Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo và ảnh hưởng tới nền văn...

22
MỤC LỤC MỤC LỤC_________________________________________________________________________1 LỜI MỞ ĐẦU_____________________________________________________________________2 PHẦN I: KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VÀ_________________________________3 MỘT SỐ TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA PHẬT GIÁO________________________________3 I. Khái quát lịch sử phát triển của Phật giáo_________3 II. Những tư tưởng cơ bản của triết học Phật giáo_____3 1. Thế giới quan Phật giáo___________________________4 2. Nhân sinh quan Phật giáo__________________________5 PHẦN II: ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO TỚI NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM_____________________________________________________________8 I. Lịch sử hình thành và phát triển Phật giáo Việt Nam ______________________________________________________8 II. Ảnh hưởng của Phật giáo tới nền văn hóa Việt Nam:_8 1. Phật giáo đã góp phần hình thành và phát triển nhân cách, tư duy của con người Việt Nam_____________9 2. Ảnh hưởng của Phật giáo tới đời sống chính trị xã hội_________________________________________________10 3. Ảnh hưởng của Phật giáo tới đời sống văn hóa Việt Nam_________________________________________________11 a) Văn hóa tín ngưỡng______________________________11 b) Kiến trúc chùa tháp_____________________________11 c) Văn hóa dân gian________________________________13 KẾT LUẬN_______________________________________________________________________14 TÀI LIỆU THAM KHẢO_____________________________________15 Phạm Thị Minh Thu Lớp KTTG 16.2 1/22

Transcript of Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo và ảnh hưởng tới nền văn...

Page 1: Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo và ảnh hưởng tới nền văn hóaViệt Nam

MỤC LỤC

MỤC LỤC__________________________________________________________1

LỜI MỞ ĐẦU_______________________________________________________2

PHẦN I: KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VÀ________________________3

MỘT SỐ TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA PHẬT GIÁO_________________________3

I. Khái quát lịch sử phát triển của Phật giáo____________________________3

II. Những tư tưởng cơ bản của triết học Phật giáo_______________________31. Thế giới quan Phật giáo__________________________________________42. Nhân sinh quan Phật giáo_________________________________________5

PHẦN II: ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO TỚI NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM___________________________________________8

I. Lịch sử hình thành và phát triển Phật giáo Việt Nam___________________8

II. Ảnh hưởng của Phật giáo tới nền văn hóa Việt Nam:__________________81. Phật giáo đã góp phần hình thành và phát triển nhân cách, tư duy của con người Việt Nam___________________________________________________92. Ảnh hưởng của Phật giáo tới đời sống chính trị xã hội__________________103. Ảnh hưởng của Phật giáo tới đời sống văn hóa Việt Nam_______________11

a) Văn hóa tín ngưỡng___________________________________________11b) Kiến trúc chùa tháp___________________________________________11c) Văn hóa dân gian_____________________________________________13

KẾT LUẬN________________________________________________________14

TÀI LIỆU THAM KHẢO_____________________________________________15

Phạm Thị Minh ThuLớp KTTG 16.2

1/15

Page 2: Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo và ảnh hưởng tới nền văn hóaViệt Nam

LỜI MỞ ĐẦUPhật giáo là một trong những học thuyết Triết học - tôn giáo lớn nhất , tồn tại rất lâu

đời và ngày càng mở rộng tầm ảnh hưởng của mình tới các quốc gia trên thế giới. Hệ thống

giáo lý của Phật giáo rất đồ sộ và số lượng phật tử đông đảo được phân bố rộng khắp. Bên

cạnh các quốc gia có nền Phật giáo phát triển mạnh như Ấn Độ, Trung Quốc, thì Việt Nam

cũng được kể tới như một quốc gia của Phật giáo. Bên cạnh các tôn giáo khác như Nho

giáo, Thiên chúa giáo…, Phật giáo – Đạo Phật ở Việt Nam không chỉ là một học thuyết

triết học hay một tôn giáo đơn thuần mà đã ăn sâu và ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống xã

hội, tinh thần của con người Việt Nam. Quá trình Phật giáo phát triển, truyền bá ở Việt

Nam gắn liền với quá trình hình thành, phát triển tư tưởng, đạo đức của con người. Vì vậy

khi nghiên cứu lịch sử, tư tưởng, đạo đức Việt Nam không thể không đề cập đến Phật giáo

và những mối quan hệ, tác động qua lại giữa chúng.

Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên CNXH ở Việt Nam, tư tưởng triết học

Phật giáo không còn giữ vai trò chủ đạo như thời kỳ thế kỷ thứ X – XIV, thay vào đó Chủ

nghĩa Mác – Lenin là tư tưởng chủ đạo, là vũ khí lý luận của chúng ta. Nhưng bên cạnh đó,

bộ phận kiến trúc thượng tầng của xã hội cũ vẫn có sức sống dai dẳng, trong đó giáo lý nhà

Phật đã ít nhiều in sâu vào tư tưởng tình cảm của một số bộ phận lớn dân cư Việt Nam.

Những tư tưởng của Phật giáo tuy tồn tại những điểm hạn chế, song cũng có rất nhiều tác

động tích cực, bởi vậy việc xoá bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của nó là không thể thực hiện

được và cũng không nên thực hiện. Vì vậy, nghiên cứu lịch sử, giáo lý, và sự tác động của

đạo Phật đối với thế giới quan, nhân sinh quan của con người là hết sức cần thiết để vận

dụng những tư tưởng của Phật giáo một cách hợp lý, góp phần đạt được mục đích của thời

kỳ quá độ cũng như sau này. Việc đi sâu nghiên cứu, đánh giá những mặt hạn chế cũng

như tiến bộ, nhân đạo của Phật giáo giúp ta hiểu rõ tâm lý nhân dân hơn và qua đó tìm ra

được một phương cách để hướng đạo cho nhân dân, theo đạo để làm điều thiện, tránh cái ác,

hình thành nhân cách con người tốt hơn, từ đó đóng góp xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.

Lĩnh vực nghiên cứu Phật giáo hiện nay tương đối được mở rộng, ngoài việc nghiên

cứu giáo lý, kinh điển, lịch sử ... của Phật giáo ra còn đề cập đến các lĩnh vực Triết học, Sử

học, Tâm lý học, Khảo cổ học, Xã hội học, Dân tộc học, Văn học, Nghệ thuật ... Phật học

đã trở thành một trong những khoa học tương đối quan trọng trong khoa học xã hội, trước

mắt có quan hệ mật thiết với xã hội học.

Chính vì ý nghĩa và vai trò to lớn của Phật giáo đối với tiến trình phát triển xã hội của

Việt Nam, tôi đã chọn đề tài “Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo và ảnh

hưởng tới nền văn hóaViệt Nam” để nghiên cứu cho tiểu luận môn học. Ngoài phần mở

đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung đề tài bao gồm 2 phần:

Phần I: Khái quát lịch sử phát triển và một số tư tưởng cơ bản của Phật Giáo

Phần II: Ảnh hưởng của Phật giáo tới nền văn hoá Việt Nam.

