Nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của một số loài ardisia...
-
Upload
anhbotuong -
Category
Education
-
view
616 -
download
15
Transcript of Nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của một số loài ardisia...
MỤC LỤC
DANH MỤC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
Ký hiệu Tiếng Anh Diễn giải
NMR Nuclear Magnetic Resonance Phổ cộng hưởng từ hạt nhân
1H-NMR Proton Magnetic Resonance
spectroscopy
Phổ cộng hưởng từ hạt nhân
proton
13C-NMR Carbon 13 Nuclear Magnetic
Resonance spectroscopy
Phổ cộng hưởng từ hạt nhân
cacbon 13
DEPT Distortionless Enhancement
by Polarisation
Phổ DEPT
HMBC Heteronuclear Multiple Bond
Correlation
Phổ tương tác dị hạt nhân qua
nhiều liên kết
HSQC Heteronuclear Single
Quantum Coherence
Phổ tương tác dị hạt nhân trực
tiếp H→C
COSY Corrrlated Spectroscopy Phổ COSY
NOESY Nuclear Overhauser Effect
Spectroscopy
Phổ NOESY
ESI-MS Electron Spray Ionization
Mass Spectra
Phổ khối lượng ion hóa phun
mù điện tử
TMS Tetramethylsilane
DMSO Dimethyl sulfoxide
TT Số thứ tự
MeOH Methanol
EtOAc Ethylacetate
EC50
Effective Concentration at
50%
Nồng độ gây tác động sinh
học cho 50% đối tượng thử
nghiệm.
IC50 Inhibitory Concentration at
50%
Nồng độ ức chế 50% đối
tượng thử nghiệm
KB Human epidemic carcinoma Ung thư biểu mô
LU-1 Human lung carcinoma Ung thư phổi
MCF7 Human breast carcinoma Ung thư vú
Hep- G2 Hepatocellular carcinoma Ung thư gan
LNCaP Hormone dependent human
prostate carcinoma
Ung thư tuyến tiền liệt
δH Proton chemical shift Độ dịch chuyển hóa học của
proton
δC Carbon chemical shift Độ dịch chuyển hóa học của
carbon
s: Singlet d: Doublet t: Triplet q: Quartet
m: Multiplet dd: double doublet
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1: Hình ảnh cây A. balansana ............................................................................ 9
Hình 1.2: Hình ảnh cây A. splendens ........................................................................... 10
Hình 1.3: Hình ảnh cây A. insularis ............................................................................. 11
Hình 1.4: Hình ảnh cây A. Incarnata ........................................................................... 12
Hình 2.3: Sơ đồ phân lập chất từ cặn chiết n-hexan và etyl axetat của cây cơm
nguội rạng ........................................................................................................................ 45
Hình 2.4: Sơ đồ phân lập chất từ cặn nước của cây cơm nguội rạng....................... 46
Hình 2.5:Sơ đồ phân lập chất từ cặn chiết etyl axetat của cây cơm nguội đảo ...... 52
Hình 2.6: Sơ đồ phân lập chất từ cặn nước của cây cơm nguội đảo ........................ 53
Hình 2.7: Sơ đồ phân lập chất từ cặn nước của cây cơm nguội thắm...................... 59
Hình 2.8: Sơ đồ phân lập chất từ cặn chiết etyl axetat của cây cơm nguội thắm ... 60
Hình 3.1: Cấu trúc hóa học của hợp chất AB-1 .......................................................... 66
Hình 3.2: Cấu trúc hóa học của hợp chất AB-2 .......................................................... 67
Hình 3.3: Cấu trúc hóa học của hợp chất AB-3 .......................................................... 68
Hình 3.4: Cấu trúc hóa học của hợp chất AB-4 .......................................................... 70
Hình 3.5: Cấu trúc hóa học của hợp chất AB-5 .......................................................... 71
Hình 3.6: Cấu trúc hóa học của hợp chất AB-6 .......................................................... 74
Hình 3.7: Phổ 1H-NMR của hợp chất AS-1 ............................................................... 76
Hình 3.9: Phổ HMBC của hợp chất AS-1 ................................................................... 77
Hình 3.11: Phổ COSY của hợp chất AS-1 .................................................................. 78
Hình 3.12: Cấu trúc hóa học của hợp chất AS-1 ........................................................ 79
Hình 3.13: Cấu trúc hóa học của các hợp chất AS-2, AS-3, AS-4, AS-5, AS-6, AS-
7 ........................................................................................................................................ 80
Hình 3.14: Cấu trúc hóa học của các hợp chất AS-8, AS-9, AS-10, AS-11, AS-12
........................................................................................................................................... 84
Hình 3.15: Phổ 1H-NMR của hợp chất AI-1 ............................................................... 89
Hình 3.16: Phổ 13C-NMR của hợp chất AI-1.............................................................. 90
Hình 3.18: Phổ HMBC của hợp chất AI-1 .................................................................. 91
Hình 3.20: Phổ ROESY của hợp chất AI-1................................................................. 93
Hình 3.22: Cấu trúc hóa học của hợp chất AI-1 ......................................................... 96
Hình 3.23: Các tương tác HMBC và COSY c ủa hợp chất AI-1 ............................... 96
Hình 3.24: Cấu trúc hóa học của các hợp chất AI-2, AI-3, AI-4, AI-5 ................... 98
Hình 3.25: Cấu trúc hóa học của các hợp chất AI-6, AI-7, AI-8, AI-9, AI-10, AI-
11 ....................................................................................................................................103
Hình 3.26: Cấu trúc hóa học của các hợp chất AI-12, AI-13, AI-14 .....................105
Hình 3.27: Cấu trúc hóa học của các hợp chất AInc-1, AInc-2, AInc-3, AInc-4,
AInc-5, AInc-6, AInc-7, AInc-8 .................................................................................107
MỞ ĐẦU
Tài nguyên sinh vật trên thế giới rất phong phú và đa dạng. Đến nay con
người đã nhận biết và gọi tên được hơn một triệu loài sinh vật khác nhau. Việt
Nam là một nước nhiệt đới gió mùa, đa dạng về địa hình, thổ nhưỡng và đặc trưng
khí hậu khác nhau giữa các vùng miền nên là điều kiện thuận lợi để các loài sinh
vật phát triển đa dạng về số lượng các loài, phong phú về chủng loại. Trong đó có
nhiều thực vật có công dụng được sử dụng làm thuốc trong dân gian. Tổng kết các
công bố về hệ thực vật Việt Nam, đã ghi nhận có 15.986 loài thực vật khác nhau.
Trong đó có 4.528 loài thực vật bậc thấp và 11.458 loài thực vật bậc cao, có 10%
số loài thực vật là đặc hữu, hơn 3.200 loài cây được sử dụng trong y học dân tộc.
Họ Đơn nem (Myrsinaceae) là một họ thực vật khá lớn, bao gồm 35 chi và
khoảng 1400 loài, được phân bố rộng rãi khắp nơi, nhất là ở các nước có khí hậu
ôn đới và nhiệt đới, trong đó chi Cơm nguội (Ardisia) là chi lớn nhất, có khoảng
500 loài [1]. Kết quả nghiên cứu tài liệu cho thấy các loài Ardisia có nhiều hoạt
tính sinh học rất đáng quý, như: hoạt tính kháng nấm, kháng khuẩn, kháng virut,
hoạt tính chống oxi hóa, chống lao, antileishmania, chống đái tháo đường, bảo vệ
thần kinh, bảo vệ tim mạch, chống loãng xương và đặc biệt là hoạt tính gây độc tế
bào, chống ung thư rất tốt. Các hợp chất đã được phân lập từ một số loài Ardisia
có cấu trúc phong phú, bao gồm các tritecpen saponin, benzoquinon,
bisbenzoquinon, flavonoid, isoflavonoid, steroid, alkylphenolic, các dẫn xuất của
bergenin, các dẫn xuất của resorcinol…, trong đó có nhiều chất có cấu trúc mới.
Ở Việt Nam, họ Đơn nem có khoảng 140 loài và được phân thành 6 chi, gồm
có: Ardisia, Embelia, Maesa, Aegyceras, Rapanea và Myrsine, phân bố rộng rãi ở
khắp nơi trên toàn quốc, nhất là ở các vùng đồng bằng trung du. Chi lớn nhất trong
họ này là Ardisia có khoảng 98 loài [2]. Nghiên cứu về các loài thực vật này hầu
như chưa có ở Việt Nam, chúng chỉ mới được sử dụng trong phạm vi dân gian để
chữa bệnh. Các loài trong chi Ardisia thường có tác dụng thanh nhiệt giải độc, tiêu
thũng và được sử dụng trong dân gian để chữa các bệnh viêm khớp, đòn ngã tổn
thương, sưng đau hầu họng, trị ỉa chảy, lậu, sốt rét, viêm ruột, loét dạ dày, mụn
nhọt ghẻ lở và trị các bệnh về gan [3, 4]. Do đó, với mong muốn tìm kiếm các hoạt
chất ứng dụng trong Y-Dược từ nguồn dược liệu Việt Nam, chúng tôi đã chọn các
thực vật chi Cơm nguội (Ardisia) họ Đơn nem (Myrsinaceae) làm đối tượng
nghiên cứu cho đề tài: “Nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính sinh học
của một số loài Ardisia thuộc họ Myrsinaceae ở Việt Nam”.
Mục đích của đề tài:
1. Phân lập các hợp chất từ các bộ phân khác nhau của một số loài Ardisia thu hái
ở Việt Nam
2. Xác định cấu trúc hóa học của các hợp chât phân lập được dựa vào các phương
pháp phổ hiện đại.
3. Thăm dò hoạt tính kháng nấm, kháng khuẩn, gây độc tế bào của một số hợp
chất phân lập được.
Chương 1. TỔNG QUAN
1.1. Đặc điểm hình thái và phân loại họ Đơn nem (Myrsinaceae) và chi
Ardisia ở Việt Nam
1.1.1. Họ Đơn nem (Myrsinaceae)
Họ Đơn nem là một họ lớn, trên thế giới có khoảng 35 chi và hơn 1400 loài,
phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới của hai bán cầu như Ấn Độ,
Mianma, Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Lào, Campuchia, Thái Lan,
Malaysia, Philippin, New Zealand, Australia, Nam Phi, Nam Mỹ. Hệ thực vật trong
họ này chủ yếu là cây và những khóm cây bụi, đôi khi là những dạng leo bám. Tuy là
1 họ rộng song trong họ này chủ yếu là các chi: Ardisia, Embelia, Maesa,
Aegyceras, Rapanea và Myrsine. Một số chi được sử dụng như cây trồng, đôi khi
lại là cây trang trí, một số trong số đó còn được xếp vào hàng cây thuốc quý sử
dụng trong dân gian đã được báo cáo trong dược điển cây thuốc ở một số nước
trong việc diệt giun sán, tiêu diệt vi khuẩn… [64].
Họ Đơn nem là một trong những họ rất dễ nhận biết ngoài thiên nhiên, bởi
chúng mọc phổ biến dưới tán rừng, ven đường đi, một số loài gặp ở vùng đồi núi.
Chúng có dạng cây gỗ nhỏ hoặc bụi phân nhánh, thường cao khoảng 1-2 m, có khi
cao 6-12 m, một số loài cao 7-50 cm hoặc bụi không phân nhánh, rất ít khi cây
thảo, riêng chi Chua ngót (Embelia) có dạng bụi leo. Lá đơn mọc cách, không có
lá kèm, mép nguyên hoặc khía răng. Hoa tập trung ở đầu cành hoặc ở nách lá tạo
thành cụm hoa hình chùm, tán hoặc ngù. Tất cả các bộ phận của cây từ các bộ
phận dinh dưỡng như lá đến các bộ phận sinh sản như các thành phần của hoa hầu
hết đều có điểm tuyến hoặc dưới dạng đường gân rõ nhất là ở chi Đơn nem
(Mease) hoặc ở quả như chi Cơm nguội (Ardisia). Hoa phần lớn mẫu 4-5, ít khi
mẫu 6. Bầu thượng hoặc trung gặp ở chi Đơn nem. Quả hạch, hình cầu, một hạt
hoặc quả hạch nhiều hạt và hạt có cạnh (Mease). Tuy nhiên họ Đơn nem rất dễ
nhận biết các chi, nhưng khó khăn về phân biệt thành phân loài nhất là chi Cơm
nguội là chi lớn nhất (khoảng 101 loài ở Việt Nam) có những loài nhìn bằng mắt
thường rất giống nhau, cho nên sự có mặt của điểm tuyến, hình dạng và vị trí cụm
hoa, cách sắp xếp lá đài là đặc điểm rất quan trọng để phân biệt các loài trong chi
Cơm nguội [4].
1.1.2. Chi Ardisia (Cơm nguội)
1.1.2.1. Đặc điểm thực vật chung của chi Ardisia
Ardisia là một chi lớn thuộc họ Myrsinaceae, chi lớn trên thế giới có
khoảng 500 loài, phân bố phần lớn ở vùng nhiệt đới châu Mỹ, châu Á, số ít ở châu
Úc, các đảo Thái Bình Dương. Số lượng tuyệt đối của loài trong chi này, thêm sự
thiếu chính xác trong việc cập nhật số lượng loài đã phần nào gây ra những khó
khăn nhất định trong việc xác định mức độ loài trong chi này. Chi này được biết
đến như các vị thuốc dùng trong dân gian từ xa xưa, sử dụng lá, thân rễ, cành, đôi
khi là quả [25].
Ở Việt Nam chi Ardisia có khoảng 101 loài. Đặc điểm thực vật chung, cây
nhỏ, bụi hoặc nửa bụi gần với dạng cây thảo. Lá đơn, mọc cách, ít khi mọc đối
hoặc gần mọc vòng, phiến lá thường có điểm tuyến, mép nguyên hoặc khía răng
cưa tròn, giữa các răng có điểm tuyến, hoặc khía răng cưa nhỏ và nhiều. Cụm hoa
hình chùm, xim, tán, ngù ở đầu cành, nách lá hoặc ngoài nách lá. Hoa lưỡng tính,
thường mẫu 5, ít khi mẫu 4. Lá bắc nhỏ và sớm rụng. Lá đài thường hợp ở gốc, ít
khi rời, xếp van hay xếp lợp, thường có điểm tuyến. Cánh hoa hơi hợp ở gốc, ít khi
hợp đến 1/2 chiều dài, xếp vặn về phía phải, thường có điểm tuyến. Nhị đính ở
gốc ống tràng (hoặc đính ở giữa); chỉ nhị ngắn hơn cánh hoa, ít khi dài bằng hoặc
dài hơn; bao phấn hai ô, mở dọc, ít khi mở lỗ, trung đới thường có điểm tuyến.
Bầu thường hình cầu hoặc hình trứng; vòi nhị, chỉ nhị thường ngắn hơn cánh hoa;
núm hình chấm; noãn 3-12 hoặc nhiều hơn, xếp thành một vòng đến nhiều vòng.
Quả mọng dạng quả hạch, hình cầu hoặc hình cầu dẹt, thường có màu hồng, có
điểm tuyến, có lúc có gân tuyến. Hạt hình cầu, lõm ở gốc, hạt bao phủ bởi một cái
màng còn lại của giá noãn; nội nhủ sừng, phôi hình trụ mọc ngang hoặc thẳng [2,
4].
1.1.2.2. Đặc điểm thực vật một số loài Ardisia nghiên cứu
1.1.2.2.1. Ardisia balansana – Cơm nguội balansa
Loài A.balansana được Yang miêu tả khoa học lần đầu năm 1989. Là loại cây
bụi nhỏ, có thân dễ bò, thân đứng thẳng cao 25-50(100) cm, có vảy hình khiên tròn.
Lá mọc cách hoặc gần như vòng, phiến hình mác ngược hoặc trứng ngược hẹp, 8-
20(26)x3-5,5(8) cm, dai, chóp lá tù, gốc hẹp từ từ và thành hình nêm, mặt trên
màu đen, nhẵn, trừ gân chính có lông, mép lá khía răng cưa nhỏ mịn, không đều;
gân bên khoảng 8-12 đôi; cuống lá có cánh. Cụm hoa chùy ở nách lá, dài 6-7(11)
cm; cuống hoa dài 3-7 mm, đạt đến 1cm khi mang quả. Lá đài 5, hình tam giác
hoặc trứng, có lông nhỏ và điểm tuyến. Cánh hoa 5, màu trắng sau trở thành hồng
nhạt; dài 3-4 mm, có điểm tuyến. Nhị 5, dài gần bằng cánh hoa, bao phấn có điểm
tuyến ở lưng. Bầu có lông; vòi ngắn hơn cánh hoa; noãn 4-5, 1 vòng. Quả hình cầu,
khi chín màu đỏ, đường kính 6-8 mm, có tuyến dọc, có lông, sau nhẵn [2, 4].
Phân bố: cây mọc ở rừng dày thường xanh lá rộng, khe đá, nơi ẩm ướt, bờ suối, ở
độ cao 1000-1500 m. Phân bố chủ yếu ở miền bắc Việt Nam, Vân Nam (Trung
Quốc) [2].
Mẫu nghiên cứu được thu tại Mẫu Sơn – Lạng Sơn – Việt Nam:
Hình 1.1: Hình ảnh cây A. balansana
1.1.2.2.2. Ardisia splendens – Cơm nguội rạng
Ardisia splendens được Pitard miêu tả khoa học lần đầu năm 1930. Là loại cây
bụi, cao khoảng 1-1,2 m. Thân non tròn, mảnh, vỏ màu xám, có đường khía dọc.
Lá hình mác ngược hẹp, 8-15x1,5-4 cm, chóp lá nhọn hoặc tù, giảm dần dài và
men xuống cuống, mép cuộn xuống phía dưới; gân bên 8-12 đôi, hướng lên, gân
cấp III không rõ; cuống dài 5-8 mm, dẹp và có rãnh ở mặt trên. Cụm hoa hình
chùm dạng gần ngù tán ở đầu cành, dài 8-18 cm, trục thứ cấp dài 1-2 cm, mang ở
đầu nhiều hoa, xếp thành tán hoặc ngù; cuống hoa dài 5-8 mm, khi ra quả đạt đến
10 mm. Lá đài 5, hình tam giác, dài 1,5 mm, mép nguyên, xếp lợp không rõ; ống
dài 0,75 mm. Cánh hoa 5, dài 5-6 mm, hình thuôn, nhọn, mỏng, màu hồng; ống rất
ngắn. Nhị 5, dài 3 mm, chỉ nhị ngắn; bao phấn hình thuôn, nhọn ở đầu, lưng có
điểm tuyến to. Bầu hình cầu, cao 1 mm, vòi nhụy dài 6 mm, núm hình chấm. Quả
hình cầu, đường kính 5-7 mm [2, 4].
Phân bố: A. splendens mới thấy ở Đồng Nai
Mẫu nghiên cứu được thu hái tại Cát Tiên – Tân Phú – Đồng Nai:
Hình 1.2: Hình ảnh cây A. splendens
1.1.2.2.3. Ardisia insularis – Cơm nguội đảo
Loài Ardisia insularis được Mez miêu tả khoa học lần đầu vào năm 1902. Là
loại cây bụi, cao 2-2,5 m; cành mảnh, cành non và trục cụm hoa có lông vảy màu
nâu, cành non hơi dẹt, vỏ màu xám, có đường khía dọc. Lá hình mác thuôn hoặc
bầu dục hẹp, 12-24x2,5-5 cm, chóp lá hẹp dần và nhọn, gốc hình nêm, mép hơi
gợn sóng, mặt dưới có nhiều điểm tuyến rõ; gân chính lõm ở mặt trên, gân bên
nhiều hướng lên, mảnh, nỗi rõ ở mặt dưới, gân cấp III hình mạng; cuống dài 0,5-
1,5(1,8) cm. Cụm hoa hình chùy ở đầu cành, dài 12-15 cm, trục thứ cấp 8-10, dài
1-1,5 cm, trục tam cấp dài 0,8-2 cm; lá bắc dài khoảng 1 mm, hẹp, nhọn; cuống
hoa dài 0,3 cm. Hoa họp thành 8-12 chiếc, thành chùm ở đầu các trục chính, thứ
cấp và tam cấp. Hoa màu hồng, thơm. Lá đài 5, hình trái xoan, đ ầu tù hoặc nhọn,
dài 0,75 mm, có lông quanh mép, có điểm tuyến. Cánh hoa 5, hình trái xoan, dài
3-4 mm, hơi nhọn, có gân và có điểm tuyến ít rõ. Nhị 5, hình mác nhọn, bao phấn
lưng có ít điểm tuyến, chỉ nhị dài 1 mm. Bầu hình trứng, cao 0,75 mm, vòi nhụy
dài 5 mm; noãn nhiều, 3 vòng. Quả hình cầu, đường kính 4-5 mm, dẹp ở đầu.
Phân bố: Đồng Nai (Trảng Bom, núi Đỉnh). Còn có ở Ấn Độ, Thái Lan, Malaysia.
Mẫu thực vật nghiên cứu thu tại Quảng Khê, Đăk Glong, Đắk Nông, Tây
Nguyên:
Hình 1.3: Hình ảnh cây A. insularis
1.1.2.2.4. Ardisia incarnata – Cơm nguội thắm
Ardisia incarnata được miêu tả khoa học lần đầu tiên bởi Pitard năm 1930. Là
loại cây bụi, cao khoảng 2-3m, đường kính gốc khoảng 10 cm. Cành mang hoa dài
50 cm, mảnh, vỏ màu xanh, có đường kính khía dọc nhỏ, về sau tròn, vỏ màu xám,
có nhiều bì khổng. Lá hình mác, mác ngược hoặc thuôn, 7-11x2-3 cm, thường đầu
lá cong dạng lưỡi liềm, chóp lá nhọn, gốc hình nêm, phiến mỏng, mép cuộn xuống
phía dưới và hơi nhăn nheo, tuyến mép ít rõ; gân bên 10-14 đôi, mảnh, ít rõ; gân
cấp III hình mạng; cuống dài 0,7-2 cm, có rãnh ở mặt trên. Cụm hoa hình tán kép
ở đầu cành, có lông nhỏ ; cuống cụm hoa dài 1cm, cuống hoa dài 1,5 cm. Lá bắc
hình thuôn, dài 6 mm. Lá đài 5, hình thuôn hoặc trứng, dài 2,5 mm, đầu tù hoặc
nhọn, có vài điểm tuyến. Cánh hoa 5, màu hồng, dài 8 mm, hình trái xoan hẹp, đầu
nhọn, mỏng, có điểm tuyến ở đầu. Nhị 5, bao phấn dài 5 mm, hình thuôn, đầu
nhọn. Bầu gần hình cầu cao 1 mm, có nhiều điểm tuyến; vòi nhụy dài 6 mm; núm
hình chấm, noãn 5, 1 vòng.
Phân bố: Mới thấy ở Lào Cai, Khánh Hòa ( núi Vọng Phu – Nha Trang), Ninh
Thuận (Phan Rang).
Mẫu thực vật được thu ở Cát Cát - Sa Pa - Lào Cai:
Hình 1.4: Hình ảnh cây A. Incarnata
1.2. Tình hình nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính sinh học về chi
Ardisia trên thế giới
1.2.1. Nghiên cứu thành phần hóa học
Các loài thực vật thuộc chi Ardisia họ Myrsinaceae đã được nghiên cứu từ rất
sớm trên thế giới. Ngay từ năm 1968, Ogawa Hideko và các cộng sự đã tìm thấy
các hợp chất ardisiaquinon A, B, C từ loài Ardisia sieboldi của Nhật Bản [70]. Tuy
nhiên, các nghiên cứu về thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của các thực
vật thuộc chi này chỉ thực sự phát triển vào khoảng chục năm trở lại đây. Các kết
quả nghiên cứu gần đây cho thấy các loài Ardisia thuộc họ Myrsinaceae chứa
nhiều lớp chất thú vị, trong đó có nhiều hợp chất có cấu trúc mới, như các
tritecpen saponin, benzoquinon, flavonoid, isoflavonoid, steroid, polyphenolic, các
dẫn xuất của bergenin, các dẫn xuất của resorcinol… và có nhiều hoạt tính sinh
học đáng quý trong đó nổi trội nhất là hoạt tính gây độc tế bào, chống ung thư.
1.2.1.1. Các hợp chất có khung tritecpen saponin
Tritecpen saponin được biết đến như một lớp chất phổ biến phân bố rộng
rãi ở rất nhiều cây lớn, sinh vật biển, sự đa dạng về cấu trúc của lớp chất này đã
đem lại những hoạt tính thú vị như kháng nấm, kháng khuẩn và đặc biệt hơn là có
tác dụng ức chế tế bào ung thư rất tốt [60]. Ghi nhận trên các báo cáo từ trước cho
đến nay cho thấy lớp chất này rất phổ biến trong họ Myrsinaceae và đặc biệt rất
nhiều trong chi Ardisia.
Ban đầu việc xác định thành phần hóa học của chi này được báo cáo bởi
Chaweewan và cộng sự năm 1986 với 2 hợp chất tritecpen saponin là
ardisiacrispin A (1) và ardisiacrispin B (2) phân lập được từ rễ của cây Ardisia
crispa [36]. Hỗn hợp 2 chất này được báo cáo có thể ức chế sự tăng sinh tế bảo
Bel-7402 bằng cách gây ra sự chết tế bào theo chương trình [51].
Tên chất R1 R2 R3 R4
Ardisiacrispin A (1)
CHO
β-D-Glucopyranosyl
β-D-
Glucopyranosyl
α-
OH
Ardisiacrispin B (2)
α-L-
Rhamnopyranosyl
α-
OH
Ardicrenin (3) α-
OH
Ardisicrenoside
A (4)
CH2OH
α-
OH
Ardisicrenoside
B (5)
β-D-xylopyranosyl
α-
OH
Ardisicrenoside I (12)
CH(OCH3)2
α-
OH
Ardisicrenoside J (13)
α-L-
Rhamnopyranosyl
α-
OH
Ardisicrenoside
K (14) =O
Ardisicrenoside L (15) OH α-L-
Arabinopyranosyl β-D-
Glucopyranosyl
α-
OH
Ardisicrenoside
M (16) CH(OCH3)2
β-D-xylopyranosyl
=O
Primulanin (18)
CHO
H α-
OH
Cyclaminorin (19) H β-D-
Glucopyranosyl
α-
OH
Năm 1992, khi nghiên cứu thành phần hóa học trên cây Ardisia crenata, từ rễ
cây này đã phân lập được 20 hợp chất tritecpen saponin [23, 36, 37, 38, 47, 55,57]
trong đó 2 hợp chất ardisiacrispin A & B còn được tìm thấy từ loài A. crispa, A.
brevicaulis [11, 34].
R1 R2
Ardisicrenoside C (6) α-L-Rhamnopyranosyl
β-D-glucopyranoyl
Ardisicrenoside D (7) β-D-xylopyranoyl
Ardisicrenoside E (8)
α-L-Rhamnopyranosyl
Ardisicrenoside H
(11) H
Ardisicrenoside F (9) β-D-xylopyranoyl
Ardisicrenoside G
(10) β-D-xylopyranoyl H
Ardisicrenoside N
(17) α-L-Rhamnopyranosyl
Từ rễ loài A. japonica, các tác giả đã phân lập được 24 hợp chất tritecpen
saponin và đã khảo sát hoạt tính của chúng, trong đó có hợp chất ardisicrenoside A
đã được phân lập từ A.crenata trước đó [17, 25, 51].
STT R1 R2 R3 R4 R5
Ardisianosides A (19) S1
α-
OH
H2
CH3
CH3
Ardisianosides B (20) S2
Ardisianosides C (21) S5
Ardisianosides D (22) S6
Ardisianosides E (23) S7 CH2OH
Ardisianosides F (24) S3
Ardisianosides G (25) S4 OH
Ardisianosides H (26) S1
=O
CH3
Ardisianosides I (27) S4 CH2OH
Ardisianosides J (28) S4 CHO
Ardisianosides K (29)
S1 S2
S3 S4
S5 S6
S7
Nghiên cứu trên loài A. mamillata, Jing Hang đã phân lập được 8 hợp chất
triterpenoid saponin từ rễ được đặt tên là ardisimamillosides (A-H) [32, 33,34],
cùng với đó 17 hợp chất triterpenoid saponin đã thu được từ loài A. gigantifolia,
trong đó 13 hợp chất được phân lập từ phần rễ thân của loài này [29, 61, 62, 63,
90].
STT R1 R2 R3 R4 R5
(29)
CH3
α-
OH
β-D-
Glucopyranosyl
β-D-
Glucopyranosyl
α-L-Rhamnopyranosyl (30) H
(31) 6-OAc-β-D-
Glucopyranosyl H
(32)
H H
(33) CH2OAc β-D- α-L-Rhamnopyranosyl
α-
OH
β-D-
Glucopyranosyl
Glucopyranosyl
(34) CH2OH H
(35)
CHO
H
(36) β-D-
Glucopyranosyl
(37) 6-OAc-β-D-
Glucopyranosyl H
(38) =O H H
(39) α-
OH
H H H
Điều đặc biệt ở đây sau khi phân lập các hợp chất saponin từ loài này, tác giả
đã có sự đánh giá mối tương quan giữa hoạt tính và cấu trúc, sự ảnh hưởng và hiệu
quả giữa bộ khung aglycon (tritecpen) và phần đường tới hoạt tính của lớp chất.
Kết quả chỉ ra rằng sự kết hợp của nhóm C=O tại vị trí C16, phần đường L-
rhamnose của R5, nhóm acetyl của 6-OH ở phần đường glucose, làm gia tăng
đáng kể hoạt tính ức chế trên 2 dòng tế bào A549, HCT-8 song cùng với đó là sự
suy giảm hoạt tính trên dòng tế bào Bel-7402 [69].
Nghiên cứu thành phần hóa học loài A. pusilla đã phân lập được một số
tritepen saponin mới và ardipusillosides (I-V). Tất cả các hợp chất được thử
nghiệm, đánh giá hoạt tính gây độc tế bào, trong đó ardipusillosides (I, II) thể hiện
hoạt tính đáng kể trong việc chống lại ung thư biểu mô ở phổi và gan [85]. Ba hợp
chất ardipusillosides (III-V) thể hiện tiềm năng gây độc tế bào U251MG ở người
[81,82].
Gần đây, 2 loài A. kivuensis, A. elliptica cũng đã được nghiên cứu, trong việc
nỗ lực nghiên cứu thành phần hóa học của loài, một lần nữa các tritecpen saponin
mới lại được tìm thấy trong 2 loài này [65,75].
1.2.1.2. Các hợp chất có khung quinone và alkyl phenol
Quinone là lớp chất hữu cơ bắt nguồn từ các hợp chất thơm ví như benzen
hoặc naphthalen, hợp chất này được xác định bởi sự hiện diện của 2 liên kết đôi
của một vòng thơm. Cũng giống như lớp chất tritecpen saponin, ở một số loài
thuộc chi Ardisia, người ta cũng tìm thấy sự đa dạng về cấu trúc của bộ khung
quinone.
Năm 1987, từ rễ thân loài A. cornudentata, lần đầu tiên đã phân lập được 2
hợp chất 1, 4-benzoquinon [86]. Tiếp sau đó, một loạt các hợp chất có bộ khung
quinone, alkyl phenol được phân lập từ rễ thân loài A. japonica, các hợp chất này
sau đó đều được thử nghiệm hoạt tính sinh học trên enzym PTB1B, trong đó hợp
chất 40, 41, 42 thể hiện hoạt tính in vitro đáng kể trong việc ức chế enzym này
[28, 52, 53].
Tên chất STT R n
Maesanin 40 CH3 9
5-ethoxy-2-hydroxy-3-[(10Z)-pentadec-10-en-1-
yl][1,4]benzoquinone
41 C2H5 9
5-ethoxy-2-hydroxy-3-[(8Z)-tridec-8-en-1-yl][1,4]benzoquinone 42 C2H5 7
Từ rễ và gốc loài A. viren đã phân lập được 31 hợp chất trong đó có 4 hợp
chất thuộc khung quinone và 27 hợp chất thuộc lớp chất alkyl phenol, các hợp chất
đều được thử hoạt tính gây độc tế bào trên 3 dòng tế bào MCF-7, NCI-H460 và
SF-268 và các giá trị IC50 đã được Hsun-Shuo Chang và cộng sự công bố năm
2009. Từ loài A. punctata, 3 hợp chất mới là dẫn xuất của 1, 4-benzoquinone cũng
đã được phân lập [48].
Trong những năm gần đây, loài A. kivuensis được nghiên cứu bởi nhiều nhà
khoa học. Từ năm 2011, những nghiên cứu về thành phần hóa học loài này đã
được công bố, từ lá và rễ đã phân lập được các hợp chất ardisiaquinone J-P (43-
50), trước đó các hợp chất ardisiaquinone (A-H) lần lượt được phân lập từ loài A.
sieboldii và A. teysmanniana [64, 65, 91].
Tên chất STT R1 R2 R3 R4 N
Ardisiaquinone J (43) OH O OH CH3 10
Ardisiaquinone K (44) OH O OH CH3 10
Ardisiaquinone L (45) H O CH3 H 10
Ardisiaquinone M (46) H O H CH3 9
Ardisiaquinone N (47) H O H H 9
Ardisiaquinone O (48) OH OCH3 OH OH 9
Ardisiaquinone P (49) OH OCH3 OH OH 10
Đánh giá về khả năng gây độc tế bào của dãy chất ardisiaquinone trên các
dòng tế bào HeLa, A431, MCF7 và Ishikawa, đồng thời đánh giá hoạt tính của
những chất này trên các chủng vi khuẩn đã cho kết quả rất thú vị, qua đó tác giả
cho rằng những dẫn xuất tự nhiên của lớp chất alkylphenol có hoạt tính hay, đó là
những ứng cử viên tiềm năng trong việc tìm ra những hợp chất mới trong điều trị
bệnh đặc biệt là các bệnh có liên quan tới bạch cầu và các bệnh truyền nhiễm gây
ra bởi vi khuẩn gram dương [64, 65, 70].
