Người Xưa trở - WordPress.com...Quan Trung hơn bậc người tu, Hiếu ân bà mẹ giặc...

9
Người Xưa trở lại Ông Ba Thanh Vân hỏi: Đôi lời kính cẩn dám thưa qua, Mở lượng từ bi chỉ rõ mà. Thân thế hàng nào trong Phật quả? Hiệu danh đẳng cấp chốn Tiên gia? Ba mươi sáu tướng tài tài lắm, Một vị Quân Sư giỏi giỏi đa! Những bậc trên đây… như có một, Thương tôi dại dột, tỏ bày qua. Ông Hai Thanh Sĩ đáp: Người gần Thanh Sĩ mấy năm qua, Chẳng rõ là ai, mới lạ mà. Muốn biết tinh tường nơi quả vị, Nhìn vào hạnh nguyện hiểu nhơn gia! Bao nhiêu xét cũng chưa nhiều lắm, Gọi nửa duyên trần ấy thậm đa! Ớ hỡi Người Kiamuôn vẫn một, Cần chi gạn hỏi mới tìm ra! Sau khi Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ vắng bóng, ông Ba Thanh Vân và ông Hai Thanh Sĩ cùng mở khóa học đạo đức Bửu Sơn Kỳ Hương, có nhiều học viên tại Tây An Cổ Tự. Do thiên cơ diễn biến thời cuộc chuyển xây, ông Thanh Sĩ phải lên đường sang Nhựt Bản để tiếp tục con đường truyền bá đạo pháp, còn ông Thanh Vân vẫn tiếp tục ở chùa Tây An Cổ Tự giúp đỡ bạn đạo, và chờ cuộc thế lắng dịu ông tiếp nối con đường mà ông Thanh Sĩ thực hiện còn dở dang. Theo bài đáp họa của ông Thanh Sĩ: Ớ hỡi Người Kia… muôn vẫn một; một Phật một Thầy chớ không ai xa lạ, tùy cơ ứng biến hiện thân Bồ Tát độ tận chúng sanh. Không phải Cổ Nhân chỉ mượn có ba mươi sáu tướng như ông Thanh Vân hỏi, mà Cổ Nhân mượn muôn hình tướng khác nhau. Mỗi lần Phật Thầy giáng thế mượn xác trần, hình tướng đều bắt buộc phải khác, có khi Phật Thầy mượn xác người Miên da đen như trường hợp Đức Phật Trùm, có khi mượn xác nữ dốt như trường hợp Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh, và truyền giáo bằng những hình thức thi văn cũng khác; nhưng chỉ có một điều không khác, đó chính là nội dung Bửu Pháp ẩn tàng bên trong không khác, nội dung Bửu Pháp vẫn y như nguyên thủy. Bình đựng luôn thay dổi hình dạng màu sắc, nhưng rượu bên trong vẫn y như nguyên chất, y như cũ không khác. Người môn đồ thuần thành phải có cái tâm không chấp hình thức bên ngoài thi văn, mà hãy nhìn thẳng vào nội dung bên trong giáo lý. Ai chấp danh chấp tướng là rớt! Khi có người đạo thắc mắc hành trạng Người Thiện Nữ dốt thuyết pháp ứng khẩu, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh đáp: Cổ Nhân có một hồn phân muôn hình; hoặc là có lần Đức Cậu Bần Sĩ đáp: Người dốt nói pháp quá rành, Cổ lai tái thế thuộc dòng Bửu Sơn. Đúng vậy, Người Dốt nói pháp quá rành đó chính là Lục Tổ Huệ Năng Bồ Tát Di Lạc giáng trần nhiều lần mượn xác tái sanh tận độ bá gia trong buổi cuối Hạ Nguơn, khế hợp như Ngài Thanh Sĩ đáp: Ớ hỡi người kia…muôn vẫn một! Trong quyển Giác Mê Tâm Kệ viết năm 1939, Đức Huỳnh Giáo Chủ từng tuyên bố về hành trạng người dốt nói pháp: Đức Lục Tổ ít ai dám sanh, Người dốt mà nói pháp quá rành. Lựa làm chi cao chữ học hành, Biết tỏ ngộ ấy là gặp đạo. Việc cổ tích cần chi phải thạo, Chuyện qua rồi kể lại làm chi. Nếu ai mà biết chữ tu trì, Tâm bình tịnh được thì phát huệ. Nam Mô A Di Đà Phật Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát Nam Mô Đức Phật Tổ Phật Thầy Bửu Sơn Kỳ Hương Người Xưa trở lại đặng gào, Triết minh từng đoạn lập màu nhiều nơi. Người Xưa đâu được thảnh thơi, Cậy bút cơ trời giáo đạo Nam phương. Người Xưa nhắc nhở tận tường, Từ kim chí cổ dọn đường lợi quanh. Người Xưa đâu có giựt giành, Không chen không lấn mối manh hồng trần. Người Xưa ráng tịnh hồn thần, Đặng tu đắc đạo về lần báu châu. (Quay Về Nguồn Cội tr. 118, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh thuyết, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 1997)

