NHÂN V T L CH Sdostquangtri.gov.vn/Upload/Diachiquangtri/Phan 4 Chuong 22.pdf · NHÂN VẬT...
Transcript of NHÂN V T L CH Sdostquangtri.gov.vn/Upload/Diachiquangtri/Phan 4 Chuong 22.pdf · NHÂN VẬT...
1
Chương XXII
NHÂN VẬT LỊCH SỬ - VĂN HÓA
Ở vị trí bản lề của đất nước, lưng tựa vào dãy Trường Sơn hùng vĩ, mặt
hướng ra biển Đông bao la, nằm giữa khúc ruột miền Trung, nơi cái điểm tỳ vai
của chiếc đòn gánh trĩu nặng giang sơn Việt Nam hình chữ S. Quảng Trị là một
tỉnh đất không rộng, người không đông nhưng là địa bàn có ý nghĩa chiến lược và
có một lịch sử sâu dày, đa dạng.
Một dải đất hẹp nơi eo thắt nhất của đất nước, nhưng Quảng Trị có hội đủ
các yếu tố của địa hình đa dạng: Núi - đồi - đồng bằng - cồn cát ven biển - biển và
hải đảo. Non nước Quảng Trị dẫu vậy cũng không hiếm cảnh sắc kỳ thú và thơ
mộng. Nhà bác học Lê Quý Đôn cũng như các sử gia nhà Nguyễn đã miêu tả khái
quát: “Phia Đông đến biển nhỏ, phía Tây nhiều núi rừng, thế nước bao quanh, hình
núi ôm bọc, danh sơn thì có núi Tá Linh, động Ba Màn; đại xuyên thì sông Thạch
Hãn, sông Vĩnh Định, sơn bảo thì có Trấn Lao, Cam Lộ, hải tấn thì có Việt Yên,
Tùng Luật, lại có sa động dài lớn theo bờ biển chảy vào phía Nam, nghiễm nhiên
làm một sa thành ứng hộ - thật là nơi hình thắng ở chốn kỳ phu vậy !” 1
Danh xưng Quảng Trị với tư cách là một đơn vị hành chính cấp tỉnh độc lập
xuất hiện chính thức vào năm 1801, Đại Nam nhất thống chí ghi rõ “Mùa hạ năm
Tân Dậu (1801), Thế tổ Cao Hoàng đế (Gia Long) lấy lại đô thành cũ (tức Phú
Xuân), tách ba huyện Hương Trà, Quảng Điền, Phú Vang thuộc phủ Triệu Phong
đặt dinh Quảng Đức, lại tách hai huyện Hải Lăng, Đăng Xương và huyện Minh
Linh thuộc phủ Quảng Bình đặt dinh Quảng Trị. Năm Gia Long thứ năm (1806)
quy định là dinh Trực lệ (Quảng Đức, Quảng Trị đều để hai chữ Trực lệ đứng
trên).2 Nhưng lịch sử của vùng đất này đã có từ thời xa xưa. Những bằng chứng
xác thực về khảo cổ học cho thấy hàng chục vạn năm trước những tộc người thuộc
ngữ hệ Môn- Khơme sống trên triền đông - tây Trường Sơn và những tộc người
thuộc ngữ hệ Mã Lai -Đa đảo sống ở các vùng đồng bằng ven biển là những chủ
nhân đầu tiên đã sớm cùng cộng cư ở đây. Chính họ là những lớp người đã tiên
phong trong công cuộc khai sơn phá thạch xây dựng, khai phá, mở mang vùng đất
này.
1 Phủ biên tạp lục 2Quốc sử Quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí Tập 1 Nxb Lao Động 2012. Tr 94
2
Trên dặm dài lịch sử với bao biến cố thăng trầm, dâu bể, Quảng Trị về với
Đại Việt bằng chính những gì mà lịch sử đã gửi trao, phó thác. Mảnh đất này từng
được coi là “Trọng trấn” là “Trấn biên” là “phên dậu” là “cửa ngõ” phía Nam của
Tổ quốc; là “tiêu điểm” ác liệt của những cuộc kháng chiến chống xâm lăng, là
“kinh đô kháng chiến - chính trị” một thời và cũng là “ranh giới” của những cuộc
chia cắt, phân ly... Một mảnh đất nhỏ bé và cằn khô như Quảng Trị mà có đến ba
lần được chọn làm thủ phủ, là kinh đô kháng chiến ! Đây có phải là sự ngẫu nhiên
của lịch sử ? càng không phải là vô tình của tạo hóa ! Còn đó một Ái Tử - Trà Bát -
Cát Dinh, nơi khởi nghiệp của Vương triều Nguyễn trên hành trình mở cõi về
phương Nam của dân tộc Việt. Một kinh đô kháng chiến Tân Sở (Cam Lộ) còn
đồng vọng lời Hịch Cần vương của vua Hàm Nghi kêu gọi toàn dân đứng lên đánh
giặc cứu nước. Một trụ sở Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa MNVN đã trở
thành nơi hội tụ ý chí khát vọng đấu tranh thống nhất của cả dân tộc Việt Nam
dưới thời đại Hồ Chí Minh anh hùng, quật khởi. Khói lửa chiến tranh, bão tố, lũ
lụt, hạn hán cằn khô cùng những xáo trộn, chia cắt... là một thực tế nghiệt ngã, tàn
phá nặng nề vùng đất này và đã làm cho con người Quảng Trị phải chịu biết bao
gian khổ, mất mát, đau thương; nhưng cũng từ gian khó, cơ cực đó mà thử thách,
trui rèn để hình thành nên những cốt cách riêng biệt của con người Quảng Trị.
Về văn hóa, tuy có chung các quy luật trên nền tảng của văn hóa Việt Nam,
nhưng với một diễn trình lịch sử và một vị trí địa lý khá đặc thù nên Quảng Trị từ
buổi nguyên sơ đã là nơi gặp gỡ, tiếp nhận và giao thoa nhiều hệ văn hóa khác
nhau. Trên cái nền của văn hóa tiền - sơ sử mà hội tụ ở đó không ít dấu tích của
văn hóa Sơn Vi, Hòa Bình, Đông Sơn là quá trình tiếp biến khi tiếp cận với văn
hóa Hán, Chămpa, kể cả văn hóa phương Tây... Tất cả đã đan vào nhau trong khả
năng dung hòa, tích hợp để trở thành tài sản của chính mình trên hành trình tiến lên
phía trước của con người Quảng Trị.
Với một phức thể địa lý, lịch sử, văn hóa và xã hội mang nhiều nét khu biệt
đó, các thế hệ người Quảng Trị đã nối tiếp nhau cùng cộng sinh, vượt qua mọi thử
thách, chung sức chung lòng xây dựng quê hương. Quá trình đó đã tạo ra bản lĩnh
và làm nên những phẩm chất tốt đẹp của con người Quảng Trị. Đó là “kiên cường,
bất khuất, dũng cảm trong đấu tranh vì nghĩa lớn. Cần cù, tự lập, tự cường trong
3
sản xuất và xây dựng đời sống. Có tâm hồn trong sáng, bình dị, khí khái, bộc trực,
thẳng thắn và rất mực thủy chung” 3
Cơ sở sâu xa làm nên sức mạnh ý chí trong những hoàn cảnh cam go, ngặt
nghèo đó, chính là khát vọng sống, khát vọng vươn tới một ngày mai tươi sáng hơn
như một câu ca dao mà chính người Quảng Trị đã động viên nhau để biết vượt qua,
bất chấp trở lực trước thời gian và tro bụi:
Đừng than phận khó ai ơi
Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây
Mảnh đất ấy, truyền thống ấy tất yếu sẽ sản sinh ra bao lớp người tài hoa lỗi
lạc. Quảng Trị có thể được coi là là vùng đất “địa linh nhân kiệt”. Từ buổi nguyên
sơ khi những lớp người đầu tiên đến khai sơn phá thạch, cho đến những lớp người
đương đại hôm nay đã có biết bao nhiêu người con Quảng Trị đã làm rạng rỡ cho
non sông, đất nước, tô bồi xây đắp cho quê hương, đất nước mà tên tuổi còn mãi
lưu danh.
Biên soạn chương “Nhân vật lịch sử - văn hóa” (Nhân vật chí) là nhằm ghi
lại một cách có hệ thống những công lao đóng góp, cống hiến của những thế hệ
con dân Quảng Trị trong lịch sử; qua đó như bày tỏ sự ghi nhận, tri ân đối với tiền
nhân đã phụng sự, đóng góp tô bồi cho quê hương Quảng Trị qua thời gian, năm
tháng… bao gồm, các danh nhân văn hóa, lịch sử, các nhà quân sự, chính trị, các
tướng lĩnh; các nhà khoa bảng, các nhà hoạt động sáng tạo trên các lĩnh vực văn
hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ, văn học - nghệ thuật.v.v... Thông thường biên
soạn “Nhân vật chí” của một địa phương, một vùng đất, người ta thường dựa trên
cơ sở những đặc điểm và phẩm chất cơ bản: Kỳ tích trong chiến đấu, ưu tú trong
hoạt động xã hội, sáng tạo trong lao động khoa học công nghệ, văn học nghệ thuật,
nhằm mục tiêu xây dựng quê hương, đất nước. Đó là những tiêu chí rộng, có tính
chất định tính, định lượng, để lựa chọn, sắp xếp đưa vào mục “Nhân vật lịch sử -
văn hóa Quảng Trị ” theo các nội dung, tiêu chí mà Đề cương chi tiết đã được
duyệt. Khi bắt tay biên soạn, đi vào chi tiết các đề mục, tiểu mục, quy định trên
từng lĩnh vực, từng giai đoạn lịch sử cụ thể , thì nhóm biên soạn đều phải dựa trên
các tư liệu chính thống, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, tin cậy; từng nhân vật trên
từng lĩnh vực đều dựa vào các tiêu chuẩn, tiêu chí cụ thể, đã được Hội đồng thẩm
định đề cương thống nhất; khi đưa một nhân vật vào chương nhân vật chí này phải
3 Lịch sử Đảng bộ Quảng Trị, NXB Chính trị Quốc gia; trang 19
4
được xem xét trên nhiều phương diện, ví dụ như vừa coi trọng những chức danh
khoa học, học hàm học vị, những danh hiệu cao quý được Đảng, Nhà nước phong
tặng; nhưng đồng thời cũng xem xét đến những đóng góp, cống hiến của nhân vật
đó cho quê hương, tỉnh nhà và đất nước trên các lĩnh vực; vừa coi trọng phẩm chất,
đạo đức và những đóng góp về mặt lý luận, thực tiển cũng vừa xem xét uy tín,
trách nhiệm và đánh giá chung của xã hội, đặc biệt đối với các nhân vật thời cận,
hiện đại thì phải cần thận trọng, nghiêm túc, cân nhắc kỷ khi lựa chọn. Một nguyên
tắc được nhiều địa phương áp dụng, có tính thông lệ như người xưa vẫn thường nói
đó là “Quá quan định phận” tức muốn định danh phận người nào đó, thì hãy đợi
người đó đã chết rồi hãy xét. Nguyên tắc này nó cũng phù hợp với Nghị định
91/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 của Thủ tướng Chính phủ Về việc ban hành Quy
chế đặt tên, đổi tên đường, phố và các công trình công cộng và Thông tư
36/2006/TT- BVHTT của Bộ Văn hóa Thông tin, nay là Bộ Văn hóa Thể thao và
Du lịch về việc Hướng dẫn một số điều của Quy chế đặt đổi tên đường, phố và các
công trình công cộng. Trên cơ sở nguyên tắc đó, chúng tôi cũng áp dụng cho
Chương Nhân vật lịch sử - văn hóa (Nhân vật chí) này; nghĩa là tiêu chí chọn lựa
các nhân vật đưa vào Chương này là những người đã quá cố.
Dựa trên “Đề cương Địa chí Quảng Trị” đã được các Hội đồng khoa học
thẩm định, “Ban chỉ đạo triển khai thực hiện công trình Địa chí Quảng Trị” thông
qua và UBND tỉnh đã phê duyệt tại Quyết định 2545/QĐ- UBND ngày
19/10/2016, Chương “Nhân vật Lịch sử - Văn hóa” Quảng Trị được sắp xếp, biên
soạn theo một trật tự, bố cục như sau:
1. DANH NHÂN THỜI PHONG KIẾN VÀ CẬN ĐẠI
1.1. Những nhân vật lịch sử - văn hóa
1. ĐẶNG TẤT
Theo “Ô Châu cận lục” Dương Văn An nhuận sắc cho ông là người huyện
Hải Lăng. Đời Trần, ông làm đại Tri châu ở Thuận Hóa. Lúc ấy giặc Minh xua
quân sang xâm lược, nghe tin vua Giản Định đóng quân ở phía Nam, Đặng Tất kéo
quân đến hội rồi phá giặc ở Bô Cô. Thế ông rất mạnh, ông được vua phong tước
Quốc công. Ông cùng vua mưu việc khôi phục cơ nghiệp cho nhà Trần, nhưng
chưa được bao lâu thì bọn hầu hạ là bọn Nguyễn Phần gièm với vua rằng: Tất
5
chuyên quyền, nếu không sớm trừ đi sợ về sau khó trị. Vua nghe theo nên giết oan
ông.
2. ĐẶNG DUNG
Đặng Dung (?- 1414) người huyện Hải Lăng, ông là con của Quốc công
Đặng Tất, ức vì cha vô tội mà chết nên ông kéo quân từ Thuận Hóa ra Thanh Hóa,
rước Trần Quý Khoáng đến Nghệ An lập lên làm vua, lấy niên hiệu Trùng Quang
(1409 – 1413) ông giữ chức vị Đồng bình chương sự, trấn giữ vùng Thuận Hóa.
Khi nhà Minh sang xâm lược nước ta, sai Trương Phụ đến đánh chiếm vùng
Thuận Hóa, ông cầm quân đánh trả quyết liệt, ông đã làm cho Trương Phụ nhiều
phen khốn đốn, trận Thái Cảng ông suýt bắt được Trương Phụ. Nhưng thế giặc
mạnh, ông bị quân Minh bắt, tuẫn tiết. Tác phẩm để lại hiện chỉ còn một bài thơ
bất hủ Cảm hoài
3. BÙI DỤC TÀI
Bùi Dục Tài (1477-1522) Người làng Câu Lãm, nay là Câu Nhi, xã Hải Tân,
huyện Hải Lăng. Ông học rộng biết nhiều, nổi tiếng là người hay chữ nhất vùng
Thuận Quảng. Năm Cảnh Thống thứ 5 đời vua Lê Hiến Tông (1502) mở khoa thi
Hội và thi Đình, ông là người xuất sắc được trúng cách cả hai kỳ thi Hội và thi
Đinh, đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (tức là Hoàng giáp, đứng đầu học vị tiến sĩ).
Ông là người khai khoa Tiến sĩ đầu tiên của Quảng Trị nói riêng, vùng Thuận
Quảng nói chung.
Ông được bổ làm quan từ Hàn lâm viện Biện lý ở kinh đô Thăng Long, rồi
đến chức Tham chính đạo Thanh Hoa (Thanh Hóa). Năm Kỷ tỵ (1509) nhờ có
công ứng nghĩa và tài thông minh, mẫn cán, ông được thăng lên chức Tả thị lang
bộ Lại. Dưới thời vua Lê Chiêu Tông, niên hiệu Quang Thiệu (1516 – 1522) ông
được cử làm Tham tướng, được cử về kinh lý tại quê nhà là Đạo Thuận Hóa, ông
đã mang hết tâm huyết giúp dân bình định và phát triển vùng đát biên viễn Thuận
Quảng. Khi Mạc Đăng Dung tiếm ngôi nhà Lê ông đã vận động nhân dân và sĩ phu
chống lại nhà Mạc, ông bị gian đảng lập mưu giết hại ông. Tác giả “Ô Châu cận
lục” đã không ngớt lời ca ngợi ông bằng những lời lẽ tha thiết như: “Cái tài văn
chương, chính sự của Dục Tài thực là người giỏi của cả nước, chứ không phải
người giỏi riêng của Châu Ô. Chỉ tiếc vận mệnh bị tai ách không giữ trọn vện
được thân. Quân tử há có thể lấy sự lành dữ mà phê phán nhân vật được ru ?”
6
Bùi Dục Tài quả là người vừa đại biểu cho tinh thần hiếu học, trí thông minh
của nhân dân Thuận Hoá, (Quảng Trị) trong buổi đầu, vừa là người đại biểu xứng
đáng cho tư tưởng nhân nghĩa Đại Việt và nền văn hoá cao đẹp trong việc xây
dựng mối quan hệ hòa hiếu, cộng cảm Việt - Chăm trong lịch sử.
4. TRẦN ĐÌNH ÂN
Trần Đình Ân (1626-1706) người làng Hà Trung – Do Linh. Ông sinh ra trong
một gia đình dòng dõi quan lại, mấy anh em đều làm quan dưới thời các chúa
Nguyễn. Vốn là người có tính trung hậu, khoan hoà, độ lượng lại có tâm huyết với
việc khôi phục và mở mang xứ Đàng Trong. Đặc biệt ông là người rất giỏi việc
binh nên được các chúa Nguyễn yêu mến tin dùng. Những lần thừa lệnh chúa đi
kinh ký các vùng trong 2 phủ Thuận Hoá-Quảng Nam ông đã đề xướng việc
khuyến nông, mộ dân khai khẩn các vùng đất mới. Những năm mất mùa ông tham
kiến cho chúa Nguyễn giảm tô thuế cho dân … Năm Quý Mùi (1703) Trần Đình
Ân đã 78 tuổi, dâng sớ xin cáo quan về dưỡng già, Chúa cố giữ lại, ông phải tấu
xin nhiều lần, khi ông vào bái tạ về hưu Chúa thương tiếc, đích thân làm một bài
thơ thất ngôn và một bài tựa. Bài tựa viết: “Quốc chúa Thiên Túng Đạo Nhân ngự
chế thơ và tựa, sắc cho Tham chính Chánh đoán sự Đông Triều hầu Trần Đình Ân,
từ chức về làng. Khanh trải giúp bốn triều, quốc chính triều cương, có nhiều giúp
đỡ. Bề tôi siêng năng duy khanh hơn cả. Tính hay nhún nhường, ôn hòa, vui đạo
Thích lành. Cho nên lan quế thơm tho, một nhà vinh hiển. Thực là phúc thọ của
nước nhà ta…” Bài thơ ca ngợi công đức của ông hiện được tạc vào bia tại lăng
mộ quê nhà.Trần Đình Ân xứng đáng là một danh nhân của đất Quảng Trị và Đàng
trong.
Trần Đình Ân xứng đáng là một danh nhân của đất Quảng Trị và xứ Đàng
Trong.
5. NGUYỄN VĂN TÚ
Nguyễn Văn Tú( ?- ? ) người làng Đại Hào, tổng An Cư, huyện Đăng Xương
nay là Triệu Đại, Triệu Phong, Quảng Trị. Ông là nhà Kỹ thuật đầu tiên của vùng
Thuận Quảng, ông có tài làm đồng hồ và kính thiên văn theo kỹ thuật phương Tây
nổi tiếng dưới thời các Chúa Nguyễn. Năm 1776 Nguyễn Văn Tú chữa đồng hồ
(do phương Tây sản xuất) đặt ở đài thiên văn trong phủ chúa Nguyễn mà thợ Pháp,
7
thợ Tàu không tài nào sửa được. Ông đã chữa trong 10 ngày là xong. Sau đó ông tự
nghiên cứu để chế tạo đồng hồ báo giờ, báo ngày được chúa Nguyễn khen ngợi,...
6. HOÀNG BÔI
Hoàng Bôi ( ? ? ) người làng Câu Nhi, huyện Hải Lăng. Là bậc trung nghĩa
dưới thời Lê và thời nhà Mạc; ông từng giữ chức Hiệu úy ty Trung tá. Sau khi Mạc
Chính gây loạn ông phụng mệnh giữ chức Phó tướng đạo Thanh Hóa, được phong
Viên Đàm bá. Ông một lòng trung nghĩa nên được thăng Đồng tri Thiêm sự. Khi
Nguyễn Kim phò vua Lê Trang Tông khởi việc trung hưng ở Thanh Hóa để đánh
nhà Mạc, quan lại nhà Mạc lần lược ra quy hàng riêng ông cùng với một số người
có cùng chí hướng lấy điều trung nghĩa làm trọng kéo quân lên miền rừng núi Hải
Lăng tiếp tục chiến đấu trong vòng 13 năm nữa. Cuối cùng ông bị bắt sống và bị
giết. Sử sách đời sau ca ngợi Hoàng Bôi là bậc trung nghĩa của xứ Đàng Trong
7. HOÀNG KIM HÙNG
Hoàng Kim Hùng (1764- 1835) người làng Vĩnh An, xã Cam Hiếu, huyện
Cam Lộ. Ông là vị tướng dưới thời Tây Sơn tham gia nghĩa quân Nguyễn Huệ khi
còn rất trẻ (15 tuổi). Năm 24 tuổi ông được phong tặng Trung lang tướng quân
(1788) và bức trướng có đề “Trung thần bất sự nhị quân”. Dưới thời Nguyễn Huệ
ông được trọng dụng, ông có hiệu là Hổ hầu, có ấn triện riêng. Trong cuộc chiến
chống xâm lược nhà Thanh ông có công rất lớn góp phần giải phóng thành Thăng
Long. Ông cùng Ngô Thời Nhậm đi sứ sang Trung Quốc. Ông mất năm 1835 đời
Minh Mạng thứ 35 hưởng thọ 71 tuổi.
8. NGUYỄN CÔNG TIỆP
Nguyễn Công Tiệp ( ? – 1829) Người huyện Hải Lăng, làm quan dưới thời
Tây Sơn, sau được Gia Long lưu dụng, ông làm quan đến chức tham tri Hộ bộ,
lãnh Hộ tào Bắc Thành, sau về kinh làm Tả Tham tri bộ Binh, có tội biếm xuống
Lang trung, sau lại thăng Hữu Thị lang bộ Binh, biện lý Binh Tào Gia Định, lúc
mất tặng Tham tri bộ Binh. Ông là người học rộng, am hiểu điển cố, từng soạn
sách “Sĩ hoạn tu trí lục” (ghi chép những điều người làm quan cần biết). Sách gồm
6 quyển nói về cương vực từng vùng, số làng xã, đình đền, thuế lệ, đường sá, quán
trạm, quan chế…Phụ lục còn có một số bài thơ Nôm để vịnh cảnh vật.
9. NGUYỄN QUẬN
8
“ Ô châu cận lục” của Dương văn An đời Mạc chép: Nguyễn Quận người
huyện Hải Lăng, khoảng đời Lê Hồng Đức, theo đi đánh Chiêm Thành, phá được
thành Chà Bàn, các viên tướng khác đều tranh nhau lấy vàng, lụa. Nguyễn Quận
chỉ nhổ lấy lá cờ lớn, ngoài ra không lấy gì cả. Vua Thánh Tông ngợi khen, bổ cho
chức Quản vệ sở Thanh Hóa, sau thăng lên chức Tổng binh sứ ở Quảng Nam.
10. NGUYỄN TĂNG ĐỊCH
Ông người huyện Đăng Xương, lưu ngụ ở Gia Định, năm Tân Hợi thi đậu bổ
Cống sĩ viện, đổi làm tham luận Tuyển phong, đầu đời Gia Long thăng dần đến
Hiệp trấn Thanh Hoa, đổi ký lục Bình Định, triệu về, thăng Hữu Tham tri Bộ Binh,
đến đời Minh Mạng thăng Thượng thư Bộ Công
11. LÊ ĐẠI NGHĨA
Ông người huyện Hải Lăng, tính cương trực, đầu thời Trung hưng làm Hàn
Lâm viện, từng theo đi đánh dẹp giặc. Đầu đời Gia Long bổ làm Ký lục đạo Quảng
Trị. Đến đầu đời Minh Mạng thăng chức Cần Chánh điện Đại học sĩ, kiêm dạy bảo
các Hoàng tử, việc giảng dạy “đạo thánh hiền” ông đã giúp ích khá nhiều cho xã
hội, nhiều học trò của ông đã thành đạt; giúp nước, giúp dân. Năm Minh Mạng
năm thứ 2 (1822) chết khi đương chức, được truy tặng Thượng thư Bộ Lễ, năm Tự
Đức thứ 11 (1859) được liệt vào thờ ở đền Hiền Lương.
12. TRẦN TUYÊN
Ông người huyện Hải Lăng, làm quan dưới thời Minh Mạng, giữ chức Bố
chánh tỉnh Vĩnh Long, đến thời vua Thiệu Trị đi đánh giặc, tiểu trừ thổ phỉ, tử trận.
Đến đời Tự Đức liệt thờ tại đền Trung Nghĩa, sau tỏ dấu vết linh ứng có sắc phong
cho dựng đền thờ riêng.
Lại có người cùng huyện gồm Phó quản cơ Phan Đắc Cường, Phó quản cơ
Lê văn Tứ, cai đội Trần văn Giai và người huyện Địa Linh, có Phó quản cơ
Nguyễn văn Loan, Phó quản cơ Nguyễn Hữu Tăng, cai đội Phạm văn Tình đề lần
lượt làm nhiệm vụ, đánh giặc chết trận, đều được liệt vào thờ ở đền Trung Nghĩa.
