Noi dung tieu luan moi

25
I. Một số lý luận chung về độc quyền: Một thị trường độc quyền được đặc trưng bởi: 1. Một người bán hoặc một người mua duy nhất 2. Không có hàng hoá thay thế gần giống 3. Có những rào cản hiệu quả ngăn cản việc gia nhập thị trường Những rào cản với việc gia nhập thị trường có thể tồn tại vì hai lý do: 1. Quy mô kinh tế (economies of scale) 2. Hoạt động của công ty, và/ hoặc hoạt động của chính phủ Nếu quy mô kinh tế tồn tại với mức sản lượng tương đương, các công ty lớn có thể sản xuất hàng hoá với một mức giá thấp hơn với mức giá của các công ty nhỏ hơn có thể sản xuất. Một ngành kinh doanh như vậy được gọi là độc quyền tự nhiên (natural monopoly). Độc quyền địa phương (local monopoly) là một loại độc quyền tồn tại ở một khu vực địa lý cụ thể. Ở nhiều vùng, chỉ có một công ty được cung cấp báo địa phương (ít nhất là trên cơ sở hàng ngày). Tại Syracuse chẳng hạn, công ty báo chí Syracuse là công ty cung cấp báo địa phương duy nhất (lưu ý là công ty này xuất bản cả tờ báo buổi sáng Post - Standard, tờ báo buổi trưa Herald American). Khi một nền kinh tế có các doanh nghiệp hoặc lĩnh vực độc quyền thì sẽ gây ra tổn thất phúc lợi của xã hội, cụ thể là: 1. Giá cả độc quyền cao hơn giá cạnh tranh hoặc chi phí biên . 2. Sản lượng độc quyền thấp hơn sản lượng có tính cạnh tranh. 3. Nhà độc quyền chiếm giữ thặng dư của người tiêu dùng. Như vậy, tình trạng độc quyền cần phải được kiểm soát bởi chính phủ thông qua biện pháp quy định giá tối đa, điều tiết thuế, hay áp dụng luật chống độc quyền. 1

Transcript of Noi dung tieu luan moi

Page 1: Noi dung tieu luan   moi

I. Một số lý luận chung về độc quyền:Một thị trường độc quyền được đặc trưng bởi:1. Một người bán hoặc một người mua duy nhất 2. Không có hàng hoá thay thế gần giống 3. Có những rào cản hiệu quả ngăn cản việc gia nhập thị trường Những rào cản với việc gia nhập thị trường có thể tồn tại vì hai lý do:1. Quy mô kinh tế (economies of scale)2. Hoạt động của công ty, và/ hoặc hoạt động của chính phủ Nếu quy mô kinh tế tồn tại với mức sản lượng tương đương, các công ty lớn có thể

sản xuất hàng hoá với một mức giá thấp hơn với mức giá của các công ty nhỏ hơn có thể sản xuất. Một ngành kinh doanh như vậy được gọi là độc quyền tự nhiên (natural monopoly).

Độc quyền địa phương (local monopoly) là một loại độc quyền tồn tại ở một khu vực địa lý cụ thể. Ở nhiều vùng, chỉ có một công ty được cung cấp báo địa phương (ít nhất là trên cơ sở hàng ngày). Tại Syracuse chẳng hạn, công ty báo chí Syracuse là công ty cung cấp báo địa phương duy nhất (lưu ý là công ty này xuất bản cả tờ báo buổi sáng Post - Standard, tờ báo buổi trưa Herald American).

Khi một nền kinh tế có các doanh nghiệp hoặc lĩnh vực độc quyền thì sẽ gây ra tổn thất phúc lợi của xã hội, cụ thể là:

1. Giá cả độc quyền cao hơn giá cạnh tranh hoặc chi phí biên .2. Sản lượng độc quyền thấp hơn sản lượng có tính cạnh tranh.3. Nhà độc quyền chiếm giữ thặng dư của người tiêu dùng.Như vậy, tình trạng độc quyền cần phải được kiểm soát bởi chính phủ thông qua

biện pháp quy định giá tối đa, điều tiết thuế, hay áp dụng luật chống độc quyền.II. Thực trạng doanh nghiệp độc quyền ở Việt Nam:1. Tình hình các doanh nghiệp độc quyền trong thời gian qua:Một số lĩnh vực độc quyền tại Việt Nam:- Hàng không (Pacific Airline là một công ty cổ phần do Hàng không Việt Nam

chi phối và quá bé nhỏ nên không có một vị trí của đối tác cạnh tranh).- Bưu chính viễn thông (gần đây, một số doanh nghiệp quân đội được cấp phép

tham gia kinh doanh một số dịch vụ nhánh, dịch vụ đường trục chính hoàn toàn do Tổng công ty BCVT độc quyền quyết định dưới sự quản lý nhà nước của Bộ BCVT).

- Vận tải biển quốc tế (các đội tàu của doanh nghiệp tỉnh còn quá bé nhỏ và chỉ đảm nhận những thương vụ gần).

- Đường sắt.- Điện (gần đây, đã cho phép mua điện của một số nhà máy điện nước ngoài theo

giá của EVN, song khâu truyền tải, phân phối chỉ do EVN đảm nhận).- Kinh doanh chứng khoán - Xây dựng và khai thác bến cảng, dịch vụ cảng, bến xe khách, cầu đường…

1

Page 2: Noi dung tieu luan   moi

- Xuất, nhập khẩu báo chí, sách giáo khoa - In ấn và sản xuất phim truyền hình - Thuốc lá (sản xuất và lưu thông, phân phối)Những lĩnh vực độc quyền nhóm (oligopoly) bao gồm:- Xăng dầu, bảo hiểm, ngân hàng, xi măng, sắt thép, mía đường, xuất, nhập khẩu

cà phê, xuất nhập khẩu gạo, du lịch (trừ kinh doanh khác sạn)…Do các cơ quan địa phương quyết định hành chính để bảo vệ doanh nghiệp nhà

nước, ở không ít tỉnh đã xuất hiện tình trạng “độc quyền địa phương”, “độc quyền cục bộ”, như đến tỉnh A chỉ được dùng bia của doanh nghiệp nhà nước tỉnh đó, xi măng tỉnh đó sản xuất hay chỉ có công ty lương thực của tỉnh mới được độc quyền kinh doanh thu mua gạo, … dẫn đến biến dạng nghiêm trọng trên thị trường.

Các sản phẩm và dịch vụ độc quyền được bảo hộ rất cao đối với cạnh tranh nước ngoài. Hàng không nội địa, dịch vụ điện thoại hữu tuyến và viễn thông, bến cảng, …không có cạnh tranh. Hệ số bảo hộ có hiệu lực rất cao đối với nhiều ngành công nghiệp chế biến như: đồ uống không cồn 126%, đường 125%, xi măng 69%, xe máy 144%, …Mức độ bảo hộ này chưa tính đến các yếu tố bảo hộ phi thuế quan.

Tuy nhiên, do không có đủ khả năng đi sâu phân tích từng ngành, từng lĩnh vực nên em xin đi sâu vào bốn lĩnh vực độc quyền đang là nỗi trăn trở của xã hội trong thời gian gần đây:Độc quyền nhà nước biến thành độc quyền doanh nghiệp trong lĩnh vực bưu chính viễn thông:

Ở nước ta hiện nay, độc quyền bị lạm dụng, vượt ra khỏi tầm kiểm soát của nhà nước, biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp.