Transcript of Người Xưa trở - WordPress.com...Quan Trung hơn bậc người tu, Hiếu ân bà mẹ giặc...

Người Xưa trở lại

Ông Ba Thanh Vân hỏi:

Đôi lời kính cẩn dám thưa qua, Mở lượng từ bi chỉ rõ mà. Thân thế hàng nào trong Phật quả? Hiệu danh đẳng cấp chốn Tiên gia? Ba mươi sáu tướng tài tài lắm, Một vị Quân Sư giỏi giỏi đa! Những bậc trên đây… như có một, Thương tôi dại dột, tỏ bày qua.

Ông Hai Thanh Sĩ đáp:

Người gần Thanh Sĩ mấy năm qua, Chẳng rõ là ai, mới lạ mà. Muốn biết tinh tường nơi quả vị, Nhìn vào hạnh nguyện hiểu nhơn gia! Bao nhiêu xét cũng chưa nhiều lắm, Gọi nửa duyên trần ấy thậm đa! Ớ hỡi Người Kia… muôn vẫn một, Cần chi gạn hỏi mới tìm ra!

Sau khi Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ vắng bóng, ông Ba Thanh Vân và ông Hai Thanh Sĩ cùng mở khóa học đạo đức Bửu Sơn Kỳ Hương, có nhiều học viên tại Tây An Cổ Tự. Do thiên cơ diễn biến thời cuộc chuyển xây, ông Thanh Sĩ phải lên đường sang Nhựt Bản để tiếp tục con đường truyền bá đạo pháp, còn ông Thanh Vân vẫn tiếp tục ở chùa Tây An Cổ Tự giúp đỡ bạn đạo, và chờ cuộc thế lắng dịu ông tiếp nối con đường mà ông Thanh Sĩ thực hiện còn dở dang.

Theo bài đáp họa của ông Thanh Sĩ: Ớ hỡi Người Kia… muôn vẫn một; một Phật một Thầy chớ không ai xa lạ, tùy cơ ứng biến hiện thân Bồ Tát độ tận chúng sanh. Không phải Cổ Nhân chỉ mượn có ba mươi sáu tướng như ông Thanh Vân hỏi, mà Cổ Nhân mượn muôn hình tướng khác nhau. Mỗi lần Phật Thầy giáng thế mượn xác trần, hình tướng đều bắt buộc phải khác, có khi Phật Thầy mượn xác người Miên da đen như trường hợp Đức Phật Trùm, có khi mượn xác nữ dốt như trường hợp Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh, và truyền giáo bằng những hình thức thi văn cũng khác; nhưng chỉ có một điều không khác, đó chính là nội dung Bửu Pháp ẩn tàng bên trong không khác, nội dung Bửu Pháp vẫn y như nguyên thủy. Bình đựng luôn thay dổi hình dạng màu sắc, nhưng rượu bên trong vẫn y như nguyên chất, y như cũ không khác. Người môn đồ thuần thành phải có cái tâm không chấp hình thức bên ngoài thi văn, mà hãy nhìn thẳng vào nội dung bên trong giáo lý. Ai chấp danh chấp tướng là rớt!

