MỤC LỤC - tamhai.edu.vntamhai.edu.vn/hinhanh/tintuc/Mot so van de co ban ve tai chinh tien te...
Transcript of MỤC LỤC - tamhai.edu.vntamhai.edu.vn/hinhanh/tintuc/Mot so van de co ban ve tai chinh tien te...
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 6
MỞ ĐẦU 8
Phần 1. VAI TRÒ TÀI CHÍNH TIỀN TỆ VÀ KINH NGHIỆM
NƯỚC NGOÀI VỀ SỬ DỤNG CHÍNH SÁCH TÀI
CHÍNH, TIỀN TỆ TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG MỞ CỬA HỘI NHẬP 15
Chương 1. NHỮNG NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN MỚI VỀ TÀI
CHÍNH, TIỀN TỆ TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
MỞ CỬA HỘI NHẬP 16
1.1. NHỮNG NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN MỚI VỀ TÀI CHÍNH VÀ
CSTK TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 16
1.1.1. Quan niệm về tài chính, chức năng và vai trò của tài chính trong kinh tế thị
trường 16
1.1.2. Chính sách tài khóa và sử dụng các công cụ của chính sách tài khóa 22
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG MỞ CỦA HỘI NHẬP 29
1.2.1. Xác định mục tiêu của chính sách tiền tệ 29
1.2.2. Các công cụ của chính sách tiền tệ và sự lựa chọn 32
1.2.3. Chính sách ngoại hối và chế độ điều hành tỷ giá 39
1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH 42
1.3.1. Cấu trúc của thị trường tài chính 42
1.3.2. Các công cụ của thị trường tài chính và sự phát triển của nghiệp vụ chứng khoán
hóa 44
1.4. PHỐI HỢP ĐỒNG BỘ CSTK VÀ CSTT TRONG ĐIỀU TIẾT
KINH TẾ VĨ MÔ 47
1.4.1. Các quan điểm lý thuyết về sự phối hợp giữa CSTK và CSTT trong điều tiết kinh
tế vĩ mô. 47
1.4.2. Mối quan hệ tác động qua lại giữa CSTK và CSTT trong việc thực hiện các mục
tiêu kinh tế vĩ mô 50
Chương 2. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ TRONG VIỆC SỬ DỤNG
CÔNG CỤ TÀI CHÍNH, TIỀN TỆ THÚC ĐẨY TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ 53
2.1. KINH NGHIỆM CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á 53
2.1.1. Kinh nghiệm về thực thi CSTK 53
2.1.2. Kinh nghiệm về phát triển TTTC 56
2.2. KINH NGHIỆM CỦA TRUNG QUỐC 59
2.2.1. Kinh nghiệm về thực thi CSTK 59
2
2.2.2. Kinh nghiệm về thực thi CSTT 63
2.2.3. Kinh nghiệm về cải cách hệ thống tỷ giá hối đoái 71
2.2.4. Kinh nghiệm về thiết lập hệ thống giám sát tài chính hiện đại 74
2.3. KINH NGHIỆM CỦA HÀN QUỐC 78
2.3.1. Kinh nghiệm về thực thi CSTK 78
2.3.2. Kinh nghiệm về thực thi CSTT 80
2.3.3. Kinh nghiệm về giám sát TTTC 86
Phần 2. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TÀI
CHÍNH, TIỀN TỆ CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN
2001-2005 92
Chương 1. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001-2005 93
1.1. THỰC TRẠNG QUY MÔ, CƠ CẤU THU NSNN GIAI ĐOẠN
2001-2005 93
1.1.1. Đánh giá kết quả chuyển dịch quy mô và cơ cấu thu NSNN giai đoạn 2001-2005 93
1.1.2. Những vấn đề đặt ra trong quá trình chuyển dịch cơ cấu thu NSNN giai đoạn
2001-2005 97
1.2. THỰC TRẠNG QUY MÔ, CƠ CẤU CHI NSNN GIAI ĐOẠN
2001-2005 109
1.2.1. Đánh giá kết quả thực hiện cơ cấu chi NSNN giai đoạn 2001-2005 109
1.2.2. Những vấn đề đặt ra về chi NSNN giai đoạn 2001-2005 124
1.3. THỰC TRẠNG BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ NỢ
CÔNG GIAI ĐOẠN 2001-2005 128
1.3.1. Đánh giá kết quả xử lý bội chi ngân sách nhà nước và nợ công giai đoạn 2001-
2005 128
1.3.2. Những vấn đề đặt ra trong xử lý bộ chi NSNN và quản lý nợ công giai đoạn
2001-2005 131
Chương 2. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001-2005 142
2.1. THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ GIAI
ĐOẠN 2001-2005 142
2.1.1. Đánh giá kết quả thực hiện CSTT giai đoạn 2001-2005 142
2.1.2. Những vấn đề đặt ra trong điều hành CSTT giai đoạn 2001-2005 143
2.2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NGOẠI HỐI VÀ ĐIỀU HÀNH TỶ
GIÁ GIAI ĐOẠN 2001-2005 150
2.2.1. Đánh giá kết quả quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá giai đoạn 2001-2005 150
2.2.2. Những vấn đề đặt ra về quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá giai đoạn 2001-
2005 155
3
2.3. THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT GIAI
ĐOẠN 2001-2005 162
2.3.1. Đánh giá tình hình thực hiện chính sách tín dụng và lãi suất giai đoạn 2001-2005 162
2.3.2. Những vấn đề đặt ra trong chính sách tín dụng và lãi suất giai đoạn 2001-2005 166
2.4. THỰC TRẠNG PHỐI HỢP CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VÀ
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN 2001-2005 169
2.4.1. Đánh giá kết quả phối hợp CSTK và CSTT trong việc thực hiện các mục tiêu
kinh tế vĩ mô 169
2.4.2. Những hạn chế của cơ chế phối hợp CSTK và CSTT trong việc thực hiện các
mục tiêu kinh tế vĩ mô. 170
Chương 3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ
TRƯỜNG TÀI CHÍNH GIAI ĐOẠN 2001-2005 175
3.1. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN 2001-2005 175
3.1.1. Đánh giá tình hình phát triển của thị trường tiền tệ giai đoạn 2001-2005 175
3.1.2. Những vấn đề đặt ra đối với thị trường tiền tệ giai đoạn 2001-2005 177
3.2. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG VỐN GIAI ĐOẠN 2001-2005 180
3.2.1. Đánh giá thực trạng phát triển thị trường vốn giai đoạn 2001-2005 180
3.2.2. Những vấn đề đặt ra trong việc phát triển thị trường vốn giai đoạn 2001-2005 185
3.3. THỰC TRẠNG THANH TRA GIÁM SÁT THỊ TRƯỜNG TÀI
CHÍNH GIAI ĐOẠN 2001-2005 191
3.3.1. Thực trạng thanh tra, giám sát ngân hàng giai đoạn 2001-2005 191
3.3.2. Thực trạng thanh tra, giám sát bảo hiểm 195
3.3.3. Thực trạng thanh tra, giám sát chứng khoán 198
3.3.4. Đánh giá sự phối hợp giữa các cơ quan thanh tra, giám sát tài chính 203
Phần 3. MỤC TIÊU ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI
CSTC, TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN 2006-2010 208
Chương 1. NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ MỤC TIÊU ĐỊNH
HƯỚNG HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 2006-2010 209
1.1. NHỮNG XU HƯỚNG VÀ ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ
TRONG NƯỚC ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG TÀI
CHÍNH, TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN 2006-2010 209
1.1.1. Xu hướng và đặc điểm kinh tế thế giới giai đoạn 2006-2010 209
1.1.2. Bối cảnh kinh tế trong nước giai đoạn 2006-2010 216
1.2. CÁC MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ ĐỊNH HƯỚNG LỚN VỀ
KINH TẾ, TÀI CHÍNH TIỀN TỆ ĐẾN 2010 220
1.2.1. Các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội đến 2010 220
1.2.2. Các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu 221
1.2.3. Các định hướng phát triển tài chính, tiền tệ đến năm 2010 221
4
1.3. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CHỦ YẾU ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006-2010 222
1.3.1. Cơ hội đối với hoạt động kinh tế và tài chính, tiền tệ Việt Nam 222
1.3.2. Thách thức đối với kinh tế và tài chính, tiền tệ 225
Chương 2. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CHÍNH
SÁCH TÀI KHÓA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006-2010 231
2.1. ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU THU NSNN GIAI ĐOẠN 2006-2010 231
2.1.1. Yêu cầu chủ yếu điều chỉnh cơ cấu thu NSNN giai đoạn 2006-2010 231
2.1.2. Định hướng điều chỉnh cơ cấu thu NSNN 232
2.1.3. Chính sách và giải pháp điều chỉnh cơ cấu thu NSNN 233
2.2. ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU CHI NSNN GIAI ĐOẠN 2006-2010 242
2.2.1. Yêu cầu chủ yếu điều chỉnh cơ cấu chi NSNN giai đoạn 2006 -2010 242
2.2.2. Định hướng đổi mới cơ cấu chi NSNN 242
2.2.3. Chính sách giải pháp đổi mới cơ cấu chi NSNN giai đoạn 2006-2010 244
2.3. XỬ LÝ BỘI CHI NSNN VÀ NỢ CÔNG GIAI ĐOẠN 2006-2010 250
2.3.1. Quan điểm về xử lý bội chi NSNN nhằm duy trì sự bền vững của NSNN trong
giai đoạn 2006-2010 250
2.3.2. Định hướng về bội chi NSNN và xử lý nợ công nhằm duy trì sự bền vững hợp lý
của NSNN trong giai đoạn 2006-2010 251
2.3.3. Các giải pháp xử lý và tăng cường quản lý nợ công trong giai đoạn 2006-2010 255
Chương 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH
SÁCH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN 2006-2010 261