Hiện tượng độc quyền nhà nước trong lĩnh vực viễn thông được hầu hết các quốc gia áp dụng vì lý do an ninh. Trong các thập niên gần đây, xu hướng chung của thế giới là áp dụng chính sách khuyến khích cạnh tranh và nới lỏng kiểm soát trong khu vực này. Ở Việt Nam, trước đây viễn thông vẫn là “vùng trời riêng” của các DNNN hoặc doanh nghiệp cổ phần mà nhà nước chiếm cổ phần chi phối. Sau này, trong pháp lệnh BCVT có chia doanh nghiệp trong ngành BCVT ra làm 2 nhóm: nhóm các DN cung cấp mạng viễn thông và nhóm các DN cung cấp dịch vụ. Khoản 3, điều 5 của Pháp lệnh này cũng cho phép các DN thuộc mọi thành phần sở hữu được cạnh tranh bình đẳng đối với các dịch vụ viễn thông.

Về cơ bản, các doanh nghiệp thuộc nhóm 1 vẫn giữ nguyên các quy định cũ. Với các doanh nghiệp thuộc nhóm 2, các quy định được nới lỏng hơn bởi doanh nghiệp cung cấp dịch vụ có thể mở rộng thuộc nhiều thành phần kinh tế, kể cả doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài chuyển giao công nghệ vào Việt Nam. Tuy nhiên, các doanh nghiệp này không được phép xây dựng mạng lưới riêng và do đó sẽ thuê đường truyền và thiết bị cổng mạng của doanh nghiệp cung cấp hạ tầng, mà ở đây là Tổng công ty BCVT Việt Nam (VNPT). Theo TS. Lê Đăng Doanh – chuyên gia kinh tế cao cấp; vai trò khống chế của VNPT – DNNN cung cấp hạ tầng, có thể gây ra tình trạng

2

Page 3: Noi dung tieu luan   moi

độc quyền. Trên thực tế, vừa là DNNN cung cấp hạ tầng, nắm giữ đường trục chính, đồng thời lại vừa là nhà cung cấp dịch vụ (hiện đang chiếm tới hơn 90% thị phần), vai trò khống chế thị trường đương nhiên thuộc về VNPT và việc có cho phép các doanh nghiệp khác đấu nối vào đường trục hay không hoàn toàn do VNPT quyết định trong khi đường trục chính là tài sản quốc gia. Ví dụ: năm 2001, Vietel đã phải mất rất nhiều thời gian mới có thể triển khai dịch vụ gọi 178 chỉ trong 1 tỉnh, và theo tính toán, với tốc độ chậm như vậy, thì để hòa mạng cho toàn bộ 61 tỉnh thành công ty phải mất khoảng 20 năm. Trong khi đó, theo quy định của nhà nước (quyết định 547), thời hạn ký kết hợp đồng kết nối tối đa là 45 ngày và thời hạn tiến hành kết nối thực tế tối đa là 60 ngày, kể từ ngày hợp đồng được phê duyệt. Vấn đề chủ yếu là hiện nay vẫn chưa có nguyên tắc rõ ràng, quy trình minh bạch và quá trình giải quyết tranh chấp độc lập cho việc kết nối dịch vụ. Đồng thời, hiện vẫn chưa có quy định nào về các hình thức xử lý đối với VNPT vì đã trì hoãn kết nối quá thời hạn quy định. Đáng chú ý là bộ BCVT, cơ quan quản lý lại không hề chú ý đến trường hợp này nhưng bộ lại phản ứng rất nhanh chóng đối với bất kỳ biện pháp cạnh tranh nào của các “đối thủ” cạnh tranh của VNPT như trường hợp khuyến mãi của OCI tháng 12/2003.

Trên thế giới, để đảm bảo cho cạnh tranh trên thị trường viễn thông, nhiều nước đã thành lập các cơ quan quản lý viễn thông quốc gia; các cơ quan này hoạt động độc lập với các đơn vị khai thác. Ở Việt Nam, trước năm 1997, VNPT thực hiện cả hai chức năng; vừa là cơ quan hoạch định chính sách về viễn thông vừa là doanh nghiệp khai thác các mạng lưới và dịch vụ viễn thông. Sau khi mô hình quản lý chung ở các thị trường viễn thông cạnh tranh được áp dụng, tổng cục BCVT, từ năm 2002 đổi thành bộ BCVT được thành lập trên cơ sở tách riêng chức năng hoạch định và quản lý của VNPT. Hiện tại bộ BCVT đóng vai trò cơ quan quản lý nhà nước trong khi VNPT là doanh nghiệp khai thác chủ chốt cung cấp cả mạng lưới lẫn dịch vụ viễn thông tại Việt Nam. Tuy nhiên, khác với mô hình cơ quan quản lý hiệu quả nhất, bộ BCVT không thực sự là một “cơ quan quản lý độc lập” mà vẫn tham gia quản lý VNPT với vai trò là đại diện cho phần vốn nhà nước trong VNPT và đặc biệt là có thẩm quyền bổ nhiệm các chức danh quản lý cấp cao của tổng công ty này. Sự thiếu rõ ràng tách bạch giữa hai chức năng như vậy rất khó có giải pháp khách quan và công bằng cho tất cả các công ty cạnh tranh trên thị trường.

Mặt khác về cơ chế giá, theo các chuyên gia kinh tế, thông thường trong nền kinh tế thị trường, khi định giá dịch vụ hay sản phẩm đặc biệt phải thành lập hội đồng định giá có đại diện doanh nghiệp, khách hàng (người tiêu dùng), trọng tài kinh tế… tham gia để đảm bảo tính công bằng, hợp lý. Ở Việt Nam, Bộ BCVT sau khi có ý kiến của Bộ Tài Chính có quyền quyết định giá cước các dịch vụ viễn thông công ích trong khi bộ trưởng Bộ BCVT có quyền quyết định các giá cước còn lại. Nhưng trên thực tế, các loại giá cước BCVT đều do VNPT “tham mưu” và người duyệt là bộ BCVT. Các loại giá này, theo lý giải của một quan chức VNPT thì được hình thành trên những yếu tố chi phí như: khấu hao, lương công nhân, thuế, lợi nhuận để tái đầu tư… và để bù lỗ

3

Page 4: Noi dung tieu luan   moi

những chi phí vì nghĩa vụ chính sách, công ích. Theo các chuyên gia kinh tế, việc định giá này là bất hợp lý bởi các chi phí trên phải được giải quyết bằng cơ chế riêng, không thể lồng ghép những chi phí không liên quan đến kinh doanh hay phí do trình độ quản lý, tổ chức yếu kém gây ra vào giá thành…

Như vậy, mặc dù đã có những cam kết và quy định chung cho phép có cạnh tranh trên thị trường nhưng hiện tại thị trường viễn thông của Việt Nam vẫn có cấu trúc độc quyền. VNPT có vị trí thống lĩnh đối với tất cả các loại dịch vụ viễn thông và kiểm soát các cổng kết nối chính. Không những thế VNPT còn được hưởng những đặc quyền như khảo sát thiết kế, xây dựng các công trình BCVT; xuất nhập khẩu, cung ứng vật tư thiết bị BCVT; sản xuất công nghiệp và tư vấn về lĩnh vực BCVT... được Nhà nước cấp toàn bộ cơ sở hạ tầng và tiền vốn. Sự cạnh tranh mới chỉ khởi động trong các dịch vụ giá trị gia tăng, Internet, điện thoại di động là các lĩnh vực có lợi nhuận cao. Đối với các dịch vụ viễn thông cơ bản, trong thực tế chỉ có sự cạnh tranh giữa 3 công ty là VNPT, Vietel và FPT. Tuy nhiên cạnh tranh vẫn còn bị hạn chế và vẫn có một khoảng cách lớn giữa VNPT và hai công ty còn lại về vốn và kỹ thuật và quan trọng nhất là VNPT đóng vai trò là nhà cung cấp hệ thống và dịch vụ viễn thông. Việc sửa đổi một số quy định pháp lý và mở cửa thị trường dịch vụ viễn thông là yêu cầu bắt buộc để gia nhập WTO. Thế nhưng với vị trí nắm giữ tuyệt đối hạ tầng, gần tuyệt đối thị trường dịch vụ và hoạt động theo một văn bản dưới luật dành riêng cho mình như của VNPT hiện nay là hoàn toàn không phù hợp với nguyên tắc thị trường.

