NHÂN V T L CH Sdostquangtri.gov.vn/Upload/Diachiquangtri/Phan 4 Chuong 22.pdf · NHÂN VẬT...

79
1 Chương XXII NHÂN VT LCH S- VĂN HÓA vtrí bn lcủa đất nước, lưng tựa vào dãy Trường Sơn hùng vĩ, mặt hướng ra biển Đông bao la, nằm gia khúc rut miền Trung, nơi cái điểm tvai ca chiếc đòn gánh trĩu nặng giang sơn Việt Nam hình chS. Qung Trlà mt tỉnh đất không rộng, người không đông nhưng là địa bàn có ý nghĩa chiến lược và có mt lch ssâu dày, đa dạng. Mt dải đất hẹp nơi eo thắt nht của đất nước, nhưng Quảng Trcó hội đủ các yếu tcủa địa hình đa dạng: Núi - đồi - đồng bng - cn cát ven bin - bin và hải đảo. Non nước Qung Trdu vậy cũng không hiế m cnh sc kthú và thơ mng. Nhà bác học Lê Quý Đôn cũng như các sử gia nhà Nguyễn đã miêu tả khái quát: “Phia Đông đến bin nh, phía Tây nhiu núi rng, thế nước bao quanh, hình núi ôm bọc, danh sơn thì có núi Tá Linh, động Ba Màn; đại xuyên thì sông Thch Hãn, sông Vĩnh Định, sơn bảo thì có Trn Lao, Cam L, hi tn thì có Vit Yên, Tùng Lut, lại có sa động dài ln theo bbin chy vào phía Nam, nghim nhiên làm mt sa thành ng h- thật là nơi hình thắng chn kphu vậy !” 1 Danh xưng Quảng Trvới tư cách là một đơn vị hành chính cp tỉnh độc lp xut hin chính thức vào năm 1801, Đại Nam nht thống chí ghi rõ “Mùa hnăm Tân Du (1801), Thế tCao Hoàng đế (Gia Long) ly lại đô thành cũ (tức Phú Xuân), tách ba huyện Hương Trà, Quảng Điền, Phú Vang thuc phTriu Phong đặt dinh Quảng Đức, li tách hai huyn Hải Lăng, Đăng Xương và huyện Minh Linh thuc phQuảng Bình đặt dinh Qung Trị. Năm Gia Long thứ năm (1806) quy định là dinh Trc l(Quảng Đức, Qung Trđều để hai chTrc lđứng trên). 2 Nhưng lịch scủa vùng đất này đã có từ thời xa xưa. Những bng chng xác thc vkho chc cho thy hàng chc vạn năm trước nhng tộc người thuc nghMôn- Khơme sng trên triền đông - tây Trường Sơn và những tộc người thuc nghMã Lai -Đa đảo sng các vùng đồng bng ven bin là nhng chnhân đầu tiên đã sớm cùng cộng cư ở đây. Chính họ là nhng lớp người đã tiên phong trong công cuộc khai sơn phá thạch xây dng, khai phá, mmang vùng đất này. 1 Phbiên tp lc 2 Quc sQuán triu Nguyn, Đại Nam nht thng chí Tập 1 Nxb Lao Động 2012. Tr 94

Transcript of NHÂN V T L CH Sdostquangtri.gov.vn/Upload/Diachiquangtri/Phan 4 Chuong 22.pdf · NHÂN VẬT...

1

Chương XXII

NHÂN VẬT LỊCH SỬ - VĂN HÓA

Ở vị trí bản lề của đất nước, lưng tựa vào dãy Trường Sơn hùng vĩ, mặt

hướng ra biển Đông bao la, nằm giữa khúc ruột miền Trung, nơi cái điểm tỳ vai

của chiếc đòn gánh trĩu nặng giang sơn Việt Nam hình chữ S. Quảng Trị là một

tỉnh đất không rộng, người không đông nhưng là địa bàn có ý nghĩa chiến lược và

có một lịch sử sâu dày, đa dạng.

Một dải đất hẹp nơi eo thắt nhất của đất nước, nhưng Quảng Trị có hội đủ

các yếu tố của địa hình đa dạng: Núi - đồi - đồng bằng - cồn cát ven biển - biển và

hải đảo. Non nước Quảng Trị dẫu vậy cũng không hiếm cảnh sắc kỳ thú và thơ

mộng. Nhà bác học Lê Quý Đôn cũng như các sử gia nhà Nguyễn đã miêu tả khái

quát: “Phia Đông đến biển nhỏ, phía Tây nhiều núi rừng, thế nước bao quanh, hình

núi ôm bọc, danh sơn thì có núi Tá Linh, động Ba Màn; đại xuyên thì sông Thạch

Hãn, sông Vĩnh Định, sơn bảo thì có Trấn Lao, Cam Lộ, hải tấn thì có Việt Yên,

Tùng Luật, lại có sa động dài lớn theo bờ biển chảy vào phía Nam, nghiễm nhiên

làm một sa thành ứng hộ - thật là nơi hình thắng ở chốn kỳ phu vậy !” 1

Danh xưng Quảng Trị với tư cách là một đơn vị hành chính cấp tỉnh độc lập

xuất hiện chính thức vào năm 1801, Đại Nam nhất thống chí ghi rõ “Mùa hạ năm

Tân Dậu (1801), Thế tổ Cao Hoàng đế (Gia Long) lấy lại đô thành cũ (tức Phú

Xuân), tách ba huyện Hương Trà, Quảng Điền, Phú Vang thuộc phủ Triệu Phong

đặt dinh Quảng Đức, lại tách hai huyện Hải Lăng, Đăng Xương và huyện Minh

Linh thuộc phủ Quảng Bình đặt dinh Quảng Trị. Năm Gia Long thứ năm (1806)

quy định là dinh Trực lệ (Quảng Đức, Quảng Trị đều để hai chữ Trực lệ đứng

trên).2 Nhưng lịch sử của vùng đất này đã có từ thời xa xưa. Những bằng chứng

xác thực về khảo cổ học cho thấy hàng chục vạn năm trước những tộc người thuộc

ngữ hệ Môn- Khơme sống trên triền đông - tây Trường Sơn và những tộc người

thuộc ngữ hệ Mã Lai -Đa đảo sống ở các vùng đồng bằng ven biển là những chủ

nhân đầu tiên đã sớm cùng cộng cư ở đây. Chính họ là những lớp người đã tiên

phong trong công cuộc khai sơn phá thạch xây dựng, khai phá, mở mang vùng đất

này.

1 Phủ biên tạp lục 2Quốc sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí Tập 1 Nxb Lao Động 2012. Tr 94

2

Trên dặm dài lịch sử với bao biến cố thăng trầm, dâu bể, Quảng Trị về với

Đại Việt bằng chính những gì mà lịch sử đã gửi trao, phó thác. Mảnh đất này từng

được coi là “Trọng trấn” là “Trấn biên” là “phên dậu” là “cửa ngõ” phía Nam của

Tổ quốc; là “tiêu điểm” ác liệt của những cuộc kháng chiến chống xâm lăng, là

“kinh đô kháng chiến - chính trị” một thời và cũng là “ranh giới” của những cuộc

chia cắt, phân ly... Một mảnh đất nhỏ bé và cằn khô như Quảng Trị mà có đến ba

lần được chọn làm thủ phủ, là kinh đô kháng chiến ! Đây có phải là sự ngẫu nhiên

của lịch sử ? càng không phải là vô tình của tạo hóa ! Còn đó một Ái Tử - Trà Bát -

Cát Dinh, nơi khởi nghiệp của Vương triều Nguyễn trên hành trình mở cõi về

phương Nam của dân tộc Việt. Một kinh đô kháng chiến Tân Sở (Cam Lộ) còn

đồng vọng lời Hịch Cần vương của vua Hàm Nghi kêu gọi toàn dân đứng lên đánh

giặc cứu nước. Một trụ sở Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa MNVN đã trở

thành nơi hội tụ ý chí khát vọng đấu tranh thống nhất của cả dân tộc Việt Nam

dưới thời đại Hồ Chí Minh anh hùng, quật khởi. Khói lửa chiến tranh, bão tố, lũ

lụt, hạn hán cằn khô cùng những xáo trộn, chia cắt... là một thực tế nghiệt ngã, tàn

phá nặng nề vùng đất này và đã làm cho con người Quảng Trị phải chịu biết bao

gian khổ, mất mát, đau thương; nhưng cũng từ gian khó, cơ cực đó mà thử thách,

trui rèn để hình thành nên những cốt cách riêng biệt của con người Quảng Trị.

Về văn hóa, tuy có chung các quy luật trên nền tảng của văn hóa Việt Nam,

nhưng với một diễn trình lịch sử và một vị trí địa lý khá đặc thù nên Quảng Trị từ

buổi nguyên sơ đã là nơi gặp gỡ, tiếp nhận và giao thoa nhiều hệ văn hóa khác

nhau. Trên cái nền của văn hóa tiền - sơ sử mà hội tụ ở đó không ít dấu tích của

văn hóa Sơn Vi, Hòa Bình, Đông Sơn là quá trình tiếp biến khi tiếp cận với văn

hóa Hán, Chămpa, kể cả văn hóa phương Tây... Tất cả đã đan vào nhau trong khả

năng dung hòa, tích hợp để trở thành tài sản của chính mình trên hành trình tiến lên

phía trước của con người Quảng Trị.

Với một phức thể địa lý, lịch sử, văn hóa và xã hội mang nhiều nét khu biệt

đó, các thế hệ người Quảng Trị đã nối tiếp nhau cùng cộng sinh, vượt qua mọi thử

thách, chung sức chung lòng xây dựng quê hương. Quá trình đó đã tạo ra bản lĩnh

và làm nên những phẩm chất tốt đẹp của con người Quảng Trị. Đó là “kiên cường,

bất khuất, dũng cảm trong đấu tranh vì nghĩa lớn. Cần cù, tự lập, tự cường trong

3

sản xuất và xây dựng đời sống. Có tâm hồn trong sáng, bình dị, khí khái, bộc trực,

thẳng thắn và rất mực thủy chung” 3

Cơ sở sâu xa làm nên sức mạnh ý chí trong những hoàn cảnh cam go, ngặt

nghèo đó, chính là khát vọng sống, khát vọng vươn tới một ngày mai tươi sáng hơn

như một câu ca dao mà chính người Quảng Trị đã động viên nhau để biết vượt qua,

bất chấp trở lực trước thời gian và tro bụi:

Đừng than phận khó ai ơi

Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây

Mảnh đất ấy, truyền thống ấy tất yếu sẽ sản sinh ra bao lớp người tài hoa lỗi

lạc. Quảng Trị có thể được coi là là vùng đất “địa linh nhân kiệt”. Từ buổi nguyên

sơ khi những lớp người đầu tiên đến khai sơn phá thạch, cho đến những lớp người

đương đại hôm nay đã có biết bao nhiêu người con Quảng Trị đã làm rạng rỡ cho

non sông, đất nước, tô bồi xây đắp cho quê hương, đất nước mà tên tuổi còn mãi

lưu danh.

Biên soạn chương “Nhân vật lịch sử - văn hóa” (Nhân vật chí) là nhằm ghi

lại một cách có hệ thống những công lao đóng góp, cống hiến của những thế hệ

con dân Quảng Trị trong lịch sử; qua đó như bày tỏ sự ghi nhận, tri ân đối với tiền

nhân đã phụng sự, đóng góp tô bồi cho quê hương Quảng Trị qua thời gian, năm

tháng… bao gồm, các danh nhân văn hóa, lịch sử, các nhà quân sự, chính trị, các

tướng lĩnh; các nhà khoa bảng, các nhà hoạt động sáng tạo trên các lĩnh vực văn

hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ, văn học - nghệ thuật.v.v... Thông thường biên

soạn “Nhân vật chí” của một địa phương, một vùng đất, người ta thường dựa trên

cơ sở những đặc điểm và phẩm chất cơ bản: Kỳ tích trong chiến đấu, ưu tú trong

hoạt động xã hội, sáng tạo trong lao động khoa học công nghệ, văn học nghệ thuật,

nhằm mục tiêu xây dựng quê hương, đất nước. Đó là những tiêu chí rộng, có tính

chất định tính, định lượng, để lựa chọn, sắp xếp đưa vào mục “Nhân vật lịch sử -

văn hóa Quảng Trị ” theo các nội dung, tiêu chí mà Đề cương chi tiết đã được

duyệt. Khi bắt tay biên soạn, đi vào chi tiết các đề mục, tiểu mục, quy định trên

từng lĩnh vực, từng giai đoạn lịch sử cụ thể , thì nhóm biên soạn đều phải dựa trên

các tư liệu chính thống, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, tin cậy; từng nhân vật trên

từng lĩnh vực đều dựa vào các tiêu chuẩn, tiêu chí cụ thể, đã được Hội đồng thẩm

định đề cương thống nhất; khi đưa một nhân vật vào chương nhân vật chí này phải

3 Lịch sử Đảng bộ Quảng Trị, NXB Chính trị Quốc gia; trang 19

4

được xem xét trên nhiều phương diện, ví dụ như vừa coi trọng những chức danh

khoa học, học hàm học vị, những danh hiệu cao quý được Đảng, Nhà nước phong

tặng; nhưng đồng thời cũng xem xét đến những đóng góp, cống hiến của nhân vật

đó cho quê hương, tỉnh nhà và đất nước trên các lĩnh vực; vừa coi trọng phẩm chất,

đạo đức và những đóng góp về mặt lý luận, thực tiển cũng vừa xem xét uy tín,

trách nhiệm và đánh giá chung của xã hội, đặc biệt đối với các nhân vật thời cận,

hiện đại thì phải cần thận trọng, nghiêm túc, cân nhắc kỷ khi lựa chọn. Một nguyên

tắc được nhiều địa phương áp dụng, có tính thông lệ như người xưa vẫn thường nói

đó là “Quá quan định phận” tức muốn định danh phận người nào đó, thì hãy đợi

người đó đã chết rồi hãy xét. Nguyên tắc này nó cũng phù hợp với Nghị định

91/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 của Thủ tướng Chính phủ Về việc ban hành Quy

chế đặt tên, đổi tên đường, phố và các công trình công cộng và Thông tư

36/2006/TT- BVHTT của Bộ Văn hóa Thông tin, nay là Bộ Văn hóa Thể thao và

Du lịch về việc Hướng dẫn một số điều của Quy chế đặt đổi tên đường, phố và các

công trình công cộng. Trên cơ sở nguyên tắc đó, chúng tôi cũng áp dụng cho

Chương Nhân vật lịch sử - văn hóa (Nhân vật chí) này; nghĩa là tiêu chí chọn lựa

các nhân vật đưa vào Chương này là những người đã quá cố.

Dựa trên “Đề cương Địa chí Quảng Trị” đã được các Hội đồng khoa học

thẩm định, “Ban chỉ đạo triển khai thực hiện công trình Địa chí Quảng Trị” thông

qua và UBND tỉnh đã phê duyệt tại Quyết định 2545/QĐ- UBND ngày

19/10/2016, Chương “Nhân vật Lịch sử - Văn hóa” Quảng Trị được sắp xếp, biên

soạn theo một trật tự, bố cục như sau:

1. DANH NHÂN THỜI PHONG KIẾN VÀ CẬN ĐẠI

1.1. Những nhân vật lịch sử - văn hóa

1. ĐẶNG TẤT

Theo “Ô Châu cận lục” Dương Văn An nhuận sắc cho ông là người huyện

Hải Lăng. Đời Trần, ông làm đại Tri châu ở Thuận Hóa. Lúc ấy giặc Minh xua

quân sang xâm lược, nghe tin vua Giản Định đóng quân ở phía Nam, Đặng Tất kéo

quân đến hội rồi phá giặc ở Bô Cô. Thế ông rất mạnh, ông được vua phong tước

Quốc công. Ông cùng vua mưu việc khôi phục cơ nghiệp cho nhà Trần, nhưng

chưa được bao lâu thì bọn hầu hạ là bọn Nguyễn Phần gièm với vua rằng: Tất

5

chuyên quyền, nếu không sớm trừ đi sợ về sau khó trị. Vua nghe theo nên giết oan

ông.

2. ĐẶNG DUNG

Đặng Dung (?- 1414) người huyện Hải Lăng, ông là con của Quốc công

Đặng Tất, ức vì cha vô tội mà chết nên ông kéo quân từ Thuận Hóa ra Thanh Hóa,

rước Trần Quý Khoáng đến Nghệ An lập lên làm vua, lấy niên hiệu Trùng Quang

(1409 – 1413) ông giữ chức vị Đồng bình chương sự, trấn giữ vùng Thuận Hóa.

Khi nhà Minh sang xâm lược nước ta, sai Trương Phụ đến đánh chiếm vùng

Thuận Hóa, ông cầm quân đánh trả quyết liệt, ông đã làm cho Trương Phụ nhiều

phen khốn đốn, trận Thái Cảng ông suýt bắt được Trương Phụ. Nhưng thế giặc

mạnh, ông bị quân Minh bắt, tuẫn tiết. Tác phẩm để lại hiện chỉ còn một bài thơ

bất hủ Cảm hoài

3. BÙI DỤC TÀI

Bùi Dục Tài (1477-1522) Người làng Câu Lãm, nay là Câu Nhi, xã Hải Tân,

huyện Hải Lăng. Ông học rộng biết nhiều, nổi tiếng là người hay chữ nhất vùng

Thuận Quảng. Năm Cảnh Thống thứ 5 đời vua Lê Hiến Tông (1502) mở khoa thi

Hội và thi Đình, ông là người xuất sắc được trúng cách cả hai kỳ thi Hội và thi

Đinh, đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (tức là Hoàng giáp, đứng đầu học vị tiến sĩ).

Ông là người khai khoa Tiến sĩ đầu tiên của Quảng Trị nói riêng, vùng Thuận

Quảng nói chung.

Ông được bổ làm quan từ Hàn lâm viện Biện lý ở kinh đô Thăng Long, rồi

đến chức Tham chính đạo Thanh Hoa (Thanh Hóa). Năm Kỷ tỵ (1509) nhờ có

công ứng nghĩa và tài thông minh, mẫn cán, ông được thăng lên chức Tả thị lang

bộ Lại. Dưới thời vua Lê Chiêu Tông, niên hiệu Quang Thiệu (1516 – 1522) ông

được cử làm Tham tướng, được cử về kinh lý tại quê nhà là Đạo Thuận Hóa, ông

đã mang hết tâm huyết giúp dân bình định và phát triển vùng đát biên viễn Thuận

Quảng. Khi Mạc Đăng Dung tiếm ngôi nhà Lê ông đã vận động nhân dân và sĩ phu

chống lại nhà Mạc, ông bị gian đảng lập mưu giết hại ông. Tác giả “Ô Châu cận

lục” đã không ngớt lời ca ngợi ông bằng những lời lẽ tha thiết như: “Cái tài văn

chương, chính sự của Dục Tài thực là người giỏi của cả nước, chứ không phải

người giỏi riêng của Châu Ô. Chỉ tiếc vận mệnh bị tai ách không giữ trọn vện

được thân. Quân tử há có thể lấy sự lành dữ mà phê phán nhân vật được ru ?”

6

Bùi Dục Tài quả là người vừa đại biểu cho tinh thần hiếu học, trí thông minh

của nhân dân Thuận Hoá, (Quảng Trị) trong buổi đầu, vừa là người đại biểu xứng

đáng cho tư tưởng nhân nghĩa Đại Việt và nền văn hoá cao đẹp trong việc xây

dựng mối quan hệ hòa hiếu, cộng cảm Việt - Chăm trong lịch sử.

4. TRẦN ĐÌNH ÂN

Trần Đình Ân (1626-1706) người làng Hà Trung – Do Linh. Ông sinh ra trong

một gia đình dòng dõi quan lại, mấy anh em đều làm quan dưới thời các chúa

Nguyễn. Vốn là người có tính trung hậu, khoan hoà, độ lượng lại có tâm huyết với

việc khôi phục và mở mang xứ Đàng Trong. Đặc biệt ông là người rất giỏi việc

binh nên được các chúa Nguyễn yêu mến tin dùng. Những lần thừa lệnh chúa đi

kinh ký các vùng trong 2 phủ Thuận Hoá-Quảng Nam ông đã đề xướng việc

khuyến nông, mộ dân khai khẩn các vùng đất mới. Những năm mất mùa ông tham

kiến cho chúa Nguyễn giảm tô thuế cho dân … Năm Quý Mùi (1703) Trần Đình

Ân đã 78 tuổi, dâng sớ xin cáo quan về dưỡng già, Chúa cố giữ lại, ông phải tấu

xin nhiều lần, khi ông vào bái tạ về hưu Chúa thương tiếc, đích thân làm một bài

thơ thất ngôn và một bài tựa. Bài tựa viết: “Quốc chúa Thiên Túng Đạo Nhân ngự

chế thơ và tựa, sắc cho Tham chính Chánh đoán sự Đông Triều hầu Trần Đình Ân,

từ chức về làng. Khanh trải giúp bốn triều, quốc chính triều cương, có nhiều giúp

đỡ. Bề tôi siêng năng duy khanh hơn cả. Tính hay nhún nhường, ôn hòa, vui đạo

Thích lành. Cho nên lan quế thơm tho, một nhà vinh hiển. Thực là phúc thọ của

nước nhà ta…” Bài thơ ca ngợi công đức của ông hiện được tạc vào bia tại lăng

mộ quê nhà.Trần Đình Ân xứng đáng là một danh nhân của đất Quảng Trị và Đàng

trong.

Trần Đình Ân xứng đáng là một danh nhân của đất Quảng Trị và xứ Đàng

Trong.

5. NGUYỄN VĂN TÚ

Nguyễn Văn Tú( ?- ? ) người làng Đại Hào, tổng An Cư, huyện Đăng Xương

nay là Triệu Đại, Triệu Phong, Quảng Trị. Ông là nhà Kỹ thuật đầu tiên của vùng

Thuận Quảng, ông có tài làm đồng hồ và kính thiên văn theo kỹ thuật phương Tây

nổi tiếng dưới thời các Chúa Nguyễn. Năm 1776 Nguyễn Văn Tú chữa đồng hồ

(do phương Tây sản xuất) đặt ở đài thiên văn trong phủ chúa Nguyễn mà thợ Pháp,

7

thợ Tàu không tài nào sửa được. Ông đã chữa trong 10 ngày là xong. Sau đó ông tự

nghiên cứu để chế tạo đồng hồ báo giờ, báo ngày được chúa Nguyễn khen ngợi,...

6. HOÀNG BÔI

Hoàng Bôi ( ? ? ) người làng Câu Nhi, huyện Hải Lăng. Là bậc trung nghĩa

dưới thời Lê và thời nhà Mạc; ông từng giữ chức Hiệu úy ty Trung tá. Sau khi Mạc

Chính gây loạn ông phụng mệnh giữ chức Phó tướng đạo Thanh Hóa, được phong

Viên Đàm bá. Ông một lòng trung nghĩa nên được thăng Đồng tri Thiêm sự. Khi

Nguyễn Kim phò vua Lê Trang Tông khởi việc trung hưng ở Thanh Hóa để đánh

nhà Mạc, quan lại nhà Mạc lần lược ra quy hàng riêng ông cùng với một số người

có cùng chí hướng lấy điều trung nghĩa làm trọng kéo quân lên miền rừng núi Hải

Lăng tiếp tục chiến đấu trong vòng 13 năm nữa. Cuối cùng ông bị bắt sống và bị

giết. Sử sách đời sau ca ngợi Hoàng Bôi là bậc trung nghĩa của xứ Đàng Trong

7. HOÀNG KIM HÙNG

Hoàng Kim Hùng (1764- 1835) người làng Vĩnh An, xã Cam Hiếu, huyện

Cam Lộ. Ông là vị tướng dưới thời Tây Sơn tham gia nghĩa quân Nguyễn Huệ khi

còn rất trẻ (15 tuổi). Năm 24 tuổi ông được phong tặng Trung lang tướng quân

(1788) và bức trướng có đề “Trung thần bất sự nhị quân”. Dưới thời Nguyễn Huệ

ông được trọng dụng, ông có hiệu là Hổ hầu, có ấn triện riêng. Trong cuộc chiến

chống xâm lược nhà Thanh ông có công rất lớn góp phần giải phóng thành Thăng

Long. Ông cùng Ngô Thời Nhậm đi sứ sang Trung Quốc. Ông mất năm 1835 đời

Minh Mạng thứ 35 hưởng thọ 71 tuổi.

8. NGUYỄN CÔNG TIỆP

Nguyễn Công Tiệp ( ? – 1829) Người huyện Hải Lăng, làm quan dưới thời

Tây Sơn, sau được Gia Long lưu dụng, ông làm quan đến chức tham tri Hộ bộ,

lãnh Hộ tào Bắc Thành, sau về kinh làm Tả Tham tri bộ Binh, có tội biếm xuống

Lang trung, sau lại thăng Hữu Thị lang bộ Binh, biện lý Binh Tào Gia Định, lúc

mất tặng Tham tri bộ Binh. Ông là người học rộng, am hiểu điển cố, từng soạn

sách “Sĩ hoạn tu trí lục” (ghi chép những điều người làm quan cần biết). Sách gồm

6 quyển nói về cương vực từng vùng, số làng xã, đình đền, thuế lệ, đường sá, quán

trạm, quan chế…Phụ lục còn có một số bài thơ Nôm để vịnh cảnh vật.