1.2.1.3. Các hợp chất có khung isocoumarin
Ngoại trừ các lớp chất đã nhắc đến trong chi này thì lớp chất isocoumarin
cũng rất đáng được quan tâm, điển hình như bergenin (50). Lớp chất này có nhiều
tác dụng đã được báo cáo như hoạt tính chống lại tế bào ung thư gan, kháng nấm,
chống loạn nhịp tim, chống HIV [54, 72,74]. Hợp chất này được tìm thấy trong
nhiều loài thực vật khác nhau và trong một số loài trong chi Ardisia như A.
colorata, A. elliptica, A. japonica, A. crenata… Đặc biệt, nghiên cứu cho thấy
hàm lượng bergenin ở loài A. elliptica khá cao [46]. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu
phân lập được 11-Ogalloylbergenin (51) và 11-O-syringylbergenin (52) cùng với 2
dẫn xuất mới của bergenin là 11-O-vanilloyl-bergenin và 11-O-(3-
dimethylgalloyl)-bergenin (53-54) từ rễ A. crenata [39]. Một dẫn xuất khác của
bergernin là demethoxybergenin (55) cũng được phân lập từ loài A. colorata [79].
Từ loài A. gigantifolia, 6 hợp chất là dẫn xuất của bergenin, trong đó có một hợp
chất mới là 11-O-veratroylbergenin (56) đã được phân lập từ phần rễ của loài này
[62].
Bergenin (50)
Demethoxy-bergenin (55)
1.2.1.4. Các hợp chất có khung resorcinol
Từ rễ của một số loài như A. brevicaulis, A. cornudentata, A. gigantifolia, A.
maculosa và lá của loài A. silvestris, một loạt các hợp chất resorcinol được phân
lập, cấu trúc và hoạt tính của chúng đã được báo cáo [15, 18, 56,66].
Năm 2010, khi nghiên cứu thành phần từ dễ cây của loài A. brevicaulis đã phân
lập được 6 hợp chất resorcinol (57-62), trong đó có hai hợp chất mới là 57 và 58.
Tên chất STT R1 R2 R3
11-Ogalloylbergenin (51) OH OH OH
11-O-syringylbergenin (52) Ome OH Ome
11-O-vanilloyl-bergenin (53) Ome OH H
11-O-(3-dimethylgalloyl)- bergenin (54) Ome Ome OH
11-O-veratroylbergenin (56) Ome Ome H
(57) 4-hydroxy-2-methoxy-6-[(8Z)-pentadec-8-en-1-yl] phenyl acetat
(58) 4-hydroxy-2-methoxy-6-pentadecylphenylacetate (59) ardisiphenol D
(60) 5-tridecylresorcinol (61) 5-pentadecylresorcinol
(62) 5-[(8Z)-pentadecyl-8-en-1-yl] resorcinol
1.2.1.5. Các hợp chất có khung flavonoid
Cho đến nay, lớp chất flavonoid trong chi này được báo cáo rất ít. Năm 2005,
trong việc nghiên cứu hoạt tính ức chế PTP1B trên loài A. japonica, lần lượt các
lớp chất flavonoid phổ biến như quercitin, myricitin, kaempferol 3-O-α-L-
rhamnopyranoside và rutin được tìm thấy trong loài này [52]. Đến năm 2009, từ
loài A. colorata trong một nghiên cứu của Kikuchi H và cộng sự đã phân lập được
11 hợp chất isoflavon (63-73), trong đó có một hợp chất mới coloratanin A(63)
cũng được phân lập [44].
Tên chất STT Cấu tạo Gốc R
Coloratanin A
63
7,4’-dihydroxy-8-meth-
oxyisoflavone 64
R1=OMe,
R2=H;
Genistein 66
R1=H,
R2=OH
2-hydroxyformononetin 65
R=OH
Formonotetin 69
R=H
Derrisoflavone B
67
Derrisoflavone D
68
Derrisoflavone A
70
Isolupalbigennin
71
2,3,4-trimethoxy-5-
hydroxyphenyl-2,3-
dihydro-7-hydroxy- 4H-
1-benzopyran
72
R1=OH,
R2=Me;
(R)-mucronulatol 73 R1=R2=H
1.2.2. Nghiên cứu hoạt tính sinh học
Các nghiên cứu trên thế giới đã cho thấy các loài thực vật họ Myrsinaceae, đặc
biệt là các loài thuộc chi Ardisia, có nhiều hoạt tính sinh học đáng quý, như: hoạt
tính kháng khuẩn, kháng nấm, kháng virut, kháng viêm giảm đau, chống oxi hóa,
chống đái tháo đường, chống loãng xương, bảo vệ thần kinh, bảo vệ gan và nhất là
hoạt tính chống ung thư rất tốt. Trong một bài review đăng trên tạp chí Journal of
Ethnopharmacology, Kobayashi H. de Mejía E (Mỹ) đã nhận định: Chi Ardisia –
một nguồn mới cung cấp các hợp chất tăng cường sức khỏe và dược phẩm có
nguồn gốc thiên nhiên quý giá [46].
Điểm nổi trội nhất về hoạt tính sinh học của các thực vật thuộc chi Ardisia họ
Myrsinaceae là hoạt tính gây độc tế bào trên các dòng tế bào ung thư. Một nghiên
cứu sàng lọc về hoạt tính gây độc tế bào đối với dòng tế bào ung thư máu HL-60
của 155 dịch chiết từ 93 loài cây thuốc ở Malaysia cho thấy, dịch chiết metanol
của loài A. crenata đã tiêu diệt hơn 50% tế bào khi thử ở nồng độ 20 µg/ml [49].
Từ loài A. colorata, ba hợp chất tritecpen saponin khác là ardisiphenols A – C có
hoạt tính ức chế tế bào ung thư vú ở chuột FM3A [17].
Các hợp chất tritecpen saponin và các hợp chất là dẫn xuất của benzoquinon
tìm thấy ở các loài Ardisia thuộc họ Myrsinaceae cũng thể hiện hoạt tính gây độc
đối với các dòng tế bào ung thư rất tốt. Từ loài A. crispa, một hợp chất
benzoquinonoid là 2-metoxy-6-tridecyl-1,4-benzoquinon (ký hiệu AC7-1) có tác
dụng ngăn chặn rất tốt sự bám dính và sự xâm lấn của tế bào u ác tính B16-F10 in
vitro, đồng thời hợp chất này cũng ức chế đáng kể sự lớn lên và sự di căn vào phổi
của khối u in vivo. Hai hợp chất alkyl benzoquinon từ loài A. cornudentata là
ardisianone và cornudentanone có ho ạt tính gây độc tế bào đối với dòng tế bào
NCI-H460 với các giá trị IC(50) là 2,3 và 2,5 µg/mL tương ứng [16].
Một số hợp chất 2, 17, 18, 19 được thử nghiệm hoạt tính gây độc tế bào trên 6
dòng tế bào ung thư là HCT-8, Bel7402, BGC-823, A549, A2780 và KETR3 với
chất đối chứng dương là taxol song đều cho kết quả âm tính, chỉ riêng
ardisiacrispin B được coi là chất ức chế yếu đối với 6 dòng tế bào trên [93]. Gần
đây, thử nghiệm hoạt tính gây độc tế bào U251MG của hai hợp chất 1 và 2 đã cho
thấy tiềm năng của hợp chất 2 khi cho giá trị IC50 là 3,33 µmol/L so với chất đối
chứng dương Nimustine hydrochloride (giá trị IC50 0,98 µmol/L); trong khi đó hợp
chất 1 cũng thể hiện hoạt tính song ở một mức độ thấp hơn, cụ thể giá trị IC50
12,20 ± 1,14 µmol/L [85]. Các hợp chất 2, 4, 5, 6, 7, 18 còn được thử nghiệm trên
enzym cAMP phosphodiesterase (một loại enzym có tác dụng phân hủy các chất
truyền tín hiệu nội bào gây ra việc rối loại ở nam giới), kết quả cho thấy các hợp
chất có khả năng ức chế mạnh ngoại trừ hợp chất 7 [37].
Trong nghiên cứu về thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của loài A.
Mamillata và A. Gigantifolia, đã ghi nhận 10 hợp chất có khả năng ức chế những
dòng tế bào khác nhau trên 3 dòng tế bào thử nghiệm là A549, Bel-7402 và tế bào
HCT-8, các hợp chất 29, 31-33, 36-39 cho tác dụng tốt trên cả 3 dòng tế bào trên,
các hợp chất 30, 34 chỉ có tác dùng trên tế bào Bel-7402, còn riêng hợp chất 35 chỉ
cho kết quả tốt đối với dòng tế bào HCT-8 [59].
Bên cạnh hai lớp chất tritecpen saponin và benzoquinon, các dẫn xuất của
resorcinol được tìm thấy ở các loài Ardisia cũng có hoạt tính gây độc tế bào,
chống khối u tốt. Một dẫn xuất của resorcinol phân lập từ loài A. maculosa có hoạt
tính gây độc tế bào đối với tế bào ung thư người với giá trị GI (50) là 0,214
µM/ml .Từ loài A. gigantifolia, hai dẫn xuất khác của resorcinol đã được tìm thấy
và có hoạt tính gây độc tế bào mạnh đối với các dòng tế bào PC-3, EMT6, A549,
Hela, RM-1 và SGC7901 với các giá trị IC(50) nhỏ hơn 30 µM [56]. Mới đây,
năm 2010, từ loài A. brevicaulis, bốn dẫn xuất của resorcinol là 4-hydroxy-2-
methoxy-6-[(8Z)-pentadec-8-en-1-yl]phenyl acetate, 4-hydroxy-2-methoxy-6-
pentadecylphenyl acetate, 5-tridecylresorcinol và ardisiphenol D có tác dụng ức
chế các dòng tế bào A549, MCF-7 và PANC-1, đặc biệt cả bốn hợp chất này đều
thể hiện hoạt tính ức chế rất mạnh đối với dòng tế bào A549 (với các giá trị IC(50)
tương ứng là 3,0; 3,2; 12,5 và 3,4 µM), mạnh hơn cả chất đối chứng cisplatin (có
giá trị IC(50) là 18,7 µM) [11]. Một hợp chất isoflavonoid là coloratanin A được
phân lập từ vỏ cây A. colorata có tác dụng ức chế tế bào ung thư phổi người AGS
thông qua con đường tăng cường hoạt tính của DR5 (một thụ thể gây chết gắn kết
với protein gây ra cái chết theo chương trình của tế bào TRAIL) [Kikuchi-2009].
Lá của loài A. compressa được uống thay trà ở Mỹ để chữa các bệnh mãn tính,
trong đó bao gồm cả bệnh ung thư. Kết quả nghiên cứu cho thấy các thành phần
tanin và polyphenolic là các thành phần chính quyết định đến hoạt tính này [15,76].
Một nghiên cứu khác cho thấy, các hợp chất phenolic tìm thấy ở loài này như axit
gallic, epicatechin gallate, proanthocyanidin dime, kaempferol, naringenin và một
số dẫn xuất của ardisin có tác dụng ức chế đối với dòng tế bào ung thư ruột kết ở
người [25].
Ngoài hoạt tính gây độc tế bào, chống ung thư và hoạt tính kháng nấm kháng
khuẩn, các thực vật thuộc chi Ardisia họ Myrsinaceae còn có nhiều hoạt tính sinh
học quý giá khác như hoạt tính kháng virut (virut viêm gan B, virut viêm gan C,
virut HIV-1 và 2), hoạt tính trừ giun và các loài nhuyễn thể, ức chế enzym (PTP1B,
acetylcholinesterase), hoạt tính chống ôxi hóa, bảo vệ thần kinh, bảo vệ gan,
chống đái tháo đường, chống nhồi máu cơ tim, chống co giật…
Gần đây nhất (năm 2011), hợp chất beta-amyrin phân lập từ loài A. elliptica có
tác dụng ức chế sự đông kết tiểu cầu gây ra bởi collagen mạnh hơn cả chất đối
chứng aspirin: giá trị IC(50) của beta-amyrin là 4,5 µg/ml (10,5 µM) trong khi đó
giá trị này của aspirin là 11 µg/ml (62,7 µM), tức là hợp chất beta-amyrin có hoạt
tính ức chế sự đông kết tiểu cầu mạnh hơn aspirin 6 lần [19].
1.3. Tình hình nghiên cứu về chi Ardisia ở Việt Nam
Ở Việt Nam chưa có nhiều các nghiên cứu về hóa học cũng như hoạt tính sinh
học của các thực vật họ Myrsinaceae nói chung và các loài thực vật trong chi
Ardisia nói riêng, chúng chỉ mới được sử dụng trong dân gian làm thuốc chữa
bệnh. Duy nhất chỉ có một công trình công bố trên tạp chí Planta medica năm
1996 của tác giả Nguyễn Hoàng Anh và cộng sự nghiên cứu về thành phần hóa
học của hai loài A. silvestri và A. gigantifolia, trong đó công bố đã tìm thấy 2-
methyl-5-(Z-nonadec-14-enyl)resorcinol và 5-(Z-nonadec-14-enyl)resorcinol cùng
một số các hợp chất tritecpen khác [66].
Trong dân gian, nhìn chung các thực vật thuộc họ này có tính mát, có tác dụng
kháng sinh, hoạt huyết tán ứ, tiêu thũng tiêu viêm và thường được sử dụng để chữa
phong thấp đau xương, đòn ngã tổn thương, chữa các bệnh về gan, chữa sưng đau
yết hầu, chữa ho ra máu, chữa bệnh đái đượng, bệnh lỵ, chữa mụn nhọt, eczema và
các bệnh ngoài da, đau dạ dày, chữa rắn cắn và trị giun sán. Lá của một số loài
được dùng uống thay trà hoặc ăn gỏi để chữa các bệnh về ngộ độc thực phẩm. Quả
của một số loài cũng ăn được [3, 4].
Chương 2. PHƯƠNG PHÁP VÀ THỰC NGHIỆM
2.1. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
2.1.1. Mẫu thực vật
Đã tiến hành thu hái và xác định tên khoa học của 09 loài Ardisia. Danh sách
các loài bao gồm tên khoa học, tên gọi thông thường, nơi thu hái mẫu và hình ảnh
mẫu được đưa ra trong Bảng 2.1.
Bảng 2.1. Mẫu các loài Cơm nguội đã được thu thập để sử dụng trong nghiên
cứu
S
TT Tên khoa học
Tên
thường
gọi
Địa điểm
thu hái
Bộ
phận
thu
hái
Ảnh, số hiệu mẫu
1 Ardisia
balansana Yang
Cơm
nguội
balansa
Bản
Khoang,
Sa Pa, Lào
Cai
Toàn
cây
VMN-B0001635
2 Ardisia caudata
Hemsl.
Cơm
nguội
đuôi
Bản
Khoang,
Sa Pa, Lào
Cai; độ cao
1700 m
Lá
VMN-B0001387
3 Ardisia
incarnata Pitard
Cơm
nguội
thắm
Cát Cát, Sa
Pa, Lào
Cai; độ cao
1.500 m
VMN-B0001452
4 Ardisia insularis
Mez.
Cơm
nguội
đảo
Quảng
Khê, Đăk
Glong,
Đắk Nông,
Tây
Nguyên
Lá
BMN-B0001532
5 Ardisia
maculosa Mer.
Cơm
nguội
đốm
Sín Chải,
Sa Pa, Lào
Cai; độ cao
1.700 m
Lá
VMN-B0001476
6
Ardisia
primulifolia
Gardn.
Cơm
nguội
anh
thảo
Mẫu Sơn,
Lạng Sơn;
ở độ cao
1.100 m
Lá
VMN-B0001346
7 Ardisia
pseudocrispa Pit.
Cơm
nguội
nhu
nhăn
Mẫu Sơn,
Lạng Sơn;
độ cao 800
m
Lá
VMN-B0001256
8 Ardisia
splendens Pit.
Cơm
nguội
rạng
VQG Cát
Tiên, Tân
Phú, Đồng
Nai
Lá
VMN-B0001498
9 Ardisia tsangii
E. Walker.
Cơm
nguội
tsang
Trạm Tôn,
Sa Pa, Lào
Cai; độ cao
1.700 m
Lá
VMN-B0001428
Mẫu cây của 9 loài Ardisia trên đều được TS. Nguyễn Quốc Bình, Bảo tàng
Thiên nhiên Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam giám
định tên khoa học. Tiêu bản mẫu được lưu giữ tại Viện Hóa học các Hợp chất
thiên nhiên, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
2.1.2. Phương pháp xử lý và chiết mẫu
Các mẫu thực vật sau khi thu hái được rửa sạch đất cát, thái nhỏ, phơi trong
bóng mát, sấy khô ở nhiệt độ 50-60 oC và nghiền thành bột. Bột được chiết kết
hợp siêu âm và gia nhiệt trong dung môi metanol ở 50 oC (3 lần x 2 giờ mỗi lần).
Dịch chiết metanol sau đó được cất loại dung môi dưới áp suất giảm. Cặn metanol
tổng được bổ sung thêm nước và chiết phân bố lại với các dung môi n-hexan,
cloroform, etyl axetat và n-butanol. Cất loại dung môi dưới áp suất giảm thu được
các cặn chiết tương ứng.
2.1.3. Phương pháp phân lập các hợp chất từ mẫu cây
Phương pháp chiết tách, phân lập các hợp chất: sử dụng các phương pháp
nghiên cứu thông thường trong hoá học: phương pháp chiết, tách, phân lập các
chất bằng sắc ký lớp mỏng, sắc ký cột silica gel pha thường, silica gel pha đảo và
dianion.
Sắc kí lớp mỏng (TLC): Sắc ký lớp mỏng dùng để khảo sát thành phần,
được thực hiện trên bản mỏng tráng sẵn DC-Aluofolien 60 F254 (Merck), RP18
F254s (Merck). Dung môi triển khai sắc ký là hỗn hợp của một số trong số các dung
môi thông thường như n-hexan, chloroform, etyl axetat, axeton, metanol và nước.
Phát hiện chất bằng đèn tử ngoại ở hai bước sóng 254 nm và 365 nm hoặc dùng
thuốc thử là dung dịch vanillin H2SO4 10 % được phun đều lên bản mỏng, sấy khô
rồi hơ nóng trên bếp điện từ từ đến khi hiện màu.
Sắc ký cột (CC): Được tiến hành với chất hấp phụ là silica gel pha thường,
silica gel pha đảo. Silica gel pha thường Merck có cỡ hạt là 0,040 – 0,063 mm
(240-430 mesh). Silica gel pha đảo YMC (30-50 m, Fujisilisa Chemical Ltd.)
2.1.4. Phương pháp xác định cấu trúc các hợp chất phân lập được
Phương pháp chung để xác định cấu trúc hóa học cuả các hợp chất để cập
đến là sự kết hợp giữa việc xác định các thông số vật lý và các phương pháp phổ
hiện đại bao gồm:
Phổ hồng ngoại (FT-IR): Phổ IR của các chất được đo trên máy
SHIMADZU FTIR 8107M của Nhật tại viện Hoá học - viện Khoa học và Công
nghệ Việt Nam. Chế độ đo: đo độ truyền qua, dải số sóng 4000-500 cm-1, độ phân
giải 0,25 cm-1, số lần quét 32 lần/phổ ; mẫu được chuẩn bị bằng cách nghiền mịn
với bột KBr theo tỷ lệ 5 10 mg chất /1gam KBr và ép thành viên trong suốt ở
600 psi trong 5 phút.
Phổ khối: Phổ khối ion hóa bụi electron (ESI-MS) được đo trên máy
AGILENT 1100 LC-MSD ion Trap spectrometer-Viện Hóa học các Hợp chất
thiên nhiên.
Phổ cộng hưởng từ hạt nhân 1H-NMR, 13C-NMR được đo trên máy
BRUKER ADVANCE – 500M của Đức tại Phòng phân tích cấu trúc, Viện Hoá
học - Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Các điều kiện đo: tần số 500 MHz
và 125 MHz, dung môi DMSO-d6, chất chuẩn nội TMS.
Điểm nóng chảy (Mp): Điểm nóng chảy được đô trên máy Kofer-micro-
hotstage của Viện Hóa học các Hợp chất thiên nhiên-Viện Hàn lâm Khoa học và
Công nghệ Việt Nam.
2.1.5. Các phương pháp thử hoạt tính sinh học
2.1.5.1. Phương pháp thử hoạt tính kháng nấm, kháng khuẩn
Các thí nghiệm thử hoạt tính kháng nấm, kháng khuẩn được tiến hành tại
phòng Sinh học thực nghiệm, Viện Hóa học các Hợp chất thiên nhiên, Viện Hàn
lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
Hoạt tính kháng vi sinh vật kiểm định được tiến hành trên các phiến vi lượng
96 giếng theo phương pháp của Vander Bergher & Vlietlinck (1991) và c ủa
MCKane L. & Kandel (1996).
Các chủng vi sinh vật kiểm định: vi khuẩn Gram (+) B. subtillis, S. aureus; vi
khuẩn Gram (-) E. coli, P. aeruginosa; nấm men S. cerevisiae, C. albicans và nấm
mốc Asp. niger, F. oxysporum.
Các chứng dương tính là: ampicilin cho vi khuẩn Gram (+), tetracylin cho vi
khuẩn Gram (-), nystatin cho nấm sợi và nấm men.
Kháng sinh pha trong DMSO 100% với nồng độ thích hợp: ampicilin 50
mM; tetracylin 10 mM; nystatin 0,04 mM.
Chứng âm tính: vi sinh vật kiểm định không trộn kháng sinh và chất thử.
Nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) của chất có hoạt tính: Các mẫu đã có hoạt
tính được sàng lọc ban đầu được pha loãng theo các thang nồng độ thấp dần (từ 5 -
10 thang nồng độ) để tính giá trị nồng độ tối thiểu mà ở đó vi sinh vật bị ức chế
phát triển gần như hoàn toàn.
2.1.5.2. Phương pháp thử hoạt tính kháng virut
Các thí nghiệm thử hoạt tính kháng virut được tiến hành tại Khoa Dược,
Viện Khoa học Dược Yonsei, Trường Đại học Yonsei, Incheon, Hàn Quốc.
Virut Coxsackievirus A16 (CVA16) được cung cấp bởi Viện Nghiên cứu
môi trường và Sức khỏe Chungcheongnam, Hàn Quốc và được nhân giống trong
tế bào Vero thận khỉ xanh Châu Phi (ATCC CCR-81) ở 37°C. Các tế bào Vero
được giữ trong môi trường MEM có bổ sung 10% huyết thanh bào thai bò (FBS)
và 0,01% dung dịch kháng sinh chống nấm. Dung dịch kháng sinh chống nấm,
axit trypsin-ethylene diamin (EDTA) và dung dịch MEM được cung cấp bởi hãng
Gibco BRL (Invitrogen Life Technologies, Karlsruhe, Đức). Các tấm nuôi cấy mô
được cung cấp bởi hãng Falcon (BD Biosciences, San Jose, CA, Mỹ).
Sulforhodamine B (SRB) được đặt mua của hang Sigma-Aldrich (St. Louis, MO,
Mỹ).
Phương pháp thử hoạt tính kháng virut: Hoạt tính kháng virut được đánh giá
theo phương pháp SRB trong đó có đánh giá hiệu quả gây bệnh tế bào (CPE).
Ribavirin được sử dụng làm chứng dương, DMSO được sử dụng làm chứng âm.
Tác dụng gây bệnh tế bào (CPE) gây ra bởi virut đã được quan sát. Cách tiến hành
như sau: Các tế bào MDCK được cấy vào khay 96 giếng với nồng độ 2 × 104 tế
bào/giếng. Sau một ngày, dịch môi trường được bỏ đi và sau đó rửa với PBS. Sau
đó, 0,09 ml dung dịch chứa virut và 0,01 ml dung dịch môi trường có bổ sung
trypsin-EDTA có chứa mẫu thử nghiệm đã được thêm vào. Hoạt tính kháng virut
của mỗi mẫu thử nghiệm được xác định ở 6 nồng độ khác nhau từ 0,4 đến 50 µM,
pha loãng 5 lần đối với mỗi mẫu thử. Sau khi ủ hai ngày ở 37 0 C và 5% CO2 , hình
thái tế bào được quan sát và chụp ảnh dưới kính hiển vi AXIOVERT10 (ZEISS,
Germany).
2.1.5.3. Phương pháp thử độ độc tế bào in vitro
Các thí nghiệm thử hoạt tính gây độc tế bào được tiến hành tại phòng Thử
nghiệm sinh học, Viện Công nghệ Sinh học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công
nghệ Việt Nam.
Năm dòng tế bào ung thư được sử dụng là KB (ung thư biểu mô), LU-1 (ung
thư phổi), MCF7 (ung thư vú), Hep-G2 (ung thư gan) và LNCaP (ung thư tuyến
tiền liệt).
Phương pháp thử độ độc tế bào in vitro được Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ
(National Cancer Institute – NCI) xác nhận là phép thử độ độc tế bào chuẩn nhằm
sàng lọc, phát hiện các chất có khả năng kìm hãm sự phát triển hoặc diệt tế bào
ung thư (TBUT) ở điều kiện in vitro.
Phép thử tiến hành xác định hàm lượng protein tế bào tổng số dựa vào mật
độ quang học (OD – Optical Density) đo được khi thành phần protein của tế bào
được nhuộm bằng Sulforhodamine B (SRB). Giá trị OD máy đo được tỉ lệ thuận
với lượng SRB gắn với phân tử protein, do đó lượng tế bào càng nhiều (lượng
protein càng nhiều) thì giá trị OD càng lớn.
Phép thử được thực hiện trong điều kiện cụ thể như sau:
- Chất thử (20 l) pha trong DMSO 10% được đưa vào các giếng của khay
96 giếng để có nồng độ cuối cùng là 100 g/ml; 50 g/ml; 25 g/ml; 12,5 g/ml;
6,25 g/ml
- Thêm vào các giếng thí nghiệm lượng tế bào phù hợp (trong 180 l môi
trường) và để chúng phát triển trong vòng từ 3-5 ngày.
- Một khay 96 giếng khác không có chất thử nhưng có tế bào ung thư (180l)
sẽ được sử dụng làm đối chứng ngày 0. Sau 1 giờ, đĩa đối chứng ngày 0 sẽ được
cố định tế bào bằng TCA.
- Sau giai đoạn phát triển trong tủ ấm CO2, tế bào được cố định vào đáy
giếng, được nhuộm bằng SRB. Cuối cùng, sử dụng unbuffered Tris base để hòa
tan lượng SRB đã bám và nhuộm các phân tử protein, đưa lên máy lắc đĩa lắc nhẹ
trong 10 phút và sử dụng máy ELISA Plate Reader (Bio-Rad) để đọc kết quả về
hàm lượng màu của chất nhuộm SRB qua phổ hấp phụ ở bước sóng 515 nm.
Khả năng sống sót của tế bào khi có mặt chất thử sẽ được xác định thông qua
công thức sau:
% sống sót = [OD(chất thử) − OD(ngày 0)] x 100
OD(đối chứng âm) − OD(ngày 0)
Các phép thử được lặp lại 3 lần để đảm bảo tính chính xác. Ellipticine
(Sigma) luôn được sử dụng như là chất đối chứng dương. DMSO 10% luôn được
sử dụng như đối chứng âm. Giá trị IC50 (nồng độ ức chế 50% sự phát triển) sẽ
được xác định nhờ vào phần mềm máy tính TableCurve.
Chất thử nào có IC50 < 20 g/ml (với chất chiết thô, hoặc với phân đoạn hóa
học) hoặc IC50 4 g/ml (với hoạt chất tinh khiết) sẽ được xem là có hoạt tính gây
độc tế bào và có khả năng ức chế sự phát triển hoặc diệt tế bào ung thư.
2.2. Phân lập các hợp chất từ cây cơm nguội balansana (Ardisia balansana)
2.2.1. Xử lý mẫu thực vật
Rễ cây cơm nguội balansa (Ardisia balansana) sau khi phơi khô, nghiền nhỏ
(3,5 kg), được chiết kết hợp siêu âm và gia nhiệt trong dung môi metanol ở 50oC
(3 lần x 2 giờ mỗi lần). Dịch chiết metanol được gộp chung lại và cất loại dung
môi dưới áp suất giảm thu được 500 g cặn chiết metanol tổng. Cặn metanol tổng
được bổ sung thêm nước và chiết phân bố lại với các dung môi n-hexan, cloroform,
etyl axetat và n-butanol. Cất loại dung môi dưới áp suất giảm thu được các cặn
chiết n-hexan (AB/A, 60 g), chloroform (AB/B, 50 g), etyl axetat (AB/C, 30 g) và
n-butanol (AB/D, 25 g) tương ứng. Pha nước còn lại được lọc trên giấy lọc thu
được cặn rắn E (AB/E, 160 g) và dịch nước. Phần dịch nước này được tiến hành
sắc ký trên cột dianion và rửa giải bằng dung môi MeOH (25%, 50%, 75% và
100% MeOH), sau khi cất loại dung môi dưới áp suất giảm từ phần dịch rửa 100%
MeOH thu được cặn AB/F (8 g).
Cặn AB/B (50 g) được tiến hành phân lập trên cột silica gel pha thường, hệ
dung môi rửa giải n-hexan:etyl axetat (từ 90:1 đến 1:1, 100% EtOAc) và 100%
MeOH, thu được 10 phân đoạn (ký hiệu từ B-1 đến B-10). Phân đoạn B-7 (500
mg) được tiếp tục sắc ký trên cột silica gel pha thường và rửa giải bởi hệ dung môi
n-hexan:etyl axetat (4:1, v/v), thu được 4 phân đoạn (ký hiệu từ B-7/1 đến B-7/4).
Phân đoạn B-7/2 tiếp tục được sắc ký trên cột silica gel pha thường và rửa giải bởi
hệ dung môi n-hexan: etyl axetat (2:1, v/v), thu được hợp chất AB-1 (chất bột
không màu, 20 mg). Phân đoạn B/7-4 được tinh chế trên cột silica gel pha thường
với hệ dung môi rửa giải n-hexan:etyl axetat (1:1, v/v) thu được hợp chất AB-2
(tinh thể hình kim màu trắng, 20 mg). Phân đoạn B-10 (900 mg) tiếp tục được sắc
ký trên cột silica gel pha thường với hệ dung môi rửa giải cloroform:metanol:nước
(5:1:0,1, v/v/v) thu được 5 phân đoạn nhỏ (ký hiệu từ B/10-1 đến B/10-5). Hợp
chất AB-3 (chất bột màu trắng, 15 mg) thu được sau khi tiến hành sắc ký phân
đoạn B/10-3 trên cột silica gel pha đảo và rửa giải với hệ dung môi axeton:nước
(8:1, v/v).
Cặn AB/C (30 g) được tiến hành sắc ký trên cột silica gel pha thường, hệ
dung môi n-hexan:etyl axetat (từ 90:1 đến 1:1, 100% EtOAc) và 100% MeOH, thu
được 10 phân đoạn (ký hiệu từ C-1 đến C-10). Phân đoạn C-5 (600 mg) được tiếp
tục sắc ký trên cột silica gel pha thường và rửa giải bởi hệ dung môi n-hexan:etyl
axetat (4:1, v/v), thu được 5 phân đoạn nhỏ (ký hiệu từ C/5-1 đến C/5-5). Phân
đoạn C/5-5 (75 mg) tiếp tục được sắc ký trên cột silica gel pha đảo với hệ dung
môi rửa giải MeOH:H2O (5:1, v/v) thu được hợp chất AB-4 (chất bột màu vàng,
30 mg).
Cặn AB/F (8 g) được tiến hành sắc ký trên cột silica gel pha thường, hệ
dung môi rửa giải clorofrom:metanol (10:1, 6:1, 3:1, 1:1, 100% MeOH, v/v) thu
được 5 phân đoạn (ký hiệu từ F-1 đến F-5). Phân đoạn F-2 tiếp tục được tiến hành
sắc ký trên cột silica gel pha thường và rửa giải bằng hệ dung môi
clorofrom:metanol:nước (4:1:0,1, v/v/v), sau đó tinh chế trên cột silica gel pha đảo
với hệ dung môi rửa giải MeOH:H2O (2:1, v/v) thu được hợp chất AB-5 (chất bột
màu vàng nhạt, 20 mg). Phân đoạn F-3 được tiếp tục sắc ký trên cột silica gel pha
thường và rửa giải bằng hệ dung môi clorofom:metanol:nước (3:1:0,1, v/v/v) thu
được hợp chất AB-6 (chất bột màu vàng, 20 mg).
