NIỀM TIN BẤT HOẠI - thuvienhoasen.org · niềm tin trong sáng và thuần tịnh, thì khi...
Transcript of NIỀM TIN BẤT HOẠI - thuvienhoasen.org · niềm tin trong sáng và thuần tịnh, thì khi...
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 1
Thích Thái Hòa
NIỀM TIN BẤT HOẠI
ĐỐI VỚI ĐỨC PHẬT
NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC
2 Thích Thái Hòa
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 3
Mục Lục
LỜI GIỚI THIỆU ................................................. 5
LỜI NÓI ĐẦU ...................................................... 7
Chương 1. DẪN NHẬP VÀ Ý NGHĨA ............. 13
Chương 2. TRUYỀN THỪA .............................. 22
Chương 3. MƯỜI PHẨM TÍNH ...................... 194
Chương 4. BỐN VÔ SỞ ÚY ........................... 291
Chương 5. MƯỜI TRÍ LỰC ............................. 296
Chương 6. MƯỜI TÁM PHÁP BẤT CỘNG ... 301
Chương 7. NIỀM TIN VÀ TỔNG KẾT ........... 308
PHẦN CHÚ THÍCH ......................................... 329
TƯ LIỆU THAM KHẢO ................................. 362
4 Thích Thái Hòa
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 5
LỜI GIỚI THIỆU
Thầy Thái Hòa, sau một thời gian dài học tập,
nghiên cứu và thực hành Phật giáo, có biên tập
cuốn “Bốn Niềm Tin Bất Hoại” với nội dung nói
lên ý nghĩa và niềm tin kiên cố đối với Phật, Pháp,
Tăng và Giới của người đệ tử Phật.
Tập sách này, tôi đã đọc bản thảo và thấy rằng có
tính nghiên cứu, tổng hợp và thực hành.
Vậy, tôi có lời tùy hỷ và giới thiệu tập sách này
với toàn thể Tăng, Ni và Phật tử.
Linh Mụ, mùa Phật Thành Đạo năm 1985
Thích Đôn Hậu
6 Thích Thái Hòa
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 7
LỜI NÓI ĐẦU
Mọi người có thể đến với đạo Phật bằng tôn giáo,
triết học, văn học, giáo dục, chính trị, xã hội,…
Nhưng dù đến bằng thể cách nào, dạng thức nào,
chúng ta cũng có thể hội tụ nó vào hai mặt, đó là
tri thức và niềm tin.
Hay nói như trường phái Satyasiddhi của
Harivarman là mọi người có thể đến với đạo Phật
bằng “Tùy tín hành” và “Tùy pháp hành”.
Tùy tín hành là đến và thực hành đạo Phật bằng
niềm tin.
Tùy pháp hành là đến và thực hành đạo Phật sau
khi đã có sự học hỏi và chiêm nghiệm.
Đến với đạo Phật bằng con đường tri thức hay con
đường Tùy pháp hành không phải là điều phổ biến
đối với mọi người. Vì mọi người không phải ai
8 Thích Thái Hòa
cũng có đủ khả năng để loại suy trước khi tin, mà
phần nhiều tin trước khi loại suy.
Do vậy, mọi người phần nhiều đến với đạo Phật
bằng niềm tin hay bằng Tùy tín hành. Vì tín là yếu
tố quyết định cho mọi hành động hướng về.
Đối với người học Đạo, hành Đạo, niềm tin không
thể thiếu. Điều đó là hẳn nhiên. Nếu thiếu, thì
không thể thực hiện được lý tưởng của mình.
Nhưng có niềm tin mà niềm tin ấy không đặt trên
một nền tảng vững chắc, không có một định
hướng thì chắc chắn niềm tin ấy sẽ đưa người học
Đạo, hành Đạo đến những kết quả sai lầm vô ích
và sụp đổ.
Đặt niềm tin đúng vào điểm tựa vững chắc, chính
là vấn đề thiết yếu cho người học Đạo và hành
Đạo lúc này, lúc mà lịch sử nhân loại không trong
sáng về tư tưởng, về tôn giáo, văn hóa, giáo dục,
chính trị, kinh tế,… lúc mà lương tri và lương tâm
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 9
của con người bị khuấy nhiễm bởi những thế lực
vô minh, bởi những hành động sát hại, hơn thua,
thắng bại.
Bởi vậy, mọi sự sinh hoạt của con người là giả
hiệu từ bản chất; con người đã suy tư trong chiều
hướng hơn thua, lừa phỉnh, đã hành động để sát
phạt nhau in tuồng như thú tính phi nhân, đã phát
ngôn theo lối điêu ngoa và xảo quyệt.
Nói khác, con người đang đứng trước một nền luân
lý không thuần hiệu, không nhân bản. Vì vậy, con
người đã nghi ngờ nhau đến nỗi phải hiệp định,
phải thác ngôn, phải thỏa ước… Chính những dấu
hiệu này chứng minh rằng, con người không có
chút tin tưởng nhau nào trong cuộc sống.
Xác định niềm tin và hướng đi của người học Đạo
và hành Đạo trong lúc này, chính là vai trò của
“Tứ Bất Hoại Tín” (Abhedyaprasāda), nghĩa là
bốn niềm tin không bị hủy hoại, không bị lay
10 Thích Thái Hòa
chuyển bởi những không điểm và thời tính.
Bốn niềm tin này, A Tỳ Đạt Ma Pháp Uẩn Túc
luận gọi là “Tứ chứng tịnh” (Avetyaprasāda), tức
là niềm tin trong sáng và thuần tịnh đối với Phật
(Buddha), đối với Pháp (Dharma), đối với Tăng
(Saṅgha), đối với Thánh giới (‟Sīla).
Bốn niềm tin phát khởi bằng con đường tự nguyện,
chứ không bằng con đường quyền uy áp đảo. Tự
nguyện đến với đạo Phật, tự nguyện thực hành đạo
Phật, để rồi tự thân chứng nghiệm đạo Phật. Sự
chứng nghiệm càng sâu thẳm bao nhiêu, thì niềm
tin lại càng trong sáng và thuần tịnh bấy nhiêu.
Khi nào người học Đạo và hành Đạo có được
niềm tin trong sáng và thuần tịnh, thì khi ấy, người
đó có được niềm tin vững chắc, ý chí quyết định,
hướng đi chân xác và có điểm nương tựa an toàn
để đi đến Giác ngộ, thành tựu Niết bàn.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 11
Trừ khi những ai không muốn đi đến Giác ngộ và
Niết bàn, thì họ có thể tin tưởng và nương tựa bất
cứ nơi nào khác. Còn những ai muốn thành tựu
Giác ngộ và Niết bàn, thì ngoài bốn niềm tin này
ra, không còn có niềm tin và sự nương tựa nơi nào
khác hơn nữa cả.
Trong sự nghiệp mong cầu Tuệ giác, thành tựu
Niết bàn, bốn niềm tin này đưa người học đạo và
hành đạo vượt qua những trở ngại của đời sống
nội tâm và ngoại cảnh một cách dễ dàng, để thành
tựu những gì cần thành tựu, chứng đắc những gì
cần chứng đắc.
Bốn niềm tin ấy, chúng tôi đã khảo cứu và tuần tự
biên thành bốn tập:
- Tập I: Niềm tin bất hoại đối với đức Phật
- Tập II: Niềm tin bất hoại đối với Pháp
- Tập III: Niềm tin bất hoại đối với Tăng
12 Thích Thái Hòa
- Tập IV: Niềm tin bất hoại đối với Thánh giới
Những tập này, với hy vọng khiêm tốn là được
làm người bạn chân tình đối với những ai muốn
tin, hiểu và thực hành Phật giáo.
Ở trong cuốn sách này có những điểm nào ưu việt,
thì đó là nhờ ân đức giáo dưỡng của Thầy và bạn
chúng tôi. Trái lại, có những lầm lẫn nào, thì đó là
sự vụng về của tôi.
Thích Thái Hòa
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 13
Chương 1
DẪN NHẬP VÀ Ý NGHĨA
Trên thực tế, khi con người giáp mặt với cuộc đời,
đối đầu với thực tại khách quan vô cùng phức tạp,
nhiều lúc con người tự nhận mình quá bé bỏng về
khả năng và tri thức, nên khó có thể vượt qua
những hiện tượng đó. Từ sự nhận thấy khả năng
giới hạn của mình, con người đã bằng lòng với
những định mệnh, thiên mệnh, với những sắp xếp
an bài của những thế lực ngoại tại… Nên một trận
cuồng phong, một cơn sấm sét, một hiện tượng dị
kỳ, một cơn tai biến…, tất cả những hiện tượng đó
đối với con người hình như là những tai họa có
tính thần bí. Bởi vậy, con người đã bị khuất phục
và đầu hàng trước thiên nhiên, trước những khó
khăn phức tạp, và mong tìm sự trú ẩn an ổn vào
thần linh như kinh Dhammapada nói:
14 Thích Thái Hòa
“Loài người sợ hoảng hốt
Tìm nhiều chỗ nương tựa
Hoặc rừng rậm núi non
Hoặc vườn cây rừng tháp”.1
Sự nương tựa mơ hồ và yếu đuối như thế, hẳn nhiên
chẳng có chút bảo đảm và an toàn, chẳng có sự lợi
ích gì cho sự tự giác và tự chủ, và lại càng không có
lợi ích cho sự hướng đến Giác ngộ và Niết bàn:
“Các chỗ nương tựa ấy
Không nương tựa an ổn
Không nương tựa tối thượng
Không thoát mọi khổ đau”.2
Khổ đau là bản chất hiện hữu thường trực của kiếp
sống con người. Đây là một sự nhận định, một sự
hiểu biết đúng như thực tại chính nó. Hay nói cách
khác, chính nó là thực tại của thế giới này, dù
1 Dhammapada 188
2 Dhammapada 189
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 15
chúng ta có biết đến nó hay giả vờ quên nó, thì nó
cũng hiện hữu như chính nó đã hiện hữu. Bởi vậy,
Giác ngộ và Niết bàn là đích điểm cho sự thoát
khổ hướng đến. Hướng đến cũng chính là sự trở
về, sự kính ngưỡng, sự khát vọng ở nơi Phật, ở nơi
Pháp, ở nơi Tăng và ở nơi Thánh giới.
Ngoại trừ bốn điểm nương tựa này ra, thì không
còn có điểm nương tựa nào khác hơn, cho người
học Đạo, hành Đạo tin tưởng và nương tựa, để khơi
dậy chí nguyện mong cầu sự Giác ngộ và Niết bàn,
cũng như sự nuôi dưỡng chí nguyện ấy.
Trong Phật Pháp, điệp khúc ca ngợi muôn đời
cũng chính là sự tin tưởng và nương tựa ở nơi bốn
điểm này:
“Thật nương tựa an ổn
Thật nương tựa tối thượng
Có nương tựa như vậy
Mới thoát mọi khổ đau”.3
3 Dhammapada 192
16 Thích Thái Hòa
Thoát khỏi mọi khổ đau là khi con người phát
triển niềm tin và đặt niềm tin đúng hướng. Nếu
không có niềm tin, thì không có đà sống. Đà sống
đã không, thì sự sống trở nên khô cằn, héo hắt và
nhiều lúc vô nghĩa. Bởi vì, trong kinh Hoa nghiêm
đức Phật dạy: “Niềm tin là nguồn gốc của Đạo, là
mẹ của mọi công đức, nuôi lớn mọi căn lành”.
Nên người nào không có niềm tin, chính người ấy
không có căn lành, không có đà sống.
Và kinh Hoa Nghiêm đã nhấn mạnh tầm mức quan
trọng của niềm tin như sau: “Nếu rời khỏi tín căn, tâm
thấp kém, ưu tư và hối hận, công hạnh không đầy đủ,
thoái mất sự tinh cần. Đối với thiện căn mà tâm đã
sanh sự đình trụ, đối với một ít công đức mà đã tự cho
là đủ, không thể thiện xảo phát khởi hạnh nguyện”.
Lại nữa, trong Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, Tín căn
và Tín lực là hai yếu tố đứng đầu của Ngũ căn và
Ngũ lực. Chính nó là những yếu tố tích cực làm
phát triển thiện căn, dẫn dắt con người vào Đạo và
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 17
thực hành Chánh đạo.
Hay nói theo luận Đại Trí Độ, “Phật Pháp mênh
mông như biển cả, con người có thể dùng niềm tin
để đi vào”.
Nhưng niềm tin do đâu mà phát khởi? Niềm tin
phát khởi do bốn trường hợp.
1. Do hiện kiến: Niềm tin phát khởi là do nhìn
thẳng vào hiện thực, nghĩa là nhìn thấy sanh, lão,
bệnh, tử... là những sự thật của khổ. Đó là những
sự khổ hiển nhiên mà mọi người ai cũng thấy và
cũng biết. Do thấy và biết như vậy, nên phát khởi
niềm tin rằng, Khổ đế là một sự thật hiển nhiên
của con người và của tất cả chúng sanh.
2. Do chiêm nghiệm và loại suy: Niềm tin phát
sinh là do chiêm nghiệm và suy luận, nghĩa là dựa
vào một sự kiện, một kết quả thực tế để suy
nghiệm nguyên nhân. Chẳng hạn, dựa trên Khổ đế
18 Thích Thái Hòa
để suy nghiệm nguyên nhân của khổ là Tập đế và
tin tưởng rằng Tập đế là nguyên nhân của mọi sự
khổ đau.
3. Do kinh nghiệm và thực hành: Niềm tin phát
sinh là do kinh nghiệm của cuộc sống và do sự
thực hành. Chẳng hạn, do thực hành Đạo đế và có
những kinh nghiệm trong sự thực hành ấy, nên tin
rằng, Đạo đế là con đường thoát khổ, con đường
dẫn đến sự hạnh phúc và an lạc.
4. Do dựa vào lời nói của bậc Thánh: Niềm tin
phát sinh là do dựa vào lời nói của bậc Thánh trí.
Chẳng hạn, đức Phật nói Diệt đế là cảnh giới hạnh
phúc an lạc tối thượng; do lời nói ấy của đức Phật
làm phát sinh niềm tin cho những đệ tử của Ngài.
Và những đệ tử của Ngài tin tưởng tu tập để đạt
được cảnh giới hạnh phúc ấy.
Vậy, con người muốn thoát khỏi khổ đau là khi
con người phát khởi niềm tin và đặt niềm tin đúng
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 19
vào điểm tựa. Và điểm tựa ấy lại bảo chứng cho
niềm tin.
Điểm tựa đầu tiên để cho niềm tin đặt vào đó là
Phật. Nhưng, Phật không phải là Thượng đế,
không phải là Phạm thiên, không phải là Thần
linh... Phật là một con người như tất cả mọi
người. Đã lấy con người làm nền tảng, nên trên
phương diện cấu hợp ngũ uẩn, mọi người có sắc,
thì Ngài cũng có sắc; mọi người có thọ thì Ngài
cũng có thọ; mọi người có tưởng thì Ngài cũng
có tưởng, mọi người có thức thì Ngài cũng có
thức. Nhưng mọi người có thể an phận, dừng lại
và bám chặt ở điểm này. Trái lại, Phật thì không
dừng lại và không bám chặt ở những điểm đó,
Ngài luôn luôn tinh cần nỗ lực, rèn luyện ý chí tự
giác của mình để tiến tới, và đã chuyển ích kỷ
thành vị tha, cố chấp thành vô ngã, vô minh thành
trí tuệ, hận thù thành từ bi, mê lầm thành giác
ngộ, sanh tử thành Niết bàn.
20 Thích Thái Hòa
Những yếu tố chuyển thành có tính cách cao đẹp
này, không phải chỉ hiện hữu nơi đức Phật một
thời điểm, mà mọi thời điểm đều được hiện hữu;
không phải chỉ biểu hiện nơi đức Phật một cử chỉ
mà mọi cử chỉ, mọi động tác của đức Phật đều
được biểu hiện. Do biểu hiện sự giác ngộ và Niết
bàn một cách thường trực trong cuộc sống mà
đức Phật được gọi là Phật, được gọi là đấng Thế
Tôn. Tất cả chư Phật và chúng sanh chỉ khác
nhau ở một điểm này và chỉ một điểm này. Phật
siêu việt không chung cùng với Thanh văn
(Srāvaka), Duyên giác (Pratyakabuddha) và Bồ
tát (Bodhisattva) cũng chỉ ở điểm này và cũng
chính ngay điểm này mà siêu việt.
Phật tính (Buddhatā) tất cả chúng sanh vốn có, tất
cả chúng sanh vốn là Phật, nhưng chỉ là Phật tạm
thời, vì sự biểu hiện Phật tính ấy của tất cả chúng
sanh không là thường trực. Nó chỉ biểu hiện khi
nào vắng mặt các phiền não, và khi nào có phiền
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 21
não thì Phật tính hết biểu hiện. Trái lại, sự biểu
hiện Phật tính nơi một đấng Giác ngộ thì không
phải như vậy, vì tất cả mọi tập khí phiền não
(vāsanakleśa) đã bị vĩnh viễn đoạn trừ, tất cả
những sở tri chướng (Jñeyāvarana) đã bị diệt tận.
Do đó, không lúc nào là lúc mà Phật tính nơi
đấng Giác ngộ không biểu hiện.
Vì thành tựu Phật tính và biểu hiện Phật tính một
cách thường trực như thế, nên Phật mới được
mệnh danh là Phật hay là đấng Giác ngộ. Và Ngài
là điểm tựa an toàn cho tất cả niềm tin giải thoát
và giác ngộ của hết thảy chúng sanh hướng đến.
22 Thích Thái Hòa
Chương 2
TRUYỀN THỪA
Bất cứ một sự kiện lịch sử nào, rồi nó cũng đều trở
thành những sự kiện siêu lịch sử. Sở dĩ, nó được
gọi là siêu lịch sử, vì nó đã vượt ra khỏi trí năng
của con người. Hay nói cách khác là vì trí năng
của con người không còn đủ khả năng để ý niệm
về nó.
Lịch sử bao giờ cũng được tạo nên bởi những cái
không phải lịch sử. Lịch sử đâu có phải là con
người, nhưng chính con người đã tạo nên lịch sử.
Lịch sử được tạo nên bởi những cái không phải là
lịch sử.
Và chính con người đã được tạo nên bởi những cái
không phải là con người. Tâm thức, các thể rắn,
lỏng, nhiệt, lực, không gian và thời gian đâu có phải
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 23
là con người, nhưng chính nó đã tạo nên con người.
Và thời gian cũng được tạo nên bởi cái không phải
nó. Những sự vận hành của các vật thể trong
không gian đâu có phải là thời gian, nhưng chính
những sự chuyển động đó đã tạo nên thời gian.
Do đó, ta muốn hiểu được cái gì, thì ta phải hiểu
những cái không phải là cái đó. Ta muốn hiểu lịch
sử là phải hiểu những cái không phải lịch sử và
những cái vượt ngoài lịch sử. Ta muốn hiểu con
người là phải hiểu những cái không phải con người
và những cái vượt ra khỏi con người. Ta muốn hiểu
thời gian là phải hiểu những cái không phải thời
gian và những cái vượt ra khỏi thời gian…
Cũng vậy, ta muốn hiểu đức Phật lịch sử, thì ta
phải hiểu những sự kiện không phải của đức Phật
lịch sử, và phải hiểu những đức Phật không phải
lịch sử. Chính những đức Phật siêu lịch sử đã tạo
nên đức Phật lịch sử.
24 Thích Thái Hòa
Đó chính là lý do tại sao, ở trong kinh
Mahāpadāna, đức Phật lịch sử đã nói lại hành
tung của chư Phật siêu lịch sử cho các đệ tử của
mình. Và đó cũng là lý do, khiến cho các đệ tử
thấy rõ sự chứng ngộ và truyền thừa Chánh pháp
của chư Phật quá khứ, hiện tại, và tương lai, để
cho niềm tin của họ vững vàng trên bước đường tu
tập và phụng sự Chánh pháp.
ĐỨC PHẬT VIPASSĪ (TỲ BÀ THI)
Danh hiệu Vipassī là đọc theo âm của Pāli, còn
theo âm của Phạn là Vipasyin.
Danh hiệu này, Hán phiên âm là Tỳ Bà Thi Phật,
Duy Vệ Phật, và dịch là Thắng Quán Phật, nghĩa
là đức Phật có sự quán chiếu đặc biệt; hoặc dịch là
Tịnh Quán Phật, tức là đức Phật có cách nhìn sâu
sắc và thanh tịnh; hoặc dịch là Thắng Quán Kiến
Phật, tức là đức Phật có cách thấy đặc biệt; hoặc
dịch là Chủng Chủng Kiến Phật, nghĩa là đức Phật
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 25
có cách nhìn thông suốt mọi vấn đề.
Đức Phật Tỳ Bà Thi xuất hiện vào kiếp Quá Khứ
Trang Nghiêm cách đây 91 kiếp, con của vua
Bandhumā (Bàn Đầu) và Hoàng Hậu Bandhumāti
trong dòng họ Koñdañña (Câu Ly Nhã), trong
chủng tánh Khattiya (Sát Đế Lợi) thuộc kinh thành
Bandhumāti và nhân loại lúc bấy giờ sống đến
80.000 năm.
Khi Ngài sinh ra đứng thẳng bằng hai chân, xây
mặt về hướng Bắc, có một lọng trắng che ở phía
trên, Ngài bước đi bảy bước nhìn khắp cả mười
phương mà tuyên bố:
“Aggo `ham asmi lokassa,
Jettho `ham asmi lokassa
Settho `ham asmi lokassa
Ayam antimā jāti natthi'dāni punabbhavoti”.
Nghĩa là:
26 Thích Thái Hòa
“Ta là bậc tối thượng ở trên đời!
Ta là bậc tối tôn ở trên đời!
Ta là bậc cao nhất ở trên đời!
Nay là đời sống cuối cùng, không còn tái
sinh ở đời này nữa”.
Bấy giờ, vua Bandhumā liền mời các vị Bà-la-
môn đoán tướng đến xem tướng Hoàng tử và họ
cho biết: “Hoàng tử có 32 tướng tốt của bậc Đại
nhân, nếu vị này ở đời sẽ làm Chuyển Luân Thánh
Vương, dùng Chánh pháp để trị nước an dân và
trong quốc gia có đầy đủ bảy thứ bảo vật; nếu vị
ấy xuất gia sẽ thành tựu đấng Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác, phá tan sự tăm tối cho đời”.
Hoàng tử sinh ra và lớn lên được vua cha cưng
chìu hết mức. Và Hoàng tử đã tỏ ra thông minh kỳ
lạ, đôi mắt của Ngài có thể nhìn khắp chung quanh
đến cả một do tuần cả ngày lẫn đêm và Ngài nhìn
sự vật không hề nháy mắt.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 27
Do đó, hoàng gia đã đặt tên Ngài là Vipassī, tức là
vị Hoàng tử có đôi mắt kỳ lạ, đôi mắt tinh tế.
Lại nữa, có lần vua Bandhumā ngồi xử kiện, đặt
Hoàng tử ngồi bên cạnh, lúc bấy giờ còn nhỏ mà
Hoàng tử đã chú tâm quán sát phương thức xử
kiện đến nỗi tự mình Hoàng tử cũng có thể phán
xét sự kiện ấy. Bởi những nét ưu việt ấy, nên danh
từ Vipassī được dùng để đặt tên cho Ngài. Hoàng
tử Vipassī là vị Hoàng tử có khả năng quán sát và
xử kiện đúng pháp luật.
Lớn lên, Hoàng tử đã được vua cha xây dựng cho
những cung điện tráng lệ, tùy theo thời tiết của
bốn mùa để ở.
Có một lần, Hoàng tử gọi người đánh xe đưa mình
đến Ngự uyển để xem phong cảnh và trong những
chuyến đi này, Hoàng tử đã thấy rõ những cảnh
sanh, già, bệnh, chết. Và chuyến đi sau cùng,
Người lại gặp một bậc Sa-môn, Hoàng tử liền
28 Thích Thái Hòa
xuống xe giá và hỏi:
“Thưa Hiền giả, Ngài là ai mà đầu và áo của Ngài
không giống những người thường?”.
Sa-môn trả lời: “Thưa Hoàng tử, tôi là một người
xuất gia”.
Hoàng tử hỏi: “Thưa Hiền giả, thế nào là một
người xuất gia”.
Sa-môn trả lời: “Thưa Hoàng tử, người xuất gia là
người khéo tu phạm hạnh, khéo tu tịnh hạnh, khéo
hành thiện nghiệp, khéo tu công đức nghiệp, khéo
giữ gìn không tổn hại chúng sanh, khéo có lòng từ
bi với tất cả chúng sanh”.
Sau chuyến gặp gỡ và trao đổi với vị Sa-môn ấy,
Hoàng Tử Vipassī quyết định xuất gia. Người đã
vượt kinh thành để vào rừng sâu cạo bỏ râu tóc,
mặc áo casa, thực tập đời sống của người xuất gia.
Người đã ngồi dưới gốc cây Pātali tự mình quán
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 29
sát pháp duyên khởi, quán sát sự sinh diệt của năm
thủ uẩn một cách sâu sắc, tinh tế và thuần thục,
nên trí phát sinh, tuệ phát sinh, minh phát sinh,
ánh sáng phát sinh, mọi lậu hoặc đã hoàn toàn
đoạn trừ, và Người đã thành tựu đạo quả Vô
thượng Bồ đề.
Thành đạo rồi, đức Thế Tôn Vipassī bắt đầu suy
nghĩ:
“Pháp do ta chứng được, Pháp ấy thật sâu kín, khó
thấy được, khó chứng ngộ được. Nó tịch tịnh. Nó
vi diệu, chỉ có bậc trí tuệ mới chứng hiểu.
Còn quảng đại quần chúng, thì ưa thích ái dục,
ham muốn ái dục, đối với những người ham muốn
ái dục khó mà thấy được pháp y tánh duyên khởi.
Khó mà thấy được định lý tất cả các hành là tịch
tịnh. Tất cả sanh y đều được trừ bỏ, các ái dục đều
được đoạn tận. Ly dục - ái diệt - Niết bàn. Nếu
nay ta thuyết Pháp mà các người khác không hiểu,
30 Thích Thái Hòa
thời như vậy thật khổ não cho ta”.
Đức Thế Tôn Vipassī lại tiếp tục nói lên bài kệ:
“Tại sao ta nói lên Chánh pháp do ta chứng ngộ
một cách khó khăn đối với mọi người.
Pháp này khó mà chứng ngộ với những ai bị
tham sân chi phối. Những ai bị ái nhiễm và vô
minh bao bọc.
Đây là Pháp ngược dòng, thâm sâu, vi diệu và
tinh tế”.
Với những suy nghĩ như thế, đức Thế Tôn Vipassī
muốn diệt độ.
Bấy giờ, có vị đại Phạm Thiên vương dùng thần
lực đi đến trước đức Thế Tôn Vipassī cúi đầu đảnh
lễ Ngài ba lần và cầu thỉnh Ngài chuyển vận pháp
luân, lời cầu thỉnh như sau:
“Bạch Thế Tôn! Xin Ngài hãy thuyết Pháp. Bạch
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 31
Thiện Thệ! Xin Ngài hãy thuyết Pháp.
Có những chúng sanh ít bị bụi trần che phủ, sẽ bị
nguy hại, nếu họ không được nghe Chánh pháp.
Những vị này có thể nghe và thâm hiểu Chánh pháp”.
Đáp ứng lời cầu thỉnh của đại Phạm Thiên vương
và do lòng từ bi đối với hết thảy chúng sanh, nên
Thế Tôn Vipassī khởi đại bi tâm và vận chuyển
bánh xe Chánh pháp.
Lúc bấy giờ, đại Phạm Thiên vương hết sức sung
sướng nói lên bài kệ:
“Như có người đứng trên đỉnh núi, nhìn quanh
dân chúng phía dưới.
Cũng vậy, Ngài Sumedha lên lầu Chánh pháp, bậc
Biến nhãn, thoát ly sầu muộn.
Nhìn xuống quần chúng, âu lo sầu muộn bị sanh
già áp bức.
Hãy đứng lên, bậc anh hùng, bậc chiến thắng ở
32 Thích Thái Hòa
chiến trường!
Vị trưởng đoàn lữ khách, đấng thoát ly nợ nần!
Thế Tôn hãy đi khắp thế giới hoằng dương Chánh
pháp.
Có người nhờ được nghe sẽ thâm hiểu diệu
nghĩa”.
Bấy giờ, Thế Tôn Vipassī đã trả lời với đại Phạm
Thiên rằng:
“Cửa bất sanh diệt đã được mở rộng, hỡi những ai
được nghe, hãy từ bỏ tà kiến của mình.
Vì nghĩ đến mệt mỏi, hoài công, này Phạm Thiên,
ta không muốn giảng dạy Chánh pháp cho loài
người là vậy!”.
Sau khi trả lời cho Phạm Thiên xong, Ngài liền đến
vườn Khema, thuyết pháp đầu tiên cho Vương Tử
Khanda và con của Vương Tử Tissa về sự lợi ích
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 33
của Bố thí, Trì giới. Ngài cũng đã nói về nhân
duyên, nhân quả của các cõi trời. Nói về sự nguy
hiểm và thấp kém đối với các dục. Và cũng ngay ở
nơi khu vườn này, Ngài đã nói về pháp Tứ Diệu Đế.
Sau khi nghe Pháp do đức Thế Tôn Vipassī giảng
dạy, Vương Tử Khanda và con của Vương Tử
Tissa chứng được Pháp Nhãn Thanh Tịnh xa lìa
trần cấu, mọi nghi ngờ đối với Chánh pháp đều bị
tiêu trừ, phát sinh niềm tự tín và họ liền bạch với
đức Thế Tôn Vipassī rằng:
“Thật vi diệu thay, bạch đức Thế Tôn!
Thật vi diệu thay, bạch đức Thế Tôn!
Như người dựng đứng lại những gì bị quăng
xuống, phơi bày ra những gì bị che khuất, chỉ
đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào
trong bóng tối, để cho những người có mắt có thể
thấy sắc.
34 Thích Thái Hòa
Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng
nhiều phương tiện để trình bày giải thích.
Bạch Thế Tôn! Nay, chúng con quy y Thế Tôn,
quy y Pháp.
Bạch Thế Tôn! Mong Ngài cho chúng con xuất
gia với Thế Tôn, mong Ngài cho chúng con được
thọ Đại giới”.
Chẳng bao lâu, danh tiếng của đấng Giác ngộ lan
tỏa khắp nơi, bấy giờ mọi người đến xin học đạo
với Ngài rất đông, Ngài đã giảng dạy cho ba
chúng hội:
- Chúng hội thứ nhất có 680.000 Tỷ-khưu chứng
A-la-hán.
- Chúng hội thứ hai có 100.000 Tỷ-khưu chứng
A-la-hán.
- Chúng hội thứ ba có 80.000 Tỷ-khưu chứng A-
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 35
la-hán 4.
Đức Thế Tôn Vipassī dạy: “Này các Tỷ-khưu, hãy
đi cùng khắp, vì hạnh phúc cho đại chúng, vì an
lạc cho đại chúng, vì lòng thương tưởng đối với
đời, vì hạnh phúc, vì lợi ích, vì an lạc cho loài
người và loài trời, nên quý vị đừng có đi hai người
cùng một chỗ!
Này các Tỷ-khưu, hãy thuyết giảng Chánh pháp,
sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, nghĩa lý đầy đủ,
văn cú vẹn toàn! Hãy nêu rõ đời sống phạm hạnh
hoàn toàn thanh tịnh.
Có những chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nếu không
nghe được Chánh pháp sẽ bị nguy hại. Nếu được
nghe họ sẽ thâm hiểu Chánh pháp. Cứ sáu năm,
hãy đến tại kinh đô Bandhumatī để tụng đọc Giới
bổn!”.
4 Tỳ Bà Thi Phật Kinh, quyển hạ, tr158, Đại Chánh I.
36 Thích Thái Hòa
Giới bổn của đức Thế Tôn Vipassī được Tăng hội
lúc bấy giờ đọc tụng tóm tắt như sau:
“Khanti paramaṃ tapo titikkhā
Nibbānaṃ paramaṃ vadanti Buddhā,
Nahi pabbajito parūpaghāti,
Samaṇo hotiparaṃ vihet shayanto.
Sabba pāpassa akaranaṃ
Kusalassa upasampadā,
Sacitta pariyodapanaṃ
Etaṃ Buddhāna sāsanaṃ.
Anupavādo anupaghāto
Patimokkhe ca saṃvaro.
Mattaññutā ca bhattasmiṃ
Pantañ ca sayanāsanaṃ
Adhicitte ca āyogo,
Etaṃ Buddhāna sāsanan”.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 37
Dịch:
“Nhẫn, khổ hạnh bậc nhất;
Phật dạy:
Niết bàn là tối thượng;
Xuất gia não hại người,
Không xứng danh Sa-môn.
Hết thảy ác không làm,
Hãy vâng hành các thiện
Tâm ý tự lóng sạch,
Là lời chư Phật dạy.
Không đánh đập chỉ trích,
Giữ mình trong giới bổn.
Uống ăn đúng tiết độ,
Ngủ nghỉ riêng một mình,
Hướng tâm đến cao khiết,
Ấy lời chư Phật dạy”.
38 Thích Thái Hòa
Bài kệ tinh yếu của luật tạng này, Tăng đoàn của
đức Thế Tôn Vipassī hành trì 100 năm đầu, kể từ
khi đức Thế Tôn thành đạo. Và sau 100 năm, bài
kệ này mới được khai triển rộng rãi thành những
học giới.
Trong 91 kiếp về trước, đức Thế Tôn Vipassī ra
đời, xuất gia, quán chiếu về lý Duyên khởi, đoạn
trừ các lậu hoặc, thành đạo, chuyển pháp luân Tứ
Thánh Đế giáo hóa hết thảy chúng sanh. Ngài có
hai vị Hiền sĩ là Khanda (Kiển Đà) và Tissa (Đề
Sá), vị thị giả là A'soka (A Dục).
Trước đức Thế Tôn Vipassī ra đời trong kiếp
Trang Nghiêm, đã có rất nhiều đức Phật xuất hiện
để hóa độ chúng sanh. Và sau đức Thế Tôn
Vipassī cũng có nhiều đức Thế Tôn xuất hiện để
hóa độ chúng sanh. Ngài là vị Phật 998 trong thời
Quá Khứ Trang Nghiêm Kiếp.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 39
ĐỨC PHẬT 'SIKHĪ (THI KHÍ)
Danh hiệu „Sikhī, Pāli và Phạn đều giống nhau.
Hán phiên âm là Thi Khí, Thi Khí Na, Thi Cật…
và dịch là Hữu Kế, Hỏa Thủ, Tối Thượng… Nghĩa
là do Ngài tu tập đạt được, Hỏa Quang Định tức là
loại thiền định phát ra sức nóng và ánh sáng từ
đỉnh đầu, có năng lực soi chiếu và đốt cháy hết
mọi sai lầm của tâm thức, bởi lý do đó, nên Ngài
có danh hiệu này.
Ngài xuất hiện cách đây 31 kiếp, con của Vua
Aruna (Minh Tướng) và Hoàng Hậu Pabbāvatī
(Quang Huy - Diệu Quang) trong dòng họ
Koñdañña (Câu Lợi Nhã) thuộc giai cấp Khattiya
(Sát Đế Lợi), kinh thành là Pabhāvatī, tuổi thọ của
nhân loại lúc bấy giờ là 70.000 tuổi.
Đức ‟Sikhī từ giã hoàng cung xuất gia tu tập, ngồi
dưới gốc cây Pundarika (Phân Đà Lợi) quán chiếu
sâu lý mười hai duyên khởi cả hai mặt lưu chuyển
40 Thích Thái Hòa
và hoàn diệt; diệt sạch các ưu não, các lậu hoặc,
nên trí phát sinh, tuệ phát sinh, ánh sáng phát sinh,
các mê lầm của tâm và trí hoàn toàn đoạn tận,
Ngài liền thành tựu đạo quả Vô thượng Bồ đề. Và
sau đó, Ngài chuyển vận bánh xe Chánh pháp
giảng dạy về pháp Bố thí, Trì giới và Tứ Thánh
Đế cho các chúng hội:
- Chúng hội thứ nhất có 100.000 Tỷ-khưu chứng
A-la-hán.
- Chúng hội thứ hai có 80.000 Tỷ-khưu chứng A-
la-hán.
- Chúng hội thứ ba có 70.000 Tỷ-khưu chứng A-
la-hán.
Đức Thế Tôn „Sikhī có hai vị Hiền sĩ là Abbibhū
(A Tỳ Phù) và Sambhava (Tam Bà Bà), vị thị giả
là Khemankara (Nhẫn Hành).
Giới kinh của Ngài dạy được tóm tắt như sau:
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 41
“Cũng như người mắt sáng
Tránh khỏi lối hiểm nghèo
Bậc có trí trong đời
Tránh xa kẻ xấu ác.”
Ngài là vị Phật 999 thuộc về đời Quá Khứ Trang
Nghiêm Kiếp.
ĐỨC PHẬT VESSABHŪ (TỲ XÁ PHÙ)
Danh hiệu Vessabhū là viết theo Pāli, Phạn là
Visvabhū. Hán chuyển âm là Tỳ Xá Phù, Tỳ Thấp
Bà Bộ, Tỳ Nhự Bà Phụ, Tỳ Xá Bà, Tùy Diếp La,
Tỳ Diếp La, và dịch là Nhất Thiết Thắng, Nhất
Thiết Tự Tại…, nghĩa là Ngài có khả năng thắng
vượt và tự tại đối với tất cả các uẩn, xứ, giới…
Đức Phật Vessabhū xuất hiện cách đây 31 kiếp về
trước thuộc về Quá Khứ Trang Nghiêm Kiếp, con
của Vua Suppatīka (Thiện Đăng), Hoàng Hậu
Yasavatī (Xứng Giới) trong dòng họ Koñdañña
42 Thích Thái Hòa
(Câu Ly Nhã) thuộc giai cấp Khattiya (Sát Đế Lợi) ở
kinh thành Anopama (Vô Dụ), nhân loại sống đến
60.000 năm.
Lúc bấy giờ, Ngài từ bỏ đời sống vương giả của
thế tục, xuất gia tầm đạo, ngồi dưới gốc cây Sāla,
quán chiếu lý mười hai duyên khởi theo hai mặt
lưu chuyển và hoàn diệt, diệt sạch các ưu não, các
lậu hoặc, nên trí phát sinh, tuệ phát sinh, minh
phát sinh, ánh sáng phát sinh, các mê lầm của tâm
và trí hoàn toàn đoạn tận, Ngài liền thành tựu đạo
quả Vô thượng Bồ đề.
Và sau đó, Ngài chuyển vận bánh xe Chánh pháp
giảng dạy về pháp Bố thí, Trì giới, Tinh tấn…,
pháp Tứ Thánh Đế để giáo hóa các chúng hội:
- Chúng hội thứ nhất có 80.000 vị Tỷ-khưu
chứng A-la-hán.
- Chúng hội thứ hai có 70.000 vi Tỷ-khưu chứng
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 43
A-la-hán.
- Chúng hội thứ ba có 60.000 vị Tỷ-khưu chứng
A-la-hán.
Đức Thế Tôn Vessabhū có hai Hiền giả gồm Sona
(Phù Du) và Uttara (Uất Đa Ma), vị thị giả là
Upasanaka (Tịch Diệt).
Giới kinh của Ngài dạy được tóm tắt như sau:
“Không báng bổ, tật đố
Vâng hành các học giới
Ăn uống biết vừa đủ
Thường ưa chỗ nhàn tịnh
Tâm định, vui tinh tấn
Là lời chư Phật dạy”.
Ngài là vị Phật thứ 1.000 thuộc về thời Quá Khứ
Trang Nghiêm Kiếp.
44 Thích Thái Hòa
ĐỨC PHẬT KAKUSANDHA
(CÂU LƯU TÔN)
Danh hiệu Kakusandha là đọc theo Pāli. Đọc theo
Phạn ngữ là Krakucchandha. Hán phiên âm là Ca
La Cưu Tôn Đà, Yết Lạc Ca Tôn Đà, Ca La Ca
Tôn Đà, Câu Lâu Tần, Câu Lưu Tôn, Ca Lưu Tôn,
Cưu Lưu Tần… và dịch nghĩa là Lãnh Trì, nghĩa
là Ngài có khả năng tiếp nhận, dẫn đạo và duy trì;
hoặc dịch là Diệt Lụy, nghĩa là Ngài có khả năng
diệt trừ mọi sự trói buộc; hoặc dịch là Sở Ưng
Đoạn Dĩ Đoạn, nghĩa là những điều cần phải đoạn
trừ thì Ngài đã đoạn trừ; hoặc dịch là Thành Tựu
Mỹ Diệu, nghĩa là Ngài có khả năng thành tựu
những gì tốt đẹp và cao quý.
Đức Phật Kakusandha xuất hiện trong thời Hiện
Tại Hiền Kiếp, thân phụ là Aggidatta (Tự Đắc),
thân mẫu là Visākhā (Thiện Chí) thuộc dòng dõi
Bà-la-môn, vua trị nước bấy giờ là Khema (An
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 45
Hòa), kinh đô là Khemavatī (An Hòa Thành), tuổi
thọ của nhân loại 40.000 năm.
Ngài Kakusandha lớn lên quán sát nỗi đau của
cuộc đời, rồi khởi tâm xuất gia. Ngài ngồi dưới
gốc cây Sirīsa (Thi Lợi Sa), quán xét sâu xa về lý
mười hai duyên khởi theo hai mặt lưu chuyển và
hoàn diệt đến chỗ thuần thục, các lậu hoặc đã
được đoạn tận, nên trí phát sinh, tuệ phát sinh,
minh phát sinh, ánh sáng phát sinh, tâm và trí vắng
mặt hoàn toàn mọi sự sai lầm, Ngài liền thành tựu
đạo quả Vô thượng Bồ đề.
Sau đó, Ngài tiếp tục chiêm nghiệm sâu vào đạo lý
mới chứng ngộ, rồi vận khởi tâm đại bi, chuyển
pháp luân, giảng dạy về pháp Bố thí, Trì giới, Tinh
tấn, pháp Tứ Thánh Đế để giáo hóa các chúng hội.
Tăng đoàn do Ngài thành lập có 40.000 vị Tỷ-
khưu, toàn là những vị giới đức thanh tịnh. Ngài có
hai vị hiền sĩ tên là Vidhūra (Tỳ Lâu) và Sanjiva
46 Thích Thái Hòa
(Tát Ni), vị thị giả là Buddhija (Thiện Giác).
Giới kinh của Ngài dạy được tóm tắt như sau:
“Như ong đến tìm hoa,
Không hại sắc và hương,
Chỉ hút nhụy rồi đi,
Vậy, Tỷ-khưu vào xóm,
Không chống trái việc người,
Người làm hay không làm,
Chỉ xét hành vi mình,
Đoan chính, không đoan chính”.
Ngài là vị Phật thứ nhất trong ngàn vị Phật thuộc
Hiện Tại Hiền Kiếp.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 47
ĐỨC PHẬT KONĀGAMANA
(CÂU NA HÀM)
Danh hiệu Konāgamana là đọc theo Pāli. Đọc theo
Phạn ngữ là Kanakamuni. Hán phiên âm là Câu Na
Hàm, Ca Na Già Mâu Ni, Câu Na Hàm Mâu Ni, Ca
Na Hàm Mâu Ni,… và dịch là Kim Sắc Tiên, Kim
Nhu, Kim Tịch…, nghĩa là vị đạo sư có sắc tướng
nhuần nhuyễn, thanh nhã và vắng lặng như vàng.
Ngài xuất hiện trong thời đại Hiện Tại Hiền Kiếp.
Thân phụ là Yannadatta (Đạt Đức), thân mẫu là
Uttara (Thiện Thắng), dòng dõi Bà-la-môn, thời
đại trị vì của vua Sobha (Thanh Tịnh), và kinh
thành là Sobhavatī (Thanh Tịnh thành), tuổi thọ
của nhân loại là 30.000 năm.
Ngài Konāgamana lớn lên chứng kiến nỗi khổ
sanh, già, bệnh, chết của đời người, nên hướng
tâm đến đời sống xuất gia. Ngài đã từ bỏ gia đình,
48 Thích Thái Hòa
đến ngồi dưới gốc cây Udumbara (Ô-tam-bà-la) tu
tập thiền định, quán sát sâu sắc về lý mười hai
duyên khởi theo hai mặt lưu chuyển và hoàn diệt
đến chỗ thuần thục, nên trí phát sinh, tuệ phát
sinh, minh phát sinh, ánh sáng phát sinh, tâm và trí
hoàn toàn vắng mặt mọi sự sai lầm, Ngài liền
thành tựu đạo quả Vô thượng Bồ đề.
Sau đó, Ngài quán chiếu sâu xa vào đạo lý mới
chứng ngộ này, rồi vận khởi tâm đại bi, chuyển
pháp luân, giảng dạy về pháp Bố thí, Trì giới, Tinh
tấn, pháp Tứ Thánh Đế để giáo hóa các chúng hội.
Tăng đoàn do Ngài thành lập gồm có 30.000 vị
Tỷ-khưu, đều là những vị đã phá sạch vô minh,
phiền não. Ngài có hai vị hiền sĩ là Bhiyyosa (Thư
Bàn Na) và Uttara (Uất Đa La), vị thị giả là
Sotthija (An Hòa).
Giới kinh do Ngài dạy được tóm tắt như sau:
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 49
“Đừng để tâm buông lung,
Hãy cần học Thánh pháp,
Như thế dứt ưu sầu,
Tâm định nhập Niết bàn”.
Ngài là vị Phật thứ hai trong một ngàn đức Phật
thuộc thời đại Hiện Tại Hiền Kiếp.
ĐỨC PHẬT KASSAPA (CA DIẾP)
Danh hiệu Kassapa là đọc theo Pāli. Đọc theo
Phạn ngữ là Ka‟syapa. Hán phiên âm là Ca Diếp
Ba, Ca Nhiếp Ba, và dịch là Ẩm Quang; nghĩa là
vị Phật có ánh sáng làm khuất lấp hay nuốt hết
mọi thứ ánh sáng khác.
Ngài xuất hiện trong thời đại Hiện Tại Hiền Kiếp.
Thân phụ là Brahmadatta (Phạm Đức, Phạm Thí),
thân mẫu là Dhanavatī (Tài Chủ), dòng dõi Bà-la-
môn, thời đại trị vì của vua Kikī (Cấp Tỳ), kinh đô
50 Thích Thái Hòa
là Bārānasī (Ba La Nại), tuổi thọ của nhân loại là
20.000 năm.
Ngài lớn lên chứng kiến nỗi khổ đau sanh, già,
bệnh, chết của đời người, nên phát khởi ý niệm
xuất gia. Ngài đã từ bỏ gia đình, đến ngồi dưới gốc
cây Nigrodha (Ni Câu Luật), tu tập thiền định, quán
chiếu lý Mười hai duyên khởi hai mặt lưu chuyển
và hoàn diệt đến chỗ thuần thục, nên trí phát sinh,
tuệ phát sinh, minh phát sinh, ánh sáng phát sinh,
tâm và trí hoàn toàn vắng mặt mọi sự sai lầm, Ngài
liền thành tựu đạo quả Vô thượng Bồ đề.
Sau đó, Ngài quán chiếu sâu xa vào đạo lý mới
chứng ngộ này, rồi vận khởi tâm đại bi, chuyển
pháp luân, giảng dạy về pháp Bố thí, Trì giới, Tinh
tấn, pháp Tứ Thánh Đế để giáo hóa các chúng hội.