9. NGUYỄN QUẬN

8

“ Ô châu cận lục” của Dương văn An đời Mạc chép: Nguyễn Quận người

huyện Hải Lăng, khoảng đời Lê Hồng Đức, theo đi đánh Chiêm Thành, phá được

thành Chà Bàn, các viên tướng khác đều tranh nhau lấy vàng, lụa. Nguyễn Quận

chỉ nhổ lấy lá cờ lớn, ngoài ra không lấy gì cả. Vua Thánh Tông ngợi khen, bổ cho

chức Quản vệ sở Thanh Hóa, sau thăng lên chức Tổng binh sứ ở Quảng Nam.

10. NGUYỄN TĂNG ĐỊCH

Ông người huyện Đăng Xương, lưu ngụ ở Gia Định, năm Tân Hợi thi đậu bổ

Cống sĩ viện, đổi làm tham luận Tuyển phong, đầu đời Gia Long thăng dần đến

Hiệp trấn Thanh Hoa, đổi ký lục Bình Định, triệu về, thăng Hữu Tham tri Bộ Binh,

đến đời Minh Mạng thăng Thượng thư Bộ Công

11. LÊ ĐẠI NGHĨA

Ông người huyện Hải Lăng, tính cương trực, đầu thời Trung hưng làm Hàn

Lâm viện, từng theo đi đánh dẹp giặc. Đầu đời Gia Long bổ làm Ký lục đạo Quảng

Trị. Đến đầu đời Minh Mạng thăng chức Cần Chánh điện Đại học sĩ, kiêm dạy bảo

các Hoàng tử, việc giảng dạy “đạo thánh hiền” ông đã giúp ích khá nhiều cho xã

hội, nhiều học trò của ông đã thành đạt; giúp nước, giúp dân. Năm Minh Mạng

năm thứ 2 (1822) chết khi đương chức, được truy tặng Thượng thư Bộ Lễ, năm Tự

Đức thứ 11 (1859) được liệt vào thờ ở đền Hiền Lương.

12. TRẦN TUYÊN

Ông người huyện Hải Lăng, làm quan dưới thời Minh Mạng, giữ chức Bố

chánh tỉnh Vĩnh Long, đến thời vua Thiệu Trị đi đánh giặc, tiểu trừ thổ phỉ, tử trận.

Đến đời Tự Đức liệt thờ tại đền Trung Nghĩa, sau tỏ dấu vết linh ứng có sắc phong

cho dựng đền thờ riêng.

Lại có người cùng huyện gồm Phó quản cơ Phan Đắc Cường, Phó quản cơ

Lê văn Tứ, cai đội Trần văn Giai và người huyện Địa Linh, có Phó quản cơ

Nguyễn văn Loan, Phó quản cơ Nguyễn Hữu Tăng, cai đội Phạm văn Tình đề lần

lượt làm nhiệm vụ, đánh giặc chết trận, đều được liệt vào thờ ở đền Trung Nghĩa.

13. NGUYỄN HỮU THẬN

Nguyễn Hữu Thận (1757-1831) người làng Đại Hào, phủ Triệu Phong (nay là

Đại Hào-Triệu Đại-Triệu Phong). Khoảng năm Bính Ngọ (1786) ông ra làm quan

9

dưới thời Tây Sơn, thăng đến chức Hữu thị lang bộ Hộ. Dưới thời Gia Long ông

được thăng đến chức Thượng thư bộ Lại. Dưới thời Minh Mạng ông giữ chức Hiệp

Biện đại học sĩ kiêm Thượng thư bộ Hộ, kiêm Khâm thiên giám.

Ông là người có học thuật, thạo việc quan, tinh về lịch học, giỏi tính toán.

Ông là nhà Toán học và Thiên văn học xuất sắc của đất nước đầu thế kỷ XIX. Tác

phẩm ông để lại cho đời có:

Ý trai toán pháp nhất đắc lục (Biên chép về toán pháp của Ý Trai). Sách

gồm 8 quyển; nói về cửu chương, phép cân đo lường đếm, phép tính diện tích

ruộng đất, phép khai phương, lập phương, phép tính thể tích… đặc biệt còn có

phép lập Ma phương bậc 3, 4, 8…

Tam thiên tự lịch đại văn chú (ba nghìn chữ chú giải văn chương các đời).

Sách dạy nhập môn chữ Hán qua những lời giáo huấn, những điển tích trong kinh

sử, dịch thành câu có vần dễ nhớ, đễ thuộc. ngoài ra ông còn biên soạn các bộ sách:

- Dịch toán thủ tự đại vần chú

-Bách ty chức chế

-Lịch tượng khảo thành

14. LÊ ĐĂNG DOANH

Lê Đăng Doanh (?- 1848) người làng Bích La huyện Thuận Xương, phủ

Triệu Phong (nay là xã Triệu Đông, huyện Triêu Phong). Năm Bính Thìn chúa

Nguyễn Ánh mở khoa thi (1796) ông dự thi và trúng cách và được bổ làm Thị học

viện Cống sĩ. Năm Gia Long thứ 4 (1805) được thăng làm Tri bộ thành Gia Định.

Đến thời Minh Mạng ông được thăng Tham biện Hà Tiên, rồi trở về kinh thăng

Thiêm sự bộ Lại, sung chức toản tu “Liệt thánh thực lục”; Ông làm quan trãi qua 4

triều Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức; làm Thượng Thư qua các bộ: bộ

Lại; bộ Công, bộ Hình thăng Hiệp biện Đại học sĩ, sung Cơ mật viện đại thần. Năm

Tự Đức nguyên niên (1848), ông bị bệnh mất, được truy tặng hàm Thiếu sư Văn

minh điện Đại học sĩ.

15. PHAN VĂN THÚY

Phan Văn Thúy (?-1833), người huyện Thuận Xương, phủ Triệu Phong, năm

1788, ông theo Chúa Nguyễn vào Gia Định , được bổ làm Khâm sai chức Cai đội

quân Thần sách. Dưới thời Gia Long, ông được thăng làm Khâm sai Chưởng cơ rồi

cải làm Vệ úy vệ Tiền nhị trấn thủ Quảng Bình. Qua thời Minh Mạng, được thăng

10

lên chức Chưởng Cơ, làm phó Đốc trấn Thanh Hoá. Năm Minh Mạng thứ 5 (1824)

ông được Triều đình cử ra trông coi việc đào sông Vĩnh Định ở Quảng Trị. Hai

năm sau, được cử làm Kinh lược trấn thủ Nghệ an. Bấy giờ quân Xiêm qua đánh

Vạn Tượng, Ông tiến quân đến Trấn Ninh, đưa vua nước Vạn Tượng là A Nô trở

về lại nước. Ông từng kinh qua các chức Phó Tổng trấn Bắc Thành, Hậu quân Đô

Thống phủ Chưởng phủ sự, tước Chương Nghĩa Hầu.Năm 1833 trên đường tiểu

trừ giặc về ông lâm bệnh chết, được truy tặng Tráng Vũ Tướng quân, hàm Thiếu

Bảo, tên thụy là Trung Tráng. Năm 1840, ông được khắc tên vào bia Võ Công

dựng ở Võ Miếu Huế, nay vẫn còn.

16. LÊ HỮU THƯỜNG

Lê Hữu Thường (1817- 1888), có tên là Hữu Hằng, người làng Bích La,

huyện Đăng Xương, phủ Triệu Phong. Ông đỗ Cử nhân khoa Tân Sửu, Thiệu Trị

nguyên niên (1841), được bổ làm Tri huyện Hà Đông, rồi kinh qua các chức Án sát

Nghệ An, năm (1864) thăng Quang lộc tự khanh, lãnh Tuần vũ Quảng Yên. Qua

năm sau, sung Khâm sai kinh lý Hải Phòng từ Quảng Bình đến Nam Định.Tự Đức

thứ 33 (1880), ông được triệu về kinh làm Biện lý bộ Công, thăng Hồng Lô tự

khanh, rồi thăngTả thị lang bộ Công đầu đời Hàm Nghi, ông được cử làm phó

Đổng Lý, sung chức Sơn phòng sứ Quảng Trị. Đồng Khánh nguyên niên (1885)

ông được thăng Hữu tham tri bộ Công, Tuần phủ Trị- Bình (Quảng Trị và Quảng

Bình), sau đó được triệu về lại kinh vag thăng chức Thượng thư bộ Công, kiêm

quản ấn triện Đô sát viện. Năm Mậu Tý, Đồng Khánh thứ 3 (1888) ông xin nghỉ

hưu vua không cho lại thăng cho chức Hiệp biện Đại học sĩ, sung Thiên thành cục

Đổng lý đại thần. Năm 1888 ông mất tại quê nhà.

17. LÊ MẬU CÚC

Lê Mậu Cúc (? - 1826) Người huyện Đăng Xương nay là Triệu Phong. Dưới

thời Gia Long ông giữ chức Vệ úy Vệ uy vũ quân Thần sách. Năm Minh mạng thứ

nhất, Canh Thìn (1820), giao cho việc coi quân ba vệ Dương vũ, Toàn vũ, Uy vũ,

chức Án thủ bảo Hà Trung, kiêm hành việc quản thủ Hà Hoa thuộc trấn Nghệ An.

Năm Minh Mạng thứ 4 (1823), giữ chức Quản đạo Ninh Bình, sau đó được vời về

kinh giữ chức Vệ úy Tiền vệ dinh Long Vũ. Năm sau cử làm Trấn thủ Nam Định.

Ông có công lớn trong việc diệt trừ thổ phỉ, giữ yên biên giới phía Tây, biên giới

phía Bắc. Năm Minh Mạng thứ 7 (1826), do tin lời thổ phỉ Vũ Đức Cát ông bị mai

11

phục và chết trận. Việc ông chết, báo về Kinh, vua thương tiếc mà nói rằng: “Mậu

Cúc thề lấy thân báo quốc, sống chết một lòng. So với người xưa hết tiết với cương

thường, tưởng cũng không thẹn.” Vua nói xong chảy nước mắt. Bèn truy tặng

Thống chế. Đến thời Tự Đức năm thứ 9 (1856)ông được đưa vào thờ ở đền Trung

Nghĩa

18. NGUYỄN CỬU TRƯỜNG

Nguyễn Cửu Trường (1806- 1853) người Gia Miêu, Thanh Hóa, nhập tịch

làng Huỳnh Công, nay thuộc xã Vĩnh Tú, huyện Vĩnh Linh. Ông thi đỗ Hoàng giáp

năm 1838, làm quan đến chức Tuần phủ tỉnh Biên Hòa.

Tác phẩm: Lịch đại sử luận (sách bàn về các sự kiện lịch sử, các nhân vật từ

thời Thái Tổ đến đời nhà Thanh). Đây là tác phẩm ông viết chung với Nguyễn Bá

Nghi, người cùng làm việc với ông tại Nội các vào cuối đời Thiệu Trị.

19. NGUYỄN HOÀNG

Nguyễn Hoàng (?- 1856), trước tên Văn Hoàng, người huyện Đăng Xương,

nay huyện Triệu Phong. Năm Bính Tuất, Minh Mạng thứ 7 (1826) được ghi tênvào

sổ Anh danh, thăng đến Phó vệ úy vệ Kỳ võ. Đến năm Tân sửu, Thiệu Trị năm thứ

nhất (1841) được bổ làm Lãnh binh tỉnh Vĩnh Long, rồi Lãnh binh tỉnh An Giang,

thăng làm Chưởng vệ. Năm kỷ Dậu, Tự Đức thứ 2 (1849), được bổ làm Tổng Đốc

Định- Biên (hai tỉnh Gia Định và Biên Hòa) rồi làm Tông Đốc Long Tường (hai

tỉnh Vĩnh Long và Định Tường). Năm Tân Hợi, Tự Đức thứ 4 (1851) ông tiếp tục

được thăng chức Hữu quân Đô thống vẫn kiêm Tổng đốc và kiêm giữ ấn triện Tiền

quân phủ Đô thống. Ông có công đánh dẹp thổ phỉ quấy nhiễu biên giới Tây Nam,

được ban cho Bài vàng “An Tây tuấn kiện tướng”được khắc tên vào bia Võ Công.

Năm Tự Đức thứ 9 (1856), ông thọ bệnh qua đời, tặng hàm Hữu quân Đô thống

phủ Đô thống Chưởng phủ sự, liệt thờ ở miếu Hiền Lương.

20. NGUYỄN ĐỨC HOẠT

Nguyễn Đức Hoạt (?- 1849), Người tổng An Thơ, huyện Hải Lăng, phủ

Triệu Phong, nay là làng An Thơ, xã Hải Hòa, huyện Hải Lăng. Ông đỗ Cử nhân

năm Minh Mạng thứ 4 (1825). Ông là vị khai khoa Cử nhân của tỉnh Quảng Trị

dưới triều Nguyễn. Năm Minh Mạng thứ 9 (1828), thăng chức Hàn lâm viện Kiểm

12

thảo, sung làm Hành tẩu Nội các. Năm Bính Thân, Minh Mạng thứ 17 (1836),

thăng hàm Thị giảng học sĩ, tham biện Nội các sự vụ. Năm Mậu Tuất, Minh Mạng

thứ 19 (1838), bổ chức Nội vụ phủ Lang trung. Năm Kỷ Hợi, Minh Mạng thứ 20

(1839), bổ Lang trung bộ Binh. Qua năm sau bổ chức Bố chánh Nghệ An. Đầu

năm Tân Sửu, Thiệu Trị năm thứ nhất (1841) thăng chức Lễ bộ Hữu thị lang. Năm

Bính Ngọ, Thiệu Trị thứ 6 (1846), ông được sung vào đại thần viện Cơ mật. Qua

năm sau được thăng Thượng thư bộ Lại, sung quản Thị vệ đại thần. Năm Tự

Đức thứ 2 (1849), ông mất khi đang chức. Để ghi nhận công lao đóng góp của ông

vua thăng cho hàm Tả tham tri, Chánh nhị phẩm.

21. LÊ KHÁNH TRINH

Lê Khánh Trinh (?- 1846) Ông người xã Cổ Trai, tổng Hiền Lương, huyện

Minh Linh, nay là thôn Cổ Trai, xã Vĩnh Giang, huyện Vĩnh Linh. Ông đỗ Cử nhân

(Á khoa) năm Tân Mão, Minh Mạng thứ 12 (1831) làm Hàn lâm viện thị giảng,

sung Nội các. Cuối thời Minh Mạng quan quân ta phải đánh dẹp ở Trấn Tây rất vất

vả do vậy vua ủy cho ông là Bố Chánh về trấn giữ vùng này. Năm Tân Sửu, Thiệu

Trị thứ 1 (1841), ông chuyển làm Bố Chánh Vĩnh Long, rồi Bố chánh Gia Định.

Năm Giáp Thìn, Thiệu Trị thứ 4 (1843), thăng chức Hữu thị lang bộ Lễ, sung biện

công việc Nội các. Năm Ất Tỵ, Thiệu Trị thứ 5 (1845), giữ chức Hữu Tham tri bộ

Lễ, rồi Tả tham tri bộ Công. Qua năm sau được bổ làm Tả tham tri bộ Binh. Ông bị

bệnh rồi mất năm 1846 Thiệu Trị thứ 6. Ông là người có công bình định, giữ yên

bờ cõi, biên giới Tây Nam của Tổ quốc.

22. TRẦN XUÂN HÒA

Trần Xuân Hòa, Người làng Thâm Khê, huyện Hải Lăng, nay thuộc xã Hải

Khê, Hải Lăng. Ông đỗ Cử nhân khoa Mậu Thân, năm Tự Đức (1848), làm quan

đến chức Tri phủ. Ông là nhà trí thức nhân sĩ yêu nước. Sau khi quân Pháp đánh

chiếm thành Gia Định. Ông đã tình nguyện tham gia đội quân kháng chiến, ông lập

căn cứ Mỹ Quý thuộc huyện Châu Thành, Tiền Giang để chống Pháp, đội quân của

ông đã đánh nhiều trận làm quân Pháp lao đao, khiếp sợ. Khi Pháp tấn công vào

đồn Mỹ Quý ông rút về Cái Bè; nghĩa quân của ông cùng với quân của Võ Duy

Dương tiếp tục đánh Pháp khắp các nới như Cái Thia, Cai Lậy,Cái Bè, Rạch Gầm,

Trung Lương, Tân Lý… sau cùng ông trú quân ở Mỹ Trang. Ngày 6/1/1862 Đại úy

13

Hải quân Pháp Rieunier mang quân đánh vào đồn Mỹ Trang. Ông chỉ huy nghĩa

quân chống trả quyết liệt; nhưng thế giặc mạnh, ông bị giặc Pháp bắt giải về Mỹ

Tho, không muốn chết trong tay giặc, ông cắn lưỡi tuẫn tiết. Được tin ông hy sinh

vua Tự Đức thương tiếc và khen: ông là người nghĩa tiết, tiếng thơm sử sách, rất

khó người như thế. Truy tặng ông hàm Quang lộc tự khanh, sai quan tỉnh Quảng

Trị lập đền thờ. Trước miếu thờ ông tại làng Thâm Khê, có đôi câu đối:

Nhất phiếm trung can, đơn thụ kham hoài y tuyệt tích

Phong lâm đẩu giác, sơn hà vô hạn cảm phương danh

Dịch là

Một tấm lòng trung, danh tướng công lao đầy tuyệt tích

Ngôi sao tuấn kiệt, non sông cảm mộ chút danh thơm

23. LÂM HOẰNG/ HOÀNH

Lâm Hoằng/ Hoành (1824-1883) trước còn có tên là Lâm Chuẩn. Người quê

ở xã Gia Bình, tổng An Định, huyện Do Linh nay là xã Do Bình, huyện Do Linh.

Năm Đinh Mão, Tự Đức thứ 20 (1867) đỗ Cử nhân.Năm Mậu Thìn, Tự Đức thứ

21(1868) đỗ Phó bảng. Ông là một võ tướng dưới thời Tự Đức. Trong thời gian

làm quan ông giữ các chức vụ từ Tri huyện Kim Thành, rồi đến Biện lý bộ Lại, rồi

Tham biện Nội các sự vụ....sau một thời gian ông được triệu về kinh thăng chức

Hồng Lô tự khanh, rồi đến Quang Lộc tự khanh, Biện lý bộ Lễ và thăng đến chức

Tham tri Bộ công.

Năm 1883 khi Pháp chiếm cửa Thuận An, ông được giao nhiệm vụ trấn giữ

Trấn hải đài ở Thuận An; Thế giặc rất mạnh, ông cùng quân sĩ chiến đấu rất anh

dũng nhưng lực lượng mỏng, vũ khí thô sơ không chống nỗi giặc ông đành cho

quân lui rồi tự nhảy xuống biển tuẫn tiết. Đương thời ông được sĩ phu và nhân dân

kính trọng ngợi ca; sau triều đình phong ông hàm Công bộ Thượng thư, được thờ

vào đền Trung nghĩa.

24 .TRẦN ĐÌNH TÚC

Trần Đình Túc (1809-1892), tên tự là Trọng Cung, người làng Hà Trung, tổng

An Xá, huyện Do Linh. Năm Nhâm Dần, Thiệu Trị năm thứ 2 (1848), đậu Cử nhân

bổ chức Tri huyện Bất Bạt rồi quản đạo Phú Yên. Đến thời Tự Đức (1848-1883),

ông trải qua các chức Lang trung bộ binh, bang biện quân vụ Quảng Nam (1859).

14

Năm 1961 quân Pháp đánh thành Gia Định ông được giao giữ chức Hồng lô tự

khanh sung chứcTán Tương quân thứ ở Biên Hòa,. Năm 1868, ông nhận lệnh đi

công cán ở Hương Cảng khi về tiếp tục nhận nhiệm vụ Doanh điền sứ. Năm 1869,

ông lãnh chức Tuần Phủ Hà Nội, rồi Tuần phủ Hưng Hóa. Năm 1873, khi Pháp

đánh chiếm Hà Nội, ông được cử làm Tổng Đốc tỉnh này, cùng Tuần phủ Nguyễn

Trọng Hợp đi thương nghị với Pháp. Năm 1880, ông được gia hàm Hiệp biện Đại

học sĩ. Năm 1882, Pháp đánh chiếm Hà Nội lần thứ 2, ông được cử làm Khâm sai

đại thần giao thiệp với Pháp. Năm 1883, khi Pháp tấn công vào Thuận An, ông

lãnh chức Thượng Thư Bộ Lễ, sung làm Tòan quyền Đại thần đi dàn xếp mọi việc.

Đến năm 1891, ông được phong làm Hiệp Biện Đại học sĩ, về hưu rồi mất tại quê

nhà

Ông được vua Tự Đức tặng chiếc Kim khánh với 4 chữ: “Liêm Bình Cần

Cán” và có làm sách “Tiên Sơn thi tập”.

25. NGUYỄN VĂN TƯỜNG

Nguyễn Văn Tường (1824- 1886) Người tổng An Cư, huyện Đăng Xương nay

là thôn An Cư, xã Triệu Phước, huyện Triệu Phong.

Ông là đại thần triều Nguyễn, thuộc phe chủ chiến có tư tưởng yêu nước,

chống Pháp. Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842) đậu Cử nhân nhưng do ông khai tên

Nguyễn Phước nên bị vua phạt gạch tên trong sổ tú tài, giam một năm và đổi tên

Nguyễn Văn Tường. Năm Tự Đức thứ 3 (1850), ông đỗ Cử nhân mở đầu thời kỳ

làm quan hơn 30 năm; Đầu tiên ông được giao chức vị Huấn đạo ở huyện Mộ Đức,

rồi đổi Tri huyện Thành Hóa. Năm 1864 ông được giao chức Phủ doãn Thừa

Thiên. Năm 1866, ông được cử làm Bang biện huyện Thành Hóa, cấp cho ấn

Khâm phái quan phòng, cho được tự ý tư tâu. Năm 1974, ông được thăng Thượng

thư bộ Hình, sung Cơ mật viện đại thần, tấn phong Kỳ Vĩ bá, rồi Thượng thư bộ

Hộ. Năm 1877, ông được thăng thụ Hiệp biện Đại học sĩ.

Trong sự kiện “Tứ nguyệt tam vương” ông đã cùng Tôn Thất Thuyết chống

lại nhóm chủ hoà, phế Dục Đức và Hiệp Hoà, tôn Kiến Phúc lên ngôi, trù tính và

thực hiện các biện pháp để có thể chống Pháp lâu dài như xây thành Tân Sở

(Quảng Trị), tu bổ thượng đạo, sửa sang các sơn phòng, tích trữ vàng bạc, khí giới,

gạo muối ở Tân Sở và Dương Yên (Quảng Nam). Khi kinh thành Huế thất thủ

(23/3 năm Ất Dậu 1885) vua Hàm Nghi rời bỏ kinh thành, ban dụ Cần Vương cho

15

các tỉnh bắt đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Nguyễn Văn Tường nhận lệnh Từ

Dũ ở lại Huế thương thuyết với De Conrey nhưng sau 2 tháng bị quản thúc ở

Thương Bạc, ông bị đày đi Côn Lôn rồi sau đó sang Tahiti cùng với Phạm Thận

Duật, Tôn Thất Đính và ông mất ở đó. Về sau hài cốt được đưa về an táng ở quê

nhà (làng An cư, Triệu Phong, Quảng Trị).

26 . HOÀNG HỮU XỨNG

Hoàng Hữu Xứng (1831- 1905), người làng Bích La, tổng Bích La, huyện

Đăng Xương, phủ Triệu Phong nay là xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong. Năm

Nhâm Tý, Tự Đức thứ 5 (1852), ông đỗ Cử nhân.Năm 1861, ông giữ chức Huấn

đạo quyền Tri huyện Tuy Viễn thuộc tỉnh Bình Định. Qua năm sau ông được đặc

cách thăng Tri huyện Hà Đông tỉnh Quảng Nam. Năm 1869 được bổ làm Bố chánh

sứ tỉnh Thanh Hóa. Năm 1974, ông được triệu về kinh thăng làm Lại bộ Tả thị

lang. Năm 1880, ông được thăng thự Tuần phủ Hải Phòng. Dưới thời Đông Khánh

(1885), ông được cử đảm nhiệm thêm Nhật giảng quan ở nhà Kinh diên. Năm

1887, ông được thưởng thụ hàm Thị lang bộ Lại, thự Tả Tham tri. Đến triều Thành

Thái, ông được thăng Hiệp biện Đại học sĩ Thượng thư bộ Lễ cùng năm này cuốn

sách “Đại Nam Cương giới vựng” do ông phụ trách biên soạn đã làm xong. Ông

mất năm 1905.

27. TRƯƠNG ĐÌNH HỘI

Trương Đình Hội ( 1849- 1888 ) người làng Phù Lưu, tổng Bích La, huyện

Đăng Xương, phủ Triệu Phong nay là xã Triệu Long, huyện Triệu Phong. Ông đỗ

Cử nhân năm Quý Dậu, Tự Đức thứ 26 (1873). Ông làm quan dưới thời Tự Đức

với các chức Hành tẩu rồi Tư vụ tại bộ Lại. Năm 1876, ông được bổ chức Tri

huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Năm 1877, ông được bổ làm Huấn đạo huyện

Phú Lộc, phủ Thừa Thiên. Năm 1882 giữ chức Tri huyện Hương Trà thuộc phủ

Thừa Thiên.

Sau khi kinh thành Huế thất thủ (04/7/1885) Tôn Thất Thuyết cùng các đại

thần đưa vua Hàm Nghi ra khỏi kinh thành và lên Sơn phòng Quảng Trị ở Tân Sở.

