĐPT em được học hỏi rất
nhiều thứ và được biết thêm đây đó. Mỗi lần GĐPT tổ chức đi đâu, em cứ mong là tất cả mọi
thành viên trong GĐPT đều có thể có mặt để chia sẻ niềm vui với nhau.
Em thích chia sẻ niềm vui, nổi buồn với các bạn trong GĐPT. Mỗi tuần đến với gia đình, em đều
học được đều mới. Thí dụ như Thủ Quỹ của Chánh Pháp, em cứ tưởng đâu Johnny Từ Bi (hộp
đựng quỹ từ thiện) là Thủ Quỹ vì cái hộp này đựng tiền ủng hộ. Nhờ anh chị giảng dạy nay em
mới hiểu là Thủ Quỹ của Chánh Pháp là chị Nguyễn Thị Kim Phượng và chị có trách nhiệm bảo
quản chi tiêu và thu nhập tài chánh của Chánh Pháp! Em rất thích các anh chị giảng dạy cho em vì
em thấy dễ hiểu hơn em học ở trường. Ở đây em cảm thấy các anh chị rất tích cực và dạy chúng
em bằng tất cả tấm lòng.
Em hy vọng rằng đời của em luôn luôn được bên cạnh GĐPT vì em lúc nào cũng thấy hạnh phúc
khi được ở gần các anh chị trong GĐPT và nhất là được học những điều hay và ý nghĩa ở nơi các
anh chị.
Diệu Hiền Nguyễn Thị Kim Chi
Thiếu Nữ Chánh Pháp
NE of the best things about GDPT is the opportunity it gives
young people to be involved. We are encouraged to acknowledge
our compassion through charity and volunteer work/events, talents
through performance and skills at state and national camps.
I remember when I first joined and Chanh Phap, along with Huyen
Quang and Phap Bao, held a Disability Day. It felt amazing when I
saw the smiles not only on the faces of the individuals from the com-
munity who came to the event, but also on all of the GDPT members
involved. Then we did a candle dance at a Vietnamese Charitable
Dinner. As I continued to be a member of GDPT, I
found more reasons to feel willing to give
my time and dedication to activities. We
continued to develop performances for
more charity events, such as Voice of
Hope. In addition, we continued to ac-
tively participate in roaming around
Cabramatta with cardboard boxes in our
hands to raise money for the bushfires and
to clean the community on Clean Up Aus-
tralia Day over the years. These
events have caused me to open my eyes to reality, as I have experienced more than I ever would have
if I never joined.
One of my favourite activities every Sunday is the lion dancing/martial arts after the long day of
Vietnamese and Buddhist Studies. Of course they were... interesting. But, who could deny that the
intense exercise that is equivalent to “ownage” as Ken says is somewhat fun. I enjoy Wendy being
my lion bum and seeing Kimmy attempt to do a jump split, Nam trying to reach his toes, Davey do-
ing his stunts, Kristine‟s random comments, Kelvin‟s extreme enthusiasm (even when he had a bum
cramp), Beatrice as she leaves while we have to stay and burn calories and Thao‟s laziness, as she
sits by to watch us cry in pain.
Camp; the best thing about it would have to be living under the same roof as a whole lot of people
who just know you so well that they really are a part of your family. Nothing compares to the feeling
of warmth and comfort Chanh Phap provides.
As we all say,
I ♥ CP
Võ Vi Vân
Thiếu Nữ Chánh-Pháp
Em Võ Vi Vân GDPT Chánh Pháp đã trúng giải may mắn được sổ vào ngày 15/06/2010 vừa qua với sự hiện diện và chứng nhận của ACE trong Ban Báo Chí.
Chúc em đi xem phim thật là VUI và mong em sẽ tiếp tục đóng góp bài viết cho Sen Trắng!