Với một số lĩnh vực, độc quyền là yêu cầu bắt buộc, tuy nhiên khi độc quyền đã vượt ra khỏi tầm kiểm soát của Nhà nước thì hậu quả thật khó lường. Nó không những làm hạn chế sự phát triển của đất nước mà còn gây phiền toái cho người tiêu dùng. Do đó yêu cầu cấp thiết hiện nay là phải có quy định và thực hiện một cách rõ ràng về các biện pháp xử lý đối với các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh trên thị trường, cần thiết phải có một cơ quan chống độc quyền mạnh mẽ để ngăn cản các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh trên thị trường. Độc quyền điện lực:

Điện lực là một ngành độc quyền, không phải độc quyền thông thường, mà là độc quyền thuần tuý: chỉ có một người bán, không có hàng hoá thay thế hoàn hảo và người mua không thể lựa chọn. Trên thị trường độc quyền thuần tuý này, người mua có quyền tuyệt đối trong việc ấn định giá bán, trong khi cung không đổi thì việc tăng giá sẽ dẫn tới doanh thu tăng. Nếu cơ cấu lương theo doanh thu tăng, thì thu nhập của ngành điện  đương nhiên sẽ tăng.

Lượng điện tiêu thụ tăng theo tốc độ đô thị hoá và phát triển kinh tế bất chấp lượng điện tiêu thụ của mỗi đơn vị sản xuất, hay tiêu dùng có giảm hay không. Chất lượng điện có giảm, thì doanh thu ngành điện vẫn cứ tăng.

Tăng giá điện tạo ra một tiền lệ, để những người tiêu dùng điện hiểu rằng họ là những kẻ phải chấp nhận giá trong thị trường điện độc quyền thuần tuý này.

4

Page 5: Noi dung tieu luan   moi

Kiểu của kẻ độc quyền là cứ dư cầu, hụt cung thì tăng giá. Quả thật, tăng giá điện là lợi đơn, lợi kép. Kêu gọi tăng giá để mọi đối tượng có ý thức tiết kiệm hơn, người dân phải tiêu nhiều mà dùng ít.

Tăng giá điện tạo ra tác động “phí đẩy” đối với nền kinh tế: người sản xuất (không kể giá áp cho khu vực hành chính và kinh doanh dịch vụ tăng 20%) không bị ảnh hưởng; nhưng chi phí điện cao đối với người tiêu dùng sẽ tạo ra áp lực tăng giá của sức lao động là tiền lương, vì điện sinh hoạt là một đầu vào quan trọng của sức lao động, đặc biệt với người lao động thành thị và các khu công nghiệp. Việc tăng giá điện vào giờ cao điểm còn tệ hơn, vì theo luật lao động, người sử dụng lao động phải trả cao hơn cho những giờ lao động thấp điểm (tiền bồi dưỡng làm đêm, nghỉ giữa ca, phụ cấp ngoài giờ).

Tăng giá điện làm tăng áp lực chi đối với ngân sách nhà nước ảnh hưởng trực tiếp đến khu vực hành chính sự nghiệp vì điện là một đầu vào không thể cắt giảm của khu vực hành chính sự nghiệp.

Tăng giá điện tạo ra sự bất ổn trong nền kinh tế. Hơn cả xăng dầu, điện được sử dụng rộng rãi trong sản xuất và sinh hoạt, nên khi tăng giá sẽ tạo ra tác động tăng giá lan truyền, kéo theo lạm phát, thất nghiệp và sự thoái lui đầu tư.

Việt Nam là một nước mới bắt đầu giai đoạn tăng trưởng tương đối nhanh trong thời kỳ  hội nhập và cạnh tranh quốc tế, chỉ một cú hích tăng giá xăng dầu (ngoại kích) vừa qua đã đủ làm cả nền kinh tế phải khốn đốn, liệu rằng thêm một cú "nội công" tăng giá điện nữa thì nền kinh tế của chúng ta sẽ đi về đâu.Độc quyền ngành dược:

Hiện nay, trên thị trường dược phẩm, thuốc nhập ngoại chiếm tới 60%, còn thuốc sản xuất trong nước thì có trên 90% nhập nguyên liệu từ nước ngoài. Theo các chuyên gia, chính việc quản lý lỏng lẻo, để xảy ra tình trạng độc quyền đã đẩy giá thuốc bán trên thị trường Việt Nam lên cao hơn rất nhiều so với giá thuốc ở nước ngoài. Nhiều loại thuốc đang thịnh hành ở Việt Nam như Voltaren, Zaditen, Amaryl, Renitec, Dogmatil, Cordarone… giá bán lẻ tại Việt Nam cao gấp hàng chục lần so với giá bán lẻ ở Ai Cập. Dư luận rất bất bình về trách nhiệm của Bộ Y tế trong việc để một công ty nước ngoài “lách” luật một cách dễ dàng trong lĩnh vực mà Bộ Y tế phải quản lý. Trong báo cáo mới đây của đoàn thanh tra liên ngành Bộ Tài chính, Bộ Thương mại, Bộ Y tế thừa nhận: “Việc cho phép công ty Zuellig Pharma Vietnam được phân phối trực tiếp tại Việt Nam dẫn đến việc độc quyền phân phối, đặc biệt với những loại thuốc chuyên khoa sâu, đặc trị là một trong những nguyên nhân không thể kiểm soát được giá nhập khẩu các loại thuốc này”. Cũng theo đoàn thanh tra, giá thuốc nhập khẩu qua công ty Zuellig tăng 2%-12%, một số mặt hàng của Zuellig tăng 30%-60%. Riêng trong năm 2003 Zuellig đã tăng giá 157/549 mặt hàng thuốc. Ngoài ra, Zuellig còn cung cấp thuốc cho các đối tượng không được phép phân phối theo quy định tại các giấy phép đầu tư và các văn bản khác có liên quan của Bộ Y tế.

5

Page 6: Noi dung tieu luan   moi

Trong tổng số 500 loại thuốc nước ngoài tăng giá (theo kết quả của những cuộc thanh tra gần đây) thì đã có 157 loại thuốc do Công ty Zuellig Pharma Việt Nam (ZPV) phân phối. Thuốc do ZPV phân phối tăng giá với mức 2%-12%, thậm chí có loại tăng 30%-60% (giá bán sau 1/10/2003 so với giá bán trước đó).

Theo giấy phép số 08/GP-KCN-HN, ngày 29/3/1999 và các giấy phép đầu tư điều chỉnh với phạm vi hoạt động trong lĩnh vực dược do Ban Quản lý các khu công nghiệp và khu chế xuất Hà Nội cấp và các quy định có liên quan của Bộ Y tế thì ZPV chỉ được bán dược phẩm cho các doanh nghiệp trong nước có tư cách pháp nhân và chức năng kinh doanh dược phẩm.