13. NGUYỄN HỮU THẬN
Nguyễn Hữu Thận (1757-1831) người làng Đại Hào, phủ Triệu Phong (nay là
Đại Hào-Triệu Đại-Triệu Phong). Khoảng năm Bính Ngọ (1786) ông ra làm quan
9
dưới thời Tây Sơn, thăng đến chức Hữu thị lang bộ Hộ. Dưới thời Gia Long ông
được thăng đến chức Thượng thư bộ Lại. Dưới thời Minh Mạng ông giữ chức Hiệp
Biện đại học sĩ kiêm Thượng thư bộ Hộ, kiêm Khâm thiên giám.
Ông là người có học thuật, thạo việc quan, tinh về lịch học, giỏi tính toán.
Ông là nhà Toán học và Thiên văn học xuất sắc của đất nước đầu thế kỷ XIX. Tác
phẩm ông để lại cho đời có:
Ý trai toán pháp nhất đắc lục (Biên chép về toán pháp của Ý Trai). Sách
gồm 8 quyển; nói về cửu chương, phép cân đo lường đếm, phép tính diện tích
ruộng đất, phép khai phương, lập phương, phép tính thể tích… đặc biệt còn có
phép lập Ma phương bậc 3, 4, 8…
Tam thiên tự lịch đại văn chú (ba nghìn chữ chú giải văn chương các đời).
Sách dạy nhập môn chữ Hán qua những lời giáo huấn, những điển tích trong kinh
sử, dịch thành câu có vần dễ nhớ, đễ thuộc. ngoài ra ông còn biên soạn các bộ sách:
- Dịch toán thủ tự đại vần chú
-Bách ty chức chế
-Lịch tượng khảo thành
14. LÊ ĐĂNG DOANH
Lê Đăng Doanh (?- 1848) người làng Bích La huyện Thuận Xương, phủ
Triệu Phong (nay là xã Triệu Đông, huyện Triêu Phong). Năm Bính Thìn chúa
Nguyễn Ánh mở khoa thi (1796) ông dự thi và trúng cách và được bổ làm Thị học
viện Cống sĩ. Năm Gia Long thứ 4 (1805) được thăng làm Tri bộ thành Gia Định.
Đến thời Minh Mạng ông được thăng Tham biện Hà Tiên, rồi trở về kinh thăng
Thiêm sự bộ Lại, sung chức toản tu “Liệt thánh thực lục”; Ông làm quan trãi qua 4
triều Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức; làm Thượng Thư qua các bộ: bộ
Lại; bộ Công, bộ Hình thăng Hiệp biện Đại học sĩ, sung Cơ mật viện đại thần. Năm
Tự Đức nguyên niên (1848), ông bị bệnh mất, được truy tặng hàm Thiếu sư Văn
minh điện Đại học sĩ.
15. PHAN VĂN THÚY
Phan Văn Thúy (?-1833), người huyện Thuận Xương, phủ Triệu Phong, năm
1788, ông theo Chúa Nguyễn vào Gia Định , được bổ làm Khâm sai chức Cai đội
quân Thần sách. Dưới thời Gia Long, ông được thăng làm Khâm sai Chưởng cơ rồi
cải làm Vệ úy vệ Tiền nhị trấn thủ Quảng Bình. Qua thời Minh Mạng, được thăng
10
lên chức Chưởng Cơ, làm phó Đốc trấn Thanh Hoá. Năm Minh Mạng thứ 5 (1824)
ông được Triều đình cử ra trông coi việc đào sông Vĩnh Định ở Quảng Trị. Hai
năm sau, được cử làm Kinh lược trấn thủ Nghệ an. Bấy giờ quân Xiêm qua đánh
Vạn Tượng, Ông tiến quân đến Trấn Ninh, đưa vua nước Vạn Tượng là A Nô trở
về lại nước. Ông từng kinh qua các chức Phó Tổng trấn Bắc Thành, Hậu quân Đô
Thống phủ Chưởng phủ sự, tước Chương Nghĩa Hầu.Năm 1833 trên đường tiểu
trừ giặc về ông lâm bệnh chết, được truy tặng Tráng Vũ Tướng quân, hàm Thiếu
Bảo, tên thụy là Trung Tráng. Năm 1840, ông được khắc tên vào bia Võ Công
dựng ở Võ Miếu Huế, nay vẫn còn.
16. LÊ HỮU THƯỜNG
Lê Hữu Thường (1817- 1888), có tên là Hữu Hằng, người làng Bích La,
huyện Đăng Xương, phủ Triệu Phong. Ông đỗ Cử nhân khoa Tân Sửu, Thiệu Trị
nguyên niên (1841), được bổ làm Tri huyện Hà Đông, rồi kinh qua các chức Án sát
Nghệ An, năm (1864) thăng Quang lộc tự khanh, lãnh Tuần vũ Quảng Yên. Qua
năm sau, sung Khâm sai kinh lý Hải Phòng từ Quảng Bình đến Nam Định.Tự Đức
thứ 33 (1880), ông được triệu về kinh làm Biện lý bộ Công, thăng Hồng Lô tự
khanh, rồi thăngTả thị lang bộ Công đầu đời Hàm Nghi, ông được cử làm phó
Đổng Lý, sung chức Sơn phòng sứ Quảng Trị. Đồng Khánh nguyên niên (1885)
ông được thăng Hữu tham tri bộ Công, Tuần phủ Trị- Bình (Quảng Trị và Quảng
Bình), sau đó được triệu về lại kinh vag thăng chức Thượng thư bộ Công, kiêm
quản ấn triện Đô sát viện. Năm Mậu Tý, Đồng Khánh thứ 3 (1888) ông xin nghỉ
hưu vua không cho lại thăng cho chức Hiệp biện Đại học sĩ, sung Thiên thành cục
Đổng lý đại thần. Năm 1888 ông mất tại quê nhà.
17. LÊ MẬU CÚC
Lê Mậu Cúc (? - 1826) Người huyện Đăng Xương nay là Triệu Phong. Dưới
thời Gia Long ông giữ chức Vệ úy Vệ uy vũ quân Thần sách. Năm Minh mạng thứ
nhất, Canh Thìn (1820), giao cho việc coi quân ba vệ Dương vũ, Toàn vũ, Uy vũ,
chức Án thủ bảo Hà Trung, kiêm hành việc quản thủ Hà Hoa thuộc trấn Nghệ An.
Năm Minh Mạng thứ 4 (1823), giữ chức Quản đạo Ninh Bình, sau đó được vời về
kinh giữ chức Vệ úy Tiền vệ dinh Long Vũ. Năm sau cử làm Trấn thủ Nam Định.
Ông có công lớn trong việc diệt trừ thổ phỉ, giữ yên biên giới phía Tây, biên giới
phía Bắc. Năm Minh Mạng thứ 7 (1826), do tin lời thổ phỉ Vũ Đức Cát ông bị mai
11
phục và chết trận. Việc ông chết, báo về Kinh, vua thương tiếc mà nói rằng: “Mậu
Cúc thề lấy thân báo quốc, sống chết một lòng. So với người xưa hết tiết với cương
thường, tưởng cũng không thẹn.” Vua nói xong chảy nước mắt. Bèn truy tặng
Thống chế. Đến thời Tự Đức năm thứ 9 (1856)ông được đưa vào thờ ở đền Trung
Nghĩa
18. NGUYỄN CỬU TRƯỜNG
Nguyễn Cửu Trường (1806- 1853) người Gia Miêu, Thanh Hóa, nhập tịch
làng Huỳnh Công, nay thuộc xã Vĩnh Tú, huyện Vĩnh Linh. Ông thi đỗ Hoàng giáp
năm 1838, làm quan đến chức Tuần phủ tỉnh Biên Hòa.
Tác phẩm: Lịch đại sử luận (sách bàn về các sự kiện lịch sử, các nhân vật từ
thời Thái Tổ đến đời nhà Thanh). Đây là tác phẩm ông viết chung với Nguyễn Bá
Nghi, người cùng làm việc với ông tại Nội các vào cuối đời Thiệu Trị.
19. NGUYỄN HOÀNG
Nguyễn Hoàng (?- 1856), trước tên Văn Hoàng, người huyện Đăng Xương,
nay huyện Triệu Phong. Năm Bính Tuất, Minh Mạng thứ 7 (1826) được ghi tênvào
sổ Anh danh, thăng đến Phó vệ úy vệ Kỳ võ. Đến năm Tân sửu, Thiệu Trị năm thứ
nhất (1841) được bổ làm Lãnh binh tỉnh Vĩnh Long, rồi Lãnh binh tỉnh An Giang,
thăng làm Chưởng vệ. Năm kỷ Dậu, Tự Đức thứ 2 (1849), được bổ làm Tổng Đốc
Định- Biên (hai tỉnh Gia Định và Biên Hòa) rồi làm Tông Đốc Long Tường (hai
tỉnh Vĩnh Long và Định Tường). Năm Tân Hợi, Tự Đức thứ 4 (1851) ông tiếp tục
được thăng chức Hữu quân Đô thống vẫn kiêm Tổng đốc và kiêm giữ ấn triện Tiền
quân phủ Đô thống. Ông có công đánh dẹp thổ phỉ quấy nhiễu biên giới Tây Nam,
được ban cho Bài vàng “An Tây tuấn kiện tướng”được khắc tên vào bia Võ Công.
Năm Tự Đức thứ 9 (1856), ông thọ bệnh qua đời, tặng hàm Hữu quân Đô thống
phủ Đô thống Chưởng phủ sự, liệt thờ ở miếu Hiền Lương.
20. NGUYỄN ĐỨC HOẠT
Nguyễn Đức Hoạt (?- 1849), Người tổng An Thơ, huyện Hải Lăng, phủ
Triệu Phong, nay là làng An Thơ, xã Hải Hòa, huyện Hải Lăng. Ông đỗ Cử nhân
năm Minh Mạng thứ 4 (1825). Ông là vị khai khoa Cử nhân của tỉnh Quảng Trị
dưới triều Nguyễn. Năm Minh Mạng thứ 9 (1828), thăng chức Hàn lâm viện Kiểm
12
thảo, sung làm Hành tẩu Nội các. Năm Bính Thân, Minh Mạng thứ 17 (1836),
thăng hàm Thị giảng học sĩ, tham biện Nội các sự vụ. Năm Mậu Tuất, Minh Mạng
thứ 19 (1838), bổ chức Nội vụ phủ Lang trung. Năm Kỷ Hợi, Minh Mạng thứ 20
(1839), bổ Lang trung bộ Binh. Qua năm sau bổ chức Bố chánh Nghệ An. Đầu
năm Tân Sửu, Thiệu Trị năm thứ nhất (1841) thăng chức Lễ bộ Hữu thị lang. Năm
Bính Ngọ, Thiệu Trị thứ 6 (1846), ông được sung vào đại thần viện Cơ mật. Qua
năm sau được thăng Thượng thư bộ Lại, sung quản Thị vệ đại thần. Năm Tự
Đức thứ 2 (1849), ông mất khi đang chức. Để ghi nhận công lao đóng góp của ông
vua thăng cho hàm Tả tham tri, Chánh nhị phẩm.
21. LÊ KHÁNH TRINH
Lê Khánh Trinh (?- 1846) Ông người xã Cổ Trai, tổng Hiền Lương, huyện
Minh Linh, nay là thôn Cổ Trai, xã Vĩnh Giang, huyện Vĩnh Linh. Ông đỗ Cử nhân
(Á khoa) năm Tân Mão, Minh Mạng thứ 12 (1831) làm Hàn lâm viện thị giảng,
sung Nội các. Cuối thời Minh Mạng quan quân ta phải đánh dẹp ở Trấn Tây rất vất
vả do vậy vua ủy cho ông là Bố Chánh về trấn giữ vùng này. Năm Tân Sửu, Thiệu
Trị thứ 1 (1841), ông chuyển làm Bố Chánh Vĩnh Long, rồi Bố chánh Gia Định.
Năm Giáp Thìn, Thiệu Trị thứ 4 (1843), thăng chức Hữu thị lang bộ Lễ, sung biện
công việc Nội các. Năm Ất Tỵ, Thiệu Trị thứ 5 (1845), giữ chức Hữu Tham tri bộ
Lễ, rồi Tả tham tri bộ Công. Qua năm sau được bổ làm Tả tham tri bộ Binh. Ông bị
bệnh rồi mất năm 1846 Thiệu Trị thứ 6. Ông là người có công bình định, giữ yên
bờ cõi, biên giới Tây Nam của Tổ quốc.
22. TRẦN XUÂN HÒA
Trần Xuân Hòa, Người làng Thâm Khê, huyện Hải Lăng, nay thuộc xã Hải
Khê, Hải Lăng. Ông đỗ Cử nhân khoa Mậu Thân, năm Tự Đức (1848), làm quan
đến chức Tri phủ. Ông là nhà trí thức nhân sĩ yêu nước. Sau khi quân Pháp đánh
chiếm thành Gia Định. Ông đã tình nguyện tham gia đội quân kháng chiến, ông lập
căn cứ Mỹ Quý thuộc huyện Châu Thành, Tiền Giang để chống Pháp, đội quân của
ông đã đánh nhiều trận làm quân Pháp lao đao, khiếp sợ. Khi Pháp tấn công vào
đồn Mỹ Quý ông rút về Cái Bè; nghĩa quân của ông cùng với quân của Võ Duy
Dương tiếp tục đánh Pháp khắp các nới như Cái Thia, Cai Lậy,Cái Bè, Rạch Gầm,
Trung Lương, Tân Lý… sau cùng ông trú quân ở Mỹ Trang. Ngày 6/1/1862 Đại úy
13
Hải quân Pháp Rieunier mang quân đánh vào đồn Mỹ Trang. Ông chỉ huy nghĩa
quân chống trả quyết liệt; nhưng thế giặc mạnh, ông bị giặc Pháp bắt giải về Mỹ
Tho, không muốn chết trong tay giặc, ông cắn lưỡi tuẫn tiết. Được tin ông hy sinh
vua Tự Đức thương tiếc và khen: ông là người nghĩa tiết, tiếng thơm sử sách, rất
khó người như thế. Truy tặng ông hàm Quang lộc tự khanh, sai quan tỉnh Quảng
Trị lập đền thờ. Trước miếu thờ ông tại làng Thâm Khê, có đôi câu đối:
Nhất phiếm trung can, đơn thụ kham hoài y tuyệt tích
Phong lâm đẩu giác, sơn hà vô hạn cảm phương danh
Dịch là
Một tấm lòng trung, danh tướng công lao đầy tuyệt tích
Ngôi sao tuấn kiệt, non sông cảm mộ chút danh thơm
23. LÂM HOẰNG/ HOÀNH
Lâm Hoằng/ Hoành (1824-1883) trước còn có tên là Lâm Chuẩn. Người quê
ở xã Gia Bình, tổng An Định, huyện Do Linh nay là xã Do Bình, huyện Do Linh.
Năm Đinh Mão, Tự Đức thứ 20 (1867) đỗ Cử nhân.Năm Mậu Thìn, Tự Đức thứ
21(1868) đỗ Phó bảng. Ông là một võ tướng dưới thời Tự Đức. Trong thời gian
làm quan ông giữ các chức vụ từ Tri huyện Kim Thành, rồi đến Biện lý bộ Lại, rồi
Tham biện Nội các sự vụ....sau một thời gian ông được triệu về kinh thăng chức
Hồng Lô tự khanh, rồi đến Quang Lộc tự khanh, Biện lý bộ Lễ và thăng đến chức
Tham tri Bộ công.
Năm 1883 khi Pháp chiếm cửa Thuận An, ông được giao nhiệm vụ trấn giữ
Trấn hải đài ở Thuận An; Thế giặc rất mạnh, ông cùng quân sĩ chiến đấu rất anh
dũng nhưng lực lượng mỏng, vũ khí thô sơ không chống nỗi giặc ông đành cho
quân lui rồi tự nhảy xuống biển tuẫn tiết. Đương thời ông được sĩ phu và nhân dân
kính trọng ngợi ca; sau triều đình phong ông hàm Công bộ Thượng thư, được thờ
vào đền Trung nghĩa.
24 .TRẦN ĐÌNH TÚC
Trần Đình Túc (1809-1892), tên tự là Trọng Cung, người làng Hà Trung, tổng
An Xá, huyện Do Linh. Năm Nhâm Dần, Thiệu Trị năm thứ 2 (1848), đậu Cử nhân
bổ chức Tri huyện Bất Bạt rồi quản đạo Phú Yên. Đến thời Tự Đức (1848-1883),
ông trải qua các chức Lang trung bộ binh, bang biện quân vụ Quảng Nam (1859).
14
Năm 1961 quân Pháp đánh thành Gia Định ông được giao giữ chức Hồng lô tự
khanh sung chứcTán Tương quân thứ ở Biên Hòa,. Năm 1868, ông nhận lệnh đi
công cán ở Hương Cảng khi về tiếp tục nhận nhiệm vụ Doanh điền sứ. Năm 1869,
ông lãnh chức Tuần Phủ Hà Nội, rồi Tuần phủ Hưng Hóa. Năm 1873, khi Pháp
đánh chiếm Hà Nội, ông được cử làm Tổng Đốc tỉnh này, cùng Tuần phủ Nguyễn
Trọng Hợp đi thương nghị với Pháp. Năm 1880, ông được gia hàm Hiệp biện Đại
học sĩ. Năm 1882, Pháp đánh chiếm Hà Nội lần thứ 2, ông được cử làm Khâm sai
đại thần giao thiệp với Pháp. Năm 1883, khi Pháp tấn công vào Thuận An, ông
lãnh chức Thượng Thư Bộ Lễ, sung làm Tòan quyền Đại thần đi dàn xếp mọi việc.
Đến năm 1891, ông được phong làm Hiệp Biện Đại học sĩ, về hưu rồi mất tại quê
nhà
Ông được vua Tự Đức tặng chiếc Kim khánh với 4 chữ: “Liêm Bình Cần
Cán” và có làm sách “Tiên Sơn thi tập”.
25. NGUYỄN VĂN TƯỜNG
Nguyễn Văn Tường (1824- 1886) Người tổng An Cư, huyện Đăng Xương nay
là thôn An Cư, xã Triệu Phước, huyện Triệu Phong.
Ông là đại thần triều Nguyễn, thuộc phe chủ chiến có tư tưởng yêu nước,
chống Pháp. Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842) đậu Cử nhân nhưng do ông khai tên
Nguyễn Phước nên bị vua phạt gạch tên trong sổ tú tài, giam một năm và đổi tên
Nguyễn Văn Tường. Năm Tự Đức thứ 3 (1850), ông đỗ Cử nhân mở đầu thời kỳ
làm quan hơn 30 năm; Đầu tiên ông được giao chức vị Huấn đạo ở huyện Mộ Đức,
rồi đổi Tri huyện Thành Hóa. Năm 1864 ông được giao chức Phủ doãn Thừa
Thiên. Năm 1866, ông được cử làm Bang biện huyện Thành Hóa, cấp cho ấn
Khâm phái quan phòng, cho được tự ý tư tâu. Năm 1974, ông được thăng Thượng
thư bộ Hình, sung Cơ mật viện đại thần, tấn phong Kỳ Vĩ bá, rồi Thượng thư bộ
Hộ. Năm 1877, ông được thăng thụ Hiệp biện Đại học sĩ.
Trong sự kiện “Tứ nguyệt tam vương” ông đã cùng Tôn Thất Thuyết chống
lại nhóm chủ hoà, phế Dục Đức và Hiệp Hoà, tôn Kiến Phúc lên ngôi, trù tính và
thực hiện các biện pháp để có thể chống Pháp lâu dài như xây thành Tân Sở
(Quảng Trị), tu bổ thượng đạo, sửa sang các sơn phòng, tích trữ vàng bạc, khí giới,
gạo muối ở Tân Sở và Dương Yên (Quảng Nam). Khi kinh thành Huế thất thủ
(23/3 năm Ất Dậu 1885) vua Hàm Nghi rời bỏ kinh thành, ban dụ Cần Vương cho
15
các tỉnh bắt đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Nguyễn Văn Tường nhận lệnh Từ
Dũ ở lại Huế thương thuyết với De Conrey nhưng sau 2 tháng bị quản thúc ở
Thương Bạc, ông bị đày đi Côn Lôn rồi sau đó sang Tahiti cùng với Phạm Thận
Duật, Tôn Thất Đính và ông mất ở đó. Về sau hài cốt được đưa về an táng ở quê
nhà (làng An cư, Triệu Phong, Quảng Trị).
26 . HOÀNG HỮU XỨNG
Hoàng Hữu Xứng (1831- 1905), người làng Bích La, tổng Bích La, huyện
Đăng Xương, phủ Triệu Phong nay là xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong. Năm
Nhâm Tý, Tự Đức thứ 5 (1852), ông đỗ Cử nhân.Năm 1861, ông giữ chức Huấn
đạo quyền Tri huyện Tuy Viễn thuộc tỉnh Bình Định. Qua năm sau ông được đặc
cách thăng Tri huyện Hà Đông tỉnh Quảng Nam. Năm 1869 được bổ làm Bố chánh
sứ tỉnh Thanh Hóa. Năm 1974, ông được triệu về kinh thăng làm Lại bộ Tả thị
lang. Năm 1880, ông được thăng thự Tuần phủ Hải Phòng. Dưới thời Đông Khánh
(1885), ông được cử đảm nhiệm thêm Nhật giảng quan ở nhà Kinh diên. Năm
1887, ông được thưởng thụ hàm Thị lang bộ Lại, thự Tả Tham tri. Đến triều Thành
Thái, ông được thăng Hiệp biện Đại học sĩ Thượng thư bộ Lễ cùng năm này cuốn
sách “Đại Nam Cương giới vựng” do ông phụ trách biên soạn đã làm xong. Ông
mất năm 1905.
27. TRƯƠNG ĐÌNH HỘI
Trương Đình Hội ( 1849- 1888 ) người làng Phù Lưu, tổng Bích La, huyện
Đăng Xương, phủ Triệu Phong nay là xã Triệu Long, huyện Triệu Phong. Ông đỗ
Cử nhân năm Quý Dậu, Tự Đức thứ 26 (1873). Ông làm quan dưới thời Tự Đức
với các chức Hành tẩu rồi Tư vụ tại bộ Lại. Năm 1876, ông được bổ chức Tri
huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Năm 1877, ông được bổ làm Huấn đạo huyện
Phú Lộc, phủ Thừa Thiên. Năm 1882 giữ chức Tri huyện Hương Trà thuộc phủ
Thừa Thiên.
Sau khi kinh thành Huế thất thủ (04/7/1885) Tôn Thất Thuyết cùng các đại
thần đưa vua Hàm Nghi ra khỏi kinh thành và lên Sơn phòng Quảng Trị ở Tân Sở.
Tại đây Tôn Thất Thuyết lấy danh nghĩa vua Hàm Nghi ra chiếu Cần Vương, kêu
gọi nhân dân ra sức phò vua cứu nước. Hưởng ứng lời kêu gọi chiếu Cần Vương
Trương Đình Hội tập hợp nghĩa quân và nhân dân ở vùng miền Tây Gio Linh-
Vĩnh Linh cầm quân nổi dậy khởi nghĩa chống Pháp; tổ chức nhiều trận đánh gây
16
cho Pháp nhiều thiệt hại lớn như trận Đò Lục. Về sau thực dân Pháp tăng quân đàn
áp phong trào, Trương Đình Hội phải rút vào Quảng Nam và bị bắt. Tháng giêng
năm Mậu Tý, tức 14-2-1888. Ông bị xử chém tại bến đò chợ củi Quảng Nam.
28. NGUYỄN TỰ NHƯ
Nguyễn Tự Như (1860- ? ) người làng Hà Thượng, tổng An Xá, huyện Do
Linh nay thôn Hà Thượng, xã Do Châu, huyện Do Linh. Ông đỗ Cử nhân năm
Mậu Dần, Tự Đức thứ 31 (1878).Năm Thành Thái thứ 10, Mậu Tuất (1898) có
khoa thi Hội, ông dự thi và trúng cách Tiến sĩ được bổ làm quan. Đến thời Duy
Tân thăng lên chức Tri phủ Quảng Ninh thuộc tỉnh Quảng Bình. Biến cố năm Ất
Dậu (1885), Kinh đô Huế thất thủ. Vua Hàm Nghi xuất bôn, xuống chiếu Cần
Vương chống Pháp.Hưởng ứng lời kêu gọi chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi,
Nguyễn Tự Như đã tập hợp nghĩa quân và nhân dân ở vùng Gio Linh, lấy địa bàn
Hà Thượng làm nơi tụ nghĩa, chỉ huy nghĩa quân đánh nhau với Pháp khi chúng
cho quân đánh chiếm ra Quảng Trị gây cho giặc nhiều thiệt hại lớn như trận Trạng
Mè. Đây là những trận đánh khởi đầu cho phong trào kháng chiến chống Pháp của
quân dân Quảng Trị.Không rõ ông mất năm nào.
