Những Vấn Đề Triết Học Cơ Bản Trong Duy Thức Học
description
Transcript of Những Vấn Đề Triết Học Cơ Bản Trong Duy Thức Học
Những vấn đề triết học cơ bản trong Duy thức học
Nguyễn Thị Ngọc Ánh
Trường Đại học KHXH&NV
Luận văn ThS. Chuyên ngành: Triết học; Mã số: 60 22 80
Người hướng dẫn: TS. Phạm Quỳnh
Năm bảo vệ: 2013
Abstract: Nghiên cứu lịch sử, sự truyền bá và phát triển của Duy thức học.
Làm rõ một số khái niệm của Duy thức: tâm, thức, sắc, pháp. Làm rõ những
vấn đề triết học cơ bản của trường phái Duy thức: bản thể luận, nhận thức
luận, logic học.
Keywords: Triết học; Duy thức học
Content
1
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 2
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 2
2. Tình hình nghiên cứu ..................................................................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 5
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 5
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp luận của đề tài ............................................ 5
6. Đóng góp .......................................................................................................... 5
7. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn ............................................................. 5
8. Kết cấu của luận văn ...................................................................................... 6
B. NỘI DUNG ..................................................................................................... 7
CHƢƠNG 1. KHÁI LƢỢC VỀ DUY THỨC TÔNG ..................................... 7
1.1. Khái lƣợc về Duy thức tông và hệ thống Duy thức học ........................... 7
1.1.1. Khái lược về Duy thức tông ....................................................................... 7
1.1.2. Hệ thống Duy thức học .............................................................................. 15
1.2. Sự truyền bá và phát triển Duy thức học .................................................. 17
1.2.1. Sự truyền bá và phát triển Duy thức học ở Ấn Độ ..................................... 17
1.2.2. Sự truyền bá và phát triển Duy thức học ở Trung Hoa .............................. 21
1.2.3. Sự truyền bá và phát triển Duy thức học ở Nhật Bản ................................ 26
1.2.4. Sự truyền bá và phát triển Duy thức học ở Việt Nam ................................ 29
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ................................................................................... 33
CHƢƠNG 2. VẤN ĐỀ BẢN THỂ LUẬN, NHẬN THỨC LUẬN
VÀ LOGIC HỌC TRONG DUY THỨC HỌC ............................................... 34
2.1. Vấn đề bản thể luận ....................................................................................... 34
2.2. Vấn đề nhận thức luận ................................................................................... 43
2.3. Logic học ....................................................................................................... 58
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ................................................................................... 77
C. KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 79
1
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Duy thức tông là một trong hai trường phái lớn của triết học
Đại thừa Phật giáo được hai anh em đại sư Vô Trước (Asanga) và
Thế Thân (Vasubandhu) sáng lập. Các học giả ngày nay đã có ý kiến
cho rằng chính Ứng thân Bồ Tát Di Lặc khởi xướng trường phái này
ở thế kỷ thứ IV sau Công nguyên. Du già hành tông (Yogàcàra) là tên
gọi tại Ấn Độ của Duy thức tông hay Thức học, triển khai một hệ
thống diễn giải các kinh điển Đại thừa. Duy thức tông lập luận rằng
các sự vật, hiện tượng mà chúng ta nhận thức trong thế giới này trên
thực tế chỉ là các cấu trúc tâm thức và những nhận thức đó cũng chỉ
là do tâm của chúng ta đặt ra mà thôi; ngoài thức ra không còn một
cái gì khác. Trong kinh luận Phật giáo thường ghi lại: “Tam giới duy
tâm, vạn pháp duy thức” hay “Nhất thiết duy tâm tạo” được xem là
tuyên ngôn triết học cơ bản của phái này.
Sự nghiên cứu về tâm thức của Duy thức học đã làm nảy sinh
hai vấn đề quan trọng: một là hệ thống tâm lý học; hai là nhận thức
luận dẫn đến sự ra đời của các tác phẩm kinh điển về nhận thức và
logich chưa từng có trong tư tưởng Phật học cũng như tư tưởng triết
học Ấn Độ trước đây. Một điểm đặc sắc trong các tác phẩm đó là sự
kết hợp chặt chẽ, không tách rời các vấn đề bản thể luận, nhận thức
luận và logich học. Chính sự kết hợp này đã làm cho triết học của
Duy thức vượt trội so với các trường phái của Phật giáo đương thời
và làm cho Phật giáo Đại thừa ngày càng hoàn thiện hơn.
Ở Việt Nam, tuy không hình thành trường phái Duy thức,
nhưng tư tưởng về Duy thức học xuất hiện trong rất nhiều các tác
phẩm, các cuộc nói chuyện của hàng ngũ Phật giáo. Chỉ đến nửa sau
2
thế kỷ XX, nhở ảnh hưởng của Phong trào Chấn hưng Phật giáo, giáo
lý của Duy thức được truyển vào Việt Nam nhiều hơn và thu hút
được sự chú ý của giới Phật tử Việt Nam cũng như của các nhà
nghiên cứu Phật giáo. Chính điều này không những đã làm mở rộng
và nâng cao trình độ hiểu biết cho giới nghiên cứu Phật học mà còn
đóng góp những công trình nghiên cứu một cách sâu sắc về Duy thức
tông Phật giáo.
Tuy nhiên, cho đến nay ở Việt Nam vẫn chưa có một công
trình nào hệ thống hóa được những nội dung triết học cơ bản của
trường phái Duy thức, vì vậy đây là một việc làm cần thiết để có thể
hiểu một cách sâu sắc thêm một trong những trường phái quan trọng
của Đại thừa Phật giáo.
Từ những lý do trên, tôi chọn đề tại Những vấn đề triết học
cơ bản trong Duy thức học với mong muốn đóng góp một phần công
sức vào việc nghiên cứu tông phái này nói riêng, triết học Phật giáo
nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay, việc nghiên cứu trường phái Duy thức tông Phật
giáo đã được sự quan tâm đặc biệt của các nhà nghiên cứu Phật học
trên thế giới. Một cách khái quát nhất, tôi có thể phân nhóm các lĩnh
vực mà họ đã nghiên cứu với rất nhiều các tác phẩm:
Nhóm thứ nhất là những tác giả có tác phẩm nghiên cứu về
nguồn gốc tư tưởng của Duy thức tông từ những nguồn gốc kinh luận
khác. Trong đó phải kể đến cuốn Tìm hiểu nguồn gốc Duy thức học
(2006) của Pháp sư Ấn Thuận. Đây là tác phẩm mà tác giả đã dày
công tìm hiểu tất cả các hệ thống giáo lý đương thời của từng thời kỳ
Phật giáo có liên quan đến sự phát triển về Duy thức học. Quá trình
nghiên cứu của tác giả trước hết là tìm hiểu tư tưởng của Duy thức
3
trong Phật giáo nguyên thủy, rồi bước qua giai đoạn Phật giáo bộ
phái và cuối cùng là Phật giáo Đại thừa.
Nhóm thứ hai là những tác giả có tác phẩm nghiên cứu bản
chất của Duy thức tông Phật giáo và so sánh nó với các trường phái
khác của Phật giáo. Họ là những tác giả có tác phẩm nghiên cứu về
từng khía cạnh hoặc từng tác phẩm riêng lẻ của các luận sư Duy thức,
chủ yếu là các tác phẩm: Nhiếp luận (1994) của Trí Quang, Duy thức
nhị thập luận thích của Sylvain Levi, Biện trung biên luận của
Yamaguchi… Bên cạnh đó, họ còn là những dịch giả chuyển ngữ lần
lượt các tác phẩm của Duy thức Phật giáo sang tiếng Anh, tiếng Đức,
tiếng Trung Quốc… Họ là những nhà Đông phương học nổi tiếng
như Suzuki, Tuệ Sỹ, Lâm Như Tạng, Đường Đại Viên… Những tác
phẩm chủ yếu của họ: Nghiên cứu kinh Lăng già (1998) (Suzuki),
Thức thứ tám (2006) (Lâm Như Tạng), Luận thành Duy thức (Tuệ
Sỹ)… Trong những tác phẩm này, Thức thứ tám của TS. Lâm Như
Tạng là một tác phẩm có giá trị và cần thiết cho những người học và
nghiên cứu Duy thức. Tác phẩm này là sự nghiên cứu công phu về
thức thứ tám, còn gọi là tâm vương, ông vua của tâm, là thức có
quyền năng nhất đối với bảy thức còn lại.