Tại đây Tôn Thất Thuyết lấy danh nghĩa vua Hàm Nghi ra chiếu Cần Vương, kêu

gọi nhân dân ra sức phò vua cứu nước. Hưởng ứng lời kêu gọi chiếu Cần Vương

Trương Đình Hội tập hợp nghĩa quân và nhân dân ở vùng miền Tây Gio Linh-

Vĩnh Linh cầm quân nổi dậy khởi nghĩa chống Pháp; tổ chức nhiều trận đánh gây

16

cho Pháp nhiều thiệt hại lớn như trận Đò Lục. Về sau thực dân Pháp tăng quân đàn

áp phong trào, Trương Đình Hội phải rút vào Quảng Nam và bị bắt. Tháng giêng

năm Mậu Tý, tức 14-2-1888. Ông bị xử chém tại bến đò chợ củi Quảng Nam.

28. NGUYỄN TỰ NHƯ

Nguyễn Tự Như (1860- ? ) người làng Hà Thượng, tổng An Xá, huyện Do

Linh nay thôn Hà Thượng, xã Do Châu, huyện Do Linh. Ông đỗ Cử nhân năm

Mậu Dần, Tự Đức thứ 31 (1878).Năm Thành Thái thứ 10, Mậu Tuất (1898) có

khoa thi Hội, ông dự thi và trúng cách Tiến sĩ được bổ làm quan. Đến thời Duy

Tân thăng lên chức Tri phủ Quảng Ninh thuộc tỉnh Quảng Bình. Biến cố năm Ất

Dậu (1885), Kinh đô Huế thất thủ. Vua Hàm Nghi xuất bôn, xuống chiếu Cần

Vương chống Pháp.Hưởng ứng lời kêu gọi chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi,

Nguyễn Tự Như đã tập hợp nghĩa quân và nhân dân ở vùng Gio Linh, lấy địa bàn

Hà Thượng làm nơi tụ nghĩa, chỉ huy nghĩa quân đánh nhau với Pháp khi chúng

cho quân đánh chiếm ra Quảng Trị gây cho giặc nhiều thiệt hại lớn như trận Trạng

Mè. Đây là những trận đánh khởi đầu cho phong trào kháng chiến chống Pháp của

quân dân Quảng Trị.Không rõ ông mất năm nào.

29. TRẦN VIẾT THỌ

Trần Viết Thọ (1806 -1899) Người làng Thâm Triều, huyện Đăng Xương,

nay là làng Thâm Triều xã Triệu Tài, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, ông sinh

ra trong một gia đình nho học. Tên huý là Thanh Phúc, tự là Chu Toàn, hiệu là

Điềm Tịnh,tên tu hành là Cư sĩ Đại Sư. Ông đổ Cử nhân năm Tự Đức (1867) và đỗ

Phó bảng khoa thi Hội năm (1871)

Năm 1873 ông được bổ chức Giáo thụ phủ Quảng Hoá, Thanh Hoá, Tri

huyện Hưng Nhân, rồi Giáo thụ huyện Xuân Trường, sau đó về Kinh làm Chủ sự

Bô Lại kiêm Cơ mật Hành tẩu. Nhưng ông làm quan trong giai đoạn lịch sử đầy

biến động; thực dân Pháp từng bước xác lập nền đô hộ nước ta. Buồn phiền về thế

sự, ông xin cáo quan về quê năm Kiến Phúc thứ hai (1884).

Đến thời Hàm Nghi do mến mộ một trung thần có tài cao đức trọng, đã

phong cho ông hàm Hàn Lâm Viện Thị Giảng Học Sĩ và tái bổ nhiệm làm Án sát

sứ tỉnh Quảng Nam và sau đó là Đốc học tỉnh Quảng Nam. Năm Thành Thái thứ

nhất 1889, ông chuyển về làm Đốc học tỉnh Quảng Trị. Kiêm Giám khảo Trường

thi Nghệ An. Ngoài thời gian làm việc ông còn sáng tác văn thơ. Ông đã để lại các

17

tác phẩm “Hàm Long Sơn Chí”, “Chu Gia Thi Văn” và “Bảo Quốc Tự Lục” cùng

nhiều sáng tác khác.

Trên con đường hoạn lộ, Phó bảng Trần Viết Thọ luôn đem hết sức mình

giúp cho nước, lo cho dân, dù ở cương vị nào ông luôn tỏ ra là người có nhân

phẩm, thanh liêm và hết lòng thương dân. Với cách sống thanh cao đó, khi phục vụ

ở Kinh sư cũng như khi hành sự tại các phủ huyện, đâu đâu ông cũng được các

đồng liêu, các bậc thức giả và nhân dân mến phục

Phó bảng Trần Viết Thọ là một hiện tượng đặc biệt về một nhà đại khoa có

đời sống thanh cao, liêm khiết, trung trực và tiết tháo với sự vĩnh biệt cõi đời khác

người. ông đã để lại cho hậu thế một tấm gương sáng ngời về một con người chân

chính.

30. LÊ ĐĂNG TRINH

Lê Đăng Trinh (1850- 1909), Còn có tên Lê Trinh, tự Hàm Chương, hiệu

Bích Phong, người làng Bích La Đông, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong. Năm

1875, ông đỗ Phó bảng, làm quan đến chức Thượng thư Phụ chính đại thần dưới

triều Duy Tân. Ông là vị quan thanh liêm, chính trực, có công giúp nhà chí sĩ Phan

Chu Trinh thoát án tử hình dưới thời Pháp. Tác phẩm ông để lại:

- Bích Phong thi thảo: tập thơ gồm phần lớn là thơ đề tư, xướng họa, nhưng

cũng có một số bài nói lên nổi lòng của tác giả trước tình thế của đất nước.

31. KHÓA BẢO

Khóa Bảo (1860-1920) là sĩ phu yêu nước chống Pháp, tên thật là Nguyễn

Hữu Đồng, quê ở làng Tân Tường, Cam Lộ. Năm 1885 ông theo cha phò vua Hàm

Nghi ra căn cứ Tân Sở (nay là đất của xã Cam Chính) huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng

Trị, khi kinh thành Huế thất thủ (7/1885). Ông trở thành một thủ lĩnh tích cực

chống Pháp trên đất Quảng Trị vào đầu thế kỷ XX. Tháng 5 năm 1916, nhóm sĩ

phu yêu nước cùng Vua Duy Tân chuẩn bị khởi nghĩa bị bại lộ. Vua Duy Tân bị

bắt và bị đi đày sang đảo Reunion (Châu Phi). Ngày 17 tháng 5 năm 1916, ông

Trần Cao Vân, Thái Phiên, Phan Hữu Khánh bị xử chém ở An Hoà. Giặc biết được

Vua Duy Tân giao cho Khoá Bảo làm Lãnh binh Quảng Trị trong cuộc khởi nghĩa

năm 1916 đó, nên chúng lùng bắt ông, tra tấn dã man và kết án 9 năm tù giam. Ông

mất năm 1920 mộ phần ông được an táng tại quê nhà Cam Lộ.

18

1.2. Các nhà khoa bảng

Chế độ khoa cử ngày xưa là một trong những yếu tố trụ cột, xây dựng nên

lâu đài văn hóa và văn minh của dân tộc Việt Nam. Trãi qua các triều đại

phong kiến Việt Nam, khoa cử đã góp phần thể hiện chính sách tuyển chọn

và sử dụng nhân tài. Việc tổ chức các khoa thi, từ thi Hương đến thi Hội và

thi Đình không ngoài mục đích kén chọn nhân tài giúp nước, bổ sung quan

chức các cấp cho hệ thống chính quyền của mỗi triều đại. Con đường dẫn tới

thi cử để đạt được những nấc thang trên con đường hoạn lộ, nhập thế làm

quan, cống hiến cho quê hương, đất nước, để thành danh, tên tuổi lưu danh

hậu thế… quả không hề đơn giản; hay nói một cách khác đó là con đường

đầy gian nan, vất vả.

Đối với các nhà khoa bảng Quảng Trị, chỉ có Bùi Dục Tài là người đỗ

Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất (1502) dưới thời nhà Hậu Lê (Lê Hiển Tông) còn tất

cả đều đỗ đạt dưới thời nhà Nguyễn. Chúng ta biết rằng, chế độ khoa cử dưới

mỗi triều đại đều có những quy định khác nhau. Tuy nhiên, về cơ bản các

triều đại, kể cả triều Nguyễn cũng tiếp thu, kế thừa những quy định của các

triều đại trước, nên cơ bản về nội dung vẫn có sự thống nhất chung.

Khoa cử thời phong kiến có hai kỳ thi được coi là quan trọng nhất, đó là

hai cửa ải mà các sĩ tử phải vượt qua, trên bước đường công danh của mỗi

người. Đó là kỳ thi Hương và kỳ thi Hội, thi Đình.

Thi Hương: Kỳ thi của một tỉnh hay nhiều tỉnh chung một Trường thi.

Thời Lê cả nước có 9 Trường thi, thời Nguyễn lúc đầu có 7 Trường thi, sau

số lượng thí sinh đông nâng lên 10, 11 Trường thi. Phép thi Hương quy định

thí sinh phải trãi qua 4 kỳ (hay còn gọi là 4 Trường) thí sinh trúng tuyển cả 4

kỳ/Trường, thì được gọi là Cống sĩ hay Hương Cống/triều Nguyễn gọi là Cử

nhân. Người đỗ đến kỳ 3/trường 3 gọi là Sinh đồ/triều Nguyễn gọi là Tú tài.

Sau khi đỗ Cử nhân, các vị tân khoa có thể được bổ làm quan (tương đương

Tri huyện) hoặc có thể về quê chờ một đến hai năm sau dự kỳ thi Hội, hoặc

được giới thiệu vào học trường Quốc Tử Giám (thường là con quan).

Thi Hội và thi Đình: Thi Hội và thi Đình là các kỳ thi để đánh giá tài

năng cao nhất, nhằm chọn nhân tài cho đất nước, nên được gọi là Đại tỉ hay

Đại khoa. Đợt thi này gồm hai giai đoạn. Thi Hội cũng trãi qua 4 kỳ như thi

19

Hương, nhưng yêu cầu cao hơn và mức độ khó hơn. Những người đã qua

được 4 kỳ thi Hội, sau đó được vào dự cuộc thi Đình. Thi Đình còn được gọi

là Điện thi, vì được thi tại sân vua, do vua trực tiếp hỏi bài, nhằm xếp hạng

Tiến sĩ cho những người đã đỗ tại kỳ thi Hội. Danh hiệu Tiến sĩ cho những

người đẫ đỗ kỳ thi Hội, mỗi triều đại có một cách gọi khác nhau; Nhưng tựu

chung được xếp thành 3 loại: Đệ nhất giáp Tiến sĩ; Đệ nhị giáp Tiến sĩ và Đệ

Tam giáp Tiến sĩ. Trong ngôi Đệ nhất giáp Tiến sĩ có thêm danh hiệu Cập đệ

gồm ba ngôi cao nhất (Tam khôi): Đệ nhất giáp tiến sĩ, đệ nhất danh (Trạng

nguyên), Đệ nhất giáp tiến sĩ, đệ nhị danh (Bảng nhãn), Đệ nhất giáp tiến sĩ,

đệ tam danh (Thám hoa). Tiếp sau là hàng Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân

(Hoàng Giáp) không phân thứ bậc. Và tiếp sau là Đệ tam giáp tiến sĩ đồng

xuất thân (hay còn gọi là đồng Tiến sĩ). Triều Nguyễn đặt ra lệ “Tứ bất lập”

(Bốn điều không) Không phong vương cho người họ khác, không lập Hoàng

hậu, không phong Tể tướng và không lấy Trạng nguyên. Đồng thời triều

Nguyễn cũng định ra lệ lấy những người đỗ nhưng điểm thấp hơn Tiến sĩ

(bảng chính) một chút, cũng được ghi tên Tiến sĩ nhưng ở (bảng phụ) gọi là

Phó bảng. Phó bảng thì không được dự thi Đình.

Nhà Nguyễn tổng cộng mở 39 khoa thi Hội, lấy 291 Tiến sĩ và 266 Phó

bảng, Quảng Trị có 14 vị Tiến sĩ dưới triều Nguyễn cộng 1 Tiến sĩ dưới triều

Lê, có tất cả 15 vị đỗ Tiến sĩ và 10 vị đỗ Phó bảng

A. TIẾN SĨ: Có 15 vị đỗ Tiến sĩ

1. BÙI DỤC TÀI

Bùi Dục Tài (1477-1522) Ông người làng Câu Nhi, huyện Hải Lăng. Ông đỗ

đệ nhị Giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Nhâm Tuất (1502) đời vua Lê

Hiển Tông. (Xem thêm phần Tiểu sử ở Mục 1.1. Nhũng nhân vật lịch sử văn hóa)

2. NGUYỄN ĐỨC HOAN

Nguyễn Đức Hoan sinh năm Ất sửu (1805). Người Xã An Thơ, huyện Hải

Lăng. Ông thi Hương đậu cử nhân khoa Mậu Tý, Minh Mạng năm thứ 9 (1828).

Thi Hội đậu Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Ất Mùi, Minh Mạng năm thứ

16 (1835) năm 31 tuổi. Lúc đầu được bổ chức Hàn lâm viện Biên tu, sau thăng đến

20

chức Tuần Phủ Khánh Hòa, Con là Nguyễn Đức Di thi Hương đậu Cử nhân khoa

Tân Mão,

3. NGUYỄN THẾ TRỊ

Nguyễn Thế Trị sinh năm Giáp Tý (1804). Người xã Hương Liệu, huyện Đăng

Xương nay là làng Phương Sơn, huyện Triệu Phong, ông là con đề lĩnh Quảng Trị

Nguyễn Thế Chân. Ông đậu Cử nhân khoa Giáp Ngọ, Minh Mạng thứ 15 (1834).

Thi Hội khoa Ất Mùi, năm Minh Mạng thứ 16 (1835) ông đậu Đệ tam giáp đồng

Tiến sĩ xuất thân . Lúc đầu được bổ chức vụ Hàn lâm viện biên tu, sau giữ chức Án

sát An Giang, Án sát Vĩnh Long. Năm 1843 về cư tang, mất ở quê nhà.

4. LÊ ĐỨC

Lê Đức sinh năm Nhâm Thân (1812). Người xã Sa Lung, huyện Minh Linh

nay là làng Sa Lung, Vĩnh Long huyện Vĩnh Linh. Ông thi Hương đậu Cử nhân

khoa Đinh Dậu, Minh Mạng năm thứ 16 (1837). Thi Hội đậu Đệ tam giáp đồng

tiến sĩ xuất thân khoa Tân Sửu, Thiệu Trị năm thứ nhất (1841). Làm quan tới chức

Tuần phủ An Giang.

5. NGUYỄN XUÂN THỌ

Nguyễn Xuân Thọ sinh năm Mậu Thìn (1808). Người xã Đơn Duệ huyện

Minh Linh nay là làng Đơn Duệ, xã Vĩnh Hòa huyện Vĩnh Linh. Là Giám sinh, thi

Hội đậu Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Tân Sửu, Thiệu Trị năm thứ nhất

(1841) năm 34 tuổi. Bổ làm Tri huyện

6. NGUYỄN PHIÊN

Nguyễn Phiên sinh năm Mậu Thìn (1808). Người xã Xuân Mỵ, huyện Minh

Linh nay là thôn Xuân Mỵ huyện Do Linh. Ông thi Hương đậu Cử nhân khoa Canh

Tý, năm Minh Mạng thứ 21 (1840). Thi Hội đậu Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân

Ân khoa Quý Mão, năm Thiệu Trị thứ 3 (1843) năm 30 tuổi. Bổ là Tri huyện

7. NGUYỄN VĂN CHƯƠNG

Nguyễn Văn Chương (đổi là Nguyễn Văn Lập). Sinh năm Nhâm Thân

(1812). Người xã Triệu Hòa, huyện Đăng Xương nay là huyện Triệu Phong. Ông

thi Hương đậu Cử Nhân khoa Tân Sửu (1841). Thi Hội đậu Đình Nguyên, Đệ nhị

21

giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Giáp Thìn, Thiệu Trị năm thứ 4 (1844)

năm 33 tuổi. Làm quan đến chức Án sát Hải Dương.

8. NGUYỄN ĐỨC TƯ

Nguyễn Đức Tư sinh năm Ất Hợi (1815). Người xã An Thơ, huyện Hải

Lăng. Ông thi Hương đậu Cử nhân khoa Quý Mão, Thiệu Trị năm thứ 3 (1843).

Thi Hội đậu Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Đinh Mão, Thiệu Trị năm

thứ 7 (1847) năm 33 tuổi. Làm quan đến chức Tri phủ.

9. NGUYỄN VĂN HIỂN

Nguyễn Văn Hiển (1827- 1865). Người xã Mỹ Chánh, huyện Hải Lăng. Ông

thi Hương đậu Cử nhân khoa Bính Ngọ, Thiệu Trị năm thứ 6 (1846). Thi Hội đậu

Hội đậu Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng Giáp) khoa Đinh Mùi, Thiệu Trị năm

thứ 7 (1847) năm 21 tuổi. Lúc đầu được bổ chức vụ Hàn lâm viện tu soạn, sau ra

nhận chức Đốc học, hàm Hàn lâm viện Thị giảng, Án sát Quảng Ngãi. Mất khi giữ

chức Tuyên phủ sứ đạo Phú Yên. Ông có hiệu Doãn Trai, có tác phẩm Chà bàn

thành ký

10. LÊ THỤY

Lê Thụy sinh năm Nhâm Dần (1842). Người xã Bích La, huyện Đăng

Xương nay là huyện Triệu Phong. Ông thi Hương đậu Cử nhân khoa Mậu Thìn, Tự

Đức năm thứ 21 (1868). Thi Hội đậu Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Ất

Hợi, Tự Đức năm thứ 24 (1875) năm 34 tuổi. Làm quan đến chức Tuần phủ Thanh

Hóa, sau về kinh giữ chức Tham tri Bộ Hình

11. TRẦN PHÁT

Trần Phát sinh năm Nhâm Dần (1842). Người xã Xuân Mỵ huyện Minh

Linh, nay là huyện Do Linh. Thi Hương đậu Giải nguyên khoa Bính Tý, Tự Đức

năm thứ 29 (1876). Thi Hội đậu đậu Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Đinh

Sửu,Tự Đức năm thứ 30 (1877) năm 36 tuổi. Làm quan đến chức Thị giảng học sĩ,

sung chức giám khảo trường thi Hà Nam (tức Hà Nội và Nam Định). Khi về kinh,

đi đường biển bị chết đuối. Được truy tặng chức Thị giảng học sĩ.

12. HOÀNG BÍNH

22

Hoàng Bính (có tên Hoàng Hữu Tiếp) sinh năm Đinh Tỵ (1857). Người xã

Bích Khê, huyện Đăng Xương nay là huyện Triệu Phong. Thi Hương đậu Cử nhân

khoa Kỷ Mão, Tự Đức năm thứ 32 (1879). Thi Hội đậu Đình nguyên, Đệ nhị giáp

tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Kỷ Sửu,Thành Thái năm thứ 1(1889) năm 33

tuổi. Làm quan đến chức Tri phủ sung vào Sở Tu thư.

Cha là Hoàng Hữu Xứng, thi Hương đậu Cử nhân khoa Nhâm Tý, Tự Đức

năm thứ 5 (1852).

Em là Hoàng Hữu Khoản, thi Hội đậu Phó bảng khoa Ất Mùi, Thành Thái

năm thứ 7 (1895).

13. LÊ PHÁT

Lê Phát sinh năm Giáp Dần (1854). Người xã Xuân Thành, huyện Do Linh.

Thi Hương đậu Cử nhân khoa Kỷ Mão, Tự Đức năm thứ 32 (1879). Thi Hội đậu

Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Ất Mùi,Thành Thái năm thứ 7(1895)

Con là Lê Nguyên Lượng, thi Hội đậu Phó bảng khoa Kỷ Mùi, Khải Định

thứ 4 (1919).

Con là Lê Phổ, thi Hương đậu Cử nhân Khoa Mậu Ngọ, Khải Định năm thứ

3 (1918)

14. NGUYỄN TỰ NHƯ

Nguyễn Tự Như sinh năm Canh Thân (1860). Người làng Hà Thượng,

huyện Do Linh. Thi Hương đậu Cử nhân khoa Mậu Dần, Tự Đức năm thứ 31

(1878). Thi Hội đậu Đệ tam giáp đồng tiến sĩ khoa Mậu Tuất, Thành Thái năm thứ

10 (1898) (Xem thêm phần Tiểu sử ở Mục 1.1. Nhũng nhân vật lịch sử văn hóa)

15. NGUYỄN HÀM

Nguyễn Hàm sinh năm Nhâm Ngọ (1882). Người xã An Cư, huyện Thuận

Xương nay là An Cư, Triệu Phước, huyện Triệu Phong.Thi Hương đậu Cử nhân

khoa Bính Ngọ năm Thành Thái thứ 18 (1906). Thi Hội đậu Đệ tam giáp đồng

Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Tuất năm Duy Tân thứ 4 (1910) năm 29 tuổi. Làm

Thừa chỉ Viện hàn lâm, dạy ở trường Hậu bổ.

23

B. PHÓ BẢNG: Có 10 vị đỗ Phó bảng

1. NGUYỄN XUÂN BẢNG

Nguyễn Xuân Bảng sinh năm Nhâm Thân (1812). Người xã Xuân Mỵ, huyện

Minh Linh nay là Xuân Mỵ huyện Do Linh.Thi Hương đậu Cử nhân khoa Giáp

Ngọ, năm Minh Mạng thứ 15 (1834). Thi Hội đậu Phó bảng khoa Mậu Tuất, năm

Minh mạng thứ 19 (1838) năm 27 tuổi. Làm quan đến chức Thừa Thiên Phủ doãn.

Em là Nguyễn Phiên thi Hội đậu Tiến sĩ khoa Quý Mão, Thiệu Trị thứ 3

(1843)

2. LÊ ĐÌNH DAO

Lê Đình Dao sinh năm Giáp Thân (1824). Người xã Bồ Bản, huyện Đăng

Xương nay là huyện Triệu Phong.Thi Hương đậu Cử nhân khoa Mậu Thân, năm

Tự Đức thứ 1(1848). Thi Hội đậu Phó bảng khoa Tân Hợi, năm Tự Đức thứ 4

(1851). Lúc đầu được bổ chức Hàn lâm viện Kiểm thảo, sau sung chức phúc khảo

trường thi Nghệ An. Tham gia biên soạn bộ Khâm định nhân sự kim giám. Năm

1870, làm Ngoại lang Bộ Hộ, lĩnh chức Lang trung. Mất tại lỵ sở, thọ 57 tuổi, truy

tăng hàm Tứ phẩm.

3. LÊ ĐỨC DINH

Lê Đức Dinh Người xã Quảng Điền, huyện Đăng Xương nay là huyện Triệu

Phong. Không rõ đỗ thi Hương khoa nào. Thi Hội đậu Phó bảng khoa Tân Hợi, Tự

Đức năm thứ 4 (1851).

4. VÕ TỬ VĂN

Võ Tử Văn sinh năm (?). Người xã Nại Cửu, huyện Đăng Xương nay là làng

Nại Cửu, Triệu Đông, huyện Triệu Phong.Thi Hương đậu Cử nhân khoa Mậu

Thân, Tự Đức năm thứ 1 (1848). Thi Hội đậu Phó bảng khoa Tân Hợi, Tự Đức

năm thứ 4 (1851). Làm quan đến chức Tư nghiệp Quốc tử giám, Toản tu Quốc sử

quán. Được về hưu trí, mất tại quê nhà.

5. LÂM HOẰNG (Lâm Chuẩn/Lâm Hoành)

Ông sinh năm Giáp Thân (1824). Người xã Gia Bình huyện Do Linh.Thi

Hương đậu Cử nhân khoa Đinh Mão, Tự Đức năm thứ 20 (1867). Thi Hội đậu Phó

24

bảng khoa Mậu Thìn, Tự Đức năm thứ 21 (1868).(Xem thêm phần Tiểu sử ở Mục

1.1. Nhũng nhân vật lịch sử văn hóa)

6. LÊ KHÁNH THIỆN

Lê Khánh Thiện sinh năm Giáp Ngọ (1834). Người xã Cổ Trai, huyện Minh

Linh nay là huyện Vĩnh linh.Thi Hương đậu Cử nhân khoa Đinh Mão, Tự Đức

năm thứ 20 (1867). Thi Hội đậu Phó bảng khoa Mậu Thìn, Tự Đức năm thứ 21

(1868) năm 35 tuổi. Làm quan đến chức Chưởng ấn.

7. TRẦN VIẾT THỌ

Trần Viết Thọ sinh năm Bính Thân (1836). Người xã Thâm Triều, huyện

Đăng Xương. Thi Hương đậu Cử nhân khoa Đinh Mão (1867). Thi Hội đậu Phó

bảng khoa Tân Mùi, Tự Đức năm thứ 24 (1871) (Xem thêm phần Tiểu sử ở Mục

1.1. Nhũng nhân vật lịch sử văn hóa)

8. LÊ ĐĂNG TRINH

Lê Đăng Trinh tên cũ là Lê Trinh sinh năm Canh Tuất (1850). Người xã

Bích La, huyện Đăng Xương nay là huyện Triệu Phong.Thi Hương đậu Giải

nguyên khoa Canh Ngọ (1870). Thi Hội đậu Phó bảng khoa Ất Hợi, Tự Đức năm

thứ 28 (1875) (Xem thêm phần Tiểu sử ở Mục 1.1. Nhũng nhân vật lịch sử văn hóa)

9. HOÀNG HỮU KHOẢN

Hoàng Hữu Khoản sinh năm Kỷ Tỵ (1869). Người xã Bích Khê, huyện

Đăng Xương nay là huyện Triệu Phong.Thi Hương đậu Cử nhân khoa Giáp Ngọ,

Thành Thái năm thứ 6 (1895). Thi Hội đậu Phó bảng khoa Ất Mùi, Thành Thái

năm thứ 7 (1895) năm 27 tuổi.