Tăng đoàn do Ngài thành lập gồm có 20.000 vị
Tỷ-khưu, toàn là những vị giới đức thanh tịnh.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 51
Ngài có hai vị hiền sĩ, vị thứ nhất là Tissa (Đế Tu),
vị thứ hai là Bhāradvāja (Bà La Bà) và vị thị giả là
Sabbamitta (Thiện Hữu).
Giới kinh do Ngài dạy được tóm tắt như sau:
“Hết thảy ác chớ làm,
Hãy vâng làm các thiện,
Tự lóng sạch tâm chí,
Là lời chư Phật dạy”.
Ngài là vị Phật thứ ba trong một ngàn đức Phật
xuất hiện trong thời đại Hiện Tại Hiền Kiếp.
ĐỨC PHẬT ‟SAKYAMUNI
(THÍCH CA MÂU NI)
Danh Hiệu và Thân Thế
Danh hiệu của đức Phật Thích Ca Mâu Ni đọc
theo âm của Phạn và Pāli đều là `Sakyamuni.
52 Thích Thái Hòa
Hán phiên âm là Thích Ca Văn Phật, Xà Ca Dạ
Mâu Ni, Thích Ca Văn, và dịch là Năng Nhân,
Năng Nhẫn, Năng Tịch, Tịch Mặc, Năng Mãn…
`Sakyamuni, nghĩa là bậc Thánh nhân xuất thân
trong dòng họ Thích Ca.
Mâu Ni có nghĩa là Thánh Nhân, Hiền Nhân, Đạo
Sĩ, Ẩn Sĩ… Bởi vậy mà Hán dịch là Tịch Mặc,
nghĩa là người có khả năng sống đời sống thanh
tịnh và thanh thoát.
Như vậy, ‟Sakyamuni là đấng có đời sống an tịnh,
đời sống có kham nhẫn, đời sống tràn đầy lòng
thương yêu, xuất thân từ họ ‟Sakya (Thích Ca).
‟Sakya có nghĩa là dòng họ có đầy đủ khả năng tự
lực và sáng tạo.
Tên của Ngài đọc theo âm Pāli là Siddhattha và
Phạn là Sarvasiddhārtha. Hán phiên âm là Tất Đạt
La Tha, Tất Đạt Đa, Sĩ Đạt Ta, Tất Đạt…, và dịch
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 53
là Nhất Thế Nghĩa Thành, nghĩa là thành tựu tất cả
chân nghĩa; hoặc dịch là Nhất Thế Sự Thành,
nghĩa là thành tựu tất cả sự nghiệp; hoặc dịch là
Thành Lợi, nghĩa là thành tựu hết thảy lợi ích;
hoặc dịch là Nghiệm Sự, nghĩa là chiêm nghiêm
để thấy rõ sự thật của vấn đề; hoặc dịch là Nghiệm
Nghĩa, nghĩa là tự chiêm nghiệm để thấy rõ nghĩa
lý chân thật.
Thân phụ là Suddhodana (Tịnh Phạn), mẹ là
Maha-Māya (Đại Mộng5), dòng họ ‟Sakya (Thích
Ca), thuộc giai cấp Khattiya (Sát Đế Lợi), kinh
thành Kapilavastu (Ca Tỳ La Vệ). Ngài xuất hiện
vào thời kỳ tuổi thọ nhân loại 100 năm.
Thị Hiện Đản Sanh
Hoàng hậu Māya năm 45 tuổi, một hôm nằm
mộng thấy voi trắng sáu ngà từ trên trời đi xuống
và giữa không trung có những làn sóng nhạc vang
5 Do chiêm bao thấy mộng lành
54 Thích Thái Hòa
lừng, quyện lẫn với những lời chúc tụng của chư
Thiên xa vọng không ngớt.
Voi trắng đi xuống càng lúc càng gần, da của voi
trắng như tuyết, ngà của voi có quấn một đóa sen
hồng. Voi đến gần và đưa đóa sen hồng chạm vào
người bà, trong giấc mộng bà thấy thân tâm sảng
khoái lạ kỳ.
Tỉnh dậy bà đem giấc mộng ấy kể lại cho vua
Suddhodana nghe. Ngay sáng hôm ấy, vua mời
các nhà đoán mộng tại kinh đô Kapilavastu để giải
mộng.
Các nhà đoán mộng đều cho rằng: “Đây là một
giấc mộng lành, chắc chắn Hoàng hậu sẽ thụ thai
và sẽ sinh Hoàng tử xuất chúng”.
Nghe các nhà đoán mộng như thế, vua
Suddhodana hết sức vui mừng, vua hạ lệnh đem
lương thực, tài sản trong kho ra phát chẩn cho dân
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 55
nghèo và những người tật bệnh, ân xá lao tù. Nhân
dân xứ Kapilavastu lúc bấy giờ đều thấm nhuần
ơn mưa mốc.
Gần một năm kể từ ngày nằm mộng, Hoàng hậu
Māya trở về vương quốc Koliya quê hương của bà
để sinh nở. Trên đường từ Kapilavastu về
Ramagama của vương quốc Koliya, bà đã ghé
nghỉ tại vườn Lumbini.
Trong vườn mọi hoa đang nở rộ, chim chóc đang
hót ca. Một sáng mai trời đẹp, bà thấy hoa Vô Ưu
đang nở đầy cành, hương và sắc đẹp đẽ liền bước
tới đưa tay nắm lấy cành hoa thì Thái tử cũng liền
thị hiện ngay lúc đó.
Bấy giờ là ngày trăng tròn tháng Vesākha, năm
623 trước Tây lịch.
Khi ra đời Thái tử đứng thẳng nhìn vào hông phải
của mẹ mà nói:
56 Thích Thái Hòa
“Thân thể này của con từ nay về sau, không trở lại
nằm trong thai và trong hông phải của mẹ nữa,
thân này là thân sau cùng của con và con sẽ thành
Phật”.6
Rồi Thái tử nhìn bốn phương, mỗi phương đi bảy
bước đều có hoa sen lớn xuất hiện để đỡ chân.
Trước hết nhìn về phương Đông, Thái tử nói bài
kệ:
“Chánh ngữ chánh ngôn,
Thế gian chi trung,
Ngã vi tối thắng,
Ngã tùng kim nhật,
Sanh phần dĩ tận”.7
Nghĩa là:
6 Phật Bản Hạnh Tập kinh, cuốn 07, tr687a, Đại Chính
III. 7 Phật Bản Hạnh Tập kinh, cuốn 08, tr687, Đại Chính III.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 57
“Lời nói chính xác,
Ở trong thế gian,
Tôi là duy nhất,
Kể từ đời này,
Chấm dứt sanh tử”.
Chi tiết nầy, lại được ghi chép cụ thể hơn trong
Phương Quảng Đại Trang Nghiêm Kinh, do Ngài
Địa Bà Đa La dịch vào đời nhà Đường, cuốn 3,
trang 553a, Đại chính 3 như sau:
“Khi sinh ra, Ngài bước đi về phương Đông bảy
bước có bảy hoa sen đỡ chân, lúc bấy giờ Ngài
không có chút nào sợ hãi, nói mạch lạc như sau:
“Tôi sẽ thành tựu hết thảy thiện pháp và sẽ vì
chúng sanh mà nói”.8
Ngài lại bước đi bảy bước về phương Nam rồi lại
8 Ngã đắc nhất thiết thiện pháp, đương vị chúng sanh
thuyết chi.
58 Thích Thái Hòa
nói:
“Tôi xứng đáng nhận sự cúng dường của chư
thiên và loài người”.9
Ngài lại bước đi bảy bước về phương Tây và nói:
“Ở trong thế gian, tôi là tối tôn, tối thắng, thân
cuối cùng của tôi là chấm dứt sanh, lão, bệnh,
tử”.10
Ngài lại bước đi bảy bước về phương Bắc và nói:
“Tôi sẽ ở nơi tất cả chúng sanh, làm bậc Vô
thượng thượng”.11
Ngài lại đi bảy bước nhìn xuống Hạ phương và
nói:
9 Ngã ư nhân thiên ứng thọ cúng dường.
10 Ngã ư chúng sanh tối tôn, tối thắng. Thử tức thị ngã,
tối hậu biên thân, tận sanh lão bệnh tử. 11
Ngã đương ư nhất thiết chúng sanh trung vi thượng
thượng.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 59
“Tôi sẽ hàng phục hết thảy ma quân, lại diệt trừ
những tác cụ khổ đau như lửa dữ… ở nơi địa
ngục, thi thiết mây pháp lớn, tuôn trào mưa pháp
lớn khiến chúng sanh đều được an lạc”.12
Ngài lại đi bảy bước nhìn lên Thượng phương và
nói:
“Tôi sẽ làm người để cho hết thảy chúng sanh
chiêm ngưỡng”.13
Lúc Ngài nói vừa xong, âm thanh của Ngài vang
khắp cả ba ngàn đại thiên thế giới.
Năm ngày sau, vua Suddhodana làm lễ Quán Đỉnh
và đặt tên cho Thái tử là Siddhattha và mời đạo sĩ
Asitakaladevala (A Tư Đà) đến đoán tướng. Đạo sĩ
12
Ngã đương hàng phục nhất thiết ma quân, hựu diệt
địa ngục chi mãnh hỏa đảnh, sở hữu khổ cụ, thi đại
pháp vân, vũ đại pháp vũ, đương linh chúng sanh tận
thọ an lạc. 13
Ngã đương vị nhất thiết chúng sanh chi sở chiêm
ngưỡng.
60 Thích Thái Hòa
nói:
“Thái tử có 32 tướng tốt của bậc Đại nhân, nếu ở
đời thì Thái tử sẽ là vị Chuyển Luân Thánh Vương
dùng đức hạnh để trị vì thiên hạ. Nếu xuất gia, thì
Thái tử trở thành bậc Toàn giác đem lại sự hạnh
phúc an lạc cho đời”.
Nuôi Dưỡng và Giáo Dục
Sinh Thái tử được bảy ngày, thì Hoàng hậu Māya
từ trần, vua Suddhadana đã tuyển chọn ngay em
ruột của bà là bà Mahāpajāpati (Ma Ha Ba Xà Ba
Đề) vào cung để làm Hoàng hậu và giao thái tử
Siddhattha cho bà chăm sóc nuôi dưỡng.
Lớn lên, Thái tử Siddhattha đã tỏ ra không phải là
một người thường. Thái tử đã học nói, học viết,
học đọc, học vẽ, học thi ca, học âm nhạc, học toán,
học triết, học thể thao, học võ thuật, học nghi lễ
thiết triều và cung cách vương đạo… Học môn
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 61
nào Thái tử cũng tỏ ra xuất chúng và đã làm cho
những vị giáo sư như Visvamitra, Arjuna hết sức
thán phục.
Năm chín tuổi Thái tử theo Vua cha và Hoàng hậu
đi tham dự một buổi lễ Hạ Điền. Thái tử lại chứng
kiến cảnh rộn ràng của người và vật đã tỏ ra không
mấy thích thú, nên đã đi đến ngồi yên lặng dưới
gốc cây Jambu (Hồng táo) và đã an trú vào Sơ
thiền, một trạng thái an lạc của thiền định do tâm
vắng mặt mọi tham muốn đem lại.
Lễ xong, Vua và Hoàng hậu đi tìm con, đến cây
Jambu thấy Thái tử đang ngồi yên lắng với tư thế
kiết già, lưng thẳng, mắt nhắm và nét mặt có vẻ
suy tư. Vua và Hoàng hậu thấy Thái tử như vậy,
nên hết sức lo ngại.
Càng lớn lên Thái tử càng thông minh lạ thường.
Thái tử đã được các giáo sư triết học giảng dạy về
triết thuyết vũ trụ như sau:
62 Thích Thái Hòa
“Vũ trụ là một cái Ta lớn gọi là Brahma hay Phạm
thiên và mọi giai cấp khác được sinh ra từ những
phần khác nhau ở trong thân thể của Brahma”.
Tuy được giáo dục như vậy, nhưng Thái tử chẳng
hề tin tưởng chút nào về nền giáo dục theo tư
tưởng Vệ Đà ấy. Và Thái tử đã âm thầm phản ứng
lại ba giáo điều căn bản của đạo học Bà-la-môn:
1. Thái tử không chấp nhận kinh Veda là do
Phạm thiên mặc khải cho giai cấp Bà-la-môn và
chỉ cho giai cấp này độc quyền học tập, giảng dạy
và gìn giữ.
2. Thái tử không chấp nhận Phạm thiên là ngự trị
tối cao và mọi giai cấp đều được sinh ra từ Phạm
thiên.
3. Thái tử không chấp nhận tế lễ là công hiệu vạn
năng.
Thái tử tham gia đại hội thể thao do vua
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 63
Dandapani và Vương phi Pamita của nước Koliya
tổ chức tại bên bờ sông Kunau, và đã chiếm giải
vô địch trong đại hội thể thao này.
Trong đại hội thể thao này, Thái tử đã được trao
tặng một con voi trắng.
Năm mười sáu tuổi, Thái tử kết duyên với Công
chúa Yasodhara (Da-du-đà-la), con của Vua
Dandapani (Thiện Giác), và Vương phi Pamita
(Cam Lộ), ở nước Koliya. Thái tử đã được vua cha
xây dựng cho các cung điện thích hợp với thời tiết
của bốn mùa. Và Công chúa Yasodhara đã có thai
La Hầu La trước khi thái tử xuất gia.
Xuất Gia và Thành Đạo
Lúc còn học tập Thái tử đã từng được dạy về bốn
giai đoạn trong đời sống của một vị Bà la môn:
1. Lúc tuổi trẻ người con trai Bà-la-môn phải học
tập kinh điển Veda.
64 Thích Thái Hòa
2. Khi tuổi trưởng thành, tạo lập gia đình, nuôi
dưỡng con cái và phục vụ xã hội.
3. Đến khi con cái lớn khôn thì giao trách nhiệm
việc nhà, việc xã hội cho con cái mà rút lui làm cố
vấn và trao truyền kinh nghiệm cho con.
4. Đến tuổi già, họ buông bỏ hết mọi ràng buộc ở
đời và sống hoàn toàn xuất thế.
Sự phân chia cách sống bốn giai đoạn của một đời
người Bà-la-môn quá rõ ràng và máy móc, nên
Thái tử đã không bằng lòng.
Thái tử đã tự hỏi: “Tại sao đến khi tuổi già mới
sống đời xuất gia? Già quá làm sao có đủ sức để
học đạo và hành đạo? Sự chết có hẹn ta phải trải
qua cả bốn giai đoạn ấy, rồi nó mới đến chăng?
Tại sao ta không thực hiện cả bốn cách ấy trong
một giai đoạn? Và tại sao ta không thực tập đời
sống xuất gia ngay ở trong gia đình?”.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 65
Nhiều lần Thái tử đã đi ra bốn cửa thành. Có lần
Thái tử đi gặp một người già, một người bệnh, rồi
một người chết và rồi một người xuất gia.
Mỗi lần gặp là mỗi lần giúp cho Thái tử có điều
kiện để chiêm nghiệm sâu xa về sự sống, về thân
phận của kiếp người. Và Thái tử thấy rằng sanh,
già, bệnh, chết không riêng cho một ai mà là của
tất cả.
Lần gặp vị Sa-môn là lần mà Thái tử thấy thú vị
nhất, vì ở nơi vị Sa-môn ấy, dáng dấp thong thả,
phong thái tự tại, nét mặt hiền hòa, không gợn lên
chút ưu sầu nào cả, nên Thái tử liền đến và hỏi vị
Sa-môn ấy rằng:
“Thưa Hiền giả! Hiền giả đã làm gì, mà đầu và áo
của Ngài không giống như những người khác?”.
Vị Sa-môn trả lời: “Thưa Thái tử! Tôi là một
người xuất gia”.
66 Thích Thái Hòa
Thái tử hỏi: “Thưa Hiền giả! Thế nào là một người
xuất gia?”.
Vị Sa-môn trả lời: “Thưa Thái tử! Người xuất gia
là người khéo tu phạm hạnh, khéo tu tịnh hạnh,
khéo hành thiện nghiệp, khéo hành công đức
nghiệp, khéo giữ gìn không não hại chúng sanh,
khéo có tình thương đối với hết thảy chúng sanh”.
Sau lần tiếp xúc này, Thái tử trở về Hoàng cung tự
mình suy tư và nói:
“Tại sao chính ta bị sanh, lại đi tìm cầu cái bị
sanh; chính ta bị già lại đi tìm cầu cái bị già; chính
ta bị chết lại đi tìm cầu cái bị chết; chính ta bị ô
nhiễm lại đi tìm cầu cái bị ô nhiễm?
Vậy, chính ta bị sanh, sau khi biết rõ sự nguy hiểm
của bị sanh, ta hãy đi tìm cái không bị sanh, cái vô
thượng an ổn, thoát khỏi các khổ ách, cái an ổn
của Niết bàn.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 67
Tự mình bị già, ta hãy đi tìm cầu cái không bị già;
tự mình bị bệnh, ta hãy đi tìm cầu cái không bị
bệnh: tự mình bị chết, ta hãy đi tìm cầu cái không
bị chết; tự mình bị sầu muộn, bị ô nhiễm, hãy đi
tìm cầu cái không bị sầu muộn, không bị ô
nhiễm…”.14
Và lúc bấy giờ Thái tử còn suy nghĩ: “Đời sống
gia đình bị gò bó, con đường đầy những bụi đời.
Đời sống người xuất gia như sống giữa hư không.
Thật là rất khó, khi ta sống tại gia đình mà có thể
sống được đầy đủ thanh tịnh hoàn toàn của một
đời sống thuần khiết, phạm hạnh.
Ta hãy cạo bỏ râu tóc, đắp áo ca sa từ bỏ gia đình,
sống đời sống thoát ly gia đình”.15
Sau những lần suy tư như vậy, Thái tử đã nhiều
lần xin Phụ vương và Mẫu hậu để được sống đời
14
Kinh Thánh Cầu-Trung bộ I, Tr 163, ĐHVH-1973. 15
Kinh Saccaka-Trung bộ I, tr240, ĐHVH-1973.
68 Thích Thái Hòa
xuất gia, nhưng Thái tử cũng đã bị Phụ vương và
Mẫu hậu nhiều lần từ chối. Năm mười chín tuổi
(có tư liệu ghi năm hai mươi chín tuổi), sau buổi
dạ tiệc linh đình, mọi người đang say sưa trong
giấc điệp và trăng sao trên nền trời không gợn chút
mây. Thái tử đã quyết định đêm này sẽ xuất gia
tầm đạo và tự nhủ:
“Mặc dù cha mẹ không bằng lòng, than khóc nước
mắt đầy mặt, ta vẫn cạo bỏ râu tóc, đắp áo ca sa,
xuất gia từ bỏ gia đình, sống đời thoát ly gia đình.
Ta xuất gia như vậy, kẻ đi tìm cái gì chí thiện, đi
tìm con đường vô thượng tối thắng, hướng đến
tịch tịnh”.16
Thái tử đã đánh thức Channa (Xa Nặc) dậy và bảo
đem con ngựa Kanthana (Kiền Trắc) ra đây, đêm
nay ta sẽ đi tầm đạo.
16
Kinh Thánh Cầu, Trung bộ I, tr163, ĐHVH 1973.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 69
Thái tử đã dặn dò con ngựa Kanthana (Kiền Trắc)
và Channa (Xa Nặc), rồi đưa ngựa ra khỏi cổng
thành và Thái tử tự nhủ:
“Nếu không tìm ra được đạo, thì ta sẽ không bao
giờ trở lại kinh đô này nữa”.
Nói xong, Thái tử, Channa và Kanthana xây mặt
về hướng Nam và ngựa phi trong lớp sương mù
dày đặc.
Vượt qua sông Anoma, thì trời vừa hừng sáng,
Thái tử bảo ngựa Kanthana dừng lại, xuống yên
ngựa, dùng thanh kiếm cắt mái tóc, cởi bào y và
chuỗi ngọc trao cho Channa, nhờ Channa về tâu
lại với Phụ Hoàng rằng:
“Tôi bỏ nhà ra đi, không phải vì ích kỷ, không
phải trốn tránh bổn phận, mà chính vì mọi người
và mọi loài. Channa hãy trở về thưa lại Phụ
vương, Hoàng hậu và Công chúa như vậy - và ta
70 Thích Thái Hòa
xuất gia như vậy, kẻ đi tìm cái gì chí thiện, tìm cầu
con đường Vô thượng tối thắng, hướng đến an lạc,
tịch tịnh”.
Channa và con ngựa Kanthana quay lưng trở về
hoàng cung, thì Thái tử lại tiếp tục cuộc hành trình
kỳ vỹ của mình.
Trước mặt Thái tử toàn là núi rừng trùng điệp.
Đầu tiên, Thái tử gặp người thợ săn tay cầm đầy
cung tên, nhưng trên mình lại mặc chiếc áo ca sa.
Thái tử hỏi: “Anh là một người thợ săn tại sao lại
mặc chiếc áo này?”.
Người thợ săn trả lời: “Tôi mặc chiếc áo này để
cho thú rừng không sợ, nhờ vậy mà tôi bắt được
chúng”.
Thái tử nói: “Bây giờ tôi đổi chiếc áo cẩm bào này
cho anh và anh đổi chiếc áo ca sa ấy cho tôi. Vì tôi
muốn trở thành một vị Sa-môn, còn anh thì nên
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 71
đem chiếc áo cẩm bào này bán để làm vốn chuyển
sang một nghề làm ăn khác lành mạnh hơn, đừng
nên đi săn bắn nữa”.
Hai bên thỏa thuận trao đổi áo cho nhau. Người
thợ săn vội vàng trở về và Thái tử lại tiếp tục cuộc
hành trình của mình. Đầu tiên, Thái tử sống đời
sống của người xuất gia, lấy trời làm chăn, lấy đất
làm gối, thoát ly mọi sự ràng buộc gia đình.
Sau đó, Thái tử đã gặp nhà Đạo sĩ Alārakālāma ở
trung tâm tu học phía Bắc thành phố Vesāli.
Thái tử nói: “Thưa Hiền giả Kālāma! Tôi muốn
sống phạm hạnh trong pháp và luật nầy”.
Đạo sĩ nói: “Này Tôn giả! Pháp của ta là pháp tự
tu, tự chứng, tự đạt và an trú”.
Pháp tự tu, tự chứng, tự đạt và an trú do Đạo sĩ
AlāraKālāma trao truyền cho Siddhattha, chẳng
bao lâu Thái tử đã thực tập và thành tựu pháp ấy.
72 Thích Thái Hòa
Và lúc bấy giờ Thái tử suy nghĩ như sau: “Đạo sĩ
Alārakālāma tuyên bố, pháp này không phải lòng
tin, mà sau khi tự tu, tự chứng, tự đạt, ta mới an
trú. Vậy, chắc chắn Đạo sĩ Alārakālāma biết pháp
này, thấy pháp này rồi mới an trú?”.
Sau khi suy nghĩ, Thái tử liền đến chỗ của Đạo sĩ
Alārakālāma và hỏi rằng:
“Thưa Hiền giả Alārakālāma, cho đến mức độ
nào, Ngài tự tu, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp
này?”.
Đạo sĩ Alārakālāma trả lời:
“Thưa Tôn giả! Cho đến mức chứng đạt Thiền
định Vô Sở Hữu Xứ”.
Sau đó, Đạo sĩ Alārakālāma trao truyền phương
pháp thực hành Thiền định Vô Sở Hữu Xứ cho
Thái tử.
Trong khi thực tập thứ Thiền định này, Thái tử suy
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 73
nghĩ:
“Không phải chỉ có Đạo sĩ Alārakālāma có lòng
tin mà ta cũng có lòng tin. Không phải chỉ có Đạo
sĩ Alārakālāma mới có tinh tấn mà ta cũng có tinh
tấn. Không phải chỉ có Đạo sĩ Alārakālāma mới có
niệm mà ta cũng có niệm. Không phải chỉ có Đạo
sĩ Alārakālāma mới có định mà ta cũng có định.
Không phải chỉ có Đạo sĩ Alārakālāma mới có tuệ
mà ta cũng có tuệ.
Vậy, ta hãy cố gắng chứng cho được pháp mà Đạo
sĩ Alārakālāma tuyên bố rằng: Sau khi tự tri, tự
chứng, tự đạt, ta an trú”.
Suy nghĩ như vậy xong, Thái tử liền thực tập
Thiền định Vô Sở Hữu Xứ. Và chẳng bao lâu,
Thái tử đã chứng ngộ và thành tựu thứ thiền định
này.
Thái tử lại đi đến gặp Đạo sĩ Alārakālāma và hỏi:
74 Thích Thái Hòa
“Thưa Hiền giả! Có phải Ngài đã tự tri, tự chứng,
tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như
vậy?”.
Đạo sĩ trả lời:
“Vâng, tôi đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố
pháp này đến mức độ như vậy”.
Đạo sĩ nói tiếp:
“Thật lợi ích thay cho chúng tôi!
Thật khéo léo thay cho chúng tôi!
Khi chúng tôi được thấy một đồng phạm hạnh như
Tôn giả.
Pháp mà tôi tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú; Pháp
mà Hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố.
Pháp ấy tôi biết là chính Hiền giả biết. Pháp ấy
Hiền giả biết là chính tôi biết. Tôi như thế nào, là
Hiền giả như thế ấy. Hiền giả như thế nào là tôi
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 75
như thế ấy.
Nay, hỡi Hiền giả cùng ở đây! Hai chúng ta cùng
chăm sóc Hội chúng này”.
Sau khi chứng đắc thiền định Vô Sở Hữu Xứ, Sa-
môn Siddhattha đã được Đạo sĩ Alārakālāma mời
ở lại để cùng chăm sóc Hội chúng tu học, nhưng
Sa-môn đã từ chối và nói:
“Pháp này không hướng đến yếm ly, không hướng
đến vô tham, không hướng đến đoạn diệt khổ đau,
không hướng đến an tịnh, không hướng đến
thượng trí, không hướng đến giác ngộ, không
hướng đến Niết bàn mà chỉ đưa đến chứng đạt Vô
Sở Hữu Xứ”.
Nói như vậy xong, Sa-môn Siddhattha xin phép
Đạo sĩ Alārakālāma lên đường tiếp tục cuộc tầm
đạo của mình.
Bấy giờ, Sa-môn Siddhattha vượt sông Ganga
76 Thích Thái Hòa
(Hằng), đi sâu vào nội địa của xứ Magadha, một
vương quốc có nhiều nhà đạo sĩ ẩn tu nổi tiếng.
Sa-môn Siddhattha đã tiếp xúc với những người tu
theo trường phái Lõa thể và Khổ hạnh.
Những người tu tập theo trường phái này chủ
trương, khổ, vui, họa hay phúc của con người đều
do tiền nghiệp đã định sẵn, muốn thoát khỏi tiền
nghiệp phải luyện tập khổ hạnh để được giải thoát.
Nhưng, chủ trương và những phương pháp này đã
không được Sa-môn Siddhattha chấp nhận.
Một hôm tại sườn núi Pandava, cách kinh thành
Rajagaha của vương quốc Magadha không xa, Sa-
môn Siddhattha thực hành pháp khất thực, và đã
gặp vua Bimbisāra (Tần-bà-sa-la). Vua đem lòng
kính mến, sau đó vua đã tìm đến sườn núi Pandava
để trò chuyện.
Vua nói:
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 77
“Trẫm là Quốc vương của xứ Magadha đến đây để
mời Sa-môn về kinh thành với Trẫm. Trẫm ước ao
có Sa-môn bên mình để thấm nhuần đạo đức của
người. Có được người ở bên Trẫm, chắc chắn
nước Magadha sẽ có hòa bình và thịnh trị”.
Sa-môn mỉm cười và nói :
“Thưa đại vương, bần đạo đã quen sống ở chốn
núi rừng”.
Vua nói:
“Sa-môn ở đây thực là cực khổ, giường chiếu
không có, người hầu hạ cũng không. Nếu người
chấp nhận về với Trẫm, Trẫm sẽ dành cho người
một cung điện, để người cư trú và dạy dỗ”.
Sa-môn nói:
“Thưa đại vương, đời sống cung điện không thích
hợp với bần đạo. Bần đạo cố tìm cho ra con đường
giải thoát để tự cứu mình và người. Đời sống cung
78 Thích Thái Hòa
điện không thích hợp với hoài bão của bần đạo”.
Vua nói:
“Nếu người không bằng lòng lời thỉnh cầu của
Trẫm, thì khi nào người tìm ra được đạo lớn, xin
người hãy trở về đây chỉ dạy cho Trẫm”.
Lời thỉnh cầu của vua Bimbisāra đã được Sa-môn
Siddhattha hứa khả.
Sau đó, Sa-môn Siddhattha lại tìm đến đạo tràng tu
học của nhà đạo sĩ Uddaka Rāmaputta để tham học.
Sa-môn thưa với đạo sĩ rằng:
“Thưa Hiền giả, tôi muốn sống phạm hạnh trong
pháp luật này”.
Đạo sĩ nói:
“Này Tôn giả, hãy sống và an trú, pháp này là như
vậy, khiến cho kẻ có trí không bao lâu như vị bổn
sư của mình, tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú”.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 79
Đạo sĩ đã trao cho Sa-môn phương pháp thiền
định Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ.
Sau khi được trao phương pháp thiền định này,
Sa-môn liền suy nghĩ:
“Không phải Uddhaka Rāmaputta mới có lòng tin,
ta cũng có lòng tin. Không phải Uddhaka
Rāmaputta mới có tinh tấn, ta cũng có tinh tấn.
Không phải chỉ có Uddhaka Rāmaputta mới có
niệm, ta cũng có niệm. Không phải chỉ có
Uddhaka Rāmaputta mới có định, ta cũng có định.
Không phải chỉ có Uddhaka Rāmaputta mới có
tuệ, ta cũng có tuệ.
Vậy, ta hãy cố gắng chứng ngộ được pháp mà
Uddaka Rāmaputta tuyên bố”.17
Sa-môn thực tập thiền định Phi Tưởng Phi Phi
Tưởng Xứ không bao lâu, ngài đã chứng đạt. Sa-
17
Kinh Thánh Cầu-Trung I, tr165, ĐHVH-1973
80 Thích Thái Hòa
môn đến thưa với đạo sĩ Uddhaka Rāmaputta
rằng:
“Thưa Hiền giả, có phải là Hiền giả đã tự tri, tự
chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức như
vậy?”.
Đạo sĩ trả lời:
“Vâng, tôi đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố
pháp này đến mức độ như vậy”.
Sa-môn đã nói hết sự chứng đắc về định Phi
Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ cho đạo sĩ nghe. Và sau
đó đạo sĩ nói với Sa-môn như sau:
“Những gì tôi chứng đạt và hiểu biết về định này,
thì Tôn giả cũng đã chứng đạt và hiểu biết”.
Sau khi nói như vậy xong, đạo sĩ đã mời Sa-môn ở
lại cùng với đạo sĩ để chăm sóc và dạy dỗ đồ
chúng, nhưng Sa-môn đã từ chối và nói:
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 81
“Pháp này không hướng đến yếm ly, không dẫn
đến vô tham, không dẫn đến đoạn tận khổ đau,
không hướng đến an tịnh, không hướng đến
thượng trí, không hướng đến giác ngộ, không
hướng đến Niết bàn mà chỉ đưa đến chứng đạt Phi
Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ”.
Sa-môn nói:
“Định này là một trạng thái đạt được của tâm,
vượt ra ngoài những nhận thức thông thường và có
an lạc trong khi an trú trong định, chứ khi xuất
định, thì trạng thái khổ đau và sự trói buộc của
sinh tử vẫn không thể nào thoát khỏi.
Định này là nơi trú ẩn tạm thời của sự an lạc, chứ
không phải là chìa khóa mở tung cánh cửa sinh
tử”.
Sa-môn Siddhattha từ giã đạo sĩ Uddhaka
Rāmaputta, lại tiếp tục cuộc hành trình của mình.
82 Thích Thái Hòa
Sa-môn đi về hướng Tây, vượt qua cánh đồng
ruộng lúa, lội qua sông Neranjara (Ni Liên
Thuyền), đến ngọn núi Dungsir thuộc địa phận của
tụ lạc Uruvela, có nhiều hang động, Sa-môn quyết
định dừng lại ở đây để tiếp tục công phu tu tập.
Ngồi yên lắng, kiểm nghiệm lại sự tu tập của mình,
trong tư tưởng của Sa-môn Siddhattha khởi lên ba ví
dụ:
- Ví dụ thứ nhất: ví như có một khúc cây đẫm
ướt, đầy nhựa sống và đặt ở trong nước.
Lại có người cầm dụng cụ đến lấy lửa với suy
nghĩ:
“Ta sẽ nhen lửa, hơi nóng sẽ hiện ra”. Nhưng, dù
cho người ấy có cọ xát đến bao nhiêu đi nữa, lửa
vẫn không hiện ra được.
Tại sao? Vì khúc cây bị ướt đẫm, lại bị ngâm
trong nước, nên người ấy càng làm càng phát sinh
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 83
mệt nhọc và phiền muộn.
Cũng vậy, những ai không xả ly các dục vọng của
thân và tâm, thì họ sẽ không đạt được tri kiến Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác.
- Ví dụ thứ hai: ví như một khúc cây bị đẫm ướt,
đầy nhựa sống và đã được vớt lên khỏi nước.
Lại có người cầm dụng cụ đến lấy lửa với suy
nghĩ:
“Ta sẽ nhen lửa, hơi nóng sẽ hiện ra”. Nhưng, dù
cho người ấy có cọ xát bao nhiêu đi nữa, lửa vẫn
không hiện ra được.
Tại sao? Vì khúc cây bị ướt đẫm, mặc dù nó đã
vớt lên khỏi nước. Nhưng, người ấy càng làm
càng phát sinh mệt nhọc và phiền muộn.
Cũng vậy, những ai chỉ xả ly các dục vọng về thân
mà không xả ly các dục vọng về tâm, thì dù cho
84 Thích Thái Hòa
người ấy có tu tập vẫn không có kết quả. Người ấy
không thể thành tựu Tri kiến Vô thượng.
- Ví dụ thứ ba: ví như một khúc cây khô, không
còn nhựa sống, được vớt lên khỏi nước.
Lại có một người cầm dụng cụ đến làm lửa với ý
nghĩ :
“Ta sẽ nhen lửa, lửa sẽ hiện ra”.
Người ấy bắt đầu cọ xát và lửa nóng bắt đầu hiện
ra. Người ấy lấy được lửa .
Tại sao như vậy? Vì cây đã khô, lại được vớt lên
khỏi nước, và đặt vào chỗ khô ráo.
Cũng vậy, người xả ly dục vọng của thân, đoạn trừ
dục vọng của tâm, người ấy tu tập và chứng đạt
được Tri kiến Vô thượng.
Sau khi tư tưởng của Sa-môn Siddhattha khởi lên
ba ví dụ như vậy, Sa-môn bắt đầu thực tập phương
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 85
pháp chế ngự dục vọng của thân và tâm.
Sa-môn suy nghĩ: “Ta hãy nghiến răng lại, dán
chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp
phục tâm, đánh bại tâm”.
Sau khi suy nghĩ và thực tập như vậy, mồ hôi Sa-
môn thoát ra từ nách, tâm an trú không dao động,
nhưng thân thể vẫn bị kích động và không khinh
an.
Bấy giờ, Sa-môn lại suy nghĩ: “Ta hãy tu chỉ tức
thiền”, và liền thực tập như sau:
“Ngưng hơi thở vào, chỉ thở ra ngang qua miệng,
mũi và tai”.
Khi đang thực tập như vậy, Sa-môn có cảm giác
như đang có ngọn gió mạnh kinh khủng thổi lên
đau nhức trong đầu, ví như đang có thanh kiếm
của chàng lực sĩ bửa vào đầu vậy.
86 Thích Thái Hòa
Bấy giờ, tâm trí của Sa-môn không bị dao động,
nhưng thân thể vẫn bị kích thích và không có
khinh an.
Sa-môn vẫn tiếp tục thực hành ý nghĩ: “Ta tu chỉ
tức thiền”.
Sa-môn ngưng thở vào và chỉ thở ra qua miệng,
mũi và tai.
Trong khi Sa-môn đang thực tập như thế, Sa-môn
có cảm giác là đầu đang bị đau một cách kinh
khủng, ví như đang có một người lực sĩ dùng giây
da quấn tròn và xiết chặt ở trên đầu.
Bấy giờ, tâm trí Sa-môn không bị dao động,
nhưng thân thể bị kích động và không có khinh an.
Sa-môn vẫn tiếp tục thực tập phương pháp “Ta tu
chỉ tức thiền”. Bấy giờ Sa-môn có cảm giác một
cơn gió mạnh kinh khủng cắt ngang qua bụng, ví
như con bò bị tay đồ tể cầm dao bén cắt thái.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 87
Và Sa-môn vẫn tiếp tục thực tập phương pháp này,
bấy giờ nơi thân thể có cảm giác nóng bỏng đang
khởi lên, ví như hai lực sĩ đang bắt tay của một
người yếu đặt vào một lò than nóng để nướng.
Tuy vậy, tâm chí của Sa-môn không bị dao động,
nhưng thân thể bị dao động và không có khinh an.
Lại nữa, Sa-môn tiếp tục suy nghĩ: “Ta hãy giảm
thiểu tối đa sự ăn uống”.
Từ đó, Sa-môn giảm dần sự ăn uống cho đến một
ngày chỉ ăn một ít hạt mè hoặc ít hạt đậu xanh…
và không còn quan tâm đến sự ăn uống nữa.
Sa-môn thực tập khổ hạnh như vậy, một mình ở
trên núi cho đến tháng thứ tư, mới có năm anh em
Kiều Trần Như (Koñdañña) đệ tử của Đạo sĩ
Uddaka Rāmaputta tìm đến để cùng tu khổ hạnh.
Sa-môn và năm vị kia cùng tu khổ hạnh như vậy,
nhưng chẳng bao lâu thân thể của quý vị đều gầy
88 Thích Thái Hòa
còm.
Sa-môn đã trải qua một thời gian dài thực tập khổ
hạnh như vậy, nhưng con đường giải thoát, giác
ngộ vẫn còn xa tận chân trời.
Sa-môn liền suy nghĩ: “Trong quá khứ có lần ta
theo phụ hoàng và hoàng hậu dự lễ Hạ điền, ta
ngồi dưới gốc cây Jambu sao có sự an lạc phát
sinh lạ lùng. Có phải trạng thái an lạc này dẫn đến
sự Giác ngộ không? Tại sao ta lại sợ một niềm vui
do ly dục, ly các pháp bất thiện đem lại, bây giờ
thân thể của ta đã gầy yếu như thế này không dễ gì
ta thực tập thiền quán để có được niềm vui ấy”.
Từ đó, Sa-môn từ bỏ cách tu khổ hạnh, bước
xuống sông Neranjara để tắm rửa xong trở lại khu
rừng Uruvela, nhưng nửa đường thì bị kiệt sức và
nằm bất tỉnh tại chỗ.
Bấy giờ có cô bé chăn bò tên là Sujata (Tu Xà Đề)
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 89
được mẹ giao cho sữa và đề hồ vào rừng để cúng
thần Núi.
Cô bé thấy Sa-môn nằm bất tỉnh, liền đem sữa
thấm vào môi và cổ, chẳng bao lâu Sa-môn thấy
trong người khỏe và tỉnh dậy, tiếp tục dùng hết bát
sữa, bấy giờ sức khỏe phục hồi, sau đó Ngài từ bỏ
phép tu khổ hạnh và trở lại ăn uống bình thường.
Năm người bạn cùng tu khổ hạnh đã chê trách và
mất niềm tin đối với Sa-môn. Năm vị ấy nói:
“Sa-môn Gotama, nay sống đầy đủ vật chất, từ bỏ
tinh tấn, trở lui đời sống sung túc”.
Từ bỏ khổ hạnh, Sa-môn đến dưới gốc cây Pippāla
để tọa thiền.
Một trạng thái an lạc bắt đầu phát sinh trong tâm
hồn. Sa-môn đã để tâm trong tâm và theo dõi những
cảm giác ấy. Và Sa-môn biết rất rõ, những cảm giác
này do ly trừ các dục và các pháp bất thiện đem lại.
90 Thích Thái Hòa
Sa-môn đã theo dõi sự an lạc ấy và sự tồn tại của
chúng trên thân và tâm. Những trạng thái an lạc này
đã không làm cho thân và tâm của Sa-môn bị dao
động.
Chính ở trạng thái này, Sa-môn đã chứng đạt Sơ
thiền.
Tiếp tục con đường thiền quán, Sa-môn đã chứng
đạt trạng thái thiền định thứ hai, tâm vắng bặt sự
suy tầm và theo dõi lạc thọ do ly dục sinh khởi.
Bấy giờ tâm của Sa-môn ở trạng thái an tịnh thuần
nhất và tâm an tịnh thuần nhất, nên hỷ và lạc phát
sinh.
Từ trạng thái thiền định do ly dục phát sinh hỷ lạc,
qua đến trạng thái tâm thuần nhất sinh khởi hỷ lạc,
Sa-môn đã dẫn tâm đến trạng thái thiền định thứ
ba, bấy giờ tâm của Sa-môn đạt đến trạng thái an
lạc hết sức thù thắng và có chánh niệm tỉnh giác
đối với trạng thái thiền định này. Sa-môn biết rõ
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 91
trạng thái thiền định hỷ lạc thù thắng này là do
tâm buông bỏ các hỷ lạc của trạng thái thiền định
thứ hai đem lại.
Tiếp tục đi sâu vào thiền quán, Sa-môn giữ chánh
niệm tỉnh giác, tâm hoàn toàn thuần tịnh, không
còn bóng dáng của khổ thọ, của lạc thọ, của ưu
thọ, của hỷ thọ và của niệm tưởng. Đây chính là
trạng thái thiền định thứ tư mà Sa-môn đã đạt
được.
Đạt được thiền định thứ tư, Sa-môn tiếp tục đi
vào thiền quán, lấy lão tử làm đối tượng quán
chiếu để thấy rõ sanh, lấy sanh làm đối tượng
quán chiếu để thấy rõ hữu, lấy hữu làm đối
tượng quán chiếu để thấy rõ thủ, lấy thủ làm đối
tượng quán chiếu để thấy rõ ái, lấy ái làm đối
tượng quán chiếu để thấy rõ thọ, lấy thọ làm đối
tượng quán chiếu để thấy rõ xúc, lấy xúc làm đối
tượng quán chiếu để thấy rõ lục nhập, lấy lục
92 Thích Thái Hòa
nhập làm đối tượng quán chiếu để thấy rõ danh
sắc, lấy danh sắc làm đối tượng quán chiếu để
thấy rõ thức, lấy thức làm đối tượng quán chiếu
để thấy rõ hành, lấy hành làm đối tượng quán
chiếu để thấy rõ vô minh, lấy vô minh làm đối
tượng quán chiếu để thấy rõ vô minh diệt thì
hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì
danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt,
lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt,
thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt
thì hữu diệt, hữu diệt thì sanh diệt, sanh diệt thì
lão tử diệt.
Sau khi thiền quán, Sa-môn không những thấy rõ
tính chất lưu chuyển và hoàn diệt của Mười hai
duyên khởi, mà còn thấy rõ tính chất liên đới, tế
nhị và sâu thẳm của từng yếu tố trong Mười hai
duyên khởi ấy.
Trong mỗi một yếu tố của mười hai duyên khởi ấy,
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 93
có thể là nhân, có thể là duyên và cũng có thể là quả,
chúng tương tác lên nhau và có mặt trong nhau.
Nhờ quán chiếu và thấy rõ được như vậy, nên Sa-
môn đã dùng năng lực của định chặt đứt tính chất
tương liên, tương tác nhân duyên, nhân quả của
chúng.
Sau khi đã quán chiếu Mười hai duyên khởi, Sa-
môn tiếp tục quán chiếu tự thân. Ngài thấy rõ sắc
uẩn không phải là tự ngã, chúng chỉ là một tập hợp
của nhân duyên sinh diệt liên tục. Thọ uẩn không
phải là tự ngã, chúng chỉ là tập hợp của nhân
duyên sinh diệt liên tục. Tưởng uẩn không phải là
tự ngã, chúng chỉ là một tập hợp của nhân duyên
sinh diệt liên tục. Hành uẩn không phải là tự ngã,
chúng chỉ là một tập hợp của nhân duyên sinh diệt
liên tục. Thức uẩn không phải là tự ngã, chúng chỉ
là một tập hợp của nhân duyên sinh diệt liên tục.
Trong lúc quán chiếu như thế, Ngài thấy tập thể
94 Thích Thái Hòa
của năm uẩn là không thực đã đành mà tự thân của
mỗi uẩn cũng không thực, không có ngã thể,
chúng chỉ là duyên khởi, vô thường và vô ngã.
Sở dĩ chúng sanh khổ đau là do nhận thức sai lầm
về tự thân và các pháp. Tự thân là vô ngã mà cho
là ngã, các pháp là vô thường mà cho là thường.
Do quán chiếu và thấy rõ như thế, nên chẳng bao
lâu Ngài chứng đắc “Ngã không”.
Từ quán chiếu tự thân đến quán chiếu toàn thể vũ
trụ, Ngài thấy không có pháp nào trong toàn thể
vũ trụ hiện hữu đơn điệu ngoài nhân và duyên.
Nghĩa là “Cái này có là cái kia có, cái này không
là cái kia không. Cái này có mặt trong cái kia và
cái kia có mặt trong cái này. Trong cái một có cái
tất cả, và trong cái tất cả có cái một, chúng liên hệ
trùng trùng duyên khởi với nhau”.
Và trong sự liên hệ trùng trùng duyên khởi ấy,
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 95
không có yếu tố nào là thực hữu. Ngài đã quán sát
đối với vạn pháp một cách thuần thục như vậy,
nên Ngài đã chứng đắc “Pháp không” và hoàn
toàn tự tại đối với các pháp.
Trong khi quán chiếu tự tính vô thường và vô ngã
của vạn pháp, Ngài lại thấy rõ “Không tính”
(„Sūnyata) là tính không sinh diệt của vạn pháp,
tính vượt thoát mọi ý niệm của tri giác. Do sự
quán chiếu thâm sâu như vậy, nên tuệ giác bắt đầu
phát sinh ở nơi Ngài.
Bằng tuệ giác ấy, Ngài soi chiếu vào tự thân và
thấy rõ nhân duyên của mình từ một kiếp, hai kiếp
cho đến vô lượng kiếp trong quá khứ, với tên như
vậy, với dòng họ như vậy, với cha mẹ như vậy,
với quốc độ như vậy, với hành nghiệp như vậy…
sự thấy rõ như vậy gọi là Túc mạng minh.
Ngài đã chứng đạt được minh này vào cuối canh
một của đêm Thành đạo.
96 Thích Thái Hòa
Tiếp tục thiền quán, Ngài dùng tuệ giác để soi
chiếu nhân duyên và nghiệp quả của hết thảy
chúng sanh, Ngài đã thấy rõ nhân duyên và nghiệp
quả của những loài chúng sanh sanh ra từ ẩm ướt,
từ trứng, từ thai, từ sự biến hóa. Sự thấy rõ như
vậy gọi là Thiên nhãn minh.
Ngài đã chứng được minh này vào cuối canh hai
của đêm Thành đạo.
Ngài vừa chứng Thiên nhãn minh thì lúc ấy sấm
sét tung nổ vang trời và mưa bắt đầu tuôn xuống
xối xả.