2.2.2. Sơ đồ phân lập các hợp chất từ cây cơm nguội balansana
Sơ đồ phân lập các hợp chất từ cây cơm nguội balansana được trình bầy
trong Hình 2.1 và Hình 2.2 dưới đây
Hình 2.1: Sơ đồ phân lập các chất từ cặn chiết chloroform của cây cơm nguội
balansana
CC, SiO2,
CHCl3:MeOH:H2O
(5:1:0,1)
CC, SiO2, n-hexan:etyl axetat
(từ 90:1 – 100% EtOAc) và 100% MeOH
CC, SiO2,
n-hexan:
etyl axetat
(4:1)
Cặn chloroform
AB/B (50g)
B-1 B-7 ..... .... B-10
CC, SiO2, n-hexan: etyl
axetat (4:1)
B-7/1 B-7/2 B-7/4 B-7/3 B-10/1 B-10/2 B-10/3 B-
10/4
B-10/5
AB-1
20 mg
AB-2
20 mg
AB-3
20 mg
CC, SiO2,
n-hexan:
etyl axetat
(4:1)
CC, RP-18
Aceton:H2O (8:1)
Hình 2.2: Sơ đồ phân lập chất từ cặn chiết etyl axetat và cặn nước của cây
cơm nguội balansana
- Bổ sung nước
- Chiết phân bố lại bằng các dung môi
n-hexan, chloroform, etyl axetat, n-butanol
CC, SiO2, n-hexan: etyl
axetat (4:1)
C-5/1 ..... C-5/5
AB-4
30 mg
CC, RP-18
MeOH:H2O(0,8:1, v/v)
1.CC, SiO2,
CHCl3:MeOH:H2O
(4:1:0,1)
2. CC, RP-18
MeOH:H2O
(2:1)
AB-5
20 mg
CC, SiO2,
CHCl3:MeOH:H2
O
(3:1:0,1)
AB-6
20 mg
3,5 kg bột rễ cây
A. balansana
- Chiết kết hợp siêu âm gia nhiệt trong MeOH
ở 500C
- Cât loại dung môi dưới áp suất giảm
Cặn MeOH 500 gam
Cặn
n-hexan
AB/A 60
g
Cặn
chloroform
AB/B
50 g
Cặn
etyl axetat
AB/C
30 g
Cặn rắn
AB/E
160 g
Cặn
n-butanol
AB/D
25 g
Dịch nước
AB/F
8 g
CC, SiO2, n-hexan:etyl axetat
(từ 90:1 – 100% EtOAc) và 100%
MeOH
CC, SiO2, CHCl3:MeOH
(10:1, - 100% MeOH)
C-1 C-5 .... .... C-10 F-1 F-3 F-2 F-4 F-5
2.2.3. Hằng số vật lý và dữ kiện phổ của các hợp chất phân lập được
Hợp chất AB-1: Chất bột không màu; Mp.: 126-128 oC; ESI-MS: m/z 170
[M+H]+, C10H18O2. 1H-NMR (CD3OD, 500 MHz) δ (ppm): 3,86 (1H, ddd, J =
2,0/3,0/10,0 Hz, H-2), 2,26 (1H, ddd, J = 5,0/9,0/14,0 Hz, Ha-3), 0,79 (1H, dd, J =
3,0/14,0 Hz, Hb-3), 1,68 (1H, d, J = 5,0 Hz, H-4), 3,82 (1H, dd, J = 3,5/8,0 Hz, H-
5), 1,34 (1H, ddd, J = 2,0/3,5/13,5 Hz, Ha-6), 2,34 (1H, dd, J = 8,0/13,5 Hz, Hb-6),
1,1 (3H, s, H-8), 0,89 (3H, s, H-9), 0,87 (3H, s, H-10). 13C-NMR (CD3OD, 125
MHz) (ppm): 51,3 (C-1), 76,3 (C-2), 36,7 (C-3), 53,8 (C-4), 75,8 (C-5), 39,1 (C-
6), 48,7 (C-7), 20,1 (C-8), 21,6 (C-9), 13,1 (C-10).
Hợp chất AB-2: Tinh thể hình kim, màu trắng; Mp.: 237-238 oC; ESI-MS: m/z
170 [M+H]+, C7H6O5. 1H-NMR (CD3OD, 500 MHz) δ (ppm): 7,079 (2H, s, H-2,
H-6). 13C-NMR (CD3OD, 125 MHz) (ppm): 122 (C-1), 110,3 (C-2), 146,3 (C-3),
139,5 (C-4), 146,3 (C-5), 110,3 (C-6),170,4 (C-7).
Hợp chất AB-3: Chất bột màu trắng; Mp.: 201-203 oC; ESI-MS: m/z 184 [M+H]+,
C8H8O5. 1H-NMR (CD3OD, 500 MHz) δ (ppm): 3,32 (3H, s, OCH3), 7,10 (2H, s,
H-2, H-6). 13C-NMR (CD3OD, 125 MHz) (ppm): 121,54 (C-1), 110,3 (C-2),
145,9 (C-3), 139,3 (C-4), 145,9 (C-5), 110,3 (C-6),170,5 (C-7), 49,83 (OCH3).
Hợp chất AB-4: Chất bột màu vàng nhạt; Mp.: 313-314 oC; ESI-MS: m/z 325
[M+Na]+, 301 [M-H]-, C15H10O7. 1H-NMR (500 MHz, CD3OD) (ppm): 6,20 (1H,
d, J = 2,0 Hz, H-6), 6,41 (1H, d, J = 2,0 Hz, H-8), 7,75 (1H, d, J = 2,0 Hz, H-2′),
6,90 (1H, d, J = 8,5 Hz, H-5′), 7,65 (1H, dd, J = 8,5/2,0 Hz, H-6′). 13C-NMR (125
MHz, CD3OD) δ (ppm): 148,6 (C-2), 137,2 (C-3), 177,3 (C-4), 162,6 (C-5), 99,1
(C-6), 165,6 (C-7), 94,4 (C-8), 158,2 (C-9), 104,5 (C-10), 124,1 (C-1′), 116,0 (C-
2′), 146,2 (C-3′), 148,0 (C-4′), 116,2 (C-5′), 121,7 (C-6′).
Hợp chất AB-5: Tinh thể hình kim màu vàng cam; Mp.: 196-197 oC, ESI-MS:
m/z 487 [M+Na]+, C21H20O12. 1H-NMR (500 MHz, CD3OD) (ppm): 6,22 (1H, d,
J = 2,0 Hz, H-6), 6,38 (1H, d, J = 2,0 Hz, H-8), 6,97 (1H, s, H-2′, H-6′), 5,33 (1H,
d, J = 1,5 Hz, H-1''), 4,24 (1H, dd, J = 1,5/3,5 Hz, H-2''), 3,82 (1H, dd, J = 3,5/9,5
Hz, H-3''), 3,37 (1H, m, H-4′), 3,53 (1H, m, H-5''), 0,98 (3H, d, J = 6,0 Hz). 13C-
NMR (CD3OD, 125 MHz) (ppm): 17,6 (C-6''), 71,8 (C-5''), 73,5 (C-4''), 72,14
(C-3''), 72,03 (C-2''), 103,61 (C-1''), 109,6 (C-6'), 146,8 (C-5'), 137,9 (C-4'), 146,8
(C-3'), 109,6 (C-2'), 122(C-1'), 105,9 (C-10), 159,4 (C-9), 94,7 (C-8), 165,8 (C-7),
99,8 (C-6), 163,1 (C-5), 179,6 (C-4), 136,3 (C-3), 158,5 (C-2).
Hợp chất AB-6: Tinh thể hình kim mảnh, màu vàng; Mp.: 190-192 oC; ESI-MS:
m/z 611 [M+H]+, C27H30O16. 1H-NMR (CD3OD, 500MHz) δ (ppm): 1,14 (3H-CH3,
d, J = 6,0 Hz, H-6'''), 3,32 (1H, m, H-5'''), 328 (1H, m, H-4'''), 3,56 (1H, dd, J =
9,5/3,5 Hz, H-3'''), 3,65 (1H, dd, J = 3,5/1,5 Hz, H-2'''), 4,54 (1H, d, J = 1,5 Hz,
H-1'''), 3,83 (1H, dd, J = 10,5/1,0 Hz, Hb-6''), 3,49 (1H, d, J = 1,0 Hz, Ha-6''), 3,25-
3,47 (4H, m, H-2'', H-3'', H-4'', H-5''), 5,12 (1H, d, J = 7,5 Hz, H-1''), 7,65 (1H, dd,
J = 2,5/8,0 Hz, H-6'), 6,89 (1H, d, J = 8,0, H-5'), 7,69 (1H, d, J = 2,5 Hz, H-2'),
6,42 (1H, d, J = 2,0 Hz, H-8), 6,29 (1H, d, J = 2,0 Hz, H-6). 13C-NMR (CD3OD,
125 MHz) (ppm): 17,8 (C-6'''), 69,1 (C-5'''), 73,9 (C-4'''), 72,1 (C-3'''), 72,2 (C-
2'''), 102,4 (C-1'''), 68,5 (C-6''), 77,2 (C-5''), 71,4 (C-4''), 78,1 (C-3''), 75,7 (C-2''),
104,6 (C-1''), 123,5 (C-6'), 116,1 (C-5'), 149,8 (C-4'), 145,8 (C-3'), 117,7 (C-2'),
123,1 (C-1'), 105,6 (C-10), 159,3 (C-9), 94,9 (C-8), 166 (C-7), 99,9 (C-6), 162,9
(C-5), 179,4 (C-4), 135,6 (C-3), 158,1 (C-2).
2.3. Phân lập các hợp chất từ cây cơm nguội rạng (Ardisia splendens)
2.3.1. Xử lý mẫu thực vật
Lá cây cơm nguội rạng (Ardisia splendens) sau khi thu hái được rửa sạch đất
cát, cắt nhỏ, sấy ở nhiệt độ 50-60 oC cho đến khô và nghiền thành bột. Bột lá cây
(3 kg) được chiết kết hợp siêu âm và gia nhiệt trong dung môi metanol ở 50 oC (3
lần x 2 giờ mỗi lần). Dịch chiết metanol được gộp chung lại và cất loại dung môi
dưới áp suất giảm thu được 200 g cặn chiết metanol tổng. Cặn metanol tổng được
bổ sung thêm nước và chiết phân bố lại với các dung môi n-hexan và etyl axetat.
Sau khi cất loại dung môi dưới áp suất giảm thu được các cặn chiết n-hexan (AS1,
50g), etyl axetat (AS2, 80 g) và cặn nước (AS3, 70g), tương ứng.
Cặn AS1 được sắc ký trên cột silica gel pha thường và rửa giải với dung n-
hexan:axeton (40:1, 20:1, 10:1, 5:1, 1:1, v/v) thu đư ợc năm phân đoạn, ký hiệu
từ AS1A đến AS1E. Phân đoạn AS1D tiếp tục được sắc ký cột trên silica gel pha
thường, rửa giải với dung môi cloroform:axeton (8:1, v/v) thu được bốn phân
đoạn nhỏ, ký hiệu từ AS1D1 đến AS1D4. Tinh chế phân đoạn AS1D2 trên cột
silica gel pha đảo YMC RP-18 với hệ dung môi rửa giải metanol:nước (6:1, v/v)
thu được hợp chất AS-7 (15 mg). Phân đoạn AS1D3 được sắc ký trên cột silica
gel pha đảo YMC RP-18, rửa giải với hệ dung môi metanol:nước (3:1, v/v) thu
được hợp chất AS-5 (10 mg).
Cặn AS2 được tiến hành sắc ký trên cột silica gel và rửa giải bởi hệ dung
môi gradient CHCl3:MeOH (40:1→0:1, v/v), thu được hai phân đoạn AS2A (20 g),
AS2B (18 g), AS2C (15 g) và AS2D (15 g). Phân đoạn AS2A được sắc ký cột trên
silica gel pha thường, rửa giải với hệ dung môi CHCl3:MeOH (5:1, v/v) thu được
hai phân đoạn nhỏ, ký hiệu là AS2A1 (2 g) và AS2A2 ( 1,5 g). Tinh chế phân
đoạn AS2A1 trên cột silica gel pha đảo YMC RP-18 với hệ dung môi rửa giải
metanol:nước (2,5:1) thu được hai hợp chất AS-2 (15 mg) và AS-4 (15 mg). Tiến
hành tinh chế phân đoạn AS2D trên cột silica gel pha đảo YMC RP-18 với hệ
dung môi rửa giải metanol:nước (1:2, v/v) thu được hợp chất AS-6 (5 mg).
Phần cặn nước (AS3, 70,0 g) được tiến hành rửa giải qua cột Dianion HP-20
với dung môi MeOH (từ 0%-25%-50%-75%-100% MeOH), thu được 5 phân đoạn,
ký hiệu từ AS3A đến AS3E. Phân đoạn AS3C được xử lý trên cột silica gel pha
thường, hệ dung môi rửa giải CHCl3:MeOH:H2O (5:1:0,1, v/v/v) thu được 3 phân
đoạn, ký hiệu từ AS3C1 đến AS3C3. Tinh chế phân đoạn AS3C1 trên cột silica
gel pha đảo YMC RP-18 với dung môi rửa giải MeOH:H2O (1:2, v/v) thu được
hợp chất AS-3 (12,0 mg). Tinh chế phân đoạn AS3C2 trên cột silica gel pha đảo
YMC RP-18 với dung môi rửa giải axeton:nước (1:1, v/v) thu được hợp chất AS-
1 (6,0 mg). Tiếp tục tiến hành sắc ký phân đoạn AS3C3 trên cột silica gel pha đảo,
rửa giải bởi hệ dung môi axeton:nước (1:2, v/v) thu được hợp chất AS-8 (10 mg)
và AS-9 (13 mg). Phân đoạn AS3D được sắc ký trên cột silicalgel pha thường với
hệ dung môi rửa giải CHCl3:MeOH:H2O (3:1:0,1, v/v) thu được 3 phân đoạn, ký
hiệu từ AS3D1 đến AS3D3. Tiếp tục tiến hành sắc ký cột phân đoạn AS3D1 với
hệ dung môi rửa giải CHCl3:MeOH:H2O (3:1:0,1, v/v) thu được hợp chất AS-10
(10 mg) và AS-11 (10 mg). Hợp chất AS-12 (11 mg) thu được sau khi tinh chế
phân đoạn AS3D2 bằng sắc ký cột trên silica gel pha đảo RP-18 với hệ dung môi
MeOH:H2O (1:2, v/v).
2.3.2. Sơ đồ phân lập các hợp chất từ cây cơm nguội rạng
Sơ đồ phân lập các hợp chất từ cây cơm nguội rạng được thể hiện trong Hình
2.3 và Hình 2.4 dưới đây.
Hình 2.3: Sơ đồ phân lập chất từ cặn chiết n-hexan và etyl axetat của cây cơm
nguội rạng
CC, SiO2, n-hexan:axeton
(40:1, 20:1,10:1, 5:1,1:1, v/v)
CC, SiO2, CHCl3:MeOH
(5:1, v/v) CC, RP-18, MeOH: H2O
(1:2, v/v)
3 kg bột lá
Asplenden
- Chiết kết hợp siêu âm gia nhiệt trong MeOH ở 500C - Cât loại dung môi dưới áp suất giảm
Cặn MeOH
200 gam
- Bổ sung nước - Chiết phân bố lại bằng các dung môi n-hexan, etyl axetat
Cặn n-hexan
AS1 (50 g)
Cặn etyl axetat
AS2 (80 g)
Cặn nước
AS3 (70 g)
CC, SiO2, CHCl3:MeOH (40:1→0:1, v/v)
AS2A AS2B AS2D AS2E AS1D ..... AS1A
CC,SiO2, CHCl3 :axeton
8:1)
Hình 2.4: Sơ đồ phân lập chất từ cặn nước của cây cơm nguội rạng
CC, SiO2, CHCl3:MeOH:H2O
(5:1:0,1, v/v)
CC,RP-18,
Axeton:nước
(1:1, v/v)
CC,RP-18,MeOH:H2O
(1:2, v/v)
CC, SiO2,
CHCl3:MeOH:H2O
(3:1:0,1, v/v)
AS9
13 mg
AS11
10 mg
AS12
11 mg
AS3
12 mg AS1
6 mg
CC,RP-18,
MeOH:H2O
(1:2, v/v)
AS3A AS3B
CC,RP-18,
Axeton:nước
(1:1, v/v)
Cặn nước AS3 70 g
Rửa giả i qua cột Dianion HP-20 vớ i dung môi
MeOH (từ 0%-25%-50%-75%-100% MeOH
AS3C AS3D AS3E
AS8
10 mg
AS10
10 mg
AS3C1 AS3C3 AS3C2 AS3D1 AS3D2 AS3D3
CC, SiO2, CHCl3:MeOH:H2O
(3:1:0,1, v/v)
2.3.3. Hằng số vật lý và dữ kiện phổ của các hợp chất phân lập được
Hợp chất AS-1: Chất bột màu vàng; HR-ESI-MS: m/z 609,1455 [M – H]– (tính
toán lý thuyết cho công thức C27H29O16: 609,1461). Các dữ kiện phổ 1H-NMR và
13C-NMR được đưa ra trong Bảng 3.7.
Hợp chất AS-2: Tinh thể hình kim màu vàng cam; ESI-MS: m/z 464,38 [M]+,
C21H20O12. 1H-NMR (CD3OD, 400 MHz) δ (ppm): 6,22 (1H, d, J = 2,0 Hz, H-6),
6,38 (1H, d, J = 2,0 Hz, H-8), 6,97 (2H, s, H-2′, H-6′), 3-O-Rham: 5,33 (1H, d, J =
1,5 Hz, H-1''), 4,24 (1H, dd, J = 1,5/3,5 Hz, H-2''), 3,82 (1H, dd, J = 3,5/9,5 Hz,
H-3''), 3,53 (1H, m), 3,37 (1H, m), 0,98 (3H, J = 6,0 Hz, H-6''). 13C-NMR
(CD3OD, 100 MHz) (ppm): 17,6 (C-6''), 71,8 (C-5''), 73,5 (C-4''), 72,14 (C-3''),
72,03 (C-2''), 103,61 (C-1''), 109,6 (C-6'), 146,8 (C-5'), 137,9 (C-4'), 146,8 (C-3'),
109,6 (C-2'), 122 (C-1'), 105,9 (C-10), 159,4 (C-9), 94,7 (C-8), 165,8 (C-7), 99,8
(C-6), 163,1 (C-5), 179,6 (C-4), 136,3 (C-3), 158,5 (C-2).
Hợp chất AS-3: Chất bột màu vàng; ESI-MS: m/z 616 [M]+, C28H24O16. 1H-NMR
(CD3OD, 400 MHz) δ (ppm): 6,18 (1H, d, J = 1,8 Hz, H-6), 6,35 (1H, d, J = 1,8
Hz, H-8), 6,97 (2H, s, H-2', H-6'), 3-O-Rham: 5,50 (1H, d, J = 1,2 Hz, H-1"), 5,63
(1H, br s, H-2"), 4,04 (1H, dd, J = 3,0/8,8 Hz, H-3"), 3,47 (1H, m, H-4"), 3,50 (1H,
m, H-5"), 1,01 (3H, d, J = 5,6 Hz, H-6"), 7,07 (2H, s, H-2"', H-6"'). 13C-NMR
(CD3OD, 100 MHz) (ppm): 159,38 (C-2), 135,62 (C-3), 179,35 (C-4), 163,17
(C-5), 99,81 (C-6), 165,87 (C-7), 94,66 (C-8), 158,47 (C-9), 105,82 (C-10),
121,77 (C-1'), 109,56 (C-2', C-6'), 146,88 (C-3', C-5'), 137,93 (C-4'), 100,47 (C-
1"), 73,47 (C-2"), 70,71 (C-3"), 73,84 (C-4"), 72,19 (C-5"), 17,81 (C-6"), 167,45
(C-7"'), 121,22 (C-1"'), 110,35 (C-2"', C-6"'), 146,42 (C-3"', C-5"'), 139,95 (C-4"').
Hợp chất AS-4: Chất bột màu vàng; ESI-MS: m/z 616,48 [M]+, C28H24O16. 1H-
NMR (CD3OD, 400 MHz) δ (ppm): 6,20 (1H, d, J = 1,8 Hz, H-6), 6,37 (1H, d, J =
1,8 Hz, H-8), 6,99 (2H, s, H-2', H-6'), 3-O-Rham: 5,28 (1H, d, J = 1,2 Hz, H-1"),
4,48 (1H, br s, H-2"), 5,24 (1H, dd, J = 3,0/9,2 Hz, H-3"), 3,68 (m, H-4"), 3,69
(1H, m, H-5"), 1,01 (3H, d, J = 5,6 Hz, H-6"), 7,17 (2H, s, H-2"', H-6"'). 13C-NMR
(CD3OD, 100 MHz) (ppm): 159,43 (C-2), 136,44 (C-3), 179,58 (C-4), 163,22
(C-5), 99,81 (C-6), 165,91 (C-7), 94,7 (C-8), 158,22 (C-9), 105,87 (C-10), 121,87
(C-1'), 109,55 (C-2', C-6'), 146,87 (C-3', C-5'), 137,92 (C-4'), 103,74 (C-1"), 69,95
(C-2"), 75,36 (C-3"), 70,9 (C-4"), 72,3 (C-5"), 17,72 (C-6"), 168,39 (C-7"'),
121,62 (C-1"'), 110,47 (C-2"', C-6"'), 146,41 (C-3"', C-5"'), 139,9 (C-4"').
Hợp chất AS-5: Chất bột màu vàng; ESI-MS: m/z 450,08 [M]+, C20H18O12. 1H-
NMR (CD3OD, 400 MHz) δ (ppm): 6,20 (1H, d, J = 1,6 Hz, H-6), 6,37 (1H, d, J =
1,6 Hz, H-8), 7,35 (1H, d, J = 1,6 Hz, H-2'), 6,93(1H, d, J = 8,0 Hz, H-5'), 7,32(1H,
dd, J = 1,6/8,0 Hz, H-6'), 3-O-Rham: 5,35 (1H, d, J = 1,2 Hz, H-1"), 4,23 (1H, s,
H-2"), 3,76 (1H, dd, J = 3,2/9,2 Hz, H-3"), 3,35 (1H, m, H-4"), 3,42 (1H, m, H-5"),
0,94 (3H, d, J = 6,0 Hz, H-6"). 13C-NMR (CD3OD, 100 MHz) (ppm): 159,29 (C-
2), 136,21 (C-3), 179,62 (C-4), 163,2 (C-5), 99,79 (C-6), 165,88 (C-7), 94,69 (C-
8), 158,5 (C-9), 105,86 (C-10), 122,84 (C-1'), 116,89 (C-2'), 146,4 (C-3'), 149,78
(C-4'), 116,34 (C-5'), 122,94 (C-6'), 103,53 (C-1"), 71,89 (C-2"), 72,09 (C-3"),
73,23 (C-4"), 72,02 (C-5"), 17,65 (C-6").
Hợp chất AS-6: Chất bột màu vàng; ESI-MS: m/z 594,52 [M]+, C27H30O15. 1H-
NMR (CD3OD, 400 MHz) δ (ppm): 6,39 (1H, d, J = 1,6 Hz, H-6), 6,64 (1H, d, J =
1,6 Hz, H-8), 7,32 (1H, d, J = 1,6 Hz, H-2'), 6,88 (1H, d, J = 8,0 Hz, H-5'), 7,28
(1H, dd, 1,6/8,0 Hz, H-6'). 3-O-Rham: 5,35 (1H, br s, H-1''), 4,23 (1H, s, H-2''),
3,76 (1H, dd, J = 3,2/9,2 Hz, H-3''), 3,35 (1H, m, H-4''), 3,42 (1H, m, H-5''), 0,94
(3H, d, J = 6,0 Hz, H-6''). 7-O-Rham: 5,54 (1H, br s, H-1'''), 4,03 (1H, s, H-2'''),
3,83 (1H, dd, J = 3,2/9,2 Hz, H-3'''), 3,49 (1H, m, H-4'''), 3,60 (1H, m, H-5'''), 1,25
(3H, d, J = 6,0 Hz, H-6'''). 13C-NMR (CD3OD, 100 MHz) (ppm): 159,63 (C-2),
136,43 (C-3), 179,62 (C-4), 162,81 (C-5), 95,49 (C-6), 163,38 (C-7), 100,46 (C-8),
157,85 (C-9), 107,42 (C-10), 122,67 (C-1'), 116,93 (C-2'), 146,31 (C-3'), 149,87
(C-4'), 116,36 (C-5'), 122,99 (C-6'). 3-O-Rham: 103,46 (C-1''), 71,83 (C-2''), 72,01
(C-3''), 73,22 (C-4''), 71,62 (C-5''), 17,65 (C-6''). 7-O-Rham: 99,78 (C-1'''), 72,01
(C-2'''), 72,07 (C-3'''), 73,57 (C-4'''), 71,19 (C-5'''), 18,07 (C-6''').
Hợp chất AS-7: Chất bột màu vàng; ESI-MS: m/z 290,27 [M]+, C15H14O6. 1H-
NMR (CD3OD, 400 MHz) δ (ppm): 4,55 (1H, d, J = 7,6 Hz, H-2), 3,96 (1H, m, H-
3), 2,48 (1H, dd, J = 8,0/16,0 Hz, Ha-4), 2,74 (1H, dd, J = 5,2, 16,0 Hz, Hb-4), 5,91
(1H, d, J = 2,0 Hz, H-6), 5,84 (1H, d, J = 2,0 Hz, H-8), 6,82 (1H, d, J = 1,6 Hz,
H2'), 6,75 (1H, d, J = 8,0 Hz, H-5'), 6,61 (1H, dd, J = 1,6/8,0 Hz, H-6'). 13C-NMR
(CD3OD, 100 MHz) (ppm): 82,85 (C-2), 68,81 (C-3), 28,55 (C-4), 157,58 (C-5),
96,21 (C-6), 156,90 (C-7), 95,43 (C-8), 157,83 (C-9), 100,76 (C-10), 132,17 (C-1'),
115,21 (C-2'), 146,22 (C-3'), 146,22 (C-4'), 116,03 (C-5'), 120,02 (C-6').
Hợp chất AS-8: Chất bột vô định hình; ESI-MS: m/z 271 [M+H]+, C13H18O6. 1H-
NMR (MeOD, 400 MHz) δ (ppm): 7,41 (1H, d, J = 7,0 Hz, H-2, H-6), 7,32 (1H, t,
J = 7,0 Hz, H-3, H-5), 7,26 (1H, t, J = 7,0 Hz, H-4), 4,66 (1H, d, J = 12,0 Hz, Ha-
7), 4,92 (1H, d, J = 12,0 Hz, Hb-7), 4,34 (1H, d, J = 7,7 Hz, H-1′), 3,24 (1H, m, H-
2′), 3,33 (1H, m, H-3′), 3,29 (1H, m, H-4′), 3,25 (1H, m, H-5′), 3,69 (1H, dd, J =
5,4/12,0 Hz, Ha-6′), 3,89 (1H, dd, J = 1,6/12,0 Hz, Hb-6′). 13C-NMR (MeOD, 100
MHz) (ppm): 139,06 (C-1), 129,19 (C-2, C-6), 129,26 (C-3, C-5), 128,68 (C-4),
71,71 (C-7), 103,26 (C-1′), 75,15 (C-2′), 78,02 (C-3′), 71,68 (C-4′), 78,07 (C-5′),
62,8 (C-6′).
Hợp chất AS-9: Chất bột vô định hình; ESI-MS: m/z 285,2 [M+H]+, C14H20O6.
1H-NMR (MeOD, 400 MHz) δ (ppm): 7,23 (1H, d, J = 7,0 Hz, H-2, H-6), 7,22
(1H, d, J = 7,0 Hz, H-3, H-5), 7,14 (1H, t, J = 7,0 Hz, H-4), 2,91 (2H, t, J = 7,0 Hz,
H-7), 3,75 (1H, m, Ha-8), 383 (1H, m, Hb-8), 4,27 (1H, d, J = 7,7 Hz, H-1′),
3,24-3,65 (5H, H-2′, H-3′, H-4′, H-5′). 13C-NMR (MeOD, 100 MHz) (ppm):
125,83 (C-1), 130,01 (C-2, C-6), 129,33 (C-3, C-5), 127,19 (C-4), 37,22 (C-7),
62,73 (C-8), 104,36 (C-1′), 75,08 (C-2′), 78,08 (C-3′), 71,70 (C-4′), 77,95 (C-5′),
71,61 (C-6′).
Hợp chất AS-10: Chất bột vô định hình; ESI-MS: m/z 244,32 [M]+, C13H24O4. 1H-
NMR (MeOD, 400 MHz) δ (ppm): 1,42 (1H, Ha-2), 1,63 (1H, Hb-2), 4,04 (1H, m,
H-3), 1,75 (2H, H-4), 6,04 (1H, d, J = 16,0 Hz, H-7), 5,78 (1H, dd, J = 6,0/16,0 Hz,
H-8), 4,33 (1H, m, H-9), 1,26 (3H, d, J = 6,4 Hz, H-10), 0,83 (3H, s, H-11), 1,19
(3H, s, H-12), 1,13 (3H, s, H-13). 13C-NMR (MeOD, 100 MHz) (ppm): 40,68
(C-1), 46,44 (C-2), 65,26 (C-3), 45,69 (C-4), 77,75 (C-5), 78,91 (C-6), 131,2 (C-7),
136,09 (C-8), 69,57 (C-9), 24,21 (C-10), 27,51 (C-11), 26,21 (C-12), 27,08 (C-13).
Hợp chất AS-11: Chất bột màu vàng; ESI-MS: m/z 619 [M+H]+, C27H22O17. 1H-
NMR (MeOD, 400 MHz) δ (ppm): 6,35 (1H, s, H-1), 3,97 (1H, s, H-2), 4,80 (1H,
br, H-3), 4,45 (1H, br, H-4), 4,51 (1H, m, H-5), 4,15 (1H, dd, J = 8,0/11,0 Hz, Ha-
6), 4,94 (1H, m, Hb-6), 7,04 (2H, s, H-2', H-6'), 6,68 (1H, s, H-3"), 6,65 (1H, s, H-
3"'). 13C-NMR (MeOD, 100 MHz) (ppm): 94,98 (C-1), 69,4 (C-2), 71,55 (C-3),
62,42 (C-4), 76,13 (C-5), 64,97 (C-6), 120,56 (C-1'), 110,91 (C-2', C-6'), 146,32
(C-3', C-5'), 140,35 (C-4'), 166,64 (C-7'), 117,15 (C-1"), 125,38 (C-2"), 110,14 (C-
3"), 145,56 (C-4"), 137,61 (C-5"), 145,27 (C-6"), 168,47 (C-7"), 116,63 (C-1"'),
125,45 (C-2"'), 108,28 (C-3"'), 145,98 (C-4"'), 138,13 (C-5"'), 145,17 (C-6"').
Hợp chất AS-12: Chất vô định hình dạng gel; ESI-MS: m/z 515,5 [M+H]+,
C27H46O9. 1H-NMR (MeOD, 400 MHz) δ (ppm): 3,62 (1H, dd, J = 4,2/10,8 Hz,
Ha-1′), 3,88 (1H, dd, J = 5,4/10,8 Hz, Hb-1′), 3,96 (1H, m, H-2′), 4,13 (2H, m, H-
3′), 4,20 (1H, d, J = 7,6 Hz, H-1), 3,49 (1H, m, H-2), 3,44 (1H, dd, J = 3,0/10,2 Hz,
H-3), 3,48 (1H, m, H-5), 3,70 (1H, m, H-6), 2,33 (2H, t, J = 6,8 Hz, H-2″), 1,58
(2H, m, H-3″), 1,28-1,38 (4H, H-4″, H-5″, H-6″, H-7″), 2,06 (1H, H-8″), 5,30 ~
5,34 (6H, H-9″, H-10″, H-12″, H-13″, H-15″, H-16″), 2,80 (2H, m, H-11″), 2,80
(2H, m, H-14″), 2,06 (2H, m, H-17″), 0,95 (3H, t, J = 7,0 Hz, H-18″). 13C-NMR
(MeOD, 100 MHz) (ppm): 71,8 (C-1′), 69,6 (C-2′), 66,5 (C-3′), 105,9 (C-1),
72,5 (C-2), 70,2 (C-3), 74,8 (C-4), 76,7 (C-5), 62,4 (C-6), 173,8 (C-1″), 34,9 (C-
2″), 25,9 (C-3″), 30,69 (C-4″), 30,3 (C-5″), 30,1 (C-6″), 30,2 (C-7″), 28,1 (C-8″),
129,1 (C-9″), 128,8 (C-10″), 26,57 (C-11″), 129,3 (C-12″), 129,3 (C-13″′), 26,4
(C-14″), 128,2 (C-15″), 132,7 (C-16″), 21,5 (C-17″), 14,6 (C-18″).
2.3.4. Phân lập các hợp chất từ cây cơm nguội đảo (Ardisia insularis)
2.4.1. Xử lý mẫu thực vật
Lá cây cơm nguội đảo (Ardisia insularis Mez.) sau khi thu hái về được rửa
sạch đất cát, cắt nhỏ, sấy ở nhiệt độ 50 - 60 oC cho đến khô và nghiền thành bột.
Bột lá cây (2 kg) được chiết kết hợp siêu âm và gia nhiệt trong dung môi metanol
ở 50 oC (3 lần x 2 giờ mỗi lần). Dịch chiết metanol được gộp chung lại và cất loại
dung môi dưới áp suất giảm thu được 150 g cặn chiết metanol tổng. Cặn metanol
tổng được bổ sung thêm nước và chiết phân bố lại với các dung môi n-hexan và
etyl axetat. Sau khi cất loại dung môi dưới áp suất giảm thu được các cặn chiết n-
hexan (AI1, 40 g), etyl axetat (AI2, 45 g) và cặn nước (AI3, 65 g) tương ứng.
Phân đoạn AI2 (45,0 g) được tiến hành sắc ký trên cột silica gel và rửa giải
bởi hệ dung môi gradient CHCl3:MeOH (50:1→1:1, v/v), thu được bốn phân đoạn
AI2A (8,0 g), AI2B (7,5 g), AI2C (12,5 g) và AI2D (10,0 g). Phân đoạn AI2B tiếp
tục được sắc ký trên cột silica gel pha đảo YMC RP-18, rửa giải bởi hệ dung môi
axeton:nước (1:1, v/v) thu được hợp chất AI-10 (55,0 mg) và AI-11 (19,0 mg).
Phân đoạn AI2C được sắc ký trên cột silica gel pha đảo YMC RP-18, rửa giải bởi
hệ dung môi axeton:nước (0,8:1, v/v), thu được hợp chất AI-9 (42,0 mg) và AI-6
(80,0 mg).