Cha là Hoàng Hữu Xứng, Cử nhân khoa Nhâm Tý, Tự Đức năm thứ 5 (1852), anh

là Hoàng Bính Hoàng giáp (Tiến sĩ) khoa Kỷ Sửu, Thành Thái năm thứ 1 (1895).

10. LÊ NGUYÊN LƯỢNG

Lê Nguyên Lượng sinh năm Ất Mùi (1895). Thi Hương đậu Cử nhân khoa

Ất Mão, Duy Tân năm thứ 9 (1915). Thi Hội đậu Phó bảng khoa Kỷ Mùi, Khải

Định năm thứ 4 (1919) năm 25 tuổi.

Cha là Lê Phát đậu Tiến sĩ khoa Ất Mùi, Thành Thái năm thứ 7 (1895).

25

Em là Lê Phổ đậu Cử nhân khoa Mậu Ngọ, Khải Định năm thứ 3 (1918)

C. DANH SÁCH CÁC VỊ CỬ NHÂN THỜI NGUYỄN

Sau khi thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, triều Nguyễn cố gắng củng cố bộ máy

nhà nước, nhằm chỉnh đốn việc nội trị và chú trọng đến việc học hành thi cử, tiếp

nối dòng lịch sử khoa cử, mà các triều đại rược đã trãi qua. Tuy nhiên, sau khi lên

ngôi Gia Long đứng trước một tình hình xã hội hết sức khó khăn, chỉ có thể chọn

nhân tài qua chính sách chiêu hiền đãi sĩ. Mãi đến năm Đinh Mão Gia Long thứ 6

(1807) mới tổ chức được khoa thi Hương đầu tiên, kể từ đó, phép thi cứ 3 năm tổ

chức một lần. Ngoài ra lúc cần thiết nhà vua mở thêm các khoa đặc biệt gọi là Ân

khoa (ơn vua). Từ năm Khoa thi đầu tiên dưới thời Gia Long năm 1807 đến năm

khoa thi cuối cùng dưới thời Khải Định năm 1919 cả nước có tất cả 47 khoa thi

Hương (kể cả chính khoa và ân khoa) lấy 5.232 đỗ Cử nhân; trong đó Quảng Trị

có 155 vị đỗ Cử nhân, Gồm các vị qua từng khoa như sau:

SỐ

TT

HỌ VÀ TÊN QUÊ QUÁN KHOA

THI

HÀNH

TRẠNG

GHI

CHÚ

1 Nguyễn Thừa Giảng Hoa Viên,

Đăng Xương

(TriệuPhong)

Minh Mạng

thứ 2 (1821)

2 Nguyễn Hữu Gia Đại Hòa

Hải Lăng

Minh Mạng

thứ 2 (1821

Làm quan đến

chức Thị lang

3 Nguyễn Đức Hoạt An Thư

Hải Lăng

Minh Mạng

thứ 6 (1825)

Làm quan đến

chức bộ Hộ

4 Nguyễn Đức Hoan An Thư

Hải Lăng

Minh Mạng

thứ 6 (1825)

Làm quan đến

chức Tuần

phủ Khánh

Hòa

5 Trần Lý Đạo Trung Kiên

Đăng Xương

Minh Mạng

thứ 6 (1825)

6 Lê Khánh Trinh Cổ Trai

Minh Linh

Minh Mạng

thứ 12

(1831)

Làm quan đến

chức Bố

Chánh Gia

26

Định

7 Nguyễn Hữu Hoằng

(đổi là Nguyễn Hữu

Huyên)

Đại Hòa

Hải Lăng

Minh Mạng

thứ 15

(1834)

Làm quan đến

chức Lang

trung, sung

chức phó sứ

sang Trung

Quốc

8 Nguyễn Văn Sĩ Mỹ Chánh

Hải Lăng

Minh Mạng

thứ 15

(1834)

Làm quan đến

chức Ngự sử

9 Thái Viết Điền Trung Kiên

Đăng Xương

Minh Mạng

thứ

18(1837)

10 Trần Nguyên Phương Xuân Mị

Minh Linh

Minh Mạng

thứ

18(1837)

Làm quan đến

chức Tri

huyện

11 Phạm Văn Trị An Mô

Đăng Xương

Minh Mạng

thứ

18(1837)

Làm quan đến

chức Tri

huyện

12 Lê Văn Nhượng Trung Kiên

Đăng Xương

Minh Mạng

thứ

18(1837)

Làm quan đến

chức Bố

Chánh

13 Phạm Quang Cư Cao Hy

Đăng Xương

Thiệu Trị

thứ nhất

(1841)

Làm quan đến

chức Viên

ngoại lang

14 Lê Văn Chấn Vũ Kim

Đăng Xương

Thiệu Trị

thứ nhất

(1841)

Làm quan đến

chức Huấn

đạo

15 Lê Trọng Huy Nại Cửu

Đăng Xương

Thiệu Trị

thứ nhất

(1841)

Làm quan đến

chức Tri

huyện

16 Nguyễn Doãn Nguyên Cát Sơn

Minh Linh

Thiệu Trị

thứ nhất

27

(1841)

17 Lê Hữu Hằng Bích La

Đăng Xương

Thiệu Trị

thứ nhất

(1841)

Làm quan đến

chức Tuần

phủ

18 Trần Đình Túc Hà Trung

Địa Linh

Thiệu Trị

thứ hai

(1842)

Làm quan đến

chức Hiệp

biện đại học sĩ

19 Nguyễn Thế Nho An Khê

Địa Linh

Thiệu Trị

thứ hai

(1842)

Làm quan đến

chức Tri

huyện

20 Nguyễn Đức Tân Khánh Thọ

Minh Linh

Thiệu Trị

thứ hai

(1842)

Làm quan đến

chức Tri

huyện

21 Nguyễn Văn Trị

(đổi là Nguyễn Vĩnh)

Diên Khánh

Hải Lăng

Thiệu Trị

thứ hai

(1842)

Làm quan đến

chức Thị lang

bộ Binh

22 Phan Văn Hoán Đạo Đầu

Đăng Xương

Thiệu Trị

thứ ba

(1843)

Làm quan đến

chức Viên

ngoại lang

23 Nguyễn Văn Bính Kinh Môn

Minh Linh

Thiệu Trị

thứ 3(1843)

24 Nguyễn Văn Khiêm Lịch Sơn

Địa Linh

Thiệu Trị

thứ ba

(1843)

Làm quan đến

chức Quản

đạo

25 Lê Trọng Huyên Nại Cửu

Đăng Xương

Thiệu Trị

thứ ba

(1843)

Làm quan đến

chức Viên

ngoại lang

26 Trần Đình Côn Thủy Khê

Minh Linh

Thiệu Trị

thứ 3(1843)

Làm quan đến

chức Tri

huyện

27 Trần Văn Tảo Trung Kiên

Đăng Xương

Thiệu Trị

thứ ba

(1843)

Làm quan đến

chức Tri

huyện

28

28 Lý Thế Khuông Trung Kiên

Đăng Xương

Thiệu Trị

thứ ba

(1843)

29 Nguyễn Văn Hiển Mỹ Chánh

Hải Lăng

Thiệu Trị

thứ sáu

(1846)

Làm quan đến

chức Tuyên

phủ sứ

30 Trần Văn Gia Minh Hương

Đạo Quảng Trị

Thiệu Trị

thứ sáu

(1846)

Làm quan đến

chức Viên

ngoại lang

31 Nguyễn Quang Huy An Thư

Hải Lăng

Thiệu Trị

thứ sáu

(1846)

Làm quan đến

chức Biên tu

Nội cát

32 Lê Văn Tuyển Thủy Khê

Minh Linh

Thiệu Trị

thứ sáu

(1846)

Làm quan đến

chức Bố

chánh

33 Trần Kim Khanh Nhĩ Trung

Địa Linh

Thiệu Trị

thứ sáu

(1846)

Làm quan đến

chức Tri

huyện

34 Lê Đường Lâm Thạch Hãn

Hải Lăng

Thiệu Trị

thứ sáu

(1846)

Làm quan đến

chức Quản

đạo

35 Nguyễn Văn Điều An Cư

Đăng Xương

Thiệu Trị

thứ bảy

(1847)

Làm quan đến

chức Án sát

36 Nguyễn Đình Chiếu Phong Xuyên

Đăng Xương

Thiệu Trị

thứ bảy

(1847)

Làm quan đến

chức Tuần

phủ

37 Lê Thanh Bạch Trí Lễ (nay đổi

là Quy thiện)

Hải Lăng

Thiệu Trị

thứ bảy

(1847)

Làm quan đến

chức Tri phủ

38 Hoàng Văn Giảng Diên Sinh

Hải Lăng

Thiệu Trị

thứ bảy

(1847)

Làm quan đến

chức Án sát

29

39 Nguyễn văn Cơ Xuân An

Đăng Xương

Thiệu Trị

thứ bảy

(1847)

40 Nguyễn Tăng Doãn Câu Nhi

Hải Lăng

Thiệu Trị

thứ bảy

(1847)

Làm quan đến

chức Thượng

thư bộ Lại

41 Phạm Ngọc Huy Diên Khánh

Hải Lăng

Thiệu Trị

thứ bảy

(1847)

Làm quan đến

chức Phủ

Doãn

42 Hoàng Văn Hài Dã Độ

Đăng Xương

Tự Đức

Thứ nhất

(1848)

Làm quan đến

chứcTri phủ

43 Nguyễn Hinh Vĩnh Phước

Đăng Xương

Tự Đức

thứ nhất

(1848)

Làm quan đến

chức Tri phủ

44 Trần Xuân Hòa Thâm Khê

Hải Lăng

Tự Đức

Thứ nhất

(1848)

Làm quan đến

chức Tri phủ

45 Nguyễn Hữu Điềm Đại Hòa

Đăng Xương

Tự Đức

thứ nhất

(1848)

Làm quan đến

chức Bố

Chánh

46 Hoàng Đức Nhượng Quảng Xá

Minh Linh

Tự Đức

thứ ba

(1850)

47 Nguyễn Văn Tường

(Thuở nhỏ có tên là

Nguyễn Phước

Tường)

An Cư

Đăng Xương

Tự Đức

thứ hai

(1849)

Làm quan đến

chức Cần

chánh điện

đại học sĩ,

phụ chính đại

thần, tấn

phong Kỳ Vỹ

quận công

48 Phan Đắc Kiệm Giáo Liêm Tự Đức Làm quan đến

30

Đăng Xương thứ 2

(1849)

chức Sơn

phòng sứ

49 Nguyễn Khắc Lý Hòa Điệu

Đăng Xương

Tự Đức

thứ hai

(1849)

Làm quan đến

chức Sơn

phòng sứ

50 Lại Thiên Chẩn Xuân An

Đăng Xương

Tự Đức

thứ hai

(1849)

Làm quan đến

chức Hậu bổ

51 Cao Đăng Dụng Trà Bát

Đăng Xương

Tự Đức

thứ hai

(1849)

Làm quan đến

chức Bố

chánh

52 Lê Bá Nghị Bích La

Đăng Xương

Tự Đức

thứ hai

(1849)

Làm quan đến

chức Giáo thụ

53 Lê Ngọc Uyển Tùng Luật

Minh Linh

Tự Đức

thứ năm

(1852)

Làm quan đến

chức Giáo thụ

54 Hoàng Hữu Xứng Bích Khê

Đăng Xương

Tự Đức

thứ năm

(1852)

Làm quan đến

chức Thượng

thư

Tr 307

55 Nguyễn Đức Giản Hưng Nhơn

Hải Lăng

Tự Đức

thứ năm

(1852)

Làm quan đến

chức Viên

ngoại lang

56 Nguyễn Văn Đỉnh Mỹ Chánh

Hải Lăng

Tự Đức

thứ tám

(1855)

57 Cao Duy Ninh Thủy Ba

Minh Linh

Tự Đức

thứ tám

(1855)

58 Nguyễn Hữu Huân Gia Lâm

Minh Linh

Tự Đức

thứ tám

(1855)

59 Lê Đại Huân Liêm Công Tự Đức

31

Minh Linh thứ tám

(1855)

60 Nguyễn Văn Sách Mỹ Chánh

Hải Lăng

Tự Đức

thứ tám

(1855)

61 Nguyễn Văn Nghị Tân Trại

Minh Linh

Tự Đức

thứ 11

(1858)

62 Nguyễn Đức Dĩnh Hưng Nhân

Hải Lăng

Tự Đức

thứ 11

(1858)

Làm quan đến

chức Tri phủ

63 Nguyễn Văn Thành Đạo Đầu

Đăng Xương

Tự Đức

thứ 11

(1858)

Làm quan đến

chức Tri

huyện

64 Cao Duy Hiển Thủy Ba hạ

Minh Linh

Tự Đức

thứ 14

(1861)

Làm quan đến

chức Thượng

thư bộ Công,

Tổng Đốc

Bắc Kỳ,

Khâm sai

65 Đặng Quang Trân Phương Ngạn

Đăng Xương

Tự Đức

thứ 17

(1864)

Làm quan đến

chức Tri

huyện

66 Phạm Hoài Cẩn Đại Hào

Đăng Xương

Tự Đức

thứ 17

(1864)

Làm quan đến

chức Tri phủ

67 Nguyễn Như Khuê Phước Lâm

Minh Linh

Tự Đức

thứ 17

(1864)

Làm quan đến

chức Tri phủ

68 Nguyễn Văn Huy Hoàng Hà

Do Linh

Tự Đức

thứ 20

(1867)

69 Hồ Ngọc Hào Phương Ngạn Tự Đức Làm quan đến

32

Đăng Xương thứ 21

(1868)

chức Chưởng

Ấn

70 Trần Huyên Hương Liệu

(Phương Sơn)

Đăng Xương

Tự Đức

thứ 21

(1868)

Làm quan đến

chức Án sát

71 Dương Thụy Kim Lung

Hải Lăng

Tự Đức

thứ 21

(1868)

Làm quan đến

chức Thông

phán

72 Lê Văn Hành Bác Vọng

Do Linh

Tự Đức

thứ 21

(1868)

Làm quan đến

chức Lang

trung

73 Nguyễn Giản

(đổi là Nguyễn Lữ lại

đổi Nguyễn Hữu Văn)

Quảng Điền

Đăng Xương

(Triệu Phong)

Tự Đức

Thứ 21

(1868)

Làm quan đến

chức Bố

chánh

74 Đoàn Như Bích Kim Đâu

Do Linh

Tự Đức

thứ 21

(1868)

Làm quan đến

chức Giám

lâm Nội vụ

75 Phan Duy Tân Thượng Xá

Hải Lăng

Tự Đức

Thứ 21

(1868)

Làm quan đến

chức Chưởng

ấn

76 Trần Đức Mẫn Thổ Lập

Quảng Trị

Tự Đức

Thứ 26

(1873)

Làm quan đến

chức Học

chính

77 Lê Thâm Tường Hưng

Quảng Trị

Tự Đức

Thứ 26

(1873)

Làm quan đến

chức Viên

ngoại cơ mật

viện

78 Trương Thiện Thuật Phù Lưu

Quảng Trị

Tự Đức

Thứ 26

(1873)

Làm quan đến

chức Tri

huyện

79 Trần Đức Kiên Cát sơn

Triệu Phong

Tự Đức

Thứ 26

Làm quan đến

chức Tri

33

(1873) huyện

80 Nguyễn Tăng Ý Câu Nhi

Hải Lăng

Tự Đức

Thứ 26

(1873)

Làm quan đến

chức Phủ thừa

81 Nguyễn Chất Thạch Hãn

Hải Lăng

Tự Đức

Thứ 29

(1876)

Làm quan đến

chức Bố

chánh

82 Trần Đăng Tố Cam Lộ

Cam Lộ

Tự Đức

Thứ 29

(1876)

Làm quan đến

chức Tri

huyện

83 Trần Xán Hương Liệu

(Phương Sơn)

Triệu Phong

Tự Đức

Thứ 29

(1876)

Làm quan đến

chức Ngự sử

84 Trương Đức Uẩn An Xuân

Cam Lộ

Tự Đức

Thứ 29

(1876)

Làm quan đến

chức Tri phủ

85 Nguyễn Vĩ Phú Liêu

Đăng Xương

(Triệu Phong)

Tự Đức

Thứ 29

(1876)

Làm quan đến

chức Phủ

doãn

86 Nguyễn Tôn Nhượng Lại Mông

Đăng Xương

(Triệu Phong)

Tự Đức

Thứ 29

(1876)

Làm quan đến

chức Lang

trung

87 Nguyễn Văn Định Ngô Xá

Đăng Xương

(Triệu Phong)

Tự Đức

Thứ 31

(1878)

88 Phạm Quang Hựu Tảo Hy

Đăng Xương

(Triệu Phong)

Tự Đức

Thứ 31

(1878)

Làm quan đến

chức Tá lý bộ

Lại

89 Nguyễn Văn Nhự Vân Tường

Đăng Xương

(Triệu Phong)

Tự Đức

Thứ 31

(1878)

90 Nguyễn Trần Vịnh Văn Quỹ

Hải Lăng

Tự Đức

Thứ 31

Làm quan đến

chức Tri phủ

34

(1878

91 Nguyễn Trọng Xán Vũ Kim

Đăng Xương

(Triệu Phong)

Tự Đức

Thứ 31

(1878)

Làm quan đến

chức Tư vụ

92 Nguyễn Trừng Diên Khánh

Hải Lăng

Tự Đức

Thứ 31

(1878

Làm quan đến

chức Thị lang

bộ Lễ

93 Nguyễn Đăng Đạo An Trú

Đăng Xương

(Triệu Phong)

Tự Đức

Thứ 32

(1879)

Làm quan đến

chức Viên

ngoại bộ

Công

94 Hồ Đệ Cổ Thành

Đăng Xương

(Triệu Phong)

Tự Đức

Thứ 32

(1879)

Làm quan đến

chức Thị lang

bộ Lễ

95 Lê Hữu Tính Bích La

Đăng Xương

(Triệu Phong)

Tự Đức

Thứ 32

(1879)

Làm quan đến

chức Trước

Tác lãnh

Bang tá

96 Nguyễn Sĩ Bình An Cư

Triệu Phong

Tự Đức

Thứ 35

(1882)

Làm quan đến

chức Tri

huyện

97 Nguyễn Đình Chiểu Vũ Kim

Quảng Trị

Tự Đức

Thứ 35

(1882)

98 Ngô Quang Khuê Phú Xuân

Quảng Trị

Tự Đức

Thứ 35

(1882)

99 Nguyễn Hựu

(đổi là Nguyễn Hách)

Kim Long

Hải Lăng

Tự Đức

Thứ 35

(1882)

Làm quan đến

chức Chưởng

ấn

100 Lê Đình Tuân Bồ Bản

Triệu Phong

Tự Đức

Thứ 35

(1882)

Làm quan đến

chức Tri phủ

35

101 Lê Vĩ Tường Vân

Triệu Phong

Tự Đức

Thứ 35

(1882)

102 Trần Vũ Dã Độ

Triệu Phong

Tự Đức

Thứ 35

(1882)

103 Nguyễn Tu Yên Bình

Thành Hóa

Kiến Phúc

thứ nhất

(1884)

Làm quan đến

chức Tri phủ

104 Hồ Phác Cổ Thành

Thuận Xương

(Triệu Phong)

Đồng

Khánh thứ 2

(1887)

105 Trần Lý Dự Trung Kiên

Thuận Xương

(Triệu Phong)

Đồng

Khánh thứ 2

(1887)

106 Lê Gia Trung An

Hải Lăng

Đồng

Khánh thứ 2

(1887)

107 Nguyễn Duy Lam Thủy

Hải Lăng

Đồng

Khánh thứ 2

(1887)

108 Lâm Tuấn Kiệt Gia Bình

Do Linh

Đồng

Khánh thứ 2

(1887)

Làm quan đến

chức Giáo thụ

109 Nguyễn Xuyết Văn Phong

Quảng Trị

Đồng

Khánh thứ 3

(1888)

Làm quan đến

chức Huấn

đạo

110 Lê Toại Hà Lộc

Hải Lăng

Đồng

Khánh thứ 3

(1888)

111 Lê Văn Nhiếp Vũ Kim

Quảng Trị

Đồng

Khánh thứ 3

(1888)

36

112 Nguyễn Hữu Quang Hà Tăng

Quảng Trị

Đồng

Khánh thứ 3

(1888)

113 Nguyễn Hữu Phu Đại Hòa

Triệu Phong

Đồng

Khánh thứ 3

(1888)

Làm quan đến

chức Tu soạn

nội các

114 Nguyễn Huy Cẩn Tân Trường

Quảng Trị

Thành Thái

thứ 3

(1891)

115 Nguyễn Di An Thư

Hải Lăng

Thành Thái

thứ 3

(1891)

116 Lê Văn Hiển Bác Vọng

Quảng Trị

Thành Thái

thứ 3

(1891)

117 Trịnh Vĩ Trà Liên

Hải Lăng

Thành Thái

thứ 3

(1891)

118 Hoàng Hữu Bỉnh Bích Khê

Đăng Xương

(Triệu Phong)

Thành Thái

thứ 3

(1891)

119 Thái Uông Cam Lộ

Thành Hóa

(Cam Lộ)

Thành Thái

thứ 6

(1894)

120 Nguyễn Khắc Trung Đại Đỉnh

Hải Lăng

Thành Thái

thứ 6

(1894)

Làm quan đến

chức Huấn

đạo

121 Nguyễn Xuân Phúc Lam Thủy

Hải Lăng

Thành Thái

thứ 6

(1894)

Làm quan đến

chức Tri

huyện

122 Lê Thụy Vân Hà Thượng

Do Linh

Thành Thái

thứ 6

37

(1894)

123 Nguyễn Xuân Tặng Đại Hào

Thuận Xương

(Triệu Phong)

Thành Thái

thứ 9

(1897)

124 Hồ Hòa Như Lệ

Triệu Phong

Thành Thái

thứ 9

(1897

125 Đào Như Bích Tân Định

Thành Hóa

Thành Thái

thứ 9

(1897

Làm quan đến

chức Tri

huyện

126 Nguyễn Văn Đình Đại Hào

Thuận Xương

(Triệu Phong)

Thành Thái

thứ 9

(1897)

Làm quan đến

chức Tri

huyện

127 Vũ Doãn Văn Hà Thượng

Do Linh

Thành Thái

thứ 9

(1897)

128 Cao Hoằng Hậu Kiên

Thuận Xương

(Triệu Phong)

Thành Thái

thứ 12

(1900)

Làm quan đến

chức Thị

giảng sung

Biên tu Sử

quán

129 Nguyễn Kỳ Quảng Điền

Thuận Xương

(Triệu Phong)

Thành Thái

thứ 12

(1900)

Làm quan đến

chức Thị độc

sung Hành tẩu

Cơ mật viện

130 Lê Mạnh Ôn Vân Hòa

Thuận Xương

(Triệu Phong)

Thành Thái

thứ 12

(1900)

Làm quan đến

chức Hậu bổ

131 Hoàng Hữu Quý Bích Khê

Thuận Xương

(Triệu Phong)

Thành Thái

thứ 15

(1903)

Làm quan đến

chức Thị

giảng Lãnh tri

132 Lê Cảnh BÍch La

Thuận Xương

Thành Thái

thứ 15

Làm quan đến

chức Hành tẩu

38

(Triệu Phong) (1903) bộ Học

133 Hoàng Văn Khải Phúc Điền

Hải Lăng

Thành Thái

thứ 15

(1903)

Làm quan đến

chức Tri

huyện

134 Phan Triệu Khanh Giáo Liêm

Thuận Xương

(Triệu Phong)

Thành Thái

thứ 18

(1906)

Làm quan đến

chức Thị

giảng

135 Hồ Trọng Bá An Mỹ

Thành Hóa

Thành Thái

thứ 18

(1906)

136 Nguyễn Đức Đàn An Thư

Hải Lăng

Thành Thái

thứ 18

(1906)

Làm quan đến

chức Tri

huyện

137 Hồ Tiểu Viên Mỹ Chánh

Hải Lăng

Thành Thái

thứ 18

(1906)

Làm quan đến

chức Huấn

đạo Nghĩa

Hành

138 Nguyễn Lý Thản Kim Lung

Hải Lăng

Thành Thái

thứ 18

(1906)

Làm quan đến

chức Tri

huyện

139 Nguyễn Hữu Lâm Tường Vân

Thuận Xương

(Triệu Phong)

Thành Thái

thứ 18

(1906)

Làm quan đến

chức Trước

tác sung Toản

tu sử quán

140 Trần Doãn Trai Lan Đình

Do Linh

Thành Thái

thứ 18

(1906)

Làm quan đến

chức Chue sự

bộ Hộ

141 Nguyễn Đức Thố Mỹ Chánh

Hải Lăng

Thành Thái

thứ 18

(1906)

Làm quan đến

chức Bát

phẩm

142 Lê Công Thứ Tường Vân

Thuận Xương

(Triệu Phong)

Duy Tân

thứ 3

(1909)

39

143 Nguyễn Văn Hiệu An Cư

Thuận Xương

(Triệu Phong)

Duy Tân

thứ 3

(1909)

144 Nguyễn Văn Tài An Cư

Thuận Xương

(Triệu Phong)

Duy Tân

thứ 3

(1909)

Làm quan đến

chức Tri

huyện

145 Đỗ Văn Dao Đâu Kinh

Thuận Xương

(Triệu Phong)

Duy Tân

thứ 3

(1909)

Làm quan đến

chức Tri

huyện

146 Hoàng Hữu Bảng Bích Khê

Thuận Xương

(Triệu Phong)

Duy Tân

thứ 3

(1909)

147 Lê Chí Hàm Thạch Hãn

Hải Lăng

Duy Tân

thứ 6

(1912)

Làm quan đến

chức Giáo thụ

148 Nguyễn Duy Tựu Đại Hòa

Thuận Xương

(Triệu Phong)

Duy Tân

thứ 6

(1912)

Làm quan đến

chức Tri

huyện

149 Nguyễn Tuy An Cư

Thuận Xương

(Triệu Phong)

Duy Tân

thứ 6

(1912)

Làm quan đến

chức Huấn

đạo

150 Đỗ Văn Kiểm An Mô

Thuận Xương

(Triệu Phong)

Duy Tân

thứ 6

(1912)

Làm quan đến

chức Huấn

đạo

151 Lê Châm Nại Cửu

Thuận Xương

(Triệu Phong)

Duy Tân

thứ 9

(1915)

152 Hoàng Hữu Kiệt Bích Khê

Thuận Xương

(Triệu Phong)

Duy Tân

thứ 9

(1915)

Làm quan đến

chức Hậu bổ

153 Nguyễn Thục Diên Khánh

Hải Lăng

Duy Tân

thứ 9

(1915)

Làm quan đến

chức Hành tẩu

bộ Lại

40

154 Nguyễn Văn Phùng An Cư

Thuận Xương

(Triệu Phong)

Khải Định

thứ 3

(1918)

155 Lê Phổ Xuân Thành

Do Linh

Khải Định

thứ 3

(1918)

II. LÃNH ĐẠO ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VÀ LÃO THÀNH CÁCH MẠNG

1. LÊ DUẨN

Lê Duẩn (1907- 1986), người làng Hậu Kiên, xã Triệu Thành, huyện Triệu

Phong. Đồng chí là người học trò lỗi lạc của Chủ tịch Hố Chí Minh, là nhà hoạt

động xuất sắc của Đảng và Nhà nước, chiến sĩ tiên phong trong phong trào cộng

sản và công nhân quốc tế.