Nhưng, Ngài vẫn điềm nhiên bất động, dẫn tâm
hướng đến Lậu tận trí. Và đã biết như thật: “Đây
là sự thật của Khổ. Đây là sự thật tập khởi của
Khổ. Đây là sự thật vắng mặt của Khổ. Và đây là
sự thật của con đường thoát ly Khổ đau”.
Sau khi đạt được sự hiểu biết chân thật như vậy
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 97
rồi, Ngài lại tiếp tục quán chiếu để thấy rõ:
“Đây là những ước muốn mê lầm. Đây là những
kiến thức mê lầm. Đây là những mê lầm do vô
minh.
Đây là nguyên nhân của sự ước muốn mê lầm.
Đây là những nguyên nhân của những kiến thức
mê lầm. Đây là nguyên nhân của sự mê lầm do vô
minh.
Đây là sự vắng mặt của những nguyên nhân mê
lầm. Đây là sự vắng mặt những nguyên nhân của
kiến thức mê lầm. Đây là sự vắng mặt của những
nguyên nhân sinh khởi vô minh.
Đây là con đường đưa đến sự diệt trừ những ước
muốn mê lầm. Đây là con đường đưa đến sự diệt
trừ những kiến thức mê lầm. Đây là con đường
đưa đến sự diệt trừ những mê lầm do vô minh”.
Bằng con đường thiền quán soi rọi vào tâm thức
98 Thích Thái Hòa
như vậy, Ngài đã loại hết thảy dục vọng, hết thảy
những nhận thức sai lầm, và phá tan toàn bộ vô
minh.
Bấy giờ, Ngài biết rõ, Ngài đã hoàn toàn giải
thoát, không còn bị ràng buộc bởi các lậu hoặc và
tự tuyên bố: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành,
việc đáng làm đã làm xong, vĩnh viễn không còn
tái sinh nữa”.
Với sự thấy rõ về chính mình như vậy, gọi là Lậu
tận minh.
Ngài đã chứng đạt minh này vào cuối canh ba của
đêm Thành đạo.
Và cùng lúc ấy, Ngài quán chiếu, thấy rõ mọi nhân
duyên của hết thảy các ngôn ngữ và âm thanh, nên
Ngài đã chứng được Thiên nhĩ thông.
Tiếp tục thiền quán, Ngài chứng được Tha tâm
thông, biết rõ hết thảy tâm trạng của vạn loại chúng
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 99
sanh.
Và đồng thời, Ngài đã chứng luôn Thần túc
thông, Ngài không còn bị bất cứ một vật nào làm
chướng ngại bước chân đi.
Chướng ngại đã qua, bóng tối đã tan, nắng ấm đã
lên, Ngài nhìn mọi vật mỉm cười và tự nhủ: “Cửa
vô sinh bất diệt đã mở ra, Đạo lớn đã thành”.
Lúc bấy giờ là ngày 8 tháng 12 âm lịch, khi Ngài
ba mươi lăm tuổi, hoặc có tài liệu cho rằng, Ngài
thành đạo vào lúc ba mươi mốt tuổi.
Sau khi thành đạo, đức Thế Tôn không vội chuyển
vận pháp luân, Ngài đã dành bảy tuần để chiêm
nghiệm sâu vào đạo lý mà Ngài vừa chứng ngộ.
Tuần thứ nhất
Ngài ngồi yên lắng để cảm nhận niềm vui hạnh
phúc, và sau đó, vào đêm cuối tuần Ngài mới bắt
100 Thích Thái Hòa
đầu quán chiếu sâu vào nguyên lý Mười hai duyên
khởi.
Đầu tiên Ngài quán chiếu nguyên lý Mười hai
duyên khởi từ dưới lên và từ trên xuống.
Ngài ghi nhận và thấy rõ rằng: “Do cái này sanh,
nên cái kia sanh. Do cái kia có, nên cái này có. Do
duyên vô minh mà có các hành, do duyên các
hành mà có thức; cho đến do duyên sanh mà có
lão tử”.
Thấy rõ ràng như vậy xong, đức Thế Tôn tự nói bài
kệ:
“Bậc Thánh nhìn các pháp
Sanh khởi do tương quan
Thấy pháp tương quan sinh
Pháp do nhân duyên có”.
Vào nửa đêm, đức Thế Tôn quán chiếu tiếp Mười
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 101
hai duyên khởi, từ đầu đến cuối, từ thuận đến
nghịch. Ngài ghi nhận và thấy rõ rằng: “Do không
có cái này, nên không có cái kia. Do cái kia diệt,
nên cái này diệt. Do vô minh diệt, nên hành diệt,
cho đến sanh diệt, nên lão tử diệt”.
Thấy rõ ràng như vậy xong, đức Thế Tôn nói bài kệ:
“Bậc Thánh nhìn các pháp
Sanh khởi do tương quan
Thấy pháp tương quan sinh
Diệt từ nhân duyên diệt”.
Vào cuối đêm, đức Thế Tôn quán chiếu tiếp Mười
hai duyên khởi, từ đầu đến cuối, từ cuối đến đầu.
Ngài ghi nhận và thấy rõ ràng: “Cái này sanh, nên
cái kia sanh; cái này không có, nên cái kia không
có. Do cái này diệt, nên cái kia diệt. Do vô minh
duyên hành, cho đến sanh duyên lão tử, chúng đều
tương quan sinh khởi. Nếu vô minh không có thì
102 Thích Thái Hòa
hành không có, cho đến sanh không có thì lão tử
không có. Nếu vô minh diệt thì hành diệt cho đến
sanh diệt thì lão tử diệt”.
Quán chiếu và thấy rõ ràng như vậy xong, đức Thế
Tôn tự nói bài kệ:
“Bậc Thánh nhìn cuộc đời
Thấy tương quan sinh diệt
Tà kiến rả tan tành
Mặt trời tỏa không trung”.
Tuần thứ hai
Sau khi quán chiếu nguyên lý Mười hai duyên
khởi xong, đức Thế Tôn đứng dậy rời khỏi cây
Pippāla không xa, ngồi xuống với tư thế hoa sen,
xây mặt vào cây Pippāla, lấy cây Pippāla làm đối
tượng quán chiếu suốt bảy ngày, sau đó Ngài nhìn
cây Pippāla mỉm cười và nói:
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 103
“Chính ở đây, ta đặt gánh nặng sanh tử xuống. Ta
chấm dứt vô biên ngằn mé của khổ đau”.
Tuần thứ ba
Đức Thế Tôn rời cây Pippāla đi kinh hành và ngồi
kiết già dưới cây Ma Lê Chi, trải qua bảy ngày
cảm nhận niềm vui của giải thoát ở trong thiền
định. Và sau khi Ngài xuất định, có Đại Long
Vương tên là Kala đến đảnh lễ đức Thế Tôn và
thưa:
“Bạch đức Thế Tôn! Cung điện này của con, xưa
con đã từng cúng dường chư Phật quá khứ, các
ngài Câu Lưu Tôn, Câu Na Hàm Mâu Ni và Ca
Diếp vì thương con nên đã thọ nhận, và các Ngài
đều đã có an trú trong cung điện này. Nay, đức
Thế Tôn là vị thứ tư, xin Ngài hãy thọ nhận sự
cúng dường cung điện của con, để cho con được
đầy đủ công đức từ bốn đức Thế Tôn”.
104 Thích Thái Hòa
Bấy giờ đức Thế Tôn hoan hỷ thọ nhận cung điện
của Đại Long Vương Kala.
Tuần thứ tư
Đức Thế Tôn ngồi thiền định ở trong cung điện
Đại Long Vương Kala cúng dường trải qua bảy
ngày để cảm nhận niềm vui giải thoát.
Sau đó, Ngài xuất định và gọi Long Vương đến
bên cạnh, truyền trao ba pháp tự quy y và năm
giới cấm.
Đại Long Vương là vị thọ Tam quy ngũ giới làm
Ưu-bà-tắc đầu tiên của các loài súc sanh trong thế
gian.
Bấy giờ cũng có một Long Vương tên là
Mucalinda (Mục Chơn Lân Đà) hướng đến đức
Thế Tôn đảnh lễ và thưa:
“Bạch đức Thế Tôn! Cung điện này là của con,
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 105
xưa con đã từng cúng dường chư Phật quá khứ,
các ngài Câu Lưu Tôn, Câu Na Hàm Mâu Ni và
Ca Diếp, các Ngài đã vì thương con mà thọ nhận,
đều có an trú trong cung điện này.
Nay, đức Thế Tôn là vị thứ tư, xin Ngài hãy thọ
nhận sự cúng dường cung điện của con, để con có
đầy đủ công đức và lợi ích lớn từ bốn đức Thế Tôn”.
Bây giờ đức Thế Tôn hoan hỷ nhận lời.
Tuần thứ năm
Sau khi đức Thế Tôn thọ nhận sự cúng dường
cung điện của Long Vương Mucalinda (Mục Chơn
Lân Đà) xong, Ngài ngồi yên lắng đi vào thiền
định bảy ngày bất động để cảm nhận sâu niềm vui
giải thoát.
Trong bảy ngày đó, trời đất dông bão, sấm sét,
mưa gió nổi lên liên tục.
106 Thích Thái Hòa
Bấy giờ Long Vương Mucalinda từ cung điện hiện
ra, dùng đại thân quấn bảy vòng che thân của đức
Thế Tôn, và hiện ra bảy cái đầu làm thành cái lọng
che trên đầu của đức Thế Tôn.
Sau bảy ngày trời đất trở lại yên lắng, Long
Vương thâu thân trở lại hiện ra một chàng thiếu
niên Bà-la-môn đến trước đức Thế Tôn chấp tay
và bạch:
“Bạch đức Thế Tôn! Con không sợ Như Lai bị
quấy nhiễu, con chỉ sợ rét lạnh, nước mưa bụi bặm,
muỗi mòng xúc chạm lên thân thể của Như Lai,
nên con hiện ra thân thể bảy đầu để hộ trì Như Lai
đó thôi!”.
Nhân đó, đức Thế Tôn nói bài kệ:
“Lặng yên, biết đủ vui tối thượng,
Biết đủ nhìn sâu hết thảy pháp.
Thế gian an lạc không não hại,
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 107
Chúng sanh không hại đều an lạc.
Người được an lạc ở trong đời
Hết thảy tham dục đều xa lìa.
Bản tâm kiêu ngạo đều buông sạch,
An lạc nào hơn an lạc này.
Bao nhiêu dục lạc ở trong đời,
Bon chen cho lắm cũng hoàn không,
Hạnh phúc nớ này đem so sánh
Mười sáu phần không được một ty đâu!
Sau khi nói bài kệ này xong, đức Thế Tôn truyền
pháp Tam tự quy y và Ngũ giới cho Mucalinda
Long Vương.
Tuần thứ sáu
Đức Thế Tôn nhận lời cầu thỉnh của Đại đức Uy
Lực Thiên Tử, Ngài đến ngồi dưới gốc cây Ni-
108 Thích Thái Hòa
câu-đà, do vị đó ngày trước, khi còn là em bé chăn
dê trồng. Em bé này là người cúng sữa và mè khi
đức Thế Tôn chưa thành đạo, Ngài đang còn tu
khổ hạnh tại Khổ Hạnh Lâm.
Do phước báu đó, nên chẳng bao lâu em bé đó kết
thúc mạng sống và sinh lên cõi trời Tam Thập
Tam làm vị Đại đức Uy Lực Thiên Tử.
Nay, vị ấy biết đức Thế Tôn đã thành đạo, nên liền
dùng năng lực ánh sáng của chư thiên, xuống đảnh
lễ đức Thế Tôn, xin cúng dường và thỉnh Ngài đến
ngồi dưới gốc cây Ni-câu-đà.
Đức Thế Tôn đã đến cây Ni-câu-đà ngồi yên lắng
bảy ngày trong định, cảm nhận sâu về niềm vui giải
thoát.
Sau bảy ngày từ thiền định khởi dậy, đức Thế Tôn
gọi Đại đức Uy Lực Thiên Tử đến và bảo:
“Ngươi hãy lãnh thọ Tam tự quy và Ngũ giới để
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 109
có được hạnh phúc an lạc lâu dài”.
Sau đó vị Thiên Tử vâng hành đức Thế Tôn thọ trì
Tam tự quy và Ngũ giới.
Như vậy, Đại đức Uy Lực Thiên Tử là vị Thiên
Tử thọ trì Ưu-bà-tắc giới đầu tiên trong hàng chư
Thiên, sau đức Thế Tôn Thành đạo.
Tuần thứ bảy
Từ cây Ni-câu-đà đức Thế Tôn bước đến cây Sai-
lê-ni-ma, ngồi tại đây bảy ngày để chiêm nghiệm
sâu niềm vui giải thoát.
Sau khi xuất định, Ngài đã được Tứ Thiên Vương
dâng bát cúng dường và Ngài cũng đã nhận tặng
phẩm sữa cùng với đề hồ đầu tiên từ hai vị thương
gia là Tapassu và Bhallikā dâng cúng.
Đức Thế Tôn đã dạy pháp Tam tự quy và truyền
pháp Tam tự quy cùng Ngũ giới cho hai vị
110 Thích Thái Hòa
thương gia.
Như vậy, hai vị thương gia Tapassu và Bhallikā là
đệ tử Ưu-bà-tắc đầu tiên của đức Thế Tôn trong
thế giới loài người.18,(A)
Chuyển Pháp Luân
Theo Kinh Ariyapariyesana, sau khi đức Thế Tôn
thành đạo, Ngài chiêm nghiệm và quán chiếu sâu
vào Pháp do Ngài mới chứng được, là sâu thẳm, là
vi diệu, cao quý, siêu lý luận, chỉ có người trí mới
hiểu thấu, còn đối với đa số quần chúng thì đam
mê ái dục, chạy theo ái dục, khó mà thấy được
pháp y tánh duyên khởi, khó mà thấy được “Định
lý tất cả hành là tịch tịnh….”. “Nếu ta thuyết pháp
mà họ không hiểu thì thiệt là khó lòng cho ta”. Và
lúc bấy giờ đức Thế Tôn nói bài kệ:
18
Tham khảo Phật Bản Hạnh Tập kinh, cuốn 31 và 32,
tr796-805, Đại chính III
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 111
“Sao ta nói Chánh pháp
được chứng ngộ khó khăn
những ai còn tham sân
khó chứng ngộ pháp này!
Đi ngược dòng, thâm diệu
khó thấy, thật tế nhị
kẻ ái nhiễm, vô minh,
không thấy được pháp này”.
Bấy giờ, Phạm Thiên Sahampati đọc được luồng
tư tưởng của Thế Tôn, nên liền suy nghĩ và than
rằng:
“Than ôi, thế giới sẽ tiêu diệt, thế giới sẽ bị hoại
vong, nếu tâm của Như Lai, bậc A-la-hán, bậc
Chánh Đẳng Giác hướng về Niết bàn, chẳng muốn
thuyết Pháp”.
Sau khi suy nghĩ và than như vậy xong, Phạm
112 Thích Thái Hòa
Thiên Sahampati liền dùng thần lực biến mất từ
thế giới Phạm Thiên, và xuất hiện trước mặt đức
Thế Tôn, cung kính chấp tay bạch Ngài rằng:
“Bạch đức Thế Tôn, xin Ngài hãy thuyết pháp!
Bạch đức Thiện Thệ, xin Ngài hãy thuyết pháp!
Có những chúng sanh ít nhiễm bụi đời sẽ bị nguy
hại, nếu không được nghe Chánh pháp. Nếu những
vị này được nghe Chánh pháp họ sẽ thông hiểu”.
Phạm Thiên Sahampati nói tiếp bài kệ:
“Xưa tại Magadha
hiện ra pháp bất tịnh
pháp do tâm cấu uế
do suy tư tác thành.
Hãy mở tung, mở rộng
cánh cửa bất tử này
hãy để chúng nghe Pháp
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 113
Bậc thanh tịnh chứng ngộ.
Như đứng trên tảng đá
trên đỉnh núi cao tột
có người đứng nhìn xuống
đám chúng sanh quay cuồng.
Cũng vậy, ôi Thiện Thệ
Bậc biến nhãn cùng khắp
bước lên ngôi lâu đài
xây dựng bằng Chánh pháp!
Bậc thoát ly sầu muộn
nhìn xuống đám chúng sanh
bị sầu khổ áp bức
bị sanh già chi phối!
Đứng lên vị anh hùng
Bậc chiến thắng chiến trường
Vị trưởng đoàn lữ khách
114 Thích Thái Hòa
Bậc thoát ly nợ nần!
Hãy đi khắp thế giới
Bậc Thế Tôn Chánh Giác
hãy thuyết vi diệu pháp
Người nghe sẽ thâm hiểu!”.
Sau khi nghe lời cầu thỉnh của Phạm Thiên
Sahampati, đức Thế Tôn quán chiếu hết thảy căn
tánh của chúng sanh, mỗi loài sinh ra từ những
nhân duyên khác biệt.
Có người bị nhiễm bụi đời sâu nặng, có người mới
bị đơn sơ, có người căn tánh chậm lụt, có người
căn khí lanh lợi, có người dễ dạy, có người khó
dạy…Và Ngài nhìn xuống một hồ sen, trong hồ có
loại sen xanh, có loại sen trắng, có loại sen hồng…
có loại đang ở sâu dưới nước, có loại đang trồi lên
ngang tầm mặt nước, có loại vượt hẳn lên khỏi
mặt nước… Lại có những bông sen đang búp, có
những bông sen đang nở và có những loại bông
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 115
sen đã nở…
Sau khi quán sát những bông sen trong hồ như vậy
rồi, đức Thế Tôn nói với Phạm Thiên Sahampati
rằng:
“Cửa bất tử mở rộng,
cho những ai chịu nghe.
Hãy từ bỏ tín tâm
không chính xác của mình.
Tự nghĩ đến phiền toái
Ta đã không muốn giảng
tối thượng vi diệu Pháp
giữa chúng sanh loài người”.
Nói với Sahampati xong, đức Thế Tôn nhận lời
thỉnh cầu của Sahampati.
Bấy giờ, đức Thế Tôn liền nghĩ đến Đạo sư
Alārakālama, người có thể lãnh hội Chánh pháp.
116 Thích Thái Hòa
Nhưng, chư thiên đã báo cho Ngài, Đạo sĩ đã
mệnh chung bảy ngày rồi.
Đức Thế Tôn liền nghĩ đến Đạo sĩ Uddaka
Rāmaputta, người có thể lãnh hội được Chánh
pháp. Nhưng, chư thiên đã báo cho Ngài biết Đạo
sĩ đã mệnh chung ngày hôm qua.
Đức Thế Tôn liền nghĩ đến năm anh em Kiều Trần
Như (Koñdañña) đang tu tập khổ hạnh tại Vườn
Nai (Isipatana), ở Bārānasī, và Ngài muốn đến đây
để giảng dạy Chánh pháp.
Khi đức Thế Tôn đến vườn Isipatana, bước đầu
năm anh em Kiều Trần Như có những lời lẽ không
dễ thương, nhưng sau đó, họ đã được đức Thế Tôn
chuyển hóa.
Đức Thế Tôn đã dạy cho họ rằng: Đừng gọi Ngài
là Hiền giả mà gọi Ngài là Như Lai.
Và đức Thế Tôn nói với họ: “Quý vị không nên
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 117
gọi Như Lai là Trưởng lão, khiến cho quý vị suốt
đêm trường không có lợi ích.
Hỡi quý vị! Như Lai đã chứng được Pháp Cam lồ,
đã biết rõ con đường hướng đến Cam lồ, Như Lai
chính là Đấng Giác Ngộ, đầy đủ tất cả trí, đã được
tự tại, tịch tịnh, các sai lầm đã hoàn toàn dứt sạch.
Hỡi quý vị, hãy đến đây! Như Lai sẽ chỉ bày Giáo
pháp cho quý vị, dạy dỗ cho quý vị, quý vị đúng
như sự chỉ dạy mà thực hành, thì ngay thân hiện
tại của quý vị các mê lầm sẽ được tận diệt hoàn
toàn, quý vị sẽ an trú vào đời sống giải thoát,
thành tựu nếp sống phạm hạnh, điều đáng làm cần
phải làm xong, vĩnh viễn không còn sự tái sinh”.
“Hỡi quý vị ! Ngày xưa quý vị trách tôi rằng:
Trưởng lão Gotama ham thích niềm vui thế tục,
muốn đoạn trừ phiền não mà không kiên trì giới
hạnh, nên đã bị thoái kém.
118 Thích Thái Hòa
Hôm nay, tôi gần gũi quý vị, tôi đến với quý vị,
mỗi vị tự cảm thấy lúng túng.
Do đó, quý vị cần phải biết rằng, không nên gọi
Như Lai là Trưởng lão”.
Bấy giờ, năm anh em Kiều Trần Như đều quỳ
xuống bạch với đức Thế Tôn rằng:
“Bạch đức Thế Tôn! Chúng con xin nguyện được
làm Sa-môn trong giáo pháp của Đấng Giác Ngộ”.
Đức Thế Tôn dạy:
“Hạnh phúc thay, hãy đến đây hỡi Tỷ-khưu!”.
Bấy giờ, quý vị râu tóc tự rụng, thân mặc pháp
phục, liền trở thành Sa-môn oai nghi đỉnh đạc như
vị Tỷ-khưu trải qua trăm tuổi hạ. Họ đảnh lễ đức
Thế Tôn và xin sám hối tất cả những lỗi lầm từ
trước.
Từ đây, đối với Như Lai, họ luôn luôn nhớ nghĩ là
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 119
bậc Đại sư với tâm sung sướng chiêm ngưỡng và
rất mực tôn trọng.
Đức Thế Tôn nói chuyện với năm anh em Kiều
Trần Như xong, thì trời cũng bắt đầu tối. Và đêm
nay, đức Thế Tôn đã nhận Bảo luân, do Bồ tát
Chuyển Pháp dâng cúng.
Bồ tát Chuyển Pháp đã thưa với đức Thế Tôn
rằng:
“Bạch Thế Tôn, quá khứ
Phật Nhiên Đăng thọ ký
Ngài sẽ thành Chánh giác
Hiệu Thích Ca Mâu Ni.
Bấy giờ cũng có con
Con phát khởi nguyện này
khi nào Ngài thành Phật
Con sẽ cúng Bảo luân.
Tất cả hàng trời, người
120 Thích Thái Hòa
và các chúng Bồ tát
số đông không kể xiết
đều vì chuyển Pháp Luân.
Mỗi vị dùng thần lực
vật dâng cúng đủ loại
nào đài báu, hoa, lọng…
nhiều kiếp nói không cùng.
Ba ngàn đại thiên giới
Trời, Người, A-tu-la
hết thảy các Long thần…
đều nhất tâm cung thỉnh”.19
Đức Thế Tôn sau khi nhận Bảo luân từ Bồ tát
Chuyển Pháp, Ngài ngồi yên lặng cho đến cuối
đêm, nghĩa là lúc bình minh sắp sửa trở về, đức
Thế Tôn mới gọi năm anh em Kiều Trần Như mà
dạy rằng:
19
Phương Quảng Đại Trang Nghiêm kinh, cuốn 11, tr
607B, Đại chính 3
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 121
“Hỡi quý vị, nên biết!
Người xuất gia có hai trường hợp phải tránh.
Trường hợp thứ nhất là tránh đam mê các dục.
Đam mê các dục đó là hạng phàm phu, không có
hiểu biết, không phải việc làm của các bậc Thánh,
không phù hợp với đạo lý giải thoát, không phải là
tác nhân thành Phật và thành tựu Niết bàn.
Trường hợp thứ hai là tránh sự tư duy thiếu
chân chánh, tự mình ép xác khổ hạnh để mong cầu
giải thoát.
Những hạng người như thế, trong quá khứ, hiện tại
và tương lai đều tự nhận lấy khổ báo.
Hỡi các Tỷ-khưu!
Các vị tu tập cần phải từ bỏ hai cực đoan ấy.
Tôi sẽ nói cho quý vị biết về con đường Trung
122 Thích Thái Hòa
Đạo, quý vị phải hết lòng lắng nghe, ghi nhớ và nỗ
lực thực hành!
Thế nào là con đường Trung Đạo?
Đó là Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ,
Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn,
Chánh niệm, Chánh định. Con đường đủ tám yếu
tố như vậy gọi là Trung Đạo.
Đây là con đường đi đến an lạc, trí tuệ, giác ngộ
và Niết bàn”.
Đức Thế Tôn dạy cho họ về Tứ Thánh Đế bao
gồm cả ba lần chuyển vận đầy đủ cả mười hai
hành tướng.
Chuyển vận Pháp Luân lần thứ nhất, đức Thế Tôn
dạy:
“Hỡi các Tỷ-khưu!
1. Đây là Khổ Thánh Đế, pháp được nghe, chiêm
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 123
nghiệm đúng như lý, mắt trí tuệ, mắt minh triệt,
mắt giác ngộ có thể phát sinh.
Hỡi các Tỷ-khưu!
2. Đây là Khổ Tập Thánh Đế, pháp được nghe,
chiêm nghiệm đúng như lý, mắt trí tuệ, mắt minh
triệt, mắt giác ngộ có thể phát sinh.
Hỡi các Tỷ-khưu!
3. Đây là Khổ Diệt Thánh Đế, pháp được nghe,
chiêm nghiệm đúng như lý, mắt trí tuệ, mắt minh
triệt, mắt giác ngộ có thể phát sinh.
Hỡi các Tỷ-khưu!
4. Đây là Thuận Khổ Diệt Đạo Thánh Đế, pháp
được nghe, chiêm nghiệm đúng như lý, mắt trí tuệ,
mắt minh triệt, mắt giác ngộ có thể phát sinh”.
Chuyển vận Pháp Luân lần thứ hai, đức Thế Tôn
dạy:
124 Thích Thái Hòa
“Hỡi các Tỷ-khưu!
1. Đây là Khổ Thánh Đế, pháp cần phải được hiểu,
cần phải biết đúng từ sự nghe, chiêm nghiệm đúng
như lý, mắt trí tuệ, mắt minh triệt, mắt giác ngộ có
thể phát sinh.
Hỡi các Tỷ-khưu!
2. Đây là Khổ Tập Thánh Đế, pháp cần phải được
hiểu, cần phải đoạn trừ đúng pháp đã được nghe,
chiêm nghiệm đúng như lý, mắt trí tuệ, mắt minh
triệt, mắt giác ngộ có thể phát sinh.
Hỡi các Tỷ-khưu!
3. Đây là Khổ Diệt Thánh Đế, pháp cần phải được
hiểu, cần phải được chứng ngộ đúng như pháp đã
được nghe, chiêm nghiệm đúng như lý, mắt trí tuệ,
mắt minh triệt, mắt giác ngộ có thể phát sinh.
Hỡi các Tỷ-khưu!
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 125
4. Đây là Thuận Khổ Diệt Đạo Thánh Đế, pháp
cần phải được hiểu, cần phải được thực hành đúng
như pháp đã được nghe, chiêm nghiệm đúng như
lý, mắt trí tuệ, mắt minh triệt, mắt giác ngộ có thể
phát sinh”.
Chuyển Pháp Luân lần thứ ba, đức Thế Tôn dạy:
“Hỡi các Tỷ-khưu!
1. Đây là Khổ Thánh Đế, pháp đã được hiểu, đã
biết đúng từ sự nghe, chiêm nghiệm đúng như lý,
mắt trí tuệ, mắt minh triệt, mắt giác ngộ đã có thể
phát sinh.
Hỡi các Tỷ-khưu!
2. Đây là Khổ Tập Thánh Đế, pháp đã được hiểu,
đã được đoạn trừ đúng như pháp đã được nghe, đã
chiêm nghiệm đúng như lý, mắt trí tuệ, mắt minh
triệt, mắt giác ngộ đã có thể phát sinh.
126 Thích Thái Hòa
Hỡi các Tỷ-khưu!
3. Đây là Khổ Diệt Thánh Đế, pháp đã được hiểu,
đã được chứng ngộ đúng như pháp từ sự nghe,
chiêm nghiệm đúng như lý, mắt trí tuệ, mắt minh
triệt, mắt giác ngộ đã có thể phát sinh.
Hỡi các Tỷ-khưu!
4. Đây là Thuận Khổ Diệt Đạo Thánh Đế, pháp đã
được hiểu, đã được thực hành đúng như pháp đã
từng nghe, chiêm nghiệm đúng như lý, mắt trí tuệ,
mắt minh triệt, mắt giác ngộ đã có thể phát sinh.
Hỡi các Tỷ-khưu!
Nếu chưa hiểu rõ pháp Tứ Thánh Đế, dưới ba sự
chuyển vận với mười hai hành tướng, thì mắt trí
tuệ, mắt minh triệt, mắt giác ngộ chưa thể phát
sinh, thì bấy giờ Như Lai không đứng trước tất cả
thế gian, gồm chư Thiên, Ma-vương, Phạm-thiên,
Sa-môn, Bà-la-môn, buông hết tâm phiền não để
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 127
đạt được giải thoát, không thể chứng đắc Vô
thượng Bồ đề.
Hỡi các Tỷ-khưu!
Do Như Lai chứng ngộ pháp Tứ Thánh Đế này,
dưới ba sự chuyển vận với mười hai hành tướng,
nên mắt trí tuệ, mắt minh triệt, mắt giác ngộ đã
được phát sinh, ở trước tất cả thế gian gồm chư
Thiên, Ma-vương, Phạm-thiên, Sa-môn, Bà-la-
môn tâm phiền não đã buông hết, đã được giải
thoát, đã chứng đắc Vô thượng Bồ đề”.
Sau khi, đức Thế Tôn chuyển vận Pháp Luân như
vậy, Trưởng lão Kiều Trần Như và tám mươi ngàn
chư thiên, tách rời được bụi bặm cấu uế, đạt được
cách nhìn thanh tịnh của Chánh pháp.
Bấy giờ, đức Thế Tôn gọi Trưởng lão Kiều Trần
Như mà hỏi:
“Tôn giả có hiểu được Pháp này không?”.
128 Thích Thái Hòa
Tôn giả Kiều Trần Như trả lời:
“Bạch đức Thiện Thệ! Con đã hiểu”.
Đức Thế Tôn chuyển vận ba lần và mười hai hành
tướng Pháp Luân xong, bấy giờ các loài Dược Xoa
trên trái đất nghe, liền hoan hô, báo cho chư Thiên
và loài Người biết, do đó tất cả đều hoan hỷ vui
mừng.20
Sau bài pháp Tứ Thánh Đế, đức Thế Tôn nói bài
pháp Vô Ngã Tướng (Anatta-lakkhana), cho 5 vị
Tỷ-khưu tại vườn Nai.
Đức Thế Tôn dạy:
“Hỡi các Tỷ-khưu!
Quý Thầy phải biết!
Sắc không phải là ta, nếu nó là ta, thì nó đã không
20
Phật Thuyết Tam Chuyển Pháp Luân kinh, số 110,
tr504, Đại chính II.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 129
bệnh, không nhận lấy sự khổ não.
Nếu sắc là ta, ta muốn sắc là như thế nào, thì nó
phải như thế ấy, ta không muốn sắc như thế nào
thì nó không như thế ấy, nó phải tùy thuộc theo ý
muốn của ta. Nhưng, thực tế sắc không tùy thuộc
theo ý muốn của ta. Do đó, nên biết rằng, sắc
không phải là ta. Đối với thọ, tưởng, hành và thức
cũng lại như thế.
Lại nữa, hỡi các Tỷ-khưu! Các Thầy nghĩ như thế
nào, sắc là thường hay vô thường?”.
“Bạch đức Thế Tôn! Sắc là vô thường”.
Đức Thế Tôn dạy:
“Sắc là vô thường. Chính sắc vô thường này là
không xứng ý (Dukkha), hoặc từ sự không xứng ý
này dẫn đến sự không xứng ý khác (Dukkhā-
Dukkha) hoặc không xứng ý, vì bị biến hoại
(Viparināmadukkha), hoặc không xứng ý vì bị
130 Thích Thái Hòa
luân chuyển trong sinh tử (Samkhāra-Dukkha).
Như vậy, các đệ tử thuộc Thanh văn của Như Lai,
có nên cho rằng, cái đó là cái ta (Attana) không?
Hỡi quý vị!
“Có phải sắc chính là ta, cái ta có ở nơi sắc, sắc có
ở nơi ta, cái ta có ở trong sắc không?”.
“Bạch đức Thế Tôn! Dạ không”.
“Hỡi quý vị!
Thọ, tưởng, hành, thức quý vị nên biết là thường
hay vô thường?”.
“Bạch đức Thế Tôn! Chúng cũng là vô thường”.
“Hỡi quý vị!
Bất cứ pháp nào có hình sắc, pháp đó dù thuộc về
quá khứ, hiện tại hay tương lai, trong hay ngoài,
thô hay tế; dù thắng hay yếu liệt; dù xa hay gần,
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 131
chắc chắn chúng đều không có cái Ta (Attana).
Quý vị nên biết, phải dùng Chánh trí để quán
chiếu rõ ràng. Thọ, tưởng, hành và thức, dù thuộc
quá khứ, hiện tại hay vị lai, quý vị cũng dùng
Chánh trí để quán chiếu rõ ràng, như quán chiếu
đối với sắc vậy.
Nếu chúng Thánh đệ tử thuộc Thanh văn của Như
Lai, thì hãy quán chiếu năm thủ uẩn này, biết rõ
nó không phải là tôi, không phải là của tôi.
Quý vị quán chiếu như vậy rồi, quý vị biết rõ thế
gian không có ai đuổi bắt, không có cái gì để bắt
đuổi và cũng không có cái đuổi bắt.
Điều đó, chỉ có tự thân giác ngộ và chứng đạt Niết
bàn. Việc sinh tử đã hết. Phạm hạnh đã lập thành.
Điều đáng làm, làm xong. Không còn tái sinh nữa”.
Lúc đức Thế Tôn thuyết bài pháp này, tâm của các
vị Tỷ-khưu được giải thoát đối với các phiền não.
132 Thích Thái Hòa
Quý vị tin tưởng, tiếp nhận và hành trì.21
Từ Issipatana (vườn Nai), đức Thế Tôn chuyển
vận Pháp Luân đầu tiên hóa độ năm anh em Kiều
Trần Như, Tăng đoàn đầu tiên xuất hiện tại đây
với túc số năm vị. Và thế gian trụ trì Tam Bảo
cũng từ đây đầy đủ cả nghĩa và lý.
Sau đó đức Thế Tôn hóa độ chàng thanh niên
Yasa và bạn bè của ông ta như Vīmala (Tỳ Ma
La), Subahū (Tu Bà Hầu), Punnaji (Phú Lan Na
Ca), Gavampati (Già Bà Bạt Đế) và năm mươi vị
nữa đều được xuất gia thọ Tỷ-khưu giới.
Tăng đoàn do đức Thế Tôn thành lập đến đây đã
lên đến sáu mươi vị.
Bấy giờ, đức Thế Tôn mở rộng cuộc hoằng pháp,
từ Issipatana, Ngài trở lại Uruvela (Ưu Lâu Tần
Loa), ở đây Ngài hóa độ ba anh em Tôn giả Ca
21
Phật thuyết Ngũ Uẩn Giai Không kinh, Tạp A Hàm
số 102, tr499, Đại chính II.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 133
Diếp (Kassapa), ba vị này đều tuân thủ theo đạo
thờ lửa.
Họ cho rằng: “Lửa là bản chất uyên nguyên của vũ
trụ. Nó có nguồn gốc từ Brahma (Phạm Thiên).
Chính lửa là sức sống, không có lửa là không có
sự sống. Lửa là ánh sáng, là hơi ấm, là năng lượng
làm phát sinh cây cối, muôn thú và con người…”.
Tuy nhiên, sau khi họ nghe đức Thế Tôn nói pháp
thoại, Tôn giả Ca Diếp muốn trở về làm đệ tử của
đức Thế Tôn, nhưng Ngài đã dạy với Tôn giả Ca
Diếp như sau:
“Này Ca Diếp! Ông là bậc kỳ túc có nhiều đệ tử,
quốc vương, đại thần, nhân dân đều nương tựa và
kính ngưỡng ông.
Nay, ông xin theo ta học đạo, không tránh được
lỗi tự khinh, ông nên bàn bạc với các đệ tử của
ông thật kỹ”.
134 Thích Thái Hòa
Bấy giờ, Tôn giả Ca Diếp hết sức cảm phục lời
dạy của đức Thế Tôn, ông trở về vân tập chúng đệ
tử lại và nói:
“Tôi đã tin và hiểu giáo pháp của bậc đại Sa-môn
kia, chỗ chứng đạo của vị ấy là chân chính. Tôi
nay muốn quy thú vị đại Sa-môn đó, quý vị nghĩ
thế nào?”. Các hàng đệ tử đáp: “Chúng con cũng
muốn quy y theo vị đó”.
Bấy giờ, Tôn giả Ca Diếp và các đệ tử lấy tất cả y
phục, dụng cụ tế lửa, vứt bỏ xuống sông
Neranjana, rồi đi đến đức Thế Tôn, họ kính lễ
Ngài và quỳ xuống tác bạch:
“Bạch đức Thế Tôn! Con và các đệ tử muốn được
làm Sa-môn trong Pháp của Ngài”.
Đức Thế Tôn liền chấp nhận và nói:
“Hãy tự mình đi đến hạnh phúc, hỡi các Tỷ-
khưu!”.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 135
Lúc bấy giờ, quý vị ấy liền thành tựu giới thể của
một vị Tỷ-khưu.
Đến đây Tăng đoàn của đức Thế Tôn lên đến 560
vị.
Sau khi Tôn giả Ca Diếp và năm trăm đệ tử gia
nhập Tăng đoàn, thì hai người em của Uruvela Ca
Diếp là Nan Đề Ca Diếp (Nadikassapa) và Già Da
Ca Diếp (Gaya Kassapa) đang hành đạo ở hạ lưu
sông Neranjara (Ni Liên Thuyền), hai vị này khi
nghe Uruvela Ca Diếp và năm trăm đệ tử quy y
theo đức Thế Tôn, họ rất ngạc nhiên và trách hỏi:
“Đại huynh là bậc kỳ cựu đã 120 tuổi, trí tuệ sâu
xa, trong quốc nội mọi người ai cũng tôn sùng.
Theo chúng tôi nghĩ, đại huynh đã chứng A-la-hán.
Nay đại huynh lại từ bỏ đạo nghiệp thanh tịnh mà
theo vị Sa-môn kia, đạo lý của ông ta có hơn
chăng?”.
136 Thích Thái Hòa
Uruvela Ca Diếp trả lời với hai em rằng:
“Đạo của Đấng Giác Ngộ là tối ưu, giáo pháp của
Ngài là cao hơn hết. Tôi từ xưa tới nay chưa thấy
có vị nào đạo lực có thể so sánh bằng Đấng Giác
Ngộ.
Giáo pháp của Ngài đã hóa độ vô lượng chúng
sanh và có thể sử dụng ba trường hợp để hóa độ.
1. Dùng đạo lực thần thông biến hóa để hóa độ.
2. Dùng trí tuệ để biết tâm lượng của kẻ khác mà
hóa độ.
3. Biết rõ mọi thứ phiền não, chẩn đoán đúng
bệnh và cho thuốc.
Khi nghe Uruvela Ca Diếp trình bày như vậy, hai
anh em kia sanh tâm cung kính đức Thế Tôn và
giáo pháp của Ngài, họ quay lưng hỏi các đệ tử:
“Quý vị nghĩ như thế nào?”.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 137
Năm trăm vị đệ tử đồng thanh trả lời:
“Chúng con nguyện theo giáo huấn của Thầy”.
Lúc đó, cả thầy lẫn trò đều đi đến đức Thế Tôn xin
được làm Sa-môn trong Chánh pháp của Ngài .
Đức Thế Tôn liền chấp nhận và gọi họ rằng:
“Hãy tự mình đi đến hạnh phúc, hỡi các Tỷ-
khưu!”.
Bấy giờ những vị ấy liền thành tựu giới thể Tỷ-
khưu. Tăng đoàn của Thế Tôn đến đây đã lên đến
một ngàn sáu mươi vị.
Tại thành phố Rājagaha (Vương Xá) xứ Magadha
(Ma Kiệt Đà), đức Thế Tôn đã giáo hóa hai vị
Sāriputta (Xá Lợi Phất) và Moggallāna (Mục Kiền
Liên).
Hai vị này đã từng xuất gia với Đạo sĩ Sanjaya,
một vị Đạo sĩ chủ trương “Bất Khả Tri Luận”.
138 Thích Thái Hòa
Với chủ trương này đã không đáp ứng được nhu
cầu tu học của hai Tôn giả, nên họ nói:
“Pháp do Sanjaya hướng dẫn, pháp ấy không thể
diệt tận khổ đau đến chỗ cùng tận hoàn toàn.
Vậy, ta hãy đi tìm cầu một vị Đạo sư tài giỏi khác
để học tập”.
Hôm ấy, Tôn giả Sāriputta gặp Đại đức Assaji
đang thực hành pháp khất thực tại thành phố
Rājagaha. Tôn giả thấy dung mạo, phong thái uy
nghi, trầm tĩnh, nên vui thích liền đến hỏi Đại đức
Assaji rằng:
“Thưa Đại đức! Thầy của Đại đức là ai? Ngài y
vào ai mà xuất gia? Do thực hành pháp nào mà có
an lạc?”.
Đại đức Assaji trả lời:
“Thưa nhân giả! Thầy của tôi là bậc đại Sa-môn,
xuất thân từ dòng họ Thích, Ngài đã xuất gia và
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 139
thành tựu Phật quả, đó là Thầy của tôi, tôi y vào
Ngài mà xuất gia, do thực hành pháp của Ngài dạy
mà có an lạc”.
Tôn giả Sāriputta hỏi:
“Thầy của Đại đức sắc diện có đoan chính không?
Có lẽ vị ấy đạo lực vượt hẳn Đại đức!”.
Đại đức Assaji trả lời:
“Ví như hạt cải so với núi Tu-di; như nước dấu
chân trâu so với biển cả; như loài muỗi mòng sánh
với loài Kim Súy. Tôi mà so với Đức Giác Ngộ
cũng giống như vậy”.
Đại đức Assaji nói tiếp:
“Thầy của tôi minh triệt pháp ba đời, chứng đắc trí
vô ngại, thành tựu hết thảy thiện pháp”.
Tôn giả ‟Sāriputta hỏi:
140 Thích Thái Hòa
“Thầy của Đại đức dạy pháp như thế nào?
Đại đức Assaji trả lời:
“Đối với Chánh pháp, tôi còn ấu trĩ, mới học tập,
còn cạn cợt, đâu đủ khả năng để trình bày rộng rãi
được, nay tôi chỉ nói tóm tắt thôi”.
Thầy tôi dạy pháp nhân duyên, và chỉ giảng dạy
con đường đưa đến giải thoát. Thầy tôi nói pháp
trong bài kệ này:
“Chư pháp tùng duyên sanh
Chư pháp tùng duyên diệt
Như thị dự diệt sinh
Sa-môn thuyết như thị”.
Nghĩa là:
“Vạn vật từ nơi nhân duyên mà sinh,
Vạn vật từ nơi nhân duyên mà diệt
Cả sinh và diệt đều như vậy
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 141
Bậc Sa-môn dạy như thế”.
Tôn giả ‟Sāriputta nghe Đại đức Assaji trình bày
bài kệ tóm lược xong, liền thông đạt nghĩa lý và
nói với Đại đức Assaji rằng:
“Bài kệ kia trình bày đúng văn cú thì phải như thế này:
“Chư pháp nhân sanh giả
Bỉ pháp tùy nhân diệt
Nhân duyên diệt tức đạo
Đại sư thuyết như thị”.
Nghĩa là:
“Vạn vật sinh khởi từ nhân duyên
Chúng hủy diệt cũng từ nhân duyên
Nhân duyên vắng mặt chính là Đạo
Bậc Đại sư nói như thế”.
Bấy giờ, Tôn giả ‟Sāriputta chiêm nghiệm bài kệ,
142 Thích Thái Hòa
thấy rõ nghĩa lý, Người có cách nhìn thanh tịnh
đối với Pháp, thấy rõ tướng vắng lặng của các
pháp hữu vi, liền cám ơn Đại đức Assaji và chào
từ giã.
Sau đó, tôn giả ‟Sāriputta gặp Tôn giả
Moggallāna, hai vị bàn bạc với nhau xong, họ xin
từ giã thầy của họ là Sanjaya và lên đường tìm đến
đức Thế Tôn .
Từ xa, đức Thế Tôn nhìn thấy họ, Ngài nói:
“Gặp được bậc Thánh là vui
được sống chung lại càng vui thêm
không gặp những kẻ ngu si
đó là niềm vui thường tại”.
Khi tôn giả ‟Sāriputta và Moggallāna cũng như đồ
chúng của họ đến gặp đức Thế Tôn, họ đảnh lễ và
thưa:
“Ngày nay chúng con ở trước đức Thế Tôn, muốn
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 143
được xuất gia tu tập đạo hạnh trong giáo pháp của
Ngài. Kính mong Ngài cho chúng con được xuất
gia, được thọ cụ túc giới”.
Đức Thế Tôn liền chấp nhận và nói:
“Hãy tự mình đi đến hạnh phúc, hỡi các Tỷ-khưu!
Ngày nay quý vị đã đến và ở trong giáo pháp của
ta, để thực hành phạm hạnh, tận diệt khổ đau”.
Đức Thế Tôn nói như vậy xong, quý vị kia đều
thành tựu giới thể Tỷ-khưu.
Và hai trăm năm mươi vị học trò của hai Tôn giả
cũng xuất gia trong pháp và luật của Thế Tôn.
Tăng đoàn của Thế Tôn đến đây đã lên đến 1310
vị.
Trên đường hành hóa, đức Thế Tôn đã hóa độ
phạm chí Dīghanakkha (Trường Trảo), một nhà
luận nghị rất giỏi theo thuyết Bà-la-môn. đức Thế
144 Thích Thái Hòa
Tôn đã dạy cho ông ta phương pháp loại trừ cảm
thọ, để thân tâm có được sự an tịnh.
Sau đó, phạm chí Dīghanakkha đã xin xuất gia
theo pháp và luật của đức Thế Tôn.
Khi trở về thăm hoàng tộc, đức Thế Tôn đã giáo
hóa phụ vương, mẫu hậu, công chúa và nhiều
người trong thân tộc.
Ngài đã độ cho Ananda, Nanda, Rahūla,
Devadatta, Channa… đều được xuất gia trong
Tăng đoàn của Thế Tôn.
Tại Vesāli, rừng Mahāvana, đức Thế Tôn đã chế
định “Bát Kỉnh Pháp”, để mở đầu cho nữ giới xuất
gia. Như bà Mahā Ba Xà Ba Đề, các nữ lưu trong
dòng họ Sakya và ngoài xã hội.
Đến đây, Tăng đoàn của Thế Tôn đầy đủ cả nam
và nữ xuất gia.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 145
Trên bước đường hoằng pháp, đức Thế Tôn đã
giáo hóa ba mươi chàng thanh niên, khi họ đang
đuổi bắt để kiếm tìm một thiếu nữ đẹp.
Đức Thế Tôn hỏi: “Quý vị đang đi tìm kiếm cái
gì?” Họ trả lời: “Thưa Tôn giả! Chúng tôi đang đi
tìm kiếm một người thiếu nữ cho bạn của chúng
tôi”.