Những học giả này đã thực hiện được những nghiên cứu
quan trọng như sau: 1/ tổng quan về Duy thức tông Phật giáo. 2/
Nghiên cứu riêng từng tác phẩm của các luận sư Duy thức. Các tác
giả thuộc nhóm này hầu hết đều là những người tương đối thành thục
phương pháp nghiên cứu khoa học phương Tây. Vì vậy, họ có nhiều
kiến giải, đánh giá khá sâu sắc những vấn đề triết học của Duy thức
tông Phật giáo.
Riêng ở Việt Nam, theo như tác giả luận văn tìm hiểu, cũng
có khá nhiều tác phẩm nghiên cứu về trường phái Duy thức. Đó là: 1/
4
Giảng luận duy biểu học của Nhất Hạnh, 2/ Duy thức học (1991) của
Tì kheo Ni Như Thanh, 3/ Tâm lý học Phật giáo (2000) của Thích
Tâm Thiện cùng với rất nhiều các tác phẩm được dịch từ tiếng nước
ngoài, từ các kinh luận Trung Quốc như: 1/ Vấn đề nhận thức trong
Duy thức học của Huyền Trang do nhà sư Nhất Hạnh dịch, 2/ Duy
thức học của dịch giả Thích Thiện Hoa, 3/ Du già hành tông
Yogacara do Thích Nhuận Châu dịch… Và một số bài báo được đăng
trên các tạp chí: Triết học, Nghiên cứu tôn giáo, Nghiên cứu Phật
học… như: Duy thức học (tâm lý học Phật giáo) (1999) của hai tác
giả là Thái Huyền – Trịnh Văn Hiến, Một số vấn đề nhận thức trong
triết học Phật giáo (2001) của tác giả Phạm Quỳnh, Tâm lý học Phật
giáo (Pháp tướng) (2004) của tác giả Cao Hữu Đính, …
Như vậy, trường phái Duy thức tông Phật giáo đã được
nghiên cứu khá nhiều và ở nhiều tầng bậc khác nhau trên thế giới, từ
góc độ lịch sử đến nội dung.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: làm rõ những vấn đề triết học cơ bản của Duy
thức.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Nghiên cứu lịch sử, sự truyền bá, phát triển của Duy thức.
+ Làm rõ một số khái niệm của Duy thức: tâm, thức, sắc,
pháp.
+ Làm rõ những nội dung triết học cơ bản của trường phái
Duy thức: bản thể luận, nhận thức luận, logic học.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: nghiên cứu lịch sử và những vấn đề triết học cơ
bản của Duy thức học.
5
- Phạm vi nghiên cứu: luận văn tập trung vào nghiên cứu triết
học của Duy thức
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp luận của đề tài
- Cơ sở lý luận: đề tài được thực hiện trên cơ sở quan điểm
của chủ nghĩa Mác – Lênin, có sự tiếp thu kết quả của những công
trình nghiên cứu về Duy thức trong và ngoài nước.
- Phương pháp luận của đề tài: luận văn được thực hiện dựa
trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, sử dụng
chủ yếu các phương pháp logic và lịch sử, phân tích và tổng hợp.
6. Đóng góp
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ hơn những
vấn đề của triết học Phật giáo.
7. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận: luận văn góp phần vào việc nghiên cứu
những vấn đề triết học của Duy thức nói riêng và Phật giáo nói
chung.
- Ý nghĩa thực tiễn: kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm
tài liệu cho việc học tập, nghiên cứu những vấn đề liên quan đến triết
học Duy thức tông Phật giáo.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn gồm hai chương và năm tiết.
B. NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. KHÁI LUẬN VỀ DUY THỨC TÔNG
1.1. Khái luận về Duy thức tông và hệ thống Duy thức
học
1.1.1. Khái luận về Duy thức tông
6
Duy thức tông là một trong hai trường phái của Đại thừa Phật
giáo Ấn Độ, một hệ thống tư tưởng lớn của Phật giáo đã gây sự kinh
ngạc đối với các nhà nghiên cứu. Căn cứ theo “Bà tẩu bàn đậu Pháp
sư truyện” (tức Thế Thân truyện của Chân Đế) ba anh em Vô Trước
đều sinh ra ở nước Phú lâu sa phú la (Purusapura, tức Pêsava ngày
nay) miền Bắc Ấn Độ trong một gia đình Bàlamôn, anh cả là Vô
Trước, thứ hai là Thế Thân, em thứ ba là Tì lân trì Bạt bà, đều xuất
gia ở Nhất thiết Hữu bộ - một bộ phái Tiểu thừa. Học thuyết của Nhất
thiết Hữu bộ là một thứ học thuyết thuộc loại tân tiến và rất được
phát đạt.
Ngài Vô Trước (310 – 390) chú tâm tu tập để chứng ngộ
được tính Không của Long Thọ nhưng không đạt được. Đang lúc thất
vọng thì một vị A la hán tên là Tân đầu la đến dạy Sư nhập môn phép
quán Không theo Tiểu thừa. Sư theo học và đạt được kết quả nhưng
vẫn không thỏa mãn. Sư định từ bỏ mục đích thì Bồ tát Di Lặc hiện
ra đưa ngài lên cung trời Đâu suất. Ở đó, Bồ tát Di Lặc dạy cho Ngài
giáo lý Đại thừa và kinh nghĩa Đại thừa qua Thập thất địa. Vô Trước
ngoài việc tuyên truyền nhiều luận thư dưới danh Di Lặc, còn truyền
nhiều luận thư dưới tên của mình.
Thế Thân (320 – 400), cũng được dịch là Thiên Thân, là
người em cùng mẹ khác cha của ngài Vô Trước. Thế Thân lúc đầu
cũng theo học giáo lý Tiểu thừa tại trung tâm Kashmire (trung tâm
của Nhất thiết Hữu bộ), thuộc Bắc Ấn. Nhưng sau đó, Thế Thân đã
cải trang thành học trò của Hữu bộ và theo học giáo nghĩa này. Sau
thời gian học tập và nghiên cứu tại Kashmire, Ngài đã viết một bộ
sách mang tính bách khoa về giáo pháp mình tu học và đã trở thành
một tác phẩm tiêu biểu cho thế giới quan Phật giáo, đó là A tỳ đạt ma
Câu xá luận. A tỳ đạt ma Câu xá luận phản ánh sự tiếp nối của giáo
7
lý từ Tiểu thừa đến Đại thừa và cũng là tác phẩm nền tảng của các
tông phái Phật giáo Ấn Độ.
Sau khi Vô Trước mất, Sư viết rất nhiều luận thư Đại thừa để
giải thích các kinh Đại thừa như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, Duy ma…
Tác phẩm do Thế Thân viết rất nhiều, tương truyền có 500 bộ luận
Tiểu thừa, 500 bộ luận Đại thừa, cho nên có danh hiệu “Luận sư
nghìn bộ”. Ngoài ra, về nhân minh học, Thế Thân còn có ba tác phẩm
là Luận quĩ, Luận thức và Luận tâm, nhưng rất tiếc không còn nữa.
Duy thức được biết qua Phạn ngữ bằng ba từ:
- Cittamàtra (duy tâm): chủ trương tất cả mọi sự hiện hữu
đều do tâm, duy tâm và do vậy, không một hiện tượng nào tồn tại
ngoài tâm.