Tuy nhiên, Thanh tra Bộ Y tế đã phát hiện, ZPV đã bán hàng cho các đối tượng mà mình không được phép phân phối như: nhà thuốc, bệnh viện... Song việc phân phối thuốc này lại được "hợp pháp hóa" bằng hình thức ký hợp đồng với Công ty cổ phần Dược liệu T.Ư 2 (Phytopharma). Hợp đồng có điều khoản "Phytopharma là bên bán lại các dược phẩm cho các khách hàng do ZPV chỉ định tùy theo từng thời điểm (các khách hàng) trong lãnh thổ, theo các điều khoản và điều kiện của hợp đồng này. Việc chỉ định cho Phytopharma mua các sản phẩm từ ZPV và bán lại các sản phẩm đó cho các khách hàng do ZPV xác định và với giá bán do ZPV quy định" (trích từ điều 01 Hợp đồng mua bán nguyên tắc ký ngày 25.5.2002 giữa Công ty cổ phần Dược liệu T.Ư 2 và Công ty TNHH Zuellig Pharma Việt Nam). Cơ quan thanh tra khẳng định, trên thực tế Phytopharma nhận thông tin chỉ định việc phân phối cho nhà thuốc, bệnh viện, bán lẻ, loại thuốc, giá cả... từ ZPV cung cấp. Phytopharma không trực tiếp thực hiện các công đoạn của quá trình phân phối mà chỉ xuất hóa đơn để cho nhân viên của ZPV tự xuất hàng, giao hàng từ kho của ZPV cho bệnh viện, nhà thuốc, bán lẻ và tự thu tiền.

Rõ ràng là bằng một động tác đơn giản là "mượn danh" (đúng hơn là thuê) một công ty trong nước, ZPV đã lách khỏi sự giới hạn của luật pháp và trở thành doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài duy nhất được quyền phân phối sản phẩm tại Việt Nam. Điều đó đã tạo cho công ty mẹ của ZPV là Zuellig Pharma Singapore (ZPS) có lợi thế hơn tất cả các công ty nước ngoài khác và là lý do để các nhà sản xuất lớn lựa chọn Zuellig là nhà phân phối độc quyền các sản phẩm của họ tại Việt Nam. Trong số 4.467 loại thuốc nước ngoài có số đăng ký với trên 900 hoạt chất thì số hoạt chất thuộc các thuốc do ZPS cung cấp vào Việt Nam đã lên tới 180 hoạt chất (trong đó, 97 hoạt chất chỉ duy nhất có 1 số đăng ký; khoảng 55 hoạt chất có từ 2 - 5 số đăng ký, 18 hoạt chất có 5 số đăng ký nhưng chỉ duy nhất do ZPS cung cấp). Đa số các thuốc do ZPS cung cấp là thuốc được bảo hộ về tên thương mại, nhãn hiệu hàng hóa.

Chỉ chưa đầy 3 năm được phân phối thuốc tại thị trường Việt Nam, ZPV đã giúp cho doanh thu của công ty mẹ tăng đáng kể. Doanh số của ZPS đứmg đầu trong tổng số các doanh nghiệp nước ngoài ký kết hợp đồng mua bán với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam. Cụ thể: năm 2001 khoảng 47 triệu USD, năm 2002 là 64 triệu

6

Page 7: Noi dung tieu luan   moi

USD và 9 tháng đầu năm 2003 là 51 triệu USD (doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu chỉ thực hiện dịch vụ nhập khẩu và hưởng phí ủy thác).

Việc ký hợp đồng phân phối sản phẩm giữa ZPV với Phytopharma có thể là không sai luật pháp, nhưng rõ ràng là không bình thường, vì chỉ riêng việc mượn danh một doanh nghiệp khác để phân phối sản phẩm cũng đã làm cho giá thuốc đội lên.Độc quyền sách giáo khoa:

Trước đây, điện thoại độc quyền, người dân phải trả giá tiêu dùng cao chót vót mà ngành BCVT vẫn kêu lỗ. Khi xoá độc quyền, người dân được hưởng dịch vụ điện thoại hiện đại nhất thế giới, trả giá tiêu dùng thấp. Hiện nay, vì điện độc quyền, người dân đang phải trả giá tiêu dùng dắt hơn các nước trong khu vực. Gần đây, dư luận đang gióng lên hồi chuông báo động về tình trạng độc quyền xuất bản sách giáo khoa.

Đã gần 50 năm nay, việc xuất bản SGK do một mình NXB Giáo dục đảm nhận. Với hơn 150 triệu bản mỗi năm, thị trường SGK được coi là thị trường tiềm năng. Nhưng thị trường này có thực sự rộng mở cho tất các NXB khác tham gia hay không, lại là vấn đề không dễ lý giải.

Theo ông Nguyễn Kiểm, Cục phó Cục xuất bản – Bộ VHTT, độc quyền tức là chỉ có một người có quyền sản xuất một mặt hàng nào đó. Khi chỉ có một người sản xuất thì người tiêu dùng khó có điều kiện để so sánh chất lượng cũng như giá của sản phẩm, đó là thiệt thòi đầu tiên mà người tiêu dùng phải gánh chịu. Trừ những mặt hàng Nhà nước chỉ định cho một đơn vị làm như in tiền…, còn những mặt hàng khác không liên quan đến an ninh chính trị hay an ninh quốc phòng, thì có thể mở rộng cho nhiều người làm.

Theo qui định, cứ một NXB nào đó chiếm giữ 30% thị phần thì được coi là độc quyền. Hiện tại, NXB Giáo dục đang chiếm lĩnh số bản sách in ra hàng năm chiếm 80% thị phần, đã vượt quá giới hạn qui định, nhìn vào đó chúng ta thấy rất rõ có độc quyền hay không độc quyền theo qui định của luật cạnh tranh. Để ra đời cuốn SGK phải trải qua các khâu biên soạn, thẩm định và in ấn. Theo điều 29 Luật Giáo dục năm 2005, Bộ GD&ĐT là cơ quan duyệt SGK để sử dụng chính thức, trên cơ sở thẩm định của Hội đồng quốc gia.

Cũng theo ông Nguyễn Kiểm, độc quyền SGK là sản phẩm của kế hoạch hóa tập trung. Chúng ta đang chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cần phải có cạnh tranh trong việc xuất bản SGK.

Tuy nhiên, với lý lẽ đảm bảo tính chuẩn mực của SGK, từ nhiều năm nay, Bộ GD&ĐT giao cả việc xuất bản SGK cho đơn vị trực thuộc, đó là NXB Giáo dục. Sau khi in xong, NXB Giáo dục sẽ giao cho các công ty sách, thiết bị trường học các tỉnh, thành (trực thuộc các sở GD&ĐT). Hàng năm có tới 22 triệu học sinh cắp sách tới trường, đây là đầu ra rất thuận lợi cho thị trường SGK, vì vậy số lượng sách mà NXB Giáo dục in ra là rất lớn, hơn 150 triệu bản mỗi năm.

Bên cạnh số lượng khổng lồ SGK và sách tham khảo, NXB Giáo dục còn độc quyền “Bộ đề thi và bộ đáp án” cho đề thi để bán mỗi năm gần 1 triệu bản cho thi sinh

7

Page 8: Noi dung tieu luan   moi

đại học (trong 10 năm liền, thậm chí có năm còn bán cả đính chính các lỗi trong bộ đề). Đặc quyền này đã đưa NXB Giáo dục lên hàng “đại gia” với doanh thu khổng lồ. Năm 2005, doanh thu của đơn vị này gần 870 tỷ đồng, chiếm quá nửa doanh thu của 47 NXB khác.

Ông Trần Đình Việt, Giám đốc, Tổng biên tập NXB Tổng hợp TP.HCM phát biểu: “Đấy là lợi thế rất lớn trong làm ăn đối với NXB Giáo dục. Cũng là NXB nhưng có NXB mỗi năm chỉ thu được mấy chục triệu, thậm chí thu không đủ chi. Khi xóa bỏ độc quyền xuất bản SGK, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho một số NXB có năng lực hoạt động”.

Ông Nguyễn Kiểm, Cục phó Cục xuất bản – Bộ VHTT nhấn mạnh: “Hiện nay, đầu sách xuất bản hàng năm của NXB Giáo dục dao động khoảng trên 4 ngàn tên sách, chiếm 1/4 tên sách xuất bản hàng năm của tất cả các NXB. Cho đến thời điểm này, có 52 NXB, trong đó một NXB chiếm giữ tới 20% về tên sách, và 80% về số bản thì đó là biểu hiện bất thường của hoạt động xuất bản trong một quốc gia.