29. TRẦN VIẾT THỌ
Trần Viết Thọ (1806 -1899) Người làng Thâm Triều, huyện Đăng Xương,
nay là làng Thâm Triều xã Triệu Tài, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, ông sinh
ra trong một gia đình nho học. Tên huý là Thanh Phúc, tự là Chu Toàn, hiệu là
Điềm Tịnh,tên tu hành là Cư sĩ Đại Sư. Ông đổ Cử nhân năm Tự Đức (1867) và đỗ
Phó bảng khoa thi Hội năm (1871)
Năm 1873 ông được bổ chức Giáo thụ phủ Quảng Hoá, Thanh Hoá, Tri
huyện Hưng Nhân, rồi Giáo thụ huyện Xuân Trường, sau đó về Kinh làm Chủ sự
Bô Lại kiêm Cơ mật Hành tẩu. Nhưng ông làm quan trong giai đoạn lịch sử đầy
biến động; thực dân Pháp từng bước xác lập nền đô hộ nước ta. Buồn phiền về thế
sự, ông xin cáo quan về quê năm Kiến Phúc thứ hai (1884).
Đến thời Hàm Nghi do mến mộ một trung thần có tài cao đức trọng, đã
phong cho ông hàm Hàn Lâm Viện Thị Giảng Học Sĩ và tái bổ nhiệm làm Án sát
sứ tỉnh Quảng Nam và sau đó là Đốc học tỉnh Quảng Nam. Năm Thành Thái thứ
nhất 1889, ông chuyển về làm Đốc học tỉnh Quảng Trị. Kiêm Giám khảo Trường
thi Nghệ An. Ngoài thời gian làm việc ông còn sáng tác văn thơ. Ông đã để lại các
17
tác phẩm “Hàm Long Sơn Chí”, “Chu Gia Thi Văn” và “Bảo Quốc Tự Lục” cùng
nhiều sáng tác khác.
Trên con đường hoạn lộ, Phó bảng Trần Viết Thọ luôn đem hết sức mình
giúp cho nước, lo cho dân, dù ở cương vị nào ông luôn tỏ ra là người có nhân
phẩm, thanh liêm và hết lòng thương dân. Với cách sống thanh cao đó, khi phục vụ
ở Kinh sư cũng như khi hành sự tại các phủ huyện, đâu đâu ông cũng được các
đồng liêu, các bậc thức giả và nhân dân mến phục
Phó bảng Trần Viết Thọ là một hiện tượng đặc biệt về một nhà đại khoa có
đời sống thanh cao, liêm khiết, trung trực và tiết tháo với sự vĩnh biệt cõi đời khác
người. ông đã để lại cho hậu thế một tấm gương sáng ngời về một con người chân
chính.
30. LÊ ĐĂNG TRINH
Lê Đăng Trinh (1850- 1909), Còn có tên Lê Trinh, tự Hàm Chương, hiệu
Bích Phong, người làng Bích La Đông, xã Triệu Đông, huyện Triệu Phong. Năm
1875, ông đỗ Phó bảng, làm quan đến chức Thượng thư Phụ chính đại thần dưới
triều Duy Tân. Ông là vị quan thanh liêm, chính trực, có công giúp nhà chí sĩ Phan
Chu Trinh thoát án tử hình dưới thời Pháp. Tác phẩm ông để lại:
- Bích Phong thi thảo: tập thơ gồm phần lớn là thơ đề tư, xướng họa, nhưng
cũng có một số bài nói lên nổi lòng của tác giả trước tình thế của đất nước.
31. KHÓA BẢO
Khóa Bảo (1860-1920) là sĩ phu yêu nước chống Pháp, tên thật là Nguyễn
Hữu Đồng, quê ở làng Tân Tường, Cam Lộ. Năm 1885 ông theo cha phò vua Hàm
Nghi ra căn cứ Tân Sở (nay là đất của xã Cam Chính) huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng
Trị, khi kinh thành Huế thất thủ (7/1885). Ông trở thành một thủ lĩnh tích cực
chống Pháp trên đất Quảng Trị vào đầu thế kỷ XX. Tháng 5 năm 1916, nhóm sĩ
phu yêu nước cùng Vua Duy Tân chuẩn bị khởi nghĩa bị bại lộ. Vua Duy Tân bị
bắt và bị đi đày sang đảo Reunion (Châu Phi). Ngày 17 tháng 5 năm 1916, ông
Trần Cao Vân, Thái Phiên, Phan Hữu Khánh bị xử chém ở An Hoà. Giặc biết được
Vua Duy Tân giao cho Khoá Bảo làm Lãnh binh Quảng Trị trong cuộc khởi nghĩa
năm 1916 đó, nên chúng lùng bắt ông, tra tấn dã man và kết án 9 năm tù giam. Ông
mất năm 1920 mộ phần ông được an táng tại quê nhà Cam Lộ.
18
1.2. Các nhà khoa bảng
Chế độ khoa cử ngày xưa là một trong những yếu tố trụ cột, xây dựng nên
lâu đài văn hóa và văn minh của dân tộc Việt Nam. Trãi qua các triều đại
phong kiến Việt Nam, khoa cử đã góp phần thể hiện chính sách tuyển chọn
và sử dụng nhân tài. Việc tổ chức các khoa thi, từ thi Hương đến thi Hội và
thi Đình không ngoài mục đích kén chọn nhân tài giúp nước, bổ sung quan
chức các cấp cho hệ thống chính quyền của mỗi triều đại. Con đường dẫn tới
thi cử để đạt được những nấc thang trên con đường hoạn lộ, nhập thế làm
quan, cống hiến cho quê hương, đất nước, để thành danh, tên tuổi lưu danh
hậu thế… quả không hề đơn giản; hay nói một cách khác đó là con đường
đầy gian nan, vất vả.
Đối với các nhà khoa bảng Quảng Trị, chỉ có Bùi Dục Tài là người đỗ
Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất (1502) dưới thời nhà Hậu Lê (Lê Hiển Tông) còn tất
cả đều đỗ đạt dưới thời nhà Nguyễn. Chúng ta biết rằng, chế độ khoa cử dưới
mỗi triều đại đều có những quy định khác nhau. Tuy nhiên, về cơ bản các
triều đại, kể cả triều Nguyễn cũng tiếp thu, kế thừa những quy định của các
triều đại trước, nên cơ bản về nội dung vẫn có sự thống nhất chung.
Khoa cử thời phong kiến có hai kỳ thi được coi là quan trọng nhất, đó là
hai cửa ải mà các sĩ tử phải vượt qua, trên bước đường công danh của mỗi
người. Đó là kỳ thi Hương và kỳ thi Hội, thi Đình.
Thi Hương: Kỳ thi của một tỉnh hay nhiều tỉnh chung một Trường thi.
Thời Lê cả nước có 9 Trường thi, thời Nguyễn lúc đầu có 7 Trường thi, sau
số lượng thí sinh đông nâng lên 10, 11 Trường thi. Phép thi Hương quy định
thí sinh phải trãi qua 4 kỳ (hay còn gọi là 4 Trường) thí sinh trúng tuyển cả 4
kỳ/Trường, thì được gọi là Cống sĩ hay Hương Cống/triều Nguyễn gọi là Cử
nhân. Người đỗ đến kỳ 3/trường 3 gọi là Sinh đồ/triều Nguyễn gọi là Tú tài.
Sau khi đỗ Cử nhân, các vị tân khoa có thể được bổ làm quan (tương đương
Tri huyện) hoặc có thể về quê chờ một đến hai năm sau dự kỳ thi Hội, hoặc
được giới thiệu vào học trường Quốc Tử Giám (thường là con quan).
Thi Hội và thi Đình: Thi Hội và thi Đình là các kỳ thi để đánh giá tài
năng cao nhất, nhằm chọn nhân tài cho đất nước, nên được gọi là Đại tỉ hay
Đại khoa. Đợt thi này gồm hai giai đoạn. Thi Hội cũng trãi qua 4 kỳ như thi
19
Hương, nhưng yêu cầu cao hơn và mức độ khó hơn. Những người đã qua
được 4 kỳ thi Hội, sau đó được vào dự cuộc thi Đình. Thi Đình còn được gọi
là Điện thi, vì được thi tại sân vua, do vua trực tiếp hỏi bài, nhằm xếp hạng
Tiến sĩ cho những người đã đỗ tại kỳ thi Hội. Danh hiệu Tiến sĩ cho những
người đẫ đỗ kỳ thi Hội, mỗi triều đại có một cách gọi khác nhau; Nhưng tựu
chung được xếp thành 3 loại: Đệ nhất giáp Tiến sĩ; Đệ nhị giáp Tiến sĩ và Đệ
Tam giáp Tiến sĩ. Trong ngôi Đệ nhất giáp Tiến sĩ có thêm danh hiệu Cập đệ
gồm ba ngôi cao nhất (Tam khôi): Đệ nhất giáp tiến sĩ, đệ nhất danh (Trạng
nguyên), Đệ nhất giáp tiến sĩ, đệ nhị danh (Bảng nhãn), Đệ nhất giáp tiến sĩ,
đệ tam danh (Thám hoa). Tiếp sau là hàng Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân
(Hoàng Giáp) không phân thứ bậc. Và tiếp sau là Đệ tam giáp tiến sĩ đồng
xuất thân (hay còn gọi là đồng Tiến sĩ). Triều Nguyễn đặt ra lệ “Tứ bất lập”
(Bốn điều không) Không phong vương cho người họ khác, không lập Hoàng
hậu, không phong Tể tướng và không lấy Trạng nguyên. Đồng thời triều
Nguyễn cũng định ra lệ lấy những người đỗ nhưng điểm thấp hơn Tiến sĩ
(bảng chính) một chút, cũng được ghi tên Tiến sĩ nhưng ở (bảng phụ) gọi là
Phó bảng. Phó bảng thì không được dự thi Đình.
Nhà Nguyễn tổng cộng mở 39 khoa thi Hội, lấy 291 Tiến sĩ và 266 Phó
bảng, Quảng Trị có 14 vị Tiến sĩ dưới triều Nguyễn cộng 1 Tiến sĩ dưới triều
Lê, có tất cả 15 vị đỗ Tiến sĩ và 10 vị đỗ Phó bảng
A. TIẾN SĨ: Có 15 vị đỗ Tiến sĩ
1. BÙI DỤC TÀI
Bùi Dục Tài (1477-1522) Ông người làng Câu Nhi, huyện Hải Lăng. Ông đỗ
đệ nhị Giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Nhâm Tuất (1502) đời vua Lê
Hiển Tông. (Xem thêm phần Tiểu sử ở Mục 1.1. Nhũng nhân vật lịch sử văn hóa)
2. NGUYỄN ĐỨC HOAN
Nguyễn Đức Hoan sinh năm Ất sửu (1805). Người Xã An Thơ, huyện Hải
Lăng. Ông thi Hương đậu cử nhân khoa Mậu Tý, Minh Mạng năm thứ 9 (1828).
Thi Hội đậu Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Ất Mùi, Minh Mạng năm thứ
16 (1835) năm 31 tuổi. Lúc đầu được bổ chức Hàn lâm viện Biên tu, sau thăng đến
20
chức Tuần Phủ Khánh Hòa, Con là Nguyễn Đức Di thi Hương đậu Cử nhân khoa
Tân Mão,
3. NGUYỄN THẾ TRỊ
Nguyễn Thế Trị sinh năm Giáp Tý (1804). Người xã Hương Liệu, huyện Đăng
Xương nay là làng Phương Sơn, huyện Triệu Phong, ông là con đề lĩnh Quảng Trị
Nguyễn Thế Chân. Ông đậu Cử nhân khoa Giáp Ngọ, Minh Mạng thứ 15 (1834).
Thi Hội khoa Ất Mùi, năm Minh Mạng thứ 16 (1835) ông đậu Đệ tam giáp đồng
Tiến sĩ xuất thân . Lúc đầu được bổ chức vụ Hàn lâm viện biên tu, sau giữ chức Án
sát An Giang, Án sát Vĩnh Long. Năm 1843 về cư tang, mất ở quê nhà.
4. LÊ ĐỨC
Lê Đức sinh năm Nhâm Thân (1812). Người xã Sa Lung, huyện Minh Linh
nay là làng Sa Lung, Vĩnh Long huyện Vĩnh Linh. Ông thi Hương đậu Cử nhân
khoa Đinh Dậu, Minh Mạng năm thứ 16 (1837). Thi Hội đậu Đệ tam giáp đồng
tiến sĩ xuất thân khoa Tân Sửu, Thiệu Trị năm thứ nhất (1841). Làm quan tới chức
Tuần phủ An Giang.
5. NGUYỄN XUÂN THỌ
Nguyễn Xuân Thọ sinh năm Mậu Thìn (1808). Người xã Đơn Duệ huyện
Minh Linh nay là làng Đơn Duệ, xã Vĩnh Hòa huyện Vĩnh Linh. Là Giám sinh, thi
Hội đậu Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Tân Sửu, Thiệu Trị năm thứ nhất
(1841) năm 34 tuổi. Bổ làm Tri huyện
6. NGUYỄN PHIÊN
Nguyễn Phiên sinh năm Mậu Thìn (1808). Người xã Xuân Mỵ, huyện Minh
Linh nay là thôn Xuân Mỵ huyện Do Linh. Ông thi Hương đậu Cử nhân khoa Canh
Tý, năm Minh Mạng thứ 21 (1840). Thi Hội đậu Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân
Ân khoa Quý Mão, năm Thiệu Trị thứ 3 (1843) năm 30 tuổi. Bổ là Tri huyện
7. NGUYỄN VĂN CHƯƠNG
Nguyễn Văn Chương (đổi là Nguyễn Văn Lập). Sinh năm Nhâm Thân
(1812). Người xã Triệu Hòa, huyện Đăng Xương nay là huyện Triệu Phong. Ông
thi Hương đậu Cử Nhân khoa Tân Sửu (1841). Thi Hội đậu Đình Nguyên, Đệ nhị
21
giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Giáp Thìn, Thiệu Trị năm thứ 4 (1844)
năm 33 tuổi. Làm quan đến chức Án sát Hải Dương.
8. NGUYỄN ĐỨC TƯ
Nguyễn Đức Tư sinh năm Ất Hợi (1815). Người xã An Thơ, huyện Hải
Lăng. Ông thi Hương đậu Cử nhân khoa Quý Mão, Thiệu Trị năm thứ 3 (1843).
Thi Hội đậu Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Đinh Mão, Thiệu Trị năm
thứ 7 (1847) năm 33 tuổi. Làm quan đến chức Tri phủ.
9. NGUYỄN VĂN HIỂN
Nguyễn Văn Hiển (1827- 1865). Người xã Mỹ Chánh, huyện Hải Lăng. Ông
thi Hương đậu Cử nhân khoa Bính Ngọ, Thiệu Trị năm thứ 6 (1846). Thi Hội đậu
Hội đậu Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng Giáp) khoa Đinh Mùi, Thiệu Trị năm
thứ 7 (1847) năm 21 tuổi. Lúc đầu được bổ chức vụ Hàn lâm viện tu soạn, sau ra
nhận chức Đốc học, hàm Hàn lâm viện Thị giảng, Án sát Quảng Ngãi. Mất khi giữ
chức Tuyên phủ sứ đạo Phú Yên. Ông có hiệu Doãn Trai, có tác phẩm Chà bàn
thành ký
10. LÊ THỤY
Lê Thụy sinh năm Nhâm Dần (1842). Người xã Bích La, huyện Đăng
Xương nay là huyện Triệu Phong. Ông thi Hương đậu Cử nhân khoa Mậu Thìn, Tự
Đức năm thứ 21 (1868). Thi Hội đậu Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Ất
Hợi, Tự Đức năm thứ 24 (1875) năm 34 tuổi. Làm quan đến chức Tuần phủ Thanh
Hóa, sau về kinh giữ chức Tham tri Bộ Hình
11. TRẦN PHÁT
Trần Phát sinh năm Nhâm Dần (1842). Người xã Xuân Mỵ huyện Minh
Linh, nay là huyện Do Linh. Thi Hương đậu Giải nguyên khoa Bính Tý, Tự Đức
năm thứ 29 (1876). Thi Hội đậu đậu Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Đinh
Sửu,Tự Đức năm thứ 30 (1877) năm 36 tuổi. Làm quan đến chức Thị giảng học sĩ,
sung chức giám khảo trường thi Hà Nam (tức Hà Nội và Nam Định). Khi về kinh,
đi đường biển bị chết đuối. Được truy tặng chức Thị giảng học sĩ.
12. HOÀNG BÍNH
22
Hoàng Bính (có tên Hoàng Hữu Tiếp) sinh năm Đinh Tỵ (1857). Người xã
Bích Khê, huyện Đăng Xương nay là huyện Triệu Phong. Thi Hương đậu Cử nhân
khoa Kỷ Mão, Tự Đức năm thứ 32 (1879). Thi Hội đậu Đình nguyên, Đệ nhị giáp
tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Kỷ Sửu,Thành Thái năm thứ 1(1889) năm 33
tuổi. Làm quan đến chức Tri phủ sung vào Sở Tu thư.
Cha là Hoàng Hữu Xứng, thi Hương đậu Cử nhân khoa Nhâm Tý, Tự Đức
năm thứ 5 (1852).
Em là Hoàng Hữu Khoản, thi Hội đậu Phó bảng khoa Ất Mùi, Thành Thái
năm thứ 7 (1895).
13. LÊ PHÁT
Lê Phát sinh năm Giáp Dần (1854). Người xã Xuân Thành, huyện Do Linh.
Thi Hương đậu Cử nhân khoa Kỷ Mão, Tự Đức năm thứ 32 (1879). Thi Hội đậu
Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Ất Mùi,Thành Thái năm thứ 7(1895)
Con là Lê Nguyên Lượng, thi Hội đậu Phó bảng khoa Kỷ Mùi, Khải Định
thứ 4 (1919).
Con là Lê Phổ, thi Hương đậu Cử nhân Khoa Mậu Ngọ, Khải Định năm thứ
3 (1918)
14. NGUYỄN TỰ NHƯ
Nguyễn Tự Như sinh năm Canh Thân (1860). Người làng Hà Thượng,
huyện Do Linh. Thi Hương đậu Cử nhân khoa Mậu Dần, Tự Đức năm thứ 31
(1878). Thi Hội đậu Đệ tam giáp đồng tiến sĩ khoa Mậu Tuất, Thành Thái năm thứ
10 (1898) (Xem thêm phần Tiểu sử ở Mục 1.1. Nhũng nhân vật lịch sử văn hóa)
15. NGUYỄN HÀM
Nguyễn Hàm sinh năm Nhâm Ngọ (1882). Người xã An Cư, huyện Thuận
Xương nay là An Cư, Triệu Phước, huyện Triệu Phong.Thi Hương đậu Cử nhân
khoa Bính Ngọ năm Thành Thái thứ 18 (1906). Thi Hội đậu Đệ tam giáp đồng
Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Tuất năm Duy Tân thứ 4 (1910) năm 29 tuổi. Làm
Thừa chỉ Viện hàn lâm, dạy ở trường Hậu bổ.
23
B. PHÓ BẢNG: Có 10 vị đỗ Phó bảng
1. NGUYỄN XUÂN BẢNG
Nguyễn Xuân Bảng sinh năm Nhâm Thân (1812). Người xã Xuân Mỵ, huyện
Minh Linh nay là Xuân Mỵ huyện Do Linh.Thi Hương đậu Cử nhân khoa Giáp
Ngọ, năm Minh Mạng thứ 15 (1834). Thi Hội đậu Phó bảng khoa Mậu Tuất, năm
Minh mạng thứ 19 (1838) năm 27 tuổi. Làm quan đến chức Thừa Thiên Phủ doãn.
Em là Nguyễn Phiên thi Hội đậu Tiến sĩ khoa Quý Mão, Thiệu Trị thứ 3
(1843)
2. LÊ ĐÌNH DAO
Lê Đình Dao sinh năm Giáp Thân (1824). Người xã Bồ Bản, huyện Đăng
Xương nay là huyện Triệu Phong.Thi Hương đậu Cử nhân khoa Mậu Thân, năm
Tự Đức thứ 1(1848). Thi Hội đậu Phó bảng khoa Tân Hợi, năm Tự Đức thứ 4
(1851). Lúc đầu được bổ chức Hàn lâm viện Kiểm thảo, sau sung chức phúc khảo
trường thi Nghệ An. Tham gia biên soạn bộ Khâm định nhân sự kim giám. Năm
1870, làm Ngoại lang Bộ Hộ, lĩnh chức Lang trung. Mất tại lỵ sở, thọ 57 tuổi, truy
tăng hàm Tứ phẩm.
3. LÊ ĐỨC DINH
Lê Đức Dinh Người xã Quảng Điền, huyện Đăng Xương nay là huyện Triệu
Phong. Không rõ đỗ thi Hương khoa nào. Thi Hội đậu Phó bảng khoa Tân Hợi, Tự
Đức năm thứ 4 (1851).
4. VÕ TỬ VĂN
Võ Tử Văn sinh năm (?). Người xã Nại Cửu, huyện Đăng Xương nay là làng
Nại Cửu, Triệu Đông, huyện Triệu Phong.Thi Hương đậu Cử nhân khoa Mậu
Thân, Tự Đức năm thứ 1 (1848). Thi Hội đậu Phó bảng khoa Tân Hợi, Tự Đức
năm thứ 4 (1851). Làm quan đến chức Tư nghiệp Quốc tử giám, Toản tu Quốc sử
quán. Được về hưu trí, mất tại quê nhà.
5. LÂM HOẰNG (Lâm Chuẩn/Lâm Hoành)
Ông sinh năm Giáp Thân (1824). Người xã Gia Bình huyện Do Linh.Thi
Hương đậu Cử nhân khoa Đinh Mão, Tự Đức năm thứ 20 (1867). Thi Hội đậu Phó
24
bảng khoa Mậu Thìn, Tự Đức năm thứ 21 (1868).(Xem thêm phần Tiểu sử ở Mục
1.1. Nhũng nhân vật lịch sử văn hóa)
6. LÊ KHÁNH THIỆN
Lê Khánh Thiện sinh năm Giáp Ngọ (1834). Người xã Cổ Trai, huyện Minh
Linh nay là huyện Vĩnh linh.Thi Hương đậu Cử nhân khoa Đinh Mão, Tự Đức
năm thứ 20 (1867). Thi Hội đậu Phó bảng khoa Mậu Thìn, Tự Đức năm thứ 21
(1868) năm 35 tuổi. Làm quan đến chức Chưởng ấn.
7. TRẦN VIẾT THỌ
Trần Viết Thọ sinh năm Bính Thân (1836). Người xã Thâm Triều, huyện
Đăng Xương. Thi Hương đậu Cử nhân khoa Đinh Mão (1867). Thi Hội đậu Phó
bảng khoa Tân Mùi, Tự Đức năm thứ 24 (1871) (Xem thêm phần Tiểu sử ở Mục
1.1. Nhũng nhân vật lịch sử văn hóa)
8. LÊ ĐĂNG TRINH
Lê Đăng Trinh tên cũ là Lê Trinh sinh năm Canh Tuất (1850). Người xã
Bích La, huyện Đăng Xương nay là huyện Triệu Phong.Thi Hương đậu Giải
nguyên khoa Canh Ngọ (1870). Thi Hội đậu Phó bảng khoa Ất Hợi, Tự Đức năm
thứ 28 (1875) (Xem thêm phần Tiểu sử ở Mục 1.1. Nhũng nhân vật lịch sử văn hóa)
9. HOÀNG HỮU KHOẢN
Hoàng Hữu Khoản sinh năm Kỷ Tỵ (1869). Người xã Bích Khê, huyện
Đăng Xương nay là huyện Triệu Phong.Thi Hương đậu Cử nhân khoa Giáp Ngọ,
Thành Thái năm thứ 6 (1895). Thi Hội đậu Phó bảng khoa Ất Mùi, Thành Thái
năm thứ 7 (1895) năm 27 tuổi.
Cha là Hoàng Hữu Xứng, Cử nhân khoa Nhâm Tý, Tự Đức năm thứ 5 (1852), anh
là Hoàng Bính Hoàng giáp (Tiến sĩ) khoa Kỷ Sửu, Thành Thái năm thứ 1 (1895).
10. LÊ NGUYÊN LƯỢNG
Lê Nguyên Lượng sinh năm Ất Mùi (1895). Thi Hương đậu Cử nhân khoa
Ất Mão, Duy Tân năm thứ 9 (1915). Thi Hội đậu Phó bảng khoa Kỷ Mùi, Khải
Định năm thứ 4 (1919) năm 25 tuổi.
Cha là Lê Phát đậu Tiến sĩ khoa Ất Mùi, Thành Thái năm thứ 7 (1895).