- Yogàcàra: gồm hai từ Du già và hạnh, đề xướng phương
pháp thực hành thiền quán, tức là tìm hiểu tâm trạng của hành giả khi
hành động và ý nghĩa của hành giả khi thực hiện hành động đó.
- Vijnanaptivàda (duy thức): học thuyết cho rằng tất cả vạn
vật đều từ thức mà sinh ra, không có gì nằm ngoài thức.
Học thuyết Duy thức dựa vào 6 kinh và 11 bộ luận:
Sáu kinh đó là: Hoa Nghiêm kinh; Giải thâm mật kinh; Như
Lai xuất hiện công đức trang nghiêm kinh; Đại thừa A tỳ đạt ma
kinh; Lăng già kinh; Đại thừa Mật nghiêm kinh.
Mười một bộ luận: Du già sư địa luận; Nhiếp Đại thừa luận ;
Đại thừa trang nghiêm kinh luận; Duy thức tam thập tụng; Hiển
dương thánh giáo luận; Biện trung biên luận; Duy thức nhị thập
tụng; Đại thừa A tỳ đạt ma tạp tập luận; Phân biệt Du già luận ; Đại
thừa bách pháp minh môn luậ ;n Thập địa kinh luận.
1.1.2. Hệ thống Duy thức học
8
Giáo lý Duy thức tông được tóm tắt trong thuật ngữ
Vijnanaptivàda, có nghĩa là “tất cả chỉ là sự biểu hiện của thức” cho
nên những vấn đề triết học của tông phái này xoay quanh những vấn
đề của thức: ngũ vị bách pháp, tam cảnh (bản thể luận), bát thức, tam
tính, tứ phần (nhận thức luận)… nhân sinh quan, thiền định, tâm lý
học phân tích (phân tâm học), phương pháp nhận thức qua kinh luận,
nhân minh học (logich học)… Trong đó, vấn đề bản thể luận, nhận
thức luận và logich học được xem là những vấn đề triết học cơ bản,
nổi trội nhất.
Thay thế cho quan niệm truyền thống của Phật giáo là vạn
pháp duy tâm, Duy thức tông nêu ra tư tưởng vạn pháp duy thức. Có
nghĩa là thế giới khách quan, bao gồm vũ trụ, vạn vật và con người
không phải là có thật mà đều do thức sinh ra. Khái niệm “thức” có
hai cách hiểu. Theo nghĩa hẹp, “thức” là sản phẩm của quá trình nhận
thức, nghĩa là chủ thể nhận thức tác động vào đối tượng nhận thức thì
thu được một tri thức về đối tượng, tri thức ấy gọi là thức.
Khái niệm “thức” cũng là khái niệm đại diện cho tám loại
thức (bát thức) khác nhau tương ứng với bốn quá trình nhận thức
trong mỗi cá nhân, gồm: 1) 5 thức giác quan (tiền ngũ thức) đại diện
cho quá trình nhận thức cảm tính; 2) ý thức đại diện cho chặng đầu
tiên của quá trình nhận thức lý tính; 3) ý là động lực phân biệt chủ
thể và khách thể nhận thức; 4) a lại da thức là thức bản thể duy trì sự
tồn tại của cá nhân và hoạt động nhận thức của cá nhân đó, nói khác
đi, a lại da thức được xem là thức căn bản của mọi hiện tượng, thức
này chứa đựng mọi kinh nghiệm của đời sống con người và nguồn
gốc tất cả các hiện tượng tinh thần.
Triết học trong Duy thức là chuyển thức thành trí, hay một sự
chuyển y, tức là thay đổi toàn bộ nền tảng cơ cấu nội tại của tâm
9
thức, giải trừ các hạt giống tạp nhiễm trong diễn biến tâm lý của chủ
thể nhận thức và đối tượng nhận thức. Trong hệ thống tám thức, Tàng
thức (A lại da thức) được xem như là bản thể của sự vật; Mạt na thức,
ý thức và năm thức giác quan là biểu hiện của sự vật đó. Hệ thống
tám thức được xem như là một tổng thể, không tách rời nhau.
1.2. Sự truyền bá và phát triển Duy thức học
1.2.1. Sự truyền bá và phát triển Duy thức học ở Ấn Độ
Ở Ấn Độ, sau khi Thế Thân tịch, học thuyết Duy thức được
toàn bộ giới triết gia đều tán thưởng và khâm phục. Cho nên, mặc dù
bị chèn ép từ một số tông phái khác, nhưng tư tưởng Duy thức đã
chiếm vị trí cao trên toàn cõi Ấn Độ. Từ tư tưởng “cảnh và thức đều
không” của Vô Trước và Thế Thân đã nảy sinh đến ba dòng truyền
thừa của Duy thức tông.
Dòng đầu là truyền chi Trần Na (Dignàga, 480 - 540) thế kỷ
thứ V, Vô Tính (Agotra) và Hộ Pháp (Dharmapàla, 439 – 507); trung
tâm dòng này là đại học Nalandà.
Dòng thứ hai là truyền chi Đức Huệ (Gunamati) và An Huệ
(Sthiramati) mà nơi truyền thừa dường như là ở đại học Valabhi.
Dòng thứ ba là truyền chi của Nan – đà (Nanda), người mà
giáo nghĩa được Chân Đế theo đuổi và Thắng Quân (Jayasena) là
người đã từng giảng dạy nhiều vấn đề cho Huyền Trang. Dòng truyền
thừa cuối này không phát triển mấy ở Ấn Độ và dường như sớm biến
mất sau đó.
Mặc dù phân chia thành các dòng khác nhau, nhưng khuynh
hướng chủ yếu của Duy thức học vẫn là nhân minh nhận thức luận và
tâm lý học. Điểm thống nhất của hai khuynh hướng này là sự quan
tâm sâu sắc về tiến trình nhận thức, nghĩa là phân tích tư duy, nhận
10
thức của con người như thế nào. Cả hai đều xem những vấn đề căn
bản của con người là nhận thức sai lầm cần được điều chỉnh.
Lý luận về nhân minh học (logic học hay luận lý học) của
Duy thức học đạt đến đỉnh cao vào thời kỳ Trần Na và Pháp Xứng.
Chính Trần Na là người đã thực hiện cuộc cách mạng trên lĩnh vực
logic học ở Ấn Độ lúc bấy giờ và là người khai mở một Duy thức
mới. Ông đã đưa vào trong Duy thức học của Vô Trước và Thế Thân
yếu tố luận lý học (logic học) và nhận thức luận. Rất nhiều các tác
phẩm của Duy thức tông chỉ có thể được đọc dưới ánh sáng của luận
lý học Nhân minh do ông đề xướng. Hai tác phẩm Tập lượng luận
(Pramànasamuccaya) và Nhân minh chính lý môn luận (Nyaya
pravesa) của ông đã cải cách nhân minh cũ (được gọi là cổ nhân
minh) của Ấn Độ.
Duy thức tông phát triển ở Ấn độ từ thế kỷ thứ IV đến thế kỷ
thứ XII. Đến thế kỷ thứ XII trường phái này suy tàn và biến khỏi Ấn
độ cùng với các trường phái Phật giáo khác. Đây là giai đoạn Hồi
giáo xâm lăng Ấn Độ, các đạo quân Hồi giáo lan tràn tới đâu thì các
tăng ni Phật giáo bị sát hại tới đó. Chùa chiền tự viện đều bị san
bằng.
1.2.2. Sự truyền bá và phát triển Duy thức học ở Trung
Hoa
Duy thức tông khi được truyền bá sang Trung Hoa có tên là
Pháp tướng tông do nhà sư Huyền Trang và vị đệ tử xuất sắc là Khuy
Cơ lập nên. Tiền thân của Pháp tướng tông là Nhiếp luận tông, do sư
Chân Đế (Paramàrtha, 499 – 569) tạo dựng.
