MẠNG LƯỚI XÃ HỘI CỦA NHÓM SĨ QUAN CẤP ÚY QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN ... (2).pdf · môi...
Transcript of MẠNG LƯỚI XÃ HỘI CỦA NHÓM SĨ QUAN CẤP ÚY QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN ... (2).pdf · môi...
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
ĐÀO NGỌC TUẤN
MẠNG LƯỚI XÃ HỘI CỦA NHÓM SĨ QUAN CẤP ÚY
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: XÃ HỘI HỌC
HÀ NỘI - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
ĐÀO NGỌC TUẤN
MẠNG LƯỚI XÃ HỘI CỦA NHÓM SĨ QUAN CẤP ÚY
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: XÃ HỘI HỌC
Mã số: 62 31 03 01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS PHẠM XUÂN HẢO
2. PGS.TS PHẠM MINH ANH
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận án trung thực và có nguồn gốc
rõ ràng, được trích dẫn theo quy định.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Đào Ngọc Tuấn
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 11
1.1. Nghiên cứu về mạng lưới xã hội 11
1.2. Nghiên cứu về nhóm sĩ quan quân đội và mạng lưới xã hội sĩ
quan quân đội 25
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ MẠNG LƯỚI XÃ HỘI
CỦA NHÓM SỸ QUAN CẤP ÚY QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN
VIỆT NAM 39
2.1. Các khái niệm cơ bản 39
2.2. Một số lý thuyết xã hội học vận dụng trong nghiên cứu 59
2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng sản Việt
Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về xây
dựng quân đội, xây dựng đội ngũ sĩ quan 69
2.4. Đặc điểm về đơn vị nghiên cứu 74
Chương 3: MẠNG LƯỚI XÃ HỘI GIA ĐÌNH CỦA SĨ QUAN CẤP
ÚY HIỆN NAY 78
3.1. Mạng lưới xã hội gia đình bố mẹ đẻ 78
3.2. Mạng lưới xã hội gia đình bố mẹ vợ 85
3.3. Mạng lưới xã hội gia đình vợ, con 91
3.4. Tác động của mạng lưới xã hội gia đình đối với sĩ quan cấp úy 100
Chương 4: MẠNG LƯỚI XÃ HỘI BẠN BÈ CỦA SĨ QUAN CẤP ÚY
HIỆN NAY 111
4.1. Mạng lưới xã hội bạn bè trước khi nhập ngũ 111
4.2. Mạng lưới xã hội bạn bè sau khi nhập ngũ 118
4.3. Tác động của mạng lưới xã hội bạn bè đối với sĩ quan cấp úy 132
KẾT LUẬN 144
KHUYẾN NGHỊ 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
PHỤ LỤC 160
DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN ÁN
Trang
Bảng 1: Cơ cấu mẫu điều tra sĩ quan cấp úy 8
Bảng 3.1: So sánh tương quan nơi sinh với hình thức và tần suất liên
hệ với gia đình bố mẹ đẻ sĩ quan cấp úy 82
Bảng 3.2: Tương quan nơi sinh của sĩ quan cấp úy với thời gian và
nội dung liên hệ với bố mẹ đẻ 85
Bảng 3.3: Nghề nghiệp gia đình bố mẹ vợ 86
Bảng 3.4: Tương quan so sánh nơi sinh sống của gia đình bố mẹ 86
Bảng 3.5: Tương quan so sánh khoảng cách từ nơi sinh sống của gia
đình bố mẹ đẻ và bố mẹ vợ đến đơn vị 87
Bảng 3.6: Tương quan hình thức, tần suất liên hệ với gia đình
bố mẹ đẻ và bố mẹ vợ 89
Bảng 3.7: Thời gian và nội dung liên hệ với gia đình bố mẹ vợ 91
Bảng 3.8: Nghề nghiệp của vợ 92
Bảng 3.9: Tương quan nơi sinh sống của gia đình 93
Bảng 3.10: So sánh khoảng cách từ gia đình bố mẹ đẻ, bố mẹ vợ và vợ,
con đến đơn vị 95
Bảng 3.11: Hình thức, tần suất liên hệ với gia đình vợ, con 96
Bảng 3.12: So sánh thời gian và nội dung liên hệ giữa gia đình bố mẹ
đẻ, bố mẹ vợ với gia đình vợ, con 98
Bảng 3.13: Tương quan ảnh hưởng của gia đình bố mẹ đẻ, bố mẹ vợ và
vợ, con với sĩ quan cấp úy 103
Bảng 4.1: Tương quan cấp bậc và hình thức, tần suất liên hệ của sĩ
quan cấp úy với bạn bè trước khi nhập ngũ 112
Bảng 4.2: Tương quan xuất thân nghề nghiệp gia đình sĩ quan cấp úy và
hình thức, tần suất liên hệ với bạn bè trước khi nhập ngũ 115
Bảng 4.3: Tương quan xuất thân nghề nghiệp gia đình sĩ quan cấp úy
và thời gian, nội dung liên hệ với bạn bè trước khi nhập ngũ 117
Bảng 4.4: Hình thức, tần suất liên hệ với bạn bè trong quân đội, đơn vị 119
Bảng 4.5: So sánh tương quan loại hình cán bộ và hình thức, tần suất
liên hệ với bạn bè trong quân đội, đơn vị 123
Bảng 4.6: So sánh tương quan cấp bậc và hình thức, tần suất liên hệ
với bạn bè trong quân đội, đơn vị 124
Bảng 4.7: Tương quan thời gian, nội dung liên hệ của sĩ quan cấp úy với
bạn bè trong quân đội và gia đình bố mẹ đẻ, bố mẹ vợ, vợ, con 125
Bảng 4.8: Hình thức, tần suất liên hệ với bạn bè ngoài quân đội, đơn
vị sau khi nhập ngũ 127
Bảng 4.9: Tương quan loại hình cán bộ và hình thức, tần suất liên hệ
với bạn bè ngoài quân đội, đơn vị sau khi nhập ngũ 128
Bảng 4.10: Tương quan loại hình cán bộ và hình thức, tần suất liên hệ
với bạn bè ngoài quân đội, đơn vị sau khi nhập ngũ 129
Bảng 4.11: Thời gian, nội dung liên hệ với bạn bè ngoài quân đội, đơn
vị sau khi nhập ngũ 131
Bảng 4.12: Ảnh hưởng của bạn bè trong quân đội, đơn vị 137
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ TRONG LUẬN ÁN
Trang
Sơ đồ 1: Khung phân tích luận án 5
Sơ đồ 2.1: Mô hình tổng quát về mạng lưới xã hội nhóm sĩ quan cấp úy 51
Sơ đồ 2.2: Mô hình mạng lưới xã hội gia đình nhóm sĩ quan cấp úy 52
Sơ đồ 2.3: Mô hình mạng lưới xã hội bạn bè nhóm sĩ quan cấp úy 53
Biều đồ 3.1: Nghề nghiệp của bố đẻ hiện nay 79
Biều đồ 3.2: Khu vực sống của gia đình bố mẹ đẻ 80
Biểu đồ 3.3: Khoảng cách từ gia đình bố mẹ đẻ đến đơn vị 81
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quân đội nhân dân Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng cộng sản
Việt Nam sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện. Từ khi thành lập đến nay, gắn liền
với quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành là quá trình biến đổi về cơ
cấu tổ chức, biên chế lực lượng, trang bị cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ
từng giai đoạn phát triển; bảo đảm phương hướng xây dựng quân đội cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có số lượng hợp lý, với chất
lượng tổng hợp và sức chiến đấu cao; thực sự là lực lượng trung thành, tin cậy
của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Nhóm sĩ quan nói chung, sĩ quan cấp úy nói riêng được Đảng, Nhà
nước và quân đội xác định là lực lượng nòng cốt trong xây dựng quân đội, là
thành phần chủ yếu của đội ngũ cán bộ quân đội, đảm nhiệm các chức vụ lãnh
đạo, chỉ huy, quản lý các cấp, và thực hiện công tác chuyên môn, nghiệp vụ
đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt
Nam, sự thống lĩnh của Chủ tịch nước, sự quản lý thống nhất của Chính phủ
và sự chỉ huy, quản lý trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Trong đội ngũ sĩ quan, nhóm sĩ quan cấp úy có vai trò quan trọng, là
đội ngũ cán bộ đảm nhiệm thực hiện nhiệm vụ cấp phân đội, trực tiếp lãnh
đạo, chỉ huy bộ đội thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu,
chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Nhóm sĩ quan cấp úy có số lượng lớn nhất
trong biên chế của sĩ quan quân đội, là lực lượng trẻ, khoẻ được đào tạo cơ
bản; lực lượng kế cận, kế tiếp để xây dựng đội ngũ sĩ quan trung, cao cấp
của quân đội. Trên thực tế nhóm sĩ quan cấp úy có động cơ phấn đấu tốt, ý
thức trách nhiệm cao, luôn nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ; khẳng
định vai trò trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy; là lực lượng kế tục xuất
sắc để xây dựng quân đội.
2
Thực tiễn cho thấy, nhóm sĩ quan quân đội nói chung và nhóm sĩ quan
cấp úy nói riêng sẽ vững mạnh và hoàn thành tốt nhiệm vụ khi có cơ cấu xã
hội hợp lý, chất lượng cao, phù hợp với yêu cầu nhiệm xây dựng quân đội
trong từng thời kỳ, giai đoạn của cách mạng Việt Nam. Hiện nay, những biến
đổi về kinh tế - xã hội của đất nước đã và đang tác động nhiều chiều đối với
nhóm sĩ quan cấp úy. Sĩ quan cấp úy là nhóm sĩ quan trẻ, với đặc thù về nghề
nghiệp, tâm lý lứa tuổi, kinh nghiệm cuộc sống,... nên có sự thích nghi và biến
đổi rất mạnh mẽ về cơ cấu xã hội, về quan hệ xã hội theo xu hướng mở rộng
nhằm thiết lập thêm các quan hệ mới đồng thời tạo môi trường xã hội thuận
lợi để "lập thân, lập nghiệp", tự hoàn thiện để trở thành trụ cột gia đình. Bên
cạnh đó, quá trình hội nhập quốc tế về lĩnh vực quân sự, quốc phòng đã tạo
môi trường thuận lợi cho sĩ quan quân đội nói chung, sĩ quan cấp úy nói riêng
mở rộng quan hệ xã hội không chỉ các mối quan hệ trong phạm vi quân đội và
ngoài xã hội, mà còn mở rộng trên phạm vi quốc tế.
Với những biến đổi như vậy, đã và đang đặt ra rất nhiều vấn đề về quản
lý các quan hệ xã hội này của nhóm sĩ quan cấp úy, để nhóm xã hội này trung
thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, hoàn thành xuất sắc các
nhiệm vụ được giao.
Xuất phát từ những lý do trên, nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài "Mạng
lưới xã hội của nhóm sĩ quan cấp úy Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay"
làm đề tài luận án của mình. Đây là vấn đề vừa có ý nghĩa lý luận, vừa mang tính
thực tiễn trong xây dựng nhóm sĩ quan cấp úy giai đoạn hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề về cơ sở lý luận, thực tiễn và đánh giá thực trạng
mạng lưới xã hội của nhóm sĩ quan cấp úy Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về mạng lưới xã hội của nhóm
sĩ quan cấp úy Quân đội nhân dân Việt Nam.
3
- Đánh giá thực trạng mạng lưới xã hội gia đình của nhóm sĩ quan cấp úy
Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
- Đánh giá thực trạng mạng lưới xã hội bạn bè của nhóm sĩ quan cấp úy
Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
- Đánh giá tác động của mạng lưới xã hội đối với việc thực hiện chức năng,
nhiệm vụ và hình thành phẩm chất con người xã hội của nhóm sĩ quan cấp úy.
4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Mạng lưới xã hội của nhóm sĩ quan cấp úy Quân đội nhân dân Việt Nam.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Sĩ quan cấp úy Quân đội nhân dân Việt Nam (Nghiên cứu trường hợp
tại Đoàn B01, Quân đội nhân dân Việt Nam).
4.3. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung:
+ Lý luận và thực tiễn mạng lưới xã hội của nhóm sĩ quan cấp úy Quân
đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
+ Nghiên cứu ở hai loại mạng lưới xã hội: Mạng lưới xã hội gia đình
và mạng lưới xã hội bạn bè.
Mạng lưới xã hội gia đình gồm: gia đình bố mẹ đẻ; gia đình bên vợ (với
sĩ quan đã có vợ) và gia đình vợ, con sĩ quan (với sĩ quan đã có vợ).
Mạng lưới xã hội bạn bè gồm: Bạn bè trước khi nhập ngũ và bạn bè
sau khi nhập ngũ.
- Phạm vi về không gian: Đoàn B01, Quân đội nhân dân Việt Nam.
- Phạm vi về thời gian: Khảo sát tài liệu, số liệu từ năm 2011 đến năm
2016. Điều tra, khảo sát thực tiễn năm 2016.
5. Câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu, các biến số và khung phân tích
5.1. Câu hỏi nghiên cứu
- Câu hỏi thứ nhất: Mạng lưới xã hội của nhóm sĩ quan cấp úy hiện
nay như thế nào?
4
- Câu hỏi thứ hai: Mạng lưới xã hội tác động như thế nào đến quá trình
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của sĩ quan cấp úy?
- Câu hỏi thứ ba: Mạng lưới xã hội tác động như thế nào đến việc hoàn
thiện phẩm chất con người xã hội của sĩ quan cấp úy?
5.2. Giả thuyết nghiên cứu
- Giả thuyết thứ nhất: Mạng lưới xã hội của nhóm sĩ quan cấp úy hiện nay
phong phú, đa dạng: mở rộng về phạm vi, về tính chất; chủ yếu diễn ra gián tiếp,
vào tất cả các ngày, giờ và cường độ thông tin diễn ra nhanh.
- Giả thuyết thứ hai: Mạng lưới xã hội tác động mạnh đến việc thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của sĩ quan cấp úy theo hai chiều tích cực và tiêu cực.
- Giả thuyết thứ ba: Mạng lưới xã hội tác động mạnh đến việc hình
thành, phát huy phẩm chất con người xã hội của sĩ quan cấp úy theo hai chiều
tích cực và tiêu cực.
5.3. Các biến số
- Biến độc lập:
+ Thành phần xuất thân (nghề nghiệp của bố mẹ).
+ Khu vực sống của gia đình: nông thôn - đô thị; vùng - miền; đồng
bằng và miền núi, hải đảo.
+ Tuổi quân.
+ Quân hàm.
+ Loại hình cán bộ (chính trị, quân sự, hậu cần kỹ thuật).
+ Thiết chế quân sự.
- Biến phụ thuộc:
+ Mạng lưới xã hội gia đình
Gia đình bố mẹ đẻ (gia đình nơi sĩ quan cấp úy sinh ra và lớn lên) gồm
các thành viên trong gia đình: ông bà, bố mẹ, anh chị em ruột.
Gia đình bố mẹ vợ (những sĩ quan đã có vợ) gồm những thành viên trong
gia đình: ông bà, bố mẹ, anh chị em ruột.
Gia đình vợ, con gồm: vợ, con.
5
+ Mạng lưới xã hội bạn bè:
Bạn bè trước khi nhập ngũ: bạn học phổ thông, bạn cùng làng xóm, tổ
dân phố, phường.
Bạn bè sau khi nhập ngũ: bạn bè trong quân đội (cùng đơn vị và khác
đơn vị); bạn bè nơi đóng quân; bạn bè thông qua các mạng xã hội.
- Biến can thiệp:
+ Đặc điểm tình hình thế giới, khu vực, đối tác và đối tượng.
+ Điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước.
+ Quan điểm của Đảng, Nhà nước về xây dựng quân đội, xây dựng
nhóm sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam.
+ Đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ quân đội thời kỳ mới.
+ Sự vận động, biến đổi định hướng nghề nghiệp nhóm sĩ quan cấp úy.
5.4. Khung phân tích
Sơ đồ 1: Khung phân tích luận án
Mạng lưới xã hội
sĩ quan cấp úy
Quan điểm của Đảng, Nhà nước về XDQĐ, xây dựng nhóm sĩ quan QĐ;
Đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ quân đội thời kỳ mới;
Sự vận động, biến đổi định hướng nghề nghiệp của nhóm SQCU
Đặc điểm tình hình thế giới, khu vực, đối tác và đối tượng;
Đặc điểm kinh tế - xã hội đất nước
Thành phần xuất thân
Khu vực sống
Thiết chế quân sự
MLXH bạn
bè:
- Trước
nhập ngũ
- Sau nhập
ngũ
Tuổi quân
Quân hàm;
Loại hình cán bộ
MLXH gia
đình:
- Bố mẹ đẻ
- Bố mẹ vợ
- Vợ, con
MLXH
nhóm
SQCU
MLXH tác động đến
việc hình thành, phát
huy phẩm chất con
người xã hội của
SQCU
MLXH tác động đến
thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của SQCU
6
6. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
6.1. Cơ sở lý luận, thực tiễn
- Cơ sở lý luận
+ Học thuyết Mác - Lênin về quân đội vô sản.
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về
cán bộ, sĩ quan trong quân đội.
+ Lý thuyết xã hội học về mạng lưới xã hội và vốn xã hội; lý
thuyết tổ chức xã hội được vận dụng cho việc xem xét, đánh giá thực
trạng mạng lưới xã hội của nhóm sĩ quan cấp úy trong Quân đội nhân
dân Việt Nam hiện nay.
+ Các văn bản pháp luật Nhà nước, của Bộ Quốc phòng về cán bộ, sĩ
quan quân đội; điều lệnh, điều lệ, biểu biên chế của quân đội.
- Cơ sở thực tiễn
+ Thực tiễn tổ chức thực hiện quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà
nước về xây dựng quân đội trong tình hình mới.
+ Công tác quy hoạch, quản lý, sử dụng nhóm sĩ quan cấp úy từ năm
2011 đến 2016.
+ Các báo cáo tổng kết, đánh giá, phân loại sĩ quan cấp úy của các đơn vị
khảo sát từ năm 2011 đến 2016.
+ Đặc điểm tình hình về đơn vị nghiên cứu và kết quả nghiên cứu về sĩ
quan, sĩ quan cấp úy trong quân đội.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp chung: Luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên
cứu như: Phân tích và tổng hợp; thống kê, so sánh; lôgíc, lịch sử…
Phương pháp cụ thể:
6.2.1. Phân tích tài liệu có sẵn
+ Thu thập tài liệu, số liệu về nhóm sĩ quan cấp úy trong quân đội,
nhóm sĩ quan cấp úy Đoàn B01.
7
+ Sưu tìm, phân tích Nghị quyết Đại hội Đảng bộ quân đội lần thứ
VIII, IX, X; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ các khóa của Đoàn B01; Các
báo cáo, thống kê về sĩ quan cấp úy; Công trình nghiên cứu khoa học,
bài viết về mạng lưới xã hội, mạng lưới xã hội của các nhóm xã hội, về
sĩ quan cấp úy.
+ Tham khảo và kế thừa hai công trình nghiên cứu trực tiếp về
nhóm sĩ quan cấp úy: "Quản lý các quan hệ xã hội của quân nhân ở đơn
vị cơ sở trong tình hình mới" [56], đây là cuốn sách được biên soạn năm
2015 dựa trên kết quả nghiên cứu đề tàì cấp Bộ Quốc phòng và được tiến
hành khảo sát trong toàn quân, và "Cơ cấu xã hội của nhóm sĩ quan cấp
úy Quân đội nhân dân Việt Nam trong thời kỳ mới" [31], đề tài khoa học
mà tác giả luận án là thành viên; đây là công trình được nghiên cứu khảo
sát ở ba đơn vị đại diện cho toàn quân ở ba khu vực Bắc, Trung, Nam;
công trình được in thành sách năm 2016.
6.2.2. Phương pháp nghiên cứu định lượng
Điều tra bằng phiếu trưng cầu ý kiến với sĩ quan cấp úy.
- Tổng thể điều tra: Đoàn B01 có ba trung đoàn. Do tính chất của tổ
chức quân sự, các trung đoàn thuộc Đoàn B01 có tính chất xã hội tương đồng
về biên chế, tổ chức, chức năng, nhiệm vụ.
- Mẫu điều tra: Trong ba trung đoàn của Đoàn B01, bốc thăm ngẫu
nhiên một trung đoàn để tiến hành điều tra toàn bộ số sĩ quan cấp úy của
trung đoàn. Hai trung đoàn còn lại, bốc thăm ngẫu nhiên ở mỗi trung đoàn
một tiểu đoàn để điều tra toàn bộ sĩ quan cấp úy của tiểu đoàn đó. Tổng số
mẫu điều tra bằng phiếu: 232 người (Số sĩ quan cấp úy có mặt tại đơn vị
vào thời điểm điều tra).
- Về cơ cấu mẫu điều tra:
8
Bảng 1: Cơ cấu mẫu điều tra sĩ quan cấp úy
STT Cơ cấu mẫu điều tra sĩ quan cấp úy SL %
1 Cấp bậc quân hàm Thiếu úy 46 19,8
Trung úy 73 31,5
Thượng úy 83 35,8
Đại úy 30 12,9
2 Chức vụ Cán bộ trung đội 88 37,9
Cán bộ đại đội 102 44,0
Cán bộ tiểu đoàn 22 9,5
Trợ lý tiểu đoàn, trung đoàn 20 8,6
3 Loại hình cán bộ (chuyên
môn, nghiêp vụ)
Cán bộ chính trị 91 39,2
Cán bộ quân sự 121 52,2
Cán bộ hậu cần - kỹ thuật 20 8,6
4 Trình độ đào tạo
chuyên môn, nghiệp vụ
Sơ cấp 29 12,5
Trung cấp 25 10,8
Cao đẳng 15 6,5
Đại học 163 70,3
5 Tuổi đời Dưới 25 tuổi 49 21,1
Từ 26 đến 30 tuổi 77 33,2
Từ 31 đến 35 tuổi 73 31,5
Trên 36 tuổi 33 14,2
6 Tuổi quân (trải nghiệm
thực tiễn)
Dưới 5 năm 46 19,8
6 năm đến 10 năm 65 28,0
11 năm đến 15 năm 89 38,4
Trên 16 năm 32 13,8
7 Tình trạng hôn nhân Đã có gia đình 168 72,4
Chưa có gia đình 64 27,6
8 Thành phần dân tộc Dân tộc Kinh 220 94,8
Dân tộc khác 12 5,2
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, tháng 8 năm 2016.
9
6.2.3. Phương pháp nghiên cứu định tính
+ Phỏng vấn sâu sĩ quan cấp tá và cấp úy của các đơn vị đã chọn điều
tra. Số lượng 30 người.
+ Tọa đàm với một nhóm sĩ quan cấp úy và một nhóm sĩ quan cấp tá;
mỗi nhóm 10 người.
6.2.4. Phương pháp phân tích, xử lý số liệu
Số liệu của cuộc điều tra được phân tích, xử lý bằng chương trình SPSS
16.0 trên máy vi tính và được phân tích tần suất, tương quan so sánh về cấp
bậc, chức vụ, loại hình cán bộ, tuổi quân, tình trạng hôn nhân, nơi sinh, xuất
thân nghề nghiệp gia đình.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
7.1. Ý nghĩa lý luận
- Góp phần bổ sung, hoàn thiện về lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
chuyên ngành Xã hội học nói chung, Xã hội học quân sự nói riêng về mạng lưới
xã hội của nhóm sĩ quan cấp úy trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
- Kết quả nghiên cứu góp phần khẳng định tính đúng đắn và phù hợp
của lý luận trong các chủ trương, quốc sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng
quân đội; về đào tạo, giáo dục, rèn luyện nhóm sĩ quan.
- Luận án gợi mở ra hướng nghiên cứu ở cấp độ cao hơn, sâu hơn (có thể
nâng cấp thành đề tài ngành cấp Tổng cục Chính trị và đề tài cấp Bộ Quốc
phòng) cho cùng chủ đề này, nhằm phát huy tốt hơn nữa vai trò của nhóm sĩ
quan cấp úy trong quân đội, bảo đảm cho người sĩ quan cấp úy hoàn thành
xuất sắc mọi nhiệm vụ trong tình hình mới.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu là tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy
về công tác giáo dục nói chung trong các nhà trường quân đội, công tác xây
dựng môi trường văn hoá nói riêng của quân đội.
- Cung cấp cơ sở khoa học - thực tiễn cho lãnh đạo, chỉ huy các cấp, nhất
là các đơn vị cơ sở trong việc tạo ra môi trường văn hoá lành mạnh, xây dựng
10
được các mạng lưới đúng đắn trong và ngoài quân đội của người sĩ quan cấp úy;
bên cạnh đó giúp cho quá trình quản lý và xây dựng đơn vị hiệu quả, làm tiền đề
cho các cá nhân và đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
- Các khuyến nghị mà luận án đưa ra có thể được vận dụng một cách
khoa học, hiệu quả cho các đơn vị có những điều kiện tương đồng trong
toàn quân hiện nay.
8. Đóng góp của đề tài luận án
- Luận án làm sáng tỏ về tính chất mạng lưới xã hội của nhóm sĩ quan cấp
úy trước những biến đổi, tác động của tình hình đất nước, khu vực và trên thế
giới, cũng như chức năng, nhiệm vụ của quân đội trong giai đoạn mới hiện nay.
- Luận án là tài liệu tham khảo hữu ích trong nghiên cứu và giảng dạy ở
các nhà trường quân đội; là cơ sở cho các đơn vị trong quản lý và phát huy mạng
lưới xã hội nhóm sĩ quan cấp úy ở đơn vị hiện nay, trên cơ sở đó góp phần xây
dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, làm tiền đề cho sĩ quan cấp úy và đơn vị hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
9. Kết cấu đề tài luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình
nghiên cứu; Chương 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn mạng lưới xã hội của
nhóm sĩ quan cấp úy Quân đội nhân dân Việt Nam; Chương 3: Mạng lưới
xã hội gia đình của sĩ quan cấp úy; Chương 4: Mạng lưới xã hội bạn bè của
sĩ quan cấp úy.
11
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. NGHIÊN CỨU VỀ MẠNG LƯỚI XÃ HỘI
Nghiên cứu về mạng lưới xã hội ở cả trong nước và ngoài nước đã
được nhiều tác giả chú ý trong các nghiên cứu khoa học xã hội nói chung và
xã hội học nói riêng, nhất là khoảng cuối thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ
XXI. Các công trình nghiên cứu tùy theo ý định tìm hiểu của các tác giả mà
nghiên cứu, khai thác ở những nội dung, khía cạnh khác nhau. Tổng quan về
vấn đề này, tác giả luận án tiếp cận theo hai góc độ: Lý thuyết, phương pháp
tiếp cận mạng lưới xã hội và mạng lưới xã hội một số nhóm xã hội.
1.1.1. Những công trình nghiên cứu về lý thuyết và phương pháp
tiếp cận mạng lưới xã hội
Tiếp cận ở góc độ lý thuyết hệ thống xã hội, mạng lưới xã hội là biểu hiện
cụ thể, trực tiếp và rõ rệt nhất của cấu trúc xã hội. Phân tích mạng lưới xã hội đã
trở thành một phương pháp tiếp cận cấu trúc xã hội [43, dẫn theo Lê Ngọc Hùng].
Đầu tiên phải kể đến các công trình nghiên cứu của C.Mác và Ph.
Ăngghen. Trong các tác phẩm của mình Mác và Ăngghen đã quan tâm nghiên
cứu rất nhiều về con người, về quan hệ xã hội của con người. Có thể khái quát
những nội dung cơ bản của Mác, Ăngghen về con người, quan hệ xã hội của con
người: (1) con người là một điển hình xã hội; trong mỗi con người bao gồm tổng
hòa các mối quan hệ xã hội; (2) con người và các quan hệ xã hội của họ làm nên
xã hội, do đó phân tích con người phải bắt đầu từ các hoạt động sống của họ; (3)
con người vừa là chủ thể xã hội, vừa là sản phẩm của xã hội; (4) trong xã hội
mỗi con người có nhiều vị trí, chức năng xã hội và phạm vi hoạt động xã hội (tại
mỗi thời điểm và suốt trong cuộc đời), do đó đóng nhiều vai trò xã hội. Trong
“Luận cương về Phoiơbắc” Mác cũng khẳng định: “Con người không tồn tại như
những sinh vật đơn lẻ, mà trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là
tổng hòa những mối quan hệ xã hội” [49, tr.11]. Như vậy, mặc dù Mác không đề
12
cập trực tiếp đến nghiên cứu mạng lưới xã hội, quan hệ xã hội, nhưng khi bàn
đến con người, Mác nhấn mạnh cần phải được tiến hành phân tích các quan hệ
xã hội của họ không phải trong sự đơn lẻ, mà trong tính toàn vẹn, tổng hợp,
chỉnh thể các quan hệ xã hội.
Emile Durkheim đã tiến hành nghiên cứu mạng lưới xã hội theo thuyết
cấu trúc, chức năng và đưa ra khái niệm: đoàn kết hữu cơ và đoàn kết cơ giới
tương ứng với các hình thức phân công lao động phức tạp và đơn giản, từ đó
tạo nên những kiểu quan hệ và liên hệ tương ứng giữa các cá nhân với cá
nhân, cá nhân với nhóm và giữa các nhóm xã hội với nhau. Ông cho rằng,
mạng lưới quan hệ phi chức năng đặc trưng cho kiểu đoàn kết máy móc của
xã hội truyền thống, còn mạng lưới quan hệ chức năng đặc trưng cho kiểu
đoàn kết hữu cơ của xã hội hiện đại [43, dẫn theo Lê Ngọc Hùng].
Đề cập tới mật độ, cường độ, độ dài và sự tin cậy của các liên hệ, trong
nghiên cứu cách thức tìm kiếm việc làm, Mark Grannovetter (1973) đưa ra
nguyên tắc để phân biệt các hình thức liên hệ trong cấu trúc của mạng lưới
thông qua các tiêu chí: Độ dài của các mối liên hệ (thời gian duy trì quan hệ);
Xúc cảm, tình cảm của các mối quan hệ (cường độ của mối quan hệ); Sự tin
cậy của các mối quan hệ. Từ các tiêu chí đó, ông đã phân biệt “liên hệ mạnh”
và “liên hệ yếu” [87]. Để chứng minh luận điểm trên, trong một nghiên cứu
khác là Tìm kiếm việc làm năm 1974, Mark Grannovetter đã chỉ ra rằng 56%
số người trả lời tìm được việc làm thông qua các mối quen biết sơ sài, những
người mà họ thỉnh thoảng gặp. Năm 1983, trong công trình Sức mạnh của
những “liên hệ yếu”, ông còn đi vào đo lường sức mạnh của các mối liên hệ
đối với giao tiếp, tìm kiếm việc làm và hội nhập với xã hội. Ông cho rằng, các
liên hệ yếu không hề tạo nên sự chia cắt mà chúng đóng một vai trò thiết yếu
trong việc liên kết các cá nhân trong xã hội hiện đại [88].
Trong khi đó, thông qua tiếp cận lý thuyết tương tác xã hội, Georg
Simmel đã tập trung vào phân tích các kiểu và hình thức của mạng lưới xã hội
13
gồm các mối liên hệ của các cá nhân tác động qua lại lẫn nhau [43, dẫn theo
Lê Ngọc Hùng]. Theo Georg Simmel thì khái niệm tính liên hệ xã hội được
hiểu như một tập hợp các mối quan hệ giữa các cá nhân/ nhóm với những cá
nhân khác/ nhóm khác [69, dẫn theo Lê Minh Tiến]. Sau này nhiều tác giả đã
vận dụng nghiên cứu của Georg Simmel để tìm hiểu và phân tích mạng lưới
xã hội một cách hiệu quả. Jacob Moreno đã phát triển phương pháp và kỹ
thuật trắc nghiệm xã hội để đo lường từng mối quan hệ của cá nhân nhằm xây
dựng các đồ thức xã hội chỉ rõ cá nhân nào quan hệ như thế nào với ai và ai là
người chiếm vị trí nào trong mạng lưới quan hệ đó. Alex Bavelas và Harold
Leavitt chỉ ra các mạng lưới giao tiếp trong đó quan trọng nhất là kiểu mạng
dây, mạng vòng, mạng tháp và mạng hình sao. Fritz Heider, Theodore
Newcomb và những người khác tập trung vào nghiên cứu động thái và sự cân
bằng động các mạng lưới xã hội trong đó bất kỳ một thay đổi nào trong mối
quan hệ với bộ phận nào đều kéo theo những biến đổi ở bộ phận khác và toàn
bộ mạng lưới, kết quả là tái lập trạng thái cân bằng, ổn định tương đối của cả
mạng [43, dẫn theo Lê Ngọc Hùng].
Các nghiên cứu mạng lưới xã hội trong nhóm nhỏ bằng phương pháp trắc
nghiệm, ví dụ như nghiên cứu của Jacob Moreno đã thúc đẩy hướng nghiên cứu
xã hội học định lượng về các kiểu mạng lưới xã hội và vai trò của chúng đối với
sự thống nhất và hội nhập xã hội. Từ những nghiên cứu về các quá trình nhóm
đã phát hiện ra loại cấu trúc chính thức dựa vào các mối quan hệ chức năng được
thiết lập và vận hành theo những quy chế nhất định và cấu trúc phi chính thức
dựa vào mối tương tác giữa các cá nhân [43, dẫn theo Lê Ngọc Hùng].
Tại Trung Quốc, trong một cuộc khảo sát năm 1988 tại Thiên Tân,
Yanjie Bian cho rằng có tới 70% người được phỏng vấn cho rằng tìm kiếm
được việc làm thường phụ thuộc vào mối quan hệ thân tộc [84]. Công trình
nghiên cứu của Yanjie Bian (1997) Quay lại vấn đề quan hệ mạnh: Quan hệ
gián tiếp, kết nối mạng lưới trong tìm kiếm việc làm ở Trung Quốc. Yanjie
14
Bian cũng đã vận dụng lý thuyết sức mạnh của những “liên hệ yếu” của
Grannovetter để phân tích và đo lường sức mạnh của mối quan hệ trong tìm
kiếm việc làm của người Trung Quốc.
Các công trình nghiên cứu sau này đã chịu ảnh hưởng rất nhiều từ công
trình nghiên cứu của M. Grannovetter, trong đó, đáng chú ý là công trình
nghiên cứu của Lee Jac-Yeol (2008), quan hệ xã hội của người Hàn Quốc,
đăng trên Bộ giáo trình Hàn Quốc học SNU-VNU, quyển 4. Trong đó Lee
Jac-Yeol đã chọn số lần tiếp xúc và thời gian duy trì quan hệ theo đối tượng
để tìm hiểu. Nghiên cứu xác định 4 loại hình, mỗi loại hình tương ứng với
thời gian duy trì quan hệ và tần số tiếp xúc cụ thể: loại hình 1, mối quan hệ
lâu dài và chắc chắn (tương ứng với quan hệ gia đình); loại hình 2, mối quan
hệ lâu dài nhưng lỏng lẻo (tương ứng với mối quan hệ như họ hàng, đồng
hường, đồng học); loại hình 3, mối quan hệ ngắn nhưng chắc chắn (tương ứng
với quan hệ hàng xóm, đồng nghiệp); loại hình 4, mối quan hệ ngắn và lỏng
lẻo (tương ứng với mối quan hệ cùng sở thích, đoàn thể xã hội) [10, tr.252].
Trên cơ sở phân tích 4 loại hình mạng giao kết mạng lưới quan hệ xã hội, tác
giả phân chia thành hai loại chính là mạng giao kết mạng lưới quan hệ xã hội
yếu và mạng giao kết mạng lưới quan hệ xã hội mạnh.
Ở Việt Nam, bàn đến tác động của mạng lưới xã hội đến việc nâng cao
vị thế xã hội của chủ thể, một số công trình nghiên cứu còn đưa ra những con
số thực nghiệm thông qua phương pháp điều tra định lượng để chứng minh sự
tác động của mạng lưới đến đời sống kinh tế và tinh thần. Một trong số đó là:
“Vai trò của mạng lưới xã hội trong quá trình di cư” của Đặng Nguyên Anh
(1998). Tác giả đã chỉ rõ tác động của mạng lưới xã hội đến người di cư được
thể hiện ở quyết định lựa chọn nơi chuyển đến và hình thức trợ giúp về kinh
tế của mạng lưới xã hội. Hơn 70% số người di cư được khảo sát cho biết có
họ hàng, người thân, bạn bè sinh sống tại nơi chuyển đến và những người
thân chính là đầu mối thông tin và nguồn hỗ trợ kinh tế đối với người di cư [3,
15
tr.18]. Bên cạnh đó tác giả còn chỉ rõ tác động của mạng lưới xã hội đến việc
ổn định cuộc sống, tìm kiếm việc làm và gửi tiền về quê giúp đỡ gia đình,
người thân. Kết quả cho thấy người di chuyển có được thông tin việc làm từ
phía gia đình, bạn bè lớn hơn nhiều so với các nguồn thông tin từ trung tâm
giới thiệu việc làm hay từ chính sách của nhà nước [2, tr.20].
Vận dụng lý thuyết và phương pháp tiếp cận mạng lưới xã hội, Lê
Ngọc Hùng (2003) “Lý thuyết và phương pháp tiếp cận mạng lưới xã hội:
trường hợp tìm kiếm việc làm của sinh viên” [43] đã đi vào tìm hiểu rõ thành
phần và kiểu dạng các quan hệ xã hội mà cá nhân có thể sử dụng để tìm kiếm
việc làm. Về mặt lý thuyết, Lê Ngọc Hùng đã nêu khái quát ba kiểu mạng
lưới xã hội: (1) kiểu truyền thống, (2) kiểu hiện đại, (3) kiểu hỗn hợp giữa
truyền thống và hiện đại. Trong đó, kiểu mạng lưới truyền thống cá nhân chủ
yếu dựa vào các quan hệ gia đình để tìm kiếm việc làm, kiểu hiện đại cá nhân
chủ yếu dựa vào các mối quan hệ chức năng với cơ quan, tổ chức và thiết chế
của thị trường lao động để tìm kiếm việc làm, kiểu hỗn hợp là sự kết hợp giữa
truyền thống và hiện đại.
Trong bài viết: Tổng quan phương pháp phân tích mạng lưới xã hội
trong nghiên cứu xã hội, Lê Minh Tiến (2006) đã xác định phương pháp phân
tích mạng lưới xã hội như là một tập hợp các phương pháp chọn mẫu, thu
thập và xử lý dữ kiện, các khái niệm, các lý thuyết nhằm mô tả và phân tích
các mối quan hệ giữa các actor trong mạng lưới, các quy luật hình thành và
biến chuyển của những mối quan hệ đó, và nhất là làm sáng tỏ những ảnh
hưởng của các mối quan hệ xã hội (hay cấu trúc của mạng lưới) đối với hành
vi các actor. Chính các quan hệ xã hội, mối quan hệ giữa các actor là yếu tố
quyết định đến hành vi chứ không phải là các đặc trưng của các actor; đồng
thời sự khác biệt giữa các actor cũng không do các đặc trưng quyết định,
nhưng chính cái cấu trúc của các quan hệ xã hội sẽ quyết định. Chẳng hạn,
dưới góc nhìn mạng lưới, việc tiếp cận các nguồn lực xã hội của actor như uy
16
tín, tình thân, thông tin, quyền lực, vốn xã hội… phụ thuộc chủ yếu vào các
quan hệ xã hội chứ không phải các đặc trưng của các actor [69].
Nông Bằng Nguyên (2009) đã đề cập và đi sâu làm rõ các nội dung:
Một là, phân tích những đóng góp của các nhà nhân học, tâm lý học và xã hội
học về mạng lưới xã hội thông qua một số lý thuyết như: lý thuyết tương tác,
lý thuyết đồ thị, lý thuyết sức mạnh của những “liên hệ yếu”, lý thuyết lỗ
hổng cấu trúc, lý thuyết của Lin về di động xã hội. Đáng chú ý, khi phân tích
các lý thuyết này, tác giả đã gợi mở ra nhiều vấn đề mà chúng ta có thể vận
dụng trong nghiên cứu, đặc biệt là lý thuyết sức mạnh của những “liên hệ
yếu” ở Việt Nam. Hai là, tác giả đã đưa ra cách hiểu về khái niệm mạng lưới
xã hội và một số khái niệm liên quan đến mạng lưới xã hội, những khía cạnh,
những mô hình được đưa ra để nghiên cứu mạng lưới xã hội. Ba là, đã tiến
hành phân tích những điểm khác biệt giữa cách phân tích mạng lưới xã hội
với cách phân tích theo biến số truyền thống.
Ở một nghiên cứu khác, “Mạng lưới xã hội của người chấp hành xong
hình phạt tù: nghiên cứu trường hợp thành phố Hồ Chí Minh”, Nguyễn Thị Thu
Hòa đã vận dụng lý thuyết mạng lưới xã hội vào phân tích các đặc điểm mạng
lưới của người chấp hành xong hình phạt tù rất đa dạng và phong phú, trong
mạng lưới xã hội của người chấp hành xong hình phạt tù tồn tại cả những liên
hệ mạnh và liên hệ yếu. Vai trò của những liên hệ trong mạng lưới này là khác
nhau. Cụ thể, những liên hệ mạnh trong mạng lưới gia đình có vai trò rất quan
trọng và cần thiết trong đời sống tinh thần của những người chấp hành xong hình
phạt tù trở về địa phương sinh sống. Tuy nhiên, những mối liên hệ yếu trong
mạng lưới bạn bè, hàng xóm, cộng đồng lại có vai trò quan trọng trong tìm kiếm
việc làm của người chấp hành xong hình phạt tù… [32].
Nguyễn Tuấn Anh (2011), Vốn xã hội và mấy vấn đề đặt ra trong
nghiên cứu vốn xã hội ở Việt Nam hiện nay [3], đã đi vào tổng quan những
17
bài viết, công trình nghiên cứu về vốn xã hội ở Việt Nam và đã chia ra thành
hai nhóm: nhóm giới thiệu về lý thuyết về vốn xã hội, và nhóm vận dụng lý
thuyết vốn xã hội trong các nghiên cứu thực tiễn. Ở hướng nghiên cứu thứ
nhất, nghiên cứu lý thuyết về vốn xã hội, Nguyễn Tuấn Anh đã liệt kê một
loạt tác giả là Trần Hữu Dũng (2003) với bài viết "Vốn xã hội và kinh tế";
Trần Hữu Quang (2006) với bài viết "Tìm hiểu khái niệm vốn xã hội";
Nguyễn Ngọc Bích (2006) "Vốn và vốn xã hội"; Lê Ngọc Hùng (2008) giới
thiệu khái quát lý thuyết về vốn xã hội từ tiếp cận kinh tế để bàn sâu về vốn
xã hội và mạng lưới xã hội ở Việt Nam; Hoàng Bá Thịnh (2009) tập trung
phân tích quan niệm về vốn xã hội, mạng lưới xã hội;… và một số bài viết
khác. Về hướng nghiên cứu thứ hai, tức là hướng nghiên cứu thực nghiệm về
vốn xã hội, có các tác giả như Stephen. J Appold và Nguyễn Quý Thanh
(2004) đã chỉ ra vai trò của vốn xã hội trong các doanh nghiệp nhỏ ở Hà Nội;
Nguyễn Tuấn Anh (2006) về vai trò của vốn xã hội trong quan hệ họ hàng đối
với việc tạo ra nguồn lực tài chính nhằm hỗ trợ trẻ em đến trường; Fleur
Thomese và Nguyễn Tuấn Anh (2007) đã vận dụng quan điểm vốn xã hội để
nghiên cứu các hiện tượng dồn điển đổi thửa trong sản xuất nông nghiệp ở một
làng Bắc Trung Bộ; Lê Ngọc Hùng (2008) với nghiên cứu "Vốn xã hội, vốn con
người và mạng lưới xã hội qua một số nghiên cứu ở Việt Nam";… Trên cơ sở
tổng quan các công trình nghiên cứu trên, Nguyễn Tuấn Anh đã đi đến khẳng
định: nhìn chung ở Việt Nam hiện nay, vốn xã hội không chỉ là một chủ đề mới
mẻ, mà còn hấp dẫn đối với nhiều nhà nghiên cứu, nhất là đối với các nhà nhân
học, kinh tế học và xã hội học. Thông qua các nghiên cứu này, Nguyễn Tuấn
Anh chỉ ra một số vấn đề sau: Một là, về mặt lý luận, các nghiên cứu vẫn còn
khá khiêm tốn; Hai là, về mặt lịch sử, vốn xã hội thường tồn tại dưới nhiều hình
thức tổ chức xã hội như dòng họ, phường, hội, phe, giáp…; Ba là, về nghiên cứu
thực nghiệm và ứng dụng, vẫn còn dừng lại ở giai đoạn khởi đầu; Bốn là, về bản
18
chất hai mặt của vốn xã hội, bên cạnh những tác động tích cực, thì vốn xã hội
cũng có thể kéo theo nó những biểu hiện tiêu cực đối với con người và xã hội.
Sách chuyên khảo: Phép đạc tam giác về vốn xã hội của người Việt
Nam: Mạng lưới xã hội - Lòng tin - Sự tham gia, Nguyễn Quý Thanh (2016)
[66], đã đi sâu vào nghiên cứu mối liên hệ và tương hỗ giữa các thành tố của
vốn xã hội là "mạng lưới quan hệ xã hội", "lòng tin xã hội" thông qua môi
trường là "sự tham gia xã hội". Cuốn sách đã khẳng định, sự hình thành và
phát triển tốt mạng lưới quan hệ xã hội, cùng với việc xây dựng lòng tin xã
hội để sự tham gia xã hội được sâu, rộng chính là cơ sở căn bản để hình thành
và phát triển vốn xã hội của các chủ thể. Với cách tiếp cận này, vốn xã hội
được "nhìn" theo ba góc độ từ một phép đạc tam giác. Cuốn sách được viết
theo phương pháp trả lời cho ba câu hỏi là: (1) "Mạng lưới xã hội của người
Việt Nam hình thành và có đặc điểm như thế nào?"; (2) "Lòng tin xã hội của
người Việt Nam có cấu trúc, sự hình thành ra sao?"; (3) "Sự tham gia xã hội
của người Việt Nam có người biểu hiện gì?". Thông qua sự nghiên cứu phép
đạc tam giác cho thấy mạng lưới quan hệ xã hội và lòng tin xã hội là nguồn
lực tạo ra vốn xã hội; giữa mạng lưới quan hệ xã hội và lòng tin xã hội có sự
tương tác với nhau thông qua sự tham gia xã hội (hay đầu tư, củng cố) từ đó
mà hình thành các đặc tính của vốn xã hội cả về số lượng và tính chất (hữu
hình hay vô hình) trong từng bối cảnh cụ thể.
Ngoài một số công trình, bài viết tiêu biểu đã trình bầy, còn rất nhiều
công trình, bài viết khác nữa đề cập đến lý thuyết và phương pháp tiếp cận về
mạng lưới xã hội. Điểm chung của các bài viết, công trình nghiên cứu trên là
đã làm sáng tỏ nội hàm của mạng lưới xã hội, phân tích các hướng nghiên
cứu, cách tiếp cận lý thuyết, phương pháp tiếp cận, vai trò và tác động của
mạng lưới xã hội đến đời sống của các cá nhân và nhóm xã hội, đặc biệt đã
dựa trên những bằng chứng thực nghiệm để chứng minh cho những nhận định
nghiên cứu của mình cho từng cá nhân, nhóm xã hội, từng lĩnh vực và hoàn
19
cảnh xã hội cụ thể. Tổng quan nghiên cứu các công trình trên giúp tác giả
luận án nhận thức và vận dụng lý thuyết và phương pháp phân tích mạng lưới
xã hội trong từng lĩnh vực cụ thể, mà trực tiếp là nghiên cứu về mạng lưới xã
hội của nhóm sĩ quan cấp úy trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
1.1.2. Những nghiên cứu về mạng lưới xã hội một số nhóm xã hội
Liên hệ xã hội là nền tảng của cuộc sống. Mọi cá nhân đều có liên hệ
với người khác (từ trong gia đình đến dòng tộc, họ hàng, xóm giềng, bạn bè,
xã hội...). Cuộc sống thực tiễn cho thấy, để tồn tại và phát triển, không một cá
nhân nào không có sự gắn kết, không có sự tương tác và liên hệ với người
khác bằng cách này hay cách khác để thực hiện hoạt động giao tiếp, chia sẻ
thông tin, kiến thức, nguồn lực, từ đó làm cho bản thân mình và toàn thể xã
hội tăng cường được sức mạnh và phát triển một cách thuận lợi. Nghiên cứu
về mạng lưới xã hội đã và đang được nhiều nhà nghiên cứu tiếp cận dưới
nhiều góc độ khác nhau tùy thuộc vào mục đích vận dụng. Do đó, nội dung
tiếp cận về mạng lưới xã hội cũng rất phong phú, đa dạng.
Caulkins Sundt (1981) nhà dân tộc học người Na Uy - được coi là
người đầu tiên nghiên cứu về mạng lưới xã hội. Vào năm 1856 ông đã tiến
hành nghiên cứu về tổ chức xã hội của những người nông dân trong một cộng
đồng. Ông đã tiến hành thảo luận về những mối quan hệ giữa các gia đình
thông qua những công việc hệ trọng như việc hiếu, hỷ. Nghiên cứu của Sundt
đã tạo ra tiền đề và nền tảng cơ bản cho các nhà xã hội học, nhân học và
những nhà khoa học khác như Barnes (1954), Mitchell (1974, 1986), Wolfe
(1978) và Georg Simmel nghiên cứu về mạng lưới xã hội [52, dẫn theo Nông
Bằng Nguyên, tr.58-65]. Chẳng hạn như Georg Simmel đã đưa ra khái niệm
“tính liên hệ xã hội”. Theo lý giải của Georg Simmel, tính liên hệ xã hội được
hiểu như một tập hợp các mối quan hệ giữa một cá nhân, một nhóm với
những cá nhân và nhóm khác. Sau này, J.A.Barnes, nhà nhân học người Anh,
người được coi là sáng tạo ra khái niệm "Mạng lưới xã hội". Vào đầu những
20
năm 1950, ông đã đến đảo Bremnes, một đảo nhỏ gồm 4.600 dân của Na Uy,
để nghiên cứu đời sống của cư dân nơi đây trong thời gian hai năm. Sau đó,
vào năm 1954, ông cho công bố trên tạp chí Human Relations bài viết "Class
Committees in a Norvegian ISLand Parish" để mô tả tổ chức xã hội tại
Bremnes thông qua việc phân tích các mối quan hệ giữa các thành viên trong
cộng đồng này. Theo J.A.Barnes thì tại Bremens có ba loại tổ chức khác
nhau: loại thứ nhất là tổ chức chính trị bao gồm các đơn vị hành chính và các
tổ chức tự nguyện và loại tổ chức này có một hệ thống thứ bậc trên dưới
tương đối ổn định; loại tổ chức thứ hai là tổ chức kinh tế được tổ chức quanh
nghề đánh bắt thủy hải sản; cuối cùng là tổ chức xã hội bao gồm các mối quan
hệ phi chính thức giữa các thành viên của đảo. Chính khi mô tả kiểu tổ chức
thứ ba này mà J.A.Barnes đã sáng tạo ra thuật ngữ "Mạng lưới xã hội". Theo
ông, các cư dân tại Bremens gắn chặt với nhau như một mạng lưới quan hệ
bạn bè, thân tộc và ông cũng nhận thấy các mối quan hệ xã hội giữa các cư
dân trên cũng mang tính "chuyển tiếp", nghĩa là một cá nhân A nào đó quan
hệ với hai cá nhân B và C, do đó có nhiều khả năng B và C cũng sẽ có quan
hệ với nhau [69, dẫn theo Lê Minh Tiến].
Ngoài ra, Ericksen and Yancey (1980), đã tiến hành khảo cứu 1780 trường
hợp người lớn ở độ tuổi 65 sinh sống ở vùng Philadelphia vào năm 1975 và nhận
thấy hầu hết những người quen biết là những người có mối quan hệ công việc và
khoảng 2/3 các mối liên hệ mạnh là mối quan hệ bà con người thân [86].
Đề cập tới tác động của mạng lưới xã hội trong việc nâng cao vị thế xã
hội, trong lĩnh vực kinh tế, tinh thần của các cá nhân, Nan Lin (1999), trong công
trình “Mạng lưới xã hội và vị thế đạt được” cho rằng sự di động xã hội từ vị trí
thấp đến vị trí cao thông qua những mối quan hệ xã hội trực tiếp và gián tiếp,
mặc dù nguồn lực này chỉ mang tính tạm thời và có thể vay mượn được, nhưng
nó lại là yếu tố quan trọng giúp nâng cao vị thế xã hội của chủ thể và điều đó trở
thành một nguồn vốn mà cá nhân có thể sử dụng được đó là vốn xã hội [89].
21
Tại San Francisco, nhà xã hội học Pierette Hondagneu - Sotelo tiến
hành một cuộc khảo sát những người phụ nữ Mỹ gốc La tinh làm nghề giúp
việc nhà trong các gia đình trung và thượng lưu, đã phát hiện những phụ nữ
này đã tạo ra mạng lưới xã hội những người phụ nữ cùng nghề nghiệp có thể
chia sẻ với nhau những thông tin quý giá và những chiến thuật để có thể nhận
được lương hậu hơn [60, tr.158].
Ở trong nước, bài viết của Văn Ngọc Lan và Trần Đan Tâm (1998),
“Thử khảo sát vận động của mạng lưới xã hội trong đời sống dân cư”, đăng
trong cuốn “Vấn đề giảm nghèo trong đời sống đô thị ở thành phố Hồ Chí
Minh”, đã khẳng định mạng lưới xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến sự trợ giúp
cá nhân như vấn đề tìm việc làm, thu nhập và nhập cư vào các đô thị lớn. Các
tác giả khẳng định có được việc làm, hầu hết các cá nhân đều có sự giúp đỡ
của người khác, và, các thông tin và sự trợ giúp cần thiết trong quá trình di cư
của cá nhân được thông qua các quan hệ họ hàng, bạn bè, các tổ chức đoàn
thể… trong đó, mối quan hệ gia đình đóng một vai trò hết sức quan trọng.
Nghiên cứu sự tác động của mạng lưới xã hội đối với đời sống cư dân khu
vực thành phố Hồ Chí Minh, các tác giả cũng khẳng định, mạng lưới xã hội
như gia đình, họ hàng, bạn bè có vai trò rất quan trọng để cá nhân có được
một vị trí xã hội nhất định. Những người có xuất thân từ gia đình nghèo khó,
cơ may thăng tiến trong xã hội rất nhỏ. Ngược lại, những cá nhân có nguồn
gốc gia đình khá giả càng có cơ hội thuận lợi, do đó có nhiều khả năng gia
tăng nội lực và dễ dàng dựa vào người thân, họ hàng để duy trì hay thay đổi vị
thế xã hội hiện tại [46, tr.440-442].
Trong công trình "Vai trò của mạng lưới xã hội trong quá trình di cư" [2],
Đặng Nguyên Anh (1998), đã coi mạng lưới xã hội như một trong những nhân tố
quan trọng quyết định toàn bộ quá trình di cư. Ảnh hưởng của mạng lưới xã hội
đối với di cư còn có sự khác nhau theo đặc điểm hộ gia đình, cá nhân cũng như
khác biệt về giới tính. Đối với nhóm đối tượng di chuyển có nguồn lực hạn chế,
22
mạng lưới xã hội góp phần tạo nên một chiến lược quan trọng đối với sự phát
triển kinh tế cá nhân và hộ gia đình. Một trong những đặc trưng rõ nét nhất của
mạng lưới di cư là sự liên kết xã hội giữa những người di cư. Thông qua những
quan hệ họ hàng, bạn bè, người thân, người di chuyển tiếp nhận được thông tin
và sự trợ giúp cần thiết tại nơi mà họ sẽ chuyển đến. Chính ở đây các quan hệ lâu
bền dựa trên nền tảng gia đình trở nên hết sức quan trọng. Thông qua sự gắn kết
chặt chẽ với nhau, người di chuyển tạo nên những liên kết thông qua gia đình,
thân tộc tin cậy hơn nhiều so với quan hệ người ngoài. Theo Đặng Nguyên Anh,
mạng lưới di cư còn có ý nghĩa quan trọng trong việc giải thích nguyên nhân các
loại hình di chuyển, quá trình di cư và thích ứng cũng như ý định chuyển cư
trong tương lai. Bởi quá trình di cư tiềm ẩn rất nhiều bất trắc, rủi ro giữa thuận
lợi hay khó khăn, giữa thành công hay thất bại. Một mạng lưới xã hội tin cậy sẽ
góp phần làm giảm những rủi ro do thiếu thông tin. Các liên kết xã hội giữa nơi
xuất cư và nơi nhập cư sẽ góp phần giảm thấp cái giá (kinh tế và tâm lý) phải trả
cho quá trình di cư, đồng thời làm tăng vận hội thành công của đối tượng di
chuyển tại nơi đến. Gia đình, bạn bè, người thân tại nơi chuyển đến thường giữ
vai trò cưu mang, cung cấp thông tin, giúp liên hệ việc làm cũng như vượt qua
những khó khăn ban đầu. Kết quả khảo sát cho thấy xấp xỉ 75% đối tượng khảo
sát (trong tổng số 1.864 người) có người thân, họ hàng hoặc bạn bè hiện sống tại
nơi chuyển đến đã cho thấy nhận định này [2]. Mạng lưới xã hội mà người di
chuyển có được tại nơi nhập cư sẽ làm thuận tiện thêm quá trình hòa nhập của họ
vào môi trường sống mới.