Phạm Thị Minh ThuLớp KTTG 16.2

2/15

Page 3: Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo và ảnh hưởng tới nền văn hóaViệt Nam

PHẦN I: KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VÀ MỘT SỐ TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA PHẬT GIÁO

I. Khái quát lịch sử phát triển của Phật giáo

Phật giáo là một tôn giáo được Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) truyền giảng ở miền bắc

Ấn Độ vào thế kỷ 6 trước công nguyên. Phật là tên ghi âm Hán Việt của Buddba, có nghĩa là

giác ngộ. Phật giáo là hình thức tổ chức giáo đoàn được xây dựng trên một niềm tin từ đức

Phật, tức từ biển lớn trí tuệ và từ bi của Siddbada. Do được truyền bá trong một thời gian dài

ra nhiều nơi đến nhiều chủng tộc nên lịch sử phát triển của đạo Phật khá đa dạng về các bộ

phái cũng như các nghi thức hay phương pháp tu học. Sau khi ra đời ở Ấn Độ vào thế kỷ thứ

9 đến thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên, Phật giáo được lưu hành rộng rãi ở các quốc gia

trong khu vực Á - Phi, gần đây được truyền tới các nước Âu - Mỹ. Trong quá trình truyền bá,

đạo Phật đã kết hợp với tín ngưỡng, tập tục, dân gian, văn hoá bản địa để hình thành rất

nhiều tông phái và học phái, có tác động vô cùng quan trọng với đời sống xã hội và văn hoá

của rất nhiều quốc gia.

Trong lịch sử triết học Phật giáo, có thể xác lập nên ba thời kỳ lớn. Thời kỳ được gọi là

thời kỳ của Tiểu thừa thuần tuý và các nhánh của nó, tức Phật giáo nguyên thủy; Thời kỳ

xuất hiện Đại thừa và đấu tranh giữa Đại thừa và Tiểu thừa; Thời kỳ chiến thắng và hưng

thịnh của Đại thừa.

Thuộc thời kỳ nguyên thủy có tác phẩm Mahavibasa đồ sộ và một loạt những bản luận

ngắn hơn. Dựa vào các tài liệu này, có thể tìm ra những khái niệm rõ ràng về cuộc tranh

luận giữa các tông phái thuộc thời kỳ kinh viện cổ xưa của Phật giáo.

Thời kỳ thứ hai bắt đầu vào khoảng đầu công nguyên. Vào thời gian này, tồn tại nhiều

khuynh hướng triết học rất khác nhau, triết học Tiểu thừa tiếp tục phát triển hưng thịnh,

Đại thừa vẫn chưa át được Tiểu thừa và chủ nghĩa thần bí chưa thắng được chủ nghĩa duy

lý. Cùng một lúc, ở một số trường phái này thì đi vào lôgic, còn các trường phái khác lại

phát triển những học thuyết thuần túy thần bí về thiền định.

Những người đặt nền tảng giáo điều cho thời kỳ thứ ba là Asanga và Vasubandu, giai

đoạn đã chuyển từ Tiểu thừa sang Đại thừa. Thời kỳ này bắt đầu bằng chiến thắng của Đại

thừa và tiếp tục bằng sự phát triển của Đại thừa thành các nhánh, các tông phái.

Ngay từ buổi đầu, Thích Ca, người sáng lập đạo Phật, đã tổ chức được một giáo hội với

các giới luật chặt chẽ. Nhờ vào sự uyển chuyển của giáo pháp, đạo Phật có thể thích nghi

với nhiều hoàn cảnh xã hội, nhiều dạng người, nhiều tập tục ở các thời kỳ khác nhau, và do

đó ngày nay Phật giáo vẫn tiếp tục tồn tại và ngày càng phát triển ngay cả trong các nước

có nền khoa học tiên tiến như Hoa Kỳ và Tây Âu.

Phạm Thị Minh ThuLớp KTTG 16.2

3/15

Page 4: Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo và ảnh hưởng tới nền văn hóaViệt Nam

II. Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo

Những nguyên lý cơ bản của Phật giáo được thể hiện trong giáo lý. Hệ thống giáo lý của

Phật giáo là một hệ thống rất đồ sộ nằm chủ yếu trong Tam tạng kinh điển, gồm Kinh tạng

(ghi lời Phật dạy), Luật tạng (các giới luật), và Luận tạng (các bài kinh, tác phẩm luận giải,

bình chú về giáo pháp của các cao tăng và học giả sau này).

Tư tưởng triết học Phật giáo thể hiện trên hai phương diện thế giới quan và nhân sinh quan,

cả hai phương diện này đều chứa đựng những tư tưởng duy vật và biện chứng chất phác.

1. Thế giới quan Phật giáo

Thế giới quan Phật giáo là một thế giới quan có tính duy vật và vô thần, đồng thời có

chứa đựng nhiều yếu tố biện chứng sâu sắc. Những tư tưởng triết học Phật giáo này được

thể hiện thông qua 4 phạm trù cơ bản: vô tạo giả, duyên khởi, vô thường và vô ngã.

Tính duy vật và vô thần thể hiện rõ nét nhất ở quan niệm về tính tự thân sinh thành,

biến đổi của vạn vật, không do sự chi phối quyết định của một lực lượng thần linh hay

thượng đế tối cao nào. Trái lại vạn vật đều tuân theo tính tất định và phổ biến của luật nhân

quả. Điều này được quán triệt trong việc lý giải những vấn đề của cuộc sống nhân sinh

như: Hạnh phúc, đau khổ, giàu nghèo, thọ,yểu…

- Trong phạm trù “vô tạo giả”, Phật giáo cho rằng vạn vật là vô thủy chung, không có

sự vật đầu tiên vì không có nguyên nhân đầu tiên và cũng không có sự vật cuối cùng. Vạn

vật, kể cả con người đều không do thần linh hay thượng đế sáng tạo ra. Như vậy ngay từ

đầu Phật giáo đã đặt ra mục đích giải quyết vấn đề cơ bản của Triết học một cách biện

chứng và duy vật. Phật giáo đã gạt bỏ vai trò sáng tạo thế giới của các “đấng tối cao” của

“Thượng đế” và cho rằng bản thể của thế giới tồn tại khách quan và không do vị thần nào

sáng tạo ra cả. Cái bản thể ấy chính là sự thường hằng trong vận động của vũ trụ, là muôn

ngàn hình thức của vạn vật trong vận động, nó có mặt trong vạn vật nhưng nó không dừng

lại ở bất kỳ hình thức nào. Tuy nhiên, Phật giáo cũng cho rằng vạn vật, kể cả con người chỉ

là ảo và giả, chỉ do “tâm vô minh” sinh ra.

- Vạn vật tuy muôn hình vạn trạng nhưng đều tuân hành nghiêm ngặt theo quan hệ nhân

quả (nhân quả tương tục và nhân quả vô tạp loạn) thông qua điều kiện nhất định gọi là duyên

– Tư tưởng này được gọi là “duyên khởi”. Từ quan niệm vạn vật không tự nhiên có, không

tự nhiên sinh ra, và cũng không do một thần quyền hay một đấng thiêng liêng nào tạo ra,

Phật cho rằng sự vật sinh ra phải có nhân duyên. Phật giáo lại nhấn mạnh: quả có thể khác

nhân sinh ra nó, quả có thể hơn nhân nếu gặp đủ duyên tốt, trái lại có thể kém nhân nếu gặp

duyên xấu. Nhân gặp đủ duyên thì sẽ thành quả, quả sinh ra nếu hội tủ đủ duyên lại có thể

biến thành nhân rồi lại sinh ra quả khác. Như vậy, sự vật là một chuỗi nhân quả nối tiếp

nhau, ảnh hưởng lẫn nhau không bao giờ đứt quãng, không bao giờ ngừng.