3.1. HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN 2006-2010 261
3.1.1. Xác định hệ thống mục tiêu và cơ chế truyền tải CSTT 261
3.1.2. Giải pháp hoàn thiện hệ thống mục tiêu, cơ chế truyền tải CSTT 262
3.2. HOÀN THIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ VÀ ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ
GIAI ĐOẠN 2006-2010 264
3.2.1. Định hướng hoàn thiện cơ chế quản lý và điều hành tỷ giá 264
3.2.2. Giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá 265
3.3. HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT VÀ TÍN DỤNG GIAI
ĐOẠN 2006-2010 271
3.3.1. Định hướng hoàn thiện chính sách lãi suất và tín dụng giai đoạn 2006 – 2010. 271
3.3.2. Giải pháp hoàn thiện chính sách lãi suất và tín dụng giai đoạn 2006 - 2010. 271
3.4. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHỐI HỢP
GIỮA CSTK VÀ CSTT TRONG ĐIỀU TIẾT VĨ MÔ NỀN KINH
TẾ 276
3.4.1. Định hướng phối hợp giữa CSTK và CSTT 276
3.4.2. Giải pháp tăng cường phối hợp giữa CSTK và CSTT 277
5
Chương 4. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ
TRƯỜNG TÀI CHÍNH GIAI ĐOẠN 2006-2010 280
4.1. PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN 2006-2010 280
4.1.1. Định hướng chủ yếu phát triển thị trường tiền tệ giai đoạn 2006-2010 280
4.1.2. Giải pháp phát triển thị trường tiền tệ giai đoạn 2006 – 2010. 281
4.2. PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG VỐN GIAI ĐOẠN 2006-2010 284
4.2.1. Định hướng chủ yếu phát triển thị trường vốn giai đoạn 2006-2010 284
4.2.2. Giải pháp phát triển thị trường vốn 2006-2010 285
4.3. ĐỔI MỚI VÀ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG THANH TRA GIÁM
SÁT THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH 289
4.3.1. Sự cần thiết phải đổi mới và hoàn thiện hệ thống thanh tra, giám sát TTTC và
dịch vụ tài chính Việt Nam 289
4.3.2. Giải pháp đổi mới hệ thống giám sát thị trường tài chính, hình thành tổ chức giám
sát TTTC thống nhất 291
KẾT LUẬN 296
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 304
PHỤ LỤC 307
6
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ASEAN Hiệp hội các nước Đông Nam Á
BNM Ngân hàng trung ương Malaysia
CAB Cán cân vãng lai
CB Cán cân vốn
CNH, HĐH Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa
CNY Đồng Nhân dân tệ
CPI Chỉ số giá tiêu dùng
CSTK Chính sách tài khóa
CTCP Công ty cổ phần
CSTT Chính sách tiền tệ
DNBH Doanh nghiệp bảo hiểm
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
DNV&N Doanh nghiệp vừa và nhỏ
ĐTPT Đầu tư phát triển
ECB Ngân hàng trung ương châu Âu
EU Liên minh châu Âu
FED Cục dự trữ liên bang Mỹ
GDCK Giao dịch chứng khoán
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
GTGT Giá trị gia tăng
HĐND Hội đồng nhân dân
HĐQT Hội đồng quản trị
IMF Quỹ tiền tệ quốc tế
MAS Cơ quan quản lý tiền tệ singapore
MB Tiền cơ bản
M2 Tổng phương tiện thanh toán
NDA Tài sản có trong nước ròng
NER Tỷ giá hối đoái danh nghĩa
NFA Tài sản có ngoại tệ ròng
NHNN NHNN việt nam
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTW Ngân hàng trung ương
NHNN Ngân hàng nhà nước
NHNNg Ngân hàng nước ngoài
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần
NHTMNN Ngân hàng thương mại nhà nước
NHTMVN Ngân hàng thương mại Việt Nam
NHTW Ngân hàng Trung ương
NSĐP Ngân sách địa phương
NSNN Ngân sách nhà nước
7
NSTW Ngân sách Trung ương
OMOs Nghiệp vụ thị trường mở
PBC Ngân hàng Trung ương Trung Quốc
PT&DB Phân tích và dự báo
REPO Giao dịch mua có kỳ hạn
RER Tỷ giá hối đoái thực
REER Tỷ giá hối đoái thực hữu hiệu
RERE Tỷ giá hối đoái thực cân bằng
SWAP Hoán đổi
TBCN Tư bản chủ nghĩa
TCTD Tổ chức tín dụng
TNCN Thu nhập cá nhân
TTCK Thị trường chứng khoán
TTĐB Tiêu thụ đặc biệt
TTGDCK Trung tâm giao dịch chứng khoán
TTTC Thị trường tài chính
TTTD Thị trường tín dụng
USD Đô la Mỹ
VND Đồng Việt Nam
WTO Tổ chức Thương mại thế giới
XHCN Xã hội chủ nghĩa
XDCB Xây dựng cơ bản
XNK Xuất nhập khẩu
8
MỞ ĐẦU
Sự cần thiết nghiên cứu
Trong thập kỷ 90, trên con đường tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới
nền kinh tế, các chính sách và công cụ tài chính, tiền tệ đã được tích cực sử
dụng hướng vào mục tiêu phục vụ và thúc đẩy sản xuất phát triển. Nhờ vậy,
nền kinh tế nước ta đã có bước tăng trưởng cao trong thời gian dài, tạo đà cho
sự phát triển kinh tế trong cả giai đoạn 1991-2000. Bước vào giai đoạn 2001-
2010, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nước ta đã đặt ra mục tiêu cao về
mức tăng trưởng kinh tế, thực hiện công bằng xã hội và xoá đói giảm nghèo.
Để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ to lớn đó, Chính phủ đã sử dụng đồng bộ hệ
thống các công cụ kinh tế, trong đó có tài chính, tiền tệ để điều tiết vĩ mô nền
kinh tế, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh. Tổng kết hoạt động thực tiễn giai
đoạn 2001-2005 đã chứng tỏ rằng: CSTC và CSTT đã góp phần tích cực thúc
đẩy tăng trưởng, thực hiện thành công chiến lược xóa đói giảm nghèo, đảm bảo
điều kiện tiên quyết để thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5
năm 2001-2005.
Bước vào giai đoạn 2006-2010 – giai đoạn mở cửa hội nhập đầy đủ và
sâu rộng với nền kinh tế thế giới, đã nảy sinh nhiều cơ hội mới, đồng thời cũng
đặt ra những thách thức và khó khăn nhiều mặt trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ.
Trong bối cảnh đó, CSTC và CSTT đang đặt ra nhiều vấn đề cần tập trung giải
quyết.
Thứ nhất, CSTK, đặc biệt là chính sách thu, chi NSNN đã được đổi mới
theo hướng huy động và phân bổ có hiệu quả hơn các nguồn lực tài chính, góp
phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện xóa đói giảm nghèo và công bằng
xã hội. Tuy nhiên, CSTK còn nhiều hạn chế và bất cập, chưa trở thành khâu
đột phá, có tác dụng mở đường thúc đẩy sự phát triển kinh tế và xã hội. Phân
phối và sử dụng nguồn lực tài chính còn kém hiệu quả, thất thoát lãng phí lớn,
đầu tư của Nhà nước chiếm tỷ trọng lớn nhưng mức đóng góp vào tăng trưởng
kinh tế chưa tương xứng; cơ chế, CSTC tuy đã được đổi mới nhưng còn nhiều
bất cập, không tương thích với thông lệ quốc tế.
Thứ hai, CSTT, mặc dù đã được sử dụng linh hoạt để điều tiết vĩ mô
song hiệu quả thấp; hoạt động tín dụng trung và dài hạn còn chậm phát triển,
chưa đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn cho phát triển kinh tế - xã hội, chính sách
ngoại hối còn nhiều bất cập.
Thứ ba, TTTC đã hình thành và trở thành một kênh huy động vốn
quan trọng cho ĐTPT nhưng hoạt động chưa ổn định và chưa vững chắc, còn
tiềm ẩn nhiều rủi ro. Bên cạnh đó hoạt động của các trung gian tài chính còn
bất cập, chức năng nhiệm vụ chồng chéo, hiệu quả thấp. Mặt khác, giám sát
TTTC – một chức năng quan trong trong hoạt đồng tài chính ngân hàng tuy
được chú trọng nhưng hiệu quả hoạt động thấp, cần phải được nghiên cứu đổi
mới hoàn thiện cả về nội dung, phương pháp và tổ chức bộ máy giám sát
TTTC.
9
Thứ tư, mặc dù tài chính, tiền tệ là những phạm trù kinh tế khác nhau,
nhưng có mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau, trở thành các công cụ điều
tiết quan trọng nền kinh tế thị trường, song trong hoạt động thực tiễn, việc
hoạch định và điều hành chính sách tài chính, tiền tệ chưa tạo ra sự gắn kết
hiệu quả trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
Thứ năm, những vấn đề nêu trên được đặt trong bối cảnh Việt nam đã
gia nhập WTO. Vì vậy, vấn đề điều chỉnh các CSTK và CSTC cho phù hợp
với thông lệ quốc tế càng trở nên cấp bách.
Với ý nghĩa là một lĩnh vực then chốt mang tính huyết mạch đối với
quá trình phát triển kinh tế - xã hội, các chính sách và công cụ tài chính, tiền
tệ cần phải được đổi mới và hoàn thiện hướng vào thực hiện các mục tiêu
kinh tế vĩ mô, trong đó có mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng, kiềm chế lạm pháp,
tạo công ăn, việc làm, và xử lý các vấn đề thâm hụt thương mại. Trong đó,
việc xác định những vấn đề cơ bản của tài chính, tiền tệ trong giai đoạn mới
(2006-2010) có ý nghĩa quyết định đến việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu
của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2010 ở nước ta.