2. Hệ quả của độc quyền:Trong một số trường hợp cụ thể, vì lý do phải đảm bảo lợi ích công cộng, vì tính

chất và điều kiện đặc thù nhất thời của một ngành hay lĩnh vực kinh tế (thí dụ sản xuất vũ khí hay các phương tiện bí mật nhà nước) cần thiết và có thể cho phép duy trì độc quyền trong một lĩnh vực với mức độ và điều kiện nhất định.

Bên cạnh trường hợp kể trên, thương trường còn biết đến những doanh nghiệp do sự lựa chọn độc đáo về ngành nghề kinh doanh, do thành công trong kinh doanh cũng như do nhiều lý do khác…mà bằng một cách hợp pháp và trung thực, vào một thời điểm nào đó, doanh nghiệp không có đối thủ cạnh tranh thực sự và nó trở thành một nhà độc quyền (độc quyền tự nhiên). Không có một Nhà nước hay pháp luật văn minh nào lại trừng trị những "gương sáng" trong kinh doanh này.

Ngoài ra, trong sự đặc thù Việt Nam, chúng ta còn biết đến một loạt các doanh nghiệp độc quyền sẵn có. Đó là một số các doanh nghiệp Nhà nước và một vài doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang chiếm vị thế độc quyền do "ngẫu nhiên" mà có.

Tuy nhiên, độc quyền sẽ tạo sự sơ cứng cho phát triển kinh tế và vì thế, pháp luật cạnh tranh luôn tỉnh táo đề ngăn cản và dẹp bỏ mọi toan tính độc quyền hóa. Thực trạng trên đây dẫn đến hệ quả ngoài kỳ vọng tốt lành của Nhà nước gửi gắm nơi các doanh nghiệp độc quyền, đó là môi trường kinh doanh ở Việt Nam trở nên đắt đỏ và kém hấp dẫn so với khu vực, đã được nêu lên nhiều lần trong đối thoại với các nhà đầu tư nước ngoài. Gần đây, tổ chức JETRO của Nhật Bản đã công bố một bảng so sánh cho thấy, cước phí điện thoại quốc tế, Internet, bốc xếp container v.v... của Việt Nam đắt hơn hẳn so với các nền kinh tế trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia. (Giá vé máy bay Hà Nội- Quảng Châu bằng giá vé Bangkok-Quảng Châu cộng chi phí 1 tuần ở Bangkok, cước vận tải container 40 feet từ Việt Nam đi Nhật Bản cao gấp 3 từ Singapore đi Nhật, phí vận hành, bốc xếp tàu 10.000 t ở cảng Sài Gòn 40.000 USD so với 20.000 USD ở Bangkok v.v...). Các chi phí này làm tăng giá

8

Page 9: Noi dung tieu luan   moi

thành sản phẩm, góp phần giảm năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và của cả những sản phẩm dịch vụ về tiềm năng có năng lực cạnh tranh như may mặc, da giày, du lịch v.v...Chất lượng dịch vụ cũng thấp so với khu vực. Theo điều tra của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương năm 2000, 56% khách hàng cho biết, họ bị cắt điện không được báo trước và điện áp thiếu ổn định, 90% khách hàng bị gián đoạn liên lạc điện thoại không dưới 3 lần trong 3 tháng gần nhất, 45% khách hàng mất hơn 10 ngày để lắp đặt điện thoại. Theo điều tra của Diễn đàn kinh tế thế giới, đa số doanh nghiệp phải đút lót mới được lắp điện, nước, điện thoại v.v... Các hiện tượng cửa quyền trong dịch vụ hàng không, bến cảng v.v... đã được báo chí phản ánh trong nhiều năm qua, nhưng những cải thiện chỉ diễn ra rất hạn chế và trong thời gian ngắn.

Mặt bằng giá của các sản phẩm độc quyền hay độc quyền nhóm, được bảo hộ cao như xi măng, đường mía, ô tô, xe máy v.v... đều cao hơn mức trung bình khu vực, trong khi thu nhập của người Việt Nam thấp hơn các nước đó, làm thiệt thòi cho người tiêu dùng. Trong khi đó, hàng nông sản không được bảo hộ, phụ thuộc giá thị trường thế giới lại thuộc loại rẻ nhất trong khu vực, làm giảm sút thu nhập thực tế của nông dân.

Do được độc quyền, cơ cấu giá khó kiểm tra, nên dẫn đến những hiện tượng trì trệ trong kinh doanh. Trong ngành Bưu Chính Viễn thông Việt Nam có 50 người làm việc trên 1000 đường điện thoại chính, trong khi ở Thái Lan chỉ số này là 7,3 người. Mức thất thoát điện trong truyển tải và phân phối ở Việt Nam hiện tại là 12,37%, ở Thái Lan là 6-9%. v.v.

Trong khi nền kinh tế chịu chi phí cao bất thường thì thu nhập thực tế của nhân viên trong các ngành Viễn thông, Điện, Hàng không đều rất cao, cộng thêm với mức độ phúc lợi đặc biệt của riêng ngành như có bệnh viện riêng, mỗi tỉnh có nhà khách riêng của ngành v.v... Hai người cùng tốt nghiệp đại học, nếu 1 người vào được ngành độc quyền làm việc có thể có thu nhập cao gấp 2-4 lần người làm ở cơ quan hành chính nhà nước.

Trong xã hội đã hình thành những ốc đảo với những lợi ích nhóm hay cục bộ rất mạnh, hoàn toàn không phù hợp với các nguyên tắc phân phối Xã hội Chủ nghĩa bình đẳng vẫn được giảng dạy trong các sách giáo khoa. Rõ ràng là, tình trạng độc quyền đã dẫn đến những hệ quả kinh tế xã hội rất không bình thường, cần được xem xét và xử lý nghiêm túc.

Đặc biệt tình trạng độc quyền SGK là một vấn đề phức tạp, ảnh hưởng đến chiến lược GD&ĐT của nước nhà. Tình trạng chỉ có một bộ SGK cho mọi đối tượng học sinh ở nhiều vùng miền khác nhau là bất hợp lý. Đáng nói hơn nữa là nó còn dẫn tới hậu quả mài mòn sự linh hoạt, sáng tạo trong việc dạy và học; không huy động được rộng rãi trí tuệ của nhiều người có tâm huyết và khả năng để làm ra những cuốn SGK hay. Mặt khác, khi có nhiều người cùng soạn SGK tất yếu có sự cạnh tranh, nỗ lực đầu tư nhằm tìm ra cách thức truyền đạt kiến thức tốt nhất và khi ấy, sự sai sót, vừa thừa

9

Page 10: Noi dung tieu luan   moi

vừa thiếu như từng gặp phải trong SGK hiện nay, sẽ giảm đi rất nhiều. Về phía quản lý nhà nước, cụ thể là với ngành giáo dục, một khi mở rộng việc biên soạn SGK, công việc quản lý sẽ phức tạp hơn, đòi hỏi trách nhiệm cao hơn. Tuy nhiên, khi ấy ngành giáo dục sẽ khẳng định chức năng chỉ đạo của mình trong quản lý, đổi lại, ngành giáo dục sẽ nhận được nhiều ý tưởng, sáng tạo và toàn diện hơn.