Tính biện chứng sâu sắc của triết học Phật giáo đặc biệt thể hiện rõ qua việc luận chứng

Phạm Thị Minh ThuLớp KTTG 16.2

4/15

Page 5: Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo và ảnh hưởng tới nền văn hóaViệt Nam

về tính chất “vô ngã” và “vô thường” của vạn vật.

- Phạm trù “vô ngã” bao hàm tư tưởng cho rằng, vạn vật trong vụ trụ vốn không có

tính thường hằng nó chỉ là sự “giả hợp” do sự hội đủ nhân duyên nên thành ra “có” (tồn

tại). Ngay bản thân sự tồn tại của thực tế con người chẳng qua cũng là do “ngũ uẩn” (năm

yếu tố) hội hợp lại: Sắc (vật chất), thụ (cảm giác), tưởng (ấn tượng), hành (suy lý) và thức

(ý thức). Theo cách phân loại khác-“lục tại”: địa (chất khoảng), thuỷ (chất nước), hoả

(nhiệt năng), phong (hơi thở), không (khoảng trống) và thức (ý thức). Nói một cách tổng

quát thì vạn vật chỉ là sự “hội hợp” của hai loại yếu tố là vật chất “sắc” và tinh thần

“danh”. Như vậy thì không có cái gọi là “tôi” (vô ngã).

- Phạm trù “vô thường” gắn liền với phạm trù “vô ngã”. Vô thường nghĩa là vạn vật

biến đổi vô cùng theo chu trình bất tận: Sinh – Trụ – Dị – Diệt…(hay: Sinh – Trụ – Hoại –

Không). Vậy thì “có có” – “không không” luân hồi (bánh xe quay) bất tận: “thoáng có”,

“thoáng không” cái còn mà chẳng còn, cái mất mà chẳng mất. Bản chất sự tồn tại của thế

giới là một dòng biến chuyển không ngừng (vô thường). Không thể tìm ra nguyên nhân

đầu tiên, do vậy không có ai tạo ra thế giới và cũng không có gì vĩnh hằng.

Như vậy, Phật giáo cho rằng các sự vật và hiện tượng trong vũ trụ (chu pháp) là vô

thuỷ, vô chung (vô cùng, vô tận). Tất cả thế giới đều ở quá trình biến đổi liên tục (vô

thường) không có một vị thần nào sáng tạo ra vạn vật cả. Tất cả các Pháp đều thuộc về một

giới (vạn vật đều nằm trong vũ trụ) gọi là Pháp giới. Mỗi một pháp ( mỗi một sự v iệc hiện

tượng, hay một lớp sự việc hiện tượng) đều ảnh hưởng đến toàn Pháp. Như vậy các sự vật,

hiện tượng hay các quá trình của thế giới là luôn luôn tồn tại trong mối liên hệ, tác động

qua lại và qui định lẫn nhau, đều bị chi phối bởi luật nhân quả, biến hoá vô thường, không

có cái bản ngã cố định, không có cái thực thể, không có hình thức nào tồn tại vĩnh viễn cả.

Cái nhân nhờ có cái duyên mới sinh ra được mà thành quả. Quả lại nhờ có duyên mà thành

nhân khác, nhân khác lại thành quả. Quả lại nhờ có duyên mà thành nhân khác, nhân khác

lại nhờ có duyên mà thành quả mới ... Cứ thế nối nhau vô cùng vô tận mà thế giới, vạn vật,

muôn loài, cứ sinh sinh, hoá hoá mãi.

2. Nhân sinh quan Phật giáo

Nhân sinh quan Phật giáo là phần trọng tâm của triết học này. Nội dung triết học nhân

sinh của Phật giáo tập trung ở bốn luận điểm (gọi là Tứ diệu đế hay còn gọi là tứ chân đế

hay tứ thánh đế). Bốn luận điểm này được Phật giáo coi là bốn chân lý vĩ đại về cuộc sống

nhân sinh cho bất cứ cuộc sống nhân sinh nào thuộc đẳng cấp nào, đồng thời cũng là cơ sở

của các thuyết khác trong giáo lý Phật.

Khổ đế giải thích sự thật nơi cuộc sống nhân sinh không có gì khác ngoài sự đau khổ,

ràng buộc hệ luỵ, không có tự do. Đó là 8 nỗi khổ trầm lâm bất tận mà bất cứ ai cũng phải

gánh chịu: Sinh, Lão, Bệnh, Tử, Ái biệt Ly (yêu thương chia lìa), Oán tăng hội (oán ghét

nhau mà phải sống với nhau), Sở cầu bất đắc (cái mong muốn mà không đạt được), và Ngũ

Phạm Thị Minh ThuLớp KTTG 16.2

5/15

Page 6: Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo và ảnh hưởng tới nền văn hóaViệt Nam

thụ uẩn (5 yếu tố vô thường nung nấu làm khổ).

Nhân đế là những nguyên nhân tạo thành sự khổ. Những nguyên nhân đó không phải

tìm đâu xa mà ở ngay trong mỗi chúng ta. Do đó, Phật đưa ra lý thuyết thập nhị nhân

duyên để thấy được nguồn gốc của sự vật trong thế gian. 12 nhân duyên là sợi dây liên tục

nối tiếp con người trong vòng sinh tử luân hồi đó là: 1.Vô minh; 2.Hành; 3.Thức; 4.Danh

sắc; 5.Lục nhập; 6.Xúc; 7.Thụ; 8.Ái; 9.Thủ; 10.Hữu; 11.Sinh và 12.Lão Tử. Trong 12 nhân

duyên ấy thì “Vô minh” là nguyên nhân thâu tóm tất cả. Bởi vậy diệt trừ vô minh là diệt

trừ tận gốc rễ sự đau khổ nhân sinh. Dưới góc độ nhận thức, vô minh là “ngu tối”, “không

sáng suốt”, “thiếu giác ngộ chân lý”.

Nhân đế là một chân lý thể hiện tính biểu chứng sâu sắc trong mối quan hệ nhân quả và

đã tìm tới các nguyên nhân rất đa dạng, phong phú. Các nguyên nhân ấy quan hệ với nhau,

cái nào cũng có thể làm nhân làm duyên cho cái khác, như làn sóng trên mặt biển, lớp

trước là lớp nhân là duyên cho lớp sau và cứ thế tiếp diễn. Nhưng cái hạn chế của nhân đế

là chưa đề cập đến nguyên nhân từ xã hội. Đặc biệt là chưa nhắc tới quan hệ giai cấp, bóc

lột trong xã hội. Luận điểm này thể hiện rõ từ trào hướng nội hướng nội trong nhận thức

luận Phật giáo.