Do vậy, việc nghiên cứu đề tài “Một số vấn đề cơ bản về tài chính,
tiền tệ của Việt Nam giai đoạn 2006 -2010” ở cấp Nhà nước là cần thiết,
không chỉ có nghĩa tổng kết những lý luận mới, hiện đại về tài chính, tiền tệ,
mà còn góp phần giải quyết những vấn đề cấp bách do thực tiễn đặt ra trong
việc đề xuất hệ thống giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
công cụ tài chính, tiền tệ, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững như Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010 đã
đặt ra, đồng thời tạo cơ sở vững chắc để phát triển tăng tốc trong giai đoạn
2010-2020.
Tình hình nghiên cứu
Trong kinh tế thị trường, những vấn đề lý luận về tài chính – tiền tệ đã
được các nhà khoa học trên thế giới rất quan tâm nghiên cứu trong lịch sử
phát triển của mình. Nhiều quan điểm và các luận thuyết về tài chính, tiền tệ
theo các trường phái khác nhau đã hình thành và trở thành những vấn đề kinh
điển trong các học thuyết kinh tế.
Tuy nhiên, trong kinh tế học hiện đại, các nhà khoa học đã nhận thấy
rằng, không thể chỉ sử dụng thuần tuý một học thuyết nào đó trong lĩnh vực
tài chính, tiền tệ để giải quyết các vấn đề phức tạp của nền kinh tế. Các nhà
kinh tế học ngày nay cho rằng, cần phải kết hợp các học thuyết kinh tế này
thông qua việc sử dụng linh hoạt chính sách tài khoá và CSTT mới bảo đảm
hiệu quả điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Việc sử dụng các lý thuyết của kinh tế học hiện đại để điều tiết vĩ mô
nền kinh tế đã được vận dụng linh hoạt và uyển chuyển tuỳ thuộc vào điều
kiện, hoàn cảnh của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ. Chẳng hạn, trong giai
đoạn 1992-2000 Chính quyền của Tổng thống Bill Cliton đã vận dụng hiệu
10
quả CSTK và CSTT để điều tiết vĩ mô nền kinh tế và kết quả là nền kinh tế
Mỹ đã đạt những thành tựu to lớn với những bước phát triển ngoạn mục
trong thập kỷ 90.
Trong số các nền kinh tế mới nổi, Hàn Quốc là nước đã đạt được
những thành công đáng kể trong việc sử dụng các công cụ của CSTK và
CSTT để giải quyết các vấn đề kinh tế-xã hội trong phạm vi quốc gia. Đặc
biệt là Trung Quốc - một quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi với nhiều nét
tương đồng như Việt Nam – cũng rất thành công trong việc sử dụng hiệu quả
các công cụ của CSTK và CSTT để can thiệp và điều chỉnh sự phát triển nền
kinh tế Trung Quốc, giữ cho kinh tế tăng trưởng nhanh trong gần 3 thập kỷ.
Ở nước ta, trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch
hoá tập trung sang kinh tế thị trường định hướng XHCN, những vấn đề lý
luận, cũng như đánh giá thực tiễn sử dụng công cụ tài chính – tiền tệ để điều
tiết vĩ mô nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng nhanh và ổn định luôn luôn thu
hút sự quan tâm chú ý của cả Chính phủ lẫn giới khoa học.
Trong công cuộc đổi mới quản lý kinh tế ở nước ta đã xuất hiện nhiều
chương trình nghiên cứu về chính sách và công cụ tài chính – tiền tệ. Đặc biệt
trong thập kỷ 90, nhất là những năm 1998-2003 đã công bố nhiều công trình
nghiên cứu phục vụ hoạch định chính sách và chiến lược trong lĩnh vực tài
chính – tiền tệ: Chiến lược tài chính Việt nam đến năm 2010; Chiến lược phát
triển ngân hàng giai đoạn 2001 – 2010; Chiến lược phát triển TTCK giai
đoạn 2001 – 2010; Chiến lược phát triển bảo hiểm giai đoạn 2001 – 2010;
Chiến lược vay và trả nợ nước ngoài đến năm 2010. Trong các chương trình
nghiên cứu đó, nhiều giải pháp về tài chính – tiền tệ đã được đề xuất nhằm
thúc đẩy nền kinh tế – xã hội phát triển nhanh và bền vững.
Hàng năm, các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ
quốc tế, Ngân hàng Phát triển châu Á… thường đưa ra các báo cáo đánh giá
về thực trạng công cuộc cải cách kinh tế-xã hội của Việt Nam. Các báo cáo
này khá tổng quát, bao trùm hầu hết các vấn đề nổi cộm của nền kinh tế, xã
hội Việt Nam như tăng trưởng kinh tế, lạm phát, thất nghiệp, đầu tư, cải cách
tài khoá, cải cách ngân hàng… Đồng thời, các báo cáo này cũng đưa ra một
số đề xuất, kiến nghị đối với Việt Nam về các giải pháp tài chính – tiền tệ
nhằm tiếp tục đẩy mạnh cải cách kinh tế - xã hội trong những năm tiếp theo.
Tuy nhiên, đây là cách nhìn của các tổ chức quốc tế, chịu ảnh hưởng
rất sâu sắc của tư tưởng phát triển nền kinh tế thị trường phát triển. Do vậy,
một số nhận xét, đánh giá và định hướng phát triển về kinh tế-xã hội Việt
Nam còn phù hợp với thực tiễn có tính đặc thù của nền kinh tế Việt Nam. Do
đó, một số đề xuất, kiến nghị có tính chất đẩy mạnh cải cách quá “nhanh,
mạnh” sẽ khó có khả năng thực hiện trong tương lai gần. Các đánh giá, nhận
xét cũng như đề xuất kiến nghị chủ yếu tập trung vào một số lĩnh vực, vấn đề
then chốt như CSTK, CSTT mang tính vĩ mô cao, mức độ cụ thể thấp. Các
dự báo về phát triển kinh tế, xã hội thường trong ngắn hạn (1 – 3 năm). Tuy
11
vậy, nghiên cứu kỹ các báo cáo này rất có ý nghĩa đối với các nhà hoạch định
chính sách, các nhà khoa học Việt Nam nhằm bổ sung, hoàn thiện hệ thống
giải pháp và xác định bước đi, lộ trình thích hợp cho tiến trình cải cách kinh
tế- xã hội ở nước ta.
Bước vào giai đoạn 2006-2010, giai đoạn hội nhập ngày càng sâu rộng
với nền kinh tế thế giới, nhiều vấn đề kinh tế - xã hội trong và ngoài nước nẩy
sinh sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động tài chính, tiền tệ của đất nước.
Tác động đó có thể đưa đến sự vận động của phạm trù tài chính, tiền tệ theo
những định hướng khác nhau. Việc nắm bắt được những xu thế đó để có giải
pháp điều chỉnh kịp thời đang đặt ra những nhiệm vụ cấp bách cho các nhà
khoa học kinh tế Việt Nam. Xét theo khía cạnh đó, đến nay vẫn chưa có một
công trình hoặc những nghiên cứu nào có cách đánh giá đầy đủ, toàn diện
mang tính vĩ mô về thực tiễn hoạt động tài chính-tiền tệ giai đoạn 2001-2005
ở nước ta, tạo cơ sở khoa học và thực tiễn để đề xuất định hướng CSTC và
CSTT trong giai đoạn 2006-2010. Những nghiên cứu trong đề tài này sẽ kế
thừa hợp lý những lý luận và kinh nghiệm quốc tế để vận dụng vào hoàn
cảnh cụ thể nước ta.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát chung nhất của đề tài là nghiên cứu nhằm tổng kết
những lý luận mới, hiện đại về tài chính-tiền tệ, nhận dạng những vấn đề cơ
bản về tài chính – tiền tệ của nước ta trong giai đoạn hiện nay, đề xuất
phương hướng giải pháp xử lý các vấn đề cơ bản về tài chính, tiền tệ giai
đoạn 2006-2010 nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Mục tiêu cụ thể, được xác định là:
Nghiên cứu, tổng kết, hệ thống hóa các vấn đề lý luận về tài chính,
tiền tệ trong điều kiện mới.
Xác lập luận cứ khoa học và kinh nghiệm quốc tế trong việc sử
dụng các công cụ tài chính – tài chính để thúc đẩy phát triển kinh
tế – xã hội trong điều kiện chuyển đổi nền kinh tế và mở cửa hội
nhập.
Đánh giá thực trạng tài chính, tiền tệ Việt Nam giai đoạn 2001–
2005, chỉ rõ những thành tựu, những mặt hạn chế, yếu kém của
công cuộc cải cách tài chính, tiền tệ.
Phân tích bối cảnh kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế giai đoạn
2006-2010, những cơ hội và thách thức đặt ra đối với hoạt động tài
chính – tiền tệ ở nước ta, trên cơ sở đó xác định mục tiêu, nhiệm
vụ và định hướng đổi mới lĩnh vực tài chính – tiền tệ giai đoạn
2006-2010.
Xác định rõ những yêu cầu về phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước trong giai đoạn 2006-2010 đặt ra cho lĩnh vực tài chính, tiền
12
tệ, trên cơ sở đó vạch rõ những vấn đề tài chính, tiền tệ cơ bản cần
giải quyết và luận cứ khoa học và thực tiễn của việc xác định đó.
Xác lập các quan điểm và yêu cầu giải quyết có hiệu quả các vấn
đề cơ bản về tài chính, tiền tệ nhằm nâng cao vai trò và tác động
của tài chính, tiền tệ trong phát triển kinh tế - xã hội đất nước giai
đoạn 2006-2010.