Nghiên cứu về mạng lưới xã hội một số nhóm xã hội, Lê Ngọc Hùng có
các công trình nghiên cứu Lý thuyết và phương pháp tiếp cận mạng lưới xã hội:
trường hợp tìm kiếm việc làm của sinh viên (2003) [43], và Vốn xã hội, vốn con
người và mạng lưới xã hội qua một số nghiên cứu ở Việt Nam (2008) [44], đã
tập trung vào phân tích vai trò của các nhóm xã hội từ trong gia đình đến các
nhóm xã hội nghề nghiệp. Trong đó, ở công trình Lý thuyết và phương pháp tiếp
23
cận mạng lưới xã hội: trường hợp tìm kiếm việc làm của sinh viên, tác giả đã chỉ
ra những yếu tố cơ bản, quyết định nhất tạo nên mạng lưới xã hội ở đây là các
thành viên gia đình như bố mẹ, anh em, bà con ruột thịt; những người thân quen
của gia đình, các bạn bè của cá nhân và những người khác, những nhóm và tổ
chức xã hội mà họ có những mối liên hệ nhất định trong quá trình sống, sinh
hoạt, học tập và tham gia vào thị trường lao động xã hội. Về mặt lý thuyết có thể
nêu khái quát ba kiểu mạng lưới xã hội: (1) kiểu truyền thống: cá nhân chủ yếu
dựa vào các quan hệ gia đình để tìm kiếm việc làm, (2) kiểu hiện đại: cá nhân
chủ yếu dựa vào các mối quan hệ chức năng với các cơ quan, tổ chức và các
thiết chế của thị trường lao động để tìm kiếm việc làm, và (3) kiểu hỗn hợp, kết
hợp truyền thống và hiện đại. Tác giả Lê Ngọc Hùng nhấn mạnh, mặc dù kiểu
hỗn hợp là chủ yếu hiện nay, nhưng cùng với sự phát triển của thị trường lao động
xã hội với các yếu tố mang tính dịch vụ chuyên nghiệp và chuyên môn hóa ngày
càng cao, kiểu mạng lưới hiện đại sẽ chiếm ưu thế trong đời sống xã hội cụ thể và
ở đây là tìm kiếm việc làm. Như vậy, qua phân tích của Lê Ngọc Hùng cho thấy
sinh viên chủ yếu phải dựa vào mạng lưới xã hội để đạt được những mục đích
nhất định trong đó có vấn đề tìm kiếm việc làm, hay nói cách khác mạng lưới xã
hội có vai trò trực tiếp làm cầu nối và hỗ trợ tìm kiếm việc làm của sinh viên.
Trong khi đó, ở bài viết Vốn xã hội, vốn con người và mạng lưới xã hội
qua một số nghiên cứu ở Việt Nam, tác giả đã đi vào phân biệt một số mạng lưới
xã hội gồm: Mạng lưới xã hội của người lao động. Mạng lưới xã hội của người
lao động tự do, cụ thể là của người bán hàng rong và người lao động tự do ở Hà
Nội. Mạng lưới xã hội thủ công đặc trưng bởi quan hệ chủ - thợ trong phạm vi
nhóm nhỏ mà quan hệ này chủ yếu dựa vào mối quan hệ tình cảm. Mạng lưới xã
hội đồng nghiệp đặc trưng bởi sự xuất hiện nhân vật trung gian là người nhận
thầu thường là kỹ sư. Mạng lưới xã hội thứ bậc có đặc trưng thứ nhất là sự
chuyên môn hoá theo thứ bậc trong nhóm nhận thầu. Mạng thông tin của doanh
24
nghiệp trong quá trình đổi mới, doanh nghiệp chuyển dần sang mô hình mạng
mở rộng với môi trường thông tin bên ngoài có sự tham gia của các đầu mối
thông tin chuyên nghiệp và các mạng lưới xã hội chính thức và phi chính thức.
Mạng di cư, người di cư chủ yếu sử dụng mạng lưới quan hệ xã hội truyền thống
(người nhà, người thân quen, bạn bè) để giao dịch kinh tế như tìm việc làm, vay
tiền, gửi tiền về nhà [44].
Tóm lại, xung quanh nội dung nghiên cứu về mạng lưới xã hội đối với các
nhóm xã hội có rất nhiều bài viết, công trình nghiên cứu khác nhau tùy theo ý
định tìm hiểu của các tác giả mà nghiên cứu, khai thác ở những nội dung, khía
cạnh khác nhau, song tựu chung lại, các tác giả đều nhấn mạnh đến vai trò của
mạng lưới xã hội đối với đời sống xã hội nói chung, cụ thể là tính liên hệ xã hội
giữa một cá nhân, nhóm với những cá nhân và nhóm khác (Georg Simmel);
Ericksen and Yancey (1980) về người lớn ở độ tuổi 65 với các mối quan hệ công
việc và mối quan hệ bà con người thân thông qua các liên hệ mạnh/yếu; nghiên
cứu những mối quan hệ giữa các gia đình của Caulkins Sundt (1981); Nan Lin
(1999) với mạng lưới xã hội và vị thế đạt được; Văn Ngọc Lan và Trần Đan Tâm
(1998), sự tác động của mạng lưới xã hội đối với đời sống cư dân; "Vai trò của
mạng lưới xã hội trong quá trình di cư" của Đặng Nguyên Anh (1998); Lê Ngọc
Hùng (2003), trong trường hợp tìm kiếm việc làm của sinh viên.
Các công trình nêu trên đã vận dụng nghiên cứu cấu trúc và vai trò mạng
lưới xã hội đối với các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội bằng các nghiên
cứu thực nghiệm để chứng minh cho những nhận định nghiên cứu của mình về
từng cá nhân, nhóm xã hội, từng lĩnh vực và hoàn cảnh xã hội cụ thể. Tổng quan
các công trình này đã góp phần quan trọng cho tác giả luận án trong nhận thức
và vận dụng nghiên cứu, phân tích đặc điểm, tính chất và vai trò của mạng lưới
xã hội nhóm sĩ quan cấp úy sau này.
25
1.2. NGHIÊN CỨU VỀ NHÓM SĨ QUAN QUÂN ĐỘI VÀ MẠNG LƯỚI XÃ
HỘI SĨ QUAN QUÂN ĐỘI
Nghiên cứu về sĩ quan và mạng lưới xã hội của nhóm sĩ quan, sĩ quan cấp
úy trong quân đội hiện nay có rất nhiều công trình nghiên cứu dưới nhiều góc độ
tiếp cận của các khoa học như quân sự, công tác đảng, tâm lý, triết học. Trong đề
tài luận án, tác giả chỉ đi vào tổng quan các công trình nghiên cứu, các đề tài, bài
viết dưới góc độ khoa học xã hội và nhân văn, thông qua hai nội dung: Những
nghiên cứu về nhóm sĩ quan quân đội, và nghiên cứu về mạng lưới xã hội của
nhóm sĩ quan, sĩ quan cấp úy trong quân đội.
1.2.1. Những nghiên cứu về nhóm sĩ quan quân đội
Đề tài khoa học cấp Bộ Quốc phòng: “Những vấn đề lý luận và thực tiễn
xây dựng quân đội về chính trị trong giai đoạn cách mạng mới”, (Chương trình
khoa học công nghệ cấp Bộ Quốc phòng - mã số KXB - 96), đi sâu vào nghiên
cứu, đưa ra quan niệm cơ bản về xây dựng quân đội về chính trị, trong đó tập
trung vào xây dựng đội ngũ cán bộ sĩ quan chính trị và đề cập một số biện pháp
nâng cao trình độ, năng lực toàn diện cho đội ngũ này.
Phạm Xuân Hảo có các công trình: “Cơ cấu xã hội của đội ngũ sĩ quan
trung, sơ cấp trong Quân đội nhân dân Việt Nam - Thực trạng và xu hương biến
đổi” (Luận án tiến sĩ, 1996):; “Bồi dưỡng lối sống xã hội chủ nghĩa cho đội
ngũ sĩ quan trẻ trong quân đội hiện nay” (Sách, 2004); "Tác động của phân
hóa giàu nghèo ở nước ta đến ý thức chính trị của đội ngũ sĩ quan trẻ quân đội
hiện nay" (Đề tài cơ sở, 2009). Trong "Cơ cấu xã hội của đội ngũ sĩ quan trung,
sơ cấp trong Quân đội nhân dân Việt Nam - Thực trạng và xu hương biến đổi”,
tác giả đã phân tích thực trạng và dự báo xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội của
đội ngũ sĩ quan trung cấp (sĩ quan cấp thiếu tá, trung tá), sơ cấp (sĩ quan cấp úy)
trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Với quan niệm cơ cấu xã hội gồm các yếu
tố cấu thành và liên hệ giữa các yếu tố đó, luận án đã mô tả mức độ, tính chất
quan hệ xã hội của nhón sĩ quan trung cấp, sơ cấp theo các phân hệ cơ cấu xã hội
26
cơ bản: thành phần xuất thân, lãnh thổ, tộc người, loại hình sĩ quan, quân hàm,
tuổi quân,… Đồng thời, đã có những mô tả, phân tích về quan hệ xã hội của
nhóm sĩ quan trung, sơ cấp. Luận án chỉ ra rằng, trong chiến tranh, quan hệ xã
hội của nhóm sĩ quan mang tính chất “đóng”, quan hệ theo quân hàm, trên dưới
giữ vai trò chủ đạo; trong điều kiện thời bình, quan hệ xã hội của sĩ quan có xu
hướng “mở”, quan hệ “kiểu gia đình” có xu hướng gia tăng; sĩ quan tham gia
nhiều nhóm xã hội bên ngoài đơn vị, tạo nên tính phức tạp, đa dạng, đa chiều
trong quan hệ xã hội của nhóm xã hội này.
Công trình “Bồi dưỡng lối sống xã hội chủ nghĩa cho đội ngũ sĩ quan
trẻ trong quân đội hiện nay” [27] đã tập trung vào làm rõ tầm quan trọng của
việc bồi dưỡng lối sống xã hội chủ nghĩa cho đội ngũ sĩ quan trẻ trong quân
đội hiện nay, đồng thời đánh giá thực trạng, chỉ ra nguyên nhân và kinh
nghiệm bồi dưỡng lối sống xã hội chủ nghĩa cho đội ngũ sĩ quan trẻ trong
quân đội hiện nay và cho rằng, bồi dưỡng lối sống xã hội chủ nghĩa cho đội
ngũ sĩ quan trẻ là một yêu cầu khách quan của quá trình xây dựng quân đội
vững mạnh toàn diện, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở, nền tảng, nhằm
đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
thời kỳ mới. Tác giả còn đi vào tìm hiểu nhân tố tác động và giải pháp chủ
yếu bồi dưỡng lối sống xã hội chủ nghĩa cho đội ngũ sĩ quan trẻ trong thời kỳ
mới. Ở công trình "Tác động của phân hóa giàu nghèo ở nước ta đến ý thức
chính trị của đội ngũ sĩ quan trẻ quân đội hiện nay" [29] tác giả đã chỉ rõ: Phân
hoá giàu nghèo là hiện thực khách quan ở nước ta hiện nay. Nó đã và đang
ảnh hưởng, chi phối đến mọi tầng lớp xã hội, mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội, mọi quan hệ xã hội từ trong gia đình đến các cộng đồng người và toàn xã
hội theo các chiều hướng khác nhau, cả tích cực và tiêu cực. Phân hoá giàu
nghèo và những hệ lụy xã hội của nó đã tác động đến ý thức chính trị sĩ quan
trẻ: nhận thức chính trị, thái độ và niềm tin chính trị, hành vi chính trị. Hệ luỵ xã
hội của phân hoá giàu nghèo đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết
27
trong quá trình xây dựng đội ngũ sĩ quan trẻ về số lượng, chất lượng, nhằm
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của quân đội, yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa thời kỳ mới.
Về xây dựng đội ngũ cán bộ sĩ quan quân đội hiện nay, Lê Văn Dũng
(2005), nhấn mạnh đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ trong Quân đội nhân dân
Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh [18]. Tác giả cho rằng, với yêu cầu nhiệm
vụ mới hiện nay, cần tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng trong quân đội
vững mạnh, đủ sức hoàn thành mọi nhiệm vụ mà Đảng, quân đội và nhân dân
giao phó. Do đó, cần phát huy trách nhiệm của các cấp, các ngành, tạo nên sức
mạnh tổng hợp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
chỉ huy, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; có phẩm chất
đạo đức, lối sống trong sạch, lành mạnh, có ý thức tổ chức kỷ luật, đoàn kết, có
năng lực lãnh đạo, chỉ huy, quản lý đơn vị và thực hiện nhiệm vụ phù hợp với
yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; có phương
pháp, tác phong công tác khoa học, độ tuổi phù hợp, được quần chúng tín nhiệm,
bảo đảm sự kế thừa liên tục, vững chắc các lớp cán bộ.
Bàn về vai trò của nhóm sĩ quan hiện nay, một số tác giả hay công trình
nghiên cứu lại nhấn mạnh khía cạnh chủ thể tác động đến việc nâng cao chất
lượng giáo dục - đào tạo đội ngũ sĩ quan. Các tác giả chỉ ra rằng cần phải xây
dựng đội ngũ sĩ quan quân đội, những người có trình độ học hàm, học vị và
đang công tác ở các học viện, nhà trường quân đội có trình độ chuyên sâu về
từng lĩnh vực, từng chuyên ngành cụ thể để đáp ứng được mục tiêu mô hình
đạo tạo sĩ quan quân đội hiện nay. Trong đó, Nguyễn Tiến Quốc (2005) đi
vào tổng quan những thành tựu của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ giảng
viên và cán bộ khoa học ở của học viện, nhà trường. Tác giả cho rằng, sự
trưởng thành của đội ngũ cán bộ sĩ quan làm công tác huấn luyện, giáo dục -
đào tạo và chất lượng hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và
28
quân đội giao phó. Trên cơ sở những thành công đã đạt được, tác giả cũng đã
chỉ ra nguyên nhân của thành tựu và hạn chế, từ đó đề xuất một số biện pháp
cụ thể để xây dựng đội ngũ cán bộ giảng dạy và cán bộ khoa học trong các
nhà trường, học viện quân đội.
Nghiên cứu "Sĩ quan trẻ với tư duy về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc thời kỳ
hội nhập WTO" [19], Nguyễn Bá Dương (2008) cho rằng, trước những biến
đổi của tình hình thế giới, khu vực và trong nước hiện nay, nghiên cứu vấn đề
tư duy, đổi mới tư duy xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, trước hết là tư duy biện
chứng duy vật của đội ngũ sĩ quan trẻ - những người sẽ gánh vác trọng trách
lãnh đạo, chỉ huy, quản lý quân đội thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa thời kỳ Việt Nam hội nhập WTO là việc làm có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn cấp bách, là góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân xây
dựng Quân đội Việt Nam chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, thực hiện
thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới. Tác giả đã
làm rõ những nội dung như bản chất, đặc trưng và vai trò tư duy lý luận của sĩ
quan trẻ, tính tất yếu khách quan, yêu cầu và định hướng phát triển tư duy
biện chứng duy vật của đội ngũ sĩ quan trẻ thời kỳ hội nhập WTO.
Đặng Ngọc Kiện (2015) lại quan tâm đến vấn đề "Khắc phục những
biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân ở đội ngũ sĩ quan trẻ trong quân đội hiện
nay" [45], đăng trên Thanh niên Việt, ngày 14/10/2015. Tác giả khẳng định,
chủ nghĩa cá nhân và khắc phục những biểu hiện của nó ở trong quân đội nhất
là trong đội ngũ cán bộ đảng viên là vấn đề mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chính
Minh thường xuyên quan tâm trong suốt quá trình tổ chức, xây dựng, giáo dục
quân đội ta. Tác giả nhấn mạnh, về vấn đề chống chủ nghĩa cá nhân mà trước
hết là khắc phục những biểu hiện của nó trong đội ngũ sĩ quan trẻ quân đội
hiện nay là một vấn đề cấp thiết nhằm góp phần xây dựng quân đội ta vững
mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Theo Đặng Ngọc Kiện,
29
chủ nghĩa cá nhân ở sĩ quan trẻ có nhiều biểu thể hiện tính phức tạp đa dạng
của nó như ham danh tiếng và địa vị xuất phát từ tâm lý hiếu thắng hơn
người, tự cao tự đại trong quá trình phấn đấu rèn luyện cũng như trong các
mối quan hệ công tác thường có những biểu hiện công thần, kiêu ngạo, ganh
tỵ, thành tích, kèn cựa địa vị với đồng đội, đố kỵ lẫn nhau bè phái cục bộ…
Tác giả cũng đã đưa ra một số biện pháp khắc phục những biểu hiện của chủ
nghĩa cá nhân ở đội ngũ sĩ quan trẻ trong tình hình mới.
Có thể khẳng định nghiên cứu về nhóm sĩ quan hiện nay đã có rất nhiều
công trình. Tựu chung lại, các công trình chủ yếu xung quanh vấn đề nhấn mạnh
vai trò của đội ngũ sĩ quan đối với sự nghiệp xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc
và nhấn mạnh đội ngũ cán bộ sĩ quan quân đội luôn luôn xứng đáng là lực lượng
nòng cốt của quân đội, bảo đảm cho quân đội thực sự là lực lượng chính trị, lực
lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Do đó
cần phải tập trung và nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục - đào tạo đội ngũ
này. Các bài viết, công trình, đề tài đều đề xuất những giải pháp góp phần củng
cố, hình thành nên những phẩm chất, năng lực, đạo đức, lối sống, phương pháp
tác phong nhằm xây dựng đội ngũ sĩ quan có chất lượng phù hợp với mục tiêu
yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội thời kỳ mới.
Về cơ bản, các công trình nghiên cứu đội ngũ sĩ quan Quân đội nhân dân
Việt Nam hiện nay đều tiếp cận dưới góc độ chính trị - xã hội, khoa học công tác
đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Song, nếu nhìn dưới
góc độ cấu trúc - chức năng, nhận thấy rằng, các công trình nghiên cứu về nhóm
sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay hướng tới nghiên cứu các quan hệ
chức năng của sĩ quan quân đội. Các công trình nghiên cứu đó luôn xác định vị
trí, vị thế của nhóm sĩ quan quân đội trong mối quan hệ với Đảng, Tổ quốc, nhân
dân, với đồng đội, với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, từ đó mà xác định
những tiêu chí nhằm đánh giá phẩm chất, năng lực của nhóm xã hội này và định
hướng cho việc tu dưỡng, rèn luyện của mỗi sĩ quan để họ làm tròn vai trò, chức
30
năng của người chỉ huy các cấp trong quân đội. Thông qua những công trình
nghiên cứu đó mà nhận rõ thêm hơn những chiều cạnh quan hệ xã hội của nhóm
sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, chủ yếu là các quan hệ xã hội
gắn với chức năng, nhiệm vụ của quân đội, với chức trách, nhiệm vụ của sĩ quan,
những cán bộ chỉ huy các cấp trong quân đội.
1.2.2. Những nghiên cứu về mạng lưới xã hội của nhóm sĩ quan, sĩ
quan cấp úy trong quân đội
Một số công trình của Phạm Xuân Hảo: Bài viết "Quản lý các quan hệ xã
hội của đội ngũ sĩ quan - một nội dung quan trọng của công tác cán bộ trong giai
đoạn cánh mạng mới" (1997); Sách: "Một số vấn đề xã hội học trong xây dựng
quân đội, xây dựng nền quốc phòng toàn dân" (2005); Đề tài: “Tác động của
phân hoá giàu nghèo ở nước ta đến ý thức chính trị của đội ngũ sĩ quan trẻ
quân đội hiện nay” (2009); Chương 8, Xã hội học quân sự (Giáo trình dùng cho
đào tạo bậc đại học): "Phân hoá giàu nghèo và xây dựng quân đội về chính trị"
(2001); "Đẩy mạnh bồi dưỡng năng lực quản lý các quan hệ xã hội của quân
nhân cho đội ngũ chính trị viên" (2013); "Giáo trình xã hội học quân sự" (Dùng
cho đào tạo chính ủy cấp trung, sư đoàn) (2014). Ở bài viết "Quản lý các quan
hệ xã hội của đội ngũ sĩ quan - một nội dung quan trọng của công tác cán bộ
trong giai đoạn cánh mạng mới", khẳng định, quản lý các quan hệ xã hội của đội
ngũ sĩ quan không phải là một nội dung mới, mà đã được tiến hành từ khi thành
lập quân đội cho đến nay. Quản lý các quan hệ xã hội của đội ngũ sĩ quan nhằm
góp phần giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức, năng lực để đội ngũ sĩ quan
hoàn thành nhiệm vụ xây dựng, chiến đấu của quân đội. Tác giả cho rằng, ngày
nay, sĩ quan quân đội chịu sự tác động của nhiều mặt đời sống xã hội và ảnh
hưởng của các nhóm xã hội. Trong thời bình quan hệ xã hội của đội ngũ sĩ quan
ngày càng đa dạng, phức tạp, khó kiểm soát, sĩ quan quân đội không chỉ có quan
hệ công tác, quan hệ gia đình, dòng họ, mà còn có các quan hệ kinh tế, quan hệ
với vai trò là một công dân. Quan hệ đa dạng đó ảnh hưởng không nhỏ đến tâm
31
tư, tình cảm, cách sống của sĩ quan theo cả hai chiều tích cực và tiêu cực, thậm chí
còn tác động đến định hướng nghề nghiệp quân sự. Khi quan hệ xã hội của sĩ quan
ngày càng đa dạng, phức tạp, khó kiểm soát thì công tác cán bộ nên thực hành
quản lý thường xuyên, chặt chẽ của quan hệ xã hội của sĩ quan bằng nhiều hình
thức khác nhau [26]. Cần quản lý theo đa tuyến, với cách nhìn rộng, phân tích đầy
đủ các quan hệ xã hội cơ bản, thường xuyên, không chỉ vạch ra thực trạng mà còn
phải dự báo xu hướng biến động các quan hệ xã hội của đội ngũ sĩ quan.
Sách: "Một số vấn đề xã hội học trong xây dựng quân đội, xây dựng nền
quốc phòng toàn dân" [28] có mục bàn về quản lý các quan hệ xã hội của đội ngũ
sĩ quan (trang140-151). Cuốn sách đã đưa ra quan niệm về quan hệ xã hội, cho
rằng: “Thông qua hoạt động xã hội con người xác lập các quan hệ xã hội theo vị
trí, vị thế, chức năng xã hội”; “Quan hệ xã hội của đội ngũ sĩ quan là những liên
hệ xã hội mà đội ngũ sĩ quan tiến hành trong hoạt động quân sự, trong tổ chức
quân sự và trong xã hội” để thực hiện chức trách, nhiệm vụ và hoàn thiện mình.
Về quan hệ xã hội của đội ngũ sĩ quan, tác giả khẳng định: Quan hệ xã hội của đội
ngũ sĩ quan hiện nay được mở rộng, mang tính “đa phương”; quan hệ xã hội mang
tính đa phương đó ảnh hưởng không nhỏ đến tâm tư, tình cảm, cách sống của sĩ
quan theo hai chiều tích cực và tiêu cực, tạo ra sự giằng xé giữa cống hiến và
hưởng thụ trong mỗi con người sĩ quan.
Trong các công trình“Tác động của phân hoá giàu nghèo ở nước ta
đến ý thức chính trị của đội ngũ sĩ quan trẻ quân đội hiện nay” [29]; Chương
8, Xã hội học quân sự (Giáo trình dùng cho đào tạo bậc đại học): "Phân hoá giàu
nghèo và xây dựng quân đội về chính trị" [58] đã chỉ ra tính chất quan hệ xã hội
của quân nhân từ góc độ tiếp cận phân hóa giàu nghèo. Trong các công trình đó
tác giả đã chỉ ra rằng, hoạt động nhằm bảo đảm đời sống của gia đình ngày càng
tốt hơn đã buộc các sĩ quan quân đội mở rộng quan hệ xã hội không chỉ trong
đơn vị mà còn diễn ra ở cả bên ngoài đơn vị; không chỉ có quan hệ theo chức
năng mà còn có những quan hệ cá nhân về kinh tế, văn hóa, xã hội. Vì thế, mạng
32
lưới quan hệ xã hội của sĩ quan ngày càng đa dạng, phức tạp, ẩn chứa yếu tố
kinh tế, văn hóa, xã hội, yếu tố lợi ích cá nhân, có thể xuất hiện quan hệ mang
tính giàu nghèo. Từ đó gợi mở hướng nghiên cứu về tính chất “đẳng cấp giàu
nghèo” trong quan hệ giữa các quân nhân do phân hóa giàu nghèo mang lại.
Trong bài viết "Đẩy mạnh bồi dưỡng năng lực quản lý các quan hệ xã hội
của quân nhân cho đội ngũ chính trị viên" [30] lại đi vào nghiên cứu vai trò của
đội ngũ chính trị viên với công tác quản lý các quan hệ xã hội của quân nhân.
Tác giả nhấn mạnh, chính trị viên phải nhận diện kịp thời, đúng, cụ thể các
quân nhân trong đơn vị đang nghĩ gì, sẽ làm gì, có những vướng mắc và mong
ước gì,…? Muốn vậy, phải nắm cho tường minh các quan hệ xã hội hiện tại
của họ. Phải biết được “mạng lưới các quan hệ xã hội” của các quân nhân thì
mới hiểu hết được “con người xã hội” của mỗi quân nhân, từ đó mới có
những kế hoạch, biện pháp cụ thể trong tiến hành công tác tư tưởng, công tác
tổ chức và công tác chính sách trong đơn vị. Do đó, đẩy mạnh bồi dưỡng cho
chính trị viên năng lực quản lý các quan hệ xã hội của quân nhân là một đòi
hỏi khách quan, mang tính cấp thiết hiện nay [30]. Nội dung bồi dưỡng năng
lực quản lý các quan hệ xã hội của quân nhân, về thực chất, theo tác giả là bồi
dưỡng phương pháp, tác phong công tác cho chính trị viên, bồi dưỡng cách
làm việc, cách ứng xử của người “đại diện của Đảng” trong quân đội - cách
làm việc, cách ứng xử của người lãnh đạo cụ thể, tỉ mỉ, sâu sát, có lý, có tình.
Ngoài ra, trong bồi năng lực quản lý các quan hệ xã hội của quân nhân cho
chính trị viên cần chú trọng bồi dưỡng phương thức nắm bắt dư luận quân
nhân; nắm bắt các nhóm xã hội quân nhân, chú trọng nắm bắt các nhóm xã
hội quân nhân phi chính thức; nắm bắt các quan hệ xã hội của quân nhân ở bên
ngoài quân đội, đơn vị.
Trong Chương 3, "Giáo trình xã hội học quân sự" (Dùng cho đào tạo
chính ủy cấp trung, sư đoàn), có nội dung về quân nhân và quan hệ xã hội của
quân nhân. Trong đó đã trình bầy khá rõ lý luận và thực tiễn về quan hệ xã hội
33
của quân nhân. Sách đã chỉ rõ: mạng lưới quan hệ xã hội của quân nhân đa dạng,
đan cài, đan xen, luôn biến động, phức tạp và khó kiểm soát; hình thức, mức độ,
tính chất quan hệ xã hội của quân nhân phụ thuộc vào vị trí, vị thế, vai trò của họ
trong quân đội, ngoài quân đội và phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, văn hóa, xã
hội của đất nước, phụ thuộc vào vị thế xã hội của quân đội trong xã hội và hoạt
động thực hiện các chức năng của quân đội; phụ thuộc vào sự năng động trong
hoạt động thực tiễn của quân nhân.
Nguyễn Thanh Tuấn và Đinh Quang Tuấn đồng chủ biên (2015) "Quản lý
các quan hệ xã hội của quân nhân ở đơn vị cơ sở trong tình hình mới", [56] là
cuốn sách được biên soạn dựa trên kết quả nghiên cứu đề tàì cấp Bộ Quốc
phòng. Cuốn sách đã phân tích khá sâu sắc về quan hệ xã hội của quân nhân ở
đơn vị cơ sở trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay. Mô tả, phân tích các
loại hình quan hệ xã hội của người quân nhân ở đơn vị quân đội: quan hệ với
Đảng, Tổ quốc và nhân dân; quan hệ trong nội bộ quân nhân, quan hệ với các
nhóm xã hội bên ngoài đơn vị; quan hệ xã hội chính thức và phi chính thức;
quan hệ chức năng và quan hệ phi chức năng và chỉ rõ: quan hệ xã hội của quân
nhân ở đơn vị cơ sở của quân đội hiện nay đa dạng, phong phú, phức tạp, khó
kiểm soát. Nội dung nổi trội của cuốn sách trong phân tích quan hệ xã hội của
quân nhân ở đơn vị cơ sở quân đội hiện nay là làm nổi bật tính chất xã hội của
nó. Về quan hệ giữa các quân nhân, cuốn sách đánh giá: các quan hệ “theo đúng
chức trách, nhiệm vụ, đúng quy định của điều lệnh quân đội và pháp luật của
Nhà nước”; “Tính chất dân chủ, bình đẳng giữa các quân nhân ở đơn vị cơ sở
khá tốt và là nét nổi trội trong đời sống chính trị - tinh thần của quân đội hiện
nay”; tuy vậy “vẫn còn những hạt sạn: cán bộ quân phiệt với chiến sĩ, chiến sĩ
gây gổ đánh nhau,…”. Về quan hệ xã hội của quân nhân bên ngoài đơn vị, cuốn
sách chỉ ra rằng: “khá đa dạng, phức tạp, với tính chất và mức độ khác nhau, khó
kiểm soát”; mạng quan hệ xã hội phủ rộng trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội; bao gồm: quan hệ chức năng và quan hệ phi chức năng, quan
34
hệ chính thức và phi chính thức, quan hệ dựa trên huyết thống, tình cảm và quan
hệ dựa trên lợi ích. Về cơ bản, quan hệ giữa quân nhân và nhân dân “mang tính
tích cực”, tình đoàn kết quân dân được củng cố, phát huy; song cũng đã xuất
hiện một vài hiện tượng làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quan hệ giữa quân đội
và nhân dân. Cá biệt, có quân nhân đã tham gia vào các tệ nạn xã hội ở địa
phương như: cờ bạc, cho vạy nặng lãi, rượu chè bê tha,… Như thế, cuốn sách
đã cho thấy mạng lưới quan hệ xã hội của quân nhân nói chung, sĩ quan ở đơn
vị cơ sở nói riêng hiện nay đa dạng, phức tạp và khó kiểm soát. Mạng lưới xã
hội ảnh hưởng đến tính tích cực chính trị - xã hội của quân nhân theo hai
chiều tích cực và tiêu cực.
Phạm Xuân Hảo và Đặng Văn Thi (2016), đồng chủ biên trong cuốn sách:
“Cơ cấu xã hội của nhóm sĩ quan cấp úy trong Quân đội nhân dân Việt Nam
trong thời kỳ mới” [31], tập trung vào nghiên cứu cơ cấu xã hội sĩ quan cấp úy.
Xét trong cơ cấu xã hội các nhóm sĩ quan cấp úy trong quân đội có nhóm chính
thức, nhóm không chính thức. Các nhóm này có kiểu quan hệ khác nhau, đó là
quan hệ theo chức năng và quan hệ không theo chức năng. Những quan hệ theo
chức năng được được hình thành và quy định bởi điều lệnh quân đội và mang
bản chất giai cấp của quân đội. Các quan hệ không theo chức năng chủ yếu diễn
ra ở các nhóm không chính thức như nhóm cùng quê hương, nhóm cùng sở
thích, cùng tuổi… Việc quản lý các quan hệ xã hội của các nhóm chính thức và
không chính thức có vai trò rất lớn trong quản lý sĩ quan cấp úy, là nhân tố quan
trọng ảnh hưởng đến quản lý đơn vị. Đề tài đã chỉ rõ, việc nghiên cứu các nhóm
xã hội trong quân đội thông qua phân tích cơ cấu xã hội, quan hệ xã hội nhóm sĩ
quan cấp úy có ý nghĩa rất quan trọng, là cơ sở để đề ra những yêu cầu và biện
pháp quản lý nhóm xã hội này, đồng thời phát huy tốt vai trò nhóm sĩ quan cấp
úy trong quân đội hiện nay.
Đào Ngọc Tuấn có các bài viết: Quản lý các mối quan hệ xã hội của
đội ngũ sĩ quan trẻ trong quân đội hiện nay (2016); Một số giải pháp quản lý
35
mạng lưới xã hội nhóm sĩ quan cấp úy ở đơn vị cơ sở trong Quân đội nhân
dân Việt Nam hiện nay (2016); Vai trò của vốn xã hội và mạng lưới xã hội đối
với sĩ quan quân đội hiện nay (2017). Ở các bài viết Quản lý các mối quan hệ
xã hội của đội ngũ sĩ quan trẻ trong quân đội hiện nay [75], và Một số giải
pháp quản lý mạng lưới xã hội nhóm sĩ quan cấp úy ở đơn vị cơ sở trong
Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay [76], tác giả đã đi vào làm rõ vai trò
của quản lý các mối quan hệ xã hội, mạng lưới xã hội của đội ngũ sĩ quan trẻ
và sĩ quan cấp úy trong quân đội hiện nay trong bối cảnh tác động của tình
hình thế giới, khu vực; sự phát triển của điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá,
xã hội của đất nước; sự tác động của mặt trái kinh tế thị trường, sự phân tầng
xã hội; sự phát triển mới của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc giai đoạn hiện nay…
từ đó đặt ra những yêu cầu mới đối với việc quản lý các mối quan hệ xã hội
của đội ngũ sĩ quan trẻ và đưa ra một số giải pháp quản lý là: Nâng cao năng
lực, phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, chỉ huy, các tổ chức, các lực
lượng trong quản lý các quan hệ xã hội của đội ngũ sĩ quan trẻ; tạo môi
trường xã hội thuận lợi cho việc đẩy mạnh xã hội hóa quân nhân với đội ngũ
sĩ quan trẻ; phát huy vai trò của các thiết chế quân sự trong quản lý mạng lưới
xã hội của đội ngũ sĩ quan trẻ; khuyến khích hành vi chuẩn mực, đấu tranh
với các hành vi lệch chuẩn trong giải quyết các quan hệ xã hội của từng sĩ
quan. Trong bài viết Vai trò của vốn xã hội và mạng lưới xã hội đối với sĩ
quan quân đội hiện nay [77], đã phân tích và làm rõ: Vốn xã hội và mạng lưới
xã hội có vai trò quan trọng đối với sĩ quan quân đội hiện nay. Nhận thức
đúng vấn đề này, giúp sĩ quan biết quan tâm, đầu tư gây dựng vốn xã hội từ
mạng lưới xã hội gia đình, họ hàng, đơn vị và kết hợp sự dịch chuyển vốn xã
hội từ gia đình đến đơn vị làm tiền đề cơ sở cho cá nhân cũng như tập thể đơn
vị hoàn thành tốt nhiệm vụ. Vốn xã hội và mạng lưới xã hội ở đơn vị hiện nay
đóng vai trò quan trọng, góp phần tích lũy thêm kinh nghiệm, nâng cao tri
36
thức để làm giàu thêm vốn sống cũng như khả năng thăng tiến của sĩ quan ở
đơn vị hiện nay.
Từ những kết quả nghiên cứu nêu trên cho thấy: Một là, nghiên cứu về
quan hệ xã hội, mạng lưới quan hệ xã hội của nhóm sĩ quan, nhóm sĩ quan cấp
úy của quân đội đã được chú trọng. Hai là, nghiên cứu về quan hệ xã hội, mạng
lưới xã hội của nhóm sĩ quan khá đa dạng, phong phú, bảo gồm cả lý thuyết và
thực nghiệm, từ những nghiên cứu trực tiếp về quan hệ xã hội đến những nghiên
cứu thông qua tiếp cận cơ cấu xã hội, phân hóa xã hội, quản lý xã hội để làm rõ
quan hệ xã hội. Ba là, đã đưa ra được quan niệm về quan hệ xã hội của quân
nhân nói chung, nhóm sĩ quan nói riêng; các yếu tố chi phối, ảnh hưởng đến
quan hệ xã hội và phương pháp tiếp cận, phân tích quan hệ xã hội của quân
nhân, nhóm sĩ quan. Bốn là, chỉ ra được phạm vi, mức độ, tính chất quan hệ xã
hội của nhóm sĩ quan quân đội hiện nay. Năm là, đặt ra những yêu cầu, đề xuất
một số biện pháp quản lý quan hệ xã hội của nhóm sĩ quan quân đội. Sáu là, xác
định trách nhiệm của lãnh đạo, chỉ huy, của chính ủy, chính trị viên trong quản
lý quan hệ xã hội của nhóm sĩ quan.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Tổng quan nghiên cứu các công trình trên giúp tác giả nhận thức và vận dụng
đúng đắn lý thuyết và phương pháp phân tích mạng lưới xã hội vào nghiên cứu về
mạng lưới xã hội của nhóm sĩ quan cấp úy trong quân đội hiện nay nhằm phân tích
đặc điểm, tính chất, kiểu loại và vai trò của mạng lưới xã hội nhóm sĩ quan cấp úy.
Nghiên cứu về nhóm sĩ quan, sĩ quan cấp úy, mặc dù không đề cập trực tiếp
đến quan hệ xã hội, mạng lưới xã hội của nhóm sĩ quan quân đội, nhưng xét dưới
góc độ xã hội học thông qua phương pháp tiếp cận phân tích cấu trúc - chức năng,
các công trình trên đều hướng tới nghiên cứu các quan hệ chức năng của sĩ quan
quân đội nói chung với tư cách là người lãnh đạo, chỉ huy đơn vị, do đó sĩ quan
quân đội có các mối quan hệ với tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy, với cấp trên, với
cán bộ, chiến sĩ cấp dưới trong quá trình thực hiện nhiệm vụ… Như vậy, nghiên
37
cứu về nhóm sĩ quan quân đội chính là nghiên cứu các quan hệ xã hội của họ, đó
là các quan hệ giữa các vị trí, vị thế xã hội thông qua thực hiện vai trò xã hội trong
quân đội. Tức là, vị trí, vị thế xã hội của sĩ quan quân đội quy định tính chất, nội
dung, hình thức các quan hệ xã hội, quy định hành vi ứng xử của họ trong đơn vị.
Với cách tiếp cận như vậy, tổng quan nghiên cứu về đội ngũ sĩ quan sẽ giúp cho
tác giả nhận thức rõ bản chất xã hội nhóm sĩ quan cấp úy hiện nay.
Những nghiên cứu có liên quan đến mạng lưới xã hội và quan hệ xã hội
của sĩ quan cấp úy cũng rất đa dạng, phong phú với các mục đích khác nhau từ
trực tiếp nghiên cứu quan hệ xã hội trong quá trình lãnh đạo, chỉ huy, quản lý
đơn vị; nghiên cứu nội dung quản lý các quan hệ xã hội của đội ngũ sĩ quan; đến
nghiên cứu phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội; cơ cấu xã hội… đều chỉ ra
mối liên hệ, tác động tới quan hệ xã hội của sĩ quan cấp úy trong quá trình quản
lý nhóm xã hội này. Các nghiên cứu trên đã làm sáng tỏ sự tác động của phân
tầng xã hội, phân hoá giàu nghèo đến các quan hệ xã hội từng nhóm xã hội quân
nhân thông qua nghiên cứu cơ cấu xã hội quân nhân; đặc biệt là đã chỉ ra các
hình thức quan hệ xã hội của quân nhân, đồng thời xác định nội dung và phương
pháp quản lý các quan hệ xã hội của quân nhân hiện nay… Qua nghiên cứu các
công trình trên, giúp tác giả luận án có cách nhìn đa chiều và đầy đủ hơn về
mạng lưới xã hội của nhóm sĩ quan cấp úy; về vị trí, vai trò và phương pháp
quản lý mạng lưới xã hội các nhóm xã hội quân nhân.
Tuy nhiên, nghiên cứu trực tiếp về mạng lưới xã hội của nhóm sĩ quan cấp
úy Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, theo sự hiểu biết của tác giả luận án,
vẫn là một khoảng trống, chưa có công trình nào đi vào nghiên cứu. Nghiên cứu
về mạng lưới xã hội của nhóm sĩ quan cấp úy hiện nay là một nội dung quan
trọng, có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn trong quản lý các quan hệ xã hội
của nhóm xã hội này, làm cơ sở cho việc giáo dục phát huy vai trò, trách nhiệm và
bảo đảm nhóm xã hội này trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân,
hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao, làm tiền đề cơ sở cho xây dựng đơn
38
vị vững mạnh toàn diện, cho quân đội hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ trong
giai đoạn cánh mạng mới mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
Tổng quan nghiên cứu các công trình trên giúp tác giả luận án có cách nhìn
đa chiều và đầy đủ hơn về nhóm sĩ quan, sĩ quan cấp úy, về mạng lưới xã hội nói
chung, quan hệ xã hội nhóm sĩ quan cấp úy nói riêng. Đặc biệt, các nghiên cứu về
mạng lưới xã hội, quản lý các quan hệ xã hội của quân nhân, nghiên cứu về công
tác quản lý, chỉ huy trong Quân đội nhân dân Việt Nam… đã khẳng định tầm
quan trọng của mạng lưới xã hội đối với nhóm sĩ quan cấp úy trong quân đội.
Chính những kết quả nghiên cứu đó đã thúc đẩy nhu cầu nghiên cứu mạng lưới xã
hội của nhóm sĩ quan cấp úy Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay của tác giả
luận án. Tác giả luận án trân trọng kế thừa và vận dụng một cách khoa học, sáng
tạo, có hiệu quả cả về mặt lý luận, thực tiễn về lý thuyết và phương pháp nghiên
cứu, cũng như khắc phục những hạn chế, những nội dung không phù hợp khi áp
dụng vào nghiên cứu trong môi trường hoạt động quân sự.
Đề tài "Mạng lưới xã hội của nhóm sĩ quan cấp úy Quân đội nhân dân Việt
Nam hiện nay" là công trình độc lập, không trùng lặp với các công trình khoa học
đã nghiên cứu. Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa có chọn lọc một số quan điểm, tư
tưởng trong những công trình khoa học có liên quan, tác giả luận án rút ra những
kết luận thực tiễn làm tiền đề cho nghiên cứu, giải quyết những nội dung luận án
tiếp tục nghiên cứu: Một là, về quan niệm mạng lưới xã hội của nhóm sĩ quan cấp
úy; Hai là, về phương pháp tiếp cận, phân tích mạng lưới xã hội của nhóm sĩ quan
cấp úy; Ba là, làm rõ một số vấn đề về lý luận mạng lưới xã hội của nhóm sĩ quan
cấp úy; Bốn là, đánh giá thực trạng mạng lưới xã hội của nhóm sĩ quan cấp úy
hiện nay; Năm là, khuyến nghị một số vấn đề về quản lý mạng lưới xã hội của
nhóm sĩ quan cấp úy hiện nay.
39
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ MẠNG LƯỚI XÃ HỘI CỦA
NHÓM SĨ QUAN CẤP ÚY QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
Chương này có các nội dung chính: các khái niệm cơ bản của đề tài; phân
tích một số lý thuyết xã hội học được vận dụng nghiên cứu; tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng, Nhà nước về xây dựng quân đội, xây dựng đội
ngũ sĩ quan; mô tả về đặc điểm đơn vị nghiên cứu.
2.1. CÁC KHÁI NIỆM CƠ BẢN
2.1.1. Sĩ quan cấp úy Quân đội nhân dân Việt Nam
Điều 1, Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam 2008 (sửa đổi) quy
định: Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam (sau đây gọi chung là sĩ quan) là
cán bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, hoạt động trong lĩnh vực quân sự, được Nhà nước phong quân hàm
cấp uý, cấp tá, cấp tướng [48]. Căn cứ vào Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân
Việt Nam 2008 (sửa đổi), nhóm sĩ quan cấp úy trong Quân đội nhân dân Việt
Nam là quân nhân được Nhà nước, quân đội phong quân hàm thiếu úy, trung
úy, thượng úy, đại úy.
Nhóm sĩ quan cấp úy thuộc diện bố trí cán bộ rộng, từ cấp phân đội ở
đơn vị cơ sở đến cơ quan các cấp trong quân đội; ở các đơn vị làm nhiệm vụ
huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, các đơn vị phục vụ chiến đấu và các đoàn
kinh tế - quốc phòng; có số lượng lớn, tập hợp thành các cấp, lớp ở cấp phân
đội gồm: cấp trung đội, đại đội, tiểu đoàn và tương đương; với các mối liên hệ
trong và liên hệ ngoài; quan hệ trên và quan hệ dưới, hình thành mạng quan
hệ xã hội mang tính hệ thống và tính đặc thù. Nhóm sĩ quan cấp úy có những
đặc trưng điển hình của nhóm sĩ quan trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
Xét dưới góc độ cấu trúc - chức năng của hệ thống biên chế tổ chức trong
quân đội, nhóm sĩ quan cấp úy có các đặc trưng cơ bản sau: Một là, nhóm sĩ
quan cấp úy là một nhóm xã hội phân biệt với nhóm sĩ quan cấp tá và cấp tướng
40
về loại hình cấp bậc quân hàm. Theo cấu trúc hệ thống quân hàm, nhóm sĩ quan
cấp úy là nhóm có số lượng nhiều hơn nhóm sĩ quan cấp tá, cấp tướng. Hai là,
nhóm sĩ quan cấp úy là những cán bộ chỉ huy cấp phân đội - những phân đội
chiến đấu cơ bản của quân đội [xem Bảng 1, tr. 8]. Số lượng, cơ cấu, phẩm chất,
năng lực, phương pháp tác phong của nhóm sĩ quan cấp úy trực tiếp quyết định
sự vững mạnh toàn diện và hoàn thành mọi nhiệm vụ của đơn vị. Ba là, sĩ quan
cấp úy là người trực tiếp chỉ huy, quản lý sĩ quan cấp úy cấp dưới thuộc quyền
và hạ sĩ quan, binh sĩ. Trực tiếp quản lý các quan hệ xã hội, nắm tất cả những
diễn biến tư tưởng trong đời sống cá nhân của cán bộ, chiến sĩ cấp dưới thông
qua các hoạt động của đơn vị. Vì vậy, phẩm chất, năng lực, phương pháp tác
phong của nhóm sĩ quan cấp úy không chỉ góp phần vào việc hoàn thành nhiệm
vụ của đơn vị, của quân đội, mà còn là tấm gương để cán bộ chiến sĩ ở đơn vị
mình học tập, noi theo. Bốn là, nhóm sĩ quan cấp úy là đội ngũ cán bộ kế cận
nhóm sĩ quan cấp tá và kế tiếp nhóm sĩ quan cấp tướng.
Xét từ góc độ cấu trúc xã hội, nhóm sĩ quan cấp úy có các các đặc trưng
sau: Thứ nhất, đó là những sĩ quan có độ tuổi phổ biến dưới 36 tuổi [xem Bảng
1, tr. 8]. Theo cấu trúc lứa tuổi, sĩ quan cấp úy thuộc “nhóm trẻ” về tuổi đời, theo
đó họ ở vào thời kỳ phát triển, hoàn thiện phẩm chất con người xã hội mạnh và
từng bước định hình, khẳng định cái tôi trong quá trình hình thành con người xã
hội quân nhân. Thứ hai, sĩ quan cấp úy hiện nay có trình độ học vấn phổ biến là
đại học [xem Bảng 1, tr. 8]; về nghiệp vụ chuyên môn, đa số sĩ quan cấp úy được
đào tạo có hệ thống và cơ bản ở các trường sĩ quan, học viện và được bố trí
cương vị công tác đúng với chuyên ngành đào tạo. Thứ ba, trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ nhóm sĩ quan cấp úy từng bước ổn định nghề nghiệp quân sự,
khẳng định đường hướng cuộc sống theo binh nghiệp, phục vụ lâu dài trong
quân đội. Thứ tư, phần đông sĩ quan cấp úy xuất thân từ gia đình sống ở khu vực
nông thôn [xem Bảng 1, tr. 8], với ngành nghề sản xuất nông nghiệp, hoặc liên
quan đến sản xuất nông nghiệp là chủ yếu. Vì vậy, ở họ sẵn có những đức tính
41
tốt đẹp của người nông dân Việt Nam như cần cù, chịu khó trong lao động; thật
thà, chất phác trong quan hệ xã hội; có ý chí cao trong học tập; tính cố kết cộng
đồng xã hội, lối sống giản dị. Những đặc điểm đó là điều kiện thuận lợi trong
việc hình thành, phát triển tính dân tộc, tính nhân dân. Mặc dù vậy, nhóm sĩ quan
cấp úy còn ẩn chứa tâm lý tiểu nông, mang dấu ấn của người sản xuất nhỏ, manh
mún, cẩu thả, tính gia trưởng,… làm hạn chế đến việc tiếp nhận, phát triển bản
chất giai cấp công nhân. Thứ năm, nhóm sĩ quan cấp úy hiện nay đang có sự dịch
chuyển xã hội về cơ cấu xã hội lãnh thổ giữa nơi sinh và chỗ ở của gia đình vợ,
con (với những đồng chí đã có vợ) [xem Bảng 1, tr. 8]. Việc lựa chọn nơi định
cư sau khi sĩ quan cấp úy cưới vợ luôn là bài toán đối với họ và gia đình. Kinh tế
thị trường, với một xã hội mở đã tạo điều kiện thuận lợi cho sĩ quan cấp úy lựa
chọn nơi định cư sau khi lập gia đình. Thứ sáu, nhóm sĩ quan cấp úy hiện nay có
quan hệ xã hội khá rộng, nhưng chưa có nhiều kinh nghiệm hoạt động chính trị -
xã hội, bản lĩnh chính trị chưa thật vững vàng. Điểm khác biệt của nhóm sĩ quan
cấp úy hiện nay so với lớp sĩ quan thời kỳ trước là quan hệ xã hội theo hướng
“mở”, có thể giao lưu và kết thân với nhiều nhóm xã hội khác nhau, tạo lập
mạng lưới quan hệ xã hội đa dạng, phức tạp. Với đặc điểm tâm lý của lớp người
có tuổi đời, tuổi quân chưa cao nên sĩ quan cấp úy thường đơn giản, thiếu kinh
nghiệm trong thực hiện các quan hệ xã hội.
Xem xét từ góc độ thiết chế xã hội quân sự, nhóm sĩ quan cấp úy có nhiều
thiệt thòi trong thực hiện các liên hệ xã hội, phần lớn các liên hệ xã hội được
thực hiện "gián tiếp". Sĩ quan cấp úy là người trực tiếp lãnh đạo, chỉ huy và quản
lý cán bộ, chiến sĩ thuộc quyền một cách toàn diện, mọi hoạt động, mọi lúc, mọi
nơi. Do đó, để thực hiện tốt hoạt động này, theo quy định của quân đội, sĩ quan
cấp úy phải có mặt tại đơn vị, gắn bó với đơn vị 24/24 giờ (trừ khi sĩ quan cấp úy
đi công tác hoặc được nghỉ phép, đi tranh thủ theo chế độ quy định của đơn vị,
quân đội). Khi sĩ quan cấp úy đi ra ngoài đơn vị giải quyết công việc, hoặc đi
phép phải báo cáo, xin phép người chỉ huy trực tiếp và phải đề xuất người thay
42
thế mình đảm nhiệm nhiệm vụ ở đơn vị. Sĩ quan cấp úy chỉ được phép ra khỏi
đơn vị khi cấp trên đồng ý và ký giấy giải quyết. Với đặc thù tính chất hoạt động
như vậy, nên sĩ quan cấp úy có rất ít thời gian gặp gỡ quan hệ trực tiếp với gia
đình, người thân và bạn bè, mà chủ yếu thực hiện các quan hệ xã hội một cách
gián tiếp thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng như điện thoại, thư
tín, fax, internet (email, facebook, viber, zalo, yahoo…).
Sĩ quan cấp úy một năm có khoảng 40-50 ngày được về với gia đình.
Hằng năm, sĩ quan cấp úy được đi phép theo chế độ một lần/năm (15-20 ngày),
đi tranh thủ khoảng 25 ngày (chia đều cho 4 quý). Như vậy, sĩ quan cấp úy gắn
bó với đơn vị gần như cả năm (khoảng 310/365 ngày; chiếm 84,93%). Với mức
độ, tính chất, cường độ lao động quân sự của sĩ quan cấp úy cho thấy sự thiệt
thòi và ít khả năng thực hiện các quan hệ xã hội trực tiếp tạo dựng mạng lưới xã
hội của họ. Sự xa cách với gia đình đã tác động đến vai trò người con, người
chồng, người cha của sĩ quan cấp úy trong gia đình, đồng thời ảnh hưởng tiêu
cực đến việc duy trì mối liên hệ với gia đình, bạn bè.
2.1.2. Mạng lưới xã hội
2.1.2.1. Quan niệm về mạng lưới xã hội
Hiện nay, thuật ngữ mạng lưới xã hội được nhiều nhà khoa học đề cập
và ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu của đời sống xã hội.
Tuy nhiên, mỗi nhà nghiên cứu thường xác định nó tùy theo sự lựa chọn góc
độ tiếp cận của mình.
Khi mô tả tổ chức xã hội tại Bremnes, nhà nhân học người Anh J.A.
Barnes (1954) đã phân tích các mối liên hệ giữa các thành viên trong cộng
đồng và đã sáng tạo ra thuật ngữ mạng lưới xã hội. Theo Barnes, mạng lưới xã
hội là “Các mối quan hệ của con người” [69, dẫn theo Lê Minh Tiến].
Một số tác giả cho rằng, mạng lưới xã hội là nguồn lực gắn liền với
quan hệ xã hội và vốn xã hội. Chẳng hạn, vốn xã hội kết nối với mạng lưới xã
hội tương đối bền vững và là nguồn lực dựa trên mạng lưới được thừa nhận
43
hoặc quen biết [Bourdieu, 1986: 248-249]; vốn xã hội nằm trong quan hệ xã
hội [Coleman, 1988: 98-100]; vốn xã hội ở trong mạng lưới xã hội và là
nguồn lực nằm trong mạng lưới xã hội [Lin, 2001: 24-25]; mạng lưới xã hội
là một thành tố của vốn xã hội [Putnam, 2000: 19]; cần quan sát vốn xã hội
thông qua mạng lưới xã hội [Portes, 1998: 8] [3, dẫn theo Nguyễn Tuấn Anh].
Lê Ngọc Hùng (2003), lại cho rằng, mạng lưới xã hội là “Phức hợp các
mối quan hệ của các cá nhân trong các nhóm, các tổ chức, các cộng đồng. Các
mạng lưới xã hội bao gồm các quan hệ đan chéo, chằng chịt lẫn nhau từ quan
hệ gia đình, thân tộc, bạn bè, láng giềng, cho tới các quan hệ trong tổ chức,
đoàn thể, tầng lớp, hiệp hội, đảng phái, nghề nghiệp” [43, tr.67-75].
Theo Lê Minh Tiến (2006), lưới xã hội là một tập hợp các mối quan hệ
giữa các thực tế xã hội gọi chung là các actor. Các thực tế xã hội này không
nhất thiết chỉ là các cá nhân mà còn là các nhóm xã hội, các tổ chức, các thiết
chế, các công ty xí nghiệp và cả các quốc gia. Các mối quan hệ giữa các actor
cũng có thể mang nhiều nội dung khác nhau từ sự tương trợ, trao đổi thông tin
cho đến việc trao đổi hàng hóa, trao đổi các dịch vụ... [69, tr.67-77].
Như vậy, trên thực tế, có nhiều quan niệm khác nhau về mạng lưới xã
hội, một số tác giả cho rằng mạng lưới xã hội là một dạng cấu trúc xã hội; một
số tác giả khác cho rằng mạng lưới xã hội là biểu hiện bề mặt của, hoặc phản
ánh cấu trúc xã hội ẩn ngầm bên dưới; một số tác giả nhấn mạnh khái niệm
mạng lưới xã hội là sự nối kết, hoặc là điểm giữa cách nhìn cấu trúc luận và
cách nhìn cá nhân phương pháp luận.