Huyền Trang (Hsuan-tsang, 596-664), còn mang danh hiệu là
Tam Tạng Pháp sư, là người tinh thông kinh điển Phật giáo (Tam
tạng: Kinh tạng, Luận tạng và Luật tạng). Khi còn rất trẻ Sư đã
11
nghiên cứu nhiều kinh điển Phật giáo, trong đó có kinh điển của Duy
thức Đại thừa có giá trị. Ở quê hương, Sư đã cùng nghe các buổi
giảng thuyết về Đại thừa Nhiếp luận với rất nhiều luận sư khác nhau.
Tuy nhiên, ý kiến của các thầy của ông quá khác nhau và
mâu thuẫn khiến ông tò mò, ông bèn quyết định Tây du với hy vọng
tìm được một luận sư tài ba. Mãi đến năm 632 hay trễ hơn nữa mới
đến Nalanda – một trung tâm học địa của Phật giáo đương thời, gần
thành Vương xá nơi mà Giới Hiền, bấy giờ đã 106 tuổi, đang là thủ
tòa của đại học này.
Huyền Trang được Giới Hiền truyền thụ tất cả các học thuyết
quan trọng của Phật giáo nói chung và Duy thức tông nói riêng.
Trong thời gian lưu lại Ấn Độ, Huyền Trang còn theo Như Lai Mật,
Sư Tử Nhẫn học Nhân minh, lại học Duy thức quyết trạch luận với
Thắng Quân.
Sau 17 năm trường du học tại Ấn Độ, Huyền Trang hồi
hương năm 645, mang về rất nhiều kinh sách của Duy thức tông. Với
sự hỗ trợ của triều đình và nhiều đệ tử, Sư đã dịch những kinh văn
này sang tiếng Hán, trong đó có Thành Duy thức luận
(Vijnaptimàtratasiddhi). Luận này bao gồm những nội dung như luận
về tâm thức, bách pháp (một trăm pháp), tam tự tính, thuyết duyên
sinh Phật giáo…
Huyền Trang có rất nhiều đệ tử xuất sắc. Điển hình có Khuy
Cơ. Có thể nói, Pháp tướng tông là do Khuy Cơ hệ thống hóa và
chính yếu sáng lập nên. Ông cùng với người thầy của mình là sư
Huyền Trang dịch rất nhiều tác phẩm trọng yếu của Duy thức học.
Ngài Khuy Cơ tổ chức sắp xếp học thuyết của Huyền Trang thành hệ
thống mạch lạc, biên soạn rộng rãi các chú giải của Pháp tướng Duy
thức, càng mở ra thêm phần tinh hoa độc đáo. Khuy Cơ có một đệ tử
12
xuất sắc là Huệ Chiểu, Huệ Chiểu lại truyền bá tư tưởng Duy thức
cho đệ tử của mình là Trí Châu (Chishu). Ngài Trí Châu có một đệ tử
người Triều Tiên là Trí Phong, một đệ tử người Nhật Bản là Huyền
Phảng, vào thế kỷ thứ VII, đem các luận giải của ngài Khuy Cơ
truyền sang Nhật Bản, lập nên Pháp tướng tông Nhật Bản.
Khi Huyền Trang và Khuy Cơ còn tại thế, học thuyết Duy
thức rất thịnh hành. Sau đó, các tông Hoa Nghiêm, Thiền tông, tông
Thiên Thai của Phật giáo dần trở nên hưng thịnh. Học thuyết Duy
thức Pháp tướng tông dần dần tiêu trầm.
Thời nhà Minh, chùa Giảng là nơi Pháp tướng Duy thức
chuyên thuyết giảng kinh giáo cho tu sĩ và cư sĩ cầu học. Do các triều
vua Minh nhiệt tình ủng hộ, và bảo trợ; một phần do xuất hiện khá
nhiều các bậc danh tăng, giáo đoàn sinh hoạt kỷ cương, nền nếp nên
giáo lý Pháp tướng đã đánh dấu một bước phát triển mới. Ngài Ngẫu
Ích Tri Húc (1599 – 1655) trước tác Duy thức quán tâm pháp yếu (18
quyển)… Tuy nhiên, dần dần về sau môn học Pháp tướng Duy thức
bị mờ nhạt do những bản in khắc giáo nghĩa của tông phái này bị mất
mát thất truyền.
Thời cận đại, Phật giáo Trung Hoa đã phục hưng, đề xướng
phong trào Chấn hưng Phật giáo là các cư sĩ tại gia mà không phải là
tăng nhân xuất gia như Dương Văn Hội, Đàm Từ Đồng, Lương Khải
Siêu, Chương Thái Viên, Hàn Thanh Tịnh… Chủ lưu phục hưng của
Phật giáo là Pháp tướng Duy thức tông thịnh hành trong đời Đường.
Hiện đại, có nhiều vị học giải Trung Hoa cũng đóng góp vào
Duy thức học như Châu Từ Ca, Đường Đại Viên, Thái Hư Đại Sư,…
1.2.3. Sự truyền bá và phát triển Duy thức học ở Nhật
Bản
Duy thức tông được truyền bá sang Nhật Bản với hai nhánh.
13
Nhánh thứ nhất là Nam tự truyền, cũng gọi là Phi Điểu
truyền do Đạo Chiêu (Dôshô, 628 – 700), một tăng sĩ Nhật Bản, dưới
triều Thánh Đức, được gửi sang Trung Hoa thọ pháp với Huyền
Trang.
Nhánh thứ hai gọi là Bắc tự truyền do học giả Huyền Phảng
(Gembô, ? - 746) đến Trung Hoa năm 716 và học giáo lý của Duy
thức tông với Trí Châu (688 – 723), một đệ tử của Khuy Cơ.
Thời kỳ Nại lương, các học giả lấy các bộ kinh luận như Giải
thâm mật kinh, Thành Duy thức luận… làm điển cứ cho rằng tất cả
mọi sự tồn tại đều không thật, do tâm tạo ra, ngoài A lại da thức ra thì
không có gì tồn tại cả. Ở Nhật Bản, các nhà sư tập trung nghiên cứu
về Nhân minh học dựa vào bộ Nhân minh Đại sớ. Khởi đầu là Thiện
Châu (723 – 797) ở Thu Tiểu tự.
Học giả nổi tiếng của tông Pháp tướng thời kỳ Nại Lương có
rất nhiều. Dưới Hành Cơ có Pháp Hải, Hành Tốn, Thắng Ngu. Dưới
Thắng Ngu có Từ Bảo, Thái Diễn, Hộ Mệnh… Dưới Huyền Phảng
có Thiện Châu, Hành Hạ… Ngoài ra, những đệ tử khác của Nghĩa
Uyên cũng được đào tạo là Thần Duệ, Đức Nhẫn, Huyền Tân…
Vào thời kỳ Bình An (806 – 1190), tuy Pháp tướng tông bị
suy vi nhưng vẫn duy trì được truyền thống dạy học. Đến cuối thời
kỳ Bình An, xuất hiện các danh sư như Đức Nhất, Tạng Tuấn và
Giác Hiến, Trinh Khánh đã trung hưng tông Pháp tướng.
Thời kỳ Liêm Thương (1192 – 1333), nhiều nhà sư Nhật Bản
đến Trung Quốc và giảng dạy giáo lý Duy thức ở đây, trong đó phải
kể đến nhà sư Trừng Giác và Khoan Kiện giảng Duy thức luận ở Lạc
Dương, Trường An.
14
Vào cuối thế kỷ XIX, các luận sư của Trung Hoa và Nhật
Bản cũng sưu tập được các bản luận giải về Duy thức, lần lượt san
định góp phần chỉnh lý nghiên cứu và ấn hành.
Hiện nay, Pháp Tướng tông vẫn còn hưng thịnh ở Nhật và
những người theo học đều là bậc thông minh, tài trí.
1.2.4. Sự truyền bá và phát triển Duy thức học ở Việt
Nam
Theo truyền sử Phật giáo ở Việt Nam, tông Duy Thức không
được thành lập nhưng tư tưởng Duy Thức được manh nha từ khi Phật
giáo du nhập vào và được các bậc Cao Tăng dùng dạy cho đệ tử.