Khi có người đạo thắc mắc hành trạng Người Thiện Nữ dốt thuyết pháp ứng khẩu, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh đáp: Cổ Nhân có một hồn phân muôn hình; hoặc là có lần Đức Cậu Bần Sĩ đáp: Người dốt nói pháp quá rành, Cổ lai tái thế thuộc dòng Bửu Sơn. Đúng vậy, Người Dốt nói pháp quá rành đó chính là Lục Tổ Huệ Năng Bồ Tát Di Lạc giáng trần nhiều lần mượn xác tái sanh tận độ bá gia trong buổi cuối Hạ Nguơn, khế hợp như Ngài Thanh Sĩ đáp: Ớ hỡi người kia…muôn vẫn một! Trong quyển Giác Mê Tâm Kệ viết năm 1939, Đức Huỳnh Giáo Chủ từng tuyên bố về hành trạng người dốt nói pháp:

Đức Lục Tổ ít ai dám sanh, Người dốt mà nói pháp quá rành. Lựa làm chi cao chữ học hành, Biết tỏ ngộ ấy là gặp đạo. Việc cổ tích cần chi phải thạo, Chuyện qua rồi kể lại làm chi. Nếu ai mà biết chữ tu trì, Tâm bình tịnh được thì phát huệ.

Nam Mô A Di Đà Phật Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát Nam Mô Đức Phật Tổ Phật Thầy Bửu Sơn Kỳ Hương

Người Xưa trở lại đặng gào, Triết minh từng đoạn lập màu nhiều nơi. Người Xưa đâu được thảnh thơi, Cậy bút cơ trời giáo đạo Nam phương. Người Xưa nhắc nhở tận tường, Từ kim chí cổ dọn đường lợi quanh. Người Xưa đâu có giựt giành, Không chen không lấn mối manh hồng trần. Người Xưa ráng tịnh hồn thần, Đặng tu đắc đạo về lần báu châu. (Quay Về Nguồn Cội tr. 118, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh thuyết, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 1997)

Vàm Sông Nhật Tảo

(Nhân chuyến hành hương đến đền thờ Thần Nguyễn Trung Trực trên bờ sông Vàm Cỏ, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh thay lời bá tánh khảy lên tiếng đờn đáp tạ ơn Ngài).

Nam Mô Quan Thượng Đẳng Đại Thần Nguyễn Trung Trực, chứng minh tấm lòng thành của con đầu đội vai mang, không biết làm sao cho xứng đáng với đang hiền Thần, Ngai la một vị anh hùng cao cả đat nước Việt Nam, đa hy sinh giu p nước cứu đồng bào bị gia c xa m lược, bi giặc Tây đàn áp khắt khe vo cung, gia c Ta y tan nhẫn đối với dân Việt, không có một chút nhân đạo. Chu ng muốn đô hộ toàn lãnh thổ Việt Nam bang cha nh sa ch ngu da n. Giưa boi canh đen toi lich sư, kho ng ai ngờ co một vị hien Thần Trung Trực ra tay đánh thắng giặc Ta y tre n dong Nha t Tao, nguye n cứu biết bao nhiêu đồng bao thoa t khoi a ch no le . Long hy sinh cao cả của Ngai chu ng con kho ng biết làm bằng cách nào để trả ơn. Gương Ngai con để lại, Ngài dùng hết nghị lực va trí sa ng vo cung đe die t gia c cư u nươ c. Nay chu ng con chie m ngương hính tương của Đức Ngài Hiền Thần rất cảm động. Gương trung lie t ay ngay ho m nay te n con ne u, bia còn tạc, chí cả hùng hồn. Chúng con có đôi lời văn lẽ thiệt gợi le n như tieng đơn Ba Nha, muốn nói lên đôi lời, không biết có ai nhận được và nghe chăng? Riêng Thượng Đẳng Quan Ngài thấu triệt tấm lòng của nhân dân, muốn đáp tạ nghĩa ân bằng cách nào, và phải làm sao cho xứng đáng một vị quan trung mà thường ngày chúng con và tất cả mọi người khấn ba i, va len loi tạc tượng tôn thờ. Cúi đầu xin Hiền Thần tha lỗi.