Phần cặn nước (AI3, 65 g) được tiến hành rửa giải qua cột Dianion HP-20
với dung môi MeOH (từ 0%-25%-50%-75%-100% MeOH), thu được 5 phân đoạn
ký hiệu từ AI3A đến AI3E. Phân đoạn AI3B được xử lý trên cột silica gel pha
thường, hệ dung môi rửa giải CHCl3:MeOH:H2O (5:1:0,1, v/v) thu được 4 phân
đoạn, ký hiệu từ AI3B1 đến AI3B4. Phân đoạn AI3B2 tiếp tục được sắc ký trên
cột silica gel pha đảo YMC RP-18 và rửa giải bởi hệ dung môi metanol:nước (1:1,
v/v) thu được hợp chất AI-12 (8,0 mg) và AI-13 (9,0 mg). Tiếp tục tiến hành sắc
ký phân đoạn AI3B3 trên cột silica gel pha đảo YMC RP-18 với hệ dung môi rửa
giải MeOH:H2O (2:1, v/v) thu được hợp chất AI-2 (9,0 mg), AI-3 (6,0 mg) và AI-
4 (5,0 mg). Phân đoạn AI3C được sắc ký trên cột silica gel pha thường, rửa giải
bởi hệ dung môi gradient CHCl3:MeOH (từ 50:1 → 1:1, v/v) thu được bốn phân
đoạn nhỏ, ký hiệu từ AI3C1 đến AI3C4. Tinh chế phân đoạn AI3C2 trên cột silica
gel pha đảo YMC RP-18 và rửa giải bởi hệ dung môi MeOH:H2O (2:1, v/v) thu
được hợp chất AI-5 (10,0 mg), AI-7 (17,0 mg) và AI-8 (9,0 mg). Phân đoạn
AI3C3 được sắc ký trên cột silica gel pha đảo YMC RP-18 với hệ dung môi rửa
giải axeton:nước (0,7:1, v/v) thu được hợp chất AI-1 (6,0 mg). Phân đoạn AI3D
được phân tách trên cột silica gel pha thường và rửa giải bởi hệ dung môi
CHCl3:MeOH:H2O (4:1:0.1, v/v/v) cho 5 phân đoạn nhỏ, ký hiệu từ AI3D1 đến
AI3D5. Hợp chất AI-14 thu được từ phân đoạn AI3D3 thông qua quá trình sắc ký
trên cột silica gel pha đảo YMC RP-18 với hệ dung môi rửa giải MeOH:H2O (1:3,
v/v).
2.4.2. Sơ đồ phân lập các hợp chất từ cây cơm nguội đảo
Sơ đồ phân lập các hợp chất từ cây cơm nguội đảo được thể hiện qua Hình
2.5 và Hình 2.6 dưới đây
Hình 2.5:Sơ đồ phân lập chất từ cặn chiết etyl axetat của cây cơm nguội đảo
2 kg bột lá
A. insularis
- Chiết kết hợp siêu âm gia nhiệt trong MeOH ở 500C - Cât loại dung môi dưới áp suất giảm
Cặn MeOH 150 gam
- Bổ sung nước - Chiết phân bố lại bằng các dung môi n-hexan, etyl axetat
Cặn n-hexan
AI1 (40 g)
Cặn etyl axetat
AI2 (45 g)
Cặn nước
AI3 (65 g)
CC, SiO2, CHCl3:MeOH (50:1→1:1, v/v)
Hình 2.6: Sơ đồ phân lập chất từ cặn nước của cây cơm nguội đảo
CC, RP-18
axeton:nước
(2:1, v/v)
AI13
9 mg
AI12
8 mg
AI3A AI3B
CC, RP-18
axeton:nước
(1:1, v/v)
Cặn nước AI3
65 g
Rửa giả i qua cột Dianion HP-20 với dung môi
MeOH (từ 0%-25%-50%-75%-100% MeOH
CC, SiO2, CHCl3:MeOH
(50:1→1:1, v/v)
AI3C AI3D AI3E
AI3B1 AI3B2 AI3B3 AI3B4
CC, RP-18
axeton:nước
(2:1, v/v)
AI2
9 mg
AI3
6 mg
AI4
5 mg
CC, SiO2, CHCl3:MeOH
(50:1→1:1, v/v)
AI3C1 AI3C2 AI3C3 AI3C4
AI5
10mg
AI7
17mg
AI8
9mg
CC, RP-18
axeton:nước
(2:1, v/v)
AI1
6 mg
2.4.3. Hằng số vật lý và dữ kiện phổ của các hợp chất phân lập được
Hợp chất AI-1: Chất bột màu trắng, C41H68O12, HR ESI MS: m/z 787,4394
[M+Cl]– (tính toán lý thuyết cho công thức C41H68O12Cl: 787,4405). Các dữ liệu
phổ 1H-NMR và 13C-NMR được đưa ra trong Bảng 3.8.
Hợp chất AI-2: Chất bột màu trắng; ESI-MS: m/z 328, [M]+ C14H16O9. 1H-NMR
(CD3OD, 400 MHz) δ (ppm): 3,52 (1H, m, H-2), 3,16 (1H, t, J = 9,0 Hz, H-3),
3,61 (1H, dd, J = 9,0/10,4 Hz, H-4), 3,95 (1H, dd, J = 10,0/10,4 Hz, H-4a), 6,95
(1H, s, H-7), 4,94 (1H, d, J = 10,4 Hz, H-10b), 3,39 (1H, m, H-11a), 3,79 (1H, d, J
= 11,4 Hz, H-11b), 3,73 (1H, s, 9-OMe). 13C-NMR (CD3OD, 100 MHz) (ppm):
82,13 (C-2), 71,06 (C-3), 74,06 (C-4), 80,15 (C-4a), 163,77 (C-6), 118,44 (C-6a),
109,84 (C-7), 151,34 (C-8), 140,95 (C-9), 148,44 (C-10), 116,31 (C-10a), 72,47
(C-10b), 61,48 (C-11), 60,2 (9-OMe).
Hợp chất AI-3: Chất bột màu vàng nâu nhạt; ESI-MS: m/z 314 [M-H]- , C13H14O9.
1H-NMR (CD3OD, 400 MHz) δ (ppm): 3,63 (1H, m, H-2), 3,16 (1H, t, J = 9,0 Hz,
H-3), 3,65 (1H, dd, J = 9,0/10,4 Hz, H-4), 4,01 (1H, dd, J = 10,0/10,4 Hz, H-4a),
4,94 (1H, d, J = 10,4 Hz, H-10b), 3,40 (1H, m, H-11a), 3,78 (1H, d, J = 11,4 Hz,
H-11b). 13C-NMR (CD3OD, 100 MHz) (ppm): 82,94 (C-2), 71,88 (C-3), 75,61
(C-4), 81,39 (C-4a), 166,43 (C-6), 117,3 (C-6a), 110,92 (C-7), 147,26 (C-8),
141,19 (C-9), 143,64 (C-10), 114,21 (C-10a), 74,32 (C-10b), 62,69 (C-11).
Hợp chất AI-4: Hình kim không màu; ESI-MS: m/z 298, [M]+, C13H14O8. 1H-
NMR (CD3OD, 400 MHz) δ (ppm): 3,52 (1H, m, H-2), 3,14 (1H, H-3), 3,62 (1H, t,
J = 8,4 Hz, H-4), 3,94 (1H, t, J = 9,4 Hz, H-4a), 6,83 (1H, d, J = 2,0 Hz, H-7),
4,90 (1H, d, J = 9,4 Hz, H-10b), 3,38 (1H, m, H-11a), 3,79 (1H, d, J = 11,4 Hz, H-
11b). 13C-NMR (CD3OD, 100 MHz) (ppm): 82,08 (C-2), 71,1 (C-3), 74,04 (C-4),
80,17 (C-4a), 163,9 (C-6), 125,24 (C-6a), 108,68 (C-7), 158,85 (C-8), 109,15 (C-
9), 155,9 (C-10), 114,88 (C-10a), 72,35 (C-10b), 61,5 (C-11).
Hợp chất AI-5: Chất bột màu trắng, ESI-MS: m/z 480, [M]+, C21H20O13. 1H-NMR
(CD3OD, 400 MHz) δ(ppm): 3,77 (1H, m, H-2), 3,75 (1H, H-3), 5,55 (1H, dd, J =
8,8/8,8 Hz, H-4), 4,40 (1H, t, J = 10,0 Hz, H-4a), 7,06 (1H, s, H-7), 5,11 (1H, d, J
= 10,4 Hz, H-10b), 3,72 (1H, m, H-11a), 4,02 (1H, d, J = 11,4 Hz, H-11b), 3,89
(1H, s, 9-OMe), 7,11 (2H, s, H-2', H-6'). 13C-NMR (CD3OD, 100 MHz) (ppm):
83,1 (C-2), 70,05 (C-3), 76,07 (C-4), 79,1 (C-4a), 165,3 (C-6), 119,29 (C-6a),
111,18 (C-7), 152,45 (C-8), 142,37 (C-9), 149,47 (C-10), 116,94 (C-10a), 74,25
(C-10b), 62,3 (C-11), 60,89 (9-OMe), 121,15 (C-1'), 110,35 (C-2', C-6'), 146,453
(C-3'&5'), 139,97 (C-4'), 167,71 (C-7').
Hợp chất AI-6: Chất bột màu vàng; ESI-MS: m/z 465 [M+H]+, C21H20O12. 1H-
NMR (CD3OD, 400 MHz) δ (ppm): 6,15 (1H, s, H-6), 6,31 (1H, s, H-8), 6,93 (1H,
s, H-2′), 6,93 (1H, s, H-6′), 5,29 (1H, br s, H-1′′), 4,22 (1H, br s, H-2′′), 3,78 (1H,
d, J = 8,0 Hz, H-3′′), 3,51 (1H, m, H-4′′), 3,34 (1H, m, H-5′′), 0,94 (3H, d, J = 6,0
Hz, H-6′′). 13C-NMR (CD3OD, 100 MHz) (ppm): 159,5 (C-2), 136,4 (C-3),
179,7 (C-4), 163,3 (C-5), 99,9 (C-6), 165,9 (C-7), 94,8 (C-8), 158,6 (C-9), 106 (C-
10), 122,1 (C-1′), 109,7 (C-2′), 146,9 (C-3′), 138,8 (C-4′), 146,9 (C-5′), 109,7 (C-
6′), 103,7 (C-1′′), 72,2 (C-2′′), 72,1 (C-3′′), 73,5 (C-4′′), 72 (C-5′′), 17,8 (C-6′′).
Hợp chất AI-7: Chất bột màu vàng cam; ESI-MS: m/z 617 [M+H]+, C28H24O16.
1H-NMR (CD3OD, 400 MHz) δ (ppm): 6,18 (1H, d, J = 1,6 Hz, H-6), 6,35 (1H, d,
J = 1,6 Hz, H-8), 6,97 (2H, s, H-2', H-6'), 5,28 (1H, d, J = 1,6 Hz, H-1"), 4,47 (1H,
br s, H-2"), 5,24 (1H, dd, J = 3,0, 9,2 Hz, H-3"), 3,68 (1H, m, H-4"), 3,69 (1H, m,
H-5"), 1,00 (1H, d, J = 5,6 Hz, H-6"), 7,15 (2H, s, H-2"', H-6"'). 13C-NMR
(CD3OD, 100 MHz) (ppm): 159,41 (C-2), 136,41 (C-3), 179,54 (C-4), 163,19
(C-5), 99,83 (C-6), 166,03 (C-7), 94,71 (C-8), 158,5 (C-9), 105,8 (C-10), 121,54
(C-1'), 109,49 (C-2', C-6'), 146,85 (C-3', C-5'), 137,91 (C-4'), 103,73 (C-1"), 69,91
(C-2"), 75,3 (C-3"), 70,86 (C-4"), 72,28 (C-5"), 17,72 (C-6"), 121,81 (C-1"'),
110,41 (C-2"', C-6"'), 146,4 (C-3"', C-5"'), 139,9 (C-4"'), 168,37 (C-7"').
Hợp chất AI-8: Chất bột màu vàng nhạt, ESI-MS: m/z 617 [M+H]+, C28H24O16.
1H-NMR (CD3OD, 400 MHz) δ (ppm): 6,12 (1H, d, J = 1,6 Hz, H-6), 6,29 (1H, d,
J = 1,6 Hz, H-8), 6,86 (2H, s, H-2', H-6'), 5,55 (1H, br s, H-1"), 4,14 (1H, br s, H-
2"), 3,92 (1H, dd, J = 2,8/9,2 Hz, H-3"), 4,90 (1H, m, H-4"), 3,29 (1H, m, H-5"),
0,72 (1H, d, J = 6,0 Hz, H-6"), 6,96 (2H, s, H-2"', H-6"'). 13C-NMR (CD3OD, 100
MHz) (ppm): 159,78 (C-2), 135,05 (C-3), 179,44 (C-4), 163,22 (C-5), 99,9 (C-6),
166,03 (C-7), 94,74 (C-8), 158,56 (C-9), 105,83 (C-10), 122,02 (C-1'), 109,44 (C-
2', C-6'), 147,16 (C-3', C-5'), 137,57 (C-4'), 101,95 (C-1"), 71,66 (C-2"), 70,14 (C-
3"), 75,03 (C-4"), 69,64 (C-5"), 17,2 (C-6"), 121,35 (C-1"'), 110,42 (C-2"', C-6"'),
146,28 (C-3"', C-5"'), 139,82 (C-4"'), 167,95 (C-7"').
Hợp chất AI-9: Chất bột màu vàng, ESI-MS: m/z 450 [M]+, C21H20O11. 1H-NMR
(CD3OD, 400 MHz) δ (ppm): 6,20 (1H, d, J = 1,6 Hz, H-6), 6,37 (1H, d, J = 1,6
Hz, H-8), 7,35 (1H, d, J = 1,6 Hz, H-2'), 6,93 (1H, d, J = 8,0 Hz, H-5'), 7,32 (1H,
dd, J = 1,6/8,0 Hz, H-6'), 3-O-Rham: 5,35 (1H, d, J = 1,2 Hz, H-1"), 4,23 (1H, s,
H-2"), 3,76 (1H, dd, J = 3,2/9,2 Hz, H-3"), 3,35 (1H, m, H-4"), 3,42 (1H, m, H-5"),
0,94 (3H, d, J = 6,0 Hz, H-6"). 13C-NMR (CD3OD, 100 MHz) (ppm): 159,29 (C-
2), 136,21 (C-3), 179,62 (C-4), 163,2 (C-5), 99,79 (C-6), 165,88 (C-7), 94,69 (C-
8), 158,5 (C-9), 105,86 (C-10), 122,84 (C-1'), 116,89 (C-2'), 146,4 (C-3'), 149,78
(C-4'), 116,34 (C-5'), 122,94 (C-6'), 103,53 (C-1"), 71,89 (C-2"), 72,09 (C-3"),
73,23 (C-4"), 72,02 (C-5"), 17,65 (C-6").
Hợp chất AI-10: Chất bột màu vàng, ESI-MS: m/z 458 [M]+, C22H18O11. 1H-NMR
(CD3OD, 400 MHz) δ (ppm): 4,95 (1H, m, H-2), 5,49 (1H, br s, H-3), 2,82 (1H, d,
J = 6,8 Hz, Ha-4), 2,99 (1H, dd, J = 4,5/16,8 Hz, Hb-4), 5,93 (1H, s, H-6), 5,93 (1H,
s, H-8), 6,90 (1H, d, J = 1,6 Hz, H-2'), 6,66 (1H, d, J = 8,0 Hz, H-5'), 6,78 (1H, dd,
J = 1,6, 8,0 Hz, H-6'), 6,92 (2H, s, H-2", H-6"). 13C-NMR (CD3OD, 100 MHz)
(ppm): 78,62 (C-2), 69,95 (C-3), 26,88 (C-4), 157,26 (C-5), 96,46 (C-6), 157,85
(C-7), 95,83 (C-8), 157,85 (C-9), 99,33 (C-10), 131,42 (C-1'), 115,06 (C-2'), 146,3
(C-3'), 146,3 (C-4'), 115,95 (C-5'), 119,34 (C-6'), 121,37 (C-1"), 110,14 (C-2", C-
6"), 145,95 (C-3", C-5"), 139,81 (C-4"), 167,57 (C-7").
Hợp chất AI-11: Chất bột màu vàng, ESI-MS: m/z 472 [M]+, C23H20O11. 1H-NMR
(CD3OD, 400 MHz) δ (ppm): 4,95 (1H, m, H-2), 5,5 (1H, br s, H-3), 2,82 (1H, d, J
= 16,8, Ha-4), 2,99 (1H, dd, J = 4,5/16,8 Hz, Hb-4), 5,94 (1H, s, H-6), 5,92 (1H, s,
H-8), 6,62 (1H, s, H-2'), 6,53 (1H, s, H-6'), 3,56 (1H, s, 3-OMe), 6,96 (2H, s, H-2",
H-6"). 13C-NMR (CD3OD, 100 MHz) (ppm): 78,96 (C-2), 69,9 (C-3), 26,96 (C-
4), 157,88 (C-5), 96,51 (C-6), 157,25 (C-7), 95,85 (C-8), 157,88 (C-9), 99,32 (C-
10), 130,55 (C-1'), 103,19 (C-2'), 149,32 (C-3'), 134,77 (C-4'), 146,09 (C-5'),
108,69 (C-6'), 56,2 (3-OMe), 121,37 (C-1"), 111,43 (C-2", C-6"), 146,4 (C-3", C-
5"), 139,81 (C-4"), 167,57 (C-7").
Hợp chất AI-12: Tinh thể không màu; Mp.: 237-238 oC; ESI-MS: m/z 171,1
[M+H]+, C7H6O5. 1H-NMR (CD3OD, 400 MHz) δ (ppm): 7,00 (2H, s, H-2, H-6).
13C-NMR (CD3OD, 100 MHz) (ppm): 126,39 (C-1), 110,07 (C-2, C-6), 146,01
(C-3, C-5), 138,0 (C-4), 173,6 (C-7).
Hợp chất AI-13: Chất bột màu trắng. ESI-MS: m/z 185 [M+H]+, C8H8O5. 1H-
NMR (CD3OD, 400 MHz) δ (ppm): 7,10 (2H, s, H-2, H-6), 3,32 (3H, s, H-8). 13C-
NMR (CD3OD, 100 MHz) (ppm): 121,54 (C-1), 110,32 (C-2, C-6), 145,92 (C-3,
C-5), 139,35 (C-4), 170,59 (C-7), 49,83 (C-8).
Hợp chất AI-14: Chất bột màu trắng. EI-MS: m/z 406 [M]+, C19H34O9. 1H-NMR
(CD3OD, 400 MHz) δ (ppm): 1,57 (1H, m, H-2a), 1,72 (1H, t, J = 12,0 Hz, H-2b),
4,18 (1H, m, H-3), 1,74 (1H, m, H-4a), 1,92 (1H, t, J = 11,0 Hz, H-4b), 6,03 (d, J =
16,0 Hz, H-7), 5,76 (1H, dd, J = 5,6/16,0 Hz, H-8), 4,32 (1H, m, H-9), 1,25 (3H,
dd, J = 6,0/16,0 Hz, H-10), 0,86 (3H, s, H-11), 1,20 (3H, s, H-12), 1,09 (3H, s, H-
13), 4,38 (1H, d, J = 8,0 Hz, H-1'), 3,12 (1H, m, H-2'), 3,31 (1H, m, H-3'), 3,28
(1H, m, H-4'), 3,25 (1H, m, H-5'), 3,65 (1H, dd, J = 5,0/12,0 Hz, Ha-6'), 3,82 (1H,
d, J = 12,0 Hz, Hb-6'). 13C-NMR (CD3OD, 100 MHz) (ppm): 40,76 (C-1), 44,48
(C-2), 73,18 (C-3), 42,28 (C-4), 77,05 (C-5), 79,16 (C-6), 130,91 (C-7), 136,11
(C-8), 69,56 (C-9), 24,10 (C-10), 27,53 (C-11), 26,24 (C-12), 27,15 (C-13),
102,16 (C-1'), 75,66 (C-2'), 77,70 (C-3'), 71,57 (C-4'), 77,82 (C-5'), 62,67 (C-6').
2.5. Phân lập các hợp chất từ cây cơm nguội thắm (Ardisia incarnata)
2.5.1. Xử lý mẫu thực vật
Lá cây cơm nguội thắm (Ardisia incarnata) sau khi thu hái về được rửa sạch
đất cát, sấy khô ở nhiệt độ 50-60 oC và nghiền thành bột. Bột lá khô (4,0 kg) được
chiết kết hợp siêu âm và gia nhiệt trong dung môi metanol ở 50 oC (3 lần x 2 giờ
mỗi lần). Dịch chiết metanol được gộp chung lại và cất loại dung môi dưới áp suất
giảm thu được 252 g cặn chiết metanol tổng. Cặn metanol tổng được bổ sung thêm
nước và chiết phân bố lại với các dung môi n-hexan, etyl axetat và phần nước. Mỗi
phần đem cất loại dung môi dưới áp suất giảm thu được các cặn chiết n-hexan
(AInc1, 55g), etyl axetat (AInc2, 86g) và cặn nước (AInc3, 72g) tương ứng.
Cặn chiết AInc2 (86,0 g) được sắc ký trên cột silica gel pha thường và rửa
giải bởi hệ dung môi CHCl3:MeOH (40:1, 20:1, 10:1, 1:1, 0:1, v/v) thu được 6
phân đoạn, ký hiệu từ AInc-2A đến AInc-2F. Phân doạn AInc-2B tiếp tục được
sắc ký trên cột silica gel pha thường và rửa giải bởi hệ dung môi CHCl3:MeOH
(5:1, v/v) thu được 5 phân đoạn nhỏ, ký hiệu từ AInc-2B1 đến AInc-2B5. Phân
đoạn AInc-2B3 được tinh chế trên cột silica gel pha thường và rửa giải bởi hệ
dung môi CHCl3:MeOH:H2O (4:1:0.1, v/v/v) thu được hợp chất AInc-1 (15 mg)
và AInc-2 (50 mg). Hợp chất AInc-3 (12 mg) thu được từ phân đoạn AInc-2B2
sau khi tinh chế phân đoạn này trên cột silica gel pha đảo YMC RP-18 với hệ
dung môi rửa giải MeOH:H2O (4:6, v/v). Phân đoạn AInc-2B1 tiếp tục được tinh
chế trên cột silica gel pha thường với hệ dung môi CHCl3:MeOH: H2O (14:12:0.1,
v/v/v) thu được hợp chất AInc-7 (10 mg) và AInc-8 (11 mg).
Phần cặn nước (AInc3, 72,0 g) được tiến hành rửa giải qua cột Dianion HP-
20 với dung môi MeOH (từ 0%-25%-50%-75%-100% MeOH), thu được 5 phân
đoạn ký hiệu từ AInc3A đến AInc3E. Phân đoạn AInc3A được tiến hành sắc ký
trên cột silica gel pha thường và rửa giải bởi hệ dung môi CHCl3:MeOH gradient
(15:1, 12:1, 10:1, 5:1, 1:1 và 100 % MeOH) thu được 6 phân đoạn nhỏ , ký hiệu từ
AInc3A1 đến AInc3A6. Phân đoạn nhỏ AInc3A2 sau đó tiếp tục được tinh chế
trên cột silica gel pha thường và rửa g bởi hệ dung môi CHCl3:MeOH (5:1, v/v)
thu được hợp chất AInc-4 (10 mg). Tiến hành sắc ký phân đoạn nhỏ AInc3A3
trên cột silica gel pha thường với hệ dung môi rửa giải CHCl3:MeOH (4:1 v/v),
sau đó tiếp tục tinh chế trên cột silica gel pha đảo YMC RP-18 thu được hợp chất
AInc-5 (9 mg). Phân đoạn nhỏ AInc3A4 được sắc ký trên cột silica gel pha
thường và rửa giải bởi hệ dung môi CHCl3:MeOH:H2O (4:1:0.1, v/v/v) thu được
hợp chất AInc-6 (10 mg).
2.5.2. Sơ đồ phân lập các hợp chất từ cây cơm nguội thắm
Sơ đồ phân lập các hợp chất từ cây cơm nguội đảo được thể hiện qua Hình
2.7 và Hình 2.8 dưới đây
Hình 2.7: Sơ đồ phân lập chất từ cặn nước của cây cơm nguội thắm
AInc3A AInc3B
Cặn nước AInc3
72 g
Rửa giả i qua cột Dianion HP-20 vớ i dung môi
MeOH (từ 0%-25%-50%-75%-100% MeOH
CC, SiO2, CHCl3:MeOH
(15:1, 12:1,10:1, 5:1, 1:1, 100%MeOH)
AInc3C AInc3D AInc3E
Hình 2.8: Sơ đồ phân lập chất từ cặn chiết etyl axetat của cây cơm nguội
thắm
AI2A
4 kg bột lá
A. incarnata
- Chiết kết hợp siêu âm gia nhiệt trong MeOH ở 500C - Cât loại dung môi dưới áp suất giảm
Cặn MeOH
252 gam
- Bổ sung nước - Chiết phân bố lại bằng các dung môi n-hexan, etyl axetat
Cặn n-hexan
AInc1 (55 g)
Cặn etyl axetat
AInc2 (86 g)
Cặn nước
AInc3 (72 g)
CC, SiO2, CHCl3:MeOH (40:1→0:1, v/v)
AI2B AI2C AI2D AI2E AI2F
2.5.3. Hằng số vật lý và dữ kiện phổ của các hợp chất phân lập được:
Hợp chất AInc-1: C21H20O11, chất bột màu vàng, ESI-MS m/z 448,30 [M+H]+.
1H-NMR (500 MHz, CD3OD) (ppm): 6,18 (1H, d, J = 2,0 Hz, H-6), 6,35 (1H, d,
J = 2,0 Hz, H-8), 7,31 (1H, d, Jmeta = 2,0 Hz, H-2′), 6,88 (1H, d, Jocto = 8,0 Hz, H-
5′), 7,28 (1H, dd, Jocto/meta = 8,0/2,0 Hz, H-6′), 5,33 (1H, br s, H-1''), 4,19 (1H, s,
H-2''), 3,74 (1H, d, J = 9,2 Hz, H-3''), 3,40 (1H, m, H-4''), 3,32 (1H, m, H-5''),
0,91 (3H, J = 6,0 Hz, H-6''). 13C-NMR (CD3OD, 125 MHz) (ppm): 17,66 (C-6''),
72,06 (C-5''), 73,20 (C-4''), 72,03 (C-3''), 71,88 (C-2''), 103,52 (C-1''), 122,91 (C-
6'), 116,87 (C-5'), 149,80 (C-4'), 146,41 (C-3'), 116,34 (C-2'), 122,83 (C-1'),
105,84 (C-10), 158,50 (C-9), 94,69 (C-8), 165,93 (C-7), 99,80 (C-6), 163,20 (C-5),
179,62 (C-4), 136,20 (C-3), 159,29 (C-2).
Hợp chất AInc-2: C21H20O12, chất bột màu vàng; Mp.: 196-197 oC; ESI-MS m/z
464,38 [M+H]+. 1H-NMR (500 MHz, CD3OD) (ppm): 6,15 (1H, d, J = 2,0 Hz,
H-6), 6,31 (1H, d, J = 2,0 Hz, H-8), 6,93 (1H, s, H-2′, H-6′), 5,29 (1H, br s, H-1''),
4,22 (1H, br s, H-2''), 3,78 (1H, d, J = 8,0 Hz, H-3''), 3,51 (1H, m, H-4''), 3,34 (1H,
m, H-5''), 0,94 (3H, d, J = 6,0 Hz, H-6''). 13C-NMR (CD3OD, 125 MHz) (ppm):
17,61 (C-6''), 71,80 (C-5''), 73,24 (C-4''), 71,95 (C-3''), 72,00 (C-2''), 103,50 (C-
1''), 109,52 (C-6'), 146,69 (C-5'), 137,76 (C-4'), 146,69 (C-3'), 109,52 (C-2'),
121,82 (C-1'), 105,75 (C-10), 158,34 (C-9), 94,62 (C-8), 165,70 (C-7), 99,72 (C-6),
163,01 (C-5), 179,51 (C-4), 136,21 (C-3), 159,31 (C-2).
Hợp chất AInc-3: C20H18O10, chất bột màu vàng, ESI-MS m/z 431,0 [M-H]+. 1H-
NMR (CD3OD, 500 MHz) δ (ppm): 6,18 (1H, d, J = 1,6 Hz, H-6), 6,33 (1H, d, J =
1,6 Hz, H-8), 7,74 (2H, d, J = 8,0 Hz, H-2', H-6'), 6,93 (2H, d, J = 8,0 Hz, H-3', H-
5'), 3-O-Rham: 5,39 (1H, d, J = 1,5 Hz, H-1"), 4,26 (1H, s, H-2"), 3,75 (1H, m, H-
3"), 3,70 (1H, m, H-4"), 3,33 (1H, m, H-5"), 0,95 (3H, d, J = 5,5 Hz, H-6"). 13C-
NMR (CD3OD, 125 MHz) (ppm): 159,32 (C-2), 136,23 (C-3), 179,66(C-4),
163,26 (C-5), 99,84 (C-6), 165,95 (C-7), 94,75 (C-8), 158,6 (C-9), 105,94 (C-10),
122,64 (C-1'), 116,54 (C-3', C-5'), 131,91 (C-2', C-6'), 161,62 (C-4'), 103,52 (C-
1"), 71,93 (C-2"), 72,13 (C-3"), 73,23 (C-4"), 72,02 (C-5"), 17,66 (C-6").
Hợp chất AInc-4: C13H24O4, chất bột màu trắng, ESI-MS: m/z 244,32 [M]+. 1H-
NMR (MeOD, 400 MHz) δ (ppm): 1,42 (1H, H-2a), 1,63 (1H, H-2b), 4,04 (1H, m,
H-3), 1,75 (2H, H-4), 6,04 (1H, d, J = 16,0 Hz, H-7), 5,78 (1H, dd, J = 6,0/16,0 Hz,
H-8), 4,33 (1H, m, H-9), 1,26 (3H, d, J = 6,4 Hz, H-10), 0,83 (3H, s, H-11), 1,19
(3H, s, H-12), 1,13 (3H, s, H-13). 13C-NMR (MeOD, 100 MHz) (ppm): 40,68
(C-1), 46,44 (C-2), 65,26 (C-3), 45,69 (C-4), 77,75 (C-5), 78,91 (C-6), 131,2 (C-7),
136,09 (C-8), 69,57 (C-9), 24,21 (C-10), 27,51 (C-11), 26,21 (C-12), 27,08 (C-13).
Hợp chất AInc-5: C19H34O9, chất bột màu trắng, ESI-MS m/z 406,47 [M+H]+. 1H-
NMR (400 MHz, CD3OD) (ppm): 0,86 (3H, s, CH3-12), 1,09 (3H, s, CH3-11),
1,20 (3H, s, CH3-13), 1,25 (3H, d, J = 6,4 Hz, CH3-10), 1,57 (1H, ddd, J =
12,0/4,0/2,0 Hz, Heq-2), 1,73 (1H, t, J = 12 Hz, Hax-2), 1,74 (1H, dd, J = 13,0/12,0
Hz, Hax-4), 1,92 (1H, d, J = 13,0/4,0/2,0 Hz, Heq-4), 3,12 (1H, m, H-2'), 3,31 (1H,
m, H-3'), 3,28 (1H, m, H-4'), 3,25 (1H, m, H-5'), 3,65 (1H, dd, J = 12,0/5,0 Hz,
Ha-6'), 3,82 (1H, d, J = 12,0 Hz, Hb-6'), 3,81 (1H, m, H-3), 4,31 (1H, m, H-9), 4,38
(1H, d, J = 8,0 Hz, H-1'), 5,76 (1H, dd, J = 5,6/16,0 Hz, H-8), 6,03 (1H, d, J =
16,0 Hz, H-7). 13C-NMR (CD3OD, 100 MHz) (ppm): 40,76 (C-1), 44,48 (C-2),
73,18 (C-3), 42,28 (C-4), 78,05 (C-5), 79,16 (C-6), 130,93 (C-7), 136,11 (C-8),
69,56 (C-9), 24,10 (C-10), 27,53 (C-11), 26,24 (C-12), 27,15 (C-13), 102,16 (C-1'),
75,66 (C-2'), 77,70 (C-3'), 71,57 (C-4'), 77,82 (C-5'), 62,67 (C-6').
Hợp chất AInc-6: C27H46O9, chất bột màu trắng, ESI-MS m/z 515,5 [M+H]+. 1H-
NMR (MeOD, 400 MHz) δ (ppm): 3,62 (1H, dd, J = 4,2/10,8 Hz, Ha-1′), 3,88 (1H,
dd, J = 5,4/10,8 Hz, Hb-1′), 3,96 (1H, m, H-2′), 4,13 (2H, m, H-3′), 4,20 (1H, d, J
= 7,6 Hz, H-1), 3,49 (1H, m, H-2), 3,44 (1H, dd, J = 3,0/10,2 Hz, H-3), 3,48 (1H,
m, H-5), 3,70* (2H, H-6), 2,33 (2H, t, J = 6,8 Hz, H-2″), 1,58 (2H, m, H-3″), 1,28-
1,38 (4H, H-4″, H-5″, H-6″, H-7″), 2,06 (1H, H-8″), 5,30 ~ 5,34 (6H, H-9″, H-10″,
H-12″, H-13″, H-15″, H-16″), 2,80 (2H, m, H-11″), 2,80 (2H, m, H-14″), 2,06 (2H,
m, H-17″), 0,95 (3H, t, J = 7,0 Hz, H-18″). 13C-NMR (MeOD, 100 MHz) (ppm):
71,8 (C-1′), 69,6 (C-2′), 66,5 (C-3′), 105,9 (C-1), 72,5 (C-2), 70,2 (C-3), 74,8 (C-
4), 76,7 (C-5), 62,4 (C-6), 173,8 (C-1″), 34,9 (C-2″), 25,9 (C-3″), 30,69 (C-4″),
30,3 (C-5″), 30,1 (C-6″), 30,2 (C-7″), 28,1 (C-8″), 129,1 (C-9″), 128,8 (C-10″),
26,57 (C-11″), 129,3 (C-12″), 129,3 (C-13″′), 26,4 (C-14″), 128,2 (C-15″), 132,7
(C-16″), 21,5 (C-17″), 14,6 (C-18″).