Bấy giờ đức Thế Tôn mỉm cười và nói:
“Tại sao quý vị không tự đi tìm kiếm lại chính
mình, mà lại đi tìm người thiếu nữ kia để làm gì?
Quý vị thử nghĩ, một người đi tìm lại chính mình
và một người đi tìm kiếm kẻ khác, hai sự đi tìm
kiếm ấy, sự tìm kiếm nào cao quý hơn?”.
Sau khi họ nghe đức Thế Tôn hỏi, các chàng thanh
niên ngẫm nghĩ thấy thấm thía và từ đó họ xin quy
y theo đức Thế Tôn.
Trên bước đường chuyển vận Chánh pháp từ Ba
146 Thích Thái Hòa
La Nại đến Ưu Lâu Tần Loa, đức Thế Tôn đã giáo
hóa nhà binh tướng Bà-la-môn tên là Dabala và cả
gia đình của ông ta.
Bánh xe Chánh pháp tiếp tục chuyển vận. Đi đến
đâu là đức Thế Tôn cảm hóa đến đó, từ các nhà
đạo sĩ, vua quan, trưởng giả, thứ dân.
Vua Bình Sa Vương, vua Ba Tư Nặc, vua A Xà
Thế, các Hoàng hậu, Thái tử, Công chúa đều đã
được đức Thế Tôn cảm hóa.
Trưởng giả Cấp Cô Độc ở thành Sāvatthi, Trưởng
giả Hộ Di ở thành phố Rājagaha, nhà triệu phú
Migār ở Sāvatthi, nhà triệu phú Dhananja ở Anga,
nhà triệu phú Mandaka; và các thứ dân của xứ
Kalama, xứ Magadha, xứ Sāvatthi, xứ
Kapilavattu, xứ Ko‟sala… đều được đức Thế Tôn
cảm hóa.
Trong hàng thứ dân như Jīvaka con của một kỹ nữ
bị vứt vào đống rác; vũ nữ Utpalavarna, Upāli con
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 147
của một bần dân đều đã được đức Thế Tôn cảm
hóa.
Sau khi đức Thế Tôn tiếp nhận Upāli vào Tăng
đoàn, bấy giờ có những dư luận không tốt về Ngài.
Họ nói việc đức Thế Tôn cho Upāli dòng dõi hạ
tiện xuất gia làm nhục tất cả dòng dõi vua chúa,
làm cho mọi người bất kính đối với Tăng đoàn.
Dư luận này đã đến tai đức Thế Tôn, Ngài liền gọi
Tôn giả Ananda và đại chúng mà bảo:
“Thà quý vị nói rằng: Tâm đại bi của Như Lai là
không bình đẳng… chứ không nên nói: Tỷ-khưu
Upāli đích thực là người hạ tiện, là hành động thấp
kém.
Thà quý vị nói rằng: Như Lai còn phiền não… chứ
không nên nói: Upāli là dòng dõi hạ tiện mà được
xuất gia.
148 Thích Thái Hòa
Như Lai đã thấy rõ con đường hiểm nguy của sinh
tử và con đường thành tựu Giác Ngộ.
Upāli rồi cũng sẽ được trời người quý trọng, bậc
hộ trì Chánh pháp và là bậc trì luật số một trong
hàng đại chúng…”.
Trên bước đường hoằng pháp lợi sanh, đức Thế
Tôn đã giáo hóa đủ mọi giai cấp thành phần của
xã hội, đã thành lập xong tứ chúng đệ tử gồm: Tỷ-
khưu, Tỷ-khưu Ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di.
Trong hàng tứ chúng đệ tử của đức Thế Tôn có
nhiều vị chứng A-la-hán quả, có nhiều vị chứng
A-na-hàm quả, có nhiều vị chứng Nhất Lai hoặc
Thất Lai quả.
Hễ ai không tu không học thì thôi, còn nếu ai có tu
có học trong giáo pháp của đức Thế Tôn, họ đều
có niềm vui trong đời sống hiện tại, và bước
những bước chân vững chãi đến tương lai.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 149
Không những đức Thế Tôn chỉ để tâm thương xót
giáo hóa cõi người, mà Ngài còn dùng năng lực
thiền định để thuyết pháp giáo hóa cho chư Thiên
các cõi trời. Ngài đã hóa thân lên cung trời Đao
Lợi thuyết pháp để chuyển hóa tâm thức của mẹ.
Và cũng đã nhiều lần hóa thân bằng năng lực thiền
định đến Long Cung để thuyết pháp và giáo hóa
cho các Vua rồng và các loài thủy tộc.
Và ngay ở trong xứ Ấn Độ đương thời đức Thế Tôn
đã giáo hóa, khiến cho các nước Magadhi, Ko‟sala,
Anga, Kapilavattu… đều sống chung hòa bình.
Bấy giờ, có lần vua Ajātasattu Vedehiputta của
nước Magadha, sai đại thần Vassakāra (Vũ Xá)
đến đảnh lễ đức Thế Tôn và thưa:
“Bạch đức Thế Tôn! Ajātasattu Vedehiputta, vua
nước Magadha muốn chinh phục nước Vajjī. Vua
tự nói: “Ta quyết định chinh phục dân tộc Vajjī
này, dầu chúng có uy quyền, có hùng mạnh. Ta
150 Thích Thái Hòa
quyết làm cỏ dân tộc Vajjī, ta sẽ làm cho dân tộc
Vajjī hoại vong”.
Vua dặn đại thần Vassakāra: “đến đức Thế Tôn
thưa xong, Ngài dạy như thế nào, phải ghi nhớ cho
kỹ và nói lại cho Trẫm biết”. Vua còn nói với đại
thần Vassakāra: “Bậc Thế Tôn không bao giờ nói
lời hư dối”.
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn không trả lời trực tiếp
với đại thần Vassakāra, mà Ngài lại hỏi Tôn giả
Ananda như sau:
“Này Ananda, Thầy có nghe dân chúng Vajjī
thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo với nhau
không ?”.
“Bạch đức Thế Tôn, con có nghe dân chúng Vajjī
thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo với nhau”.
“Này Ananda, khi nào dân chúng Vajjī thường hay
tụ họp và tụ họp đông đảo với nhau, thì dân chúng
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 151
ấy sẽ được cường thịnh”.
“Này Ananda, Thầy có nghe dân chúng Vajjī tụ
họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn
kết và làm việc trong niệm đoàn kết không?”.
“Bạch đức Thế Tôn, con có nghe dân chúng Vajjī
tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm
đoàn kết và làm việc trong niệm đoàn kết”.
“Này Ananda, khi nào dân chúng Vajjī tụ họp
trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết
và làm việc trong niệm đoàn kết là dân chúng ấy
sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm”.
“Này Ananda, Thầy có nghe dân Vajjī không ban
hành những luật lệ không được ban hành, hủy bỏ
những luật lệ được ban hành, sống đúng với
truyền thống của dân Vajjī như đã được ban hành
từ thời xưa không ?”.
“Bạch đức Thế Tôn, con có nghe dân Vajjī không
152 Thích Thái Hòa
ban hành những luật lệ không được ban hành, hủy
bỏ những luật lệ được ban hành, sống đúng với
truyền thống của dân Vajjī như đã được ban hành
từ thời xưa”.
“Này Ananda, khi nào dân chúng Vajjī không ban
hành những luật lệ không được ban hành, hủy bỏ
những luật lệ được ban hành, sống đúng với
truyền thống của dân Vajjī như đã được ban hành
từ thời xưa thì dân chúng ấy sẽ được cường thịnh,
không bị suy giảm”.
“Này Ananda, Thầy có nghe dân chúng Vajjī tôn
sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc
Trưởng lão tại Vajjī và theo lời dạy của các vị ấy
không?”.
“Bạch Thế Tôn, con có nghe dân chúng Vajjī tôn
sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc
Trưởng lão tại Vajjī và theo lời dạy của các vị này”.
“Này Ananda, khi nào dân chúng Vajjī tôn sùng,
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 153
kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc Trưởng
lão tại Vajjī và theo lời dạy của các vị ấy thì dân
chúng đó sẽ được cường thịnh, không bị suy
giảm”.
“Này Ananda, Thầy có nghe dân chúng Vajjī
không có bắt cóc và cưỡng ép những phụ nữ và
thiếu nữ tại Vajjī sống với mình không ?”.
“Bạch Thế Tôn, con có nghe dân chúng Vajjī
không có bắt cóc và cưỡng ép những phụ nữ và
thiếu nữ tại Vajjī sống với mình”.
“Này Ananda, khi nào dân chúng Vajjī không có
bắt cóc và cưỡng ép những phụ nữ và thiếu nữ tại
Vajjī sống với mình thì dân chúng ấy sẽ được
cường thịnh, không bị suy giảm”.
“Này Ananda, Thầy có nghe dân chúng Vajjī tôn
kính và đảnh lễ các nơi thờ tự tín ngưỡng từ nội
thành đến ngoại thành và không phế bỏ các cúng
154 Thích Thái Hòa
lễ đã có từ trước đúng với quy pháp không ?”.
“Bạch đức Thế Tôn, con có nghe dân chúng Vajjī
tôn kính và đảnh lễ các nơi thờ tự tín ngưỡng từ
nội thành đến ngoại thành và không phế bỏ các
cúng lễ đã có từ trước đúng với quy pháp”.
“Này Ananda, khi nào dân chúng Vajjī tôn kính và
đảnh lễ các nơi thờ tự tín ngưỡng từ nội thành đến
ngoại thành và không phế bỏ các cúng lễ đã có từ
trước, đúng với quy pháp thì dân chúng ấy sẽ được
cường thịnh, không bị suy giảm”.
“Này Ananda, Thầy có nghe dân chúng Vajjī bảo
hộ, che chở, ủng hộ đúng pháp các vị A-la-hán tại
Vajjī , khiến cho các vị A-la-hán nào chưa đến thì
muốn đến, những vị đã đến thì được sống an lạc
không?”.
“Bạch đức Thế Tôn, con có nghe dân chúng Vajjī
bảo hộ, che chở, ủng hộ đúng pháp các vị A-la-
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 155
hán tại Vajjī , khiến cho các vị A-la-hán nào chưa
đến thì muốn đến, những vị đã đến thì được sống
an lạc”.
“Này Ananda, khi nào dân chúng Vajjī bảo hộ,
che chở, ủng hộ đúng pháp các vị A-la-hán tại
Vajjī, khiến cho các vị A-la-hán nào chưa đến thì
muốn đến, những vị đã đến thì được sống an lạc
thì dân chúng ấy sẽ được cường thịnh, không bị
suy giảm”.
Sau khi đức Thế Tôn, hỏi Tôn giả Ananda về bảy
pháp bất thoái của dân Vajjī xong, Ngài quay lại
nói với Đại thần Vassakāra rằng:
“Này Bà-la-môn! Một thời tôi sống ở Vesāli tại tự
miếu Sārandada, tôi đã dạy cho dân Vajjī bảy pháp
bất thoái này.
Này Bà-la-môn Vassakāra, khi nào bảy pháp bất
thoái này được duy trì giữa dân chúng Vajjī và khi
156 Thích Thái Hòa
nào dân chúng Vajjī được giảng dạy bảy pháp bất
thoái này, thì dân chúng Vajjī sẽ được cường thịnh
không suy giảm”.
Sau khi đức Thế Tôn nói như vậy, Đại thần
Vassakāra liền thưa:
“Bạch đức Thế Tôn, nếu dân chúng Vajjī chỉ hội
đủ một pháp bất thoái này, thời dân Vajjī nhất
định cường thịnh, không suy giảm, huống nữa là
đủ cả bảy pháp bất thoái này.
Vua Ajātasattu Vedehiputta của nước Magadha
không thể đánh thắng dân Vajjī ở chiến trận”.
Sau đó, đức Thế Tôn dạy bảy pháp không suy
thoái đến chúng Tỷ-khưu để làm cho Tăng đoàn
vững mạnh, không bị suy thoái.
Suốt bốn mươi lăm năm hành hóa, điều đáng làm
đức Thế Tôn đã làm, điều đáng nhiếp hóa đức Thế
Tôn đã nhiếp hóa, điều đáng nói để đưa mọi người
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 157
đến nơi an lạc, đức Thế Tôn đã nói với tất cả trái
tim thương yêu và hiểu biết của mình.
Có khi đức Thế Tôn đã nói pháp với mọi người
bằng ngôn ngữ Sūtra, nghĩa là bằng ngôn ngữ trực
tiếp. Có khi đức Thế Tôn nói pháp với mọi người
bằng ngôn ngữ Gega, nghĩa là nói bằng ngôn ngữ
tóm tắt lại qua thi kệ. Có khi đức Thế Tôn đã nói
pháp với mọi người bằng ngôn ngữ Vyākarana,
nghĩa là nói bằng ngôn ngữ trao truyền, ấn chứng.
Có khi đức Thế Tôn đã nói pháp với mọi người
bằng ngôn ngữ Gāthā, nghĩa là nói bằng ngôn ngữ
của thi kệ cô đọng. Có khi đức Thế Tôn đã nói
pháp với mọi người bằng ngôn ngữ Udāna, nghĩa
là nói bằng ngôn ngữ tự khai thị. Có khi đức Thế
Tôn nói pháp với mọi người bằng ngôn ngữ
Nidāna, nghĩa là nói bằng ngôn ngữ của nhân
duyên. Có khi đức Thế Tôn nói pháp với mọi
người bằng ngôn ngữ Avadāna, nghĩa là nói bằng
ngôn ngữ thí dụ. Có khi đức Thế Tôn nói pháp với
158 Thích Thái Hòa
mọi người bằng ngôn ngữ Itivrttaka, nghĩa là nói
bằng ngôn ngữ ký sự. Có khi đức Thế Tôn nói
pháp với mọi người bằng ngôn ngữ Jātaka, nghĩa
là nói bằng ngôn ngữ bình dị kể chuyện đời xưa.
Có khi đức Thế Tôn nói pháp với mọi người bằng
ngôn ngữ Vaipulya, nghĩa là nói bằng ngôn ngữ
triết lý, uyên áo, bác học. Có khi đức Thế Tôn nói
pháp với mọi người bằng ngôn ngữ Abbhuta
Dharma, nghĩa là nói bằng ngôn ngữ siêu luận lý,
siêu hiện thực. Và có khi đức Thế Tôn nói pháp
với mọi người bằng ngôn ngữ Upadesa, nghĩa là
nói bằng ngôn ngữ luận lý vững chãi.
Như vậy, suốt bốn mươi lăm năm, đức Thế Tôn
chuyển vận bánh xe Chánh pháp, san lấp hầm hố
sinh tử, xóa bỏ mọi thái độ mặc cảm tự tôn, tự ti
trong mọi giai cấp của xã hội loài người, và đối
với hạng có thiện căn, đức Thế Tôn đã tạo điều
kiện cho phát sinh Thánh quả, vượt thoát khổ đau;
đối với hạng căn cơ khiếp nhược, đức Thế Tôn đã
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 159
nâng họ dậy, tạo điều kiện cho họ có thể đi lên.
Cả cuộc đời hành đạo, đức Thế Tôn không thiên
lệch một ai, Ngài đến với mọi người bằng tâm
bình đẳng, tâm hiểu biết, tâm thương yêu. Ngài có
mặt trong cuộc đời này là để hàn gắn lại những gì
đã đổ vỡ, dựng đứng lại những gì đã xiêu vẹo,
nhắc nhở lại những gì cao quý mà loài người đã bỏ
quên, xóa đi những mê lầm và niềm đau nơi tâm
thức con người để mặt trời bình an xuất hiện, và
đó là tư duy, là cuộc sống, là ngôn ngữ, là bước đi,
là dấu ấn mà bánh xe Chánh pháp của Ngài đã
chuyển vận và để lại giữa cuộc đời này.
Đức Thế Tôn Diệt Độ
Do thực hành thành tựu pháp Tứ Như Ý Túc, nên
đức Thế Tôn có thể buông bỏ hay kéo dài thọ
mạng là tùy theo ý muốn của mình.
Trên đường đi đến Cāpāla, đức Thế Tôn đã nói với
160 Thích Thái Hòa
tôn giả Ananda điều này:
“Nầy Ananda, khả ái thay Vesāli, khả ái thay đền
Udena, khả ái thay đền Gotamaka, khả ái thay đền
Sattambaka, khả ái thay đền Bahuputta, khả ái
thay đền Sarandada, khả ái thay đền Cāpāla.
Nầy Ananda, những ai đã tu Bốn Thần Túc, tu tập
nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, điêu
luyện và thiện xảo, nếu muốn, người ấy có thể
sống đến một kiếp hay phần kiếp còn lại.
Nầy Ananda, nay Như Lai đã tu Bốn Thần Túc, tu
tập nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, điêu
luyện và thiện xảo.
Nầy Ananda, nếu muốn, Như Lai có thể sống đến
một kiếp hay phần kiếp còn lại”.
Khi đức Thế Tôn dạy như thế đến ba lần, nhưng
Tôn giả Ananda lúc bấy giờ bị Thiên Ma Ba Tuần
che khuất tâm trí, không nhận ra được mục đích
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 161
lời dạy của Ngài.
Do đó, Tôn giả không thỉnh cầu đức Thế Tôn ở lại
cho đến trọn kiếp vì lợi ích chúng sanh, vì hạnh
phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng đối
với đời, vì lợi ích, vì an lạc của chư Thiên và loài
Người.
Sau đó, ác ma đến cung thỉnh đức Thế Tôn diệt
độ.
Nhưng, đức Thế Tôn đã trả lời với ác ma như sau:
“Nầy ác ma, ta đã không diệt độ, khi nào Tứ
chúng của ta chưa trở thành những đệ tử chân
chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng, đa văn duy
trì Chánh pháp, thành tựu Chánh pháp và tùy
pháp, sống chân chánh, sống theo Chánh pháp, sau
khi học hỏi giáo lý, chưa có thể tuyên bố, diễn
giảng, trình bày, xác định, khai minh, phân tích và
giải thích rõ ràng Chánh pháp, khi có tà đạo khởi
162 Thích Thái Hòa
lên chưa có thể chất vấn và hàng phục một cách
khéo léo, chưa có thể truyền bá Chánh pháp thần
diệu”.
Đức Thế Tôn nói với ác ma: “quý vị hãy yên tâm.
Như Lai thấy đúng thời Như Lai sẽ diệt độ. Như
Lai sẽ diệt độ sau ba tháng nữa, bắt đầu kể từ ngày
hôm nay”.
Và tại đền Cāpāla, đức Thế Tôn dùng chánh niệm
tỉnh giác từ bỏ Thọ hành (không để tâm duy trì
mạng sống lâu hơn nữa), bấy giờ đại địa chấn
động.
Tôn giả Ananda liền thưa đức Thế Tôn, hôm nay
tại sao đại địa chấn động, đức Thế Tôn dạy: “Do
Như Lai buông bỏ không duy trì mạng sống nữa”.
“Nầy Ananda, hôm nay tại đền Cāpāla, Như Lai
dùng chánh niệm tỉnh giác buông bỏ thọ mạng, ba
tháng nữa Như Lai sẽ diệt độ”.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 163
Bấy giờ Tôn giả Ananda thưa:
“Bạch đức Thế Tôn, xin Ngài hãy ở lại cho đến
trọn kiếp! Bạch đức Thiện Thệ, xin Ngài hãy ở lại
cho đến trọn kiếp! Vì lợi ích cho chúng sanh, vì
hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng
đối với đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc cho chư Thiên
và loài Người”. Tôn giả Ananda cầu thỉnh như vậy
đến ba lần. Nhưng đức Thế Tôn dạy Tôn giả
Ananda rằng:
“Thôi đi, này Ananda, đừng có thỉnh cầu Như Lai
nữa, không còn kịp thời”.
Sau đó, đức Thế Tôn đã an ủi Tôn giả Ananda và
nhắc nhở về tính chất vô thường biến ảo của vạn
pháp.
Đức Thế Tôn nói: “Như Lai đã dứt khoát buông
bỏ Thọ hành, và sẽ diệt độ sau ba tháng”.
Từ giã đền Cāpāla, đức Thế Tôn và Tôn giả
164 Thích Thái Hòa
Ananda đến giảng đường Kūtāgāra tại Đại Lâm,
và Ngài cho Tôn giả Ananda đi mời các vị Tỷ-
khưu ở gần Vesāli về tụ họp tại giảng đường nầy.
Sau khi chúng Tỷ-khưu tập họp đông đủ tại giảng
đường Kūtāgāra, đức Thế Tôn ngồi lên pháp tòa
và nói:
“Nầy các Tỷ-khưu, nay những pháp do Như Lai
chứng ngộ và giảng dạy cho các Thầy, các Thầy
phải học hỏi thông minh và thực chứng, phải tu
tập và truyền bá rộng rãi để phạm hạnh được
trường tồn, vì hạnh phúc và an lạc cho chúng
sanh, vì lòng thương tưởng đối với đời và vì lòng
lợi ích, an lạc của chư Thiên cùng loài Người.
Nầy các Thầy, pháp do Như Lai chứng ngộ và
giảng dạy, các Thầy phải học hỏi thông minh, tu
tập và truyền bá rộng rãi để cho phạm hạnh được
trường tồn, vì hạnh phúc và an lạc của chúng sanh,
vì sự thương tưởng đối với đời, vì hạnh phúc và an
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 165
lạc của chư Thiên và loài Người, pháp ấy chính
Bốn niệm xứ, Bốn chánh cần, Bốn như ý túc, Năm
căn, Năm lực, Bảy Bồ đề phần và Bát chánh đạo.
Hỡi các Thầy!
Các hành là vô thường, các Thầy hãy tinh tấn lên
để tự giải thoát, không bao lâu nữa Như Lai sẽ diệt
độ. Sau ba tháng kể từ hôm nay, Như Lai sẽ diệt
độ”.
Sáng mai, đức Thế Tôn đắp y, trì bát vào thành
Vesāli khất thực, khất thực xong, đức Thế Tôn nói
với Ananda: “đây là lần cuối cùng Như Lai nhìn
Vesāli”. Sau đó Thế Tôn cùng với chúng Tỷ-khưu
đến làng Bhạndagama, dùng cơm xong, đức Thế
Tôn dạy:
“Khi Thánh giới, Thánh định, Thánh tuệ và Thánh
giải thoát được giác ngộ, được chứng đạt thì mọi
tham ái, những gì đưa tới tái sinh đều bị trừ diệt”.
166 Thích Thái Hòa
Và tại đây, Ngài nói bài pháp thoại ngắn cho các
thầy Tỷ-khưu:
“Đây là Giới, đây là Định, đây là Tuệ. Định cùng
tu với Giới sẽ đưa tới quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ
cùng tu với Định sẽ đưa tới quả vị lớn, lợi ích lớn.
Tâm cùng với Tuệ sẽ đưa tới giải thoát hoàn toàn
đối với các mê lầm về dục, về tri kiến và về vô
minh”.
Từ giã giảng đường Kūtāgāra, đức Thế Tôn và
chúng Tỷ-khưu đến đền Bhoganagara, tại đây đức
Thế Tôn dạy bốn điều cần tham cứu cho các Tỷ-
khưu.
1. Nếu có một người tự nói họ nghe và lãnh thọ
luật và pháp từ Thế Tôn, thì quý vị không nên khen
và cũng không nên hủy báng, mà nên quán sát kỹ
lưỡng rồi đem đối chiếu với kinh và luật, trước khi
đi đến kết luận là đúng hay sai, là nên tin hay
không nên tin, nên thọ trì hay không nên thọ trì.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 167
2. Nếu một người có thể nói rằng, tôi ở trú xứ kia,
có Thượng tọa, có Tăng chúng, có đạo sư lãnh
đạo, Tôn giả nghe và lãnh thọ trực tiếp từ những
vị ấy nói: Đây là pháp, đây là luật do Thế Tôn
giảng dạy, thì quý vị không nên khen và cũng
không nên chê, mà nên xem xét kỹ lưỡng rồi đem
ra đối chiếu với kinh và luật, trước khi đi đến kết
luận là tin hay không tin, là thọ trì hay không thọ
trì.
3. Nếu tại một trú xứ có nhiều vị Tỷ-khưu Thượng
tọa đa văn, trì pháp, trì luật, gìn giữ truyền thống,
lại có một người từ trú xứ ấy đến nói rằng:
“Tự thân tôi nghe và lãnh thọ như pháp, như luật
từ các vị Thượng tọa”. Và các vị Thượng tọa ấy đã
nói: “Đây là lời của bậc Đạo sư”, thì quý vị không
nên khen và cũng không nên chê, mà nên xem xét
kỹ lưỡng rồi đem ra đối chiếu với kinh và luật,
trước khi đi đến kết luận là đúng hay sai, là tin hay
không tin, là thọ trì hay không nên thọ trì.
168 Thích Thái Hòa
4. Nếu tại một trú xứ có một vị Thượng tọa đa
văn, gìn giữ truyền thống, trì pháp, trì luật, trì
pháp yếu, lại có một người từ trú xứ ấy đến nói
rằng:
“Tự thân tôi nghe và lãnh thọ như pháp, như luật
từ vị Thượng tọa ấy” và vị Thượng toạ ấy nói:
“Đây là pháp và luật của đức Đạo sư”, thì quý vị
không nên khen và cũng không nên chê, mà nên
xem xét kỹ lưỡng, rồi đem ra đối chiếu với kinh và
luật, trước khi đi đến kết luận là đúng hay sai, là
nên tin hay không nên tin, nên thọ trì hay không
nên thọ trì.
Từ Bhoganagara, đức Thế Tôn và chúng Tỷ-khưu
chấp nhận lời thỉnh cầu đến gia đình của cư sĩ
Cunda (Thuần Đà) để thọ trai.
Trưa hôm đó, đức Thế Tôn dùng loại nấm “Mộc
nhĩ”, sau khi dùng nấm này xong, đức Thế Tôn
gọi Cunda đến và bảo : “Nấm Mộc nhĩ còn lại này
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 169
nên đem chôn, không nên để cho ai dùng, vì
không ai dùng có thể tiêu hóa được ngoại trừ Như
Lai mà thôi”.
Sau khi thọ trai tại nhà cư sĩ Cunda (Thuần Đà)
xong, đức Thế Tôn liền thuyết pháp và khích lệ gia
đình của ông ta và Ngài từ giã, rồi đi đến Kusināra
để nghỉ ngơi. Và sau đó đức Thế Tôn xóa sự hối
hận cho cư sĩ Cunda, vì có thể có nhiều người cho
rằng: “Do ăn bữa ăn tại gia đình cư sĩ Cunda mà
đức Thế Tôn diệt độ”. Đức Thế Tôn đã dạy Tôn giả
A- nan đến nói với cư sĩ Cunda như sau:
“Nầy Hiền giả! Thật lợi ích cho bạn, thật là công
đức lớn cho bạn, vì Như Lai đã nhận bữa ăn cuối
cùng từ bạn cúng dường và Ngài diệt độ”.
“Này Hiền giả Cunda, tôi tự thân nghe, tự thân
lãnh thọ lời nói này từ đức Thế Tôn :
“Có hai sự cúng dường ăn uống đồng một quả
170 Thích Thái Hòa
báo, đồng một dị thục quả, quả báo lớn hơn, lợi
ích hơn các sự cúng dường khác.
Thế nào là hai? Một là bữa ăn trước khi Như Lai
chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Hai là
bữa ăn trước khi Như Lai diệt độ, không còn di
hưởng sinh tử. Hai bữa ăn này đồng một quả báo,
đồng một dị thục quả, quả báo lớn hơn, lợi ích hơn
các sự cúng dường ăn uống khác. Nhờ hành động
này, Hiền giả Cunda sẽ được hưởng tuổi thọ,
hưởng sắc đẹp, hưởng an lạc, hưởng danh tiếng,
hưởng phước báo cõi trời và hưởng uy quyền”.
Từ Kusināra, đức Thế Tôn và chúng Tỷ-khưu đi
qua bên kia sông Hirannavatti đến Kusināra-
Upavatta, nơi rừng cây Sālā của bộ tộc Mallā, đức
Thế Tôn dạy Tôn giả Ananda hãy sửa soạn chỗ
nằm, Như Lai muốn nghỉ tại đây. Ngài nằm nghỉ
giữa hai cây Sālā, nghiêng về phía phải, hai chân
chéo lên nhau, đầu xoay về phía Bắc, như dáng sư
tử ngọa có chánh niệm tỉnh giác.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 171
Bấy giờ cây Sālā song thọ trổ hoa trái mùa, hoa rơi
lên khắp mình của Như Lai để cúng dường Ngài,
rồi những thiên hoa Mandāravā từ hư không rơi
xuống trên thân Như Lai để cúng dường Ngài. Bột
chiên đàn từ trên hư không rơi xuống để cúng
dường, nhạc trời trổi lên, thiên ca vang lên để
cúng dường Ngài. Nhưng đức Thế Tôn gọi Tôn
giả Ananda mà bảo: “Tất cả sự cúng dường đó
không phải là sự cúng dường tối thượng”.
“Nầy Ananda! Trong hàng đệ tử của Như Lai
những ai đã thành tựu Pháp và tùy Pháp, sống
chơn chánh trong Chánh pháp, hành trì đúng
Chánh pháp, thời người ấy kính trọng, tôn sùng,
đảnh lễ, cúng dường Như Lai với sự cúng dường
tối thượng.
Do đó, này Ananda! Quý vị hãy thành tựu Chánh
pháp và tùy Pháp, sống chơn chánh trong Chánh
pháp. Này Ananda các người phải học tập như vậy!”.
172 Thích Thái Hòa
Bấy giờ, Đại đức Upavāna đang đứng trước mặt
Thế Tôn và quạt, nhưng đức Thế Tôn bảo Đại đức
Upavāna đừng đứng trước mặt làm che khuất sự
chiêm ngưỡng của chư Thiên từ xa đối với Ngài.
Bấy giờ, có hạng chư Thiên ở Dục giới và các
hạng Thiên thần ở trên đất, với tâm tư thế tục, đã
than khóc sầu não:
“Thế Tôn nhập diệt sớm quá, Thiện Thệ nhập diệt
sớm quá, Pháp nhãn biến mất trên đời quá sớm!”.
Bấy giờ có hạng chư Thiên đã diệt trừ được ái
dục, họ bình thản, tỉnh giác chịu đựng, với tâm suy
tư:
“Các hành là vô thường, sự kiện này làm sao có
thể khác được!”.
Bấy giờ các Tỷ-khưu thưa:
“Bạch đức Thế Tôn! Thuở trước chúng con sau
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 173
khi thọ an cư, từ các địa phương chúng con đến
chiêm ngưỡng Như Lai, chúng con cũng lại được
lợi ích tiếp kiến hầu cận với những vị Tỷ-khưu tu
tâp giỏi.
Bạch Thế Tôn!
Sau khi đức Thế Tôn diệt độ chúng con không
được diện kiến chiêm ngưỡng Ngài và tiếp kiến,
hầu cận với những vị Tỷ-khưu tu tập giỏi”.
Đức Thế Tôn dạy: “Sau khi Như Lai diệt độ, quý
vị nên chiêm ngưỡng bốn Thánh tích:
1. Nơi Bồ tát đản sinh.
2. Nơi Như Lai thành đạo.
3. Nơi Như Lai chuyển pháp luân.
4. Nơi Như Lai diệt độ.
Những vị nào trong lúc chiêm bái các Thánh tích
174 Thích Thái Hòa
với tâm thâm tín, hoan hỷ, thời sẽ sanh vào các cõi
thiện hoặc các cõi trời”.
Bấy giờ, Tôn giả Ananda thưa đức Thế Tôn rằng:
“Khi chúng con đối xử với người khác phái phải
như thế nào?”.
Đức Thế Tôn dạy:
“Khi tiếp xúc phải an trú trong chánh niệm”.
“Sau khi đức Thế Tôn diệt độ, chúng con phải xử
sự Xá lợi như thế nào?”.
Đức Thế Tôn dạy:
“Quý vị đừng có lo lắng vấn đề cung kính thân Xá
lợi của Như Lai. Quý vị hãy nỗ lực hướng về tự
độ; tinh cần không phóng dật đối với vấn đề tự độ.
Còn Xá lợi của Như Lai sẽ có những vị học giả
Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, gia chủ thâm tín của Như
Lai lo liệu”.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 175
“Sau khi đức Thế Tôn diệt độ, chúng con sẽ tẩm
liệm và xây tháp tôn trí như thế nào?”.
Đức Thế Tôn dạy:
“Hãy cử hành tang lễ của Như Lai theo nghi thức
tang lễ của vị Chuyển Luân Thánh Vương và xây
tháp cũng vậy.
Nghĩa là thân thể quấn tròn với vải mới và quấn
thêm một lớp vải gai bện, rồi lại quấn thêm một
lớp vải mới và tiếp tục như vậy cho đến năm trăm
lớp cả hai loại vải.
Rồi đem thân ấy đặt vào trong một cái quan bằng
sắt có dầu, rồi cái quan bằng sắt có dầu này lại
được bọc một cái quách lớn phủ kín và đưa ra ở
ngã tư đường, đặt trên một giàn hỏa được thiết trí
toàn gỗ bằng hương và thiêu.
Và tháp của Như Lai cũng xây ở ngã tư đường để
cho mọi người khởi tâm dâng hương, dâng hoa,
176 Thích Thái Hòa
kính lễ khiến cho họ có được phước báo lâu dài”.
Đức Thế Tôn dạy chỉ có bốn hạng người đáng
được xây tháp:
1. Đấng Như Lai.
2. Độc Giác.
3. Hàng Thanh văn đệ tử của Như Lai.
4. Chuyển Luân Thánh Vương.
Vì do tâm của quần chúng khi nghĩ tới bốn hạng
này, họ sanh tâm cung kính, hoan hỷ, nên khi sinh
mệnh của họ kết thúc được sanh vào các cõi lành
hoặc sanh lên các cõi trời. Do đó, bốn hạng này
cần xây tháp để đem lại lợi ích.
Sau khi nghe đức Thế Tôn dạy như vậy, Tôn giả
Ananda đi vào phía sau khóc và nói:
“Ta nay vẫn còn là kẻ hữu học, còn phải tự lo tu
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 177
tập. Nay, bậc Đạo sư của ta sắp diệt độ, còn ai
thương tưởng ta nữa”.
Bấy giờ đức Thế Tôn gọi Tôn giả Ananda và bảo:
“Này Ananda, chớ có buồn rầu, chớ có than khóc!
Ta đã tuyên bố trước với thầy rồi: mọi vật thương
quý tốt đẹp đều phải sanh biệt, tử biệt, dị biệt.
Nầy Ananda, làm sao các pháp hữu vi đã có sanh,
có trụ mà không có sự biến diệt?
Thôi, Ananda đừng khóc và buồn nữa.
Nầy Ananda, Như Lai cảm ơn thầy.
Thầy đã đem thân nghiệp, ngữ nghiệp, ý nghiệp từ
ái, thanh tịnh mà phụng sự Như Lai. Công đức của
Thầy đối với Như Lai quả là vô lượng. Thầy hãy
cố gắng lên, không bao lâu sẽ chứng Thánh quả vô
lậu, hỡi người Thị giả ưu tú của Ta”.
178 Thích Thái Hòa
Tôn giả Ananda bạch với đức Thế Tôn rằng:
“Bạch Thế Tôn! Xin Ngài đừng diệt độ tại đô thị
nhỏ bé này, vì tại đây quá hoang vu, quá nhiều sự
lệ thuộc, xin Ngài hãy đến các đô thị như Campā
(Chiêm Bà), Rājagaha (Vương Xá), Sāvatthi (Xá
Vệ), Sāketa (Sa Kỳ), Kosambi (Kiều Thường Di),
Bārānasi (Ba La Nại) để diệt độ. Tại những chỗ ấy
có đại chúng Sát-đế-lợi, đại chúng Bà-la-môn, đại
chúng gia chủ, các đại chúng ấy rất tin tưởng Như
Lai và họ sẽ cúng dường Xá lợi của Như Lai”.
Đức Thế Tôn dạy: “Đừng nói đô thị này nhỏ bé,
hoang vu và lệ thuộc. Đô thị này vào thời vua
Mahāsudassa làm Chuyển Luân Thánh Vương, đem
Chánh pháp an dân, thống lãnh bốn châu thiên hạ,
chinh phục hộ trì quốc dân, đầy đủ bảy báu.
Này Ananda, xưa ta làm vị Chuyển Luân Thánh
Vương tên là MahāSudassa, ta đã từng diệt độ ở
đô thị này.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 179
Thôi, Ananda hãy vào báo tin cho các vị tộc
trưởng Vāsetthā và dân làng Mallā là cuối đêm
nay Như Lai sẽ diệt độ, để họ đến thăm và chiêm
ngưỡng”.
Tôn giả Ananda, liền đi báo cho tộc trưởng
Vāsetthā và dân làng Mallā cho họ biết là cuối
đêm nay, đức Thế Tôn sẽ diệt độ tại rừng Sālā
này. Vậy, quý vị hãy đến chiêm ngưỡng, cả về sau
ân hận.
Bấy giờ, dân làng Mallā kéo nhau đến từng bộ tộc
than khóc và nói:
“Thế Tôn nhập diệt quá sớm, Thiện Thệ nhập diệt
quá sớm, pháp nhãn biến mất ở trên đời quá sớm”.
Sau đó, dân làng Mallā đảnh lễ đức Thế Tôn theo
từng bộ tộc.
Bấy giờ, có du sĩ ngoại đạo tên là Subhadda (Tu
Bạt Đà La) 120 tuổi đến xin yết kiến Thế Tôn, để
180 Thích Thái Hòa
tham vấn, nhưng Thầy Ananda không bằng lòng.
Đức Thế Tôn biết được. Ngài cho gọi Subhadda
vào.
Sau khi Subhadda vào theo phép xã giao thăm hỏi,
rồi ngồi xuống và thưa với đức Thế Tôn như sau:
“Thưa Tôn giả Gotama! Có những Sa-môn, Bà-la-
môn là những vị hội chủ, giáo chủ nổi tiếng, được
quần chúng tôn trọng như Pūranakasspa,
Makkhali- Gosāla, Ajita-Kesakambali, Pakadha-
Kaccāyana, Sanjaya-Belatthiputta, Nigantha-
Nāthaputa, tất cả những vị này đã giác ngộ như họ
tự nói, hay là chưa giác ngộ, mà trong số họ có vị
giác ngộ, có vị chưa giác ngộ?”.
“Thôi, chuyện đó để yên một bên, bây giờ Như
Lai chỉ nói gọn cho Subhadda biết rằng:
Ở trong pháp và luật nào có Bát Chánh Đạo, thì
pháp luật đó có sự giác ngộ của bốn quả vị Sa-
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 181
môn, và trong pháp luật nào không có pháp Bát
Chánh Đạo thì pháp luật ấy không có bốn quả vị
Sa-môn”.
Khi nghe đức Thế Tôn nói như vậy, ông Subhadda
hiểu được vấn đề, liền đảnh lễ đức Thế Tôn và
lãnh thọ pháp Tam Quy, làm đệ tử cuối cùng của
đức Thế Tôn.
Trước khi đức Thế Tôn diệt độ, Ngài gọi Tôn giả
Ananda và các Tỷ-khưu dặn dò những điều như
sau.
1. Sau khi Như Lai diệt độ, giới luật là bậc Đạo sư
của quý vị.
2. Sau khi Như Lai diệt độ, các Thầy lớn gọi các
Thầy nhỏ là Hiền giả. Còn các Thầy ngang hàng
nhau thì gọi nhau bằng tên, hoặc bằng họ hay bằng
Hiền giả. Và các Thầy nhỏ gọi các Thầy lớn là
Thượng toạ hay Đại đức.
182 Thích Thái Hòa
3. Sau khi Như Lai diệt độ, có nhiều nhỏ nhặt
trong học giới, quý vị muốn bỏ thì hãy bàn bạc với
nhau mà bỏ.
4. Sau khi Như Lai diệt độ chúng Tăng hãy xử trị
pháp Brahmadanda (Mặc tẫn) đối với các Tỷ-khưu
ương ngạnh (channa).
5. Các Tỷ-khưu nào có nghi ngờ gì về Phật, Pháp,
Tăng, về Đạo và các phương tiện thì hãy hỏi, chứ
đừng để về sau ân hận.
6. Sau khi Như Lai diệt độ, mỗi khi tụng đọc lại
pháp, nên mở đầu bằng “Như vậy tôi nghe…”.
7. Các Thầy luôn luôn quán chiếu các pháp hữu vi
là sinh diệt vô thường hãy tinh tấn để tự độ, đừng
có buông lung. Đó là lời dạy cuối cùng của Như
Lai.
Bấy giờ, Như Lai đi vào sơ thiền. Xuất sơ thiền
Ngài nhập nhị thiền. Xuất nhị thiền, Ngài nhập
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 183
tam thiền. Xuất tam thiền, Ngài nhập tứ thiền.
Xuất tứ thiền Ngài lập tức diệt độ.
Lúc Thế Tôn diệt độ rồi, đại địa chấn động, râu
tóc mỗi người dựng ngược, sấm trời vang dậy.
Lúc đó Phạm Thiên Sahampati, thốt lên bài kệ:
"Chúng sanh ở trên đời
Từ bỏ thân ngũ uẩn
Bậc Đạo sư cũng vậy
Đấng tuyệt luân trên đời
Bậc Đại Hùng Giác Ngộ
Như Lai đã diệt độ".
Lúc đó, Thiên Chủ Sakka thốt lên bài kệ:
"Các hành là vô thường,
Có sanh phải có diệt,
Đã sanh, chúng phải diệt,
184 Thích Thái Hòa
Nhiếp chúng là an lạc".
Đại đức Anuruddha thốt lên bài kệ:
"Không phải thở ra vào
Chính tâm trú chánh định
Không tham ái tịch tịnh
Tu sĩ hướng diệt độ.
Chính tâm tịnh bất động
Nhẫn chịu mọi cảm thọ
Như đèn sáng bị tắt
Tâm giải thoát hoàn toàn".
Đại đức Ananda thốt lên bài kệ:
"Thật kinh khủng bàng hoàng
Thật râu tóc dựng ngược
Khi bậc Toàn Thiện Năng
Bậc Giác Ngộ nhập diệt".
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 185
Khi đức Thế Tôn nhập diệt rồi, các Thầy Tỷ-khưu
các tham ái chưa diệt trừ hết liền than:
“Thế Tôn nhập diệt sao sớm quá; Thiện Thệ nhập
diệt sao sớm quá; Pháp nhãn sao biến mất ở trên
đời quá sớm!”.
Các vị Tỷ-khưu đã đoạn trừ tham ái, thì kham
nhẫn an trú chánh niệm tỉnh giác mà nói:
“Các hành là vô thường, làm sao tránh khỏi sự
kiện ấy”.
Lúc bấy giờ đại chúng và dân chúng Mallā tẩm
liệm đức Thế Tôn theo nghi thức của vị Chuyển
Luân Thánh Vương, rồi kính lễ, dâng hoa hương
cúng dường suốt một tuần. Đến ngày thứ bảy, đại
chúng và dân làng Mallā đưa kim thân của đức
Thế Tôn đến giàn thiêu, bốn vị tộc trưởng Mallā
thiêu giàn hỏa, nhưng giàn hỏa không cháy.
Bốn vị tộc trưởng liền thưa với Đại đức
186 Thích Thái Hòa
Anuruddha do nhân gì, duyên gì mà giàn hỏa hỏa
thiêu kim thân của đức Thế Tôn không cháy?
Đại đức Anuruddha đáp:
“Do Đại đức Mahākassapa và đại chúng Tỷ-khưu
đang trên đường về để đảnh lễ kim thân của đức
Thế Tôn”.
Khi Đại đức Mahākassapa và đại chúng Tỷ khưu
500 vị đến, Đại đức Mahākassapa (Ca Diếp) thưa
với Đại đức Ananda rằng: “Cho Tôi chiêm
ngưỡng Kim thân đức Thế Tôn lần cuối trước khi
làm lễ Trà Tỳ”.
Đại đức Ananda thưa: “Rất khó thấy Kim thân đức
Thế Tôn, vì kim thân của Ngài trong khi tẩm liệm
được bao bọc nhiều lớp”.
Bấy giờ, Đại đức Mahākassapa hướng về giàn hỏa
cầu nguyện chiêm bái đức Thế Tôn, thì ngay lúc
ấy, đức Thế Tôn duỗi chân ra ngoài kim quan để
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 187
cho đại đức chiêm ngưỡng và đảnh lễ. Đại đức
chiêm ngưỡng và đảnh lễ xong, chân của đức Thế
Tôn biến mất, Ngài và chúng Tỷ-khưu 500 vị liền
đi quanh giàn hỏa ba vòng và đọc bài kệ:
"Con nay cúi đầu lễ,
Đức Đạo Sư Vô thượng,
Thánh trí không thể lường,
Thánh trí cao tột đỉnh.
Bậc Sa-môn tối thượng ,
Cao quý không tỳ vết,
Thanh tịnh không tham ái
Bậc Thầy giữa Trời - Người.
Con nay xin kính lễ,
Đấng Đại Hùng cõi người,
Khổ hạnh chẳng ai bằng,
Từ bỏ để dạy người.
Kính lễ Đấng Thế Tôn,
188 Thích Thái Hòa
Không nhiễm, không trần cấu,
Dứt sạch tham, sân, si,
Vui trong cảnh tịch diệt.
Kính lễ Đấng Thập Lực,
Độc nhất chẳng ai bằng,
Giải thoát đến tột bực,
Phước trí cao tuyệt vời.
Kính lễ bậc Trí Tịnh,
Đấng giác ngộ Tứ Đế
Tối thượng giữa Sa-môn
Khiến bỏ tà về chánh.
Kính lễ Đấng Vắng Lặng,
Thế Tôn thường an tịnh,
Không dao động tỳ vết,
Thân tâm thường tịch tịnh.
Kính lễ Đấng Thanh Tịnh
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 189
Loại trừ mọi nhiễm ô,
Tuệ nhãn không hạn lượng
Cam lồ, tiếng oai vang.
Kính lễ Đấng Vô Thượng,
Hiếm có khó nghĩ bàn,
Tiếng nói nhơn Sư Tử,
Ở rừng không khiếp sợ
Nhiếp ma vượt bốn tánh,
Cho nên con kính lễ".
Đại đức vừa đọc xong bài kệ ca ngợi đức Thế Tôn
xong thì giàn hỏa tự bốc cháy. Các người Mallā
nhặt Xá lợi của Thế Tôn và tôn trí ở giảng đường
để đảnh lễ và dâng hoa, hương, đèn, nhạc, quả để
chiêm bái cúng dường trải qua bảy ngày.
Bấy giờ vua chúa các nước Magadha, Vesāli,
Kapilavatthu, Allakappa, Rāmagāma… đều gởi sứ
giả đến Kusināra và nói:
190 Thích Thái Hòa
“Thế Tôn là người Sát-đế-lợi, chúng tôi cũng là
người Sát-đế-lợi, chúng tôi cũng xứng đáng một
phần Xá lợi Thế Tôn, chúng tôi cũng dựng tháp và
tổ chức các nghi lễ đối với Xá lợi Thế Tôn”.
Bà-la-môn Vethadīpaka nghe tin Thế Tôn diệt độ,
cũng sai một sứ giả đến Kusināra và nói:
“Thế Tôn là người Sát-đế-lợi, tôi là người Bà-la-
môn. Tôi cũng xứng đáng được một phần Xá lợi
Thế Tôn, tôi cũng dựng tháp và tổ chức các nghi
lễ đối với Xá lợi Thế Tôn”.