Theo Nguyễn Lang trong “Việt Nam Phật giáo sử luận”, có thể Bồ
Đề Đạt Ma (Bodhidharma, 470 - 543) – tổ thứ 28 của dòng Thiền Ấn
Độ, cùng với một vị sư Ấn khác là Pháp Thiên (Dharmadeva) sang
Giao Châu giảng giải giáo nghĩa của Kinh Lăng già, và tư tưởng Duy
thức học [21, tr. 134].
Vào cuối thế kỷ thứ VII đầu thế kỷ thứ VIII, nhiều nhà sư
Việt Nam đã qua Ấn Độ cầu pháp học tập như Vận Kỳ, Giải Thoát
Thiên, Thanh Biện, Định Không, La Quí An… trong đó nổi bật nhất
có Ðại Thừa Ðăng (625 – 685). Đại Thừa Đăng theo sứ thần nhà
Đường là Diêm Tự về Trường An; ông gặp pháp sư Huyền Trang và
xin thọ pháp về giáo nghĩa Đại thừa Duy thức.
Đầu thế kỷ XX, Phong trào Phục hưng Phật giáo ở Trung
Hoa không ngừng ảnh hưởng tới Việt Nam và đưa lại động lực cải
cách mới cho một số nhân sĩ Phật giáo Việt Nam có tri thức.
Một trong những nội dung chủ yếu của Phong trào Phục
hưng Phật giáo ở Trung Hoa là phục hồi và phát huy tư tưởng Duy
thức học và được in ấn nội dung trên tạp chí Hải triều âm do thiền sư
Thái Hư chủ biên đã liên tục được đưa vào Việt Nam. Các nhà Phật
15
học Việt Nam đã lựa chọn một số bài nghiên cứu quan trọng trên Hải
triều âm, một số tác phẩm quan trọng của Pháp sư Thái Hư, của các
nhà Phật học Chương Thái Viên, Trần Duy Đông, Tưởng Duy
Kiều… dịch ra Việt văn, đăng trên sách báo, hoặc giới thiệu trong
các buổi sinh hoạt Phật học. Đồng thời, một số đoạn trong tác phẩm
kinh điển của Duy thức học là Duy thức nhị thập luận của Thế Thân,
cùng những chú, sớ của Huyền Trang và Khuy Cơ được dịch ra Việt
văn và ấn hành.
CHƢƠNG 2. VẤN ĐỀ BẢN THỂ LUẬN, NHẬN THỨC
LUẬN VÀ LOGICH HỌC TRONG DUY THỨC HỌC
2.1. Vấn đề bản thể luận
Vấn đề bản thể trong Duy thức học tập trung nghiên cứu các
vấn đề: thế giới là gì; thế giới được hình thành như thế nào, sự vận
động của thế giới ra làm sao…
Toàn bộ thế giới, theo Duy thức học là do một trăm pháp
(bách pháp) tạo thành, một trăm pháp được chia làm năm nhóm,
được gọi là Bách pháp ngũ vị:
(I) Tâm pháp (hay còn gọi là tâm vương): là nguồn sống, là
chủ mọi hành động của con người; nguồn gốc sản sinh ra thế giới.
(II) Tâm sở hữu pháp: là tất cả những hiện tượng được gọi là
cuộc sống nội tâm.
(III) Sắc pháp: là là những yếu tố thuộc về các hiện tượng
cảm tính, tức là tất cả những gì mà trong cuộc sống hàng ngày gọi là
vật chất.
(IV) Tâm bất tương ưng hành pháp: là các yếu tố tạo tác và
hỗ trợ cho quá trình của thức nhưng lại lưu chuyển độc lập với thức,
không nhập vào nội dung của thức.
(V) Pháp vô vi: là pháp dẫn tới giải thoát.
16
Trong giáo lý Phật giáo, pháp là một khái niệm phổ biến nhưng
cũng là khái niệm khó diễn đạt nhất. Theo Từ điển Phật học, Pháp là
tự thể nhậm trì, quỹ sinh vật giải; nghĩa là tất cả những gì cụ thể hay
trừu tượng có đặc điểm riêng của nó, phạm vi riêng của nó để có thể
cho ta một khái niệm về đối tượng đó. Pháp là phép tắc, là quy củ, là
luật pháp. Các pháp đại biểu cho quy luật trật tự vũ trụ, mà không
thuộc về trật tự của thần thánh. Mỗi pháp tồn tại độc lập và hiện hữu,
không những là các pháp hữu vi, mà cả các pháp vô vi. Không có
pháp nào tồn tại vĩnh cửu, mà tất cả đều tuân theo quy luật sinh, trụ,
dị, diệt (thành, trụ, hoại, không).
Trong quá trình giải thích sự biến hóa vô thường của vạn
vật, từ quá khứ tới hiện tại, từ hiện tại tới tương lai, Phật giáo đã xây
dựng nên giáo lý Duyên khởi:
Do cái này có mặt nên cái kia có mặt
Do cái này không có mặt nên cái kia không có mặt
Do cái này sinh nên cái kia sinh
Do cái này diệt nên cái kia diệt.
Con người trong thế giới này cũng luôn luôn thay đổi, biến
dịch từng giờ, từng phút, cũng do nhân duyên kết hợp mà thành. Như
vậy, mọi sự vật hiện tường đều nằm trong mối liên hệ chằng chịt,
không có gì là tồn tại độc lập tuyệt đối.
Duy thức tông cho rằng, tất cả mọi hiện tượng con người
cảm nhận được đều là "duy thức" chỉ là thức; mọi hiện tượng đều là
cảm nhận của thức, không có đối tượng độc lập, ngoài thức đang cảm
nhận thì không có gì là thật.
2.2. Vấn đề nhận thức luận
Vấn đề nhận thức Duy thức học bao gồm toàn bộ các phần
của lý nhận nhận thức hiện đại như: đối tượng nhận thức, chủ thể
17
nhận thức, các cấp độ của quá trình nhận thức, kết quả của quá trình
nhận thức…
Đối tượng nhận thức, trong Duy thức học gọi là cảnh. Có ba
cảnh: tính cảnh, đới chất cảnh, độc ảnh cảnh.
1/ Tính cảnh là tự thân của thế giới thực tại khách quan, là
cảnh có tính chất thật. Trong lĩnh vực này, sự vật chính là nó chứ
không bị biến dạng theo nhận thức của con người.
2/ Đới chất cảnh là hình ảnh về một thực tại nào đó trong tri
giác của con người, sản phẩm của thực tại, nói cách khác, đó là hình
ảnh đã bị “méo mó” qua suy diễn của con người.
3/ Độc ảnh cảnh là thế giới đối tượng chỉ có trong tâm thức
của con người, do con người tạo ra.
Trong hệ thống Duy thức học, các hình thái của quá trình
nhận thức được trình bày trong thuyết Tam lượng. Lượng có nghĩa là
hình thái hay phương cách nhận thức.
Hình thái nhận thức thứ nhất là nhận thức trực tiếp; hình thái
nhận thức thứ hai là nhận thức gián tiếp. Nhận thức trực tiếp gọi là
hiện lượng, nhận thức gián tiếp gọi là tỷ lượng. Hiện là hiện tiền,
trước mặt. Hiện lượng là hình thái nhận thức trực tiếp (trực giác) chủ
yếu bằng cảm quan như mắt, tai, mũi, lưỡi…
Hình thái nhận thức thứ hai là tỷ lượng (anumàna). Tỷ lượng
là hình thái nhận thức gián tiếp, cần phải thông qua các khâu trung
gian là các hoạt động của tư duy: so sánh, phán đoán, suy luận…
Hình thái nhận thức thứ ba là phi lượng. Thực ra, đây không
phải là một hình thái nhận thức độc lập khác biệt với hai hình thái
trước. Hiện lượng và tỷ lượng có khi đúng và có khi sai, mà mỗi khi
sai thì đều là phi lượng. Nhưng dù có sai cũng là nhằm mục đích tự
18
ngộ. Đó là sai về phương pháp, còn mục đích thì vẫn là tìm đến sự
thật cho bản thân.