Hợp chất AInc-7: C10H18O2, chất bột màu trắng, ESI-MS: m/z 170 [M]+. 1H-NMR
(CD3OD, 500 MHz) δ (ppm): 3,86 (1H, ddd, J = 2,0/3,0/10 Hz, H-2), 2,26 (1H,
ddd, J = 5,0/9,0/14,0 Hz, Hexo-3), 0,79 (1H, dd, J = 3,0/14,0 Hz, Hendo-3), 1,68
(1H, d, J = 5,0 Hz, H-4), 3,82 (1H, dd, J = 3,5/8,0 Hz, H-5), 1,34 (1H, ddd, J =
2,0/3,5/13,5 Hz, Hexo-6), 2,34 (1H, dd, J = 8,0/13,5 Hz, Hen do-6), 1,1 (3H, s, H-8),
0,89 (3H, s, H-9), 0,87 (3H, s, H-10). 13C-NMR (CD3OD, 125 MHz) (ppm): 51,3
(C-1), 76,3 (C-2), 36,7 (C-3), 53,8 (C-4), 75,8 (C-5), 39,1 (C-6), 48,7 (C-7), 20,1
(C-8), 21,6 (C-9), 13,1 (C-10).
Hợp chất AInc-8: C7H6O5, tinh thể màu trắng, Mp.: 237-238 oC, ESI-MS m/z
170,12 [M+H]+. 1H-NMR (CD3OD, 400 MHz) δ(ppm): 7,00 (2H, s, H-2, H-6).
13C-NMR (CD3OD, 100 MHz) (ppm): 126,39 (C-1), 110,07 (C-2), 146,01 (C-3),
138,00 (C-4), 146,01 (C-5), 110,07 (C-6),173,60 (C-7).
Chương 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Xác định cấu trúc hóa học các hợp chất phân lập được
3.1.1. Xác định cấu trúc hoá học của các chất phân lập được từ loài cơm
nguội balansana (Ardisia balansana)
Hợp chất AB-1 thu được dưới dạng chất bột không màu có nhiệt độ nóng
chảy 126-128 oC. Các số liệu phổ 1H-NMR và 13C-NMR thu được cho thấy hợp
chất này có cấu trúc dạng vòng trimetyl-bicyclo[2,2,1] heptandiol. Cụ thể, trên phổ
1H-NMR cho thấy có 3 tín hiệu singlet của 3 nhóm metyl tại H 0,87 (3H, s, H-8),
1,1 (3H, s, H-9), 0,89 (3H, s, H-10); hai tín hiệu cộng hưởng tại H 3,86 (1H, ddd,
J = 2,0/3,0/10 Hz, H-2) và 3,82 (1H, dd, J = 3,5/8,0 Hz, H-5) cùng với các tín
hiệu cộng hưởng khác tại H 2,26 (1H, ddd, J = 5,0/9,0/14,0 Hz, Hexo-3), 0,79 (1H,
dd, J = 3,0/14,0 Hz, Hendo-3), 2,34 (1H, dd, J = 8,0/13,5 Hz, Hendo-6), 1,34 (1H,
ddd, J = 2,0/3,5/13,5 Hz, Hexo-6) cho thấy sự có mặt của hai đơn vị -CHOH-CH2-.
Tương ứng, trên phổ 13C-NMR và DEPT cho thấy tín hiệu cộng hưởng của 10
nguyên tử cacbon, trong đó gồm có 3 nhóm CH3, 2 nhóm CH2, 3 nhóm CH và 2
cacbon bậc 4. Phổ HSQC chỉ ra vị trí cộng hưởng của các nguyên tử cacbon tương
ứng: 3 nhóm metyl tại δC 20,1 (C-8), 21,6 (C-9) và 13,1 (C-10); 2 nhóm methylen
tại δC 36,7 (C-3) và 39,1 (C-6); 3 nhóm methin tại δC 76,3 (C-2), 53,8 (C-4) và
75,8 (C-5); 2 cacbon bậc 4 tại δC 48,7 (C-1) và 51,3 (C-7). Trên phổ HMBC của
hợp chất AB-1 chỉ ra mối tương tác của proton H-4 (H 1,68 ppm) với C-7 (δC
51,3 ppm), C-3 (δC 36,7 ppm) và C-5 (δC 75,8 ppm) cũng như các tương tác giữa
proton H-2 (H 3,86 ppm) với cacbon C-1 (δC 48,7 ppm); giữa cacbon C-7 (δC 51,3
ppm) với proton H-4 (H 1,68 ppm), CH3-8 (δH 1,1 pm) và CH3-9 (δH 0,89 ppm),
giữa cacbon C-1 (δC 48,7 pm) với proton CH3-10 (δH 0,87 ppm). Phù hợp với các
dữ liệu phổ NMR, phổ khối của hợp chất AB-1 cho pic ion [M+H]+ tại m/z 170
tương ứng với công thức phân tử C10H18O2. Kết hợp dữ liệu phổ thu được với các
số liệu của tài liệu tham khảo [20], hợp chất AB-1 được xác định là angelicoidenol.
Đây là lần đầu tiên hợp chất này được tìm thấy ở chi cơm nguội (Ardisia).
Bảng 3.1: Các dữ liệu phổ 1H và 13C-NMR của hợp chất AB-1 và số liệu tham
khảo
STT Hợp chất AB-1 Tài liệu tham khảo [5]
δC, ppm δH, ppm (J, Hz) δC, ppm δH, ppm (J, Hz)
1 51,3 - 52,2 -
2 76,3 3,86 (ddd, 2,0/3,0/10,0) 77,2 3,84 (ddd, 2,0/3,0/9,0)
3β 36,7
2,26 (ddd, 5,0/9,0/14,0) 37,5
2,24 (ddd, 5,0/9,0/14,0)
3α 0,79 (dd, 3,0/14,0) 0,77 (dd, 3,0/14,0)
4 53,8 1,68 (d, 5,0) 54,5 1,66 (d, 5,0)
5 75,8 3,82 (dd, 3,5/8,0) 76,7 3,80 (dd, 3,5/8,0)
6 β 39,1
1,34 (ddd, 2,0/3,5/13,5) 39,9
1,32 (ddd, 2,0/3,5/13,5)
6 α 2,34 (dd, 8,0/13,5) 2,32 (d, 8,0/13,5)
7 48,7 - 49,6 -
8 21,6 1,1 22,5 1,08
9 20,1 0,89 20,9 0,87
10 13,1 0,87 14,0 0,85
Hình 3.1: Cấu trúc hóa học của hợp chất AB-1
Hợp chất AB-2 thu được dưới dạng tinh thể hình kim màu trắng, nhiệt độ
nóng chảy 237 - 238 oC. Trên phổ 1H-NMR xuất hiện duy nhất một tín hiệu singlet
ở vùng thơm tại δH 7,079 (2H, s) cho thấy hợp chất AB-2 có chứa vòng thơm bị
thế ở 4 vị trí có trục đối xứng. Trên phổ 13C-NMR xuất hiện tín hiệu cộng hưởng
của 6 nguyên tử cacbon thuộc vòng thơm bao gồm 2 nhóm CH và 4 cacbon bậc
bốn, bên cạnh đó có một tín hiệu cộng hưởng của một nguyên tử cacbon thuộc
nhóm cacbonyl tại δC 170,4 (C-7). Tín hiệu cộng hưởng của CH tại δC 110,3 (C-2,
C-6) và của cacbon bậc bốn tại δC 146,3 (C-3, C-5) có cường độ pic cao gấp đôi
các tín hiệu cộng hưởng khác, điều này khẳng định hợp chất AB-2 chứa một vòng
thơm bị thế ở 4 vị trí có trục đối xứng, trong đó có một nhóm thế cacboxyl. Các dữ
liệu phổ NMR trên hoàn toàn phù hợp với dữ liệu phổ khối thu được khi cho pic
ion [M+H]+ tại m/z 170 tương ứng với công thức phân tử C7H6O5. So sánh dữ liệu
phổ của hợp chất AB-2 với tài liệu tham khảo [27], chúng tôi kết luận hợp chất
AB-2 là axit gallic. Hợp chất này đã được tìm thấy có trong loài A. pusila và thể
hiện có tác dụng chống viêm [10, 86].
Bảng 3.2: Các dữ liệu phổ 1H và 13C-NMR của hợp chất AB-2 và số liệu tham
khảo
C Hợp chất AB-2 Tài liệu tham khảo [5]
δC, ppm δH , ppm (J, Hz) δC, ppm δH , ppm (J, Hz)
1 122,0 - 121,0 -
2 110,3 7,08 (s) 109,0 6,91 (s)
3 146,3 - 145,9 -
4 139,5 - 138,3 -
5 146,3 - 145,9 -
6 110,3 7,08 (s) 109,0 6,91 (s)
7 170,4 - 168,0 -
Hình 3.2: Cấu trúc hóa học của hợp chất AB-2
Hợp chất AB-3 thu được dưới dạng chất bột màu trắng, nhiệt độ nóng chảy
201 - 203 oC. Phổ NMR của hợp chất AB-3 có dạng tương tự như hợp chất AB-2,
ngoại trừ có sự xuất hiện thêm một nhóm metoxy. Trên phổ 1H-NMR, bên cạnh sự
xuất hiện của một tín hiệu singlet tại δH 7,10 (2H, s) đặc trưng cho hai proton tại
C-2, C-6 của vòng thơm còn thấy xuất hiện một tín hiệu singlet khác của nhóm -
OCH3 tại δH 3,32 (3H, s). Tương ứng, trên phổ 13C-NMR, ngoài sự xuất hiện các
tín hiệu của cabon vòng thơm tại δC 121,54 (C-1), 110,3 (C-2), 145,9 (C-3), 139,3
(C-4), 145,9 (C-5), 110,3 (C-6) còn thấy xuất hiện tín hiệu cộng hưởng của nguyên
tử cacbon thuộc nhóm cacbonyl tại δC 170,5 (C-7) và của nhóm metoxy tại δC
49,83 (OCH3). Các số liệu phổ trên gợi ý hợp chất AB-3 có thể là metyl gallat.
Phổ khối lượng của hợp chất AB-3 cũng xuất hiện pic ion giả phân tử [M+H]+ tại
m/z 184 tương ứng với công thức phân tử C8H8O5. Kết hợp các dữ liệu phổ trên
với tài liệu tham khảo [21], hợp chất AB-3 được xác định là metyl gallat. Một số
nghiên cứu trước đây đã cho thấy hợp chất này có những tác dụng tốt như kháng
viêm, chống oxi hóa, và mới đây nhất là tác dụng kháng các tế bào u thần kinh
đệm [78]. Tuy vậy, đây là lần đầu tiên hợp chất này được tìm thấy trong chi
Ardisia.
Bảng 3.3: Các dữ liệu phổ 1H và 13C-NMR của hợp chất AB-3 và số liệu tham
khảo
C Hợp chất AB-3 Tài liệu tham khảo [8]
δC, ppm δH, ppm (J, Hz) δC, ppm δH , ppm (J, Hz)
1 121,54 - 121,0 -
2 110,3 7,10 (s) 109,0 6,91 (s)
3 145,9 - 145,9 -
4 139,3 - 138,3 -
5 145,9 - 145,9 -
6 110,3 7,10 (s) 109,0 6,91 (s)
7 170,5 - 168,0 -
OCH3 49,83 3,32 48,5 3,4
Hình 3.3: Cấu trúc hóa học của hợp chất AB-3
Hợp chất AB-4 thu được dưới dạng chất bột màu vàng nhạt gợi ý đây có thể
là một hợp chất flavonoid, nhiệt độ nóng chảy 313-314 oC. Trên phổ 1H-NMR
xuất hiện hai tín hiệu doublet tại δH 6,20 (1H, d, J = 2,0 Hz) và 6,41 (1H, d, J =
2,0 Hz) đặc trưng cho 2 proton tại C-6 và C-8 của vòng A; ba tín hiệu tại δH 7,75
(1H, d, Jmeta = 2,0 Hz, H-2′), 6,90 (1H, d, Jocto = 8,5 Hz, H-5′) và 7,65 (dd, Jocto và
meta = 8,5/2,0 Hz, H-6′) khẳng định vòng B thế 1, 3, 4. Tương ứng, trên phổ 13C-
NMR cho thấy tín hiệu đặc trưng của khung flavanol với 15 nguyên tử cacbon
trong đó có một nhóm cacboxyl (δC 175,7), 9 cacbon bậc 4 cùng 5 cacbon nhóm
CH vùng thơm (93,3 - 119,9 ppm). Các giá trị phổ NMR của hợp chất AB-4 phù
hợp với các dữ kiện tương ứng đã công bố của hợp chất quercetin [40]. Phổ khối
lượng cũng xuất hiện các píc m/z 325 [M+Na]+ và 301 [M-H]- phù hợp với công
thức phân tử C15H10O7 của quercetin. Do đó, hợp chất AB-4 được xác định là
quercetin.
Bảng 3.4: Các dữ liệu phổ 1H và 13C-NMR của hợp chất AB-4 và số liệu tham
khảo
C Hợp chất AB-4 Tài liệu tham khảo [10]
δC, ppm δH , ppm (J, Hz) δC, ppm δH , ppm (J, Hz)
2 148,6 - 146,8
3 137,2 - 135,6
4 177,3 - 175,7
5 162,6 - 160,6
6 99,1 6,18 (d, 2,0) 98,1 6,20 (d, 2,0)
7 165,6 - 163,8
8 94,4 6,40 (d, 2,0) 93,3 6,41 (d, 2,0)
9 158,2 - 156,1
10 104,5 - 103,0
1' 124,1 - 115,1
2' 116,0 7,67 (d, 2,2) 145,0 7,75 (d, 2,0)
3' 146,2 - 147,6
4' 148,0 - 146,6
5' 116,2 6,89 (d, 8,3) 115,5 6,90 (d, 8,5)
6' 121,7 7,53 (dd, 8,6, 2,2) 119,9 7,65 (dd, 8,5/2,0)
Hình 3.4: Cấu trúc hóa học của hợp chất AB-4
Hợp chất AB-5 thu được dưới dạng tinh thể hình kim màu vàng cam với
nhiệt độ nóng chảy là 196-197 oC. Các phổ NMR của hợp chất AB-5 có dạng phổ
của một hợp chất flavonoid glycoside: hai tín hiệu doublet đặc trưng cho 2 proton
cặp đôi meta với nhau tại δH 6,22 (1H, d, J = 2 Hz), 6,38 (1H, d, J = 2 Hz) trên phổ
1H-NMR và tương ứng với tín hiệu của 2 nguyên tử cacbon tại δC 99,8 và 94,7
ppm trên phổ HSQC, đặc trưng cho sự có mặt của hai proton ở vị trí 6 và 8 của
vòng A; tín hiệu của 2 proton thơm khác tại δH 6,97 (2H, s, H-2', H-6') tương ứng
với tín hiệu CH có cường độ pic cao gấp đôi các tín hiệu CH khác trên phổ HSQC
tại δC 109,6 ppm đặc trưng cho 2 proton ở vị trí C-2' và C-6' của vòng B đã bị thế
4 vị trí. Ngoài ra, trên phổ 13C-NMR có một tín hiệu cacbon của nhóm cacbonyl
tại δC 179,6 (C-4). Các tín hiệu proton nằm trong vùng 3,37 - 4,24 ppm trên phổ
1H-NMR cùng với sự xuất hiện một tín hiệu doublet của proton anomeric tại δH
5,33 (1H, d, J = 1,0 Hz) và một tín hiệu singlet của nhóm metyl tại δH 0,98 (3H, d,
J = 6,0 Hz) cho thấy sự có mặt của một cấu tử đường α-L-rhamnopyranosyl. Mối
tương tác giữa C-3 (δC 136,3) với proton anomeric (δH 5,33, d, J = 1,0 Hz) trên
phổ HMBC chứng tỏ cấu tử đường được gắn vào khung flavonoid tại vị trí C-3.
Các dữ liệu phổ NMR phù hợp với phổ khối khi cho pic ion [M+Na]+ tại m/z 487
tương ứng với công thức phân tử C21H20O12. Kết hợp với tài liệu tham khảo [77],
hợp chất AB-5 được xác định là myricitrin.
Bảng 3.5: Các dữ liệu phổ 1H và 13C-NMR của AB-5 và số liệu tham khảo
C Hợp chất AB-5 Tài liệu tham khảo [11]
δC, ppm δH , ppm (J, Hz) δC, ppm δH , ppm (J, Hz)
2 158,5 - 157,7 -
3 136,3 - 134,7 -
4 179,6 - 178,2 -
5 163,1 - 161,8 -
6 99,8 6,22 (d, 2,0) 99,2 6,17 (d, 2,2)
7 165,8 - 164,7 -
8 94,7 6,38 (d, 2,0) 94,1 6,34 (d, 2,2)
9 159,4 - 156,9 -
10 105,9 - 104,5 -
1' 122 - 120 -
2' 109,6 6,97 (s) 108,3 6,89 (s)
3' 146,8 - 146,3 -
4' 137,9 - 137,1 -
5' 146,8 - 146,3 -
6' 109,6 6,97 (s) 108,3 6,89 (s)
Rham
1''' 103,61 5,33 (d, 1,5) 101,1 5,48 (d, 1,5)
2''' 72,03 4,24 (dd, 3,5/1,5) 81,7 4,03 (d, 2,7)
3''' 72,14 3,82 (dd, 9,5/3,5) 70,7 3,3-3,7 (m)
4''' 73,5 3,37 (m) 72,3 3,3-3,7 (m)
5''' 71,8 3,53 (m) 70,9 3,3-3,7 (m)
6''' 17,8 0,98 (d, 6,0) 18,9 0,85 (d, 6,6)
Hình 3.5: Cấu trúc hóa học của hợp chất AB-5
Hợp chất AB-6 thu được dưới dạng tinh thể hình kim mảnh màu vàng,
điểm nóng chảy 190- 192 oC. Tương tự như ở hợp chất AB-5, các phổ NMR của
hợp chất AB-6 cũng có dạng phổ của một hợp chất flavonoid glycoside nhưng
phần đường phức tạp hơn, bao gồm hai cấu tử đường rhamnopyranosyl và
glucopyranosyl. Trên phổ 1H-NMR có sự xuất hiện hai tín hiệu doublet của 2
proton cặp meta của vòng A tại δH 6,29 (1H, d, J = 2,0 Hz, H-6), 6,42 (1H, d, J =
2,0 Hz, H-8) và ba tín hiệu doublet khác tại δH 7,69 (1H, d, Jmeta = 2,5 Hz, H-2′),
6,89 (1H, d, Jocto = 8,0 Hz, H-5′) và 7,65 (dd, Jocto và meta = 8,0/2,5 Hz, H-6′) của
vòng B thế 1, 3, 4, chứng tỏ cấu trúc phần aglycon của hợp chất AB-6 là quercetin.
Điều này có thể thấy rõ ràng hơn khi trên phổ 13C-NMR xuất hiện tín hiệu của 15
nguyên tử cacbon của khung flavonoid, bao gồm 5 cacbon nhóm CH vùng thơm
(δC nằm trong vùng từ 94,9 đến 123,5 ppm), 1 cacbon của nhóm cacbonyl (δC
179,4 ppm) và 9 cacbon bậc 4. Tín hiệu cộng hưởng của các nhóm CH nằm trong
vùng δH 3,25-3,85 ppm trên phổ 1H-NMR và δC 68,5 – 78,1 ppm trên phổ 13C-
NMR cùng với sự xuất hiện của 2 tín hiệu doublet của 2 proton anomeric tại δH
4,54 (1H, d, J = 1,5 Hz) và 5,12 (1H, d, J = 7,5 Hz) và các tín hiệu của nhóm
metyl và metylen ở δC 17,87 và 68,5 ppm trên phổ HSQC cho thấy trong cấu trúc
của có chứa hai gốc đường α-L-rhamnopyranosyl và β-D-glucopyranosyl. Trên
phổ HMBC nhận thấy có sự tương tác của cacbon C-3 của khung flavonoid (δC
135,6 ppm) với proton anomeric của cấu tử đường glucopyranosyl (δH 5,12 ppm),
điều này cho thấy gốc đường glucopyranosyl được gắn vào vị trí C-3 của phần
khung aglycon. Trên phổ HMBC cũng cho thấy tương tác giữa proton anomeric
của cấu tử đường rhamnopyranosyl tại δH 4,54 (1H, d, J = 1,5 Hz, H-1''') với
cacbon C-6'' (δC 68,5 ppm) của cấu tử đường glucopyranosyl, tương tác giữa
cacbon C-1''' của cấu tử đường rhamnopyranosyl (δC 102,4 ppm) với proton H-6
của cấu tử đường glucopyranosyl tại δH 3,83 (1H, dd, J = 10,5/1,0 Hz, Hb-6''), cho
thấy 2 cấu tử đường này được nối với nhau qua liên kết C-1 với C-6. Các dữ liệu
phổ NMR trên cho kết quả trùng với dữ liệu phổ khối với pic ion giả phân tử
[M+H]+ tại m/z 611 tương ứng với công thức phân tử C27H30O16. Kết hợp với tài
liệu [8], hợp chất AB-6 được xác định là rutin.
Bảng 3.6: Các dữ liệu phổ 1H và 13C-NMR của AB-6 và số liệu tham khảo
C Hợp chất AB-6 Tài liệu tham khảo [12]
δC, ppm δH, ppm (J, Hz) δC, ppm δH, ppm (J, Hz)
2 158,1 - 158,4 -
3 135,6 - 135,6 -
4 179,4 - 179,3 -
5 162,9 - 162,8 -
6 99,9 6,29 (d, 2,0) 99,9 6,19 (d, 2,1)
7 166,0 - 165,9 -
8 94,9 6,42 (d, 2,0) 94,9 6,39 (d, 2,1)
9 159,3 - 159,3 -
10 105,6 - 105,6 -
1' 123,1 - 123,6 -
2' 117,7 7,69 (d, 2,5) 116,2 7,9 (d, 2,1)
3' 145,8 - 145,7 -
4' 149,8 - 149,7 -
5' 116,1 6,89 (d, 8,0) 123,1 6,9 (d, 8,7)
6' 123,5 7,65 (dd, 8,0/2,5) 117,7 7,63 (dd, 2,1/8,7)
Glu
1'' 104,6 5,12 (d, 7,5) 102,3 5,1 (d, 7,2)
2'' 75,7 3,25-3,47 (m) 75,6 3,3-3,7 (m)
3'' 78,1 3,25-3,47 (m) 78,1 3,3-3,7 (m)
4'' 71,4 3,25-3,47 (m) 71,3 3,3-3,7 (m)
5'' 77,2 3,25-3,47 (m) 77,1 3,3-3,7 (m)
6'' 68,5 3,49-3,83 (d, 10,5/1,0) 68,6 3,48-3,83 (m)
Rham
1''' 102,4 4,54 (d, 1,5) 104,7 4,5 (d, 1,5)
2''' 72,2 3,65 (dd, 3,5/1,5) 72,0 3,3-3,7 (m)
3''' 72,1 3,56 (m) 72,2 3,3-3,7 (m)
4''' 73,9 3,28 (m) 73,9 3,3-3,7 (m)
5''' 69,1 3,32 (m) 69,6 3,3-3,7 (m)
6''' 17,8 1,14 (d, 6,0) 17,8 1,1 (d, 6,2)
Hình 3.6: Cấu trúc hóa học của hợp chất AB-6
3.1.2. Xác định cấu trúc hoá học của các chất phân lập được từ loài cơm
nguội rạng (Ardisia splendens)
Hợp chất AS-1 thu được dưới dạng chất bột màu vàng. Phổ khối lượng phân
giải cao HR-ESI-MS của hợp chất AS-1 cho pic ion phân tử tại m/z 609,1455 [M-
H]- (tính toán lý thuyết cho 609,1461 phù hợp với công thức phân tử C27H29O16).
Phổ 1H-NMR của hợp chất AS-1 cho thấy sự có mặt của các tín hiệu sau: hai
proton đặc trưng của vòng A tại δH 6,39 (s) và 6,64 (s) cùng hai proton của vòng B
tại δH 6,95 (s), ở phía trường cao có sự xuất hiện của hai tín hiệu của hai proton
anomeric tại δH 5.31 (br s) và 5.52 (br s).
Hình 3.7: Phổ 1H-NMR của hợp chất AS-1
Hình 3.8: Phổ 13C-NMR của hợp chất AS-1
Hình 3.9: Phổ HMBC của hợp chất AS-1
Hình 3.10: Phổ HSQC của hợp chất AS-1
Hình 3.11: Phổ COSY của hợp chất AS-1
Phổ 13C-NMR và DEPT (Bảng 4.2) chỉ ra sự có mặt của các tín hiệu cộng
hưởng của 27 nguyên tử cacbon, trong đó có 15 cacbon thuộc khung flavonol và
12 cacbon của hai cấu tử đường. Các dữ liệu phổ 1H-NMR và 13C-NMR của AS-1
có dạng tương tự của hợp chất quercetin 3,7-di-O-α-L-rhamnopyranoside[45]
ngoại trừ sự xuất hiện thêm một nhóm hydroxyl tại vị trí C-7. Tiến hành thủy phân
hợp chất AS-1 thu được L-rhamnose (được xác định bởi dẫn xuất trimetylsilyl
bằng phương pháp GC-MS). Ngoài ra, trên phổ HMBC có sự xuất hiện các tương
tác giữa proton anomeric của cấu tử đường rhamnose thứ nhất H-1" (δH 5,31) với
cacbon C-3 (δC 136,5); giữa proton anomeric của cấu tử đường rhamnose thứ hai
H-1"' (δH 5,52) với cacbon C-7 (δC 163,4) cho thấy hai cấu tử đường này được gắn
lần lượt váo các vị trí C-3 và C-7 của khung flavonol. Từ các dữ liệu phổ thu được,
hợp chất AS-1 được xác định là myricetin 3,7-di-O-α-L-rhamnopyranoside. Đây
là một hợp chất mới, lần đầu tiên phân lập từ thiên nhiên.
Bảng 3.7: Các dữ liệu phổ 1H và 13C-NMR của hợp chất AS-1
C δC, ppm δH, ppm (J, Hz)
2 159,8 -
3 136,5 -
4 179,6 -
5 162.8 -
6 - 6,39 (d, 2,0)
7 163,4 -
8 - 6,64 (d, 2,0)
9 157,9 -
10 146,7 -
1' 121,6 -
2' 109,6 6,95 (s)
3' 146,7 -
4' 138,0 -
5' 146,7 -
6' 109,6 6,95 (s)
3-O-Rha
1" 103,5 5,31 (br s)
2" 71,8 4,22 (br s)
3" 72,0 3,79 (dd, 3,2/9,2)
4" 73,3 3,30 (m)
5" 71,6 3,50 (m)
6" 17,6 0,95 (d, 6,0)
7-O-Rha
1'" 99,79 5,52 (br s)
2'" 72,0 4,00 (br s)
3'" 72,0 3,82 (dd, 3,2/9,2)
4'" 73,5 3,47 (m)
5'" 71,2 3,59 (m)
6'" 18,1 1,24 (d, 6,0)
Hình 3.12: Cấu trúc hóa học của hợp chất AS-1
Hợp chất AS-2 thu được dưới dạng tinh thể hình kim màu vàng cam với
nhiệt độ nóng chảy là 196-197 oC. Các phổ NMR của hợp chất AS-2 có dạng phổ
của một hợp chất flavonoid glycoside: hai tín hiệu doublet đặc trưng cho 2 proton
cặp đôi meta tại δH 6,22 (d, J = 2,0 Hz), 6,38 (d, J = 2,0 Hz) trên phổ 1H-NMR và
tương ứng với tín hiệu của hai nguyên tử cacbon tại δC 99,8 và 94,7 ppm trên phổ
HSQC đặc trưng cho sự có mặt của hai proton H-6 và H-8 của vòng A; tín hiệu
của 2 proton thơm khác tại δH 6,97 (2H, s, H-2', H-6') tương ứng với tín hiệu CH
có cường độ pic cao gấp đôi các tín hiệu CH khác trên phổ HSQC tại δC 109,6
ppm đặc trưng cho 2 proton ở vị trí 2' và 6' của vòng B đã bị thế 4 vị trí. Ngoài ra,
trên phổ 13C-NMR có một tín hiệu cacbon của nhóm cacbonyl tại δC 179,6 (C-4).
Các tín hiệu proton nằm trong vùng 3,37 - 4,24 ppm trên phổ 1H-NMR cùng với
sự xuất hiện một tín hiệu doublet của proton anomeric tại δH 5,33 (d, J = 1,0 Hz)
và một tín hiệu singlet của nhóm metyl tại δH 0,98 (3H, d, J = 6,0 Hz) cho thấy sự
có mặt của một cấu tử đường α-L-rhamnopyranosyl. Mối tương tác giữa C-3 (δC
136,3) với proton anomeric H-1'' trên phổ HMBC chứng tỏ cấu tử đường được gắn
vào vị trí C-3 của khung flavonoid. Các dữ liệu phổ NMR phù hợp với phổ khối
khi cho pic ion phân tử [M]+ tại m/z 464 tương ứng với công thức phân tử
C21H20O12. Kết hợp với tài liệu tham khảo [92], hợp chất AS-2 được xác định là
myricitrin. Hợp chất này cũng đã được tìm thấy ở một số loài Ardisia như A.
balansana [6], A. japonica [52] và có khả năng ức chế PTP1B tốt với giá trị IC50
là 28,12 µM [52].
Hình 3.13: Cấu trúc hóa học của các hợp chất AS-2, AS-3, AS-4, AS-5, AS-6,
AS-7
Hợp chất AS-3 thu được dưới dạng chất bột màu vàng. Các tín hiệu phổ của
hợp chất AS-3 phần lớn giống như của hợp chất AS-2. Cụ thể, trên phổ 1H-NMR
của AS-3 xuất hiện hai tín hiệu doublet của 2 proton ghép cặp meta của vòng A tại
δH 6,18 (d, J = 1,8 Hz), 6,35 (d, J = 1,8 Hz) cùng với tín hiệu của 2 proton thơm
khác của vòng B tại δH 6,97 (2H, s, H-2', H-6') của khung flavonoid; ở vùng
trường cao hơn xuất hiện các tín hiệu multiplet của các nhóm oximetin nằm trong
khoảng 3-4 ppm của cấu tử đường α-L-rhamnopyranosyl cùng một tín hiệu
doublet của một proton anomeric tại δH 5,50 (d, J = 1,6 Hz) và một tín hiệu singlet
của proton nhóm metyl tại δH 1,01 (3H, d, J = 5,6 Hz). Tuy nhiên, khác với AS-2,
trên phổ 1H-NMR của AS-3 còn xuất hiện thêm tín hiệu của hai proton thơm khác
tại δH 7,07 (2H, s), điều này gợi ý rằng ở AS-3 có thêm một vòng thơm bị thế 4 vị
trí. Tương ứng, trên phổ 13C-NMR, bên cạnh 15 nguyên tử cacbon của khung
flavonoid và 6 cacbon của cấu tử đường α-L-rhamnopyranosyl tương tự như ở hợp
chất AS-2, ở vùng trường thơm của hợp chất AS-3 còn thấy xuất hiện thêm các tín
hiệu của 6 cacbon vòng thơm và một cacbon nhóm caboxyl tại δC 167,45 ppm.
Các dữ liệu phổ trên gợi ý trong cấu trúc của AS-3 có thêm một cấu tử galloyl.
Trên phổ HMBC của AS-3 cho thấy có sự tương tác giữa proton anomeric H-1''
(δH 5,50) của cấu tử đường với cacbon C-3 (δC 135,62) của khung flavonoid,
tương tác giữa proton H-2'' (δH 5,63) của cấu tử đường với cacbon của nhóm
cacboxyl tại δC 167,45, chứng tỏ cấu tử galloyl được gắn vào vị trí C-2'' của cấu tử
đường, phần cấu tử đường lại được gắn vào vị trí C-3 của khung flavonoid. Các dữ
liệu phổ NMR của AS-3 phù hợp với phổ khối khi cho pic ion phân tử [M]+ tại m/z
616 (C28H24O16). So sánh các dữ liệu phổ trên với các số liệu của tài liệu tham
khảo [67], hợp chất AS-3 được xác định là desmanthin-1. Hợp chất này đã được
tìm thấy ở loài Myrcia multiflora với hoạt tính ức chế enzym aldose reductase gây
nên các bệnh về võng mạc và thần kinh ở những người bị tiểu đường [35].