Các người Mallā nghe tin Thế Tôn diệt độ, cũng
liền gởi một sứ giả đến Kusināra và nói:
“Thế Tôn là người Sát-đế-lợi chúng tôi cũng là
người Sát-đế-lợi, chúng tôi cũng xứng đáng được
một phần Xá lợi Thế Tôn, chúng tôi cũng dựng
tháp và tổ chức các nghi lễ đối với Xá lợi Thế
Tôn”.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 191
Và các người Mallā ở Kusināra khi nghe sứ giả
các nơi gởi đến tuyên bố như trên nên họ liền nói:
“Thế Tôn diệt độ tại rừng của chúng tôi, chúng tôi
sẽ không cho một phần Xá lợi nào của Thế Tôn
đến quý vị”.
Khi nghe các người Mallā ở Kusināra tuyên bố
như vậy, Bà-la-môn Do-na liền nói với đại chúng:
"Tôn giả hãy nghe lời tôi nói!
Phật dạy chúng ta hãy kham nhẫn.
Thật không tốt nếu có tranh giành,
Khi chia Xá lợi bậc Thượng Nhân.
Chúng ta hãy đoàn kết nhất tâm,
Hoan hỷ chia Xá lợi tám phần.
Chúng ta hãy dựng tháp mọi phương,
Đại chúng mười phương tin pháp nhãn".
Sau đó, Xá lợi Thế Tôn được phân chia tám phần
192 Thích Thái Hòa
đồng đều cho tám xứ sở.
Và cuối cùng là sứ giả của người Morigā ở
Pipphalivana đến sau cùng nên chỉ lấy phần tro
còn lại.
Như vậy, Xá lợi của Thế Tôn đã được sứ giả của
các quốc gia cung thỉnh về nước của họ, xây tháp
phụng thờ cho nhân dân của họ kính lễ và cúng
dường hằng ngày.
Bao nhiêu sự kiện lịch sử của đức Thế Tôn từ Thị
hiện Đản sanh đến Diệt độ, rồi chúng cũng sẽ trở
thành những sự kiện siêu lịch sử, khi mà thời gian
đi qua một tiểu kiếp, một trung kiếp, một đại kiếp,
rồi lại trải qua số kiếp như cát sông Hằng và bấy
giờ trí năng của con người không còn đủ lực để ý
niệm về chúng, và đương nhiên cũng được mọi
người xếp vào những sự kiện huyền thoại và siêu
lịch sử.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 193
Tuy nhiên, dù chúng có được con người xếp vào
những sự kiện huyền thoại và siêu lịch sử đi nữa,
thì những sự kiện ấy vẫn là những sự kiện thực tế
của con người.
Do đó, dù người học Phật theo trường phái nào đi
nữa, nếu họ có những phút giây trầm lắng để
chiêm nghiệm, họ sẽ phát hiện ra rằng:
Giữa không gian vô cùng đang có vô biên thế giới;
giữa thời gian vô tận đã, đang và sẽ có vô biên
Thế Tôn thị hiện giữa cuộc đời để hóa độ chúng
sanh. Và bất cứ đức Phật nào khi giáo hóa chúng
sanh các Ngài cũng có đầy đủ mười phẩm tính
giác ngộ, bốn vô sở úy, mười trí lực, mười tám
pháp bất cộng vậy.
194 Thích Thái Hòa
Chương 3
Mười Phẩm Tính
I - Tổng Luận
Phật tính (Buddhatā) là tính chất của một vị Phật.
Nói cách khác, hễ là Phật thì phải thành tựu Phật
tính và biểu hiện Phật tính. Nếu không thành tựu
Phật tính và không biểu hiện Phật tính thì không
thể gọi là Phật hay là đã thành tựu địa vị Phật, và
không phải là nơi nương tựa an toàn cho tất cả
chúng sanh.
Thành tựu địa vị Phật là thành tựu Phật tính.
Thành tựu Phật tính là thành tựu mười phẩm tính
tác thành tư cách của một vị Phật, như đức Phật
Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni) đã xác định mười
phẩm tính thành tựu của Ngài. Ngài nói: “Ta là
đấng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh
Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 195
Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật,
Thế Tôn”.22
Mười phẩm tính ấy, ý nghĩa như thế nào, chúng ta
sẽ tuần tự tìm hiểu và giải thích nó.
II - Ý Nghĩa
1. Như Lai
Như Lai, tiếng Phạn gọi là Tathāgata. Tathā có
nghĩa là thực tại, là chân lý, là như thực…
Gata được thành lập từ động từ căn là “gam” có
nghĩa là đi, đạt được, đạt đến… Nên chữ “gata” có
nghĩa là đi đến, đạt được, thành tựu…
Bằng vào những ý nghĩa có tính cách ngữ học ấy,
thì Như Lai hay Tathāgata là người đã đi đến thực
tại, đã thành tựu như thật. Như thật hay thực tại ở
đây là thực tại của giác ngộ và Niết bàn. Điểm này
22
Diệu Pháp Liên Hoa kinh, q3, tr19.Đại Chính 9.
196 Thích Thái Hòa
đã được đức Phật nói như sau: “Này các Tỷ-khưu,
nhơn địa của ta ngày xưa, khi còn làm Bồ tát, trải
qua sự tu tập các hạnh, vì mục đích để mong cầu
Vô thượng Bồ đề. Ngày nay ta đã thành tựu được
sự chân thật của Bồ đề và Niết bàn, sự thành tựu
ấy là chứng được tri kiến chân thật về Bát Chánh
Đạo, nên ta được mệnh danh là Như Lai
(Tathāgata). Và như Phật quá khứ, đã điều phục
tâm, làm cho tâm vắng bặt mọi sự sinh khởi của
phiền não mà đi đến Niết bàn, vì thế gọi là Như
Lai”.23
Như Lai hay Tathāgata ở trong kinh Đại bát Niết
bàn (Mahāparinirvāna) không chỉ đơn thuần trong
ý thành tựu Giác ngộ và Niết bàn, mà còn có ý
nghĩa thuyết giáo, lập giáo và tùy theo phương
tiện, hoàn cảnh để khai thị chúng sanh, hướng họ
về với giác ngộ và Niết bàn nữa. Đức Phật nói:
“Như những điều được nói bởi chư Phật quá khứ
23
Thập Hiệu kinh, tr719, Đại Chính17.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 197
là bất biến. Vì sao nó bất biến? Vì 12 thể loại
kinh(B)
đã được chư Phật quá khứ nói để hóa độ
chúng sanh, Như Lai cũng nói như vậy, vì thế mà
gọi là Như Lai. Chư Phật là đấng Thế Tôn từ sáu
Ba-la-mật (Pāramitā); 37 Phẩm Trợ Đạo
(Bodhipakshya); 11 Pháp Không(C)
mà đi đến Niết
bàn. Như Lai cũng như thế cho nên Phật hiệu là
Như Lai (Tathāgata). Chư Phật là đấng Thế Tôn,
vì chúng sanh mà tùy nghi khai thị Tam thừa(D)
thọ
mạng vô lượng, không thể đo lường, Như Lai
cũng như vậy, vì thế Phật hiệu là Như Lai”.24
Trong Pháp Uẩn Túc Luận, Ngài Moggallāna cũng
đã trích dẫn sự giải thích ý nghĩa Như Lai như sau:
“Từ đêm Bồ tát chứng ngộ Vô thượng Bồ đề cho
đến đêm đức Phật nhập Vô dư Niết bàn, ở giữa
thời gian ấy, tất cả những gì đã được diễn tả, được
tuyên thuyết, được trình bày bởi đức Phật, đều gọi
là Như (Tathā), vì nó không có hư vọng, không có
24
Đại bát Niết bàn kinh q18, tr468ab, Đại Chính 12
198 Thích Thái Hòa
biến dị, nó đích thực như thị, hiện kiến rồi mới
tuyên thuyết. Vì ý nghĩa như thế mà gọi là Như
Lai (Tathāgata)”.25
Bản dịch Đại Trí Độ luận của Ngài Cưu Ma La
Thập (Kumārājīva) đã chuyển âm Tathāgata sang
Hán ngữ là Đa-đà-a-già-đà, và chính trong luận
này đã giải thích Đa-đà-a-già-đà (Tathāgata) là
Đấng hiểu biết như Pháp tướng
(Dharmalakṣana)(E)
, tuyên thuyết đúng như Pháp
tướng (Dharmalakṣana), như chư Phật quá khứ đã
đến từ con đường an ổn, Phật Thích Ca Mâu Ni
cũng vậy, Ngài đã đi đến mà không bao giờ trải
qua ở trong con đường bị tái sanh, vì thế mà gọi
Ngài là Đa-đà-a-già-đà.26
Như Lai, Đa-đà-a-già-đà hay Tathāgata đều là
biểu hiện ý nghĩa đến và đi một cách như thật. Và
25
A Tỳ Đạt Ma Pháp Uẩn Túc luận q2, tr460b15, Đại
Chính 26. 26
Đại Trí Độ luận, q2, tr71b, Đại Chính 25.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 199
sự thật của ý nghĩa này không bị giới hạn bởi
không gian và thời tính. Vì ở đây, chư Phật cũng
đã đến và đi như vậy, ở nơi khác chư Phật cũng
đã đến và đi như vậy; ở quá khứ, chư Phật cũng
đã đến và đi như vậy; ở hiện tại, chư Phật cũng
đang đến và đi như vậy; ở vị lai, chư Phật cũng sẽ
đến và đi như vậy, đó là truyền thống đến và đi
của chư Phật ba đời và chư Phật mười phương.
2. Ứng Cúng
Ứng Cúng, Pāli ngữ là Arhart và Phạn ngữ là
Arhat(F)
. “Arhart” đi từ động từ căn là “Arh”,
nghĩa là có khả năng, đáng được nhận… Như
vậy, Arhart hay Arhat là người có khả năng xứng
đáng, đáng được cúng dường, đáng được cung
kính và mời thỉnh.
Cũng có khi chữ Arhat hay Arhart được viết bằng
Arahant hay Arihant. Nếu viết Arihant thì tiền tố
từ của nó là “Ari” có nghĩa là “kẻ thù” và động từ
200 Thích Thái Hòa
căn của nó là “Han”, có nghĩa là “giết chết” hoặc
“tiêu diệt”. Như vậy Arihant là người tiêu diệt kẻ
thù (Destroyer of the enemy).
Và nếu Arahant đi từ động từ căn “Ri” thì có
nghĩa trói buộc và tiền tố từ của nó là “A”, có
nghĩa là “Vô” hay “Không”. Như vậy, Arahant là
người không còn bị trói buộc, tức là người không
còn bị ràng buộc trong sanh tử.
Các dịch giả Trung Hoa, phần nhiều chuyển các
chữ Arhart, Arahant, Arihant… sang Hán ngữ,
phiên âm là A-la-hán và dịch có ba nghĩa là Ứng
cúng, Sát tặc và Vô sanh.
- Ứng cúng: Như Lai là Đấng tu tập đã thành tựu
thiện pháp, các công đức thù thắng, đáng nhận sự
cúng dường của Nhơn - Thiên.
- Sát tặc: Như Lai là Đấng đã tiêu diệt kẻ thù
phiền não, là Đấng đã chiến thắng khổ đau và
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 201
Đấng đã thành tựu hạnh phúc, an lạc tối thượng.
- Vô sanh: Như Lai là Đấng đã vượt ra khỏi giới
hạn của sanh tử, đã đạt được đời sống vô hạn của
Niết bàn.
Ý nghĩa Ứng cúng hay Arhant đã được một số
kinh và luận giải thích như sau:
Trong kinh Thập Hiệu, đức Phật nói: “Xưa, nhân
ở nơi địa vị tu tập các thiện pháp, các giới phẩm
oai nghi, khiến tăng trưởng về thập thiện, về các
căn và lực, sự tu tập như vậy đã đi đến hoàn thành
viên mãn, khi chứng Niết bàn (Nirvāna) thời đoạn
tận hết các phiền não khiến thân khẩu ý đều được
thanh tịnh, không ô nhiễm. Những tập khí phiền
não đã được vĩnh viễn tiêu diệt giống như đầu cây
Đa-la đã bị chặt, mầm mộng vĩnh viễn không còn
tái sinh.
Lại nữa, tất cả phiền não tham, sân, si… đã đoạn
202 Thích Thái Hòa
trừ, tất cả các sanh thú hoàn toàn không còn tái
sanh, đã siêu việt bốn tai họa sanh, lão, bệnh, tử và
những pháp đưa đến tai họa khổ đau; hai loại khổ
hoặc(G)
đã bị đoạn tận, không còn sinh khởi, vì thế
mà gọi là Ứng cúng.
Lại nữa, khiến thế gian, đối với những sở hữu như
y phục, ngọa cụ, thuốc chữa bệnh… và những tài
vật tối thượng đều đem dâng cúng Đấng Giác
Ngộ, là Đấng đã thành tựu phước đức tối thượng,
an lạc tối thượng và sự tôn kính tối thượng. Vì
vậy, hiệu là Ứng cúng”. 27
Kinh Đại Niết Bàn, bản dịch chữ Hán của Ngài
Đàm Vô Sấm, chữ Arhart chỉ dịch là “Ứng”, và
giải thích như sau:
“…Pháp thuộc về thế gian đều là kẻ thù, Phật có
khả năng tiêu diệt. Vì vậy mà gọi là Ứng. Bốn loại
ma(H)
là kẻ thù của Bồ tát, lúc chư Phật Như Lai
27
Kinh Thập Hiệu, 782, tr719b, Đại Chính 17.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 203
làm Bồ tát thường dùng trí tuệ để phá bốn loại ma
ấy, vì vậy gọi là Ứng.
Lại nữa, Ứng còn gọi là tránh xa vô lượng phiền
não, vì vậy gọi là Ứng.
Lại nữa, Ứng còn gọi là niềm vui, vì chư Phật ở
quá khứ, khi còn làm Bồ tát, tuy trải qua vô lượng
vô số kiếp, không phải là hoàn toàn không vui, mà
thường vui, vì chúng sanh nhận lấy các khổ não.
Vì thế gọi là Ứng.
Lại nữa, Ứng đối với chư thiên và loài người đáng
nhận những sự cúng dường như hương hoa, anh
lạc, tràng phan, kỹ nhạc, vì vậy gọi là Ứng”.28
Theo kinh Lăng Già, A-la-hán (Arhart) là người
đã thành tựu hoàn toàn về thiền định, giải thoát,
năng lực và thần thông; là người đã đoạn tận vọng
28
Đại Bát Niết Bàn kinh q18, tr468, Đại Chính12
204 Thích Thái Hòa
tưởng (vikalpa) và các khổ quả phiền não.29
Ngài Moggallāna trong Pháp Uẩn Túc Luận cũng
đã giải thích A-la-hán (Arhart) với ý nghĩa tương
tự như sự giải thích của Thập Hiệu kinh và Đại
Bát Niết Bàn kinh, nhưng có phân A-la-hán thành
hai chủng tính. Một chủng tính A-la-hán thuộc về
hữu vi (samskṛta) và một chủng tính A-la-hán
thuộc về vô vi (asamskṛta), và giải thích A-la-hán
hữu vi là thành tựu được căn vô học, lực vô học,
giới vô học, thiện căn vô học, mười pháp vô học(I)
và chủng loại các pháp vô học. Còn A-la-hán vô vi
là A-la-hán mà tham, sân, si và tất cả các phiền
não đều đã đoạn trừ, đã siêu việt tất cả các sinh
thú, đã đoạn tận mọi con đường của sinh tử, đã đạt
được mục đích tối thượng, tịch tịnh tối thắng, ái
tận tối thắng và sự Niết bàn vĩnh cửu. Như Lai là
người đã thành tựu cả hai chủng tánh ấy, cho nên
29
Đại Thừa Nhập Lăng Già kinh
(Saddharmalavikāvatārasūtra), q3, tr605, Đại Chính 16
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 205
gọi là A-la-hán.30
Còn ngài Nāgārjuna ở trong luận Đại Trí Độ, đã
giải thích A-la-hán (Arhart): A-la (ari) là giặc ,
Hán (Hant) là “giết” . Như vậy, A-la-hán là người
đã giết được giặc, và chính ở trong luận này có bài
kệ nói về ý nghĩa ấy như sau:
“Phật dĩ nhẫn vi khải
Tinh tấn vi cương giáp
Trì giới vi đại mã
Thiền định vi lương cung
Trí tuệ vi hảo tiễn
Ngoại phá Ma Vương chúng
Nội diệt phiền não tặc
Thị danh A-la-hán”.
Nghĩa là:
30
Tham cứu sách đã dẫn, tr460b, Đại Chính 26
206 Thích Thái Hòa
“Phật dùng nhẫn làm áo
Tinh tấn làm cường bào
Trì giới làm đại mã
Thiền định làm nhuệ cung.
Trí tuệ làm tên bắn
Ngoài phá chúng Ma Vương
Trong diệt giặc phiền não
Chính danh A-la-hán”.
Ngoài ý nghĩa A-la-hán là người giết được kẻ thù,
Ngài Nāgārjuna còn giải thích A-la-hán (Arhant):
A là tiền tố từ phủ định, có nghĩa là không hoặc
chẳng, còn la-hán là sanh. Vậy, A-la-hán là vĩnh
viễn không còn tái sinh vào đời sau. Và nghĩa thứ
ba, A-la-hán có nghĩa là ứng thọ cúng dường. Sự
giải thích ứng thọ cúng dường cũng tương tự như
các ý nghĩa đã được dẫn ở trên.31
31
Đại Trí Độ luận, q11, tr71b, ĐTK25.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 207
A-la-hán (Arhant) hoặc Ứng cúng qua các kinh và
luận giải thích, đã được tham cứu trích dẫn ở trên.
Chúng ta thấy có nét nhất quán về sự giải thích
của nó, nghĩa là không vượt ra ngoài ba ý nghĩa
Ứng cúng, Sát tặc và Vô sanh. Đây là những giải
thích khá hoàn chỉnh về ý nghĩa của A-la-hán
(Arhant).
3. Chánh Biến Tri
Chánh Biến Tri, Pāli ngữ là Sammāsambuddha và
Phạn ngữ là Samyaksambuddha.
Samyak biến dạng từ Samyañc có nghĩa là chân
xác, đích thực, hiện thực, như thật,…
Sam bao hàm những ý nghĩa như rõ ràng, cùng
khắp, hoàn toàn,…
Buddha đi từ động từ budh là hiểu biết, giác ngộ,
liễu tri,…
Như vậy, Chánh Biến Tri hay Samyaksambuddha
208 Thích Thái Hòa
trong Thập Hiệu kinh, Ngài Thiên Tức Tai dịch là
Chánh Đẳng Giác và kinh này đã giải thích rằng:
Như Lai đầy đủ tất cả trí, đối với tất cả xứ địa, đều
được liễu tri, dùng các pháp Tứ Niệm Xứ
(Smrityapasthāna); Tứ Chánh Đoạn
(Samyakprāhana); Tứ Thần Túc (Riddhipāda); Ngũ
Căn (Indriya); Ngũ Lực (Bala); Thất Giác Chi
(Bodhyyanga); Bát Chánh Đạo (Āryāngikamārga);
Thập Nhị Nhân Duyên (Pratītyasamutpāda); Tứ Đế
(Satya); bình đẳng khai mở sự giác ngộ cho tất cả
chúng sanh, khiến khởi sanh trí tuệ, đoạn trừ các lậu
hoặc, chứng Thánh quả Tu-đà-hoàn
(Srotāpattiphala); Tư-đà-hàm (Sakridāgāmiphala);
A-na-hàm (Anāgamiphala); A-la-hán (Arhantphala),
đầy đủ Tam minh và Lục thông.
Lại đối với Đại thừa (Mahāyana) phát khởi ý chí
mong cầu sự tu tập, trải qua các xứ địa, đoạn trừ
các tập khí kiết sử, thành tựu sự giác ngộ tối
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 209
thượng; đây gọi là Chánh đẳng Chánh giác.32
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Mahāparinirvānasutra) đã
giải thích Chánh Biến Tri (Samyaksambuddha)
như sau:
- Chánh (Samyak) là không điên đảo; Biến tri
(Sambuddha) là đã thông đạt đối với bốn sự điên
đảo (viparyasa)(J)
.
- Chánh (Samyak) là khổ hạnh; Biến tri
(Sambuddha) là biết khổ hạnh nhân, chắc chắn
đưa đến khổ hạnh quả.
- Chánh (Samyak) là ở trong thế gian; Biến tri
(Sambuddha) là hoàn toàn biết chắc tu tập Trung
đạo sẽ thành tựu giác ngộ tối thượng.
- Chánh (Samyak) là số và lượng có thể khái niệm;
Biến tri (Sambuddha) là số và lượng không thể khái
niệm.
32
Kinh đã dẫn, số282, tr719b-720, ĐTK17.
210 Thích Thái Hòa
Vì thế mà Phật hiệu là Chánh Biến Tri.
Còn Thanh văn (Srāvaka), Duyên giác
(Pratyekabuddha) có những điều đã biến tri
(sambuddha), nhưng có những điều chưa biến tri
(Asambudddha). Đối với những điều đã biến tri
như năm ấm(K)
, mười hai nhập(L)
, mười tám
giới(M)
. Đối với những điều chưa biến tri, như
quán sát tự tướng một sắc ấm thì không biết được
một cách thấu triệt.33
Samyaksambuddha (Chánh Biến Tri) trong Pháp
Uẩn Túc Luận, Ngài Huyền Tráng dịch là Chánh
Đẳng Giác và luận này giải thích Chánh Đẳng Giác
tương tự như kinh Thập Hiệu đã được dẫn ở trên.
Samyaksambuddha, ở luận Đại Trí Độ, ngài Cưu
Ma La Thập chuyển âm sang Hán ngữ là Tam
Miệu Tam Phật Đà, và luận này giải thích, Tam
33
Kinh Đại bát Niết bàn, số374, q18, tr468, Đại
Chính 12.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 211
miệu (samyak) là chính; tam (sam) là biến; Phật
Đà (Buddha) là tri. Vậy, Tam Miệu Tam Phật Đà
(Samyaksambuddha) là biết tất cả pháp hoàn toàn
chính xác, và luận đã có bài kệ giải thích sự hiểu
biết chính xác ấy như sau:
“Tri Khổ như Khổ tướng
Tri Tập như Tập tướng
Tri Diệt như Diệt tướng
Tri Đạo như Đạo tướng”.34
Nghĩa là:
Biết Khổ đúng như hành tướng của Khổ
Biết Tập đúng như hành tướng của Tập
Biết Diệt đúng như hành tướng của Diệt
Biết Đạo đúng như hành tướng của Đạo.
Sự hiểu biết như vậy, gọi là Tam Miệu Tam Phật
34
Đại trí độ luậnq11, tr71c, Đại Chính25.
212 Thích Thái Hòa
Đà (Samyaksambuddha).
Không những Samyaksambuddha chỉ có ý nghĩa là
biết Khổ, Tập, Diệt, Đạo đúng như mọi hành
tướng của chính nó, mà còn biết đến hành tướng
siêu việt bất động của chính nó nữa, tức là biết
thực tướng (yathātalakṣana) của tất cả các pháp là
tướng không bị hủy hoại, không hề tăng giảm.
Tướng không bị hủy hoại là tướng đã vắng bặt
mọi xứ địa vận hành của tâm; đã đoạn tận con
đường của ngôn ngữ, là pháp siêu việt bất động
như trạng thái của Niết bàn. Vì vậy mà gọi là Tam
Miệu Tam Phật Đà (Samyaksambuddha).
Từ thế giới siêu nghiệm, siêu việt khái niệm, bước
vào thế giới thường nghiệm của danh ngôn, của sự
tướng, của quy định, thì Samyaksambuddha cũng
có ý nghĩa là biết đúng như danh ngôn, sự tướng
và quy định đó; danh hiệu của mọi thế giới trong
mười phương, danh hiệu của tất cả chúng sanh bao
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 213
gồm trong lục đạo; nhân duyên đời trước và xứ địa
phục sinh của chúng sanh đời sau, những kiết sử,
những thiện căn, những sự cần thiết để vượt khỏi.
Tất cả những sự kiện ấy, không có sự kiện nào là
không biết. Vì vậy mà gọi là Tam Miệu Tam Phật
Đà (Samyaksambuddha).
Samyaksambuddha hay Sammāsambuddha hoặc
Chánh Biến Tri, Chánh Đẳng Giác… đều diễn tả
những ý nghĩa có tính giác ngộ, giác ngộ đối với
thế gian và xuất thế gian.
Giác ngộ về thế gian là giác ngộ về Khổ và Tập
(dukkha-satya-samudaya-satya); giác ngộ đối với
xuất thế gian là giác ngộ về Diệt và Đạo (nirodha
satya-mārga satya) .
Giác ngộ về thế gian là giác ngộ về tính chất Y
Tha Khởi (paratantra); giác ngộ về xuất thế gian
là giác ngộ tính chất Viên Thành Như Thực
(Pariniṣhpanna)(N)
.
Khổ, Tập hay tính chất Y Tha Khởi đó là tính chất
214 Thích Thái Hòa
thường tại của thế giới Tục Đế (samvritisatyadhātu)
hay của thế giới thường nghiệm.
Diệt, Đạo hay tính chất Viên Thành Như Thực là
tính chất thường tại của thế giới Chơn Đế
(yathātasatyadhātu) hay thế giới siêu niệm.
Dù Khổ, Tập hay Diệt, Đạo; Y Tha Khởi hay Viên
Thành Như Thực; thường nghiệm hay siêu niệm;
Tục Đế hay Chơn Đế, chúng chỉ là biểu hiện hai
mặt của Đệ Nhất Nghĩa Đế (paramārthasatya) hay
nói cách khác, đó là sự biểu hiện hai mặt của một
thực tại tuyệt đối. Sự biểu hiện ấy, đức Phật đã
biết và đã thấy như thực, nên Ngài có danh hiệu là
Chánh Biến Tri (Samyaksambuddha), tức là Đấng
hiểu biết hoàn toàn chân xác về thế gian và xuất
thế gian.
4. Minh Hành Túc
Minh Hành Túc, Pāli ngữ : Vijjācaranasampanna
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 215
Phạn ngữ : Vidyācaranāsampanna
Vidya đi từ động từ Vid có nghĩa là hiểu biết, học
hỏi, kiến thức, lãnh hội, thấy rõ… Vidya là sự hiểu
biết, sự học hỏi, có kiến thức, sự lãnh hội, sự thấy
rõ…
Caranā đi từ động từ car có nghĩa là đi, chuyển
động, di chuyển, thực hành… Vậy Caranā là sự đi
đến đạo đức, sự thực hành đức hạnh…
Sam có nghĩa là hoàn toàn, rõ ràng…
Panna đi từ động từ căn pan, có nghĩa là kính
ngưỡng, thực hiện đúng, vượt qua, trải qua… Vậy
Panna là sự kính ngưỡng, sự thực hiện đúng, sự
vượt qua, sự trải qua…
Trên phương diện phân tích ngữ học thì
Vidyācaranāsampanna cho ta những ý nghĩa như
sau: Vidyācaranāsampanna là sự thực hiện hoàn
toàn về trí tuệ và đức hạnh, hay đã kinh qua sự
216 Thích Thái Hòa
thực hành hoàn toàn về trí và đức. Vậy, đức Phật
là Đấng đã thực hiện đúng hoàn toàn cả trí (vidyā)
lẫn đức (caranā) đầy đủ.
Trong Thập Hiệu kinh đã giải thích Minh Hành
Túc (Vidyācaranāsampanna) : Minh (vidyā) là
Thiên Nhãn Minh (Divyamcakshusvidyā), Túc
Mạng Minh (Pūrvanīvāsānusmṛtividyā), Lậu Tận
Minh (Āsravakshayavidyā); Hành Túc
(caranāsampanna) là ba nghiệp thân khẩu ý của
Như Lai (Tathāgata) đã tu tập thanh tịnh, chơn
chánh thuần thiện. Nếu có những sở hữu như đại
y, bát… đều là thông suốt tự tại, không đắm trước.
Đối với nguyện lực của tự thân đều thực hành tất
cả, khiến cho sự tu tập được đầy đủ. Vì thế mà gọi
là Minh Hạnh Túc (Vidyācara-nāsampanna).35
Kinh Đại bát Niết bàn (Mahāparinirvāna) giải
thích Minh (Vidyā) là thành tựu vô thượng thiện
35
Thập Hiệu kinh, số782, tr720a, Đại Chính17.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 217
quả; Hành (Caranāsampanna – cước túc) là chân
đi; thiện quả là A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề
(Anuttarasammyaksambuddhi); chân đi (cước túc)
là giới tuệ. Do đi bằng xe giới-định-tuệ mà đến
quả vị A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề. Vì thế
mà gọi là Minh Hành Túc.
Minh là chú; Hành là cát; Túc là quả, danh nghĩa
ấy hiểu thông thường thì chú gọi là giải thoát, cát
là A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề (Anuttara -
samyaksambuddhi), quả là Đại bát Niết bàn. Vì
thế mà gọi là Minh Hành Túc (Vidyācaranā-
sampanna).
Minh gọi là quang; Hành gọi là nghiệp; Túc gọi là
quả; danh nghĩa ấy hiểu theo nghĩa thế gian thì
quang là bất phóng dật; nghiệp là lục Ba-la-mật,
quả là A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề (Samyak -
sambuddhi).
Minh là tam minh, gồm có Bồ tát minh, Phật minh
218 Thích Thái Hòa
và Vô minh minh.
1. Bồ tát minh tức là Bát-nhã Ba-la-mật.
2. Chư Phật minh tức là Phật nhãn.
3. Vô minh minh tức là tuyệt đối Không.
Hành là ở trong vô lượng kiếp, vì chúng sanh mà
tu tập các thiện nghiệp.
Túc là sự thấy rõ Phật tính.
Vì do những ý nghĩa đó mà gọi là Minh Hành Túc
(Vidyācaranāsampanna)36
.
Vidyācaranāsampanna trong Pháp Uẩn Túc luận,
Ngài Huyền Tráng dịch là Minh Hành Viên Mãn.
Và luận này giải thích Minh (vidyā) chính là Tam
Minh Vô Học:
1. Trí vô học đã chứng nghiệm và biết rõ ràng
36
Kinh Đại bát Niết bàn, q11, tr468, Đại Chính12.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 219
từng thời điểm an trú của sinh mệnh đời trước.
2. Trí vô học đã chứng nghiệm và biết rõ con
đường của sanh tử.
3. Trí vô học đã chứng nghiệm và biết rõ ràng các
lậu hoặc đã hoàn toàn đoạn tận.
Hành (Caranāsampanna), luận này giải thích Phật
đã thực hành vô học thân luật nghi, vô học ngữ
luật nghi và vô học mạng thanh tịnh, nên gọi là
Hành (caranāsampanna). Lại nữa, đức Phật có
những oai nghi cao đẹp, như đi lại, quay nhìn, ẩn
hiện…tất cả đều nghiêm chỉnh, vì thế mà gọi là
Hành (caranā).
Do sự thanh bạch thuần nhất, vi diệu thuần nhất và
thuần nhất vô nhiễm, vì thế mà gọi là Minh Hành
Viên Mãn (Vidyācaranā-sampanna).37
37
Pháp Uẩn Túc Luận, q11, tr460c-461a, Đại
Chính25.
220 Thích Thái Hòa
Vidyācaranāsampanna ở luận Đại Trí Độ, Ngài
Cưu Ma La Thập chuyển âm sang Hán ngữ là Tỳ-
xỉ-già-la-na-tam-bát-ma và dịch theo ngôn ngữ
hậu Tần là Minh Hành Cụ Túc. Sự giải thích Minh
của luận này là Tam minh cũng tương tự như Thập
Hiệu kinh đã dẫn ở trên. Tam minh theo luận ấy
giải thích, các hàng Thanh văn, Bích chi Phật đều
có nhưng không trọn vẹn; Phật mới viên mãn, do
sự trọn vẹn ấy mà gọi là Minh Hành Cụ Túc
(Vidyācaranā-sampanna).
Lại nữa, Hành (caranā) là sự hoạt động thuộc về
thân khẩu của đức Phật và chỉ có sự hoạt động
thân khẩu của đức Phật là hoàn toàn viên mãn, còn
những ai khác thì có thể sai lầm. Vì vậy mà gọi là
Minh Hành Cụ Túc (Vidyāca-ranāsampanna).38
Qua sự tham khảo, nghiên cứu và trích dẫn như đã
trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng Minh Hành
38
Tham cứu Trí Độ Luận.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 221
Túc hay Vidyācaranāsampanna đều hàm ngụ hai
tính chất: trí và đức. Bởi vậy mà đức Phật đã được
mệnh danh là Đấng đầy đủ trí đức và giới đức, là
Đấng đầy đủ trí đức và sự thực hành, hay nói cách
khác Phật là toàn trí và toàn thiện.
Sở dĩ gọi đức Phật là toàn trí, nhất thiết trí
(Sarvajñānā) vì trí tuệ của Ngài là trí tuệ biết hết tất
cả.
Đối với tự thân, Ngài luôn luôn liễu tri trong
chánh niệm, không có động tác nào của thân mà
đức Phật không liễu tri, không có sự sanh khởi nào
của tâm mà đức Phật không tỉnh giác, mọi sự sanh
khởi và hủy diệt của thân và tâm đức Phật đều biết
rõ nó đang là gì.
Đối với thế giới khách quan, sự sanh thành tồn tại
và hủy diệt của tất cả sự vật, không có vật gì là
đức Phật không thấy rõ.
222 Thích Thái Hòa
Đối với mọi phương pháp thực hành đã được đức
Phật chỉ dạy, không có phương pháp nào là không
thích hợp với căn cơ, trình độ, hoàn cảnh của
chúng sanh, nhằm hướng dẫn họ thực hiện sự giác
ngộ và Niết bàn. Chính vì những điểm này, nên
đức Phật được mệnh danh là Đấng Toàn Trí.
Không những đức Phật là Đấng Toàn Trí, mà Ngài
còn là Đấng Toàn Thiện nữa, vì trong đời sống
của Ngài, đã biểu hiện một cách thường trực về vô
lậu học giới của thân, vô lậu học giới của ngữ và
sự vô lậu thanh tịnh của ý. Và không có động tác
nào trong đời sống của Ngài là không biểu hiện
các oai nghi của các Thánh đạo vô lậu ấy.
Do sự thể hiện Thánh đạo vô lậu một cánh trọn vẹn
trong đời sống, nên mọi ác pháp, mọi sự ô nhiễm
của thân và tâm bị triệt tiêu, không còn có căn
nguyên để sanh khởi. Như vậy, đức Phật đã toàn
thiện tự thân. Nhưng sự toàn thiện của đức Phật
không phải dừng chân ở đó. Ngài còn phải dẫn
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 223
thiện đến cho mọi người và hướng dẫn mọi người
thực hành điều thiện nữa.
Chính do những điểm này mà đức Phật được
mệnh danh là Đấng Toàn Trí, Toàn Thiện hay
Minh Hạnh Túc. Trí dẫn đường cho thân, ngữ, ý
hoạt động điều thiện và sự hoạt động điều thiện
của thân, ngữ, ý luôn luôn phù hợp với Trí. Trí và
Thiện hội nhập vào nhau, dung nhiếp vào nhau
một cách viên mãn. Vì vậy, gọi Phật là Đấng đầy
đủ trí và sự thực hành hay là Đấng Minh Hành
Túc.
5. Thiện Thệ
Thiện Thệ, Pāli ngữ và Phạn ngữ đều là Sugata.
Su: là hạnh phúc, an toàn, niềm vui, cao đẹp…
Gata: là thành tựu, đi đến, đạt đến…
Như vậy, Thiện Thệ hay Sugata là Đấng đã đi đến
nơi an toàn, đã đạt được niềm vui, đã thành tựu
224 Thích Thái Hòa
hạnh phúc, đã đến nơi cao đẹp…
Kinh Thập Hiệu giải thích: Thiện Thệ (Sugata) tức
là đi đến nơi cao đẹp, sự cao đẹp ấy, chính là Phật
quả, như kinh nói: “Như Lai chánh trí năng đoạn
chư hoặc, diệu xuất thế gian - năng vãng Phật quả,
cố danh Thiện Thệ (Sugata)”, nghĩa là: “Như Lai
là bậc Chánh Trí, có năng lực đoạn trừ các lậu, có
năng lực vượt khỏi thế gian một cách an toàn để
đến Phật quả. Vì vậy, gọi là Thiện Thệ (Sugata)”.
Kinh Đại bát Niết bàn (Mahāpari-nirvāna) giải
thích Thiện Thệ (Sugata): Thiện là cao thượng(O)
,
Thệ là bình đẳng; cao thượng là A-nậu-đa-la-tam-
miệu-tam-bồ-đề (Anuttarasammyaksambuddhi);
bình đẳng là tâm của Như Lai (Tathāgata). Tâm
nếu không bình đẳng thì không phải là Như Lai
(Tathāgata). Cho nên, Như Lai (Tathāgata) gọi là
Thiện Thệ (Sugata).
Thiện là thiện tri thức, Thệ là kết quả của thiện tri
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 225
thức. Nghĩa ấy gọi theo thông tục thì thiện tri thức
là sự phát tâm ban đầu, còn kết quả gọi là Đại bát
Niết bàn. Như Lai (Tathāgata) vì không xả bỏ sự
phát tâm lúc ban đầu, mà thành tựu Đại bát Niết
bàn (Mahāparinirvāna). Vì thế, Như Lai gọi là
Thiện Thệ (Sugata).
Thiện là cao đẹp, Thệ là sự hiện hữu. Gọi theo ý
nghĩa thông tục, cao đẹp là hiện kiến Phật tính;
hiện hữu là Đại bát Niết bàn.
Các đức Phật Thế Tôn do thành tựu Đại bát Niết
bàn, vì thế mà gọi là Thiện Thệ (Sugata).39
Ngài Moggallāna đã giải thích Thiện Thệ (Sugata)
bao gồm những ý nghĩa như sau:
Thiện Thệ là đức Phật đã thành tựu sự an toàn và
niềm vui tối thắng, không còn có sự trở ngại trên
bước đường đi đến diệu pháp (Saddharma), vì thế
39
Kinh đã dẫn, số 374, q18, tr468c, Đại Chính12.
226 Thích Thái Hòa
mà gọi là Thiện Thệ.
Lại nữa, tham - sân - si và sự sanh khởi của những
phiền não là những loại làm trở ngại con đường đi
đến diệu pháp. Như Lai đối với những diệu pháp
ấy, biết rằng tất cả đã được đoạn trừ, ví như cây
Đa-la đã đoạn tận gốc ngọn, vĩnh viễn không còn
phục sinh. Vì thế, gọi là Thiện Thệ (Sugata).
Lại nữa, như chư Phật Thế Tôn trong quá khứ, đã
sử dụng xe như thực, đi trên con đường như thực
(vô hư vọng đạo) để vượt khỏi thế gian, thành tựu
công đức thù thắng, một phen đến là vĩnh viễn
đến, tuyệt nhiên không còn thoái thất, đức Phật
Thích Ca Mâu Ni cũng vậy. Vì thế, gọi là Thiện
Thệ (Sugata).40
Thiện Thệ hay Sugata, Ngài Cưu Ma La Thập, ở
trong Đại Trí Độ luận, đã phiên âm sang Hán ngữ
bằng Tu-già-đà và luận này đã giải thích: Tu (Su)
40
Pháp uẩn túc luận, số 1537, tr461a, Đại Chính26.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 227
là tốt đẹp, hạnh phúc, cao thượng; Già-đà (Gata)
có hai nghĩa là đi đến và thuyết giáo; vì vậy, Tu-
Già-đà (Sugata) là sự đi đến hạnh phúc cao
thượng và sự thuyết giáo cao thượng.
Đức Phật đã đi đến sự hạnh phúc cao thượng bằng
con đường thiền định (Samāpatti) và trí tuệ
(Jñānā), như bài kệ trong luận này nói:
“Phật nhất thiết trí vi đại xa
Bát Chánh Đạo hành nhập Niết bàn”.
Nghĩa là Phật dùng tất cả trí tuệ (sarvajñānā) làm
đại xa, dùng Bát Chánh Đạo làm con đường đi đến
Niết bàn. Như vậy, gọi Thiện Thệ hay Tu-già-đà
(Sugata).
Luận ấy còn giải thích sự thuyết giáo cao thượng
tức là sự thuyết giáo đúng như thật tướng
(Yāthātalakṣana) của tất cả pháp. Đồng thời tùy
theo căn cơ, trình độ, hoàn cảnh của những người
228 Thích Thái Hòa
học pháp, nghe pháp mà dùng mọi phương tiện
giáo lý để thuyết giảng khéo thích hợp. Như vậy
gọi là sự thuyết giáo cao thượng.41
Thiện Thệ, Tu-già-đà hay Sugata đều là diễn tả
những ý nghĩa đạt đến hạnh phúc, đi đến sự an
toàn, đi đến sự cao thượng mà đức Phật đã thành
tựu.
Thật vậy, khởi điểm từ một con người như mọi
người, nhưng đức Phật không dừng chân lại ở đó.
Ngài đã đi và đi không vướng mắc bởi những dục
vọng thấp hèn, những tham lam thế tục, những lợi
danh thường tình…Ngài đã đi không phải như
những ai đã đi để chinh phục kẻ khác trong quyền
uy thế lực hận thù. Ngài đã đi bằng con đường tự
mình đấu tranh và chinh phục lấy chính mình, chứ
không phải đấu tranh và chinh phục kẻ khác.
Chính đó là con đường mà đức Phật đã đi để thành
41
Tham cứu Trí Độ luận.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 229
tựu sự giác ngộ và Niết bàn. Cũng chính ở điểm này,
mà đức Phật, từ một con người, Ngài đã vượt ra
khỏi giới hạn làm người để trở thành vô hạn, trở
thành Đấng Giác Ngộ. Cách đi và trở thành của đức
Phật là cách đi để trở thành siêu việt. Bởi vậy, mà
gọi đức Phật là đấng Thiện Thệ hay đấng Sugata.
6. Thế Gian Giải
Thế Gian Giải, Pāli ngữ và Phạn ngữ đều là
Lokavidū.
Loka: thế gian, cuộc đời…
Vidū: đi từ động từ vid, nghĩa là hiểu biết, kiến
thức, thấu suốt…
Vậy, Thế Gian Giải hay Lokavidū là sự hiểu rõ về
thế gian, về cuộc đời…
Trong kinh Đại bát Niết bàn (Mahāparinirvāna)
giải thích: Thế Gian là ngũ ấm(P)
; Giải là sự hiểu
230 Thích Thái Hòa
biết. Chư Phật là đấng Thế Tôn đã khéo liễu tri về
ngũ ấm, vì thế gọi là Thế Gian Giải.
Thế gian là ngũ dục(Q)
; Giải là không đắm trước.
Vì không đắm trước, nên gọi là Thế Gian Giải.
Thế gian là ở phương Đông có vô lượng vô số thế
giới(R)
, cho đến Nam, Tây, Bắc phương, Thượng,
Hạ đều là như vậy, tất cả Thanh văn (‟Srāvaka),
Duyên giác (Pratyekabuddha) đều không thấy,
không biết, không hiểu. Chư Phật đối với tất cả
pháp ấy đều thấy, đều biết, đều liễu tri. Vì vậy, gọi
Phật là Thế Gian Giải.
Thế gian là tất cả phàm phu; Giải là biết nhân quả
thiện ác của tất cả phàm phu. Điều này không phải
biết được bởi Thanh văn, Duyên giác, mà thường
được biết bởi chư Phật. Vì vậy, gọi là Thế Gian
Giải (Lokavidū).
Thế gian là liên hoa; Giải là không ô nhiễm. Nghĩa
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 231
ấy hiểu theo thông thường thì liên hoa chính là
Như Lai. Không ô nhiễm nghĩa là Như Lai không
bị ô nhiễm bởi tám pháp của thế gian(S)
. Vì vậy,
gọi là Thế Gian Giải.
Sở dĩ, chư Phật và Bồ tát được gọi là Thế Gian
Giải (Lokavidū), vì chư Phật và Bồ tát hiểu biết
đúng thế gian, nghĩa là thế gian do ăn uống nuôi
dưỡng sinh mệnh, chư Phật và Bồ tát cũng đã hiểu
và thấy như vậy, cho nên gọi là Thế Gian Giải
(Lokavidū).42
Ngài Moggallāna trong Pháp Uẩn Túc Luận giải
thích ý nghĩa Thế Gian Giải như sau:
Thế Gian (Loka) là năm thủ uẩn, Giải là sự hiểu
biết thấu rõ một cách chân xác đối với năm thủ
uẩn ấy, gọi là Thế Gian Giải (Lokavidū).
Thế Gian (Loka) là năm sinh thú(T)
, Giải là sự hiểu
42
Đại bát Niết bàn kinh, q18, tr469, Đại Chính12.
232 Thích Thái Hòa
biết một cách chân xác về năm sinh thú ấy, gọi là
Thế Gian Giải (Lokavidū).
Thế gian (Loka) là sáu xứ địa(U)
, Giải là hiểu biết
một cách chân xác về sáu xứ địa ấy, gọi là Thế
Gian Giải (Lokavidū).
Thế gian là các xứ địa thuộc tam giới(V)
, Giải là từ
nơi tam giới mà sinh, khởi và xuất. Như Lai đối
với tam giới đã tri kiến, giải liễu, giác ngộ một
cách rõ ràng chân xác. Vì vậy, gọi là đấng Thế
Gian Giải (Lokavidū).43
Thế Gian Giải hay Lokavidū ở trong Đại Trí Độ
luận, Ngài La Thập chuyển âm sang Hán ngữ là Lộ-
ca-bị hoặc Lộ-ca-đức và dịch theo ngôn ngữ hậu
Tần: Lộ-ca (Loka) là thế, Bị (Vidū) là tri, vậy Lộ-ca-
bị (Lokavidū) là tri thế gian, tức là biết rõ về thế
gian. Thế nào gọi là biết rõ về thế gian (Lokavidū)?
Biết rõ thế gian là biết thế gian có hai loại:
43
Pháp Uẩn Túc luận, q11, tr461, Đại Chính26.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 233
- Chúng sanh loại.
- Phi chúng sanh loại và những hình thái như thực
của nó.
Biết thế gian (Lokavidū) là biết nguyên nhân của
thế gian, biết sự diệt tận của thế gian và con đường
vượt khỏi thế gian.
Đức Phật biết rõ thế gian, không phải như sự hiểu
biết của thế tục, cũng không phải như sự hiểu biết
của ngoại đạo (Tīrthakara), mà biết rõ thế gian là
vô thường, sinh động, không thật hữu, biết rõ
tướng thế gian không phải thường, không phải vô
thường, không phải hữu biên, không phải vô biên,
không phải đi, cũng không phải không đi, tướng
đúng như thật, tướng không vướng mắc, tướng
thường thanh tịnh, tướng như hư không, tướng
không bị hoại diệt. Như vậy, gọi là hiểu rõ thế
234 Thích Thái Hòa
gian (Lokavidū).44
Trong Thập Hiệu kinh, bản dịch của ngài Thiên
Tức Tai đã ghép Thế Gian Giải và Vô Thượng Sĩ
(Lokavidū-anuttara) thành một danh hiệu hay một
phẩm tính, rồi giải thích: Thế Gian là Dục giới,
Sắc giới, Vô sắc giới, các loài ở địa ngục, ngạ quỷ,
súc sanh… và mỗi loài đều đầy đủ năm uẩn sắc,
thọ, tưởng, hành, và thức; các căn nhãn, nhĩ, tỷ,
thiệt, thân, ý, và sáu thức duyên vào mọi đối tượng
của tất cả pháp. Giải là sự hiểu biết chân xác về
thế gian. Vì vậy, gọi là Thế Gian Giải.