Diệt đế bàn về khả năng có thể tiêu diệt được sự khổ nơi cuộc sống nhân sinh, đạt tới

trạng thái Niết bàn, cứu cánh của hành động tự do. Luận điểm này cũng bộc lộ tinh thần lạc

quan tôn giáo của Phật giáo; cũng thể hiện khát vọng nhân bản của nó muốn hướng con

người đến niềm hạnh phúc “tuyệt đối”; khát vọng chân chính của con người tới Chân –

Thiện – Mỹ.

Đạo đế là con đường, là môn pháp hướng dẫn cho chúng sinh diệt khổ, ra khỏi luân hồi

sinh tử, đạt tới giải thoát. Đó không phải là con đường sử dụng bạo lực mà là con đường

“tu đạo”. Thực chất của con đường này là hoàn thiện đạo đức cá nhân. Sự giải phóng mang

ý nghĩa của sự thực hiện cá nhân, không mang ý nghĩa của những phong trào cách mạng

hay cải cách xã hội. Đây là nét đặc biệt của “tinh thần giải phóng nhân sinh” của Phật

giáo. Pháp môn tu dưỡng ra khỏi luân hồi sinh tử rất nhiều, nhưng thường được đề cao là

phương pháp 37 đạo phẩm.

Trong 37 đạo phẩm, bát chính đạo là quan trọng nhất. Nó là con đường giúp người ta

thoát khỏi phiền não, đau khổ đi tới cảnh giới Niết Bàn tự tại, an lạc. Bát chính đạo gồm có:

1. Chính ngữ : là tu nghiệp thanh tịnh, không phát ra lời nói sai trái.

2. Chính nghiệp: hành động chân chính, mang lại lợi ích cho mọi người.

3. Chính mệnh: sống bằng nghề nghiệp chân chính.

4. Chính tịnh tiến : tiến tới trên con đường đạo, không đi vào các đường tà.

5. Chính niệm: tâm trí luôn luôn nghĩ đến đạo lý vô ngã, diệt trừ những kiến chấp mê

lầm, đoạt trừ những tư tưởng, hành động bất chính.Phạm Thị Minh ThuLớp KTTG 16.2

6/15

Page 7: Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo và ảnh hưởng tới nền văn hóaViệt Nam

6. Chính định : Giữ tâm vắng lặng không một vọng niệm khởi lên để trí tuệ xuất hiện,

chứng quả tu đà hoàn.

7. Chính kiến : kết quả của việc sống, tư duy con người phải có ý biến lấy tiêu biểu là

các vị Phật.

8. Chính tư duy: Sau khi có niệm khởi, con người sẽ tư duy, suy nghĩ một cách chân

chính, làm chủ được dòng tư duy.Tám nguyên tắc (hay “bất chính đạo”) có thể thâu tóm

vào ba điều học tập, rèn luyện lớn là: Giới - Định – Tuệ (tức là: Giữ giới luật, thực hành

thiền đinh và khai thông trí tuệ Bát nhã).

Muốn thực hiện được “ Bát chính đạo” thì phải có phương pháp để thực hiện nhằm

ngăn ngừa những điều gian ác gây thiệt hại cho mình và những người làm điều thiện có lợi

ích cho mình và cho người. Nội dung của các phương pháp đó là thực hiện “ Ngũ giới”

( năm điều răn ) và “Lục độ” (Sáu phép tu ).

“Ngũ giới” gồm: Bất sát (Không sát sinh), Bất đạo (Không làm điều phi nghĩa), Bất

dâm (Không dâm dục), Bất vọng ngữ (Không bịa đặt, không vu oan giáo hoạ cho kẻ khác,

không nói dối),

“Lục độ” gồm: Bố thí (Đêm công sức, tài trí, của cải để giúp người một cách thành

thực chứ không để cầu lợi hoặc ban ơn), Trí giới (Trung thành với điều răn, kiên trì tu

luyện), Nhẫn nhục (Phải biết kiên nhẫn, nhường nhịn, chịu đựng để làm chủ được mình),

Tịnh tiến (Cố gắng nỗ lực vươn lên), Thiền định (Tư tưởng phải tập trung vào điều ngay,

chính không để cho cái xấu cho lấp), Bát nhã (Trí tuệ thấy rõ hết, hiểu thấu hết mọi chuyện

trên thế gian).

Tóm lại Phật giáo cho rằng chỉ có bằng sự kiên định để thực hiện “Bát hành đạo”, “Ngũ

giới”, “Lục độ” thì chúng sinh mới có thể giải thoát mình ra khỏi nỗi khổ. Phật giáo không chủ

trương giải phóng bằng cách mạng xã hội. Mặc dù Phật giáo lên án rất gay gắt chế độ người

bóc lột người, chống lại chủ nghĩa duy tâm cua Bàlamôn giáo. Đó là một trong những nhược

điểm đồng thời cũng là ưu điểm nửa vời của Đạo phật. Đứng trước bể khổ của chúng sinh Phật

giáo chủ trương cải tạo tâm linh chứ không phải cải tạo thế giới hiện thực.

Như vậy Phật giáo nguyên thuỷ có tư tưởng vô thần, phủ nhận đấng sáng tạo ( vô ngã,

vô tạo giả) và có tư tưởng biện chứng ( vô thường, lý thuyết Duyên khởi ). Tuy nhiên, Triết

học Phật giáo cũng thể hiện tính duy tâm chủ quan khi coi thế giới hiện thực là ảo giả và

do cái tâm vô minh của con người tạo ra.

Phạm Thị Minh ThuLớp KTTG 16.2

7/15

Page 8: Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo và ảnh hưởng tới nền văn hóaViệt Nam

PHẦN II: ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO TỚI NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM

I. Lịch sử hình thành và phát triển Phật giáo Việt Nam

Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, ngay từ khoảng thế kỷ II sau Công

Nguyên với truyện cổ tích Chử Đồng Tử học đạo của một nhà sư Ấn Độ. Luy Lâu (thuộc

tỉnh Bắc Ninh) là trụ sở của quận Giao Chỉ sớm trở thành trung tâm Phật giáo quan trọng.

Các truyền thuyết về Thạch Quang Phật và Man Nương Phật Mẫu xuất hiện cùng với sự

giảng đạo của Khâu Đà La (Ksudra) trong khoảng các năm 168-189.

Do tiếp thu Phật giáo trực tiếp từ Ấn Độ nên từ Buddha (bậc giác ngộ) được phiên âm

trực tiếp thành Bụt, từ Bụt được dùng nhiều trong các truyện dân gian. Phật giáo Việt Nam

lúc ấy mang màu sắc của Tiểu thừa, Bụt được coi như một vị thần chuyên cứu giúp người

tốt, trừng phạt kẻ xấu. Sau này, vào thế kỷ thứ 4-5, do ảnh hưởng của Đại thừa đến từ Trung

Quốc mà từ Bụt bị mất đi và được thay thế bởi từ Phật. Trong tiếng Hán, từ Buddha được

phiên âm thành Phật đà, Phật đồ rồi được rút gọn thành Phật.

Phật giáo ăn sâu, bám rễ vào Việt Nam từ rất sớm. Đến đời nhà Lý, nhà Trần, Phật giáo

phát triển cực thịnh, được coi là quốc giáo, ảnh hưởng đến tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống.