Đề xuất được hệ thống giải pháp về các vấn đề tài chính – tiền tệ
cơ bản giai đoạn 2006 – 2010 phù hợp kinh tế thị trường và mở
cửa hội nhập.
Cách tiếp cận nghiên cứu
Tài chính và tiền tệ là hai phạm trù độc lập có các chức năng riêng có
của mình, có quá trình phát sinh, phát triển trong những điều kiện khác nhau,
nhưng giữa chúng có mối liên hệ mật thiết và chặt chẽ với nhau.
Tài chính ra đời phải có 2 điều kiện: sự ra đời của nhà nước và sự phát
sinh, phát triển của kinh tế hàng hóa và tiền tệ. Tài chính phản ánh và biểu
hiện sự vận động của tiền tệ trong quá trình hình thành các quỹ tiền tệ của các
chủ thể khác nhau trong nền kinh tế. Tài chính không phải là tiền tệ, mà chỉ
dùng tiền tệ làm hình thức biểu hiện cho nội dung vật chất của mình. Bản
thân tài chính và tiền tệ là hai thuộc tính khác nhau và trở thành đối tượng và
những vấn đề nghiên cứu khác nhau của khoa học kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, tài chính và tiền tệ là hai công cụ quan
trọng được nhà nước sử dụng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Tuy nhiên, bản
thân trong nội hàm từng công cụ và CSTC hay CSTT cũng chứa dựng nhiều
lĩnh vực và nhiều khâu khác nhau, mà mỗi lĩnh vực đó, trong điều kiện phát
triển kinh tế và mở cửa hội nhập ở nước ta hiện nay đều là những vấn đề có
nội dung nghiên cứu rất phức tạp, vừa có tính lý luận vừa có tính thực tiễn.
Do vậy, nội dung nghiên cứu đặt ra cho đề tài này trong điều kiện của nước ta
trong giai đoạn 2006-2010 bao gồm:
Thứ nhất, những vấn đề đổi mới CSTK
NSNN là một bộ phận quan trọng trong hệ thống tài chính, một lĩnh
vực quan trọng trong CSTK của nhà nước có vai trò đảm bảo nguồn lực tài
chính cần thiết để duy trì sự hoạt động của bộ máy nhà nước, đồng thời thực
hiện điều tiết vĩ mô các hoạt động kinh tế-xã hội. Trong xã hội hiện đại, vai
trò của CSTK càng trở nên trọng yếu giúp Nhà nước điều hành nền kinh tế xã
hội.
CSTK bao gồm nhiều khâu, nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau, mà
mỗi khâu, mỗi lĩnh vực hoạt động đó vừa chứa đựng những đặc điểm chung
nhất của hệ thống tài chính, vừa mang những đặc thù riêng, trong đó bao hàm
nhiều vấn đề phức tạp như thuế, chi tiêu ngân sách, bội chi ngân sách và nợ
chính phủ.
13
Trong một nền kinh tế đang chuyển đổi và hội nhập ngày càng sâu
rộng như ở nước ta hiện nay, thuế, chi tiêu ngân sách và vay nợ chính phủ
đang trở thành những vấn đề thực tiễn quan trọng trong hoạt động tài chính
và đang đặt ra những yêu cầu cần đổi mới và hoàn thiện. Vì vậy, đổi mới và
hoàn thiện cơ cấu thu, chi NSNN, xử lý bội chi và vay nợ chính phủ đã trở
thành những vấn đề trọng tâm trong CSTK giai đoạn 2006-2010.
Thứ hai, những vấn đề về đổi mới điều hành CSTT
HNQT trong lĩnh vực tài chính ngân hàng giai đoạn 2006-2010 gắn
liền với việc tự do hoá tài chính, tự do hoá về luồng luân chuyển vốn, đòi hỏi
phải tăng cường tính linh hoạt và hiệu quả của CSTT, chính sách tín dụng và
điều hành tỷ giá. Như vậy, CSTT lại bao hàm trong đó nhiều vấn đề cần giải
quyết.
Trong những năm qua, việc điều hành CSTT đã đạt được một số kết
quả nhất định theo hướng chuyển dần sang điều tiết tiền tệ gián tiếp, duy trì
ổn định tiền tệ, ổn định tỷ giá, góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng
trưởng kinh tế. Hệ thống mục tiêu CSTT và các công cụ CSTT bước đầu
được hình thành. Tuy nhiên, trong điều hành CSTT vẫn còn có một số hạn
chế, bất cập về khả năng kiểm soát tiền tệ, điều tiết thị trường tiền tệ. Vì vậy,
đổi mới việc điều hành CSTT phục vụ mục tiêu tăng trưởng trở thành một
vấn đề quan trọng trong điều hành kinh tế vĩ mô ở nước ta giai đoạn 2006-
2010.
Với ý nghĩa là một nội dung của CSTT, song chính sách tín dụng lại
được sử dụng như một công cụ đảm bảo cung ứng phương tiện thanh toán
cho nền kinh tế quốc dân, thông qua các nghiệp vụ tín dụng ngân hàng, dựa
trên các quỹ cho vay được tạo lập từ các nguồn tiền của xã hội và với một hệ
thống lãi suất mềm dẻo, phù hợp với sự vận động của cơ chế thị trường. Tuy
nhiên, trong bối cảnh TTTC nói chung và thị trường tiền tệ ở nước ta còn
nhiều bất cập, các các nguyên tắc của thị trường chưa được tuân thủ một cách
triệt để thì hiệu ứng đòn bẩy của chính sách tín dụng và lãi suất còn rất hạn
chế trong việc kiềm chế lạm phát và ổn định tiền tệ, giá cả.
Thứ ba, những vấn đề về phát triển TTTC
TTTC là một trong những thị trường yếu tố sản xuất quan trọng trong
điều kiện phát triển kinh tế thị trường hiện nay ở nước ta, trong đó bao gồm
thị trường tiền tệ (thị trường ngắn hạn) và thị trường vốn (thị trường vốn tín
dụng dài hạn và TTCK). Một TTTC phát triển đồng bộ sẽ là tiền đề cơ bản để
các nguồn vốn được huy động và phân bổ có hiệu quả cho phát triển kinh tế-
xã hội. Tuy nhiên, TTTC ở nước ta đang trong quá trình hình thành và phát
triển, bản thân nội tại từng trường cũng chứa dựng các yếu tố không vững
chắc, phát triển chưa đồng bộ và chưa phát huy vai trò to lớn trong huy động
nguồn lực cho ĐTPT. Mặt khác, sự phát triển không ổn định và quá nóng của
TTCK cùng với khuynh hướng đầu cơ của thị trường trong thời gian gần đây
là những nhân tố gây bất ổn và chứa đựng nguy cơ mất an toàn hệ thống tài
14
chính. Điều đó đặt ra vấn đề hình thành tổ chức giám sát TTTC thống nhất
nhằm đảm bảo an toàn và an ninh tài chính quốc gia.
Vì vậy, hoàn thiện và phát triển TTTC là một nội dung quan trọng và
trở thành vấn đề cấp thiết, mang tính thời sự trong giai đoạn 2006-2010 ở
nước ta.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài đã được triển khai với một cách tiếp cận vừa khoa học, vừa thực
tế, nghiên cứu các vấn đề cả trong nước và kinh nghiệm nước ngoài, gắn lý
luận với thực tiễn, dùng lý luận để xem xét thực tiễn, qua đó tổng kết thực
tiễn để làm sáng tỏ và bổ sung thêm các khía cạnh lý luận về tài chính, tiền tệ
trong nền kinh tế thị trường chưa hoàn chỉnh ở Việt Nam. Tuy nhiên, đề tài
không đi sâu phân tích các vấn đề lý luận, các học thuyết kinh tế - tài chính –
tiền tệ mang tính học thuật, mà tập trung phân tích chính sách, xây dựng quan
điểm nhằm xử lý những vấn đề cụ thể về tài chính- tiền tệ trong giai đoạn
2006-2010.
Đề tài đã sử dụng các phương pháp phân tích, dự báo, thống kê, điều
tra khảo sát. Trong đó, có bao gồm các đánh giá thực trạng hoạt động tài
chính – tiền tệ giai đoạn 2001-2005; các phân tích, dự báo hoạt động kinh tế,
tài chính, tiền tệ giai đoạn 2006-2010.
Đề tài đã tổ chức một số cuộc hội thảo, tọa đàm và báo cáo khoa học
nhằm cung cấp thông tin và phương pháp luận khi tổ chức nghiên cứu.
Kết cấu của đề tài
Đề tài được xây dựng thành 3 Phần. Phần thứ nhất dành nghiên cứu
các vấn đề lý luận chủ yếu. Phần thứ 2 bàn về thực trạng CSTK, CSTT và
TTTC. Phần thứ ba dành nghiên cứu các vấn đề định hướng và giải pháp đổi
mới hoàn thiện CSTK, CSTT và phát triển TTTC trong giai đoạn 2006-2010.
Trong mỗi phần lại được kết cấu thành các chương theo các chủ đề
tương ứng, mỗi chương lại chia thành nhiều mục và tiểu mục thích hợp.