3. Nguyên nhân dẫn đến độc quyền:Trong khi Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khoá IX) đã quyết định “Không biến

độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp” thì các cơ quan nhà nước lại bảo hộ, bao che về mặt hành chính các hành vi độc quyền của doanh nghiệp, như có những thông tư của bộ này yêu cầu các doanh nghiệp phải tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp thuộc bộ hay giao cho tổng công ty, xây dựng quy hoạch phát triển ngành và mặc nhiên loại trừ mọi đối thủ cạnh tranh trong thời gian 10 năm sắp tới v.v... Các giả định cho rằng, các tổng công ty độc quyền sẽ thực hiện các nhiệm vụ được giao để điều tiết thị trường, giá cả hay vì mục tiêu xã hội như dự trữ và xuất khẩu gạo, cà phê, kinh doanh sách giáo khoa, vận chuyển và kinh doanh muối iốt, chất đốt v.v. ở các vùng sâu, vùng xa đã không mang lại hiêu quả mong muốn. doanh nghiệp độc quyền đã lợi dụng vị trí đó để mưu cầu lợi ích siêu ngạch, không hề do năng suất lao động mang lại. Việc kiểm soát giá do Ban Vật giá của Chính phủ đảm trách, nay thuộc về Bộ Tài Chính, đã không ngăn cản được bất kỳ yêu cầu tăng giá nào, dẫu yêu cầu đó có phi lý đến đâu chăng nữa! Việc ngừng tăng giá được Thủ tướng Chính phủ quyết định, luôn là kết quả của công luận và tiếng kêu cứu của doanh nghiệp nhỏ và vừa, là khách hàng và nạn nhân của các doanh nghiệp độc quyền đó. Trong khi, các nền kinh tế thị trường khác chế định các hoạt động kinh doanh quan trọng độc quyền bằng những Luật chuyên ngành (như Luật Viễn thông , Luật về vận tải hàng không dân dụng, Luật về điện), hoạt động kinh doanh của các sản phẩm dịch vụ đó của các tổng công ty ở Việt Nam chưa được chế định bằng luật, mà được quản lý bởi hệ thống pháp quy (cao nhất là nghị định); do chính cơ quan độc quyền soạn thảo, trong đó, chứa đựng không ít những đặc quyền được hành chính hoá. Nhà nước đầu tư trực tiếp từ ngân sách hay bằng nguồn vốn vay ưu đãi từ nguồn vốn trong nước hay nước ngoài, trực tiếp cho phép liên doanh với các đối tác nước ngoài, trực tiếp xử lý các vướng mắc trong kinh doanh, hoãn nợ, giãn nợ, khoanh nợ, giảm hay bù lãi suất khi cần thiết. Các tổng công ty được ưu ái, cưng chiều; đặc biệt, có quan hệ thân cận, các đề xuất đều được ưu tiên và trực tiếp giải quyết với mức ưu tiên cao nhất.

Cụ thể đối với ngành dược: chủ trương đăng ký chất lượng sản phẩm trước khi lưu hành ở Việt Nam nhằm mục đích tối thượng là bảo đảm an toàn cho người bệnh là một chủ trương đúng đắn của Bộ Y tế. Thế nhưng chủ trương đúng đắn đó đã bị bộ máy quan liêu của cơ quan quản lý ngành dược biến thành một cơ chế điều hành tù mù. Hai đặc điểm nổi bật của cơ chế tù mù đó là cố tình tạo ra những chỗ hở để lợi dụng và duy trì quan hệ "xin-cho".

10

Page 11: Noi dung tieu luan   moi

Theo quy định hiện hành, mỗi loại thuốc muốn lưu hành ở Việt Nam phải được Cục Quản lý dược cấp một số đăng ký, gọi là số visa. Số visa này được cấp cho các công ty dược có đăng ký hoạt động tại Việt Nam.

"Xin", đúng nghĩa là như vậy, được cấp số visa, phải có đủ các hồ sơ cần thiết, trong đó thứ nhất, phải có chứng từ xuất xứ của loại thuốc đó (C/O), thứ hai là phải có giấy kiểm nghiệm (CA), thứ ba là giấy chứng nhận sản xuất tốt của Viện Bào chế (GMP), thứ tư là giấy chứng nhận được phép lưu hành tại nước sản xuất (FOC), v.v... Việc nhập khẩu thuốc vào Việt Nam, ngoài thuốc được nhập theo số visa độc quyền, các doanh nghiệp còn được nhập theo chuyến đối với các loại thuốc chưa cấp số visa. Cục Quản lý dược xét duyệt từng chuyến một. Hồ sơ xin nhập khẩu cũng phải làm y hệt như hồ sơ xin cấp số visa. Nhưng nhập chuyến thì có số lượng được xác định và thời hạn thực hiện chỉ trong vòng 1 năm. Thuốc nhập theo con đường này tuy vẫn được phép lưu hành nhưng gặp hai hạn chế lớn: không được đưa vào bệnh viện và rất ít khi được bác sĩ kê toa.

Tuy nhiên, theo một số doanh nghiệp nhập khẩu thuốc, để được cấp giấy phép nhập khẩu một chuyến như vậy cũng phải mất 1.000 USD cho "đường dây dịch vụ".Điều đáng lưu ý là số visa chỉ được cấp cho công ty dược có văn phòng đại diện tại Việt Nam mà không phân biệt công ty đó có phải là hãng bào chế thuốc hay không. Trước đây, các công ty dược trong nước không được cấp, họ muốn nhập khẩu thuốc thì phải "mua" lại số visa của công ty nước ngoài. Được cấp số visa, có nghĩa là anh được độc quyền lưu hành tên thuốc đó tại Việt Nam, độc quyền một cách tuyệt đối. Đó là nguyên nhân của các nguyên nhân làm cho giá thuốc (ngoại nhập) ở Việt Nam bị đẩy lên hàng cao nhất thế giới.

Những người đi "xin" số visa ai cũng biết có đường dây ma quỷ đó, nhưng bóc trần đường dây đó hầu như là một việc không thể, vì nó không để lại một dấu vết nào. Bởi vậy, muốn xóa đường dây đó chỉ có cách là xóa bỏ cơ chế nuôi dưỡng nó mà thôi.

III. Giải pháp đề ra:* Đối với ngành điện lực:Trong lý thuyết, các nhà kinh tế học đã chỉ ra rằng có rất nhiều biện pháp để giải

quyết vấn đề cân đối cung – cầu trong trường hợp thiếu cung. Thứ nhất, tăng đầu tư dẫn đến lượng cung trong dài hạn. Thứ hai, tăng hiệu quả sử dụng để tiết kiệm lượng tiêu thu, hay giảm lượng cầu. Thứ ba, tăng giá bán dẫn đến tăng cung và giảm cầu. Và cuối cùng là áp dụng phối hợp các biện pháp, trong đó tăng giá là giải pháp tối kiến nhất, đi ngược lại với xu thế phát triển chung của các nền sản xuất.

Điện là một thứ hàng hoá đặc biệt, và điện lực là một ngành cơ yếu của nền kinh tế. Do đó những động thái của ngành điện cũng như can thiệp của nhà nước đối với vấn đề này cần phải rất thận trọng. Trước vấn đề tăng giá điện, chúng ta hãy nên cân nhắc giữa cái được và mất của ngành điện, ngân sách nhà nước, của người sản xuất lẫn người tiêu dùng, của môi trường đầu tư và việc điều chỉnh trong một ngành. Chỉ cần riêng ngành điện thôi hay nên lôi kéo cả nền kinh tế vào vấn đề cân đối cung cầu về

11

Page 12: Noi dung tieu luan   moi

điện. Như vậy, trước khi thực hiện các hành động đối với giá điện và ngành điện, nên lưu ý một số vấn đề sau:

Trước hết, phải xác định xem ngành điện đã tiết kiệm chưa? Để làm được điều này, ngành điện phải công khai tài chính. Trước khi bắt phần còn lại của nền kinh tế phải tiết kiệm, thì hãy để cho ngành điện thực hành tiết kiệm trước đã: nếu lương quá cao thì cắt giảm lương. Cách làm này không ảnh hưởng nhiều, vì tỷ lệ thất nghiệp của chúng ta đang còn rất cao.