Khi nghiên cứu về chân tướng của thực tại, các nhà duy thức
học đã phân tích có ba tự tính: biến kế sở chấp tính, y tha khởi tự tính
và viên thành thật tính.
Biến kế sở chấp tính (parikalpita) còn được gọi là huyễn giác,
thác giác; là cái nhìn méo mó, sai lạc về sự vật và sự vướng mắc vào
những sai lạc ấy. Chủ thể có nhận thức sai lạc ấy được gọi là biến kế
chấp. Đối tượng bị hiểu lầm đó là biến kế sở chấp. Chúng ta đã gán
cho sự vật những tính chất mà chúng không có.
Y tha khởi tự tính: y có nghĩa là nương vào, dựa vào; và khởi
là phát sinh và hiện hữu. Mọi hiện tượng nương tựa vào nhau mà
phát sinh và hiện hữu. Vạn pháp trong vũ trụ vốn không có pháp nào
hiện diện một cách độc lập mà không liên hệ với các vật khác, chúng
đều do nhân duyên sinh, do nhiều nhân duyên hòa hợp mà thành.
Viên thành thật tính: là cấp độ nhận thức cao nhất, nhận thức
được thế giới tính cảnh.
Trong ba tính trên, y tha khởi tự tính giữ vai trò hết sức quan
trọng, làm trọng tâm cho triết thuyết Duy thức. Y tha khởi tự tính
được xem như là nơi nương tựa của hai tính kia, mà hơn nữa là
phương thức giúp con người chuyển từ mê (biến kế chấp) sang ngộ
(viên thành thật).
Thức có năng lực đặc biệt phân biệt biết được cái khác và tự
biết được mình. Bản thể của thức là liễu biệt. Từ bản thể ấy khi
chuyển biến thì hiện ra bốn phần (tứ phần), một phần có khả năng
phân biệt nhận biết, gọi là kiến phần, phần kia không có khả năng
phân biệt, chỉ làm đối tượng cho kiến phần gọi là tƣớng phần. Hai
phần đó, phần biết (nhận thức) và phần bị biết (đối tượng) cùng sinh
19
cùng diệt, có phần này thì có phần kia, phần này không thì phần kia
không… Ngoài ra, việc kiểm chứng sự khảo sát của chủ thể nhận
thức (kiến phần) xem đúng hay sai, Duy thức gọi là tự chứng phần.
Chứng tự chứng phần: phần này có khả năng xác định sau
cùng kiểm soát lại sự kiểm nghiệm kể trên. Phần này cũng có nhiệm
vụ duy trì các hạt giống chủng tử và hỗ trợ tự chứng phần làm nền
tảng cho kiến phần nhận biết. Trong tám thức thì thức nào cũng có
bốn phần này.
Thức là kết quả của quá trình nhận thức, là kết quả của sự
hòa hợp giữa sáu căn và sáu cảnh (trần). Căn là giác quan, năm căn là
năm giác quan của sự hiểu biết. Mỗi căn có khả năng kết hợp với một
loại cảnh riêng để tạo ra thức, cụ thể:
Nhãn căn kết hợp với sắc cảnh để tạo ra nhãn thức.
Nhĩ căn kết hợp với thanh cảnh để tạo ra nhĩ thức.
Tỵ căn kết hợp với hương cảnh để tạo ra tỵ thức.
Thiệt căn kết hợp với vị cảnh để tạo ra thiệt thức.
Thân căn kết hợp với xúc cảnh để tạo ra thân thức.
Mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi…; tác dụng thấy, nghe, ngửi…
đó là Thức. Mỗi thức có một tác dụng riêng, thức ở đâu cũng có; ở
đâu có căn, có cảnh thì tác dụng đó được biểu hiện thành thức. Nhãn
thức, nhĩ thức, tỵ thức, thiệt thức và thân thức gọi là tiền ngũ thức.
Thức thứ 6 còn gọi là Ý thức. Thức này dựa vào Ý căn (Mạt
na thức) mà khởi ra tác dụng phân biệt về pháp trần nên gọi là ý thức.
Trong Tám thức, thức thứ 6 lanh lẹ và khôn ngoan hơn hết; nó đóng
vai trò chủ chốt trong việc tạo tác nghiệp. Mọi suy nghĩ để làm việc
thiện thì nó đứng đầu, mưu kế toan tính hại người thì nó trên hết
(công vi thủ tội vi khôi). Thức này cũng có công năng chấp ngã và
chấp pháp. Thức thứ 6 là cơ quan đầu não, trung tâm của cảm giác. Ý
20
thức kết hợp với năm thức trên bao quát cả sự vật, tổng quát các điều
tai nghe, mắt thấy… để hiểu rõ sự vật.
Nhận thức của chúng ta đối với thế giới hiện tượng có được
minh bạch và xác định hay không chính là nhờ vào ý thức. Tuy
nhiên, cũng vì tính chất phức tạp của tri thức này trong những thao
tác nhiều mặt của nó, như trí nhớ, đặt tên, tạo hình ảnh, tưởng
tượng… mà nhận thức của chúng ta hay phạm sai lầm.
Thức thứ Bảy là Mạt na, tiếng Phạn gọi là Manas, còn gọi là
ý căn bởi vì thức này làm căn (giác quan) của ý thức, thức thứ 6 dựa
vào thức này mà phát sinh. Còn gọi là thức thứ Bảy, và Truyền tống
thức vì thức này có công năng truyền các điều mắt thấy, tai nghe, mũi
ngửi … (các pháp hiện hành) vào Tàng thức và đưa các chủng tử
trong Tàng thức ra ngoài hiện hành.
Tính chất của thức Mạt na là luôn luôn so đo và tính toán, đối
tượng của Mạt na thức là đới chất cảnh. Mạt na theo sát A lại da,
luôn chấp ngã và chấp pháp một cách kiên cố, do vì nó duyên với
kiến phần của thức A lại da.
Thức thứ Tám, tiếng Phạn gọi là Alayavijnana. Nó có nhiều
tên gọi khác nhau:
1. Đệ Bát thức: tức là thức thứ tám theo thứ tự từ nhãn thức,
nhĩ, tỵ thức … cho đến thức thứ Tám là Đệ Bát thức.
2. Thức thứ Tám còn có tên là Dị thục thức. Thức này chấp
chứa chủng tử của tất cả các nghiệp do con người tạo ra, và những
chủng tử này chín muồi dần, thành thục dần, biến dị dần để rồi hiện
thành quả, cho nên gọi thức này bằng tên Dị thục thức.
3. Tàng thức, vì nó là kho chứa Chủng tử thức. Chữ tàng có 3
nghĩa:
- Năng tàng: cất chứa và duy trì những hạt giống của vạn pháp.
21
- Sở tàng: là chỗ bị chứa chủng tử của các pháp.
- Ngã ái chấp tàng: Thức A lại da bị Đệ thất thức Mạt na chấp
trước kiến phần làm tự ngã nên thường luyến ái.
Các chủng tử này hoạt động theo nguyên lý nhân duyên. Khi
chưa đủ duyên, tức khi chưa hội đủ các điều kiện cần thiết, chủng tử
ở trong trạng thái ngủ yên. Khi hội đủ các duyên, chủng tử sẽ sinh
khởi hiện hành và tạo ra các tác động lên thức.
Thức thứ Tám được xem là thức căn bản của mọi hiện tượng,
là nơi chứa đựng mọi kinh nghiệm của đời sống mỗi con người và là
nguồn gốc tất cả các hiện tượng tinh thần. A lại da thức chứa tất cả
những chủng tử kinh nghiệm của quá khứ, hiện tại và tương lai, khi
gặp nhân duyên phù hợp, các chủng tử ấy được tương tác và biến
hiện thành thế giới khách quan.