15
Phần 1. VAI TRÒ TÀI CHÍNH TIỀN TỆ VÀ
KINH NGHIỆM NƯỚC NGOÀI VỀ SỬ
DỤNG CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH,
TIỀN TỆ TRONG KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG MỞ CỬA HỘI NHẬP
16
Chương 1. NHỮNG NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN MỚI VỀ
TÀI CHÍNH, TIỀN TỆ TRONG KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG MỞ CỬA HỘI NHẬP
1.1. NHỮNG NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN MỚI VỀ TÀI CHÍNH VÀ
CSTK TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1.1. Quan niệm về tài chính, chức năng và vai trò của tài chính trong
kinh tế thị trường
1). Quan niệm về tài chính
Thuật ngữ "tài chính" bắt nguồn từ tiếng La-tinh "fiancia", dịch theo
nghĩa hẹp là thanh toán, thu nhập; theo nghĩa rộng là vốn tiền tệ, chu chuyển
tiền tệ. Từ thế kỷ XIII-XV lần đầu tiên danh từ "thanh toán bằng tiền" được
sử dụng rộng rãi trong một số thành phố nổi tiếng của Italia với tư cách là
những trung tâm khổng lồ về thương mại và ngân hàng của châu Âu. Sau đó
thuật ngữ này được lan rộng ra các nước khác và được sử dụng như một khái
niệm, gắn liền với hệ thống các quan hệ tiền tệ hình thành các quỹ tiền tệ
được động viên bởi nhà nước để thực hiện các chức năng chính trị và kinh tế.
Theo Từ điển Larousse1 cho rằng Tài chính (tiếng Pháp cổ là finer) có
nghĩa là một khoản thanh toán. Thuật ngữ tài chính (nếu đứng ở số nhiều -
finances), được hiểu là tài sản công cộng; toàn bộ các nguồn thu và khoản chi
của Nhà nước, hoặc của một lãnh thổ; Nếu hiểu theo nghĩa thông thường: là
nguồn tiền mặt của một cá nhân.
Trong kinh tế thị trường, thuật ngữ tài chính còn được mô tả theo
nghĩa là vốn dưới hình thức tiền tệ, được thể hiện dưới dạng các quỹ cho vay
hoặc đi vay thông qua TTTC hay định chế, tổ chức tài chính.
Như vậy, tài chính được quan niệm như là nguồn tiền bạc, thu nhập
hay tài sản; là cách thức, hay sự huy động, phân phối, bố trí, cung cấp, cấp
phát, trợ giúp, chi tiêu, sử dụng, kiểm soát các quỹ tiền bạc; điều hành, dẫn
dắt của cải. Các quan niệm này thường xem xét ở khía cạnh mô tả các biểu
hiện, hiện tượng của hoạt động tài chính.
Có thể thấy rằng, khái niệm tài chính gắn liền mật thiết với tiền tệ và
các quan hệ hàng hóa-tiền tệ. Tài chính nảy sinh trong điều kiện kinh tế hàng
hóa-tiền tệ dưới tác động ảnh hưởng của sự phát triển chức năng và nhu cầu
của nhà nước và nhu cầu của các chủ thể kinh tế. Do đó, tài chính có quan hệ
mật thiết với các quá trình kinh tế-xã hội, được thể hiện trong các hình thức
vận động khác nhau và nhất định bao giờ cũng biểu hiện dưới hình thái tiền tệ
và kèm theo sự vận động của tiền tệ.
Từ quan niệm đó, người ta thường nhầm lẫn tài chính với tiền tệ và
trong nhiều trường hợp tài chính được coi là tiền tệ. Những quan niệm sai
17
lầm đó đưa đến việc không đánh giá đúng mức vai trò của các phạm trù kinh
tế khách quan.
Để có cách hiểu đúng đắn về bản chất của tài chính, chúng tôi nêu lên
một số dấu hiệu có tính chất đặc trưng để nhận biết về phạm trù tài chính.
Thứ nhất, trong thực tiễn, nếu quan sát quá trình vận động của tài
chính có thể nhận thấy: các biểu hiện bên ngoài của tài chính thể hiện ra dưới
dạng các hiện tượng thu vào bằng tiền và các hiện tượng chi ra bằng tiền ở
các chủ thể kinh tế-xã hội. Các hiện tượng thu, chi bằng tiền đó đều mang
một tính chất chung là vốn tiền tệ đang vận động. Như vậy, tính chất tiền tệ
của các quan hệ tài chính - đó là một dấu hiệu quan trọng của tài chính.
Dấu hiệu này khẳng định rằng, sự hoạt động của tài chính chỉ có thể
khi có những điều kiện nhất định, mà nếu thiếu điều kiện đó thì tức khắc biến
mất ranh giới tác động của phạm trù này. Sự xuất hiện các quan hệ tài chính
luôn luôn biểu hiện ở chỗ tồn tại sự vận động của vốn tiền tệ, ở đâu thiếu sự
vận động đó thì nơi đó không phải là chỗ nảy sinh tài chính. Như vậy, sự hiện
diện của tiền tệ là điều kiện bắt buộc cho sự tồn tại của tài chính. Không có
tiền tệ thì không thể có tài chính. Tiền tệ biểu hiện cơ sở vật chất cho sự tồn
tại tài chính. Tuy nhiên, tài chính và tiền tệ là hai khái niệm khác nhau, nhưng
có quan hệ mật thiết với nhau. Tài chính khác biệt căn bản với tiền tệ cả ở nội
dung và cả ở các chức năng mà nó thực hiện. Người ta có thể cảm nhận được
tiền tệ nhờ vào trực giác, còn tài chính biểu hiện sự vận động của tiền tệ, luôn
ẩn đằng sau sự vận động của tiền tệ, khiến người ta không “sờ mó” được vào
tài chính.
Thứ hai, lĩnh vực nảy sinh và hoạt động của tài chính chính là khâu
phân phối, mà trong đó diễn ra quá trình phân phối giá trị sản phẩm xã hội và
thu nhập giữa các chủ thể trong hoạt động kinh tế. Bởi vậy dấu hiệu quan
trọng của tài chính là tính chất phân phối của các quan hệ tài chính.
Thứ ba, sự phân phối của tài chính nhất định phải kèm theo sự vận
động của vốn tiền tệ và có hình thức biểu hiện đặc biệt là các nguồn tài chính.
Các nguồn tài chính đó được hình thành ở các chủ thể kinh tế và nhà nước
nhờ các dạng vận động khác nhau của thu nhập, tích lũy, thanh toán, trích
nộp dưới hình thức tiền tệ và được sử dụng vào những mục đích nhất định để
đáp ứng nhu cầu của mình.
Thứ tư, chính các nguồn tài chính là sự biểu hiện vật chất hóa của các
quan hệ tài chính và việc sử dụng các nguồn tài chính đó được thực hiện về
cơ bản thông qua các quỹ tiền tệ có những mục đích nhất định. Bởi vậy dấu
hiệu đặc biệt quan trọng của tài chính, khác biệt với các phạm trù phân phối
khác là ở chỗ, các quan hệ tài chính luôn luôn gắn liền với sự hình thành các
quỹ tiền tệ có hình thức biểu hiện là các nguồn tài chính.
Quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của các chủ thể nói
trên (Nhà nước, doanh nghiệp, hộ gia đình) chính là quá trình tham gia phân
18
phối các nguồn tài chính thông qua các hoạt động thu, chi bằng tiền của các
chủ thể. Các hoạt động thu, chi bằng tiền đó là sự vận động của tiền tệ - mặt
biểu hiện bên ngoài của tài chính, còn các quỹ tiền tệ do các chủ thể nắm giữ
là biểu hiện nội dung vật chất của tài chính - một thuộc tính vốn có của tài
chính. Nhưng trên cơ sở các hoạt động thu, chi bằng tiền do các chủ thể thực
hiện lại làm nảy sinh các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể trong xã hội. Đó
chính là các quan hệ về mặt lợi ích nảy sinh trong quá trình tham gia phân
phối và sử dụng các nguồn tài chính để tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ.
Các quan hệ kinh tế đó chính là mặt bản chất bên trong của tài chính, biểu
hiện nội dung kinh tế-xã hội của tài chính.
Từ những phân tích nêu trên chúng tôi cho rằng, tài chính là biểu hiện
sự vận động của tiền tệ, gắn liền với quá trình huy động và phân phối các
nguồn tài chính nhằm thực hiện các lợi ích của các chủ thể kinh tế.
Khái niệm này có nhiều điểm khác biết với những quan niệm thường
thấy trên các sách, báo chuyên ngành trên thế giới và ở nước ta. Hiện nay,
trong kinh tế học hiện đại, cũng xuất hiện một số quan niệm khác nhau và
cũng khác biệt so với quan niệm của chúng tôi. Điển hình là quan niệm về tài
chính của các tác giả cuốn giáo khoa “Tài chính học” do Z. Bodi và R.
Merton chủ biên khi cho rằng, tài chính là việc nghiên cứu các cánh thức
phân bổ nguồn lực vốn khan hiếm của các chủ thể trong nền kinh tế theo thời
gian. Quan niệm này khá cụ thể và trực diện, song theo chúng tôi nó hàm
chứa ý nghĩa về các quan hệ của TTTC.
Quan niệm về tài chính của chúng tôi trình bày trên đây cho phép nhìn
nhận một cách đầy đủ, toàn diện và khách quan về tài chính. Quan niệm đó
vừa chỉ ra mặt cụ thể, hình thức bên ngoài - nội dung vật chất của tài chính là
sự vận động của các quỹ tiền tệ, vừa vạch rõ mặt trừu tượng, mặt bản chất
bên trong - nội dung kinh tế - xã hội của tài chính là các quan hệ kinh tế nảy
sinh trong quá trình huy động và phân bổ các nguồn tài chính để thực hiện
các mục đích khác nhau của các chủ thể kinh tế, đồng thời có tính bao quát
toàn bộ các lĩnh vực hoạt động của tài chính nói chung, trong đó bao gồm cả
TCC và TTTC.