****** Sông Nhật Tảo bờ vàm khai chiến, Dùng kế mưu điều kiện đợi chờ. Tàu Tây xuất hiện gần bờ, Nghĩa quân Ông sắp chờ giờ hỏa thiêu. Đánh táo bạo rong rieu cho n lấp, Rớt trên bè đầu sap chu i bun. Tàu Tây phát cháy quá hung, Không ngờ một vị anh hùng ra tay. Khỏi phất cơ Ngai gai bằng trí, Thân cơ hàn dũng sĩ kiên cường. Giết giặc đem lại tình thương, Rạng ngời nước Việt mở đường thoát nguy. Đánh ngã gục Tây thì trôi nổi, Trên dòng sông nước dội sóng trào. Vàm sông Nhật Tảo bị bao, Ông lên tàu giặc cầm đao cận kề. Thực dân Pháp ê chề lặng lẽ, Rời khỏi tàu bị xe cho n vui. Hiền Thần giết thẳng không lui, Nằm ngang nằm dọc lau chùi thân be. Sông Nhật Tảo không dè lịch sử, Ông để đời hai chữ thằng Tây. Đốt tàu chôn hết cả bầy, Đốt thiêu tàu tặc của Tây phải chìm. Nhìn lịch sử não niềm khôn xiết, Việt Nam ơi quyết liệt noi gương.

Làm trai chính chính đường đường, Đừng mê danh vọng cái phường gian manh. Gương của Ngài phân ranh chỉ lối, Lòng thương yêu nguồn cội ông cha. Lời thơ con tả đậm đà, Xin Ngài phù hộ Nam gia anh hùng. Không đầu giặc phục tùng xâm lược, Móc rễ sâu không được mọc lên. Sau này hiếu thảo Ngài đền, Lập mưu bắt mẹ kề bên đồng bào. Không tạo cảnh chừng nào thắng được, Không quyết lòng xâm lược diệt thù. Quan Trung hơn bậc người tu, Hiếu ân bà mẹ giặc thù bắt giam. Cũng rạng rỡ nhà Nam mấy cảnh, Cuối cùng Ông thọ lãnh đáp đền. Ân sâu của mẹ không quên, Đồng bào than khóc kề bên xích xiềng. Lũ Tây tặc lưỡng biên vô hạn, Nếu bằng không biệt dạng mất hồn. Lập mưu cáo chát ghi tên, Ông đành cam chịu hùng hồ xâm lăng. Không xuôi tay chẳng hằng đầu thú, Co tay ngay ví vị cầm gươm. Mắt Ngài trực thẳng ngó dòm; Mắt không nháy mắt như ôm hận thù. Không khiếp sợ mặc dù gần trảm, Chí như trăng mờ ám đâu đâu. Trải qua bao cuộc dãi dầu, Hiền Thần Trung Trực đứng đầu Nam bang. Trung với hiếu đi sang sống cả, Nợ tang bồng cao cả dường nào. Dù cho bị chết kiếm đao, Hy sinh đứng vững không nào lung lay. *******

Nhật Tảo dòng sông bảng còn đề, Thượng Đẳng Đại Thần bút còn phê. Diệt thù cứu nước không có ne , Máu nhuộm thây phơi quá tràn trề.

Vàm sông Nhật Tảo nước cuốn trôi, Sông nhỏ có tên tạc bia rồi. Của Ngài Trung Trực đang thắng giặc, Tàu Tây bốc cháy phải thả trôi.

Dòng sông Nhật Tảo dòng sông ôi, Ta nhìn thấy sông nhớ đấy rồi. Bao nhiêu kỷ niệm Ngài trung nghĩa, Danh tự còn đây cao hơn đồi.

Lăng đền xây dựng kề bến sông, Để chúng sinh nhìn lại chờ trông. Bóng dáng quan trung ôi ngày đó, Bên kia thửa ruộng với hoang đồng.

Ta hoi lại Ta xứng đáng gì, Tháng ngày vật chất với sầu bi. Không có tấm lòng kiên gang sắt, Sống ở trên đời để mà chi.