Qua tiếp cận, phân tích, nghiên cứu từ các quan niệm trên, tác giả đưa ra
quan niệm về mạng lưới xã hội như sau: Mạng lưới xã hội - khái niệm xã hội
học, để chỉ phức hợp các mối quan hệ xã hội do con người xây dựng, duy trì và
phát triển trong cuộc sống với tư cách là thành viên của xã hội; một hay nhiều
quan hệ của hai chủ thể với nhau tạo thành một liên kết; tập hợp của các liên kết
44
bao gồm các quan hệ đan chéo, chằng chịt từ quan hệ gia đình, thân tộc, bạn bè
đến các quan hệ trong tổ chức, đoàn thể, hiệp hội, đảng phái, nghề nghiệp.
2.1.2.2. Yếu tố chi phối mạng lưới xã hội
Mạng lưới xã hội của con người, nhóm xã hội bị chi phối bởi nhiều yếu
tố, các yếu tố chủ yếu: Vị trí, vị thế, vai trò xã hội của các chủ thể xã hội; Môi
trường xã hội; Hệ chuẩn mực, giá trị xã hội; Vốn xã hội và thiết chế xã hội.
Vị trí, vị thế, vai trò xã hội của các chủ thể xã hội
Xã hội bao giờ cũng có một cơ cấu gồm một tập hợp phức tạp các vị trí, vị
thế xã hội khác nhau, được liên kết với nhau thông qua các quan hệ xã hội. Mỗi
khi cá nhân gia nhập vào xã hội, sẽ rơi vào một vị trí xã hội nào đó trong cơ cấu xã
hội, trong mạng lưới các quan hệ xã hội. Vị trí xã hội của cá nhân chính là vị trí
của cá nhân đó trong không gian các quan hệ xã hội trong hệ thống cơ cấu xã hội.
Vị trí xã hội quy định cách ứng xử, hành vi của con người đang tiến hành một
quan hệ xã hội cụ thể. Tức là, mỗi một vị trí xã hội của các cá nhân bao giờ cũng
gắn với trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền lợi, quyền hạn nhất định.
Các vị trí xã hội khác nhau, sẽ có mức độ quyền hạn và trách nhiệm
khác nhau. Căn cứ vào vị thế xã hội mới có thể xác định được thứ bậc cao
thấp của các cá nhân. Vị thế xã hội là thế đứng của một người hay một nhóm
xã hội trong cơ cấu của tổ chức xã hội theo sự thẩm định và bình giá của xã
hội dành cho mỗi người, mỗi nhóm xã hội một cách khách quan thông qua
quá trình tương tác xã hội [57, tr.168].
Vai trò là tập hợp chuẩn mực, giá trị, nghĩa vụ, lợi ích của một vị trí xã hội
trong hệ thống xã hội; là hàng loạt các quy tắc áp đặt phương thức ứng xử cho con
người ở các vị trí xã hội một cách thành văn hay không thành văn. Vai trò xã hội là
kết quả của quá trình tương tác xã hội, là sự trông chờ của xã hội về hành vi của
một vị trí xã hội. Vai trò xã hội là một nội dung của xã hội hóa, nó hướng dẫn hành
vi của con người trong tiến hành quan hệ xã hội; nó tạo cơ sở cho sự bình giá và
45
thương lượng giữa các cá nhân khi đóng vai trò để giảm bớt sự hỗn tạp, tránh được
xung đột xã hội, bảo đảm cho quan hệ xã hội diễn ra bình thường [57, tr.169].
Môi trường xã hội
Môi trường xã hội là nơi các cá nhân thực hiện các quan hệ xã hội với
nhau, không có cá nhân nào sống tách rời khỏi các nhóm, tập thể hay các cộng
đồng mà họ thường xuyên gắn bó với cá nhân khác, với các nhóm, các tập thể,
các cộng đồng nhất định từ khi sinh ra cho đến khi chết đi. C.Mác đã khẳng định
“con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội” do vậy các cá nhân luôn chịu sự
tác động chi phối của các mối quan hệ trong các nhóm, các tập thể, các cộng
đồng xã hội mà họ sống. Môi trường xã hội quy định các quan hệ xã hội, ảnh
hưởng rất lớn đến việc hình thành, củng cố, phát triển nhận thức, thái độ, niềm
tin, hành vi quan hệ xã hội của mỗi người, mỗi nhóm xã hội.
Hệ chuẩn mực, giá trị xã hội
Chuẩn mực xã hội được hình thành trong quá trình tương tác xã hội, là
quy tắc, quy định thành văn hoặc không thành văn nhằm áp đặt phương thức ứng
xử cho con người ở các vị trí, vai trò, địa vị xã hội để đảm bảo sự thống nhất, tồn
tại của các nhóm xã hội và hệ thống xã hội [57, tr.171].
Giá trị là kết quả và quá trình tương tác xã hội, hình thành từ các chuẩn
mực xã hội. Giá trị xã hội gắn với nhu cầu xã hội, thể hiện cái tiêu chuẩn về cái
có thể mong ước được, bộc lộ thái độ của con người về lợi ích. Hệ giá trị là cơ sở
để hình thành mô hình hành động, khuôn mẫu hành vi của người, để mỗi người
soi vào đó mà điều chỉnh hành vi của mình.
Vốn xã hội
Mạng lưới xã hội gắn liền với vốn xã hội và là một trong những thành tố
của vốn xã hội. Do đó, các cá nhân có thể sử dụng vốn xã hội là mạng lưới xã hội
để tìm kiếm lợi ích, cơ hội nhằm nâng cao vị thế, mở ra điều kiện cho sự thăng
tiến xã hội của mình trong đời sống hàng ngày. Vốn xã hội là loại vốn được hình
thành từ các mạng lưới xã hội, các liên kết nội tại trong các mạng lưới xã hội đó.
46
Các giá trị, chuẩn mực xã hội quy định, bắt buộc các cá nhân phải thực hiện trong
khi tham gia mạng lưới các quan hệ xã hội của họ. Vốn xã hội này tạo ra thuận lợi
cho sự giao lưu, hợp tác trao đổi, học hỏi giữa các cá nhân với các cộng đồng, tổ
chức, cơ quan, đơn vị và các cá nhân khác trong môi trường xã hội; là tiền đề, cơ
sở để tạo thuận lợi cho các định hướng chiến lược phát triển và thăng tiến xã hội
của mỗi người. Vốn xã hội của mỗi người bao gồm tập hợp những nguồn lực hữu
hình hoặc vô hình gắn liền với việc sở hữu một mạng lưới bền vững gồm các mối
quan hệ xã hội dựa trên chức danh, chức vụ đạt được, sự quen biết và thừa nhận
lẫn nhau được thể chế hóa bằng văn bản pháp luật (trong quan hệ chức năng) hoặc
phi pháp luật, không thành văn (trong quan hệ phi chức năng).
Thiết chế xã hội
Thiết chế xã hội là sự tổ chức của các hoạt động xã hội và các quan hệ xã
hội, là mô hình hành vi chung cho mọi thành viên trong những lĩnh vực khác nhau
của một xã hội nhất định. Lê Ngọc Hùng (2003) cho rằng, mạng lưới xã hội với tư
cách là thiết chế xã hội không những có chức năng cung cấp thông tin chính xác,
cần thiết và nhờ vậy góp phần giảm chi phí giao dịch cho các bên tham gia mạng
lưới. Mạng lưới xã hội là một loại thiết chế giảm chi phí giao dịch và rủi ro cho cả
người tìm kiếm việc làm và người tuyển dụng lao động [43]. Khi nghiên cứu
mạng lưới xã hội ở nông thôn Việt Nam, Ngô Đức Thịnh (2008) khẳng định, các
mạng lưới xã hội luôn biến đổi dưới tác động trực tiếp của các thể chế xã hội [68].
2.1.2.3. Đặc điểm, tính chất xã hội của mạng lưới xã hội
Mạng lưới xã hội phản ánh mức độ, tính chất các quan hệ xã hội của con
người ở các vị trí, vị thế, vai trò xã hội
Quan hệ xã hội là quan hệ được hình thành giữa các cá nhân trong quá trình
hành động chung; là quan hệ được xác lập giữa các con người xã hội, giữa các
nhóm xã hội dựa trên sự khác biệt về vị trí, vị thế, vai trò, địa vị xã hội trong
những quan hệ xã hội xác định. Thực chất, quan hệ xã hội của con người xã hội là
quan hệ giữa các vị trí, vị thế xã hội thông qua việc thực hiện vai trò xã hội, những
bộ chuẩn mà xã hội quy chiếu cho từng vị trí, vị thế xã hội.
47
Mạng lưới xã hội phản ánh mức độ, tính chất của những điều kiện chính
trị, kinh tế, văn hóa của xã hội hiện thực
Trong luận án tiến sĩ năm 2001 cũng như trong một vài nghiên cứu của
mình, nhà xã hội học kinh tế Emmanuel Pannier đã chỉ ra tầm quan trọng của các
mạng lưới xã hội ở Việt Nam: Chúng ta có thể thử hiểu những chuyển đổi kinh tế,
xã hội, chính trị và thể chế diễn ra ở Việt Nam từ thời kỳ đổi mới đã ảnh hưởng
thế nào đến đời sống xã hội của địa phương. Một phân tích mạng lưới cho phép
nắm bắt được những hệ quả của các chuyển đổi về tính xã hội và liên kết xã hội.
Quả thực, trong khuôn khổ của các chuyển đổi đương đại, các mạng lưới xã hội
mở rộng và người dân sống trong một không gian địa lý và xã hội rộng lớn hơn.
Điều này chắc chắn sẽ thay đổi bản chất của các mối quan hệ xã hội đã được dệt
nên và các chiến lược sử dụng các mối quan hệ xã hội nhưng nó cũng sẽ ảnh
hưởng đến các cơ chế hình thành các liên kết xã hội [54].
Theo Đinh Quang Hà (2014), mạng lưới xã hội của mỗi cá nhân phụ thuộc
vào điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa dân tộc và nhóm, năng lực hoạt động thực
tiễn của họ. Trong cùng một môi trường xã hội mà mỗi người xác lập phạm vi,
tính chất mạng lưới quan hệ xã hội khác nhau [24].
Như vậy, con người gắn với điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. "Hoạt
động sống của họ là như thế nào, điều đó ăn khớp với sản xuất của họ, với cái mà
họ sản xuất ra cũng như với cách họ sản xuất…" [49, tr.53]. Và, bàn đến con
người xã hội là con người thuộc về một giai cấp, một tầng lớp xã hội, một cộng
đồng xã hội. V.I. Lênin đã chỉ rõ, con người "đó đúng là một điển hình xã hội chứ
không phải là những cá nhân riêng biệt" [47, tr.174].
Mạng lưới xã hội giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành
“con người xã hội” trong mỗi con người
Trong Luận cương về Phoiơbắc, Mác đã khẳng định: “Trong tính hiện thực
của nó, bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội” [49, tr.29]. Còn trong
Hệ tư tưởng Đức, Mác viết: “Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì cố
nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con người sống”; “Đó là những cá nhân hiện
48
thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ. Những
tiền đề ấy có thể kiểm nghiệm bằng thực chứng”; “Sự phong phú thực sự về tinh
thần của cá nhân là hoàn toàn phụ thuộc vào sự phong phú của những liên hệ thực
tại của họ”; “Con người tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra
con người đến mức ấy” [49, tr.55].
Trong các tác phẩm viết chung cùng nhau, C. Mác, Ph. Ăngghen cũng đã
quan tâm rất nhiều về con người và quan hệ xã hội của con người. Có thể khái quát
những nội dung cơ bản: (1) con người là tổng hòa các quan hệ xã hội; là một điển
hình xã hội, (2) con người và các quan hệ xã hội của họ làm nên xã hội, do đó phân
tích con người phải bắt đầu từ các hoạt động sống của họ, (3) con người vừa là chủ
thể, vừa là sản phẩm của hoàn cảnh, do vậy họ mang dấu ấn xã hội của xã hội đang
sống, mang các đặc trưng xã hội của nhóm xã hội, của cộng đồng xã hội mà họ là
thành viên, (4) trong xã hội mỗi con người có một chức năng xã hội nhất định.
Có thể khẳng định, mặc dù C.Mác, Ph.Ăngghen không sử dụng thuật ngữ
mạng lưới xã hội, song với những tư tưởng về con người xã hội, hai ông đã xác lập
cơ sở lý luận và phương pháp luận khoa học trong việc luận giải mạng lưới xã hội.
Mạng lưới xã hội tạo dựng vốn xã hội để mỗi con người bảo đảm cuộc
sống và thăng tiến xã hội
Theo một số nhà xã hội học, mạng lưới xã hội gắn liền với “vốn xã hội”,
vốn xã hội ở trong mạng lưới xã hội, mạng lưới xã hội là thành tố của vốn xã hội.
Do đó, vốn xã hội là nguồn lực nằm trong mạng lưới xã hội, các cá nhân có thể sử
dụng vốn xã hội là mạng lưới xã hội để tạo dựng sự thăng tiến xã hội, tìm kiếm lợi
ích, đảm bảo cuộc sống cho mình, gia đình và nhóm xã hội.
Nhà kinh tế học Loury được coi là người đầu tiên vào năm 1977 sử dụng
khái niệm "vốn xã hội" để chỉ những nguồn lực vốn có trong những quan hệ gia
đình và cách tổ chức xã hội của cộng đồng mà những quan hệ này có lợi cho sự
phát triển trí tuệ và phát triển xã hội của thế hệ trẻ. Theo Lê Ngọc Hùng (1999),
khái niệm vốn xã hội được sử dụng để nhấn mạnh vai trò của quan hệ xã hội và
49
cấu trúc xã hội như là những nguồn lực xã hội để giảm bớt chi phí giao dịch kinh
tế và phát triển vốn con người [42].
Coleman đã chỉ ra một số hình thái của vốn xã hội như sau [85]: (1) Lòng
tin, sự kỳ vọng, trách nhiệm, (2) Thông tin, (3) Những chuẩn mực, (4) Quyền uy,
uy tín là những hình thái của vốn xã hội [44, dẫn theo Lê Ngọc Hùng].
Nguyễn Quý Thanh (2016) đã đi vào làm rõ những chủ đề cốt lõi nhất là
bản chất, vai trò của vốn xã hội trong phát triển bền vững và sử dụng tiếp cận vốn
xã hội như một giải thích cho sự phát triển kinh tế, trong chăm sóc sức khoẻ và
trong đời sống chính trị. Tác giả đã chỉ rõ: Càng ngày càng có những bằng chứng
rõ ràng về mối quan hệ một chiều hoặc qua lại giữa vốn xã hội và sự phát triển
bền vững, bao gồm cả các trụ cột về xã hội, môi trường và kinh tế; với sự phát
triển kinh tế, cả ở cấp độ vĩ mô và vi mô; với sức khoẻ, bao gồm cả sức khoẻ tinh
thần, thể xác, cũng như ảnh hưởng của vốn xã hội đến sức khoẻ trên cả ba cấp độ:
cá nhân, cộng đồng và xã hội; với chính trị, đặc biệt là trong lĩnh vực phòng chống
tham nhũng [67, tr.278, 279].
Nguyễn Tuấn Anh (2006) cũng làm rõ vai trò của vốn xã hội trong quan hệ
họ hàng đối với việc tạo ra nguồn lực tài chính nhằm hỗ trợ trẻ em đến trường, tức
là tạo ra vốn xã hội [53, tr. 31]. Fleur Thomese và Nguyễn Tuấn Anh (2007) đã vận
dụng quan điểm vốn xã hội để nghiên cứu các hiện tượng dồn điển, đổi thửa trong
sản xuất nông nghiệp ở một làng Bắc Trung Bộ. Các tác giả đã chứng minh rằng,
chính nhờ vào nguồn vốn xã hội nên các hộ nông dân có thể tiến hành dồn điền, đổi
thửa một cách thuận lợi mà không cần các thứ giấy tờ hay quan hệ mang tính pháp
lý nào [53, tr. 30]. Nguyễn Tuấn Anh (2010) còn chỉ ra rằng, người nông dân đã sử
dụng vốn xã hội trong các quan hệ họ hàng để theo đuổi các lợi ích kinh tế liên quan
đến sản xuất nông nghiệp, nghề thủ công, và hoạt động tín dụng [53].
2.1.2.4. Các kiểu mạng lưới xã hội
Theo Lê Ngọc Hùng [43], những yếu tố cơ bản, quyết định nhất tạo nên
mạng lưới xã hội là các thành viên gia đình như bố mẹ, anh em, bà con ruột
50
thịt; những người thân quen của gia đình, các bạn bè của cá nhân và những
người khác, những nhóm và tổ chức xã hội mà họ có những mối liên hệ nhất
định trong quá trình sống, sinh hoạt, học tập, công tác và lao động. Về mặt lý
thuyết có thể nêu khái quát ba kiểu mạng lưới xã hội: (1) kiểu truyền thống:
cá nhân chủ yếu dựa vào các quan hệ gia đình ; (2) kiểu hiện đại: cá nhân chủ
yếu dựa vào các mối quan hệ với các cơ quan, tổ chức, đoàn thể và các cá
nhân khác trên cơ sở cùng nhau chia sẻ công việc, nhiệm vụ, quan hệ xã hội
của kiểu mạng lưới này bị quy định bởi những thiết chế xã hội; và (3) kiểu
hỗn hợp, kết hợp truyền thống và hiện đại .
2.1.3. Mạng lưới xã hội của nhóm sĩ quan cấp úy Quân đội
nhân dân Việt Nam
2.1.3.1. Quan niệm mạng lưới xã hội của nhóm sĩ quan cấp úy
Trên cơ sở tổng quan, tiếp thu, kế thừa các quan điểm của các nhà khoa
học, tác giả luận án đã vận dụng và đưa ra quan niệm về mạng lưới xã hội của
nhóm sĩ quan cấp úy Quân đội nhân dân Việt Nam như sau: Mạng lưới xã hội
của nhóm sĩ quan cấp úy Quân đội nhân dân Việt Nam là tập hợp của các
liên kết đan chéo, chằng chịt từ quan hệ gia đình, bạn bè đến các quan hệ
trong quân đội và ngoài quân đội, được hình thành trong hoạt động quân sự
và trong cuộc sống hàng ngày.
Sĩ quan cấp úy là những con người xã hội, do đó họ có những quan hệ
xã hội với gia đình, họ hàng, làng xóm, phố phường, bạn bè trước khi nhập
ngũ. Sau khi nhập ngũ, trở thành con người xã hội quân nhân, họ có thêm
những quan hệ xã hội trong quân đội, đơn vị. Quá trình công tác, họ thiết lập
thêm các quan hệ xã hội với các cơ quan, ban ngành, tổ chức chính trị - xã hội
và nhân dân địa phương nơi đơn vị đóng quân và các quan hệ xã hội thông
qua các kênh khác (internet,…). Với sĩ quan cấp úy đã có vợ, họ có thêm
mạng lưới xã hội với gia đình bố mẹ vợ và gia đình vợ, con (gia đình riêng).
51
Mạng lưới xã hội của họ rất phong phú, đa dạng về kiểu loại, tính chất,
nội dung, tồn tại trong những khoảng không gian và thời gian xác định,
phản ánh phẩm chất "con người xã hội" của những con người đã và đang sống
trong tổ chức quân sự, tiến hành các hoạt động quân sự.
Trong phạm vi nghiên cứu đã xác định, luận án tập trung vào nghiên
cứu mạng lưới xã hội gia đình, bạn bè của sĩ quan cấp úy nhằm mục đích tìm
hiểu thực trạng mạng lưới xã hội gia đình và bạn bè và sự tác động, ảnh
hưởng của mạng lưới xã hội gia đình, bạn bè đến việc hình thành phẩm chất
chỉ huy, quản lý bộ đội của sĩ quan cấp úy ở đơn vị và đến việc hoàn thiện
phẩm chất con người xã hội của họ trong gia đình (xem Sơ đồ 2.1).
Sơ đồ 2.1: Mô hình tổng quát về mạng lưới xã hội nhóm sĩ quan cấp úy
2.1.3.2. Các kiểu mạng lưới xã hội của nhóm sĩ quan cấp úy
Mạng lưới xã hội gia đình
Sĩ quan cấp úy là những con người xã hội, họ có những mối quan hệ xã
hội với gia đình bao gồm ông bà, bố mẹ, anh chị em ruột thịt. Với sĩ quan cấp
úy đã có vợ, có thêm mạng lưới xã hội với gia đình bên vợ và mạng lưới xã
Quan hệ gia
đình
Quan hệ với bạn bè trong
quân đội
Quan hệ bạn bè khác
52
hội gia đình vợ, con (Sơ đồ 2.2). Thực hiện các quan hệ xã hội này sĩ quan
cấp úy chịu sự chi phối, giàng buộc bởi văn hoá, gia phong dòng họ, gia đình
và các quy tắc ứng xử mang dấu ấn vùng miền khác nhau.
Sơ đồ 2.2: Mô hình mạng lưới xã hội gia đình nhóm sĩ quan cấp úy
Mạng lưới xã hội bạn bè
Bao gồm bạn bè là hàng xóm, bạn học phổ thông các cấp; đồng thời còn
có những bạn bè thông qua các kênh dẫn khác như tự làm quen trực tiếp hoặc
gián tiếp (thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng (internet, các mạng
xã hội: yahoo, zalo, fabook…), qua bạn bè, người khác giới thiệu. Về cơ bản,
bạn bè trước khi nhập ngũ của sĩ quan cấp úy chủ yếu là người trong dòng họ,
làng xóm và cùng học phổ thông.
Từ khi nhập ngũ, sĩ quan cấp úy có thêm các quan hệ xã hội bạn bè mới
với những quân nhân trong đơn vị, bao gồm quan hệ với với cán bộ, chiến sĩ các
cấp; với những quân nhân đồng cấp; với sĩ quan cùng loại hình ngành nghề
(chính trị - chính trị; quân sự - quân sự;…); quan hệ với những quân nhân có
cùng cấp bậc quân hàm; quan hệ với cán bộ, chiến sĩ là người cùng quê hương;
quan hệ mang tính chất gia đình, dòng họ (bố con, anh em); quan hệ với những
người có cùng sở thích, tương đồng về tâm lý; quan hệ với những quân nhân có
cùng điều kiện, hoàn cảnh gia đình; quan hệ với những người cùng nhập ngũ,
Bố mẹ đẻ
Bố mẹ vợ
Vợ, con
SQCU
53
cùng tuổi. Đặc trưng của mạng lưới quan hệ này là được hình thành trên cơ sở
nhu cầu tự phát của sĩ quan cấp úy nhằm thỏa mãn những nhu cầu cá nhân.
Bên cạnh đó, sĩ quan cấp úy còn có mạng lưới xã hội được hình thành và
phát triển trong quá trình trực tiếp tiếp xúc, liên hệ với cấp ủy đảng, chính quyền,
đoàn thể và tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương để phối thuộc, hiệp đồng công
tác huấn luyện dân quân tự vệ, dự bị động viên, diễn tập khu vực phòng thủ, làm
công tác dân vận, phòng chống thiên tai, v.v…
Với tư cách là con người xã hội, sĩ quan cấp úy cũng có những nhu cầu
giao lưu, kết bạn, trao đổi thông tin, mở rộng các quan hệ xã hội với những cá
nhân khác ngoài quân đội. Những quan hệ xã hội này rất đa dạng, phức tạp và khó
kiểm soát. Các quan hệ đó có thể là các quan hệ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội, có quan hệ mang tính chất tình cảm, gia đình. Từ mối quan hệ, giao lưu tình
cảm với nhân dân địa phương, đã có nhiều sĩ quan cấp úy nảy sinh tình cảm và lấy
vợ là người địa phương, sau đó lại chọn địa phương đó làm nơi gia đình sinh sống,
lập nghiệp; cũng có trường hợp nhận làm con nuôi người dân địa phương.
Sơ đồ 2.3: Mô hình mạng lưới xã hội bạn bè nhóm sĩ quan cấp úy
2.1.3.3. Yếu tố chi phối mạng lưới xã hội của nhóm sĩ quan cấp úy
Sự tác động, chi phối của đặc điểm, tình hình thế giới, khu vực, đối
tác và đối tượng
Bạn bè trước nhập ngũ
Bạn bè sau nhập ngũ SQCU
54
Thế giới chúng ta đang sống là thế giới phẳng, thế giới mà giữa các
quốc gia có sự lệ thuộc, chi phối lẫn nhau, vừa có sự hợp tác, vừa đấu tranh,
vừa tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển, nhưng cũng có thể kìm hãm lẫn
nhau. Một sự kiện về kinh tế, chính trị, xã hội, quân sự,… diễn ra ở nước này,
khu vực này có thể ảnh hưởng đến nhiều nước khác trên thế giới. Đặc điểm
trên không tránh khỏi tác động đến nhiệm vụ quân sự, quốc phòng của nước
ta và đời sống chính trị - tinh thần của nhóm sĩ quan cấp úy trong quân đội,
đến việc thực hiện các quan hệ xã hội của sĩ quan cấp úy.
Trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, quan hệ quốc tế của nước
ta mở rộng, đan xen giữa bạn - thù, đối tác - đối tượng và luôn có sự chuyển
hóa. Là đối tác nếu các lực lượng bên ngoài hợp tác, hỗ trợ nước ta phát triển
kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định xã hội. Là đối tượng nếu các thế lực có
hành động chống đối công cuộc phát triển đất nước, xâm lại đến độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ đối với nước ta. Sự đan cài, chuyển hóa
đối tác và đối tượng đòi hỏi sĩ quan cấp úy, những sĩ quan trẻ phải có nhãn
quan và bản lĩnh chính trị để phân biệt, từ đó mà hợp tác và đấu tranh.
Sự tác động, chi phối của đời sống kinh tế - xã hội trong nước
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế thị
trường có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; vị trí, vai trò các
thành phần kinh tế không ngang bằng nhau trong phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước; các thành phần kinh tế vừa thống nhất vừa cạnh tranh với nhau. Trong
nền kinh tế thị trường sẽ xuất hiện sự đa dạng về lợi ích, lợi ích nhóm và nhóm
lợi ích; các lợi ích đan cài nhau, vừa đồng nhất vừa loại trừ nhau. Sự đa dạng về
các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường quy định sự đa dang các giai
tầng xã hội; cơ cấu, tính chất, vị trí, vai trò, lợi ích của các giai tầng trong xã hội
có sự thay đổi cùng với những biến đổi kinh tế, xã hội; mối quan hệ giữa các giai
tầng xã hội là vừa hợp tác vừa đấu tranh trong nội bộ nhân dân, trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
55
Quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo ra sự đa dạng,
phong phú về ngành nghề, dẫn đến sự đa dạng, phong phú về lao động và tính
chất lao động, trực tiếp tạo ra sự khác biệt về thu nhập, mức sống, bởi vì ở các
ngành nghề khác nhau sẽ cho thu nhập khác nhau. Đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa sẽ đẩy nhanh quá trình đô thị hóa, khu vực đô thị được mở rộng làm
thay đổi tỷ trọng cư dân giữa khu vực đô thị và khu vực nông thôn. Quá trình đô
thị hóa đặt ra rất nhiều vấn đề mới trong việc quản lý các quan hệ xã hội để giữ
vững ổn định xã hội, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hội nhập quốc tế trong xu thế toàn cầu hóa sẽ tạo cơ hội cho việc giao
thoa và tiếp biến văn hóa, đặt ra vấn đề giữ gìn, phát triển, phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc và tiếp nhận các giá trị văn hóa của các quốc gia trên thế giới. Quá
trình hội nhập quốc tế ảnh hưởng trực tiếp đến việc bảo tồn, phát triển, phát huy
các chuẩn mực, giá trị xã hội theo hướng nhân văn, nhân bản, tiến bộ, vì con
người; ảnh hưởng trực tiếp đến tính chất, mức độ của các quan hệ xã hội, sự
đồng thuận xã hội trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thiết chế quân sự, chức năng, nhiệm vụ của quân đội thời kỳ mới
Tổ chức quân sự, hoạt động quân sự mang tính chất thiết chế quân sự với
nhiều đặc thù. Trong đó, quan hệ trên dưới với cách thức trên ra lệnh dưới phục
tùng là một đặc thù. Nó góp phần tạo thành tính tổ chức, tính kỷ luật và sức
mạnh của tổ chức quân sự, song nó cũng là “mảnh đất” gieo mầm cho hiện
tượng gia trưởng, quân phiệt phát triển. Các hiện tượng đó sẽ làm hạn chế phạm
vi, tính chất liên hệ xã hội của sĩ quan cấp úy. Họ có thể bị “cấm đoán” tiến hành
một số quan hệ, tùy theo ý định của người chỉ huy cấp trên, có thể có những
mệnh lệnh mang tính hành chính quân sự, chủ quan, áp đặt.
Tổ chức, biên chế, chức năng, nhiệm vụ quân đội phụ thuộc vào yếu tố
chiến tranh - hòa bình của đất nước, diễn biến hoạt động quân sự trong khu vực
và trên thế giới. Mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay đặt ra những vấn
56
đề mới, yêu cầu mới cho công tác tư tưởng, tổ chức và chính sách trong quân
đội. Những vấn đề đó trực tiếp chi phối đến quá trình xây dựng các quan hệ xã
hội của nhóm sĩ quan cấp úy, đến kết quả xây dựng quân đội cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại trong thời kỳ mới.
Sự lãnh đạo của Đảng
Đảng lãnh đạo quân đội tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt thông qua cơ chế
và các phương thức nhằm bảo đảm cho quân đội nói chung, nhóm sĩ quan cấp úy
nói riêng giữ vững bản chất giai cấp công nhân, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao trình độ mọi mặt; xứng
đáng là lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành của Đảng, hoàn thành xuất sắc
mọi nhiệm vụ được giao. Sự thấm nhuần bản chất, tính chất giai cấp của quân
đội tạo thành cái “khung”, định hướng cho sĩ quan cấp úy tiến hành các quan hệ
xã hội mang tính tích cực. Trong mọi lúc, mọi nơi, trong mọi quan hệ xã hội,
người sĩ quan cấp úy luôn phải giữ gìn phẩm chất người sĩ quan Quân đội nhân
dân Việt Nam, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”.
Chất lượng lãnh đạo, quản lý đơn vị
Chất lượng lãnh đạo, quản lý đơn vị thể hiện ở số lượng, cơ cấu, phẩm chất,
năng lực, phương pháp, tác phong công tác của đội ngũ cán bộ, đảng viên và chất
lượng hoạt động của các tổ chức đảng, đoàn thể ở đơn vị. Đây là những yếu tố tác
động quyết định đến các quan hệ xã hội ở đơn vị. Trong đó, phẩm chất, năng lực
của chính uỷ, chính trị viên rất quan trọng, bởi họ vừa là người đứng đầu cấp ủy
đảng, tổ chức đảng, vừa là người chủ trì về công tác đảng, công tác chính trị, do
đó họ là chỗ dựa vững chắc để nhóm sĩ quan cấp úy học hỏi, củng cố vị thế, vai
trò xã hội, xây dựng và mở rộng các quan hệ xã hội tốt đẹp của mình.
Đời sống chính trị - tinh thần ở đơn vị cơ sở
Tình cảm đồng chí đồng đội, kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị, các
phong trào hành động cánh mạng ở đơn vị là những yếu tố trực tiếp tác động,
đến việc hình thành, củng cố, phát triển nhận thức, thái độ, niềm tin, hành vi
57
quan hệ của sĩ quan cấp úy trong quân đội. Sự trong sạch, vững mạnh và năng
lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng giữ vai trò quyết định đến
sự đoàn kết, thống nhất trong tập thể đơn vị, là nhân tố ảnh hưởng đến các
quan hệ xã hội ở đơn vị của sĩ quan cấp úy.
Sự tác động của gia đình, bạn bè
Với gia đình, dòng họ thì điều kiện kinh tế, nề nếp, văn hoá gia đình, gia
phong dòng họ sẽ ảnh hưởng đến suy nghĩ, hành vi ứng xử của sĩ quan cấp úy vì
họ được giáo dục, hình thành từ lúc còn nhỏ ngay tại gia đình nơi sinh ra và sinh
sống hàng ngày của họ. Với bạn bè, bao gồm bạn bè trước và sau khi nhập ngũ
là sợi dây liên kết họ lại với nhau nhằm thỏa mãn nhu cầu cá nhân. Gia đình, bạn
bè tạo nên sự đa dạng và phong phú trong các mối quan hệ hỗ trợ, giúp đỡ trong
công tác và trong đời sống hàng ngày, đồng thời cũng tạo nên những hành vi
quan hệ không phù hợp, khó kiểm soát trong môi trường quân đội.
Ý thức chính trị của sĩ quan cấp úy
Mạng lưới xã hội của sĩ quan cấp úy được hình thành từ nhu cầu tương
tác xã hội, càng tương tác nhiều thì mối quan hệ càng được mở rộng và hình
thành mạng lưới xã hội rộng lớn. Ý thức chính trị của sĩ quan cấp úy phản ánh
đời sống chính trị của họ thông qua hoạt động chính trị, nhưng sự phản ánh đó
không mang tính tự phát mà mang đậm tính tự giác. Sự ảnh hưởng của sĩ quan
cấp úy phụ thuộc vào động cơ, nhu cầu và môi trường xã hội của sĩ quan cấp úy.
Chính mục đích, động cơ, trách nhiệm và phương pháp tiếp nhận kiến thức và
kinh nghiệm chính trị của mỗi sĩ quan cấp úy quyết định trình độ, tính chất,
mức độ vững chắc và phát triển quan hệ xã hội của họ.
2.1.3.4. Đặc trưng xã hội của mạng lưới xã hội của nhóm sĩ quan cấp úy
Mạng lưới xã hội phản ánh vai trò xã hội của sĩ quan cấp úy trong các
quan hệ xã hội
Thực hiện các quan hệ xã hội với gia đình và bạn bè, sĩ quan cấp úy cùng
lúc tham gia vào rất nhiều quan hệ xã hội khác nhau cả bên trong và bên ngoài
quân đội. Các quan hệ xã hội này được thực hiện thông qua sự tương tác của vai
58
trò, vị thế xã hội cụ thể của người sĩ quan cấp úy. Với bạn bè trong môi trường
quân đội, họ vừa là cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, vừa là Bí thư chi đoàn,
Chủ tịch Hội đồng quân nhân; đồng thời vừa là người chịu sự lãnh đạo, chỉ huy,
quản lý của cấp trên, vừa ở vai trò là những người bạn đồng hương, có cùng
quan hệ họ hàng, cùng sở thích. Với gia đình, bạn bè bên ngoài quân đội, họ vừa
là người con, người chồng, người cha, người bạn, đối tác hoặc đối tượng [56].
Mạng lưới xã hội phản ánh trình độ phát triển phẩm chất con người xã
hội của sĩ quan cấp úy
Quan hệ xã hội của nhóm sĩ quan cấp úy với gia đình, bạn bè phản ánh
mức độ trưởng thành của người sĩ quan cấp úy, điều đó thể hiện ở nhu cầu, động
cơ, tâm thế, niềm tin, thái độ khi thực hiện các quan hệ xã hội. Bởi vậy, các quan
hệ xã hội của sĩ quan cấp úy mang đậm dấu ấn cá nhân sĩ quan cấp úy. Do vậy,
thông qua nắm bắt quan hệ xã hội của sĩ quan cấp úy ở đơn vị chính là cơ sở
đánh giá mức độ hình thành, trình độ phát triển các phẩm chất, năng lực, thái độ,
hành vi, lối sống của mỗi sĩ quan cấp úy.
Mạng lưới xã hội phản ánh sự phong phú, đa dạng các mối quan hệ xã
hội của sĩ quan cấp úy
Trong thời bình, quan hệ xã hội của nhóm sĩ quan cấp úy ngày càng mở
rộng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, có mặt ở nhiều nhóm xã hội
trong và ngoài quân đội. Quá trình mở rộng quan hệ xã hội giúp họ có điều kiện
học hỏi và dễ "hòa đồng" xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho giao tiếp xã hội.
Song, sự "hòa đồng" đó cũng dễ làm suy giảm các đặc trưng xã hội của sĩ quan
cấp úy, ảnh hưởng không tốt đến quá trình hình thành phẩm chất, năng lực của
họ, đến việc thực hiện vai trò quân nhân của mình trong môi trường quân đội,
đến sự vững mạnh của tổ chức quân đội.
Mạng lưới xã hội phản ánh vai trò quan trọng của các liên hệ xã hội đối
với đơn vị, đối với sự trưởng thành của chính bản thân sĩ quan cấp úy
59
Góp phần xây dựng đơn vị vững mạnh về chính trị, tư tưởng; tạo nên sự
gắn kết giữa các quân nhân với nhau, làm cho tổ chức đơn vị cơ sở vững mạnh,
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; góp phần hình thành nhân cách người quân
nhân cánh mạng ở đơn vị; định hướng hành vi của sĩ quan cấp úy trong thực hiện
các quan hệ xã hội giúp họ luôn xác định rõ vai trò, trách nhiệm của mình để có
hành vi đúng chuẩn, tránh được sự "lệch chuẩn" vai trò, trách nhiệm; kiểm tra,
giám sát hành vi nhóm sĩ quan cấp úy thông qua đánh giá của dư luận xã hội.
Mạng lưới xã hội tạo cho sĩ quan cấp úy “vốn xã hội” để thăng tiến xã hội
Tham gia vào mạng lưới xã hội, sĩ quan cấp úy thực hiện các quan hệ xã
hội của mình, những quan hệ xã hội này giúp họ phát triển trí tuệ và làm giàu
thêm tri thức, kinh nghiệm sống của mình, tức là tạo ra những nguồn lực thông
qua những quan hệ xã hội từ gia đình, họ hàng, bạn bè, đơn vị và các tổ chức
chính trị xã hội khác trong cộng đồng. Những nguồn lực này các nhà xã hội học
quan niệm là "vốn xã hội". Coleman đã chỉ ra một số hình thái (nguồn lực) của
vốn xã hội như sau [85]: (1) lòng tin, sự kỳ vọng, trách nhiệm; (2) thông tin; (3)
những chuẩn mực; (4) quyền uy, uy tín là những hình thái của vốn xã hội [44,
dẫn theo Lê Ngọc Hùng]. Sĩ quan cấp úy có thể sử dụng vốn xã hội là mạng lưới
xã hội để tạo dựng sự thăng tiến xã hội, tìm kiếm lợi ích, đảm bảo cuộc sống cho
mình, gia đình và tổ chức quân sự của mình.
2.2. MỘT SỐ LÝ THUYẾT XÃ HỘI HỌC VẬN DỤNG TRONG NGHIÊN CỨU
2.2.1. Lý thuyết mạng lưới xã hội, vốn xã hội và sự vận dụng nghiên
cứu mạng lưới xã hội của nhóm sĩ quan cấp úy Quân đội nhân dân Việt Nam
2.2.1.1. Lý thuyết mạng lưới xã hội, vốn xã hội
Sundt, nhà dân tộc học người Na Uy - người được coi là đầu tiên đặt nền
móng cho nghiên cứu về mạng lưới xã hội - trong một khảo cứu vào năm 1856
về tổ chức xã hội của những người nông dân trong cộng đồng, đã thảo luận về
những mối quan hệ giữa các gia đình thông qua những công việc quan trọng như
giỗ tết, cưới xin, ma chay… đã gợi mở cho một số nhà nhân học, xã hội học
60
nghiên cứu về mạng lưới xã hội [52, tr.58-65]. Vào đầu năm 1954 các phân tích
bằng thuyết mạng lưới xã hội đã xuất hiện lần đầu trong bài viết của John A.
Barnes, nhà xã hội học thuộc trường phái Manchester, được công bố trên tạp chí
“Quan hệ con người” và ông là người đưa ra thuật ngữ "Mạng lưới xã hội".
Song song với các nghiên cứu về mạng lưới xã hội, nhiều nhà khoa học
quan tâm đến phương pháp tiếp cận mạng lưới xã hội. Một số tác giả đề cập đến
việc nghiên cứu mạng lưới xã hội theo thuyết cấu trúc - chức năng của
E.Durkheim và đã phân biệt thành hai kiểu đoàn kết máy móc và đoàn kết hữu
cơ trên cơ sở phân công lao động giản đơn và phức tạp tạo nên kiểu quan hệ xã
hội tương ứng giữa các cá nhân và nhóm người. Mạng lưới quan hệ chức năng
đặc trưng cho kiểu đoàn kết hữu cơ của xã hội hiện đại và mạng lưới quan hệ phi
chức năng đặc trưng cho kiểu đoàn kết máy móc của xã hội truyền thống.
Những người theo đuổi lý thuyết tương tác xã hội như Georg Simmel lại
tập trung vào phân tích các kiểu, hình thức của mạng lưới gồm các mối liên hệ
cá nhân đang tác động lẫn nhau.
Theo lý thuyết hệ thống, một số tác giả tập trung vào giải quyết một
nhiệm vụ trung tâm của xã hội học là nghiên cứu cốt lõi bên trong của xã hội
với tư cách là kiểu mối liên hệ và quan hệ giữa các thành tố xã hội, mạng lưới
xã hội là biểu hiện cụ thể, trực tiếp và rõ rệt nhất của cấu trúc xã hội. Phân
tích mạng lưới xã hội đã trở thành một phương pháp tiếp cận cấu trúc xã hội
[43, dẫn theo Lê Ngọc Hùng].
Robert Putnam (1995), trong công trình "Chơi bowling một mình: sự sụp
đổ và sự trỗi dậy của cộng đồng Mỹ" cho rằng, dân Mỹ ngày càng thích các hoạt
động riêng lẻ thay vì cùng nhóm; ít tham gia vào các hoạt động công dân; ít đóng
góp cho các tổ chức từ thiện và dành ít thì giờ giao thiệp xã hội... Ông đã quan
ngại đến cộng đồng xã hội này. Ông sử dụng cụm từ "vốn xã hội" gắn với những
mạng lưới xã hội, những quy tắc cho phép cá nhân, tập thể giải quyết những vấn
đề chung của cộng đồng. Từ đó ông bày tỏ lo ngại về sự suy giảm "vốn xã hội"
61
sẽ làm lung lay các thể chế dân chủ, khiến cho học đường kém hữu hiệu và
thiếu đi nguồn sống cho các hoạt động cộng đồng. Putnam cũng gắn những ý
niệm về vốn xã hội của mình với vấn đề "đạo đức công dân", theo đó, đạo đức
công dân sẽ trở lên mạnh mẽ nhất khi được gắn vào một mạng lưới của các
mối quan hệ liên chủ thể [91].
Trong công trình nghiên cứu Lý thuyết và phương pháp tiếp cận mạng
lưới xã hội: trường hợp tìm kiếm việc làm của sinh viên [43], Lê Ngọc Hùng
(2003) đã vận dụng lý thuyết và phương pháp tiếp cận mạng lưới xã hội để tìm
hiểu rõ thành phần và kiểu dạng các quan hệ xã hội mà các cá nhân có thể sử
dụng để tìm kiếm việc làm, và đã khái quát ba kiểu mạng lưới xã hội: (1) kiểu
truyền thống; (2) kiểu hiện đại; và (3) kiểu hỗn hợp, kết hợp truyền thống và
hiện đại. Tác giả khẳng định, mặc dù kiểu hỗn hợp là chủ yếu hiện nay, nhưng
cùng với sự phát triển của thị trường lao động xã hội với các yếu tố mang tính
dịch vụ chuyên nghiệp và chuyên môn hóa ngày càng cao, kiểu mạng lưới hiện
đại sẽ chiếm ưu thế trong đời sống xã hội cụ thể và ở đây là tìm kiếm việc làm.
Như vậy, ý nghĩa của lý thuyết mạng lưới xã hội và vốn xã hội ở đây đó
là, bằng sự hiểu biết về mối quan hệ giữa một cá nhân với những người khác,
chúng ta có thể đánh giá được vốn xã hội của cá nhân đó, bởi vì vốn xã hội liên
quan đến vị trí mạng lưới của khách thể và bao gồm khả năng đạt được các
nguồn lực có trong các thành viên của mạng lưới xã hội đó; mạng lưới các quan
hệ là sản phẩm của các chiến lược đầu tư của cá nhân hoặc tập thể, có ý thức hay
không có ý thức nhằm thiết lập hoặc tái tạo các quan hệ xã hội được sử dụng một
cách trực tiếp hay gián tiếp, ngắn hạn hay lâu dài.
2.2.1.2. Vận dụng thuyết mạng lưới xã hội, vốn xã hội nghiên cứu
mạng lưới xã hội của nhóm sĩ quan cấp úy Quân đội nhân dân Việt Nam
Vận dụng lý thuyết mạng lưới xã hội và vốn xã hội trong nghiên cứu
mạng lưới xã hội của nhóm sĩ quan cấp úy để trả lời các câu hỏi: Nhóm sĩ quan
cấp úy sử dụng mạng lưới xã hội, vốn xã hội trong cuộc sống hoạt động quân sự
như thế nào? Vai trò của mạng lưới xã hội, vốn xã hội đối với sự hình thành,
62
phát triển phẩm chất lãnh đạo, quản lý, chỉ huy bộ đội, và việc hình thành phẩm
chất xã hội của sĩ quan cấp úy? Mạng lưới xã hội, vốn xã hội từ gia đình và bạn
bè đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động quân sự như thế nào? Có mặt hạn
chế nào không?... Trong Hệ tư tưởng Đức, C. Mác viết: "Sự phong phú thực sự
về tinh thần của cá nhân là hoàn toàn phụ thuộc vào sự phong phú của những
liên hệ thực tại của họ"; "Con người tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh
cũng tạo ra con người đến mức ấy" [49, tr. 53, 55].
Cần lưu ý đến hai hướng tiếp cận mạng lưới xã hội để giải quyết những
câu hỏi nêu trên. Thứ nhất, mạng lưới xã hội với tư cách là cấu trúc xã hội bao
gồm các mối tương tác xã hội và trao đổi xã hội, trong đó hệ các giá trị, chuẩn
mực và niềm tin được hình thành, biểu lộ. Nhờ vậy, các thành viên của mạng
lưới xã hội đều chia sẻ trách nhiệm, nghĩa vụ và có những lợi ích ràng buộc lẫn
nhau khi theo đuổi những mục đích của họ. Thứ hai, mạng lưới xã hội với tư
cách là thiết chế xã hội không những có chức năng gắn kết xã hội mà còn có
chức năng cung cấp thông tin chính xác, cần thiết và nhờ vậy góp phần làm tăng
hiệu quả mục đích cho các bên tham gia mạng lưới.
Nhóm sĩ quan cấp úy là những con người xã hội đang sống và hoạt động
trong tổ chức quân sự, ở họ vừa mang những đặc trưng của con người xã hội, vừa
mang đặc trưng của con người xã hội quân nhân trong tổ chức quân sự, trong quân
đội. Do vậy, nghiên cứu lý thuyết mạng lưới xã hội, vốn xã hội giúp tác giả luận
án có phương pháp tiếp cận và vận dụng vào nghiên cứu, phân tích, xem xét các
quan hệ xã hội trong quân đội và đo lường được mạng lưới xã hội của nhóm sĩ
quan cấp úy hiện nay. Trước hết, là một con người xã hội, sĩ quan cấp úy mang
trong mình những dấu ấn quan hệ xã hội nơi họ sinh ra và lớn lên. Theo đó, sĩ
quan cấp úy có các mạng lưới xã hội: Gia đình, anh em, họ hàng, bạn bè, làng xã,
phố phường. Thứ hai, là một con người xã hội quân nhân trong quân đội, sĩ quan
cấp úy mang những đặc trưng xã hội của những con người đang sống và hoạt
động trong tổ chức quân sự. Do đó, sĩ quan cấp úy có các loại hình mạng lưới xã
63
hội trong quân đội như: Với cấp trên, với những quân nhân đồng cấp, với sĩ quan
cùng loại hình ngành nghề, với cán bộ, chiến sĩ cấp dưới, với cán bộ, chiến sĩ là
đồng hương, với sĩ quan cùng tuổi, với những nhóm cùng sở thích.v.v…
Như vậy, mạng lưới xã hội của sĩ quan cấp úy rất phong phú, đa dạng,
đan cài, đan xen vào nhau. Đặc trưng của mạng lưới xã hội này là được hình
thành cả trong quân đội và ngoài quân đội. "Thời bình, quân đội làm nhiệm vụ
sẵn sàng chiến đấu, đồng thời tham gia lao động sản xuất, công tác xã hội,
phòng chống thiên tai. Các hoạt động đó là môi trường thuận lợi cho quân nhân
mở rộng quan hệ xã hội. Trong quân đội, quân nhân có quân hàm cao, thời gian
phục vụ trong quân đội dài, đảm nhiệm nhiều chức vụ ở các đơn vị thì liên hệ
và quan hệ xã hội rộng" [55, tr.55].
Tìm hiểu, phân tích tổng tích hợp mạng lưới xã hội của nhóm sĩ quan cấp
úy sẽ thấy được bản chất xã hội của nhóm xã hội này. Hình thức biểu hiện, mức
độ, tính chất các mạng lưới xã hội tùy thuộc vào vị trí, vai trò, vị thế, chức năng,
nhiệm vụ, thời gian phục vụ trong quân đội và "đặc tính xã hội" của từng sĩ quan
cấp úy; hệ chuẩn mực, giá trị, thang giá trị của nhóm sĩ quan cấp úy; chức năng
nhiệm vụ và vị thế xã hội của quân đội, của đơn vị trong từng thời kỳ; điều kiện
chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước.
Trong quân đội, để đảm bảo tính tổ chức, tính kỷ luật của quân đội phải
quan tâm xây dựng, giữ vững và phát huy hiệu quả quan hệ chức năng, đảm bảo
quan hệ chức năng luôn ở vị trí trung tâm, giữ vai trò chủ đạo điều khiển trong các
quan hệ xã hội của sĩ quan cấp úy. Nếu để các kiểu quan hệ xã hội khác lấn át
hoặc che lấp quan hệ chức năng sẽ làm suy giảm tính tổ chức, tính kỷ luật và sức
mạnh chiến đấu của quân đội hoặc làm cho quan hệ xã hội trong quân đội không
ăn khớp, dễ dẫn đến rối loạn. Mặc dù vậy, cũng không thể và không nên loại trừ
các kiểu loại quan hệ xã hội phi chính thức, phi chức năng của nhóm sĩ quan cấp
úy, vì nó là một phần của đời sống xã hội của họ, phản ánh tính đa dạng, phức tạp
quan hệ xã hội của con người xã hội nói chung, nhóm sĩ quan cấp úy nói riêng.
64
2.2.2. Lý thuyết tổ chức xã hội và sự vận dụng nghiên cứu mạng
lưới xã hội của nhóm sĩ quan cấp úy Quân đội nhân dân Việt Nam
2.2.2.1. Lý thuyết tổ chức xã hội
Trong cuốn sách “Lý luận về tổ chức kinh tế và xã hội” [90] (được
Passons dịch và xuất bản ở Mỹ năm 1947), Weber đã xây dựng một thể chế quản
lý hành chính “lý tưởng”: thể chế quan liêu. Weber cho rằng, thể chế quan liêu là
một tổ chức xã hội chặt chẽ, hợp lý, vận hành giống như một cỗ máy ăn khớp,
nhịp nhàng. Nó có những hoạt động chuyên nghiệp thành thạo, có quy định rõ
ràng về quyền hạn, trách nhiệm, có quy chế thực hiện nghiêm khắc và quan hệ
phục tùng theo cấp bậc, do đó trở thành một hệ thống kỹ thuật quản lý. Weber
vạch rõ, thể chế quan liêu dù quan sát theo góc độ kỹ thuật thuần túy cũng có
những ưu điểm rõ rệt so với những thể chế quản lý khác trước kia. Điều đó thể
hiện ở những đặc trưng: (1) tính chuẩn xác; (2) tính nhạy bén; (3) tính rõ ràng;
(4) tính thông văn bản; (5) tính liên tục; (6) tính nghiêm túc; (7) tính thống nhất;
(8) quan hệ phục tùng nghiêm chỉnh; (9) phòng ngừa va chạm; (10) tiết kiệm
nhân lực và vật lực.
Do thể chế quan liêu có những ưu điểm kể trên nên có thể vận hành linh
hoạt như một cỗ máy. Weber cho rằng, chính nền kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa yêu cầu phải không ngừng tiến hành quản lý một cách chặt chẽ, không
hàm hồ, hơn nữa cần nhanh chóng làm việc đó. Trên thực tế, chính sự quản lý
của cơ chế quan liêu này đã thực sự thể hiện sự khác biệt của quản lý sản xuất xã
hội hóa tư bản chủ nghĩa với quản lý của chế độ gia đình hoặc các phương thức
sản xuất khác. Thể chế quan liêu này không những thích hợp trong lĩnh vực kinh
tế mà còn được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh khác của đời sống xã hội. Do đó,
trên ý nghĩa ấy, có thể nói quá trình phát triển của xã hội tư bản chủ nghĩa cũng
là quá trình phát triển và phổ cập của thể chế quan liêu. Ngày nay, không ai có
thể phủ nhận rằng các hoạt động chính trị, văn hóa, giáo dục và tất cả các lĩnh
65
vực xã hội khác, nếu xa rời thể chế quản lý này đều sẽ lâm vào cảnh hỗn loạn và
không thể tiến hành một cách bình thường.
Khi bàn về quan hệ xã hội trong tổ chức, Weber đã đưa ra quan niệm
về "thống trị" hợp pháp với nghĩa là hình thức, tính chất của quan hệ xã hội.
Sự "thống trị" hợp pháp được hiểu trong mối quan hệ giữa ra lệnh và phục
tùng. Theo đó "thống trị" hợp pháp được xem xét trên các loại hình: mang
tính hợp lý, phục tùng dựa trên niềm tin và tính hợp pháp của quyền lực;
mang tính truyền thống, phục tùng dựa trên sự sùng bái khác thường vào sự
linh thiêng, sự hùng mạnh, sự tiêu biểu của một người hay trật tự do người đó
lập ra hoặc đề xuất [55].
Đề cập đến quyền lực, ông đã phân biệt và chỉ ra ba hình thức quyền lực:
Quyền lực kiểu truyền thống (quyền lực cổ truyền dựa trên tập quán); quyền lực
do lãnh tụ siêu phàm (dựa trên sự gương mẫu); quyền lực pháp lý (quyền lực
hợp pháp dựa trên pháp luật). Trong ba loại hình quyền lực nói trên, theo Weber,
loại hình quyền lực pháp lý có thể dùng làm cơ sở cho thể chế quản lý hành
chính “lý tưởng”. Bởi vì, với loại hình quản lý này, tất cả các nhân viên quản lý
đều không được phép làm việc theo thiên kiến và tình cảm cá nhân, phải đối xử
bình đẳng với tất cả mọi người, không phân biệt đẳng cấp xã hội và thân phận cá
nhân của họ. Do đó, nó có thể giữ được sự công minh thận trọng, tất cả quyền
lực đều quy vào những quy định pháp luật; những người giữ chức vụ quản lý có
những phương tiện hợp pháp để sử dụng quyền lực; mỗi nhân viên quản lý đều
trải qua lựa chọn nên họ có thể đảm nhiệm tốt chức trách của mình; quyền lực
của mỗi nhân viên quản lý đều được quy định rõ ràng theo nhu cầu hoàn thành
nhiệm vụ và bị hạn chế trong phạm vi cần thiết. Do đó chỉ loại hình quyền lực
này là có thể đảm bảo tính liên tục, ổn định của quản lý, bảo đảm hiệu quả cao
của quản lý. Vì thế, loại hình quyền lực này đã trở thành nền tảng cho thể chế
quản lý của các quốc gia hiện đại.
66
2.2.2.2. Vận dụng lý thuyết tổ chức xã hội nghiên cứu mạng lưới xã
hội của nhóm sĩ quan cấp úy Quân đội nhân dân Việt Nam
Lý thuyết tổ chức xã hội của Max Weber được vận dụng vào nghiên cứu
tổ chức quân đội cho thấy quân đội là một tổ chức xã hội đặc biệt và là tổ chức
mang tính đặc thù. Tính đặc thù, đặc biệt của quân đội nhìn từ góc độ một loại
hình thể xã hội, một kiểu loại hình tổ chức của xã hội, gồm: Biên chế, tổ chức
theo kiểu mẫu khá tương đồng giữa quân đội của các quốc gia; quan hệ xã hội
theo hệ thống dọc, trên - dưới; tính chất quan hệ xã hội là ra lệnh - phục tùng
(phục tùng trong quân đội chủ yếu là sự phục tùng tính hợp pháp của quyền lực,
đồng thời là sự phục tùng dựa trên niềm tin, uy tín, vị thế xã hội của người chỉ
huy); tính tổ chức, tính kỷ luật nghiêm minh, tổ chức quyền lực mang tính quan
liêu; hoạt động gắn với vận mệnh quốc gia, dân tộc, giai cấp, với tính mạng con
người, trong điều kiện khắc nghiệt; quân nhân - nhóm xã hội có tính độc lập,
tương đối với đời sống xã hội, với các nhóm xã hội khác.