Lại nữa, ở trong thế gian ấy, có những loài hai
chân, bốn chân, nhiều chân, hoặc không chân, các
cõi trời Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới, các loài
hữu tình, có tưởng hoặc không tưởng, phi hữu
tưởng, phi vô tưởng, hoặc là phàm, hoặc là thánh,
tất cả các loài hữu tình ấy, chỉ có Phật là đệ nhất
44
Đại Trí Độ luận, q11, tr72a, Đại Chính25.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 235
tối thượng không thể so sánh, cho nên gọi là Vô
Thượng Sĩ (Anuttara).45
Thế Gian Giải, Tri Thế Gian, Lộ-ca-bị hay
Lokavidū đều diễn tả về ý nghĩa hiểu rõ thế gian.
Nhưng sự hiểu rõ thế gian như thế nào, điều đó
cũng được các kinh và luận dẫn chứng ở trên đã
trả lời. Thế gian như thế nào, thì phải hiểu rõ thế
gian như thế ấy; đây là câu trả lời chung mà các
kinh và luận đã gặp nhau một điểm.
Sự hiểu rõ thế gian đúng như chính nó, đó là sự cần
thiết, nhưng hiểu đúng chính nó chỉ để mà hiểu thì
sự hiểu ấy chẳng cần thiết gì. Trái lại, biết rõ thế
gian đúng như là hiện hữu của chính nó, là vô
thường, là sinh động, là bị áp lực, là vô ngã, là
duyên khởi, rồi cũng biết rõ ngay con đường để giải
cứu thế gian thoát khỏi những tệ trạng của chính nó,
thì sự biết rõ thế gian như vậy lại là cần thiết hơn.
45
Thập Hiệu kinh, tr720, Đại Chính17.
236 Thích Thái Hòa
Và chính đây là điểm nổi bậc nhất để đức Phật được
mệnh danh là Đấng Thế Gian Giải (Lokavidū), vì
đức Phật không những thấy rõ bản chất của thế gian,
mà còn thấy rõ ngay cả con đường để giải cứu thế
gian thoát khỏi sự trói buộc của chính nó nữa.
7. Vô Thượng Sĩ
Vô Thượng Sĩ, Pāli và Phạn ngữ đều là Anuttara.
Anuttara có những ý nghĩa như: đứng đầu, thủ
trưởng, điều tốt đẹp nhất, sự ưu tú, có khả năng
đáp lại, sự yên tĩnh, sự bất động, sự kiên cố.v.v…
Như vậy, Vô Thượng Sĩ hay Anuttara là Đấng trên
hết, là Đấng cao cả, là Đấng tốt đẹp nhất, là Đấng
ưu việt nhất, là Đấng có khả năng biện tài nhất, là
Đấng yên tĩnh, là Đấng bất động, là Đấng kiên
cố…
Vô Thượng Sĩ hay Anuttara không phải chỉ giới
hạn chừng đó ý nghĩa. Ý nghĩa của nó quả thật rất
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 237
phong phú, nên kinh Đại bát Niết bàn đã giải thích
như sau:
Thượng Sĩ là bị đoạn trừ; Vô Thượng Sĩ
(Anuttara) là không bị đoạn trừ, nghĩa là chư Phật
Thế Tôn không có loại phiền não nào là không bị
đoạn trừ. Như vậy, Phật hiệu là Vô Thượng Sĩ
(Anuttara).
Thượng Sĩ là tranh tụng, Vô Thượng Sĩ là không
còn có sự tranh tụng, nghĩa là đối với đức Như Lai
thì hoàn toàn không còn có sự tranh tụng nào nữa
cả. Vì vậy, đức Phật hiệu là Vô Thượng Sĩ.
Thượng Sĩ là lời nói có thể bị hủy hoại, Vô
Thượng Sĩ là lời nói không bị hủy hoại, nghĩa là
những lời được nói bởi Như Lai thì tất cả chúng
sanh không thể nào phá hoại. Vì thế, Phật hiệu là
Vô Thượng Sĩ (Anuttara).
Thượng Sĩ là thượng tòa, Vô Thượng Sĩ là tòa vô
thượng. Chư Phật trong ba đời lại là siêu việt tòa
238 Thích Thái Hòa
vô thượng ấy. Vì vậy, Phật hiệu là Vô Thượng Sĩ
(Anuttara).
Thượng là mới, Sĩ là cũ, bản thể Đại bát Niết bàn
của chư Phật Thế Tôn vượt ngoài mới cũ. Vì vậy,
Phật hiệu là Vô Thượng Sĩ.46
Vô Thượng Sĩ hay Anuttara, ở trong Đại Trí Độ
luận, Ngài Cưu Ma La Thập chuyển âm sang Hán
ngữ là A-nậu-đa-la và dịch là Vô Thượng. Nghĩa
là pháp Niết bàn (Nirvāna) là Vô Thượng, Phật tự
mình chứng ngộ pháp Niết bàn ấy, chứ không phải
nghe từ người khác nói. Vả lại, Ngài còn dẫn
đường cho chúng sanh, khiến họ đi đến Niết bàn;
vì ở trong các pháp Niết bàn là vô thượng, và ở
trong tất cả chúng sanh, Phật là Vô Thượng
(Anuttara). Lại nữa, trì giới, thiền định, trí tuệ và
giáo hóa chúng sanh, tất cả không có ai có thể
sánh bằng, huống nữa là làm gì có sự vượt hơn, vì
46
Đại bát Niết bàn kinh, q18, tr469a, Đại Chính12
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 239
vậy, gọi Phật là Vô Thượng (Anuttara).
Luận này còn giải thích thêm A-nậu-đa-la
(Anuttara) như sau: A là không, nậu-đa-la là sự trả
lại. Đối với pháp tất cả ngoại đạo (Tirthakara) có
thể bị trả lại, bị phá hỏng, vì nó không phải là sự
chơn thật, không phải là sự thanh tịnh, còn pháp
của đức Phật nói ra thì không thể trả lại, không thể
bị phá hỏng, vì nó là con đường vượt ra ngoài
ngôn ngữ, nó là thanh tịnh chơn thật. Vì vậy, gọi
là không còn có sự trả lại.47
Trong Pháp Uẩn Túc luận, bản dịch của ngài
Huyền Tráng không dịch là Vô Thượng Sĩ
(Anuttara) mà dịch là Vô Thượng Trượng Phu, có
lẽ Ngài đã ghép Anuttara và Puruṣa của Phạn ngữ
thành một đức hiệu là Anuttarapuruṣa và dịch là
Vô Thượng Trượng Phu và luận này đã giải thích
Vô Thượng Trượng Phu như sau:
47
Đại Trí Độ luận, q11, tr72b, Đại Chính25.
240 Thích Thái Hòa
“Đối với tất cả loài hữu tình, loài có chân, có sắc,
có tưởng, không có tưởng, phi tưởng và không
phải là phi tưởng, ở trong các loài như thế, Như
Lai là bậc đệ nhất tối xưng, tối thắng, tối tôn, tối
thượng và vô thượng. Do đó, gọi rằng Vô Thượng
Trượng Phu (Anuttarapuruṣa)”.
Anuttara ở trong kinh Đại bát Niết bàn, Ngài Đàm
Vô Sấm dịch là Vô Thượng Sĩ, ở trong Đại Trí Độ
luận, Ngài Cưu Ma La Thập dịch là Vô Thượng,
còn Ngài Thiên Tức Tai ở trong Thập Hiệu kinh
lại dịch là Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ, tức là
Ngài đã ghép Lokavidū - Anuttara lại với nhau để
dịch, và Ngài Huyền Tráng ở trong Pháp Uẩn Túc
luận của Ngài Moggallāna thì đã ghép
Anuttarapuruṣa lại với nhau và dịch là Vô
Thượng Trượng Phu.
Sự khác biệt như đã nêu dẫn ở trên, không thể
không gợi lên cho người đọc và người nghiên cứu
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 241
có câu hỏi: Tại sao không có sự thống nhất? Câu
hỏi này, thật sự không có gì đáng gọi là khó trả
lời. Sở dĩ, có sự không nhất thống như thế, chỉ là
do cách tách Sandhi từ Phạn bản của các dịch giả
mà thôi.
Do tách Sandhi không đồng nhau, nên kết quả đã
đưa đến phiên dịch có những sự sai biệt, đó là điều
tất yếu phải xảy ra, và nó thật sự đã xảy ra rất
nhiều trong nền văn học Phật giáo.
Tuy vậy, chúng ta nên giới hạn ở đây, tức là giới
hạn vào điểm mà chúng ta đang đề cập và có thể
chấp nhận lối tách Sandhi về Anuttara của ngài
Đàm Vô Sấm ở trong kinh Đại bát Niết bàn và
Ngài Cưu Ma La Thập ở luận Trí Độ mà hai Ngài
đã dịch là Vô Thượng Sĩ hay là Vô Thượng.
Nội dung và ý nghĩa của Vô Thượng Sĩ hay Vô
Thượng (Anuttara) mà kinh và luận này đã giải
thích rất cơ bản, phong phú và sâu thẳm. Những ý
242 Thích Thái Hòa
nghĩa đó đã được chúng tôi trích dẫn ở trên.
8. Điều Ngự Trượng Phu
Điều Ngự Thượng Phu, Pāli ngữ: Purisadammasārathi.
Phạn ngữ: Puruṣadamyasārathi.
Puruṣa có nghĩa là người, tức là con người có
nhân cách, có phẩm tính, có tư cách,…
Damya đi từ động từ dam có nghĩa là huấn luyện,
chinh phục, chế ngự, làm cho yên tâm…
Sārathi nghĩa là lái xe, điều khiển xe.
Như vậy, Điều Ngự Trượng Phu hay
Puruṣadamyasārathi là người có khả năng, có
nhân cách để điều khiển xe, để chế ngự xe, tức là
người có thẩm quyền điều khiển xe và lái xe một
cách an toàn. Ý nghĩa của các danh hiệu này đã
được các kinh luận giải thích như sau:
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 243
Kinh Thập Hiệu nói: Phật là Đấng Đại Trượng
Phu, có khả năng điều phục hai loại thiện (kuśala)
và ác (akuśala). Và ác (akuśala) là do khởi sinh ra
nghiệp bất thiện, làm các điều ác rồi bị rơi vào địa
ngục, ngạ quỷ, bàng sanh để nhận lấy những kết
quả xấu. Thiện (kuśala) là ở nơi thân, khẩu, ý mà
tu tập các pháp thiện, thành tựu những kết quả tốt
đẹp của nhân thiên. Thiện và ác ở đây, tất cả đều
do tâm tác động. Đức Phật ở nơi pháp thiện thù
thắng của Niết bàn, thời chỉ bày hướng dẫn khiến
chúng sanh xa lìa sự cấu nhiễm, thành tựu được sự
Tịch tịnh tối thượng của Niết bàn. Vì vậy mà gọi
Ngài là Đấng Điều Ngự Trượng Phu
(Puruṣadamyasārathi)48
.
Kinh Đại bát Niết bàn, đức Phật nói bất cứ ai, hễ
có đầy đủ bốn pháp sau đều được gọi là Trượng
Phu (Puruṣa):
48
Thập Hiệu kinh, tr720a, Đại Chính17.
244 Thích Thái Hòa
1- Khéo hiểu biết (thiện tri thức).
2- Có khả năng nghe pháp (năng thính pháp).
3- Biết chiêm nghiệm về nghĩa lý (tư duy nghĩa).
4- Đúng như lý thuyết đã hiểu biết mà tu tập (như
thuyết tu tập).
Nếu không có đủ bốn pháp này thì không thể gọi
là Trượng Phu, mặc dù hình thức đang là con
người mà sự sinh hoạt chỉ đồng dạng với súc sanh.
Như Lai đối với tất cả mọi hạng người ấy đều có
khả năng chinh phục, huấn luyện, do đó mà gọi là
Đấng Điều Ngự Trượng Phu (Puruṣadamya-
sārathi).
Và kinh này cũng đã nói, Như Lai (Tathāgata)
thường dùng bốn pháp để huấn luyện và điều phục
chúng sanh, khiến họ phải chấp nhận sự huấn
luyện và điều phục của Ngài:
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 245
1- Đức Phật nói về sự sinh thành, khiến chúng
sanh chấp nhận lời giáo huấn của Ngài.
2- Đức Phật nói về sự sinh thành, sự già yếu,
khiến cho chúng sanh phải chấp nhận lời giáo
huấn của Ngài.
3- Đức Phật nói về sự sinh thành, sự già yếu, sự
bệnh tật, khiến chúng sanh ai cũng phải chấp nhận
lời giáo huấn của Ngài.
4- Đức Phật nói về sự sinh thành, sự già yếu, sự
bệnh tật và sự hủy diệt, khiến chúng sanh ai cũng
phải chấp nhận lời giáo huấn của Ngài.
Đây là bốn hiện thực của thế gian, mà đức Phật
thường sử dụng để huấn luyện, để điều phục
chúng sanh. Do đó, Phật có hiệu là Điều Ngự
Trượng Phu (Puruṣadamyasārathi).49
49
Tham cứu Đại bát Niết bàn kinh, q18, tr469a-b, Đại
Chính12.
246 Thích Thái Hòa
Điều Ngự Trượng Phu (Puruṣadamyasārathi) ở
trong Đại Trí Độ luận, Ngài Cưu Ma La Thập
chuyển âm sang Hán ngữ là Phú-lâu-sa-đàm-miệu-
bà-la-đề. Phú-lâu-sa, nghĩa là trượng phu, đàm-
miệu, nghĩa là khả hóa, bà-la-đề nghĩa là điều ngự
sư. Vậy, chữ Puruṣadamyasārathi hay Phú-lâu-sa-
tam-miệu-bà-la-đề, Ngài dịch nghĩa là Khả Hóa
Trượng Phu Điều Ngự Sư, tức là bậc thầy điều
khiển xe có thẩm quyền, có nhân cách. Và cũng
chính trong luận này nói đức Phật tác thành cho
con người bằng con đường bao gồm ba hạng loại;
mọi người có thể nương theo con đường ấy để đi
mà không lạc mất tư tưởng của nó. Đức Phật huấn
luyện mọi người thành tựu các pháp thiện cũng như
vậy, không xả bỏ cho đến khi chết. Vì vậy, đức
Phật gọi là Khả Hóa Trượng Phu Điều Ngự Sư”.50
Ở trong Pháp Uẩn Túc luận, Ngài Huyền Tráng
dịch là Điều Ngự Sĩ, tức là Ngài chỉ dịch ý nghĩa
50
Đại Trí Độ luận q11, tr72b, Đại Chính25
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 247
chữ Damyasārathi mà thôi. Và chính ở trong luận
này đã giải thích Damyasārathi hay Điều Ngự Sĩ
với những ý nghĩa như sau:
Sở dĩ, đức Phật được mệnh danh là Điều Ngự Sĩ
(Damyasārathi), vì Ngài đã khéo léo huấn luyện,
giáo dục chúng sinh tùy theo cấp loại của họ. Chẳng
hạn, có những cấp loại Ngài đã dùng những lời nói từ
ái, mềm mỏng để huấn luyện giáo dục họ, như nói
đây là diệu hành của thân; đây là kết quả diệu hành
của thân; đây là diệu hành của ngữ, đây là kết quả
diệu hành của ngữ; đây là diệu hành của ý, đây là kết
quả diệu hành của ý; đây là nhân, đây là thiên, đây là
thiện thú; đây là thế giới an lạc; đây là Niết bàn.
Trái lại, có những cấp loại chúng sanh đức Phật
không nói lời từ ái, mềm mỏng, mà nói những lời
cứng rắn, khắc khổ. Như nói đây là ác hành của
thân, đây là kết quả ác hành của thân, đây là ác
hành của ngữ, đây là kết quả ác hành của ngữ, đây
248 Thích Thái Hòa
là ác hành của ý, đây là kết quả ác hành của ý.
Những kết quả ác hành này là địa ngục, bàng sanh,
ngạ quỷ, hiểm nạn, ác thú, và sa đọa.
Và có những cấp loại chúng sanh, đức Phật vừa
dùng những lời nói từ ái vừa dùng những lời nói
cứng rắn, khắc khổ để giáo dục, huấn luyện, như
vừa nói diệu hành của thân, ngữ, ý vừa nói ác
hành của thân, ngữ, ý, vừa nói kết quả của ác hành
của thân, ngữ, ý…
Đức Phật đã khéo huấn luyện, giáo dục như thế để
khiến cho tất cả chúng sanh đoạn tận tất cả những
phiền não, tham, sân, si, mạn… đạt được sự tịch tịnh
thù thắng… Do những nghệ thuật huấn luyện giáo
dục chúng sanh một cách khéo léo của đức Phật để
dẫn dắt họ đến giác ngộ và Niết bàn. Vì vậy, đức
Phật được gọi là Điều Ngự Sĩ (Damyasārathi).51
51
Tham cứu Pháp Uẩn Túc luận q11, tr461ab, Đại
Chính26.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 249
Puruṣadamyasārathi, hay Điều Ngự Trượng Phu,
hoặc Điều Ngự Sĩ đều mô tả ý nghĩa đức Phật là
Đấng có khả năng, có tư cách, có thẩm quyền điều
phục và huấn luyện chúng sanh trên phương diện
giác ngộ.
Nền tảng cho sự huấn luyện giác ngộ ở đây đức
Phật đã không dựa vào gì khác hơn, ngoài đời
sống hiện thực. Triết lý của Ngài là mô tả trạng
huống của sanh, lão, bệnh, tử. Đây là những trạng
huống không có pháp hữu vi nào mà không bị chi
phối; không có sinh mệnh của bất cứ chúng sanh
nào là không bị lệ thuộc vào chúng. Muốn thoát
khỏi chúng thì trước hết, đức Phật đã huấn luyện
cho chúng sanh cách nhìn về chúng. Khi một sự
kiện hay một trạng huống đã được nhìn thấy một
cách chân xác thì sự giải quyết về chúng mới có
thể đưa đến sự ổn định và an toàn.
Đức Phật, ngoài nhân cách giác ngộ, Ngài còn là
250 Thích Thái Hòa
một nhà giáo dục, nhà huấn luyện nữa, và Ngài đã
biến những lý thuyết giáo dục, huấn luyện trở
thành những hoạt động thực tiễn, dựa trên ba môi
trường hoạt động của chúng sanh. Đó là môi
trường hoạt động của thân (thân nghiệp), môi
trường hoạt động của ngữ (ngữ nghiệp), môi
trường hoạt động của ý (ý nghiệp). Chính ba môi
trường này là nguyên nhân tác động để tạo thành
những kết quả tốt hay xấu, chân hay ngụy, hạnh
phúc hay khổ đau của từng cá nhân và cộng đồng
xã hội.
Bởi vậy, đức Phật đã huấn luyện chúng sanh hãy
phòng hộ thân, khẩu, ý cho thanh tịnh; khi nào mà
thân, khẩu, ý thanh tịnh thì khi đó chúng sanh có
hạnh phúc, có nhân cách, có thánh thiện…
Chính đây là điểm cốt yếu mà đức Phật dùng để
huấn luyện, giáo dục chúng sanh, hướng họ đến
sự hạnh phúc an lạc của giác ngộ và Niết bàn.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 251
Và cũng do chính điểm này mà đức Phật đã có
hiệu là đấng Điều Ngự Trượng Phu
(Puruṣadamyasārathi), tức là Đấng có đủ khả
năng, đủ tư cách, đủ thẩm quyền để điều khiển
xe một cách an toàn, đưa chúng sanh từ đau khổ
đến hạnh phúc, từ mê lầm đến giác ngộ, từ sanh
tử đến Niết bàn.
9. Thiên Nhơn Sư
Thiên Nhơn Sư, Pāli ngữ: Satthādevamanussānam.
Phạn ngữ: Śāntādevamanuṣyānām.
Śāntā đi từ động từ căn Śam có nghĩa là điều
khiển, khuyên giải làm cho hạnh phúc, giải thoát
tình dục.
Do ngữ căn Śāntā nói trên có những ý nghĩa như
vậy, nên Śāntā có những ý nghĩa như: bậc thầy có
thẩm quyền khuyên giải, bậc đạo sư có tư cách
đem lại hạnh phúc.
252 Thích Thái Hòa
Deva nghĩa là chói sáng, tự tại, phước đức, sâu
nhiệm…
Manuṣyānām đi từ động từ gốc là Man với những
ý nghĩa như: biết suy nghĩ, biết ưu tư, biết lo
lắng…
Vậy, Manuṣyānām có nghĩa là loài biết suy nghĩ,
loài biết ưu tư
Từ sự phân tích có tính cách ngữ học ở trên cho
chúng ta một ý nghĩa tổng quát về Thiên Nhơn Sư
hay Śāntādevamanuṣyānām, là Bậc Đạo Sư có
thẩm quyền khuyến giải, có tư cách để hướng dẫn
những loài có ánh sáng, có phước đức tự tại, có sự
suy tư, giải thoát khỏi ái dục đi đến hạnh phúc…
Hay nói cách khác, đức Phật là bậc Thầy của chư
thiên và loài người.
Trong kinh Thập Hiệu nói: đức Phật không phải
chỉ làm thầy đối với một vị tỷ kheo, mà bao nhiêu
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 253
vị Tỷ kheo, Tỷ kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, Chư
thiên, loài người, Sa-môn, Bà-la-môn, ngoại đạo,
ma vương… tất cả đều kính lễ, phụng hành sự
giáo huấn và đồng làm đệ tử Phật.52
Trong kinh Đại Bát Niết bàn (Mahāparinirvāna)
đã giải thích ý nghĩa của Thiên Nhơn Sư
(Śāntādevamanuṣyānām) như sau:
Kinh này đã phân chữ Sư thành hai loại: Thiện
giáo sư và Ác giáo sư. Thiện giáo sư tức là bậc
thầy dạy dỗ hướng dẫn mọi người thực hành điều
thiện. Ác giáo sư là những bậc Thầy dạy dỗ hướng
dẫn một cách mê hoặc, tà vọng, nói cách khác là
hướng dẫn mọi người làm ác.
Ở đây, chư Phật luôn luôn dùng thiện pháp để giáo
dục chúng sanh hành thiện của thân, hành thiện
của ngữ, hành thiện của ý và hãy tránh xa hành
52
Thập Hiệu kinh, tr720a, Đại Chính17. Tham cứu
thêm Pháp Uẩn Túc luận tr461b, Đại Chính26.
254 Thích Thái Hòa
động (karma) bất thiện (akuśala) của thân, hành
động bất thiện của ngữ, hành động bất thiện của ý,
vì có tránh xa như vậy mới thành tựu được giải
thoát, mới chứng đắc sự giác ngộ tối thượng
(Anuttarasamyaksambodhi) và đại Niết bàn
(Mahānirvāna). Đức Phật thường dùng pháp đó để
giáo dục chúng sanh, do đó Ngài hiệu là Vô
Thượng Sư.
Và trong kinh này có nói, đức Phật khi thành đạo
xong, Ngài đem đạo đã được Ngài chứng ngộ mà
thuyết giảng cho chúng sanh; Ngài đã tự mình tu
tập phạm hạnh, lại vì chúng sanh mà thuyết giảng
sự tu tập phạm hạnh cho họ; Ngài đã tự mình dẹp
bỏ vô minh, lại còn vì chúng sanh mà phá hoại sự
vô minh cho họ; Ngài đã tự mình đạt được tịnh
mục, lại vì chúng sanh mà phá trừ sự mù tối cho
họ và khiến họ đạt được tịnh nhãn; Ngài đã tự
mình thấu rõ nhị đế(W)
, lại vì chúng sanh mà
thuyết giảng nhị đế; đã tự mình giải thoát, lại còn
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 255
vì chúng sanh mà nói pháp giải thoát; đã tự mình
vượt khỏi dòng sông sinh tử, lại còn khiến cho tất
cả chúng sanh đều vượt khỏi; đã tự mình vô úy, đã
tự mình chứng đắc Niết bàn, lại vì chúng sanh mà
thuyết giảng đại Niết bàn. Vì vậy, Phật hiệu là Vô
Thượng Sư.
Lại trong kinh này giải thích chữ Thiên (Deva)
như sau:
Thiên (Deva) gọi là trú, vì cõi thiên (trời) ngày dài
đêm ngắn.
Thiên nghĩa là không sầu não, vì thường cảm nhận
lấy niềm vui.
Thiên là ánh sáng vì có năng lực phá trừ sự tối tăm
và cũng có năng lực phá trừ sự tối tăm của ác
nghiệp để thành tựu thiện nghiệp. Do thành tựu
thiện nghiệp mà sanh vào cõi thiên.
Thiên còn có nghĩa là cát, vì đạt được sự cát tường
256 Thích Thái Hòa
(an lành).
Thiên còn có nghĩa là bạch nhật vì có quang minh.
Do những ý nghĩa ấy mà gọi là Thiên (Deva).
Nhân (Manuṣyānām) là biết suy nghĩ về nghĩa lý;
thân khẩu nhẹ nhàng mềm mỏng.
Nhân còn có nghĩa là kiêu mạn và có khả năng
phá trừ kiêu mạn.
Đức Phật là bậc thầy vô thượng của tất cả chúng
sanh, tại sao ở nơi đây chỉ gọi Ngài là bậc thầy của
chư thiên và loài người mà thôi? Điều này cũng
được kinh trả lời khá rõ ràng, kinh nói: “ở trong tất
cả chúng sanh, chỉ có chư thiên và loài người có đủ
khả năng để phát khởi Bồ-đề-tâm, có khả năng thực
hành thập thiện nghiệp đạo, có khả năng chứng đắc
Tu-đà-hoàn quả, Tư-đà-hàm quả, A-na-hàm quả,
A-la-hán quả, Bích Chi Phật đạo, và chứng đắc A-
nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề (Anuttarasamyak-
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 257
sambodhi). Vì vậy mà Phật hiệu là Thiên Nhân Sư
(Śāntādevamanusyānām).53
Śāntādevamanuṣyānām trong Đại Trí Độ luận,
Ngài Cưu Ma La Thập chuyển âm sang Hán ngữ là
Xá-đa-đề-bà-ma-nao-xá-nam và dịch Xá đa
(‟sānta) là giáo sư, đề-bà (deva) là thiên, ma-nao-
xá-nam (manuṣyānām) là nhân. Vậy Xá-đa-đề-bà-
ma-nao-xá-nam nghĩa là Thiên Nhân Giáo Sư, tức
là bậc thầy dạy cho chư thiên và loài người. Điều
này cũng đã được nêu lên và trả lời như sau : “Sở
dĩ Phật gọi là bậc Thầy của chư thiên và loài người,
vì Ngài dạy những điều đáng làm và những điều
không đáng làm, đó là những điều thiện và những
điều bất thiện, khiến cho họ vâng giáo thực hành,
không bỏ đạo pháp, đạt được sự giải thoát các
phiền não, vì thế gọi Phật là Đấng Thiên Nhân Sư”.
Và trong luận này cũng đã nêu lên câu hỏi tại sao 53
Tham cứu Đại Bát Niết Bàn kinh, q18, tr469b-c,
Đại Chính 12 .
258 Thích Thái Hòa
Phật chỉ là Thiên Nhân Sư, trong lúc đó Ngài
thường hóa độ hết tất cả chúng sanh, đáng lẽ phải
gọi Phật là Chúng Sanh Sư mới đúng. Điểm này
cũng đã được luận giải thích, nhưng ở đây chúng tôi
xin tóm gọn lại như sau : “Nếu nói đúng hơn thì phải
nói Phật là Thầy của tất cả chúng sanh, vì không có
loài nào đức Phật không hóa độ. Nhưng nói chư
thiên và loài người thì chính hai loài này có thể đại
biểu cho toàn thể chúng sanh, vì loài người là tiêu
biểu cho sinh hoạt cao nhất ở địa cầu, và chư thiên
có đời sống cao nhất ở tinh cầu. Vả lại những loài
này có đủ khả năng, đủ thẩm quyền, đủ tư cách để
nhận thức điều thiện cần phải làm, điều ác cần phải
tránh, có đủ khả năng để tư duy về đế lý, để lãnh thọ
giới luật và tu tập thành tựu Thánh quả. Như vậy,
nói Thiên Nhơn Sư là nhắm đến khả năng và con
đường hành động thực tiễn đa số của các loài này,
chứ không phải đức Phật chỉ là bậc Thầy của loài
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 259
này mà thôi.54
Śāntādevamanuṣyānām là bậc Thầy có tư cách, có
thẩm quyền giáo dục cho chư thiên và loài người,
như các kinh và luận đã giải thích, đã được chúng
tôi dẫn ở trên. Và trong khi làm nhà giáo dục, đức
Phật đã dựa vào hệ thống triết lý nào để giáo dục?
Đây là câu hỏi không thể không được nêu lên và
không thể không được giải quyết một cách ổn thỏa
về nó. Nhưng trước khi giải quyết vấn đề này, chúng
ta phải xác định rõ vai trò xuất hiện của đức Phật và
mục đích tối thượng của Ngài. Vai trò đã được chính
Ngài xác định như sau: “Này các Tỷ-khưu, một
người khi xuất hiện ở đời, sự xuất hiện đem lại hạnh
phúc cho đa số, và lòng thương tưởng cho đời, vì lợi
ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư thiên và loài
người. Người đó chính là ai? Chính là Thế Tôn, bậc
54
Tham cứu Đại Trí Độ luận, q11, tr72c, Đại Chính25.
260 Thích Thái Hòa
A-la-hán Chánh đẳng giác”.55
Như vậy, vai trò xuất hiện của đức Phật là đem lại
hạnh phúc an lạc cho chư thiên và loài người.
Đức Phật đem hạnh phúc và an lạc cho chư thiên
và loài người bằng con đường đạo đức và giáo
dục, chứ không phải bằng con đường quyền uy và
thế lực, mặc dù Ngài có nhiều năng lực thần thông
(Abbijñā). Đây là điểm khác biệt giữa Phật giáo
với các tôn giáo khác. Và cũng chính ở điểm này
Phật giáo được xem như là một tôn giáo có nền
tảng luân lý nhân bản. Nhưng nền luân lý ấy
không bị giới hạn ở đó mà chỉ tụ vào điểm đó làm
cơ bản để tiến lên những nền tảng luân lý cao hơn
như Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa,
Bồ tát thừa,… và tất cả những hệ thống luân lý ấy
đều dựa vào một nền tảng, đó là nền tảng đức lý
giác ngộ. Nền tảng này là điểm nhất thống ở trong
55
Tăng Chi Bộ kinh – Anguttaranikaya - tập I, tr25,
ĐHVH980.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 261
hệ thống triết lý và luân lý mà đức Phật đã giảng
dạy cho chư thiên và loài người. Hay nói khác đi,
trong khi làm nhà giáo dục, đức Phật đã dựa vào
nền tảng đức lý giác ngộ để giáo dục cho tất cả các
cấp loại đều đạt được sự giác ngộ. Đây là vai trò
và mục đích xuất hiện của đức Phật và cũng chính
là toàn bộ hệ thống luân lý giáo dục của Ngài.
Chính ở điểm này mà Ngài hiển nhiên đã trở thành
Thiên Nhơn Sư (Śāntādevamanusyānām) đó vậy.
10. Phật
Phật, Pāli và Phạn ngữ đều là Buddha.
Buddha đi từ động từ Budh, có nghĩa là hiểu biết,
giác ngộ, liễu tri, tận tri… và danh từ của Budh là
Buddha có nghĩa là sự hiểu biết, sự giác ngộ, sự
tận tri, sự liễu tri…
Như vậy, Phật hay Buddha là Đấng hiểu biết, là
Đấng giác ngộ, là Đấng tận tri, là Đấng liễu tri…
262 Thích Thái Hòa
Các dịch giả Trung Hoa thường chuyển ngữ là
Phật hay Phật đà.
Trong Thập Hiệu kinh đã giải thích ý nghĩa Phật
(Buddha) tức là Đấng đầy đủ tất cả trí tuệ
(sarvajñānā), đầy đủ và viên minh ba sự Giác
Ngộ. Và kinh này đã ghi lại một câu chuyện có
một Bà-la-môn hỏi đức Phật rằng: “Ngài là người
như thế nào mà được cha mẹ Ngài gọi Ngài là
Phật?”. Câu hỏi ấy đã được đức Phật trả lời như
sau: “Tất cả những gì được hiểu biết bởi thế gian
thì ta cũng có khả năng hiểu biết; tất cả những gì
có thể nhìn thấy bởi thế gian thì ta cũng có thể
nhìn thấy; tất cả những gì cần phải được diệt tận
thì ta cũng đã diệt tận. Ta còn đầy đủ tất cả trí
(sarvajñānā), đầy đủ tất cả sự liễu tri. Ta từ vô số
kiếp đã trải qua bao nhiêu kiếp tu tập để xa lìa các
ô nhiễm, ngày nay đã thành tựu Vô thượng Bồ-đề
(Anuttarabodhi) vì thế mà được mệnh danh là
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 263
Phật”.56
Ở kinh Đại Bát Niết bàn giải thích Phật là Đấng
Giác Ngộ, tức là Đấng đã giác ngộ cho chính
mình, lại còn có khả năng làm cho người khác
giác ngộ nữa.
Ở Pháp Uẩn Túc luận, ngài Moggallāna đã ghi lại
những bài kệ mà đức Phật đã trả lời cho một Bà-
la-môn khi vị này hỏi tại sao Ngài có hiệu là Phật.
Những bài kệ ấy như sau:
Bà-la-môn đương tri
Ngã như khứ lai Phật
Thành tựu giác giả tướng
Cố ngã danh Phật đà.
Bà-la-môn đương tri
56
Tham cứu và trích dẫn Thập Hiệu kinh số782,
tr720bc, Đại Chính17.
264 Thích Thái Hòa
Ngã quán tam thế hành
Giai hữu sanh diệt pháp
Cố ngã danh Phật đà.
Bà-la-môn đương tri
Ngã ư ưng tri đoạn
Chứng tu sự dĩ biện
Cố ngã danh Phật đà.
Bà-la-môn đương tri
Ngã ư nhất thế cảnh
Cụ nhất thế tri kiến
Cố ngã danh Phật đà.
Bà-la-môn đương tri
Ngã ư vô lượng kiếp
Tu chư thuần tịnh hạnh
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 265
Kinh vô lượng sanh tử.
Kim ư tối hậu thân
Ly trần cấu độc tiễn
Chứng đắc Vô Thượng Giác
Cố ngã danh Phật đà.57
Dịch:
Bà-la-môn nên biết
Ta cùng Phật các đời
Thành tựu tướng giác ngộ
Vì vậy gọi là Phật.
Bà-la-môn nên biết
Ta quán hành ba đời
Tất cả đều sanh diệt
Vì vậy gọi là Phật.
57
Pháp Uẩn Túc luận, q11, tr461c, Đại Chính26.
266 Thích Thái Hòa
Bà-la-môn nên biết
Ta tri khổ đoạn tập
Chứng diệt, tu đạo xong
Vì vậy gọi là Phật.
Bà-la-môn nên biết
Ta nơi tất cả cảnh
Tất cả đều tri kiến
Vì vậy gọi là Phật.
Bà-la-môn nên biết
Ta nơi vô lượng kiếp
Tu các hạnh thuần tịnh
Sanh tử trải vô lượng.
Nay nơi thân cuối cùng
Lìa tên độc trần cấu
Thành tựu Vô Thượng Giác
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 267
Vì thế gọi là Phật.
Ở Đại Trí Độ luận, đã giải thích ý nghĩa Phật như
sau: Phật là Đấng đã hiểu biết tất cả pháp thuộc về
quá khứ, thuộc về hiện tại, thuộc về tương lai, biết
số lượng chúng sanh, và số lượng vượt ngoài
chúng sanh, biết thế nào là hữu thường, thế nào là
vô thường. Tất cả sự liễu tri ấy, đức Phật đều tự
mình chứng ngộ. Vì thế gọi là Phật.
Qua các kinh văn và luận thuyết mà chúng tôi đã
trích dẫn ở trên, đều giải thích ý nghĩa Phật
(Buddha) chung cùng ở một điểm, đó là Đấng
Giác Ngộ. Đấng Giác Ngộ (Buddha) ấy đã giác
ngộ ba phương diện, gồm có Tự giác, Giác tha,
Giác hạnh viên mãn.
a. Tự giác: tức là đức Phật tự mình nỗ lực chiêm
nghiệm thực tại, bằng con đường thiền định
(Sāmadhi) để thành tựu giác ngộ.
268 Thích Thái Hòa
b. Giác tha: tức là đức Phật đem sự giác ngộ tự
chứng của Ngài để hướng dẫn và dạy dỗ kẻ khác
giác ngộ.
Tinh thần giác tha là tinh thần mà đức Phật nhìn
thẳng vào xã hội tính, tức là tính chất không có sự
đơn cô trong các pháp, mà các pháp là một tổng
hợp tính. Hay nói cách khác, các pháp hoạt động
trong sự tương quan tương sinh và tồn tại trong
quy luật “y tha khởi” (Paratantra). Bởi vì, đã là y
tha khởi thì Tự giác không thể tách rời Giác tha,
và Giác tha không thể tách rời Tự giác. Nên Tự
giác và Giác tha là hai thực thể không thể tách rời
trong một thực thể giác ngộ.
Đây là một cách nhìn và một sự thể hiện độc đáo
mà chỉ có đức Phật mới nhận chân và thực hiện
được điều đó.
c. Giác hạnh viên mãn: từ sự giác ngộ chân xác về
thực tại dẫn đến một hành động Giác tha chân xác
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 269
như thực tại, tất cả những sự giác ngộ ấy đều được
đức Phật thể hiện ngay ở nơi đời sống đạo và hành
đạo của Ngài một cách viên mãn.
Ở đức Phật, sự hoạt động của thân, sự phát ngôn
của ngữ, sự tư duy của ý, tất cả ba hành động ấy
không có hành động nào là không thể hiện sự giác
ngộ viên mãn để đưa đến lợi ích cho mình và cho
người.
Lại nữa, những gì đã được đức Phật chứng ngộ, đã
được đức Phật thuyết giảng, đã được đức Phật giới
thiệu, đã được đức Phật giáo dục, chỉ bày…trong
tất cả những lĩnh vực ấy, không có lĩnh vực nào
mà đức Phật không hướng dẫn để mọi người đi
đến giác ngộ viên mãn của Niết bàn.
Lại nữa, Tự giác là điểm nổi bật của Thanh văn,
Giác tha là điểm nổi bật của Bồ tát. Phật đầy đủ cả
hai điểm ấy, nên gọi là Giác hạnh viên mãn.
270 Thích Thái Hòa
Duy chỉ có đức Phật được gọi là đấng Giác hạnh
viên mãn, vì Ngài bao gồm cả hai đức tính Tự giác
và Giác tha. Hai đức tính ấy chỉ có Phật mới viên
mãn, mới toàn vẹn. Vì sao thế? Vì đối với các vị
Thánh giả Thanh văn (‟Srāvaka) là những vị chỉ
chiêm nghiệm thực tai khổ đau của cuộc sống và
tính chất bất thực của cuộc đời rồi khởi sinh tư
tưởng nhàm chán thế tục, truy cầu sự an lạc cho tự
thân chính họ mà thôi. Như vậy, trên phương diện
tự giác, các vị Thánh Thanh văn („Srāvaka) có thể
có, nhưng điểm Giác tha thì đối với các vị Thánh
này rất hiếm xảy ra. Và nếu xảy ra chăng, thì xảy
ra trong những hình thái vô cùng khiêm tốn.
Đối với các vị Thánh Duyên giác, có điểm nổi bật
hơn các vị Thánh Thanh văn là họ ra đời không gặp
được Phật thuyết giảng, dạy dỗ và dìu dắt. Họ chỉ
tự mình chiêm nghiệm về nguyên tắc duyên khởi
của tất cả các pháp mà nhất là đối với nguyên lý
Thập nhị Duyên khởi (Mười hai nhân duyên), rồi tự
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 271
thân họ giác ngộ và hưởng thọ niềm vui cho đến
khi họ nhập Niết bàn. Như vậy, trên bước đường
Giác tha cũng hiếm thấy dấu chân của những
Thánh giả này xuất hiện.
Còn đối với hàng Thánh giả Bồ tát (Bodhisattva)
thì tự giác đã có rồi, nhưng chưa phải là tự giác rốt
ráo như Phật. Bởi vậy, Bồ tát phải lăn thân vào
trong sáu đường đầy khổ lụy của chúng sanh,
phụng sự chúng sanh, giúp đỡ chúng sanh, cứu
nguy cho chúng sanh, dạy dỗ chúng sanh, để cùng
chúng sanh hướng về Phật đạo và mong cầu thành
tựu được quả vị Vô thượng Bồ-đề (Anuttara-
sammyaksambuddhi).
Chính quả vị Vô thượng Bồ-đề là đích điểm, là lý
tưởng, là động cơ khiến Bồ tát dấn thân thực hành
nghĩa lợi, thực hành nhiêu ích cho tất cả hữu tình.
Hay nói cách khác, chính vì mong cầu thành Phật
mà Bồ tát thực hành tự giác và giác tha.
272 Thích Thái Hòa
Trái lại, đức Phật thì không phải giác tha để mong
cầu làm Phật, vì chính Ngài đã là Phật. Nhưng,
Ngài giác tha là bởi vì Ngài nhận thấy Phật tính
(Buddhatā) giữa Ngài và chúng sanh đều bình
đẳng, nhưng chúng sanh chỉ vì không nhận chân
được Phật tính nên đã làm chúng sanh và sống
trong sự sa đọa sai lầm. Bởi vậy, đức Phật giác tha
là đức Phật chỉ dạy một cách rốt ráo những gì cần
phải chỉ dạy để cho chúng sanh trở về sống với
Phật tính vốn có của họ, để họ có thể trở thành
những gì mà đức Phật đã trở thành. Đây là điểm
đặc thắng trên phương diện giác tha mà chỉ có đức
Phật mới có.
Ở trên phương diện tự giác, Ngài là đấng Tự giác
tối thượng. Ở trên phương diện giác tha, Ngài là
đấng Giác tha tối thượng. Do đạt được hai hành
động tối thượng ấy, nên Phật gọi là Giác hạnh viên
mãn.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 273
11. Thế Tôn
Thế Tôn, Pāli ngữ là Bhagavant và Phạn ngữ là
Bhagavat; cũng có khi viết Bhagavatam,
Bhagavatā, Bhagavate, hoặc Bhagavān…
Sở dĩ có những cách viết sai biệt này là do vai trò
của Bhagavat ở trong các cách của Phạn ngữ.
Chẳng hạn khi viết Bhagavān thì nó đang làm
nhiệm vụ chủ cách (c1), khi viết Bhagavatam thì
nó đang làm nhiệm vị trực đối (c2), khi viết
Bhagavatā thì nó đang làm phương tiện cách (c3),
khi viết Bhagavate thì nó đang làm nhiệm vụ xuất
xứ cách (c5)…
Do những sự sai biệt của các biến cách đã được đề
cập ở trên, nên khi các nhà Hán chuyển âm sang
Hán ngữ, nó lại có rất nhiều tên khác nhau như
Bà-già-bà, A-bà-ma, A-bà-ma-bà-ma, Lộ-ca-na-
tha, Bà-la-già, Bà-đàn-đà, Thi-lợi-già-na, Bạc-già-
phạm, Bà-già-phạm…
274 Thích Thái Hòa
Bhagavat đi từ động từ căn Bhaj của Phạn ngữ, nó
hàm thụ khá nhiều ý nghĩa như: sắp xếp, ban cho,
được hưởng niềm vui, đạt được, thực hiện cho đến
cùng, đi tìm, trau dồi, phụng sự, tôn kính, kính
trọng, yêu mến, yêu tha thiết, tôn thờ… và danh từ
của nó là Đấng có được hạnh phúc, Đấng đạt được
niềm vui, Đấng đáng kính trọng, Đấng yêu
thương, Đấng đáng tôn thờ…
Bởi do chữ Bhagavat có quá dồi dào về ý nghĩa,
nên khi tìm một ý nghĩa chính xác về nó không
phải là đơn giản. Tuy nhiên, chúng ta tạm chấp
nhận ý nghĩa của Bhagavat là Đấng đáng được tôn
kính, là Đấng đáng được tôn thờ… Vậy, Thế Tôn
hay Bhagavat là Đấng đáng được tôn kính của thế
gian, là Đấng đáng được để thế gian yêu mến tôn
thờ…
Ở trong kinh, đức Phật đã giải thích tại sao Ngài
lại được gọi là Thế Tôn (Bhagavat) như sau: “Ta ở
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 275
nơi nhân địa, tự quán sát các thiện pháp, giới
pháp, tâm pháp và trí tuệ pháp, lại còn chiêm
nghiệm các pháp bất thiện như tham, sân, si… là
pháp có khả năng sanh diệt và đem lại những kết
quả khổ đau. Ta đã dùng trí tuệ vô lậu để phá trừ
các thứ phiền não ấy và thành tựu quả vị Vô
thượng Bồ-đề. Vì vậy, đối với chư thiên, loài
người, phàm thánh, thế gian và xuất thế gian, tất
cả đều tôn trọng. Do đó mà gọi là Thế Tôn
(Bhagavat).58
Kinh Đại Bát Niết bàn, bản dịch chữ Hán của
Ngài Đàm Vô Sấm đã phiên âm Bhagavat theo
Hán ngữ là Bà-già-bà (Bhagavat) và giải thích như
sau: Bà-già có nghĩa là phá; Bà có nghĩa là phiền
não. Vì do có khả năng phá trừ các phiền não, nên
gọi là Bà-già-bà (Bhagavat). Lại vì có khả năng
thành tựu các thiện pháp, có khả năng khéo hiểu
biết nghĩa lý của các pháp; vì có công đức vĩ đại
58
Thập Hiệu kinh, số 782, tr720, Đại Chính17.
276 Thích Thái Hòa
không có ai vượt thắng hơn; vì thanh danh nghe
khắp cả mười phương; vì có khả năng bố thí tất cả
các loại trí tuệ… do đó mà gọi là Bà-già-bà
(Bhagavat).59
Bhagavat ở trong Pháp Uẩn Túc luận, bản dịch
chữ Hán của Ngài Huyền Tráng, chuyển âm sang
Hán ngữ là Bạc-già-phạm và luận này đã giải
thích Bạc-già-phạm như sau:
Bạc-già-phạm là Đấng đã thực hành các thiện
pháp, là Đấng đang thực hành các thiện pháp, là
Đấng có thiện pháp, là Đấng thành tựu các thiện
pháp tối thượng, là Đấng tu tập viên mãn các giới
hạnh của thân, các trí tuệ của tâm, là Đấng đã
thành tựu đại bi, là Đấng vô hạn, là Đấng thành
tựu vô lượng pháp.
Lại nữa, Bạc-già-phạm là Đấng có đủ oai đức, có
khả năng đến và đi, có khả năng phá hủy và tác
59
Đại Bát Niết bàn kinh, q18, tr469c, Đại Chính12.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 277
thành, có khả năng chuyển vận tự tại, có khả năng
phá hủy tham, sân, si… và các pháp bất thiện, có
khả năng phá trừ các tạp nhiễm, phá trừ những kết
quả khổ đau, phá trừ những gì có thể hưng khởi để
tái sinh đời sau và phá trừ sanh, lão, bệnh, tử ở
ngày mai, như bài kệ nói:
“Vĩnh phá tham sân si
Ác-bất thiện pháp đẳng
Siêu thắng vô lậu pháp
Cố danh Bạc-già-phạm”.