Việt Nam rực rỡ Việt Nam ơi, Dòng sông Vàm Cỏ để lại đời. Tôi người Hàn Sĩ biên để lại, Để lại người coi bậc Hiền thời.

Đừng quên chữ hiếu, bất trung kiên, Nước Việt Nam ơi noi Thánh hiền. Một lời son sắt đừng thay đổi, Gặp phải tà Thần bất vị kiên.

*******

Thở than không dám trách đời, Muốn câm miệng lại cấp thời đừng phân.

Nghĩ ra hổ thẹn quân thần, Làm người không đáng sáng ngần ngày nay.

Nhìn gương Trung Trực Quan Ngài, Làm người hổ thẹn nhân tài tiêu tan.

Mãi lo đắm lụy thế gian, Giàu nghèo cao cả mưu toan hại người.

Ít ai tài đức phước dư, Noi gương Thượng Đẳng vẹn ngời trung kiên.

Bỏ qua lời của thánh hiền, Hy sinh cứu chúng trao liền tình thương.

Mãi lo trau chuốc trâm gương, Mưu toan ác độc tìm đường hưởng ân.

Tai nghe văng vẳng hiền thần, Trảm trừ tặc tử tà thần ác gian.

Cả kêu ấp xóm huyện làng, Cùng là dân tộc da vàng Việt Nam.

Thẹn tâm hô nào đừng làm, Tron bề trung nghĩa nhà Nam yên lành.

Đồng tâm hiệp lực chung quanh, Không nghĩ giựt giành tài sản tư riêng.

Hy sinh đặng gặp Chúa hiền, Ngàn năm muôn thuở gương liền còn ghi.

Cả kêu người hỡi nghĩ suy, Nam nhân đừng phí vậy thì công lao.

Hy sinh dù đổ máu đào, Noi gương Thượng Đang lam sao cho tron.

Không màng vật chất lầu son, Nước nhà trọn nghĩa hiếu còn đáp ân.

Bần kêu bá tánh xa gần, Đền thờ quá rõ Đại Thần Quan Trung.

Ra tay cứu giúp ngày cùng, Nạn Trời đây tới lạ lùng xảy ra. * từ năm 2015 trở đi

Đói cơm đau ốm cả nhà, Lớp thì lũ tặc muốn qua giựt giành. Tàu tặc

Bớ này muôn trượng nam thanh, Ra tay gìn giữ Nam thành ngày sau.