25
Em là Lê Phổ đậu Cử nhân khoa Mậu Ngọ, Khải Định năm thứ 3 (1918)
C. DANH SÁCH CÁC VỊ CỬ NHÂN THỜI NGUYỄN
Sau khi thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, triều Nguyễn cố gắng củng cố bộ máy
nhà nước, nhằm chỉnh đốn việc nội trị và chú trọng đến việc học hành thi cử, tiếp
nối dòng lịch sử khoa cử, mà các triều đại rược đã trãi qua. Tuy nhiên, sau khi lên
ngôi Gia Long đứng trước một tình hình xã hội hết sức khó khăn, chỉ có thể chọn
nhân tài qua chính sách chiêu hiền đãi sĩ. Mãi đến năm Đinh Mão Gia Long thứ 6
(1807) mới tổ chức được khoa thi Hương đầu tiên, kể từ đó, phép thi cứ 3 năm tổ
chức một lần. Ngoài ra lúc cần thiết nhà vua mở thêm các khoa đặc biệt gọi là Ân
khoa (ơn vua). Từ năm Khoa thi đầu tiên dưới thời Gia Long năm 1807 đến năm
khoa thi cuối cùng dưới thời Khải Định năm 1919 cả nước có tất cả 47 khoa thi
Hương (kể cả chính khoa và ân khoa) lấy 5.232 đỗ Cử nhân; trong đó Quảng Trị
có 155 vị đỗ Cử nhân, Gồm các vị qua từng khoa như sau:
SỐ
TT
HỌ VÀ TÊN QUÊ QUÁN KHOA
THI
HÀNH
TRẠNG
GHI
CHÚ
1 Nguyễn Thừa Giảng Hoa Viên,
Đăng Xương
(TriệuPhong)
Minh Mạng
thứ 2 (1821)
2 Nguyễn Hữu Gia Đại Hòa
Hải Lăng
Minh Mạng
thứ 2 (1821
Làm quan đến
chức Thị lang
3 Nguyễn Đức Hoạt An Thư
Hải Lăng
Minh Mạng
thứ 6 (1825)
Làm quan đến
chức bộ Hộ
4 Nguyễn Đức Hoan An Thư
Hải Lăng
Minh Mạng
thứ 6 (1825)
Làm quan đến
chức Tuần
phủ Khánh
Hòa
5 Trần Lý Đạo Trung Kiên
Đăng Xương
Minh Mạng
thứ 6 (1825)
6 Lê Khánh Trinh Cổ Trai
Minh Linh
Minh Mạng
thứ 12
(1831)
Làm quan đến
chức Bố
Chánh Gia
26
Định
7 Nguyễn Hữu Hoằng
(đổi là Nguyễn Hữu
Huyên)
Đại Hòa
Hải Lăng
Minh Mạng
thứ 15
(1834)
Làm quan đến
chức Lang
trung, sung
chức phó sứ
sang Trung
Quốc
8 Nguyễn Văn Sĩ Mỹ Chánh
Hải Lăng
Minh Mạng
thứ 15
(1834)
Làm quan đến
chức Ngự sử
9 Thái Viết Điền Trung Kiên
Đăng Xương
Minh Mạng
thứ
18(1837)
10 Trần Nguyên Phương Xuân Mị
Minh Linh
Minh Mạng
thứ
18(1837)
Làm quan đến
chức Tri
huyện
11 Phạm Văn Trị An Mô
Đăng Xương
Minh Mạng
thứ
18(1837)
Làm quan đến
chức Tri
huyện
12 Lê Văn Nhượng Trung Kiên
Đăng Xương
Minh Mạng
thứ
18(1837)
Làm quan đến
chức Bố
Chánh
13 Phạm Quang Cư Cao Hy
Đăng Xương
Thiệu Trị
thứ nhất
(1841)
Làm quan đến
chức Viên
ngoại lang
14 Lê Văn Chấn Vũ Kim
Đăng Xương
Thiệu Trị
thứ nhất
(1841)
Làm quan đến
chức Huấn
đạo
15 Lê Trọng Huy Nại Cửu
Đăng Xương
Thiệu Trị
thứ nhất
(1841)
Làm quan đến
chức Tri
huyện
16 Nguyễn Doãn Nguyên Cát Sơn
Minh Linh
Thiệu Trị
thứ nhất
27
(1841)
17 Lê Hữu Hằng Bích La
Đăng Xương
Thiệu Trị
thứ nhất
(1841)
Làm quan đến
chức Tuần
phủ
18 Trần Đình Túc Hà Trung
Địa Linh
Thiệu Trị
thứ hai
(1842)
Làm quan đến
chức Hiệp
biện đại học sĩ
19 Nguyễn Thế Nho An Khê
Địa Linh
Thiệu Trị
thứ hai
(1842)
Làm quan đến
chức Tri
huyện
20 Nguyễn Đức Tân Khánh Thọ
Minh Linh
Thiệu Trị
thứ hai
(1842)
Làm quan đến
chức Tri
huyện
21 Nguyễn Văn Trị
(đổi là Nguyễn Vĩnh)
Diên Khánh
Hải Lăng
Thiệu Trị
thứ hai
(1842)
Làm quan đến
chức Thị lang
bộ Binh
22 Phan Văn Hoán Đạo Đầu
Đăng Xương
Thiệu Trị
thứ ba
(1843)
Làm quan đến
chức Viên
ngoại lang
23 Nguyễn Văn Bính Kinh Môn
Minh Linh
Thiệu Trị
thứ 3(1843)
24 Nguyễn Văn Khiêm Lịch Sơn
Địa Linh
Thiệu Trị
thứ ba
(1843)
Làm quan đến
chức Quản
đạo
25 Lê Trọng Huyên Nại Cửu
Đăng Xương
Thiệu Trị
thứ ba
(1843)
Làm quan đến
chức Viên
ngoại lang
26 Trần Đình Côn Thủy Khê
Minh Linh
Thiệu Trị
thứ 3(1843)
Làm quan đến
chức Tri
huyện
27 Trần Văn Tảo Trung Kiên
Đăng Xương
Thiệu Trị
thứ ba
(1843)
Làm quan đến
chức Tri
huyện
28
28 Lý Thế Khuông Trung Kiên
Đăng Xương
Thiệu Trị
thứ ba
(1843)
29 Nguyễn Văn Hiển Mỹ Chánh
Hải Lăng
Thiệu Trị
thứ sáu
(1846)
Làm quan đến
chức Tuyên
phủ sứ
30 Trần Văn Gia Minh Hương
Đạo Quảng Trị
Thiệu Trị
thứ sáu
(1846)
Làm quan đến
chức Viên
ngoại lang
31 Nguyễn Quang Huy An Thư
Hải Lăng
Thiệu Trị
thứ sáu
(1846)
Làm quan đến
chức Biên tu
Nội cát
32 Lê Văn Tuyển Thủy Khê
Minh Linh
Thiệu Trị
thứ sáu
(1846)
Làm quan đến
chức Bố
chánh
33 Trần Kim Khanh Nhĩ Trung
Địa Linh
Thiệu Trị
thứ sáu
(1846)
Làm quan đến
chức Tri
huyện
34 Lê Đường Lâm Thạch Hãn
Hải Lăng
Thiệu Trị
thứ sáu
(1846)
Làm quan đến
chức Quản
đạo
35 Nguyễn Văn Điều An Cư
Đăng Xương
Thiệu Trị
thứ bảy
(1847)
Làm quan đến
chức Án sát
36 Nguyễn Đình Chiếu Phong Xuyên
Đăng Xương
Thiệu Trị
thứ bảy
(1847)
Làm quan đến
chức Tuần
phủ
37 Lê Thanh Bạch Trí Lễ (nay đổi
là Quy thiện)
Hải Lăng
Thiệu Trị
thứ bảy
(1847)
Làm quan đến
chức Tri phủ
38 Hoàng Văn Giảng Diên Sinh
Hải Lăng
Thiệu Trị
thứ bảy
(1847)
Làm quan đến
chức Án sát
29
39 Nguyễn văn Cơ Xuân An
Đăng Xương
Thiệu Trị
thứ bảy
(1847)
40 Nguyễn Tăng Doãn Câu Nhi
Hải Lăng
Thiệu Trị
thứ bảy
(1847)
Làm quan đến
chức Thượng
thư bộ Lại
41 Phạm Ngọc Huy Diên Khánh
Hải Lăng
Thiệu Trị
thứ bảy
(1847)
Làm quan đến
chức Phủ
Doãn
42 Hoàng Văn Hài Dã Độ
Đăng Xương
Tự Đức
Thứ nhất
(1848)
Làm quan đến
chứcTri phủ
43 Nguyễn Hinh Vĩnh Phước
Đăng Xương
Tự Đức
thứ nhất
(1848)
Làm quan đến
chức Tri phủ
44 Trần Xuân Hòa Thâm Khê
Hải Lăng
Tự Đức
Thứ nhất
(1848)
Làm quan đến
chức Tri phủ
45 Nguyễn Hữu Điềm Đại Hòa
Đăng Xương
Tự Đức
thứ nhất
(1848)
Làm quan đến
chức Bố
Chánh
46 Hoàng Đức Nhượng Quảng Xá
Minh Linh
Tự Đức
thứ ba
(1850)
47 Nguyễn Văn Tường
(Thuở nhỏ có tên là
Nguyễn Phước
Tường)
An Cư
Đăng Xương
Tự Đức
thứ hai
(1849)
Làm quan đến
chức Cần
chánh điện
đại học sĩ,
phụ chính đại
thần, tấn
phong Kỳ Vỹ
quận công
48 Phan Đắc Kiệm Giáo Liêm Tự Đức Làm quan đến
30
Đăng Xương thứ 2
(1849)
chức Sơn
phòng sứ
49 Nguyễn Khắc Lý Hòa Điệu
Đăng Xương
Tự Đức
thứ hai
(1849)
Làm quan đến
chức Sơn
phòng sứ
50 Lại Thiên Chẩn Xuân An
Đăng Xương
Tự Đức
thứ hai
(1849)
Làm quan đến
chức Hậu bổ
51 Cao Đăng Dụng Trà Bát
Đăng Xương
Tự Đức
thứ hai
(1849)
Làm quan đến
chức Bố
chánh
52 Lê Bá Nghị Bích La
Đăng Xương
Tự Đức
thứ hai
(1849)
Làm quan đến
chức Giáo thụ
53 Lê Ngọc Uyển Tùng Luật
Minh Linh
Tự Đức
thứ năm
(1852)
Làm quan đến
chức Giáo thụ
54 Hoàng Hữu Xứng Bích Khê
Đăng Xương
Tự Đức
thứ năm
(1852)
Làm quan đến
chức Thượng
thư
Tr 307
55 Nguyễn Đức Giản Hưng Nhơn
Hải Lăng
Tự Đức
thứ năm
(1852)
Làm quan đến
chức Viên
ngoại lang
56 Nguyễn Văn Đỉnh Mỹ Chánh
Hải Lăng
Tự Đức
thứ tám
(1855)
57 Cao Duy Ninh Thủy Ba
Minh Linh
Tự Đức
thứ tám
(1855)
58 Nguyễn Hữu Huân Gia Lâm
Minh Linh
Tự Đức
thứ tám
(1855)
59 Lê Đại Huân Liêm Công Tự Đức
31
Minh Linh thứ tám
(1855)
60 Nguyễn Văn Sách Mỹ Chánh
Hải Lăng
Tự Đức
thứ tám
(1855)
61 Nguyễn Văn Nghị Tân Trại
Minh Linh
Tự Đức
thứ 11
(1858)
62 Nguyễn Đức Dĩnh Hưng Nhân
Hải Lăng
Tự Đức
thứ 11
(1858)
Làm quan đến
chức Tri phủ
63 Nguyễn Văn Thành Đạo Đầu
Đăng Xương
Tự Đức
thứ 11
(1858)
Làm quan đến
chức Tri
huyện
64 Cao Duy Hiển Thủy Ba hạ
Minh Linh
Tự Đức
thứ 14
(1861)
Làm quan đến
chức Thượng
thư bộ Công,
Tổng Đốc
Bắc Kỳ,
Khâm sai
65 Đặng Quang Trân Phương Ngạn
Đăng Xương
Tự Đức
thứ 17
(1864)
Làm quan đến
chức Tri
huyện
66 Phạm Hoài Cẩn Đại Hào
Đăng Xương
Tự Đức
thứ 17
(1864)
Làm quan đến
chức Tri phủ
67 Nguyễn Như Khuê Phước Lâm
Minh Linh
Tự Đức
thứ 17
(1864)
Làm quan đến
chức Tri phủ
68 Nguyễn Văn Huy Hoàng Hà
Do Linh
Tự Đức
thứ 20
(1867)
69 Hồ Ngọc Hào Phương Ngạn Tự Đức Làm quan đến
32
Đăng Xương thứ 21
(1868)
chức Chưởng
Ấn
70 Trần Huyên Hương Liệu
(Phương Sơn)
Đăng Xương
Tự Đức
thứ 21
(1868)
Làm quan đến
chức Án sát
71 Dương Thụy Kim Lung
Hải Lăng
Tự Đức
thứ 21
(1868)
Làm quan đến
chức Thông
phán
72 Lê Văn Hành Bác Vọng
Do Linh
Tự Đức
thứ 21
(1868)
Làm quan đến
chức Lang
trung
73 Nguyễn Giản
(đổi là Nguyễn Lữ lại
đổi Nguyễn Hữu Văn)
Quảng Điền
Đăng Xương
(Triệu Phong)
Tự Đức
Thứ 21
(1868)
Làm quan đến
chức Bố
chánh
74 Đoàn Như Bích Kim Đâu
Do Linh
Tự Đức
thứ 21
(1868)
Làm quan đến
chức Giám
lâm Nội vụ
75 Phan Duy Tân Thượng Xá
Hải Lăng
Tự Đức
Thứ 21
(1868)
Làm quan đến
chức Chưởng
ấn
76 Trần Đức Mẫn Thổ Lập
Quảng Trị
Tự Đức
Thứ 26
(1873)
Làm quan đến
chức Học
chính
77 Lê Thâm Tường Hưng
Quảng Trị
Tự Đức
Thứ 26
(1873)
Làm quan đến
chức Viên
ngoại cơ mật
viện
78 Trương Thiện Thuật Phù Lưu
Quảng Trị
Tự Đức
Thứ 26
(1873)
Làm quan đến
chức Tri
huyện
79 Trần Đức Kiên Cát sơn
Triệu Phong
Tự Đức
Thứ 26
Làm quan đến
chức Tri
33
(1873) huyện
80 Nguyễn Tăng Ý Câu Nhi
Hải Lăng
Tự Đức
Thứ 26
(1873)
Làm quan đến
chức Phủ thừa
81 Nguyễn Chất Thạch Hãn
Hải Lăng
Tự Đức
Thứ 29
(1876)
Làm quan đến
chức Bố
chánh
82 Trần Đăng Tố Cam Lộ
Cam Lộ
Tự Đức
Thứ 29
(1876)
Làm quan đến
chức Tri
huyện
83 Trần Xán Hương Liệu
(Phương Sơn)
Triệu Phong
Tự Đức
Thứ 29
(1876)
Làm quan đến
chức Ngự sử
84 Trương Đức Uẩn An Xuân
Cam Lộ
Tự Đức
Thứ 29
(1876)
Làm quan đến
chức Tri phủ
85 Nguyễn Vĩ Phú Liêu
Đăng Xương
(Triệu Phong)
Tự Đức
Thứ 29
(1876)
Làm quan đến
chức Phủ
doãn
86 Nguyễn Tôn Nhượng Lại Mông
Đăng Xương
(Triệu Phong)
Tự Đức
Thứ 29
(1876)
Làm quan đến
chức Lang
trung
87 Nguyễn Văn Định Ngô Xá
Đăng Xương
(Triệu Phong)
Tự Đức
Thứ 31
(1878)
88 Phạm Quang Hựu Tảo Hy
Đăng Xương
(Triệu Phong)
Tự Đức
Thứ 31
(1878)
Làm quan đến
chức Tá lý bộ
Lại
89 Nguyễn Văn Nhự Vân Tường
Đăng Xương
(Triệu Phong)
Tự Đức
Thứ 31
(1878)
90 Nguyễn Trần Vịnh Văn Quỹ
Hải Lăng
Tự Đức
Thứ 31
Làm quan đến
chức Tri phủ
34
(1878
91 Nguyễn Trọng Xán Vũ Kim
Đăng Xương
(Triệu Phong)
Tự Đức
Thứ 31
(1878)
Làm quan đến
chức Tư vụ
92 Nguyễn Trừng Diên Khánh
Hải Lăng
Tự Đức
Thứ 31
(1878
Làm quan đến
chức Thị lang
bộ Lễ
93 Nguyễn Đăng Đạo An Trú
Đăng Xương
(Triệu Phong)
Tự Đức
Thứ 32
(1879)
Làm quan đến
chức Viên
ngoại bộ
Công
94 Hồ Đệ Cổ Thành
Đăng Xương
(Triệu Phong)
Tự Đức
Thứ 32
(1879)
Làm quan đến
chức Thị lang
bộ Lễ
95 Lê Hữu Tính Bích La
Đăng Xương
(Triệu Phong)
Tự Đức
Thứ 32
(1879)
Làm quan đến
chức Trước
Tác lãnh
Bang tá
96 Nguyễn Sĩ Bình An Cư
Triệu Phong
Tự Đức
Thứ 35
(1882)
Làm quan đến
chức Tri
huyện
97 Nguyễn Đình Chiểu Vũ Kim
Quảng Trị
Tự Đức
Thứ 35
(1882)
98 Ngô Quang Khuê Phú Xuân
Quảng Trị
Tự Đức
Thứ 35
(1882)
99 Nguyễn Hựu
(đổi là Nguyễn Hách)
Kim Long
Hải Lăng
Tự Đức
Thứ 35
(1882)
Làm quan đến
chức Chưởng
ấn
100 Lê Đình Tuân Bồ Bản
Triệu Phong
Tự Đức
Thứ 35
(1882)
Làm quan đến
chức Tri phủ
35
101 Lê Vĩ Tường Vân
Triệu Phong
Tự Đức
Thứ 35
(1882)
102 Trần Vũ Dã Độ
Triệu Phong
Tự Đức
Thứ 35
(1882)
103 Nguyễn Tu Yên Bình
Thành Hóa
Kiến Phúc
thứ nhất
(1884)
Làm quan đến
chức Tri phủ
104 Hồ Phác Cổ Thành
Thuận Xương
(Triệu Phong)
Đồng
Khánh thứ 2
(1887)
105 Trần Lý Dự Trung Kiên
Thuận Xương
(Triệu Phong)
Đồng
Khánh thứ 2
(1887)
106 Lê Gia Trung An
Hải Lăng
Đồng
Khánh thứ 2
(1887)
107 Nguyễn Duy Lam Thủy
Hải Lăng
Đồng
Khánh thứ 2
(1887)
108 Lâm Tuấn Kiệt Gia Bình
Do Linh
Đồng
Khánh thứ 2
(1887)
Làm quan đến
chức Giáo thụ
109 Nguyễn Xuyết Văn Phong
Quảng Trị
Đồng
Khánh thứ 3
(1888)
Làm quan đến
chức Huấn
đạo
110 Lê Toại Hà Lộc
Hải Lăng
Đồng
Khánh thứ 3
(1888)
111 Lê Văn Nhiếp Vũ Kim
Quảng Trị
Đồng
Khánh thứ 3
(1888)
36
112 Nguyễn Hữu Quang Hà Tăng
Quảng Trị
Đồng
Khánh thứ 3
(1888)
113 Nguyễn Hữu Phu Đại Hòa
Triệu Phong
Đồng
Khánh thứ 3
(1888)
Làm quan đến
chức Tu soạn
nội các
114 Nguyễn Huy Cẩn Tân Trường
Quảng Trị
Thành Thái
thứ 3
(1891)
115 Nguyễn Di An Thư
Hải Lăng
Thành Thái
thứ 3
(1891)
116 Lê Văn Hiển Bác Vọng
Quảng Trị
Thành Thái
thứ 3
(1891)
117 Trịnh Vĩ Trà Liên
Hải Lăng
Thành Thái
thứ 3
(1891)
118 Hoàng Hữu Bỉnh Bích Khê
Đăng Xương
(Triệu Phong)
Thành Thái
thứ 3
(1891)
119 Thái Uông Cam Lộ
Thành Hóa
(Cam Lộ)
Thành Thái
thứ 6
(1894)
120 Nguyễn Khắc Trung Đại Đỉnh
Hải Lăng
Thành Thái
thứ 6
(1894)
Làm quan đến
chức Huấn
đạo
121 Nguyễn Xuân Phúc Lam Thủy
Hải Lăng
Thành Thái
thứ 6
(1894)
Làm quan đến
chức Tri
huyện
122 Lê Thụy Vân Hà Thượng
Do Linh
Thành Thái
thứ 6
37
(1894)
123 Nguyễn Xuân Tặng Đại Hào
Thuận Xương
(Triệu Phong)
Thành Thái
thứ 9
(1897)
124 Hồ Hòa Như Lệ
Triệu Phong
Thành Thái
thứ 9
(1897
125 Đào Như Bích Tân Định
Thành Hóa
Thành Thái
thứ 9
(1897
Làm quan đến
chức Tri
huyện
126 Nguyễn Văn Đình Đại Hào
Thuận Xương
(Triệu Phong)
Thành Thái
thứ 9
(1897)
Làm quan đến
chức Tri
huyện
127 Vũ Doãn Văn Hà Thượng
Do Linh
Thành Thái
thứ 9
(1897)
128 Cao Hoằng Hậu Kiên
Thuận Xương
(Triệu Phong)
Thành Thái
thứ 12
(1900)
Làm quan đến
chức Thị
giảng sung
Biên tu Sử
quán
129 Nguyễn Kỳ Quảng Điền
Thuận Xương
(Triệu Phong)
Thành Thái
thứ 12
(1900)
Làm quan đến
chức Thị độc
sung Hành tẩu
Cơ mật viện
130 Lê Mạnh Ôn Vân Hòa
Thuận Xương
(Triệu Phong)
Thành Thái
thứ 12
(1900)
Làm quan đến
chức Hậu bổ
131 Hoàng Hữu Quý Bích Khê
Thuận Xương
(Triệu Phong)
Thành Thái
thứ 15
(1903)
Làm quan đến
chức Thị
giảng Lãnh tri
132 Lê Cảnh BÍch La
Thuận Xương
Thành Thái
thứ 15
Làm quan đến
chức Hành tẩu
38
(Triệu Phong) (1903) bộ Học
133 Hoàng Văn Khải Phúc Điền
Hải Lăng
Thành Thái
thứ 15
(1903)
Làm quan đến
chức Tri
huyện
134 Phan Triệu Khanh Giáo Liêm
Thuận Xương
(Triệu Phong)
Thành Thái
thứ 18
(1906)
Làm quan đến
chức Thị
giảng
135 Hồ Trọng Bá An Mỹ
Thành Hóa
Thành Thái
thứ 18
(1906)
136 Nguyễn Đức Đàn An Thư
Hải Lăng
Thành Thái
thứ 18
(1906)
Làm quan đến
chức Tri
huyện
137 Hồ Tiểu Viên Mỹ Chánh
Hải Lăng
Thành Thái
thứ 18
(1906)
Làm quan đến
chức Huấn
đạo Nghĩa
Hành
138 Nguyễn Lý Thản Kim Lung
Hải Lăng
Thành Thái
thứ 18
(1906)
Làm quan đến
chức Tri
huyện
139 Nguyễn Hữu Lâm Tường Vân
Thuận Xương
(Triệu Phong)
Thành Thái
thứ 18
(1906)
Làm quan đến
chức Trước
tác sung Toản
tu sử quán
140 Trần Doãn Trai Lan Đình
Do Linh
Thành Thái
thứ 18
(1906)
Làm quan đến
chức Chue sự
bộ Hộ
141 Nguyễn Đức Thố Mỹ Chánh
Hải Lăng
Thành Thái
thứ 18
(1906)
Làm quan đến
chức Bát
phẩm
142 Lê Công Thứ Tường Vân
Thuận Xương
(Triệu Phong)
Duy Tân
thứ 3
(1909)
39
143 Nguyễn Văn Hiệu An Cư
Thuận Xương
(Triệu Phong)
Duy Tân
thứ 3
(1909)
144 Nguyễn Văn Tài An Cư
Thuận Xương
(Triệu Phong)
Duy Tân
thứ 3
(1909)
Làm quan đến
chức Tri
huyện
145 Đỗ Văn Dao Đâu Kinh
Thuận Xương
(Triệu Phong)
Duy Tân
thứ 3
(1909)
Làm quan đến
chức Tri
huyện
146 Hoàng Hữu Bảng Bích Khê
Thuận Xương
(Triệu Phong)
Duy Tân
thứ 3
(1909)
147 Lê Chí Hàm Thạch Hãn
Hải Lăng
Duy Tân
thứ 6
(1912)
Làm quan đến
chức Giáo thụ
148 Nguyễn Duy Tựu Đại Hòa
Thuận Xương
(Triệu Phong)
Duy Tân
thứ 6
(1912)
Làm quan đến
chức Tri
huyện
149 Nguyễn Tuy An Cư
Thuận Xương
(Triệu Phong)
Duy Tân
thứ 6
(1912)
Làm quan đến
chức Huấn
đạo
150 Đỗ Văn Kiểm An Mô
Thuận Xương
(Triệu Phong)
Duy Tân
thứ 6
(1912)
Làm quan đến
chức Huấn
đạo
151 Lê Châm Nại Cửu
Thuận Xương
(Triệu Phong)
Duy Tân
thứ 9
(1915)
152 Hoàng Hữu Kiệt Bích Khê
Thuận Xương
(Triệu Phong)
Duy Tân
thứ 9
(1915)
Làm quan đến
chức Hậu bổ
153 Nguyễn Thục Diên Khánh
Hải Lăng
Duy Tân
thứ 9
(1915)
Làm quan đến
chức Hành tẩu
bộ Lại
40
154 Nguyễn Văn Phùng An Cư
Thuận Xương
(Triệu Phong)
Khải Định
thứ 3
(1918)
155 Lê Phổ Xuân Thành
Do Linh
Khải Định
thứ 3
(1918)
II. LÃNH ĐẠO ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VÀ LÃO THÀNH CÁCH MẠNG
1. LÊ DUẨN
Lê Duẩn (1907- 1986), người làng Hậu Kiên, xã Triệu Thành, huyện Triệu
Phong. Đồng chí là người học trò lỗi lạc của Chủ tịch Hố Chí Minh, là nhà hoạt
động xuất sắc của Đảng và Nhà nước, chiến sĩ tiên phong trong phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế.