Đồng chí tham gia Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930. Năm 1931, đồng chí

bị thực dân Pháp bắt, kết án 20 năm tù ở các nhà tù Hỏa Lò, Sơn La; sau đó bị đày

ra Côn Đảo. Năm 1936, đồng chí được trả tự do và trở về hoạt động cách mạng ở

các tỉnh miền Trung. Năm 1937, đồng chí giữ chức Bí thư Xứ ủy Trungt Kỳ. Năm

1939, đồng chí được cử vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng. Năm 1951, tại Đại

hội lần thứ II của Đảng, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ

Chính trị. Năm 1946- 1954, đồng chí được bầu làm Bí thư Xứ ủy rồi Bí Thư Trung

ương cục miền Nam. Năm 1960, tại Đại Hội lần thứ III của Đảng, đồng chí được

bầu lại vào Ban Chấp hành Trung Ương, Bộ Chính trị, giữ chức vụ Bí thư thứ nhất.

Năm 1976 tại Đại Hội lần thứ IV của Đảng, đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp

hành Trung Ương, Bộ Chính trị, giữ chức vụ Tổng Bí thư.

Các tác phẩm chính

- Giai cấp vô sản với vấn đề nông dân trong cách mạng Việt Nam (1965)

- Thanh niên với cách mang xã hội chủ nghĩa (1966)

- Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội tiến lên

giành thắng lợi mới (1970)

- Tình hình thế giới và nhiệm vụ quốc tế của Đảng ta (1976)

- Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (1976)

41

- Thư vào Nam (1985)

- Một vài đặc điểm của cách mạng Việt Nam (1985)

Giải thưởng:

Vì sự nghiệp củng cố hòa bình giữa các dân tộc của Ủy ban Giải thưởng quốc

tế Lê Nin

Khen thưởng:

Huân chương sao vàng và nhiều huân chương của Liên Xô (trước đây), Lào,

Campuchia, Ba Lan, Bungari, Cuba, Cộng hòa dân chủ Đức, Hungari, Mông Cổ,

Tiệp Khắc.

2. HOÀNG THỊ ÁI

Hoàng Thị Ái (1900- 2004), người làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện

Triệu Phong. Tham gia hoạt động cách mạng năm 1927. Năm 1930, bà được kết

nạp Đảng. Là Xứ ủy viên Trung bộ, Khu ủy viên Liên khu IV, Bí thư phụ nữ Cứu

quốc, Bí thư Đảng đoàn phụ trách Trung ương, Phó Chủ tịch Trung ương Hội Liên

hiệp Phụ nữ Việt Nam

Khen thưởng:

Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng

Nhất, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất, Huy hiệu 70 năm tuổi

Đảng.

3. HOÀNG HỮU CHẤP

Hoàng Hữu Chấp (1916-1946) quê ở làng Bích Khê, huyện Triệu Phong,

ngay sau khi có sự lãnh đạo của Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam tỉnh Quảng Trị,

ông đã hăng hái tham gia các phong trào cách mạng ở địa phương, được Tỉnh uỷ

giao trách nhiệm làm giao thông liên lạc của Đảng bộ, là một trong những người

làm liên lạc tận tuỵ, dũng cảm, bất chấp mọi khó khăn nguy hiểm. Nhờ vậy mối

liên hệ giữa Tỉnh uỷ với các Huyện uỷ trong những năm 1931,1932 được giữ vững.

Tháng 2 năm 1932 ông bị bắt và giam tại nhà lao Quảng Trị. Năm 1934 ra tù,

ông trở về quê tiếp tục hoạt động cách mạng, bắt mối gây dựng lại cơ sở Đảng.

Được các Đảng viên Cộng sản địa phương dìu dắt, giúp đỡ Hoàng Hữu Chấp đã

trở thành Đảng viên Đảng cộng sản Đông Dương. Trong thời gian từ cuối năm

1936, đầu năm 1937 là một trong các Đảng viên được đồng chí Lê Duẩn tin cậy,

42

được đồng chí Lê Duẩn (đại diện Xứ uỷ) cử làm Bí thư Tỉnh uỷ lâm thời của Đảng

bộ Quảng Trị.

4. HỒ NGỌC CHIỂU

Hồ Ngọc Chiểu sinh năm 1920, người làng An Lộng, xã Triệu Hòa, huyện

Triệu Phong. Tham gia cách mạng năm 1936. Đến năm 1941 kết nạp vào Đảng

Cộng sản Việt Nam. Năm 1947, bà giữ chức Phó Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị. Từ

năm 1948 đến năm 1953, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Quảng

Trị.

Khen thưởng:

Huân chương Độc lập hạng hai, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân

chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất, Huy hiệu 40, 50, 60 năm tuổi Đảng.

5. LÊ CHƯỞNG

Lê Chưởng (1914- 1973), người làng Long Quang, xã Triệu Trạch, huyện

Triệu Phong. Ông tham gia cách mạng lúc mới 15 tuổi. Năm 1930, ông được kết

nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong thời gian hoạt động cách mạng ông

nhiều lần bị kết án tù. Năm 1929, bị giam tại nhà lao Quảng Trị. Từ năm 1932-

1939 bị giam tại nhà lao Buôn Mê Thuộc rồi nhà tù Lao Bảo. Năm 1940, bị giam

tại nhà lao Thừa Phủ rồi bị kết án chung thân và giam tại nhà lao Buôn Mê Thuộc

cho đên năm 1945 mới được thả.

Năm 1939, ông được bầu vào Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Trị; Xứ ủy viên rồi

Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ. Năm 1948, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị. Năm 1958, ông giữ

chức Thứ trưởng Bộ Giáo dục.

Ông hy sinh trong một chuyến đi công tác ở vùng giải phóng Quảng Trị năm

1973. Ông từng làm chủ bút các tờ báo: Bẻ xiềng xích, Phá ngục, Cứu quốc, Quyết

thắng. Là một vị tướng, nhưng ông rất say mê viết.

Tác phẩm đã xuất bản

- Người cộng sản với hòa bình và chiến tranh (1952), Nxb, Dân chủ mới.

- Suốt đời chiến đấu vì dân, vì Đảng (1959), Nxb, Quân đội.

- Đấu tranh sửa chửa sai lầm và xây dựng quân đội (1954), Nxb, Quân đội.

- Nhân sinh quan cộng sản xã hội chủ nghĩa (1958),Nxb, Quân đội.

- Chiến tranh nhân dân và xây dựng quân đội (1959),Nxb, Quân đội.

43

- Trời sắp sáng (tiểu thuyết) (1964),Nxb, Quân đội.

-Trường Sơn vạn dặm (tập thơ) (1976),Cục Chính trị QK Trị Thiên ấn hành.

- Trên những chặng đường chiến đấu ( hồi ký) (2004).

Khen thưởng:

Huân chương Hồ Chi Minh, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất,Huân

chương Chiến công hạng Nhất,Huân chương Chiến sĩ Giải phóng hạng Nhất.

6. ĐOÀN CHƯƠNG

Đoàn Chương sinh năm 1927, người làng Gia Đẳng, xã Triệu Long, huyện

Triệu Phong. Ông là nhà quân sự, Trung Tướng Quân đội NDVN. Tham gia cách

mạng từ năm 1945. Năm 1946- 1948 giữ chức vụ Chánh Văn phòng Tỉnh ủy

Quảng Trị. Năm 1954- 1956, Chánh văn phòng Tổng cục Chính trị. Năm 1956-

1990, ông giữ nhiều chức vụ quan trọng. Năm 1994- 1999, ông giữ chức vụ Viện

trưởng Viện Chiến lược quân sự Bộ Quốc phòng.

Các công trình nghiên cứu tiêu biểu:

- Những vấn đề an ninh trong xây dựng khu chế xuất và khu công nghiệp tập

trung.

- Tham gia biên soạn Tổng luận chương trình khoa học cấp Nhà nước KX:09

- V.I. Lê nin- bậc thầy sáng tạo về lý luận và thực tiễn quân sự (1887), Nxb,

Quân đội.

- Tìm hiểu sự nghiệp và di sản quân sự của Chủ Tịch Hồ Chí Minh (1889),

Nxb, Quân đội.

-Đổi mới nhưng không đổi hướng (1891), Nxb, Quân đội nhân dân.

- Nhớ lại và suy ngẫm (2002), Nxb, Quân đội nhân dân.

Khen thưởng:

- Huân chương Quân công hạng Hai, Huân chương Chiến công hạng

Nhất.Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất.Huân chương Kháng chiến chống

Mỹ hạng Nhất.Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Ba.

- Huy hiệu 40, 50 năm tuổi Đảng.

7. NGUYỄN CHÍ DŨNG

44

Nguyễn Chí Dũng, sinh năm 1930, người làng Phú Liêu, xã Triệu Tài, huyện

Triệu Phong.

Quá trình công tác: Tham gia Cách mạng từ tháng 8 năm 1945; vào Đảng

Cộng sản Việt Nam năm 1948.

Là Thứ trưởng Bộ Công nghiệp nhẹ, Ủy viên Ban cán sự Đảng Bộ Công

Nghiệp nhẹ.

Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng

8. TRẦN HỮU DỰC

Trần Hữu Dực (1910- 1993), người làng Dương Lệ Đông, xã Triệu Thuận,

huyện Triệu Phong. Ông tham gia cách mạng năm 15 tuổi (1925). Năm 1930- 1931

giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị. Trong chống Pháp giữ chức Chủ tịch Ủy ban

kháng chiến Trung bộ. Sau ngày hòa bình lập lại (1954), ông giữ nhiều chức vụ

quan trọng: bầu vào BCH Trung ương, Uỷ viên Đảng đoàn Chính phủ, Chủ nhiệm

Tổng cục Hậu cần QĐNDVN, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước,

Trưởng ban công tác nông thôn Trung ương, Bộ trưởng bộ Nông nghiệp, Bộ

trưởng Phủ Thủ Tướng. Trong thời kỳ chống Mỹ, Ủy viên Trung Ương Đảng, Bí

Thư Khu ủy Trị- Thiên- Huế, Trưởng ban công tác đặc biệt của Nhà nước, Phó

Thủ tướng Chính phủ.

Tắc phẩm chính:

- Hồi ký Bước qua đầu thù (1991), Nxb, Sự thật.

- Những năm tuổi trẻ (tái bản 1995)), Nxb, Thanh niên.

Khen thưởng: Huân Chương Hồ Chí Minh và nhiều huân chương khác.

9. LÊ THẾ HIẾU

Lê Thế Hiếu (1894- 1947), người làng Tường Vân, xã Triệu An, huyện Triệu

Phong. Trước năm 1945, ông tham gia Cách mạng đồng chí Hội và bị bắt giam tại

các nhà tù. Sau cách mạng tháng 8/1945, ông được giao phụ trách huy động lương

thực, thực phẩn để cung cấp cho bộ đội và cán bộ, sau đó ông được cử làm Chủ

Tịch Ủy ban nhân dân cách mạng, Chủ Tịch Ủy ban Mặt trận Liên Việt tỉnh, là Đại

biểu Quốc Hội khóa I.

45

Ông hy sinh năm 1947.

10. TRƯƠNG HOÀN

Trương Hoàn (1911-1947) quê làng Hữu Niên, xã Triệu Hòa, huyện Triệu

Phong, làm Bí thư Huyện uỷ Gio Linh giữa năm 1937. Tại Hội nghị Tỉnh uỷ mở

rộng ở Khe Đào (xã Triệu Nguyên) vào cuối năm 1939, Trương Hoàn được bổ

sung vào Tỉnh uỷ.

Tháng 8-1941, sau khi Trần Văn Ngoạn bị địch bắt tại Huế Trương Hoàn

được Hội nghị Tỉnh uỷ mở rộng tại làng An Nha (Gio Linh) cử làm Bí thư Tỉnh uỷ

Quảng Trị.

11. TRẦN CÔNG KHANH

Trần Công Khanh (1903- 1991), người làng Huỳnh Công Tây, xã Vĩnh

Hoàng, huyện Vĩnh Linh. Ông tham gia hoạt động cách mạng từ rất sớm. Bí thư

Chi bộ đầu tiên ở Vĩnh Linh; năm 1930: Bí thư Phủ ủy Vĩnh Linh, Phó Bí thư

Tỉnh ủy Quảng Trị. Từ đó cho đến trước Cách mạng tháng Tám ông đã hoạt động

cách mạng sôi động, liên tục, vài lần bị địch bắt đày lên Buôn Mê Thuột. Tháng 5-

1945 được Xứ ủy Trung kỳ giao nhiệm vụ củng cố Đội du kích Ba Tơ, chỉ huy

cướp chính quyền ở Quảng Ngãi. Trong kháng chiến chống Pháp, ông giữ chức vụ

Tư lệnh Mặt trận Nam Trung bộ, được phong quân hàm Đại tá; Thanh tra bộ Tổng

tham mưu, Cục trưởng cục khai hoang của quân đội, Cục trưởng Cục Khí tượng-

Thủy văn- Bộ Thủy lợi.

Ông mất năm 1991 tại quê nhà.

12. NGUYỄN HỮU KHIẾU

Nguyễn Hữu Khiếu (1915- 2004), người làng Tường Vân, xã Triệu An,

huyện Triệu Phong. Trong thời gian công tác ông đã từng giữ nhiều chức vụ quan

trọng. Năm 1945- 1949, Trưởng ty Công an. Năm 1951- 1958, Giám Đốc Công

an khu IV. Năm 1958- 1959, Phó Bí thư khu ủy IV, Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa.

Năm 1959- 1965, Trưởng Ban Nông nghiệp Trung ương, Năm 1965- 1974, Bộ

trưởng Bộ Lao động. Năm 1974- 1980, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại Liên Xô.

Năm 1981- 1984, Bí thư Ban Cán sự Đảng ngoài nước.

Ủy viên Trung ương Đảng khóa III, IV, đại biểu quốc hội khóa II, III, IV.

46

Khen thưởng:

Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Kháng chiến chống Pháp, Mỹ hạng

Nhất, Huân chương Lao động hạng Nhì, Huân chương Hữu nghị của Nhà nước

Liên Xô.

Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng.

13. NGUYỄN ĐĂNG KHOA

Nguyễn Đăng Khoa (1910 – 1948) người làng Vinh Quạng Hạ, xã Do

Quang huyện Do Linh. Tham gia phong trào bãi khóa học sinh trường Quốc Học

Huế năm 1926. Vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1936.

Năm 1945 tham gia giành Chính quyền huyện Do Linh và làm Chủ tịch Ủy

ban Giải phóng lâm thời huyện Do Linh, sau làm Trưởng ban Kinh tài của Tỉnh ủy

Quảng Trị. Khi thực dân Pháp tái chiếm Do Linh, ông được cử làm Chủ tịch Ủy

ban hành chính kháng chiến huyện Do Linh, cùng huyện ủy lãnh đạo phong trào

kháng chiến rất hiệu quả. Tháng 4 năm 1948 ông bị giặc Pháp bắt; sau khi mua

chuộc, khai thác không được, chúng băn ông tại Chợ Cầu huyện Do Linh. Tỉnh ủy

Quảng trị phát động phong trào học tập noi gương ông.

Khen thưởng:

Năm 1952 được truy tặng Huân chương kháng chiến chống Pháp hạng ba

Năm 1958 truy tặng danh hiệu Liệt sĩ. Tên ông được đặt cho một Xí nghiệp

Cơ khí tại Hồ Xá Vĩnh Linh: Xí nghiệp cơ khí Nguyễn Đăng Khoa

14. ĐOÀN KHUÊ (bí danh VÕ TIẾN TRÌNH)

Đoàn Khuê, (1923- 1999), người làng Gia Đẳng, xã Triệu Lăng, Triệu Phong.

Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam năm 1990; Bộ trưởng Bộ Quốc phòng

năm 1991.

Tham gia cách mạng từ năm 1939. Năm 1947- 1954, Chính ủy Trung đoàn,

Phó chính ủy Sư đoàn. Năm 1960- 1962, Chính ủy sư 351 pháo binh, Phó Chính

ủy Quân khu IV. Năm 1987- 1991, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân

Việt Nam, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương các khóa IV, V, VI, VII; Đại biểu

Quốc hội các khóa VII, VIII, IX. Ủy viên Bộ Chính trị khóa VII và VIII

Các tác phẩm:

- Một số vấn đề cơ bản về đường lối quân sự của Đảng trong giai đoạn mới.

47

- Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa càng vĩ đại thì yêu cầu củng cố

quốc phòng, an ninh càng trọng đại và bức thiết.

- Kết hợp kinh tế với quốc phòng để xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong tình

hình mới.

- Mấy vấn đề cơ bản trong xây dựng dân quân tự vệ hiện nay.

- Thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội, góp phần tạo động lực ổn

định và phát triển đất nước....

- Chăm lo phát triển nghành khoa học lịch sử quân sự.

Khen thưởng:

Huân Chương Hồ Chí Minh.

15. TRƯƠNG CÔNG KỈNH ( TRƯƠNG CHÍ CÔNG)

Trương Công Kỉnh sinh năm 1918, người làng Hữu Niên, xã Triệu Hòa,

huyện Triệu Phong. Năm 1936, tham gia cấp ủy ở hai huyện Triệu Phong và Do

Linh. Năm 1954, Phó Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị. Trong kháng chiến chống Mỹ giữ

chức vụ Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị, Khu ủy viên Liên khu V, Ủy viên Thường vụ

Khu ủy Trị- Thiên, Trưởng ban Tổ chức khu ủy.

Năm 1969, ông hy sinh trong lúc đi làm nhiệm vụ.

Khen thưởng:

- Huân Chương Hồ Chí Minh.

16. VĂN KIẾM

Văn Kiếm (1927-1972) Bí danh là Bùi Kiếm. Quê xã Triệu Trạch, huyện

Triệu Phong. Là Đảng viên, Thiếu tá, Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 808 bộ binh tỉnh

đội Quảng Trị. Tham mưu trưởng mặt trận 7, Quân khu Trị Thiên Huế. Liệt sĩ Văn

Kiếm được nhà nước truy tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân

ngày 27/7/1998.

17. ĐOÀN LA

Đoàn La (1921- ? ) người làng An Tiêm, xã Triệu Thành huyện Triệu

Phong. Tham gia hoạt động Cách mạng từ năm 1937, năm 1942 bị Pháp bắt giam

tù ở Nhà lao Quảng Trị. Năm 1945 ra tù gia nhập quân đội ở Quân khu IV cho đến

năm 1980. Là Thường vụ Quân ủy Quân khu IV, Thường vụ tỉnh ủy Nghệ An,

Chính ủy Bộ chỉ huy Quân sự Nghệ An. Quân hàm Đại tá hưởng lương Thiếu

tướng.

48

Khen thưởng: Huân chương Độc lập hạng hai và nhiều Huân, Huy chương

khác.

18. ĐOÀN LÂN

Đoàn Lân (1908- 1930), người làng An Tiêm, xã Triệu Thành, huyện Triệu

Phong. Ông tham gia cách mạng từ năm 1926, cùng với Nguyễn Đức Cương tổ

chức Chi bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Quảng Trị; hoạt động của

đồng chí còn mở rộng ra đến Hà Tĩnh, Hội An. Ông được Xứ Ủy Trung Kỳ giao

nhiệm vụ tổ chức việc thành lập các tổ chức Cộng sản từ Quảng Nam đến Khánh

Hòa. Tháng 7 - 1929, ông bị địch bắt, bị kết án 12 năm tù giam, bị tra tấn cực hình

và hy sinh năm 1930. Cái chết của Đoàn Lân và bài Điếu văn của các đồng chí bị

tù ở nhà đày Lao Bảo, được coi như một sự kiện, một lời hiệu triệu của đồng chí

đồng bào tiếp tục dấn thân cứu nước.

19. NGUYỄN HỮU MAI (NGUYỄN VĂN TỪ)

Nguyễn Hữu Mai sinh năm 1914, người làng Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện

Hải Lăng. Năm 1940, vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Từ năm 1945- 1951, Bí

thư Đảng bộ Liên khu I, Khu ủy viên Khu II. Thường vụ Khu ủy viên Khu XI,

Tổng Thư ký rồi Phó Tổng thư ký Liên đoàn Lao động Việt Nam. Phó ban Công

vận của BCH Trung ương Đảng. Năm 1961- 1967, ông trãi qua các chức vụ Thứ

trưởng thứ nhất bộ Giao thông Vận tải, được bầu vào Ủy viên dự khuyết BCH

Trung ương Đảng. Năm 1967- 1974, Bộ trưởng bộ Công nghiệp. Năm 1974- 1980,

Bộ trưởng, Phó Chủ nhiệm UBKH Nhà nước, Ủy viên BCH Trung ương Đảng.

Năm 1980- 1982, Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền nước tại Liên Xô. Năm 1982-

1986, công tác tại Bộ Ngoại Giao rồi chuyển sang Bộ Mỏ và Than.

Đại biểu Quốc Hội các khóa II, IV, V, VI.

Khen thưởng: Huân chương Hồ Chí Minh.

20. TRẦN XUÂN MIÊN

Trần Xuân Miên (1910- ?) quê làng Huỳnh Công, huyện Vĩnh Linh, tham gia

cách mạng từ năm 1930, vào Đảng cộng sản Đông Dương tháng 2 năm 1931. Trần

Xuân Miên được cử vào Ban chấp hành Huyện Đảng bộ Vĩnh Linh năm 1937,

được bầu vào Ban chấp hành Đảng bộ Quảng Trị tháng 2 năm 1040. Sau khi Hồ

Xuân Lưu được Xứ uỷ Trung Kỳ điều động đi công tác khác, Trần Xuân Miên

được cử làm Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Trị.

21. LÊ THỊ DIỆU MUỘI (bí danh ĐÀO NGUYÊN)

49

Lê thị Diệu Muội sinh năm 1922, người làng Tường Vân, xã Triệu An,

huyện Triệu Phong.

Tham gia cách mạng năm 1932, vào Đảng năm 1939. Năm 1942- 1945, bị bắt

và kết án 20 năm tù khổ sai. Sau Cách mạng tháng Tám, giữ chức vụ Phó Chủ

nhiệm Việt Minh, Bí thư phụ nữ tỉnh Quảng Trị. Từ năm 1956 - 1981 Thứ trưởng

Bộ Thương Nghiệp, Ủy viên Ủy ban Kế hoạch và Ngân sách Nhà nước.

Đại biểu Quốc hội khóa IV,V.

Khen thưởng

Huân chương Hồ Chí Minh,

Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhì,

Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất.

Huy hiệu Chủ Tịch Hồ Chí Minh, huy hiệu 50, 60 năm tuổi Đảng.

22. TRẦN VĂN NGOẠN

Trần văn Ngoạn (1909- 1994) người làng Thượng Lập, xã Vĩnh Long,

huyện Vĩnh Linh. Tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1929. Năm 1931, Bí Thư

huyện ủy Vĩnh linh. Năm 1940, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị rồi Xứ ủy viên Xứ ủy

Trung Kỳ. Năm 1945, Chủ nhiệm Việt Minh tỉnh Quảng Trị, Bí thư Tỉnh ủy Quảng

Trị. Năm 1960, Vụ trưởng Viện Kiểm Sát nhân dân tối cao.

Khen thưởng

Huân chương Hồ Chí Minh,

Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhất,

Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhì.

23. LÊ THỊ QUẾ

Lê Thị Quế (1897 – 1972) người thôn Tường Vân, xã Triệu An, huyện Triệu

Phong. Trước năm 1945 tham gia Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội, bị địch bắt

ở tù; Thành lập Chi bộ Tường Vân là Bí thư tháng 01 – 1930.