Đừng nên suy nghĩ sang giàu,

Quên tình cốt nhục khát khao đợi chờ. Sĩ Bần có mấy lời thơ,

Muốn người dân Việt tôn thờ Tổ Tiên. Và noi theo ba c Thánh hiền,

Không màng sống chết nối liền tông môn. Hy sinh đặng có bảo tồn,

Dù cho dồn dập bất tồn hay vong. Cả kêu nước Việt giống dòng,

Thương nhau đùm bọc não nồng gay go. Tiên học lễ vẹn là trò,

Hậu học văn tự đặng lo cứu đời. Sau này rạng rỡ thảnh thơi,

Đức Ngài hộ độ góc trời Nam phương. Trung can nghĩa khí đường đường,

Đại hùng không tận còn gương bảng đề. Xác thân dồi dập tả tê,

Hồn Ông muôn thuở tràn trề khắp nơi. Toàn dân nêu để trên đời,

Nay Ta chỉ có mấy lời thiết tha. Vàm sông Nhật Tảo đi qua,

Đền thờ quốc vị thiên gia cao thần. Vẹt mây mù cứu quan dân,

Đánh tan giặc pháp lần lần rút lui. Ngài như hoa nở đủ mùi,

Thơm lan tất cả chẳng nguôi chút nào. Lăng đền lồng lộng quá cao,

Thờ quan Trung Trực đồng bào vẻ vang. Vàm sông xuôi ngược rơ ràng,

Ông tìm đủ kế diệt đàng giặc Tây. Đến thăm nước mắt rơi đầy,

Làm sao xứng đáng cảnh này nhìn xem. Tiền muôn bạc lượng không them,

Một thân một ngựa lên đàng xông pha. Giặc nào muốn cướp nước ta,

Nghe gương bậc ấy thiết tha chạy dài. Cuộc đời cõi tạm trần ai,

Sống sống thác thác rõ ngay không thường. Ta ngồi thiền đạo vấn vương,

Nguyện Ngài hộ độ Nam phương vui vầy. Tu tâm thay đổi cảnh này,

Tình thương trải khắp thế gian trong ngoài. Cũng còn nhiều bậc rat hay,

Anh hùng không nại hai vai nhọc nhằn. Ngày xưa bút lí thơ văn,

Đại hùng không tận cứ hằng noi theo. Gian nguy qua ải lên đèo,

Mấy đời còn lại cột kèo tông gia. Bần Năng thiết thiết tha tha, * Người dốt nói pháp

Anh em hiền hậu sơn hà bình an. Dù cho Tàu tặc có tràn,

Tinh thần vẹn giữ hàng hàng không phai. Đại hùng dù gái hay trai,

Dù nam hay nữ gương nay để đời.

Xem việc sống chết như chơi, Sống thời cứu nước chết thời về tiên.

Thần trung noi bậc thánh hiền, Xóa đi màn lưới cuồng điên mê dần.

Giặc Tây đô hộ mấy lần, Trăm năm muốn chiếm xa gần Nam bang.

Tàu xưa cũng có rõ ràng, Hàng ngàn năm biến lối đàng đường đi.

Đô hộ không khỏi thứ gì, Tới giờ cũng trả âm ti chôn vùi. Sắp tới đây của Tàu đổ âm ti

Thiết tha mong sự an vui, Sơn hà thống nhất bùi ngùi đổi thay.

Nguyện trên đức độ của Ngài, Quan quân triều đại ngày nay còn thờ.

Kẻ gian ác chớ đợi chờ, Lệnh Trời không để cấp thời xử phân.

Đêm du Thánh ngày du Thần, Tuần tra rảo khắp xa gần đó đây.

Tru di cái đứa tà tây, Bảo tồn nước Việt phút giây thanh bình.

Bần Sĩ Vô Danh

Ghi chu: Nhân chuyến hành hương viếng thăm đền thờ Đại Thần Nguyễn Trung Trực năm 2015, Đức Thầy Bần Sĩ Vô Danh thuyết bài Vàm Sông Nhật Tảo, phương tiên thay lời bá tánh nhăm sách tân tinh thần yêu nươc trươc nạn ngoại xâm đang thô bạo tranh giành biên đảo ơ Biên Đông. Đại Thần Nguyễn Trung Trực xuât thân làm nghề chài lươi, tên thật là Nguyễn văn Lich sinh năm 1838. Ngày 11-12-1861, Ngài chi huy nghĩa quân, kheo dung mưu đôt tàu Esperance ơ sông Nhật Tảo, giết chết 17 tên Pháp {gôm cả trung tương chi huy Parfait} và 20 linh tập, gây tiếng vang lưng lây khăp nươc, khiến giăc Pháp khiếp sơ. Đền thờ Ngài là môt biêu tương yêu nươc chông ngoại xâm, hiếu trung toàn ven.

*******

PHÁT TÂM BỒ ĐỀ Nam Mô A Di Đà Phật (3 lần) Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần) Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát (3 lần)

Hồi tâm phát nguyện tu hành, Không còn nghĩ lợi cùng danh làm gì.

Một mình lẳng lặng cố truy, Đời đâu có có những gì tồn lai.

Giờ con giác ngộ kịp ngày, Cũng còn cơ hội mực mài học tu.

Giữ thân sớm tối công phu, Đặng mà tìm cách ngục tù thoát ra.

Phát tâm kính nguyện Di Đà, Cùng là từ phụ Thích Ca hằng ngày.

Chỉ con nhiều nẽo trần ai, Mê mê tỉnh tỉnh ai hoài mãi sao.

Cúi đầu lạy đấng ngôi cao, Con nay phát nguyện thoát mau trở về.

Bao năm trăm kiep nặng nề, Xác thân mỏi mệt chớ hề dám than.

Tại ma quy giữ kho vàng, Xô con vào đó muôn ngàn khó ra.