Đồng chí tham gia Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930. Năm 1931, đồng chí
bị thực dân Pháp bắt, kết án 20 năm tù ở các nhà tù Hỏa Lò, Sơn La; sau đó bị đày
ra Côn Đảo. Năm 1936, đồng chí được trả tự do và trở về hoạt động cách mạng ở
các tỉnh miền Trung. Năm 1937, đồng chí giữ chức Bí thư Xứ ủy Trungt Kỳ. Năm
1939, đồng chí được cử vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng. Năm 1951, tại Đại
hội lần thứ II của Đảng, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương và Bộ
Chính trị. Năm 1946- 1954, đồng chí được bầu làm Bí thư Xứ ủy rồi Bí Thư Trung
ương cục miền Nam. Năm 1960, tại Đại Hội lần thứ III của Đảng, đồng chí được
bầu lại vào Ban Chấp hành Trung Ương, Bộ Chính trị, giữ chức vụ Bí thư thứ nhất.
Năm 1976 tại Đại Hội lần thứ IV của Đảng, đồng chí được bầu lại vào Ban Chấp
hành Trung Ương, Bộ Chính trị, giữ chức vụ Tổng Bí thư.
Các tác phẩm chính
- Giai cấp vô sản với vấn đề nông dân trong cách mạng Việt Nam (1965)
- Thanh niên với cách mang xã hội chủ nghĩa (1966)
- Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội tiến lên
giành thắng lợi mới (1970)
- Tình hình thế giới và nhiệm vụ quốc tế của Đảng ta (1976)
- Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (1976)
41
- Thư vào Nam (1985)
- Một vài đặc điểm của cách mạng Việt Nam (1985)
Giải thưởng:
Vì sự nghiệp củng cố hòa bình giữa các dân tộc của Ủy ban Giải thưởng quốc
tế Lê Nin
Khen thưởng:
Huân chương sao vàng và nhiều huân chương của Liên Xô (trước đây), Lào,
Campuchia, Ba Lan, Bungari, Cuba, Cộng hòa dân chủ Đức, Hungari, Mông Cổ,
Tiệp Khắc.
2. HOÀNG THỊ ÁI
Hoàng Thị Ái (1900- 2004), người làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện
Triệu Phong. Tham gia hoạt động cách mạng năm 1927. Năm 1930, bà được kết
nạp Đảng. Là Xứ ủy viên Trung bộ, Khu ủy viên Liên khu IV, Bí thư phụ nữ Cứu
quốc, Bí thư Đảng đoàn phụ trách Trung ương, Phó Chủ tịch Trung ương Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam
Khen thưởng:
Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng
Nhất, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất, Huy hiệu 70 năm tuổi
Đảng.
3. HOÀNG HỮU CHẤP
Hoàng Hữu Chấp (1916-1946) quê ở làng Bích Khê, huyện Triệu Phong,
ngay sau khi có sự lãnh đạo của Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam tỉnh Quảng Trị,
ông đã hăng hái tham gia các phong trào cách mạng ở địa phương, được Tỉnh uỷ
giao trách nhiệm làm giao thông liên lạc của Đảng bộ, là một trong những người
làm liên lạc tận tuỵ, dũng cảm, bất chấp mọi khó khăn nguy hiểm. Nhờ vậy mối
liên hệ giữa Tỉnh uỷ với các Huyện uỷ trong những năm 1931,1932 được giữ vững.
Tháng 2 năm 1932 ông bị bắt và giam tại nhà lao Quảng Trị. Năm 1934 ra tù,
ông trở về quê tiếp tục hoạt động cách mạng, bắt mối gây dựng lại cơ sở Đảng.
Được các Đảng viên Cộng sản địa phương dìu dắt, giúp đỡ Hoàng Hữu Chấp đã
trở thành Đảng viên Đảng cộng sản Đông Dương. Trong thời gian từ cuối năm
1936, đầu năm 1937 là một trong các Đảng viên được đồng chí Lê Duẩn tin cậy,
42
được đồng chí Lê Duẩn (đại diện Xứ uỷ) cử làm Bí thư Tỉnh uỷ lâm thời của Đảng
bộ Quảng Trị.
4. HỒ NGỌC CHIỂU
Hồ Ngọc Chiểu sinh năm 1920, người làng An Lộng, xã Triệu Hòa, huyện
Triệu Phong. Tham gia cách mạng năm 1936. Đến năm 1941 kết nạp vào Đảng
Cộng sản Việt Nam. Năm 1947, bà giữ chức Phó Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị. Từ
năm 1948 đến năm 1953, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Quảng
Trị.
Khen thưởng:
Huân chương Độc lập hạng hai, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân
chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất, Huy hiệu 40, 50, 60 năm tuổi Đảng.
5. LÊ CHƯỞNG
Lê Chưởng (1914- 1973), người làng Long Quang, xã Triệu Trạch, huyện
Triệu Phong. Ông tham gia cách mạng lúc mới 15 tuổi. Năm 1930, ông được kết
nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong thời gian hoạt động cách mạng ông
nhiều lần bị kết án tù. Năm 1929, bị giam tại nhà lao Quảng Trị. Từ năm 1932-
1939 bị giam tại nhà lao Buôn Mê Thuộc rồi nhà tù Lao Bảo. Năm 1940, bị giam
tại nhà lao Thừa Phủ rồi bị kết án chung thân và giam tại nhà lao Buôn Mê Thuộc
cho đên năm 1945 mới được thả.
Năm 1939, ông được bầu vào Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Trị; Xứ ủy viên rồi
Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ. Năm 1948, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị. Năm 1958, ông giữ
chức Thứ trưởng Bộ Giáo dục.
Ông hy sinh trong một chuyến đi công tác ở vùng giải phóng Quảng Trị năm
1973. Ông từng làm chủ bút các tờ báo: Bẻ xiềng xích, Phá ngục, Cứu quốc, Quyết
thắng. Là một vị tướng, nhưng ông rất say mê viết.
Tác phẩm đã xuất bản
- Người cộng sản với hòa bình và chiến tranh (1952), Nxb, Dân chủ mới.
- Suốt đời chiến đấu vì dân, vì Đảng (1959), Nxb, Quân đội.
- Đấu tranh sửa chửa sai lầm và xây dựng quân đội (1954), Nxb, Quân đội.
- Nhân sinh quan cộng sản xã hội chủ nghĩa (1958),Nxb, Quân đội.
- Chiến tranh nhân dân và xây dựng quân đội (1959),Nxb, Quân đội.
43
- Trời sắp sáng (tiểu thuyết) (1964),Nxb, Quân đội.
-Trường Sơn vạn dặm (tập thơ) (1976),Cục Chính trị QK Trị Thiên ấn hành.
- Trên những chặng đường chiến đấu ( hồi ký) (2004).
Khen thưởng:
Huân chương Hồ Chi Minh, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất,Huân
chương Chiến công hạng Nhất,Huân chương Chiến sĩ Giải phóng hạng Nhất.
6. ĐOÀN CHƯƠNG
Đoàn Chương sinh năm 1927, người làng Gia Đẳng, xã Triệu Long, huyện
Triệu Phong. Ông là nhà quân sự, Trung Tướng Quân đội NDVN. Tham gia cách
mạng từ năm 1945. Năm 1946- 1948 giữ chức vụ Chánh Văn phòng Tỉnh ủy
Quảng Trị. Năm 1954- 1956, Chánh văn phòng Tổng cục Chính trị. Năm 1956-
1990, ông giữ nhiều chức vụ quan trọng. Năm 1994- 1999, ông giữ chức vụ Viện
trưởng Viện Chiến lược quân sự Bộ Quốc phòng.
Các công trình nghiên cứu tiêu biểu:
- Những vấn đề an ninh trong xây dựng khu chế xuất và khu công nghiệp tập
trung.
- Tham gia biên soạn Tổng luận chương trình khoa học cấp Nhà nước KX:09
- V.I. Lê nin- bậc thầy sáng tạo về lý luận và thực tiễn quân sự (1887), Nxb,
Quân đội.
- Tìm hiểu sự nghiệp và di sản quân sự của Chủ Tịch Hồ Chí Minh (1889),
Nxb, Quân đội.
-Đổi mới nhưng không đổi hướng (1891), Nxb, Quân đội nhân dân.
- Nhớ lại và suy ngẫm (2002), Nxb, Quân đội nhân dân.
Khen thưởng:
- Huân chương Quân công hạng Hai, Huân chương Chiến công hạng
Nhất.Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất.Huân chương Kháng chiến chống
Mỹ hạng Nhất.Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Ba.
- Huy hiệu 40, 50 năm tuổi Đảng.
7. NGUYỄN CHÍ DŨNG
44
Nguyễn Chí Dũng, sinh năm 1930, người làng Phú Liêu, xã Triệu Tài, huyện
Triệu Phong.
Quá trình công tác: Tham gia Cách mạng từ tháng 8 năm 1945; vào Đảng
Cộng sản Việt Nam năm 1948.
Là Thứ trưởng Bộ Công nghiệp nhẹ, Ủy viên Ban cán sự Đảng Bộ Công
Nghiệp nhẹ.
Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng
8. TRẦN HỮU DỰC
Trần Hữu Dực (1910- 1993), người làng Dương Lệ Đông, xã Triệu Thuận,
huyện Triệu Phong. Ông tham gia cách mạng năm 15 tuổi (1925). Năm 1930- 1931
giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị. Trong chống Pháp giữ chức Chủ tịch Ủy ban
kháng chiến Trung bộ. Sau ngày hòa bình lập lại (1954), ông giữ nhiều chức vụ
quan trọng: bầu vào BCH Trung ương, Uỷ viên Đảng đoàn Chính phủ, Chủ nhiệm
Tổng cục Hậu cần QĐNDVN, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước,
Trưởng ban công tác nông thôn Trung ương, Bộ trưởng bộ Nông nghiệp, Bộ
trưởng Phủ Thủ Tướng. Trong thời kỳ chống Mỹ, Ủy viên Trung Ương Đảng, Bí
Thư Khu ủy Trị- Thiên- Huế, Trưởng ban công tác đặc biệt của Nhà nước, Phó
Thủ tướng Chính phủ.
Tắc phẩm chính:
- Hồi ký Bước qua đầu thù (1991), Nxb, Sự thật.
- Những năm tuổi trẻ (tái bản 1995)), Nxb, Thanh niên.
Khen thưởng: Huân Chương Hồ Chí Minh và nhiều huân chương khác.
9. LÊ THẾ HIẾU
Lê Thế Hiếu (1894- 1947), người làng Tường Vân, xã Triệu An, huyện Triệu
Phong. Trước năm 1945, ông tham gia Cách mạng đồng chí Hội và bị bắt giam tại
các nhà tù. Sau cách mạng tháng 8/1945, ông được giao phụ trách huy động lương
thực, thực phẩn để cung cấp cho bộ đội và cán bộ, sau đó ông được cử làm Chủ
Tịch Ủy ban nhân dân cách mạng, Chủ Tịch Ủy ban Mặt trận Liên Việt tỉnh, là Đại
biểu Quốc Hội khóa I.
45
Ông hy sinh năm 1947.
10. TRƯƠNG HOÀN
Trương Hoàn (1911-1947) quê làng Hữu Niên, xã Triệu Hòa, huyện Triệu
Phong, làm Bí thư Huyện uỷ Gio Linh giữa năm 1937. Tại Hội nghị Tỉnh uỷ mở
rộng ở Khe Đào (xã Triệu Nguyên) vào cuối năm 1939, Trương Hoàn được bổ
sung vào Tỉnh uỷ.
Tháng 8-1941, sau khi Trần Văn Ngoạn bị địch bắt tại Huế Trương Hoàn
được Hội nghị Tỉnh uỷ mở rộng tại làng An Nha (Gio Linh) cử làm Bí thư Tỉnh uỷ
Quảng Trị.
11. TRẦN CÔNG KHANH
Trần Công Khanh (1903- 1991), người làng Huỳnh Công Tây, xã Vĩnh
Hoàng, huyện Vĩnh Linh. Ông tham gia hoạt động cách mạng từ rất sớm. Bí thư
Chi bộ đầu tiên ở Vĩnh Linh; năm 1930: Bí thư Phủ ủy Vĩnh Linh, Phó Bí thư
Tỉnh ủy Quảng Trị. Từ đó cho đến trước Cách mạng tháng Tám ông đã hoạt động
cách mạng sôi động, liên tục, vài lần bị địch bắt đày lên Buôn Mê Thuột. Tháng 5-
1945 được Xứ ủy Trung kỳ giao nhiệm vụ củng cố Đội du kích Ba Tơ, chỉ huy
cướp chính quyền ở Quảng Ngãi. Trong kháng chiến chống Pháp, ông giữ chức vụ
Tư lệnh Mặt trận Nam Trung bộ, được phong quân hàm Đại tá; Thanh tra bộ Tổng
tham mưu, Cục trưởng cục khai hoang của quân đội, Cục trưởng Cục Khí tượng-
Thủy văn- Bộ Thủy lợi.
Ông mất năm 1991 tại quê nhà.
12. NGUYỄN HỮU KHIẾU
Nguyễn Hữu Khiếu (1915- 2004), người làng Tường Vân, xã Triệu An,
huyện Triệu Phong. Trong thời gian công tác ông đã từng giữ nhiều chức vụ quan
trọng. Năm 1945- 1949, Trưởng ty Công an. Năm 1951- 1958, Giám Đốc Công
an khu IV. Năm 1958- 1959, Phó Bí thư khu ủy IV, Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa.
Năm 1959- 1965, Trưởng Ban Nông nghiệp Trung ương, Năm 1965- 1974, Bộ
trưởng Bộ Lao động. Năm 1974- 1980, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại Liên Xô.
Năm 1981- 1984, Bí thư Ban Cán sự Đảng ngoài nước.
Ủy viên Trung ương Đảng khóa III, IV, đại biểu quốc hội khóa II, III, IV.
46
Khen thưởng:
Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Kháng chiến chống Pháp, Mỹ hạng
Nhất, Huân chương Lao động hạng Nhì, Huân chương Hữu nghị của Nhà nước
Liên Xô.
Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng.
13. NGUYỄN ĐĂNG KHOA
Nguyễn Đăng Khoa (1910 – 1948) người làng Vinh Quạng Hạ, xã Do
Quang huyện Do Linh. Tham gia phong trào bãi khóa học sinh trường Quốc Học
Huế năm 1926. Vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1936.
Năm 1945 tham gia giành Chính quyền huyện Do Linh và làm Chủ tịch Ủy
ban Giải phóng lâm thời huyện Do Linh, sau làm Trưởng ban Kinh tài của Tỉnh ủy
Quảng Trị. Khi thực dân Pháp tái chiếm Do Linh, ông được cử làm Chủ tịch Ủy
ban hành chính kháng chiến huyện Do Linh, cùng huyện ủy lãnh đạo phong trào
kháng chiến rất hiệu quả. Tháng 4 năm 1948 ông bị giặc Pháp bắt; sau khi mua
chuộc, khai thác không được, chúng băn ông tại Chợ Cầu huyện Do Linh. Tỉnh ủy
Quảng trị phát động phong trào học tập noi gương ông.
Khen thưởng:
Năm 1952 được truy tặng Huân chương kháng chiến chống Pháp hạng ba
Năm 1958 truy tặng danh hiệu Liệt sĩ. Tên ông được đặt cho một Xí nghiệp
Cơ khí tại Hồ Xá Vĩnh Linh: Xí nghiệp cơ khí Nguyễn Đăng Khoa
14. ĐOÀN KHUÊ (bí danh VÕ TIẾN TRÌNH)
Đoàn Khuê, (1923- 1999), người làng Gia Đẳng, xã Triệu Lăng, Triệu Phong.
Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam năm 1990; Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
năm 1991.
Tham gia cách mạng từ năm 1939. Năm 1947- 1954, Chính ủy Trung đoàn,
Phó chính ủy Sư đoàn. Năm 1960- 1962, Chính ủy sư 351 pháo binh, Phó Chính
ủy Quân khu IV. Năm 1987- 1991, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân
Việt Nam, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương các khóa IV, V, VI, VII; Đại biểu
Quốc hội các khóa VII, VIII, IX. Ủy viên Bộ Chính trị khóa VII và VIII
Các tác phẩm:
- Một số vấn đề cơ bản về đường lối quân sự của Đảng trong giai đoạn mới.
47
- Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa càng vĩ đại thì yêu cầu củng cố
quốc phòng, an ninh càng trọng đại và bức thiết.
- Kết hợp kinh tế với quốc phòng để xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong tình
hình mới.
- Mấy vấn đề cơ bản trong xây dựng dân quân tự vệ hiện nay.
- Thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội, góp phần tạo động lực ổn
định và phát triển đất nước....
- Chăm lo phát triển nghành khoa học lịch sử quân sự.
Khen thưởng:
Huân Chương Hồ Chí Minh.
15. TRƯƠNG CÔNG KỈNH ( TRƯƠNG CHÍ CÔNG)
Trương Công Kỉnh sinh năm 1918, người làng Hữu Niên, xã Triệu Hòa,
huyện Triệu Phong. Năm 1936, tham gia cấp ủy ở hai huyện Triệu Phong và Do
Linh. Năm 1954, Phó Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị. Trong kháng chiến chống Mỹ giữ
chức vụ Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị, Khu ủy viên Liên khu V, Ủy viên Thường vụ
Khu ủy Trị- Thiên, Trưởng ban Tổ chức khu ủy.
Năm 1969, ông hy sinh trong lúc đi làm nhiệm vụ.
Khen thưởng:
- Huân Chương Hồ Chí Minh.
16. VĂN KIẾM
Văn Kiếm (1927-1972) Bí danh là Bùi Kiếm. Quê xã Triệu Trạch, huyện
Triệu Phong. Là Đảng viên, Thiếu tá, Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 808 bộ binh tỉnh
đội Quảng Trị. Tham mưu trưởng mặt trận 7, Quân khu Trị Thiên Huế. Liệt sĩ Văn
Kiếm được nhà nước truy tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
ngày 27/7/1998.
17. ĐOÀN LA
Đoàn La (1921- ? ) người làng An Tiêm, xã Triệu Thành huyện Triệu
Phong. Tham gia hoạt động Cách mạng từ năm 1937, năm 1942 bị Pháp bắt giam
tù ở Nhà lao Quảng Trị. Năm 1945 ra tù gia nhập quân đội ở Quân khu IV cho đến
năm 1980. Là Thường vụ Quân ủy Quân khu IV, Thường vụ tỉnh ủy Nghệ An,
Chính ủy Bộ chỉ huy Quân sự Nghệ An. Quân hàm Đại tá hưởng lương Thiếu
tướng.
48
Khen thưởng: Huân chương Độc lập hạng hai và nhiều Huân, Huy chương
khác.
18. ĐOÀN LÂN
Đoàn Lân (1908- 1930), người làng An Tiêm, xã Triệu Thành, huyện Triệu
Phong. Ông tham gia cách mạng từ năm 1926, cùng với Nguyễn Đức Cương tổ
chức Chi bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Quảng Trị; hoạt động của
đồng chí còn mở rộng ra đến Hà Tĩnh, Hội An. Ông được Xứ Ủy Trung Kỳ giao
nhiệm vụ tổ chức việc thành lập các tổ chức Cộng sản từ Quảng Nam đến Khánh
Hòa. Tháng 7 - 1929, ông bị địch bắt, bị kết án 12 năm tù giam, bị tra tấn cực hình
và hy sinh năm 1930. Cái chết của Đoàn Lân và bài Điếu văn của các đồng chí bị
tù ở nhà đày Lao Bảo, được coi như một sự kiện, một lời hiệu triệu của đồng chí
đồng bào tiếp tục dấn thân cứu nước.
19. NGUYỄN HỮU MAI (NGUYỄN VĂN TỪ)
Nguyễn Hữu Mai sinh năm 1914, người làng Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện
Hải Lăng. Năm 1940, vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Từ năm 1945- 1951, Bí
thư Đảng bộ Liên khu I, Khu ủy viên Khu II. Thường vụ Khu ủy viên Khu XI,
Tổng Thư ký rồi Phó Tổng thư ký Liên đoàn Lao động Việt Nam. Phó ban Công
vận của BCH Trung ương Đảng. Năm 1961- 1967, ông trãi qua các chức vụ Thứ
trưởng thứ nhất bộ Giao thông Vận tải, được bầu vào Ủy viên dự khuyết BCH
Trung ương Đảng. Năm 1967- 1974, Bộ trưởng bộ Công nghiệp. Năm 1974- 1980,
Bộ trưởng, Phó Chủ nhiệm UBKH Nhà nước, Ủy viên BCH Trung ương Đảng.
Năm 1980- 1982, Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền nước tại Liên Xô. Năm 1982-
1986, công tác tại Bộ Ngoại Giao rồi chuyển sang Bộ Mỏ và Than.
Đại biểu Quốc Hội các khóa II, IV, V, VI.
Khen thưởng: Huân chương Hồ Chí Minh.
20. TRẦN XUÂN MIÊN
Trần Xuân Miên (1910- ?) quê làng Huỳnh Công, huyện Vĩnh Linh, tham gia
cách mạng từ năm 1930, vào Đảng cộng sản Đông Dương tháng 2 năm 1931. Trần
Xuân Miên được cử vào Ban chấp hành Huyện Đảng bộ Vĩnh Linh năm 1937,
được bầu vào Ban chấp hành Đảng bộ Quảng Trị tháng 2 năm 1040. Sau khi Hồ
Xuân Lưu được Xứ uỷ Trung Kỳ điều động đi công tác khác, Trần Xuân Miên
được cử làm Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Trị.
21. LÊ THỊ DIỆU MUỘI (bí danh ĐÀO NGUYÊN)
49
Lê thị Diệu Muội sinh năm 1922, người làng Tường Vân, xã Triệu An,
huyện Triệu Phong.
Tham gia cách mạng năm 1932, vào Đảng năm 1939. Năm 1942- 1945, bị bắt
và kết án 20 năm tù khổ sai. Sau Cách mạng tháng Tám, giữ chức vụ Phó Chủ
nhiệm Việt Minh, Bí thư phụ nữ tỉnh Quảng Trị. Từ năm 1956 - 1981 Thứ trưởng
Bộ Thương Nghiệp, Ủy viên Ủy ban Kế hoạch và Ngân sách Nhà nước.
Đại biểu Quốc hội khóa IV,V.
Khen thưởng
Huân chương Hồ Chí Minh,
Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhì,
Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất.
Huy hiệu Chủ Tịch Hồ Chí Minh, huy hiệu 50, 60 năm tuổi Đảng.
22. TRẦN VĂN NGOẠN
Trần văn Ngoạn (1909- 1994) người làng Thượng Lập, xã Vĩnh Long,
huyện Vĩnh Linh. Tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1929. Năm 1931, Bí Thư
huyện ủy Vĩnh linh. Năm 1940, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị rồi Xứ ủy viên Xứ ủy
Trung Kỳ. Năm 1945, Chủ nhiệm Việt Minh tỉnh Quảng Trị, Bí thư Tỉnh ủy Quảng
Trị. Năm 1960, Vụ trưởng Viện Kiểm Sát nhân dân tối cao.
Khen thưởng
Huân chương Hồ Chí Minh,
Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhất,
Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhì.
23. LÊ THỊ QUẾ
Lê Thị Quế (1897 – 1972) người thôn Tường Vân, xã Triệu An, huyện Triệu
Phong. Trước năm 1945 tham gia Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội, bị địch bắt
ở tù; Thành lập Chi bộ Tường Vân là Bí thư tháng 01 – 1930.
Sau Cách mạng tháng 8 và kháng chiến chông Pháp, tham gia Ủy ban Việt
minh Quảng Trị, Ủy viên UBND Thừa Thiên, Ban Việt minh Trung bộ, Đảng đoàn
Nông hội Trung ương, Đảng đoàn Phụ nữ Trung ương. Tham gia nhiều nhiệm kỳ
BCH Trung ương Hội Phụ nữ Việt Nam.
Khen thưởng: Huân chương Độc lập hạng nhất
Huân chương kháng chiến hạng nhất
50
24. TRẦN MẠNH QUỲ
Trần Mạnh Quỳ sinh năm 1911, người làng Long Hưng, xã Hải Phú, huyện
Hải Lăng. Năm 1934, vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1941- 1945, Thường
vụ Xứ ủy Trung Kỳ. Năm 1945, Tỉnh ủy viên tỉnh Quảng Trị. Sau năm 1945, Chủ
Tịch Ủy ban nhân dân Thị xã Quảng Trị. Năm 1946, được bầu vào Quốc hội khóa
đầu tiên, tham gia Quốc Hội các khóa I ,II, III. Trong thời kỳ kháng chiến điều lên
Bộ Quốc phòng làm Cục trưởng Dân quân với quân hàm Đại tá. Hòa bình lập lại,
Chánh Thanh tra quân đội, Phó Ban Kiểm tra Trung ương Đảng và Phó Chủ nhiệm
Ủy ban Thanh tra nhà nước.