Quân đội ở mỗi quốc gia có cách thức tổ chức cụ thể căn cứ vào tính chất
nhiệm vụ, trang bị, vũ khí, nghệ thuật quân sự, điều kiện đảm bảo, song về cơ
bản được tổ chức theo một kiểu mẫu chung, hình thành các đơn vị theo dạng
hình tháp với nhiều cấp, lớp, tầng bậc. Đây chính là kiểu tổ chức xã hội điển
hình, đặc trưng của quân đội. Bất kỳ tổ chức xã hội nào cũng có cấu trúc tầng
bậc mang tính đẳng cấp, phổ biến là lãnh đạo và bị lãnh đạo, cấp trên và cấp
dưới. Song, tổ chức quân sự là điển hình của kiểu tổ chức theo tầng bậc mang
tính đẳng cấp. Với mô hình tổ chức dạng hình tháp nhiều tầng bậc, với tính chất
nhiệm vụ của tổ chức quân sự, do vậy, quan hệ xã hội trong quân đội theo hệ
thống dọc, cấp trên và cấp dưới, sĩ quan chỉ huy ở mỗi cấp là cấp trên của sĩ
quan các đơn vị thuộc quyền. Sự phân định trên dưới rõ ràng, rành mạch, trực
tiếp, tạo nên "tính tôn ti" nghiêm ngặt. Trong hệ thống đó, tính chất quan hệ xã
hội là ra lệnh và phục tùng, cấp dưới phải tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh cấp
trên, "quân lệnh như sơn". Tính chất quan hệ xã hội này thể hiện rõ nhất trong
67
chiến tranh, trong thực hiện các nhiệm vụ quân sự, ở các đơn vị làm nhiệm vụ
trực tiếp chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu [55].
Quyền lực, theo Max Weber, cái mà một người có được và sử dụng nó
buộc người khác phải phục tùng; khả năng tác động đối với thái độ xử sự của
người khác; là khả năng mà một chủ thể hành động trong mối quan hệ xã hội có
vị trí để thực hiện ý chí của mình bất chấp sự chống cự của người khác. Hai mặt
của quyền lực là cưỡng bức (ra lệnh) và phục tùng. Với tính chất quan hệ xã hội
và tính tổ chức, tính kỷ luật trong quân đội đã cho thấy quân đội là một kiểu tổ
chức quyền lực. Nó là một yếu tố trong cơ cấu tổ chức của quân đội và mang
tính chức năng. Vị trí chỉ huy tạo cho sĩ quan - người chỉ huy một quyền lực để
thực hiện vai trò, chức năng chỉ huy trong phạm vi, quyền lực cho phép [55].
Như vậy, quyền lực của người sĩ quan - chỉ huy trong quân đội là quyền lực hợp
pháp dựa trên những quy phạm pháp luật. Đồng thời, quyền lực của người chỉ
huy là quyền lực hợp pháp được kết hợp, hoà quyện với quyền lực dựa trên sự
gương mẫu và quyền lực dựa trên truyền thống văn hoá của quân đội, dựa trên
tình đồng chí đồng đội.
Vận dụng lý thuyết tổ chức xã hội của Max Weber nghiên cứu mạng lưới
xã hội của nhóm sĩ quan cấp úy trong quân đội, trước hết phải đặt nhóm sĩ quan
cấp úy vào cấu trúc tổ chức, thiết chế quân sự, chúng ta nhận thấy khía cạnh
quản lý và quan hệ của tổ chức có ảnh hưởng, chi phối rất mạnh tới nhóm sĩ
quan cấp úy, tập trung ở ba nội dung:
Một là, tổ chức thực hiện cơ chế quản lý đối với nhóm sĩ quan cấp úy. Thực
chất là cơ chế ràng buộc của tổ chức với nhóm sĩ quan cấp úy thông qua nguyên
tắc tổ chức, điều lệnh, điều lệ, chế độ quy định của quân đội với một yêu cầu rất
cao so với các nhóm xã hội khác. Tổ chức quân sự có những tác động, hỗ trợ cho
nhóm sĩ quan cấp úy hình thành các phẩm chất, các chuẩn mực hành vi, nhằm đáp
ứng và hoàn thành vai trò cá nhân, và cá nhân dựa vào hành lang pháp lý của tổ
chức (ẩn dưới cái bóng của tổ chức) để thực thi vai trò của mình thông qua các
68
quan hệ xã hội. Bằng cơ chế quản lý, đánh giá vai trò của nhóm sĩ quan cấp úy mà
tổ chức có thể đưa ra các quyết định (như thưởng - phạt) có thể cắt chức, miễn
nhiệm, hạ thấp vai trò; hoặc có thể đề bạt, bổ nhiệm nâng cao vai trò, tạo điều kiện
thuận lợi cho cá nhân có cơ hội thăng tiến.
Hai là, sĩ quan cấp úy thực hiện vai trò quản lý trong tổ chức. Thông qua
nguyên tắc tổ chức, quy chế, điều lệnh, điều lệ, chế độ quy định của tổ chức trong
quân đội và các biện pháp tích cực qua các hoạt động của mình, sĩ quan cấp úy
củng cố, tăng cường vai trò quản lý đối với các tập thể, cá nhân (tổ chức đảng và
đảng viên, tổ chức thiết chế quân sự và quân nhân thuộc quyền) góp phần xây
dựng tổ chức trong sạch vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện.
Ba là,sĩ quan cấp úy thực hiện các quan hệ xã hội theo cách thức quy định
của tổ chức quân sự. Là một quân nhân trong tổ chức quân sự, sĩ quan cấp úy chịu
sự chi phối và ảnh hưởng của những đặc trưng của hệ thống quân đội nói riêng, hệ
thống xã hội nói chung. Các vấn đề xã hội, hiện tượng xã hội trong quân đội có sự
liên hệ với những điều kiện về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của quốc gia, dân
tộc. Do vậy, nghiên cứu về nhóm sĩ quan cấp úy trong quân đội phải đặt trong mối
quan hệ với xã hội mà quân đội là một yếu tố trong đó. Bao gồm, (1) các quan hệ
xã hội với các yếu tố bên trong hệ thống như: giai cấp, nhà nước, tập đoàn xã hội
tổ chức và lãnh đạo quân đội; nhân dân và các tổ chức, đoàn thể xã hội; lực lượng
vũ trang khác; (2) các quan hệ xã hội với các yếu tố bên ngoài hệ thống như: quân
đội của các quốc gia khác; các tổ chức quốc tế; đối tượng tác chiến. Căn cứ tính
chất của tổ chức, chức năng nhiệm vụ của các tổ chức xã hội để xác định tính chất,
nội dung, phương thức liên hệ, quan hệ của sĩ quan cấp úy trong quân đội với tính
chất tổ chức xã hội với các tổ chức xã hội khác bên trong và bên ngoài hệ thống.
Vấn đề xã hội học ở đây là các hiện tượng xã hội nảy sinh trong mạng lưới xã hội
khi nhóm sĩ quan cấp úy thực hiện sự tương tác với các cá nhân và các tổ chức xã
hội khác bên trong và bên ngoài hệ thống tổ chức quân sự.
69
2.3. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH, QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM, NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VỀ XÂY
DỰNG QUÂN ĐỘI, XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ SĨ QUAN
2.3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội, xây dựng
đội ngũ sĩ quan
2.3.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Quân đội nhân dân là kết quả của sự
vận dụng và phát triển sáng tạo những quan điểm tư tưởng quân sự của chủ nghĩa
Mác-Lênin, kế thừa và phát triển nghệ thuật quân sự độc đáo của dân tộc ta, tiếp
thu có chọn lọc, hiệu quả tinh hoa quân sự thế giới. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng Quân đội nhân dân là tư tưởng chiến tranh nhân dân Việt Nam và quốc
phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc, được Đại hội IX của Đảng ta xác định là một nội
dung cơ bản trong hệ thống quan điểm của Người về cách mạng Việt Nam. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội được thể hiện ở các nội dung:
Một là, “quân sự phục tùng chính trị”, “quân sự mà không có chính trị
như cây không có gốc, vô dụng lại có hại” [36, tr.470]. Chính trị của quân đội
được “biểu hiện ra trong lúc đánh giặc” [38, tr.318]. Sự lãnh đạo của Đảng là
nhân tố quyết định bản chất cách mạng, sự trưởng thành và chiến thắng của quân
đội. Trong xây dựng quân đội, Đảng ta luôn lấy việc xây dựng về chính trị làm
cơ sở để nâng cao sức mạnh tổng hợp và thường xuyên tăng cường hiệu lực
công tác đảng, công tác chính trị. thông qua sự lãnh đạo tuyệt đối trực tiếp, về
mọi mặt của Đảng với quân đội.
Hai là, về nguyên tắc tổ chức quân đội: “Phải có tổ chức vững chắc và
nghiêm mật”, “nếu không có tổ chức thì không phải là một đội quân cách mạng,
không thể đánh thắng được” [38, tr.318], kết cục sẽ rơi vào tình trạng vô chính
phủ và tan rã. Người đã vận dụng sáng tạo nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng
vào xây dựng quân đội cách mạng. Người nêu rõ, quân đội phải có kỷ luật nghiêm
minh, kỷ luật sắt “quân lệnh như sơn” đi đôi với thực hiện dân chủ, phê bình và tự
70
phê bình từ trên xuống dưới; đồng thời chống quan liêu, quân phiệt, độc đoán, tính
tự do vô kỷ luật.
Ba là, xây dựng quân đội phải lấy việc bồi dưỡng xây dựng con người
là chính. Người nói: “Người trước súng sau”, “công việc thành công hay thất
bại đều do cán bộ tốt hay kém” [37, tr.269], “cán bộ là cái gốc của mọi công
việc” [37, tr.273].
Bốn là, Quân đội ta là Quân đội của dân, do dân, vì dân. Vì vậy, quân đội
phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, có thái độ chính trị đúng đắn
trước những mối quan hệ chính trị cơ bản. Người đã khái quát: “Quân đội ta có
sức mạnh vô địch, vì nó là một Quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta
lãnh đạo và giáo dục” [39, tr.350].
2.3.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ sĩ quan
Ngay từ khi thành lập quân đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất quan tâm đến
việc xây dựng người cán bộ quân đội (đội ngũ sĩ quan quân đội). Người coi “cán
bộ là cái gốc của mọi công việc” [37, tr.273]. Theo Người “công việc thành công
hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [37, tr.273]. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng đội ngũ sĩ quan thể hiện tập trung ở những tư tưởng cốt lõi sau:
Một là, về phẩm chất chính trị, năng lực. Người coi vấn đề xây dựng
bản lĩnh chính trị, bản chất giai cấp là mấu chốt nhất của đội ngũ sĩ quan.
Người coi đó là yếu tố cơ bản để tạo nên sức mạnh của lực lượng vũ trang.
Bởi vì, theo Hồ Chí Minh, “quân sự mà không có chính trị thì như cây không
có gốc, vô dụng lại có hại” [38, tr.318], chính trị của đội ngũ sĩ quan “biểu
hiện ra trong lúc đánh giặc” [38, tr.318]. Người chỉ ra đặc trưng về bản chất
của đội ngũ sĩ quan là: “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy
sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng
hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” [34,
tr.296]. Bản chất này biểu hiện rõ ở các mối quan hệ xã hội, cũng như mục
tiêu chiến đấu của đội ngũ sĩ quan, trong đó nét tiêu biểu tập trung nhất là
71
trung với Đảng, hiếu với dân. Với ý nghĩa đó, Người luôn nhắc nhở đội ngũ sĩ
quan phải giữ gìn truyền thống trung với Đảng, hiếu với dân.
Hai là, về đạo đức, lối sống. Người yêu cầu, đội ngũ sĩ quan phải có sự
hiểu biết và thực sự trong sáng về phẩm chất, đạo đức, lối sống, đó là: cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư; sống giản đi, đặt lợi ích của nhân dân, của Tổ quốc
lên trên lợi ích cá nhân. Phải thật thà ngay thẳng, nghiêm túc tự phê bình và phê
bình. Đồng thời, phải khiêm tốn, thực sự cầu thị, không chủ quan kiêu ngạo, có ý
thức lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ; nói đi đôi với làm và phải mẫu mực để
chiến sĩ noi gương, học tập. Người nhắc nhở cán bộ quân đội “từ tiểu đội trưởng
trở lên, từ tư lệnh trở xuống phải săn sóc đời sống vật chất và tinh thần của đội
viên… Bộ đội chưa ăn cơm, cán bộ không được kêu mình đói. Bộ đội chưa đủ
áo mặc, cán bộ không được kêu mình rét. Bộ đội chưa đủ chỗ ở, cán bộ không
được kêu mình mệt” [40, tr.157-158], và, Người thường căn dặn: “Cán bộ phải
thương yêu đội viên. Đối với anh em ốm yếu, thương tật cán bộ phải trông nom,
thăm hỏi. Người đội trưởng, người chính trị viên phải là người anh, người chị,
người bạn của đội viên. Chưa làm được như vậy là chưa hết nhiệm vụ. Cán bộ
có thân đội viên như chân với tay, thì đội viên mới thân cán bộ như ruột thịt... Có
như thế chỉ thị, mệnh lệnh và kế hoạch cấp trên đưa xuống, đội viên sẽ tích cực
và triệt để thi hành” [35, tr.495].
Ba là, về phương pháp và tác phong công tác. Người nhắc nhở cán bộ phải
ra sức học tập, tu dưỡng, đúc rút kinh nghiệm thưc tiễn để có phương pháp xử lý
đúng đối với công việc và đối với con người trong mọi hoàn cảnh, có như vậy thì
mới hoàn thành tốt công tác Đảng giao. Người luôn căn dặn cán bộ phải thực sự
gương mẫu, dân chủ, cởi mở, sâu sát với đồng sự, với chiến sỹ và nhân dân; “phải
óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ không phải nói
suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh” [34, tr.319]. Người dạy, việc gì cũng phải thiết
thực, nói được, làm được, chớ đặt kế hoạch, chương trình mênh mông nghe sướng
tai nhưng lại không thực hiện được. Trong lời nói, việc làm phải lấy chính trị trọng
72
hơn quân sự, phải là "Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân", tức là lấy
tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, nêu gương làm chính.
2.3.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam về xây dựng quân đội, xây dựng đội ngũ sĩ quan
2.3.2. 1. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam về xây dựng quân đội
Một là, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi
mặt của Đảng đối với quân đội, bảo đảm cho quân đội tuyệt đối trung thành với
Đảng, với Nhà nước và nhân dân. Hai là, tiếp tục xây dựng quân đội cánh mạng,
chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong
thời kỳ mới. Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội vững mạnh, đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Bốn là, tăng
cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; kết hợp đấu tranh làm thất bại chiến
lược “diễn biến hòa bình” và âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội của
các thế lực thù địch cho cán bộ, chiến sĩ. Kết hợp tăng cường công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng với đấu tranh chống mọi biểu hiện cơ hội, những quan điểm
sai trái, tiêu cực, chống chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch,
ngăn chặn, đẩy lùi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Năm là, tăng
cường đoàn kết gắn bó máu thịt với nhân dân, góp phần xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân vững mạnh trong tình hình mới. Đồng thời, làm tốt công tác tuyên
truyền, vận động nhân dân chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, tích cực xây dựng nền quốc phòng toàn dân; nêu cao tinh
thần cảnh giác, không mơ hồ, ảo tưởng, không để kẻ thù lợi dụng, lôi kéo, mua
chuộc, kích động gây chia rẽ quan hệ giữa quân đội với nhân dân. Sáu là, tiếp
tục đẩy mạnh hoạt động đối ngoại quốc phòng nhằm tạo thế và lực mới cho nền
quốc phòng toàn dân.
2.3.2. 2. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam về xây dựng đội ngũ sĩ quan
73
Bước vào thời kỳ mới quân đội ta đang được xây dựng theo hướng cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ từng bước hiện đại, trong bối cảnh tình hình thế giới,
khu vực và trong nước đang có những diễn biến rất phức tạp và có sự phát triển
mới rất khó lường, bao gồm cả thời cơ, thách thức, thuận lợi và khó khăn đan
xen nhau trên tất cả các mặt của đời sống xã hội, điều đó đòi hỏi đội ngũ cán bộ
quân đội và công tác cán bộ trong quân đội cần quán triệt, nhận thức sâu sắc hơn
nữa, nhằm tiếp tục xây dựng đội ngũ sĩ quan vững mạnh, có bản lĩnh chính trị
vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có tinh thần cảnh
giác cách mạng cao; có trình độ kiến thức lý luận chính trị, quân sự, nắm vững
và vận dụng sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh; có trình độ khoa học nghệ thuật quân sự; có năng lực trí tuệ và năng lực
hoạt động thực tiễn, biết làm việc một cách chủ động, tự lực, sáng tạo; có phẩm
chất đạo đức, lối sống trong sạch, lành mạnh, có ý thức tổ chức kỷ luật, đoàn kết,
có năng lực lãnh đạo, chỉ huy, quản lý đơn vị; có phương pháp, tác phong công
tác khoa học.v.v… đáp ứng yêu cầu mới của nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ
quân đội trong giai đoạn hiện nay. Nghị quyết Trung ương 3 (Khóa VIII) "Về
Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước"
được vận dụng vào trong Đảng bộ Quân đội thông qua Nghị quyết số 94-
NQ/ĐUQSTW của Đảng ủy Quân sự Trung ương, xác định rõ yêu cầu, tiêu
chuẩn của đội ngũ cán bộ sĩ quan quân đội trong thời kỳ mới, đặc biệt là Nghị
quyết số 769-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương về “Xây dựng đội ngũ cán
bộ quân đội giai đoạn 2013-2020 và những năm tiếp theo”.
Phương hướng, tiêu chuẩn trên cùng với việc quán triệt Nghị quyết Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XII (năm 2015), Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quân
lần thứ X (năm 2015) về yêu cầu tiêu chuẩn cán bộ trong thời kỳ mới, đồng thời
74
là sự vận dụng những yêu cầu về xây dựng đội ngũ sĩ quan theo tư tưởng Hồ Chí
Minh trong điều kiện, hoàn cảnh mới.
2.4. ĐẶC ĐIỂM VỀ ĐƠN VỊ NGHIÊN CỨU
Trong bối cảnh quân dân cả nước đang bước vào cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ
quốc tại biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc; để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, ngày 27 tháng 02 năm 1979, Bộ
Quốc phòng ra Quyết định số 193/QĐ-QP thành lập Đoàn B01. Sự ra đời của
Đoàn B01 là một điểm mốc quan trọng, đánh dấu bước phát triển về hình thức tổ
chức lực lượng quân sự mới của các lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam. Đây
là đơn vị chủ lực cơ động, xây dựng theo phương hướng chính quy, hiện đại, tinh
nhuệ, tác chiến hiệp đồng quy mô lớn trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Từ khi thành lập đến nay, Đoàn B01 đã được giao thực hiện nhiều nhiệm
vụ: chiến đấu, khung thường trực, huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, đứng chân trên
nhiều địa bàn khác nhau. Với sự đoàn kết và quyết tâm cao, dưới sự lãnh đạo,
chỉ đạo của Đảng uỷ quân sự Trung ương (Quân uỷ Trung ương) và Bộ Quốc
phòng, được Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các địa phương trên địa bàn
đóng quân quan tâm, giúp đỡ, đùm bọc, Đoàn B01 đã vượt qua mọi khó khăn,
thử thách, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ. Các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Đoàn
B01 đã đoàn kết nỗ lực phấn đấu, rèn luyện bản lĩnh chính trị, không ngừng
nâng cao sức mạnh và trình độ sẵn sàng chiến đấu, luôn xứng danh “Bộ đội Cụ
Hồ”, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
Hiện nay, Đoàn B01 là đơn vị bộ binh đủ quân, làm nhiệm vụ huấn luyện
sẵn sàng chiến đấu. Nhiệm vụ chính trị trọng tâm xuyên suốt của Đoàn là: Huấn
luyện, sẵn sàng chiến đấu, phối hợp với các lực lượng bảo vệ an toàn các mục tiêu
trọng yếu, các sự kiện chính trị quan trọng diễn ra trên địa bàn và tham gia phòng,
chống, khắc phục hậu quả thiên tai, tìm kiếm, cứu hộ cứu nạn; sẵn sàng thực hiện
mọi nhiệm vụ được giao. Với nhiệm vụ như vậy, Đoàn B01 thực hiện đúng các
75
chức năng cơ bản của Quân đội nhân dân Việt Nam: chiến đấu, công tác và lao
động sản xuất, trong đó chức năng chiến đấu giữ vị trí quan trọng hàng đầu.
Thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, Đoàn B10 phải
thường xuyên tổ chức huấn luyện chiến đấu theo chỉ lệnh của cấp trên, đồng thời
luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, “có lệnh là lên đường”, ra quân là đánh
thắng. Thực hiện nhiệm vụ cứu hộ cứu nạn, cán bộ, chiến sĩ Đoàn B01 phải
thường xuyên túc trực, để khi có tình huống, theo điều động của cấp trên là phải
tham gia cứu hộ, cứu nạn được ngay, với hiệu quả tốt nhất. Tính chất nhiệm vụ
của Đoàn ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện các liên hệ xã hội của sĩ quan,
binh sĩ, trong đó có sĩ quan cấp úy. Họ không có nhiều thời gian để thực hiện các
liên hệ xã hội với gia đình, với bạn bè bên ngoài đơn vị. Nhiệm vụ trực ban huấn
luyện, sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng ứng trực cứu hộ cứu nạn đã làm hạn chế khả
năng giao tiếp xã hội của sĩ quan cấp úy.
Đặc điểm nổi bật nhất của các đơn vị làm nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng
chiến đấu nói chung, Đoàn B01 nói riêng là biên chế tổ chức đầy đủ và tổ chức
chặt chẽ, nghiêm minh, để luôn sẵn sàng làm nhiệm vụ chiến đấu, đủ sức chiến
đấu hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống, không để bị động, bất ngờ. Với
các đơn vị quân đội, việc tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh, trên ra lệnh
dưới phục tùng nghiêm ngặt là một thuộc tính, thì đối với các đơn vị làm nhiệm
vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu như Đoàn B01, nó không chỉ là thuộc tính mà
còn là truyền thống, là văn hóa, phương thức sống của những người lính sẵn
sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Đối với
sĩ quan Đoàn B01, ý thức sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ luôn luôn
được đặt ở trên hết, trước hết. Trong thực tế có thể còn có những lệch lạc trong ý
thức và hành vi sẵn sàng chiến đấu của một số sĩ quan cấp úy. Song ý thức sẵn
sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ luôn luôn là ý thức thường trực, chi phối
suy nghĩ, hành vi xã hội của sĩ quan cấp úy ở các đơn vị làm nhiệm vụ huấn
76
luyện sẵn sàng chiến đấu, trong đó bao hàm cả việc tiến hành các liên hệ xã hội,
tạo dựng mạng lưới xã hội.
Hiện nay, địa bàn đóng quân của Đoàn B01 khá rộng, ở khu vực miền núi,
nông thôn và thành thị. Địa bàn đóng quân của Đoàn B01 là những địa phương
giàu truyền thống cách mạng, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, Tuy nhiên,
điều kiện kinh tế - xã hội phát triển không đều nhau. Trong quá trình phát triển
hiện nay, cũng như các địa phương khác, các địa phương nơi Đoàn B01 đóng
quân đã và đang xuất hiện một số hiện tượng sai lệch xã hội, tình hình trật tự an
toàn xã hội có những diễn tiến phức tạp.v.v… Môi trường xã hội khu vực đóng
quân ít nhiều ảnh hưởng đến mức độ, tính chất quan hệ xã hội của sĩ quan cấp úy
theo hai chiều tích cực và tiêu cực.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Trọng tâm của chương này, tác giả đã đi sâu vào phân tích, đánh giá và
làm sáng tỏ những vấn đề như:
Quan niệm và đặc trưng xã hội của nhóm sĩ quan cấp úy. Quan niệm về
mạng lưới xã hội; các yếu tố chi phối; đặc điểm, tính chất xã hội của mạng
lưới xã hội. Quan niệm; yếu tố chi phối; đặc trưng xã hội của mạng lưới xã
hội nhóm sĩ quan cấp úy. Qua phân tích, làm rõ các khái niệm cơ bản trên đã
đáp ứng cho mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án.
Vận dụng một số lý thuyết xã hội học vào nghiên cứu mạng lưới xã hội
nhóm sĩ quan cấp úy: (1) Lý thuyết mạng lưới xã hội, vốn xã hội: Đã đi sâu
vào xác định, đo lường về mức độ, kiểu loại, tính chất mạng lưới xã hội nhóm
sĩ quan cấp úy trong quân đội. Khẳng định mạng lưới xã hội có vai trò rất
quan trọng trong quá trình công tác, trưởng thành của nhóm sĩ quan cấp úy; là
cơ sở, điều kiện thuận lợi, là vốn xã hội giúp cho nhóm sĩ quan cấp úy thăng
tiến trong sự nghiệp của mình; là yếu tố quan trọng giúp cho nhóm sĩ quan
cấp úy hoàn thành nhiệm vụ, góp phần vào xây dựng tổ chức đảng trong sạch
vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện. (2) Lý thuyết tổ chức xã hội: Khi
77
đặt nhóm sĩ quan cấp úy vào cấu trúc tổ chức, thiết chế quân sự, nhận thấy
khía cạnh quản lý của tổ chức có ảnh hưởng, chi phối rất mạnh tới nhóm sĩ
quan cấp úy trong tổ chức, cụ thể: Một là, tổ chức thực hiện cơ chế quản lý
đối với nhóm sĩ quan cấp úy; Hai là, sĩ quan cấp úy thực hiện vai trò quản lý
trong tổ chức; Ba là, sĩ quan cấp úy thực hiện các quan hệ xã hội theo cách
thức quy định của tổ chức. Sự định hướng, vận dụng các lý thuyết xã hội học
làm cơ sở lý luận, để giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra, phục vụ cho quá
trình nghiên cứu đã khẳng định sự phù hợp với mục đích, yêu cầu, nội dung
nghiên cứu của luận án.
Thông qua tìm hiểu các quan điểm, tư tưởng của Đảng, Nhà nước, Chủ
tịch Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội, xây dựng đội ngũ sĩ quan cho thấy,
nhóm sĩ quan cấp úy luôn nhận được sự quan tâm lãnh đạo của Đảng, Nhà nước
và Chủ tịch Hồ Chí Minh rất sâu sắc ngay từ khi thành lập quân đội cho đến nay.
Trong giai đoạn hiện nay, trước sự tác động mạnh mẽ của tình hình thế giới, khu
vực và trong nước, nghiên cứu quan điểm trên để thấy được định hướng, quan
điểm về xây dựng nhóm xã hội này phù hợp với yêu cầu, chức năng, nhiệm vụ
quân đội ngày càng cao đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của tình hình mới.
Tìm hiểu về đặc điểm đơn vị nghiên cứu cho thấy cái nhìn tổng quan: biên
chế tổ chức; chức năng, nhiệm vụ; địa bàn đóng quân; những thuận lợi và khó
khăn của đơn vị... làm cơ sở cho việc lựa chọn phạm vi và phương pháp nghiên
cứu phù hợp để giải quyết mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ nghiên cứu thông qua trả
lời câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu, hoàn thành nhiệm vụ của luận án.
78
Chương 3
MẠNG LƯỚI XÃ HỘI GIA ĐÌNH CỦA SĨ QUAN CẤP ÚY HIỆN NAY
Ở chương này, tập trung vào phân tích, làm rõ thực trạng mạng lưới xã
hội gia đình của nhóm sĩ quan cấp úy (bao gồm gia đình bố mẹ đẻ; gia đình bố
mẹ vợ; gia đình vợ, con) nhằm mục đích tìm hiểu tác động, ảnh hưởng của các
loại mạng lưới xã hội này đến việc hình thành phẩm chất lãnh đạo, chỉ huy, quản
lý bộ đội, cũng như đến việc hoàn thiện phẩm chất con người xã hội của nhóm sĩ
quan cấp úy hiện nay như thế nào.
3.1. MẠNG LƯỚI XÃ HỘI GIA ĐÌNH BỐ MẸ ĐẺ
Trong điều kiện thời bình, mối quan hệ giữa sĩ quan cấp úy với gia đình
bố mẹ đẻ, người thân nơi sinh ra và lớn lên giữ vị trí, vai trò quan trọng đối với
sĩ quan cấp úy và với gia đình của họ. Gia đình là yếu tố tác động trực tiếp đến
nhận thức, thái độ và hành vi của sĩ quan cấp úy. Tính chất, mức độ hoàn thành
chức trách, nhiệm vụ của sĩ quan cấp úy phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện kinh
tế, chính trị, văn hoá, xã hội của gia đình. Đồng thời, điều kiện kinh tế, chính trị,
văn hoá, xã hội của gia đình cũng phụ thuộc nhất định vào sĩ quan cấp úy. Trong
rất nhiều gia đình bố mẹ đẻ của sĩ quan cấp úy hiện nay, sĩ quan cấp úy luôn là
chỗ dựa cho bố mẹ cả về mặt kinh tế, cả về mặt tinh thần. Đồng thời, gia đình
cũng là chỗ dựa về vật chất, tinh thần của sĩ quan cấp úy, tạo cơ sở nền tảng kinh
tế - xã hội để sĩ quan cấp úy hoàn thành chức trách, nhiệm vụ [56, tr. 84]. Vì vậy,
sĩ quan cấp úy luôn có ý thức cao, có nhiều trăn trở để làm tròn bổn phận với gia
đình, chăm lo gia đình. Để nắm rõ về mối quan hệ này, đi vào tìm hiểu các chỉ
báo: Thành phần xã hội, nghề nghiệp của bố mẹ; nơi sinh sống của gia đình bố
mẹ đẻ; khoảng cách từ gia đình bố mẹ đẻ đến nơi đơn vị đóng quân; hình thức,
tần suất, thời gian, nội dung liên hệ với gia đình bố mẹ đẻ. Thông qua đó thấy
được ảnh hưởng của bố mẹ đẻ đến sĩ quan cấp úy như thế nào.
79
3.1.1. Thành phần xã hội, nghề nghiệp của bố mẹ đẻ
Thành phần xã hội, nghề nghiệp bố mẹ đẻ sĩ quan cấp úy được xem xét
hướng vào việc phân tích nghề nghiệp của bố mẹ hiện nay để quy chiếu thành
phần xuất thân như cán bộ, công chức, công nhân, nông dân, buôn bán, thợ thủ
công,… nhằm đánh giá sát, đúng với điều kiện thực tế thành phần xuất thân của
nhóm sĩ quan cấp úy hiện nay do những biến đổi của tình hình kinh tế - xã hội
tác động mang lại.
Phân tích số liệu điều tra cơ cấu xã hội thành phần xã hội, nghề nghiệp bố
mẹ của nhóm sĩ quan cấp úy hiện nay cho thấy, sĩ quan cấp úy có bố là nông
dân, làm nghề nông chiếm tỉ lệ cao; tỉ lệ có bố là cán bộ trong lực lượng vũ trang
chiếm 1/4 quân số (bằng 25,0%); các ngành nghề khác như cán bộ, viên chức
nhà nước; công nhân; thợ thủ cộng, buôn bán chiếm tỷ lệ thấp, không đáng kể
(xem Biểu đồ 3.1). So với bố, nghề nghiệp của mẹ đẻ cũng chủ yếu là nông dân,
sau đó là viên chức Nhà nước (12,1%) [Bảng 3, Phụ lục 1].
Biểu đồ 3.1: Nghề nghiệp của bố đẻ hiện nay
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, tháng 8 năm 2016.
Do phần lớn nhóm sĩ quan cấp úy có bố mẹ là nông dân, làm nghề nông,
do vậy họ chịu ảnh hưởng và mang những nét tính cách đặc thù của những
người sinh ra và lớn lên ở những vùng quê nông thôn, làm nghề nông, đó là cần
cù, chịu khó, thật thà, chất phát, sống có tình nghĩa trước sau, trọng danh dự. Vì
Cán bộ lực lượng vũ trang (25,0%)
Cán bộ Nhà nước (16,8%)
Công nhân (8,6%)
Nông dân (42,2%)
Buôn bán (5,2%)
Thợ thủ công (2,2%)
80
vậy, trong mạng lưới quan hệ xã hội đa dạng, phức tạp của sĩ quan cấp úy hiện
nay, họ vẫn mang đậm "nét truyền thống", "dấu ấn" của người nông dân trong
quan hệ, đó là gắn kết keo sơn, thủy chung, sẵn sàng chia sẻ, động viên nhau mọi
vấn đề vui, buồn của cuộc sống trong quân ngũ.
Sau nhóm con em nông dân, nhóm sĩ quan cấp úy là con em cán bộ trong
lực lượng vũ trang và con em cán bộ, viên chức nhà nước cũng chiếm tỉ lệ tương
đối cao hơn các nhóm nghề còn lại. Điều này khẳng định, trong gia đình sĩ quan
cấp úy hiện nay có sự tiếp nối, kế thừa truyền thống "cha truyền con nối" nghề
nghiệp quân sự của thế hệ con em cán bộ lực lượng vũ trang. Đây chính là yếu
tố thuận lợi trong thực hiện quan hệ xã hội để tạo ra vốn xã hội cho sĩ quan cấp
úy ở đơn vị có bố đã và đang là quân nhân.
3.1.2. Nơi sinh sống của gia đình bố mẹ đẻ
Nơi sinh sống của gia đình bố mẹ đẻ của nhóm sĩ quan cấp úy được xem
xét theo các dấu hiệu: đô thị (thị trấn, thị xã, thành phố), nông thôn, vùng núi cao.
Theo số liệu điều tra, số lượng sĩ quan cấp úy sinh ra tại khu vực nông
thôn chiếm tỉ lệ cao hơn hẳn so với khu vực đô thị; tỉ lệ ở vùng núi cao hầu như
không đáng kể (xem Biểu đồ 3.2).
Biểu đồ 3.2: Khu vực sống của gia đình bố mẹ đẻ
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, tháng 8 năm 2016.
Số liệu này cho thấy, nhóm sĩ quan cấp úy hiện nay cơ bản sinh ra và lớn
lên ở khu vực nông thôn, quan hệ gắn bó mật thiết với nghề nông, xã hội nông
40
50
60
70
80
Thành phố, thị xã (23,3%)
Nông thôn (73,7%)
Vùng núi cao (3,0%)
30
20
10
0
81
thôn. Điều đó cho thấy văn hoá, lối sống, đặc biệt là phương thức giao tiếp, quan
hệ xã hội của sĩ quan cấp úy chịu ảnh hưởng rất lớn từ văn hoá vùng, miền, từ
phương thức sản xuất tiểu nông, đó là quan hệ hướng nội, quan hệ mang tính trao
đổi, giúp đỡ nhau trên cơ sở tình cảm "tình làng nghĩa xóm", "tối lửa tắt đèn có
nhau", sẵn sàng chia ngọt sẻ bùi, đùm bọc, giúp đỡ nhau, nhất là những khi gặp
khó khăn. Đây là những đức tính tốt đẹp của người nông dân nói chung cần được
giữ gìn và phát huy trong điều kiện môi trường văn hoá quân sự hiện nay. Tuy
nhiên nó cũng có mặt hạn chế, đó là quan hệ mang tính tính tự nhiên, cảm tính,
thậm chí có lúc mang hơi hướng vô nguyên tắc, nhất thời. Điều này sẽ là không
phù hợp trong môi trường hoạt động quân sự đề cao tính kỷ luật của quân đội.
3.1.3. Khoảng cách từ gia đình bố mẹ đẻ đến nơi đơn vị đóng quân
Khoảng cách từ gia đình bố mẹ đẻ đến nơi đơn vị đóng quân của sĩ quan
cấp úy có ý nghĩa quan trọng đến tần suất quan hệ xã hội của họ với bố mẹ đẻ, chi
phối mức độ, tính chất liên hệ giữa sĩ quan cấp úy và gia đình bố mẹ đẻ.
Biểu đồ 3.3: Khoảng cách từ gia đình bố mẹ đẻ đến đơn vị
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, tháng 8 năm 2016.
0 20 40 60
Trên 100 km (14,7%)
71-100 km (25,9%)
51-70 km (12,9%)
31-50 km (5,6%)
21-30 km (7,8%)
16-20 km (19,4%)
11-15 km (4,7%)
5-10 km (4,7%)
Dưới 5 km (4,3%)
82
Nhìn vào Biểu đồ 3.3 cho thấy, khoảng cách từ gia đình bố mẹ đẻ đến
đơn vị đóng quân của sĩ quan cấp úy hiện nay, chiếm số lượng nhiều nhất là
khoảng cách từ 71-100 km (25,9%), trong đó đặc biệt có 14,7% sĩ quan cấp
úy có gia đình cách trên 100 km. Với khoảng cách như vậy và với những quy
chuẩn của thiết chế quân sự, rất khó để sĩ quan cấp úy có thể gặp gỡ trực tiếp
gia đình bố mẹ đẻ của mình, kể cả khi ốm đau hay có công việc đột xuất, hệ
trọng của bản thân và gia đình.
3.1.4. Hình thức, tần suất, thời gian và nội dung liên hệ với gia
đình bố mẹ đẻ
Hình thức, tần suất, thời gian và nội dung liên hệ phản ánh mật độ kết
nối nhiều hay ít thông qua cách thức, thời gian dành cho giao tiếp của sĩ quan
cấp úy với gia đình bố mẹ đẻ của họ.
Bảng 3.1: So sánh tương quan nơi sinh với hình thức và tần suất liên hệ
với gia đình bố mẹ đẻ sĩ quan cấp úy
Đơn vị tính %
Hình thức, tần suất liên hệ với gia
đình bố mẹ đẻ
Nơi sinh của sĩ quan cấp úy
Thành phố, thị xã Nông thôn Vùng núi Hình thức Tần suất
Gặp gỡ về phép 1 năm/lần 100,0 100,0 100,0
Gặp gỡ khi đi
tranh thủ 1 tuần/lần ,0 ,5 ,0
2 tuần/lần 4,2 2,5 14,3
3 tuần/lần 83,3 18,4 ,0
1 tháng/lần ,0 62,2 42,9
1-2 tháng/lần 8,3 5,5 14,3
2 tháng/lần 4,2 10,9 28,6
Gặp gỡ tại đơn vị Vài năm/lần ,0 2,5 ,0
Chưa bao giờ 100,0 97,5 100,0
Gọi điện thoại 3-5 ngày/tuần 4,2 3,5 14,3
1 tuần/lần 91,7 30,3 14,3
2-3 tuần/lần ,0 59,7 42,9
1 tháng/lần 4,2 6,5 28,6
83
Viết thư tay (thư
giấy) Vài tháng/lần 4,2 1,5 14,3
Chưa bao giờ 95,8 98,5 85,7
Nhắn tin bằng
điện thoại 3-5 ngày/tuần 8,3 12,8 ,0
2-3 lần/tháng 91,7 71,8 ,0
1 năm trở lên ,0 15,4 ,0
Thông qua
internet:
facebook, viber,
zalo…
Hàng tuần 63,6 66,7 ,0
Hàng tháng 9,1 30,0 ,0
Hàng năm 27,3 3,3 ,0
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, tháng 8 năm 2016.
Nhìn vào Bảng 3.1 cho thấy, trong so sánh tương quan nơi sinh của sĩ
quan cấp úy ở các khu vực như thành phố, thị xã, nông thôn và vùng núi 100,0%
sĩ quan cấp úy hàng năm đều được gặp gỡ bố mẹ đẻ khi về phép. Tuy nhiên, hình
thức này chỉ diễn ra một lần/năm (theo chế độ quy định của quân đội).
Với hình thức gặp gỡ khi đi tranh thủ (là hình thức phổ biến nhất), ở khu
vực thành phố, thị xã chiếm số lượng lớn nhất là 3 tuần/lần; ở khu vực nông thôn
và vùng núi tỉ lệ cao nhất là 1 tháng/lần; đặc biệt có xấp xỉ 1/3 quân số ở khu vực
miền núi chỉ được gặp gia đình 2 tháng/lần. Những đồng chí có gia đình ở gần
đơn vị, hoặc bố mẹ đẻ có điều kiện đến đơn vị thăm, gặp gỡ trực tiếp tại đơn vị
chiếm số lượng rất thấp, hầu như không đáng kể và với tần suất vài năm/lần.
Gọi điện thoại là cách liên hệ phổ biến nhất khi 100,0% sĩ quan cấp úy
đều sử dụng điện thoại di động, nhất là trong điều kiện thuận lợi như hiện nay.
Với khu vực thành phố, thị xã tần suất gọi điện nhiều nhất là 1 tuần/lần; ở nông
thôn và vùng núi cùng có mức độ gọi điện nhiều nhất là 2-3 tuần/lần.
Viết thư tay là hình thức hiếm được sĩ quan cấp úy sử dụng hiện nay. Điều
này cũng rất phù hợp với sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại hiện
nay, làm cho các hình thức giao tiếp diễn ra nhanh và thuận lợi hơn ở mọi lúc,
mọi nơi. Do đó có từ 98,5% trở lên khẳng định chưa bao giờ trao đổi thư từ với
bố mẹ đẻ đã khẳng định nhận định này.
Nhắn tin bằng điện thoại là hình thức liên hệ phổ biến thứ hai sau gọi điện
thoại. Số liệu điều tra cho thấy, sĩ quan cấp úy sinh ra ở khu vực thành phố, thị xã
84
và nông thôn nhắn tin cho bố mẹ đẻ trung bình 2-3 lần/tháng chiếm số lượng
nhiều nhất. Những đồng chí không sử dụng tin nhắn (ở khu vực miền núi) cơ bản
đều có chung lý do bố mẹ già, mắt kém, không để ý, hoặc khó đọc được tin nhắn.
Các hình thức liên hệ hiện đại thông qua các dịch vụ mạng xã hội như internet
(facebook, viber, zalo…) cũng được sĩ quan cấp úy sử dụng, tập trung ở khu vực
thành phố, thị xã và nông thôn là chủ yếu với mức độ cao nhất là hàng tuần.
Qua phân tích số liệu Bảng 3.1 trên, có thể khẳng định sĩ quan cấp úy liên hệ
với gia đình bố mẹ đẻ chủ yếu là gặp gỡ trực tiếp khi đi tranh thủ (phổ biến là từ 2-4
tuần/lần) và gọi điện thoại (thường từ 1-3 tuần/lần). Như vậy, quan hệ xã hội giữa sĩ
quan cấp úy và gia đình bố mẹ đẻ mang đậm tính chất "gián tiếp", thông qua mạng
viễn thông là chủ yếu. Do đó, sự tác động của gia đình bố mẹ đẻ đối với sĩ quan cấp
úy sẽ bị "khúc xạ", tùy thuộc vào nhận thức, tình cảm của sĩ quan cấp úy và mức độ
"quyền uy", sự quan tâm của gia đình đối với sĩ quan cấp úy.
Về thời gian liên hệ với gia đình bố mẹ đẻ, chủ yếu diễn ra vào giờ và ngày
nghỉ, trong đó giờ nghỉ có xấp xỉ 2/3 tổng số sĩ quan cấp úy có nơi sinh thuộc khu
vực thành phố, thị xã, nông thôn chọn để liên hệ. Liên hệ vào giờ làm việc, giờ
hành chính, giờ đơn vị đang huấn luyện chỉ chiếm tỉ lệ thấp (chỉ liên lạc vào giờ
này khi gia đình có việc gấp, đột xuất xảy ra, cần phải có ý kiến trao đổi cấp
bách). Nội dung liên hệ chủ yếu giải quyết vấn đề tình cảm (chiếm 74,6%); các
lĩnh vực khác là kinh tế và chính trị ít được quan tâm hơn (xem Bảng 3.2).
Quan hệ giữa sĩ quan cấp úy và gia đình bố mẹ đẻ mang tính gián tiếp và
thường diễn ra vào thời gian nghỉ cho thấy sự chi phối mạnh của thiết chế quân sự
đối với việc giữ mối liên hệ với gia đình bố mẹ đẻ của nhóm xã hội này. Là những
người trực tiếp chỉ huy, quản lý bộ đội thực hiện các nhiệm vụ và sinh hoạt hằng
ngày, sĩ quan cấp úy rất ít có thời gian để trao đổi thông tin với bố mẹ đẻ. Thực
tiễn đó đã tạo ra sự ức chế nhất định đối với sĩ quan cấp úy và trong nhiều trường
hợp có thể dẫn đến sự hiểu lầm hoặc phản kháng mang tính tiêu cực, làm suy
giảm sợi dây liên kết giữa sĩ quan cấp úy và gia đình bố mẹ đẻ.
85
Bảng 3.2: Tương quan nơi sinh của sĩ quan cấp úy với thời gian và nội
dung liên hệ với bố mẹ đẻ
Đơn vị tính %
Thời gian và nội dung
liên hệ với bố mẹ đẻ
Nơi sinh của sĩ quan cấp úy Tổng
Thành phố, thị xã Nông thôn Vùng núi
Thời gian
liên hệ
Giờ nghỉ 62,5 69,7 42,9 68,1
Ngày nghỉ 16,7 23,4 42,9 23,3
Giờ làm việc 20,8 7,0 14,3 8,6
Nội dung
liên hệ
Kinh tế 25,0 16,9 ,0 17,2
Chính trị 12,5 8,0 ,0 8,2
Tình cảm 62,5 75,1 100,0 74,6
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, tháng 8 năm 2016.
3.2. MẠNG LƯỚI XÃ HỘI GIA ĐÌNH BỐ MẸ VỢ
Sĩ quan cấp úy khi đã xây dựng gia đình (168 đồng chí, chiếm 72,4%
trong số lượng mẫu điều tra), thì mạng lưới xã hội gia đình của họ rộng lớn
thêm. Mạng lưới xã hội gia đình thêm mở rộng, sĩ quan cấp úy nhận được sự
quan tâm, giúp đỡ từ bên gia đình vợ, là điều kiện thuận lợi cho sĩ quan cấp
úy mở rộng thêm vốn xã hội của mình, bên cạnh đó sĩ quan cấp úy cũng phải
gắn vai trò, trách nhiệm, nghĩa vụ của mình với gia đình bên vợ, do đó quan
hệ với gia đình bố mẹ vợ, họ hàng, người thân bên vợ (điều kiện kinh tế,
chính trị, xã hội; nơi sinh sống, khoảng cách; tần suất liên hệ; sự quan tâm chi
viện, giúp đỡ) cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc hình thành phẩm chất,
năng lực lãnh đạo, chỉ huy, quản lý ở đơn vị, cũng như hình thành phẩm chất
con người xã hội của sĩ quan cấp úy.
3.2.1. Thành phần xã hội, nghề nghiệp gia đình bố mẹ vợ
Nhìn vào Bảng 3.3 thấy, nghề nghiệp của bố mẹ vợ sĩ quan cấp úy chủ
yếu là nông dân (mẹ vợ cao hơn bố vợ); bố mẹ vợ đã và đang là cán bộ lực
lượng vũ trang có sự khác biệt lớn giữa bố vợ và mẹ vợ, trong khi bố vợ chiếm
86
28,0% thì mẹ vợ chỉ chiếm 1,2%; thành phần viên chức nhà nước và công nhân
giữa bố mẹ vợ tương đối ngang bằng nhau và không chênh lệch nhiều.
Bảng 3.3: Nghề nghiệp gia đình bố mẹ vợ
Đơn vị tính %
Xuất thân nghề nghiệp gia đình bố mẹ vợ Bố vợ Mẹ vợ
Cán bộ lực lượng vũ trang 28,0 1,2
Viên chức Nhà nước 20,8 25,6
Công nhân 10,1 12,5
Nông dân 41,1 60,7
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, tháng 8 năm 2016.
Như vậy, số liệu Bảng 3.3 trên cho thấy, thành phần xã hội, xuất thân nghề
nghiệp gia đình bố mẹ vợ của sĩ quan cấp úy chủ yếu là nông dân, làm nghề nông
nghiệp là chính, cuộc sống sinh hoạt gắn với văn hoá nông thôn, dấu ấn của
người nông dân. So sánh về thành phần xuất thân, nghề nghiệp gia đình bố mẹ vợ
và gia đình bố mẹ đẻ (Biểu đồ 3.1; Bảng 3, Phụ lục 1) cho thấy “mẫu số chung”:
thành phần xuất thân, nghề nghiệp gia đình bố mẹ đẻ và bố mẹ vợ chiếm số đông
là nông dân, làm nghề nông nghiệp là chính. Từ đó có thể suy luận, “căn tính
nông dân” chi phối tính chất, mức độ quan hệ xã hội của sĩ quan cấp úy.
3.2.2. Nơi sinh sống của gia đình bố mẹ vợ
Từ Bảng 3.4 thấy, gia đình bố mẹ vợ sĩ quan cấp úy hiện nay chủ yếu sinh
sống ở hai khu vực là nông thôn và đô thị, trong đó khu vực nông thôn chiếm tỉ lệ
cao hơn; gia đình bố mẹ vợ sống ở vùng núi cao chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ.
Bảng 3.4: Tương quan so sánh nơi sinh sống của gia đình bố mẹ
Đơn vị tính %
Tương quan so sánh nơi sinh sống của gia
đình bố mẹ
Loại gia đình
Gia đình bố mẹ đẻ Gia đình bố mẹ vợ
Thành phố, thị xã 23,3 41,7
Nông thôn 73,7 57,1
87
Vùng núi cao 3,0 1,2
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, tháng 8 năm 2016.
Số liệu trên cho thấy khu vực sống của gia đình bố mẹ vợ sĩ quan cấp úy ở
nông thôn vẫn chiếm chủ yếu. Tuy nhiên, so sánh giữa hai gia đình bố mẹ đẻ và
bố mẹ vợ thì có sự khác biệt đáng kể khi gia đình bố mẹ đẻ sống ở nông thôn cao
hơn; ngược lại gia đình bố mẹ vợ sống ở khu vực thành phố, thị xã thì cao hơn.
Như vậy, có thể khẳng định khi xây dựng gia đình riêng, sĩ quan cấp úy có xu
hướng tìm người bạn đời của mình ở khu vực đô thị.
3.2.3. Khoảng cách từ gia đình bố mẹ vợ đến nơi đơn vị đóng quân
Nếu như khoảng cách từ gia đình bố mẹ đẻ đến đơn vị có đến 40,6% (cộng
dồn), từ 71 km đến trên 100 km, thì không có sĩ quan cấp úy nào có gia đình bố
mẹ vợ nằm ở khoảng cách này. Trong số gia đình bố mẹ vợ chiếm tỉ lệ đông nhất
là ở khoảng cách 16-20 km. So sánh ở khoảng cách từ 50 km trở xuống, thì số gia
đình bố mẹ vợ nhiều hơn gia đình bố mẹ đẻ (xem Bảng 3.5).
Bảng 3.5: Tương quan so sánh khoảng cách từ nơi sinh sống của gia đình
bố mẹ đẻ và bố mẹ vợ đến đơn vị
Đơn vị tính %
Tương quan so sánh khoảng cách từ nơi
sinh sống của gia đình bố mẹ đẻ và bố mẹ
vợ đến đơn vị
Loại gia đình
Gia đình bố mẹ đẻ Gia đình bố mẹ vợ
Dưới 5 km 4,3 10,7
Từ 5-10 km 4,7 10,1
Từ 11-15km 4,7 12,5
Từ 16-20 km 19,4 23,8
Từ 21-30 km 7,8 16,7
Từ 31-50 km 5,6 15,5
Từ 51-70 km 12,9 10,7
Từ 71-100 km 25,9
88
Trên 100 km 14,7
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, tháng 8 năm 2016.
Kết quả số phân tích số liệu trên khẳng định, về mặt khoảng cách, cơ bản
gia đình bố mẹ đẻ và bố mẹ vợ sĩ quan cấp úy đều có khoảng cách xa đơn vị (chủ
yếu từ 16 km trở lên). Tuy nhiên, so sánh giữa hai gia đình thấy gia đình bố mẹ vợ
có khoảng cách gần đơn vị hơn so với gia đình bố mẹ đẻ, nhất là ở khoảng từ 50
km trở xuống (xem Bảng 3.5). Kết quả này cũng tỉ lệ thuận với nơi sinh của gia
đình bố mẹ vợ sĩ quan cấp úy đã phân tích ở Bảng 3.5. Như vậy, khi xây dựng gia
đình riêng, sĩ quan cấp úy có xu hướng lựa chọn vợ ở gần địa điểm đơn vị đóng
quân. Do khoảng cách giữa gia đình bố mẹ vợ và đơn vị đóng quân của sĩ quan
cấp úy ngắn hơn gia đình bố mẹ đẻ nên có thể suy đoán: quan hệ giữa sĩ quan cấp
úy với gia đình bố mẹ vợ sẽ là “liên hệ mạnh” hơn gia đình bố mẹ đẻ.
3.2.4. Hình thức, tần suất, thời gian và nội dung liên hệ với gia
đình bố mẹ vợ
Thời bình, sĩ quan cấp úy mỗi năm có một lần được nghỉ phép, thời gian
nghỉ phép từ 15-20 ngày, diễn ra vào thời điểm phù hợp với tình hình đặc điểm
đơn vị (thường là vào giữa năm hoặc cuối năm khi mà kết thúc sáu tháng đầu
năm hoặc một năm huấn luyện), đây là khoảng thời gian quý giá để sĩ quan cấp
úy có điều kiện thăm hỏi gia đình bố mẹ hai bên nội ngoại, kết hợp giải quyết
những công việc lớn cho gia đình (như khám chữa bệnh, xây dựng, sửa sang nhà
ở, chuồng trại chăn nuôi…). Cũng giống như gia đình bố mẹ đẻ, số liệu điều tra
(Bảng 3.6) cho thấy, 100,0% sĩ quan cấp úy trong kỳ nghỉ phép đều dành thời
gian gặp gỡ thăm hỏi gia đình bố mẹ vợ.
Về hình thức gặp gỡ khi đi tranh thủ. Sĩ quan cấp úy gặp gỡ gia đình bố
mẹ vợ với tần suất rất khác nhau (tùy thuộc vào khoảng cách xa hay gần giữa gia
đình bố mẹ vợ với gia đình vợ, con hoặc với đơn vị) nhiều nhất là 1 tuần/lần, ít
nhất là 1 tháng/lần, tuy nhiên phần đông là từ 3 tuần đến 1 tháng/lần (chiếm
92,8%). So sánh với bố mẹ đẻ thấy sĩ quan cấp úy khi đã có vợ thì tần suất gặp
89
gỡ với bố mẹ vợ nhiều hơn so với bố mẹ đẻ, bố mẹ đẻ ít hơn và thưa hơn so với
bố mẹ vợ (xem Bảng 3.6).
Gặp gỡ tại đơn vị. Cũng giống như gia đình bố mẹ đẻ, gia đình bố mẹ vợ
hầu như không có điều kiện đến thăm con rể và đơn vị, khi chỉ có 1,8% gia đình
bố mẹ vợ đã từng đến đơn vị (với tần suất vài năm/lần), trong khi đó 98,2% sĩ
quan đã có vợ khẳng định chưa bao giờ được gia đình bố mẹ vợ đến thăm.
Bảng 3.6: Tương quan hình thức, tần suất liên hệ với gia đình bố mẹ đẻ
và bố mẹ vợ
Đơn vị tính %
Tương quan hình thức, tần suất liên hệ
với gia đình bố mẹ đẻ và bố mẹ vợ
Loại gia đình
Gia đình bố mẹ đẻ Gia đình bố mẹ vợ Hình thức Tần suất
Gặp gỡ khi về phép 1 năm/lần 100,0 100,0
Gặp gỡ trực tiếp khi đi
tranh thủ
1 tuần/lần 0,4 1,2
2 tuần/lần 3,0 6,0
3 tuần/lần 24,6 32,1
1 tháng/lần 55,2 60,7
1,5 tháng/lần 6,0
2 tháng/lần 10,8
Gặp gỡ trực tiếp tại đơn
vị
Vài năm/lần 2,2 1,8
Chưa bao giờ 97,8 98,2
Gọi điện thoại 3-5 ngày/lần 3,9 4,2
1 tuần/lần 36,2 45,2
2-3 tuần/lần 53,0 50,6
1 tháng/lần 6,9
Vài tháng/lần 3,9
1 năm trở lên/lần 36,2
Gọi điện thoại có video 2-3 tuần/lần 22,4
Viết thư tay (thư giấy) Vài tháng/lần 3,0
Chưa bao giờ 97,0 100,0
Nhắn tin bằng điện
thoại
3-5 ngày/tuần 5,2 10,1
2-3 lần/tháng 33,6 68,4
1 năm trở lên/lần 5,2 21,5
Thông qua internet:
facebook, viber, zalo…
Hàng tuần 65,4 43,5
Hàng tháng 21,2 37,0
90
Hàng năm 13,5 19,6
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, tháng 8 năm 2016.