2). Chức năng mới của tài chính trong kinh tế thị trường
Theo chúng tôi, chức năng của tài chính là sự thể hiện bản chất nội
hàm bên trong của tài chính, từ đó quy định vai trò tác động của tài chính
trong hoạt động thực tiễn. Chức năng của tài chính tồn tại độc lập với sự nhận
thức hoặc tác động của con người. Nhận thức đúng đắn, đầy đủ các chức
năng vốn có của tài chính là điều hết sức quan trọng bởi đó là những nhận
thức cơ bản mang tính nền tảng, quyết định không những đến việc hiểu đúng
bản thân khái niệm tài chính mà còn có ý nghĩa quyết định đến chất lượng,
hiệu quả của việc xây dựng và sử dụng các công cụ tài chính trong kinh tế thị
trường, giúp tránh được những quyết định chủ quan duy ý chí - cội nguồn của
các sai lầm không đáng có trong điều hành chính sách tài chính, tiền tệ.
19
Cho đến nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam, đều chưa có sự thống
nhất trong việc đưa ra số lượng các chức năng của tài chính, cũng như tên gọi
của các chức năng của tài chính. Tuy nhiên, đa số các học giả đều thừa nhận
tài chính có 2 chức năng cơ bản là phân phối và giám đốc bằng đồng tiền (gọi
tắt là giám đốc).
Chúng tôi cho rằng, tài chính có 2 chức năng là phân phối và giám
đốc, điều này đúng, nhưng chưa đủ. Đúng vì chỉ phù hợp với thể chế kinh tế
kế hoạch hóa tập trung trước đây. Chưa đủ vì trong kinh tế thị trường, tài
chính vận động trong môi trường kinh tế có những đặc trưng khác biệt, do đó
có cơ sở để phát huy các tác động xuất phát từ khả năng và bản chất nội tại
của tài chính. Vì thế, theo quan điểm của chúng tôi, tài chính, ngoài 2 chức
năng phân phối và giám đốc còn có chức năng khác, đó là chức năng hiệu
quả và sinh lời.
Sự phát huy tác động của chức năng này trong kinh tế thị trường là
hoàn toàn có cơ sở, vì rằng: trong nền kinh tế thị trường, khác với nền sản
xuất hàng hóa giản đơn, quá trình vận động của tư bản được thể hiện qua
công thức: T – H – T’. Ở đây, tài chính được coi là khởi điểm của quá trình
vận động của tư bản và cũng chính tài chính, sau một quá trình sử dụng có
khả năng tạo ra một lượng giá trị lớn hơn so với tư bản ứng trước. Rõ ràng,
đây là khả năng bên trong của tài chính, là cái vốn có, nhờ đó mà phát huy tác
động của tài chính trong hoạt động thực tiễn.
Giữa các chức năng của tài chính có mối quan hệ gắn bó mật thiết với
nhau. Chức năng phân phối nảy sinh đồng thời với sự ra đời của tài chính và
được coi là chức năng cơ sở, qua đó quy định sự hình thành và phát triển của
chức năng giám đốc và chức năng hiệu quả, sinh lời. Điều đó thể hiện rằng,
trong những môi trường nhất định chính sự phân phối và sử dụng các nguồn
lực tài chính đã tạo cơ sở để đem lại nguồn tài chính hiệu quả hơn.
Ngược lại, nhờ việc thực thi chức năng giám đốc đối với mọi hoạt
động tài chính mà làm cho tài chính được sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, góp
phần tăng thu nhập và của cải, đến lượt nó lại tạo ra cơ sở vững chắc để thực
hiện chức năng phân phối tài chính. Ý nghĩa của chức năng phân phối tài
chính càng tăng lên khi Nhà nước có nguồn lực tài chính nhất định để tác
động một cách sâu rộng đến các quá trình kinh tế và xã hội. Điều đó tạo ra
tiền đề để tăng thêm thu nhập cho các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư,
do đó mà củng cố chức năng hiệu quả và sinh lời của tài chính.
Đó là sự thống nhất biện chứng giữa các chức năng của tài chính. Sự
thống nhất đó cũng không loại trừ những mặt mâu thuẫn. Chẳng hạn, khi mà
phân phối tài chính không hợp lý, nguồn lực tài chính không được giám sát
đầy đủ trong quá trình sử dụng thì chắc chắn không thể có sự sinh lời hay
hiệu quả về mặt tài chính. Người ta gọi đó là tính hai mặt của tài chính, nó có
khả năng ảnh hưởng đến nền kinh tế một cách tích cực, nhưng cũng có thể
ảnh hưởng một cách tiêu cực. Tính hai mặt của sự tác động đó cần phải được
20
tính toán kỹ lưỡng trong tiến trình hoạch định chính sách tài chính ở mỗi giai
đoạn phát triển kinh tế khác nhau.
3). Vai trò mới của tài chính trong kinh tế thị trường và mở cửa hội nhập
Về phương diện lý luận, vai trò của tài chính đã được làm rõ với tư
cách là công cụ quan trọng để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà
nước và thực hiện việc phân phối thu nhập đảm công bằng xã hội.
Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, chúng tôi cho rằng, ngoài
các chức năng kể trên tài chính còn đóng vai trò là nhân tố quyết định sự
tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội.
Đây là vai trò quan trọng nhất của tài chính trong kinh tế thị trường và
mở cửa hội nhập. Sự nhận thức mới về vai trò này là cả quá trình phát triển
về lý luận dựa trên những cơ sở sau đây:
Thứ nhất, xuất phát từ những quan điểm của các trường phái kinh tế
học Phương Tây.
Các trường phái kinh tế học Phương Tây, mặc dù có cách lập luận
khác nhau nhưng lại thống nhất quan điểm rằng, phân phối có mối quan hệ
rất mật thiết với tăng trưởng kinh tế và được coi là một nhân tố quan trọng
thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Đã từ lâu, nhà kinh tế lỗi lạc Adam Smith cho rằng, để tăng số người
lao động mang tính sản xuất thì phải tăng tư bản từ quỹ tăng lao động và
muốn tăng năng suất lao động lại đòi hỏi phải tăng thêm tư bản. Từ đó cho
thấy đầu tư tăng tư bản cho sản xuất kinh doanh giữ vai trò quan trọng trong
quá trình tăng trưởng kinh tế. Cùng với Adam Smith, David Ricardo lại chú
trọng tới tỷ lệ phân phối của các loại thu nhập và ảnh hưởng của nó tới tích
luỹ tư bản và tăng trưởng kinh tế. Ông phân tích hàm số tăng trưởng và rút ra
nhận xét, do tích luỹ tư bản có xu hướng co lại nên làm kinh tế tăng trưởng
chậm lại. Các biện pháp thúc đẩy tăng trưởng được xuất phát từ tăng tỷ lệ
hình thành tư bản, coi đó là nhân tố chủ yếu quyết định tăng trưởng kinh tế.
Các nhà khoa học Roy Harrod và Evsey Domar (sau này gọi là mô
hình Harrod–Domar) đã gắn tăng trưởng kinh tế với việc cơ cấu lại tiết kiệm
và đầu tư trong tổng thu nhập. Hai ông cho rằng, sản lượng của bất cứ một
đơn vị kinh tế nào, dù là một doanh nghiệp, một ngành hay toàn bộ nền kinh
tế cũng đều phụ thuộc chắc chắn vào tổng số vốn có được. Khi nói tăng
trưởng kinh tế thì phải nói đến mức tăng thêm của sản lượng, nhưng mức
tăng thêm của sản lượng lại do lượng tăng thêm của vốn quyết định hay nói
cách khác do thay đổi cơ cấu đầu tư vốn quyết định đến tăng trưởng kinh tế.
Cambridge cho rằng, con đường căn bản để thực hiện sự tăng trưởng
ổn định nền kinh tế nằm ở chỗ điều chỉnh chế độ phân phối. Ông cho rằng, có
thể áp dụng biện pháp phân phối lại để điều chỉnh tăng phần thu nhập của các
tầng lớp khác nhau, từ đó thực hiện được sự tăng trưởng ổn định của nền kinh
21
tế quốc dân. Bởi vì, sự tác động khác nhau giữa khuynh hướng tiết kiệm và
tiêu dùng là nhân tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Nhà kinh tế lỗi lạc người Anh J. Kenyes trong cuốn sách “Lý thuyết
chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ” (1936), đã coi chi tiêu nhà nước là một
công cụ cơ bản của Chính phủ để can thiệp vào sự phát triển có tính chất chu
kỳ của nền kinh tế để vượt qua khủng hoảng. Bởi vậy, sự hình thành cơ cấu
và tốc độ của chi tiêu nhà nước là yếu tố quan trọng và không thể tách rời để
đạt được "cầu hiệu qủa". Tốc độ chi tiêu nhà nước theo ông cần phải thúc đẩy
tăng thu nhập quốc dân và cuối cùng phải nhằm vào mục tiêu đảm bảo việc
làm. Để thực hiện được điều đó, nhà nước phải tác động đến các tác nhân của
cầu là: tiêu dùng cá nhân và tiêu dùng đầu tư.
Như vậy, đã từ lâu các nhà kinh tế học Phương tây đã rất đề cao vai trò
của phân phối tài chính, coi đó là một nhân tố quan trọng để kích thích tăng
trưởng và phát triển kinh tế-xã hội.
Thứ hai, xuất phát từ quan điểm của C. Mác
Quan điểm của Mác về vai trò của tài chính xuất phát từ những nghiên
cứu lý luận sau đây:
Một làt, Mác đã nghiên cứu về cấu tạo hữu cơ của tư bản và rút ra kết
luận: cấu tạo hữu cơ tăng sẽ làm tăng năng suất lao động, tạo thêm giá trị
thặng dư cho xã hội.