Khen thưởng
Huân chương Độc Lập và nhiều huân chương cao quý khác.
25. TRẦN QUỲNH
Trần Quỳnh (1920 – 2005) người làng Nại Cửu, xã Triệu Đông huyện Triệu
Phong. Từ năm 1936 đồng chí đã tham gia Mặt trận dân chủ Huế. Năm 1940 bị
Pháp bắt tù ở Sài Gòn và Côn Đảo, đầu năm 1945 ra tù tiếp tục hoạt động Cách
mạng. Từ tháng 8 năm 1945 đến 1946 đồng chí tham gia cướp chính quyền ở Phú
Yên. Tháng 10/1945 được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ nhiệm Việt
minh huyện Tuy Hòa, Tỉnh ủy viên. Từ năm 1946 đến 1949 là Bí thư tỉnh ủy Ninh
Thuận, Ủy viên Phân ban Cực Nam Trung bộ, trực tiếp phụ trách các tỉnh Ninh
Thuận, Bình Thuận, Khánh Hòa, Lâm Đồng. Từ 1949 đến 1954 là Thường vụ Liên
khu ủy Quân khu V, Trưởng ban Tuyên huấn. Từ năm 1954 đến 1964 đi học lý
luận ở Trung Quốc và Phó Giám đốc trường Đảng Nguyễn Ái Quốc Trung ương,
Phó Chanh văn phòng Trung ương Đảng. Từ 1965 đến 1976 là Phó Chủ nhiệm Ủy
ban KHKT nhà nước. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (tháng 12/1976)
đồng chí được bầu vào BCH TW Đảng Cộng sản Việt Nam, giữ chức Chủ nhiệm
Ủy ban KHKT Nhà nước, kiêm Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước. Đại
biểu Quốc hội từ Khóa I đến Khóa VII, được bầu giữ chức Chủ nhiệm Ủy ban văn
hóa và Xã hội của Quốc hội Khóa V. Tháng 12 năm 1980 bổ nhiệm giữ chức Phó
Thủ tướng Chính phủ. Từ tháng 7-1981 đến tháng 2- 1989 là Phó Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng (nay là Phó Thủ tướng Chính phủ)
Khen thưởng: Huân chương Hồ Chí Minh
Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng.
26. NGUYỄN BÁ SAM
51
Nguyễn Bá Sam, sinh năm 1908 tại thôn Phú Long, xã Hải Phú, huyện Hải
Lăng. Từ năm 1924 đến năm 1929 tham gia tổ chức Thanh niên Cách mạng đồng
chí Hội. Tháng 3 năm 1930 vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Từ năm 1935 đến
1937 Bí thư huyện ủy lâm thời Hải Lăng. Từ 1945 đến 1950 Tỉnh ủy viên, Bí thư
huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến huyện Hải Lăng.
Khen thưởng: Huân chương kháng chiến hạng nhì
Huân chương Độc lập hạng hai
27. TRẦN SÂM
Trần Sâm sinh năm 1916, người làng Duân Kinh, xã Hải Xuân, huyện Hải
Lăng. Sinh sống tại thành phố Hồ Chi Minh. Vào Đảng năm 1940. Năm 1949 Tư
lệnh Quân khu IV, Thường vụ Khu ủy khu IV. Năm 1951, Phó Tổng tham mưu
trưởng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng với quân hàm Trung Trướng. Sau năm 1975,
ông giữ các chức vụ Ủy viên BCH Đảng Cộng Sản Việt Nam khóa IV, đại biểu
Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Vật tư, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng với quân hàm Thượng
tướng.
Khen thưởng
Huân chương Hồ Chí Minh, Huân Chương Quân Kỳ và Quyết thắng, Huân
chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba. Huân chương kháng chiến hạng
Nhất, Huân chương Quân công hạng Nhất.
28. NGÔ HỮU SỒ
Ngô Hữu Sồ, sinh năm 1914 tại thôn Huỳnh Công Nam, xã Vĩnh Hoàng
huyện Vĩnh Linh. Là nhà lão thành cách mạng. Từ năm 1929 tham gia Thanh niên
Cách mạng đồng chí Hội. Năm 1930 vào Đảng Cộng sản Đông Dương; từ đó cho
đến 1944 tham gia hoạt động tài chính, lập nhà In để xuất bản báo Đảng, bị quản
thúc nhiều lần. Năm 1945 hoạt động tài chính cho Thành bộ Việt minh Thuận Hóa
Trong kháng chiến chông Pháp, với nhiều chức vụ khác nhau, đều phụ trách
kinh tài cho các tổ chức của Đảng. Trưởng ban kinh tài Nông hội Liên khu IV.
Khen thưởng: Huân chương Độc lập hạng nhì
Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng
29. NGÔ SỪ
Ngô Sừ (1911 – 1951) người thôn Huỳnh Công Nam, xã Vĩnh Hoàng, huyện
Vĩnh Linh. Năm 1929 tham gia thành lập tổ chức Thanh niên Cách mạng đồng chí
52
Hội, huyện ủy viên đầu tiên của Đảng bộ huyện Vĩnh Linh. Thời kỳ mặt trận bình
dân, hoạt động kinh tài cho Đảng, tham gia xây dựng đội du kích Ba Tơ.
Trong CM tháng Tám, tham gia lãnh đạo khởi nghĩa huyện Vĩnh Linh, làm
Bí thư huyện ủy. Trong kháng chiến chống Pháp, giữ nhiều cương vị, góp phần xây
dựng cơ sở hậu cần và tiếp vận của tinh và Bình trị Thiên.
Tháng 2 năm 1951 ông hy sinh trong một trận càn ở Phú Vang – Thừa Thiên
Huế. Khen thưởng: Là Liệt sĩ, lão thành cách mạng
Huân chương Độc lập hạng nhì
30. HỒ TRI TÂN
Hồ Tri Tân (1906- 1978), người làng Bích La, xã Triệu Đông, huyện Triệu
Phong. Năm 1931- 1936, tổ chức thành lập Công hội Đỏ ở Bà Rịa. Năm 1938-
1939, Huyện ủy viên huyện Triệu Phong. Năm 1940- 1941, Bí thư Tỉnh ủy Quảng
Nam- Đà Nẵng. Năm 1941- 1945, bị giặc Pháp giam tại các nhà giam ở Quảng
Ngãi, Đà Nẵng, Hỏa Lò- Sơn La- Chí Hòa- Côn Đảo. Sau Cách mạng tháng Tám,
được trả tự do, giữ các chức vụ: Tỉnh ủy viên Bà Rịa, Tỉnh đội trưởng dân quân đội
Lê Hồng Phong, Giám đốc giao thông của Liên Khu IV, Cục trưởng Cục Kiến
thiết cơ bản, Đảng ủy viên Đảng bộ Giao thông vận tải, Trưởng ban chỉ đạo làm
đường sắt Thống Nhất.
Khen thưởng
Huân chương Chiến thắng hạng Nhất, Huân chương kháng chiến hạng Nhất,
Huân chương Quân công hạng Nhì. Huân Chương Lao Động hạng Ba, Huân
chương Độc Lập hạng Nhất.
31. TRẦN TRỌNG TÂN (bí danh: HAI TÂN, PHAN HUY TÂN)
Trần Trọng Tân, sinh năm 1926, quê xã Cam Thành, huyện Cam Lộ. Năm
1949- 1950, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị. Năm 1955- 1959, cán bộ Ban Tuyên huấn
Trung ương Cục miền Nam. Năm 1970- 1980, Ủy viên Trung ương Đảng các
khóa VI, VII, Trưởng Ban Tư tưởng- Văn hóa Trung ương, Phó Bí thư Thành ủy
Thành phố Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch Ủy Ban Mặt Trân Tổ quốc thành phố Hồ
Chí Minh, Đại biểu Quốc hội khóa VIII.
Những tác phẩm đẫ xuất bản
- Chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, (1959)
- Bài ca lâm trận (thơ), Văn học giải phóng (1975)
- Lịch sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh Tập I; Tập II (chủ biên)
53
- Về công tác tư tưởng và văn hóa, (1999)
- Công tác tư tưởng và văn hóa- lý luận thời đổi mới, (2004) .
32. TRẦN THỊ TÂM
Trần Thị Tâm ( 1948 - 1972 ) là nữ anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Quê ở Hải Khê, Hải Lăng, Quảng Trị. Tham gia lực lượng du kích xã từ rất sớm và
sau đó được bổ sung vào lực lượng vũ trang hyện đội Hải Lăng; đến năm 1970 là
huyện đội phó Huyện đội Hải Lăng. Tháng 7/1972, Mỹ ngụy tăng cường binh lực
và vũ khí âm mưu chiếm vùng Ngô Xá và Thanh Lê, phía tây Cổ Thành Quảng Trị
với mưu đồ làm bàn đạp tiến đánh thị xã Quảng Trị. Nhưng tất cả các đợt tấn công
của địch đều bị đánh bại; sau một ngày đánh phá chúng cho pháo binh và trực
thăng băm nát trận địa và săm soi phát hiện ra hầm của chị, chúng dùng róc két từ
trực thăng xối xã vào hầm, chị ngoan cường chiến đấu và anh dũng hy sinh. Chị
được nhà nước truy tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm
1976.
33. HỒ SĨ THẢN
Hồ Sĩ Thản (1913- 1995), người làng Nghĩa An, phường Đông Thanh, thành
phố Đông Hà. Năm 1947- 1950, Huyện đội trưởng huyện đội Cam Lộ. Năm 1950-
1954, Thường vụ Tỉnh ủy- Tỉnh đội trưởng Tỉnh đội Quảng Trị. Năm 1954- 1965,
Bí thư Khu Ủy Đặc khu Vĩnh Linh. Năm 1965- 1975 Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị,
Thường vụ Tỉnh ủy phân khu Trị -Thiên- Huế. Năm 1975 Thường vụ Tỉnh Ủy ,
Phó Chủ Tịch UBND tỉnh Bình Trị Thiên
Khen thưởng
Huân chương Độc Lập hạng Nhất, Huân chương Giải Phóng hạng Nhất,
Huân chương Chiến thắng hạng Nhất. Huân Chương Chống Mỹ cứu nước hạng
Nhất, Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng.
34. TRẦN QUỐC THẢO/ HỒ XUÂN LƯU
Trần Quốc Thảo (1915- 1957), tên thường gọi Năm Hai, người làng Cổ
Thành, xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong.
Năm 1930 tham gia Hội đoàn học sinh, năm 1931 vào Đoàn Thanh niên
Cộng sản. Năm 1933 vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm1935, tham gia Tỉnh ủy
Quảng Trị. Năm 1938, phụ trách tuyên huấn Xứ ủy Trung Kỳ. Năm 1939, Ủy viên
ban Thường vụ Xứ ủy Trung Kỳ và phụ trách Báo Bẻ Xiềng sắt.
54
Năm 1941, đại biểu đi dự Hội nghị TW lần thứ tám và được bầu Ủy viên
Trung ương chính thức của Đảng. Cuối năm 1941 bị Pháp bắt kết án 20 năm bị đày
ở Buôn Ma Thuột.
Năm 1945, Chủ tịch Ủy ban hành chính thị xã Đông Hà, Quảng Trị.
Từ năm 1946 đến 1948 làm Chủ nhiệm báo Lao động; Bí thư liên tỉnh ủy và
Chủ tịch UBHC kháng chiến Quảng Hồng (Quảng Ninh và Hồng Gai); Ủy viên
Thường vụ Ban Công vận TW. Cuối năm 1948 vào Nam bộ làm Bí thư Công vận,
phụ trách Liên hiệp Công đoàn Nam bộ, Thường vụ Khu ủy Sài Gòn – Chợ Lớn.
Từ 1950 đến 1954: Phó Bí thư Khu ủy Sài gòn – Chợ Lớn, Phó Chủ tịch
Liên đoàn Lao động Việt Nam
Từ 1954 đến 1957: Bí thư Đặc khu Sài Gòn – Chợ Lớn, Ủy viên TW Cục
Miền Nam. Tháng 11/1957 bị địch bắt và hy sinh tại Sài Gòn.
Khen thưởng
Huân chương Hồ Chí Minh
Huân chương kháng chiến chống Pháp hạng nhất
Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất
35. NGUYỄN ĐỨC THƯỞNG
Nguyễn Đức Thưởng (1918- ? ) quê ở xã Vĩnh Hoàng, huyện Vĩnh Linh, tham
gia ban chấp hành huyện Đảng bộ Vĩnh Linh tháng 3 năm 1937, được cử làm Bí
thư Huyện uỷ Vĩnh Linh (tháng 8-1938). Tháng 8-1940 đồng chí bị địch bắt giam
tại các nhà lao Tam Kỳ, nhà lao Quảng Trị, nhà đày Buôn Mê Thuột.
Trên đường từ nhà đày Buôn Mê Thuột về nhà lao Quảng Trị, lợi dụng lúc
bọn địch áp giải sơ hở, đồng chí Nguyễn Đức Thưởng đã “nhảy tàu” trốn về Tam
Kỳ gặp các đồng chí trong Xứ uỷ, được bổ sung và Xứ uỷ lâm thời Trung Kỳ và
phân công đồng chí phụ trách Bình Trị Thiên.
Tháng 2 năm 1942, đồng chí Nguyễn Đức Thưởng được Xứ uỷ cử làm Bí thư
Tỉnh uỷ Quảng Trị.
36. ĐẶNG THÍ
Đặng Thí (1921- 2001), , người xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong.
Tham gia cách mạng năm 1936, năm 1938, kết nạp Đảng Cộng sản Việt
Nam. Năm 1938- 1939, Bí thư Thành ủy lâm thời thành phố Huế. Năm 1941-
1945, bị địch bắt giam tại nhà tù Lao Bảo, Buôn Mê Thuộc. Năm 1945- 1958,
55
tham gia cướp chính quyền ở Quảng Trị và giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị.
Năm 1949- 1950, Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa. Năm 1951- 1957, Bí thư Phân Khu
ủy Bình Trị Thiên, Chính ủy Mặt trận Bình Trị Thiên, Bí thư Liên khu ủy IV. Năm
1958- 1964, Tổng Cục trưởng Tổng Cục Thống Kê. Năm 1965- 1970, Bộ trưởng,
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước. Năm 1971-1973, Bộ trưởng, Chủ
nhiệm Văn phòng Phủ Thủ tướng. Năm 1974- 1981, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban
Thống nhất, Bí thư Ban Cán sự Đảng công tác C, Bộ trưởng Phủ Thủ tướng. Năm
1981- 1993, Bộ trưởng, Tổng Thư ký Hội đồng Bộ trưởng, Bí thư Ban Cán sự
Đảng công tác C... Ủy viên BCH Trung ương Đảng các khóa IV, V, VI, Đại biểu
Quốc hội từ khóa I đến khóa VII.
Khen thưởng
Huân chương Hồ Chí Minh
Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân
Chương Chống Mỹ cứu nước hạng Nhất.
Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng
37. ĐOÀN BÁ THỪA
Đoàn Bá Thừa (1908- 1995), người làng An Tiêm, xã Triệu Vân, huyện
Triệu Phong. Năm 1930, vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1931- 1934, Bí thư
Tỉnh ủy Quảng Trị. Năm 1935- 1936 Bí thư Tỉnh ủy Khánh Hòa.
Khen thưởng
Huân chương Hồ Chí Minh,
Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng.
38. LÊ THẾ TIẾT
Lê Thế Tiết (1900- 1940), người làng Tường Vân , xã Triệu Vân, huyện
Triệu Phong. Năm 1926, tham gia Hội Phục Việt và là thành viên trong nhóm cộng
sản đầu tiên ở Tân Tường, Cam Lộ. Năm 1930, cùng với Trần Hữu Dực và
Nguyễn Hữu Mão thành lập Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Quảng Trị do
ông làm Bí thư. Năm 1940, ông huy sinh tại nhà tù Lao Bảo.
39. NGUYỄN VỨC
56
Nguyễn Vức (1906- 1971) người làng Đại Áng, phưởng Đông Lương, thành
phố Đông Hà.Năm 1930, Bí thư chi bộ đầu tiên của chi bộ Đại Áng. Năm 1937,
thành viên BCH tỉnh Đảng bộ Quảng Trị. Năm 1939, sau khi đồng chí Trần Mạnh
Quỳ bị bắt (9/ 1939), ông được cử làm Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị (theo biên niên
các Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị). Năm 1954- 1971, ông về hoạt động bí mật ở Quảng
Trị, sau đó bị bắt giam, tra tấn và mất tại nhà tù Lao Bảo.
Được suy tôn Liệt sĩ năm 1971
40. NGUYỄN QUANG XÁ
Nguyễn Quang Xá sinh năm 1920, người làng Linh Yên , xã Triệu Trạch,
huyện Triệu Phong.
Năm 1938 tham gia vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Trước năm 1945,
chức vụ cao nhất là Bí thư Phủ ủy Triệu Phong. Năm 1948- 1950, Bí thư Tỉnh ủy
Quảng Trị; Khu ủy viên Liên khu IV. Sau khi đất nước thống nhất, ông lần lược
giữ các chức vụ: Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm văn phòng Hội đồng Bộ trưởng; Bộ
trưởng, Chủ tịch Hội đồng trọng tài Kinh tế Nhà nước.
Khen thưởng
Huân chương Độc lập hạng Nhất;
Huân chương “Sao Bắc đẩu” hạng nhất (Mông Cổ)
Huân chương Tự do hạng Nhất và huy chương anh dũng chống Pháp hạng
Nhất. Huy hiệu 50 năm, 60 năm tuổi Đảng. Và nhiều phần thưởng khác.
III. CÁC NHÂN VẬT HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA- XÃ HỘI
1. LƯƠNG AN bút danh NGUYỄN LƯƠNG TÀI, THẠCH NAM
Lương An sinh năm 1920, người làng Tài Lương , xã Triệu Tài, huyện Triệu
Phong. Năm 1949- 1952, tham gia thành lập nhóm văn nghệ “Nguồn Hàn”; phụ
trách báo Liên Việt tỉnh; Ủy viên thường vụ phân hội văn nghệ, Trưởng ban Văn
nghệ, ủy viên Thường trực Ủy ban Mặt trận tỉnh, hội viên Hội Văn nghệ Việt
Nam. Năm 1954- 1971, Trưởng ban Văn hóa văn nghệ báo” Thống Nhất”. Hội
viên hội nhà văn Việt Nam. Năm 1972, phó trưởng ty Thông tin Văn hóa, Ủy viên
Thường trực Hội Văn nghệ tỉnh Quảng Trị.
Năm 1984, nghỉ hưu tại thành phố Hồ Chí Minh.
Tác phẩm đã xuất bản
57
Nắng Hiền Lương (tập thơ)
Vè chống Pháp (nghiên cứu giới thieeuju văn học dân gian)
Thơ Tùng Thiện Vương Miên Thẩm (dịch- nghiên cứu- giới thiệu)
Ngoài ra còn có một số tập diễn ca và bút ký ngắn khác.
2. NGUYỄN HỮU BA
Nguyễn Hữu Ba (1913- 1997), người làng Đạo Đầu , xã Triệu Trung, huyện
Triệu Phong. Ông là nhà nghiên cứu âm nhạc. Tham gia cách mạng từ năm 1945
và sáng tác nhiều ca khúc đầy hào khí: Thanh niên đồng tiến; Tiếng hát quân Nam;
Ánh dương trời Nam....Năm 1949, sáng lập Tỳ bà viện nhằm góp phần xây dựng
một nền âm nhạc dân tộc, hiện đại, phát huy âm nhạc cổ truyền, Ông là người có
công trong việc cải tiến và đưa âm nhạc điện tử vào nhạc cụ Việt Nam. Từ năm
1968- 1972 là Giám đốc trường Quốc gia âm nhạc và kịch nghệ Huế. Sau năm
1975, là Phó Chủ tịch Hội Âm nhạc thành phố Hồ Chí Minh.
Các tác phẩm
Tự học đàn nguyệt (1940) Phương pháp và bài bản các nhạc cụ Việt Nam.
Vài thiên kiến về âm nhạc Việt Nam (1950). Bài đàn tranh (1951). Nhạc pháp quốc
nhạc Việt Nam (1961) Ca nhạc miền Trung (1962). Sưu tầm, nghiên cứu tư liêu,
thư tịch âm nhạc Việt Nam, dân ca Việt Nam (1970).
Khen thưởng
Danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú;
Huân chương Độc lập hạng Hai;
Huy chương vì sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân.
3. HỒNG CHƯƠNG (TRẦN HỒNG CHƯƠNG)
Hồng Chương (1921- 1989), người làng Phương Sơn , xã Triệu Sơn, huyện
Triệu Phong. Năm 1937, tham gia phong trào dân chủ. Năm 1940, phụ trách Báo
Cứu quốc. Trong hai cuộc kháng chiến ông chuyên làm công tác tuyên huấn, Tổng
biên tậpTạp chí Học tập (nay là Tạp chí Cộng sản) và Tổng Thư ký Hội Nhà báo
Việt Nam.
Tác phẩm đã xuất bản
Máu lửa đồng quê (thơ, 1948)
Ngược đường 9 (truyện, 1958)
Văn nghệ cách mạng và cách mạng không ngừng (lý luận, 1959)
Một luồng gió mới (tiểu thuyết, 1959)
58
Phương pháp sáng tác trong văn học nghệ thuật (lý luận, 1962)
Mấy vấn đề lý luận và phê bình văn nghệ (lý luận, 1965)
Mãi mãi đi theo đường lối văn nghệ của Chủ tịch Hồ Chí Minh (lý luận phê
bình, 1971).
4. PHAN VĂN DẬT
Phan Văn Dật (1909- 1987)), người làng Đạo Đầu , xã Triệu Trung, huyện
Triệu Phong. Ông là tác gia lớn. Ngoài tư cách là thi sĩ thờ tiền chiến, ông còn là
nhà phê bình văn học, nhà khảo cứu văn hóa. Năm 1951- 1952, du học ở Pháp.
Năm 1953- 1959, làm chủ sự Trước bạ Huế; dạy học tại trường Quốc Học, Đồng
Khánh, Bách Khoa, Bình Dân. Năm 1959- 1975, giảng viên Hán Nôm tại Viện đại
học Huế, trường Cao đẳng mỹ thuật, Nông Lâm Súc.
Tác phẩm đã xuất bản
Diễm Dương Trang (tiểu thuyết, 1935)
Bâng khuân (thơ, 1936)
Ngoài ra, thơ và các bài viết của ông được đăng trên tạp chí Nam Phong,
Rạng Đông và các báo Tràng An, Cười, Khuyến học, Dân sinh, Sáng tạo....
5. LÊ BÁ ĐẢNG
Lê Bá Đảng (1921- 2015), người làng Bích La Đông , xã Triệu Đông, huyện
Triệu Phong. Ông là nhà danh họa mang tầm thế giới. Năm 1939, ông sang Pháp
tham gia phong trào chống phát xít bị phát xít Đức bắt giam. Đầu năm 1940, ông
đươc thả và hành nghề tại Pháp, sau đó ông thi vào Học viện Nghệ thuật Tuoluose
Năm 1950, ông trưng bày phòng tranh sơn dầu tại Paris. Từ đó đến nay, năm nào
ông cũng có tranh trưng bày tại các nước Pháp, Anh, Đức, Nhật Bản...Ngoài ra ông
còn là nhà điêu khắc, nghệ sĩ về đồ gốm, sứ và các trang sức, nhà thiết kế trang
phục và thiết kế sân khấu đầy sáng tạo.
Các giải thưởng:
- Năm 1989, Viện quốc tế Saint- Louis (Mỹ) tặng giải thưởng: Họa sĩ tài
năng lớn; có tư tưởng nhân đạo. Ông được thành phố New- Orleans (Mỹ) bầu ông
làm công dân danh dự.
- Năm 1992, Trung tâm tiểu sử quốc tế Cambridge (Anh) tặng danh hiệu:
Một người nổi tiếng thế giới năm 1992- 1993.
- Năm 1994, ông được Pháp tặng Huân chương nghệ thuật và văn chương
Pháp.
59
6. NGUYỄN THẠCH GIANG
Nguyễn Thạch Giang sinh năm 1928, người làng Bích Giang, xã Cam Hiếu,
huyện Cam Lộ. Ông hoạt động trong lĩnh vực Văn hóa - Giáo dục. Giáo sư cấp I
Đại học Quốc gia Hà Nội.
Các tác phẩm đã xuất bản
- Thơ văn Nguyễn Quang Bích, Nxb. Văn học (1961)
- Kịch lịch sử Quách Mạc Nhược, Nxb. Văn học (1962)
- Nghiên cứu chữ Nôm- Những nền tảng ban đầu.