Đất đai tài sản cưa nhà, Cũng là cửa ngục nhốt mà quá lâu. Thoáng ngồi suy nghĩ mấy câu,

Phật nói Chúa ngục nó thâu giam mình. Mê man ngục thẳm lụy mình,

Ngày nay biết được tự tình ngộ ra. Lỗi lầm cũng do nơi ta,

Tạo nhiều ác độc không qua chính mình. Ngục tuyền nhốt hết sanh linh,

Nay con nguyện Phật cứu tình thoát nguy. Tham thiền quán xét cố truy,

Vô thường không luận già thí trẻ thơ. Con may không chết bên bờ,

Trầm mình biển khổ hiện giờ quá lâu. Lắng tâm nhìn thấy hố sâu,

Tội gì đau khổ đắm sầu ước mơ. Ngọc châu chìm dưới biển dơ,

Bàn tay của Phật quét quơ bùn sình. Đôi chơn lặng lẽ cư u tinh,

Quay quần cuộc sống chìm mình không hay. Tạ ơn Đức Phật giờ này,

Cứu con thoát chốn bùn lầy biển sâu. Ngày nay hướng thiện quay đầu, Tái tê lòng dạ âu sầu biết bao. Một mình niệm Phật âm hao,

Tự ta tạo nghiệp quá cao ngút đầu. Bây giờ sám hối từ câu,

Tu hành hiền hậu Phật thâu chứng lòng. Tại gia thiền quán sạch trong,

Phát tâm tỉnh ngộ thoát vòng trần lao. Biết rằng ra khỏi lưới bao,

Một mình lặng lẽ biết bao dập dồn. Hỏi mình nay dại hay khôn,

Trả lời buổi trước bôn chôn ạt ào. Hung hăng mê nhiễm sang giàu, Cuối cùng tan nát xác nào ra tro. Khôn ngoan bước thẳng lên đò,

Ngày xưa ngu muội hát hò khoe khoan. Giữ vang trăm của trần gian,

Lắm bạc nhiều vàng xa xí phủ phê. Khôn sao chẳng biết đường về,

Tối tăm mù quáng tư bề phủ che. Dữ hung Phật dạy không nghe,

Chỉ gianh đuổi rượt bạn bè khôn lanh. Thân ta như sợi chỉ mành,

Treo chuông gió thổi phải đành đứt ngang. Ngu si mê nhiễm mới tàn,

Nay ta khôn khéo tìm đàng thoát ra. Nhờ ơn Đức Phật Di Đà,

Ngộ tu phát nguyện Ngài mà dẫn theo. Dù cho đau khổ hiểm nghèo,

Tâm trì sáu chữ thoát veo nạn tai. Phát tâm dứt bỏ u hoài,

Bồ đề nương tựa tháng ngày tâm tu. Sau này đất Phật ngao du,

Không còn ở lại ngục tù trần gian. Biết rằng con đã muộn màng,

Ngộ rồi cứ thẳng một đàng mà đi. Đường về xứ Phật gian nguy,

Quy ma xuất hiện kéo trì chẳng tha. Chí tâm hướng thiện Phật Đà,

Xác thân gởi lại hồn mà hồi hương. Trọn bề tu đạo trên đường,

Công huân tu tập cho thường đắc thân. Tu hành gặp khổ nhiều lần,

Đó là đường thoát quá gần về quê. Phàm đời ngược lại chán chê, Vui đùa thì thích khổ bề thì lui. Con nay phát nguyện an vui,