Gọi điện thoại là phương thức được nhiều sĩ quan cấp úy lựa chọn để
thăm hỏi, chia sẻ thông tin, cần sự tư vấn giúp đỡ của gia đình bố mẹ vợ và
ngược lại để thể hiện trách nhiệm của người con với bố mẹ vợ. Tần suất sử dụng
nhiều nhất là 2-3 tuần/lần; tiếp theo là 1 tuần/lần. So sánh với bố mẹ đẻ thì tần
suất từ 3-5 ngày đến 1 tuần/lần, sĩ quan cấp úy khi có vợ thì liên hệ với bố mẹ vợ
nhiều hơn (xem Bảng 3.6).
Nhắn tin bằng điện thoại, được thực hiện khá phổ biến và ở tần suất là 2-3
lần/tháng chiếm tỉ lệ nhiều nhất (cao hơn gấp đôi so với bố mẹ đẻ).
Các hình thức liên hệ khác như thông qua internet: facebook, viber, zalo,
email… tỉ lệ liên hệ với bố mẹ vợ cao hơn so với bố mẹ đẻ ở tần suất hàng tháng và
hàng năm; mặc dù vậy, ở tần suất hàng tuần thì bố mẹ đẻ lại cao hơn bố mẹ vợ.
Như vậy, số liệu điều tra ở Bảng 3.7 cho thấy, sĩ quan cấp úy chủ yếu liên
hệ với gia đình bố mẹ vợ thông qua hình thức gặp gỡ trực tiếp khi đi tranh thủ,
hoặc gọi điện thoại và nhắn tin từ xa là phổ biến. Điểm đáng chú ý là, sĩ quan
cấp úy khi đã có vợ thì tần suất liên hệ với bố mẹ vợ nhiều hơn so với bố mẹ đẻ.
Thời gian liên hệ giữa sĩ quan cấp úy với gia đình bố mẹ vợ, Bảng 3.7 cho
thấy, thời gian diễn ra vào tất cả các khung giờ trong ngày và các ngày trong
tuần. Tuy nhiên, phổ biến nhất là vào các ngày nghỉ và giờ nghỉ. Cũng giống
như liên hệ với gia đình bố mẹ đẻ, ngày và giờ nghỉ là thời điểm sĩ quan cấp úy
liên hệ nhiều nhất với bố mẹ vợ khi có đến 100,0% lựa chọn, trong đó riêng giờ
nghỉ (tất cả các ngày trong tuần) chiếm 97,0%; ngược lại, giờ và ngày làm việc
không có sĩ quan cấp úy nào thực hiện các liên hệ.
"Thời gian rảnh rỗi trong ngày, trong tuần là thời gian nghỉ ngơi, giải
quyết các công việc riêng tư của cá nhân với gia đình, bên cạnh đó
91
còn là thời gian để bầy tỏ tình cảm, trách nhiệm, nghĩa vụ của mình
với gia đình" (PVS: Trung úy, Trung đội trưởng).
Bảng 3.7: Thời gian và nội dung liên hệ với gia đình bố mẹ vợ
Đơn vị tính %
Thời gian và lĩnh vực liên hệ với gia đình bố mẹ vợ
Thời gian diễn ra liên hệ Giờ nghỉ 97,0
Ngày nghỉ 3,0
Nội dung liên hệ Kinh tế 21,4
Chính trị 10,7
Tình cảm 67,9
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, tháng 8 năm 2016.
Về nội dung liên hệ, phổ biến trên tất cả các mặt của đời sống cá nhân
và gia đình như các vấn đề về kinh tế (làm ăn buôn bán, kinh doanh, mua sắm
vật dụng trang thiết bị, mùa vụ, chăn nuôi, giúp đỡ vật chất…), chính trị (liên
quan đến định hướng phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện, học tập…), tình cảm
(quan tâm thăm hỏi, chia sẻ, động viên tinh thần…). Trong các mặt trên, lĩnh
vực tình cảm là nội dung được liên hệ nhiều nhất khi có hơn 2/3 sĩ quan cấp
úy lựa chọn (xem Bảng 3.7).
3.3. MẠNG LƯỚI XÃ HỘI GIA ĐÌNH VỢ, CON
Với sĩ quan cấp úy sau khi đã xây dựng gia đình, họ có thêm gia đình
riêng (gia đình gồm vợ, con), thì họ có vị trí, vai trò quan trọng đối với gia đình
riêng của họ, đồng thời gia đình vợ, con cũng là yếu tố tác động trực tiếp đến
nhận thức, thái độ và hành vi của sĩ quan cấp úy. Tính chất, mức độ hoàn thành
chức trách, nhiệm vụ của sĩ quan cấp úy phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện kinh
tế, chính trị, văn hoá, xã hội của gia đình vợ, con; đồng thời, điều kiện kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội của gia đình vợ, con cũng phụ thuộc rất lớn vào sĩ quan
cấp úy. Trong gia đình sĩ quan hiện nay, họ luôn luôn là rường cột, chỗ dựa cho
vợ, con cả về mặt kinh tế, cả về mặt tinh thần. Đồng thời, gia đình cũng là chỗ
92
dựa vững chắc về vật chất, tinh thần của sĩ quan cấp úy, tạo cơ sở nền tảng kinh
tế - xã hội để sĩ quan cấp úy hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của mình ở đơn vị.
3.3.1. Nghề nghiệp của vợ sĩ quan cấp úy
Nghề nghiệp của vợ sĩ quan cấp úy hiện nay tập trung vào ba loại hình chủ
yếu là cán bộ lực lượng vũ trang, viên chức nhà nước và công nhân (Bảng 3.8).
Trong cơ cấu xã hội nghề nghiệp này, phân bố theo hai mức độ: nhiều và ít. Ở
nhóm nghề được phân bố nhiều, tập trung chủ yếu vào hai nghề và tương đối
ngang bằng nhau là viên chức nhà nước và công nhân.
Bảng 3.8: Nghề nghiệp của vợ
Đơn vị tính %
Nghề nghiệp của vợ
Cán bộ lực lượng vũ trang 10,7
Viên chức nhà nước 45,8
Công nhân 43,5
Nông dân 0,0%
Buôn bán 0,0%
Thợ thủ công 0,0%
Nghề tự do 0,0%
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, tháng 8 năm 2016.
Cơ cấu xã hội nghề nghiệp của vợ sĩ quan cấp úy cho thấy, sĩ quan cấp úy
hiện nay có xu hướng lấy vợ thoát ly khỏi nông nghiệp, có việc làm ổn định, ưu
tiên cùng ngành nghề, hoặc cơ quan nhà nước. Đó là những công việc tương đối
cố định và có thu nhập ổn định.
Với số đông vợ sĩ quan cấp úy là viên chức nhà nước và công nhân cho
thấy được sự gắn bó của gia đình vợ con sĩ quan với chế độ chính trị, sự phát
triển kinh tế và sự ổn định xã hội của đất nước. Nó góp phần vào làm gia tăng
tính chất bền chặt trong quan hệ giữa cá nhân sĩ quan cấp úy với Đảng, Nhà
nước, dân tộc và nhân dân trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ.
Với số đông vợ sĩ quan cấp úy là viên chức nhà nước và công nhân cũng
cho thấy, thu nhập chính của gia đình họ phụ thuộc vào lương, thưởng theo chế
93
độ nhà nước quy định. Họ sẽ được bảo đảm cuộc sống khá ổn định, kể cả sau
này khi nghỉ theo chế độ. Song, do tính chất của nghề nghiệp, nhất là làm việc
trong lực lượng vũ trang hoặc công nhân thì công việc căng thẳng, vất vả, chặt
chẽ về thời gian, thu nhập khá ổn định nhưng không cao. Sự “không vượt trội”
về điều kiện sống vật chất so với một số nhóm xã hội khác là một đặc trưng của
gia đình sĩ quan cấp úy. Trong quá trình công tác, nhiều sĩ quan cấp úy sẽ phải
luôn băn khoăn, lo lắng trong việc bảo đảm điều kiện sống cho gia đình và học
tập cho các con.
Điều kiện sống về vật chất không vượt trội có thể dẫn sĩ quan cấp úy đến
những việc làm không đúng chuẩn mực quân nhân, có thể trong số họ sẽ có hiện
tượng như lạm công quỹ của đơn vị, ăn chặn tiêu chuẩn của chiến sĩ, hoặc tham
gia các hoạt động kinh tế, phi kinh tế không trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ.
Trên thực tế đã có sĩ quan ở đơn vị cơ sở tham gia vào các tệ nạn xã hội như:
buôn lậu, cờ bạc, cho vay năng lãi, … [56, tr. 83].
3.3.2. Nơi sinh sống của vợ, con
Nơi sinh sống của gia đình vợ, con sĩ quan cấp úy ở cả thành phố, thị xã
và nông thôn, trong đó số lượng gia đình sinh sống ở nông thôn chiếm tỉ lệ lớn
nhất; tỉ lệ gia đình vợ, con ở vùng núi chiếm tỉ trọng rất nhỏ (xem Bảng 3.9).
Bảng 3.9: Tương quan nơi sinh sống của gia đình
Đơn vị tính %
Tương quan nơi sinh
sống của gia đình
Loại gia đình
Gia đình bố mẹ đẻ Gia đình bố mẹ vợ Gia đình vợ, con
Thành phố, thị xã 23,3 41,7 45,8
Nông thôn 73,7 57,1 53,6
Vùng núi cao 3,0 1,2 ,6
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, tháng 8 năm 2016.
Bảng 3.9 cho thấy, tương quan nơi sinh sống giữa gia đình vợ, con với gia
đình bố mẹ đẻ và gia đình bố mẹ vợ thấy có sự khác nhau. Cụ thể, số gia đình
vợ, con sống ở khu vực thành phố, thị xã cao hơn so với gia đình bố mẹ đẻ và
94
gia đình bố mẹ vợ; số lượng gia đình vợ, con sinh sống ở khu vực nông thôn và
vùng núi ít hơn so với gia đình bố mẹ đẻ và bố mẹ vợ.
Số liệu so sánh trên cho thấy, gia đình vợ, con sĩ quan cấp úy hiện nay
đang có sự dịch chuyển theo xu hướng tăng lên ở khu vực thành phố, thị xã, và
giảm đi ở khu vực nông thôn, vùng núi. Điều này cũng phản ánh xu hướng đô thị
hóa gia đình vợ, con sĩ quan cấp úy. Sĩ quan cấp úy sinh ra ở nông thôn, nhưng
lấy vợ và sinh sống ở khu vực đô thị. Nó phù hợp với tỷ lệ về khu vực sống của
gia đình bố mẹ vợ. Gia đình bố mẹ vợ sinh sống ở khu vực thành phố, thị xã
nhiều hơn so với gia đình bố mẹ đẻ.
3.3.3. Khoảng cách từ gia đình vợ, con đến đơn vị
Đây là yếu tố quan trọng quyết định đến việc sĩ quan cấp úy có thường
xuyên được gặp gỡ vợ, con trực tiếp hay không, nhiều hay ít. Khoảng cách càng
gần từ gia đình riêng tới đơn vị đóng quân thì cơ hội và thời gian gặp gỡ nhiều
hơn và ngược lại.
Bảng 3.10 thấy, khoảng cách giữa gia đình vợ, con tới đơn vị đóng quân
nằm chủ yếu ở các cự ly từ dưới 5 km đến 50 km, trong đó 19,6% dưới 5 km,
20,2% từ 5-10 km, 19,6% từ 10-15 km và 17,9% từ 16-20 km,… Như vậy, đa số
sĩ quan cấp úy lấy vợ ở gần nơi đơn vị đóng quân. Họ thực hiện phương châm
sống “lạc nghiệp” mới “an cư”, đóng quân làm nhiệm vụ ở đâu thì lấy vợ ở đó.
Với khoảng cách từ 5 đến dưới 30 km cho phép sĩ quan cấp úy có điều
kiện thường xuyên gặp gỡ vợ, con nhiều hơn. Vào những ngày nghỉ cuối tuần,
nếu không phải trực hoặc không có lệnh sẵn sàng chiến đấu họ có thể tranh thủ
về với vợ con từ một vài tiếng đến cả buổi, cả ngày và dễ có điều kiện để giúp đỡ
vợ khi con ốm đau.
Do có nhiều sĩ quan, sĩ quan cấp úy lấy vợ ở gần nơi đóng quân nên đã tạo
ra sự “quần tụ” gia đình sĩ quan trên một địa bàn, hình thành "khu tập thể quân
đội", hay “làng quân nhân”. Trên thực tế, gần như các đơn vị đóng quân trên đất
liền đều có “làng quân nhân” với những quy mô khác nhau. Sự hình thành làng
quân nhân tạo điều kiện cho sĩ quan cấp úy giữ mối quan hệ với gia đình vợ con
95
thường xuyên, trực tiếp hơn. Đồng thời, sự tác động của gia đình vợ con đến sĩ
quan cấp úy cũng thường xuyên và trực tiếp hơn, theo hai chiều tích cực và tiêu
cực. Nó không chỉ ảnh hưởng đến việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ mà còn ảnh
hưởng đến quá trình phát triển phẩm chất con người sĩ quan của mỗi sĩ quan cấp
úy. Sự thăng tiến của sĩ quan cấp úy chịu sự tác động trực tiếp từ gia đình vợ con.
Bảng 3.10: So sánh khoảng cách từ gia đình bố mẹ đẻ, bố mẹ vợ và vợ,
con đến đơn vị
Đơn vị tính %
Khoảng cách từ đơn vị
đến gia đình
Loại gia đình
Gia đình bố mẹ đẻ Gia đình bố mẹ vợ Gia đình vợ, con
Dưới 5 km 4,3 10,7 19,6
5-10 km 4,7 10,1 20,2
11-15km 4,7 12,5 19,6
16-20 km 19,4 23,8 17,9
21-30 km 7,8 16,7 17,9
31-50 km 5,6 15,5 4,8
51-70 km 12,9 10,7
71-100 km 25,9
Trên 100 km 14,7
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, tháng 8 năm 2016.
So sánh khoảng cách quãng đường giữa gia đình vợ con với cả hai gia
đình bố mẹ đẻ và bố mẹ vợ tới đơn vị cho thấy gia đình vợ, con sĩ quan cấp úy
có tỉ lệ nhiều hơn ở khoảng cách gần (dưới 15 km) và ít hơn ở khoảng cách xa
(từ 16 km trở lên), đặc biệt là không có gia đình vợ, con sĩ quan cấp úy nào ở
khoảng cách từ 51 km trở lên.
"Thực tế những năm gần đây một số sĩ quan trẻ lấy vợ là người địa
phương nơi đơn vị đóng quân với suy nghĩ quen biết và hợp với người ở
đâu thì lấy vợ ở đó để có điều kiện gần gũi giúp đỡ vợ, con. Bên cạnh đó,
một số đồng chí lấy vợ là người cùng quê hương thì có xu hướng đưa vợ,
con dịch chuyển đến gần địa bàn địa phương nơi đơn vị công tác tìm kiếm
việc làm rồi sinh sống ở đó cho vợ chồng được gần nhau để dễ bề chăm
96
sóc, nuôi dạy các con, động viên nhau, tập trung kinh tế, đỡ mất nhiều chi
phí đi lại hàng tháng" (PVS: Thượng úy, Chính trị viên đại đội).
3.3.4. Hình thức, tần suất, thời gian, nội dung liên hệ với gia đình vợ, con
Những đặc điểm trên (nghề nghiệp, nơi sinh sống,…) sẽ quyết định, chi
phối tới hình thức, tần suất, thời gian và nội dung liên hệ của sĩ quan cấp úy với
gia đình vợ, con ra sao.
Bảng 3.11: Hình thức, tần suất liên hệ với gia đình vợ, con
Đơn vị tính %
Hình thức, tần suất liên hệ với gia đình vợ, con
Hình thức Tần suất
Gặp gỡ khi về phép 1 năm/lần 100,0
Gặp gỡ khi đi tranh thủ 1 tuần/lần 8,9
2 tuần/lần 23,8
3 tuần/lần 67,3
1 tháng/lần 1,5 tháng/lần 2 tháng/lần
Gặp gỡ tại đơn vị 1-3 tháng/lần 3,0
4-6 tháng/lần 16,1
1 năm/lần 27,4
Vài năm/lần 53,6
Chưa bao giờ
Gọi điện thoại Hàng ngày 100,0 1 tuần/lần 1 tháng/lần Vài tháng/lần
Gọi điện thoại có video Hàng ngày 44,6
3-5 ngày/lần 44,6
1 tuần/lần 16,7
Viết thư tay (thư giấy) Vài tháng/lần Chưa bao giờ 100,0
Nhắn tin bằng điện thoại Hàng ngày 58,9
3-5 ngày/tuần 41,1
2-3 lần/tháng Thông qua internet:
facebook, viber, zalo… Hàng ngày 73,2
Hàng tuần 26,8
Hàng tháng
Hàng năm
Gửi email Hàng tuần 11,4
97
Hàng tháng 59,1
Hàng năm 29,5
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, tháng 8 năm 2016.
Bảng 3.11 cho thấy, với sĩ quan cấp úy đi tranh thủ là hình thức chủ yếu
nhất để gặp gỡ gia đình vợ, con. Mặc dù vậy, tần suất rất khác nhau, tùy thuộc
vào tình hình nhiệm vụ, đặc điểm đơn vị và khoảng cách từ đơn vị tới gia đình
vợ, con. Thường giao động từ 1-3 tuần/lần. Cụ thể, với sĩ quan cấp úy nhà ở gần
thì tần suất đi tranh thủ nhiều nhất là 1 tuần/lần; ở tần suất ít hơn là 2 tuần/lần;
đông nhất (chiếm 67,3%) là tần suất 3 tuần/lần.
So sánh với tần xuất hình thức liên hệ với gia đình bố mẹ đẻ, bố mẹ vợ
thì hình thức tần xuất liên hệ với gia đình vợ con của sĩ quan cấp úy cao hơn:
ở tần xuất 1 tuần/lần tỷ lệ là 8,9% so với 0,4% (gia đình bố mẹ đẻ), 1,2% gia
đình bố mẹ vợ; ở tần xuất 2 lần/tuần, tỷ lệ lần lượt là 23,8% so với 3,0% và
6,0%; ở tần xuất 3 tuần/lần, tỷ lệ lần lượt là 67,3% so với 24,6% và 32,1%
[xem Bảng 3.11 và Bảng 3.6].
Gặp gỡ tại đơn vị. Hình thức gặp gỡ này là điều kiện cho vợ, con sĩ quan
cấp úy có cơ hội thăm, tìm hiểu nơi ăn ở, công tác của chồng, cha, từ đó hiểu
hơn về đặc thù nghề nghiệp quân sự của chồng, cha. Tuy nhiên, hình thức này
không nhiều, số đông nhất là vài năm/lần (53,6%).
Gọi điện thoại là hình thức phổ biến nhất. 100,0% sĩ quan cấp úy liên lạc
với gia đình vợ, con hàng ngày. Trong khi đó, gọi điện thoại có video cũng là
hình thức mà tất cả sĩ quan cấp úy đều sử dụng, với tần suất nhiều nhất là hàng
ngày và 3-5 ngày/lần (đều chiếm 44,6%); ít nhất là 1 tuần/lần.
Nhắn tin bằng điện thoại là hình thức đi liền với gọi điện thoại, được
nhiều sĩ quan cấp úy sử dụng, trong đó nhắn tin hàng ngày chiếm tỉ lệ lớn hơn so
với hàng tuần. Nhắn tin, gọi điện thông qua internet (facebook, viber, zalo…)
được sử dụng khá phổ biến ở tần suất hàng ngày và thấp hơn là hàng tuần. Gửi
email phổ biến hơn ở mức độ hàng tháng.
98
Như vậy, số liệu Bảng 3.11 cho thấy, hàng ngày và hàng tuần sĩ quan cấp
úy chủ yếu liên hệ với vợ, con bằng hình thức giao tiếp gián tiếp thông qua
phương tiện truyền thông (phổ biến là điện thoại).
So sánh với gia đình bố mẹ đẻ và bố mẹ vợ thấy mật độ liên hệ với vợ, con
lớn hơn rất nhiều, nhất là hình thức liên hệ hiện đại (thông qua internet, sử dụng
điện thoại thông minh). Có thể khẳng định, khi đã có gia đình riêng, sĩ quan cấp
úy dành thời gian chủ yếu cho gia đình riêng của mình để chia sẻ tình cảm, gánh
vác trách nhiệm gia đình. Với gia đình bố mẹ hai bên, chủ yếu liên hệ khi gia đình
có công việc hay những lúc bố mẹ ốm đau, những dịp lễ, tết. Như vậy, sĩ quan cấp
úy về thăm vợ con nhiều hơn gia đình bố mẹ đẻ và gia đình bố mẹ vợ. Nó cho
thấy sự suy giảm mức độ và tính chất liên hệ giữa sĩ quan cấp úy đối với gia đình
bố mẹ đẻ, bố mẹ vợ. Với những sĩ quan cấp úy đã có vợ, quan hệ xã hội với gia
đình bố mẹ đẻ, bố mẹ vợ suy giảm về cường độ, mức độ và tính chất.
Thời gian liên hệ chủ yếu diễn ra vào ngày và giờ nghỉ, phổ biến nhất là
vào giờ nghỉ. Giải thích về điều này, rất nhiều sĩ quan cấp úy cho rằng ngày và
giờ làm việc thì không có thời gian, còn phải tập trung vào công việc ở đơn vị;
đồng thời ngày, giờ làm việc thì vợ, con cũng còn phải đi làm, đi học, trong khi
đó nói chuyện, tâm sự với vợ, con thì cần nhiều thời gian, do đó thường chờ đợi,
hoặc để dành đến lúc nghỉ ngơi trong ngày, hoặc cuối tuần mới liên lạc nếu
không phải là công việc cần giải quyết gấp (xem Bảng 3.12).
Bảng 3.12: So sánh thời gian và nội dung liên hệ giữa gia đình bố mẹ đẻ,
bố mẹ vợ với gia đình vợ, con
Đơn vị tính %
Thời gian và nội dung liên hệ Loại gia đình
Bố mẹ đẻ Bố mẹ vợ Vợ, con
Thời gian diễn ra
liên hệ
Giờ nghỉ 68,1 97,0 79,8
Ngày nghỉ 23,3 3,0 20,2
Giờ, ngày làm việc 8,6
99
Nội dung liên hệ Kinh tế 17,2 21,4 53,6
Chính trị 8,2 10,7 13,1
Tình cảm 74,6 67,9 33,3
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, tháng 8 năm 2016.
Nội dung liên hệ. Cũng giống như liên hệ với gia đình bố mẹ hai bên, sĩ
quan cấp úy liên hệ với gia đình vợ, con chủ yếu xung quanh các vấn đề của
cuộc sống hàng ngày của bản thân và gia đình như kinh tế, chính trị và tình cảm.
Đáng chú ý, so sánh với gia đình bố mẹ hai bên thì nội dung đề cập về kinh tế
chiếm số lượng lớn hơn rất nhiều. Điều này cũng dễ hiểu, vì lĩnh vực kinh tế là
một nội dung quan trọng trong gia đình sĩ quan cấp úy, trong đó sĩ quan cấp úy
đóng vai trò trụ cột, sĩ quan cấp úy cùng với vợ phải lo toan, bảo đảm kinh tế cho
gia đình ổn định. Lĩnh vực chính trị cũng được sĩ quan cấp úy chia sẻ, bàn bạc
với vợ nhiều hơn so với bố mẹ hai bên, vì liên quan đến sự nghiệp và sự thăng
tiến của sĩ quan cấp úy, đồng thời ảnh hưởng trực tiếp đến điều kiện kinh tế,
chính trị, xã hội của gia đình vợ con.
Tóm lại, trên cơ sở phân tích, đánh giá, so sánh mạng lưới xã hội gia đình
bố mẹ đẻ, bố mẹ vợ và vợ, con của sĩ quan cấp úy cho thấy, gia đình có vai trò
quan trọng đối với sĩ quan cấp úy, là mạng lưới xã hội tất yếu, không thể thiếu
trong đời sống vật chất và tinh thần của họ. Khi sĩ quan cấp úy có gia đình riêng
thì mạng lưới xã hội gia đình của họ thêm mở rộng (thêm quan hệ xã hội với gia
đình bố mẹ vợ và gia đình vợ, con). Tuy nhiên, lúc này mạng lưới xã hội gia
đình của họ có sự chuyển biến lớn khi hình thức, tần suất liên hệ với gia đình vợ,
con đậm nét hơn so với gia đình bố mẹ đẻ và bố mẹ vợ; mức độ liên hệ với gia
đình bố mẹ hai bên cũng ngày càng mờ dần (quan hệ thưa dần, tính chất quan hệ
lỏng lẻo dần, không còn chặt chẽ như trước). Điều đó giải thích rằng sĩ quan cấp
úy khi đã có gia đình riêng thì quan hệ của họ với gia đình bố mẹ đẻ thưa dần,
không còn dành nhiều thời gian như trước kia, họ phải dành nhiều thời gian
chăm lo, gáng vác nghĩa vụ, trách nhiệm cho gia đình riêng của mình hơn, họ
100
thường chỉ về thăm gia đình bố mẹ đẻ và bố mẹ vợ khi được nghỉ lễ, tết dài
ngày, hoặc khi có công việc của gia đình, dòng họ. Trước đây chưa có gia đình,
nếu được nghỉ phép hoặc ngày lễ, tết họ thường về với bố mẹ đẻ. Xây dựng gia
đình rồi, được nghỉ họ phải tranh thủ về gia đình riêng giúp đỡ vợ, chăm sóc, dậy
dỗ con, lo công việc gia đình riêng.v.v…
"Thực tế khi đã có gia đình riêng thì hầu hết mọi sĩ quan đều dành
thời gian quan tâm chăm lo đến gia đình riêng của mình. Đó vừa là
nơi thỏa mãn nhu cầu tình cảm vừa là bổn phận trách nhiệm với vợ,
con. Với gia đình lớn bố mẹ chỉ còn là trách nhiệm, vì vậy họ thường
chỉ về thăm khi được nghỉ phép dài ngày, các ngày giỗ, tết hoặc khi có
công việc của gia đình, họ hàng, hay khi bố mẹ ốm đau đột xuất".
(PVS: Trung tá, Chủ nhiệm chính trị).
Như vậy, xét tổng thể, mạng lưới xã hội gia đình của nhóm sĩ quan cấp úy
hiện nay vừa có xu hướng mở rộng, đồng thời vừa có xu hướng thu hẹp (khi sĩ
quan cấp úy lập gia đình riêng). Khi xây dựng gia đình riêng, sĩ quan cấp úy
chuyển quan hệ gắn kết từ gia đình bố mẹ đẻ sang gia đình vợ, con, chăm lo cho
gia đình riêng của mình nhiều hơn; đồng thời thêm quan hệ với gia đình bố mẹ
vợ, tuy nhiên sự gắn kết với gia đình bố mẹ vợ cũng giống như với gia đình bố
mẹ đẻ ngày càng mờ nhạt, lỏng dần.
3.4. TÁC ĐỘNG CỦA MẠNG LƯỚI XÃ HỘI GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI SĨ QUAN CẤP ÚY
Gia đình luôn luôn chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng đối vơi mỗi con
người. Gia đình là tổ ấm, bao bọc và che chở, hỗ trợ vật chất và tinh thần, môi
trường xã hội hóa đặc biệt quan trọng, tạo lập vị thế xã hội cho các thành viên.
Đối với sĩ quan cấp úy, gia đình giữ vai trò rất quan trọng: định hướng
nghề nghiệp quân sự, tạo lập vị thế xã hội, hỗ trợ vật chất, chỗ dựa về tinh
thần,… để họ hoàn thành chức trách, nhiệm vụ và phát triển phẩm chất người sĩ
quan quân đội. Đồng thời, với tư cách là một thành viên, người con trai trong gia
101
đình, sĩ quan cấp úy giữ vai trò “trụ cột” cả về vật chất và tinh thần của gia đình,
nhất là với sĩ quan cấp úy đã có vợ, con.
Từ vai trò của gia đình và vai trò của sĩ quan cấp úy trong gia đình cho
thấy sự tác động rất lớn từ gia đình đối với sĩ quan cấp úy. Tác động của mạng
lưới xã hội của gia đình đối với sĩ quan cấp úy trên các phương diện: tác động
đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ chỉ huy, quản lý, đến việc phát triển
phẩm chất người sĩ quan quân đội. Sự tác động đó theo hai chiều tích cực và tiêu
cực. Nếu gia đình thực sự vững chắc về điều kiện vật chất và tinh thần, mức độ
và tính chất quan hệ giữa gia đình và sĩ quan tốt sẽ tạo điều kiện cho sĩ quan cấp
úy yên tâm công tác và ngược lại, mối lo về đời sống của gia đình, nhất là với
gia đình vợ con, sự trục trặc về tình cảm sẽ tạo ra sự băn khoăn, lo lắng, có thể
dẫn đến sự chểnh mảng trong cộng việc, tha hóa về đạo đức, lối sống.
3.4.1. Tác động của mạng lưới xã hội gia đình đối với việc thực hiện
chức năng, nhiệm vụ chỉ huy, quản lý của sĩ quan cấp úy
Với gia đình bố mẹ đẻ
Ở câu hỏi: Khi có công việc cần xin ý kiến thì tham khảo ý kiến của ai là
chủ yếu? Kết quả có 24,1% khẳng định xin ý kiến của bố mẹ đẻ; tỉ lệ này cũng
tương ứng với sĩ quan cấp úy khẳng định thường nghe theo sự khuyên bảo, tư
vấn của bố mẹ đẻ (21,6%); 5,2% cho rằng bố mẹ đẻ là người có ảnh hưởng nhất
tới họ (xem Bảng 3.13).
Về sự chi viện, giúp đỡ của gia đình bố mẹ đẻ đối với sĩ quan cấp úy. Sự
chi viện, giúp đỡ về vật chất và tinh thần lần lượt là 28,4% và 23,3%. Sự giúp đỡ
không chỉ dành riêng cho sĩ quan cấp úy, mà còn trực tiếp tới vợ, con (hậu
phương gia đình riêng) của họ (với những đồng chí đã có vợ). Không chỉ giúp đỡ
về vật chất (53,4%) và động viên tinh thần (50,0%), mà còn trực tiếp giúp đỡ
chăm sóc con cháu (42,2%) như trông nom con, cháu khi nhỏ, đưa đón và dạy
bảo các cháu học hành. Những sự giúp đỡ này là tài sản quý giá, là nguồn động
viên, cổ vũ lớn để sĩ quan cấp úy yên tâm công tác, hoàn thành nhiệm vụ.
102
"Ở mối quan hệ ngoài đơn vị, thì mối quan hệ với gia đình và người
thân là mối quan hệ quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định đến sự
trưởng thành, phát triển của sĩ quan cấp úy ở đơn vị. Mức độ yên
tâm công tác, cống hiến trong quân đội của sĩ quan cấp úy phụ
thuộc rất nhiều vào điều kiện, hoàn cảnh gia đình, cả về mặt vật
chất và tinh thần khi sĩ quan cấp úy nhận được từ gia đình, người
thân. Đã có trường hợp sĩ quan cấp úy vi phạm kỷ luật vì điều kiện
kinh tế gia đình khó khăn hoặc do thiếu sự quan tâm, động viên từ
gia đình, nhất là khi gia đình có những vướng mắc về mặt tình
cảm". (PVS: Trung tá, Phó trung đoàn trưởng quân sự).
Như vậy, qua phân tích các chỉ báo trên cho thấy, gia đình bố mẹ đẻ có
vai trò quan trọng, là tiền đề và là hậu phương vững chắc với sĩ quan cấp úy trên
con đường công danh, sự nghiệp. Sĩ quan cấp úy luôn nhận được sự quan tâm,
định hướng, động viên để yên tâm công tác, gắn bó với đơn vị. Thực tế ở đơn vị,
đa số sĩ quan cấp úy phát huy tốt truyền thống tốt đẹp của bố mẹ, gia đình
(truyền thống cánh mạng, bố mẹ là đảng viên gương mẫu; hay đức tính cần cù,
chịu khó, tốt bụng khi sinh ra ở những gia đình có bố mẹ là nông dân, công
nhân; tinh thần vượt khó, ý thức tự lập trong gia đình là lực lượng vũ trang…),
làm cơ sở, động lực cho việc hoàn thành tốt nhiệm vụ. Do đó, có thể nói gia đình
bố mẹ đẻ có sự tác động rất lớn đến việc hình thành phẩm chất, năng lực lãnh
đạo, chỉ huy, quản lý bộ đội. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, cũng chính vì
những lý do khách quan như gánh nặng về vai trò, bổn phận của người con trong
gia đình, dòng họ, khoảng cách địa lý xa cách, sự động viên, giúp đỡ của bố mẹ
đẻ chưa kịp thời, gia đình bố mẹ đẻ gặp hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, neo
người, ốm đau… làm cho một số ít sĩ quan cấp úy có lúc băn khoăn, giao động,
suy nghĩ thiệt hơn, dẫn tới sao nhãng với công việc, chất lượng hoàn thành
nhiệm vụ có lúc chưa cao. Chính những lý do như vậy làm ảnh hưởng đến chức
năng, nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý ở đơn vị của sĩ quan cấp úy.
103
Với gia đình bố mẹ vợ
Sĩ quan cấp úy khi đã có vợ, trong so sánh tương quan giữa bố mẹ đẻ, bố
mẹ vợ khi có công việc cần xin ý kiến thì tham khảo ý kiến của ai là chủ yếu? Có
17,2% xin ý kiến của bố mẹ vợ, trong đó 15,1% cho rằng nghe theo sự khuyên
bảo, tư vấn của bố mẹ vợ; 2,2% cho rằng ý kiến của bố mẹ vợ có ảnh hưởng quan
trọng nhất. Như vậy so với bố mẹ đẻ thì sĩ quan cấp úy tham khảo và nghe theo ý
kiến của bố mẹ vợ thấp hơn (xem Bảng 3.13).
Bảng 3.13: Tương quan ảnh hưởng của gia đình bố mẹ đẻ, bố mẹ vợ và
vợ, con với sĩ quan cấp úy
Đơn vị tính %
Mức độ ảnh hưởng của gia đình Loại gia đình
Bố mẹ đẻ Bố mẹ vợ Vợ, con
Khi có công việc cần xin ý kiến thì tham khảo ý
kiến của ai là chủ yếu 24,1 17,2 58,6
Thường nghe theo ý kiến của ai 21,6 15,1 63,4
Ai là người có ảnh hưởng nhất 5,2 2,2 92,7
Sự chi viện, giúp đỡ
của gia đình đối với
sĩ quan cấp úy
Giúp đỡ về vật chất 28,4 25,0 46,6
Giúp đỡ về tinh thần 23,3 27,6 49,1
Sự chi viện, giúp đỡ
của gia đình hai bên
đối với vợ con
Giúp đỡ về vật chất 53,4 46,6
Giúp đỡ về về tinh thần 50,0 50,0
Giúp đỡ chăm sóc con cháu 42,2 57,3
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, tháng 8 năm 2016.
Về sự giúp đỡ của bố mẹ vợ đối với sĩ quan cấp úy. Sự giúp đỡ của bố mẹ vợ
về mặt vật chất và tinh thần không có sự khác biệt lớn khi gia đình bố mẹ vợ đều
quan tâm cả hai mặt. So sánh với gia đình bố mẹ đẻ, sự giúp đỡ của bố mẹ vợ
thấp hơn về vật chất nhưng lại cao hơn về tinh thần. Tuy nhiên, sự giúp đỡ giữa
hai gia đình đối với vợ, con sĩ quan cấp úy thấy gia đình bố mẹ vợ giúp đỡ thấp
104
hơn về vật chất; giúp đỡ chăm sóc con cháu thấy bố mẹ vợ cao hơn hẳn bố mẹ
đẻ. Sự khác biệt này được các sĩ quan cấp úy giải thích rằng về mặt vật chất, bố
mẹ đẻ thường đầu tư, chi viện cho con trai nhiều hơn; về tinh thần, một phần vì
gia đình bố mẹ vợ ở gần hơn, một phần mẹ vợ chăm sóc khi vợ mới sinh con thì
hai mẹ con dễ gần gũi hơn, vợ không ngại cảnh mẹ chồng nàng dâu, không sợ va
chạm, mẹ chồng hay để ý (xem Bảng 3.13).
Qua phân tích các chỉ báo ở mục 3.1 và 3.2 cho thấy: Về nghề nghiệp gia
đình giữa bố mẹ vợ với mẹ đẻ có sự khác biệt, nhưng không khác biệt nhiều; Về
khoảng cách giữa gia đình và đơn vị thì gia đình bố mẹ vợ có khoảng cách gần
hơn gia đình bố mẹ đẻ. Số liệu điều tra cho thấy sự liên hệ giữa sĩ quan cấp úy
với gia đình bố mẹ vợ lớn hơn, nhiều hơn với gia đình bố mẹ đẻ. Số liệu Bảng
3.13 cũng chỉ ra rằng giữa gia đình bố mẹ đẻ và gia đình bố mẹ vợ có ảnh hưởng
tương đối ngang nhau đến việc tham khảo ý kiến khi cần thiết của sĩ quan cấp úy
(định hướng, động viên trong công tác); có sự giúp đỡ, chi viện cả vật chất và
tinh thần dù trực tiếp (đối với sĩ quan cấp úy) hay gián tiếp (đối với vợ, con).
Như vậy, gia đình bố mẹ vợ ảnh hưởng khá mạnh đến hoạt động quân sự của sĩ
quan cấp úy, tác động đến việc hình thành phẩm chất, năng lực lãnh đạo,
phương pháp, tác phong chỉ huy, quản lý bộ đội của họ. Tuy vậy, do đặc thù
thiết chế và nghề nghiệp quân sự, sĩ quan cấp úy ít có điều kiện đáp lại sự giúp
đỡ của gia đình bố mẹ vợ. Những thời điểm mà sĩ quan không có điều kiện chăm
lo đến các công việc của gia đình bên vợ, một số ít sĩ quan cấp úy không tránh
khỏi sự băn khoăn trăn trở, suy nghĩ thiệt hơn, dẫn đến lơ là trong công tác, sao
nhãng với công việc, ảnh hưởng đến chất lượng, mức độ hoàn thành chức trách,
nhiệm vụ chỉ huy, quản lý đơn vị.
Với gia đình vợ, con
So sánh mức độ ảnh hưởng của vợ với bố mẹ đẻ và bố mẹ vợ, thấy người
vợ có vai trò đặc biệt đối với sĩ quan cấp úy, điều này được khẳng định ở các nội
dung: Khi có công việc cần xin ý kiến thì tham khảo ý kiến của ai là chủ yếu?
105
Thường nghe theo ý kiến của ai? Ai là người có ảnh hưởng nhất? Kết quả số
liệu điều tra cho thấy tất cả các chỉ báo trên của vợ đều cao hơn hẳn bố mẹ đẻ và
bố mẹ vợ. Tìm hiểu về mức độ quan trọng ảnh hưởng của vợ tới sĩ quan cấp úy
như thế nào, về vấn đề gì là chủ yếu? Đa số đều cho rằng, sự quan trọng này là
như nhau giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần (xem Bảng 3.13).
Như vậy, kết quả phân tích các chỉ báo trên cho phép nhận định, gia đình
vợ, con có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống của sĩ quan cấp úy. Với
những đặc điểm của gia đình vợ, con về điều kiện kinh tế - chính trị, khoảng cách
đi lại (xem mục 3.3), cùng với điều kiện bản thân và tính chất đặc thù của nghề
nghiệp quân sự đã tác động rất lớn đến tâm tư nguyện vọng, mức độ yên tâm phấn
đấu, tu dưỡng, rèn luyện của sĩ quan cấp úy. Sự quan tâm, chi viện, giúp đỡ của
gia đình vợ, con có tác động, ảnh hưởng rất lớn,giúp sĩ quan cấp úy yên tâm công
tác, là cơ sở, điều kiện thuận lợi hình thành phẩm chất, năng lực lãnh đạo, chỉ
huy, quản lý bộ đội, đến việc hoàn thành nhiệm vụ đơn vị. Tuy nhiên, những đặc
điểm trên ở một chừng mực nhất định cũng tác động trái chiều đến sĩ quan cấp
úy, nhất là những lúc vợ, con ốm đau, kinh tế gia đình khó khăn, những lúc mà sĩ
quan cấp úy cần phải thể hiện rõ nhất vai trò, trách nhiệm, bổn phận, nghĩa vụ
của mình với gia đình, khi đó, làm cho sĩ quan cấp úy đôi khi giao động, băn
khoăn trăn trở, không tập trung được vào công việc, chất lượng công việc không
cao, thậm chí không hoàn thành chức trách nhiệm vụ của mình.
Có thể nói, mạng lưới xã hội gia đình có vai trò quan trọng với sĩ quan cấp
úy "Quá trình sĩ quan thoát ly khỏi nghề nghiệp gia đình, rời xa gia đình, họ hàng,
quê hương, họ luôn giữ mối liên hệ chặt chẽ với bố mẹ, vợ, con, anh, chị, em trong
gia đình, bà con cô, bác, chú, dì trong họ hàng và luôn nhận được sự quan tâm, giúp
đỡ, đùm bọc rất lớn cả vật chất và tinh thần từ gia đình, người thân trong suốt quá
trình công tác của họ. Đây là điều kiện thuận lợi, là nguồn động viên, khích lệ lớn
giúp sĩ quan yên tâm công tác, gắn bó với đơn vị, tạo dựng thêm vốn xã hội của
mình, phấn đấu tiến bộ, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao" [77, tr. 93].
106
3.4.2. Tác động của mạng lưới xã hội gia đình đối với việc hình thành,
phát huy phẩm chất con người xã hội của sĩ quan cấp úy
Từ mối quan hệ với gia đình bố mẹ đẻ từ khi sinh ra và lớn lên, đến mối
quan hệ với gia đình bố mẹ vợ, nhất là gia đình vợ con, vì thế "Ở mỗi sĩ quan
đều mang sẵn trong mình một truyền thống, giá trị của gia đình, dòng họ, quê
hương … của mình để bồi đắp, củng cố và phát triển cuộc sống cho mình, cho
gia đình… Đó chính là việc họ sử dụng, chuyển hóa một cách hợp lý, hiệu quả
vốn xã hội của cá nhân, gia đình, dòng họ" [77, tr. 94].
Thông qua liên hệ với gia đình bố mẹ đẻ và bố mẹ vợ (mục 3.1 và 3.2), sĩ
quan cấp úy nhận được sự định hướng, khuyên bảo đúng đắn, kịp thời, qua đó
trưởng thành về phẩm chất, nhân cách con người xã hội của mình, làm tròn
trách nhiệm bổn phận của người con với với gia đình, họ hàng, có hiếu với bố
mẹ, họ hàng; là tấm gương mẫu mực trong gia đình, họ hàng. Mặc dù vậy, bên
cạnh mặt tích cực, do gánh nặng về vai trò, bổn phận của người con trong gia
đình, dòng họ, khoảng cách địa lý xa cách, sự động viên, giúp đỡ của bố mẹ hai
bên (nếu có vợ) có lúc chưa kịp thời, gia đình bố mẹ gặp hoàn cảnh khó khăn về
kinh tế, neo người, ốm đau… đã tác động, làm ảnh hưởng đến việc hoàn thiện
phẩm chất con người xã hội của sĩ quan cấp úy trong ứng xử và giải quyết các
công việc gia đình, vợ con, họ hàng như vai trò, bổn phận, trách nhiệm, nghĩa vụ
của người con, người chồng, người cha trong gia đình chưa được trọn vẹn; đồng
thời, hành vi ứng xử của sĩ quan cấp úy trong các quan hệ xã hội ở đơn vị với
các quân nhân khác với tư cách là một con người xã hội cũng bị ảnh hưởng.
Trong quan hệ với gia đình vợ, con (mục 3.3) cho thấy, gia đình vợ, con có
vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống của sĩ quan cấp úy. Sĩ quan cấp úy luôn
nhận được sự quan tâm, chia sẻ, động viên giúp đỡ từ gia đình vợ, con cả về vật
chất và tinh thần. Rất nhiều sĩ quan cấp úy có người vợ đảm đang, tháo vát, là hậu
phương vững chắc; thay mặt chồng, đảm nhận cả vai trò làm chồng nuôi dạy các
con, lo toan công việc gia đình, họ hàng; chăm sóc, phụng dưỡng bố mẹ già yếu, lúc
107
ốm đau; động viên, hỗ trợ chồng những lúc khó khăn, lo lắng vướng mắc cần tháo
gỡ… Đây chính là những điều kiện thuận lợi nhất giúp cho sĩ quan cấp úy an tâm
về tư tưởng, không bị giao động trước bất kỳ khó khăn nào từ phía hậu phương gia
đình, là tiền đề để họ củng cố, phát huy phẩm chất xã hội của mình trong thực hiện
các quan hệ xã hội ở đơn vị cũng như gia đình, họ hàng. Tuy nhiên, những đặc
điểm trên ở một chừng mực nhất định cũng tác động trái chiều đến sĩ quan cấp úy,
nhất là những lúc vợ, con ốm đau, không có việc làm, kinh tế gia đình khó khăn,
những lúc mà sĩ quan cấp úy cần phải thể hiện rõ nhất vai trò, trách nhiệm, bổn
phận, nghĩa vụ của mình với gia đình; hay thậm chí, "… cũng còn những gia đình
chưa thực sự là chỗ dựa vật chất và tinh thần của quân nhân. Có gia đình bao che
khuyết điểm, hành vi vi phạm pháp luật, kỷ luật của quân nhân" [56, tr. 85]. Việc
làm đó của gia đình ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng của sĩ quan cấp úy, làm cho họ
đôi khi không kiểm soát được bản thân rất dễ có những hành động nông nổi, suy
nghĩ không chín chắn làm cho nhân cách bị xuống cấp, rất dễ dẫn đến sa ngã.v.v…
Như vậy, trên cơ sở mô tả, phân tích thực trạng mạng lưới xã hội gia đình sĩ
quan cấp úy cho thấy, gia đình có vai trò quan trọng đối với sĩ quan cấp úy, là
mạng lưới xã hội tất yếu, không thể thiếu trong đời sống vật chất và tinh thần của
họ. Khi mới bắt đầu trở thành sĩ quan thì sự gắn kết giữa sĩ quan cấp úy (lúc này
chủ yếu chưa có vợ) với gia đình chủ yếu là chức năng tình cảm, đó là sự quan
tâm và động viên, chia sẻ trong cuộc sống, những ngày lễ tết, hay là sự lo toan,
chăm sóc những lúc bố mẹ ốm đau, bệnh tật. Khi có gia đình, thì chức năng tình
cảm vẫn giữ vị trí quan trọng trong cuộc sống của sĩ quan cấp úy, nhưng có sự
chia sẻ và dịch chuyển tương đối lớn từ gia đình bố mẹ đẻ sang gia đình bố mẹ vợ,
đặc biệt là gia đình gia đình riêng (vợ, con), là nơi cân bằng tâm lý, hồi phục thần
kinh sau những ngày, giờ làm việc; cùng với đó là chức năng kinh tế cũng giữ vai
trò quan trọng, sĩ quan cấp úy phải đảm bảo tổ chức cuộc sống gia đình riêng của
mình. Đến khi có con, bên cạnh các chức năng trên, thì chức năng giáo dục cũng
có vai trò quan trọng, sĩ quan cấp úy cùng với người vợ phải lo toan chăm sóc gia
108
đình về kinh tế, giáo dục các con.v.v… có thể nói lúc này gánh nặng gia đình thực
sự tác động rất lớn đến sĩ quan cấp úy. Mặc dù vậy, "Xét tổng thể, gia đình sĩ quan
cấp úy hiện nay là những tế bào lành mạnh trong xã hội. Các hiện tượng như ly
hôn, bạo hành, ngược đãi trong gia đình sĩ quan cấp úy rất hiếm gặp. Sĩ quan, với
tính cách là người chủ gia đình, đã luôn chăm lo cho gia đình, là mẫu hình người
chồng chung thủy, người cha mẫu mực. Song, cũng có sĩ quan vi phạm luật hôn
nhân, luật bình đẳng giới,… Trong nền kinh tế thị trường, với tiền lương như hiện
nay, sĩ quan cấp úy khó bảo đảm cuộc sống cho vợ con, vị thế của họ trong gia
đình bị suy giảm, cá biệt có sự rạn nứt trong hôn nhân. Đã có một vài sĩ quan cấp
úy có hành vi tự tử, tự sát vì tình yêu, hôn nhân không được tôn trọng, ủng hộ"
[56, tr. 85]. Bên cạnh đó, với tư cách là người con của gia đình, dòng họ, sĩ quan
cấp úy cũng vẫn giữ mối liên lạc với bố mẹ, người thân hai bên nội, ngoại (mặc dù
không thường xuyên như trước khi có vợ, con), nhất là những lúc bố mẹ ốm đau
hay các ngày nghỉ lễ, tết, nghỉ phép. Gia đình, họ hàng vừa là nơi gắn bó với trách
nhiệm, bổn phận của người con, người chồng, người cha, đồng thời vừa là nơi sĩ
quan cấp úy nhận được tình cảm, động viên, chia sẻ kịp thời để ngày càng hoàn
thiện phẩm chất con người xã hội của mình, biết cách phát huy những đức tính tốt
đẹp của gia đình, dòng họ trong thực hiện các quan hệ xã hội trong và ngoài môi
trường quân đội. "… Về cơ bản, gia đình là chỗ dựa về vật chất, tinh thần của
quân nhân, tạo cơ sở và nền tảng kinh tế - xã hội để quân nhân hoàn thành chức
trách, nhiệm vụ. Quân nhân luôn ý thức cao, có nhiều trăn trở để làm tròn bổn
phận với gia đình, chăm lo gia đình ấm no, hạnh phúc" [56, tr. 84-85].
Trong mối quan hệ với gia đình, nhiều sĩ quan cấp úy đã vì gia đình mà
tu dưỡng, rèn luyện, phát huy phẩm chất người sĩ quan quân đội, phẩm chất
“Bộ đội Cụ Hồ”. Họ luôn ý thức rằng, sự tiến bộ của bản thâm mang lại niềm
vinh dự, tự hào cho gia đình, dòng họ, vợ con nên họ luôn phát triển, phát huy
phẩm chất của người quân nhân. Vị thế xã hội, sự mong đợi của gia đình là một
109
trong những nguồn động lực để sĩ quan cấp úy phát triển, phát huy phẩm chất
người sĩ quan quân đội.
"Gia đình luôn là chỗ dựa vững chắc để tôi yên tâm công tác. Vì gia
đình, danh dự của gia đình, vợ con mà tôi luôn phấn đấu hoàn thành
chức trách, nhiệm vụ, luôn tu dưỡng, phấn đấu để xứng đáng với sự
mong đợi của gia đình". (PVS: Trung úy, Trung đội trưởng).
Gia đình tạo lập vị thế xã hội cho sĩ quan cấp úy, điểm tựa cho sĩ quan cấp
úy trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ và thăng tiến xã hội. Sĩ quan cấp úy
luôn ý thức được tính chất bồi đắp vị thế xã hội của gia đình thông qua việc tự
khẳng định vị thế, vai trò xã hôi của người sĩ quan quân đội.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Quan hệ xã hội gia đình là quan hệ xã hội chủ yếu của sĩ quan cấp úy. Từ
những mô tả, phân tích thực trạng mạng lưới xã hội gia đình của sĩ quan cấp úy
cho thấy rõ những đặc điểm của mạng lưới quan hệ xã hội này:
Một là, mạng lưới xã hội gia đình của sĩ quan cấp úy được mở rộng về
phạm vi và không gian, nhất là với những sĩ quan cấp úy đã có vợ. Có 26.8%
sĩ quan cấp úy lấy vợ là người khác tỉnh; trong số lấy vợ là người cùng tỉnh
thì có tới 50,6% có vợ là người khác huyện; số lấy vợ là người cùng xã và
cùng huyện chiếm tỉ lệ rất thấp: 22,6% (cộng dồn). Nó cho thấy thực trạng
“một chốn ba quê” của nhóm xã hội này.
Hai là, liên hệ giữa sĩ quan cấp úy với gia đình mang tính chất gián tiếp, số
lượng thời gian giao tiếp trực tiếp, kể cả giao tiếp với vợ, con rất ít, chỉ diễn ra
trong kỳ nghỉ phép hoặc tranh thủ. Gia đình vợ, con sĩ quan cấp úy là gia đình
luôn thiếu sự có mặt của sĩ quan cấp úy - những người chồng, người cha. Tính
chất liên hệ gián tiếp không chỉ tạo ra sự hẫng hụt về tình cảm đối với sĩ quan cấp
úy và gia đình họ mà còn tạo cho sĩ quan cấp úy một mối lo thường trực ngày đêm
về đời sống gia đình, về sức khỏe của những người thân. Sự lo lắng quá đáng dễ
dẫn sĩ quan cấp úy đến những hành vi sai lệch chuẩn mực sĩ quan.
110
Ba là, sự liên hệ của sĩ quan cấp úy với gia đình diễn ra trên tất cả các lĩnh
vực của cuộc sống: kinh tế, chính trị, tình cảm,... Song theo thời gian, liên hệ giữa
sĩ quan cấp úy với gia đình bố mẹ đẻ, gia đình bố mẹ vợ (với những sĩ quan có vợ)
chuyển từ liên hệ đậm đặc về chính trị, kinh tế sang liên hệ tình cảm. Họ giữ đạo,
lễ với bố mẹ theo chuẩn mực nghĩa vụ của những người con đối với những người
sinh thành, nuôi dưỡng mình, sinh thành, nuôi dưỡng vợ mình.
Với gia đình vợ, con, sĩ quan cấp úy tích tụ, phát triển liên hệ mang tính
toàn diện và sâu đậm về tình cảm, kinh tế, chính trị, văn hóa,… Họ luôn là chỗ
dựa của vợ, con trên tất cả các phương diện, cho dù họ luôn vắng nhà.
Bốn là, mạng lưới xã hội gia đình có tác động rất mạnh đến việc thực hiện
chức trách, nhiệm vụ chỉ huy, quản lý đơn vị và hình thành, phát huy phẩm chất
con người xã hội, con người sĩ quan. Sự tác động đó theo hai chiều tích cực và
tiêu cực. Gia đinh tạo lập vị thế xã hội, chỗ dựa về mọi mặt của sĩ quan cấp úy
trong quá trình họ thực hiện chức tránh, nhiệm vụ; đồng thời sĩ quan cấp úy
thông qua việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ và tu dưỡng bản thân để không
ngừng bồi đắp, phát huy vị thế xã hội của gia đình. Điều kiện kinh tế của gia
đình, tính bền chặt trong liên hệ giữa các thành viên trong gia đình, nhất là gia
đình vợ, con luôn là một yếu tố quan trọng chi phối hành vi đúng chuẩn hay lệch
chuẩn của sĩ quan cấp úy.
Năm là, từ sự mô tả, phân tích mạng lưới xã hội gia đình của sĩ quan cấp
úy cho thấy: để xây dựng nhóm sĩ quan cấp úy có cơ cấu hợp lý, chất lượng cao
phải quan tâm quản lý quan hệ xã hội gia đình của họ. Ở đơn vị cơ sở, các cấp
phải nắm bắt tình hình, biết được những biến động của gia đình sĩ quan cấp úy
để có biện pháp quản lý phù hợp nhằm phát huy hành vi đúng chuẩn, hạn chế
những hành vi lệch chuẩn. Ở cấp cao hơn, cấp vĩ mô phải có những chính sách
hậu phương sĩ quan phù hợp, tạo điều kiện cho sĩ quan cấp úy yên tâm phục vụ
lâu dài trong quân đội, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
111
Chương 4
MẠNG LƯỚI XÃ HỘI BẠN BÈ CỦA SĨ QUAN CẤP ÚY HIỆN NAY
Chương này tập trung vào phân tích, làm rõ thực trạng mạng lưới xã hội
bạn bè (gồm bạn bè trước khi nhập ngũ và bạn bè sau khi nhập ngũ) nhằm mục
đích tìm hiểu tác động, ảnh hưởng của các loại mạng lưới xã hội này đến thực
hiện chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý và hình thành, phát huy
phẩm chất con người xã hội của sĩ quan cấp úy hiện nay như thế nào.
4.1. MẠNG LƯỚI XÃ HỘI BẠN BÈ TRƯỚC KHI NHẬP NGŨ
Sĩ quan cấp úy trước khi gia nhập quân đội, họ là những con người xã hội,
do đó họ có những mối quan hệ xã hội đa dạng từ gia đình, nhà trường và xã hội.
Nổi bật trong số đó là những quan hệ gắn với tâm lý lứa tuổi của mình, đó là
quan hệ bạn bè cùng thôn xóm, khu phố; bạn học phổ thông các cấp; bạn bè
thông qua các mối liên hệ khác như bạn bè giới thiệu, bạn tự quen biết; cùng với
sự phát triển của công nghệ thông tin, truyền thông hiện nay, qua các mạng xã
hội internet (facebook, zalo, yahoo,…) họ có thêm những quan hệ xã hội với bạn
bè trên khắp mọi miền Tổ quốc khá đa dạng, phong phú về hình thức và mức độ
quan hệ. Quan hệ xã hội với những bạn bè trước khi nhập ngũ vẫn được duy trì
sau khi sĩ quan cấp úy nhập ngũ.