Hợp chất AS-4 thu được dưới dạng chất bột màu vàng. Các tín hiệu phổ 1H-
NMR và 13C-NMR của AS-4 hoàn toàn tương tự với các tín hiệu phổ của AS-3: ở
vùng thơm có sự xuất hiện các tín hiệu cộng hưởng của khung flavonoid và một
cấu tử galloyl, ở vùng trường cao hơn có sự xuất hiện của một cấu tử đường α-L-
rhamnopyranosyl. Các tín hiệu trên phổ HMBC của AS-4 cũng cho thấy có sự
tương tác giữa proton anomeric H-1'' (δH 5,28) với cacbon C-3 (δC 136,44) chứng
tỏ cấu tử đường được gắn vào khung flavonoid tại vị trí C-3. Tuy nhiên, có sự sai
khác về độ chuyển dịch hóa học của các tín hiệu cộng hưởng của các proton cấu tử
đường H-2'', H-3'' ở hợp chất AS-4 so với hợp chất AS-3: tín hiệu cộng hưởng của
proton H-3'' của 4 chuyển dịch về phía trường thấp hơn (δH 5,24) so với hợp chất
AS-3 (δH 4,04); trong khi đó tín hiệu cộng hưởng của proton H-2'' của AS-4 lại
nằm về phía trường cao hơn (δH 4,48) so với hợp chất 3 (δH 5,63). Sự sai khác này
gợi ý rằng cấu tử galloyl của AS-4 được gắn vào vị trí C-3'' của cấu tử đường mà
không gắn vào vị trí C-2'' như ở hợp chất AS-3. Các tương tác giữa proton H-3''
(δH 5,63) với cacbon C-2'' (δC 69,95), C-4'' (δC 70,9) và cacbon nhóm cacboxyl
C=O (δC 168,39) đã khẳng định nhận định trên. Các số liệu phổ trên của AS-4
được đối chiếu với số liệu của tài liệu tham khảo [80] đã cho thấy có sự trùng
khớp, do đó hợp chất AS-4 được xác định là myricetin 3-O-(3"-O-galloyl)-α-L-
rhamnopyranoside.
Hợp chất AS-5 thu được dưới dạng bột màu vàng. Các tín hiệu trên phổ 1H-
NMR của AS-5 gợi ý hợp chất này cũng có cấu trúc của một flavonoid glucoside:
hai tín hiệu doublet đặc trưng cho 2 proton ghép cặp meta tại δH 6,20 (d, J = 1,6
Hz) và 6,37 (d, J = 1,6 Hz) của vòng A; ba tín hiệu của 3 proton vòng B thế 1, 3, 4
tại δH 7,35 (d, Jmeta = 1,6 Hz), 6,93 (d, Jocto = 8,0 Hz) và 7,32 (dd, Jocto và meta =
8,0/1,6 Hz); các tín hiệu proton nằm trong vùng 3,35 - 4,23 ppm cùng với sự xuất
hiện một tín hiệu doublet của proton anomeric tại δH 5,35 (d, J = 1,2 Hz) và một
tín hiệu singlet của nhóm metyl tại δH 0,94 (3H, d, J = 6,0 Hz) của một cấu tử
đường α-L-rhamnopyranosyl. Tương ứng, trên phổ 13C-NMR của AS-5 cho thấy
các tín hiệu đặc trưng của khung flavonoid với 15 nguyên tử cacbon và 6 nguyên
tử cacbon của một cấu tử đường α-L-rhamnopyranosyl. Vị trí thế của cấu tử đường
vào khung flavonoid được xác định ở C-3 thông qua tương tác giữa proton
anomeric H-1" (δH 5,35) với cacbon C-3 (δC136,21) trên phổ HMBC. Kết hợp các
số liệu phổ trên với phổ khối cho pic ion phân tử [M] + tại m/z 450, đồng thời đối
chiếu với tài liệu tham khảo [87], hợp chất AS-5 được xác định là quercetin 3-O-
α-L-rhamnopyranoside.
Hợp chất AS-6 thu được dưới dạng chất bột màu vàng. Dữ liệu phổ 1D-
NMR, 2D-NMR của AS-6 có sự giống nhau với hợp chất AS-5 ở các tín hiệu vòng
thơm của khung flavonoid và các tín hiệu của cấu tử đường α-L-rhamnopyranosyl.
Tuy nhiên, khác với AS-5, trên phổ 1H-NMR của AS-6 thấy xuất hiện hai tín hiệu
doublet của hai proton anomeric tại δH 5,35 (d, J = 1,2 Hz) và δH 5,54 (d, J = 1,2
Hz), các tín hiệu trong vùng 3-4 ppm nhiều gấp đôi, thêm vào đó là tín hiệu của
hai nhóm metyl tại δH 0,94 (3H, d, J = 6,0 Hz) và δH 1,25 (3H, d, J = 6,0 Hz). Điều
này cho thấy hợp chất AS-6 có nhiều hơn hợp chất AS-5 một cấu tử đường α-L-
rhamnopyranoside. Trên phổ HMBC có tương tác giữa proton H-1'' với cacbon C-
3 (δC 136,43), tương tác giữa proton H-1''' với cacbon C-7 (δC 163,38), chứng tỏ
hai cấu tử đường được gắn vào hai vị trí C-3 và C-7 của khung flavonoid. Các dữ
liệu phổ trên được so sánh với tài liệu tham khảo cho thấy có sự phù hợp [87], do
đó hợp chất AS-6 được xác định là quercetin 3,7-di-O-α-L-rhamnopyranoside.
Hợp chất AS-7 thu được dưới dạng bột màu vàng. Khác với các hợp chất
trên, phổ NMR của AS-7 gợi ý hợp chất này có cấu trúc dạng khung flavan-3-ol.
Trên phổ 1H-NMR có hai tín hiệu doublet của hai proton vòng thơm ghép cặp
meta tại δH 5,91 (d, J = 2,0 Hz), 5,84 (d, J = 2,0 Hz) của vòng A và ba tín hiệu
doublet khác đặc trưng cho ba proton vòng thơm tương tác kiểu ABX tại δH 6,82
(d, Jmeta = 1,6 Hz), 6,75 (d, Jocto = 8,0 Hz), 6,61 (dd, Jmeta và octo = 1,6/8,0 Hz) của
vòng B thế 1, 3, 4. Ở phía trường cao hơn xuất hiện hai tín hiệu cộng hưởng tại H
4,55 (d, J = 7,6 Hz) và 3,96 (m) đặc trưng cho hai nhóm metin đứng cạnh nguyên
tử oxi; hai tín hiệu cộng hưởng tại H 2,48 (dd, J = 8,0/16,0 Hz) và 2,74 (dd, J =
5,2/16,0 Hz) thể hiện sự có mặt của một nhóm metylen. Tương ứng, trên phổ 13C-
NMR và DEPT của AS-7 cho tín hiệu của 15 nguyên tử cacbon, bao gồm 1 nhóm
CH2, 7 nhóm CH và 7 cacbon bậc 4; không thấy xuất hiện nhóm cacbonyl. Các dữ
liệu phổ trên của AS-6 được đối chiếu với tài liệu [13] cho thấy có sự trùng khớp,
do đó hợp chất AS-7 được xác định là (+)-catechin.
Hợp chất AS-8 thu được dưới dạng bột vô định hình. Dữ liệu phổ 1H-NMR
của AS-8 cho thấy sự có mặt của một vòng benzen bị thế một vị trí thông qua sự
xuất hiện của các tín hiệu tại H 7,41 (2H, d, J = 7,0 Hz, H-2, H-6), 7,32 (2H, d, J
= 7,0 Hz, H-3, H-5) và 7,26 (1H, t, J = 7,0 Hz, H-4). Ngoài ra, trên phổ 1H-NMR
của AS-8 còn thấy các tín hiệu cộng hưởng của một nhóm methylen tại H 4,66
(1H, d, J = 12,0 Hz), 4,92 (1H, d, J = 12,0 Hz) và một cấu tử đường β-D-
glucopyranoside với các tín hiệu đặc trưng của proton anomeric tại H 4,34 (1H, d,
J = 7,7 Hz), hai proton nhóm methylen tại H 3,69 (1H, dd, J = 5,4/12,0 Hz), 3,89
(1H, dd, J = 1,6/12,0 Hz) và của các nhóm oximetin nằm trong khoảng 3-4 ppm.
Tương ứng, dữ liệu phổ 13C-NMR và DEPT của AS-8 cũng cho thấy sự có mặt
của một vòng thơm thế một vị trí với các tín hiệu tại C 129,19 (C-2, C-6), 129,26
(C-3, C-5), 128,68 (C-4), 139,06 (C-1); một cacbon nhóm methylen tại C 71,2 (C-
7) cùng với các tín hiệu của cấu tử đường β-D-glucopyranoside xuất hiện tại C
103,26 (C-1′); 75,15 (C-2′); 78,02 (C-3′); 71,68 (C-4′); 78,07 (C-5′) và 62,8 (C-6′).
Trên phổ HMBC của hợp chất AS-8 có tương tác giữa proton anomeric H-1′ (H
4,34 ppm) với cacbon C-7 (C 71,7 ppm) của nhóm methylen, tương tác giữa
cacbon C-7 với các proton H-2 và H-6 (H 7,41 ppm) của vòng thơm, chứng tỏ cấu
tử đường β-D-glucopyranoside được gắn vào nhóm methylen thế ở vòng thơm.
Phổ khối lượng ESI-MS của hợp chất AS-8 cho pic ion phân tử [M+H]+ tại m/z
271 tương ứng với công thức phân tử C13H18O6 (M = 270). Từ các dữ liệu phổ thu
được kết hợp đối chiếu so sánh với tài liệu tham khảo [43], hợp chất AS-8 được
xác định là benzyl O-β-D-glucopyranoside.
Hình 3.14: Cấu trúc hóa học của các hợp chất AS-8, AS-9, AS-10, AS-11, AS-
12
Hợp chất AS-9 thu được dưới dạng bột vô định hình. Phổ 1H-NMR và 13C-
NMR của AS-9 cũng có dạng tương tự như ở hợp chất AS-8, tuy nhiên trên phổ
1H-NMR của AS-9 thấy xuất hiện thêm một nhóm metylen tại δH 2,91 (2H, t, J =
7,0 Hz) tương ứng với tín hiệu tại δC 37,22 ppm của nhóm CH2 trên phổ 13C-NMR
và DEPT. Phù hợp với các dữ liệu phổ trên, phổ khối lượng ESI-MS của hợp chất
AS-9 cho pic ion phân tử [M+H]+ tại m/z 285 tương ứng với công thức phân tử
C14H20O6 (M = 284), nhiều hơn hợp chất AS-8 một nhóm CH2. Đối chiếu các dữ
liệu phổ trên với số liệu trong tài liệu tham khảo [71] thấy hoàn toàn phù hợp, do
đó hợp chất AS-9 được xác định là 2-phenylethyl O-β-D-glucopyranoside.
Hợp chất AS-10 thu được dưới dạng bột vô định hình. Trên phổ 1H-NMR
của hợp chất AS-10 xuất hiện một tín hiệu doublet của một nhóm metyl bậc hai tại
δH 1,26 (3H, d, J = 6,4 Hz, CH3-10) và ba tín hiệu singlet của 3 nhóm metyl bậc
bốn tại δH 0,83 (3H, s, CH3-11), 1,19 (3H, s, CH3-12) và 1,13 (3H, s, CH3-13); các
tín hiệu của hai nhóm metylen tại δH 1,42 (1H, m, Ha-2), 1,63 (1H, m, Hb-2) và
1,75 (2H, m, H-4); hai tín hiệu của 2 proton nhóm metin gắn với ôxi tại δH 4,04
(1H, m, H-3) và 4,33 (1H, m, H-9) cùng các tín hiệu của một liên kết đôi cấu hình
trans tại δH 6,04 (1H, d, J = 16,0 Hz, H-7) và 5,78 (1H, dd, J = 6,0/16,0 Hz, H-8).
Các dữ liệu phổ 13C-NMR và DEPT của hợp chất AS-10 hoàn toàn phù hợp với dữ
liệu phổ 1H-NMR khi chỉ ra sự có mặt của 13 nguyên tử cacbon trong đó có 4
cacbon nhóm metyl tại δC 24,21 (C-10), 27,51 (C-11), 26,21 (C-12), 27,08 (C-13),
2 cacbon nhóm metylen tại δC 46,44 (C-2), 45,69 (C-4), 4 cacbon nhóm metin
trong đó có 2 nhóm metin của liên kết đôi tại δC 131,2 (C-7), 136,09 (C-8) và 2
nhóm metin khác tại δC 65,26 (C-3), 69,57 (C-9) cùng 3 cacbon bậc bốn trong đó
có 2 cacbon bậc 4 liên kết với oxi tại δC 77,75 (C-5), 78,91 (C-6), tín hiệu còn lại
được xem xét khả năng liên kết với 2 nhóm metyl tại δC 40,68 (C-1). Các dữ liệu
phổ thu được của hợp chất AS-10 gợi ý hợp chất này có cấu trúc khung
tetrahydroxy megastigman-7-ene. Các tín hiệu trên phổ HMBC cho thấy có tương
tác rõ ràng giữa proton H-7 (δH 6,04) và proton H-8 (δH 5,78) với cacbon C-6 (δC
78,91), chứng tỏ mạch nhánh được gắn vào vị trí C-6 của vòng no 6 cạnh. Các dữ
liệu phổ thu được của hợp chất AS-10 hoàn toàn trùng hợp với các dữ liệu trong
tài liệu tham khảo [24], do đó hợp chất AS-10 được xác định là 3S, 5R, 6R, 9S-
tetrahydroxymegastigman-7-ene.
Hợp chất AS-11 thu được dưới dạng bột màu vàng. Phổ 1H-NMR cho các tín
hiệu của các proton vòng thơm tại H 7,04 (2H, s, H-2', H-6'); 6,68 (1H, s, H-3'')
và 6,65 (1H, s, H-3'''), tín hiệu proton của nhóm metylen tại H 4,15 (1H, dd, J =
8,0/11,0 Hz, Ha-6); 4,94 (1H, m, Hb-6); ngoài ra, ở vùng trường cao có các tín hiệu
dạng multiplet nằm trong khoảng 3-5 ppm và một tín hiệu singlet tại H 6,35 (1H,
s, H-1). Các dữ liệu phổ thu được trên gợi ý hợp chất AS-11 có chứa cấu trúc vòng
thơm và cấu tử đường dạng glucopyranoside. Nhận định trên được làm sáng tỏ
thông qua các dữ liệu thu được trên phổ 13C-NMR và phổ DEPT cho thấy có 27
tín hiệu cacbon, bao gồm 9 cacbon nhóm CH, 1 tín hiệu cacbon nhóm CH2 và 17
cacbon bậc bốn trong đó có 3 cacbon bậc bốn của nhóm cacbonyl có độ chuyển
dịch hóa học tại C 166,64 (C-7'), 168,47 (C-7''), 170,0 (C-7'''), 9 cacbon bậc bốn
khác có độ chuyển dịch từ 140-150 ppm dự đoán đây là những cacbon vòng thơm
có đính nhóm OH. Các số liệu phổ trên gợi ý trong cấu trúc vòng thơm của AS-11
có chứa 3 cấu tử galloyl, trong đó hai cấu tử galloyl bị thế 4 vị trí và một cấu tử
galloyl còn lại bị thế 3 vị trí và cùng gắn với một cấu tử đường. Điều này được thể
hiện rõ ràng hơn khi trên phổ HMBC có các tương tác giữa proton H-3'' (H 6,68)
với cacbon C-1'' (C 117,15), C-5'' (C 137,61) và C-7'' (C 168,47); tương tác giữa
proton H-3''' (H 6,65) với cacbon C-1''' (C 116,63), C-5''' (C 138,13) và C-7''' (C
170,07). Như vậy có thể thấy rằng phần cấu trúc vòng thơm của AS-11 có chứa ba
cấu tử galloyl, phần cấu trúc còn lại là hexahydroxydiphenoyl. Ngoài ra, trên phổ
HMBC của AS-11 còn có các tương tác giữa proton Hb-6 (H 4,94) với cacbon C-
7'', giữa proton H-3 (H 4,80) với cacbon C-7''' chứng tỏ trong cấu trúc của AS-11
có liên kết 3,6-(R)-hexahydroxydiphenoyl-D-glucose. Các dữ liệu phổ của AS-11
hoàn toàn phù hợp với các dữ liệu của tài liệu tam khảo [74]. Do đó, hợp chất AS-
11 được xác định là β-1-O-galloyl-3,6-(R)-hexahydroxydiphenoyl-D-glucose (hay
còn gọi là corilagin). Hợp chất corilagin đã được tìm thấy trước đó từ loài
Macaranga tanarius và cho thấy có những hoạt tính đáng chú ý như kháng khuẩn,
kháng virut và chống khối u.
Hợp chất AS-12 thu được dưới dạng gel. Trên phổ 1H-NMR của AS-12 xuất
hiện một tín hiệu cộng hưởng của proton nhóm metyl tại H 0,95 (3H, t, J = 7,0 Hz,
H-18) cùng với các tín hiệu đặc trưng cho các nhóm metylen xuất hiện trong
khoảng H 1,28-2,80 ppm và các tín hiệu đặc trưng cho các nhóm metin mạch
thẳng xuất hiện trong khoảng H 5,30-5,34 ppm. Ngoài ra, trên phổ 1H-NMR của
AS-12 còn thấy xuất hiện một tín hiệu multiplet tại H 3,96 tương ứng với tín hiệu
tại C 70,3 trên phổ 13C-NMR gợi ý sự có mặt của một nhóm metin có gắn với
nhóm hydroxyl tự do; hai tín hiệu doublet doublet tại H 3,62 (dd, J = 4,2/10,8 Hz)
và H 3,88 (dd, J = 5,4/10,8 Hz) của một nhóm metylen gắn với oxi và một tín
hiệu multiplet khác xuất hiện tại H 4,13 ppm của một nhóm metylen gắn với oxi
thứ hai. Các dấu hiệu phổ trên gợi ý sự có mặt của phần cấu trúc
monoacylglycerol trong cấu trúc của AS-12. Mặt khác, trên phổ 1H-NMR của AS-
12 còn cho thấy sự có mặt của một cấu tử đường thông qua sự xuất hiện của các
tín hiệu đặc trưng của các proton nhóm oximetin nằm trong khoảng 3-4 ppm cùng
với một tín hiệu của nhóm metylen tại H 3,70 ppm và một tín hiệu doublet của
proton anomeric tại H 4,02 (1H, d, J = 7,6 Hz). Dữ liệu phổ 13C-NMR và DEPT
của 12 đã làm sáng tỏ thêm những nhận định ban đầu khi trên phổ thấy rõ các tín
hiệu cacbon của gốc đường, các tín hiệu của nhóm glyxerol (tín hiệu của nhóm
metyl cuối mạch nhánh tại C 14,6 ppm, tín hiệu của các nhóm metylen nằm trong
khoảng 20-30 ppm, sáu tín hiệu của các proton nối đôi nằm trong khoảng 128-132
ppm và một tín hiệu nhóm cacbonyl tại 173,8 ppm). Phổ HMBC cho thấy có sự
tương tác giữa proton anomeric tại H 4,02 với cacbon C-1 (C 71,8) của glycerol
và tương tác giữa proton H-3 (H 4,13) của cấu tử glycerol với cacbon nhóm
cacbonyl tại C 173,8, chứng tỏ cấu tử đường được gắn vào vị trí C-1 và nhóm
acyl gắn vào vị trí C-3 của glycerol. Đối chiếu các dữ liệu phổ trên của AS-12 với
các dữ liệu phổ của tài liệu tham khảo [30], hợp chất AS-12 được xác định là (2S)-
3-O-(9, 12,15-octadecatrienoyl)-glyceryl-β-D-galactopyranoside. Hợp chất này đã
được tìm thấy ở loài Euphorbia nicaeensis và cho thấy có hoạt tính chống viêm tốt
[14], tuy nhiên đây là lần đầu tiên hợp chất này được tìm thấy trong chi Ardisia.
3.1.3. Xác định cấu trúc hoá học của các chất phân lập được từ loài cơm
nguội đảo (Ardisia insularis)
Hợp chất AI-1 thu được dưới dạng chất bột màu trắng. Phổ khối lượng phân
giải cao HR-ESI-MS của hợp chất AI-1 cho pic ion giả phân tử tại m/z 787,4394
[M+Cl]– (tinh toán theo lý thuyết cho công thức phân tử C41H68O12Cl, Calcd.
787,4405).
Phổ 1H-NMR của AI-1 cho thấy có sự xuất hiện của các tín hiệu sau: một
proton olefinic tại δH 5,17, một proton của nhóm oximetin tại δH 3,61 và sáu nhóm
metyl bậc 4 tại δH 0,73, 0,87, 0,88, 0,99, 1,00 và 1,20 gợi ý rằng hợp chất AI-1 có
cấu trúc kiểu khung tritecpen olean; bên cạnh đó còn có sự xuất hiện của hai
proton anomeric tại δH 4,35 (d, J = 7,6 Hz) và 4,54 (d, J = 7,6 Hz) cho thấy trong
cấu trúc của AI-1 có chứa hai cấu tử đường.
Hình 3.15: Phổ 1H-NMR của hợp chất AI-1
Phổ 13C-NMR và phổ DEPT của AI-1 cho thấy sự xuất hiện của các tín hiệu
của 41 nguyên tử cacbon, bao gồm: 07 cacbon bậc bốn, 14 cacbon nhóm metin, 14
cacbon nhóm metylen và 6 cacbon nhóm metyl. Các dữ liệu phổ 1H-NMR và 13C-
NMR của AI-1 tương tự với các số liệu phổ của hợp chất assamicoside A, tuy
nhiên ở hợp chất AI-1 không xuất hiện hai nhóm hydroxy tại C-16 và C-21 của
khung aglycone [10]. Các tín hiệu cacbon và proton tương ứng được thể hiện rõ
ràng trên phổ HMQC (Bảng 3.8).
Hình 3.16: Phổ 13C-NMR của hợp chất AI-1
Hình 3.17: Phổ DEPT của hợp chất AI-1
Hình 3.18: Phổ HMBC của hợp chất AI-1
Hình 3.19: Phổ HSQC của hợp chất AI-1
Trên phổ HMBC, các mối tương tác giữa proton H-23 (δH 3,33 và 3,64) với
cacbon C-3 (δC 83,5), C-4 (δC 43,8), C-5 (δC 48,2) và C-24 (δC 13,4); giữa proton
H-24 (δH 0,73) với cacbon C-3 (δC 83,5), C-4 (δC 43,8), C-5 (δC 48,2), và C-23 (δC
65,2) cho thấy hai nhóm hydroxyl được gắn vào vị trí C-3 và C-23 của khung
aglycon (Hình 4.7). Cấu hình của nhóm hydroxyl tại C-3 và của nhóm metyl tại C-
4 được xác định là cấu hình β bởi sự xuất hiện trên phổ ROESY các tương tác giữa
các proton H-3 (δH 3,61)/H-23 (δH 3,33 và 3,64)/H-5 (δH 1,22) (Hình 14) cùng với
hằng số tương tác lớn JH2a-H3a = 10,4 Hz. Trên phổ HMBC, các tương tác giữa
proton H-28 (δH 3,10) với các cacbon C-16 (δC 22,9), C-17 (δC 38,1), C-18 (δC
43,9) và C-22 (δC 32,3) đã khẳng định nhóm hydroxyl được gắn vào vị trí C-28.
Thủy phân axit hợp chất AI-1 thu được D-glucose và L-arabinose. Hằng số tương
tác của các proton anomeric của hai cấu tử đường là JH-1′-H-2′ =7,6 Hz và JH-1″-H-2″ =
7,6 Hz đã chứng tỏ hai cấu tử đường này có cấu hình là -D-glucopyranoside và
-L-arabinopyranoside. Ngoài ra, trên phổ HMBC của hợp chất AI-1 còn xuất
hiện các tương tác giữa proton anomeric H-1″ (δH 4,54) của cấu tử đường
glucopyranoside với cacbon C-3′ (δC 84,2) của cấu tử đường arabinopyranoside,
tương tác giữa proton H-3′ (δH 3,64) của cấu tử đường arabinopyranoside với
cacbon C-1″ ((δC 105,5) của cấu tử đường glucopyranoside chứng tỏ hai cấu tử
đường này được gắn với nhau thông qua liên kết -D-glucopyranosyl-(13)--L-
arabinopyranoside. Phần cấu tử đường này lại được gắn vào vị trí C-3 của khung
aglycon thông qua sự xuất hiện của mối tương tác giữa proton H-3 (δH 3,61) và
cacbon C-1′ (δC 106,1) của arabinopyranoside, tương tác giữa proton anomeric H-
1′ (δH 4,35) của arabinopyranoside với cacbon C-3 (δC 83,5) của khung aglycon
trên phổ HMBC.
Hình 3.20: Phổ ROESY của hợp chất AI-1
Hình 3.21: Phổ COSY của hợp chất AI-1
Các mối trương tác trên phổ HMBC và COSY của hợp chất AI-1 được thể
hiện trên Hình 14. Từ các dữ liệu phổ thu được, hợp chất AI-1 được xác định là 3,
23, 28-trihydroxyolean-12-ene 3-O-[-D-glucopyranosyl-(1→3)--L-
arabinopyranoside. Đây là hợp chất mới, lần đầu tiên phân lập được từ thiên
nhiên và được đặt tên là ardinsuloside.
Bảng 3.8: Dữ liệu phổ 1H-NMR và 13C-NMR của hợp chất AI-1
C δC, ppm δH, ppm (J, Hz)
1 39,6 0,96 (m)/1,62 (m)
2 26,3 1,73 (m)/1,81 (m)
3 83,5 3.61 (br d, 10,4)
4 43,8 -
5 48,2 1,22 (m)
6 18,9 1,40 (m)/1,50 (m)
7 33,3 1,32 (m)/1,65 (m)
8 41,0 -
9 49,0 1,64 (m)
10 37,6 -
11 24,7 1,89 (m)
12 123,4 5,17 (br s)
13 145,7 -
14 42,9 -
15 26,6 1,32 (m)/1,84 (m)
16 22,9 1,19 (m)
17 38,1 -
18 43,9 1,97 (m)
19 47,8 1,04 (m)/1,77 (m)
20 31,8 -
21 35,3 1,12 (m)
22 32,3 1,35 (m)/1,52 (m)
23 65,2 3,33 (d, 10,4)/3,64 (d, 10,4)
24 13,4 0,73 (s)
25 16,6 1,00 (s)
26 17,4 0,99 (s)
27 26,6 1,20 (s)
28 69,8 3,10 (d, 11,2)/3,51 (d, 11,2)
29 33,8 0,87 (s)
30 24,0 0,88 (s)
3-Ara
1 106,1 4,35 (d, 7,6)
2 72,1 3,68 (dd, 7,6/8,0)
3 84,2 3,64 (m)
4 69,5 4,03 (br s)
5 66,9 3,56 (d, 12,0)/3,86 (d, 12,0)
3-Glc
1″ 105,5 4,54 (d, 7,6)
2″ 75,3 3,30 (m)
3″ 77,9 3,35 (m)
4″ 71,1 3,30 (m)
5″ 77,6 3,30 (m)
6″ 62,3 3,65 (d, 4,8/12,0)/3,83 (d, 12,0)
Hình 3.22: Cấu trúc hóa học của hợp chất AI-1
Hình 3.23: Các tương tác HMBC và COSY của hợp chất AI-1
Hợp chất AI-2 thu được dưới dạng chất bột màu trắng. Trên phổ 1H-NMR
xuất hiện một tín hiệu singlet của một nhóm metoxy tại δH 3,73 (3H, s), một tín
hiệu singlet khác của proton thơm tại δH 6,95 (s, H-7) gợi ý sự có mặt của một
vòng thơm bị thế 5 vị trí. Ngoài ra, sự xuất hiện của một tín hiệu doublet đặc trưng
cho proton anomeric tại δH 4,94 (d, J = 10,4 Hz, H-10b), hai tín hiệu tương ứng với
hai proton của nhóm metylen tại δH 3,39 (m, H-11a) và 3,79 (d, J = 11,4 Hz, H-
11b) đều có liên hệ với cùng một nguyên tử cacbon C-11 tại δC 61,48 ppm trên phổ
HSQC, cùng với các tín hiệu multiplet khác có độ chuyển dịch nằm trong khoảng
3 - 4 ppm đặc trưng cho các proton của các nhóm oximetin chứng tỏ sự có mặt của
một cấu tử đường β-D-glucopyranosyl trong cấu trúc hợp chất AI-2. Tương ứng,
phổ 13C-NMR và DEPT của AI-2 cho thấy sự có mặt của 14 nguyên tử cacbon
trong đó có 6 tín hiệu thuộc về cacbon của một vòng thơm, 6 tín hiệu khác thuộc
về cacbon của cấu tử đường cùng với một tín hiệu của nhóm metoxy thơm tại δC
60,2 ppm và một tín hiệu của cacbonyl este tại δC 163,77 ppm. Phổ HMBC của
hợp chất AI-2 thể hiện những tương tác xa đáng chú ý giữa proton anomeric (δH
4,94) với cacbon thơm có gắn với ôxi C-10 (δC 148,44) và với hai cacbon bậc bốn
C-6a (δC 118,44) và C-10a (δC 116,31); cacbon bậc bốn C-10a lại có mối tương tác
xa với proton H-4a (δH 3,95). Điều này cho thấy cấu tử đường β-glucopyranosyl
có liên kết C-C tại vị trí C-10a của vòng thơm thông qua nguyên tử cacbon
anomeric. Tín hiệu cộng hưởng của proton H-4a (δH 3,95) xuất hiện tại trường
thấp hơn so với các tín hiệu của các proton nhóm ôxi metin khác của cấu tử đường
cho thấy cacbon C-4a được liên kết với cacbon C-6a thông qua một nhóm este.
Ngoài ra, trên phổ HMBC của AI-2 cũng xuất hiện các tín hiệu khác chứng tỏ có
sự tương tác xa giữa proton thơm tại δH 6,95 với cacbon C-6a, C-10a và cacbon
nhóm cacbonyl (δC 163,77) chứng tỏ đây là proton H-7 của vòng thơm. Vị trí của
nhóm metoxy được xác định gắn vào C-9 của vòng thơm thông qua tương tác giữa
proton của nhóm metoxy tại δH 3,73 với cacbon C-9 tại δC 140,95 trên phổ HMBC.
Phổ khối lượng ESI-MS của AI-2 cho pic ion phân tử [M]+ tại m/z 328 tương ứng
với công thức phân tử C14H16O9. Trên cơ sở các dữ liệu phổ thu được ở trên kết
hợp với việc so sánh và đối chiếu với tài liệu tham khảo [83], hợp chất AI-2 được
xác định là bergenin. Bergenin là một hợp chất C-glucoside và đã được tìm thấy
khá phổ biến trong chi Ardisia như ở các loài A. crenata, A. punctata, A.
gigantifolia, A. pusilla, A. japonica, A. colorata . Hợp chất isocoumarin này đã
được chứng minh có nhiều tác dụng dược lý như chống độc gan, chống viêm loét,
chống HIV, chống loạn nhịp tim, chống viêm khớp [22, 50, 68].
Hợp chất AI-3 thu được dưới dạng chất bột màu vàng nâu nhạt. Các dữ liệu
phổ 1D-NMR và 2D-NMR của hợp chất AI-3 thể hiện rất rõ ràng và giống với
hợp chất AI-2, ngoại trừ sự vắng mặt của tín hiệu metoxi (tại δH 3,37/δC 60,20 ở
hợp chất AI-2) trên dữ liệu phổ của hợp chất AI-3. Phổ ESI-MS cho pic ion phân
tử [M-H]- tại m/z 313 tương ứng với công thức phân tử C13H14O9, cho thấy hợp
chất AI-3 kém hợp chất AI-2 một nhóm CH2. Từ các dữ liệu phổ thu được, kết
hợp với đối chiếu tài liệu tham khảo [83], hợp chất AI-3 được xác định là
norbergenin. Hợp chất này cũng đã được tìm thấy có trong một số loài Ardisia như
A. colorata, A. japonica, A. crenata. Norbergenin được chứng minh có hoạt tính
chống oxi hóa, chống viêm khớp, điều hòa hệ thống miễn dịch thông qua sự điều
biến cân bằng cytokine Th1/Th2 [68, 79].
Hình 3.24: Cấu trúc hóa học của các hợp chất AI-2, AI-3, AI-4, AI-5
Hợp chất AI-4 thu được dưới dạng hình kim không màu. Các dữ liệu phổ
1D-NMR và 2D-NMR của AI-4 có dạng tương tự với các dữ liệu phổ của hai hợp
chất AI-2 và AI-3, gợi ý hợp chất AI-4 là một dẫn xuất của bergenin. Tuy nhiên,
trên phổ 1H-NMR và 13C-NMR của hợp chất AI-4 không thấy xuất hiện các tín
hiệu của nhóm metoxy như ở hợp chất AI-2 (tại δH 3,37/δC 60,20). Ở vùng trường
thơm, thay vì sự xuất hiện một tín hiệu singlet của một proton thơm như ở hợp
chất AI-2 và AI-3, trên phổ 1H-NMR của hợp chất AI-4 xuất hiện hai tín hiệu
doublet đặc trưng cho hai proton thơm ghép cặp meta tại δH 6,45 (d, J = 2,0 Hz, H-
9) và δH 6,83 (d, J = 2,0 Hz, H-7) và tương ứng với chúng là hai tín hiệu cacbon
tại δC 108,68 (C-7) và 109,15 (C-9) trên phổ 13C-NMR, chứng tỏ vòng thơm ở hợp
chất AI-4 bị thế ở 4 vị trí. Các dữ liệu phổ trên gợi ý hợp chất AI-4 là
demethoxybergenin. Điều này hoàn toàn phù hợp khi trên phổ khối lượng ESI-MS
của hợp chất AI-4 cho pic ion phân tử [M]+ tại m/z 298 ứng với công thức phân tử
C13H14O8. Đối chiếu các số liệu phổ thu được với các số liệu trong tài liệu tham
khảo [79], hợp chất AI-4 được xác định là demethoxybergenin. Hợp chất này đã
được tìm thấy có trong quả của loài Ardisia colorata [79].