Mác phân biệt cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị của tư bản. Cấu tạo kỹ
thuật của tư bản biểu hiện quan hệ tỷ lệ giữa số lượng tư liệu sản xuất với số
lượng lao động sử dụng trong quá trình sản xuất. Đó là quan hệ tất yếu, do
trình độ phát triển của sản xuất quyết định và phản ánh trình độ tiến bộ kỹ
thuật. Cấu tạo giá trị của tư bản biểu hiện quan hệ tỷ lệ giữa số lượng giá trị
tư bản bất biến và tư bản khả biến cần thiết để để tiến hành sản xuất. Cấu tạo
kỹ thuật và cấu tạo giá trị của tư bản có quan hệ với nhau và phụ thuộc vào
nhau: sự thay đổi trong cấu tạo kỹ thuật sẽ dẫn đến sự thay đổi trong cấu tạo
giá trị. Sự thể hiện mối quan hệ mật thiết đó đã hình thành một phạm trù mới,
đó là cấu tạo hữu cơ của tư bản.
Cấu tạo hữu cơ của tư bản là cấu tạo giá trị của tư bản do cấu tạo kỹ
thuật quyết định và phản ánh những biến đổi của cấu tạo kỹ thuật đó.
Do trình độ kỹ thuật không ngừng phát triển nên cấu tạo hữu cơ của tư
bản cũng không ngừng tăng lên. Sự tăng lên của cấu tạo hữu cơ được thể hiện
ở tư bản bất biến tăng lên tuyệt đối và tương đối, còn tư bản khả biến giảm
tương đối. Như vậy, do cấu tạo hữu cơ tăng sẽ làm tăng năng suất lao động,
tạo thêm giá trị thặng dư và tăng quy mô tích lũy tư bản.
Hai là, khi nghiên cứu vai trò của các khâu cấu thành trong quá trình
tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa, bao gồm: sản xuất, trao đổi, phân phối
và tiêu dùng, quan điểm của Mác cho rằng: sản xuất là khâu quyết định phân
22
phối, còn phân phối có tác động ngược trở lại đối với sản xuất theo hướng
thúc đẩy hoặc kìm hãm.
Như vậy, phân phối với tư cách là một khâu của quá trình tái sản xuất
xã hội được coi là nhân tố có tác động thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Nói
cách khác, tài chính là một bộ phận của các quan hệ phân phối dưới hình thức
tiền tệ có vai trò quan trọng trong khuyến khích thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, theo Mác vai trò này có phần bị động, vì phân phối là do
sản xuất quyết định. Điều này đưa đến những quan điểm hạn chế vai trò của
phân phối, trong đó có tài chính.
Thứ ba, xuất phát từ bản chất, chức năng của tài chính
Tài chính có chức năng phân phối và chức năng hiệu quả, sinh lời.
Chính các chức năng này đã quyết định vai trò của tài chính trở thành nhân tố
quyết định sự tăng trưởng kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, khác với nền sản xuất hàng hóa giản đơn,
công thức vận động của tư bản được khái quát là:
TLSX
T – H …Sx – H’ – T’
SLĐ
Như vậy, trong công thức trên: tài chính được coi là khởi điểm của quá
trình vận động của tư bản, nếu sự đầu tư nguồn lực tài chính cho các bộ phận
của sản xuất theo những tỷ lệ hợp lý sẽ tạo ra thặng dư cho xã hội. Với ý
nghĩa đó, theo quan điểm của chúng tôi, tài chính là nhân tố quyết định sản
xuất, quyết định tăng trưởng kinh tế.
Vì thế, để nền kinh tế tăng trưởng nhanh, góp phần thực hiện tốt các
CSXH, cần phải coi việc đổi mới cơ cấu huy động, phân bổ và sử dụng các
nguồn lực tài chính và coi đó là nhân tố có tính đột phá, quyết định sự thay
đổi cơ cấu kinh tế và ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
Với ý nghĩa đó, chúng tôi cho rằng, sản xuất là cơ sở của phân phối,
của tài chính, nhưng phân phối và tài chính lại có tác động quyết định sản
xuất, quyết định tăng trưởng kinh tế.
1.1.2. Chính sách tài khóa và sử dụng các công cụ của chính sách tài
khóa
1). Khái quát về chính sách tài khóa
Trong bất kỳ một xã hội nào, nhà nước muốn thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ của mình để đạt được các mục tiêu kinh tế-xã hội nhất định đều
phải sử dụng công cụ tài chính. Vai trò quan trọng việc thực hiện các mục
tiêu nói trên thuộc về CSTK.
23
CSTK là một phạm trù kinh tế học dùng để chỉ các hành động của
Chính phủ quyết định mức chi tiêu công và cách thức có đủ nguồn tài chính
để đảm bảo mức chi tiêu công đó. Chính phủ phải chi tiêu cho nhiều nhiệm
vụ rất đa dạng, từ quân sự, cảnh sát, đến các dịch vụ như giáo dục, y tế, phúc
lợi xã hội. Có nhiều nguồn để đảm bảo cho các khoản chi trên, trong đó quan
trọng nhất là thu thuế từ người dân và vay nợ để bù đắp thâm hụt ngân sách.
CSTK là một công cụ của chính sách kinh tế vĩ mô được Chính phủ sử
dụng để huy động, phân phối và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính
nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của quốc gia.
Nội dung của CSTK thông thường chứa đựng các yếu tố sau:
- Mục tiêu của chính sách: thể hiện phương hướng, đường lối, chủ
trương của nhà nước về sử dụng chính sách huy đông, phân phối và sử dụng
các nguồn lực tài chính.
- Các công cụ của chính sách
- Cơ chế chuyển tải của chính sách, bao gồm cách thức hay phương
thức huy động, phân phối, sử dụng các nguồn lực tài chính và các chế tài đảm
bảo thực hiện phương thức đó.
Căn cứ vào tác dụng điều tiết chu kỳ kinh tế có thể chia CSTK thành
CSTK tự động ổn định và CSTK có sự điều chỉnh của nhà nước.
CSTK tự động ổn định là loại CSTC dựa trên cơ sở sự biến động của
nền kinh tế quốc dân mà tự động phát sinh tác dụng thay đổi tình hình kinh tế
mà không cần dựa vào sự tác động của phía Chính phủ.
Loại hiệu quả ổn định tự động này sinh ra từ nội tại của CSTC, tự
mình phát huy tác dụng điều tiết, không cần có bất kỳ hành động can thiệp
nào của chính quyền.
Tính tự động ổn định của CSTC được thực hiện bởi sự hoạt động của
cơ chế thị trường. Chính nhờ cơ chế đó mà tạo ra khả năng phân phối lại một
cách tự do và nhanh chóng các nguồn tài chính giữa các chủ thể kinh tế khác
nhau.
Tuy nhiên, trong một vài trường hợp cơ chế thị trường cũng thể hiện
sự kém hiệu qủa trong việc phân phối nguồn tài chính và sự phân phối đó bị
ngáng trở bởi các tổ chức độc quyền. Nói cách khác, cơ chế thị trường không
đảm bảo sự phân phối thu nhập phù hợp với mục tiêu của một xã hội dân
chủ. Bởi vậy, nẩy sinh sự cần thiết phải thực hiện cơ chế điều chỉnh của nhà
nước.
CSTK có sự điều chỉnh của nhà nước là một loại CSTC mà bản thân
nó không có tác dụng tự động ổn định mà cần nhờ tác động bên ngoài mới có
thể phát sinh tác dụng điều tiết đối với nền kinh tế.
24
Sự cần thiết xuất hiện vai trò của nhà nước can thiệp vào nền kinh tế
căn cứ vào việc giải quyết những nhiệm vụ, gắn liền với sự thỏa mãn nhu cầu
của xã hội về phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội.
Tuy nhiên cũng cần phải khẳng định rằng, sự điều chỉnh của nhà nước
cũng có những gianh giới qui định hình thành một cách khách quan. Nếu can
thiệp qúa mức sẽ làm suy yếu những đòn bẩy kinh tế và hạ thấp hiệu qủa hoạt
động của cơ chế thị trường.
Nếu căn cứ vào tính chất điều tiết mặt lượng của tài chính đối với nền
kinh tế thì CSTK được chia thành: CSTK mở rộng, CSTK thu hẹp và CSTK
trung tính.
CSTK mang tính chất mở rộng là CSTC mà thông qua phân phối và
sử dụng các nguồn tài chính nhà nước thực hiện kích thích tăng tổng nhu cầu
xã hội.
Trong điều kiện nền kinh tế thiếu hụt về tổng cầu, nhà nước thực hiện
CSTK mở rộng để thu hẹp khoản chênh lệch giữa tổng cầu và tổng cung. Khi
tổng cầu và tổng cung đã cân đối thì thông qua CSTK mang tính chất mở
rộng nhà nước sẽ làm cho tổng nhu cầu vượt qúa tổng cung cấp.
Công cụ thực hiện CSTK mang tính chất mở rộng chủ yếu là giảm
thuế và tăng quy mô chi tiêu ngân sách. Nếu thực hiện song song việc giảm
thuế với việc tăng chi tiêu ngân sách, CSTK mở rộng sẽ dẫn đến bội chi ngân
sách. Bởi vậy,CSTK mang tính chất mở rộng thường được gọi là CSTC bội
chi.
CSTK mang tính chất thắt chặt là CSTC thông qua phân phối và sử
dụng nguồn tài chính, nhà nước thực hiện giảm bớt và hạn chế tổng nhu cầu.
Trong điều kiện tăng tổng nhu cầu qúa mức của nền kinh tế, nhà nước thông
qua CSTK thắt chặt thực hiện kiềm chế lạm phát để cân đối cung và cầu.
Trong điều kiện tổng cung cầu đã cân đối, nhà nước có thể thi hành CSTK
thắt chặt để tạo ra thiếu hụt nhu cầu hữu ích. Biện pháp thực hiện mục tiêu
của CSTK mang tính chất thắt chặt chủ yếu là tăng thuế và giảm bớt chi tiêu
ngân sách. Nếu trong điều kiện vừa tiến hành tăng thuế, vừa thực hiện giảm
chi thì có thẻ phát sinh khả năng kết dư ngân sách. Bởi vậy, CSTK mang tính
chất thắt chặt thường được gọi là CSTC kết dư.