- Truyện Kiều, Nxb. Giáo dục, Hà Nội (1972)
- Truyện Lục Vân Tiên, Nxb. Đại học (1976)
- Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, Nxb. Văn học (1982)
- Chinh phụ ngâm, Nxb. Văn học (1987)
- Từ ngữ văn Nôm, Nxb. Khoa học xã hội (1993)
- Thiên Nam minh giám, Nxb. Thuận Hóa (1994)
- Nguyễn Trãi quốc âm thi tập, Nxb. Thuận Hóa (1998)
- Nguyễn Du – Tác phẩm và lịch sử văn bản, Nxb. Thành phố Hố CHí Minh
- Từ điển văn học quốc âm, Nxb. Văn hóa- Thông tin (2000)
- Nguyễn Du- cuộc đời và tác phẩm, Nxb. Từ điển – Bách khoa (2002)
- Tích truyện văn học Việt Nam thế kỷ XVIII, Nxb. Trẻ (2002)
- Tiếng Việt trong thư tịch cổ Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội (2002)
7. TRẦN HOÀN (NGUYỄN TĂNG HÍCH)
Trần Hoàn (1928- 2003), người làng Câu Nhi, Xã Hải Tân, huyện Hải Lăng.
Lĩnh vực hoạt động: Âm nhạc, văn hóa – văn nghệ.
Trong kháng chiến chống Pháp hoạt động văn hóa, văn nghệ ở Liên khu IV,
Liên khu III và Hà Nội. Từ năm 1954- 1964, Giám đốc Sở Văn hóa- Thông tin
Hải Phòng.
Trong kháng chiến chống Mỹ, Phó trưởng ban Tuyên huấn Khu ủy Trị
Thiên. Từ năm 1987- 1996 là Ủy viên Trung ương Đảng các khóa VI, VII;
Bộ trưởng Bộ Văn hóa- Thông tin; Chủ tịch Liên hiệp các hội Văn học
Nghệ thuậtTrung Ương
Các tác phẩm đã xuất bản, Những ca khúc tiêu biểu:
60
Sơn nữ ca (1948) Lời người ra đi (1961) Lời ru trên nương (1971) Chiều
trên Gio Cam giải phóng (1973) Một mùa xuân nho nhỏ (1980) Giữa Mạc Tư
Khoa nghe câu hò ví dặm (1980) Lời Bác dặn trước lúc đi xa (1990)
- Những tác phẩm tiêu biểu
Tuyển tập văn hóa- âm nhạc, Nxb. Văn hóa- Thông tin (1997)
Tuyển tập ca khúc Trần Hoàn, Nxb. Âm nhạc (1995)
Những kỷ niệm khó quên, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội (1998)
Giải thưởng:
Giải thưởng Hồ Chí Minh và nhiều huân huy chương khác.
8. PHAN VĂN HY (bút danh KỈNH CHỈ)
Phan Văn Hy (1890- ?), người làng Nhan Biều, xã Triệu Thượng, huyện
Triệu Phong. Ông là một thầy thuốc nổi tiếng ở Quảng Trị. Trước cách mạng tháng
Tám, ông từng được phái thân Nhật đưa ra làm Tỉnh trưởng Quảng Trị. Sau đó,
ông xin giao chính quyền lại cho Cách mạng và tiếp tục hành nghề y tại chiến khu
Ba Lòng. Năm 1947, trong một trận càn ông bị thực dân Pháp bắt đưa về thị xã
Quảng Trị. Cuối đời ông vào Sài Gòn hành nghề Y và mất ở đó. Ngoài hoạt động
trong ngành Y ông còn làm thơ, các tác phẩm của ông được rút ra từ tuyển “Hương
Bình thi phẩm” của Hoàng Trọng Thược
9. CHÂU LOAN
Châu Loan (1926- ?), người xã Vĩnh Giang, huyện Vĩnh Linh.
Nghệ sĩ biểu diễn, chuyên ca Huế và ngâm thơ. Châu Loan đam mê ca hát từ
nhỏ. Năm 7 tuổi đã được bố dạy đàn hát, theo bố vào Huế hát; Ở vào tuổi vị thành
niên giọng hát của bà đẹp hoàn hảo. Năm 1947 bà theo bố ra Hà Nội hát thuê từng
buổi có phát sóng cho đài phát thanh Pháp – Á. Năm 1954 hòa bình lập lại, bà
được chính thức Đài Tiếng nói Việt Nam mời vào làm việc trong tổ ca nhạc. Năm
1957 bà là một trong số những nghệ sĩ được Nhà nước cử đi dự Đại hội Thanh niên
thế giới lần thứ nhất (Vacsava- Ba Lan) giới thiệu những làn điệu dân ca dân tộc.
Bằng tiếng hát của mình, bà đã đi phục vụ từ Việt Bắc, Tây Bắc, đến các hải
đảo, biên cương… Tiếng hát của bà đã tác động sâu sắc đến đông đảo công chúng,
kể cả phia đối diện trong thời kỳ chiến tranh. Giọng ngâm thơ của bà đã đưa chất
nhạc truyền thống của Huế đến với thơ. Bà đã xử lý một cách sáng tạo âm thanh ca
Huế với ngữ điệu Huế; thành công nổi trội ở một số bài: Ba mươi năm đời ta có
61
Đảng, Xuân 61, Mẹ Suốt (thơ Tố Hữu)… Nhiều nghệ sĩ ngâm thơ đã học tập, tiếp
nối phong cách của bà.
Châu Loan là một nghệ sĩ lớn, giọng ca của bà còn đọng mãi trong lòng
khán giả, người nghe.
10. VĨNH MAI
Vĩnh Mai (1918- 1981), người làng An Tiêm, xã Triệu Thành, huyện Triệu
Phong. Năm 1936, tham gia hoạt động trong phong trào thanh niên ở Huế. Năm
1940- 1945, bị giam tại nhà lao Buôn Mê Thuộc. Năm 1945- 1950, ông lần lược
giữ các chức vụ: Trưởng ty thông tin tuyên truyền tỉnh Phú Yên; Bí thư Thị ủy
Huế; Ủy viên thường vụ tỉnh Đảng bộ Quảng Trị. Sau hòa bình lập lại, ông công
tác lại Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật; phụ trách tổ thơ của tuần báo văn nghệ.
Các tác phẩm đã xuất bản
- Thơ:
Khóc hoài (1946). Người dân quân xã (1947)). Đôn và Thanh (1954). Lên
đường (1961). Tiếng hát (1971). Đất đen và hoa thắm (1982). Từ mùa xuân ấy
(1982). Chàng trai ấy (1992).
11. TÂN NHÂN
Tân Nhân, (tên khai sinh là Trương Thị Tân Nhân) người làng Mai Xá, xã
Do Mai huyện Do Linh, là Nghệ sĩ Ưu tú, lĩnh vực biểu diến Âm nhạc.
Bà tham gia hoạt động nghệ thuật từ năm 1945 tại Đoàn Văn công Quân đội
mặt trận Bình Trị Thiên. Năm 1954 là nghệ sĩ đơn ca của Đoàn Ca múa nhạc TW.
Năm 1963 tốt nghiệp Đại học thanh nhạc, năm 1969 bà đi tu nghiệp tại nhạc viện
Xoophia – Bungari, Năm 1973 công tác tại Đài Giải phóng và Đài tiếng nói Việt
Nam, bà là Ủy viên BCH Hội Nhạc sĩ Việt Nam khóa II.
Là giọng nữ cao trữ tình, nghệ sĩ Tân Nhân đã biểu diễn nhiều ca khúc nổi
tiếng như: Xa khơi (Nguyễn Tài Tuệ) Câu hò bên bến Hiền Lương (Hoàng Hiệp –
Đằng Giao) Tình quê hương (Trọng Bằng)… Bà còn tham gia đào tạo các thế hệ
diễn viên trong nước và quốc tế.
Khen thưởng:
Danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú
Huân chương chống Pháp hạng nhất
Huân chương chống Mỹ cứu nước hạng nhất
Nhiều Huy chương, Kỷ niệm chương và phần thưởng cao quý khác
62
12. PHAN QUANG
Phan Quang, sinh năm 1928 tại thôn Thượng Xá, xã Hải Thượng, huyện Hải
Lăng. Hội viên hội Nhà Báo; Hội viên hội Nhà văn Việt Nam.
Từ tháng 8- 1948 Biên tập viên báo Cứu quốc Liên khu IV. Từ 1949 đến
1950 phóng viên báo Cứu quốc hoạt động tại chiến trường Bình Trị Thiên, Hà
Nam Ninh, Thượng Lào…
Sau Hiệp định Geneve 1954 điều ra Bắc làm phóng viên, biên tập viên báo
Nhân dân cho đến năm 1982. Từng kinh qua các chức vụ:
Ủy viên Bộ Biên tập Báo Nhân dân, Vụ trưởng Vụ Báo chí; Tổng biên tập ,
Tạp chí Người làm báo; Tổng Giám đốc, Tổng biên tập Đài Tiếng nói Việt Nam,
Thứ trưởng Bộ Thông tin. Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam (nhiệm kỳ V, nhiệm kỳ
VI (1989 – 2000). Phó Chủ tịch Tổ chức quốc tế các nhà báo OIJ. Phó Chủ nhiệm
Ủy ban đối ngoại Quốc hội nhiệm kỳ VIII, IX, X. Là nhà báo Việt Nam có tên
trong từ điển: Những người nổi tiếng thế giới (Who’s who in the World của Mỹ
năm 1995 – 1996)
Đã xuất bản hơn 40 đầu sách, bao gồm các Tập truyện ngắn, Truyên vừa,
các Tập Ký, đặc biệt là các Tiểu luận và chân dung: Theo dòng thời cuôc (1995),
Về diện mạo Báo chí Việt Nam (2001) Phác họa chân dung (2004), Tuyển tập
Phan Quang (1999). Ông cũng là một dịch giả văn học, đã dịch và giới thiệu nhiều
tác phẩm.
Khen thưởng
Huân chương kháng chiến hạng nhì
Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhất
Huân chương Bắc đẩu bội tinh của Cộng hòa Pháp năm 2000
Huy chương vàng OIJ…
13.TRẦN THANH TÂM
Trần Thanh Tâm (1924 – 2009) còn có tên (Trần Đình Giải ) bút danh
Trần Hà Trung, Hà Lạc
Người làng Hà Trung xã Do Châu, huyện Do Linh.
Đại tá QĐND Việt Nam, họa sĩ, hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam.
Trong kháng chiến chống Pháp làm báo Vệ quốc quân, Quân khu IV
Tác phẩm đã xuất bản:
63
Những mẫu chuyện về Xô viết Nghệ Tĩnh (viết chung với Trần Hữu Thung) Nxb
Phổ thông 1955. Cờ đỏ bên sông Lam, Nxb Văn hóa Hà Nội 1956. Ông vua đen,
Nxb Thanh niên- Hà Nội 1958. Tiếng đàn người hát dạo, Nxb Thanh Niên 1960.
Nam Đàn quê hương Chủ tịch Hồ Chí Minh, Địa phương chí (viết chung với Ninh
Viết Giao) Nxb KHXH, Hà Nội 1989. Quan chức nhà quyền, Nxb Thuận Hóa
1995. Quăng gương xuống hồ, Nxb Công an ND, Hà Nội 1995. Địa danh Thành
phố Huế (cùng với Huỳnh Đình Kết) Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội
Về tranh và điêu khắc:
Xô Viết Nghệ Tĩnh, (trưng bày tại Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh). Trận Sen
hạ (trưng bày tại Bảo tàng Quân khu IV). Tượng Hải thượng Lãn ông (tại Học viện
Quân Y)
Khen thưởng:
Huân chương kháng chiến chống Pháp hạng nhì.
Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng nhất
Huy chương vì sự nghiệp xây dựng Bảo tàng Quốc gia
14. HOÀNG THI THƠ
Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, (1928- 2001) tại làng Bích Khê, huyện Triệu Phong, tỉnh
Quảng Trị, ông bắt đầu sáng tác và hoạt động văn học nghệ thuật từ năm 1945.
Năm 1948 học trường Trung học Huỳnh Thúc Kháng Nghệ An. Có năng khiếu về
âm nhạc ngoại ngữ. Ông gia nhập Quân đội nhân dân Việt Nam một thời gian, hoạt
động văn hóa văn nghệ ở Liên khu IV. Năm 1951 rời vùng kháng chiến trở về
vùng tạm chiếm miền Nam. Từ đó đến năm 1975 làm công tác giảng dạy ngoại
ngữ, sáng tác âm nhạc, viết sách nghiên cứu âm nhạc.
Ông có trên 500 ca khúc từ tình cảm đến nhạc quê hương, dân ca đến nhạc thời
trang, đoản khúc đến trường ca, nhạc cảnh đến nhạc kịch. Nhiều bài hát của ông đã
rất quen thuộc với người Việt Nam từ những năm 1950 cho đến sau năm 1975,
nhất là những bản nhạc có tính chất dân gian, mộc mạc có âm hưởng quê hương đã
đi vào lòng người như "Rước tình về với quê hương", "Rong chơi cuối trời quên
lãng", "Đường xưa lối cũ", "Tà áo cưới", "Trăng rung xuống cầu", Gạo trắng trăng
thanh", "Đám cưới trên đường quê", "Duyên Quê", "Tình ta với mình"
Ngoài ra Hoàng Thi Thơ cũng sáng tác những bản tình ca kể lại những mối
tình lứa đôi như: "hồng nhạc bạc mệnh", "Chuyện tình cô lái đò Bến Hạ", "Chuyện
tình La Lan", "Chuyện tình người trinh nữ tên Thi", "Nỗi buồn Châu Pha"…
Sau năm 1975, sang định cư tại Hoa Kỳ, tiếp tục hoạt động nghệ thuật, âm nhạc.
64
15. ĐỖ HẢI THUẬN
Đỗ Hải Thuận (1806 – 1896), ông được sinh ra tại làng Bích Khê, huyện
Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, pháp danh là Thích Diệu Giác.
Năm 1818, ông vào tu ở chùa Báo Quốc, năm 1825, thọ giới với Hoà thượng
Bổn Giác, năm 1839, được triều đình ban cấp giới đao độ điệp và được Hoà
thượng Thích Nhất Định truyền tâm ấn.
Ông từng giữ chức trú trì và Tăng Cang ở chùa Diệu Đế, có công trùng tu các
chùa Thiền Lâm, Báo Quốc, Kim Tiên. Năm 1895, ông mở đại giới đàn ở chùa
Báo Quốc và từng truyền pháp cho các đệ tử Tâm Quảng, Tâm Thế, Tâm Truyền,
Tâm Định.
16. THÍCH BÍCH PHONG
Thích Bích Phong (1901 - 1968), Thiền sư, họ Nguyễn, pháp danh Chân Đạo,
pháp tự là Chánh Thống, nên thường gọi là thiền sư Chân Đạo Chánh Thống, quê
làng Trung Kiên, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, sinh ra trong một gia đình
Phật giáo thuần thành nhiều đời, nhưng coi Nho giáo như một bộ phận thiết yếu
của đạo lý sống Phật giáo.
Năm 1914, ông được cha mình đưa vào Huế xuất gia với thiền sư Ngộ Tánh
Phước Huệ tại chùa Kim Quang. Năm 1919, ông thọ giới Sa di, thuộc đời thứ 40
của dòng thiền Thập Tháp phái Lâm Tế. Hai năm sau, thọ Cụ túc giới. Năm 1927,
ông vào Bình Định học với thiền sư Phước Huệ tại chùa Thập Tháp, đến 1929 thì
trở về Huế. Sau đó ông tích cực tham gia phong trào chấn hưng Phật giáo, năm
1932 An Nam Phật học hội ra đời, ông trở thành giảng sư của Hội Phật học, đồng
thời là “Phật học Cao đẳng học sanh” của lớp Đại học Phật học đầu tiên của thế kỷ
XX do thiền sư Giác Tiên cùng bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám tổ chức tại chùa
Tây Thiên. Năm 1937, ông được thỉnh làm chủ toạ chùa Qui Thiện, sắc chức tăng
cang cấp bỗng hàng tháng, để lãnh đạo trụ trì tự trưởng các chùa. Từ đấy, ông
thường đi đây đó, khi ra Bắc, lúc vào Nam để giảng dạy, tâm chú vào sự nghiệp
giáo dục và văn nghệ để phục vụ cho đạo pháp và dân tộc…
Ngày 22 tháng chạp năm Đinh Mùi (nhằm ngày 21 tháng 01 năm 1968), trong
một cơn đau sơ, thiền sư viên tịch trở về nước Phật.
Hoà thượng Thích Bích Phong tức thiền sư Chân Đạo Chánh Thống đã để lại
bộ Thuỷ nguyệt tòng sao với gần 500 bài thơ và những đoạn văn ngắn có giá trị
nghệ thuật cao cho cả đạo lẫn đời.
65
17. THÍCH ĐÔN HẬU
Thích Đôn Hậu - Diệp Trương Thuần (1905-1992), người làng Xuân An, tổng
An Đồn, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Xuất thân trong một gia đình nho học.
Năm lên 17 tuổi đã thuộc làu kinh sử Nho học. năm 1924, xuất gia học Phật với
Hòa thượng Tâm Tịnh tại chùa Tây Thiên, Huế. Năm 1932, học Đại học Phật giáo
và thọ tam giới đàn cụ túc tại đàn chùa Từ Hiếu, Huế. Năm 1936, tốt nghiệp Đại
học Phật giáo, được mời làm giảng sư của Hội An Nam Cộng sản đảng Phật học
hội. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông trú trì tại chùa Thiên Mụ (Huế), giữ chức
Chủ tịch Hội Phật giáo cứu quốc, kiêm Chủ tịch Hội Phật giáo tỉnh Thừa Thiên
Huế. Năm 1947, mặt trận Huế vỡ, ông bị Pháp bắt giam một thời gian. Sau khi
được trả tự do, ông làm Hội trưởng Tổng trị sự Hội Phật học Trung Việt, Giám luật
Giáo hội Tăng già toàn quốc, chủ nhiệm báo Liên hoa ở Huế. Từ năm 1963 đến
1969, ông tham gia nhiều hoạt động yêu nước, đấu tranh chống lại chế độ độc tài
Ngô Đình Diệm. Ông được mời tham gia Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ
và hòa bình Việt Nam. Ông từng giữ các chức vụ: Ủy viên Hội dồng cố vấn Chính
phủ lâm thời Miền Nam Việt Nam, Cố vấn chính phủ các mạng lâm thời Miền
Nam Việt Nam, Đại biểu Quốc hội khóa VI… Ông là tác giả của các sách về
phương pháp tu học và giáo lý đạo Phật: Cách thức sám hối các tội đã phạm,
Phương pháp tu quán, Tứ nhiếp pháp, Cảm ứng tự nhiên…
18. THÍCH GIÁC NHIÊN
Thích Giác Nhiên (1878-1979), quê Quảng Trị. Hoà thượng là một trong các
Danh tăng của Phật giáo Việt Nam đã suốt đời hiến dâng cho Dân tộc - Đạo pháp.
Thuở nhỏ, ngài bắt đầu theo học chữ Nho, với tư chất thông minh, không bao
lâu, Ngài đã tinh thông Nho học. Sau hai mươi ba năm tu học, Ngài chuyên tâm
nghiên cứu tinh yếu của Kinh Luật Đại thừa, đặc biệt Ngài đã sử dụng phần lớn
thời gian trong việc Thiền định. Đến năm Canh Tuất, (1895), Triều Duy Tân, Ngài
cùng với Hòa Thượng Tịnh Khiết Thọ Tam đàn Cụ túc tại Giới đàn Chùa Phước
Lâm (Hội An).
Năm 1932, cùng các Hòa Thượng Phước Huệ (Chùa Thập Tháp, Bình Định),
Giác Tiên, HT. Giác Hạnh, cư sĩ Tâm Minh, Trương Xướng ... Sáng lập Hội An
Nam Phật Học. Hội đã Cung thỉnh Ngài đảm nhiệm chức vụ Chứng minh Đại Đạo
sư và kiêm nhiệm Giám đốc Phật học đường Tây Thiên - Huế.
Năm 1934, Ngài làm Trú trì Quốc tự Thánh Duyên (Túy Vân, Huế), một trong
ba Quốc tự lớn tại Thừa Thiên (Linh Mụ, Thánh Duyên, Diệu Đế).
66
Năm 1956, Ngài được Giáo hội Phật Giáo Trung phần cung thỉnh vào chức vụ
Viện trưởng Phật học viện Hải Đức – Nha Trang (Cơ quan đào tạo Tăng tài của
Phật Giáo Trung phần).
Năm 1958-1962, Ngài liên tiếp đảm nhận chức Chánh Hội trưởng Tổng Trị sự
Hội Phật giáo Trung phần trong suốt 4 niên khóa. Trong thời gian này, với tuổi
trên 80, Ngài vẫn chu toàn nhiệm vụ, kinh lý, nhiều lần đến các Hội Phật Giáo
khắp nơi ở Cao nguyên và Trung nguyên.
Ngài một lòng hy sinh vì Đạo, đích thân dẫn đầu cuộc biểu tình của Tăng tín đồ
Phật giáo Thừa Thiên Huế, mở đầu phong trào vận động đòi hỏi tự do tín ngưỡng
và bình đẳng Tôn giáo vào chiều ngày 14 tháng 4 năm 1963 (Quý Mão)
19. THÍCH TRÍ THỦ
Thích Trí Thủ (1909 – 1984), cao tăng, nhà Thiền học, thế danh là Nguyễn
Văn Kính, quê làng Trung Kiên, tổng Bích La, tỉnh Quảng Trị. Năm 14 tuổi, ông
vào làm chú điệu ở chùa Hải Đức, Huế. Cuối năm 1934, ông được thỉnh vào ban
giảng sư Hội Phật học. Năm 1939, ông làm trú trì chùa Ba La Mật, lại được Sơn
môn giáo và An Nam Phật học cử đặc trách việc đào tạo Ni chúng. Năm 1942, ông
được bổ về làm trú trì chùa Báo Quốc.
Năm 1964 đến 1974, ông đảm nhiệm chức vụ Viện trưởng Viện Hoá đạo,
Tổng vụ trưởng Tổng vụ Hoằng pháp, Tổng vụ trưởng vụ Tài chính của
GHPGVNTN.
Năm 1981, ông là Trưởng ban vận động thống nhất Phật giáo Việt Nam và
sau Đại hội ông được bầu làm Chủ tịch Ban thường trực Hội đồng Trị sự giáo hội
Phật giáo Việt Nam.
Ông là người đức hạnh, suốt đời tận tuỵ cho sự nghiệp của Giáo hội, nhất là
việc đào tạo tăng tài. Ông là tác giả của gần 20 công trình dịch và sáng tác gồm đủ
cả Kinh, Luật, Luận và sách hoằng giáo …Ông mất ngày 02 tháng 03 năm Giáp
Tý, 1984, thọ được 76 tuổi đời, với gần 60 tuổi đạo.
20. NGUYỄN KHẮC THỨ
Nguyễn Khắc Thứ (1921- 1990): người thôn An Cư, xã Triệu Phước,
huyện Triệu Phong. Là hội viên hội nhà văn Việt Nam năm 1957. Ông từng là cán
bộ quân đội từ hồi đầu kháng chiến chống Pháp, hoạt động chủ yếu tại chiến
trường Bình Trị Thiên. Sau hòa bình, ông được điều về Tổng cục Chính Trị dự trại
67
sáng tác viết về anh hùng quân đội. Sau thời gian sáng tác, ông về làm cán bộ thư
viện quân đội cho đến lúc nghỉ hưu.
Tác phẩm đã xuất bản:
-Trận Thanh Hương (truyện ký, 1955)
-Đất chuyển (tiểu thuyết, 1958)
-Bản án tử hình (truyện, 1966)
-Phá kho bom Tân Sơn Nhất (truyện, 1966)
-Hẹn hò (truyện, 1966)
21. THANH TỊNH
Thanh Tịnh (1911- 1988): tên khai sinh là Trần văn Ninh, sau đổi thành
Trần Thanh Tịnh. Người quê Gio Linh. Ông là nhà thơ, ngoài ra còn làm ca dao,
viết kịch, viết báo; ông được coi là người sáng tạo ra thể “tấu nói”, đi đầu trong lối
viết “những đoạn văn ngắn” và là nhà văn có nhiều giai thoại văn học. Đảng viên
Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam năm 1957.
Nhà thơ Thanh Tịnh từng là học sinh trường dòng Pellerin ở Huế, làm nghề
hướng dẫn viên du lịch, dạy học, nhân viên đo đạt ruộng đất, có thơ in trong Thi
nhân Việt Nam, xuất bản năm 1942. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, ông giữ
chức vụ Tổng thư ký Hội Văn hóa cứu quốc Trung Bộ, đầu quân phụ trách đoàn
kịch “Chiến Thắng” của quân đội. Khi tạp chí Văn Nghệ quân đội ra đời, ông đảm
nhiệm chức vị Phó Chủ nhiệm rồi Chủ nhiệm, Ủy viên BCH Hội Nhà văn Việt
Nam khóa (I, II), Ủy viên Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam.
Cấp bậc Đại tá Quân đội trước khi nghỉ hưu.
Tác phẩm đã xuất bản
-Ngậm ngãi tìm trầm (truyện ngắn, 1943)
-Quê mạ (truyện ngắn, 1941)
-Chị và em (truyện ngắn, 1942)
-Xuân và Sinh (truyện ngắn, 1944)
-Hậu chiến trường (thơ, 1937)
-Sức mồ hôi (ca dao, 1954)
-Thơ ca (thơ, 1973)
-Đi giữa mùa sen (truyện thơ, 1980)
-Thanh Tịnh đời và văn, 1996
Giải thưởng:
68
Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam (1951- 1952) cho những bài độc tấu
xuất sắc.