Hợp chất AI-5 thu được dưới dạng chất bột màu trắng. Phổ ESI-MS cho pic
ion phân tử [M]+ tại m/z 480 tương ứng với công thức phân tử C21H20O13. Các đặc
tính phổ NMR của hợp chất AI-5 cho thấy đây là một dẫn xuất của bergenin. Trên
phổ 1H-NMR, bên cạnh các tín hiệu của phần khung bergenin, một tín hiệu singlet
kiểu AA' đối xứng xuất hiện tại δH 7,11 (H-2', H-6'). Tín hiệu siglet này, ngoài
tương tác với tín hiệu của các cacbon tương ứng thể hiện trên phổ HSQC tại δC
110,35 (C-2', C-6'), còn có tương tác với ba cacbon có gắn với oxi tại δC 139,97
(C-4'), 146,45 (C-3', C-5') và tương tác với cacbon cacbonyl tại δC 167,71 (C-7')
trên phổ HMBC, điều này chứng tỏ sự có mặt của một cấu tử galloyl trong cấu
trúc của hợp chất AI-5. Bên cạnh đó, mối tương tác giữa proton H-4 (δH 5,55) của
phần cấu tử đường với cacbon cacbonyl C-7' (δC 167,71) của phần cấu tử galloyl
trên phổ HMBC đã cho thấy cấu tử galloyl được gắn vào vị trí C-4 của khung
bergenin. Các dữ liệu phổ trên được đối chiếu với các số liệu của tài liệu tham
khảo [94] cho thấy có sự trùng khớp, do đó hợp chất AI-5 được xác định là 4-O-
galloylbergenin. Hợp chất này cũng từng được tìm thấy ở rễ của loài Ardisia
gigantifolia và thể hiện có hoạt tính chống oxi hóa với giá trị EC50 là 28,3 µmol L-1
[50].
Hợp chất AI-6 thu được dưới dạng chất bột màu vàng. Các phổ NMR của
hợp chất AI-6 có dạng phổ của một hợp chất flavonoid glycoside: hai tín hiệu
doublet của hai proton ghép cặp meta tại δH 6,15 (1H, d, J = 2,0 Hz), 6,31 (1H, d, J
= 2,0 Hz) trên phổ 1H-NMR và tương ứng với tín hiệu của 2 nguyên tử cacbon tại
δC 99,9 và 94,8 ppm trên phổ 13C-NMR đặc trưng cho sự có mặt của hai proton H-
6 và H-8 của vòng A; một tín hiệu singlet có cường độ tích phân bằng 2 proton tại
δH 6,93 (2H, s) trên phổ 1H-NMR tương ứng với tín hiệu CH trên phổ HSQC có
cường độ pic cao gấp đôi các tín hiệu CH khác tại δC 109,7 cho thấy vòng B đã bị
thế ở 3 vị trí và có cấu trúc đối xứng. Về phía trường cao hơn trên phổ 1H-NMR
xuất hiện các tín hiệu đặc trưng của một cấu tử đường α-L-rhamnopyranosyl: tín
hiệu doublet của proton anomeric tại δH 5,29 (1H, d, J = 1,0 Hz), tín hiệu singlet
của nhóm metyl tại δH 0,98 (3H, d, J = 6,0 Hz) cùng với các tín hiệu khác của các
nhóm oximetin nằm trong vùng 3,37 - 4,24 ppm. Tương ứng, trên phổ 13C-NMR và
DEPT của 6 xuất hiện tín hiệu của 21 nguyên tử cacbon, bao gồm 15 cacbon thuộc
khung flavonoid và 6 cacbon của cấu tử đường. Vị trí liên kết của cấu tử đường α-
L-rhamnopyranosyl được xác định tại C-3 của khung flavonoid thông qua tương
tác giữa proton anomeric H-1" (δH 5,33) với cacbon C-3 (δC 136,4) trên phổ
HMBC. Phổ ESI-MS của AI-6 cho pic ion [M+H]+ tại m/z 465 tương ứng với công
thức phân tử C21H20O12. Các dữ liệu phổ trên hoàn toàn phù hợp với các số liệu
phổ trong tài liệu tham khảo [92], do đó hợp chất AI-6 được xác định là myricitrin.
Hợp chất này cũng đã được tìm thấy có trong một số loài Ardisia như A. balansana
[7], A. japonica [52] và thể hiện có hoạt tính kháng virut tốt [52].
Hợp chất AI-7 thu được dưới dạng chất bột màu vàng. Các tín hiệu phổ của
hợp chất AI-7 phần lớn giống như hợp chất AI-6, gợi ý hợp chất này cũng có cấu
trúc của một flavonoid glycoside. Cụ thể, giống như hợp chất AI-6, trên phổ 1H-
NMR của AI-7 cũng xuất hiện các tín hiệu doublet của 2 proton H-6 và H-8 tại δH
6,18 (d, J = 1,6 Hz), 6,35 (d, J = 1,6 Hz) của vòng A và một tín hiệu singlet có
cường độ tích phân bằng 2 của hai proton H-2', H-6' tại δH 6,97 (2H, s) của vòng B
đã bị thế ở 3 vị trí và có cấu trúc đối xứng; ở phía trường cao hơn xuất hiện các tín
hiệu đặc trưng cho một cấu tử đường α-L-rhamnopyranosyl, bao gồm một tín hiệu
doublet của proton anomeric tại δH 5,28 (d, J = 1,6 Hz), một tín hiệu của nhóm
metyl tại δH 1,00 (3H, d, J = 5,6 Hz) và nhiều tín hiệu dạng multiplet trong khoảng
3-4 ppm của các nhóm oximetin. Tuy nhiên, khác với AI-6, trên phổ 1H-NMR của
AI-7 xuất hiện thêm tín hiệu singlet kiểu AA' đối xứng tại δH 7,07 (2H, s, H-2''',
H-6''') gợi ý trong cấu trúc của AI-7 còn có thêm một vòng thơm bị thế 4 vị trí và
có cấu trúc đối xứng. Tương ứng, trên phổ 13C-NMR và DEPT của AI-7 xuất hiện
28 nguyên tử cacbon, trong đó ngoài 15 cacbon của khung flavonoid và 6 cacbon
của cấu tử đường α-L-rhamnopyranosyl giống như ở hợp chất AI-6 còn xuất hiện
thêm sáu cacbon của một vòng thơm và một cacbon của nhóm cacboxyl tại δC
168,37 (C-7'''). Nguyên tử cacbon của nhóm cacboxyl này có tương tác với hai
proton H-2''' và H-6''' (δH 7,07), đồng thời hai proton này lại có tương tác với ba
cacbon có gắn với oxi tại δC 139,9 (C-4'''), 146,4 (C-3''', C-5''') trên phổ HMBC,
điều này chứng tỏ sự có mặt của một cấu tử galloyl trong cấu trúc của AI-7. Ngoài
ra, trên phổ HMBC còn xuất hiện các tương tác giữa proton anomeric H-1'' (δH
5,28) với cacbon C-3 (δC 135,41) và tương tác giữa proton H-3'' (δH 5,24) với
cacbon của nhóm cacboxyl C-7''' (δC 168,37) đã xác định vị trí liên kết của cấu tử
đường tại C-3 của khung flavonoid và vị trí liên kết của cấu tử galloyl tại C-3'' của
đường rhamnopyranosyl. Do có sự liên kết với cấu tử galloyl thông qua liên kết
este nên cacbon C-3'' của AI-7 có độ chuyển dịch hóa học nằm về phía trường
thấp hơn (δC 75,30) so với cacbon C-3'' của 6 (δC 71,95). Phổ ESI-MS của AI-7
cho pic ion [M+H]+ tại m/z 617 tương ứng với công thức phân tử C28H24O16. Từ
các dữ liệu phổ trên, kết hợp với tài liệu tham khảo [80], hợp chất AI-7 được xác
định là myricetin 3-O-(3''-O-galloyl)-α-L-rhamnopyranoside.
Hợp chất AI-8 thu được dưới dạng chất bột màu vàng. Các tín hiệu phổ 1H-
NMR và 13C-NMR của AI-8 hoàn toàn tương tự với các tín hiệu phổ của AI-7: ở
vùng thơm có sự xuất hiện các tín hiệu cộng hưởng của khung flavonoid và một
cấu tử galloyl, ở vùng trường cao hơn có sự xuất hiện của một cấu tử đường α-L-
rhamnopyranosyl. Các tín hiệu trên phổ HMBC của AI-8 cũng cho thấy có sự
tương tác giữa proton anomeric H-1'' (δH 5,55) với cacbon C-3 (δC 136,44) chứng
tỏ cấu tử đường được gắn vào khung flavonoid tại vị trí C-3. Tuy nhiên, khác với
hợp chất AI-7, ở hợp chất AI-8 phần cấu tử galloyl xác định được gắn vào vị trí C-
4'' của đường α-L-rhamnopyranosyl do trên phổ HMBC xuất hiện tương tác giữa
proton H-4'' (δH 4,90) với cacbon nhóm cacboxyl C-7''' (δC 167,95), C-5'' (δC
69,64) và cacbon nhóm metyl C-6'' (δC 17,20). Bên cạnh đó, phổ ESI-MS của AI-8
cho pic ion phân tử [M+H]+ tại m/z 617 cũng giống như của AI-7, tương ứng với
công thức phân tử C28H24O16. Các dữ liệu phổ trên hoàn toàn phù hợp với các dữ
liệu phổ trong tài liệu tham khảo [67], do đó hợp chất AI-8 được xác định là
desmathine-2.
Hợp chất AI-9 thu được dưới dạng chất bột màu vàng. Các tín hiệu trên phổ
1H-NMR của AI-9 gợi ý hợp chất này cũng có cấu trúc của một flavonoid
glucoside: hai tín hiệu doublet đặc trưng cho 2 proton H-6 và H-8 của vòng A tại
δH 6,20 (d, J = 1,6 Hz), 6,37 (d, J = 1,6 Hz), ba tín hiệu doublet đặc trưng cho ba
proton thơm tương tác kiểu ABX của vòng B thế 1, 3, 4 tại δH 7,35 (d, Jmeta = 1,6
Hz), 6,93 (d, Jocto = 8,0 Hz) và 7,32 (dd, Jocto và meta = 8,0/1,6 Hz); các tín hiệu
proton nằm trong vùng 3,35 – 4,23 ppm cùng với sự xuất hiện một tín hiệu doublet
của proton anomeric tại δH 5,35 (d, J = 1,2 Hz) và một tín hiệu singlet của nhóm
metyl tại δH 0,94 (3H, d, J = 6,0 Hz) đặc trưng cho một cấu tử đường α-L-
rhamnopyranosyl. Tương ứng, trên phổ 13C-NMR của AI-9 cho tín hiệu của 21
nguyên tử cacbon, bao gồm 15 cacbon của khung flavonoid và 6 cacbon của cấu
tử đường α-L-rhamnopyranosyl. Vị trí thế của cấu tử đường vào khung flavonoid
được xác định ở C-3 thông qua tương tác giữa proton anomeric H-1'' (δH 5,35) với
cacbon C-3 (δC136,21) trên phổ HMBC. Kết hợp các số liệu phổ trên với phổ khối
cho pic ion phân tử [M]+ tại m/z 450 (tương ứng với công thức phân tử C21H20O11),
đồng thời đối chiếu với tài liệu tham khảo [87], hợp chất AI-9 được xác định là
quercetin 3-O-α-L-rhamnopyranoside.
Hình 3.25: Cấu trúc hóa học của các hợp chất AI-6, AI-7, AI-8, AI-9, AI-10,
AI-11
Hợp chất AI-10 thu được dưới dạng bột màu vàng. Khác với các hợp chất
trên, phổ NMR của AI-10 gợi ý hợp chất này có cấu trúc khung flavan. Cụ thể,
trên phổ 1H-NMR có hai tín hiệu singlet của hai proton vòng thơm H-6 và H-8 của
vòng A tại δH 5,93 (2H, s), ba tín hiệu khác đặc trưng cho ba proton thơm của
vòng B thế 1, 3, 4 tại δH 6,90 (s, H-2'), 6,93 (d, J = 8,0 Hz, H-5') và 7,32 (d, J =
8,0 Hz, H-6'); ở phía trường cao hơn xuất hiện hai tín hiệu cộng hưởng tại H 4,95
(1H, m) và 5,49 (1H, m) đặc trưng cho hai proton của hai nhóm metin CH-2 và
CH-3 đứng cạnh nguyên tử oxi của khung flavan; hai tín hiệu cộng hưởng tại H
2,82 (d, J = 16,8 Hz, Ha-3) và 2,99 (dd, J = 4,5, 16,8 Hz, Hb-3) thể hiện sự có mặt
của một nhóm metylen. Trên phổ 1H-NMR của AI-10 còn ghi nhận một tín hiệu
singlet có cường độ tích phân bằng 2 proton kiểu AA' tại δH 6,92 (2H, s, H-2'', H-
6''), chứng tỏ trong cấu trúc của AI-10 còn có một vòng thơm bị thế bởi 4 vị trí và
có cấu trúc đối xứng. Phổ 13C-NMR và phổ DEPT của AI-10 xuất hiên 22 nguyên
tử cacbon, trong đó có 15 cacbon của khung flavan và 6 cacbon của một vòng
thơm khác cùng với một cacbon của nhóm cacbonyl tại δC 167,57 (C=O). Trên
phổ HMBC, nguyên tử cacbon của nhóm cacbonyl này có tương tác với proton H-
2'', H-6'' và với proton H-3 của khung flavan, chứng tỏ trong cấu trúc của AI-10 có
một cấu tử galloyl và được gắn vào vị trí C-3 của khung flavan. Phù hợp với các
dữ liệu phổ trên, phổ ESI-MS của AI-10 xuất hiện pic ion phân tử [M]+ tại m/z 458
tương ứng với công thức phân tử C22H18O11. Toàn bộ các dữ liệu phổ thu được của
AI-10 hoàn toàn trùng khớp với số liệu của tài liệu tham khảo [9], do đó hợp chất
AI-10 được xác định là 3-O-galloylepicatechin.
Hợp chất AI-11 thu được dưới dạng chất bột màu vàng. Các dữ liệu phổ
NMR của hợp chất AI-11 hoàn toàn tương tự như của hợp chất AI-10, điểm khác
biệt là ở hợp chất AI-11 xuất hiện thêm một nhóm metoxy tại δH 3,56/δC 56,2. Phổ
ESI-MS của AI-11 cho pic ion phân tử [M]+ tại m/z 472 tương ứng với công thức
phân tử C23H20O11, tức là hơn hợp chất AI-10 một đơn vị CH2. Trên phổ HMBC,
tương tác giữa proton nhóm metoxy (δH 3,56) với cacbon C-3' (149,32) chứng tỏ
nhóm metoxy được gắn vào vị trí C-3' của khung flavan. Đối chiếu các dữ liệu
phổ trên với các số liệu của tài liệu tham khảo [9] thấy có sự trùng khớp, do đó
hợp chất AI-11 được xác định là 3-O-galloyl-3'-methoxyepicatechin.
Hợp chất AI-12 thu được dưới dạng tinh thể màu trắng. Trên phổ 1H-NMR
của chất AI-12 chỉ thấy xuất hiện một tín hiệu singlet duy nhất của hai proton
thơm tại δH 7,00 (2H, s), gợi ý sự có mặt của một vòng benzene đã bị thế tại bốn vị
trí. Trên phổ 13C-NMR của chất AI-12 cho thấy có 6 nguyên tử cacbon thơm bao
gồm hai nhóm methine và bốn cacbon bậc bốn, ngoài ra còn có một cacbon của
nhóm cacboxyl tại δC 173,60 (C-7). Phổ ESI-MS của AI-12 cho pic ion phân tử tại
m/z 171 [M+H]+ tương ứng với công thức phân tử C7H6O5. Từ các dữ liệu phổ thu
được, kết hợp với việc đối chiếu với các dữ liệu của tài liệu tham khảo [94], hợp
chất AI-12 được xác định là axit gallic. Hợp chất này cũng đã được tìm thấy có
trong một số loài Ardisia như A. balansana [5], A. elliptica [58], A. compressa
[79], A. colorata [31] và đã được chứng minh có các hoạt tính kháng sinh, gây độc
tế bào và chống oxi hóa.
Hợp chất AI-13 thu được dưới dạng bột màu trắng. Phổ 1H-NMR và 13C-
NMR của hợp chất AI-13 có dạng tương tự như của hợp chất AI-12 (axit gallic),
ngoại trừ sự xuất hiện thêm một nhóm metoxy tại δH 3,32 (3H, s, OMe)/δC 49,83,
chứng tỏ hợp chất AI-13 là dẫn xuất metyl este của AI-12. Phổ khối lượng ESI-
MS của chất AI-13 cho pic ion phân tử [M+H]+ tại m/z 185, chứng tỏ công thức
phân thử của hợp chất AI-13 được xác định là C8H8O5, tức là nhiều hơn hợp chất
AI-12 một nhóm CH2. Từ các dữ liệu phổ thu được, đối chiếu với số liệu tỏng tài
liệu tham khảo [94], hợp chất AI-13 được xác định là metyl gallat. Hợp chất metyl
gallat cũng đã được tìm thấy ở loài A. balansana [5] và có các hoạt tính chống ôxi
hóa, gây độc tế bào, kháng virut HIV [42, 88].
Hình 3.26: Cấu trúc hóa học của các hợp chất AI-12, AI-13, AI-14
Hợp chất AI-14 thu được dưới dạng chất bột màu trắng. Trên phổ 1H-NMR
và 13C-NMR của AI-14 chỉ ra các tín hiệu của một cấu tử đường β-D-
glucopyranosyl, một nhóm metyl bậc hai, ba nhóm metyl bậc ba, hai nhóm
metylen, hai nhóm metin có gắn với nhóm hydroxyl, một nối đôi cấu hình trans,
hai cacbon bậc bốn có gắn với nhóm hydroxyl cùng với một cacbon bậc bốn khác.
Sự xuất hiện của các nhóm chức này gợi ý hợp chất AI-14 có cấu trúc của một
megastigmane glucoside [69]. Cụ thể, trên phổ 1H-NMR cho thấy sự có mặt của
cấu tử đường β-D-glucopyranoside thông qua sự xuất hiện của một proton
anomeric tại δH 4,38 (1H, d, J = 8,0 Hz, H-1'), hai proton của nhóm metylen tại δH
3,65 (dd, J = 5,0, 12,0 Hz, Ha-6'), 3,82 (d, J = 12,0 Hz, Hb-6') cùng các tín hiệu
của bốn proton nhóm oximetin tại δH 3,12 – 3,31 ppm. Các tín hiệu của phần cấu
trúc aglycon bao gồm một nhóm metyl bậc hai tại δH 1,25 (3H, d, J = 6,4 Hz, H-
10); ba tín hiệu của ba nhóm metyl bậc ba tại δH 0,86 (3H, s, H-11), 1,20 (3H, s,
H-12), 1,08 (3H, s, H-13); hai tín hiệu của hai nhóm metylen tại δH 1,57 (1H, m,
Ha-2), 1,73 (1H, m, Hb-2), 1,74 (1H, m, Ha-4), 1,94 (1H, m, Hb-4), hai tín hiệu của
hai nhóm metin gắn với nhóm hydroxyl tại δH 4,18 (1H, m, H-3) và 4,32 (1H, m,
H-9) cùng với hai proton của một liên kết đôi cấu hình trans tại δH 6,03 (d, J =
16,0 Hz, H-7), 5,76 (d, J = 5,6, 16,0 Hz, H-8). Phổ 13C-NMR và DEPT của AI-14
chỉ ra sự xuất hiện của 19 nguyên tử cacbon của phần khung megastigmane và của
một cấu tử đường. Ngoài ra, trên phổ HMBC chỉ ra mối tương tác giữa proton
anomeric H-1' (δH 4,38) với C-3 (δC 73,4) chứng tỏ cấu tử đường β-D-
glucopyranoside được gắn vào vị trí C-3 của phần aglycon. Bên cạnh đó, phổ khối
lượng EI-MS của hợp chất AI-14 cho pic ion giả phân tử [M]+ tại m/z 406 tương
ứng với công thức phân tử C19H34O9. Từ các dữ liệu phổ thu được, kết hợp đối
chiếu với tài liệu tham khảo [8], hợp chất AI-14 được xác định là (3S, 5R, 6R, 7E,
9S)-megastigman-7-ene-3,5,6,9-tetrol 3-O-β-D-glucopyranoside. Đây là lần đầu
tiên hợp chất AI-14 được phân lập từ chi Ardisia.
3.1.4. Xác định cấu trúc hoá học của các chất phân lập được từ loài cơm
nguội thắm (Ardisia incarnata)
Hợp chất AInc-1 thu được dưới dạng chất bột màu vàng. Khối lượng phân
tử của AInc-1 được xác định là C21H20O12 thông qua sự xuất hiện của pic ion giả
phân tử [M+H]+ tại m/z 464,38 trên phổ khối lượng ESI-MS. Các số liệu phổ 1H-
NMR và phổ 13C-NMR của AInc-1 hoàn toàn tương tự với các dữ liệu phổ của
các hợp chất AS-2 và AI-6, do đó hợp chất AInc-1 được xác định là myricitrin.
Hợp chất AInc-2 thu được dưới dạng chất bột màu vàng. Khối lượng phân
tử của AInc-2 được xác định là C21H20O11 thông qua sự xuất hiện của pic ion giả
phân tử [M+H]+ tại m/z 448,30 trên phổ khối lượng ESI-MS. Các dữ liệu phổ 1H-
NMR và 13C-NMR của AInc-2 rất giống với các dữ liệu phổ của myricitrin
(AInc-1) ngoại trừ có sự khác biệt tại vòng B: ba tín hiệu proton thơm đặc trưng
của vòng B bị thế tại ba vị trí 1, 3 và 4 tại δH 7,31 (1H, d, Jmeta = 2,0 Hz, H-2′),
6,88 (1H, d, Jortho = 8,0 Hz, H-5′) và 7,28 (1H, dd, Jortho and meta = 8,0, 2,0 Hz, H-
6′) ở hợp chất AInc-2 xuất hiện thay thế cho hai tín hiệu singlet tại δH 6,93 (2H, s,
H-2 ', H-6') ở hợp chất AInc-1. Đối chiếu các dữ liệu phổ thu được của AInc-2
với tài liệu tham khảo [87] thấy có sự trùng khớp, do đó hợp chất AInc-2 được
xác định là quercitrin.
Hình 3.27: Cấu trúc hóa học của các hợp chất AInc-1, AInc-2, AInc-3, AInc-4,
AInc-5, AInc-6, AInc-7, AInc-8
Hợp chất AInc-3 thu được dưới dạng chất bột màu vàng. Dữ liệu phổ 1D-
NMR, 2D-NMR cho thấy có sự giống nhau với các hợp chất AInc-1 và AInc-2 ở
các tín hiệu vòng thơm của khung flavonoid và các tín hiệu của đường α-L-
rhamnopyranosyl. Phổ 1H-NMR hợp chất AInc-3 xuất hiện tín hiệu của 2 proton
vòng thơm bị thế ở 4 vị trí tại δH 6,18 (1H, d, J = 1,6 Hz, H-6 ), 6,37 (1H, d, J =
1,6 Hz, H-8) vòng A và bốn proton vòng thơm bị thế ở vị trí para tại δH 7,74 (2H,
d, J = 8,0 Hz, H-2', H-6' ), 6,93 (1H, d, J = 8Hz, H-3', H-5') của vòng C, ngoài ra
tín hiệu của phân tử đường cũng được xác định khi tín hiệu của một proton
anomeric xuất hiện tại δH 5,33 (1H, d, J = 1,5 Hz), tín hiệu của proton của nhóm
metyl tại δH 0,94 (d, J = 5,5 Hz) và các tín hiệu của các nhóm oximetin xuất hiện
tại vùng δH 3,34-4,26 ppm. Dữ liệu phổ 13C-NMR phù hợp với phổ 1H-NMR khi
xuất hiện nhiều cacbon thơm có gắn với nhóm hydroxyl, một nhóm cacboxyl tại
δC 179,46 (C-4), một nhóm metyl tại δC 17,61 (C-6"). Xem xét trên phổ HMBC
thấy có tương tác giữa proton anomeric H-1" tại δH 5,39 với cacbon C-3 tại δC
136,23, chứng tỏ cấu tử đường được gắn vào vị trí C-3 của khung flavonoid. Các
dữ liệu phổ NMR trên phù hợp với phổ khối khi cho pic ion giả phân tử [M-H]- tại
m/z 431 tương ứng với công thức phân tử C21H20O10. Kết hợp với tài liệu tham
khảo [41], hợp chất AInc-3 được xác định là afzeline.
Hợp chất AInc-4 thu được dưới dạng chất bột vô định hình. Phổ 1H-NMR và
13C-NMR của hợp chất AInc-4 có dạng hoàn toàn tương tự với phổ của hợp chất
AS-10 đã được phân lập từ cây cơm nguội rạng (Ardisia splendens) ở trên. Do đó
hợp chất AInc-4 được xác định là 3S, 5R, 6R, 9S-tetrahydroxymegastigman-7-ene.
Hợp chất AInc-5 thu được dưới dạng chất bột màu trắng. Khối lượng phân tử
của AInc-5 được xác định là C19H34O9 thông qua sự xuất hiện của pic ion giả phân
tử [M+H]+ tại m/z 406,47 trên phổ ESI-MS. Phổ 1H-NMR của AInc-5 cho thấy sự
xuất hiện ba tín hiệu singlet tại δH 0,86, 1,09 và 1,20 của ba nhóm metyl bậc ba
gắn tại các vị trí C-12, C-11 và C-13, tương ứng; một tín hiệu doublet tại δH 1,25
(1H, d, J = 6,4 Hz) của một nhóm metyl bậc hai gắn vào vị trí C-10. Về phía
trường thấp hơn trên phổ 1H-NMR có sự xuất hiện của các tín hiệu của các nhóm
oximetin tại δH 3,81 (1H, m, H-3) và 4,31 (1H, m, H-9), hai proton của một liên
kết đôi cấu hình trans tại δH 6,03 (1H, d, J = 16,0 Hz, H-7) và 5,76 (dd, J = 5,6,
16.0 Hz, H-8), cùng với một cấu tử đường β-D-glucopyranosyl với các tín hiệu
của các nhóm oximetin tại δH 3,12-3,82 (5H, m) và một tín hiệu doublet của proton
anomeric tại δH 4,38 (1H, d, J = 8,0 Hz, H-1'). Tương ứng, phổ 13C-NMR của
AInc-5 chỉ ra sự có mặt của 19 cacbon, trong đó có hai cacbon của liên kết đôi
ngoài vòng thơm tại δC 130,93 và 136,11, hai cacbon có gắn với oxi tại δC 69,56
(C-9) và 73,18 (C-3), một cacbon anomeric tại δC 102,16 và năm cacbon có gắn
với oxi tại δC 75,66, 77,70, 71,57, 77,82, 62,67 đã khẳng định sự có mặt của cấu tử
đường trong cấu trúc của AInc-5. Hằng số tương tác lớn của proton anomeric (8,0
Hz) chứng tỏ cấu tử đường D-glucose có cấu hình β (Stephen et al., 1977). Từ các
dữ kiện phổ thu được, phần aglycon của hợp chất AInc-5 được xác định có cấu
trúc khung megastiman. Trên phổ HMBC, tương tác giữa proton anomeric H-1'
(δH 4,38) với cacbon C-9 (δC 69,56) chứng tỏ phần cấu tử đường β-D-
glucopyranosyl được gắn vào vị trí C-9 của khung megastigman. Các dữ liệu phổ
của AInc-5 hoàn toàn trùng khớp với các số liệu phổ của hợp chất AI-14 và phù
hợp với số liệu trong tài liệu tham khảo [8], do đó hợp chất AInc-5 được xác định
là (3S,5R,6R,7E,9S)-megastigman-7-ene-3,5,6,9-tetrol 3-O-β-D-glucopyranoside.
Hợp chất AInc-6 thu được dưới dạng gel. Phổ 1H-NMR và phổ 13C-NMR
của hợp chất AInc-6 có dạng hoàn toàn tương tự như phổ của hợp chất AS-12, do
đó hợp chất AInc-6 được xác định là (2S)-3-O-(9, 12, 15-octadecatrienoyl)-
glyceryl-β-D-galactopyranoside.
Hợp chất AInc-7 thu được dưới dạng chất bột không màu có nhiệt độ nóng
chảy 126-128 oC. Các số liệu phổ 1H-NMR và 13C-NMR thu được cho thấy hợp
chất này có cấu trúc dạng vòng trimetyl-bicyclo[2,2,1] heptandiol và hoàn toàn
tương tự với phổ của hợp chất AB-1. Phổ khối lượng ESI-MS của hợp chất AInc-
7 cho pic ion giả phân tử [M+H]+ tại m/z 170 tương ứng với công thức phân tử
C10H18O2. Do đó, hợp chất AInc-7 được xác định là angelicoidenol.
Hợp chất AInc-8 thu được dưới dạng tinh thể hình kim màu trắng, nhiệt độ
nóng chảy 237 - 238 oC. Trên phổ 1H-NMR xuất hiện duy nhất một tín hiệu singlet
ở vùng thơm tại δH 7,079 (2H, s), cho thấy hợp chất AInc-8 có chứa vòng thơm bị
thế ở 4 vị trí có trục đối xứng. Trên phổ 13C-NMR xuất hiện tín hiệu cộng hưởng
của 6 nguyên tử cabon thuộc vòng thơm bao gồm 2 nhóm metin và 4 cacbon bậc
bốn, bên cạnh đó có một tín hiệu cộng hưởng của một nguyên tử cacbon thuộc
nhóm cacbonyl tại δC 170,4 (C-7). Tín hiệu cộng hưởng của CH tại δC 110,3 (C-2,
C-6) và của cacbon bậc bốn tại δC 146,3 (C-3, C-5) có cường độ pic cao gấp đôi
các tín hiệu cộng hưởng khác, điều này khẳng định hợp chất AInc-8 chứa một
vòng thơm bị thế ở 4 vị trí có trục đối xứng, trong đó có một nhóm thế cacboxyl.
Các dữ liệu phổ NMR trên hoàn toàn phù hợp với dữ liệu phổ của các hợp chất
AB-2 và AI-12, do vậy hợp chất AInc-8 được xác định là axit gallic.
3.2. Thử hoạt tính sinh học của các chất phân lập được
Một số hợp chất phân lập được đã được tiến hành thử hoạt tính sinh học
(kháng nấm, kháng khuẩn, kháng virut, gây độc tế bào). Kết quả được đưa ra trong
các Bảng 14, 15, 16, 17 dưới đây.
3.2.1. Hoạt tính kháng nấm, kháng khuẩn
Một số chất phân lập được đã được thử hoạt tính kháng nấm, kháng khuẩn.
Kết quả được đưa ra trong Bảng 3.9 dưới đây.
Bảng 3.9: Hoạt tính kháng nấm, kháng khuẩn của một số hợp chất phân lập
được
S
T
T
Tên
mẫu
thử
Giá trị MIC (µg/ml)
VK Gram (-) VK Gram (-) Nấm mốc Nấm men
E.
coli
P.
earugino
sa
B.
subtil
is
S.
aure
us
A.
niger
F.
oxyspor
um
C.
albica
ns
S.
serevisi
ae
1 AB-4 - - - - - - - -
2 AB-6 200 - - - 200 - - -
3 AS-3 200 - 200 - - - 200 -
4 AS-11 - - - - - - - -
5 AI-2 - - - - - - - -
6 AI-3 - - - - 200 - - -
7 AInc-1 - 200 - - 200 - 200 -
8 AInc-2 - 200 - - - - 200 -
9 AInc-3 - 200 - - - - - -
Kết quả thu được trong Bảng 14 cho thấy: một số hợp chất như AB-6 (rutin),
AS-3 (desmanthin-1), AI-3 (norbergenin), AInc-1 (myricitrin), quercitrin (AInc-2),
afzeline (AInc-3) thể hiện có hoạt tính đối với một số chủng vi sinh vật kiểm
nghiệm với các giá trị MIC đều là 200 µg/ml.
3.2.2. Hoạt tính kháng virut Coxsackie A16
Virut Coxsackie A16 (CA16) thuộc loại virut đường ruột ở người, là tác
nhân gây bệnh chân tay miệng, một loại bệnh truyền nhiễm thường xảy ra ở trẻ em,
thường xuất hiện ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, gây ra một số biến chứng
và có thể gây tử vong [12]. Vào năm 2012, Trung Quốc ghi nhận có tổng số
2.198.442 trường hợp mắc bệnh chân tay miệng, trong đó chủ yếu do virut CA16
gây ra. Ngoài ra, một số nghiên cứu ghi nhận rằng, các bệnh nhân bị nhiễm virut
CA16 cũng có thể phát triển các biến chứng nghiêm trọng, như viêm não, viêm cơ
tim, viêm phổi và cuối cùng có thể dẫn đến tử vong [89]. Tuy nhiên, cho tới nay
chưa có vắc xin hoặc thuốc để ngăn chặn hoặc điều trị các bệnh nhiễm virut CA16.
Kết quả thử hoạt tính kháng virut CA16 của một số chất phân lập được từ chi
Cơm nguội (Ardisia) được đưa ra trong Bảng 3.10.
Bảng 3.10: Hoạt tính kháng virut của một số hợp chất phân lập được
STT Ký hiệu
chất
Tên hợp chất IC50 (µM)
1 AS-2
(AInc-1)
Myricitrin 40,1
2 AS-3 Desmanthin-1 32,2
3 AS-11 Corilagin 30,5
Các kết quả thu được trong Bảng 15 cho thấy: các hợp chất myricitrin,
desmanthin-1, corilagin đều có hoạt tính ức chế virut CA16 với các giá trị IC50
tương ứng là 40,1, 32,2 và 30,5 µM.
3.2.3. Hoạt tính gây độc tế bào
Một số hợp chất phân lập được đã được thử hoạt tính gây độc tế bào trên một
số dòng tế bào ung thư: KB (ung thư biểu mô), LU-1 (ung thư phổi), MCF7 (ung
thư vú), HepG2 (ung thư gan) và LNCaP (ung thư tuyến tiền liệt), A-549 (ung thư
phổi), HT-29 (ung thư đại tràng) và OVCAR (ung thư buồng trứng). Kết quả được
đưa ra trong Bảng 3.11 và 3.12 dưới đây.