Sáu thức trước, chúng ta dễ dàng nhận ra chúng, hoạt động
gián đoạn, nghĩa là lúc có lúc không. Thức Mạt na và A lại da hoạt
động một cách âm thầm sâu kín nên ta khó nhận thấy chúng. Hai thức
này chính là phần vô thức mà Phân tâm học muốn nói đến. Hai thức
này hoạt động không gián đoạn, khi không có ý thức, phần vô thức
vẫn hoạt động.
Với việc đưa ra thuyết Tám thức, nhận thức luận Phật giáo đã
đề cập và giải quyết theo lập trường của mình tất cả những vấn đề
nhận thức luận, xuất phát từ thức để tìm ra đối tượng của sự nhận
thức, chỉ ra các hình thái, cấp độ và tiến trình của sự nhận thức. Mọi
nhận thức chung quy lại ở thức, chính vì vậy mà triết học Duy thức
Phật giáo trở thành một triết học hướng nội, tức là một sự nghiên cứu
hướng vào chủ thể để khám phá năng lực của con người.
2.3. Logich học
22
Mục đích của logich Phật giáo là giúp cho con người tránh
khỏi được mọi sai lầm và ảo giác. Để thực hiện được mục đích đó
Duy thức học đưa ra một kỹ thuật giúp chúng ta nhìn thấy phía sau sự
biến động của mọi hiện tượng còn một thứ gì khác nữa, đó là bản
chất tối hậu của thức. Kỹ thuật đó là phương pháp biện luận đặc thù
gọi là luận tam chi (tam chi tác pháp).
Luận tam chi bao gồm: tôn, nhân, dụ.
Tôn (pratijnà) là một luận đề (hay phán đoán) cần được
chứng minh.
Nhân (hetu) là lý do hoặc luận cứ được tạo ra nhằm chứng
minh cho luận đề. Về bản chất, nhân là mệnh đề trung gian cho chủ
thể có thể thông qua nó để nhận thức gián tiếp thuộc tính của đối
tượng.
Dụ (udàharana) là ví dụ, là những dẫn chứng thực tế, cụ thể
để hỗ trợ cho tính thuyết phục, tính có căn cứ của nhân.
Về các lỗi Logic trong Tam đoạn luận:
Logic học Duy thức phân biệt có tất cả 33 lỗi chia thành:
a. 9 lỗi của tôn (lập tôn cũng như nói lập thuyết vậy, và tôn
thường được diễn đạt thành mệnh đề gồm có chủ ngữ logic – tôn y
tiền trần và vị ngữ logic - tôn y hậu trần).
b. 14 lỗi của nhân được đưa ra để chứng minh tôn là đúng
đắn, không sai lầm.
c. 10 lỗi của dụ hay ví dụ được dùng để minh họa khiến cho
tôn và nhân thêm sức thuyết phục.
Song song với logic học Duy thức học thì tại Trung Quốc cổ
đại đã xuất hiện mầm mống tư tưởng logic học, nội dung chủ yếu bàn
về khái niệm, phán đoán lập luận... có mặt trong các trường phái Nho
gia, Mặc gia, Danh gia...
23
Với phép tam biểu, Mặc Tử đã có sự đóng góp lớn trong việc
phát triển lý luận về nhận thức thời Trung Quốc cổ đại.
Theo Mặc Tử, thứ nhất xét gốc của sự việc, sau đó xem cái
nguyên có hợp với quyền lợi của mọi người, nếu thấy đúng thì áp
dụng vào việc cai trị. So sánh với tam chi tác pháp chúng ta thấy có
điểm giống và khác nhau. Lập luận trong tam chi tác pháp và phép
tam biểu gắn với kinh nghiệm. Học thuyết tam biểu của Mặc gia
mang tính cách là một học thuyết về nhận thức, có xu hướng duy vật
và cảm giác luận, đề cao vai trò của kinh nghiệm, coi đó là bằng
chứng xác thực của nhận thức. Lập luận của tam chi tác pháp đã chú
ý đến sự kết hợp giữa kinh nghiệm (thực tiễn) và suy lý trong quá
trình nhận thức.
Trong phép tam biểu, Mặc Tử sử dụng phương pháp loại suy
để bác bỏ luận điểm của đối phương, lấy việc tìm ra mâu thuẫn để
chứng minh những điều sai lầm. Còn tam chi tác pháp sử dụng cả hai
phương pháp quy nạp và diễn dịch làm cho quá trình nhận thức mềm
dẻo và linh hoạt hơn.
Đại diện điển hình của logic học phương Tây là logic học
hình thức của Aristotle. Công thức lý luận của ông bắt đầu bằng hai
tiền đề và từ hai tiền đề đó rút ra kết luận.
Xét về mặt kết cấu, tam đoạn luận của Aristotle rất giống với
suy luận trong tam chi tác pháp của Duy thức học. Tôn trong luận
tam chi là câu kết luận, nhân là tiểu tiền đề, dụ là đại tiền đề. Tuy
nhiên, vẫn có sự khác biệt căn bản giữa hai hệ thống này:
Thứ nhất khác nhau về đối tượng nghiên cứu
Thứ hai về kết cấu
Thứ ba, lập luận trong tam chi tác pháp gắn với kinh nghiệm
rõ nét hơn trong tam đoạn luận
24
C. KẾT LUẬN
Duy thức tông là một sự phát triển của Đại thừa Phật giáo và
trở thành trụ cột thứ hai của triết học Đại thừa Phật giáo, bên cạnh
Trung quán tông.
Những vấn đề triết học của Duy thức tông được căn cứ vững
chắc trên kiến thức tâm lý học do nhiều trường phái Phật giáo trước
đó cung cấp. Vấn đề triết học cơ bản của Duy thức học là bản thể
luận, nhận thức luận và logich học. Nhận thức luận và bản thể luận là
cơ sở, nền tảng để phát triển logich học. Nội dung triết học cơ bản
của trường phái này chính là tập trung khảo sát các vấn đề về tâm và
thức của con người. Đưa học thuyết triết học, đặc biệt là bản thể luận,
nhận thức luận gắn với logich học là điểm đặc sắc trong học thuyết
Duy thức tông.
Với hệ thống Tám thức, trong đó chú trọng đến Tâm thức
(thức A lại da), nhận thức luận Duy thức tông đã đề cập và giải quyết
theo lập trường của mình tất cả những vấn đề nhận thức luận; xuất
phát từ Tâm thức để tìm ra đối tượng của sự nhận thức, chỉ ra các
hình thái, cấp độ và tiến trình của sự nhận thức.
Duy thức học cho chúng ta một hệ thống triết lý, phân tâm
học rất đầy đủ và tiến bộ hơn bất cứ hệ thống nào trong khoa học
hiện đại, vì ngoài khảo sát những đối tượng vật chất, Duy thức học
còn chú trọng nhiều đến vấn đề tâm linh; cho nên đã vượt qua, đi ra
ngoài những giới hạn của khoa học.
79
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Minh Đức Triều Tâm Ảnh (2008), Sử Phật giáo thế giới, tập 1, Nhà xuất
bản Thuận Hóa, Huế.
2. Nguyễn Duy Cần (1992), Phật học tinh hoa, Nhà xuất bản Thành phố Hồ
Chí Minh, TP Hồ Chí Minh.
3. Thích Minh Châu (1973) (dịch), Thắng pháp tập yếu luận, Viện Đại học
Vạn Hạnh.
4. Thích Nhuận Châu (2003) (dịch), Du già hành tông Yogacara, Nhà xuất
bản Tôn giáo, Hà Nội.
5. Edward Conze (2007), Tư tưởng Phật giáo Ấn Độ, Nhà xuất bản Phương
Đông, Thành phố Hồ Chí Minh.