Sau Cách mạng tháng 8 và kháng chiến chông Pháp, tham gia Ủy ban Việt

minh Quảng Trị, Ủy viên UBND Thừa Thiên, Ban Việt minh Trung bộ, Đảng đoàn

Nông hội Trung ương, Đảng đoàn Phụ nữ Trung ương. Tham gia nhiều nhiệm kỳ

BCH Trung ương Hội Phụ nữ Việt Nam.

Khen thưởng: Huân chương Độc lập hạng nhất

Huân chương kháng chiến hạng nhất

50

24. TRẦN MẠNH QUỲ

Trần Mạnh Quỳ sinh năm 1911, người làng Long Hưng, xã Hải Phú, huyện

Hải Lăng. Năm 1934, vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1941- 1945, Thường

vụ Xứ ủy Trung Kỳ. Năm 1945, Tỉnh ủy viên tỉnh Quảng Trị. Sau năm 1945, Chủ

Tịch Ủy ban nhân dân Thị xã Quảng Trị. Năm 1946, được bầu vào Quốc hội khóa

đầu tiên, tham gia Quốc Hội các khóa I ,II, III. Trong thời kỳ kháng chiến điều lên

Bộ Quốc phòng làm Cục trưởng Dân quân với quân hàm Đại tá. Hòa bình lập lại,

Chánh Thanh tra quân đội, Phó Ban Kiểm tra Trung ương Đảng và Phó Chủ nhiệm

Ủy ban Thanh tra nhà nước.

Khen thưởng

Huân chương Độc Lập và nhiều huân chương cao quý khác.

25. TRẦN QUỲNH

Trần Quỳnh (1920 – 2005) người làng Nại Cửu, xã Triệu Đông huyện Triệu

Phong. Từ năm 1936 đồng chí đã tham gia Mặt trận dân chủ Huế. Năm 1940 bị

Pháp bắt tù ở Sài Gòn và Côn Đảo, đầu năm 1945 ra tù tiếp tục hoạt động Cách

mạng. Từ tháng 8 năm 1945 đến 1946 đồng chí tham gia cướp chính quyền ở Phú

Yên. Tháng 10/1945 được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ nhiệm Việt

minh huyện Tuy Hòa, Tỉnh ủy viên. Từ năm 1946 đến 1949 là Bí thư tỉnh ủy Ninh

Thuận, Ủy viên Phân ban Cực Nam Trung bộ, trực tiếp phụ trách các tỉnh Ninh

Thuận, Bình Thuận, Khánh Hòa, Lâm Đồng. Từ 1949 đến 1954 là Thường vụ Liên

khu ủy Quân khu V, Trưởng ban Tuyên huấn. Từ năm 1954 đến 1964 đi học lý

luận ở Trung Quốc và Phó Giám đốc trường Đảng Nguyễn Ái Quốc Trung ương,

Phó Chanh văn phòng Trung ương Đảng. Từ 1965 đến 1976 là Phó Chủ nhiệm Ủy

ban KHKT nhà nước. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (tháng 12/1976)

đồng chí được bầu vào BCH TW Đảng Cộng sản Việt Nam, giữ chức Chủ nhiệm

Ủy ban KHKT Nhà nước, kiêm Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước. Đại

biểu Quốc hội từ Khóa I đến Khóa VII, được bầu giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban văn

hóa và Xã hội của Quốc hội Khóa V. Tháng 12 năm 1980 bổ nhiệm giữ chức Phó

Thủ tướng Chính phủ. Từ tháng 7-1981 đến tháng 2- 1989 là Phó Chủ tịch Hội

đồng Bộ trưởng (nay là Phó Thủ tướng Chính phủ)

Khen thưởng: Huân chương Hồ Chí Minh

Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng.

26. NGUYỄN BÁ SAM

51

Nguyễn Bá Sam, sinh năm 1908 tại thôn Phú Long, xã Hải Phú, huyện Hải

Lăng. Từ năm 1924 đến năm 1929 tham gia tổ chức Thanh niên Cách mạng đồng

chí Hội. Tháng 3 năm 1930 vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Từ năm 1935 đến

1937 Bí thư huyện ủy lâm thời Hải Lăng. Từ 1945 đến 1950 Tỉnh ủy viên, Bí thư

huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến huyện Hải Lăng.

Khen thưởng: Huân chương kháng chiến hạng nhì

Huân chương Độc lập hạng hai

27. TRẦN SÂM

Trần Sâm sinh năm 1916, người làng Duân Kinh, xã Hải Xuân, huyện Hải

Lăng. Sinh sống tại thành phố Hồ Chi Minh. Vào Đảng năm 1940. Năm 1949 Tư

lệnh Quân khu IV, Thường vụ Khu ủy khu IV. Năm 1951, Phó Tổng tham mưu

trưởng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng với quân hàm Trung Trướng. Sau năm 1975,

ông giữ các chức vụ Ủy viên BCH Đảng Cộng Sản Việt Nam khóa IV, đại biểu

Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Vật tư, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng với quân hàm Thượng

tướng.

Khen thưởng

Huân chương Hồ Chí Minh, Huân Chương Quân Kỳ và Quyết thắng, Huân

chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba. Huân chương kháng chiến hạng

Nhất, Huân chương Quân công hạng Nhất.

28. NGÔ HỮU SỒ

Ngô Hữu Sồ, sinh năm 1914 tại thôn Huỳnh Công Nam, xã Vĩnh Hoàng

huyện Vĩnh Linh. Là nhà lão thành cách mạng. Từ năm 1929 tham gia Thanh niên

Cách mạng đồng chí Hội. Năm 1930 vào Đảng Cộng sản Đông Dương; từ đó cho

đến 1944 tham gia hoạt động tài chính, lập nhà In để xuất bản báo Đảng, bị quản

thúc nhiều lần. Năm 1945 hoạt động tài chính cho Thành bộ Việt minh Thuận Hóa

Trong kháng chiến chông Pháp, với nhiều chức vụ khác nhau, đều phụ trách

kinh tài cho các tổ chức của Đảng. Trưởng ban kinh tài Nông hội Liên khu IV.

Khen thưởng: Huân chương Độc lập hạng nhì

Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng

29. NGÔ SỪ

Ngô Sừ (1911 – 1951) người thôn Huỳnh Công Nam, xã Vĩnh Hoàng, huyện

Vĩnh Linh. Năm 1929 tham gia thành lập tổ chức Thanh niên Cách mạng đồng chí

52

Hội, huyện ủy viên đầu tiên của Đảng bộ huyện Vĩnh Linh. Thời kỳ mặt trận bình

dân, hoạt động kinh tài cho Đảng, tham gia xây dựng đội du kích Ba Tơ.

Trong CM tháng Tám, tham gia lãnh đạo khởi nghĩa huyện Vĩnh Linh, làm

Bí thư huyện ủy. Trong kháng chiến chống Pháp, giữ nhiều cương vị, góp phần xây

dựng cơ sở hậu cần và tiếp vận của tinh và Bình trị Thiên.

Tháng 2 năm 1951 ông hy sinh trong một trận càn ở Phú Vang – Thừa Thiên

Huế. Khen thưởng: Là Liệt sĩ, lão thành cách mạng

Huân chương Độc lập hạng nhì

30. HỒ TRI TÂN

Hồ Tri Tân (1906- 1978), người làng Bích La, xã Triệu Đông, huyện Triệu

Phong. Năm 1931- 1936, tổ chức thành lập Công hội Đỏ ở Bà Rịa. Năm 1938-

1939, Huyện ủy viên huyện Triệu Phong. Năm 1940- 1941, Bí thư Tỉnh ủy Quảng

Nam- Đà Nẵng. Năm 1941- 1945, bị giặc Pháp giam tại các nhà giam ở Quảng

Ngãi, Đà Nẵng, Hỏa Lò- Sơn La- Chí Hòa- Côn Đảo. Sau Cách mạng tháng Tám,

được trả tự do, giữ các chức vụ: Tỉnh ủy viên Bà Rịa, Tỉnh đội trưởng dân quân đội

Lê Hồng Phong, Giám đốc giao thông của Liên Khu IV, Cục trưởng Cục Kiến

thiết cơ bản, Đảng ủy viên Đảng bộ Giao thông vận tải, Trưởng ban chỉ đạo làm

đường sắt Thống Nhất.

Khen thưởng

Huân chương Chiến thắng hạng Nhất, Huân chương kháng chiến hạng Nhất,

Huân chương Quân công hạng Nhì. Huân Chương Lao Động hạng Ba, Huân

chương Độc Lập hạng Nhất.

31. TRẦN TRỌNG TÂN (bí danh: HAI TÂN, PHAN HUY TÂN)

Trần Trọng Tân, sinh năm 1926, quê xã Cam Thành, huyện Cam Lộ. Năm

1949- 1950, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị. Năm 1955- 1959, cán bộ Ban Tuyên huấn

Trung ương Cục miền Nam. Năm 1970- 1980, Ủy viên Trung ương Đảng các

khóa VI, VII, Trưởng Ban Tư tưởng- Văn hóa Trung ương, Phó Bí thư Thành ủy

Thành phố Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch Ủy Ban Mặt Trân Tổ quốc thành phố Hồ

Chí Minh, Đại biểu Quốc hội khóa VIII.

Những tác phẩm đẫ xuất bản

- Chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, (1959)

- Bài ca lâm trận (thơ), Văn học giải phóng (1975)

- Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh Tập I; Tập II (chủ biên)

53

- Về công tác tư tưởng và văn hóa, (1999)

- Công tác tư tưởng và văn hóa- lý luận thời đổi mới, (2004) .

32. TRẦN THỊ TÂM

Trần Thị Tâm ( 1948 - 1972 ) là nữ anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Quê ở Hải Khê, Hải Lăng, Quảng Trị. Tham gia lực lượng du kích xã từ rất sớm và

sau đó được bổ sung vào lực lượng vũ trang hyện đội Hải Lăng; đến năm 1970 là

huyện đội phó Huyện đội Hải Lăng. Tháng 7/1972, Mỹ ngụy tăng cường binh lực

và vũ khí âm mưu chiếm vùng Ngô Xá và Thanh Lê, phía tây Cổ Thành Quảng Trị

với mưu đồ làm bàn đạp tiến đánh thị xã Quảng Trị. Nhưng tất cả các đợt tấn công

của địch đều bị đánh bại; sau một ngày đánh phá chúng cho pháo binh và trực

thăng băm nát trận địa và săm soi phát hiện ra hầm của chị, chúng dùng róc két từ

trực thăng xối xã vào hầm, chị ngoan cường chiến đấu và anh dũng hy sinh. Chị

được nhà nước truy tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm

1976.

33. HỒ SĨ THẢN

Hồ Sĩ Thản (1913- 1995), người làng Nghĩa An, phường Đông Thanh, thành

phố Đông Hà. Năm 1947- 1950, Huyện đội trưởng huyện đội Cam Lộ. Năm 1950-

1954, Thường vụ Tỉnh ủy- Tỉnh đội trưởng Tỉnh đội Quảng Trị. Năm 1954- 1965,

Bí thư Khu Ủy Đặc khu Vĩnh Linh. Năm 1965- 1975 Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị,

Thường vụ Tỉnh ủy phân khu Trị -Thiên- Huế. Năm 1975 Thường vụ Tỉnh Ủy ,

Phó Chủ Tịch UBND tỉnh Bình Trị Thiên

Khen thưởng

Huân chương Độc Lập hạng Nhất, Huân chương Giải Phóng hạng Nhất,

Huân chương Chiến thắng hạng Nhất. Huân Chương Chống Mỹ cứu nước hạng

Nhất, Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng.

34. TRẦN QUỐC THẢO/ HỒ XUÂN LƯU

Trần Quốc Thảo (1915- 1957), tên thường gọi Năm Hai, người làng Cổ

Thành, xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong.

Năm 1930 tham gia Hội đoàn học sinh, năm 1931 vào Đoàn Thanh niên

Cộng sản. Năm 1933 vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm1935, tham gia Tỉnh ủy

Quảng Trị. Năm 1938, phụ trách tuyên huấn Xứ ủy Trung Kỳ. Năm 1939, Ủy viên

ban Thường vụ Xứ ủy Trung Kỳ và phụ trách Báo Bẻ Xiềng sắt.

54

Năm 1941, đại biểu đi dự Hội nghị TW lần thứ tám và được bầu Ủy viên

Trung ương chính thức của Đảng. Cuối năm 1941 bị Pháp bắt kết án 20 năm bị đày

ở Buôn Ma Thuột.

Năm 1945, Chủ tịch Ủy ban hành chính thị xã Đông Hà, Quảng Trị.

Từ năm 1946 đến 1948 làm Chủ nhiệm báo Lao động; Bí thư liên tỉnh ủy và

Chủ tịch UBHC kháng chiến Quảng Hồng (Quảng Ninh và Hồng Gai); Ủy viên

Thường vụ Ban Công vận TW. Cuối năm 1948 vào Nam bộ làm Bí thư Công vận,

phụ trách Liên hiệp Công đoàn Nam bộ, Thường vụ Khu ủy Sài Gòn – Chợ Lớn.

Từ 1950 đến 1954: Phó Bí thư Khu ủy Sài gòn – Chợ Lớn, Phó Chủ tịch

Liên đoàn Lao động Việt Nam

Từ 1954 đến 1957: Bí thư Đặc khu Sài Gòn – Chợ Lớn, Ủy viên TW Cục

Miền Nam. Tháng 11/1957 bị địch bắt và hy sinh tại Sài Gòn.

Khen thưởng

Huân chương Hồ Chí Minh

Huân chương kháng chiến chống Pháp hạng nhất

Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất

35. NGUYỄN ĐỨC THƯỞNG

Nguyễn Đức Thưởng (1918- ? ) quê ở xã Vĩnh Hoàng, huyện Vĩnh Linh, tham

gia ban chấp hành huyện Đảng bộ Vĩnh Linh tháng 3 năm 1937, được cử làm Bí

thư Huyện uỷ Vĩnh Linh (tháng 8-1938). Tháng 8-1940 đồng chí bị địch bắt giam

tại các nhà lao Tam Kỳ, nhà lao Quảng Trị, nhà đày Buôn Mê Thuột.

Trên đường từ nhà đày Buôn Mê Thuột về nhà lao Quảng Trị, lợi dụng lúc

bọn địch áp giải sơ hở, đồng chí Nguyễn Đức Thưởng đã “nhảy tàu” trốn về Tam

Kỳ gặp các đồng chí trong Xứ uỷ, được bổ sung và Xứ uỷ lâm thời Trung Kỳ và

phân công đồng chí phụ trách Bình Trị Thiên.

Tháng 2 năm 1942, đồng chí Nguyễn Đức Thưởng được Xứ uỷ cử làm Bí thư

Tỉnh uỷ Quảng Trị.

36. ĐẶNG THÍ

Đặng Thí (1921- 2001), , người xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong.

Tham gia cách mạng năm 1936, năm 1938, kết nạp Đảng Cộng sản Việt

Nam. Năm 1938- 1939, Bí thư Thành ủy lâm thời thành phố Huế. Năm 1941-

1945, bị địch bắt giam tại nhà tù Lao Bảo, Buôn Mê Thuộc. Năm 1945- 1958,

55

tham gia cướp chính quyền ở Quảng Trị và giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị.

Năm 1949- 1950, Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa. Năm 1951- 1957, Bí thư Phân Khu

ủy Bình Trị Thiên, Chính ủy Mặt trận Bình Trị Thiên, Bí thư Liên khu ủy IV. Năm

1958- 1964, Tổng Cục trưởng Tổng Cục Thống Kê. Năm 1965- 1970, Bộ trưởng,

Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước. Năm 1971-1973, Bộ trưởng, Chủ

nhiệm Văn phòng Phủ Thủ tướng. Năm 1974- 1981, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban

Thống nhất, Bí thư Ban Cán sự Đảng công tác C, Bộ trưởng Phủ Thủ tướng. Năm

1981- 1993, Bộ trưởng, Tổng Thư ký Hội đồng Bộ trưởng, Bí thư Ban Cán sự

Đảng công tác C... Ủy viên BCH Trung ương Đảng các khóa IV, V, VI, Đại biểu

Quốc hội từ khóa I đến khóa VII.

Khen thưởng

Huân chương Hồ Chí Minh

Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân

Chương Chống Mỹ cứu nước hạng Nhất.

Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng

37. ĐOÀN BÁ THỪA

Đoàn Bá Thừa (1908- 1995), người làng An Tiêm, xã Triệu Vân, huyện

Triệu Phong. Năm 1930, vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1931- 1934, Bí thư

Tỉnh ủy Quảng Trị. Năm 1935- 1936 Bí thư Tỉnh ủy Khánh Hòa.

Khen thưởng

Huân chương Hồ Chí Minh,

Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng.

38. LÊ THẾ TIẾT

Lê Thế Tiết (1900- 1940), người làng Tường Vân , xã Triệu Vân, huyện

Triệu Phong. Năm 1926, tham gia Hội Phục Việt và là thành viên trong nhóm cộng

sản đầu tiên ở Tân Tường, Cam Lộ. Năm 1930, cùng với Trần Hữu Dực và

Nguyễn Hữu Mão thành lập Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Quảng Trị do

ông làm Bí thư. Năm 1940, ông huy sinh tại nhà tù Lao Bảo.

39. NGUYỄN VỨC

56

Nguyễn Vức (1906- 1971) người làng Đại Áng, phưởng Đông Lương, thành

phố Đông Hà.Năm 1930, Bí thư chi bộ đầu tiên của chi bộ Đại Áng. Năm 1937,

thành viên BCH tỉnh Đảng bộ Quảng Trị. Năm 1939, sau khi đồng chí Trần Mạnh

Quỳ bị bắt (9/ 1939), ông được cử làm Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị (theo biên niên

các Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị). Năm 1954- 1971, ông về hoạt động bí mật ở Quảng

Trị, sau đó bị bắt giam, tra tấn và mất tại nhà tù Lao Bảo.

Được suy tôn Liệt sĩ năm 1971

40. NGUYỄN QUANG XÁ

Nguyễn Quang Xá sinh năm 1920, người làng Linh Yên , xã Triệu Trạch,

huyện Triệu Phong.

Năm 1938 tham gia vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Trước năm 1945,

chức vụ cao nhất là Bí thư Phủ ủy Triệu Phong. Năm 1948- 1950, Bí thư Tỉnh ủy

Quảng Trị; Khu ủy viên Liên khu IV. Sau khi đất nước thống nhất, ông lần lược

giữ các chức vụ: Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm văn phòng Hội đồng Bộ trưởng; Bộ

trưởng, Chủ tịch Hội đồng trọng tài Kinh tế Nhà nước.

Khen thưởng

Huân chương Độc lập hạng Nhất;

Huân chương “Sao Bắc đẩu” hạng nhất (Mông Cổ)

Huân chương Tự do hạng Nhất và huy chương anh dũng chống Pháp hạng

Nhất. Huy hiệu 50 năm, 60 năm tuổi Đảng. Và nhiều phần thưởng khác.

III. CÁC NHÂN VẬT HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA- XÃ HỘI

1. LƯƠNG AN bút danh NGUYỄN LƯƠNG TÀI, THẠCH NAM

Lương An sinh năm 1920, người làng Tài Lương , xã Triệu Tài, huyện Triệu

Phong. Năm 1949- 1952, tham gia thành lập nhóm văn nghệ “Nguồn Hàn”; phụ

trách báo Liên Việt tỉnh; Ủy viên thường vụ phân hội văn nghệ, Trưởng ban Văn

nghệ, ủy viên Thường trực Ủy ban Mặt trận tỉnh, hội viên Hội Văn nghệ Việt

Nam. Năm 1954- 1971, Trưởng ban Văn hóa văn nghệ báo” Thống Nhất”. Hội

viên hội nhà văn Việt Nam. Năm 1972, phó trưởng ty Thông tin Văn hóa, Ủy viên

Thường trực Hội Văn nghệ tỉnh Quảng Trị.

Năm 1984, nghỉ hưu tại thành phố Hồ Chí Minh.

Tác phẩm đã xuất bản

57

Nắng Hiền Lương (tập thơ)

Vè chống Pháp (nghiên cứu giới thieeuju văn học dân gian)

Thơ Tùng Thiện Vương Miên Thẩm (dịch- nghiên cứu- giới thiệu)

Ngoài ra còn có một số tập diễn ca và bút ký ngắn khác.

2. NGUYỄN HỮU BA

Nguyễn Hữu Ba (1913- 1997), người làng Đạo Đầu , xã Triệu Trung, huyện

Triệu Phong. Ông là nhà nghiên cứu âm nhạc. Tham gia cách mạng từ năm 1945

và sáng tác nhiều ca khúc đầy hào khí: Thanh niên đồng tiến; Tiếng hát quân Nam;

Ánh dương trời Nam....Năm 1949, sáng lập Tỳ bà viện nhằm góp phần xây dựng

một nền âm nhạc dân tộc, hiện đại, phát huy âm nhạc cổ truyền, Ông là người có

công trong việc cải tiến và đưa âm nhạc điện tử vào nhạc cụ Việt Nam. Từ năm

1968- 1972 là Giám đốc trường Quốc gia âm nhạc và kịch nghệ Huế. Sau năm

1975, là Phó Chủ tịch Hội Âm nhạc thành phố Hồ Chí Minh.

Các tác phẩm

Tự học đàn nguyệt (1940) Phương pháp và bài bản các nhạc cụ Việt Nam.

Vài thiên kiến về âm nhạc Việt Nam (1950). Bài đàn tranh (1951). Nhạc pháp quốc

nhạc Việt Nam (1961) Ca nhạc miền Trung (1962). Sưu tầm, nghiên cứu tư liêu,

thư tịch âm nhạc Việt Nam, dân ca Việt Nam (1970).

Khen thưởng

Danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú;

Huân chương Độc lập hạng Hai;

Huy chương vì sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân.

3. HỒNG CHƯƠNG (TRẦN HỒNG CHƯƠNG)

Hồng Chương (1921- 1989), người làng Phương Sơn , xã Triệu Sơn, huyện

Triệu Phong. Năm 1937, tham gia phong trào dân chủ. Năm 1940, phụ trách Báo

Cứu quốc. Trong hai cuộc kháng chiến ông chuyên làm công tác tuyên huấn, Tổng

biên tậpTạp chí Học tập (nay là Tạp chí Cộng sản) và Tổng Thư ký Hội Nhà báo

Việt Nam.

Tác phẩm đã xuất bản

Máu lửa đồng quê (thơ, 1948)

Ngược đường 9 (truyện, 1958)

Văn nghệ cách mạng và cách mạng không ngừng (lý luận, 1959)

Một luồng gió mới (tiểu thuyết, 1959)

58

Phương pháp sáng tác trong văn học nghệ thuật (lý luận, 1962)

Mấy vấn đề lý luận và phê bình văn nghệ (lý luận, 1965)

Mãi mãi đi theo đường lối văn nghệ của Chủ tịch Hồ Chí Minh (lý luận phê

bình, 1971).

4. PHAN VĂN DẬT

Phan Văn Dật (1909- 1987)), người làng Đạo Đầu , xã Triệu Trung, huyện

Triệu Phong. Ông là tác gia lớn. Ngoài tư cách là thi sĩ thờ tiền chiến, ông còn là

nhà phê bình văn học, nhà khảo cứu văn hóa. Năm 1951- 1952, du học ở Pháp.

Năm 1953- 1959, làm chủ sự Trước bạ Huế; dạy học tại trường Quốc Học, Đồng

Khánh, Bách Khoa, Bình Dân. Năm 1959- 1975, giảng viên Hán Nôm tại Viện đại

học Huế, trường Cao đẳng mỹ thuật, Nông Lâm Súc.

Tác phẩm đã xuất bản

Diễm Dương Trang (tiểu thuyết, 1935)

Bâng khuân (thơ, 1936)

Ngoài ra, thơ và các bài viết của ông được đăng trên tạp chí Nam Phong,

Rạng Đông và các báo Tràng An, Cười, Khuyến học, Dân sinh, Sáng tạo....

5. LÊ BÁ ĐẢNG

Lê Bá Đảng (1921- 2015), người làng Bích La Đông , xã Triệu Đông, huyện

Triệu Phong. Ông là nhà danh họa mang tầm thế giới. Năm 1939, ông sang Pháp

tham gia phong trào chống phát xít bị phát xít Đức bắt giam. Đầu năm 1940, ông

đươc thả và hành nghề tại Pháp, sau đó ông thi vào Học viện Nghệ thuật Tuoluose

Năm 1950, ông trưng bày phòng tranh sơn dầu tại Paris. Từ đó đến nay, năm nào

ông cũng có tranh trưng bày tại các nước Pháp, Anh, Đức, Nhật Bản...Ngoài ra ông

còn là nhà điêu khắc, nghệ sĩ về đồ gốm, sứ và các trang sức, nhà thiết kế trang

phục và thiết kế sân khấu đầy sáng tạo.

Các giải thưởng:

- Năm 1989, Viện quốc tế Saint- Louis (Mỹ) tặng giải thưởng: Họa sĩ tài

năng lớn; có tư tưởng nhân đạo. Ông được thành phố New- Orleans (Mỹ) bầu ông

làm công dân danh dự.

- Năm 1992, Trung tâm tiểu sử quốc tế Cambridge (Anh) tặng danh hiệu:

Một người nổi tiếng thế giới năm 1992- 1993.

- Năm 1994, ông được Pháp tặng Huân chương nghệ thuật và văn chương

Pháp.

59

6. NGUYỄN THẠCH GIANG

Nguyễn Thạch Giang sinh năm 1928, người làng Bích Giang, xã Cam Hiếu,

huyện Cam Lộ. Ông hoạt động trong lĩnh vực Văn hóa - Giáo dục. Giáo sư cấp I

Đại học Quốc gia Hà Nội.