Đến đời nhà Hậu Lê thì Nho giáo được coi là quốc giáo và Phật giáo đi vào giai đoạn suy

thoái. Đến đầu thế kỷ 18, vua Quang Trung cố gắng chấn hưng đạo Phật, chỉnh đốn xây chùa,

nhưng vì mất sớm nên việc này không có nhiều kết quả. Đến thế kỷ 20, mặc dù ảnh hưởng

mạnh của quá trình Âu hóa, Phật giáo Việt Nam lại phát triển mạnh mẽ khởi đầu từ các đô thị

miền Nam với các đóng góp quan trọng của các nhà sư Khánh Hòa và Thiện Chiếu.

Bốn giai đoạn lịch sử Phật giáo Việt Nam

* Từ đầu công nguyên đến hết thời kỳ Bắc thuộc là giai đoạn hình thành và phát

triển rộng khắp;

* Thời Đại Việt là giai đoạn cực thịnh;

* Từ đời Hậu Lê đến cuối thế kỷ 19 là giai đoạn suy thoái;

* Từ đầu thế kỷ 20 đến nay là giai đoạn phục hưng.

Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Phật giáo có ảnh hưởng sâu đậm và lâu dài. Trong quá trình

phát triển, Phật giáo với tư cách là một tôn giáo, đã có nhiều đóng góp cho văn hoá Việt Nam.

Cũng giống như tôn giáo ngoại sinh khác như nho giáo, Đạo giáo, Islam giáo, Công giáo

hay Đạo tin lành, Phật giáo khi du nhập vào Việt Nam đã có những va chạm nhất định với văn

hoá bản địa, hình thành cục diện hội nhập khác với sự tiến hoá tự nhiên của một hệ tư tưởng

bản địa. Quá trình hội nhập đó dẫn tới sự hình thành những yếu tố văn hoá mới.

II. Ảnh hưởng của Phật giáo tới nền văn hóa Việt Nam:

Phật giáo sau khi được du nhập vào Việt đã kết hợp với phong tục, tập quán truyền thống

dân tộc Việt Nam hình thành nên Phật giáo Việt Nam. Trải qua một khoảng thời gian dài, Phật

Phạm Thị Minh ThuLớp KTTG 16.2

8/15

Page 9: Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo và ảnh hưởng tới nền văn hóaViệt Nam

giáo ở Việt Nam không ngừng phát triển, lớn mạnh và đã tạo nên một dấu ấn sâu đậm trong

việc hình thành đạo đức, nhân cách con người Việt Nam, nền văn hoá Việt Nam. Trong phạm

vi tiểu luận này chỉ bàn đến một số ảnh hưởng cơ bản của Phật giáo tới nền văn hóa Việt Nam.

1. Phật giáo đã góp phần hình thành và phát triển nhân cách, tư duy của con người Việt Nam

Phật giáo là một tôn giáo, như các tôn giáo khác, Phật giáo cũng gồm có giáo lý và hoạt

động tín ngưỡng. Giáo lý là một hệ thống các quan điểm về thế giới và con người, về cách thức

tu luyện và hoạt động tín ngưỡng, là những hành vi, những nghi lễ cần phải thực hiện để đạt tới

ước nguyện. Cả hai đều có ý nghĩa đối với việc hình thành nhân cách của các tín đồ.

Có thể nhận thấy, người Việt nảy sinh tư duy trừu tượng về phồn thực với hình thức ma

thuật mô phỏng là một dạng tôn giáo tín ngưỡng nguyên thuỷ. Các nhà nghiên cứu đã phân

tích các hình vễ được khắc trên thân trống đồng như cảnh chim bay, cảnh miêu tả các động

vật như trâu, bò để chứng minh cho luận thuyết: Người Việt khi đó đã có quan niệm về vũ

trụ quan với 3 thế giới: Trời - Đất – Nước. Điều đó cho thấy, tư duy củ người Việt đã nhận

thức được sự vận động vòng tròn để từ đó làm cơ sở cho việc tiếp nhận dễ dàng thuyết

luôn hồi của Phật giáo.

Phật giáo là một tôn giáo, nhưng trong đó hai yếu tố tôn giáo và triết học luôn hoà vào

nhau làm cơ sở luận chứng cho nhau. Ở đây yếu tố triết học, về mặt này Phật giáo đã có

ảnh hưởng lớn tới tư duy của người Việt Nam trong đó có những giá trị và nhiều hạn chế

nhất định.

Tiếp thu Phật giáo, tư duy người Việt Nam có thêm một số khái niệm và phạm trù nói

nên bản thể luận là những vấn đề cơ bản của triết học.Trong thế giới quan phức hợp nhiều

thành phần của người Việt Nam thì Phật giáo là có ý nghĩa nhiều nhất. Hơn tất cả các học

thuyết khác của phương đông, Phật giáo chú ý đến mặt phát triển tự nhiên của con người,

đó là sinh, lão, bệnh, tử.Bốn giai đoạn của cuộc đời đã nói lên sự phát triển tất yếu của con

người mà nếu ai đó nhận thức được sẽ không sợ hãi trước sự thay đổi của cuộc đời thậm

chí sống lạc quan bình thản trước cái chết. Nhiều nhà sư trong thời Lý – Trần đã có qua

niệm như thế.

Phật giáo đã đề cập đến vấn đề ngũ uẩn: sắc, thụ, tưởng, thành, thức là những vấn đề có

ý thức luận sâu xa. Tuy đối tượng đó là tâm và tính chất là duy tâm nhưng trong quá trình

ngũ uẩn chứa đựng một quá trình nhận thức hợp lý. Từ sự vật khánh quan (Sắc),con người

cảm thụ được(Thụ), suy nghĩ(Tưởng), rồi thực hiện (Hành), và cuối cùng là biết (Thức).Ở

đây nếu đem bóc cái thần bí ra ta thấy có những hạt nhân hợp lý.

Phật giáo đã đưa vào hệ tư tưởng Việt Nam những qua niêm biện chứng với các khái

niệm ‘vô thường’, ‘vô ngã’ Cho thấy Phật giáo nhìn sự vật trong sự vận động biến đổi liên

tục không có gì là trụ lại mãi, không có ai là tồn tại mãi. Tuy nhận thức đó chỉ nhìn thấy

cái biến đổi mà không nhìn thấy cái ổn định tương đối.

Phật giáo đề cập đến mối nhân duyên đến mối quan hệ nhân quả, đến việc xét sự vật

phải từ kết quả tìm ra nguyên nhân và xem kết quả này là nguyên nhân từ kết quả khác Phạm Thị Minh ThuLớp KTTG 16.2

9/15

Page 10: Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo và ảnh hưởng tới nền văn hóaViệt Nam

trong mỗi qua hệ khác.

Trên đây là những vấn đề mà Phật giáo đã ảnh hưởng đến tư duy Việt Nam, góp phần

làm nên những yếu tố triết học sâu xa trong thế giới quan của người Việt Nam.