22.TÂN TRÀ
Tân Trà (1921- ?): tên khai sinh Lê Đình Hiên, người quê xã Hải Thọ,
huyện Hải Lăng.Trước năm 1945 làm nghề dạy học. Năm 1946, giữ chức vụ
Trưởng ty Bình dân học vụ, rồi Trưởng Ty Thông tin Quảng Trị, Ủy viên BCH
Tỉnh ủy Quảng Trị. Từ năm 1950- 1953, ông công tác tại Nha Bình dân học vụ.
Năm 1954, đảm nhiệm chức vụ Trưởng phòng Bổ túc văn hóa Sở Giáo dục Hà
Nội. Năm 1967, làm Chánh văn phòng Hội Văn nghệ Hà Nội cho đến ngày nghỉ
hưu.
Tác phẩm đã xuất bản
-Thơ bốn câu của Tân Trà (1967)
-Mắt biển (thơ, 1993)
Khen thưởng
Ông là người đầu tiên của ngành giáo dục Hà Nội được tặng thưởng Huân
chương Lao động về thành tích bổ túc văn hóa và xóa nạn mù chữ.
23. DƯƠNG TƯỜNG
Dương Tường (1926- 1953): ngưởi thôn Cương Gián, xã Trung Giang,
huyện Gio Linh. Tham gia cách mạng năm 1945. Năm 1948, nhóm văn nghệ
“Nguồn Hàn” được thành lập, ông đảm nhiệm chức Nhóm trưởng. Năm 1951, theo
quyết định của Chi hội Văn nghệ Liên khu IV, nhóm “Nguồn Hàn” được chuyển
thành Phân hội Văn nghệ tỉnh và ông giữ chức Phân hội trưởng. Năm 1952, ông
được kết nạp vào Hội Văn nghệ Việt Nam, cùng năm đó, ông chuyển về Ty Tuyên
truyền và Văn nghệ tỉnh. Năm 1953, ông hy sinh trong chuyến đi công tác và được
truy tặng liệt sĩ.
Ông viết rất nhiều thơ và đã được đăng trong Tuyển thơ của Hội nhà văn
Việt Nam.
Tác phẩm đã xuất bản
-Tiếng khóc những hàng dương (1949)
-Về làng (1949)
-Cây bí dân quân (1950)
69
Thơ ông viết khá nhiều, hiện chưa sưu tầm đầy đủ. Nhiều bài đã đưa vào
Tuyển thơ của Hội Nhà văn Việt Nam. Hiện nay, bạn bè, đồng đội, đồng chí của
ông đang sưu tầm để trong tương lai gần có một tuyển tập thơ của riêng ông.
24. NGUYỄN VIÊM
Bùi Viêm (1929- ?): người xã Triệu Tài, huyện Triệu Phong. Ông là nhà
nghiên cứu âm nhạc và là nhạc sĩ sáng tác. Sau năm 1954, ông tập kết ra Bắc và
tham gia học lớp sáng tác tai trường Âm nhạc Việt Nam. Sau đó tham gia nhóm
Nghiên cứu dân ca, rồi được cử sang làm chuyên gia âm nhạc tại Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Lào. Về nước, công tác tại phòng Văn nghệ Quân đội, phụ trách mục
“Bộ đội ta ca hát”. Năm 1958, ông chuyển sang nghiên cứu âm nhạc tại Bộ Văn
hóa- Thông tin. Tu nghiệp tại Nhạc viện Thượng Hải (Trung Quốc), Nhạc viện
Xôphia (Bungari). Trưởng ban Nghiên cứu âm nhạc thuộc Viện âm nhạc và múa.
Tác phẩm đã xuất bản
-Rừng xanh bừng sáng. Vì hòa bình thống nhất tổ quốc. Việt Nam- Hồ Chí
Minh. Bốn mùa. Em chào chị Hằng, chị Hằng chào em; Đàn T rưng (trích thơ Huy
Cận); Tác phẩm nhạc khí; Giao hưởng Giải phóng, sonate viết cho piano Niềm tin
son sắt; Tuyển chọn ca khúc Nguyễn Viêm và Album Nguyễn Viêm
Công trình nghiên cứu
-Quan họ Bắc Ninh (cùng viết với Lưu Hữu Phước, Tú Ngọc, Nguyễn Văn
Phú, Nxb. Văn hóa, 1965)
25. CHẾ LAN VIÊN
Chế Lan Viên (1920- 1989), tại Cam An, Cam Lộ (nay thuộc Phường Đông
Giang, TP Đông Hà). Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Hội viên sáng lập Hội
nhà văn Việt Nam ( 1957).
Trước Cách mạng tháng Tám Chế Lan Viên sống, học tập và làm thơ tại
Quy Nhơn (Bình Định) Ông sáng tác thơ khi còn rất trẻ, năm 1937.
Năm 1939 Chế Lan Viên ra học ở Hà Nội, sau đó làm Báo ở Sài Gòn, rồi
dạy học ở Thanh Hóa và Huế.
Cách mạng tháng Tám 1945 ông tham gia cách mạng ở Quy Nhơn, sau đó ra
Huế làm báo Quyết Thắng của Việt Minh Trung bộ.
Trong kháng chiến chống Pháp Chế Lan Viên công tác ở báo Liên Khu IV,
khi ở Thanh Hóa, khi ở vùng tạm chiếm Bình Trị Thiên.
70
Năm 1954 hòa bình lập lại Chế Lan Viên về sống ở Hà Nội, Ông đã đảm
nhiệm các chức vụ : Ủy viên Thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam. Đại biểu Quốc
hội các khóa IV,V,VI,VII. Ủy viên Ban Thống Nhất của Quốc hội khóa VI, VII.
Ủy viên Ban thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Sau ngày đất nước thống nhất, Chế
Lan Viên vào công tác và sáng tác hoạt động văn học tại thành phố Hồ Chí Minh
Các tác phẩm đã xuất bản
- Thơ
Điêu tàn (1937). Gửi các anh (1954). Ánh sáng và phù sa (1960). Hoa ngày
thường, chim báo bão (1967). Những bài thơ đánh giặc (1972). Đối thoại mới
(1973). Hoa trước lăng Người (1976). Hái theo mùa (1977). Hoa trên đá (1985).
Tuyển tập Chế Lan Viên (1985). Di Cảo I (1994), Di cảo II (1995)
- Văn xuôi
Vàng sao (1942). Thăm Trung Quốc (1963). Những ngày nổi giận (1966).
Giờ của số thành (1977).
Khen thưởng
Huân chương Độc lập hạng Hai
Giải thưởng
Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học- Nghệ thuật (1996);
Giải A của Hội Nhà văn Việt Nam cho tác phẩm Hoa trên đá (1995)
Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam cho tác phẩm Di cảo I và Di cảo II (1994)
DANH SÁCH CÁ NHÂN ANH HÙNG LƯC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN
(Xếp theo thứ tự thời gian được phong tặng, truy tặng)
STT Họ và tên Năm
sinh
Quê quán Cấp bậc, chức vụ, đơn
vị
Thời gian
phong tặng,
truy trặng
1 Võ Thiết 1920 Hải Dương, Hải
Lăng, Quảng Trị
Tiêu đoàn phó thuộc
Đại đoàn 305
7-5-1956
2 Lê Văn Ban 1933 Vĩnh Giang, Vĩnh
Linh, Quảng Trị
Trung đội trưởng dân
quân xã Vĩnh Giang,
Vĩnh Linh
1-1-1967
3 Phan Thanh
Chung
1954 Hải Thượng, Hải
Lăng, Quảng Trị
Trung đội phó thuộc
Tiểu đoàn 10, bộ đội
đặc công tỉnh Quảng
Trị
17-9-1967
71
4 Trương Thị
Khuê
1946 Vĩnh Thủy, Vĩnh
Linh, Quảng Trị
Xã đội phó xã Vĩnh
Thủy, Vĩnh Linh
18-6-1969
5 Nguyễn Chí Phi
(Nguyễn Chí
Ngọc)
1931 Trung Giang, Gio
Linh, Quảng Trị
Đại úy, Chính trị viên
Tiểu đoàn 10, bộ đội
đặc công tỉnh Quảng
Trị
22-12-1969
6 Trương Thành
Nam ( Trương
Công Nã)
1939 Vĩnh Giang, Vĩnh
Linh, Quảng Trị
Thượng sĩ, Trinh sát
viên, thuộc Phân đội
319, Công an nhân
dân vũ trang Vĩnh
Linh
28-5-1970
7 Hồ Soi 1943 Kỳ Nơi, Hướng
Hóa, Quảng Trị
Đại đội trưởng Đại đội
4 vẩn tải gùi thồ, Cục
Hậu cần, Quân khu
Trị Thiên
19-5-1972
8 Trần Thị Tâm
(Liệt sĩ)
1948 Hải Khê, Hải
Lăng, Quảng Trị
Chính trị viên xã đội,
Bí thư chi bộ xã Hải
Khê, Hải Lăng
19-5-1972
9 Đào Xuân
Hướng ( Đào
Xuân Phương)
1932 Vĩnh Chấp, Vĩnh
Linh, Quảng Trị
Trung úy, Đội trưởng
đội công tác cơ sở,
Đồn biên phòng Cù
Bai, Công an nhân dân
vũ trang Vĩnh Linh.
3-9-1973
10 Trương Văn Đo 1927 Vĩnh Sơn, Vĩnh
Linh,Quảng Trị
Xã đội trưởng xã Vĩnh
Sơn, Vĩnh Linh
3-91973
11 Trương Quang
Thọ
1948 Gio Hải, Gio
Linh, Quảng Trị
Xã đội trưởng xã Gio
Hải, Gio Linh
20-12-1973
12 Văn Thị Xuân 1948 Hải Phú, Hải
Lăng, Quảng Trị
Xã đội phó xã Hải
Phú, huyện Hải Lăng
20-12-1973
13 Lê Thị Tám 1973 Triệu Thượng,
Triệu Phong,
Quảng Trị
Thượng úy, Chính trị
viên phó Huyện đội
Triệu Phong tỉnh Bình
Trị Thiên
3-6-1976
14 Nguyên Thị Lý
(Liệt sĩ)
1950 Triệu Hòa, Triệu
Phong, Quảng Trị
Trinh sát vũ trang,
Ban an ninh xã Triệu
Hòa, Triệu Phong
6-6-1976
15 Lê Văn Kỉnh 1940 Triệu Sơn, Triệu
Phong, Quảng Trị
Trưởng Ban an ninh
xã Triệu Sơn, Triệu
Phong
6-11-1978
16 Phan Hữu Sính
(Liệt sĩ)
1944 Vĩnh Thái, Vĩnh
Linh, Quảng Trị
Tiểu đội trưởng, Đội
trinh sát vũ trang,
Công an thành phố
13-8-1980
72
Huế
17 Nguyên Đức
Hành
1960 Triệu Phước,
Triệu Phong,
Quảng Trị
Hạ sĩ, Tiểu đội phó
trinh sát thuộc Tiểu
đoàn 504, Trung đoàn
320 Mặt trận 779,
Quân khu VII
30-8-1989
18 Trần Công Tiện
(Liệt sĩ)
1920 Triệu Sơn, Triệu
Phong, Quảng Trị
Đại úy, Công an nhân
dân vũ trang Vĩnh
Linh
3-8-1995
19 Hoàng Hữu
Quốc ( Liệt sĩ)
1942 Cam Nghĩa, Cam
Lộ, Quảng Trị
Đội phó Đội an ninh
vũ trang, Ban an ninh
huyện Cam Lộ, Quảng
Trị
3-8-1995
20 Lê Văn Quang
(Liệt sĩ)
1930 Trung Sơn, Gio
Linh, Quảng Trị
Tiểu đội trưởng, Đội
trinh sát vũ trang
thuộc Công an nhân
dân vũ trang Vĩnh
Linh
3-8-1995
21 Nguyễn Văn
Hưng (Liệt sĩ)
1927 Đông Lương,
Đông Hà, Quảng
Trị
Đội trưởng Đội trinh
sát vũ trang, Ban an
ninh tỉnh Quảng Trị
3-8-1995
22 Lê Quang
Thiệu(Liệt sĩ)
1948 Gio Mỹ, Gio
Linh, Quảng Trị
Đội trưởng Đội trinh
sát vũ trang, Ban an
ninh huyện Gio Linh
3-8-1995
23 Mai Văn
Toàn(Liệt sĩ)
1932 Hải Ba, Hải Lăng,
Quảng Trị
Phó trưởng Ban an
ninh huyện Hải Lăng
3-8-1995
24 Nguyễn Ngọc
Thiết (Liệt sĩ)
1947 Hải Lệ, Hải
Lăng,Quảng Trị
Đội trưởng Đội trinh
sát vũ trang Ban an
ninh huyện Hải Lăng
3-8-1995
25 Lê Thanh Cải
(Liệt sĩ)
1940 Vĩnh Thành, Vĩnh
Linh,Quảng Trị
Đội trưởng Đội trinh
sát vũ trang, Ban an
ninh huyện Cam Lộ
29-1-1996
26 Lê Công
Hiệu(Liệt sĩ)
1940 Vĩnh Nam, Vĩnh
Linh,Quảng Trị
Đội trưởng Đội trinh
sát vũ trang, Ban an
ninh huyện Triệu
Phòng
19-1-1996
27 Trần Hữu Thủy 1944 Hải Phú, Hải
Lăng,Quảng Trị
Trinh sát an ninh, Ban
an ninh Huyện Hải
Lăng
19-1-1996
28 Lê Hữu Trữ(Liệt
sĩ)
1928 Triệu Bình, Triệu
Phong,Quảng Trị
Trung tá, Sư đoàn,
trưởng Sư đoàn 2,
23-7-1997
73
Quân khu V
29 Lê Thị
Tuyết(Liệt sĩ)
1949 Hải Xuân, Hải
Lăng,Quảng Trị
Y tế Huyện đội Hải
Lăng, Quảng Trị
23-7-1997
30 Đặng Dân(Liệt
sĩ)
1922 Triệu Thành,
Triệu Phong,
Quảng Trị
Huyện ủy viên,
Trưởng Ban an ninh
huyện Triệu Phong
22-7-1998
31 Hoàng
Kiềm(Liệt sĩ)
1930 Cam Thủy, Cam
Lộ,Quảng Trị
Cán bộ điệp báo thuộc
Tổng cục V, Bộ công
an
22-7-1998
32 Hoàng Quốc
Huy (Liệt sĩ)
1946 Cam Thủy, Cam
Lộ,Quảng Trị
Đội trưởng Đội trinh
sát vũ trang, Ban an
ninh Cam Lộ, Bí thư
xã Cam Thủy, Cam
Lộ, Quảng Trị
22-7-1998
33 Trần Thị Cúc
(Liệt sĩ)
1946 Gio Hải, Gio
Linh,Quảng Trị
Phó trưởng Ban an
ninh xã Gio Hải,
huyện Gio Linh
22-7-1998
34 Nguyễn
Thủy(Liệt sĩ)
1922 Ba Lòng,
Đakrông,Quảng
Trị
Phó Bí thư Tỉnh ủy,
Phó trưởng Ban an
ninh khu vực Trị-
Thiên-
Huế, Trưởng Ban an
ninh Quảng Trị
22-7-1998
35 Văn Kiếm(Liệt
sĩ)
1927 Triệu Trạch,
Triệu
Phong,Quảng Trị
Thiếu tá, Tiểu đoàn
trưởng Tiểu đoàn 808
bộ binh tỉnh Quảng
Trị, TMT Mặt trận 7,
Quân khu Trị - Thiên
– Huế
31-7-1998
36 Nguyễn Thị
Cam(Liệt sĩ)
1948 Gio Thành, Gio
Linh, Quảng Trị
Xã đội phó xã Gio
thành, Gio Linh
11-6-1999
37 Hồ Thị Đá 1918 Hướng Tân,
Hướng Hóa,
Quảng Trị
Hội trưởng Hội Phụ
nữ huyện Hướng
Hóa,Quảng Trị
11-6-1999
38 Mai Chiếm
Cương(Liệt sĩ)
1924 Cam Giang, Cam
Lộ, Quảng Trị (
nay là Đông
Giang, Đông Hà)
Huyện ủy viên huyện
Cam Lộ
11-6-1999
39 Nguyễn Thị
Dưỡng(Liệt sĩ)
1947 Phường 4, Đông
Hà,Quảng Trị
Bí thư Thị đoàn, thị xã
Đông Hà, Quảng Trị
28-4-2000
40 Nguyễn Văn
Khi(Liệt sĩ)
1950 Cam Chính, Cam
Lộ, Quảng Trị
Chíến sĩ du kích mật
hoạt động hợp pháp
28-4-2000
74
của xã Cam Chính,
Cam Lộ
41 Nguyễn Ngọc
Lễ(Liệt sĩ)
1947 Gio Hải, Gio
Linh,Quảng Trị
Xã đội trưởng xã Gio
Hải, Gio Linh
28-4-2000
42 Nguyễn Thị
Ơn(Liệt sĩ)
1932 Gio Việt, Gio
Linh, Quảng Trị
Phó Bí thư Chi bộ
thôn An Trung, Gio
Việt, Gio Linh
8-11-2000
43 Nguyễn Văn
Giáo (Liệt sĩ)
1932 Triệu Trung,
Triệu Phong,
Quảng Trị
Huyện đội phó, Huyện
đội Triệu Phong
23-5-2005
44 Lê Hữu Châu
(Liệt sĩ)
1945 Cẩm Phổ, Trung
Giang(nay là xã
Gio Mỹ), Gio
Linh, Quảng Trị
Du kích xã Trung
Giang, Gio Linh
5-12-2007
45 Ngô Thị Diệm 1924 Vĩnh Thành, Vĩnh
Linh,Quảng Trị
Chiến sĩ du kích xã
Vĩnh Thành, Vĩnh
Linh
5-12-2007
46 Lê Kiên(Liệt sĩ) 1942 Hải Lâm,Hải
Lăng,Quảng Trị
Chuẩn úy, Đội trưởng
an ninh, Ban an ninh
Hải Lăng
8-6-2009
47 Nguyễn Sen
(Liệt sĩ)
1940 Gio Mỹ, Gio
Linh, Quảng Trị
Phó Bí thư chi bộ, Đội
công tác thuộc Ban
binh vận H6
23-2-2010
48 Võ Duy Kinh 1914 Triệu Phước,
Triệu Phong,
Quảng Trị
Cán bộ giao bưu và
thông tin liên lạc tỉnh
Quảng Trị
23-2-2010
49 Đào Thanh Mai
(Liệt sĩ)
1932 Hải Thượng,Hải
Lăng, Quảng Trị
Đại đội phó Đại đội 3,
K10 đặc công, Tỉnh
đội Quảng Trị
23-2-2010
50 Trần Hữu Lưu 1961 Vĩnh Tú, Vĩnh
Linh, Quảng Trị
Đội trưởng Đội 584,
Bộ chỉ huy quân sự
tỉnh Quảng Trị
11-11-2010
51 Trương Hữu
Quốc
Hải Phú, Hải
Lăng,Quảng Trị
Thiếu tướng, Tổng
cục trưởng Tổng cục
Cảnh sát, Bộ Công an
17-10-2011
75
DANH SÁCH NHÀ GIÁO NHÂN DÂN, NHÀ GIÁO ƯU TÚ (1988-2017) 4
TT Họ tên - Chức vụ - Đơn vị công tác Năm khen
Nhà giáo Nhân dân
1 Ông Lê Phước Long - Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Quảng Trị 2008
Nhà giáo Ưu tú
1 Ông Nguyễn Minh Lai - Hiệu trưởng Trường Trung học phổ thông Tân Lâm 1988
2 Bà Trần Thị Minh Nhuận - Hiệu trưởng Trường Phổ thông dân tộc nội trú
tỉnh 1990
3 Ông Dương Ngọc Trai - Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo Vĩnh Linh 1990
4 Ông Lê Ngọc Bút - Nguyên Phó Hiệu trưởng Trường CNKTCGII, Bộ Thuỷ
lợi 1990
5 Bà Lê Thị Tưởng - Hiệu trưởng Trường Mầm non Hoa Sen, Đông Hà 1992
6 Ông Nguyễn Hữu Ái - Hiệu trưởng Trường Trung học phổ thông Cam Lộ 1992
7 Ông Hoàng Miên - Hiệu trưởng Trường Trung học phổ thông Đông Hà 1994
8 Ông Lê Biểu - Giáo viên Trường Trung học phổ thông thị xã Quảng Trị 1994
9 Ông Hoàng Minh Long - Hiệu trưởng Trung học phổ thông thị xã Quảng Trị 1997
10 Ông Trần Viết Vượng - Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo Đông Hà 1997
11 Ông Trần Quang Việt - Chủ tịch Công đoàn Giáo dục tỉnh 1997
12 Ông Hồ Sỹ Nguyên - Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo 1997
13 Ông Nguyễn Hữu Quang - Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo Triệu Phong 1998
14 Ông Nguyễn Viết Trai - Trưởng phòng Tổng hợp - Hành chính, Sở Giáo dục
và Đào tạo 1998
15 Ông Nguyễn Chiến Thắng - Phó Trưởng phòng Giáo dục Tiểu học, Sở Giáo
dục và Đào tạo 1998
16 Bà Thái Thị Khôn - Hiệu trưởng Trường Tiểu học thị trấn Hồ Xá, Vĩnh Linh 1998
17 Ông Trần Viết Lưu - Hiệu trưởng Trường Trung học phổ thông Vĩnh Linh 1998
18 Ông Nguyễn Ninh Thuận - Hiệu trưởng Trường Trung học cơ sở Nguyễn
Du, Đông Hà 2000
19 Ông Nguyễn Văn Hào - Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo Vĩnh Linh 2000
20 Ông Trương Đình Sỹ - Trưởng phòng Tổ chức cán bộ, Sở Giáo dục và Đào
tạo 2002
4 Sở GD&ĐT Quảng Trị (2009), Lịch sử Giáo dục Quảng Trị, NXB Thuận Hóa. Và tư liệu của Sở GD&ĐT.
76
21 Ông Dương Hùng - Hiệu trưởng Trường Trung học phổ thông Đông Hà 2002
22 Ông Trần Quang Chiến - Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo Đakrông 2002
23 Ông Trần Quốc Việt - Giảng viên Cao đẳng Sư phạm tỉnh Quảng Trị 2002
24 Ông Mai Hoa Cư - Giáo viên Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Quý
Đôn 2008
25 Ông Trần Văn Do - Hiệu trưởng Trường Trung học nông nghiệp và Phát
triển nông thôn tỉnh Quảng Trị 2008
26 Bà Trương Thị Em - Hiệu trưởng Trường Tiểu học Gio Phong, Gio Linh 2008
27 Ông Nguyễn Đăng Hậu - Hiệu trưởng Trường Trung học phổ thông Lê Lợi 2008
28 Ông Trần Lượng - Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo Gio Linh 2008
29 Bà Đặng Thị Minh - Hiệu trưởng Trường Tiểu học Kim Đồng, Vĩnh Linh 2008
30 Ông Hoàng Đức Thắm - Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo 2008
31 Ông Trương Sĩ Tiến - Nguyên Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo 2008
32 Ông Nguyễn Thanh - Nguyên Hiệu trưởng Trường Trung học Sư phạm Bình
Trị Thiên 2010
33 Ông Hoàng Ngọc Diệm - Nguyên Hiệu trưởng Trường Trung học Sư phạm
Bình Trị Thiên 2010
34 Bà Lê Thị Xuân Liên - Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Sư phạm Quảng Trị 2010
35 Bà Nguyễn Thị Ngọc Diệp - Hiệu trưởng Trường Tiểu học Võ Thị Sáu,
Vĩnh Linh 2010
36 Ông Nguyễn Chiến Thắng - Hiệu trưởng Trường Trung học cơ sở Lê Quý
Đôn, Vĩnh Linh 2010
37 Ông Trần Đới - Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo Hải Lăng 2012
38 Ông Lê Văn Khuyên - Hiệu trưởng Trường Trung học cơ sở Khe Sanh,
Hướng Hóa
2012
39 Bà Nguyễn Thị Hồng Tâm - Hiệu trưởng Trường Trung học phổ thông Phan
Châu Trinh 2012
40 Ông Nguyễn Xuân Chiến - Hiệu trưởng Trường Trung học phổ thông
Đakrông 2012
41 Ông Võ Văn Hoa - Phó Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo Hải Lăng 2014
42 Ông Nguyễn Trung Thành - Phó Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo Gio
Linh 2014
77
43 Ông Nguyễn Văn Bình, Nguyên Trưởng phòng GD&ĐT huyện Cam Lộ 2017
44 Ông Nguyễn Tiến Dũng, Hiệu trường Trường THPT thị xã Quảng Trị 2017
45 Bà Phan Thị Hoài, Hiệu trưởng Trường THPT Triệu Phong 2017
46 Ông Nguyễn Hoài Nam, Hiệu trưởng Trường THPT Vĩnh Linh 2017
47 Bà Nguyễn Thị Thu Thủy, Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo 2017
48 Bà Lê Thị Thu, Giáo viên Trường mầm non Bình Minh, Cam Lộ 2017