Các tác phẩm đã xuất bản

- Thơ văn Nguyễn Quang Bích, Nxb. Văn học (1961)

- Kịch lịch sử Quách Mạc Nhược, Nxb. Văn học (1962)

- Nghiên cứu chữ Nôm- Những nền tảng ban đầu.

- Truyện Kiều, Nxb. Giáo dục, Hà Nội (1972)

- Truyện Lục Vân Tiên, Nxb. Đại học (1976)

- Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, Nxb. Văn học (1982)

- Chinh phụ ngâm, Nxb. Văn học (1987)

- Từ ngữ văn Nôm, Nxb. Khoa học xã hội (1993)

- Thiên Nam minh giám, Nxb. Thuận Hóa (1994)

- Nguyễn Trãi quốc âm thi tập, Nxb. Thuận Hóa (1998)

- Nguyễn Du – Tác phẩm và lịch sử văn bản, Nxb. Thành phố Hố CHí Minh

- Từ điển văn học quốc âm, Nxb. Văn hóa- Thông tin (2000)

- Nguyễn Du- cuộc đời và tác phẩm, Nxb. Từ điển – Bách khoa (2002)

- Tích truyện văn học Việt Nam thế kỷ XVIII, Nxb. Trẻ (2002)

- Tiếng Việt trong thư tịch cổ Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội (2002)

7. TRẦN HOÀN (NGUYỄN TĂNG HÍCH)

Trần Hoàn (1928- 2003), người làng Câu Nhi, Xã Hải Tân, huyện Hải Lăng.

Lĩnh vực hoạt động: Âm nhạc, văn hóa – văn nghệ.

Trong kháng chiến chống Pháp hoạt động văn hóa, văn nghệ ở Liên khu IV,

Liên khu III và Hà Nội. Từ năm 1954- 1964, Giám đốc Sở Văn hóa- Thông tin

Hải Phòng.

Trong kháng chiến chống Mỹ, Phó trưởng ban Tuyên huấn Khu ủy Trị

Thiên. Từ năm 1987- 1996 là Ủy viên Trung ương Đảng các khóa VI, VII;

Bộ trưởng Bộ Văn hóa- Thông tin; Chủ tịch Liên hiệp các hội Văn học

Nghệ thuậtTrung Ương

Các tác phẩm đã xuất bản, Những ca khúc tiêu biểu:

60

Sơn nữ ca (1948) Lời người ra đi (1961) Lời ru trên nương (1971) Chiều

trên Gio Cam giải phóng (1973) Một mùa xuân nho nhỏ (1980) Giữa Mạc Tư

Khoa nghe câu hò ví dặm (1980) Lời Bác dặn trước lúc đi xa (1990)

- Những tác phẩm tiêu biểu

Tuyển tập văn hóa- âm nhạc, Nxb. Văn hóa- Thông tin (1997)

Tuyển tập ca khúc Trần Hoàn, Nxb. Âm nhạc (1995)

Những kỷ niệm khó quên, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội (1998)

Giải thưởng:

Giải thưởng Hồ Chí Minh và nhiều huân huy chương khác.

8. PHAN VĂN HY (bút danh KỈNH CHỈ)

Phan Văn Hy (1890- ?), người làng Nhan Biều, xã Triệu Thượng, huyện

Triệu Phong. Ông là một thầy thuốc nổi tiếng ở Quảng Trị. Trước cách mạng tháng

Tám, ông từng được phái thân Nhật đưa ra làm Tỉnh trưởng Quảng Trị. Sau đó,

ông xin giao chính quyền lại cho Cách mạng và tiếp tục hành nghề y tại chiến khu

Ba Lòng. Năm 1947, trong một trận càn ông bị thực dân Pháp bắt đưa về thị xã

Quảng Trị. Cuối đời ông vào Sài Gòn hành nghề Y và mất ở đó. Ngoài hoạt động

trong ngành Y ông còn làm thơ, các tác phẩm của ông được rút ra từ tuyển “Hương

Bình thi phẩm” của Hoàng Trọng Thược

9. CHÂU LOAN

Châu Loan (1926- ?), người xã Vĩnh Giang, huyện Vĩnh Linh.

Nghệ sĩ biểu diễn, chuyên ca Huế và ngâm thơ. Châu Loan đam mê ca hát từ

nhỏ. Năm 7 tuổi đã được bố dạy đàn hát, theo bố vào Huế hát; Ở vào tuổi vị thành

niên giọng hát của bà đẹp hoàn hảo. Năm 1947 bà theo bố ra Hà Nội hát thuê từng

buổi có phát sóng cho đài phát thanh Pháp – Á. Năm 1954 hòa bình lập lại, bà

được chính thức Đài Tiếng nói Việt Nam mời vào làm việc trong tổ ca nhạc. Năm

1957 bà là một trong số những nghệ sĩ được Nhà nước cử đi dự Đại hội Thanh niên

thế giới lần thứ nhất (Vacsava- Ba Lan) giới thiệu những làn điệu dân ca dân tộc.

Bằng tiếng hát của mình, bà đã đi phục vụ từ Việt Bắc, Tây Bắc, đến các hải

đảo, biên cương… Tiếng hát của bà đã tác động sâu sắc đến đông đảo công chúng,

kể cả phia đối diện trong thời kỳ chiến tranh. Giọng ngâm thơ của bà đã đưa chất

nhạc truyền thống của Huế đến với thơ. Bà đã xử lý một cách sáng tạo âm thanh ca

Huế với ngữ điệu Huế; thành công nổi trội ở một số bài: Ba mươi năm đời ta có

61

Đảng, Xuân 61, Mẹ Suốt (thơ Tố Hữu)… Nhiều nghệ sĩ ngâm thơ đã học tập, tiếp

nối phong cách của bà.

Châu Loan là một nghệ sĩ lớn, giọng ca của bà còn đọng mãi trong lòng

khán giả, người nghe.

10. VĨNH MAI

Vĩnh Mai (1918- 1981), người làng An Tiêm, xã Triệu Thành, huyện Triệu

Phong. Năm 1936, tham gia hoạt động trong phong trào thanh niên ở Huế. Năm

1940- 1945, bị giam tại nhà lao Buôn Mê Thuộc. Năm 1945- 1950, ông lần lược

giữ các chức vụ: Trưởng ty thông tin tuyên truyền tỉnh Phú Yên; Bí thư Thị ủy

Huế; Ủy viên thường vụ tỉnh Đảng bộ Quảng Trị. Sau hòa bình lập lại, ông công

tác lại Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật; phụ trách tổ thơ của tuần báo văn nghệ.

Các tác phẩm đã xuất bản

- Thơ:

Khóc hoài (1946). Người dân quân xã (1947)). Đôn và Thanh (1954). Lên

đường (1961). Tiếng hát (1971). Đất đen và hoa thắm (1982). Từ mùa xuân ấy

(1982). Chàng trai ấy (1992).

11. TÂN NHÂN

Tân Nhân, (tên khai sinh là Trương Thị Tân Nhân) người làng Mai Xá, xã

Do Mai huyện Do Linh, là Nghệ sĩ Ưu tú, lĩnh vực biểu diến Âm nhạc.

Bà tham gia hoạt động nghệ thuật từ năm 1945 tại Đoàn Văn công Quân đội

mặt trận Bình Trị Thiên. Năm 1954 là nghệ sĩ đơn ca của Đoàn Ca múa nhạc TW.

Năm 1963 tốt nghiệp Đại học thanh nhạc, năm 1969 bà đi tu nghiệp tại nhạc viện

Xoophia – Bungari, Năm 1973 công tác tại Đài Giải phóng và Đài tiếng nói Việt

Nam, bà là Ủy viên BCH Hội Nhạc sĩ Việt Nam khóa II.

Là giọng nữ cao trữ tình, nghệ sĩ Tân Nhân đã biểu diễn nhiều ca khúc nổi

tiếng như: Xa khơi (Nguyễn Tài Tuệ) Câu hò bên bến Hiền Lương (Hoàng Hiệp –

Đằng Giao) Tình quê hương (Trọng Bằng)… Bà còn tham gia đào tạo các thế hệ

diễn viên trong nước và quốc tế.

Khen thưởng:

Danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú

Huân chương chống Pháp hạng nhất

Huân chương chống Mỹ cứu nước hạng nhất

Nhiều Huy chương, Kỷ niệm chương và phần thưởng cao quý khác

62

12. PHAN QUANG

Phan Quang, sinh năm 1928 tại thôn Thượng Xá, xã Hải Thượng, huyện Hải

Lăng. Hội viên hội Nhà Báo; Hội viên hội Nhà văn Việt Nam.

Từ tháng 8- 1948 Biên tập viên báo Cứu quốc Liên khu IV. Từ 1949 đến

1950 phóng viên báo Cứu quốc hoạt động tại chiến trường Bình Trị Thiên, Hà

Nam Ninh, Thượng Lào…

Sau Hiệp định Geneve 1954 điều ra Bắc làm phóng viên, biên tập viên báo

Nhân dân cho đến năm 1982. Từng kinh qua các chức vụ:

Ủy viên Bộ Biên tập Báo Nhân dân, Vụ trưởng Vụ Báo chí; Tổng biên tập ,

Tạp chí Người làm báo; Tổng Giám đốc, Tổng biên tập Đài Tiếng nói Việt Nam,

Thứ trưởng Bộ Thông tin. Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam (nhiệm kỳ V, nhiệm kỳ

VI (1989 – 2000). Phó Chủ tịch Tổ chức quốc tế các nhà báo OIJ. Phó Chủ nhiệm

Ủy ban đối ngoại Quốc hội nhiệm kỳ VIII, IX, X. Là nhà báo Việt Nam có tên

trong từ điển: Những người nổi tiếng thế giới (Who’s who in the World của Mỹ

năm 1995 – 1996)

Đã xuất bản hơn 40 đầu sách, bao gồm các Tập truyện ngắn, Truyên vừa,

các Tập Ký, đặc biệt là các Tiểu luận và chân dung: Theo dòng thời cuôc (1995),

Về diện mạo Báo chí Việt Nam (2001) Phác họa chân dung (2004), Tuyển tập

Phan Quang (1999). Ông cũng là một dịch giả văn học, đã dịch và giới thiệu nhiều

tác phẩm.

Khen thưởng

Huân chương kháng chiến hạng nhì

Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhất

Huân chương Bắc đẩu bội tinh của Cộng hòa Pháp năm 2000

Huy chương vàng OIJ…

13.TRẦN THANH TÂM

Trần Thanh Tâm (1924 – 2009) còn có tên (Trần Đình Giải ) bút danh

Trần Hà Trung, Hà Lạc

Người làng Hà Trung xã Do Châu, huyện Do Linh.

Đại tá QĐND Việt Nam, họa sĩ, hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam.

Trong kháng chiến chống Pháp làm báo Vệ quốc quân, Quân khu IV

Tác phẩm đã xuất bản:

63

Những mẫu chuyện về Xô viết Nghệ Tĩnh (viết chung với Trần Hữu Thung) Nxb

Phổ thông 1955. Cờ đỏ bên sông Lam, Nxb Văn hóa Hà Nội 1956. Ông vua đen,

Nxb Thanh niên- Hà Nội 1958. Tiếng đàn người hát dạo, Nxb Thanh Niên 1960.

Nam Đàn quê hương Chủ tịch Hồ Chí Minh, Địa phương chí (viết chung với Ninh

Viết Giao) Nxb KHXH, Hà Nội 1989. Quan chức nhà quyền, Nxb Thuận Hóa

1995. Quăng gương xuống hồ, Nxb Công an ND, Hà Nội 1995. Địa danh Thành

phố Huế (cùng với Huỳnh Đình Kết) Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội

Về tranh và điêu khắc:

Xô Viết Nghệ Tĩnh, (trưng bày tại Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh). Trận Sen

hạ (trưng bày tại Bảo tàng Quân khu IV). Tượng Hải thượng Lãn ông (tại Học viện

Quân Y)

Khen thưởng:

Huân chương kháng chiến chống Pháp hạng nhì.

Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng nhất

Huy chương vì sự nghiệp xây dựng Bảo tàng Quốc gia

14. HOÀNG THI THƠ

Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, (1928- 2001) tại làng Bích Khê, huyện Triệu Phong, tỉnh

Quảng Trị, ông bắt đầu sáng tác và hoạt động văn học nghệ thuật từ năm 1945.

Năm 1948 học trường Trung học Huỳnh Thúc Kháng Nghệ An. Có năng khiếu về

âm nhạc ngoại ngữ. Ông gia nhập Quân đội nhân dân Việt Nam một thời gian, hoạt

động văn hóa văn nghệ ở Liên khu IV. Năm 1951 rời vùng kháng chiến trở về

vùng tạm chiếm miền Nam. Từ đó đến năm 1975 làm công tác giảng dạy ngoại

ngữ, sáng tác âm nhạc, viết sách nghiên cứu âm nhạc.

Ông có trên 500 ca khúc từ tình cảm đến nhạc quê hương, dân ca đến nhạc thời

trang, đoản khúc đến trường ca, nhạc cảnh đến nhạc kịch. Nhiều bài hát của ông đã

rất quen thuộc với người Việt Nam từ những năm 1950 cho đến sau năm 1975,

nhất là những bản nhạc có tính chất dân gian, mộc mạc có âm hưởng quê hương đã

đi vào lòng người như "Rước tình về với quê hương", "Rong chơi cuối trời quên

lãng", "Đường xưa lối cũ", "Tà áo cưới", "Trăng rung xuống cầu", Gạo trắng trăng

thanh", "Đám cưới trên đường quê", "Duyên Quê", "Tình ta với mình"

Ngoài ra Hoàng Thi Thơ cũng sáng tác những bản tình ca kể lại những mối

tình lứa đôi như: "hồng nhạc bạc mệnh", "Chuyện tình cô lái đò Bến Hạ", "Chuyện

tình La Lan", "Chuyện tình người trinh nữ tên Thi", "Nỗi buồn Châu Pha"…

Sau năm 1975, sang định cư tại Hoa Kỳ, tiếp tục hoạt động nghệ thuật, âm nhạc.

64

15. ĐỖ HẢI THUẬN

Đỗ Hải Thuận (1806 – 1896), ông được sinh ra tại làng Bích Khê, huyện

Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, pháp danh là Thích Diệu Giác.

Năm 1818, ông vào tu ở chùa Báo Quốc, năm 1825, thọ giới với Hoà thượng

Bổn Giác, năm 1839, được triều đình ban cấp giới đao độ điệp và được Hoà

thượng Thích Nhất Định truyền tâm ấn.

Ông từng giữ chức trú trì và Tăng Cang ở chùa Diệu Đế, có công trùng tu các

chùa Thiền Lâm, Báo Quốc, Kim Tiên. Năm 1895, ông mở đại giới đàn ở chùa

Báo Quốc và từng truyền pháp cho các đệ tử Tâm Quảng, Tâm Thế, Tâm Truyền,

Tâm Định.

16. THÍCH BÍCH PHONG

Thích Bích Phong (1901 - 1968), Thiền sư, họ Nguyễn, pháp danh Chân Đạo,

pháp tự là Chánh Thống, nên thường gọi là thiền sư Chân Đạo Chánh Thống, quê

làng Trung Kiên, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, sinh ra trong một gia đình

Phật giáo thuần thành nhiều đời, nhưng coi Nho giáo như một bộ phận thiết yếu

của đạo lý sống Phật giáo.

Năm 1914, ông được cha mình đưa vào Huế xuất gia với thiền sư Ngộ Tánh

Phước Huệ tại chùa Kim Quang. Năm 1919, ông thọ giới Sa di, thuộc đời thứ 40

của dòng thiền Thập Tháp phái Lâm Tế. Hai năm sau, thọ Cụ túc giới. Năm 1927,

ông vào Bình Định học với thiền sư Phước Huệ tại chùa Thập Tháp, đến 1929 thì

trở về Huế. Sau đó ông tích cực tham gia phong trào chấn hưng Phật giáo, năm

1932 An Nam Phật học hội ra đời, ông trở thành giảng sư của Hội Phật học, đồng

thời là “Phật học Cao đẳng học sanh” của lớp Đại học Phật học đầu tiên của thế kỷ

XX do thiền sư Giác Tiên cùng bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám tổ chức tại chùa

Tây Thiên. Năm 1937, ông được thỉnh làm chủ toạ chùa Qui Thiện, sắc chức tăng

cang cấp bỗng hàng tháng, để lãnh đạo trụ trì tự trưởng các chùa. Từ đấy, ông

thường đi đây đó, khi ra Bắc, lúc vào Nam để giảng dạy, tâm chú vào sự nghiệp

giáo dục và văn nghệ để phục vụ cho đạo pháp và dân tộc…

Ngày 22 tháng chạp năm Đinh Mùi (nhằm ngày 21 tháng 01 năm 1968), trong

một cơn đau sơ, thiền sư viên tịch trở về nước Phật.

Hoà thượng Thích Bích Phong tức thiền sư Chân Đạo Chánh Thống đã để lại

bộ Thuỷ nguyệt tòng sao với gần 500 bài thơ và những đoạn văn ngắn có giá trị

nghệ thuật cao cho cả đạo lẫn đời.

65

17. THÍCH ĐÔN HẬU

Thích Đôn Hậu - Diệp Trương Thuần (1905-1992), người làng Xuân An, tổng

An Đồn, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Xuất thân trong một gia đình nho học.

Năm lên 17 tuổi đã thuộc làu kinh sử Nho học. năm 1924, xuất gia học Phật với

Hòa thượng Tâm Tịnh tại chùa Tây Thiên, Huế. Năm 1932, học Đại học Phật giáo

và thọ tam giới đàn cụ túc tại đàn chùa Từ Hiếu, Huế. Năm 1936, tốt nghiệp Đại

học Phật giáo, được mời làm giảng sư của Hội An Nam Cộng sản đảng Phật học

hội. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông trú trì tại chùa Thiên Mụ (Huế), giữ chức

Chủ tịch Hội Phật giáo cứu quốc, kiêm Chủ tịch Hội Phật giáo tỉnh Thừa Thiên

Huế. Năm 1947, mặt trận Huế vỡ, ông bị Pháp bắt giam một thời gian. Sau khi

được trả tự do, ông làm Hội trưởng Tổng trị sự Hội Phật học Trung Việt, Giám luật

Giáo hội Tăng già toàn quốc, chủ nhiệm báo Liên hoa ở Huế. Từ năm 1963 đến

1969, ông tham gia nhiều hoạt động yêu nước, đấu tranh chống lại chế độ độc tài

Ngô Đình Diệm. Ông được mời tham gia Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ

và hòa bình Việt Nam. Ông từng giữ các chức vụ: Ủy viên Hội dồng cố vấn Chính

phủ lâm thời Miền Nam Việt Nam, Cố vấn chính phủ các mạng lâm thời Miền

Nam Việt Nam, Đại biểu Quốc hội khóa VI… Ông là tác giả của các sách về

phương pháp tu học và giáo lý đạo Phật: Cách thức sám hối các tội đã phạm,

Phương pháp tu quán, Tứ nhiếp pháp, Cảm ứng tự nhiên…

18. THÍCH GIÁC NHIÊN

Thích Giác Nhiên (1878-1979), quê Quảng Trị. Hoà thượng là một trong các

Danh tăng của Phật giáo Việt Nam đã suốt đời hiến dâng cho Dân tộc - Đạo pháp.

Thuở nhỏ, ngài bắt đầu theo học chữ Nho, với tư chất thông minh, không bao

lâu, Ngài đã tinh thông Nho học. Sau hai mươi ba năm tu học, Ngài chuyên tâm

nghiên cứu tinh yếu của Kinh Luật Đại thừa, đặc biệt Ngài đã sử dụng phần lớn

thời gian trong việc Thiền định. Đến năm Canh Tuất, (1895), Triều Duy Tân, Ngài

cùng với Hòa Thượng Tịnh Khiết Thọ Tam đàn Cụ túc tại Giới đàn Chùa Phước

Lâm (Hội An).

Năm 1932, cùng các Hòa Thượng Phước Huệ (Chùa Thập Tháp, Bình Định),

Giác Tiên, HT. Giác Hạnh, cư sĩ Tâm Minh, Trương Xướng ... Sáng lập Hội An

Nam Phật Học. Hội đã Cung thỉnh Ngài đảm nhiệm chức vụ Chứng minh Đại Đạo

sư và kiêm nhiệm Giám đốc Phật học đường Tây Thiên - Huế.

Năm 1934, Ngài làm Trú trì Quốc tự Thánh Duyên (Túy Vân, Huế), một trong

ba Quốc tự lớn tại Thừa Thiên (Linh Mụ, Thánh Duyên, Diệu Đế).

66

Năm 1956, Ngài được Giáo hội Phật Giáo Trung phần cung thỉnh vào chức vụ

Viện trưởng Phật học viện Hải Đức – Nha Trang (Cơ quan đào tạo Tăng tài của

Phật Giáo Trung phần).

Năm 1958-1962, Ngài liên tiếp đảm nhận chức Chánh Hội trưởng Tổng Trị sự

Hội Phật giáo Trung phần trong suốt 4 niên khóa. Trong thời gian này, với tuổi

trên 80, Ngài vẫn chu toàn nhiệm vụ, kinh lý, nhiều lần đến các Hội Phật Giáo

khắp nơi ở Cao nguyên và Trung nguyên.

Ngài một lòng hy sinh vì Đạo, đích thân dẫn đầu cuộc biểu tình của Tăng tín đồ

Phật giáo Thừa Thiên Huế, mở đầu phong trào vận động đòi hỏi tự do tín ngưỡng

và bình đẳng Tôn giáo vào chiều ngày 14 tháng 4 năm 1963 (Quý Mão)

19. THÍCH TRÍ THỦ

Thích Trí Thủ (1909 – 1984), cao tăng, nhà Thiền học, thế danh là Nguyễn

Văn Kính, quê làng Trung Kiên, tổng Bích La, tỉnh Quảng Trị. Năm 14 tuổi, ông

vào làm chú điệu ở chùa Hải Đức, Huế. Cuối năm 1934, ông được thỉnh vào ban

giảng sư Hội Phật học. Năm 1939, ông làm trú trì chùa Ba La Mật, lại được Sơn

môn giáo và An Nam Phật học cử đặc trách việc đào tạo Ni chúng. Năm 1942, ông

được bổ về làm trú trì chùa Báo Quốc.

Năm 1964 đến 1974, ông đảm nhiệm chức vụ Viện trưởng Viện Hoá đạo,

Tổng vụ trưởng Tổng vụ Hoằng pháp, Tổng vụ trưởng vụ Tài chính của

GHPGVNTN.

Năm 1981, ông là Trưởng ban vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam và

sau Đại hội ông được bầu làm Chủ tịch Ban thường trực Hội đồng Trị sự giáo hội

Phật giáo Việt Nam.

Ông là người đức hạnh, suốt đời tận tuỵ cho sự nghiệp của Giáo hội, nhất là

việc đào tạo tăng tài. Ông là tác giả của gần 20 công trình dịch và sáng tác gồm đủ

cả Kinh, Luật, Luận và sách hoằng giáo …Ông mất ngày 02 tháng 03 năm Giáp

Tý, 1984, thọ được 76 tuổi đời, với gần 60 tuổi đạo.

20. NGUYỄN KHẮC THỨ

Nguyễn Khắc Thứ (1921- 1990): người thôn An Cư, xã Triệu Phước,

huyện Triệu Phong. Là hội viên hội nhà văn Việt Nam năm 1957. Ông từng là cán

bộ quân đội từ hồi đầu kháng chiến chống Pháp, hoạt động chủ yếu tại chiến

trường Bình Trị Thiên. Sau hòa bình, ông được điều về Tổng cục Chính Trị dự trại

67

sáng tác viết về anh hùng quân đội. Sau thời gian sáng tác, ông về làm cán bộ thư

viện quân đội cho đến lúc nghỉ hưu.

Tác phẩm đã xuất bản:

-Trận Thanh Hương (truyện ký, 1955)

-Đất chuyển (tiểu thuyết, 1958)

-Bản án tử hình (truyện, 1966)

-Phá kho bom Tân Sơn Nhất (truyện, 1966)

-Hẹn hò (truyện, 1966)

21. THANH TỊNH

Thanh Tịnh (1911- 1988): tên khai sinh là Trần văn Ninh, sau đổi thành

Trần Thanh Tịnh. Người quê Gio Linh. Ông là nhà thơ, ngoài ra còn làm ca dao,

viết kịch, viết báo; ông được coi là người sáng tạo ra thể “tấu nói”, đi đầu trong lối

viết “những đoạn văn ngắn” và là nhà văn có nhiều giai thoại văn học. Đảng viên

Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam năm 1957.

Nhà thơ Thanh Tịnh từng là học sinh trường dòng Pellerin ở Huế, làm nghề

hướng dẫn viên du lịch, dạy học, nhân viên đo đạt ruộng đất, có thơ in trong Thi

nhân Việt Nam, xuất bản năm 1942. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, ông giữ

chức vụ Tổng thư ký Hội Văn hóa cứu quốc Trung Bộ, đầu quân phụ trách đoàn

kịch “Chiến Thắng” của quân đội. Khi tạp chí Văn Nghệ quân đội ra đời, ông đảm

nhiệm chức vị Phó Chủ nhiệm rồi Chủ nhiệm, Ủy viên BCH Hội Nhà văn Việt

Nam khóa (I, II), Ủy viên Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam.

Cấp bậc Đại tá Quân đội trước khi nghỉ hưu.