Tuy vậy Phật giáo cũng có những hạn chế, ảnh hưởng tiêu cực nhất định đến tư duy

của người Việt Nam. Phật giáo chỉ thấy cá nhân con người mà không thấy xã hội con

người, chỉ thấy cong người nói chung mà không thấy con người của giai cấp đối kháng

nhau trong xã hội trước đây, không thừa nhận đấu tranh trong giai cấp xã hội,do đó không

thấy được nguyên nhân khổ ải của con người, không thấy được sự cần thiết phải chống áp

bức, bóc lột vì thế quan niệm từ bi bác ái trong một số trường hợp bất lợi cho đấu tranh

giải phóng giai cấp, chống áp bức.

Phật giáo không bàn tới lĩnh vực chính trị, vì thế mỗi khi nhà sư bước sang lĩnh vực

chính trị-xã hội phải sử dụng các tư tưởng Nho hay Lão -Trang. Nhà sư Viễn Thông cho

rằng “Lòng dân là gốc trị loạn”,trong đó “lòng dân” là khái niệm và tư tưởng của nhà Nho;

nhà sư Đỗ Phát Nhuận nói “nếu vô vi ngự trị trong triều đình thì nơi nơi sẽ tắt chiến tranh”

trong đó vô vi là khái niệm của Lão- Trang mặc dù khái niệm đó được giải thích theo quan

niệm nhà Phật.

Hạn chế lớn nhất của Phật giáo đối với tư duy của người Việt Nam là quan điểm duy

tâm thần bí. Quan điểm này không hướng người ta vào hiện thực mà hướng vào quả báo,

hướng vào nghiệp, vào thần linh để mong được phù hộ, độ trì.Và một khi tư duy như vậy

thì không cần khám phá tìm tòi, sáng tạo và hành động.

2. Ảnh hưởng của Phật giáo tới đời sống chính trị xã hội

Kể từ khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo có ảnh hưởng không nhỏ vào đời sống

chính trị xã hội. Ngày nay, người ta nhấn mạnh vai trò chính trị của các nhà sư thời Lý,

Trần, nhấn mạnh ý nghĩa chính trị xã hội trong một số hoạt động của phật tử hiện đại.

Đạo Phật là tôn giáo thịnh đạt nhất trong xã hội thời Lý Trần được coi như một quốc

giáo. Thời Lý Trần có rất nhiều nhà sư nổi tiếng trong cả nước, có uy tín và đìa vị chính trị

xã hội. Có thể kể đến các nhà sư Vạn Hạnh, Mãn Giác, Viên Thông, Minh Không, Giác

Hải, Pháp Loa, Huyền Quang.

Nhà nước Lý ,Trần tôn chuộng đạo Phật, trong bối cảnh của sự khoan dung, hoà hợp

tôn giáo “Tam giáo đồng nguyên”, chủ yếu là sự kết hợp giữa Phật Giáo và Nho giáo, giữa

giáo lí và thực tiễn đời sống. Đạo Phật thời Lý Trần đã ảnh hưởng đến đường lối cai trị của

nhà nước, là đối trọng tư tưởng của Nho giáo. Như vậy, rõ ràng rằng, Phật giáo đã đào tạo

ra một tầng lớp trí thức mang tư tưởng yêu nước, ủng hộ cho nền độc lập của dân tộc và

ủng hộ cho nhà nước phong kiến. Trong khi đó, cùng với sự du nhập của chữ Hán Nho

giáo đã đào tạo ra một tầng lớp trí thức để làm quan cho chính quyền đô hộ.

Ngày nay, các nhà sư giữ những chức vụ cao trong Giáo hội cũng tham gia vào hoạt

động chính trị.

Nhưng bên cạnh những công tác phục vụ cho công cuộc xây dựng đất nước thì cũng có Phạm Thị Minh ThuLớp KTTG 16.2

10/15

Page 11: Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo và ảnh hưởng tới nền văn hóaViệt Nam

một số phần tử đã lợi dụng chức vụ của mình để gây rối. Hay trường hợp của Lê Đình

Nhàn (tức Thích Huyền Quang) thường xuyên gây phiền nhiễu với các nhà sư khác cùng tu

trong chùa. Thêm vào đó, nhiều vụ tự tử của các nhà sư với những nguyên nhân ngoài đạo

đã bị cách phe phái phản động đưa tin xấu, coi đó là những hành vi tử vì đạo. Và khi

những người đại diện pháp luật can thiệp thì chúng cho đó là hành vi bắt bố sư sãi, đàn áp

Phật giáo, đem lại thông tin phản động cho dân chúng. Tuy nhiên, nhà nước Việt Nam là

nhà nước chủ trương tự do tôn giáo, trong khuôn khổ pháp luật Việt Nam, bởi vậy những

trường hợp tiêu cực luôn bị xử lý một cách thích đáng, trả lại sự trong sáng và ý nghĩa của

Phật giáo đối với nền chính trị, văn hóa, xã hội của Việt Nam.

3. Ảnh hưởng của Phật giáo tới đời sống văn hóa Việt Nam

Nhìn vào đời sống văn hóa của Việt Nam, có thể thấy những dấu ấn đậm nét của Phật

giáo, từ văn hóa tín ngưỡng, đến các lĩnh vực kiến trúc, văn học nghệ thuật, từ những thói

quen rất dân gian đến những lĩnh vực bác học.

a) Văn hóa tín ngưỡng

Một điều thể hiện đặc biệt phổ quát mà nhiều người đã nhắc đến là Phật giáo vốn dễ

hoà hợp với tín ngưỡng dân gian ở những nơi nó được truyền bá đến. Có thể nói rằng,

trong suốt nghìn năm Bắc thuộc, Đạo Phật đã thấm vào lòng dân như nước thấm vào lòng

đất. Ở miền bắc Việt Nam, đặc điểm đó càng nổi bật. Nếu đặc điểm tôn giáo truyền thống

của Việt Nam là sự thờ cúng tổ tiên (linh hồn người thân đã khuất ) thì trong tâm thức dân

gian, Phật hay Quan âm cũng được coi là một thứ tổ tiên. Nếu đặc điểm của tôn giáo Việt

Nam là sự thờ thần (thế lực siêu nhiên ) mà con người thờ cúng để mong được “phù hộ độ

trì” thì Phật hay Quan âm cũng trở thành một loại thần, Phật điện cũng trở thành một thứ

Thần điện, tính tâm linh Ấn Độ cổ xưa nhường bước cho tính tâm linh Việt Nam (hơn đâu

hết, tôn giáo Việt Nam nặng về tính tình cảm hơn là giáo lý, giới luật, đoàn thể, tôn giáo).

b) Kiến trúc chùa tháp

Một ảnh hưởng khác của Phật giáo đó chính là về kiến trúc. Kiến trúc là sản phẩm nhân

tạo cho nên cũng chính là văn hoá và sự phát triển của nó đánh dấu bước tiến của văn

minh. Đặc biệt, ở thời nhà Lý, nghệ thuật kiến trúc Phật giáo đã đạt tới đỉnh cao với những

công trình mang tính quy mô to lớn, vượt hẳn thời trước và cả những thời sau đó.