Thứ hai, phải xác định xem ngành điện đã thực sự sản xuất điện một cách có hiệu quả chưa, đã đạt hết công suất chưa, đã đầu tư khai thác hết tiềm năng về điện chưa? Việc quản lý phân phối điện đã hợp lý và hiệu quả chưa?  Trước khi yêu cầu toàn bộ phần còn lại của nền kinh tế sử dụng điện hiệu quả hơn, thì cần phải đảm bảo rằng ngành điện đã đạt hiệu quả hết cỡ rồi.

Thứ ba, phải tính toán được những lợi ích thu được và chi phí của việc tăng giá điện.  Ngành điện thu thêm được bao nhiêu, đóng góp cho ngân sách bao nhiêu, tích lũy đầu tư mở rộng sản xuất điện được bao nhiêu, những đối tượng sản xuất nào có thể tiết kiệm chi phí hay tăng chi phí từ việc tăng giá điện? Trước khi thực hiện các điều chỉnh, hay các can thiệp thì cả ngành điện và nhà nước cần phải đưa ra được các con số thực tế thuyết phục. Có như thế mới đảm bảo ích nước lợi nhà từ điều chỉnh này.

Thứ tư, Phải xác định được những giải pháp phối hợp hoặc thay thế việc tăng giá điện. Chính phủ và ngành điện phải giải bài toán tối ưu hoá giữa việc tăng giá điện, nhập khẩu điện hay tăng lượng điện thông qua việc khuyến khích đầu tư (trong nước và ngoài nước) sản xuất điện, trong ngắn hạn và trong dài hạn.

Trong khi kêu gọi mọi đối tượng phải sử dụng tiết kiệm điện, tăng giá để tiết kiệm điện, thì ngành điện lại lờ đi chuyện phải tiết kiệm của chính mình. Để cho công bằng thì cả hai bên phải cùng tiết kiệm: người tiêu dùng thì xài ít đi, và trả nhiều tiền hơn. Tương tự, ngành điện cũng phải cắt giảm chi phí, cắt giảm lương và tăng lượng cung ứng, như thế mới đúng kiểu kinh tế thị trường.

* Đối với ngành dược:Thứ nhất, cần mở nhanh dịch vụ bảo hiểm y tế: không phải ai cũng ốm đau, nhưng

mọi người cần dành một phần tiền để bảo hiểm nhỡ khi đau yếu. Số tiền bảo hiểm này được sử dụng cho những người đang cần chạy chữa thuốc thang. Dịch vụ bảo hiểm này phải do các công ty bảo hiểm thực hiện chứ không phải Bộ Y tế, phải hiểu đây là một nghiệp vụ kinh doanh.

Thứ hai, các loại thuốc kháng sinh, bảng độc ...bắt buộc phải bán theo đơn của bác sĩ; các loại thuốc bổ, thuốc cảm, vitamine các loại khác...không phải bán theo đơn bác sĩ thì được kinh doanh tự do (bán tại các nhà thuốc, siêu thị...). Bộ Y tế chịu trách nhiệm qui định loại nào được bán tự do, loại nào phải theo đơn kê của bác sĩ. Khi mua thuốc theo đơn kê của bác sĩ bệnh nhân có bảo hiểm y tế được giảm giá thuốc theo tỷ lệ đã thoả thuận với công ty bảo hiểm (ở Mỹ bệnh nhân thường chỉ phải trả 30 % tiền

12

Page 13: Noi dung tieu luan   moi

thuốc, chính vì vậy tất cả mọi người đều mua bảo hiểm), nhà hàng thuốc sau đó sẽ lấy lại số tiền chênh lệch này từ công ty bảo hiểm.

Qua cách làm này công ty bảo hiểm sẽ kiểm soát được giá bán thuốc của cửa hàng cũng như đơn kê của bác sĩ. Công ty bảo hiểm chỉ định hệ thống bệnh viện cũng như nhà hàng bán thuốc, họ sẽ chấm dứt hợp đồng với bệnh viện nếu bác sĩ bệnh viện đó không trung thực kê thuốc nhiều lên so với bệnh án, tương tự hợp đồng với quầy thuốc cũng sẽ chấm dứt nếu nhà thuốc bán thuốc cao hơn giá thị trường (vì hai hành động trên đều làm giảm thu nhập của công ty bảo hiểm). Thực ra cách làm này hiện nay đều được các nước áp dụng.

Vấn đề giá thuốc tăng không phải là do một vài nhà thuốc tự động tăng giá mà là do tình trạng độc quyền trong cung cấp. Điều này dẫn đến người tiêu dùng (bệnh nhân) bị hạn chế trong việc tiếp cận mặt hàng mà mình có nhu cầu (thuốc chữa bệnh). Bảo hiểm y tế chỉ giúp người bệnh trang trải bớt chi phí thuốc men và việc chỉ định bác sỹ và nhà thuốc chỉ giúp các công ty bảo hiểm đảm bảo lợi ích của họ. Tiêu chí lựa chọn nhà thuốc của công ty bảo hiểm là độ tin cậy cao và giá cả hợp lý để tránh bệnh nhân cấu kết với nhà thuốc, trong khi tiêu chí của bệnh nhân là giá cả thấp nhất (giả định rằng loại thuốc đã được chỉ định bởi bác sỹ).

Lập luận của những người ủng hộ việc duy trì độc quyền trong cung cấp thuốc có lẽ là để đảm bảo an toàn cho người bệnh. Tuy nhiên, nếu dựa vào lập luận này thì giải pháp là công nhận các loại thuốc được phép lưu hành trên thị trường Việt Nam chứ không phải là công nhận nhà cung cấp được phép lưu hành loại thuốc đó. Điều này sẽ dẫn tới việc không hạn chế số lượng nhà cung cấp, tạo ra một thị trường có tính cạnh tranh cao hơn và giá thuốc sẽ giảm.

Một vấn đề khác là sự tham gia của các công ty dược phẩm Việt Nam trong các kênh phân phối thuốc. Lý do của việc này có lẽ là để tổng hợp các nhu cầu nhỏ lẻ trong nước tạo ra một đối trọng bên phía Việt Nam (độc quyền cầu) đối với nhà cung cấp nước ngoài để họ không tăng giá một cách vô lý. Trên thực tế, lập luận này không hợp lý khi nhu cầu trong nước đối với một loại biệt dược là tương đối ổn định và không biến động nhiều theo giá, trong khi số lượng nguồn cung từ bên ngoài thường rất ít do hạn chế về quyền sở hữu trí tuệ. Yêu cầu bắt buộc sự có mặt của một công ty Việt Nam nhất định chỉ góp phần tăng thêm chi phí trung gian, không có lợi cho bệnh nhân.

Lý do khác cho sự tham gia của các công ty Việt Nam là để đảm bảo cho việc tồn tại và phát triển của ngành dược phẩm. Tuy nhiên, dường như lợi ích của xã hội đã phải hy sinh quá nhiều cho việc này.

Với các loại biệt dược, cho dù bỏ độc quyền cung cấp vẫn chỉ có một số ít công ty được phép bào chế chúng, do vậy, các công ty này vẫn có quyền quyết định đối với giá cả. Tuy nhiên, giá cả các loại thuốc này ở Việt Nam sẽ xấp xỉ với giá cả ở các nước khác trên thế giới chứ không có tình trạng giá bán lẻ ở một số nước còn thấp hơn giá bán buôn tại Việt Nam.