Nghĩa là:
Phá sạch tham sân si
cùng với pháp bất thiện
dồi dào vô lậu pháp
nên gọi Bạc-già-phạm.
Lại nữa, Thế Tôn là Đấng đối với pháp chưa từng
278 Thích Thái Hòa
học, chưa từng nghe vẫn tự mình có thể thông đạt,
thành tựu được sự giác ngộ tối thượng, thành tựu
trí tuệ của pháp ngay trong hiện tại, thành tựu trí
tuệ không còn chướng ngại, khéo hiểu biết các
pháp ở trong tương lai, khéo tu tập các kết quả
phạm hạnh. Lại còn vì các hàng đệ tử mà khéo
phân biệt, khéo thuyết giảng, mở bày các đại pháp
hội để bố thí pháp khắp tất cả hữu tình. Vì vậy gọi
là Bạc-già-phạm.
Lại nữa, Bạc-già-phạm là Đấng hay vì các hàng đệ
tử mà tùy nghi thuyết pháp, khiến cho họ hoan hỷ,
cung kính tin nhận, đúng như sự chỉ giáo mà thực
hành, danh tiếng của Ngài được ca ngợi khắp nơi
khắp chốn và đã được rất nhiều sự kính lễ. Vì thế
gọi là Bạc-già-phạm (Bhagavat).60
Ở luận Đại Trí Độ, Ngài Cưu Ma La Thập chuyển
âm Bhagavat sang Hán ngữ rất nhiều tên gọi khác
60
Pháp Uẩn Túc luận, q11, tr461c-462a, Đại Chính26.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 279
nhau, như Bạc-già-phạm, A-bà-ma, A-bà-ma-bà-
ma… và luận này đã giải thích như sau:
Bà-già gọi là đức, Bà gọi là hữu. Vậy, Bà-già-bà
(Bhagavat) có nghĩa là hữu đức.
Bà-già là phân biệt, Bà là xảo. Vậy Bà-già-bà là
khéo phân biệt về tổng tướng và biệt tướng của tất
cả pháp.
Bà-già gọi là thanh danh, Bà gọi là hữu. Vậy, Bà-
già-bà (Bhagavat) là Đấng có thanh danh.
Bà-già gọi là phá, Bà nghĩa là có khả năng. Vậy
Bà-già-bà (Bhagavat) có nghĩa là Đấng có khả
năng phá trừ dâm, nộ, si…61
Thế Tôn hoặc Bhagavat, Bà-già-bà, Bạc-già-
phạm,… các kinh và luận đã giải thích khá phong
phú. Tuy là phong phú, nhưng tất cả đều nhất trí
với nhau ở những điểm: Thế Tôn là Đấng không
61
Đại Trí Độ luận, q11, tr70b-c, 73b, Đại Chính25.
280 Thích Thái Hòa
còn các phiền não, là Đấng có thiện pháp, là Đấng
đã thành tựu trí tuệ, là Đấng làm lợi ích cho chúng
sanh…Do những ưu điểm ấy mà Ngài đã được
người đời ca tụng, yêu thương và tôn kính.
III - SO SÁNH SỰ SAI BIỆT SỐ MỤC
CỦA MƯỜI PHẨM TÍNH
Đức Phật được tác thành bởi mười phẩm tính hay
mười đức hiệu, đây là số mục theo Thập Hiệu
kinh. Và ở kinh này đã ghép “Thế Gian Giải Vô
Thượng Sĩ” (Lokavidūanuttara) chung thành một
phẩm tính, cứ tuần tự từ Như Lai cho đến Thế
Tôn. Theo Pháp Uẩn Túc luận thì đức Phật bao
gồm mười một phẩm tính. Trong muời một phẩm
tính ấy, luận đã ghép “Vô Thượng Trượng Phu”
(Anuttarapurusa) thành một phẩm tính. Trái lại, ở
luận Đại Trí Độ62
chỉ có chín phẩm tính. Luận đã
ghép “Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu”
62
Tham khảo Đại Trí Độ luận q21, tr219b-c, Đại
Chính25.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 281
(Anuttarapurusadamya‟sārathi = A-nậu-đa-la-
tam-miệu-tam-bồ-đề) thành một phẩm tính, và giải
thích đức Phật do thành tựu chín phẩm tính này
mà đại danh của Ngài được ca ngợi khắp cả mười
phương, do dó gọi Ngài là Đấng Thế Tôn
(Bhagavat), và sự so sánh ấy, chúng tôi lập đồ
biểu dưới đây để dễ nhận thấy hơn.63
63
Chú thích bản đối chiếu: (a) Phật thuyết Thập Hiệu
kinh, số782, t719c, 720ab, Đại Chính17; (b) Đại Bát
Niết bàn kinh, số 574, q18, tr468a-469c, Đại Chính12;
(c) Pháp Uẩn Túc luận, số, 1537, q2, tr460b-462a, Đại
Chính26; (d) Đại Trí Độ luận, số, 1509, q11, tr71b,
Đại Chính25.
282 Thích Thái Hòa
Đạ
i T
rí Đ
ộ L
uậ
n (
d)
Đa
Đà
A G
ià Đ
à
A L
a H
a
Tam
Miệ
u T
am P
hật
Đà
= C
hán
h B
iến
Trí
Tu
ệ
Tỳ
Xỉ
Già
Là
Na
Tam
Bát
Na
= M
inh
Hàn
h C
ụ
Tú
c
Tu
–g
ià –
đà
= T
hiệ
n K
hứ
Lộ
Ca
Bị
= T
rí T
hế
Gia
n
Ph
áp
Uẩ
n T
úc
Lu
ận
(c)
Nh
ư L
ai
A-l
a-h
án
Ch
ánh
Đẳn
g
Giá
c
Min
h H
ành
Viê
n M
ãn
Th
iện
Th
ệ
Th
ế G
ian
Giả
i
Đạ
i B
át
Niế
t-
bàn
Kin
h (
b)
Như
Lai
Ứng T
hế
Gia
n
Chi
Pháp
Chán
h B
iến
Tri
Min
h H
ành
Tú
c
Th
iện
Th
ệ
Th
ế G
ian
Giả
i
Th
ập
Hiệ
u
Kin
h (
a)
Nh
ư L
ai
Ứn
g C
úng
Ch
ánh B
iến T
ri
Min
h H
ạnh T
úc
Th
iện
Th
ệ
Th
ế G
ian
Giả
i -
Vô
Thư
ợng S
ĩ
Stt
1
2
3
4
5
6
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 283
Đạ
i T
rí Đ
ộ L
uậ
n (
d)
A N
ậu Đ
a L
a P
hú
Lâu
Sa
Đàm
Miệ
u B
à L
a Đ
ề =
Vô
Th
ượ
ng
Sĩ
Điề
u N
gự
Trư
ợn
g P
hu
X
à (Q
uán
) Đ
a Đ
ề B
a M
a
Nao
Xá
Nam
= T
hiê
n
Nh
ơn
Sư
Ph
ật
(Kh
ôn
g c
ó)
(Kh
ôn
g c
ó)
Ph
áp
Uẩ
n
Tú
c L
uậ
n (
c)
Vô
Th
ượ
ng
Trư
ợn
g P
hu
Điề
u N
gự
Sĩ
Th
iên
Nh
ơn
Sư
Ph
ật
Bạc
Già
Ph
ạm
Đạ
i B
át
Niế
t-
bàn
Kin
h (
b)
Vô T
hư
ợng S
ĩ
Điề
u N
gự
Trư
ợng P
hu
Th
iên
Nh
ơn
Sư
Phật
Th
ế T
ôn
Th
ập
Hiệ
u
Kin
h (
a)
Điề
u N
gự
Trư
ợng P
hu
Th
iên
Nh
ơn
Sư
Phật
Th
ế T
ôn
(Kh
ông c
ó)
Stt
7
8
9
10
11
284 Thích Thái Hòa
Chín phẩm tính, mười phẩm tính hay mười một
phẩm tính, đây chỉ là sự sai biệt về số mục mà các
kinh luận phân định để giải thích. Sự sai biệt này
không có gì gọi là nghiêm trọng, vì nội dung của
các kinh luận đều hàm đủ từ Như Lai cho đến Thế
Tôn. Và sự giải thích các phẩm tính này, tùy theo
mức độ giác ngộ để lãnh hội. Qua sự giải thích của
các kinh và luận, chúng tôi thấy rằng hoàn toàn
không có điểm nào mâu thuẫn nhau, chỉ có khác
nhau ở điểm cao thấp, sâu rộng mà thôi.
Ở phần đầu tổng luận về ý nghĩa mười phẩm tính,
chúng tôi đã nói: thành tựu địa vị Phật là thành tựu
Phật tính; thành tựu Phật tính là thành tựu mười
phẩm tính tác thành tư cách của một vị Phật. Sau
khi đã nghiên cứu một số kinh và luận nói về
những phẩm tính tác thành tư cách của một vị
Phật, thì câu ấy chúng ta có thể nói lại rằng: thành
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 285
tựu địa vị Phật là thành tựu Phật tính; thành tựu
Phật tính chính là thành tựu chín, mười hay mười
một tính tác thành tư cách của một vị Phật. Tuy
nói như vậy có vẻ dài dòng, nhưng nó lại thống
nhất với sự nghiên cứu các kinh và luận như đã
được trích dẫn ở trên.
Sau đây, chúng tôi cũng lập danh mục so sánh ấy
bằng chữ Phạn, Pāli, Tây Tạng, Hán và Việt để
tiện việc đối chiếu.
I.
1. Phạn: Tathāgata
2. Pāli: Tathāgata
3. Tây Tạng: Debshin-Gsegs-Pa
4. Hán: Như Lai, Đa Đà A Già Độ, Như
Khứ, Như Giải, Như Thuyết,…
5. Việt: Đấng Đến và đi đúng như tự
thân của thực tại.
286 Thích Thái Hòa
II. 1. Phạn: Arhat
2. Pāli: Arahan
3. Tây Tạng: Dgra-Bcom-Pa
4. Hán: Ứng Cúng, A-la-hán, Sát Tặc,
Bất Sanh, Vô Sanh, Chí Chơn, Chơn
Nhân, Vô Trước Quả,…
5. Việt: Đấng Không còn sanh tử, và
đáng nhận sự cúng dường của Chư Thiên
và Loài Người .
III.
1. Phạn: Samyaksambuddha
2. Pāli: Sammāsambuddha
3. Tây Tạng:Yan-Dag-Par-Rdsogs
4. Hán: Chánh Biến Tri, Tam Miệu
Tam Phật Đà, Chánh Chơn Đạo, Chánh
Biến Giác, Chánh Biến Tri, Nhất Thế
Pháp, Chánh Đẳng Chánh Giác,…
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 287
5. Việt: Đấng Tỉnh thức hoàn toàn, đích
thực,…
IV.
1. Phạn: Vidyacaranasampanna
2. Pāli: Vijjācaranasampanna
3. Tây Tạng: Rig-Pa-Dan-Shabs-Su Ldan-
Pa
4. Hán: Minh Hành Túc, Minh Hành
Viên Mãn, Minh Hành Cụ Túc…
5. Việt: Đấng Đầy đủ sự hiểu biết và
thực hành, có đầy đủ trí tuệ và đức
hạnh…
V.
1. Phạn: Sugata
2. Pāli: Sugata
3. Tây Tạng: Bde-Bar-G‟segs-Pa
4. Hán: Thiện Thệ, Tu-Già–Đà, Hảo
Khứ, Hảo Thuyết, Thiện Giải, Thiện
288 Thích Thái Hòa
Thuyết, Vô Hoạn…
5. Việt: Đấng đã vượt qua khổ đau và đi
đến hạnh phúc,…
VI.
1. Phạn: Lokavid
2. Pāli: Lokavidu
3. Tây Tạng: Hjig-Rtenmkhyen-Pa
4. Hán: Thế Gian Giải, Lộ Ca Bị, Tri
Thế Gian…
5. Việt: Đấng Hiểu biết và thấy rõ cuộc
đời,…
VII.
1. Phạn: Anuttara
2. Pāli: Anuttara
3. Tây Tạng: Blam-Med-Pa
4. Hán: Vô Thượng Sĩ, A Nậu Đa La,
Vô Thượng,…
5. Việt: Đấng Cao Cả,…
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 289
VIII.
1. Phạn: Purusadamyasārathi
2. Pāli: Purisadammasārathi
3. Tây Tạng: Skyes-Bu-Hdul-Bahi-Khe,
Lobs-Gy-Ur-Ba.
4. Hán: Điều Ngự Trượng Phu, Phú Lâu
Sa Đàm Miệu Bà La Đề, Đạo Pháp Ngự,
Điều Ngự Sĩ, Khả Hóa Trượng Phu Điều
Ngự Sư…
5. Việt: Đấng có khả năng huấn luyện
và chuyển hóa chúng sanh…
IX.
1. Phạn: „Sāntādevamanusyānām
2. Pāli: Satthādevamanussanam
3. Tây Tạng: Lha-Dan-Mihi-Ston-Pa
4. Hán: Thiên Nhơn Sư, Thiên Nhơn
Giáo Sư…
5. Việt: Đấng Dạy dỗ cho chư thiên và
loài người…
290 Thích Thái Hòa
X. 1. Phạn: Buddha
2. Pāli: Buddha
3. Tây Tạng: Sans-Rgyas
4. Hán: Phật, Phật Đà, Tri Giả, Giác
Giả, Giác Nhân…
5. Việt: Đấng Giác ngộ, đấng Giác ngộ
hoàn toàn, đấng Toàn giác…
XI.
1. Phạn: Bhagavat
2. Pāli: Bhagavant
3. Tây Tạng: Bcom-Ldan-Hdar.
4. Hán: Thế Tôn, Bà-Già-Bà, Hữu Đại
Công Đức, Bạc Già Phạm,…
5. Việt: Đấng Tôn kính của thế gian,…
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 291
Chương 4
BỐN VÔ SỞ ÚY
I - Tổng luận:
Chúng sanh thường sống trong vô minh, chấp ngã,
không giác ngộ được chân lý, nên trong đời sống
thường sinh ra các thứ sợ hãi như: “Sợ cuộc sống bấp
bênh, vô thường; sợ người khác chê cười, thương tổn
danh dự; sợ chết và sợ hãi lúc sắp chết; sợ rơi vào đời
sống xấu xa, nghèo đói, xấu ác; sợ uy đức của đại
chúng”.64
Đức Phật do giác ngộ pháp, sống toàn với pháp giác
ngộ, nên ngài có bốn sự không sợ hãi, gọi là Bốn vô sở
úy. Bốn vô sở úy cũng là một trong những phẩm tính
giác ngộ của Phật về mặt tự tín, không còn có sự sợ
hãi. Ấy là bốn đức tính vô úy của Phật. Tiếng Pāli là
Cattāri vesārajjāni. Phạn là Catvāri vaiśāradyāni.
64
Hoa Nghiêm 60, cuốn 34, Đại Chính 9..
292 Thích Thái Hòa
II - Nội dung:
Theo Kinh Tăng Nhất A hàm cuốn 19 và 42, bốn vô sở
úy của Phật như sau:
1- Chư pháp hiện đẳng giác vô sở úy: Tiếng Phạn là
Sarvadharmābhisaṃbodhivaiśāradya. Sarvadharma là
hết thảy pháp; abhisaṃbodhi là giác ngộ bình đẳng thù
thắng; vaiśāradya là không sợ hãi. Đức Phật đối với
hết thảy pháp, ngài giác ngộ cùng tột tánh và tướng,
tác dụng và năng lực, nhân và duyên, quả và báo, gốc
rễ và ngọn ngành, nên đối với hết thảy pháp ngài
không còn có bất cứ sự sợ hãi nào. Đức tính vô úy này,
Hán còn gọi là Nhất thiết trí vô sở úy.
2- Nhất thiết lậu tận trí vô sở úy: Tiếng Phạn
Sarvāsravakṣyajñānavaiśāradya. Sarvāsrava, hết thảy
sai lầm; kṣyajñāna, trí thấy rõ sự diệt tận; vaiśāradya,
không có sợ hãi. Đức Phật đối với hết thảy phiền não
đã diệt tận, nên ngài không còn sợ hãi đối với những
sai lầm và đối với sanh tử. Đức tính vô úy này, Hán
còn gọi phẩm tính này là Lậu tận vô sở úy.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 293
3- Chướng pháp bất hư quyết định thọ ký vô úy:
Tiếng Phạn Antarāyikadharmānanyathātvaniścitavyā-
karaṇavaiśāradya. Antarāyika dharmā, các pháp
chướng ngại; ananyathātva, không hư dối; niścita,
quyết định; vyākaraṇa, thọ ký; vaiśāradya, không sợ
hãi. Đức Phật nói rõ các pháp hư dối, chướng ngại đạo
pháp và quyết định con đường tu tập không có bất cứ
một sự sợ hãi nào. Hán còn gọi phẩm tính này là
Thuyết chướng đạo vô sở úy.
4- Vị chứng nhất thiết cụ túc xuất đạo như tính vô úy:
Tiếng Phạn là Sarvasaṃpadadhigamāyanayanika-
pratipattathātva-vaiśāradya. Sarvasaṃpad, hết thảy đầy
đủ, trọn vẹn; adhigamāya, chứng đắc, đạt đến;
nayanika, hướng dẫn, dẫn đến ; pratipattathātva, chứng
nhập tính như thực; vaiśāradya, không sợ hãi. Đức
Phật hướng dẫn đưa đến và chứng đắc tính như thực
trọn vẹn không có bất cứ sự sợ hãi nào. Hán còn gọi
phẩm tính này là Thuyết đạo vô úy hay Thuyết tận khổ
đạo vô úy.
294 Thích Thái Hòa
Bốn vô sở úy này, có đề cập ở trong kinh
Mahāsīhanāda của Trung bộ, bản Pāli (M. 12). Trong
Trung A-hàm, Hán Tạng là Mao Hỷ Thụ Kinh, Đại
Chính 1. Bốn vô úy này cũng đã được ghi lại ở trong
Tứ Vô Sở Úy Kinh, với nội dung thuật lại đức Phật nói
về Bốn vô sở úy do ngài chứng đắc và nói về sự không
sợ hãi của ngài khi xuất hiện giữa tám bộ chúng.65
III - Bốn vô sở úy với ba đức:
Bốn vô sở úy là thuộc tính giác ngộ của Phật gồm đủ
cả tự giác và giác tha. Tự giác là đức tính một và hai
của Bốn vô sở úy. Giác tha là đức tính ba và bốn của
Bốn vô sở úy. Bốn vô sở úy liên hệ đến ba đức gồm,
trí đức, đoạn đức, ân đức của Phật, thì đức vô úy một
thuộc về trí đức và đức vô úy hai thuộc về đoạn đức và
hai đức vô úy còn lại thuộc về ân đức. Nhưng, Luận
Thuận Chánh Lý lại nói: “Hai đức tính vô sở úy một
và hai là hiển bày viên mãn đức tự lợi của Phật; nên
đức Vô úy một là trí đức, đức Vô úy hai là đoạn đức.
Đức vô úy ba và bốn, hiển bày đức tính lợi tha của
65
Thi Hộ dịch, Tống, Tứ Vô Sở Úy Kinh, Đại Chính 13.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 295
Phật, nên đức vô úy ba là tu đoạn đức và đức vô úy
bốn là tu trí đức.66
IV - Kết luận:
Đức Phật nào khi thành Phật cũng thành tựu luôn bốn
pháp vô sở úy này, nhờ vậy mà các ngài thành tựu
được hạnh tự giác, giác tha; tự lợi, lợi tha một cách
tuyệt hảo. Nên, Bốn vô sở úy là pháp bình đẳng giữa
chư Phật ba đời và mười phương. Chúng làm nền tảng
cho tư tưởng Bồ tát đạo khai triển và phát triển của
Phật giáo Đại thừa về sau.
66
Chúng Hiền, Thuận Chánh Lý Luận 75, Đại Chính
29.
296 Thích Thái Hòa
Chương 5
MƯỜI TRÍ LỰC
I - Tổng luận:
Mười trí lực là Mười sức mạnh về trí tuệ của đức Phật.
Chính do mười sức mạnh trí tuệ này, nên sự giác ngộ
của Phật không phải là ngang bằng với hàng Thanh
văn giác, hàng Duyên giác và Bồ tát đẳng giác.
Do đạt được Mười sức mạnh trí tuệ này, nên gọi Phật
là bậc nhất thiết trí. Nghĩa là trí có khả năng hiểu biết
thể tính, tướng dụng, nhân quả, nhân duyên của hết
thảy muôn sự, muôn vật cùng khắp cả ba đời và mười
phương.
Hễ là Phật thì phải có đầy đủ mười trí lực này. Nên,
mười trí lực này là sức mạnh trí tuệ của chư Phật trong
mười phương và ba đời. Và nó là trí tánh bình đẳng
của chư Phật.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 297
II - Nội dung:
Kinh Tạp A Hàm, quyển 26, Đại Chính 2; Kinh Hoa
Nghiêm 17, Đại Chính 9 và 10; Kinh Thập Lực, Đại
Chính 17, đều có đề cập và giải thích mười trí lực của
đức Phật, ở đây xin tóm lược như sau:
1- Xứ phi xứ trí lực: Cũng gọi là Tri thị xứ phi xứ trí
lực, nghĩa là trí tuệ của đức Phật biết đúng như thực về
nhân duyên tạo nghiệp, thọ báo khổ vui. Tạo ác thì thọ
quả báo khổ; tạo thiện thì thọ quả báo vui, biết đúng
như vậy, gọi là Tri thị xứ; biết rõ tạo thiện không bao
giờ thọ báo khổ, tạo ác không bao giờ thọ quả báo vui,
ấy là biết rõ như thực về xứ. nên, gọi là Thị xứ phi xứ
trí lực hay Tri thị xứ phi xứ trí lực.
2- Nghiệp dị thục trí lực: Cũng gọi là tri nghiệp báo trí
lực. Đức Phật có khả năng biết rõ, nghiệp duyên, quả
báo, xứ sở sanh ra ở trong ba thời gian quá khứ, hiện,
tại và tương lai của hết thảy chúng sanh. Nên, cũng gọi
là tri tam thế nghiệp trí lực.
298 Thích Thái Hòa
3- Tịnh lự giải thoát đẳng trì, đẳng chí trí lực: Đức
Phật có khả năng biết rõ và biết đúng hết thảy các loại
thiền định từ cạn đến sâu và tự tại xuất nhập đối với
hết thảy các loại thiền định mà không có bất cứ một sự
trở ngại nào. Nên, cũng gọi là Tri chư thiền giải thoát
tam muội trí lực.
4- Căn thượng hạ trí lực: Đức Phật có năng lực biết rõ
căn tánh cao thấp của hết thảy chúng sanh có thể tu tập
pháp gì, chứng quả vị thế nào, Ngài đều biết đúng như
vậy. Nên, năng lực này cũng còn gọi Tri chư căn thắng
liệt trí lực hay Tri chúng sanh thượng hạ căn trí lực.
5- Chủng chủng thắng giải trí lực: Đức Phật có năng
lực biết rõ hết thảy sự tham muốn vui thích và thiện ác
của hết thảy chủng loại chúng sanh. Nên, năng lực này
còn gọi là Tri chúng sanh chủng chủng trí lực.
6- Chủng chủng giới trí lực: Đức Phật có năng lực biết
rõ và đúng như thực, những giới phần sai biệt khác
nhau của hết thảy chúng sanh. Nên, năng lực này còn
gọi là Tri tính trí lực.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 299
7- Biến thú hành trí lực: Đức Phật có năng lực biết rõ
và đúng như thực nơi đến của các hành nghiệp hữu lậu
của hết thảy chúng sanh, trong sáu đường sanh tử và
các hành nghiệp vô lậu, giải thoát của các bậc Thánh ở
nơi Niết bàn. Nên, năng lực này cũng còn gọi là Tri
nhất thiết chí xứ đạo lực.
8- Túc trú tùy niệm trí lực: Đức Phật có năng lực biết
khắp và biết đúng về đời trước, từ một đời cho đến
trăm nghìn muôn đời; từ một kiếp cho đến trăm nghìn
ức kiếp, sanh ra, chết đi, hình dạng, tên họ, ăn uống,
vui khổ, yểu thọ… Nên, khả năng này cũng còn gọi là
Tri túc mệnh vô lậu trí lực.
9- Tử sanh trí lực: Đức Phật có năng lực thấy và biết
chính xác thời gian sống và chết của hết thảy chúng
sanh và cõi thiện ác, mà họ sau khi mệnh chung sanh
đến với đời sống giàu nghèo khổ vui. Nên, khả năng
này cũng còn gọi là Tri thiên nhãn vô ngại trí lực.
10- Lậu tận trí lực: Đức Phật đối với hết thảy tập khí
phiền não tàn dư đều biết đúng như thực là đã đoạn tận
300 Thích Thái Hòa
hoàn toàn không còn sanh khởi trở lại. Nên, khả năng
này còn gọi là Tri vĩnh đoạn tập khí trí lực.
III - Kết luận:
Mười trí lực của đức Phật như vậy có tác dụng diệt trừ
hết thảy tập khí phiền não, khiến đạt đến an lạc tối
thượng, Niết bàn tối thượng và giác ngộ tối thượng.
Chúng làm nền tảng và dẫn đạo cho mọi tri thức luận,
mọi tư tưởng luận của Phật giáo phát triển về sau, nhất
là nền văn học A-tỳ-đàm, Trung quán và Duy Thức.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 301
Chương 6
MƯỜI TÁM PHÁP BẤT CỘNG
I - Tổng luận:
Mười tám pháp bất cộng là mười tám pháp, do đức
Phật sau khi thành tựu lậu tận minh của đêm thành đạo
dưới gốc cây Bồ đề mà thành tựu. Nên, mười tám pháp
này chỉ có Phật mới có, hàng Thanh văn, Duyên giác,
Bồ tát thì chưa có, nên gọi là Mười tám pháp bất cộng.
Gọi đủ là Thập bát bất cộng Phật pháp.
Mười tám pháp bất cộng của đức Phật thành tựu được
nêu lên ở trong Phẩm Quảng thừa kinh của Đại phẩm
Bát nhã 5, cũng như ở Đại Trí Độ luận, nội dung có
những điểm sai biệt.
Mười tám pháp bất cộng, ở Đại Trí Độ luận 26, gồm:
Nhất thiết trí; Công đức vô lượng; Đại bi; Trí tuệ tự
tại; Thiền định tự tại; Ứng hóa tự tại; Thọ ký vô lượng;
Thọ ký không hư dối; Lời nói không trái; Trí tuệ
không giảm; Thường hành bố thí; Thường quán sát
302 Thích Thái Hòa
chúng sanh; Không thất niệm; Không còn tập khí
phiền não; Không nói lỗi; Vô kiến đảnh tướng; Lòng
bàn chân mềm mại; được các thần thông ba la mật
chuyển tâm khổ của chúng sanh thành an lạc.
Mười tám pháp bất cộng này lấy trí tuệ làm bản thể để
dứt trừ ô nhiễm, lấy thiện pháp vô lậu giải thoát để
trang nghiêm báo thân và lấy đại từ bi làm nghiệp
dụng để nhiếp hóa vô lượng, vô số, vô biên chúng
sanh trong vô lượng, vô biên cõi nước.
II - Nội dung:
Mười tám pháp bất cộng này, căn cứ theo kinh Đại Bát
Nhã, gồm có như sau:
1- Thân vô thất: Hành nghiệp của thân không còn sai
lầm. Nghĩa là đức Phật trải qua vô lượng kiếp đến nay,
hành nghiệp của ngài luôn luôn ở trong giới thanh tịnh,
khiến phiền não sạch hết, công đức thành tựu. Nên
hành nghiệp của thân đối với đức Phật hoàn toàn
không còn lầm lỗi.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 303
2- Khẩu vô thất: Hành nghiệp của ngữ không còn sai
lầm. Nghĩa là đức Phật có vô lượng trí tuệ biện tài,
ngài tùy theo căn cơ mà nói pháp thích hợp, khiến cho
người nghe tùy theo pháp được nói mà tu tập để chứng
ngộ. Nên, hành nghiệp của ngữ đối với đức Phật hoàn
toàn không có lầm lỗi.
3- Niệm vô thất: Ý nghĩ hay tâm hành không lầm lỗi.
Nghĩa là đức Phật luôn ở trong thiền định và tỉnh giác,
khiến các tâm hành thanh tịnh. Nên, hành nghiêp của ý
đối với đức Phật luôn trú ở trong tịch tịnh Niết bàn,
khiến ngài không có lầm lỗi về ý.
4- Vô dị tưởng: Đối với hết thảy chúng sanh đức Phật
chỉ có ý tưởng Từ bi và hạnh Từ bi bình đẳng, ngoài ý
tưởng này không có ý tưởng gì khác.
5- Vô bất định tâm: Đức Phật đi, đứng, nằm, ngồi bốn
oai nghi thường ở trong đại định, tỉnh giác hoàn toàn
đối với thực tướng của các pháp, nên đối với hết thảy
pháp không có sai lầm.
304 Thích Thái Hòa
6- Vô bất tri kỷ xả tâm: Đối với các cảm giác khổ, lạc,
xả, đức Phật thường tỉnh giác đối với các hành tướng
sinh, trú, dị và diệt của chúng và thường trú tâm ở nơi
sự tịch lặng của xả thọ.
7- Dục vô giảm: Ý nguyện không giảm. Nghĩa là ý
nguyện hóa độ chúng sanh của đức Phật không bao giờ
bị tổn giảm.
8- Tinh tấn vô giảm: Sự nỗ lực không giảm. Nghĩa là
đức Phật rất tinh cần đối với các pháp phương tiện để
hóa độ chúng sanh, không thoái giảm.
9- Niệm vô giảm: Tâm niệm không thoái giảm. Nghĩa
là giáo pháp và trí tuệ của chư Phật ba đời và mười
phương tương tục với nhau đầy đủ, không có thoái
giảm.
10- Tuệ vô giảm: Tuệ không thoái giảm. Không những
đức Phật đầy đủ hết thảy trí mà còn đầy đủ tất cả tuệ,
soi suốt rõ cả ba đời không bị chướng ngại, không hề
thoái giảm.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 305
11- Giải thoát vô giảm: Giải thoát không thoái giảm.
Đức Phật xa lìa mọi sự chấp thủ, phiền não đoạn sạch,
có đầy đủ hai loại giải thoát hữu vi và vô vi, cho nên
ngài có đời sống giải thoát không thoái giảm.
12- Giải thoát tri kiến vô giảm: Tri kiến đối với giải
thoát không có thoái giảm. Nên, đức Phật biết rõ suốt
các tướng giải thoát không có thoái giảm.
13- Nhất thiết thân nghiệp tùy trí tuệ hành: Hết thảy
hành nghiệp thuộc về thân của đức Phật đều được soi
dẫn bởi trí tuệ, nên không có sai lầm khi làm lợi ích
cho hết thảy chúng sanh.
14- Nhất thiết khẩu nghiệp tùy trí tuệ hành: Hết thảy
ngữ hành của Phật phát khởi đều từ trí tuệ, nên không
sai lầm khi thuyết pháp đem lại lợi ích cho hết chúng
sanh.
15- Nhất thiết ý nghiệp tùy trí tuệ hành: Hết thảy hành
nghiệp thuộc ý của đức Phật đều được dẫn sinh từ trí
tuệ, nên khi khởi hạnh thuyết pháp độ sanh không có
sai lầm.
306 Thích Thái Hòa
16- Trí tuệ tri kiến quá khứ thế vô ngại vô chướng: Trí
tuệ của Phật biết rõ hết thảy đời thuộc về quá khứ
không có bất cứ sự chướng ngại nào.
17- Trí tuệ tri kiến vị lai thế vô ngại vô chướng: Trí
tuệ của Phật biết rõ hết thảy đời vị lai không có bất cứ
sự chướng ngại nào.
18- Trí tuệ tri kiến hiện tại thế vô ngại vô chướng: Trí
tuệ của Phật biết rõ hết thảy đời hiện tại không có bất
cứ một sự chướng ngại nào.
Mười tám pháp bất cộng này tóm lược từ Đại phẩm
Bát-nhã 5, Đại Chính 5. Còn một số kinh và luận có đề
cập đến mười tám pháp bất cộng của Phật như Văn Thù
Sư Lợi Vấn Kinh, quyển hạ, Đại Chính 14; Đại Trí Độ
Luận quyển 26, Đại Chính 25; Đại Tỳ Bà Sa Luận,
quyển 17, Đại Chính 27, nội dung có một số dị biệt.
III- Kết luận
Như vậy, mười hay mười một phẩm tính giác ngộ, bốn
pháp vô úy, mười trí lực và mười tám pháp bất cộng là
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 307
những pháp giác ngộ chỉ có Phật mới thành tựu và bất
cứ đức Phật nào thành Phật cũng chính là thành tựu
các phẩm tính giác ngộ này. Nên, chư Phật mười
phương ba đời đều đồng một giác thể. Giác thể của
chư Phật được tạo nên từ các phẩm tính này và từ nơi
những phẩm tính giác ngộ này mà chư Phật ba đời,
mười phương chuyển vận Pháp luân, thiết lập Tăng
đoàn giáo hóa chúng sanh. Tư tưởng Phật giáo dựa vào
các phẩm tính này mà sinh khởi, nên nghiên cứu học
hỏi tư tưởng Phật giáo, chúng ta không thể không
nghiên cứu và học hỏi các phẩm tính giác ngộ của
Phật. Tam tạng giáo điển Kinh Luật Luận của Phật
giáo từ nơi những phẩm tính giác của Phật này mà kết
tập và khai triển. Chính truyền của Phật giáo là ở nơi
các phẩm tính giác ngộ này, chứ không phải ở nơi các
văn hệ. Ấy là điều mà các hàng đệ tử Phật xuất gia và
tại gia chính truyền không ai là không biết.
308 Thích Thái Hòa
Chương 7
NIỀM TIN VÀ TỔNG KẾT
Sở dĩ đức Phật (Buddha) là người trên tất cả
người, là siêu nhân trên tất cả siêu nhân, là Thánh
trên tất cả bậc Thánh, là Giác ngộ trên tất cả
những vị Giác ngộ cũng chính do thành tựu các
phẩm tính này. Ngài có đủ khả năng, có đủ mọi tư
cách để mọi chúng sanh tin tưởng nương tựa. Ngài
là điểm tựa an toàn và vững chắc cho những ai đã
biết và nương tựa nơi Ngài.
Trong kinh Sampasādanīya (Kinh Tự Hoan Hỷ),
Tôn giả ‟Sariputta đã phát biểu niềm tin mãnh liệt
của mình đối với đức Phật như sau: “Bạch đức
Thế Tôn, con tin tưởng đức Thế Tôn đến nỗi con
nghĩ rằng ở quá khứ, ở tương lai cũng như ở hiện
tại, không thể có một vị Sa-môn, vị Bà-la-môn
khác nào có thể vĩ đại hơn Thế Tôn về phương
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 309
diện giác ngộ”.
(Evaṃ pasanno ahaṃ bhante Bhagavativaṇa cāhu
naca bhavissati na ‟cetarahi vijjati anno saṃaṇo
vā Bhagavatā ‟bhiyyo bhiññtara yadidaṃ
sambodhiyanti).67
Nếu tin tưởng và nương tựa đức Phật để mong cầu
những niềm vui thế tục và hy vọng Ngài sẽ thi thiết
cho những niềm vui ấy, điều này hiếm thấy xảy ra
trong kinh điển Phật giáo. Trái lại, sự tin tưởng và
nương tựa ở đức Phật để rồi từ đó đi đến giác ngộ
và hạnh phúc Niết bàn, thì điều này không có kinh
điển nào trong Phật giáo là không đề cập.
Nếu tin tưởng và nương tựa đức Phật để rồi trở
thành ích kỷ, hẹp hòi, xấu ác, bạo tàn… điều này
cũng không hề tìm thấy trong cuộc đời hoằng pháp
của đức Phật cũng như lịch sử truyền bá Phật giáo.
67
Sampasādanīya suttanta, tr99, Dīgha Nikyā, q4,
TTĐHVH 1972.
310 Thích Thái Hòa
Trái lại, tin tưởng và nương tựa đức Phật để rồi
chuyển hóa ích kỷ trở thành vị tha, cố chấp thành
vô ngã, bạo tàn thành hiền thiện, thấp kém thành
thanh cao… thì quả thật điều này xảy ra khá
phong phú trọn cuộc đời hoằng pháp của đức Phật
và sự truyền bá giáo lý của Ngài.
Đọc lịch sử nhân loại không ai không biết đến đời
sống hiền thiện, thanh cao và thiết thực xây dựng
cho đời của những nhà vua Ấn Độ, như vua
Pesanadi (Ba Tư Nặc), vua Bimbisara (Tần Bà Ta
La), vua Ajatasattā (A Xà Thế). Vua A Xà Thế sau
khi tin Phật, thực hành pháp của Phật, đã nhiếp
hóa được ba nước lân bang, lập đế đô ở Pattigrāma
trên nước Magadha. Bởi vậy, sử gia J.Nandou viết
về nhà vua này như sau: “Không thể nghi ngờ gì
được rằng, chính là sự theo đạo Phật mà nhà vua
đã mở đầu cho xứ Magadha”. 68
68
J.Nandou-L‟Inde trong R.Crouset và Leonard-Histoire
universelle Eneyel de la pleiade gallimard 1965.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 311
Nhà vua A‟soka, một nhà vua hung tàn bạo ngược,
đã giết cha để kéo quân đi chinh phục nước
Kalinga, trận đánh cuối cùng vua đã tàn sát hàng
chục vạn người, sau đó kéo quân về kinh đô và
giết 99 người anh của mình. Những hành động này
đã làm cho A‟soka nổi tiếng là kẻ bạo tàn
(Candā‟soka: A Dục Vương hung ác).
Sau những chiến thắng hung tàn, A‟soka đã được
một Sa-môn cảm hóa và trao truyền Phật pháp. Từ
đó vua cảm nhận được Phật pháp và đã tỏ ra hối
hận về những hành động bạo tàn của mình.
Trong pháp lệnh số 13, nhà vua đã ghi lại niềm hối
hận ấy như sau: “…Niềm hối hận đã xâm chiếm
lòng kẻ yêu mến của chư thiên69
; kể từ khi chiếm
được Kalinga, sự chinh phục đối với một quốc gia
độc lập, thật ra chỉ là sự sát nhân, sự chết chóc hay
69
Vua A‟soka thường khởi đầu các pháp lệnh bằng
câu: Quốc vương, kẻ yêu mến của chư thiên với cái
nhìn bằng hữu… để tự xưng mình
312 Thích Thái Hòa
là sự quy hàng của thần dân nước đó - ý nghĩa này
đã được cảm nhận sâu xa và đè nặng lên tâm can
người hầu hạ của các thần linh… Tất cả mọi người
(ở đây) đều là nạn nhân của cuồng bạo, của sự sát
nhân, bị chia lìa với những người thân yêu… Cho
dù số người bị chết, số người chết và bị bắt trong
cuộc chiến Kalinga là bao nhiêu đi nữa, số này dù có
nghìn lần hơn, thì cảm nghĩ xót xa ngày nay vẫn đè
nặng lên tâm hồn kẻ yêu mến của chư thiên…”.
Trong bản khắc tìm thấy ở Bhabra, vua A‟soka đã
biểu lộ niềm tin tuyệt đối của mình đối với Phật,
đối với Pháp, đối với Tăng. Vua nói:
“Quốc dân đã biết kính trọng không lường và
niềm tin của ta đối với Phật, đối với Pháp, đối với
Tăng. Những điều đáng nói; đức Điều Ngự Như
Lai đã nói, những gì cần thiết cho Chánh pháp
được hoằng dương, ta xin ghi để nhắc nhở cho
quốc dân”.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 313
Và trong bản pháp lệnh số IV khắc trên núi đá xứ
Girnar, vua A‟soka đã ghi lại những đoạn kinh
Phật dạy để nhắc nhở quốc dân thực hành Phật
Pháp, như sau: “…Chối từ sự sát sanh, hiền hòa
với mọi người, tôn kính các vị Bà-la-môn và tu sĩ,
vâng lời cha mẹ và các bậc phụ lão… Đó là điều
chưa được thực hiện từ bao thế kỷ rồi, vì trong quá
khứ hàng bao thế kỷ qua, sự sát nhân bạo lực,
cưỡng hiếp con người… vẫn không ngừng gia
tăng, và do thiếu đạo đức không thể thực hành
chánh pháp”.
Niềm tin tưởng đối với đức Phật không chỉ được
biểu lộ bởi các vua Ấn Độ, mà chính ngay trong
các vua chúa Trung Hoa, Nhật Bản và Việt
Nam… niềm tin đối với Phật Pháp cũng được các
nhà vua biểu lộ như vậy.
Chẳng hạn, vua Tùy Cao Tổ của Trung Hoa, trong
Thiền Uyển Tập Anh, qua dẫn chứng của Thông
314 Thích Thái Hòa
Biện, vua đã nói với sư Đàm Thiên rằng: “Trẫm
nghĩ tới giáo pháp từ bi của đức Điều Ngự không
biết làm sao để báo đáp, thẹn mình ngồi trên ngôi
vị nhân vương, nên hết sức truyền bá và hộ trì
Tam Bảo, đã cho thâu thập hết di thể Xá lợi mà
dựng lên 49 ngọn tháp ở trong nước để làm nơi
nương tựa cho đời. Ngoài 150 chùa tháp, ta còn
muốn xây thêm các xứ Giao Châu nữa… khiến
cho hết thảy họ đều chứng đắc giác ngộ”.
Không phải chỉ có vua Tùy Cao Tổ mới biểu lộ
niềm tin như thế, mà các vua sau này như vua đời
Đường cũng đã biểu lộ niềm tin ấy.
Ở Nhật Bản, Thánh Đức Thái tử (Shōtoku Taishi),
vào thời Suy Cổ Thiên Hoàng (593 - 622) làm
Nhiếp chính trong triều đình, ông đã mở đầu sự
cải cách và xây dựng quốc gia của ông trong niềm
tin tưởng Phật Pháp.
Trong 17 điều khoản Hiến pháp mà Thánh Đức Thái
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 315
tử soạn ra để xây dựng quốc gia, điều khoản thứ hai
ông quy định: “Phải tin kính Tam bảo là Phật - Pháp
- Tăng. Tam bảo là chỗ quy thú của tứ sanh, chỗ cực
tôn của vạn quốc. Bất cứ đời nào, bất cứ người nào,
hễ thấy Phật Pháp hãy sanh tâm vui mừng, lấy Phật
Pháp giáo hóa nhân dân bỏ ác làm lành. Nếu mọi
người đều quy y, tin kính Tam bảo, thì tất cả những
sự cuồng tranh trở thành trực chánh”.
Trong bộ “Nhật Bổn Khái Thuyết” có lời nhận
định về việc cải cách xây dựng quốc gia của
Thánh Đức Thái tử (Shōtoku Taishi) như sau:
“Ở thời ấy, người có công nhất trong việc cải cách
chính thể quốc gia và khởi xướng phong trào văn
hóa lập quốc là Thánh Đức Thái tử. Thái tử
thường lấy tư tưởng của Phật giáo và Nho giáo
cho hành nghi đạo đức.
Nhân sinh quan và Thế giới quan của hai hệ thống
tư tưởng Đông phương này đã thể hiện hoàn toàn
316 Thích Thái Hòa
trong cá nhân Thái tử. Ngài đã có nhân cách và
đạo đức siêu quần, nên người đời thường xưng là
Thánh Đức Thái tử, hoặc Thánh Vương, Pháp
Vương, Thánh Đức Vương…”.
“Thái tử đã nghiên cứu sâu rộng giáo lý Phật giáo
và đã biên soạn giải thích ba bộ kinh Pháp Hoa,
Duy Ma Cật, và Thắng Man.
Thái tử đã tổ chức những buổi giảng kinh cho
Thiên hoàng và triều đình nghe. Trong những buổi
giảng kinh này, thái tử đã giảng một cách rất
tường tận, thông suốt không khác gì các bậc cao
Tăng cả.
Công đức ủng hộ Phật Pháp của Thánh Đức Thái
tử cũng tương tự như vua Lương Võ Đế ở Trung
Hoa”.
Vào thời đại nhà Lý, các vua chúa Việt Nam há
không do tin Phật và thực hành Phật Pháp mà giữ
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 317
gìn độc lập dân tộc, xậy dựng hạnh phúc cho nhân
dân hơn 200 năm đó sao? Đây là một sự kiện lịch
sử, dù là Phật tử hay không Phật tử, không ai là
không biết như vậy.
Trong cuốn lịch sử Việt Nam của Nhà xuất bản
khoa học xã hội Hà Nội xuất bản năm 1976 có
đoạn viết về thời đại này như sau: “Thời bấy giờ
Phật giáo truyền bá rộng rãi trong mọi tầng lớp
nhân dân và có ảnh hường sâu sắc trong đời sống
xã hội, in rõ dấu ấn trong mọi lãnh vực văn hoá.
Nhà vua và tầng lớp quý tộc rất tôn sùng đạo
Phật… Một số vua nhà Lý như Thái Tông, Thánh
Tông, Cao Tông, Huệ Tông đã từng đi tu…”.70
Vua Thái Tông đời Trần của Việt Nam cũng đã
biểu lộ niềm tin Phật pháp. Trong bài tự “Thiền
Tông Chỉ Nam, vua đã ghi lại sự gặp gỡ giữa vua
và đại sư Trúc Lâm như sau: “Thấy Trẫm, Quốc
70
Sách đã dẫn, q1, tr163.
318 Thích Thái Hòa
sư mừng rỡ, người ung dung bảo Trẫm: Lão tăng
ở chốn sơn lâm đã lâu rồi, xương cứng, mặt gầy,
ăn rau răm, nhai hạt dẻ, uống nước suối, vui cảnh
núi rừng đã quen, lòng nhẹ như đám mây nổi, cho
nên mới theo gió mà đến đây”.
“Nay, Bệ Hạ bỏ địa vị nhân chủ mà nghĩ đến cảnh
quê mùa rừng núi, hẳn là muốn tìm cầu gì đây,
cho nên mới đến phải không?”.
“Trẫm nghe Thầy hỏi, hai hàng nước mắt ứa ra,
liền thưa với Thầy rằng: Trẫm còn thơ ấu đã sớm
mất mẹ cha, chơ vơ đứng trên sĩ dân, không có nơi
nào để nương tựa”.
“Lại nghĩ rằng, sự nghiệp Đế Vương đời trước
hưng phế bất thường, cho nên Trẫm mới vào đây,
chỉ muốn cầu thành Phật, chứ chẳng muốn tìm gì
khác…”.
“Thầy đáp: Trong núi vốn không có Phật, Phật ở
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 319
trong tâm ta. Nếu tâm lắng lại và trí tuệ xuất hiện
thì đó chính là Phật”.
“Nếu Bệ Hạ giác ngộ được tâm ấy, thì tức khắc
thành Phật ngay tại chỗ, không cần phải đi tìm cực
khổ ở bên ngoài…”.
“Nghe lời quốc sư, Trẫm cùng với triều đình về
kinh đô, miễn cưỡng mà lên ngôi vua.
Trong khoảng mười năm, mỗi khi có cơ hội nhàn
rỗi, lại triệu tập các bậc kỳ đức để tham vấn đạo
thiền.