Cho đến khi ngôi chùa xuất hiện, dù thuộc niên đại muộn hơn buổi đầu Phật giáo ít

nhiều, thì xóm làng Việt Nam vẫn còn là một quần thể nhà tranh với những đền thờ đơn

giản ở gốc đa. Ngôi chùa chiếm ngay đến địa vị trung tâm của làng và trở thành nơi quần

tụ văn hoá. Chùa cao thành ba bậc tượng trưng tam giới, Phật điện nhiều bậc bệ cao dần

lên tượng trưng núi Tu Di, những chư vị Phật ngồi trên những tầng bậc từ thấp đến cao,

những biểu tượng mà người dân Việt Nam không biết, là một cách bài trí hoàn toàn khác

bàn thờ trong nghè, trong nhà của họ.

Chùa Việt có nhiều kiến trúc rất đa dạng, không hoàn toàn giống như chùa Trung

Quốc. Ngôi chùa Việt điển hình do hai nhà sư Trung Quốc là Chuyết Chuyết và Minh

Phạm Thị Minh ThuLớp KTTG 16.2

11/15

Page 12: Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo và ảnh hưởng tới nền văn hóaViệt Nam

Hành xây dựng là chùa Bút Tháp, ở đó mang dấu ấn của chùa Trung quốc khá đậm nét.

Buổi đầu chùa Việt mô phỏng chùa hang Ấn Độ cho nên hình thành kiến trúc chuôi vồ rất

phổ biến trong các chùa làng. Một số ngôi chùa tiêu biểu ở Hà Nội hiện nay thuộc mô hình

này như chùa Hồng Phúc (chùa Hoè Nhai), chùa Liên Phái, Chùa Linh Quang…

Phật điện phát triển để chùa có một kiến trúc mới - chùa chữ “công”. Có thể thấy chùa

Diên Ứng (Bắc Ninh) là một tiêu biểu. Dạng kiến trúc này thường thấy có tường bao quanh

và trở thành kiểu nội công ngoại quốc như chùa Chiêu Thiền (chùa Láng) ở Hà Nội. Thông

thường loại hình kiến trúc này của chùa thuộc loại hình chùa quy mô lớn.

Chùa chữ “Tam” là một kiến trúc khác của chùa Việt có ảnh hưởng của chế độ viện lạc

Trung Quốc, như chùa Thiên Phúc (chùa Thầy), chùa Sùng Phúc (chùa Tây Phương) ở Hà

Tây, chùa Một cột ở Hà Nội trong đó một sản phẩm tiêu biểu không thể không đề cập.

Có thể khẳng định ngay rằng, loại hình kiến trúc tháp cũng cực kỳ phong phú. Phật tử

cũng như ngoại đạo đều biết đến tên tuổi của chùa Báo Thiên vòi vọi, tháp Sùng Thiện

Diên Linh gắn với tấm bia về múa rối, chùa tháp Chương Sơn với nét kiến trúc đặc trưng

của hai tay vịn vũ nữ tạc theo tư thế tribhanga mang dấu ấn Chăm rõ rệt.

Không thể nói đến kiến trúc chùa, tháp với những tên tuổi nổi tiếng mà không thể đề

cập đến một hệ thống tượng Phật vô cùng phong phú trong đóng góp về vật chất của Phật

giáo ở Việt Nam. Nói đến chùa tháp là nói đến Tam Thế, Tam Thân, những pho tượng

Thích Ca, Phổ Hiền, Văn Thù, những pho Di Lặc, Đại Diệu Tường, Pháp Hoa Lâm; A Di

Đà, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí; Tuyết Sơn, Ca Diếp, A Nan; những bộ tượng Cửu Long,

tượng Quán Thế Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn; tượng phật bát La Hán; tượng thập điện

Diêm Vương; tượng Hộ Pháp… Ngoài các tượng Phật còn có các tượng Tổ hay tượng

Hậu. Phật điển trong mỗi vùng, mỗi ngôi chùa cụ thể khác nhau hoàn toàn. Tuy nhiên có

thể thấy rằng, Phật giáo đã để lại những pho tượng đẹp nổi tiếng như tượng Quán Thế Âm

Thiên Thủ Thiên Nhãn (ở Phú Thị, Khoái Châu, Hưng Yên; Bút Tháp, Thuận Thành, Bắc

Ninh) đã được đánh giá là “pho tượng đẹp nhất trên phật điện”, tượng A Di Dà chùa Phật

Tích, tượng Tuyết Sơn chùa Tây Phương (Hà Tây) …

Nói đến chùa còn phải nói đến Phật điện với những trang trí nghệ thuật trên các chất

liệu gỗ, đá, tạo nên những y môn, đồ khí tự, kiệu vàng, cuốn thư, đại tự… Bia đá, câu đối

và thậm chí tháp mộ trong nhiều chùa đã để lại những dấu ấn mĩ thuật đặc thù.

Kiến trúc chùa Phật ở Việt Nam còn là kiến trúc sinh thái, hoà hợp cùng thiên nhiên.

Những ngôi chùa trở thành danh lam thắng cảnh nổi tiếng được xây dựng trên những núi

non, sông nước kỳ vĩ. Hệ thống quần thể chùa Hương, Yên Tử, Tây Phương, chùa Thầy,

chùa Chấn Quốc, chùa Non Nước v.v… là ngôi chùa được ẩn hiện trong môi trường thiên

nhiên càng làm tăng thêm sự linh thiêng của không gian nơi đất Phật.

Ngày nay, những nghệ thuật, kiến trúc đó vẫn còn tồn tại và được trùng tu, sửa sang để

làm nơi du lịch của khách thập phương và nơi lễ bái của nhân dân trong vùng. Những công

trình đó tuy mang đậm dấu ấn Phật giáo nhưng vẫn là sáng tạo nghệ thuật dân gian phản

ánh đời sống tinh thần của con người Việt Nam xưa.

Phạm Thị Minh ThuLớp KTTG 16.2

12/15

Page 13: Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo và ảnh hưởng tới nền văn hóaViệt Nam

c) Văn hóa dân gian

Có thể nói Phật giáo đã góp phần làm phong phú thêm nền văn hoá dân tộc. Phật giáo lại

biết bám lấy làng xã bằng nhiều hoạt động cụ thể có tổ chức, kết hợp với tín ngưỡng bản địa,

hội hè. Nho giáo về mặt nào đó làm cho tư tưởng văn hoá khô cứng thì Phật giáo có phần

làm mềm hơn, phong phú và sinh động hơn. Hội chùa cũng như hội làng là tiêu biểu cho sự

hồ hởi của công xã, là một dịp để con người được giải phóng tình cảm, hoà cái ta của mình

vào cái ta của làng xã, không bị giáo lý khuôn phép gò bó và toả chiết tâm hồn.

Phật giáo đã thổi vào tâm hồn người Việt một làn gió mát từ bi. Chất từ bi của nhà Phật

thấm sâu không những trong những nghệ sĩ dân gian vô danh mà còn góp phần hình thành

nên nhân cách của những người dân bình dị. Đó là độ thấm sâu của tư tưởng Phật giáo vào

văn hoá Việt Nam chứ không phải tất cả tư tưởng Tứ Diệu Đế của Phật giáo.