Quyết thành Phật đạo nhờ chùi gội tâm. Dù đi hay lại ngồi nằm,

Di Đà không dứt trong tâm lượng hoài. Muốn lên đò Phật Như Lai,

Tu hành vẹn đạo mực mài từng đêm. Thế gian báo ứng đủ điềm,

Không tu tạo tội vay thêm ngút đầu. Nào tường biết Phật nơi đâu,

Lưới trần dồi dập quá lâu nặng nề. Mang thân phàm tục tư bề,

Uống ăn nói mặc nặng nề cứ mang. Làm sao chọn được nhẹ nhàng,

Cúi đầu lạy Phật muôn ngàn chứng minh. Ho con giác ngo chính mình,

Đèn lòng soi rọi tâm tình cả hai. Một đi xuống địa ngục đài,

Hai về cõi Phật bồng lai nhẹ nhàng. Quyết lòng Tiên Phật tây phang,

Phật là chung ở trần gian chưa thành. Nhớ câu Phật thuyết quá rành,

Chúng sanh thành Phật làm lành tu đi. Bên trong không thiếu sự gì,

Như toàn võ trụ vậy thì không sai. Phật cho muôn phép hằng ngày,

Tại mình bỏ Phật, Phật Ngài bỏ đâu. Sửa tâm sửa tánh quay đầu,

Tương nghí theo Phật, Phật thâu chớ gì. Còn lòng đạo hữu từ bi,

Thương yêu dân chúng vật gì cũng thương. Sông giang đôi khúc đoạn trường,

Tại người lac lối chớ đường rất ngay. Cao danh cong mang hằng ngày, Khi còn tâm trược lòng ai não sầu.

Tu hành nhờ sự bền lâu, Trì tâm chịu đựng rồi hầu cũng qua.

Từ đây chí nguyện Phật Đà, Đường ngay cứ bước quê nhà cứ đi.

Không lo ngại nghĩ sự gì, Mộng mơ cũng mất tính thì cũng tan.

Biển mê rừng nghiệp rõ ràng, Vây quanh mấy nga sáu đàng từ lâu.

Nguyện tâm sám hối cúi đầu, Am thiền lặng lẽ rồi hầu tịnh tu.

Biết rồi nghĩ thấy quá ngu, Sách đèn trễ nãi công phu cuối cùng.

Tuy còn nơi thế hòa chung, Không nghe không thấy muôn trùng khổ đau.

Nói ra cửa miệng ngọt ngào, Như chòm hoa nở ong nào lại bu.

Rạng ngời tu đạo công phu, Nghĩ ra nhiều lẽ hối tu được nhàn.

Lấp đi nhiều lối một đàng, Một mình lặng lẽ rồi nhàn tấm thân.

Cầu xin Chư Phật kề gần, Hộ con còn ở tại trần lo tu. Nhờ Phật vẹt áng mây mù,

Đem con ra khỏi lao tù ngục vương. Thiền tu giác ngộ mới tường ,

Siêng năng tìm kiếm cho thường mới ra. Nam Mô lục tự Di Đà,

Cũng nhờ sáu chữ thoát qua ngục đài. Hiểu rồi biết quả mình vay,

Tu hành đắc lực hết ngay không còn. Quả nghiệp xưa cũng được mòn,

Thiền từ nhìn thấy trăng tròn mừng vui. Ngày xưa không thấy tối thui,

Nhờ tu trí sáng được vui trong lòng. Từ rày con ráng dày công,

Phước huệ phải có trong trong hằng ngày. Nguyện cầu Phật Tổ Như Lai,

Từ đây con ráng mực mài sáng trưng. Bồ đề ngồi dựa vui mừng,

Tâm lành chứng quả cúng dâng Phật Ngài. Phát tâm cầu nguyện ngày nay,

Bồ đề tâm trí hằng ngày quá vui. Hộ con nương náu ngày cùng,

Tu thành chánh quả ung dung niết bàn. Nguyện lòng con phải sửa sang,

Lắng tâm thức tỉnh trần gian siêu về. Phát tâm nguyện Phật Bồ Đề,

An vui tu tịnh đặng kề Phật Tiên. Nam Mô A Di Đà Phật.

Bân Si Vô Danh

Ghi chu: Năm 2015, nhân chuyến hành hương đến đền thờ quan thương đẳng đại thần Nguyễn Trung Trực, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh thuyết bài trên đây đê sách tân bá gia tu hành kip thiên cơ buổi Hạ Nguơn bao tai biến tơi dập dôn. Ngài khuyên bá tánh hãy siêng niêm sáu chữ Di Đà, giữ trọn tứ ân. Nam Mô A Di Đà Phật

Sydney, 15-12-2016, Kỳ Vân Cư Sĩ biên khảo

(facebook Mõ Tre & Blog Kinh Sam That Son) https://kinhsamthatson.wordpress.com/