Các kinh điển của những hệ thống giáo lý lớn,
không có kinh nào là không nghiên cứu. Trẫm
thường đọc kinh Kim Cang, một hôm đọc đên câu
“Ưng vô sở trú nhi sanh kỳ tâm”, buông kinh
xuống chiêm nghiệm, bỗng hoát nhiên tự ngộ, bèn
đem chỗ giác ngộ ấy viết thành những lời ca sau
đây đặt tên là Thiền Tông Chỉ Nam”.
320 Thích Thái Hòa
Và trong Khóa Hư Lục, những bài kệ Chí tâm tùy
hỷ, Chí tâm hồi hướng, vua Trần Thái Tông đã
cảm thán đối với Phật Pháp như sau:
“Ngã kim tùy Phật sanh hoan hỷ,
Hôn hiểu kiền thành lễ sám nhân,
Thập địa giai thê nguyện tảo đăng,
Bồ-đề chơn tâm vô thoái chuyển”.
Dịch:
“Nay con sung sướng nương theo Phật
Sớm chiều tha thiết sám lỗi xưa
Thềm thang Thập địa mong lên sớm
Giác ngộ chơn tâm vĩnh viễn về”.
“Ngã đẳng hồi tâm quy Thánh chúng
Ân cần đầu địa lễ Từ Tôn
Nguyện tương công đức cập quần sanh
Đẳng thử thắng nhơn thành chánh giác”.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 321
Dịch:
“Chúng con trở về nương Thánh chúng
Thiết tha kính lễ đấng Từ Tôn
Phước đức hồi hướng khắp sinh loại
Tu tập thắng nhân Phật đạo thành”.
Trong Khóa Hư Lục, vua còn khuyên dân và dạy
dân thực hành năm điều giới cấm của đạo Phật để
đem lại hạnh phúc cho chính mình và mọi người.
Không phải chỉ có Trần Thái Tông biểu lộ niềm
tin đối với Phật Pháp, mà ngay cả Trần Thánh
Tông, Trần Nhân Tông… cũng như vậy.
Trần Nhân Tông khi còn làm Thái tử, cũng đã một
lần vượt thành xuất gia học đạo. Sách Tam Tổ
Thực Lục viết “Một đêm vào giờ Tý, vua vượt
thành mà đi, muốn vào núi Yên Tử, đến chùa ở
núi Đông Cứu thì trời vừa sáng, liền vào ẩn trong
tháp. Vị Tăng trú trì thấy tướng mạo dị thường
322 Thích Thái Hòa
liền đem thức ăn khoáng đãi. Hôm ấy, Thái hậu và
vua Thánh Tôn sai quần thần đi tìm tứ tán, bất đắc
dĩ, vua phải về. Khi lên ngôi vua, tuy ngồi trên
chín bệ vinh quang nhưng sinh hoạt rất thanh
tịnh…”.
Sau khi lên ngôi vua, ngoài việc chăm sóc dân,
vua thường lui tới học đạo với Tuệ Trung Thượng
Sĩ. Sau mười bốn năm làm vua, tám năm làm Thái
Thượng Hoàng, vua đã giữ gìn nền độc lập của
dân tộc, giao hảo và duy trì nền hòa bình đối với
các quốc gia láng giềng, khuyên dạy nhân dân
thực hành Thập thiện.
Nhận xét về vua Trần Nhân Tông, tác giả Đại Việt
Sử Ký Toàn Thư viết: “Vua được tinh anh của
Thánh nhân, đạo mạo thuần túy, nhan sắc như
vàng, thể chất hoàn toàn, thần khí tươi sáng… Ở
ngôi vua mười bốn năm, xuất gia mười tám năm,
thọ năm mươi mốt tuổi, băng hà ở Am Ngọa Vân
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 323
núi Yên Tử. Hòa nhã cố kết lòng dân, sự nghiệp
phục hưng làm vẻ vang đời trước, thực là vua hiền
của nhà Trần.
Song vui lòng ở kinh Phật, tuy bảo là đến siêu
thoát, nhưng không là đạo trung dung của Thánh
nhân.”71
Và sử gia Ngô Sĩ Liên nói: “Trên từ cung tỏ rõ
đạo hiếu, dưới dùng người hiền lập nên võ công,
nếu không phải là bậc Nhân minh Anh vũ thì sao
được như thế?”.
Ở đây, chúng tôi chỉ nêu lên một số quốc gia và
một số vua chúa tiêu biểu mà thôi. Chứ thật ra đã
có biết bao nhiêu nhà vua khác của các quốc gia
Thái lan, Tích lan, Miến Điện… họ đã tin tưởng
và nương tựa đức Phật cũng như giáo lý của Ngài
để xây dựng hạnh phúc cho chính họ và cho nhân
dân mà họ đang trị vì, sống trong hạnh phúc an lạc
71
Đạo trung dung ý chỉ cho giáo lý của Khổng-Mạnh
324 Thích Thái Hòa
và thịnh cường.
Đọc lịch sử nhân loại, há ai mà không thấy điều
đó?
Nếu tin tưởng và nương tựa ở nơi đức Phật để rồi
trở thành yếu đuối, không ý chí, thiếu hy sinh…
điều đó cũng không hề tìm thấy nơi những ai đã
từng tin tưởng và nương tựa ở đức Phật.
Trái lại, do tin tưởng và nương tựa đức Phật mà
ngài A-nan đã phát khởi đại nguyện phụng sự
chúng sanh bằng cách: “Thế giới đầy dẫy năm sự
nhơ bẩn sai lầm(X)
, con xin bước vào trước hết để
hóa độ; nếu trong đó có một chúng sanh nào chưa
thành Phật thì con nhất định chưa nhận lấy Niết
bàn”.
Và Thắng Man Phu nhân nói: “Bạch Thế Tôn, kể
từ hôm nay cho đến lúc thành tựu Bồ-đề, nếu gặp
những ai cô độc, bị cột trói, sống trong tăm tối, tật
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 325
bệnh đủ mọi thứ ách nạn, khốn khổ; đối với những
hạng người như thế, con không bao giờ rời bỏ, dù
chỉ trong chốc lát. Trái lại, con phải làm sao cho
họ được an ổn, bằng nghĩa lợi, bằng sự nhiêu ích,
khiến cho họ thoát mọi thống khổ rồi sau đó mới
rời bỏ”.72
Không những chỉ có Tôn giả A-nan, Thắng Man
Phu nhân, mà đã có biết bao nhiêu Bồ tát khác đã
phát lời thề nguyện và đã hành động như thế, đã
cảm nhận những khổ đau trước những khổ đau của
chúng sanh, và nếu có vui là vui sau khi đã thấy
chúng sanh an lạc.
Và đọc lịch sử Phật giáo Việt Nam cận đại, chúng
ta đã thấy, nhờ tin tưởng và nương tựa ở đức Phật,
mà các ngài Thích Quảng Đức, Thích Thiện Mỹ,
Thích Thanh Tuệ,… và biết bao ngọn lửa và ý chí
đại hùng đã bừng lên để bảo vệ niềm tin bất hoại
72
Thắng Man kinh, tr217, Đại Chính12
326 Thích Thái Hòa
của mình đối với Phật Pháp.
Đức Phật, Ngài có khả năng bảo toàn mọi sự tin
tưởng cho những ai đã đến với Ngài, vì Ngài đã
thành tựu các phẩm tính giác ngộ. Và do thành tựu
các phẩm tính giác ngộ ấy, nên Ngài đã trở thành
Đấng Toàn Trí và Toàn Thiện, đã trở thành tinh
hoa kỳ diệu của thế giới nhân loại và Ngài đã
được sự tôn kính của mọi người. Ở trong cuốn
Gautama The Buddha, Sri Radhakrishman đã viết:
“Nơi đức Phật Cồ Đàm, ta nhận thấy một tinh hoa
toàn thiện của phương Đông. Ảnh hưởng Người
trong tư tưởng và đời sống nhân loại là một kỳ
công hy hữu. Cho đến nay, không thua kém ảnh
hưởng của bất cứ vị giáo chủ nào trong lịch sử.
Mọi người đều sùng kính, tôn Ngài là người đã
dựng nên một hệ thống Tôn giáo vô cùng thâm
cao huyền diệu. Ngài thuộc về lịch sử tư tưởng thế
giới, Ngài là kết tinh của người Thiện trí, bởi vì,
đứng về phương diện trí thức thuần túy, đạo đức
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 327
trang nghiêm và tinh thần minh mẫn, chắc chắn
Ngài là một bậc trong những bậc vĩ nhân cao
thượng nhất của lịch sử”.73
Sự tin tưởng và nương tựa nơi đức Phật, không
phải chỉ thuần để mà tin tưởng, nương tựa, mà
chính phải biến sự tin tưởng và nương tựa ấy trở
thành những hoạt dụng thực tiễn nữa. Tức là phải
biến niềm tin trở thành những hành động hữu ích
cho sự giác ngộ và biến sự nương tựa ấy thành sự
nương tựa ở nơi chính mình.
Tin tưởng và nương tựa ở nơi chính mình là tin
tưởng và nương tựa vào khả năng hiện có của
mình để vươn tới, để đi lên trong chiều hướng giác
ngộ. Tin tưởng vào khả năng giác ngộ của đức
Phật là chính ở nơi tự Ngài, thì cũng vậy, chúng ta
phải tin tưởng khả năng giác ngộ của chúng ta
chính là ở nơi chúng ta. Chúng ta có thể trở thành
73 Gautama The Buddha P.I.
328 Thích Thái Hòa
những gì đức Phật đã trở thành, chúng ta cũng có
thể đạt được những gì đức Phật đã đạt được. Đây
là niềm tin tối thượng mà đức Phật rất mong muốn
những đệ tử của Ngài ý thức và tin tưởng như vậy.
Có được niềm tin như thế, chúng ta mới có thể học
Đạo, tu Đạo và hành Đạo, chúng ta mới có thể
vượt qua những trở ngại đang thách thức với
chúng ta. Và chúng ta mới có thể phát nguyện
được rằng: “Dù bản thể của hư không có tan vỡ đi
nữa, thì niềm tin tưởng kiên cố ở nơi đức Phật của
chúng ta vẫn không hề chuyển động”.
Chính đó mới là Niềm Tin Bất Hoại của người đệ
tử đối với đức Thế Tôn.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 329
PHẦN CHÚ THÍCH
(A) Theo Phương Quảng Đại Trang Nghiêm Kinh,
cuốn 10, trang 600 - 601, Đại chính 3, ghi lại sự
kiện bảy tuần sau khi đức Thế Tôn thành đạo có
khác so với Phật Bản Hạnh Tập Kinh.
Do đó, tôi dẫn ra đây, để giúp cho những ai cần
nghiên cứu.
- Tuần thứ nhất: Đức Thế Tôn ngồi yên lắng tiếp
tục quán chiếu để đoạn trừ nhân duyên của sinh -
lão - bệnh - tử từ vô thỉ cho đến vô chung. Và sau
đó quán chiếu cây Pippāla .
- Tuần thứ hai: Đức Thế Tôn đi kinh hành chung
quanh cây Pippāla và quán chiếu đến lằn mức biên
cương của Tam thiên đại thiên thế giới.
- Tuần thứ ba: Đức Thế Tôn tiếp tục quán chiếu
330 Thích Thái Hòa
cây Pippāla và nói: “Chính nơi này ta đoạn trừ
sinh tử và chứng đắc A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam-
bồ-đề.
- Tuần thứ tư: Đức Thế Tôn đi kinh hành gần cây
Pippāla và quán chiếu lằn mức biên cương của
biển cả.
Bấy giờ Ma Vương đến cung thỉnh đức Thế Tôn
nhập Niết bàn đến ba lần, nhưng chúng đã bị đức
Thế Tôn từ chối.
- Tuần thứ năm: Đức Thế Tôn đang nhập định thì
trời mưa gió, sấm sét, bão bùng, bấy giờ Mục
Chân Lân Đà Long Vương hiện ra quấn nơi thân
của đức Thế Tôn bảy vòng để hộ trì.
- Tuần thứ sáu: Đức Thế Tôn đến ngồi dưới cây
Ni-câu-đà, gần bờ sông Ni Liên Thuyền, sau đó
Ngài đã trả lời những câu hỏi của ngoại đạo, bằng
bài kệ:
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 331
Lắng yên mà biết đủ
Suy tư chứng ngộ pháp
Ích lợi cho chúng sanh
Từ bi thương tất cả
Lìa xa các tội lỗi
Không mắc kẹt thế gian
Đoạn dứt tâm ngã mạn
Hạnh phúc ấy hơn cả.
- Tuần thứ bảy: Đức Thế Tôn đến ngồi tại rừng
Tāyanamūla và quán chiếu sự khổ đau của hết
thảy chúng sanh.
Ngài nói bài kệ:
Chúng sanh ở trong đời
Luôn bị năm dục đốt
Do ái làm tăng thượng
Tư duy bỏ khát ái.
332 Thích Thái Hòa
(B) 12 bộ kinh gồm:
1. Sūtra-sutta: Hán chuyển âm là Tu-đa-la và dịch
là Khế kinh, nghĩa là kinh được đức Phật thuyết
giảng. Nó phù hợp với chân lý, với mọi thời đại,
mọi không gian và mọi trình độ của chúng sanh.
Sūtra (tu-đa-la) còn có nghĩa là Trường hàng, tức
là loại kinh được đức Phật diễn tả theo lối văn
xuôi.
Theo kinh Đại Bát Niết bàn, Tu-đa-la là bao gồm
những ý nghĩa của kinh từ phần mở đầu “Như thị
ngã văn” cho đến phần kết thúc “Hoan hỷ phụng
hành” đều gọi là Tu-đa-la (Sūtra = kinh).74
2. Geyya = Geya: Hán chuyển âm là Kỳ-dạ và
dịch nghĩa là Trùng tụng, tức là lối văn trùng thuật
lại những ý nghĩa của văn trường hàng nói trên.
Lối văn này thường dùng bốn câu làm một bài,
trong đó có khi 4 chữ, 5 chữ, 7 chữ hoặc 8 chữ.
74
Đại Bát Niết bàn kinh, q15, tr451b, Đại Chính12
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 333
3. Veyya karama: Hán chuyển âm là Hòa-già-la và
dịch là Thọ ký, tức là loại kinh mà đức Phật chứng
nhận cho hàng đệ tử Thanh văn, Bồ tát sẽ được
làm Phật trong tương lai, gồm y báo và chánh báo
của họ. Chẳng hạn như các kinh: Gandavyūha
(Hoa Nghiêm) hay Saddhar-mapundarika (Diệu
Pháp Liên Hoa)…
4. Gāthà: Hán chuyển âm là Già-đà và dịch nghĩa là
Phúng tụng hoặc Cô khỉ, tức là loại kinh được diễn
tả bằng những kệ tụng và mỗi kệ tụng gồm có 4 câu.
Loại Gāthā này, không phải như loại Gāthā dùng để
trùng tụng lại trường hàng, mà nó được hình thành
ngay từng bài kệ tự lập của chính nó mà thôi.
5. Udāna: Hán chuyển âm là Ưu-đà-na và dịch là
Tự thuyết hoặc Vô vấn tự thuyết. Nghĩa là kinh do
đức Phật xét đúng thời điểm, đúng căn cơ, Ngài tự
tuyên nói, giảng dạy, không có sự thưa thỉnh của
các hàng đệ tử.
334 Thích Thái Hòa
6. Nidāna: Hán chuyển âm là Ni-đà-na và dịch
nghĩa là Nhân duyên, tức là những kinh nói về sự
gặp gỡ, nghe pháp, giáo hóa giữa Phật Thích Ca
với chư Phật quá khứ, giữa những hàng đệ tử và
túc duyên của họ. Đồng thời cũng là các kinh mà
đức Phật nói về sự duyên khởi của tất cả pháp…
7. Avadāna: Hán chuyển âm là A-ba-đà-na và dịch
nghĩa là Thí dụ. Giáo pháp được đức Phật trình
bày, giáo pháp ấy có khi rất sâu thẳm, siêu việt, vi
diệu, người nghe khó tiếp thu nổi, đức Phật liền
dùng những ví dụ cụ thể để nhờ đó mà người nghe
có thể lãnh hội, tiếp thu được.
8. Itiruttaka: Hán chuyển âm là Y-đế-mục-đa-già
và dịch là Bổn sự, tức là loại kinh nói về sự tu
nhân của đức Phật cũng như các hàng đệ tử của
Ngài.
9. Jātaka: Hán chuyển âm là Xà-đà-già và dịch
nghĩa là Bổn sanh, tức là loại kinh nói về quãng
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 335
đời quá khứ, khi đức Phật còn thực hành Bồ tát
đạo, đồng thời cũng nói về tiền thân thực hành
nghĩa thiện của các hàng Bồ tát và đệ tử của Ngài.
Theo luận sư Buddhaghoṣa thì Jātaka gồm có 550
mẫu chuyện.
10. Vedalla: Hán chuyển âm là Tỳ-phật-lược và
dịch là Phương quảng, tức là loại kinh hàm chứa
những nghĩa lý sâu rộng. Phương quảng, kinh Đại
Bát Niết bàn giải thích là những kinh điển Đại
thừa có ý nghĩa rộng lớn như hư không.
11. Abbhutadharma: Hán chuyển âm là A-tỳ-đạt-
ma và dịch là Vị tằng hữu, nghĩa là loại kinh văn
ghi lại những thần lực bất khả tư nghị của đức
Phật trong khi thuyết pháp và giáo hóa. Đây là loại
kinh có thể nói là vượt ra ngoài giới hạn suy luận
và trí tưởng của con người.
12. Upade‟sa: Hán chuyển âm là Ưu-bà-đề-xá và
dịch là Luận nghị, nghĩa là loại kinh văn có tính
336 Thích Thái Hòa
cách biện luận và vấn đáp, một đôi khi Upade‟sa
còn có nghĩa là bí mật nữa.
Trong mười hai thể loại kinh như đã phân tích ở
trên, có ba loại là Sūtra, Geyya và Gāthā có thể là
phần chính của kinh, và các kinh phần nhiều
thường sử dụng thể văn này.
Ở trong tập “Aspects of mahàyana Buddhism and
its relation to Hìnayàna Buddhism” học giả N.Dutt
nói: “…Trong một bài kinh Sutta hay Suttanta, có
thể có từng đoạn có thể xem là một Sutta, một
Geyya, một Gāthā, một Udāna, một
Veyyākaranā…”.
Sự phân chia kinh có mười hai thể loại như đã
được đề cập ở trên, không phải chỉ thuần của luận
sư Buddhaghoṣa và các luận sư Đại thừa khác mà
chính nó đã được đề khởi từ các trường phái Căn
Bản Nhất Thiết Hữu Bộ và Đại Chúng Bộ.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 337
Ở trong Thập Trụ Tỳ Bà Sa75
chỉ đề cập có chín kinh:
1. Tu-đa-la (Sutta)
2. Kỳ Dạ (Geyya)
3. Thọ Ký (Veyyā Karanā)
4. Già Đà (Gāthā)
5. Ưu Đà Na (Udāna)
6. Ni Đà Na (Nidāna)
7. Tỳ Phật Lược (Vedalla)
8. Vị Tằng Hữu (Abbhutadharma)
9. Luận Nghị (Upadésa)
Sự phân chia 9 thể loại kinh này, các kinh và luận
có sự sắp xếp và định loại có một đôi thành phần
sai biệt nhau. Chẳng hạn, kinh Pháp Hoa, phẩm
75
Thập Trụ Tỳ Bà Sa q9, tr69b, Đại Chính26.
338 Thích Thái Hòa
Phương Tiện, thì phân loại kinh gồm có 9 thể loại
nhưng sự sắp xếp lại là:
1. Tu-đa-la (Khế kinh)
2. Già Đà (Cô khởi)
3. Y Mục Đế Đà Già (Bổn sự)
4. Xà Đà Già (Bổn sanh)
5. A Tỳ Đạt Ma (Vị tằng hữu)
6. Ni Đà Na (Nhân duyên)
7. A Ba Đà Na (Thí dụ)
8. Kỳ Dạ (Trường tụng)
9. Ưu Ba Đề Xá (Luận nghị)
Sở dĩ có sự sai biệt này có lẽ do tư liệu tìm được
qua các thời kỳ hình thành kinh tạng Phật giáo có
khác nhau. Và một số tư liệu sắp xếp không đồng
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 339
nhau, nên đã có những sự phân loại khác nhau đó
là điều tất yếu phải xảy ra, và thực sự nó đã xảy ra
khá nhiều trong kinh luận Phật giáo.
(C) Mười một Pháp Không
Tất cả pháp là duyên sinh nên không có tự thể, vì
không có tự thể nên không thật có, vì không thật
có, cho nên gọi là Không (‟sunyatā). Không, theo
kinh Đại Bát Niết bàn gồm có 11 pháp không mà
Bồ tát phải thường quán sát.
1. Nội Không: tức là quán sát các pháp ở nội tại,
không có tự thể, pháp tự nó không có cái được gọi
là cha, là mẹ, là oán, là thân, là chúng sanh, là thọ
mạng… Pháp Nội Không, tuy có Phật tính nhưng
Phật tính ấy vượt khỏi giới hạn của nội và ngoại…
Bồ tát thường quán sát như thế gọi là quán sát Nội
Không.
2. Ngoại Không: tức là quán sát thế giới khách
340 Thích Thái Hòa
quan không có tự thể, vì nó chỉ có duyên sinh nên
vô thường, nó liên tục biến chuyển, liên tục trở
thành và liên tục hủy diệt, vì thế mà gọi là Ngoại
Không. Bồ tát thường quán sát như thế gọi là quán
sát Ngoại Không.
3. Nội Ngoại Không: tức là cả thế giới nội tại lẫn
thế giới ngoại tại cả hai đều không có thực thể
nhất định. Bồ tát thường tu tập quán sát như thế
gọi là quán sát Nội Ngoại Không.
4. Hữu Vi Không: nghĩa là tất cả những pháp gì
được tạo thành bởi tâm, ý và thức, pháp ấy đều là
vô thường, là khổ, là vô ngã, là không có tự thể, vì
thế nên gọi là hữu vi không. Bồ tát thường tu tập
quán sát như thế gọi là quán sát Hữu Vi Không.
5. Vô Vi Không: tức là pháp không do sự tác
thành bởi tâm, ý và thức giống như ngũ ấm, 12 xứ,
18 giới… mà nó là Vô Vi Không, nghĩa là tự thân
của các pháp là không, vì thế gọi là Vô Vi Không.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 341
Bồ tát thường quán sát như thế gọi là quán sát Vô
Vi Không.
6. Vô Thỉ Không: tất cả các pháp vốn là duyên
khởi, đã là duyên khởi thì không có sự khởi điểm
đầu tiên và không có sự kết thúc cuối cùng. Tất cả
pháp vận hành trong một nguyên lý duyên khởi vô
tận, do đó không bao giờ có khởi điểm. Sở dĩ
không có khởi điểm là duyên sinh. Vì duyên sinh
cho nên là Không, vì Không cho nên không có
khởi điểm. Do các pháp là không có khởi điểm
nên gọi các pháp là Vô Thỉ Không.
Kinh Đại Bát Niết bàn nói: “Bồ tát chiêm nghiệm
thấy vô thỉ của sinh tử đều là không tịch… và
quán sát vô thỉ không ở nơi chúng sanh như thọ
mạng, Tam bảo và Pháp vô vi.76
7. Tánh Không: tức là phẩm tính của tất cả các
pháp là không, như kinh Đại Bát Niết bàn nói:
76
Đại Bát Niết bàn kinh q16, tr461b, Đại Chính12.
342 Thích Thái Hòa
“Đại Bồ tát chiêm nghiệm tất cả các pháp, bản
tính của nó là không. Nghĩa là ngũ ấm, 12 nhập,
18 giới, vô thường, khổ, vui, tịnh, bất tịnh, ngã, vô
ngã… quán sát hết thảy pháp như thế mà vẫn
không tìm thấy được bản tính của nó. Vì thế gọi
Bồ tát quán sát tánh không”.77
8. Vô Sở Hữu Không: hoàn toàn không có sở hữu,
nên gọi là Không, cũng giống như người không có
con thì bảo rằng nhà bị trống không, rồi nhìn thấy
không hoàn toàn, vì không có chỗ để thân ái. Vậy
Vô Sở Hữu Không tức là hoàn toàn không còn có
sở hữu, nên gọi là Không.
9. Đệ Nhất Nghĩa Không: tức là ý nghĩa của
Không vượt ra ngoài có và không của song quán
luận, nhị nguyên luận. Không đây là không của
Chơn không, của Trung Đạo. Kinh Đại Bát Niết bàn
nói: “Có tạo tác thì ắt phải có kết quả, nhưng trong
77
Kinh đã dẫn, tr461c
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 343
đó không thể tìm thấy tác giả. Pháp không với ý
nghĩa như vậy, nên gọi là đệ nhất nghĩa Không.
10. Không Không: tất cả pháp đều là Không, ý
niệm về cái Không ấy cũng Không nốt, vì thế mà
gọi là Không Không. Lại nữa, hữu cũng Không,
vô cũng Không, thị cũng Không, phi thị cũng
không. Vì thế mà gọi là Không Không. Ở trong
kinh Đại Bát Niết bàn nói rằng: “Như vậy, Không
Không, nó không đồng với sự chứng đắc về
Không Không Tam Muội của các hàng Thánh giả
Thanh văn, Bồ tát tu tập về ý nghĩa của không là
như vậy, nên gọi là Không Không”.
11. Đại Không: tức là Không, nó có ý nghĩa rộng
lớn bình đẳng như hư không, không có giới hạn.
Kinh Đại Bát Niết bàn gọi Đại Không là Bát-nhã
Ba-la-mật (Prajñāparamita). Đại Bồ tát thành tựu
được không môn như vậy, thời đạt được “Địa Vị
Bình Đẳng Như Hư Không”. Bồ tát khi đạt được
344 Thích Thái Hòa
địa vị này rồi, thời ở trong các pháp không bị trở
ngại, ràng buộc, tâm lý không còn có sự sai lầm.
Do ý nghĩa ấy mà gọi là “Địa Vị Bình Đẳng Như
Hư Không” (Hư Không Đẳng Địa).
Lại nữa, Đại Không là cái Không rất rộng lớn, có
khả năng dung nhiếp tất cả pháp. Nên Bồ tát tu tập
Đại Không là tu về sự dung nhiếp hết tất cả các
pháp mà trong đó tâm hoàn toàn không bị đối ngại
bởi ái và phi ái, bởi ố và phi ố, bởi sắc và phi sắc.
(D) Tam thừa (Triyānā): gồm có Thanh văn thừa
(‟Sravakayāna), Duyên giác thừa (Praty-
ekabuddha); Bồ tát thừa (Bodhisattva-yāna).
a. Thanh văn thừa là do sự tu tập Tứ Thánh Đế
hiện quán, thành tựu được Tứ Thánh quả. Và quả
vị tối thượng của thừa này là A-la-hán.
b. Duyên giác thừa là do tu tập quán sát về pháp
duyên khởi, nhất là Thập nhị duyên khởi mà thành
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 345
tựu sự giác ngộ. Quả vị tối thượng của thừa này là
Bích Chi Phật hay còn gọi là Độc Giác Phật.
c. Bồ tát Thừa là tu tập thực hành Lục Độ Vạn
Hạnh, còn gọi là Lục Ba-la-mật. Quả vị tối thượng
của thừa này là Nhất Thừa, Phật Thừa hay còn gọi
là quả vị Vô thượng Bồ-đề (Phật).
(E) Pháp Tướng (Dharmalakṣana): nghĩa là hình
thái của pháp.
(F) A-la-hán: ở trong các kinh tạng Pāli thường
viết là Arhat và ở trong tạng Sanskrit thì viết dưới
những hình thức như Arhanta, Arahanta và lối
viết sau cùng là Arihanta có nghĩa là người đã giết
hại được kẻ thù.
Ở trong tạng Hōgō thì viết dưới hình thức Arhari.
Sở dĩ có nhiều cách viết khác nhau như thế, đó chỉ
là đánh dấu từng thời kỳ phát triển của văn học
Phật giáo mà thôi. Các kinh tạng như Tây Tạng
346 Thích Thái Hòa
(Tibet), Mông Cổ (Mongdia), Hán (China), Nhật
Bản (Japanese) đều đồng ý các chữ trên với ý
nghĩa căn bản của nó, là người đã tiêu diệt kẻ thù.
(G) Hai loại khổ hoặc: gồm có kiến hoặc và tư hoặc.
a. Kiến hoặc: tức là sự sai lầm của nhận thức mà
vai trò chủ yếu là ý và tư tưởng.
b. Tư hoặc: là sự sai lầm của tâm, vai trò chủ yếu
của nó là ý chí (cettana).
Kiến hoặc và Tư hoặc là động cơ khiến chúng
sanh thực hiện những hành động sai lầm của thân,
khẩu, ý rồi hứng lấy hậu quả khổ đau của cuộc
sống. Vì vậy mà gọi là hai loại khổ hoặc.
(H) Bốn loại ma
a. Phiền não ma: ma thuộc về phiền não, loại ma
này làm trở ngại sự thực hiện giác ngộ và Niết
bàn.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 347
b. Ngũ ấm ma: ma thuộc về ngũ ấm, nghĩa là
sắc, thọ, tưởng, hành, thức chúng có thể dấy động
và xung khắc nhau, tạo thành những khổ não, trở
ngại sự thực hiện giác ngộ và Niết bàn.
c. Tử ma: ma thuộc về sự hủy diệt. Sự hủy diệt
thường làm cho con người khiếp hãi, không an ổn,
không đạt được sự hạnh phúc của Niết bàn.
d. Thiên ma, hay còn gọi là Tha Hóa Tự Tại
Thiên Tử Ma, là loại ma có thế lực điều động và
quyến rũ chúng sanh làm ác.
(I) Mười pháp vô học
1. Vô học chánh kiến
2. Vô học chánh tư duy
3. Vô học chánh ngữ
4. Vô học chánh nghiệp
5. Vô học chánh mạng
348 Thích Thái Hòa
6. Vô học chánh niệm
7. Vô học chánh định
8. Vô học chánh tinh tấn
9. Vô học chánh trí
10. Vô học chánh giải thoát
(J) Bốn Sự Điên Đảo: tức là bốn sự nhận thức
sai lầm như:
- Vô thường cho là thường; thường cho là vô
thường.
- Khổ cho là vui; vui cho là khổ.
- Vô ngã cho là ngã; ngã cho là vô ngã (không
tự tại cho là tự tại; tự tại cho là không tự tại).
- Bất tịnh mà cho là tịnh; tịnh cho là bất tịnh.
(K) Ngũ ấm: gồm có sắc, thọ, tưởng, hành và thức.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 349
(L) 12 Nhập: gồm có 6 căn hòa nhập với 6 trần;
sáu căn gồm có: nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt
căn, thân căn và ý căn. Sáu trần gồm có sắc, thanh,
hương, vị, xúc và pháp. Sáu căn và sáu trần này
hội nhập với nhau nên gọi là thập nhị nhập hay
thập nhị xứ.
(M) Mười tám giới: gồm có sáu căn, sáu trần và
sáu thức.
Căn và trần làm điều kiện để sinh khởi sáu thức:
nhãn thức, nhĩ thức,… Nói căn trần hội nhập với
nhau rồi sinh khởi thức, đó là nói theo sự hiểu biết
bình thường tương đối, có thứ tự thời gian, chứ
nói cho rốt ráo, cho hoàn chỉnh thì căn, trần và
thức, cả ba đều đồng khởi, đều đồng sinh và đồng
diệt. Không có cái nào sinh trước cái nào, mà cũng
không có cái nào diệt trước cái nào, khi nào hội đủ
duyên thì nó liền sinh, khi nào các duyên thiếu
vắng thì nó liền diệt. Chỉ rốt ráo ở điểm này và
350 Thích Thái Hòa
chính ngay ở điểm này mà thôi.
(N) Tính chất y tha khởi
Nói theo nguyên bản Hán dịch là y tha khởi tính,
nguyên Sanskrit là Paratanttara, có nghĩa là sự
sinh khởi, sự phát hiện phải có điều kiện, nghĩa là
phải có điều kiện mới sinh khởi được.
Tính chất Viên thành thật tính, nguyên Sanskrit là
Pariniṣhpanna có nghĩa là tính viên mãn như thật,
tính này tự thân nó là nó, nó vượt ngoài sự sinh
thành và hủy diệt, nó vượt ngoài ngôn ngữ và khái
niệm. Nhưng bất cứ ai muốn khái niệm về nó thì
cứ khái niệm, mà tự thân nó thì không còn khái
niệm. Nó là siêu niệm.
(O) Thiện là cao thượng
Nguyên bản Hán là “thiện giả cao danh”; thiện là
tên gọi cao quý.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 351
(P) Thệ là bình đẳng
Nguyên bản Hán là “thệ danh bất cao”; theo nghĩa
đen thì phải dịch là “thệ” gọi là không cao. Nếu
dịch theo nghĩa đen, tôi sợ có sự hiểu lầm câu giải
thích tiếp sau “bất cao giả tức Như Lai tâm giả” do
đó tôi đã dịch bất cao là “bình đẳng” để cho ý
nghĩa có thể cảm nhận rõ ràng hơn. Vậy, tôi đã
dịch câu ấy “Bình đẳng là tâm của Như Lai vậy”.
(Q) Ngũ dục: gồm có tài, danh, sắc, thực, thụy.
a. Tài: tiền tài, của cải…
b. Sắc: những sắc tướng xinh đẹp…
c. Danh: danh tiếng, địa vị,…
d. Thực: ăn uống hưởng thụ.
e. Thụy: ngủ nghỉ…
Có những nơi giải thích ngũ dục là sắc, thanh,
hương, vị, xúc.
352 Thích Thái Hòa
Các loại ngũ dục này thường dẫn dắt chúng sanh
đến nơi sa đọa đau khổ. Do muốn hưởng thụ các
dục này mà con người lắm lúc đã phản bội nhau,
sống với nhau một cách tán tận lương tâm và
lương tri.
Kinh Niết bàn nói: “Người đam mê ngũ dục ví
như chó gặm xương khô, như kẻ cầm lửa đi ngược
gió, như nuôi rắn độc trong nhà, như người được
của trong giấc mộng, như cây ở giữa đường có trái
bị nhiều người giựt hái, như khúc thịt mà bầy
chim tranh ăn, như dấu vẽ trên mặt nước,…”.
Vậy, ngũ dục và đam mê ngũ dục thường làm trở
ngại con người trong chiều hướng đi đến giải thoát
và giác ngộ.
(R) A tăng kỳ thế giới
Phạn ngữ là Asamkhyaloka. A có nghĩa là vô;
samkhya có nghĩa là số; loka có nghĩa là thế giới.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 353
Vậy, A tăng kỳ thế giới hay Asamkhyaloka có
nghĩa là vô số thế giới, thế giới nhiều đến nỗi vượt
ngoài số hạn của toán học….
(S) Tám pháp thế gian
Tám pháp của thế gian còn gọi là Bát phong, tức
là tám ngọn gió của thế gian thường nổi lên làm
lay động tâm và hoàn cảnh của người đời. Tám
ngọn gió ấy gồm có: lợi, ái, hủy, dự, xưng, cơ, khổ
và lạc.
(T) Năm sinh thú
Còn gọi là Ngũ thú, hoặc Ngũ đạo, tức là năm con
đường sinh tử luân hồi của chúng sanh.
1. Địa ngục đạo: là con đường hoặc sinh loại sống
bằng đời sống bị tra tấn, hành hạ, ép buộc, hoàn
toàn mất tự do, sống hoàn toàn trong đau khổ.
2. Ngạ quỷ đạo: là con đường hoặc sinh loại sống
354 Thích Thái Hòa
bằng đời sống nghèo hụt kinh tế, sống với sự đói
khát, thiếu thốn cả vật chất lẫn tinh thần.
3. Súc sinh đạo: là con đường hoặc sinh loại sống
hoàn toàn theo bản năng, thiếu nhận thức, thiếu trí
tuệ, thiếu học hỏi…
4. Nhân đạo: là con đường hoặc sinh loại sống có
biết suy nghĩ, có biết phân biệt, có nhân cách… và
có thể có sự tiến bộ từ đời sống vật chất đến đời
sống tinh thần.
5. Thiên đạo: là con đường hoặc sinh loại có đời
sống và sự sinh hoạt cao hơn cõi người, chúng có
phước báo, có trí tuệ, có ánh sáng, vui nhiều buồn
ít.
Năm con đường hoặc năm sinh loại này không
phải đâu xa lạ: chính nó hiện hữu trong mỗi một
người chúng ta. Khi nào tâm hồn của chúng ta bị
khổ não, chúng ta không tự do hoàn toàn thì đó
chính là sự sinh hoạt của thế giới địa ngục. Khi
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 355
nào tâm hồn của chúng ta đê tiện, tham cầu không
biết đủ thì khi đó chúng ta đang sinh hoạt với thế
giới ngạ quỷ hay chúng ta đang đi con đường của
ngạ quỷ đi. Khi nào tâm hồn của chúng ta mờ tối,
cố chấp, sống theo bản năng thì chính lúc đó
chúng ta đang sinh hoạt với thế giới súc sinh hay
là chúng ta đang đi con đường của súc sinh đang
đi. Khi nào chúng ta biết ưu tư, biết suy nghĩ, biết
lựa chọn, biết phân biệt chánh-tà để hành động, để
xây dựng cuộc sống và sống có nhân cách thì
chính lúc đó chúng ta đang sinh hoạt với thế giới
con người thật sự hay chúng ta đang đi trên con
đường mà con người đang đi. Và khi nào chúng ta
thích làm việc thiện, cảm nhận được niềm vui, có
sự hoan hỷ, có trí tuệ, cảm thấy mình không đem
tai họa đến cho kẻ khác thì chính lúc đó chúng ta
đang sinh hoạt với thế giới chư thiên, hay đi con
đường của chư thiên đang đi.
Đó là ý nghĩa của năm sinh thú.
356 Thích Thái Hòa
(U) Sáu xứ địa
Tức là sáu địa điểm sinh tử luân hồi của chúng
sinh. Đó là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, a-tu-la,
nhân và thiên.
Cảnh giới của a-tu-la là cảnh giới của quỷ thần,
cảnh giới này thường xảy ra sự tranh cãi, đấu tranh
giành giựt lẫn nhau.
Đây là cảnh giới có thể biểu hiện nơi tâm lý và
hành động của người khi sân hận nổi dậy.
Có nhiều nơi giải thích sáu xứ địa tức là sáu ngoại
xứ và sáu nội xứ. Sáu ngoại xứ là sắc, thanh,
hương, vị, xúc và pháp. Sáu nội xứ là nhãn, nhĩ,
tỷ, thiệt, thân và ý.
(V) Tam giới
Tiếng Phạn Traidhātuka tức là ba cõi gồm có Dục
giới (Kāmadhātu), Sắc giới (Rūpadhātu); và Vô
sắc giới (Arūpadhātu).
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 357
a. Dục giới là cảnh giới mà chúng sanh sống
phần nhiều bằng ái dục và nuôi sinh mạng bằng
đoàn thực.
b. Sắc giới là cảnh giới mà chúng sanh không
sống bằng ái dục, không sống bằng đoàn thực,
nhưng sinh hoạt bằng sắc tướng và nuôi sinh mệnh
phần nhiều bằng thiền định.
c. Vô sắc giới là cảnh giới mà chúng sanh ở nơi
đó không bị câu thúc bởi ái dục và sắc tướng. Ở
cảnh giới này, mọi hữu tình chỉ sinh hoạt bằng tư
tưởng, bằng tâm thức mà thôi.
Chuẩn theo một số kinh và luận Phật giáo thì Tam
giới được phân định theo biểu đồ như sau:
358 Thích Thái Hòa
DỤC GIỚI
Địa ngục
Ngạ quỷ
Súc sinh
Tu-la
(hư không cư = Antariktsavāsina)
Nhân
Thiên
(gồm sáu cõi)
Tứ Thiên Vương
Đao Lợi Thiên
Tô Dạ Ma Thiên
Đâu Suất Thiên
Hóa Lạc Thiên
Tha Hóa Tự Tại Thiên
Trì Quốc Thiên
Tăng Trưởng Thiên
Quảng Mục Thiên
Đa Văn Thiên
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 359
SẮC GIỚI
Sơ Thiền Thiên
Phạm Thân Thiên
Phạm Chúng Thiên
Phạm Phụ Thiên
Đại Phạm Thiên
Nhị Thiền Thiên
Thiểu Quang Thiên
Vô Lượng Quang Thiên
Quang Âm Thiên
Tam Thiền Thiên
Thiểu Tịnh Thiên
Vô Lượng Tịnh Thiên
Biến Tịnh Thiên
Tứ Thiền Thiên
Vô Văn Thiên
Phước Sanh Thiên
Quảng Quả Thiên
Tịnh Phạm Cư
Vô Tưởng Thiên
Vô Phiền Thiên
Vô Nhiệt Thiên
Thiện Kiến Thiên
Sắc Cứu Cánh Thiên
Hòa Âm Thiên
Đại Tự Tại Thiên
360 Thích Thái Hòa
Có một số kinh luận lại ghép Tịnh Phạm Cư ở
trong Tứ Thiền Thiên
(W) Nhị Đế
Gồm có tục đế và chân đế.
- Tục đế là sự thật của thế gian, chẳng hạn Khổ và
Tập là sự thật thuộc phạm vi thế gian.
- Chân đế là sự thật của xuất thế gian, chẳng hạn như
Diệt và Đạo là sự thật thuộc phạm vi xuất thế gian.
(X) Năm sự nhơ bẩn sai lầm
a. Kiếp trược: thời kỳ mà đời sống của mọi chúng
sanh đầy dẫy sự vẩn đục, sa đọa, sai lầm.
VÔ SẮC GIỚI Tứ Không
Không Vô Biên Xứ
Thức Vô Biên Xứ
Vô Sở Hữu Xứ
Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 361
b. Kiến trược: kiến thức sai lầm về ngã, pháp, giáo
điều…
c. Phiền não trược: tâm lý dơ bẩn đầy dẫy sự độc
ác, đầy dẫy tham lam, sân hận, si mê…
d. Chúng sanh trược: những con người xấu kém từ
thân thể đến tâm lý cũng như trí thức.
e. Mạng trược: sống bằng đời sống tà vạy, sai trái,
sinh mệnh ngắn ngủi.
Trong năm trược thì kiếp trược là nói có tính cách
tổng quát. Kiến trược và phiền não trược là nói về
nguyên nhân. Chúng sanh trược và mạng trược là
nói về kết quả. Tác nhân bằng sự dơ bẩn, xấu ác
thì kết quả nhất định phải đưa đến như thế.
362 Thích Thái Hòa
TƯ LIỆU THAM KHẢO
I. KINH
1. Mahāparinibbānasutta, Dīgha Nikāya II, P-56,
tạng Pāli-1958.
2. Mahāpadānasutta, Dīgha Nikāya II, P-44, tạng
Pāli-1958.
3. Mahānidānasutta, Dīgha Nikāya II, P.3, tạng
Pāli-1958.
4. Dhammacakkappavattanasutta-Samyutta
Nikāya (5Mahāvagga), P.364, tạng Pāli-1959.
5. Thất Phật Kinh, Trường A Hàm, tr 150, Đại
chính 1.
6. Tỳ Bà Thi Kinh, Trường A Hàm, tr 154, Đại
chính 1.
7. Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự Kinh, Trường A
Hàm, tr 159, Đại chính 1.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 363
8. Đại Bát Niết Bàn Kinh, Trường A Hàm, tr
191, Đại chính 1.
9. Phật Thuyết Chuyển Pháp Luân Kinh, Tạp A
Hàm, tr 503, Đại chính 2.
10. Phật Thuyết Tam Chuyển Pháp Luân Kinh,
Tạp A Hàm, tr 504, Đại chính 2.
11. Phật Thuyết Ngũ Uẩn Giai Không Kinh, Tạp
A Hàm, tr 499, Đại chính 2.
12. Phương Quảng Đại Trang Nghiêm Kinh, Bản
Duyên, tr 539, Đại chính 3.
13. Phổ Diệu Kinh, tr 483, Đại chính 3.
14. Phật Bản Hạnh Tập Kinh, tr 655, Đại chính 3.
15. Trường Bộ Kinh III, Thích Minh Châu dịch,
Đại học Vạn Hạnh-1972.
16. Sampasādanīya – Suttanta – Dīgh – Nikāya,
qIV, ĐHVH 1972.
364 Thích Thái Hòa
17. Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttaranikāya) tập I,
PHVH 1980.
18. Đại Bát Niết bàn Kinh, bản Hán dịch của Tuệ
Nghiêm, Đại Chính 12.
19. Đại Bát Niết bàn Kinh, bản Hán dịch của Đàm
Vô Sấm Đại Chính 12.
20. Đại Thừa Nhập Lăng Già Kinh, bản dịch của
Thật Xoa Nan Đà, Đại Chính 16.
21. Thập Hiệu Kinh, bản Hán dịch của Thiên Tức
Tai Đại Chính 17.
II. LUẬN
1. Đại Trí Độ luận, bản Hán dịch của Cưu Ma La
Thập, Đại Chính 25.
2. A Tỳ Đạt Ma Pháp Uẩn Túc luận, bản Hán
dịch của Huyền Tráng, Đại Chính 26.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 365
3. Thập Trụ Tỳ Bà Sa bản Hán dịch của Cưu Ma
La Thập, Đại chính 26.
III. SÁCH
1. The Pāli text Society‟s, Pāli english dictionary
edited by T.W RHYS DAVIDS, 46 Great
Russell street, London, W.C.I.
2. Sanskrit English dictionary by Sir Monier
Monier Willams, M.A.K.C.I.E Munshiram
Manoharlal Publishers PVT. LTD.
3. F.Nandou L‟Inde trong R.Grousset và
Leonard History universelle Ereyel de la
pleiade gamllimard 1965.
4. Le Inscriptions d‟A‟soka (collection Enicle
senart) E.Pigraphia Indica fg Buhler.
5. A‟soka et L‟etpansiou Buddhique – fean
Filliozat (France – Asie no.S.153-157).
6. Lịch Sử Đại Toàn Bảo Kỹ – Phí Trưởng
Phòng đời Tùy.
366 Thích Thái Hòa
7. Lịch Sử Phật Giáo Trung Quốc – Thích Thanh
Kiểm, Vạn Hạnh 1965.
8. Việt Nam Phật Giáo Sử Lược, Thích Mật Thể.
9. Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Nguyễn Lang,
Lá Bối in lần thứ II tại Paris -1977.
10. Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim. Xb Bộ
Giáo Dục 1971.
11. Đại Việt Sử Ký Toàn Thơ, Ngô Sĩ Liên.
12. Lịch Sử Việt Nam, nhà xuất bản Khoa Học Xã
Hội, Hà Nội 1976.
13. Nhật Bổn Sử Khái Thuyết, của Bác sĩ
Sakamototaro.
14. Nhật Bản Thơ Kỹ biên soạn 720.
15. Lịch Sử Tư Tưởng Nhật Bản, Thích Thiên Ân,
Sen Vàng xuất bản 1965.
Niềm Tin Bất Hoại Đối Với Đức Phật 367
Vi tính: - Nguyễn Bất Túy
Chính tả: - Lan Anh, Bảo An, Tâm Dung
Bìa: Bảo An, Nhuận Bảo Nguyên
Ấn tống: Tỷ kheo Thích Thái Không
và Phật tử chùa Phước Duyên ở Hoa Kỳ.