4.1.1. Hình thức, tần suất liên hệ với bạn bè trước khi nhập ngũ
Nhìn vào Bảng 4.1 thấy, ở hình thức gặp gỡ khi về phép, nhìn tổng thể,
ở tần suất gặp gỡ 1 năm/lần bạn bè cùng học phổ thông các cấp và bạn tự
quen biết thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng cao hơn rất nhiều
so với bạn bè hàng xóm, láng giềng, khu phố và bạn bè qua người khác giới
thiệu, kể cả ở tần suất gặp gỡ 2 năm/lần cũng vậy. So sánh nhóm bạn bè là
hàng xóm và qua người khác giới thiệu, thấy cả hai nhóm này tần suất gặp 2
năm/lần cao hơn so với 1 năm/lần.
112
Gặp gỡ khi đi tranh thủ. So sánh tương quan cấp bậc quân hàm thấy, ở chỉ
báo gặp gỡ 1 tuần/lần nhóm có quân hàm trung úy có liên hệ nhiều nhất (75,0%:
liên hệ với bạn bè thông qua người khác, bạn bè giới thiệu); trong khi đó ở tần
suất 2 tuần/lần và 3 tuần/lần thì nhóm thượng úy lại có số liền liên hệ nhiều nhất
(66,7% và 70,0% cùng với bạn bè và người khác giới thiệu); 1, 1,5 và 2
tháng/lần thì nhóm thiếu úy chiếm số lượng lớn nhất (90,5%, 90,0% và 75,0%
cùng với liên hệ là bạn bè hàng xóm, láng giềng, khu phố) (xem Bảng 4.1). Ở
hình thức gặp gỡ tại đơn vị, hầu hết sĩ quan cấp úy đều khẳng định chưa bao giờ
có điều kiện gặp gỡ bạn bè trước khi nhập ngũ tại đơn vị, vì cơ bản bạn bè cũ là
người ở quê, hoặc đi làm ăn xa, xa xôi về mặt địa lý, khó có điều kiện gặp gỡ.
Bảng 4.1: Tương quan cấp bậc và hình thức, tần suất liên hệ của sĩ quan
cấp úy với bạn bè trước khi nhập ngũ
Đơn vị tính %
Hình thức, tần suất liên hệ với bạn bè
trước khi nhập ngũ
Cấp bậc
Tổng Thiếu
úy
Trung
úy
Thượng
úy Đại úy Hình
thức Tần suất Các loại bạn bè
Gặp gỡ
khi về
phép
1 năm/lần Hàng xóm, khu phố 22,5 ,0 5,2 18,8 8,5
Cùng học các cấp 67,5 41,3 15,5 62,5 40,7
Tự quen biết 10,0 58,7 67,2 12,5 46,3
Người khác giới thiệu ,0 ,0 12,1 6,2 4,5
2 năm trở
lên/lần
Hàng xóm, khu phố 40,0 6,3 11,9 33,3 18,8
Cùng học các cấp 50,0 33,3 16,7 53,3 35,0
Tự quen biết 10,0 55,6 50,0 13,3 38,8
Người khác giới thiệu ,0 4,8 21,4 ,0 7,5
Gặp gỡ
khi đi
tranh thủ
1 tuần/lần Hàng xóm, khu phố 50,0 ,0 20,0 60,0 40,0
Cùng học các cấp 37,5 ,0 40,0 40,0 33,3
Tự quen biết 12,5 25,0 40,0 ,0 16,7
Người khác giới thiệu ,0 75,0 0 ,0 10,0
2 tuần/lần Hàng xóm, khu phố 15,4 ,0 ,0 9,5
Cùng học các cấp 15,4 ,0 40,0 19,0
113
Tự quen biết 30,8 33,3 20,0 28,6
Người khác giới thiệu 38,5 66,7 40,0 42,9
3 tuần/lần Hàng xóm, khu phố 63,6 20,0 70,0 53,8 49,4
Cùng học các cấp 27,3 28,0 10,0 23,1 24,7
Tự quen biết 6,1 32,0 20,0 23,1 18,5
Người khác giới thiệu 3,0 20,0 ,0 ,0 7,4
1 tháng/lần Hàng xóm, khu phố 90,5 51,4 15,2 54,2 46,1
Cùng học các cấp 4,8 38,9 60,8 12,5 37,3
Tự quen biết ,0 4,2 21,5 ,0 9,2
Người khác giới thiệu 4,8 5,6 2,5 33,3 7,4
1,5
tháng/lần
Hàng xóm, khu phố 90,0 41,3 24,5 86,7 52,1
Cùng học các cấp 10,0 50,8 34,7 6,7 32,3
Tự quen biết ,0 7,9 22,4 6,7 10,2
Người khác giới thiệu ,0 ,0 18,4 ,0 5,4
2 tháng/lần Hàng xóm, khu phố 75,0 20,6 26,5 66,7 40,8
Cùng học các cấp 25,0 71,4 35,3 20,0 46,1
Tự quen biết ,0 ,0 29,4 6,7 7,2
Người khác giới thiệu ,0 7,9 8,8 6,7 5,9
Gặp gỡ
tại đơn vị Chưa bao
giờ
Hàng xóm 100.0 100.0 100.0
Gọi điện
thoại
1 tháng/lần Hàng xóm, khu phố 78,9 20,4 61,5 69,2 50,4
Cùng học các cấp 21,1 79,6 38,5 30,8 49,6
Vài
tháng/lần
Hàng xóm, khu phố 65,2 21,9 12,0 33,3 28,4
Cùng học các cấp 21,7 64,4 45,8 16,7 43,1
Tự quen biết 8,7 13,7 41,0 43,3 26,3
Người khác giới thiệu 4,3 ,0 1,2 6,7 2,2
1 năm trở
lên/lần
Hàng xóm, khu phố 75,0 34,5 33,3 71,4 49,3
Cùng học các cấp 20,0 44,8 10,0 21,4 28,2
Tự quen biết 5,0 20,7 56,7 7,1 22,5
Gọi điện
thoại có
video
2-3
tuần/lần
Hàng xóm, khu phố 13,9 ,0 ,0 15,4 7,9
Cùng học các cấp 69,4 53,6 75,0 61,5 64,0
Tự quen biết 16,7 46,4 25,0 23,1 28,1
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, tháng 8 năm 2016.
114
Gọi điện thoại. Ở tần suất liên lạc nhiều nhất (1 tháng/lần) thuộc
nhóm sĩ quan có quân hàm trung úy (với bạn bè cùng học); chỉ báo liên lạc
vài tháng/lần, hai nhóm thiếu úy (với hàng xóm) và trung úy (với cùng học
các cấp) có tỉ lệ cao nhất và tương đối ngang nhau; tỉ lệ liên lạc ở tần suất 1
năm trở lên/lần, hai nhóm thiếu úy và đại úy chiếm số lượng tương đối
ngang nhau và nhiều hơn các nhóm khác (đều cùng với bạn hàng xóm),
trong khi đó nhóm trung úy ở chỉ báo này vẫn giữ liên lạc nhiều nhất là với
bạn học các cấp (xem Bảng 4.1).
Qua phân tích số liệu cho thấy, nhóm trung úy liên lạc với bạn học
phổ thông các cấp nhiều nhất; nhóm thiếu úy lại có tần suất liên lạc với
bạn là hàng xóm là chính. Giải thích cho điều này nhiều sĩ quan cho rằng,
với bạn bè cùng học các cấp, ở mỗi cấp học đều hình thành nhóm, hội đồng
môn, đồng khóa nên hàng năm họ vẫn liên lạc gặp mặt định kỳ; với bạn bè
hàng xóm, do gần với gia đình bố mẹ đẻ nên giữ liên lạc, nhất là những lúc
bố mẹ ốm đau cần giúp đỡ, những khi họ thăm bố mẹ, hay những lúc gia
đình, họ hàng có công việc.
Gọi điện thoại có video là hình thức không phổ biến với bạn bè trước
nhập ngũ nên chỉ xuât hiện liên lạc ở tần suất 2-3 tuần/lần và đều tập trung
nhiều nhất là với nhóm bạn học (xem Bảng 4.1).
Ở Bảng 4.2 cho thấy, viết thư tay đã từng xuất hiện, nhưng số lượng rất
ít và cũng đã lâu lắm rồi, khi mà sĩ quan cấp úy chưa sử dụng điện thoại di
động phổ biến. So sánh với xuất thân nghề nghiệp gia đình sĩ quan cấp úy
thấy, liên lạc với nhóm bạn là hàng xóm và bạn học là chính. Hiện nay, hình
thức này không còn sĩ quan cấp úy nào sử dụng, điều này cũng phù hợp với
sự phát triển khoa học công nghệ truyền thông liên lạc hiện đại ngày nay.
115
Bảng 4.2: Tương quan xuất thân nghề nghiệp gia đình sĩ quan cấp úy và
hình thức, tần suất liên hệ với bạn bè trước khi nhập ngũ
Đơn vị tính %
Hình thức, tần suất liên hệ với bạn
bè trước khi nhập ngũ
Xuất thân nghề nghiệp gia đình sĩ quan
cấp úy
Tổng Lực
lượng
vũ
trang
Viên
chức
Nhà
nước
Công
nhân
Nông
dân
Buôn
bán
Thợ
thủ
công Hình
thức
Tần
suất Các loại bạn bè
Viết thư
tay (thư
giấy)
Vài
tháng/
lần
Hàng xóm, khu phố 18,2 60,0 100,0 55,6 100,0 44,4
Cùng học các cấp 54,5 20,0 ,0 22,2 ,0 33,3
Tự quen biết 27,3 20,0 ,0 ,0 ,0 14,8
Người khác giới thiệu ,0 ,0 ,0 22,2 ,0 7,4
Nhắn
tin bằng
điện
thoại
2-3
tháng/
lần
Tự quen biết 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0
1 năm
trở
lên/lần
Hàng xóm, khu phố 20,4 13,9 5,9 16,3 20,0 ,0 16,0
Cùng học các cấp 70,4 61,1 82,4 65,2 60,0 75,0 67,1
Tự quen biết ,0 13,9 5,9 14,1 10,0 25,0 9,9
Người khác giới thiệu 9,3 11,1 5,9 4,3 10,0 ,0 7,0
Thông
qua
internet
(facebo
ok,
viber…
)
Hàng
tháng
Cùng học các cấp 57,4 56,5 23,1 42,6 50,0 66,7 48,4
Tự quen biết 42,6 43,5 76,9 57,4 50,0 33,3 51,6
Hàng
năm
Hàng xóm, khu phố 9,3 8,6 5,9 8,0 11,1 ,0 8,2
Cùng học các cấp 81,5 74,3 88,2 80,7 77,8 100,0 80,7
Tự quen biết ,0 8,6 ,0 9,1 11,1 ,0 5,8
Người khác giới thiệu 9,3 8,6 5,9 2,3 0 ,0 5,3
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, tháng 8 năm 2016.
116
Nhắn tin bằng điện thoại, tần suất xuất hiện nhiều nhất là 2-3 tháng/lần và
chủ yếu nhắn tin qua lại với bạn bè tự quen biết (100,0% cho tất cả các nhóm sĩ
quan). Ở mức độ tần suất ít nhất (1 năm trở lên/lần) có ở tất cả các nhóm bạn,
trong đó nhóm bạn cùng học có lệ cao nhất (chiếm 67,1% tổng thể), trong đó so
sánh nhóm sĩ quan cấp úy có nguồn gốc gia đình là lực lượng vũ trang (70,4%),
viên chức Nhà nước (61,1%), công nhân (cao nhất: 82,4%), nông dân (65,2%),
buôn bán (60,0%) và thợ thủ công (75,0%). Giải thích tần suất nhắn tin với bạn
bè trước nhập ngũ, đa số sĩ quan cấp úy cho rằng chỉ nhắn tin thăm hỏi hay chúc
mừng vào những dịp lễ, tết (xem Bảng 4.2).
Liên lạc thông qua internet (facebook, viber, zalo…) không được sử
dụng rộng rãi, chủ yếu là bạn học (66,7%: ở tần suất hàng tháng và với nhóm
sĩ quan có nguồn gốc gia đình là thợ thủ công) và bạn quen biết (76,9% với sĩ
quan nguồn gốc công nhân). Mức độ liên lạc hàng năm có đủ ở các nhóm,
nhưng số lượng lớn nhất vẫn là nhóm bạn học (chiếm tổng số 80,7%), trong
đó có nguồn gốc gia đình là lực lượng vũ trang: 81,5%; viên chức Nhà nước:
74,3%; công nhân: 88,2%; nông dân: 80,7%; buôn bán: 77,8%; thợ thủ công:
100,0% (xem Bảng 4.2).
Như vậy, qua phân tích số liệu Bảng 4.1 và Bảng 4.2 cho thấy, nhóm thiếu
úy và trung úy liên lạc bằng điện thoại (gọi điện) và gặp gỡ trực tiếp với bạn học
nhiều hơn các nhóm khác; nhóm sĩ quan có nguồn gốc gia đình là lực lượng vũ
trang, công nhân,thợ thủ công nhắn tin và liên lạc thông qua internet chiếm tỉ lệ
cao hơn các nhóm khác.
4.1.2. Thời gian, nội dung liên hệ với bạn bè trước khi nhập ngũ
Thời gian diễn ra liên hệ. Xem xét nguồn gốc xuất thân gia đình sĩ
quan cấp úy trong tương quan với nhóm bạn bè trước khi nhập ngũ cho thấy
thời gian liên hệ phổ biến nhất (chiếm 80,5% tổng thể) vẫn là vào giờ nghỉ,
trong đó riêng đối tượng có nguồn gốc thợ thủ công là 100,0%; vào ngày nghỉ
có tỉ lệ chung thấp hơn, trong đó nhóm có tỉ trọng cao nhất là con em viên
chức Nhà nước; giờ và ngày làm việc lại tập trung lớn vào nhóm là con em có
117
bố hoặc mẹ làm nghề kinh doanh, buôn. Số liệu này cho thấy đây cũng điều
phù hợp khi sĩ quan cấp úy lựa chọn thời gian liên lạc với đặc thù nghề nghiệp
gia đình của họ (xem Bảng 4.3).
Bảng 4.3: Tương quan xuất thân nghề nghiệp gia đình sĩ quan cấp úy và
thời gian, nội dung liên hệ với bạn bè trước khi nhập ngũ
Đơn vị tính %
Thời gian, nội dung liên hệ
với bạn bè trước khi nhập
ngũ
Xuất thân nghề nghiệp gia đình sĩ quan cấp úy
Tổng
Lực
lượng
vũ
trang
Viên
chức
Nhà
nước
Công
nhân
Nông
dân
Buôn
bán
Thợ
thủ
công
Thời
gian diễn
ra liên hệ
Giờ nghỉ 64,8 84,6 95,0 84,7 72,7 100,0 80,5
Ngày nghỉ 11,1 30,6 23,5 22,7 22,2 25,0 21,2
Giờ, ngày làm việc ,0 20,0 ,0 36,4 50,0 20,0
Nội dung
liên hệ Kinh tế 83,9 80,0 75,0 73,1 66,7 100,0 79,0
Chính tri 8,3 ,0 ,0 ,0 ,0 3,6
Tình cảm 43,5 50,0 83,3 49,0 50,0 33,3 50,0
Giao lưu, giải trí 28,6 48,3 75,0 61,7 50,0 50,0 51,3
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, tháng 8 năm 2016.
Nội dung liên hệ phổ biến trên tấc cả các lĩnh vực văn hoá, xã hội, kinh tế,
chính trị, giao lưu giải trí, tình cảm, trong đó chiếm tỉ trọng cao nhất ở lĩnh vực
kinh tế là nhóm con em thợ thủ công (100,0%); lĩnh vực chính trị là nội dung ít
được đề cập nhất, nhưng lại tập trung ở nhóm con em lực lượng vũ trang; lĩnh
vực tình cảm, nhóm có tỉ trọng lớn nhất là công nhân. Đáng chú ý, trong nội
dung liên hệ với bạn bè trước nhập ngũ xuất hiện lĩnh vực giao lưu, giải trí có
tổng tỉ lệ lệ 51,3%, trong đó nhóm chiếm tỉ lệ cao nhất là con em gia đình có bố
hoặc mẹ là công nhân (xem Bảng 4.3).
Tóm lại, với bạn bè trước khi nhập ngũ, có thể khẳng định sĩ quan cấp
úy và họ rất ít khi gặp nhau trực tiếp, chủ yếu liên hệ với nhau thông qua điện
thoại (gọi điện và nhắn tin là chính); nhóm bạn bè giữ liên lạc nhiều hơn là
118
nhóm bạn học phổ thông các cấp; thời gian diễn ra liên hệ chủ yếu vào giờ
nghỉ, ngày nghỉ; nhu cầu liên hệ (nội dung) chủ yếu nhằm giải quyết vấn đề
tình cảm, giao lưu giải trí là chính.
4.2. MẠNG LƯỚI XÃ HỘI BẠN BÈ SAU KHI NHẬP NGŨ
4.2.1. Mạng lưới xã hội bạn bè trong quân đội, đơn vị
Từ khi nhập ngũ, trở thành quân nhân trong quân đội, sĩ quan cấp úy có
thêm thêm những mối quan hệ xã hội mới, mối quan hệ với những người bạn
mới trong môi trường hoạt động quân sự. Quá trình công tác (tuổi đời, tuổi quân
mỗi năm lại tăng lên), sự trưởng thành, tiến bộ (là cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, quản
lý các cấp ở đơn vị) làm cho các quan hệ xã hội tiếp tục được mở rộng, củng cố,
phát triển rất phong phú, đa dạng. Tiêu biểu trong số đó là những quan hệ xã hội
như: bạn bè là cấp trên; cùng cấp bậc quân hàm; cùng loại hình ngành nghề; cán
bộ, chiến sĩ cấp dưới; cùng nhập ngũ, cùng tuổi; cùng quê hương; cùng họ hàng;
cùng sở thích; cùng điều kiện, hoàn cảnh gia đình; cùng dân tộc.v.v…
Về hình thức, tần suất liên hệ với bạn bè trong quân đội, đơn vị
Bảng 4.4 cho thấy, gặp gỡ khi về phép diễn ra tại gia đình, địa phương,
quê hương khi sĩ quan cấp úy và bạn bè của mình tại đơn vị, quân đội cùng được
về phép hay được nghỉ nhân dịp những ngày lễ lớn của dân tộc (giỗ tổ Hùng
Vương; giải phóng miền Nam thống nhất đất nước; Quốc khánh; thành lập Quân
đội, Tết cổ truyền). Hình thức này xuất hiện ở tất cả các nhóm bạn, tuy nhiên do
đặc thù khác nhau về nhiều yếu tố (cơ cấu xã hội các nhóm quân nhân khác
nhau), mà trong đó chủ yếu nhất là khoảng cách địa lý (địa bàn cư trú của gia
đình), do đó tần suất gặp nhau không đều và chênh lệch lớn giữa các nhóm.
Nhóm gặp gỡ nhiều nhất khi về phép với tần suất 1 năm/lần là nhóm mang
tính chất gia đình, họ hàng (quan hệ gia đình: bố con, anh em ruột thịt; quan hệ họ
hàng) có số lượng lớn thứ hai là nhóm những người cùng nhập ngũ, cùng tuổi (nhập
ngũ cùng nhau nên tuổi cũng cơ bản giống nhau; quân hàm cũng thường giống
nhau); tiếp theo là nhóm với những người cùng quê hương (nhóm này đa dạng về
thành phần cơ cấu xã hội: tuổi, học vấn, quân hàm, chuyên môn nghiệp vụ); các
119
nhóm khác chiếm tỉ lệ không đáng kể. Ở tần suất 2 năm/lần cũng chủ yếu ở ba
nhóm trên chiếm số lượng chủ yếu, tuy nhiên có sự khác biệt làm thay đổi vị trí
theo thứ tự, đó là nhóm cùng quê hương chiếm số lượng lớn nhất; nhóm gia đình,
dòng họ đứng thứ hai; nhóm cùng nhập ngũ, cùng tuổi đứng thứ ba (xem Bảng 4.4).
Gặp gỡ trực tiếp khi đi tranh thủ, xuất hiện không đều và rải rác ở các chỉ
báo 2 tuần/lần đến 1,5 tháng/lần. Ở 2-3 tuần/lần (tỉ lệ % cộng dồn) chủ yếu là
nhóm cùng quê hương và nhóm gia đình, họ hàng, trong đó gia đình, họ hàng
chiếm số lượng gần gấp đôi. Tần suất gặp nhau 1 tháng/lần xuất hiện ở hai nhóm
là những người có cùng sở thích và cùng điều kiện, hoàn cảnh, mức sống gia
đình. 1,5 tháng/lần có nhóm những người cùng nhập ngũ, cùng tuổi và nhóm là
cán bộ, chiến sĩ cấp dưới (xem Bảng 4.4).
Bảng 4.4: Hình thức, tần suất liên hệ với bạn bè trong quân đội, đơn vị
Đơn vị tính %
Hình thức, tần suất liên
hệ với bạn bè trong quân
đội, đơn vị
Các loại bạn bè
Cấp
trên
Cùng
cấp
bậc
Cùng
loại
hình
nghề
Cùng
nhập
ngũ,
tuổi
Cấp
dưới
Cùng
quê
Tính
chất
gia
đình
Cùng
sở
thích
Cùng
hoàn
cảnh
Gặp gỡ
khi về
phép
1 năm/lần 5,2 3,0 3,4 18,1 4,7 12,9 19,4 2,2 1,3
2 năm trở
lên/lần
4,7 3,4 3,0 12,1 7,8 18,5 15,9 2,6 3,4
Gặp gỡ
khi đi
tranh thủ
2 tuần/lần 6,5 11,2
3 tuần/lần 8,2 15,1 2,2
1 tháng/lần 3,0 5,2
1,5 tháng/lần 1,7 3,0
Gặp gỡ
tại đơn
vị
1-3 ngày/lần 3,0 8,6 19,4 11,6 14,2 12,1 8,6 10,8 11,6
1 tuần/lần 4,7 11,6 17,2 12,1 12,9 12,9 10,8 6,9 10,8
1 tháng /lần 10,8 14,2 17,2 11,6 2,2 ,9
Vài tháng/lần 6,5 3,9
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, tháng 8 năm 2016.
Gặp gỡ tại đơn vị. Với bạn bè trong quân đội, hình thức gặp nhau trực tiếp
chủ yếu diễn ra tại đơn vị là chính (mức độ nhiều ít tuy có khác nhau giữa các
120
nhóm). Vì vậy, ở chỉ báo gặp gỡ nhiều nhất (hàng ngày, hoặc 1-3 ngày/lần), đều
có sự xuất hiện của tất cả các nhóm bạn; trong khi đó chỉ báo ít nhất (vài
tháng/lần) chỉ xuất hiện ở hai nhóm và với số lượng rất thấp, đó là nhóm bạn bè là
cấp trên và nhóm mang tính chất gia đình, dòng họ (xem Bảng 4.4).
Hai nhóm có gặp gỡ nhiều nhất ở chỉ báo 1-3 ngày/lần là nhóm bạn bè là
sĩ quan cùng loại hình ngành nghề và nhóm cán bộ, chiến sĩ cấp dưới. Với nhóm
cùng ngành nghề, con số này phản ánh, ở đơn vị, nhóm sĩ quan có cùng ngành
nghề chuyên môn, nghiệp vụ (chính trị - chính trị; quân sự - quân sự; hậu cần, kỹ
thuật - hậu cần, kỹ thuật) diễn ra phổ biến và mang tính chất quan hệ chức năng
và thường được gọi là quan hệ theo ngành dọc. Đây là quan hệ mang tính chất
chỉ thị, ra lệnh - phục tùng giữa cấp trên và cấp dưới trong phân công và thực
hiện nhiệm vụ; là quan hệ phối hợp, hiệp đồng giữa những sĩ quan cùng hoặc
khác cấp, chức ở các phân đội khác nhau trong đơn vị. Quan hệ này vừa mang
tính chất cá nhân, vừa mang tính tổ chức đại diện cho tập thể (các chức danh
được bổ nhiệm cụ thể ở đơn vị, ví dụ như chính trị viên đại đội, trung đội
trưởng…). Mối quan hệ này được quy định và bị chi phối bởi điều lệnh, điều lệ,
chế độ, quy chế của đơn vị; là quan hệ tương tác trực tiếp có tác động, ảnh
hưởng đến uy tín nghề nghiệp của sĩ quan cấp uý. Vì vậy, thực hiện quan hệ này
tốt là tiền đề quan trọng để cá nhân và đơn vị hoàn thành nhiệm vụ. Do đó, trong
môi trường hoạt động quân sự cá nhân và các tổ chức rất chú trọng xây dựng
mối quan hệ xã hội này, nhằm đảm bảo cho các cá nhân và đơn vị đoàn kết,
thống nhất về ý chí và hành động. Nếu quan hệ xã hội này không tốt, không có
tính dân chủ, không có sự quan tâm, hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ của
cấp trên đối với cấp dưới, sự chia sẻ, giúp đỡ giữa các cá nhân và giữa các đơn vị
thì sẽ gây nên những tác động, ảnh hưởng đến tư tưởng, tâm lý và tình cảm cũng
như ý chí, quyết tâm và động cơ phấn đấu của sĩ quan cấp úy. Làm ảnh hưởng
đến uy tín, danh dự, mức độ hoàn thành nhiệm vụ cũng như khả năng thăng tiến
của họ. Hậu quả của sự tác động sẽ rất lớn nếu vấn đề này diễn ra trên phạm vi
121
rộng sẽ hình thành tư tưởng chống đối, kình địch lẫn nhau, ảnh hưởng đến kết
quả thực hiện nhiệm vụ chung và tinh thần đoàn kết, nhất trí trong đơn vị.
"Quan hệ bạn bè giữa những sĩ quan cấp úy có cùng ngành nghề ở
đơn vị là một trong những quan hệ phổ biến và có vai trò quan
trọng đến việc hoàn thành nhiệm vụ của sĩ quan cấp úy nói riêng,
của đơn vị nói chung, bởi vì trong thực hiện quan hệ này sĩ quan
cấp úy có nhu cầu chia sẻ kinh nghiệm, kiến thức chuyên môn,
nghiệm vụ công tác cho nhau, tạo điều kiện cho nhau nâng cao
trình độ tư duy cũng như phương pháp, kỹ năng,… làm cơ sở cho
việc hoàn thành nhiệm vụ. Thực tế ở đơn vị cơ sở, cấp ủy, chủ huy
và các chính uỷ, chính trị viên rất quan tâm và khuyến khích mối
quan hệ này phát triển để tăng cường nghiệp vụ, tay nghề cho sĩ
quan cấp úy, nhất là những đồng chí mới vào nghề, kinh nghiệm
còn hạn chế". (PVS: Thượng tá, Chính ủy trung đoàn).
Nhìn chung, quan hệ xã hội của nhóm sĩ quan cấp úy với bạn bè có cùng
loại hình nghề nghiệp hiện nay vừa mang tính chất chính thức của tổ chức quân
sự, vừa mang tính chất phi chính thức của môi trường xã hội hòa nhập vào con
người sĩ quan cấp úy. Điểm nổi bật là tinh thần hợp tác, đoàn kết, hiệp đồng,
giúp đỡ vẫn mang dấu ấn sâu đậm, cốt lõi trong quan hệ nghề nghiệp của sĩ
quan cấp úy trong quân đội. Đó là cơ sở tạo nên sự đồng thuận xã hội cao, tính
thống nhất lớn vì mục tiêu xây dựng đơn vị, xây dựng quân đội hiện nay.
Với cán bộ, chiến sĩ cấp dưới, sĩ quan cấp úy là những cán bộ chỉ huy cấp
phân đội, là người được giao nhiệm vụ trực tiếp quản lý các quan hệ xã hội của
cán bộ, chiến sĩ cấp dưới trong tất cả các hoạt động và ở mọi thời điểm của đơn
vị. Vì vậy, phẩm chất, năng lực, phương pháp, tác phong của sĩ quan cấp úy
không chỉ góp phần vào việc hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị, của quân đội, mà
còn trực tiếp ảnh hưởng đến phẩm chất quân nhân cách mạng, phẩm chất “Bộ
đội Cụ Hồ” của cán bộ, chiến sĩ cấp dưới. Đây là những quan hệ vừa mang tính
phi chức năng (tình cảm), vừa mang tính chức năng, nhiệm vụ của quân đội.
122
Những mối quan hệ này biểu hiện cho tính kỷ luật cao, sự đoàn kết, thống nhất
về ý chí và hành động trong toàn đơn vị, là tiền đề tạo ra sức mạnh của quân đội,
đúng với câu khẩu hiện ở các đơn vị: "Kỷ luật là sức mạnh của quân đội", "Toàn
quân hành động theo điều lệnh". Ở các đơn vị hiện nay, mối quan hệ giữa nhóm
sĩ quan cấp úy với cán bộ, chiến sĩ cấp dưới được đánh giá là thân mật, gắn bó;
thể hiện sự thấu hiểu của tinh thần đồng chí, đồng đội; đồng cam, cộng khổ. Sự
gần gũi, chia sẽ tình cảm và ý thức trách nhiệm với cán bộ, chiến sĩ cấp dưới là
yếu tố quan trọng để làm cho quan hệ giữa họ thêm bền chặt, tốt đẹp, tiêu biểu
cho sự thống nhất, ý chí và hành động giữa cán bộ và chiến sĩ trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ và trong cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày, và là cơ sở cho mọi
cán bộ, chiến sĩ và tổ chức đơn vị hoàn thành nhiệm vụ. Phân tích số liêu trên, có
thể khẳng định về cơ bản, quan hệ xã hội giữa sĩ quan cấp úy với bạn bè là cán
bộ, chiến sĩ cấp dưới hiện nay diễn ra theo đúng chức trách, nhiệm vụ, đúng quy
định của điều lệnh quân đội và pháp luật của Nhà nước, chuẩn mực, phong tục
tập quán quê hương, dân tộc, thấm đậm tình đồng chí, đồng đội, tình anh em và
trên tinh thần dân chủ, bình đẳng của những người thực hiện nhiệm vụ sẵn sàng
chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, của chức trách, nhiệm vụ và quyền lợi hợp pháp.
Ở tần suất 1 tuần/lần, nhóm bạn bè cùng ngành nghề và cán bộ, chiến sĩ cấp
dưới vẫn chiếm tỉ trọng cao, điều này càng chứng minh cho những nhận định trên
(hai nhóm này tiếp tục chiếm tỉ lệ cao ở tần suất 1 tháng /lần). Đáng chú ý, chỉ báo
này xuất hiện thêm các nhóm bạn bè khác là những người có cùng cấp bậc; cùng
nhập ngũ, cùng tuổi; nhóm mang tính chất gia đình, dòng họ; nhóm cùng điều
kiện, hoàn cảnh gia đình với tần suất liên hệ tương đối ngang bằng nhau (xem
Bảng 4.4). Với nhóm những người bạn là cấp trên (chức vụ cao hơn, thường lớn
tuổi hơn sĩ quan cấp úy) xuất hiện nhiều nhất ở chỉ báo liên hệ 1 tháng/lần.
Gọi điện thoại.So sánh tương quan loại hình cán bộ, theo kết quả phân
tích số liệu, cơ bản cán bộ quân sự là những người liên hệ nhiều hơn so với cán
bộ chính trị và hậu cần - kỹ thuật, trong đó ở các chỉ báo hàng ngày, 3-5 ngày/lần
và 1 tuần/lần đều có tỉ lệ giống nhau. Ở các chỉ báo 2-3 tuần/lần, 1 tháng/lần và
123
vài tháng/lần sĩ quan quân sự vẫn là nhóm liên hệ nhiều hơn so với sĩ quan chính
trị và hậu cần - kỹ thuật, mặc dù tần suất khác nhau (xem Bảng 4.5).
Bảng 4.5: So sánh tương quan loại hình cán bộ và hình thức, tần suất liên
hệ với bạn bè trong quân đội, đơn vị
Đơn vị tính %
Hình thức, tần suất liên hệ với
bạn bè trong quân đội, đơn vị
Loại hình cán bộ
Chính trị Quân sự Hậu cận-kỹ thuật Hình thức Tần suất
Gọi điện thoại Hàng ngày 39,2 52,2 8,6
3-5 ngày/lần 39,2 52,2 8,6
1 tuần/lần 39,2 52,2 8,6
2-3 tuần/lần 36,8 59,3 3,9
1 tháng/lần 40,0 53,9 6,1
Vài tháng/lần 44,0 48,0 8,0
Gọi điện thoại
có video
3-5 ngày/lần 47,6 45,2 7,1
1 tuần/lần. 45,0 48,8 6,2
2-3 tuần/lần 37,1 57,1 5,7
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, tháng 8 năm 2016.
Gọi điện thoại có video, vẫn ở tương quan so sánh loại hình cán bộ, ở
tần suất 3-5 ngày/lần, cán bộ chính trị có tỉ lệ liên hệ nhiều hơn so với cán bộ
quân sự và cán bộ hậu cần - kỹ thuật. Ở hai loại tần suất 1 tuần/lần và 2-3
tuần/lần sĩ quan quân sự chiếm tỉ lệ cao hơn, tuy nhiên sự chênh lệch so với sĩ
quan chính trị (xem Bảng 4.5).
Nhắn tin bằng điện thoại, so sánh cấp bậc quân hàm (xem Bảng 4.6) thấy,
ở chỉ báo hàng ngày và 3-5 ngày/tuần, nhóm sĩ quan có cấp bậc thượng úy có ti lệ
nhắn tin cao nhất; chỉ báo 2-3 lần/tháng thì nhóm trung úy chiếm lỉ lệ cao nhất. So
sánh riêng từng loại cấp bậc, nhóm có quân hàm thiếu úy chọn nhắn tin 2-3
lần/tháng cao hơn so với các chỉ báo khác; nhóm trung úy cũng ở chỉ báo 2-3
lần/tháng là nhiều nhất ; sĩ quan cấp thượng úy có tần suất nhắn tín nhiều hơn ở
chỉ báo 3-5 ngày/tuần; nhóm đại úy nhắn tin nhiều nhất ở chỉ báo hàng ngày.
124
Bảng 4.6: So sánh tương quan cấp bậc và hình thức, tần suất liên hệ với
bạn bè trong quân đội, đơn vị
Đơn vị tính %
Hình thức, tần suất liên hệ với bạn bè
trong quân đội, đơn vị
Cấp bậc
Thiếu úy Trung úy Thượng úy Đại úy Hình thức Tần suất
Nhắn tin bằng
điện thoại
Hàng ngày 19,8 31,5 35,8 12,9
3-5 ngày/tuần 19,4 33,3 36,6 10,6
2-3 lần/tháng 24,1 38,0 28,9 9,0
Thông qua
internet: facebook,
viber…
Hàng ngày 22,7 35,8 32,4 9,1
Hàng tuần 19,8 31,5 35,8 12,9
Hàng tháng 19,8 31,5 35,8 12,9
Hàng năm. 25,2 39,6 25,8 9,4
Gửi email Hàng tuần 66,7 12,5 20,8
Hàng tháng 19,5 33,5 36,3 10,7
Hàng năm 28,8 41,7 19,4 10,1
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, tháng 8 năm 2016.
Liên lạc thông qua mạng internet diễn ra khá phổ biến với tất cả sĩ
quan cấp úy khi so sánh tương quan cấp bậc. Kết nối ở tần suất hàng tuần và
hàng tháng có tỉ lệ giống nhau của các loại cấp bậc, trong đó cấp thượng úy
chiếm số lượng lớn nhất; tần suất liên hệ nhiều nhất (hàng ngày) và ít nhất
(thưa nhất) là hàng năm đều nằm ở nhóm cấp bậc trung úy khi chiếm tỉ trọng
nhiều nhất. So sánh cho từng cấp bậc, nhóm thiếu úy và trung úy liên hệ nhiều
nhất ở chỉ báo hàng năm; nhóm thượng úy và đại úy đều có chỉ báo là hàng
tuần và hàng tháng (xem Bảng 4.6).
Gửi mail chiếm tỉ trọng lớn nhất là nhóm có cấp bậc thiếu úy (ở tần suất
hàng tuần); số lượng lớn nhất ở mức độ hàng tháng thuộc nhóm thượng úy; ít
nhất (hàng năm), nhóm trung úy chiếm tỉ trọng lớn nhất. Nhóm đại úy liên hệ
với bạn bè trong quân đội ít nhất, trong các chỉ báo liên hệ thì ở tần suất hàng
tuần là lớn nhất cũng chỉ chiếm (xem Bảng 4.6).
125
Qua phân tích hình thức và tần suất liên hệ, có thể nhận thấy: nhóm gặp
gỡ nhiều nhất khi đi tranh thủ là nhóm có quan hệ gia đình, họ hàng, nhóm cùng
quê hương, cùng nhập ngũ; nhóm gặp gỡ tại đơn vị nhiều nhất là nhóm cùng
nghàng nghề, cùng cấp bậc quân hàm, nhóm cán bộ, chiến sĩ cấp dưới; liên lạc
thông qua internet nhóm có cấp bậc thiếu úy và trung úy sử dụng nhiều hơn,
nhóm đại úy ít sử dụng nhất. Những kiểu liên hệ này trên thực tế phù hợp với
tính chất, đặc thù nghề nghiệp, khoảng cách gia đình bố mẹ, vợ con, tâm lý lứa
tuổi của mỗi sĩ quan cấp úy.
Thời gian, nội dung liên hệ với bạn bè trong quân đội, đơn vị
Nhìn vào Bảng 4.7 thấy, nếu không vì công việc, nhiệm vụ, thì thời gian
liên hệ của sĩ quan cấp úy với bạn bè trong quân đội, đơn vị chủ yếu diễn ra vào
ngày, giờ nghỉ. Đó là khoảng thời gian nghỉ ngơi, rảnh rỗi tại đơn vị, lúc này mọi
quân nhân mới có điều kiện vui chơi, giải trí, thăm hỏi, gặp gỡ, liên hoan… mang
tính chất cá nhân, riêng tư sau những ngày, giờ lao động, học tập, công tác cẳng
thẳng, vất vả. Số liệu điều tra cho thấy có 70,7% cho rằng liên hệ vào ngày nghỉ;
trong khi đó số lượng liên hệ vào giờ nghỉ (diễn ra cả trong ngày làm việc) là
19,0%. Tần suất liên hệ thấp nhất là vào giờ và ngày làm việc. Số liệu trên khẳng
định ngày, giờ làm việc, sĩ quan cấp úy thực hiện nhiệm vụ rất liên tục và căng
thẳng, hầu như không nghỉ ngơi, thư giãn trong lúc làm việc. Liên hệ này (mang
tính chất cá nhân, riêng tư) chỉ thực sự diễn ra khi đến giờ nghỉ, ngày nghỉ. Đây
cũng chính là đặc thù hoạt động của nghề nghiệp quân sự.
Bảng 4.7: Tương quan thời gian, nội dung liên hệ của sĩ quan cấp úy với
bạn bè trong quân đội và gia đình bố mẹ đẻ, bố mẹ vợ, vợ, con
Đơn vị tính %
Thời gian và nội dung liên hệ Bạn bè trong
quân đội
Gia đình
bố mẹ đẻ
Gia đình
bố mẹ vợ
Gia đình
vợ, con
Thời gian
diễn ra liên
hệ
Giờ nghỉ 19,0 68,1 97,0 79,8
Ngày nghỉ 70,7 23,3 3,0 20,2
Giờ, ngày làm việc 10,3 8,6
126
Nội dung
liên hệ
Kinh tế 7,3 17,2 21,4 53,6
Chính trị 23,3 8,2 10,7 13,1
Tình cảm 30,2 74,6 67,9 33,3
Giao lưu, giải trí 39,2
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, tháng 8 năm 2016.
Nội dung liên hệ diễn ra trên tất cả các lĩnh vực, nhưng phổ biến nhất là
dành cho lĩnh vực giao lưu, giải trí, tiếp theo là lĩnh vực tình cảm như thăm hỏi,
động viện, chia sẻ, giúp đỡ nhau trong cuộc sống. So sánh với gia đình bố mẹ
đẻ, bố mẹ vợ và vợ, con, thì lĩnh vực liên hệ về kinh tế giảm đi rất nhiều; nhưng
ngược lại, ở lĩnh vực liên quan đến chính trị (chủ yếu là định hướng, tư vấn, giúp
đỡ, động viên nhau cùng tiến bộ) thì lại cao hơn rất nhiều (xem Bảng 4.7). Có
thể khẳng định, những khác biệt về thời gian và nội dung liên hệ giữa bạn bè
trong quân đội với các loại gia đình như Bảng 4.7 chỉ ra là do đặc thù nghề
nghiệp và khoảng cách địa lý là chính.
4.2.2. Mạng lưới xã hội bạn bè ngoài quân đội, đơn vị
Sĩ quan cấp úy là cán bộ lãnh đạo, chỉ huy cấp phân đội, do đó họ là người
trực tiếp tiếp xúc, quan hệ với cấp ủy đảng, chính quyền và tổ chức, đoàn thể
chính trị - xã hội nơi đơn vị đóng quân; quan hệ với nhân dân địa phương tại địa
bàn đóng quân trong quá trình phối hợp, hiệp đồng công tác của đơn vị (quan hệ
phối thuộc). Bên cạnh đó, với tính cách là con người xã hội, sĩ quan cấp úy cũng
có nhu cầu quan hệ cá nhân, riêng tư (quan hệ dân sự) với các cá nhân và nhóm,
tổ chức bên ngoài quân đội. Do đó, mạng lưới xã hội ngoài quân đội, đơn vị của
nhóm sĩ quan cấp úy vừa mang tính tổ chức, tính chức năng (sĩ quan cấp úy với
tư cách là người đại diện cho tổ chức, đơn vị), vừa mang tính cá nhân, vừa phi
chức năng. Đồng thời, với sự phát triển của khoa học công nghệ thông tin hiện
nay, sĩ quan cấp úy còn có quan hệ xã hội với những bạn bè khác trên phạm vi
rất rộng (toàn quốc, thậm chí quốc tế) thông qua kết bạn trên internet: facebook,
yahoo, zalo… Các quan hệ xã hội này luôn đan xen, đan cài vào nhau trong thực
hiện nhiệm vụ và trong sinh hoạt giao lưu hàng ngày (vừa mang tính hợp tác,
phối hợp công tác; vừa mang tính thăm hỏi, gặp gỡ, giao lưu tình cảm).
127
Hình thức, tần suất giao tiếp với bạn bè ngoài quân đội, đơn vị
Bảng 4.8 cho thấy, gặp gỡ khi về phép, trên thực tế, đây là hình thức hầu
như không diễn ra, bởi vì khi được về phép sĩ quan cấp úy đều về gia đình, dành
thời gian cho gia đình (khi chưa có gia đình riêng là bố mẹ đẻ; khi có gia đình
riêng là vợ, con), do đó tần suất xuất hiện này rất thấp, chủ yếu là với những
đồng chí lấy vợ là người địa phương nơi đơn vị đóng quân và đều gặp gỡ với
bạn bè là người địa phương. Ở một hình thức khác là gặp gỡ khi đi tranh thủ, với
bạn bè là người địa phương, xuất hiện ở tất cả các tần suất, trong đó lớn nhất là
(ở tần suất 1 tháng/lần); với bạn bè thông qua internet cũng lớn nhất ở tần suất
này, nhưng so với bạn là người địa phương thì rất thấp, không đáng kể. Gặp gỡ
tại đơn vị, do tính chất đặc thù của hoạt động quân sự, hình thức này gần như
không diễn ra. Với bạn bè địa phương nơi đóng quân, tần suất gặp gỡ nhiều nhất
là khoảng thời gian 1 năm/lần (nhưng cũng chỉ chiếm 11,6%); có đến trên 2/3
(77,2%) khẳng định chưa bao giờ gặp gỡ bạn địa phương tại đơn vị. Với bạn qua
internet, 100,0% chưa bao giờ gặp tại đơn vị.
Bảng 4.8: Hình thức, tần suất liên hệ với bạn bè ngoài quân đội, đơn vị
sau khi nhập ngũ
Đơn vị tính %
Hình thức, tần suất liên hệ với bạn bè
ngoài quân đội sau khi nhập ngũ
Các loại bạn bè
Người địa phương Thông qua internet Hình thức Tần suất
Gặp gỡ khi về
phép
1 năm/lần 7,3
2 năm trở lên/lần 10,8
Gặp gỡ khi đi
tranh thủ
1 tuần/lần 5,2
2 tuần/lần 3,0
3 tuần/lần 10,8 3,0
1 tháng/lần 46,1 5,2
1,5 tháng/lần 27,2
2 tháng/lần 7,8
128
Gặp gỡ tại đơn vị 1-3 tháng/lần 3,0
4-6 tháng/lần 8,2
1 năm/lần 11,6
Chưa bao giờ 77,2
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, tháng 8 năm 2016.
Bảng 4.9 cho thấy, gọi điện thoại là hình thức phổ biến với bạn bè ngoài
quân đội, đơn vị sau nhập ngũ. So sánh tương quan loại hình cán bộ cho thấy, về
cơ bản, sĩ quan quân sự có tỉ lệ liên hệ cao hơn so với sĩ quan chính trị và sĩ quan
hậu cần - kỹ thuật ở tất cả các tần suất. So sánh trong từng loại hình cán bộ, với
sĩ quan chính trị và sĩ quan hậu cần - kỹ thuật tần suất liên lạc nhiều nhất là ở chỉ
báo 2-3 tuần/lần; nhóm sĩ quan quân sự 1 tuần/lần. Với loại hình gọi điện thoại
có video cũng được sĩ quan cấp úy sử dụng để liên hệ và có tỉ lệ chung tương đối
giống so với gọi điện thoại. Tức là cơ bản nhóm sĩ quan quân sự có liên lạc
nhiều hơn so với nhóm sĩ quan chính trị và hậu cần - kỹ thuật ở tất cả các chỉ
báo. Tuy nhiên, so sánh từng loại hình nghề nghiệp cụ thể thì sự lựa chọn của
các nhóm sĩ quan khác nhau, cụ thể nhóm chính trị liên lạc nhiều ở chỉ báo hàng
ngày; nhóm quân sự nhiều nhất là 1 tuần/lần; trong khi đó nhóm hậu cần - kỹ
thuật lại tập trung nhiều ở chỉ báo 2-3 tuần/lần.
Bảng 4.9: Tương quan loại hình cán bộ và hình thức, tần suất liên hệ với
bạn bè ngoài quân đội, đơn vị sau khi nhập ngũ
Đơn vị tính %
Hình thức, tần suất liên hệ với
bạn bè ngoài quân đội, đơn vị
sau khi nhập ngũ
Loại hình cán bộ
Chính trị Quân sự Hậu cận-kỹ thuật
Hình thức Tần suất
Gọi điện thoại 3-5 ngày/lần 28,6 57,1 14,3
1 tuần/lần 34,5 58,6 6,9
2-3 tuần/lần 44,9 46,9 8,2
1 tháng/lần 43,4 50,0 6,6
Vài tháng/lần 39,3 54,9 5,7
129
1 năm trở lên/lần 41,8 53,2 5,1
Gọi điện thoại
có video
Hàng ngày 44,9 46,9 8,2
3-5 lần/tuần 37,5 53,1 9,4
1 tuần/lần 25,0 66,7 8,3
2-3 tuần/lần 28,6 57,1 14,3
Nhắn tin bằng
điện thoại
Hàng ngày 35,3 52,9 11,8
3-5 lần/tuần 48,9 42,2 8,9
2-3 lần/tháng 42,5 50,7 6,8
1 năm trở lên/lần 39,2 52,2 8,6
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, tháng 8 năm 2016.
Nhắn tin qua điện thoại được tất cả các nhóm sử dụng, trong đó tần suất
nhiều nhất với từng nhóm là: sĩ quan chính trị (3-5 lần/tuần); sĩ quan quân sự và
hậu cần - kỹ thuật (1 năm trở lên/ lần) (xem Bảng 4.9).
Liên hệ thông qua internet (xem Bảng 4.10), là hình thức phổ biến với
tất cả sĩ quan cấp úy hiện nay. So sánh cấp bậc, ở tần suất hàng ngày, chỉ có
liên hệ với nhóm bạn thông qua internet, trong đó cấp thiếu úy là nhóm có tỉ lệ
cao nhất; ở tần suất hàng tuần, cấp có liên hệ nhiều nhất là đại úy (với bạn bè là
người địa phương), cấp thượng úy lại có liên lạc nhiều nhất với bạn internet; tần
suất hàng tháng (với bạn internet), thiếu úy là nhóm chiếm tỉ lệ cao nhất, hai
nhóm có tỉ lệ tương đồng là thượng úy và đại úy; chỉ báo hàng năm, nhóm thiếu
úy có liên hệ với bạn cùng địa phương nơi công tác cao nhất, liên lạc với bạn
internet, nhóm thượng úy chiếm tỉ lệ cao nhất.
Bảng 4.10: Tương quan cấp bậc và hình thức, tần suất liên hệ với bạn bè
ngoài quân đội, đơn vị sau khi nhập ngũ
Đơn vị tính %
Tương quan cấp bậc và hình thức, tần suất
liên hệ với bạn bè ngoài quân đội sau khi
nhập ngũ
Cấp bậc
Thiếu úy Trung úy Thượng úy Đại úy
Hình thức, tần suất Các loại bạn bè
Thông qua Hàng ngày Thông qua internet 57,9 15,8 26,3
130
internet:
facebook,
viber…
Hàng tuần Địa phương công tác 77,5 31,7 27,0 86,7
Thông qua internet 22,5 68,3 73,0 13,3
Hàng tháng Địa phương công tác 42,9 ,0 42,9 42,9
Thông qua internet 57,1 100,0 57,1 57,1
Hàng năm Địa phương công tác 100,0 79,1 25,0 81,2
Thông qua internet ,0 20,9 75,0 18,8
Gửi email Hàng năm Địa phương công tác 83,3 66,7
Thông qua internet 16,7 33,3
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, tháng 8 năm 2016.
Gửi mail, hình thức này không phổ biến, do vậy chỉ có ở tần suất hàng
năm và với tỉ lệ không đáng kể, chỉ có ở liên lạc với nhóm thiếu úy và nhóm
đại úy cùng với bạn địa phương và bạn internet (xem Bảng 4.10).
Như vậy, qua phân tích số liệu trên cho thấy sĩ quan cấp úy gặp gỡ
bạn là người địa phương nhiều hơn so với bạn thông qua internet ; giao
tiếp gián tiếp thông qua điện thoại thì bạn qua internet chiếm số lượng
nhiều hơn bạn là người địa phương.
Thời gian, nội dung liên hệ với bạn bè ngoài đội, đơn vị
Thời gian liên hệ. Bảng 4.11 cho thấy, với bạn bè là người địa phương nơi
đơn vị đóng quân, địa bàn hoạt động, thời gian liên hệ chủ yếu diễn ra vào ngày
nghỉ. Với bạn bè thông qua internet chủ yếu diễn ra vào giờ nghỉ (gồm cả giờ
nghỉ của những ngày làm việc). Đáng chú ý, với nhóm là người địa phương nơi
đơn vị công tác, thời gian liên hệ còn diễn ra cả vào ngày làm việc, huấn luyện.
Mặc dù tỉ lệ không nhiều, nhưng như chia sẻ của một số sĩ quan cấp úy rằng, đó
chính là khi họ thực hiện nhiệm vụ công tác dân vận (giúp đỡ và tuyên truyền
vận động), công tác phối hợp hiệp đồng với địa phương (huấn luyện, diễn tập
chiến đấu, phòng, chống thiên tai).
131
Bảng 4.11: Thời gian, nội dung liên hệ với bạn bè ngoài quân đội, đơn vị
sau khi nhập ngũ
Đơn vị tính % Thời gian, nội dung liên hệ với bạn bè
ngoài quân đội sau khi nhập ngũ
Các loại bạn bè
Người địa phương Thông qua internet
Thời gian diễn ra
liên hệ
Giờ nghỉ 14,7 81,0
Ngày nghỉ 79,3 19,0
Giờ làm việc 6,0
Nội dung liên hệ Kinh tế 19,8 30,2
Chính tri 5,2
Tình cảm 34,5 31,9
Giao lưu, giải trí 40,5 37,1
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, tháng 8 năm 2016.
Nội dung liên hệ. Với bạn bè địa phương diễn ra trên tất cả các lĩnh vực,
trong đó cao nhất là giao lưu, giải trí. Với bạn bè qua internet diễn ra trên ba
lĩnh vực kinh tế, tình cảm và giao lưu giải trí. Đáng chú ý so với bạn bè địa
phương thì bạn qua internet không đề cập đến lĩnh vực chính trị, song lĩnh vực
kinh tế thì lại có tỉ lệ cao hơn (xem Bảng 4.11).
So sánh mạng lưới xã hội bạn bè trước và sau nhập ngũ của sĩ quan cấp úy
(mục 4.1 và 4.2) thấy có sự khác biệt là: bạn bè trước khi nhập ngũ có xu hướng
thu hẹp (ít quan hệ hơn, quan hệ lỏng đi so với trước); bạn bè sau khi nhập ngũ
có xu hướng mở rộng về phạm vi, tính chất quan hệ chặt chẽ.
"So sánh về số lượng và mật độ liên hệ của sĩ quan cấp úy hiện nay
với bạn bè trước và sau khi nhập ngũ có thể khẳng định, số lượng và
mật độ liên hệ với bạn bè sau nhập ngũ nhiều hơn trước nhập ngũ.
Điều này cũng phù hợp với đặc thù, tính chất nghề nghiệp và cũng dễ
giải thích với hai lý do: tương đồng về nghề nghiệp và gần gũi về
khoảng cách địa lý. Với bạn bè trước khi nhập ngũ, do khoảng cách
về địa lý thường là xa nhau, đặc thù nghề nghiệp cũng thường là khác
nhau, do thời gian bận rộn.v.v… nên ít có điều kiện gặp nhau, vì vậy
mức độ dành thời gian quan tâm đến nhau ít hơn". (PVS: Thượng úy,
Chính trị viên đại đội).
132
4.3. TÁC ĐỘNG CỦA MẠNG LƯỚI XÃ HỘI BẠN BÈ ĐỐI VỚI SĨ QUAN CẤP ÚY
Mạng lưới xã hội bạn bè là một loại hình quan hệ xã hội chủ yếu của sĩ
quan cấp úy. Họ có bạn bè trước khi nhập ngũ và sau khi nhập ngũ. Cùng với
mạng lưới xã hội gia đình, mạng lưới xã hội bạn bè tác động rất lớn đến quá
trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ và quá trình hình thành, phát triển, phát huy
phẩm chất người sĩ quan quân đội của sĩ quan cấp úy.
4.3.1. Hình thành các nhóm phi chính thức của sĩ quan cấp úy
Con người xã hội luôn có nhu cầu giao tiếp, hợp tác với những người
khác từ đó hình thành nên các nhóm xã hội. Theo I. Robertsons, nhóm xã hội là
một tập hợp người có sự liên hệ với nhau về vị thế, vị trí, vai trò, nhu cầu, lợi ích,
và tính định hướng giá trị xã hội nhằm đáp ứng một nhu cầu nhất định. Nhóm xã
hội phản ánh tính đa dạng, phức tạp trong cấu trúc của hệ thống xã hội, phản ánh
xã hội luôn trong trạng thái vận động, biến đổi phức tạp.
Mỗi con người, thông qua mạng lưới xã hội để kết bạn, trở thành thành
viên của một nhóm xã hội. Nhóm xã hội phản ánh kết quả các liên hệ xã hội của
mỗi cá nhân và là một phần của mạng lưới xã hội. Nhóm xã hội được hình thành
thông qua các quan hệ xã hội. Thông qua mạng lưới xã hội bạn bè, sĩ quan cấp
úy tham gia các nhóm xã hội, thành viên của một số nhóm xã hội phi chính thức.
Với bạn bè trước khi nhập ngũ. Quan hệ xã hội của sĩ quan cấp úy với
những bạn bè gắn với tuổi thơ, quê hương vẫn được duy trì, nhất là những nhóm
bạn là hàng xóm, bạn học phổ thông các cấp. Trong quan hệ xã hội của sĩ quan
cấp úy ở đơn vị hiện nay, mối quan hệ với bạn bè trước nhập ngũ thuộc quan hệ
phi chính thức. Bên cạnh đó, khoảng cách về địa lý, tính chất đặc thù nghề
nghiệp (thường là khác nghề nghiệp), v.v… nên sĩ quan cấp úy với nhóm bạn
này ít có điều kiện gặp nhau, vì vậy mức độ dành thời gian quan tâm đến nhau ít
hơn, do đó tần suất liên lạc với nhau cũng ít, mặc dù vẫn duy trì quan hệ với
nhau. Tất cả những yếu tố đó làm cho mạng lưới xã hội này bị thu hẹp hơn rất
nhiều so với thời điểm trước khi nhập ngũ. Đây cũng là điều bình thường và phù
hợp với điều kiện công tác, sinh hoạt trong quân đội của nhóm sĩ quan cấp úy
133
hiện nay. Với những điều kiện như vậy có thể khẳng định: liên hệ với nhóm bạn
bè trước khi nhập ngũ của sĩ quan cấp úy ngày càng suy giảm, sự liên kết giữa
họ và bạn bè trước khi nhập ngũ ngày càng lỏng.