Giáo lý của nhà Phật thấm sâu vào tâm hồn của người Việt, đi vào từng câu ca dao, tục

ngữ hồn hậu, chất phác và trở thành nét văn hóa đặc trưng của làng xã Việt Nam xưa. Tư

tưởng từ bi của phật giáo thấm đẫm trong tâm hồn Việt từ người bình dân đến kẻ trí thức,

thể hiện trong truyện kể dân gian cũng như trong thơ văn bác học. “Lá lành đùm lá rách”,

“bầu ơi thương lấy bí cùng” chẳng phải là hiện thân của tư tưởng từ bi hỷ xả, “gieo gió gặp

bão” chẳng phải thể hiện của luật nhân quả hay sao? Trong truyện kể dân gian, bao giờ

Phật cũng hiện lên để cứu khổ, cứu nạn cho con người. Lấy chuyện Tấm Cám làm ví dụ.

Phật đã hiện lên giúp cho Tấm con cá bống, sai chim tới nhặt thóc, cho áo quần, giầy dép

để đi chơi hội, lấy hoàng tử. Mỗi lần Tấm bị hại, Phật lại hiện ra giúp Tấm, lúc là bụi trúc

đào khi là quả thị. Chuyện kể thấm đẫm tinh thần cứu khổ, cứu nạn của phật giáo với hình

ảnh ông bụt đại từ đại bi, phổ độ chúng sinh. Có thể nói, những tư tưởng của Phật giáo đã

được dân gian hóa, trở thành tư tưởng của dân gian Việt Nam, của người Việt Nam.

Phật giáo có ảnh hưởng với văn hoá Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử đất nước.

Hiện nay Phật giáo vẫn còn là một tác nhân tác động mạnh trong xã hội. Phật giáo đã mang

đến cho người Việt những ngôi chùa cổ kính, những pho tượng bề thế rải khắp xóm làng

làm tăng lòng từ bi và hướng thiện của người bình dân. Phật giáo đã đưa đến một trung tâm

văn hoá làng một thời sôi động. Phật giáo cũng đã mang đến trong tâm hồn người Việt một

đời sống tâm linh sâu đậm từ khi du nhập cho đến nay. Trong lịch sử, Phật giáo cũng luôn

gắn liền với vận mệnh của dân tộc.

Ngày nay, mặc dù có rất nhiều tôn giáo xuất hiện ở Việt Nam như Thiên chúa giáo,

Đạo Cao Đài, Hoà Hảo, Cơ đốc giáo, ... ngoài ba tôn giáo chính từ xưa. Nhưng Phật giáo

vẫn giữ một vai trò hết sức quan trọng trong đời sống xã hội và tinh thần người Việt Nam.

Nhìn vào đời sống xã hội và tinh thần người Việt Nam trong thời gian qua, ta thấy qua

nhiều biểu hiện Phật giáo đang được phục hồi và phát triển. Ở nhiều vùng đất nước số

người theo Phật giáo ngày càng đông, số gia đình Phật tử xuất hiện ngày càng nhiều, lễ hội

Phật giáo và sinh hoạt Phật giáo ngày một có vị trí cao trong đời sống tinh thần xã hội, số

sư sãi được đào tạo từ các trường Phật học ngày càng nhiều, số kinh sách xuất bản hàng

năm cũng tăng mạnh.

Phạm Thị Minh ThuLớp KTTG 16.2

13/15

Page 14: Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo và ảnh hưởng tới nền văn hóaViệt Nam

KẾT LUẬNQua việc nghiên cứu đề tài này chúng ta phần nào hiểu thêm được nguồn gốc ra đời

của Phật giáo, hệ tư tưởng của Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến xã hội và người dân ta,

đồng thời hiểu thêm về lịch sử nước ta. Đặc biệt đề tài này cho chúng ta thấy rõ vấn đề có

ý nghĩa quan trọng, đó là vấn đề xây dựng hình thành nhân cách và tư duy con người Việt

Nam trong tương lai với sự hỗ trợ của những giá trị đạo đức nhân văn của Phật giáo.

Dù còn những khuyết điểm, hạn chế song chúng ta không thể phủ nhận những giá trị

đạo đức to lớn mà Phật giáo đã mang lại. Đặc trưng hướng nội của Phật giáo giúp con

người tự suy ngẫm về bản thân, cân nhắc các hành động của mình để không gây ra đau khổ

bất hạnh cho người khác. Nó giúp con người sống thân ái, yêu thương nhau, xã hội yên

bình. Tuy nhiên, để giáo dục nhân cách đạo đức của thế hệ trẻ thì như thế vẫn chưa đủ.

Bước sang thế kỷ XXI, chuẩn mực nhân cách mà một thanh niên cần có đòi hỏi phải hoàn

thiện cả về mặt thể xác lẫn tinh thần, phải có đủ khả năng chinh phục cả thế giới khách

quan lẫn thế giới nội tâm. Đạo đức thế kỷ XXI do vậy có thể khai thác sự đóng góp tích

cực của Phật giáo để xây dựng đạo đức nhân văn toàn thiện hơn, tự giác cao hơn vì sang

thế kỷ XXI, bên cạnh sự phát triển kỳ diệu của khoa học, những mâu thuẫn, chiến tranh

giành quyền lực rất có thể sẽ nổ ra và dưới sự hậu thuẫn của khoa học, các loại vũ khí sẽ

được chế tạo hiện đại, tàn nhẫn hơn, dễ dàng thoả mãn cái ác của vài cá nhân và nguy cơ

gây ra sự huỷ diệt sẽ khủng khiếp hơn. Khi đó đòi hỏi con người phải có đạo đức, nhân

cách cao hơn để nhận ra được cái ác dưới một lớp vỏ tinh vi hơn, “sạch sẽ” hơn.

Như vậy trong cả quá khứ, hiện tại và tương lai, Phật giáo luôn luôn tồn tại và gắn liền

với cuộc sống của con người Việt Nam. Việc khai thác hạt nhân tích cực hợp lý của Đạo

Phật nhằm xây dựng nhân cách con người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ, là một mục tiêu

chiến lược đòi hỏi sự kết hợp giáo dục tổng hợp của xã hội - gia đình - nhà trường - bản

thân cá nhân, một sự kết hợp tự giác tích cực cả truyền thống và hiện đại. Chúng ta tin

tưởng vào một thế hệ trẻ hôm nay và mai sau cường tráng về thể chất, phát triển về trí tuệ,

phong phú về tinh thần, đạo đức tác phong trong sáng kế thừa truyền thống cha ông cũng

như những giá trị nhân bản Phật giáo sẽ góp phần bảo vệ và xây dựng xã hội ngày càng ổn

định, phát triển.

Phạm Thị Minh ThuLớp KTTG 16.2

14/15

Page 15: Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo và ảnh hưởng tới nền văn hóaViệt Nam

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Duy Cần - Tinh hoa Phật giáo

2. Thích Nữ Trí Hải dịch - Đức Phật đã dạy những gì

3. PGS Nguyễn Tài Thư

- Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay

- Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập 1

4.Thích Thiện Siêu (dịch) - Lời Phật dạy

5. PTS. Phương Kỳ Sơn - Lịch sử Triết học

6. Lý Khôi Việt - Hai nghìn năm Việt Nam và Phật giáo.

7. Viện triết học - Lịch sử Phật giáo Việt Nam

8. Nhiều tác giả - Mười tôn giáo lớn trên thế giới

Phạm Thị Minh ThuLớp KTTG 16.2

15/15