Bảng 11: Hoạt tính gây độc tế bào của một số hợp chất phân lập được
Ký hiệu
chất
Tên
chất
Relative cell viability (%)
A-549 HT-29 OVCAR
AI-1 14,6±3,1 21,7±5,3 16,2±2,8
AI-2 94,4±8,2 92,7±5,9 97,0±6,7
AI-3 94,4±7,4 87,5±6,2 99,9±6,6
AI-4 99,3±12,4 97,9±9,9 80,8±5,5
AI-5 65,6±10,4 88,9±7,3 76,7±4,5
AI-6 71,5±5,7 73,4±5,6 93,6±3,6
AI-7 76,2±4,5 86,4±7,2 89,0±2,1
AI-8 53,1±5,6 69,3±3,9 59,4±9,7
AI-9 66,4±8,8 76,0±5,4 69,7±12,1
AI-10 99,2±5,3 98,8±8,9 91,4±6,1
AI-11 43,3±2,6 56,2±6,4 48,8±4,6
AI-12 79,7±6,6 65,9±7,1 81,8±8,7
AI-13 91,5±7,5 83,7±5,8 82,3±4,3
Bảng 3.12: Hoạt tính gây độc tế bào của một số hợp chất phân lập được
STT Tên mẫu Giá trị IC50 (µg/ml)
KB LU-1 HepG2 LNCaP MCF7
1 AB-4 >100 >100 >100 >100 >100
2 AB-6 >100 >100 >100 >100 >100
3 AS-3 62,12 76,48 67,89 81,57 >100
4 AS-11 57,8 85,97 >100 >100 >100
5 AI-2 >100 >100 >100 >100 >100
6 AI-3 53,37 57,99 >100 >100 32,09
7 AInc-1 48,96 52,45 49,95 48,79 81,92
8 AInc-2 >100 >100 68,92 75,83 >100
9 AInc-3 >100 >100 >100 >100 >100
10 Elippticine 1,13 0,96 0,08 0,97 1,22
Các kết quả thu được trong Bảng 11 và Bảng 12 cho thấy: hợp chất mới
ardinsuloside (AI-1) thể hiện khả năng ức chế đối với các dòng tế bào A-549, HT-
29 và OVCAR với các giá trị IC50 tương ứng là 8,5, 16,4 và 13,6 μM. Hợp chất
myricitrin (AInc-1 hay AS-2) có hoạt tính trung bình đối với các dòng tế bào ung
thư thử nghiệm KB, LU-1, HepG2 và LNCaP. Các hợp chất còn lại không biểu
hiện có hoạt tính hoặc có hoạt tính yếu đối với một số dòng tế bào thử nghiệm.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Sau thời gian thực hiện đề tài luận án, đề tài đã thu được các kết quả như sau:
1. Về các kết quả nghiên cứu khoa học:
- Đã điều tra, thu hái và xác định tên khoa học của 9 loài thực vật chi Cơm
nguội (Ardisia) thuộc họ Đơn nem (Myrsinaceae) ở Việt Nam, bao gồm cơm
nguội nhu nhăn (A. pseudocrispa Pit.), cơm nguội Anh thảo (A. primulifolia
Gardn.), cơm nguội đuôi (A. caudata Hemsl.), cơm nguội Tsang (A. tsangii E.
Walker), cơm nguội thắm (A. incarnata Pitard), cơm nguội đốm (A. maculosa
Mez.), cơm nguội rạng (A. splendens Pit.), cơm nguội đảo (A. insularis Mez.) và
cơm nguội balansana (A. balansana).
- Đã tiến hành xử lý mẫu, tạo 9 cặn chiết metanol tổng của 9 mẫu thực vật
thu được để tiến hành sàng lọc hoạt tính kháng nấm, kháng khuẩn và gây độc tế
bào.
- Đã tiến hành sàng lọc hoạt tính kháng nấm, kháng khuẩn và hoạt tính gây
độc tế bào trên 05 dòng tế bào ung thư thử nghiệm là KB, LU-1, HepG2, LNCaP
và MCF7 của 9 mẫu cặn chiết metanol tổng thu được. Kết quả sàng lọc hoạt tính
cho thấy: một số loài cơm nguội như A. incarnata, A. insularis, A. pseudocrispa, A.
splendens, A. stangii và A. balansana có khả năng kháng lại một số chủng vi
khuẩn và chủng nấm thử nghiệm với các giá trị MIC là 200 µg/ml; loài cơm nguội
thắm (A. incarnata) thể hiện hoạt tính tốt nhất đối với cả 5 dòng tế bào ung thư thử
nghiệm với các giá trị IC50 nằm trong khoảng 5,26 – 12,63 µg/ml, các loài A.
insularis, A. splendens, A. balansana và A. stangii thể hiện hoạt tính trung bình
đối với 5 dòng tế bào thử nghiệm.
- Từ kết quả sàng lọc hoạt tính sinh học, đã tiến hành thu mẫu lượng lớn của
04 loài thực vật, bao gồm: cơm nguội thắm (Ardisia incarnata), cơm nguội
balansana (A. balansana), cơm nguội rạng (A. splendens) và cơm nguội đảo (A.
insularis) để tiến hành nghiên cứu về thành phần hóa học.
- Đã lần đầu tiên nghiên cứu về thành phần hóa học của các loài cơm nguội
thắm (Ardisia incarnata), cơm nguội balansana (A. balansana), cơm nguội rạng (A.
splendens) và cơm nguội đảo (A. insularis).
- Đã phân lập và xác định cấu trúc của 40 hợp chất sạch, trong đó có 02 hợp
chất mới lần đầu tiên phân lập được từ thiên nhiên. Cụ thể như sau:
+ Từ rễ cây cơm nguội balansana (Ardisia balansana), đã phân lập và xác định
cấu trúc của 6 hợp chất, bao gồm: angelicoidenol (AB-1), axit gallic (AB-2), metyl
gallate (AB-3), quercetin (AB-4), myricitrin (AB-5) và rutin (AB-6).
+ Từ lá cây cơm nguội rạng (Ardisia splendens), đã phân lập và xác định cấu trúc
của 12 hợp chất, bao gồm myricetin 3,7-di-O-α-L-rhamnopyranoside (AS-1) và 11
hợp chất đã biết khác là myricitrin (AS-2), desmanthin-1 (AS-3), myricetin 3-O-
(3"-O-galloyl)α-L-rhamnopyranoside (AS-4), quercetin 3,-O-α-L-
rhamnopyranoside (AS-5), quercetin 3,7-di-O-α-L-rhamnopyranoside (AS-6),
(+)-catechin (AS-7), benzyl O-β-D-glucopyranoside (AS-8), 2-phenylethyl O-β-D-
glucopyranoside (AS-9), 3S, 5R, 6R, 9S-tetrahydroxymegastigman-7-ene (AS-10),
corilagin (AS-11) và (2S)-3-O-(9, 12, 15-octadecatrienoyl)-glyceryl-β-D-
galactopyranoside (AS-12). Trong số đó, hợp chất AS-1 là hợp chất mới lần đầu
tiên được tìm thấy trong thiên nhiên; các hợp chất AS-8, AS-9, AS-10, AS-11
và AS-12 lần đầu tiên được phân lập từ cho Cơm nguội (Ardisia).
+ Từ lá cây cơm nguội đảo (Ardisia insularis), đã phân lập và xác định cấu trúc
của 14 hợp chất, bao gồm: ardinsuloside (AI-1), 04 dẫn xuất bergenin (bergenin
(AI-2), norbergenin (AI-3), demethoxybergenin (AI-4), 4-O-galloylbergenin (AI-
5), 06 hợp chất flavonoid (myricitrin (AI-6), myricetin 3-O-(3″-O-galloyl)-α-L-
rhamnopyranoside (AI-7), desmanthine-2 (AI-8), quercetin 3-O-α-L-
rhamnopyranoside (AI-9), 3-O-galloylepicatechin (AI-10), 3-O-galloyl-3'-
methoxyepicatechin (AI-11), 02 hợp chất phenolic (axit gallic (AI-12), metyl
gallat (AI-13) và 01 dẫn xuất của megastigman là (3S, 5R, 6R, 7E, 9S)-
megastigman-7-ene-3,5,6,9-tetrol 3-O-β-D-glucopyranoside (AI-14). Trong số đó,
hợp chất AI-1 là hợp chất mới, lần đầu tiên được phân lập từ thiên nhiên.
+ Từ lá cây cơm nguội thắm (Ardisia incarnata), đã phân lập và xác định cấu trúc
của 8 hợp chất, bao gồm myricitrin (AInc-1), quercitrin (AInc-2), afzeline (AInc-
3), 3S, 5R, 6R, 9S-tetrahydroxymegastigman-7-ene (AInc-4), (3S,5R,6R,7E,9S)-
megastigman-7-ene-3,5,6,9-tetrol 3-O-β-D-glucopyranoside (AInc-5), (2S)-3-O-
(9,12,15-octadecatrienoyl)-glyceryl-β-D-galactopyranoside (AInc-6),
angelicoidenol (AInc-7) và axit gallic (AInc-8).
- Đã tiến hành thử hoạt tính sinh học của một số chất phân lập được. Kết quả
cho thấy, các hợp chất myricitrin (AInc-1), desmanthin-1 (AS-3) và corilagin (AS-
11) có hoạt tính kháng virut Coxsackie A16 (một loại virut gây bệnh chân tay
miệng ở trẻ em) với các giá trị IC50 tương ứng là 40,1, 32,2 và 30,5 µM; hợp chất
mới ardinsuloside (AI-1) thể hiện có khả năng ức chế đối với ba dòng tế bào ung
thư A-549, HT-29 và OVCAR với các giá trị tỉ lệ phần trăm tế bào sống sót nằm
trong khoảng 14,6 – 21,7 % ở nồng độ thử nghiệm là 100 μM; hợp chất myricitrin
(AInc-1, AS-2) có hoạt tính trung bình đối với một số dòng tế bào ung thư thử
nghiệm KB, HepG2, LU-1 và LNCaP.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Wikipedia, the free encyclopedia: en.wikipedia.org/wiki/iridaceae
2. Phạm Hoàng Hộ (1999), Cây cỏ Việt Nam, Nhà xuất bản trẻ, Quyển 1, p.
674-710
3. Đỗ Tất Lợi (2001), Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, Nhà xuất bản y
học, p. 129, 167, 265, 481.
4. Võ Văn Chi (1997), Từ điển cây thuốc Việt Nam, Nhà xuất bản y học, p.
244, 315, 623, 1271.
5. Lưu Tuấn Anh, Nguyễn Thị Hồng Vân, Vũ Đình Hoàng, Trịnh Anh Viên,
Phạm Quốc Long (2013), Preliminary study on the chemical constituents of
Ardisia balansana belonging to the family Myrsinaceae in Vietnam, Tạp
chí Hóa học, 51 (6ABC), p. 99-102.
6. Nguyễn Thị Hồng Vân, Lưu Tuấn Anh, Trịnh Anh Viên, Vũ Đình Hoàng,
Nguyễn Mạnh Cường, Phạm Quốc Long (2013), Một số hợp chất flavonoid
phân lập từ cây cơm nguội balansa (Ardisia balansana), Tạp chí Hóa học,
51(6ABC), tr. 103 - 106.
7. Nguyễn Thị Hồng Vân, Lưu Tuấn Anh, Trịnh Anh Viên, Vũ Đình Hoàng,
Nguyễn Mạnh Cường, Phạm Quốc Long (2013). Một số hợp chất flavonoid
phân lập từ cây cơm nguội balansa (Ardisia balansana), Tạp chí Hóa học,
51(6ABC): p. 103-106.
8. Ahmad, S.-A., Catalano, S., Marsili, A., Morelli, I., Scartoni, V. (1977),
Chemical examination of the leaves of Ardisia solanacea, Planta Med., 32,
p. 162-164.
9. Aihara Y., Yoshida A., Furuta T., Wakimoto T., Akizawa T., Konishi M.,
Kan T. (2009), Regioselective synthesis of methylated epigallocatechin
gallate via nitrobenzenesulfonyl (Ns) protecting group, Bioorganic &
Medicinal Chemistry Letters, 19, p. 4171-4174.
10. B. H. Kroes, Quarles van Ufford, H. van Dijk, R. P. Labadiel (1992), Anti-
inflammatory activity of gallic acid, Planta Med, 58 (6), p. 499-504.
11. Bao, L., Wang, M., Zhao, F., Zhao, Y., & Liu, H. (2010). Two new
resorcinol derivatives with strong cytotoxicity from the roots of Ardisia
brevicaulis Diels. Chem Biodivers, 7(12), 2901-2907.
12. Cai Y, Liu Q, Huang X, Li D, Ku Z, Zhang Y, Huang Z. (2013), Active
immunization with a Coxsackievirus A16 experimental inactivated vaccine
induces neutralizing antibodies and protects mice against lethal infection.
Vaccine, 31, p. 2215-2221.
13. Cai Y., Evans F.J., Roberts M.F., Phillipson J.D., Zenk M.H., Gleba Y.Y.
(1991), Polyphenolic compounds from Croton lechleri, Phytochemistry, 30,
p. 2033-2040.
14. Cateni F., Falsone G., Zilic, J., Sosa S., Altinier G. (2004),
Glyceroglycolipids from Euphorbia nicaeensis All. with antiinflamatory
activity, Arkivoc., V, p. 54-65.
15. Chandra S, D. M. G. E. (2004). Polyphenolic compounds, antioxidant
capacity, and quinone reductase activity of an aqueous extract of Ardisia
compressa in comparison to mate ( Ilex paraguariensis) and green
(Camellia sinensis) teas. J Agric Food Chem, 52(11), 3583-3589.
16. Chang, C. P., Chang, H. S., Peng, C. F., Lee, S. J., & Chen, I. S. (2011).
Antitubercular resorcinol analogs and benzenoid C-glucoside from the roots
of Ardisia cornudentata. Planta Med, 77(1), 65.
17. Chang, X., Li, W., Jia, Z., Satou, T., Fushiya, S., & Koike, K. (2007).
Biologically active triterpenoid saponins from Ardisia japonica. J Nat Prod,
70(2), 179-187.
18. Chen, L. P., Zhao, F., Wang, Y., Zhao, L. L., Li, Q. P., & Liu, H. W. (2011).
Antitumor effect of resorcinol derivatives from the roots of Ardisia
brevicaulis by inducing apoptosis. J Asian Nat Prod Res, 13(8), 734-743.
19. Ching J, C. T., Chin LC, Lau AJ, Pang YK, Jaya JM, Tan CH, Koh HL.
(2010). 3-amyrin from Ardisia elliptica Thunb. is more potent than aspirin
in inhibiting collagen-induced platelet aggregation. Indian J Exp Biol, 48(3),
275-279.
20. Chikako Masuoka, M. O., Yasuyuki Ito, Toshihiro Nohara (2003),
Antioxidative, antihyaluronidase and antityrosinase activities of some
constituents from the aerial part of Piper elongatum”, Food Sci. Technol.
Res, 9(2), p. 197-201.
21. Cinthia J.M. Kane, J. H. M., Yun -Chi Yeh. (1988), Methyl gallate, methyl
3,4,5-trihydroxy benzoate, is a potent and highly specific inhibitor of
herpes simplex virus in vitro. I. Purification and characterization of methyl
gallate from Sapium sepiferum, Bioscience reports, 8 (1), p. 84-94.
22. D. K. Patel, K. Patel, R. Kumar, M. Gadewar, V. Tahilyani (2012),
Pharmacological and analytical aspects of bergenin: a concise report. Asian
Pacific Journal of Tropical Biomedicin, p. 163-167.
23. Dai-Lin Liu, N.-L. W., Xue Zhang, Xin-Sheng Yao. (2011). Three New
Triterpenoid Saponins from Ardisia crenata. Helvetica Chimica Acta, 94(4),
693-702.
24. Dai Y., Zhou G.X., Yao X.S. (2009), A biphenyl glycoside from
Pyracantha fortuneana Natural Product Research: Formerly Natural
Product Letters, 23 (13), p.1163-1167.
25. de Mejia, E. G., & Ramirez-Mares, M. V. (2011). Ardisia: health-
promoting properties and toxicity of phytochemicals and extracts. Toxicol
Mech Methods, 21(9), 667-674.
26. De Tommasi, N., Piacente, S., De Simone, F., Pizza, C., & Zhou, Z. L.
(1993). Characterization of three new triterpenoid saponins from Ardisia
japonica. J Nat Prod, 56(10), 1669-1675.
27. Eldahshan, O. A. (2011), Isolation and structure elucidation of phenolic
compounds of Carob leaves grown in Egypt, Current Research Journal of
BiologicalSciences, 3(1), p. 52-55.
28. Fukuyama, Y., Kiriyama, Y., Okino, J., Kodama, M., Iwaki, H., Hosozawa,
S., & Matsui, K. (1993). Naturally occurring 5-lipoxygenase inhibitor. II.
Structures and syntheses of ardisianones A and B, and maesanin, alkenyl-
1,4-benzoquinones from the rhizome of Ardisia japonica. Chem Pharm
Bull (Tokyo), 41(3), 561-565.
29. Gong, Q. Q., Mu, L. H., Liu, P., Yang, S. L., Wang, B., & Feng, Y. L.
(2010). New triterpenoid sapoin from Ardisia gigantifolia Stapf. Chinese
Chemical Letters, 21(4), 449-452.
30. Gunawan-Puteri M. D. P. T., Kawabata J. (2010), Novel α-glucosidase
inhibitors from Macaranga tanarius leaves, Food Chem., 123, p. 384-389.
31. Hsu FL., Huang WJ., Wu TH., Lee MH., Chen LC., Lu HJ., Hou WC., Lin
MH. (2012), Evaluation of antioxidant and free radical scavenging
capacities of polyphenolics from pods of Caesalpinia pulcherrima, Int. J.
Mol. Sci., 13(5), p. 6073-6088.
32. Huang, J., Ogihara, Y., Zhang, H., Shimizu, N., & Takeda, T. (2000a).
Ardisimamillosides C-F, four new triterpenoid saponins from Ardisia
mamillata. Chem Pharm Bull (Tokyo), 48(10), 1413-1417.
33. Huang, J., Ogihara, Y., Zhang, H., Shimizu, N., & Takeda, T. (2000b).
Triterpenoid saponins from Ardisia mamillata. Phytochemistry, 54(8), 817-
822.
34. Huang, J., Zhang, H., Shimizu, N., & Takeda, T. (2003).
Ardisimamillosides G and H, two new triterpenoid saponins from Ardisia
mamillata. Chem Pharm Bull (Tokyo), 51(7), 875-877.
35. Hisashi M., Toshio M., Iwao T., Masayuki Y. (2002), Structural
requirements of flavonoids and related compounds for aldose reductase
inhibitory activity, Chem. Pharm. Bull., 50(6), p. 788 - 795.
36. Jia, Z., Koike, K., Nikaido, T., & Ohmoto, T. (1994). Two novel
triterpenoid pentasaccharides with an unusual glycosyl glycerol side chain
from Ardisia crenata. Tetrahedron, 50(41), 11853-11864.
37. Jia, Z., Koike, K., Nikaido, T., Ohmoto, T., & Ni, M. (1994). Triterpenoid
saponins from Ardisia crenata and their inhibitory activity on cAMP
phosphodiesterase. Chem Pharm Bull (Tokyo), 42(11), 2309-2314.
38. Jia, Z., Koike, K., Ohmoto, T., & Ni, M. (1994). Triterpenoid saponins
from Ardisia crenata. Phytochemistry, 37(5), 1389-1396.
39. Jia, Z., Mitsunaga, K., Koike, K., Ohmoto, T. (1995). New bergenin
derivatives from Ardisia crenata. Natural Medicines, 49, 187-189.
40. Kashif Ali, M. I., Henrie A. A. J. Korthout, Federica Maltese, Ana
Margarida Fortes, Maria Salome´ Pais, Robert Verpoorte,Young Hae Choi
(2012), NMR spectroscopy and chemometrics as a tool for anti-TNFα-
activity screening in crude extracts of grapes and other berries,
Metabolomics, 8, p. 1148–1161.
41. Kaouadji M. (1990), Acylated and non-acylated kaempferol
monoglycosides from Plantanus acerifloria, Phytochemistry, 29, p. 2295-
2297.
42. Khurana S., Hollingsworth A., Piche M., Venkataraman K., Kumar
A., Ross GM., Tai TC. (2014), Antiapoptotic actions of methyl gallate on
neonatal rat cardiac myocytes exposed to H2O2, Oxid. Med. Cell Longev.,
Epub 2014 Jan 12.
43. Ki H. K., Kyu H. L., Sang U. C., Young H. K. (2008), Terpene and
phenolic constituents of Lactuca indica L., Arch. Pharm. Res, 31 (8), p.
983-988.
44. Kikuchi, H., Ohtsuki, T., Koyano, T., Kowithayakorn, T., Sakai, T., &
Ishibashi, M. (2009). Death receptor 5 targeting activity-guided isolation of
isoflavones from Millettia brandisiana and Ardisia colorata and evaluation
of ability to induce TRAIL-mediated apoptosis. Bioorg Med Chem, 17(3),
1181-1186.
45. Kiem PV, Mai NT, Minh CV, Khoi NH, Dang NH, Thao NP, Cuong NX,
Nam NH, Nhiem NX, Heyden YV, Joëlle QL, Kim GN, Jang HD, Kim YH.
(2010), Two new C-glucosyl benzoic acids and flavonoids from Mallotus
nanus and their antioxidant activity, Archives of Pharmacal. Research, 33,
p. 203-208.
46. Kobayashi, H., & de Mejía, E. (2005). The genus Ardisia: a novel source of
health-promoting compounds and phytopharmaceuticals. J Ethnopharmacol,
96(3), 347-354.
47. Koike, K., Jia, Z., Ohura, S., Mochida, S., & Nikaido, T. (1999). Minor
triterpenoid saponins from Ardisia crenata. Chem Pharm Bull (Tokyo),
47(3), 434-435.
48. Li, C., Yue, D. K., Bu, P. B., & Sun, Y. F. (2006). Three new
belamcandaquinones from Ardisia punctata. Yao Xue Xue Bao, 41(9), 830-
834.
49. Li, M., Wei, S. Y., Xu, B., Guo, W., Liu, D. L., Cui, J. R., & Yao, X. S.
(2008). Pro-apoptotic and microtubule-disassembly effects of ardisiacrispin
(A+B), triterpenoid saponins from Ardisia crenata on human hepatoma
Bel-7402 cells. J Asian Nat Prod Res, 10(7-8), 739-746.
50. Li-Hua Mu, Ju-Qiang Feng, Ping Liu (2014), A new bergenin derivative
from the rhizome of Ardisia gigantifolia. Natural Product Research:
Formerly Natural Product Letters, 27:14, p. 1242-1245.
51. Li, Q., Li, W., Hui, L.-P., Zhao, C.-Y., He, L., & Koike, K. (2012). 13,28-
Epoxy triterpenoid saponins from Ardisia japonica selectively inhibit
proliferation of liver cancer cells without affecting normal liver cells.
Bioorg Med Chem Lett, 22(19), 6120-6125.
52. Li, Y. F., Hu, L. H., Lou, F. C., Li, J., & Shen, Q. (2005). PTP1B inhibitors
from Ardisia japonica. J Asian Nat Prod Res, 7(1), 13-18.
53. Li, Y. F., Li, J., Shen, Q., & Hu, L. H. (2007). Benzoquinones from Ardisia
japonica with inhibitory activity towards human protein tyrosine
phosphatase 1B (PTP1B). Chem Biodivers, 4(5), 961-965.
54. Lim, H.-K., Kim, H.-S., Choi, H.-S., Oh, S., Choi, J. (2000).
Hepatoprotective effects of bergenin, a major constituents of Mallotus
japonicus, on carbon tetrachloride-intoxicated rats. J Ethnopharmacol, 71,
469–474.
55. Liu, D. L., Wang, N. L., Zhang, X., Gao, H., & Yao, X. S. (2007). Two
new triterpenoid saponins from Ardisia crenata. J Asian Nat Prod Res, 9(2),
119-127.
56. Liu, H., Zhao, F., Yang, R., Wang, M., Zheng, M., Zhao, Y., Wang, H.
(2009). Dimeric 1,4-benzoquinone derivatives and a resorcinol derivative
from Ardisia gigantifolia. Phytochemistry, 70(6), 773-778.
57. Maotian, W., Xiongtai, G., Xiuwen, H., & Shanhai, H. (1992). A new
triterpenoid saponin from Ardisia crenata. Planta Med, 58(2), 205-207.
58. Methin Phadungkit, Omboon Luanratana (2006), Anti-salmonella activity
of constituents of Ardisia elliptica Thunb., Natural product research, 20 (7),
p. 693-696.
59. Mu, L.-H., Huang, C.-L., Zhou, W.-B., Guo, D.-H., & Liu, P. (2013).
Methanolysis of triterpenoid saponin from Ardisia gigantifolia stapf. and
structure–activity relationship study against cancer cells. Bioorg Med Chem
Lett, 23(22), 6073-6078.
60. Mu, L. H., Feng, J. Q., & Liu, P. (2013). A new bergenin derivative from
the rhizome of Ardisia gigantifolia. Nat Prod Res, 27(14), 1242-1245.
61. Mu, L. H., Gong, Q. Q., Zhao, H. X., & Liu, P. (2010). Triterpenoid
saponins from Ardisia gigantifolia. Chem Pharm Bull (Tokyo), 58(9), 1248-
1251.
62. Mu, L. H., Huang, X. W., Guo, D. H., Dong, X. Z., & Liu, P. (2013). A
new triterpenoid saponin from Ardisia gigantifolia. J Asian Nat Prod Res.
63. Mu, L. H., Wei, N. Y., & Liu, P. (2012). Cytotoxic triterpenoid saponins
from Ardisia gigantifolia. Planta Med, 78(6), 617-621.
64. Ndonsta, B. L., Tatsimo, J. S. N., Csupor, D., Forgo, P., Berkecz, R.,
Berényi, Á., . . . Tane, P. (2011). Alkylbenzoquinones with antiproliferative
effect against human cancer cell lines from stem of Ardisia kivuensis.
Phytochemistry Letters, 4(3), 227-230.
65. Ndontsa, B. L., Tchinda, A., Teponno, R. B., Mpetga, J. S., Frederich, M.,
& Tane, P. (2012). Ardisikivuoside, a new triterpenoid saponin from
Ardisia kivuensis (Myrsinaceae). Nat Prod Commun, 7(4), 515-516.
66. Nguyen, H. A., Ripperger, H., Schmidt, J., Porzel, A., Tran, V. S., & Adam,
G. (1996). Resorcinol derivatives from two Ardisia species. Planta Med,
62(5), 479-480.
67. Nicollier G., Thompson A.C., Flavonoids of Desmanthus illinoensis (1983),
J. Nat. Prod., 46, p. 112-117.
68. Nighat Nazir, Surrinder Koul, Mushtaq A. Qurishi, Sachin C.
Taneja,Sheikh F. Ahmadc, Sarang Bani, Ghulam N. Qazi (2007),
Immunomodulatory effect of bergenin and norbergenin against adjuvant-
induced arthritis-A flow cytometric study, Journal of Ethnopharmacology,
112, p. 401-405.
69. Otsuka H., Hirata E., Shinzato T., Takeda Y. (2003), Stereochemistry of
megastigmane glucosides from Glochidion zeylanicum and Alangium
premnifolium, Phytochemistry (62), p. 763-768.
70. Paul, D. J., Laure, N. B., Guru, S. K., Khan, I. A., Ajit, S. K., Vishwakarma,
R. A., & Pierre, T. (2013). Antiproliferative and antimicrobial activities of
alkylbenzoquinone derivatives from Ardisia kivuensis. Pharm Biol.
71. Piao M.S., Kim M.R., Lee D.G., Hahm K.S., Moon Y.H., Woo E.R. (2003),
Antioxidative constituents from Buddleia officinalis, Arch. Pharm. Res.,
26 (6), p. 453-457.
72. Prithivirai, B., Singh, U.P., Manickam, M., Srivastava, J.S., Ray, A.B.
(1997). Antifungal activity of bergenin, a constituent ofFlueggea
microcarpa. Plant Pathology, 46, 224–228.
73. Pu, H. L., Huang, X., Zhao, J.H., Hong, A. (2002). Bergenin is the
antiarrhythmic principle of Fluggea virosa. Planta Med, 68, 372–374.
74. Qian Y., Hideaki O., Eiji H., Takakazu S., Yoshio T. (2002),
Turpinionosides A - E: megastigmane glucosides from leaves of Turpinia
nakai, Chem. Pharm. Bull. 50 (5), p. 640 - 644.
75. Raga, D. D., Herrera, A. A., & Ragasa, C. Y. (2013). Angio-suppressive
triterpenoids from Ardisia cf. elliptica (subgenus Tinus) on duck (Anas
platyrynchosL.) chorioallantoic membrane. Chin J Nat Med, 11(2), 128-138.
76. Ramirez-Mares MV, C. S., de Mejia EG. (2004). In vitro chemopreventive
activity of Camellia sinensis, Ilex paraguariensis and Ardisia compressa
tea extracts and selected polyphenols. Mutat Res, 554(1-2), 53-65.
77. Ryosuke SHIMIZU, Hiroshi SHIMABAYASHI, and Masamitsu
MORIWAK (2006), Enzymatic production of highly soluble myricitrin
glycosides using β-galactoside, Biosci. Biotechnol. Biochem, 70(4), p. 940–
948.
78. Sang-Hyun Lee a, J. K. K., Dae Won Kim, Hyun Sook Hwang, Won Sik
Eum, Jinseu Park, Kyu Hyung Han, Joa Sub Oh, Soo Young (2013),
Antitumor activity of methyl gallate by inhibition of focal
adhesionformation and Akt phosphorylation in glioma cells, Biochimica et
Biophysica Acta, 1830, p. 4017-4029.
79. Sumino, M., Sekine, T., Ruangrungsi, N., Igarashi, K., Ikegami, F. (2002).
Ardisiphenols and other antioxidant principles from the fruits of Ardisia
colorata. Chemical and Pharmaceutical Bulleti, 50 , 1484–1487
80. Sun D., Zhao Z., Lai, Y. F., and Herbert W. (1991), Flavonoids from
Myrica esculenta Bark, Chemistry and Industry of Forest Products, 11, p.
251-255.
81. Tang, H. F., Lin, H. W., Chen, X. L., Cheng, G., Zhao, Y. P., & Wen, A. D.
(2009). Cytotoxic triterpenoid saponins from Ardisia pusilla. Chinese
Chemical Letters, 20(2), 193-196.
82. Tang, H. F., Yun, J., Lin, H. W., Chen, X. L., Wang, X. J., & Cheng, G.
(2009). Two new triterpenoid saponins cytotoxic to human glioblastoma
U251MG cells from Ardisia pusilla. Chem Biodivers, 6(9), 1443-1452.
83. Taneyama M., Yoshida S., Kobayashi M., and Hasegawa M. (1983),
Isolation of norbergenin from Saxifraga stolonifera. Phytochemistry, 22, p.
1053-1054.
84. Tian, J. M.; Fu, X. Y.; Zhang, Q.; He, H. P.; Gao, J. M.; Hao, X. J. (2013),
Biochem. Sys. Ecol., 48, 288.
85. Tian, Y., Tang, H. F., Qiu, F., Wang, X. J., Chen, X. L., & Wen, A. D.
(2009). Triterpenoid saponins from Ardisia pusilla and their cytotoxic
activity. Planta Med, 75(1), 70-75.
86. Tian, Z., Chang, M. N., Sandrino, M., Huang, L., Pan, J. X., Arison, B., &
Smith, J., Lam, Y. K. T. (1987). Quinones from Ardisia cornudentata.
Phytochemistry, 26(8), 2361-2362.
87. Toker G., Memisoglu M., Yesilada E., Aslan M. (2004), Main flavonoids
of Tilia argentea DESF. ex DC. leaves, Turk. J. Chem., 28, p. 745-749.
88. Wang CR., Zhou R., Ng TB., Wong JH., Qiao WT., Liu F. (2014), First
report on isolation of methyl gallate with antioxidant, anti-HIV-1 and HIV-
1 enzyme inhibitory activities from a mushroom (Pholiota adiposa),
Environ Toxicol Pharmacol., 37(2), p. 626-637.
89. Wang CY, Li Lu F, Wu MH, Lee CY, Huang LM. (2004), Fatal
coxsackievirus A16 infection, Pediatr Infect Dis J., 23, p. 275-276.
90. Wen, P., Zhang, X. M., Yang, Z., Wang, N. L., & Yao, X. S. (2008). Four
new triterpenoid saponins from Ardisia gigantifolia Stapf. and their
cytotoxic activity. J Asian Nat Prod Res, 10(9-10), 873-880.
91. Yang, L. K., Khoo-Beattie, C., Goh, K. L., Chng, B. L., Yoganathan, K.,
Lai, Y. H., & Butler, M. S. (2001). Ardisiaquinones from Ardisia
teysmanniana. Phytochemistry, 58(8), 1235-1238.
92. Zhang Z., ElSohly H. N., Li X.C., Khan S. I., Broedel S. E., Raulli R. E.
(2003), Phenolic compounds from Nymphaea odorata, J. Nat. Prod., 66, p.
548-550.
93. Zheng, Z. F., Xu, J. F., Feng, Z. M., & Zhang, P. C. (2008). Cytotoxic
triterpenoid saponins from the roots of Ardisia crenata. J Asian Nat Prod
Res, 10(9-10), 833-839.
94. Yoshida T., Seno K., Takama Y., Okuda, T. (1982), Bergenin derivatives
from Mallotus aponicas. Phytochemistry, 21, p. 1180-1182.
PHỤ LỤC