Với bạn bè trong quân đội, đơn vị. Cùng với các nhóm bạn bè mang tính
phổ biến và "truyền thống" như cùng quê, cùng học phổ thông các cấp, cùng nhập
ngũ, cùng sở thích… ở môi trường hoạt động quân sự, mạng lưới xã hội của sĩ
quan cấp úy hiện nay còn xuất hiện những nhóm bạn mới, "Nó không chỉ là các
nhóm dựa trên dấu hiệu mang tính "truyền thống" như cùng quê, cùng học,… mà
có các nhóm dựa trên dấu hiệu mang tính "phân tầng", "thị trường": nhóm cấp,
chức, nhóm cùng hoàn cảnh sống, nhóm có cùng lợi ích, nhóm cờ bạc, rượu chè.
Sự hình thành các nhóm phi chính thức trong đội ngũ sĩ quan ở đơn vị cơ sở cho
thấy dấu hiệu của sự "phân hóa" trong đội ngũ sĩ quan" [56, tr. 87-88].
"Ở đơn vị hiện nay, trong nhóm sĩ quan cấp úy đã và đang hình thành
các nhóm xã hội đa dạng với kiểu loại, tính chất và mức độ khác
nhau, đáng chú ý đó là các nhóm xã hội như nhóm đồng hương; nhóm
đồng môn; nhóm cùng nơi cư trú; nhóm cùng cấp, chức; nhóm cùng
hoàn cảnh sống, nhóm có cùng lợi ích; nhóm cùng sở thích, thiên
hướng, nhóm cùng dân tộc, thể thao, rượu chè… Về tính chất của các
quan hệ xã hội có những dấu hiệu mới mang tính "phân tầng", "thị
trường". Những quan hệ này đôi khi phá vỡ những quan hệ truyền
thống tốt đẹp và đe dọa đến sự ổn định của đơn vị, đặc biệt là rất khó
khăn trong việc kiểm soát và quản lý loại quan hệ này". (PVS: Thiếu
tá, Phó Tiểu đoàn trưởng quân sự).
Kết quả phân tích trên cũng phù hợp với nhận định: "Quân nhân ở các đơn
vị cơ sở đã xuất hiện quan hệ mang tính "phân hóa", dựa trên mức sống. Những
quân nhân mà gia đình có điều kiện sinh hoạt vật chất khá hơn chơi thân với
nhau" [56, tr. 81]. Như thế, sự tham gia các nhóm phi chính thức của sĩ quan cấp
úy trong quân đội, đơn vị khá đa dạng. Nó phản ánh sự phức tạp trong đời sống
tinh thần của sĩ quan cấp úy. Sự hình thành các nhóm phi chính thức của sĩ quan
134
cấp úy trong quân đội, đơn vị tiềm ẩn nguy cơ làm rạn nứt sự đoàn kết, thống
nhất trong đơn vị, suy giảm tình đồng chí đồng đội - nét đẹp văn hóa truyền
thống của quân đội.
Với bạn bè ngoài quân đội, đơn vị, với tính cách là con người xã hội, sĩ
quan cấp úy cũng có nhu cầu quan hệ cá nhân, riêng tư (quan hệ dân sự) với các
cá nhân và nhóm, tổ chức bên ngoài quân đội. Do đó, hình thành mạng lưới xã
hội phi chức năng ngoài quân đội, đơn vị. Bên cạnh đó, thông qua sự phát triển
của khoa học công nghệ thông tin hiện nay, sĩ quan cấp úy còn có quan hệ xã hội
phi chức năng khác với những bạn bè khác trên phạm vi rất rộng qua kết nối
internet: facebook, yahoo, zalo… Trong điều kiện thời bình, dân chủ hóa đời
sống xã hội, kinh tế thị trường hiện nay, quan hệ xã hội của sĩ quan cấp úy với
bạn bè ngoài quân đội, đơn vị khá đa dạng, phức tạp. Những quan hệ xã hội này
đều bắt nguồn từ nhu cầu của mỗi cá nhân sĩ quan cấp úy với nhu cầu của từng
người dân, nên nó mang đủ màu sắc chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Theo đó,
sĩ quan cấp úy tham gia nhiều nhóm xã hội phi chính thức bên ngoài quân đội,
đơn vị. Nhóm xã hội mà sĩ quan cấp úy tham gia nhiều nhất là các nhóm xã hội
có yếu tố kinh tế (các tổ chức kinh tế phi chính thức, buôn bán,…), văn hóa (các
nhóm văn nghệ, thể thao,…), xã hội (các hội xã hội, nhóm cờ bạc,…). Số lượng
sĩ quan cấp úy tham gia các nhóm xã hội phi chính thức bên ngoài quân đội, đơn
vị tùy thuộc vào từng thời điểm và địa bàn đóng quân. Nhìn chung, số lượng
không nhiều nhưng mang tính phổ biến. Nó cho thấy tính đa dạng. phức tạp
mạng lưới xã hội bạn bè của sĩ quan cấp úy.
Hiện nay, phần đông sĩ quan có gia đình vợ con ở gần nơi đơn vị đóng
quân. Do đó, ngoài quan hệ của những người cùng quê hương, còn có quan hệ
giữa những người cùng nơi cư trú, hình thành các nhóm xã hội cùng nơi cư trú
với gia đình. Đây là nhóm xã hội có vị trí, vai trò chi phối tính chất các quan hệ
xã hội, các nhóm xã hội chính thức và phi chính thức trong đơn vị [56, tr. 88].
Thông qua mạng lưới xã hội bạn bè sĩ quan cấp úy tham gia nhiều nhóm xã
hội phi chính thức bên ngoài quân đội, đơn vị. Mức độ và tính chất tham gia các
135
nhóm xã hội phi chính thức bên ngoài quân đội, đơn vị tùy thuộc vào mạng xã hội
bạn bè của mỗi sĩ quan, vào tính chất nhiệm vụ ở từng thời điểm,… Nó diễn ra
thường xuyên nhưng thường đứt đoạn, với mức độ lỏng chặt khác nhau tùy thuộc
vào mức độ đáp ứng nhu cầu, lợi ích của nhóm mang lại cho sĩ quan cấp úy. Dù
mức độ tham gia các nhóm xã hội phi chính thức bên ngoài quân đội, đơn vị khác
nhau nhưng sự tác động của các nhóm xã hội này đến việc thực hiện chức năng,
nhiệm vụ, hình thành, phát huy phẩm chất con người xã hội của sĩ quan cấp úy
không nhỏ. Sự tác động đó theo hai chiều tích cực và tiêu cực.
4.3.2. Tác động của mạng lưới xã hội bạn bè đến việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ chỉ huy, quản lý của sĩ quan cấp úy
Khi bàn về quan hệ xã hội trong tổ chức, Max Weber đã đưa ra quan niệm
về "thống trị" hợp pháp với nghĩa là hình thức, tính chất của quan hệ xã hội. Sự
"thống trị" hợp pháp được hiểu trong mối quan hệ giữa ra lệnh và phục tùng
[90]. Lý thuyết tổ chức xã hội của Max Weber được vận dụng vào nghiên cứu tổ
chức quân đội cho thấy, quân đội là một tổ chức xã hội đặc biệt và là tổ chức
mang tính đặc thù; tính tổ chức, tính kỷ luật trong quân đội đã cho thấy quân đội
là một kiểu tổ chức quyền lực. Nó là một yếu tố trong cơ cấu tổ chức của quân
đội và mang tính chức năng. Vị trí chỉ huy tạo cho sĩ quan - người chỉ huy một
quyền lực để thực hiện vai trò, chức năng chỉ huy trong phạm vi, quyền lực cho
phép [55]. Như vậy, quyền lực của người sĩ quan - chỉ huy trong quân đội là
quyền lực hợp pháp dựa trên những quy phạm pháp luật. Đồng thời, quyền lực
của người chỉ huy là quyền lực hợp pháp được kết hợp, hoà quyện với quyền lực
dựa trên sự gương mẫu và quyền lực dựa trên truyền thống văn hoá của quân
đội, dựa trên tình đồng chí đồng đội.
Do vậy, nghiên cứu về mạng lưới xã hội bạn bè của sĩ quan cấp úy phải
đặt trong mối quan hệ với xã hội mà quân đội là một yếu tố trong đó. Bao gồm,
(1) các quan hệ xã hội với các yếu tố bên trong hệ thống (được quy chuẩn hóa
thông qua hệ thống thiết chế, điều lệnh, điều lệ và các quy định của đơn vị); (2)
các quan hệ xã hội với các yếu tố bên ngoài hệ thống (là những quan hệ phi
136
chính thức bao gồm cả bên trong và bên ngoài quân đội). Căn cứ tính chất của tổ
chức; chức năng nhiệm vụ của sĩ quan cấp úy để xác định tính chất, nội dung,
phương thức liên hệ, quan hệ của sĩ quan cấp úy với các mạng lưới xã hội đó
như thế nào; mạng lưới xã hội này tác động tới chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo,
chỉ huy của họ ra ra sao.
Như vậy, nghiên cứu lý thuyết tổ chức xã hội của M. Weber và sự vận
dụng đối với vấn đề lãnh đạo, chỉ huy của sĩ quan cấp úy hiện nay có vai trò
quan trọng góp phần nâng cao năng lực chỉ huy, quản lý; đồng thời hạn chế các
biểu hiện tiêu cực trong quá trình quản lý, chỉ huy (quan liêu, quân phiệt, hách
dịch, mệnh lệnh, cửa quyền, cục bộ, cực đoan, máy móc, tuỳ tiện, đơn giản, thiếu
thông tin…). Đi vào tìm hiểu tác động của mạng lưới xã hội bạn bè đến chức
năng, nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ huy của sĩ quan cấp úy với các nhóm bạn như sau:
Với bạn bè trước khi nhập ngũ. Như phân tích ở mục 4.3.1, do tính chất
đặc thù nghề nghiệp (thường là khác nghề nghiệp), thời gian bận rộn.v.v… nên
sĩ quan cấp úy và bạn bè trước nhập ngũ ít có điều kiện gặp nhau, vì vậy mức độ
dành thời gian quan tâm đến nhau ít hơn, do đó tần suất liên lạc với nhau cũng ít.
Với tính chất quan hệ như vậy, có thể nói đây là những liên hệ yếu (không
thường xuyên, liên tục, có thể ngắt quãng), quan hệ lỏng lẻo, rất dễ mất, đứt liên
lạc (thích thì liên hệ, không thích thì thôi). Vì vậy, sự ảnh hưởng của mạng lưới
xã hội này đối với nhóm sĩ quan cấp úy là không đáng kể, thậm chí không có ảnh
hưởng gì nhiều tới quá trình công tác trong quân đội.
Với bạn bè trong quân đội, đơn vị. Do tính chất công việc, lại cùng công
tác với nhau trong quân đội, đơn vị, do vậy sự ảnh hưởng của sĩ quan cấp úy với
bạn bè trong quân đội rất lớn, nhất là những nhóm bạn như cấp trên, cùng ngành
nghề, cùng cấp bậc, cùng có quan hệ gia đình, họ hàng. Điều này được minh
chứng ở ba nhóm thường được hỏi ý kiến tham khảo nhiều nhất khi sĩ quan cấp
úy cần tư vấn, giúp đỡ (như định hướng học tập, phấn đấu…) là nhóm bạn bè có
quan hệ gia đình, họ hàng; nhóm cùng ngành nghề chuyên môn nghiệp vụ; nhóm
cùng cấp, chức. Ba nhóm được sĩ quan cấp úy lựa chọn, tiếp thu ý kiến đông
137
nhất, tỉ lệ lần lượt là nhóm mang tính chất gia đình, họ hàng; nhóm cùng loại
hình ngành nghề; nhóm là cấp trên. Ở chỉ báo ai là người có ảnh hưởng nhiều
nhất, quan trọng nhất, ba nhóm có tỉ lệ cao nhất là nhóm cùng nghề nghiệp,
nhóm cấp trên, nhóm gia đình (xem Bảng 4.12).
Bảng 4.12: Ảnh hưởng của bạn bè trong quân đội, đơn vị
Đơn vị tính %
Ảnh hưởng của bạn
bè trong quân đội,
đơn vị
Các loại bạn bè
Cấp
trên
Cùng
cấp
bậc,
chức
vụ
Cùng
loại
hình
nghề
Cùng
nhập
ngũ,
tuổi
Cấp
dưới
Cùng
quê
hương
Mang
tính
chất
gia
đình
Cùng
sở
thích
Cùng
điều
kiện
gia
đình
Khi có công việc cần
xin ý kiến thì tham
khảo ý kiến của ai là
chủ yếu
4,3 15,9 19,0 9,1 3,4 11,6 25,9 9,1 1,7
Thường nghe theo ý
kiến của ai 12,9 6,9 18,1 10,3 2,6 3,9 38,8 3,9 2,6
Ai là người có ảnh
hưởng nhất 30,2 1,7 32,8 3,4 3,0 20,7 2,2 6,0
Nguồn: Điều tra, khảo sát của tác giả luận án, tháng 8 năm 2016.
Như vậy, các quan hệ xã hội với bạn bè trong quân đội của nhóm sĩ quan
cấp úy tại đơn vị hiện nay phong phú, đa dạng. Đây là một yếu tố, nguồn cổ vũ,
động viên tinh thần to lớn giúp sĩ quan cấp úy hoàn thành tốt nhiệm vụ, đồng thời
cũng có thể tạo ra cho sĩ quan cấp úy sự “phân tâm” trong thực hiện chức trách,
nhiệm vụ nếu bạn bè trong quân đội, đơn vị không làm tốt vai trò, có những lệch
lạc trong hành vi. Nhóm bạn trong quân đội, đơn vị tạo ra áp lực xã hội rất lớn
buộc mỗi sĩ quan cấp úy phải tuân theo, có thể có cả việc không thực hiện nghiêm
138
mệnh lệnh của cấp trên và quân phiệt với cấp dưới. “Trong nhóm sĩ quan cấp úy
hiện nay còn có hiện tượng gia trưởng, ứng xử với cấp dưới, nhất là với chiến sĩ
chưa đúng chuẩn mực quân nhân” [31, tr. 60]. Mạng lưới xã hội bạn bè trong quân
đội, đơn vị tạo ra sự liên kết mạnh, tác động rất lớn đến nhận thức, thái độ, hành
vi, đến thực hiện vai trò chỉ huy, quản lý của mỗi sĩ quan cấp úy.
Với bạn bè ngoài quân đội, đơn vị. Thông qua mối quan hệ với bạn bè
ngoài quân đội, đơn vị, sĩ quan cấp úy có nhiều thuận lợi trong việc giải quyết các
mối quan hệ có liên quan đến công việc, nhiệm vụ của bản thân và đơn vị. Quá
trình thực hiện quan hệ này, nhóm sĩ quan cấp úy tạo sự tin cậy của Đảng uỷ,
chính quyền và các đoàn thể và cá nhân ở địa phương đối với uy tín, danh dự,
phẩm chất sĩ quan quân đội của mình, từ đó tạo ra thuận lợi trong các mối quan hệ
cả bề rộng lẫn chiều sâu tích hợp thành một mạng lưới quan hệ xã hội có ích cho
cá nhân và cho cả đơn vị, phục vụ cho những động cơ, và mục đích chính đáng
trong quan hệ công tác mình, nhất là trong quá trình lãnh đạo, chỉ huy đơn vị trong
thực hiện nhiệm vụ phối, kết hợp với địa phương trong diễn tập phòng thủ khu
vực, phòng chống thiên tai… sĩ quan cấp úy đã nhận được sự giúp đỡ chu đáo, tận
tình, kịp thời của các các nhân bên ngoài quân đội để hoàn thành nhiệm vụ được
giao. Thông qua mạng xã hội bạn bè ngoài quân đội sĩ quan cấp úy đã tạo dựng
được những điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ; đồng
thời, họ cũng đã góp phần vào củng cố mối quan hệ giữa quân đội và nhân dân.
“Hiện nay, quan hệ giữa sĩ quan cấp úy với nhân dân nơi đóng quân, địa bàn hoạt
động và nơi cư trú rất tốt, đúng với bản chất, truyền thống của quân đội”; “Bằng
việc làm theo chức trách của mình và sự ứng xử đúng chuẩn mực đối với nhân
dân, sĩ quan cấp úy đã góp phần thắt chặt quan hệ máu thịt giữa quân đội và nhân
dân trong điều kiện mới” [31, tr.62, 63].
Trong quá trình mở rộng liên hệ xã hội bên ngoài quân đội, đơn vị cũng đã
có sĩ quan cấp úy bị lôi cuốn vào những hoạt động tiêu cực, không đúng với chuẩn
mực quân nhân, thậm chí có những sai lệch chuẩn mực pháp luật. “Có những lúc,
139
những nơi, một vài sĩ quan cấp úy ứng xử chưa đúng chuẩn mực đối với nhân
dân” [31, tr. 63]. Trên thực tế, cũng đã có một vài sĩ quan cấp úy sa vào các tệ nạn
xã hội như buôn lậu, cờ bạc, rượu chè bê tha, chơi hụi họ,… Hành vi đó đã làm
suy giảm biểu trưng, biểu tượng trong nhân dân về phẩm chất người sĩ quan quân
đội. Nó góp thêm vào sự phức tạp tình hình trật tự, trị an của địa phương, gây ra
những khó khăn trở ngại cho địa phương trong việc bài trừ các tệ nạn xã hội, xây
dựng đời sống mới ở thôn bản, khu dân cư [56, tr. 83, 84].
4.3.3. Tác động của mạng lưới xã hội bạn bè đến việc hình thành,
phát huy phẩm chất con người xã hội của sĩ quan cấp úy
"Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam là những cá nhân, con người xã hội
cụ thể nên họ cũng có những mối quan hệ nhất định từ gia đình, họ hàng bạn bè
trước khi nhập ngũ; sau khi nhập ngũ, họ có thêm các mối quan hệ ở đơn vị bao
gồm cả những quan hệ chính thức (được quy định rõ trong điều lệnh, điều lệ
quân đội như đồng chí, đồng đội, cấp trên, cấp dưới…) và quan hệ không chính
thức (đồng niên, cùng quê hương, cùng nhập ngũ, cùng sở thích, cùng điều kiện
hoàn cảnh…); ngoài ra, còn có các quan hệ với các cá nhân và tổ chức địa
phương nơi đơn vị đóng quân; quan hệ thông qua các phương tiện truyền thông
đại chúng (internet, mạng xã hội…). Thông qua mạng lưới các quan hệ xã hội
này, từng sĩ quan nâng cao tri thức, tích lũy thêm kinh nghiệm để làm giàu thêm
vốn sống, vốn xã hội của mình" [77, tr. 92]. "Ở đơn vị, vốn xã hội của sĩ quan
tồn tại trong từng quan hệ của họ với các cá nhân, nhóm, tổ chức trong đơn vị,
bao gồm các quan hệ xã hội chính thức và quan hệ xã hội phi chính thức. Vốn xã
hội của sĩ quan ở đơn vị tạo điều kiện thuận lợi cho họ tiếp cận những nguồn lực
thuộc sở hữa của những người cùng nhóm tham gia quan hệ xã hội, cả về phạm
vi, tần suất và tính chất quan hệ" [77, tr. 93].
Với bạn bè trước khi nhập ngũ. Do ít có điều kiện gặp nhau, tần suất liên
lạc với nhau cũng ít, nên có thể coi đây là những liên hệ yếu. Vì vậy, sự ảnh
hưởng của mạng lưới xã hội này đối với nhóm sĩ quan cấp úy là không đáng kể,
140
thậm chí không có ảnh hưởng gì nhiều tới quá trình hình thành phẩm chất con
người xã hội của sĩ quan cấp úy cũng như cuộc sống gia đình vợ, con, bố mẹ tại
địa phương sinh sống.
Với bạn bè trong quân đội, đơn vị. Do thường xuyên giao tiếp với nhau
nên mạng lưới xã hội bạn bè trong quân đội, đơn vị tác động rất lớn đền việc
hình thành, phát huy phẩm chất con người xã hội của sĩ quan cấp úy. Thông qua
mạng lưới xã hội này, sĩ quan cấp úy học hỏi được nhiều kinh nghiệm sống, kinh
nghiệm chỉ huy, quản lý đơn vị, từng bước khẳng định vị thế xã hội của mình
trong đơn vị. Đồng thời, mạng lưới xã hội ban bè trong quân đội, đơn vị luôn có
sự hỗ trợ trực tiếp trong quá trình sĩ quan cấp úy hoàn thiện con người sĩ quan và
thăng tiến xã hội. Mạng lưới xã hội bạn bè trong quân đội, đơn vị tạo “vốn xã
hội” cho sĩ quan cấp úy trong quá trình tự hoàn thiện mình. Trong các mạng lưới
xã hội bạn bè của sĩ quân cấp úy, mạng lưới xã hội bạn bè trong quân đội, đơn vị
giữ vị trí, vai trò rất lớn, tác động trực tiếp, rất mạnh đến quá trình hoàn thiện
con người sĩ quan và thăng tiến xã hội. Trong nhiều trường hợp, sự tác động của
mạng lưới bạn bè xã hội bên ngoài quân đội, đơn vị trước và trong khi tại ngũ
phải thông qua “màng lọc” của nhóm bạn bè trong quân đội, đơn vị. Sự trao đổi,
bàn bạc giữa các sĩ quan cấp úy sẽ cho họ lời giải trước những tác động của
mạng lưới xã hội bên ngoài quân đội, đơn vị.
Trong quan hệ với bạn bè trong đơn vị của sĩ quan cấp úy cũng đã xẩy ra
những xung đột xã hội: xung đột về thành tích (khen thưởng và xử phạt,…), về sự
thăng tiến xã hội (đề bạt, bổ nhiệm,…), về sự đoàn kết, thống nhất,… Các xung
đột đó tạo ra cho sĩ quan cấp úy những lực cản trong quá trình hình thành, phát
huy phẩm chất con người xã hội sĩ quan quân đội. Áp lực xã hội từ mạng lưới xã
hội bạn bè trong đơn vị tác động rất lớn, trực tiếp đến sĩ quan cấp úy trong quá
trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ cũng như quá trình tự hoàn thiện bản thân
theo chuẩn mực sĩ quan quân đội theo hai chiều tích cực và tiêu cực.
141
Với bạn bè ngoài quân đội, đơn vị. Các quan hệ xã hội của nhóm sĩ quan
cấp úy ngoài quân đội hiện nay rất phong phú, đa dạng, tác động đến việc hình
thành, phát huy phẩm chất con người xã hội sĩ quan quân đội theo hai chiều tích
cực và tiêu cực. Sự động viên, cổ vũ, hỗ trợ cả về vật chất và tinh thần của bạn
bè bên ngoài quân đội, đơn vị tạo động lực xã hội to lớn để sĩ quan cấp úy hoàn
thiện mình, hoàn thành chức trách, nhiệm vụ. Đồng thời, sự lôi kéo sĩ quan cấp
úy tham gia vào các tệ nạn xã hội thông qua mạng lưới xã hội bạn bè bên ngoài
quân đội, đơn vị không chỉ làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào sĩ quan quân
đội, mà còn hủy hoại đời sống quân nhân, lối sống của sĩ quan cấp úy. Từ những
quan hệ xã hội không đúng đó đã có sĩ quan cấp úy buộc phải ra quân, không
được tiếp tục phục vụ trong quân đội.
"Phần lớn sĩ quan cấp úy có mối quan hệ tốt đẹp với các cá nhân, tổ
chức bên ngoài quân đội, vẫn giữ gìn, phát huy được bản chất và
truyền thống tốt đẹp của "Bộ đội Cụ Hồ". Tuy nhiên, cũng đã xuất
hiện một vài hiện tượng làm ảnh hưởng ít nhiều đến quan hệ giữa
quân đội và nhân dân, đặc biệt là những quan hệ mờ ám, bất hợp
pháp, quan hệ với các phần tử tiêu cực, quan hệ liên quan đến lợi ích
kinh tế". (PVS: Trung tá, Tiểu đoàn trưởng).
Xét về tổng thể, quan hệ giữa sĩ quan cấp úy với bạn bè nơi đóng quân,
địa bàn hoạt động và nơi cư trú, tình đoàn kết giữa quân đội và nhân dân rất tốt.
Đến thời điểm hiện tại có thể khẳng định, mối quan hệ giữa sĩ quan cấp úy với
bạn bè ngoài quân đội đúng với bản chất và truyền thống của quân đội [56, tr.
83]. Thông qua các mối quan hệ với bạn bè và nhân dân địa phương đã giúp sĩ
quan cấp úy hoàn thiện nhân cách người quân nhân cánh mạng, phát huy phầm
chất "Bộ đội Cụ Hồ", hoàn thành chức trách, nhiệm vụ, củng cố và phát huy tình
đoàn kết quân dân. Quá trình thực hiện quan hệ xã hội, đa số bạn bè và nhân dân
địa phương ủng hộ, giúp đỡ sĩ quan cấp úy về nhiều mặt, cả về vật chất và tinh
thần, quan tâm đến sự tiến bộ của sĩ quan cấp úy, giúp cho họ hoàn thành chức
trách, nhiệm vụ của mình ở đơn vị [56, tr. 84].
142
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4
Trọng tâm của chương này, tác giả đi vào nghiên cứu, phân tích số liệu điều
tra về thực trạng mạng lưới xã hội bạn bè nhóm sĩ quan cấp úy. Kết quả đã chỉ rõ:
Một là, mạng lưới xã hội bạn bè là nhu cầu tất yếu không thể thiếu trong đời
sống của sĩ quan cấp úy: thỏa mãn nhu cầu giao lưu trao đổi thông tin, tìm kiếm,
nâng cao kiến thức, kinh nghiệm; đồng thời hỗ trợ giải quyết công việc để hoàn
thành nhiệm vụ ở đơn vị.
Hai là, mạng lưới xã hội bạn bè của nhóm sĩ quan cấp úy phong phú, đa
dạng, diễn ra trên phạm vi quy mô rộng; tính chất quan hệ đa dạng, trên các lĩnh
vực của cuộc sống (kinh tế, chính trị, văn hoá, tình cảm, giao lưu giải trí…); quan
hệ phần lớn mang tính gián tiếp; thông tin lan tỏa nhanh; tác động mạnh; thời điểm
liên hệ chủ yếu vào ngày nghỉ, giờ nghỉ.
Ba là, mạng lưới xã hội bạn bè cũ trước khi nhập ngũ có xu hướng thu hẹp
(ít quan hệ, quan hệ lỏng đi so với trước); quan hệ với bạn bè sau khi nhập ngũ (bạn
bè mới), nhất là bạn bè trong quân đội có xu hướng mở rộng về phạm vi, tính chất
quan hệ chặt chẽ.
Bốn là, xu hướng xuất hiện, hình thành các nhóm không chính thức ở đơn vị
mang tính "phi truyền thống" dựa trên dấu hiệu của sự "phân tầng", "thị trường"
như nhóm cùng cấp, chức, nhóm cùng hoàn cảnh sống, lợi ích, đẳng cấp... Sự liên
kết thông qua tất cả những khác biệt trên dẫn đến hình thành "nhóm lợi ích" trong
quan hệ xã hội của sĩ quan cấp úy.
Năm là, mạng lưới xã hội bạn bè có tác động, ảnh hưởng đến chức năng,
nhiệm vụ chỉ huy, quản lý và hình thành, phát huy phẩm chất con người xã hội
của sĩ quan cấp úy theo hai chiều hướng, bao gồm cả những yếu tố tích cực,
thuận lợi, vừa phi thuận lợi, thậm chí tiêu cực nếu như không xác định đúng tính
chất và động cơ khi tham gia các quan hệ xã hội. Mặt tích cực của xu hướng này
là khi mở rộng các quan hệ xã hội làm cho đời sống tinh thần của họ phong phú
hơn, học hỏi được nhiều hơn, làm tăng thêm kiến thức, kinh nghiệm mọi mặt của
143
đời sống xã hội và huy động được các nguồn vốn xã hội để hoàn thành tốt chức
trách, nhiệm vụ của mình trong quân đội cũng như tạo điều kiện ổn định hậu
phương gia đình. Ngược lại, mặt không tích cực của xu hướng này ở chỗ, do
tham gia nhiều vào các quan hệ xã hội, tức là tham gia vào quá trình xã hội hóa ở
môi trường xã hội rộng lớn, nếu định hướng và nhận thức không đúng sẽ dễ sa
vào cạm bẫy của những thói hư, tật xấu, hoặc bị lợi dụng, lôi kéo, hoặc do bắt
chước một cách mù quáng mà dễ lây nhiễm những văn hoá "lệch chuẩn", làm
cho bản thân dần bị tha hóa, biến chất.
Sáu là, xét trong tương quan giữa mạng lưới xã hội bạn bè trong quân đội,
đơn vị và mạng lưới xã hội bạn bè ngoài quân đội, đơn vị (trước và sau khi nhập
ngũ) thì tác động của mạng lưới xã hội bạn bè ngoài quân đội, đơn vị đối với
việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ và hình thành, phát huy phẩm chất con
người xã hội sĩ quan của sĩ quan cấp úy yếu hơn, ít trực tiếp hơn so với tác động
của mạng lưới xã hội bạn bè trong quân đội, đơn vị. Tuy thế, cũng không thể
xem nhẹ sự tác động từ mạng lưới xã hội bạn bè ngoài quân đội, đơn vị. Trong
nền kinh tế thị trường phải quan tâm nghiên cứu sự tác động từ mặt trái của nó
đối với sĩ quan cấp úy thông qua mạng xã hội bạn bè ngoài quân đội, đơn vị của
sĩ quan cấp úy.
144
KẾT LUẬN
1. Sĩ quan cấp úy là lực lượng rường cột, nhân tố cơ bản cấu thành tổ chức
quân đội. Nghiên cứu về nhóm sĩ quan cấp úy giữ vai trò quan trọng, cần thiết để
có cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành các giải pháp xây dựng nhóm xã hội này
có số lượng đủ, cơ cấu hợp lý, chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây
dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, hoàn thành
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Nghiên cứu về mạng lưới xã hội là một trong
những nội dung đối với nhóm xã hội này.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, mạng lưới xã hội của sĩ quan cấp úy luôn
mở rộng về không gian, phạm vi.
Là một nhóm người trẻ về tuổi đời, đang trong quá trình trưởng thành, nên
sau một thời gian ra trường (để trở thành sĩ quan cấp úy, họ phải qua đào tạo tại
các nhà trường quân đội với thời gian 5 năm) ổn định công tác, sĩ quan cấp úy lấy
vợ, xây dựng gia đình riêng. Mạng lưới xã hội gia đình của sĩ quan cấp úy có sự
mở rộng gồm: gia đình bố mẹ đẻ, gia đình bố mẹ vợ và gia đình vợ, con. Theo số
liệu thống kê, số lượng sĩ quan cấp úy lấy vợ cùng xã rất thấp, dẫn đến sự mở rộng
không gian gia đình. Nhìn chung, sĩ quan cấp úy “một chốn ba quê”: nơi sinh sống
của bố mẹ đẻ, nơi sinh sống của bố mẹ vợ và nơi sinh sống của vợ, con. Theo đó,
tính đa dạng, phức tạp của mạng lưới xã hội gia đình của sĩ quan cấp úy gia tăng.
Cùng với quá trình học tập và công tác, nhóm sĩ quan cấp úy mở rộng
mạng lưới xã hội bạn bè. Họ có bạn bè trước khi nhập ngũ và sau khi nhập ngũ, có
bạn bè trong quân đội, trong đơn vị và có bạn bè ngoài quân đội, ngoài đơn vị.
Với chức trách là những người chỉ huy đơn vị cơ sở và ở góc độ con người xã hội,
sĩ quan cấp úy có quan hệ xã hội chính thức và quan hệ xã hội không chính thức.
Với sự mở rộng mạng lưới xã hội ban bè, sĩ quan cấp úy cũng mở rộng việc tham
gia các nhóm xã hội. Họ tham gia các nhóm xã hội bên trong và bên ngoài quân
đội, bên ngoài đơn vị, chủ yếu là các nhóm xã hội phi chính thức.
145
Với việc mở rộng mạng lưới xã hội cho thấy, quan hệ xã hội của nhóm sĩ
quan cấp úy hiện nay đa dạng, phức tạp, khó kiểm soát. Từ đó đặt ra vấn đề cấp
thiết phải đẩy mạnh quản lý mạng xã hội của sĩ quan cấp úy.
2. Không chỉ mở rộng về không gian và phạm vi, mạng lưới xã hội của
nhóm sĩ quan cấp úy còn có sự chuyển dịch về mức độ và tính chất.
Liên hệ giữa sĩ quan cấp úy và gia đình mang tính chất gián tiếp. Họ chỉ
gặp gỡ trực tiếp gia đình vào những ngày nghỉ phép, nghỉ tranh thủ. Với sĩ quan
có vợ, họ dành thời gian nghỉ phép, tranh thủ để về với vợ, con nhiều hơn so với
gia đình bố mẹ đẻ, bố mẹ vợ. Nhìn chung, gia đình vợ con sĩ quan cấp úy là gia
đình khuyết, thiếu vắng sự có mặt của người chồng, người cha.
Trong mạng lưới xã hội gia đình, liên hệ giữa sĩ quan cấp úy với gia đình
bố mẻ đẻ giảm về cường độ, chuyển mạnh từ liên hệ về chính trị, kinh tế sang
liên hệ về tình cảm. Với sĩ quan đã có vợ, liên hệ với gia đình bố mẹ vợ mạnh
hơn với gia đình bố mẻ đẻ, vì chỗ ở của gia đình vợ, con sĩ quan cấp úy gần với
gia đình bố mẹ vợ hơn bố mẹ đẻ. Song nhìn chung, mạng lưới xã hội gia đình
của sĩ quan cấp úy vẫn là “liên hệ mạnh”.
Liên hệ xã hội của sĩ quan với bạn bè trước khi nhập ngũ giảm về mức độ
và tính chất. Họ chỉ còn giữ liên hệ với những bạn bè thân thiết cùng làng xóm,
cùng học phổ thông, nhất là trung học phổ thông. Nhìn chung, mạng lưới xã hội
bạn bè trước khi nhập ngũ của sĩ quan cấp úy là “liên hệ yếu”.
Cùng với thời gian tại ngũ, thông qua thực hiện chức trách, nhiệm vụ và
giao tiếp xã hội, mạng lưới xã hội bạn bè của sĩ quan cấp úy trong thời gian tại
ngũ được mở rộng. Mức độ, tính chất liên hệ xã hội với bạn bè trong quân đội,
đơn vị là “liên hệ mạnh”. Mức độ, tính chất liên hệ xã hội với bạn bè ngoài quân
đội, đơn vị là liên hệ “vừa mạnh, vừa yếu”. So sánh với liên hệ bạn bè trước khi
nhập ngũ thì liên hệ xã hội với bạn bè ngoài quân đội, đơn vị trong thời gian tại
ngũ mạnh hơn; nhưng so với liên hệ bạn bè trong quân đội, đơn vị thì yếu hơn.
146
3. Mạng lưới xã hôi gia đình và bạn bè tác động mạnh đến việc thực hiện
chức trách, nhiệm vụ và sự hình thành, phát huy phẩm chất con người xã hội sĩ
quan của sĩ quan cấp úy.
Gia đình sĩ quan cấp úy tạo lập vị thế xã hội, định hướng cho sĩ quan theo
con đường binh nghiệp và giúp họ củng cố định hướng nghề nghiệp quân sự. Gia
đình bố mẹ đẻ, gia đình bố mẹ vợ là chỗ dựa về vật chất và tinh thần để sĩ quan
cấp úy củng cố gia đình vợ con, tích cực trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ và
động lực phấn đấu trở thành người sĩ quan ưu tú. Những biến động về kinh tế -
xã hội của gia đình, nhất là gia đình vợ, con tác động trực tiếp đến sĩ quan cấp úy
theo hai chiều tích cực và tiêu cực. Nó càng mạnh hơn khi mà sĩ quan cấp úy ít
có thời gian và điều kiện vật chất để chăm lo cho gia đình. Thực tế đó đặt ra vấn
đề quản lý mạng lưới xã hội gia đình của sĩ quan cấp úy; các cấp chỉ huy trong
quân đội phải chú ý nắm bắt tình hình gia đình của sĩ quan cấp úy để hỗ trợ họ
hợp lý trong thực hiện mạng lưới xã hội gia đình.
Mạng lưới xã hội bạn bè tác động không nhỏ đến việc thực hiện chức trách,
nhiệm vụ và sự hình thành, phát huy phẩm chất con người xã hội sĩ quan của sĩ
quan cấp úy. Sự tác động đó theo hai chiều tích cực và tiêu cực. Trong mạng lưới
xã hội bạn bè, mạng lưới xã hội bạn bè trong đơn vị tác động mạnh nhất, trực tiếp
nhất. Với sự tác động của mạng lưới xã hội bàn bè, đặt ra vấn đề quản lý mạng xã
hội bạn bè của sĩ quan cấp úy, để giúp họ phát huy liên hệ mang tính tích cực và
hạn chế tác động tiêu cực từ mạng xã hôi bạn bè.
4. Kết quả nghiên cứu đã kiểm chứng tính chân thực của các giải thuyết.
Kết quả nghiên cứu đã khẳng định tính đúng của giả thuyết thứ nhất:
mạng lưới xã hội của nhóm sĩ quan cấp úy hiện nay phong phú, đa dạng: mở
rộng về phạm vi, về tính chất; chủ yếu diễn ra gián tiếp, vào tất cả các ngày, giờ;
cường độ thông tin diễn ra nhanh.
147
Kết quả nghiên cứu cũng đã khẳng định tính đúng của giả thuyết thứ hai,
thứ ba: mạng lưới xã hội tác động mạnh đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của sĩ quan cấp úy, đến việc hình thành, phát huy phẩm chất con người xã hội
của sĩ quan cấp úy theo hai chiều tích cực và tiêu cực.
Việc khẳng định tính đúng của các giả thuyết gợi mở cho việc phải tăng
cường nghiên cứu, quản lý mạng xã hội của sĩ quan cấp úy. Kết quả nghiên cứu,
quản lý mạng lưới xã hội sẽ gợi mở các giải pháp hỗ trợ sĩ quan cấp úy trong thực
hiện các liên hệ xã hội, nhằm hạn chế những tác động mang tính tiêu cực. Quản lý
mạng xã hội của sĩ quan cấp úy là một nội dung trong lãnh đạo, chỉ huy, một nội
dung của công tác đảng, công tác chính trị của các cấp trong quân đội.
5. Mạng lưới xã hội của sĩ quan cấp úy đa dạng, phức tạp. Nghiên cứu
mạng lưới xã hội gia đình, mạng lưới xã hội bạn bè là một trong những nội dung,
nhưng là nội dung quan trọng nhất trong hệ mạng lưới xã hội của sĩ quan cấp úy.
Nghiên cứu để làm rõ mức độ, tính chất và hệ lụy xã hội của mạng lưới xã
hội gia đình, bạn bè đối với sĩ quan cấp úy gặp không ít trở ngại, khó khăn, đòi
hỏi cần có nhiều thời gian, với phương pháp đa dạng và có những nghiên cứu
chuyên sâu, chuyên biệt hơn nữa. Kết quả nghiên cứu mạng lưới xã hội gia đình,
bạn bè của sĩ quan cấp thể hiện trong luận án là những kết quả ban đầu, còn có
những khiếm khuyết. Trong thời gian tới cần đẩy mạnh nghiên cứu xã hội học về
vấn đề này để mở rộng cách thức tiếp cận, phân tích nhóm xã hội đặc thù - nhóm
sĩ quan cấp úy Quân đội nhân dân Việt Nam, góp phần phát triển chuyên ngành
xã hội học quân sự.
148
KHUYẾN NGHỊ
Trong những năm tới, dự báo tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có
những diễn biến phức tạp, khó lường; nguy cơ các cuộc chiến tranh cục bộ, xung
đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp biên giới, lãnh thổ, biển đảo,
tài nguyên và khủng bố vẫn gia tăng, gây nên các cuộc chiến tranh, xung đột cục
bộ, phá hoại môi trường hòa bình khu vực và thế giới. Đối với nước ta, chủ nghĩa
đế quốc và các thế lực thù địch vẫn tìm mọi cách chống phá, làm thay đổi chế độ
chính trị ở nước ta, đưa nước ta đi theo quỹ đạo của chúng.
Ở trong nước, công cuộc đổi mới của đất nước ta do Đảng khởi xướng và
lãnh đạo đã thu được nhiều thành tựu, nhưng đồng thời cũng bộc lộ không ít khó
khăn, tiêu cực tác động xấu tới các lĩnh vực của đời sống xã hội, đến tâm lý, tư
tưởng của mọi tầng lớp xã hội trong đó có nhóm sĩ quan cấp úy, làm ảnh hưởng
đến tư tưởng, tình cảm, động cơ và ý chí quyết tâm của sĩ quan cấp úy.
Tình hình trên ảnh hưởng sâu sắc đến nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, đặt ra
những yêu cầu mới đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thông qua
Chiến lược bảo vệ Tổ quốc mà Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (khóa IX) của
Đảng [5]. Đồng thời, Đảng ta đã xác định rõ quan niệm mới về bảo vệ Tổ quốc
[6], về phát triển khoa học công nghệ quân sự [20]. Đại hội Đảng lần thứ XII cũng
khẳng định: Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện đạo đức
cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân [79]. Đối với quân đội, Đảng ta khẳng định:
"Xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân" [20, tr.
82]; đồng thời, "Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng,
sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân" [20,
tr.83]. Điều 12, Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam 2008 [48] xác định rõ
tiêu chuẩn chung của sĩ quan. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung và phát triển năm 2011) cũng khẳng định: Chăm lo
nâng cao phẩm chất cách mạng, trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ của cán
bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang; bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần phù hợp
149
với tính chất hoạt động [20]. Bên cạnh đó, sự vận động, biến đổi định hướng nghề
nghiệp cũng tác động lớn đến nhóm sĩ quan cấp úy [41].
Để quản lý hiệu quả và phát huy tốt những mặt tích cực của mạng lưới xã
hội nhóm sĩ quan cấp úy, cần nắm chắc những yếu tố tác động của tình hình thế
giới, khu vực, tình hình trong nước và nhiệm vụ quân đội, cũng như xu hướng
biến đổi mạng lưới xã hội của nhóm sĩ quan cấp úy, trên cơ sở đó đề ra những
biện pháp phù hợp, trước hết cần tập trung vào những nội dung sau:
1. Xây dựng nhóm sĩ quan cấp úy có cơ cấu xã hội hợp lý, phù hợp với
chức năng, nhiệm vụ quân đội thời kỳ mới
Để xây dựng nhóm sĩ quan cấp úy có cơ cấu xã hội hợp lý, phù hợp với
chức năng, nhiệm vụ quân đội thời kỳ mới, cần thực hiện tốt một số yêu cầu cơ
bản như sau: Một là, bảo đảm số lượng trong cơ cấu xã hội nhóm sĩ quan cấp úy
đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước
hiện đại. Hai là, bảo đảm về chất lượng. Ba là, bảo đảm cơ cấu thành phần dân tộc
và cơ cấu vùng miền. Hiện nay, trong đội ngũ sĩ quan cấp úy còn bất cập về cơ
cấu thành phần dân tộc vì chủ yếu là dân tộc kinh, còn dân tộc thiểu số chiếm tỉ lệ
rất thấp (số liệu điều tra tại đơn vị cho thấy sĩ quan cấp úy là dân tộc Kinh chiếm
tới 94.8%; các dân tộc khác chỉ chiếm 5.2% [xem Bảng 1, tr. 8]. Bốn là, bảo đảm
cơ cấu các chuyên ngành đào tạo và thực hiện đúng các khâu, các bước trong quy
trình quy hoạch và sử dụng nhóm sĩ quan cấp uý.
2. Đẩy mạnh xã hội hóa quân nhân đối với nhóm sĩ quan cấp úy
Để quản lý mạng lưới xã hội nhóm sĩ quan cấp úy hiệu quả, cần đẩy mạnh
xã hội hóa quân nhân đối với nhóm sĩ quan cấp úy, tập trung vào một số nội
dung, giải pháp cơ bản sau: Một là, xã hội hóa nhóm sĩ quan cấp úy với thiết chế
quân sự. Hai là, xã hội hóa nhóm sĩ quan cấp úy với giáo dục truyền thống. Ba
là, xã hội hóa nhóm sĩ quan cấp úy vững mạnh về chính trị.
3. Phát huy vai trò của các thiết chế quân sự trong quản lý mạng lưới xã
hội của nhóm sĩ quan cấp úy
150
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Quân đội mạnh là nhờ giáo dục khéo,
chính sách đúng và kỷ luật nghiêm. Vì vậy kỷ luật phải nghiêm minh" [33, tr.560].
Thiết chế xã hội quân sự có vai trò quan trọng với quan hệ xã hội của nhóm sĩ quan
cấp úy; nó hướng dẫn, điều chỉnh, kiểm soát, bắt buộc sĩ quan cấp úy trong thực
hiện các quan hệ xã hội của họ ở đơn vị; đồng thời bắt họ phải gương mẫu chấp
hành trước cấp dưới, chiến sĩ; phải chuẩn mực về chấp hành điều lệnh, điều lệ, các
chế độ, quy định, xứng đáng là tấm gương để cấp dưới, chiến sĩ học tập và noi theo.
4. Tạo dựng dư luận xã hội quân nhân để kiểm soát hành vi sĩ quan cấp úy
Tạo dựng dư luận xã hội quân nhân nhằm kiểm soát hành vi nhóm sĩ quan
cấp úy phù hợp phẩm chất, nhân cách người quân nhân cánh mạng. Cần thực
hiện tổng hợp những biện pháp sau đây: Một là, xây dựng các mối quan hệ xã
hội của nhóm sĩ quan cấp úy tốt đẹp, giao tiếp, ứng xử với cán bộ, chiến sĩ, trong
đơn vị có văn hoá. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: "Muốn có xã hội tốt
phải có con người tốt, muốn có con người tốt thì phải có môi trường xã hội tốt"
[23, tr.71]. Hai là, phát huy vai trò của tổ chức đảng trong giáo dục, quản lý, rèn
luyện nhóm sĩ quan cấp úy. Ba là, thường xuyên kiểm tra sâu sát, nắm chắc tâm
tư nguyện vọng, hoàn cảnh gia đình, phẩm chất năng lực của sĩ quan cấp úy. Bốn
là, coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ ở các đơn vị quân đội hiện nay.
Năm là, thường xuyên chú trọng công tác tư tưởng và kịp thời phát hiện những
dấu hiệu bất thường về tâm tư tình cảm, về mức độ chi tiêu ở từng sĩ quan cấp úy
để đánh giá xem xét cho cụ thể.
5. Khuyến nghị về những nghiên cứu tiếp theo
Đề tài luận án là một vấn đề lớn, đòi hỏi phải có sự đầu tư nghiên cứu
công phu, toàn diện, có hệ thống của nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều nhà khoa
học. Luận án mới chỉ là nghiên cứu bước đầu xung quanh vấn đề này nên chắc
chắn còn nhiều vấn đề chưa được đề cập, luận giải một cách sâu sắc. Vì vậy, cần
mở ra hướng nghiên cứu ở cấp độ cao hơn, sâu hơn (có thể nâng cấp thành đề tài
cấp Tổng cục Chính trị và đề tài cấp Bộ Quốc phòng), nhằm phát huy tốt hơn
nữa vai trò của nhóm sĩ quan cấp úy trong quân đội, bảo đảm cho người sĩ quan
cấp úy hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ trong tình hình mới.
151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ
1. Đào Ngọc Tuấn (2013), "Một số giải pháp cơ bản xóa đói giảm nghèo", Bảo
hiểm xã hội. Kỳ 02 (230), tr. 32-33.
2. Đào Ngọc Tuấn (2013), "Phân tầng xã hội - Ý nghĩa nghiên cứu đối với công
cuộc xoá đói giảm nghèo ở nước ta hiện nay", Nghiên cứu Châu Âu, Số 9
(156), tr. 63-67.
3. Đào Ngọc Tuấn (2013), "Góp phần xoá đói giảm nghèo ở địa bàn vùng đồng
bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên", Thông tin dân vận, Số 121, tr. 13-14.
4. Đào Ngọc Tuấn (2016), "Quản lý các mối quan hệ xã hội của đội ngũ sĩ quan trẻ
trong quân đội hiện nay", Giáo dục lý luận chính trị quân sự, Số 4
(158), tr. 83-85.
5. Đào Ngọc Tuấn (2016), "Một số biện pháp quản lý mạng lưới xã hội nhóm sĩ
quan cấp úy ở đơn vị cơ sở trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay",
Khoa học Chính trị quân sự, Số 5 (30), tr. 90-93.
6. Đào Ngọc Tuấn (2017), "Vai trò của vốn xã hội và mạng lưới xã hội đối với sĩ
quan quân đội hiện nay", Giáo dục lý luận chính trị quân sự, Số 4
(164), tr. 92-97.
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. TIẾNG VIỆT
1. Nguyễn Thị Lan Anh (2007), Khả năng tái hòa nhập cộng đồng của người
mãn hạn tù ở Quận 4 thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ Xã
hội học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
2. Đặng Nguyên Anh (1998), Vai trò của mạng lưới xã hội trong quá trình di
cư, Tạp chí xã hội học, số 2, tr.18, 20.
3. Nguyễn Tuấn Anh (2011), Vốn xã hội và mấy vấn đề đặt ra trong nghiên cứu
vốn xã hội ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Xã hội học, số 3 (115).
4. Chung Á, Nguyễn Đình Tấn (1997), Nghiên cứu xã hội học, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
5. Ban tư tưởng - Văn hoá Trung ương, Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần
thứ 8 BCHTU khoá IX, Nxb CTQG. H. 2003, tr. 44.
6. Ban tư tưởng - Văn hoá Trung ương, Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị Ban
chấp hành Trung ương lần thứ Tám, khóa IX , Nxb CTQG, H. 2003,
tr. 45-46.
7. Báo cáo Tổng kết Công tác đảng, công tác chính trị năm 2015 của Đoàn B01.
8. L. Therese Baker (1998), Thực hành nghiên cứu xã hội, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
9. Tony Bilton (1993), Nhập môn xã hội học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
10. Bộ giáo trình Hàn Quốc học SNU-VNU, Xã hội Hàn Quốc hiện đại, Nxb
Đại học quốc gia, Hà Nội-Việt Nam. tr. 252.
11. Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội, Sư đoàn bộ binh 301, Phòng Chính trị,
tháng 8/2016.
12. Bộ tư lệnh Thủ đô Hà Nội, Lịch sử Sư đoàn bộ binh 301 (1979-2009), Nxb
Quân đội nhân dân. H. 2009.
153
13. Buschges. G, (1996), Nhập môn Xã hội học tổ chức, Nxb Thế giới, Hà Nội.
14. Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng (2001), Xã hội học đại cương, Nxb Đại
học quốc gia, Hà Nội.
15. Phan Thị Kim Dung (2007) Mạng lưới xã hội của người cao tuổi ở
thành phố Quy Nhơn, Luận văn thạc sỹ xã hội học. Trường Đại học
khoa học xã hội và Nhân văn, Thành phố Hồ Chí Minh. tr.109.
16. Trần Hữu Dũng (2003), "Vốn xã hội và kinh tế", Tạp chí Thời đại,
(8), tr. 82-102.
17. Nguyễn Trí Dũng, (2004), “Quân đội với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới”, Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự,
số 3 (85), tr. 66.
18. Lê Văn Dũng (2005), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ
trong Quân đội nhân dân Việt Nam", Tạp chí Quốc phòng toàn dân. tr. 5.
19. Nguyễn Bá Dương (2008), Sĩ quan trẻ với tư duy về nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc thời kỳ hội nhập WTO, Nxb Quân đội nhân dân, tr. 7.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb Chính trị quốc gia, H. 2011, tr. 82, 83, 235.
21. Điều 2, 3 Luật sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam 2008 (sửa đổi).
22. Đoàn B01(2015), Báo cáo sơ kết công tác giáo dục chính trị tại đơn vị, 5
năm (2011 - 2015).
23. Phạm Văn Đồng, Văn hoá và đổi mới, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1995, tr. 71.
24. Đinh Quang Hà (2014), Di dân tự do nông thôn - đô thị với trật tự xã hội
ở Hà Nội, Luận án tiến sĩ Xã hội học, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh. Hà Nội.
25. Phạm Xuân Hảo (1996), Cơ cấu xã hội của đội ngũ sĩ quan trung, sơ cấp trong
Quân đội nhân dân Việt Nam - thực trạng và xu hướng biến đổi, Luận án
Phó Tiến sĩ Triết học, Viện Khoa học xã hội và nhân văn, Hà nội.
154
26. Phạm Xuân Hảo (1997), "Quản lý các quan hệ xã hội của đội ngũ sĩ
quan - một nội dung quan trọng của công tác cán bộ trong giai đoạn
cánh mạng mới", Tạp chí Thông tin giáo dục lý luận chính trị quân
sự, số 2, tr. 47-48, 50-51.
27. Phạm Xuân Hảo (2004), “Bồi dưỡng lối sống xã hội chủ nghĩa cho đội
ngũ sĩ quan trẻ trong quân đội hiện nay”, Viện Khoa học xã hội
nhân văn quân sự, Bộ Quốc phòng.
28. Phạm Xuân Hảo (2005), Một số vấn đề xã hội học trong xây dựng quân
đội, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, Nxb Quân đội nhân dân,
Hà Nội. Tr.140-151.
29. Phạm Xuân Hảo (2009), Tác động của phân hoá giàu nghèo ở nước ta
đến ý thức chính trị của đội ngũ sĩ quan trẻ quân đội hiện nay, Viện
Khoa học Xã hội Nhân văn quân sự, Bộ Quốc phòng.
30. Phạm Xuân Hảo (2013), "Đẩy mạnh bồi dưỡng năng lực quản lý các
quan hệ xã hội của quân nhân cho đội ngũ chính trị viên", Tạp chí
Khoa học chính trị quân sự, số 6.
31. Phạm Xuân Hảo và Đặng Văn Thi (2016), Cơ cấu xã hội của nhóm sĩ
quan cấp uý trong Quân đội nhân dân Việt Nam trong thời kỳ mới,
Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội.
32. Nguyễn Thị Thu Hòa (2012), Mạng lưới xã hội của người chấp hành
xong hình phạt tù, nghiên cứu trường hợp tại Thành phố Hồ Chí
Minh, Luận án Tiến sĩ Xã hội học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
33. Hồ Chí Minh (2000), Bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ chuẩn bị chiến dịch
Tây Bắc, Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, Hà Nội, tr. 560.
34. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 296, 319.
35. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 495.
155
36. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 470.
37. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 269, 273.
38. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 318.
39. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 11, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 350.
40. Hồ Chí Minh (1975), Với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb Quân
đội nhân dân, Hà Nội, tr. 157-158.
41. Hồ Chí Minh (1996), Với thương binh liệt sĩ. Nxb Quân đội nhân
dân, Hà Nội, tr. 38.
42. Lê Ngọc Hùng (1999), Xã hội học kinh tế. Nxb Đại học quốc gia. Hà Nội, tr. 45.
43. Lê Ngọc Hùng (2003), “Lý thuyết và phương pháp tiếp cận mạng lưới xã
hội: trường hợp tìm kiếm việc làm của sinh viên”, Tạp chí Xã hội
học, số 2, tr. 67, 68, 75.
44. Lê Ngọc Hùng (2008), Vốn xã hội, vốn con người và mạng lưới xã hội qua
một số nghiên cứu ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu con người, số 4 (37).
45. Đặng Ngọc Kiện (2015), Khắc phục những biểu hiện của chủ nghĩa cá
nhân ở đội ngũ sĩ quan trẻ trong quân đội hiện nay, Thanh niên.
46. Văn Ngọc Lan và Trần Đan Tâm (1998), “Thử khảo sát sự vận động các
mạng lưới xã hội trong đời sống dân cư”, Vấn đề giảm nghèo trong đời
sống đô thị hóa ở thành phố Hồ Chí Minh, Nxb KHXH, tr. 427-448.
47. V.I. Lênin, Toàn tập, tập 39, bản tiếng Việt, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva,
1977, tr. 163, 174.
48. Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam 2008 (sửa đổi).
49. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3. Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, tập 3, tr.11, 29, 30, 53, 55.
50. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ IX, tr. 2.
51. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ X, tr. 12.
156
52. Nông Bằng Nguyên (2009), “Nghiên cứu mạng lưới xã hội: Những đóng
góp của nhân học và xã hội học”, Tạp chí nghiên cứu con người,
(Số 2), tr. 58-65.
53. Những vấn đề xã hội học trong quá trình đổi mới, Nxb Đại học quốc gia
Hà Nội, tr. 30, 31.
54. Emmanuel Pannier (2008), "Phân tích mạng lưới xã hội: các lý thuyết,
khái niệm và phương pháp nghiên cứu", Tạp chí Xã hội học, Số 4
(104), tr. 100-115.
55. Quân đội nhân dân Việt Nam, Tổng cục chính trị (2014), Giáo trình Xã hội
học quân sự, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr. 55, 93-94, 95.
56. Quân đội nhân dân Việt Nam, Tổng cục chính trị (2015), Quản lý các quan
hệ xã hội của quân nhân ở đơn vị cơ sở trong tình hình mới, Nxb
Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr. 30, 31, 81, 83, 84.
57. Quân đội nhân dân Việt Nam, Tổng cục chính trị (2001), Xã hội học quân
sự, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr. 168, 169, 170, 171.
58. Quân đội nhân dân Việt Nam, Tổng cục chính trị (2001), Xã hội học quân
sự, Chương 8, Phân hoá giàu nghèo và xây dựng quân đội về chính
trị, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr. 191.
59. Phạm Văn Quyết, Nguyễn Quý Thanh (2001), Phương pháp nghiên cứu Xã
hội học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
60. Richard T.Schaefer (2005), Xã hội học, Huỳnh Văn Thanh dịch, Nxb
Thống kê, Hà Nội. tr.158.
61. Nguyễn Văn Rinh (2000), Tác động của những biến đổi kinh tế - xã hội
ở nước ta đến quá trình xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về
chính trị trong giai đoạn mới, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
157
62. Nguyễn Đình Tấn (1998), Cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội, Nxb chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
63. Nguyễn Đình Tấn (chủ biên, 2004), Giáo trình xã hội học trong quản lý,
Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
64. Nguyễn Quý Thanh (2005), "Sự giao thoa giữa vốn xã hội với các giao
dịch kinh tế trong gia đình. So sánh gia đình Việt Nam và gia đình
Hàn Quốc", Tạp chí xã hội học, (2), tr. 109-121.
65. Nguyễn Quý Thanh (2008), Xã hội học về dư luận xã hội, Nxb Đại học
quốc gia Hà Nội.
66. Nguyễn Quý Thanh (2016), Phép đạc tam giác về vốn xã hội của người
Việt Nam: Mạng lưới xã hội - Lòng tin - Sự tham gia, Nxb Đại học
quốc gia Hà Nội.
67. Nguyễn Quý Thanh (2016), Vốn xã hội và phát triển, Nxb Đại học quốc
gia Hà Nội. tr. 278, 279.
68. Ngô Đức Thịnh (2008), "Tiếp cận nông thôn Việt Nam từ mạng lưới xã
hội và vốn xã hội cho phát triển", Tạp chí Cộng sản, ngày 24/9.
69. Lê Minh Tiến (2006), "Tổng quan phương pháp phân tích mạng lưới xã hội
trong nghiên cứu xã hội", Tạp chí Khoa học Xã hội, số 9, tr. 67-77.
70. Tổng cục chính trị (2014), Giáo trình Xã hội học quân sự, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội, tr. 55.
71. Tổng cục Chính trị (2015), Thông báo nội bộ, (Tài liệu phục vụ sinh hoạt
và học tập ở chi bộ hàng tháng), tháng 1 năm 2015.
72. Tổng cục Chính trị (2016), Thông báo nội bộ, (Tài liệu phục vụ sinh hoạt
và học tập ở chi bộ hàng tháng), tháng 3 năm 2016.
73. Trung tâm Từ điển bách khoa quân sự Bộ Quốc phòng, (1996), Từ điển
bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb quân đội nhân dân, Hà Nội.
158
74. Trường Sĩ quan Chính trị (2012), Phòng ngừa, ngăn chặn, giảm thiểu
hiện tượng tự tử, tự sát trong quân đội hiện nay, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội, tr. 21-27.
75. Đào Ngọc Tuấn (2016), "Quản lý các mối quan hệ xã hội của đội ngũ sĩ
quan trẻ trong quân đội hiện nay", Tạp chí Giáo dục lý luận chính
trị quân sự, tr. 83-85.
76. Đào Ngọc Tuấn (2016), "Một số giải pháp quản lý mạng lưới xã hội
nhóm sĩ quan cấp úy ở đơn vị cơ sở trong Quân đội nhân dân Việt
Nam hiện nay", Tạp chí Khoa học Chính trị quân sự, tr. 90-93.
77. Đào Ngọc Tuấn (2017), "Vai trò của vốn xã hội và mạng lưới xã hội đối
với sĩ quan quân đội hiện nay", Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị
quân sự, Số 4, tr. 92-94.
78. Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam (2005), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
79. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016.
80. Viện Xã hội học (Dịch và xuất bản) (1993), Nhập môn Xã hội học, Nxb
khoa học xã hội, Hà Nội.
81. Nguyễn Khắc Viện (1994), Từ điển xã hội học, Nxb Thế giới, Hà Nội.
82. Nguyễn Xuyến (2007), “Bác Hồ với chống bệnh quan liêu”, Tạp chí
Xây dựng Đảng, (11).
83. Warrenkidd (2006), Những bài giảng về xã hội học, Nxb Thống kê, Hà Nội.
II. TIẾNG ANH
84. Yanjie Bian (1977), Bringing Strong ties Back in: Indireet ties, Network
Bridges, and Job Searches in China, American Siciological Revew,
62 (3), pp. 368-385.
85. James Coleman. Foundations of Social Theory. USA: Harvard University
Press. 1994, tr. 306-313.
159
86. Ericksen and Yancey (1980) Class, sector and income determination.
Unpublished manusccript, Temple University.
87. Mark Grannovetter (1973), The Strength of weak ties. The American
Jouranl of Sociologi, 78 pp. 1380-1360.
88. Mark Grannovetter (1983), The Strength of weak ties: A network Theory
revisied. The American Jouranl of Sociologi, pp. 107.
89. N. Lin (1999), Social Networks and Status Attainment, Annual Review of
sociology 25, pp. 467-487.
90. Max Weber (1947) "Theory of social and economic
organization", Published in American.
91. Robert Putnam (1995), Bowling Alone: America's Declining Social
Capital in the Journal of Democracy. The American Jouranl of
Sociologi, pp. 117. 1286-1250.
160
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1: KẾT QUA XỬ LÝ TẦN SUẤT SỐ LIỆU BẢNG HỎI
- Tổng 232 phiếu. Có gia đình 168 đồng chí (72.4%); chưa có gia đình 64 (27.6%).
- Cách tính: Trong mối quan hệ với gia đình bố mẹ đẻ: tính chung (232 phiếu); Với gia
đình bố mẹ vợ và gia đình vợ, con: chỉ tính có vợ (168 phiếu); Với bạn bè: tính đủ 232.
Bảng số 1. Thông tin bản thân
Cơ cấu mẫu điều tra sĩ quan cấp úy
Quân hàm Thiếu úy 19.8
Trung úy 31.5
Thượng úy 35.8
Đại úy 12.9
Chức vụ Cán bộ trung đội 37.9
Cán bộ đại đội 44.0
Cán bộ tiểu đoàn 9.5
Trợ lý tiểu đoàn, trung đoàn 8.6
Loại hình cán bộ (chuyên môn,
nghiêp vụ)
Cán bộ chính trị 39.2
Cán bộ quân sự 52.2
Cán bộ hậu cần - kỹ thuật 8.6
Trình độ đào tạo chuyên môn,
nghiệp vụ
Sơ cấp 12.5
Trung cấp 10.8
Cao đẳng 6.5
Đại học 70.3
Tuổi đời Dưới 25 tuổi 21.1
Từ 26 đến 30 tuổi 33.2
Từ 31 đến 35 tuổi 31.5
Trên 36 tuổi 14.2
Tuổi quân (trải nghiệm thực tiễn) Dưới 5 năm 19.8
6 năm đến 10 năm 28.0
11 năm đến 15 năm 38.4
Trên 16 năm 13.8
Tình trạng hôn nhân
Đã có gia đình 72.4
Chưa có gia đình 27.6
Thành phần dân tộc Dân tộc Kinh 94.8
Dân tộc khác 5.2
161
Bảng số 2. Nơi sinh sống của gia đình sĩ quan cấp úy
Nơi sinh sống Loại gia đình
Gia đình bố mẹ đẻ Gia đình bố mẹ vợ Gia đình vợ, con
Thành phố, thị xã 23.3 41.7 45.8
Nông thôn 73.7 57.1 53.6
Vùng núi cao 3.0 1.2 .6
Bảng số 3. Nghề nghiệp của các thành viên trong gia đình
Nghề nghiệp gia đình Loại gia đình
Bố đẻ Mẹ đẻ Bố vợ Mẹ vợ Vợ
Cán bộ lực lượng vũ trang 25.0 1.3 28.0 1.2 10.7
Viên chức Nhà nước 16.8 12.1 20.8 25.6 45.8
Công nhân 8.6 5.6 10.1 12.5 43.5
Nông dân 42.2 64.2 41.1 60.7
Buôn bán 5.2 9.5
Thợ thủ công 2.2 3.0
Nghề tự do 4.3
Bảng số 4. Khoảng cách từ đơn vị đến gia đình
Khoảng cách từ đơn vị
đến gia đình
Loại gia đình
Gia đình bố mẹ đẻ Gia đình bố mẹ vợ Gia đình vợ, con
Dưới 5 km 4.3 10.7 19.6
Từ 5-10 km 4.7 10.1 20.2
Từ 11-15km 4.7 12.5 19.6
Từ 16-20 km 19.4 23.8 17.9
Từ 21-30 km 7.8 16.7 17.9
Từ 31-50 km 5.6 15.5 4.8
Từ 51-70 km 12.9 10.7
c48. Từ 71-100 km 25.9
Trên 100 km 14.7
162
Bảng số 5. Khoảng cách từ gia đình vợ con đến gia đình bố mẹ đẻ, bố mẹ vợ
Khoảng cách từ gia đình vợ, con đến gia
đình bố mẹ đẻ, bố mẹ vợ
Loại gia đình
Gia đình bố mẹ đẻ Gia đình bố mẹ vợ
Dưới 5 km 3.0 4.2
Từ 5-10 km 4.2 3.0
Từ 11-15 km 20.2 18.5
Từ 16-20 km 15.5 17.3
Từ 21-30 km 28.6 27.4
Từ 31-50 km 11.3 14.3
Từ 51-70 km 7.7 9.5
Từ 71-100 km 9.5 6.0
Bảng số 6. Hình thức, tần suất liên hệ với gia đình
Hình thức, tần suất liên hệ với gia đình Loại gia đình
Hình thức Tần suất Bố mẹ đẻ Bố mẹ vợ Vợ, con
Gặp gỡ khi về phép 1 năm/lần 100.0 100.0 100.0
Gặp gỡ trực tiếp khi
đi tranh thủ
1 tuần/lần .4 1.2 8.9
2 tuần/lần 3.0 6.0 23.8
3 tuần/lần 24.6 32.1 67.3
1 tháng/lần 55.2 60.7
1,5 tháng/lần 6.0
2 tháng/lần 10.8
Gặp gỡ trực tiếp tại
đơn vị
1-3 tháng/lần 3.0
4-6 tháng/lần 16.1
1 năm/lần 27.4
Vài năm/lần 2.2 1.8 53.6
Chưa bao giờ 97.8 98.2
Gọi điện thoại Hàng ngày 100.0
3-5 ngày/lần 3.9 4.2
1 tuần/lần 36.2 45.2
2-3 tuần/lần 53.0 50.6
163
1 tháng/lần 6.9
Vài tháng/lần 3.9
1 năm trở lên/lần 36.2
Gọi điện thoại có
video
Hàng ngày 44.6
3-5 ngày/lần 44.6
1 tuần/lần 16.7
2-3 tuần/lần 22.4
Viết thư tay (thư
giấy)
Vài tháng/lần 3.0
Chưa bao giờ 97.0 100.0 100.0
Nhắn tin bằng điện
thoại
Hàng ngày 58.9
3-5 ngày/tuần 5.2 10.1 41.1
2-3 lần/tháng (hàng
tháng) 33.6 68.4
1 năm trở lên/lần 5.2 21.5
Thông qua internet:
facebook, viber,
zalo…
Hàng ngày 73.2
Hàng tuần 65.4 43.5 26.8
Hàng tháng 21.2 37.0
Hàng năm 13.5 19.6
Gửi email Hàng tuần 11.4
Hàng tháng 59.1
Hàng năm 100.0 100.0 29.5
Bảng số 7. Thời gian và nội dung liên hệ
Thời gian và nội dung liên hệ Loại gia đình
Bố mẹ đẻ Bố mẹ vợ Vợ, con
Thời gian diễn
ra liên hệ
Giờ nghỉ 68.1 97.0 79.8
Ngày nghỉ 23.3 3.0 20.2
Giờ, ngày làm việc 8.6
Nội dung liên
hệ
Kinh tế 17.2 21.4 53.6
Chính trị 8.2 10.7 13.1
Tình cảm 74.6 67.9 33.3
164
Bảng số 8. Vợ là người cùng xã, huyện, tỉnh hay khác tỉnh nơi sinh ra của sĩ quan cấp úy
Nơi sinh của vợ với nơi sinh của sĩ quan cấp úy
Cùng xã Cùng huyện Khác huyện Khác tỉnh
6.5 16.1 50.6 26.8
Bảng số 9. Chỗ ở của vợ con cùng hay khác địa phương với gia đình bố mẹ đẻ và gia
đình bố mẹ vợ
Chỗ ở của vợ, con hiện nay Chỗ ở của gia đình
Gia đình bố mẹ đẻ Gia đình bố mẹ vợ
Cùng địa phương 25.0 29.8
Khác địa phương 75.0 70.2
Bảng số 10. Mức độ ảnh hưởng của gia đình
Mức độ ảnh hưởng của gia đình Loại gia đình
Bố mẹ đẻ Bố mẹ vợ Vợ, con
Khi có công việc cần xin ý kiến thì tham khảo ý
kiến của ai là chủ yếu 24.1 17.2 58.6
Thường nghe theo ý kiến của ai 21.6 15.1 63.4
Ai là người có ảnh hưởng nhất 5.2 2.2 92.7
Sự chi viện, giúp đỡ
của gia đình đối với
sĩ quan cấp úy
Giúp đỡ về vật chất 28.4 25.0 46.6
Giúp đỡ về tinh thần 23.3 27.6 49.1
Sự chi viện, giúp đỡ
của gia đình hai bên
đối với vợ con
Giúp đỡ về vật chất 53.4 46.6
Giúp đỡ về về tinh thần 50.0 50.0
Giúp đỡ chăm sóc con cháu 42.2 57.3
165
Bảng số 11. Hình thức, tần suất liên hệ với bạn bè trước khi nhập ngũ
Hình thức, tần suất liên hệ với bạn
bè trước khi nhập ngũ Các loại bạn bè
Hình thức Tần suất
Bạn bè là
hàng xóm,
láng giềng,
khu phố
Bạn học
phổ thông
các cấp
Tự làm
quen trực
tiếp hoặc
qua các
phương
tiện TTĐC
Bạn bè
thông qua
người
khác, bạn
bè giới
thiệu…
Gặp gỡ khi về
phép
1 năm/lần 6.5 31.0 35.3 3.4
2 năm trở lên/lần 12.9 24.1 26.7 5.2
Gặp gỡ trực tiếp
khi đi tranh thủ
1 tuần/lần 5.2 4.3 2.2 1.3
2 tuần/lần .9 1.7 2.6 3.9
3 tuần/lần 17.2 8.6 6.5 2.6
1 tháng/lần 43.1 34.9 8.6 6.9
1,5 tháng/lần 37.5 23.3 7.3 3.9
2 tháng/lần 26.7 30.2 4.7 3.9
Gặp gỡ tại đơn vị Vài năm/lần 2.6
Chưa bao giờ 100.0 100.0 100.0
Gọi điện thoại 1 tháng/lần 24.6 24.1
Vài tháng/lần 28.4 43.1 26.3 2.2
1 năm trở lên/lần 30.2 17.2 13.8
Gọi điện thoại có
video
2-3 tuần/lần
3.0 24.6 10.8
Viết thư tay Vài tháng/lần 5.2 3.9 1.7 .9
Nhắn tin bằng
điện thoại
2-3 lần/tháng 10.3
1 năm trở lên/lần 14.7 61.6 9.1 6.5
Thông qua
internet:
facebook, viber…
Hàng tuần 13.8
Hàng tháng 31.9 34.1
Hàng năm 7.3 72.0 5.2 4.7
Gửi email Hàng tháng 9.1
Hàng năm 21.1 4.7 2.2
166
Bảng số 12. Hình thức, tần suất liên hệ với bạn bè trong quân đội, đơn vị
Hình thức, tần suất liên hệ
với bạn bè trong quân đội,
đơn vị
Các loại bạn bè
Với
bạn
bè
là
cấp
trên
Những
quân
nhân
có
cùng
cấp
bậc
Với
sĩ
quan
cùng
loại
hình
ngành
nghề
Với
những
người
cùng
nhập
ngũ,
cùng
tuổi
Với
cán
bộ,
chiến
sĩ
cấp
dưới
Với
người
cùng
quê
hương
Mang
tính
chất
gia
đình,
dòng
họ
Với
những
người
có
cùng
sở
thích
Cùng
điều
kiện,
hoàn
cảnh
gia
đình
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9)
Gặp gỡ
khi về
phép
1 năm/lần 5.2 3.0 3.4 18.1 4.7 12.9 19.4 2.2 1.3
2 năm trở lên/lần 4.7 3.4 3.0 12.1 7.8 18.5 15.9 2.6 3.4
Gặp gỡ
khi đi
tranh
thủ
2 tuần/lần 6.5 11.2
3 tuần/lần 8.2 15.1 2.2
1 tháng/lần 3.0 5.2
1,5 tháng/lần 1.7 3.0
Gặp gỡ
trực
tiếp tại
đơn vị
1-3 ngày/lần 3.0 8.6 19.4 11.6 14.2 12.1 8.6 10.8 11.6
1 tuần/lần 4.7 11.6 17.2 12.1 12.9 12.9 10.8 6.9 10.8
c1333. 1 tháng
/lần
10.8 14.2 17.2 11.6 2.2 .9
Vài tháng/lần 6.5 3.9
Gọi
điện
thoại
Hàng ngày 4.3 7.3 25.4 9.5 14.7 18.1 7.3 6.9 6.5
3-5 ngày/lần 4.7 5.6 20.3 10.3 16.4 19.4 9.5 8.6 5.2
1 tuần/lần 5.2 9.5 8.2 14.7 17.2 17.2 10.3 10.8 6.9
2-3 tuần/lần 10.8 8.6 7.3 6.9 15.1 17.2 8.2 9.5 4.3
1 tháng/lần 2.2 5.2 3.0 5.2 3.4 7.3 8.2 8.6 6.5
Vài tháng/lần 1.3 4.7 3.0 5.2 7.3
Gọi
điện có
video
3-5 ngày/lần 2.6 4.7 6.5 1.3 3.0
1 tuần/lần 2.2 1.3 1.7 3.4 4.7 5.2 15.9
2-3 tuần/lần 2.6 2.2 3.9 1.7 6.5 4.7 10.8 12.9
Nhắn
tin
bằng
điện
thoại
Hàng ngày 2.6 32.3 5.2 31.9 10.3 2.6 7.3 7.8 2.6
3-5 ngày/tuần 1.7 29.3 7.3 28.0 10.3 3.0 6.9 6.5 1.7
2-3 lần/tháng 7.3 11.2 4.7 14.7 7.8 6.5 5.2 6.9 7.3
167
Thông
qua
interne
t…
Hàng ngày 3.0 31.0 8.2 6.5 8.2 5.6 9.5 3.9
Hàng tuần 12.5 56.5 6.5 9.5 3.9 5.2 6.0
Hàng tháng 23.7 4.3 5.6 8.6 6.9 12.9 12.9 12.5 12.5
Hàng năm 40.1 5.2 8.2 8.2 6.9
Gửi
Hàng tuần 10.3
Hàng tháng 1.3 2.6 73.3 8.6 5.2 1.7
Hàng năm 30.2 5.2 8.6 6.9 2.2 3.0 3.9
Khi có công việc cần xin ý
kiến thì tham khảo ý kiến
của ai là chủ yếu
4.3 15.9 19.0 9.1 3.4 11.6 25.9 9.1 1.7
Thường nghe theo ý kiến
của ai
12.9 6.9 18.1 10.3 2.6 3.9 38.8 3.9 2.6
Ai là người có ảnh hưởng
nhất
30.2 1.7 32.8 3.4 3.0 20.7 2.2 6.0
Bảng số 13. Hình thức, tần suất liên hệ với bạn bè ngoài quân đội, đơn vị sau khi nhập ngũ
Hình thức, tần suất liên hệ với bạn bè
ngoài quân đội, đơn vị sau khi nhập ngũ Các loại bạn bè
Hình thức Tần suất
Liên hệ với bạn bè là
người địa phương nơi
đóng quân, địa bàn
hoạt động
Liên hệ với bạn bè
khác (thông qua mạng
xã hội như facebook
…)
Gặp gỡ trực tiếp
khi về phép
1 năm/lần 7.3
2 năm trở lên/lần 10.8
Gặp gỡ trực tiếp
khi đi tranh thủ
1 tuần/lần 5.2
2 tuần/lần 3.0
3 tuần/lần 10.8 3.0
1 tháng/lần 46.1 5.2
1,5 tháng/lần 27.2
2 tháng/lần 7.8
Gặp gỡ trực tiếp
tại đơn vị
1-3 tháng/lần 3.0
4-6 tháng/lần 8.2
1 năm/lần 11.6
Chưa bao giờ 77.2
Gọi điện thoại 3-5 ngày/lần 6.0
168
1 tuần/lần 9.9 2.6
2-3 tuần/lần 14.7 6.5
1 tháng/lần 24.1 8.6
Vài tháng/lần 26.7 25.9
1 năm trở lên/lần 18.5 49.6
Gọi điện thoại có
video
Hàng ngày 21.1
3-5 ngày/lần 13.8
1 tuần/lần 5.2
2-3 tuần/lần 3.0
Nhắn tin bằng
điện thoại
Hàng ngày 7.3
3-5 lần/ tuần 4.7 14.7
2-3 lần/tháng 20.3 11.2
1 năm trở lên/lần 48.3 51.7
Thông qua
internet:
facebook, viber…
Hàng ngày 8.2
Hàng tuần 31.9 34.9
Hàng tháng 6.5 10.8
Hàng năm 52.2 26.7
Gửi email Hàng năm 3.0 .9
Bảng số 14. Thời gian, nội dung liên hệ với bạn bè ngoài quân đội, đơn vị sau khi nhập ngũ
Thời gian, nội dung liên hệ với bạn bè
ngoài quân đội, đơn vị sau khi nhập ngũ
Các loại bạn bè
Liên hệ với bạn bè là
người địa phương nơi
đóng quân, địa bàn
hoạt động
Liên hệ với bạn bè
khác (thông qua mạng
xã hội như facebook
…)
Thời gian diễn ra
liên hệ
Giờ nghỉ 14.7 81.0
Ngày nghỉ 79.3 19.0
Giờ làm việc 6.0
Nội dung liên hệ Kinh tế 19.8 30.2
Chính tri 5.2
Tình cảm 34.5 31.9
Giao lưu, giải trí 40.5 37.1
169
Bảng số 15. Thời gian, nội dung liên hệ với bạn bè trước khi nhập ngũ và trong quân
đội (sau khi nhập ngũ)
Thời gian, nội dung liên hệ với bạn bè
trước khi nhập ngũ và trong quân đội
(sau khi nhập ngũ)
Các loại bạn bè
Liên hệ với bạn bè
trong quân đội
Liên hệ với bạn bè
trước khi nhập ngũ
Thời gian
diễn ra liên
hệ
Giờ nghỉ 19.0 78.4
Ngày nghỉ 70.7 19.0
Giờ, ngày làm việc 10.3 2.6
Nội dung
liên hệ
Kinh tế 7.3 27.6
Chính tri 23.3 .9
Tình cảm 30.2 30.2
Giao lưu, giải trí 39.2 41.4
PHỤ LỤC 2: TƯƠNG QUAN LOẠI HÌNH CÁN BỘ
Bảng số 1. Hình thức, tần suất liên hệ với bạn bè trước khi nhập ngũ
Hình thức, tần suất liên hệ với
bạn bè trước khi nhập ngũ
Loại hình cán bộ
Chính trị Quân sự Hậu cận-kỹ
thuật Hình thức Tần suất
Gặp gỡ khi về
phép
1 năm/lần 37.9% 57.6% 4.5%
2 năm trở
lên/lần 41.2% 53.8% 5.0%
Gặp gỡ trực
tiếp khi đi
tranh thủ
1 tuần/lần 36.7% 56.7% 6.7%
2 tuần/lần 38.1% 52.4% 9.5%
3 tuần/lần 44.4% 49.4% 6.2%
1 tháng/lần 38.7% 55.8% 5.5%
1,5 tháng/lần 39.5% 55.7% 4.8%
2 tháng/lần 40.1% 54.6% 5.3%
Gặp gỡ trực
tiếp tại đơn vị Vài năm/lần
33.3% 50.0% 16.7%
Gọi điện thoại Hàng ngày 39,2 52,2 8,6
3-5 ngày/lần 39,2 52,2 8,6
1 tuần/lần 39,2 52,2 8,6
2-3 tuần/lần 36,8 59,3 3,9
170
1 tháng/lần 40,0 53,9 6,1
Vài tháng/lần 44,0 48,0 8,0
Gọi điện thoại
có video
3-5 ngày/lần 47,6 45,2 7,1
1 tuần/lần. 45,0 48,8 6,2
2-3 tuần/lần 37,1 57,1 5,7
Gọi điện thoại
có video 2-3 tuần/lần
41.6% 51.7% 6.7%
Viết thư tay Vài tháng/lần 29.6% 63.0% 7.4%
Nhắn tin bằng
điện thoại 2-3 lần/tháng 33.3% 58.3% 8.3%
1 năm trở
lên/lần 39.0% 56.8% 4.2%
Thông qua
internet:
facebook,
viber…
Hàng tuần 37.5% 53.1% 9.4%
Hàng tháng 40.5% 54.2% 5.2%
Hàng năm 37.7% 58.5% 3.9%
Gửi email Hàng tháng 38.1% 52.4% 9.5%
Hàng năm 43.1% 49.2% 7.7%
Bảng số 2. Hình thức, tần suất liên hệ với bạn bè trong quân đội, đơn vị
Hình thức, tần suất liên hệ với
bạn bè trong quân đội, đơn vị
Loại hình cán bộ
Chính trị Quân sự Hậu cận-kỹ
thuật Hình thức Tần suất
Gặp gỡ trực
tiếp khi về
phép
1 năm/lần 40.5% 54.6% 4.9%
2 năm trở
lên/lần 39.8% 55.4% 4.8%
Gặp gỡ trực
tiếp khi đi
tranh thủ
2 tuần/lần 46.3% 46.3% 7.3%
3 tuần/lần 44.1% 49.2% 6.8%
1 tháng/lần 42.1% 47.4% 10.5%
1,5 tháng/lần 18.2% 72.7% 9.1%
Gặp gỡ trực
tiếp tại đơn vị 1-3 ngày/lần 39.2% 52.2% 8.6%
1 tuần/lần 39.2% 52.2% 8.6%
1 tháng /lần 40.2% 54.5% 5.3%
Vài tháng/lần 33.3% 58.3% 8.3%
Gọi điện thoại Hàng ngày 39.2% 52.2% 8.6%
3-5 ngày/lần 39.2% 52.2% 8.6%
1 tuần/lần 39.2% 52.2% 8.6%
2-3 tuần/lần 36.8% 59.3% 3.9%
171
1 tháng/lần 40.0% 53.9% 6.1%
Vài tháng/lần 44.0% 48.0% 8.0%
Gọi điện thoại
có video 3-5 ngày/lần 47.6% 45.2% 7.1%
1 tuần/lần. 45.0% 48.8% 6.2%
2-3 tuần/lần 37.1% 57.1% 5.7%
Nhắn tin bằng
điện thoại
Hàng ngày 39.2% 52.2% 8.6%
3-5 ngày/tuần 38.9% 56.0% 5.1%
2-3 lần/tháng 39.8% 55.4% 4.8%
Thông qua
internet:
facebook,
viber…
Hàng ngày 37.5% 58.0% 4.5%
Hàng tuần 39.2% 52.2% 8.6%
Hàng tháng 39.2% 52.2% 8.6%
Hàng năm 41.5% 53.5% 5.0%
Gửi email Hàng tuần 33.3% 58.3% 8.3%
Hàng tháng 38.6% 56.3% 5.1%
Hàng năm 41.0% 53.2% 5.8%
Khi có công việc cần xin ý kiến
thì tham khảo ý kiến của ai 39.2% 52.2% 8.6%
Thường nghe theo ý kiến của ai 39.2% 52.2% 8.6%
Ai là người có ảnh hưởng nhất 39.2% 52.2% 8.6%
Bảng số 3. Hình thức, tần suất liên hệ với bạn bè ngoài quân đội, đơn vị sau khi nhập ngũ
Hình thức, tần suất liên hệ với
bạn bè ngoài quân đội, đơn vị
sau khi nhập ngũ
Loại hình cán bộ
Chính trị Quân sự Hậu cận-kỹ
thuật Hình thức Tần suất
Gặp gỡ trực
tiếp khi về
phép
1 năm/lần 35.3% 52.9% 11.8%
2 năm trở
lên/lần 32.0% 60.0% 8.0%
Gặp gỡ trực
tiếp khi đi
tranh thủ
1 tuần/lần 25.0% 66.7% 8.3%
2 tuần/lần 28.6% 57.1% 14.3%
3 tuần/lần 37.5% 53.1% 9.4%
1 tháng/lần. 40.3% 53.8% 5.9%
1,5 tháng/lần 44.4% 47.6% 7.9%
2 tháng/lần. 38.9% 50.0% 11.1%
Gặp gỡ trực
tiếp tại đơn vị 1-3 tháng/lần 28.6% 57.1% 14.3%
4-6 tháng/lần. 42.1% 47.4% 10.5%
1 năm/lần. 29.6% 63.0% 7.4%
Chưa bao giờ. 38.5% 57.0% 4.5%
Gọi điện thoại 3-5 ngày/lần. 28.6% 57.1% 14.3%
172
1 tuần/lần 34.5% 58.6% 6.9%
2-3 tuần/lần 44.9% 46.9% 8.2%
1 tháng/lần 43.4% 50.0% 6.6%
Vài tháng/lần. 39.3% 54.9% 5.7%
1 năm trở
lên/lần 41.8% 53.2% 5.1%
Gọi điện thoại
có video Hàng ngày 44.9% 46.9% 8.2%
3-5 ngày/lần 37.5% 53.1% 9.4%
1 tuần/lần 25.0% 66.7% 8.3%
2-3 tuần/lần 28.6% 57.1% 14.3%
Nhắn tin bằng
điện thoại Hàng ngày. 35.3% 52.9% 11.8%
3-5 lần/tuần 48.9% 42.2% 8.9%
2-3 lần/tháng 42.5% 50.7% 6.8%
1 năm trở
lên/lần 39.2% 52.2% 8.6%
Thông qua
internet:
facebook,
viber…
Hàng ngày 42.1% 47.4% 10.5%
Hàng tuần 41.3% 53.5% 5.2%
Hàng tháng 45.0% 47.5% 7.5%
Hàng năm 39.9% 55.7% 4.4%
Gửi email Hàng năm 22.2% 66.7% 11.1%
Bảng số 4. Thời gian, nội dung liên hệ với bạn bè ngoài quân đội, đơn vị sau khi nhập ngũ
Thời gian, nội dung liên hệ với
bạn bè ngoài quân đội, đơn vị
sau khi nhập ngũ
Loại hình cán bộ
Chính trị Quân sự Hậu cận-kỹ
thuật Hình thức Tần suất
Thời gian diễn
ra liên hệ
Giờ nghỉ 38.3% 54.5% 7.2%
Ngày nghỉ 39.0% 53.1% 7.9%
Giờ làm việc 28.6% 57.1% 14.3%
Nội dung liên
hệ Kinh tế 40.5% 53.4% 6.0%
Chính tri 25.0% 66.7% 8.3%
Tình cảm 40.9% 53.9% 5.2%
Giao lưu, giải
trí 38.9% 56.7% 4.4%
173
PHỤ LỤC 3: TƯƠNG QUAN NƠI SINH CỦA SĨ QUAN CẤP ÚY
Bảng số 1. Cấp bậc
Cấp bậc
Nơi sinh của sĩ quan cấp úy
Tổng Thành phố, thị
xã Nông thôn Vùng núi
Thiếu úy 45.8 16.4 28.6 19.8
Trung úy 25.0 32.8 14.3 31.5
Thượng úy 12.5 38.8 28.6 35.8
Đại úy 16.7 11.9 28.6 12.9
Tổng 10.3 86.6 3.0 100.0
Bảng số 2. Chức vụ
Chức vụ
Nơi sinh của sĩ quan cấp úy
Tổng Thành phố, thị
xã Nông thôn Vùng núi
Cán bộ trung đội 37.5 37.8 42.9 37.9
Cán bộ đại đội 41.7 45.8 .0 44.0
Cán bộ tiểu đoàn 8.3 9.5 .0 9.1
Trợ lý tiểu đoàn, trung
đoàn 42.9 7.0 57.1 9.1
Tổng 10.3 86.6 3.0 100.0
Bảng số 3. Loại hình cán bộ
Loại hình cán bộ
Nơi sinh của sĩ quan cấp úy
Tổng Thành phố, thị
xã Nông thôn Vùng núi
Cán bộ chính trị 41.7 38.3 57.1 39.2
Cán bộ quân sự 50.0 54.2 .0 52.2
Cán bộ hậu cần - kỹ thuật 8.3 7.5 42.9 8.6
Tổng 10.3 86.6 3.0 100.0
174
Bảng số 4. Trình độ đào tạo chuyên môn nghiệp vụ
Trình độ đào tạo chuyên
môn nghiệp vụ
Nơi sinh của sĩ quan cấp úy
Tổng Thành phố, thị
xã Nông thôn Vùng núi
Sơ cấp 16.7 12.4 .0 12.5
Trung cấp 20.8 9.5 14.3 10.8
Cao đẳng .0 7.0 14.3 6.5
Đại học 62.5 71.1 71.4 70.3
Tổng 10.3 86.6 3.0 100.0
Bảng số 5. Tuổi đời
Tuổi đời
Nơi sinh của sĩ quan cấp úy
Tổng Thành phố,
thị xã Nông thôn Vùng núi
Dưới 25 tuổi 41.7 17.4 57.1 21.1
Từ 26-30 tuổi 29.2 34.8 .0 33.2
Từ 31-35 tuổi 12.5 34.3 14.3 31.5
Trên 36 tuổi 16.7 13.4 28.6 14.2
Tổng 10.3 86.6 3.0 100.0
Bảng số 6. Tuổi quân
Tuổi quân
Nơi sinh của sĩ quan cấp úy
Tổng Thành phố, thị
xã Nông thôn Vùng núi
Dưới 5 năm 14.3 21.9 14.3 19.8
Từ 6-10 năm 20.8 29.9 .0 28.0
Từ 11-15 năm 50.0 36.3 57.1 38.4
Trên 16 năm 25.0 11.9 28.6 13.8
Tổng 10.3 86.6 3.0 100.0
175
Bảng số 7. Tình trạng hôn nhân
Tình trạng hôn nhân
Nơi sinh của sĩ quan cấp úy
Tổng Thành phố, thị
xã Nông thôn Vùng núi
Đã có gia đình 54.2 74.1 85.7 72.4
Chưa có gia đình 45.8 25.9 14.3 27.6
Tổng 10.3 86.6 3.0 100.0
Bảng số 8. Thành phần dân tộc
Thành phần dân tộc
Nơi sinh của sĩ quan cấp úy
Tổng Thành phố, thị
xã Nông thôn Vùng núi
Dân tộc Kinh 95.8 95.0 85.7 94.8
Dân tộc khác 14.3 5.0 14.3 5.2
Tổng 10.3 86.6 3.0 100.0
Bảng số 9. Xuất thân nghề nghiệp bố đẻ của sĩ quan cấp úy
Xuất thân nghề nghiệp
bố đẻ của sĩ quan cấp úy
Nơi sinh của sĩ quan cấp úy
Tổng Thành phố, thị
xã Nông thôn Vùng núi
Lực lượng vũ trang 37.5 22.4 57.1 25.0
Viên chức Nhà nước 8.3 18.4 .0 16.8
Công nhân 4.2 9.5 .0 8.6
Nông dân 50.0 42.3 14.3 42.2
Buôn bán .0 5.5 14.3 5.2
Thợ thủ công .0 2.0 14.3 2.2
Tổng 10.3 86.6 3.0 100.0
176
Bảng số 10. Xuất thân nghề nghiệp mẹ đẻ của sĩ quan cấp úy
Xuất thân nghề nghiệp
mẹ đẻ của sĩ quan cấp úy
Nơi sinh của sĩ quan cấp úy
Tổng Thành phố, thị
xã Nông thôn Vùng núi
Lực lượng vũ trang 8.3 .5 .0 1.3
Viên chức Nhà nước 8.3 12.4 14.3 12.1
Công nhân 4.2 5.5 14.3 5.6
Nông dân 62.5 65.7 28.6 64.2
Buôn bán 8.3 9.5 14.3 9.5
Thợ thủ công .0 3.0 14.3 3.0
Nghề tự do 8.3 3.5 14.3 4.3
Tổng 10.3 86.6 3.0 100.0
Bảng số 11. Khoảng cách từ đơn vị đến gia đình bố mẹ đẻ
Khoảng cách từ đơn vị
đến gia đình bố mẹ đẻ
Nơi sinh của sĩ quan cấp úy
Tổng Thành phố, thị
xã Nông thôn Vùng núi
Dưới 5 km .0 5.0 .0 4.3
Từ 5-10 km 4.2 5.0 .0 4.7
Từ 11-15 km 4.2 5.0 .0 4.7
Từ 16-20 km 25.0 18.4 28.6 19.4
Từ 21-30 km 8.3 8.0 .0 7.8
Từ 31-5 km 4.2 6.0 .0 5.6
Từ 51-70 km 8.3 13.4 14.3 12.9
Từ 71-100 km 33.3 24.9 28.6 25.9
Trên 100 km 12.5 14.4 28.6 14.7
Tổng 10.3 86.6 3.0 100.0
177
Bảng số 12. Hình thức, tần suất liên hệ với gia đình bố mẹ đẻ
Hình thức, tần suất liên hệ với gia đình bố
mẹ đẻ Nơi sinh của sĩ quan cấp úy
Hình thức Tần suất Thành phố, thị
xã Nông thôn Vùng núi
Gặp gỡ trực tiếp khi
về phép 1 năm/lần 100.0 100.0 100.0
Gặp gỡ trực tiếp khi
đi tranh thủ
1 tuần/lần .0 .5 .0
2 tuần/lần 4.2 2.5 14.3
3 tuần/lần 83.3 18.4 .0
1 tháng/lần .0 62.2 42.9
1-2 tháng/lần 8.3 5.5 14.3
2 tháng/lần 4.2 10.9 28.6
Gặp gỡ trực tiếp tại
đơn vị
Vài năm/lần .0 2.5 .0
Chưa bao giờ 100.0 97.5 100.0
Gọi điện thoại 3-5 ngày/tuần 4.2 3.5 14.3
1 tuần/lần 91.7 30.3 14.3
2-3 tuần/lần .0 59.7 42.9
1 tháng/lần 4.2 6.5 28.6
Viết thư tay (thư
giấy)
Vài tháng/lần 4.2 1.5 14.3
Chưa bao giờ 95.8 98.5 85.7
Nhắn tin bằng điện
thoại
3-5 ngày/tuần 8.3 12.8 .0
2-3 lần/tháng 91.7 71.8 .0
1 năm trở lên .0 15.4 .0
Thông qua internet:
facebook, viber,
zalo…
Hàng tuần 63.6 66.7 .0
Hàng tháng 9.1 30.0 .0
Hàng năm 27.3 3.3 .0
178
Bảng số 13. Thời gian và nội dung liên hệ với bố mẹ đẻ
Thời gian và nội dung
liên hệ với bố mẹ đẻ
Nơi sinh của sĩ quan cấp úy
Tổng Thành phố, thị
xã Nông thôn Vùng núi
Thời gian
liên hệ
Giờ nghỉ 62.5 69.7 42.9 68.1
Ngày nghỉ 16.7 23.4 42.9 23.3
Giờ làm việc 20.8 7.0 14.3 8.6
Nội dung
liên hệ
Kinh tế 25.0 16.9 .0 17.2
Chính trị 12.5 8.0 .0 8.2
Tình cảm 62.5 75.1 100.0 74.6
Bảng số 14. Mức độ ảnh hưởng của gia đình bố mẹ đẻ
Mức độ ảnh hưởng của gia đình bố
mẹ đẻ
Nơi sinh của sĩ quan cấp úy
Tổng Thành phố, thị
xã Nông thôn Vùng núi
Khi có công việc cần xin ý kiến của
bố mẹ 4.2 27.4 .0 24.1
Thường nghe theo ý kiến của bố mẹ 16.7 22.9 .0 21.6
Bố mẹ là người có ảnh hưởng nhất .0 6.0 .0 5.2
Giúp đỡ về vật chất của bố mẹ 12.5 30.8 14.3 28.4
Giúp đỡ về tinh thần của bố mẹ 12.5 25.4 .0 23.3
179
PHỤ LỤC 4: PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN
(Dùng cho sĩ quan cấp úy)
Đồng chí thân mến!
Để đánh giá đúng thực trạng mạng lưới xã hội (MLXH) của nhóm sĩ quan cấp úy
(SQCU) Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay; từ đó đưa ra đề xuất, khuyến nghị một số
giải pháp quản lý MLXH của nhóm SQCU thời gian tới hiệu quả. Xin đồng chí trả lời một
số thông tin dưới đây. Đồng ý phương án nào thì đồng chí đánh dấu X vào bên phải
phương án trả lời. Đồng chí không cần ghi tên mình vào phiếu.
Xin cảm ơn sự hợp tác của đồng chí!
1. Đồng chí cho biêt thông tin bản thân?
Thông tin bản thân
Cấp bậc quân hàm Thiếu úy
Trung úy
Thượng úy
Đại úy
Chức vụ Cán bộ trung đội
Cán bộ đại đội
Cán bộ tiểu đoàn
Trợ lý tiểu đoàn, trung đoàn
Loại hình cán bộ (chuyên
môn, nghiêp vụ)
Cán bộ chính trị
Cán bộ quân sự
Cán bộ hậu cần - kỹ thuật
Trình độ đào tạo chuyên môn,
nghiệp vụ
Sơ cấp
Trung cấp
Cao đẳng
Đại học
Tuổi đời Dưới 25 tuổi
180
Từ 26 đến 30 tuổi
Từ 31 đến 35 tuổi
Trên 36 tuổi
Tuổi quân (trải nghiệm thực
tiễn)
Dưới 5 năm
6 năm đến 10 năm
11 năm đến 15 năm
Trên 16 năm
Tình trạng hôn nhân Đã có gia đình
Chưa có gia đình
Thành phần dân tộc Dân tộc Kinh
Dân tộc khác
2. Nơi sinh sống của gia đình? (Những đồng chí đã có gia đình: Thêm thông tin
gia đình bố mẹ vợ và vợ, con)
Nơi sinh sống
Loại gia đình
Gia đình bố mẹ đẻ Gia đình bố mẹ vợ Gia đình vợ, con
Thành phố, thị xã
Nông thôn
Vùng núi cao
3. Xuất thân nghề nghiệp gia đình (Những đồng chí đã có gia đình: Thêm thông
tin gia đình bố mẹ vợ và vợ)
Xuất thân nghề nghiệp
gia đình Bố đẻ Mẹ đẻ Bố vợ Mẹ vợ Vợ
Cán bộ LLVT
Viên chức Nhà nước
Công nhân
Nông dân
Buôn bán
Thợ thủ công
Nghề tự do
181
4. Khoảng cách từ đơn vị đến gia đình (Những đồng chí đã có gia đình: Thêm
thông tin gia đình bố mẹ vợ và vợ, con)
Khoảng cách từ
đơn vị đến gia đình
Loại gia đình
Gia đình bố mẹ đẻ Gia đình bố mẹ vợ Gia đình vợ, con
Dưới 5 km
Từ 5-10 km
Từ 11-15km
Từ 16-20 km
Từ 21-30 km
Từ 31-50 km
Từ 51-70 km
Từ 71-100 km
Trên 100 km
5. Khoảng cách từ gia đình vợ, con đến gia đình bố mẹ đẻ, bố mẹ vợ (chỉ những
đồng chí có gia đình)
Khoảng cách từ gia đình vợ con đến gia
đình bố mẹ đẻ, bố mẹ vợ
Loại gia đình
Gia đình bố mẹ đẻ Gia đình bố mẹ vợ
Dưới 5 km
Từ 5-10 km
Từ 11-15km
Từ 16-20 km
Từ 21-30 km
Từ 31-50 km
Từ 51-70 km
Từ 71-100 km
Trên 100 km
182
6. Hình thức, tần suất liên hệ với gia đình
Hình thức, tần suất liên hệ với gia
đình Loại gia đình
Hình thức Tần suất Gia đình bố
mẹ đẻ
Gia đình bố
mẹ vợ
Gia đình vợ,
con
Gặp gỡ khi
về phép
1 năm/lần
2 năm trở lên/lần
Gặp gỡ khi
đi tranh thủ
1 tuần/lần
2 tuần/lần
3 tuần/lần
1 tháng/lần
1,5 tháng/lần
2 tháng/lần
Gặp gỡ tại
đơn vị
1-3 tháng/lần
4-6 tháng/lần
1 năm/lần
Vài năm/lần
Chưa bao giờ
Gọi điện
thoại
Hàng ngày
3-5 ngày/lần
1 tuần/lần
2-3 tuần/lần
1 tháng/lần
Vài tháng/lần
1 năm trở lên/lần
Gọi điện
thoại có
video
Hàng ngày
3-5 ngày/lần
1 tuần/lần
2-3 tuần/lần
Viết thư tay
(thư giấy)
1-3 tuần/lần
1 tháng/lần
183
Vài tháng/lần
Chưa bao giờ
Nhắn tin
bằng điện
thoại
Hàng ngày
3-5 ngày/tuần
2-3 lần/tháng
1 năm trở lên/lần
Thông qua
internet:
facebook,
zalo…
Hàng ngày
Hàng tuần
Hàng tháng
Hàng năm
Gửi email Hàng tuần
Hàng tháng
Hàng năm
7. Thời gian và nội dung liên hệ với gia đình
Thời gian và nội dung liên hệ Loại gia đình
Bố mẹ đẻ Bố mẹ vợ Vợ, con
Thời gian
liên hệ
Giờ nghỉ
Ngày nghỉ
Giờ, ngày làm việc
Nội dung
liên hệ
Kinh tế
Chính trị
Tình cảm
Giao lưu, giải trí
8. Vợ là người cùng xã, huyện, tỉnh hay khác tỉnh nơi sinh ra của sĩ quan cấp úy
(chỉ những đồng chí có vợ)
Nơi sinh của vợ với nơi
sinh của sĩ quan cấp úy
Cùng xã Cùng huyện Khác huyện Khác tỉnh
184
9. Chỗ ở của vợ con cùng hay khác địa phương với gia đình bố mẹ đẻ và gia
đình bố mẹ vợ (chỉ những đồng chí có vợ)
Chỗ ở của vợ, con hiện nay Chỗ ở của gia đình
Gia đình bố mẹ đẻ Gia đình bố mẹ vợ
Cùng địa phương
Khác địa phương
10. Mức độ ảnh hưởng của gia đình
Mức độ ảnh hưởng của gia đình Loại gia đình
Bố mẹ đẻ Bố mẹ vợ Vợ, con
Khi có công việc cần xin ý kiến thì tham khảo
ý kiến của ai là chủ yếu
Thường nghe theo ý kiến của ai
Ai là người có ảnh hưởng nhất
Sự chi viện, giúp
đỡ của gia đình đối
với sĩ quan cấp úy
Giúp đỡ về vật chất
Giúp đỡ về tinh thần
Sự chi viện, giúp
đỡ của gia đình hai
bên đối với vợ con
Giúp đỡ về vật chất
Giúp đỡ về về tinh thần
Giúp đỡ chăm sóc con
cháu
185
11. Hình thức, tần suất liên hệ với bạn bè trước khi nhập ngũ
Hình thức, tần suất liên hệ với bạn
bè trước khi nhập ngũ Các loại bạn bè
Hình thức Tần suất
Bạn bè là
hàng xóm,
láng giềng,
khu phố
Bạn học
phổ thông
các cấp
Tự làm
quen trực
tiếp hoặc
qua các
phương
tiện TTĐC
Bạn bè
thông qua
người
khác, bạn
bè giới
thiệu…
Gặp gỡ khi về
phép
1 năm/lần
2 năm trở lên/lần
Gặp gỡ trực tiếp
khi đi tranh thủ
1 tuần/lần
2 tuần/lần
3 tuần/lần
1 tháng/lần
1,5 tháng/lần
2 tháng/lần
Gặp gỡ tại đơn vị Vài năm/lần
Chưa bao giờ
Gọi điện thoại 1 tháng/lần
Vài tháng/lần
1 năm trở lên/lần
Gọi điện thoại có
video
2-3 tuần/lần
Viết thư tay Vài tháng/lần
Nhắn tin bằng
điện thoại
2-3 lần/tháng
1 năm trở lên/lần
Thông qua
internet:
facebook, viber…
Hàng tuần
Hàng tháng
Hàng năm
Gửi email Hàng tháng
Hàng năm
186
12. Hình thức, tần suất liên hệ với bạn bè trong quân đội, đơn vị
Hình thức, tần suất liên hệ
với bạn bè trong quân đội,
đơn vị
Các loại bạn bè
Với
bạn
bè
là
cấp
trên
Những
quân
nhân
có
cùng
cấp
bậc
Với
sĩ
quan
cùng
loại
hình
ngành
nghề
Với
những
người
cùng
nhập
ngũ,
cùng
tuổi
Với
cán
bộ,
chiến
sĩ
cấp
dưới
Với
người
cùng
quê
hương
Mang
tính
chất
gia
đình,
dòng
họ
Với
những
người
có
cùng
sở
thích
Cùng
điều
kiện,
hoàn
cảnh
gia
đình
Gặp gỡ
khi về
phép
1 năm/lần
2 năm trở
lên/lần
Gặp gỡ
khi đi
tranh thủ
1 tuần/lần
2 tuần/lần
3 tuần/lần
1 tháng/lần
1,5 tháng/lần
2 tháng/lần
Gặp gỡ
tại đơn
vị
1-3 ngày/lần
1 tuần/lần
1 tháng /lần
Vài tháng/lần
Gọi điện
thoại
Hàng ngày
3-5 ngày/lần
1 tuần/lần
2-3 tuần/lần
1 tháng/lần
Vài tháng/lần
Gọi điện
thoại có
video
Hàng ngày
3-5 ngày/lần
. 1 tuần/lần
2-3 tuần/lần
Viết thư
tay (thư
giấy)
c1361. 1-3
tuần/lần
c1362. 1
187
tháng/lần
Vài tháng/lần
Nhắn tin
bằng
điện
thoại
Hàng ngày
3-5 ngày/tuần
2-3 lần/tháng
1 năm trở
lên/lần
Thông
qua
internet:
, zalo…
Hàng ngày
Hàng tuần
Hàng tháng
Hàng năm
Gửi
Hàng tuần
Hàng tháng
Hàng năm
Khi có công việc cần xin ý
kiến thì tham khảo ý kiến
của ai là chủ yếu
Thường nghe theo ý kiến
của ai
Ai là người có ảnh hưởng
nhất
14. Hình thức, tần suất liên hệ với bạn bè ngoài quân đội, đơn vị sau khi nhập ngũ
Hình thức, tần suất liên hệ với bạn bè
ngoài quân đội, đơn vị sau khi nhập
ngũ
Các loại bạn bè
Bạn bè là người địa
phương nơi đóng
quân, địa bàn hoạt
động
Bạn bè khác (thông
qua mạng xã hội
như facebook,
yahoo, zalo…)
Gặp gỡ khi về
phép
1 năm/lần
2 năm trở lên/lần
Gặp gỡ trực
tiếp khi đi
tranh thủ
1 tuần/lần
2 tuần/lần
3 tuần/lần
188
1 tháng/lần
1,5 tháng/lần
2 tháng/lần
Gặp gỡ trực
tiếp bạn bè tại
đơn vị
1-3 tháng/lần
4-6 tháng/lần
1 năm/lần
Chưa bao giờ
Gọi điện thoại Hàng ngày
3-5 ngày/lần
1 tuần/lần
2-3 tuần/lần
1 tháng/lần
Vài tháng/lần
1 năm trở lên/lần
Gọi điện thoại
có video
Hàng ngày
3-5 ngày/lần
1 tuần/lần
2-3 tuần/lần
Viết thư tay
(thư giấy)
1-3 tuần/lần
1 tháng/lần
Vài tháng/lần
Nhắn tin bằng
điện thoại
Hàng ngày
3-5 ngày/tuần
2-3 lần/tháng
1 năm trở lên/lần
Thông qua
internet:
facebook,
viber, zalo…
Hàng ngày
Hàng tuần
Hàng tháng
Hàng năm
Gửi email Hàng tuần
Hàng tháng
Hàng năm
189
15. Thời gian, nội dung liên hệ với bạn bè trước và sau khi nhập ngũ
Thời gian, nội dung liên hệ
với bạn bè trước và sau khi
nhập ngũ
Các loại bạn bè
Bạn bè trước
khi nhập ngũ
Bạn bè sau khi nhập ngũ
Bạn bè trong
quân đội
Bạn bè ngoài quân đội
Bạn bè là
người địa
phương nơi
đóng quân,
địa bàn hoạt
động
Bạn bè thông
qua mạng xã
hội như
facebook,
yahoo, zalo…
Thời
gian
liên hệ
Giờ nghỉ
Ngày nghỉ
Giờ làm việc
Nội
dung
liên hệ
Kinh tế
Chính tri
Tình cảm
Giao lưu, giải trí
190
PHỤ LỤC 5: CÂU HỎI PHỎNG VẤN SÂU
(Dùng cho sĩ quan úy và cấp cấp tá)
Thông tin người trả lời: Cấp bậc:
Chức vụ:
Câu hỏi 1: Theo đồng chí, trong quân đội, ngoài các quan hệ xã hội
chính thức, nhóm sĩ quan cấp úy còn hình thành những quan hệ xã hội không
chính thức nào? Đánh giá về các quan hệ xã hội đó?
Câu hỏi 2: Ảnh hưởng của các quan hệ xã hội không chính thức của sĩ
quan cấp úy ở đơn vị?
Câu hỏi 3: Vai trò của mối quan hệ giữa những sĩ quan cấp úy có cùng
ngành nghề ở đơn vị?
Câu hỏi 4: Ở đơn vị hiện nay, có ý kiến cho rằng giữa sĩ quan cấp úy có
sự gia tăng khoảng cách về mặt quan hệ? Đánh giá của đồng chí về vấn đề này?
Câu hỏi 5: Đồng chí cho biết quan hệ xã hội bên ngoài quân đội của
nhóm sĩ quan cấp úy hiện nay như thế nào?
Câu hỏi 6: Mối quan hệ với gia đình, người thân của sĩ quan cấp úy
hiện nay có vai trò như thế nào đối với sĩ quan cấp úy ở đơn vị?
Câu hỏi 7: Quan hệ với gia đình nơi vợ, con và gia đình nơi bố mẹ sinh
sống hiện nay như thế nào?
Câu hỏi 8: Xu hướng lấy vợ và hợp lý hóa gia đình của nhóm sĩ quan
cấp úy hiện nay?
Câu hỏi 9: So sánh về số lượng và mật độ liên hệ với bạn bè trước và
sau khi nhập ngũ của sĩ quan cấp úy hiện nay?
Câu hỏi 10: Vai trò của thiết chế xã hội quân đội trong việc quản lý
quan hệ xã hội của nhóm sĩ quan cấp úy hiện nay?
Câu hỏi 11: Thời gian liên hệ với gia đình là khi nào?
Câu hỏi 12: Gia đình có tác động thế nào đối với động cơ phấn
đấu của đồng chí?