6. Lưu Trường Cửu (2009), Nền văn hóa Phật giáo Trung Quốc, Nhà xuất
bản Đồng Nai, Đồng Nai.
7. Lý Việt Dũng (2008), Tóm tắt 300 bộ kinh luận Phật giáo danh tiếng, tập
1, Nhà xuất bản Phương Đông, TP Hồ Chí Minh.
8. Thích Quảng Đại (2006) (dịch), Tìm hiểu nguồn gốc Duy thức học, Nhà
xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.
9. Thích Trí Độ (1995), Giới thiệu Nhân minh học, Trường cơ bản Phật học
Hà Tây xuất bản.
10. Thích Quảng Độ (1969) (dịch), Đại thừa Phật giáo tư tưởng luận, Viện
Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn.
11. Cao Hữu Đính (2004), “Tâm lý học Phật giáo (Pháp tướng)”, Tạp chí
Nghiên cứu Phật học số 3, trang 18 – 25.
12. Thích Mãn Giác (2007), Lịch sử triết học Ấn Độ, Nhà xuất bản văn hóa
Sài Gòn, TP Hồ Chí Minh.
13. Thích Nhất Hạnh (1969), Vấn đề nhận thức trong Duy thức học, Nhà xuất
bản Lá Bối, Sài Gòn.
80
14. Thích Nhất Hạnh (2005), Giảng luận duy biểu học, Nhà xuất bản Lá Bối,
Sài Gòn.
15. Thích Thiện Hoa (2006), Duy thức học, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.
16. Thái Huyền – Trịnh Văn Hiến (1999), “Duy thức (tâm lý học Phật giáo)”,
Tạp chí Nghiên cứu Phật học số 2, trang 15 – 27.
17. Jean Francois Revel & Mathieu Ricard, Đối thoại giữa triết học và Phật
giáo, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin.
18. Thích Thanh Kiểm (2006), Lược sử Phật giáo Ấn Độ, Nxb Tôn giáo.
19. Giải Minh (soạn dịch) (2011), Thuật ngữ Duy thức học, Nxb
Phương Đông, Hà Nội.
20. Giải Minh (soạn dịch) (2012), Duy thức triết học, Nxb Phương Đông.
21. Nguyễn Lang (2008), Việt Nam Phật giáo sử luận, tập I, Nhà xuất bản
Văn học, Hà Nội.
22. Nguyễn Lang (2008), Việt Nam Phật giáo sử luận, tập II, Nhà xuất bản
Văn học, Hà Nội.
23. Pháp sư Thánh Nghiêm – Tịnh Hải (2008), Lịch sử Phật giáo thế giới,
Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội.
24. Chân Nguyên, Nguyễn Tường Bách, Thích Nhuận Châu (1998), Từ điển
Phật học Hán Việt, Nhà xuất bản Tôn giáo Hà Nội.
25. O.O. Rozenberg (1990), Phật giáo – Những vấn đề triết học, Trung tâm
tư liệu Phật học xuất bản, Hà Nội.
26. Trí Quang (1994), Nhiếp luận, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh.
27. Phạm Quỳnh (2001), “Một số vấn đề nhận thức trong triết học Phật
giáo”, Tạp chí Nghiên cứu Phật học số 5, trang 14 – 18.
28. Phạm Quỳnh (2001), “Một số vấn đề nhận thức trong triết học
Phật giáo”, Tạp chí Nghiên cứu Phật học số 6, trang 57 – 61.
29. Phạm Quỳnh (2002), “Vấn đề suy luận (tỷ lượng) trong logic học
Phật giáo”, tạp chí Nghiên cứu Phật học số 1, trang 18 – 29.
81
30. Phạm Quỳnh (2002), “Vấn đề suy luận (tỷ lượng) trong logic học
Phật giáo”, Tạp chí Nghiên cứu Phật học số 2, trang 18 – 20.
31. Phạm Quỳnh (2002), “Vấn đề suy luận (tỷ lượng) trong logic học
Phật giáo”, Tạp chí Nghiên cứu Phật học số 3, trang 18 – 21.
32. Phạm Quỳnh (2002), “Sự thống nhất giữa bản thể luận, nhận thức luận và
logic học trong logic học Phật giáo”, Tạp chí Triết học số 6, trang 38 – 45.
33. Phạm Quỳnh (2003), “Nội dung cơ bản của logic học Ấn Độ trong các
tác phẩm triết học tiền Phật giáo”, Tạp chí Triết học số 8, trang 38 – 46.
34. Phạm Quỳnh (2004), “Quy luật tư duy logic trong logic học Phật giáo”,
Tạp chí Triết học số 9, trang 40 – 46.
35. Phạm Quỳnh (2004), “Một số phép suy luận cơ bản trong logic học
Phật giáo”, Tạp chí Nghiên cứu Phật học số 4, trang 19 – 20.
36. Tuệ Sỹ (2003) (dịch và chú), Luận thành Duy thức, Viện Cao đẳng
Phật học Nha Trang, Ban Tu thư Phật học.
37. Tuệ Sỹ (2008) (dịch), Tinh hoa triết học Phật giáo, Nxb Phương Đông,
Thành phố Hồ Chí Minh.
38. Thích Thiện Siêu (1994), Lối vào Nhân minh học, Viện Nghiên cứu
Phật học Việt Nam ấn hành.
39. Thích Thiện Siêu (2006), Đại cương luận câu xá, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
40. Thích Thiện Siêu (2006), Luận thành Duy thức, Nhà xuất bản Văn hóa
Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí Minh.
41. Suzuki (1998), Nghiên cứu kinh Lăng già, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
42. Lâm Như Tạng (2006), Thức thứ tám, Nxb Tổng hợp Tp Hồ Chí Minh.
43. Thích Thiện Tâm (1995), Duy thức học cương yếu, Giáo hội Phật giáo
Việt Nam.
44. Thích Nguyên Tâm (biên dịch) (2010), Tinh hoa Phật giáo Nhật Bản, tập
1, Nhà xuất bản Phương Đông, TP Hồ Chí Minh.
45. Tì kheo Như Thanh (1991), Duy thức học, 4 tập, Thành hội Phật giáo
Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành.
82
46. Thích Viên Thành (1999), Luận Đại thừa Bách pháp minh môn, Nhà xuất
bản Thành phố Hồ Chí Minh.
47. Lê Mạnh Thát (2005), Triết học Thế thân, Nhà xuất bản Tổng hợp Thành
phố Hồ Chí Minh, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam.
48. Thích Chân Thiện (1999), Phật học khái luận, Nxb TP Hồ Chí Minh.
49. Thích Tâm Thiện (2000), Tâm lý học Phật giáo, Nhà xuất bản Thành phố
Hồ Chí Minh.
50. Hồ Thích (2004), Lịch sử logic học thời tiên Tần, Nhà xuất bản TP Hồ
Chí Minh, TP Hồ Chí Minh.
51. Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thúy Nga (dịch) (1990), Thiều uyển tập anh,
Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.
52. Pháp Thông (dịch) (2006), Biết và thấy, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.
53. Nguyễn Tài Thư (1999), “Vai trò của Duy thức tông trong phong trào
Chấn hưng Phật giáo những thập kỷ đầu thế kỷ XX ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên
cứu Tôn giáo số 2, trang 17 – 25.
54. Từ điển Phật học, Nhà xuất bản Huế, 1999.
55. Huyền Trang (1995), Bát thức quy củ tụng, Tỷ kheo Giới hương tuyển tập.
56. Đường Đại Viên (2008), Phương pháp khoa học của Duy thức, Nhà xuất
bản Phương Đông, Thành phố Hồ Chí Minh.
57. Vũ Văn Viên (2001), “Một số vấn đề về logic học Phật giáo”, Tạp chí
Nghiên cứu Tôn giáo số 6, trang 17 – 25.
58. Nguyệt Khê Tâm Viên (2011), Đại thừa tuyệt đối luận, tập 1, Nhà xuất
bản Thời đại, TP Hồ Chí Minh.