13

Page 14: Noi dung tieu luan   moi

Vấn đề giá thuốc cao không phải là vấn đề của riêng Việt Nam mà của cả thế giới do thuốc là một lĩnh vực chịu ảnh hưởng rất nhiều của quyền sở hữu trí tuệ. Một khi một công ty tạo ra một loại thuốc và đăng ký quyền sở hữu trí tuệ, các công ty khác cho dù có biết công thức để tạo ra nó cũng không thể sản xuất trong một khoảng thời gian nhất định gọi là thời gian bảo hộ. Chỉ sau thời gian bảo hộ, các công ty mới có thể sản xuất ra những loại thuốc tương tự. Điều này đang là vấn đề tranh cãi gay gắt giữa các nước đang phát triển và các hãng bào chế dược phẩm. Các nước đang phát triển tố cáo các hãng bào chế chỉ vì mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, tăng giá thuốc bất hợp lý khiến người bệnh mắc các bệnh nan y ở các nước đang phát triển không đủ khả năng để mua. Các hãng bào chế cho rằng đó là việc tăng giá hợp lý để đầu tư cho nghiên cứu và phát triển, tìm ra những loại thuốc mới để cứu người bệnh.

Tóm lại, giải pháp cho việc giảm giá thuốc để nhiều bệnh nhân có thể mua được là:1. Chỉ cấp đăng ký cho thuốc và nhà bào chế thuốc, không cấp đăng ký cho nhà

cung cấp. Nếu vẫn muốn ràng buộc trách nhiệm của nhà cung cấp, có thể cấp phép cho nhà cung cấp khi lần đầu họ tiến hành nhập khẩu. Việc cấp phép đó có thời hạn giá trị tương đương với thời hạn đăng ký của thuốc, không hạn chế nhà cung cấp.

2. Đảm bảo nghiêm minh việc thực thi các quy định, ngăn chặn sự trục lợi của liên minh giữa nhà cung cấp-bệnh viện-nhà thuốc.

3. Hợp tác với các nước đang phát triển khác xây dựng cơ chế trao đổi và theo dõi giá các loại thuốc, đặc biệt là các loại biệt dược tại các nước. Ban hành quy định kiểm soát giá thuốc không được tăng quá một biên độ nhất định với giá cả trung bình của thế giới với các chế tài xử lý vi phạm nằm trong luật cạnh tranh (chống độc quyền).

4. Tham gia tích cực cùng với các nước đang phát triển và các tổ chức phi chính phủ yêu cầu nới lỏng quy định về quyền sở hữu trí tuệ đối với lĩnh vực dược phẩm.

5. Đối với việc giải quyết hậu quả của việc giá thuốc tăng quá cao như hiện tại, nếu Chính phủ kiên quyết có thể hủy bỏ ngay yêu cầu về cấp đăng ký cho nhà cung cấp, cho phép các nhà cung cấp khác tham gia thị trường đối với những loại thuốc đã đăng ký.

* Đối với độc quyền phát hành SGK:Thứ nhất, không nên thay SGK sớm và nhiều như thế. Thứ hai, mỗi lần tái bản hay sửa đổi, chỉ nên in thêm phần sửa đổi rời ra, còn vẫn

sử dụng lại sách cũ. Thứ ba, nên áp dụng chính sách cho thuê, mượn SGK như nước ngoài (Việt Nam

đã từng áp dụng chính sách cho mượn SGK), do đó không nên có chuyện làm bài tập trong SGK.

Thứ tư, sách tham khảo không nên độc quyền, độc quyền in SGK đã “nặng” lắm rồi. Ở nước ngoài, SGK không bao giờ chỉ có một bộ, trừ các nước đang phát triển, do tư nhân biên soạn, do nhiều NXB ấn hành. Ví dụ: Ở Nhật Bản, sách giáo khoa được viết rất nhiều, nhưng đến mỗi mùa hè, người ta tổng hợp thông tin về “cầu” trong năm học tới để điều chỉnh số lượng từng loại cho phù hợp. Ở Nga, sách giáo khoa cũng

14

Page 15: Noi dung tieu luan   moi

được viết và xuất bản thoải mái, nhưng có một hội đồng của Bộ Giáo dục duyệt nội dung, cuốn nào đạt thì được cấp chứng nhận, coi như một sự “dán tem” đảm bảo về chất lượng. Ở gần chúng ta, Singapore cũng cho phép xuất bản tự do, nhưng trên thực tế cũng chỉ có một số ít sách được thị trường lựa chọn, và sau một thời gian sẽ bị thay thế.

Việc xóa độc quyền xuất bản sách giáo khoa phải đi theo một lộ trình rõ ràng, phải thống nhất nhận thức và khởi động. Chúng ta cũng không thể làm ngay mà ít nhất cần phải có khoảng ba, bốn năm chuẩn bị. Đó là khoảng thời gian cần thiết để các nhà làm sách có đủ thời gian và điều kiện chuẩn bị cho việc viết những cuốn sách giáo khoa thực sự có chất lượng.

Trong khi các biện pháp mở rộng diện doanh nghiệp cùng kinh doanh các sản phẩm, dịch vụ này, thông qua cạnh tranh mà xoá bỏ độc quyền, hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, hiện đại hoá công nghệ như đã diễn ra ở hầu hết các nền kinh tế thị trường (đối với hàng không, viễn thông v.v...) thì lại còn quá xa với đối với thực tế nước ta hiện nay. Vì lợi ích chung của nền kinh tế quốc dân như nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư, kinh doanh, cần cấp bách ban hành các văn bản pháp quy ở tầm pháp lệnh hay luật, chế định các quy tắc hành vi kinh doanh của các ngành độc quyền như các nước trên thế giới đã làm và mang lại hiệu quả như Luật về Viễn thông của Đức, Singapore, Luật về Hàng không của New Zealand v.v... Luật cần chế định hành vi không phân biệt đối xử đối với khách hàng, các nghĩa vụ của người cung cấp dịch vụ và khách hàng, chất lượng của dịch vụ (sửa điện thoại trong mấy giờ, nối lại cung ứng điện trong bao lâu v.v...). Việc để các doanh nghiệp độc quyền lớn và quan trọng như vậy hoạt động thiếu sự giám sát cần thiết, rõ ràng là một thiếu sót.

Việc kiểm soát giá cần được nâng cao hiệu lực so với hoạt động của Ban Vật Giá trong Bộ Tài chính hiện nay, cần thông qua một hội đồng tư vấn có sự tham gia rộng rãi của các chuyên gia, của khách hàng và người tiêu dùng, có sự giám sát của Uỷ ban Kinh tế và Ngân Sách của Quốc hội và Mặt trận Tổ quốc và các cơ quan báo chí. Kết quả chắc chắn sẽ là loại trừ và giảm bớt được nhiều chi phí không đáng có và các tổng công ty đó sẽ lành mạnh hơn về nhiều mặt.

Thực hiện kiểm toán bắt buộc, định kỳ đối với tất cả các doanh nghiệp độc quyền theo thông lệ quốc tế, vì là công ty độc quyền, báo cáo kiểm toán cần được đệ trình các Uỷ ban tương ứng của Quốc hội xem xét và công bố cho công luận biết, để rút ra những kết luận thích đáng.

Trong một tương lai không xa, khi thực hiện các cam kết hội nhập theo AFTA, Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ và WTO, rất nhiều sản phẩm, dịch vụ nay còn độc quyền sẽ phải đối mặt với cạnh tranh quốc tế gay gắt. Thay vì cố gắng níu kéo sự ưu đãi và bảo hộ trên vị trí độc quyền càng lâu càng khoẻ như hiện nay, các tổng công ty độc quyền nên sớm chuẩn bị cho cuộc cạnh tranh đó để có thể trụ vững và

15

Page 16: Noi dung tieu luan   moi

nâng cao hiệu quả cho nền kinh tế. Đó là đòi hỏi và mong ước của người kinh doanh và người dân.

16