Tác phẩm đã xuất bản

-Ngậm ngãi tìm trầm (truyện ngắn, 1943)

-Quê mạ (truyện ngắn, 1941)

-Chị và em (truyện ngắn, 1942)

-Xuân và Sinh (truyện ngắn, 1944)

-Hậu chiến trường (thơ, 1937)

-Sức mồ hôi (ca dao, 1954)

-Thơ ca (thơ, 1973)

-Đi giữa mùa sen (truyện thơ, 1980)

-Thanh Tịnh đời và văn, 1996

Giải thưởng:

68

Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam (1951- 1952) cho những bài độc tấu

xuất sắc.

22.TÂN TRÀ

Tân Trà (1921- ?): tên khai sinh Lê Đình Hiên, người quê xã Hải Thọ,

huyện Hải Lăng.Trước năm 1945 làm nghề dạy học. Năm 1946, giữ chức vụ

Trưởng ty Bình dân học vụ, rồi Trưởng Ty Thông tin Quảng Trị, Ủy viên BCH

Tỉnh ủy Quảng Trị. Từ năm 1950- 1953, ông công tác tại Nha Bình dân học vụ.

Năm 1954, đảm nhiệm chức vụ Trưởng phòng Bổ túc văn hóa Sở Giáo dục Hà

Nội. Năm 1967, làm Chánh văn phòng Hội Văn nghệ Hà Nội cho đến ngày nghỉ

hưu.

Tác phẩm đã xuất bản

-Thơ bốn câu của Tân Trà (1967)

-Mắt biển (thơ, 1993)

Khen thưởng

Ông là người đầu tiên của ngành giáo dục Hà Nội được tặng thưởng Huân

chương Lao động về thành tích bổ túc văn hóa và xóa nạn mù chữ.

23. DƯƠNG TƯỜNG

Dương Tường (1926- 1953): ngưởi thôn Cương Gián, xã Trung Giang,

huyện Gio Linh. Tham gia cách mạng năm 1945. Năm 1948, nhóm văn nghệ

“Nguồn Hàn” được thành lập, ông đảm nhiệm chức Nhóm trưởng. Năm 1951, theo

quyết định của Chi hội Văn nghệ Liên khu IV, nhóm “Nguồn Hàn” được chuyển

thành Phân hội Văn nghệ tỉnh và ông giữ chức Phân hội trưởng. Năm 1952, ông

được kết nạp vào Hội Văn nghệ Việt Nam, cùng năm đó, ông chuyển về Ty Tuyên

truyền và Văn nghệ tỉnh. Năm 1953, ông hy sinh trong chuyến đi công tác và được

truy tặng liệt sĩ.

Ông viết rất nhiều thơ và đã được đăng trong Tuyển thơ của Hội nhà văn

Việt Nam.

Tác phẩm đã xuất bản

-Tiếng khóc những hàng dương (1949)

-Về làng (1949)

-Cây bí dân quân (1950)

69

Thơ ông viết khá nhiều, hiện chưa sưu tầm đầy đủ. Nhiều bài đã đưa vào

Tuyển thơ của Hội Nhà văn Việt Nam. Hiện nay, bạn bè, đồng đội, đồng chí của

ông đang sưu tầm để trong tương lai gần có một tuyển tập thơ của riêng ông.

24. NGUYỄN VIÊM

Bùi Viêm (1929- ?): người xã Triệu Tài, huyện Triệu Phong. Ông là nhà

nghiên cứu âm nhạc và là nhạc sĩ sáng tác. Sau năm 1954, ông tập kết ra Bắc và

tham gia học lớp sáng tác tai trường Âm nhạc Việt Nam. Sau đó tham gia nhóm

Nghiên cứu dân ca, rồi được cử sang làm chuyên gia âm nhạc tại Cộng hòa Dân

chủ Nhân dân Lào. Về nước, công tác tại phòng Văn nghệ Quân đội, phụ trách mục

“Bộ đội ta ca hát”. Năm 1958, ông chuyển sang nghiên cứu âm nhạc tại Bộ Văn

hóa- Thông tin. Tu nghiệp tại Nhạc viện Thượng Hải (Trung Quốc), Nhạc viện

Xôphia (Bungari). Trưởng ban Nghiên cứu âm nhạc thuộc Viện âm nhạc và múa.

Tác phẩm đã xuất bản

-Rừng xanh bừng sáng. Vì hòa bình thống nhất tổ quốc. Việt Nam- Hồ Chí

Minh. Bốn mùa. Em chào chị Hằng, chị Hằng chào em; Đàn T rưng (trích thơ Huy

Cận); Tác phẩm nhạc khí; Giao hưởng Giải phóng, sonate viết cho piano Niềm tin

son sắt; Tuyển chọn ca khúc Nguyễn Viêm và Album Nguyễn Viêm

Công trình nghiên cứu

-Quan họ Bắc Ninh (cùng viết với Lưu Hữu Phước, Tú Ngọc, Nguyễn Văn

Phú, Nxb. Văn hóa, 1965)

25. CHẾ LAN VIÊN

Chế Lan Viên (1920- 1989), tại Cam An, Cam Lộ (nay thuộc Phường Đông

Giang, TP Đông Hà). Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Hội viên sáng lập Hội

nhà văn Việt Nam ( 1957).

Trước Cách mạng tháng Tám Chế Lan Viên sống, học tập và làm thơ tại

Quy Nhơn (Bình Định) Ông sáng tác thơ khi còn rất trẻ, năm 1937.

Năm 1939 Chế Lan Viên ra học ở Hà Nội, sau đó làm Báo ở Sài Gòn, rồi

dạy học ở Thanh Hóa và Huế.

Cách mạng tháng Tám 1945 ông tham gia cách mạng ở Quy Nhơn, sau đó ra

Huế làm báo Quyết Thắng của Việt Minh Trung bộ.

Trong kháng chiến chống Pháp Chế Lan Viên công tác ở báo Liên Khu IV,

khi ở Thanh Hóa, khi ở vùng tạm chiếm Bình Trị Thiên.

70

Năm 1954 hòa bình lập lại Chế Lan Viên về sống ở Hà Nội, Ông đã đảm

nhiệm các chức vụ : Ủy viên Thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam. Đại biểu Quốc

hội các khóa IV,V,VI,VII. Ủy viên Ban Thống Nhất của Quốc hội khóa VI, VII.

Ủy viên Ban thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Sau ngày đất nước thống nhất, Chế

Lan Viên vào công tác và sáng tác hoạt động văn học tại thành phố Hồ Chí Minh

Các tác phẩm đã xuất bản

- Thơ

Điêu tàn (1937). Gửi các anh (1954). Ánh sáng và phù sa (1960). Hoa ngày

thường, chim báo bão (1967). Những bài thơ đánh giặc (1972). Đối thoại mới

(1973). Hoa trước lăng Người (1976). Hái theo mùa (1977). Hoa trên đá (1985).

Tuyển tập Chế Lan Viên (1985). Di Cảo I (1994), Di cảo II (1995)

- Văn xuôi

Vàng sao (1942). Thăm Trung Quốc (1963). Những ngày nổi giận (1966).

Giờ của số thành (1977).

Khen thưởng

Huân chương Độc lập hạng Hai

Giải thưởng

Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học- Nghệ thuật (1996);

Giải A của Hội Nhà văn Việt Nam cho tác phẩm Hoa trên đá (1995)

Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam cho tác phẩm Di cảo I và Di cảo II (1994)

DANH SÁCH CÁ NHÂN ANH HÙNG LƯC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN

(Xếp theo thứ tự thời gian được phong tặng, truy tặng)

STT Họ và tên Năm

sinh

Quê quán Cấp bậc, chức vụ, đơn

vị

Thời gian

phong tặng,

truy trặng

1 Võ Thiết 1920 Hải Dương, Hải

Lăng, Quảng Trị

Tiêu đoàn phó thuộc

Đại đoàn 305

7-5-1956

2 Lê Văn Ban 1933 Vĩnh Giang, Vĩnh

Linh, Quảng Trị

Trung đội trưởng dân

quân xã Vĩnh Giang,

Vĩnh Linh

1-1-1967

3 Phan Thanh

Chung

1954 Hải Thượng, Hải

Lăng, Quảng Trị

Trung đội phó thuộc

Tiểu đoàn 10, bộ đội

đặc công tỉnh Quảng

Trị

17-9-1967

71

4 Trương Thị

Khuê

1946 Vĩnh Thủy, Vĩnh

Linh, Quảng Trị

Xã đội phó xã Vĩnh

Thủy, Vĩnh Linh

18-6-1969

5 Nguyễn Chí Phi

(Nguyễn Chí

Ngọc)

1931 Trung Giang, Gio

Linh, Quảng Trị

Đại úy, Chính trị viên

Tiểu đoàn 10, bộ đội

đặc công tỉnh Quảng

Trị

22-12-1969

6 Trương Thành

Nam ( Trương

Công Nã)

1939 Vĩnh Giang, Vĩnh

Linh, Quảng Trị

Thượng sĩ, Trinh sát

viên, thuộc Phân đội

319, Công an nhân

dân vũ trang Vĩnh

Linh

28-5-1970

7 Hồ Soi 1943 Kỳ Nơi, Hướng

Hóa, Quảng Trị

Đại đội trưởng Đại đội

4 vẩn tải gùi thồ, Cục

Hậu cần, Quân khu

Trị Thiên

19-5-1972

8 Trần Thị Tâm

(Liệt sĩ)

1948 Hải Khê, Hải

Lăng, Quảng Trị

Chính trị viên xã đội,

Bí thư chi bộ xã Hải

Khê, Hải Lăng

19-5-1972

9 Đào Xuân

Hướng ( Đào

Xuân Phương)

1932 Vĩnh Chấp, Vĩnh

Linh, Quảng Trị

Trung úy, Đội trưởng

đội công tác cơ sở,

Đồn biên phòng Cù

Bai, Công an nhân dân

vũ trang Vĩnh Linh.

3-9-1973

10 Trương Văn Đo 1927 Vĩnh Sơn, Vĩnh

Linh,Quảng Trị

Xã đội trưởng xã Vĩnh

Sơn, Vĩnh Linh

3-91973

11 Trương Quang

Thọ

1948 Gio Hải, Gio

Linh, Quảng Trị

Xã đội trưởng xã Gio

Hải, Gio Linh

20-12-1973

12 Văn Thị Xuân 1948 Hải Phú, Hải

Lăng, Quảng Trị

Xã đội phó xã Hải

Phú, huyện Hải Lăng

20-12-1973

13 Lê Thị Tám 1973 Triệu Thượng,

Triệu Phong,

Quảng Trị

Thượng úy, Chính trị

viên phó Huyện đội

Triệu Phong tỉnh Bình

Trị Thiên

3-6-1976

14 Nguyên Thị Lý

(Liệt sĩ)

1950 Triệu Hòa, Triệu

Phong, Quảng Trị

Trinh sát vũ trang,

Ban an ninh xã Triệu

Hòa, Triệu Phong

6-6-1976

15 Lê Văn Kỉnh 1940 Triệu Sơn, Triệu

Phong, Quảng Trị

Trưởng Ban an ninh

xã Triệu Sơn, Triệu

Phong

6-11-1978

16 Phan Hữu Sính

(Liệt sĩ)

1944 Vĩnh Thái, Vĩnh

Linh, Quảng Trị

Tiểu đội trưởng, Đội

trinh sát vũ trang,

Công an thành phố

13-8-1980

72

Huế

17 Nguyên Đức

Hành

1960 Triệu Phước,

Triệu Phong,

Quảng Trị

Hạ sĩ, Tiểu đội phó

trinh sát thuộc Tiểu

đoàn 504, Trung đoàn

320 Mặt trận 779,

Quân khu VII

30-8-1989

18 Trần Công Tiện

(Liệt sĩ)

1920 Triệu Sơn, Triệu

Phong, Quảng Trị

Đại úy, Công an nhân

dân vũ trang Vĩnh

Linh

3-8-1995

19 Hoàng Hữu

Quốc ( Liệt sĩ)

1942 Cam Nghĩa, Cam

Lộ, Quảng Trị

Đội phó Đội an ninh

vũ trang, Ban an ninh

huyện Cam Lộ, Quảng

Trị

3-8-1995

20 Lê Văn Quang

(Liệt sĩ)

1930 Trung Sơn, Gio

Linh, Quảng Trị

Tiểu đội trưởng, Đội

trinh sát vũ trang

thuộc Công an nhân

dân vũ trang Vĩnh

Linh

3-8-1995

21 Nguyễn Văn

Hưng (Liệt sĩ)

1927 Đông Lương,

Đông Hà, Quảng

Trị

Đội trưởng Đội trinh

sát vũ trang, Ban an

ninh tỉnh Quảng Trị

3-8-1995

22 Lê Quang

Thiệu(Liệt sĩ)

1948 Gio Mỹ, Gio

Linh, Quảng Trị

Đội trưởng Đội trinh

sát vũ trang, Ban an

ninh huyện Gio Linh

3-8-1995

23 Mai Văn

Toàn(Liệt sĩ)

1932 Hải Ba, Hải Lăng,

Quảng Trị

Phó trưởng Ban an

ninh huyện Hải Lăng

3-8-1995

24 Nguyễn Ngọc

Thiết (Liệt sĩ)

1947 Hải Lệ, Hải

Lăng,Quảng Trị

Đội trưởng Đội trinh

sát vũ trang Ban an

ninh huyện Hải Lăng

3-8-1995

25 Lê Thanh Cải

(Liệt sĩ)

1940 Vĩnh Thành, Vĩnh

Linh,Quảng Trị

Đội trưởng Đội trinh

sát vũ trang, Ban an

ninh huyện Cam Lộ

29-1-1996

26 Lê Công

Hiệu(Liệt sĩ)

1940 Vĩnh Nam, Vĩnh

Linh,Quảng Trị

Đội trưởng Đội trinh

sát vũ trang, Ban an

ninh huyện Triệu

Phòng

19-1-1996

27 Trần Hữu Thủy 1944 Hải Phú, Hải

Lăng,Quảng Trị

Trinh sát an ninh, Ban

an ninh Huyện Hải

Lăng

19-1-1996

28 Lê Hữu Trữ(Liệt

sĩ)

1928 Triệu Bình, Triệu

Phong,Quảng Trị

Trung tá, Sư đoàn,

trưởng Sư đoàn 2,

23-7-1997

73

Quân khu V

29 Lê Thị

Tuyết(Liệt sĩ)

1949 Hải Xuân, Hải

Lăng,Quảng Trị

Y tế Huyện đội Hải

Lăng, Quảng Trị

23-7-1997

30 Đặng Dân(Liệt

sĩ)

1922 Triệu Thành,

Triệu Phong,

Quảng Trị

Huyện ủy viên,

Trưởng Ban an ninh

huyện Triệu Phong

22-7-1998

31 Hoàng

Kiềm(Liệt sĩ)

1930 Cam Thủy, Cam

Lộ,Quảng Trị

Cán bộ điệp báo thuộc

Tổng cục V, Bộ công

an

22-7-1998

32 Hoàng Quốc

Huy (Liệt sĩ)

1946 Cam Thủy, Cam

Lộ,Quảng Trị

Đội trưởng Đội trinh

sát vũ trang, Ban an

ninh Cam Lộ, Bí thư

xã Cam Thủy, Cam

Lộ, Quảng Trị

22-7-1998

33 Trần Thị Cúc

(Liệt sĩ)

1946 Gio Hải, Gio

Linh,Quảng Trị

Phó trưởng Ban an

ninh xã Gio Hải,

huyện Gio Linh

22-7-1998

34 Nguyễn

Thủy(Liệt sĩ)

1922 Ba Lòng,

Đakrông,Quảng

Trị

Phó Bí thư Tỉnh ủy,

Phó trưởng Ban an

ninh khu vực Trị-

Thiên-

Huế, Trưởng Ban an

ninh Quảng Trị

22-7-1998

35 Văn Kiếm(Liệt

sĩ)

1927 Triệu Trạch,

Triệu

Phong,Quảng Trị

Thiếu tá, Tiểu đoàn

trưởng Tiểu đoàn 808

bộ binh tỉnh Quảng

Trị, TMT Mặt trận 7,

Quân khu Trị - Thiên

– Huế

31-7-1998

36 Nguyễn Thị

Cam(Liệt sĩ)

1948 Gio Thành, Gio

Linh, Quảng Trị

Xã đội phó xã Gio

thành, Gio Linh

11-6-1999

37 Hồ Thị Đá 1918 Hướng Tân,

Hướng Hóa,

Quảng Trị

Hội trưởng Hội Phụ

nữ huyện Hướng

Hóa,Quảng Trị

11-6-1999

38 Mai Chiếm

Cương(Liệt sĩ)

1924 Cam Giang, Cam

Lộ, Quảng Trị (

nay là Đông

Giang, Đông Hà)

Huyện ủy viên huyện

Cam Lộ

11-6-1999

39 Nguyễn Thị

Dưỡng(Liệt sĩ)

1947 Phường 4, Đông

Hà,Quảng Trị

Bí thư Thị đoàn, thị xã

Đông Hà, Quảng Trị

28-4-2000

40 Nguyễn Văn

Khi(Liệt sĩ)

1950 Cam Chính, Cam

Lộ, Quảng Trị

Chíến sĩ du kích mật

hoạt động hợp pháp

28-4-2000

74

của xã Cam Chính,

Cam Lộ

41 Nguyễn Ngọc

Lễ(Liệt sĩ)

1947 Gio Hải, Gio

Linh,Quảng Trị

Xã đội trưởng xã Gio

Hải, Gio Linh

28-4-2000

42 Nguyễn Thị

Ơn(Liệt sĩ)

1932 Gio Việt, Gio

Linh, Quảng Trị

Phó Bí thư Chi bộ

thôn An Trung, Gio

Việt, Gio Linh

8-11-2000

43 Nguyễn Văn

Giáo (Liệt sĩ)

1932 Triệu Trung,

Triệu Phong,

Quảng Trị

Huyện đội phó, Huyện

đội Triệu Phong

23-5-2005

44 Lê Hữu Châu

(Liệt sĩ)

1945 Cẩm Phổ, Trung

Giang(nay là xã

Gio Mỹ), Gio

Linh, Quảng Trị

Du kích xã Trung

Giang, Gio Linh

5-12-2007

45 Ngô Thị Diệm 1924 Vĩnh Thành, Vĩnh

Linh,Quảng Trị

Chiến sĩ du kích xã

Vĩnh Thành, Vĩnh

Linh

5-12-2007

46 Lê Kiên(Liệt sĩ) 1942 Hải Lâm,Hải

Lăng,Quảng Trị

Chuẩn úy, Đội trưởng

an ninh, Ban an ninh

Hải Lăng

8-6-2009

47 Nguyễn Sen

(Liệt sĩ)

1940 Gio Mỹ, Gio

Linh, Quảng Trị

Phó Bí thư chi bộ, Đội

công tác thuộc Ban

binh vận H6

23-2-2010

48 Võ Duy Kinh 1914 Triệu Phước,

Triệu Phong,

Quảng Trị

Cán bộ giao bưu và

thông tin liên lạc tỉnh

Quảng Trị

23-2-2010

49 Đào Thanh Mai

(Liệt sĩ)

1932 Hải Thượng,Hải

Lăng, Quảng Trị

Đại đội phó Đại đội 3,

K10 đặc công, Tỉnh

đội Quảng Trị

23-2-2010

50 Trần Hữu Lưu 1961 Vĩnh Tú, Vĩnh

Linh, Quảng Trị

Đội trưởng Đội 584,

Bộ chỉ huy quân sự

tỉnh Quảng Trị

11-11-2010

51 Trương Hữu

Quốc

Hải Phú, Hải

Lăng,Quảng Trị

Thiếu tướng, Tổng

cục trưởng Tổng cục

Cảnh sát, Bộ Công an

17-10-2011

75

DANH SÁCH NHÀ GIÁO NHÂN DÂN, NHÀ GIÁO ƯU TÚ (1988-2017) 4

TT Họ tên - Chức vụ - Đơn vị công tác Năm khen

Nhà giáo Nhân dân

1 Ông Lê Phước Long - Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Quảng Trị 2008

Nhà giáo Ưu tú

1 Ông Nguyễn Minh Lai - Hiệu trưởng Trường Trung học phổ thông Tân Lâm 1988

2 Bà Trần Thị Minh Nhuận - Hiệu trưởng Trường Phổ thông dân tộc nội trú

tỉnh 1990

3 Ông Dương Ngọc Trai - Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo Vĩnh Linh 1990

4 Ông Lê Ngọc Bút - Nguyên Phó Hiệu trưởng Trường CNKTCGII, Bộ Thuỷ

lợi 1990

5 Bà Lê Thị Tưởng - Hiệu trưởng Trường Mầm non Hoa Sen, Đông Hà 1992

6 Ông Nguyễn Hữu Ái - Hiệu trưởng Trường Trung học phổ thông Cam Lộ 1992

7 Ông Hoàng Miên - Hiệu trưởng Trường Trung học phổ thông Đông Hà 1994

8 Ông Lê Biểu - Giáo viên Trường Trung học phổ thông thị xã Quảng Trị 1994

9 Ông Hoàng Minh Long - Hiệu trưởng Trung học phổ thông thị xã Quảng Trị 1997

10 Ông Trần Viết Vượng - Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo Đông Hà 1997

11 Ông Trần Quang Việt - Chủ tịch Công đoàn Giáo dục tỉnh 1997

12 Ông Hồ Sỹ Nguyên - Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo 1997

13 Ông Nguyễn Hữu Quang - Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo Triệu Phong 1998

14 Ông Nguyễn Viết Trai - Trưởng phòng Tổng hợp - Hành chính, Sở Giáo dục

và Đào tạo 1998

15 Ông Nguyễn Chiến Thắng - Phó Trưởng phòng Giáo dục Tiểu học, Sở Giáo

dục và Đào tạo 1998

16 Bà Thái Thị Khôn - Hiệu trưởng Trường Tiểu học thị trấn Hồ Xá, Vĩnh Linh 1998

17 Ông Trần Viết Lưu - Hiệu trưởng Trường Trung học phổ thông Vĩnh Linh 1998

18 Ông Nguyễn Ninh Thuận - Hiệu trưởng Trường Trung học cơ sở Nguyễn

Du, Đông Hà 2000

19 Ông Nguyễn Văn Hào - Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo Vĩnh Linh 2000

20 Ông Trương Đình Sỹ - Trưởng phòng Tổ chức cán bộ, Sở Giáo dục và Đào

tạo 2002

4 Sở GD&ĐT Quảng Trị (2009), Lịch sử Giáo dục Quảng Trị, NXB Thuận Hóa. Và tư liệu của Sở GD&ĐT.

76

21 Ông Dương Hùng - Hiệu trưởng Trường Trung học phổ thông Đông Hà 2002

22 Ông Trần Quang Chiến - Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo Đakrông 2002

23 Ông Trần Quốc Việt - Giảng viên Cao đẳng Sư phạm tỉnh Quảng Trị 2002

24 Ông Mai Hoa Cư - Giáo viên Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Quý

Đôn 2008

25 Ông Trần Văn Do - Hiệu trưởng Trường Trung học nông nghiệp và Phát

triển nông thôn tỉnh Quảng Trị 2008

26 Bà Trương Thị Em - Hiệu trưởng Trường Tiểu học Gio Phong, Gio Linh 2008

27 Ông Nguyễn Đăng Hậu - Hiệu trưởng Trường Trung học phổ thông Lê Lợi 2008

28 Ông Trần Lượng - Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo Gio Linh 2008

29 Bà Đặng Thị Minh - Hiệu trưởng Trường Tiểu học Kim Đồng, Vĩnh Linh 2008

30 Ông Hoàng Đức Thắm - Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo 2008

31 Ông Trương Sĩ Tiến - Nguyên Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo 2008

32 Ông Nguyễn Thanh - Nguyên Hiệu trưởng Trường Trung học Sư phạm Bình

Trị Thiên 2010

33 Ông Hoàng Ngọc Diệm - Nguyên Hiệu trưởng Trường Trung học Sư phạm

Bình Trị Thiên 2010

34 Bà Lê Thị Xuân Liên - Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Sư phạm Quảng Trị 2010

35 Bà Nguyễn Thị Ngọc Diệp - Hiệu trưởng Trường Tiểu học Võ Thị Sáu,

Vĩnh Linh 2010

36 Ông Nguyễn Chiến Thắng - Hiệu trưởng Trường Trung học cơ sở Lê Quý

Đôn, Vĩnh Linh 2010

37 Ông Trần Đới - Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo Hải Lăng 2012

38 Ông Lê Văn Khuyên - Hiệu trưởng Trường Trung học cơ sở Khe Sanh,

Hướng Hóa

2012

39 Bà Nguyễn Thị Hồng Tâm - Hiệu trưởng Trường Trung học phổ thông Phan

Châu Trinh 2012

40 Ông Nguyễn Xuân Chiến - Hiệu trưởng Trường Trung học phổ thông

Đakrông 2012

41 Ông Võ Văn Hoa - Phó Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo Hải Lăng 2014

42 Ông Nguyễn Trung Thành - Phó Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo Gio

Linh 2014

77

43 Ông Nguyễn Văn Bình, Nguyên Trưởng phòng GD&ĐT huyện Cam Lộ 2017

44 Ông Nguyễn Tiến Dũng, Hiệu trường Trường THPT thị xã Quảng Trị 2017

45 Bà Phan Thị Hoài, Hiệu trưởng Trường THPT Triệu Phong 2017

46 Ông Nguyễn Hoài Nam, Hiệu trưởng Trường THPT Vĩnh Linh 2017

47 Bà Nguyễn Thị Thu Thủy, Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo 2017

48 Bà Lê Thị Thu, Giáo viên Trường mầm non Bình Minh, Cam Lộ 2017

78

79