CSTK trung tính luôn luôn thể hiện sự cân đối giữa tổng cung và tổng
cầu trong hoạt động phân phối và sử dụng nguồn tài chính. Vì thế, hoạt động
thu chi tài chính không thể sinh ra hiệu ứng mở rộng, cũng như không thể
sinh ra hiệu ứng thắt chặt. Nói chung, CSTK trung tính luôn luôn yêu cầu thu
chi tài chính giữ vững được sự cân đối.
2). Sử dụng các công cụ của chính sách tài khóa để điều tiết kinh tế
Các công cụ của CSTK thường được sử dụng bao gồm: Thuế, chi tiêu
ngân sách và vay nợ của chính phủ. Mỗi công cụ có những cơ chế tác động
25
khác nhau đến hoạt động kinh tế-xã hội và được sử dụng tùy thuộc vào bối
cảnh kinh tế từng thời kỳ. Trong nội dung này, chúng tôi chi nghiên cứu và
đưa ra những điểm mới về lý thuyết sử dụng các công cụ của chính sách tài
khóa để điều tiết kinh tế vĩ mô.
1) Sử dụng hệ số điều tiết của thuế
Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân
cho Nhà nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật qui định nhằm sử
dụng cho mục đích công cộng.
Thuế có những đặc điểm riêng để phân biệt với các công cụ tài chính
khác như sau:
- Thuế là một khoản đóng góp thu nhập của các tầng lớp trong xã hội
cho nhà nước mang tính bắt buộc. Đây là một thuộc tính cơ bản vốn có của
thuế để phân biệt thuế với các hình thức huy động tài chính khác.
- Việc đóng góp thu nhập dưới hình thức thuế không mang tính chất
hoàn trả trực tiếp.
- Việc đóng góp thu nhập dưới hình thức thuế được quy định trước
bằng luật pháp.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, với sự thay đổi phương thức
can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh tế, thuế trở thành công cụ quan
trọng để huy động nguồn lực tài chính cho Chính phủ và thực hiện điều tiết vĩ
mô nền kinh tế.
Sử dụng công cụ thuế để huy động nguồn lực tài chính có ưu điểm:
- Thuế là một công cụ phân phối có lĩnh vực và phạm vi rộng lớn. Đối
tượng nộp thuế bao gồm toàn bộ thể nhân và pháp nhân hoạt động kinh tế và
phát sinh nguồn thu nhập nộp thuế. Vì thế, thuế trở thành công cụ huy động
nguồn lực chủ yếu của Chính phủ.
- Phương thức huy động tập trung nguồn lực của thuế sử dụng
phương pháp chuyển giao thu nhập bắt buộc. Do vậy nhà nước đảm bảo thực
hiện sự công bằng trong việc phân bố gánh nặng của các khoản chi tiêu công
cộng, mặt khác việc động viên thông qua thuế mang tính pháp lý cao.
- Nguồn huy động tập trung thông qua thuế là tổng sản phẩm xã hội
và thu nhập quốc nội, nhờ đó mà một bộ phận đáng kể thu nhập của xã hội
được tập trung vào trong tay nhà nước một cách nhanh chóng, thường xuyên
và ổn định để đảm bảo nhu cầu chi tiêu cho các biện pháp kinh tế -xã hội.
- Tính ưu thế của động viên thông qua thuế so với các công cụ tài
chính khác ở chỗ: Thuế kết hợp giữa phương thức cưỡng bức, được qui định
dưới hình thức pháp luật cao với kích thích vật chất nhằm tạo ra sự quan tâm
của các chủ thể kinh tế đến chất lượng và hiệu qủa kinh doanh.
26
Nền kinh tế thị trường, bên cạnh những mặt tích cực cũng chứa đựng
những khuyết tật vốn có. Mục tiêu can thiệp của Nhà nước vào hoạt động của
nền kinh tế thị trường là nhằm:
- Đảm bảo cho nền kinh tế thị trường phát triển có hiệu qủa. Chính
phủ phải cố gắng duy trì môi trường cạnh tranh thuận lợi và sửa chữa những
khuyết tật của thị trường như độc quyền.
- Đảm bảo yêu cầu công bằng xã hội bằng biện pháp phân phối lại thu
thập
- Đảm bảo cho nền kinh tế phát triển trong thế ổn định theo hướng làm
giảm tính chu kỳ của nền kinh tế, giảm thất nghiệp, kiềm chế lạm phát và
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Để thực hiện được các mục tiêu đó, nhà nước cần phải sử dụng công
cụ thuế để thực hiện điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Đối tượng điều tiết thông qua
công cụ thuế là các lĩnh vực, các ngành, các vùng, cũng như các mặt hoạt
động khác nhau của đời sống kinh tế xã hội, nơi phát sinh những khó khăn
hay những vấn đề về thuế mà nó không thể tự động điều tiết, cần phải có sự
can thiệp của nhà nước để hiệu chỉnh cho phù hợp với hoạt động bình thường
của xã hội.
Trên cơ sở mục tiêu và đối tượng kể trên, nội dung điều tiết của thuế
đối với nền kinh tế quốc dân bao gồm: điều chỉnh chu kỳ kinh tế; cơ cấu
ngành, khu vực và từng vũng lãnh thổ; tích lũy tư bản; lạm phat; việc làm;
lưu thông tiền tệ; giá cả; tiền lương; phân phối thu nhập; các mối quan hệ
kinh tế đối ngoại, bảo vệ môi trường... Như vậy, nội dung của điều chỉnh của
thuế đối với nền kinh tế quốc dân rất rộng, nó bao hàm các qúa trình điều tiết
vĩ mô nền kinh tế.
Sử dụng thuế điều tiết kinh tế có thể áp dụng nhiều phương pháp khác
nhau, trong đó sử dụng hệ số điều tiết có ý nghĩa quan trọng.
Hệ số điều tiết kinh tế biểu thị mối quan hệ giữa tốc độ tăng thuế và
tốc độ tăng trưởng kinh tế.
%100)(
)(
GDPt
Ttd
Trong đó: d - hệ số điều tiết kinh tế
t(T) - tốc độ tăng thuế trong năm
t(GDP) - tốc độ tăng GDP trong năm
Nếu d = 1, tức là tốc độ tăng thuế ngang bằng tốc độ tăng GDP, thể
hiện sự điều tiết tốt trong điều kiện tăng trưởng ổn định nhưng điều tiết kém
trong điều kiện kinh tế chu kỳ.
27
Trường hợp d >1 tức tốc độ tăng thuế lớn hơn tốc độ tăng GDP, có
nghĩa là tăng gánh nặng thuế đối với nền kinh tế. Nếu d <1 thì ngược lại làm
giảm gánh nặng thuế đối với nền kinh tế.
Nếu hệ số lớn hơn hoặc thấp hơn 1 thể hiện sự điều tiết của thuế đối
với tăng trưởng kinh tế.
2) Sử dụng chi tiêu chính phủ để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Chi tiêu của chính phủ nhằm thỏa mãn nhu cầu của Nhà nước đối với
việc thực hiện các mục tiêu chung toàn xã hội. Chi tiêu chính phủ bao gồm
hai loại: chi tiêu công cộng (hoặc gọi là các khoản chi thường xuyên) và chi
đầu tư XDCB, trong đó chi đầu tư XDCB được coi là một công cụ quan
trọng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Đầu tư XDCB của chính phủ là khoản chi nhằm hình thành các loại tài
sản cố định, cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế. Trong điều kiện nền kinh tế thị
trường, đầu tư của chính phủ chủ yếu cho những ngành nghề, những lĩnh vực
có hiệu ứng bên ngoài lớn, có tác dụng châm ngòi cho đầu tư của khu vực tư
nhân. Vì vậy, năng lực đầu tư và phương hướng đầu tư của chính phủ có tác
dụng then chốt đối với sự điều chỉnh cơ cấu huy động nguồn lực tài chính của
xã hội để ĐTPT nền kinh tế quốc dân.
Theo lý thuyết của Keynes về hệ số nhân đầu tư, trong đó biểu thị mối
quan hệ giữa gia tăng thu nhập với gia tăng đầu tư, tức là gia tăng đầu tư sẽ
làm gia tăng thu nhập lên bao nhiêu lần.
Nếu ký hiệu dR là gia tăng thu nhập, dI là gia tăng đầu tư, dE là gia
tăng tiết kiệm, dC là gia tăng tiêu dùng, k là hệ số nhân, ta có:
dI
dRk
Vì dI = dE nên ta có:
dR
dCI
k
1
Theo Keynes, mỗi sự gia tăng của đầu tư đều kéo theo sự gia tăng của
cầu về tiền lương công nhân và tư liệu sản xuất, do vậy làm tăng cầu tiêu
dung và tăng việc làm. Tất cả điều đó làm cho thu nhập tăng lên. Đến lượt nó,
thu nhập lại là tiền đề cho sự gia tăng đầu tư mới. Quá trình số nhân như vậy
biểu hiện dưới hình thức tác động dây chuyền: tăng đầu tư làm tăng thu nhập.
Tăng thu nhập làm tăng đầu tư mới. Tăng đầu tư mới làm tăng thu nhập mới.
Quá trình số nhân như vậy làm phóng đại thu nhập lên.
3) Sử dụng công cụ vay nợ chính phủ để điều tiết kinh tế
Khi chi tiêu của chính phủ lớn hơn mức thuế thu được, Chính phủ phải
vay nợ từ trong nước và ngoài nước để trang trải phần thâm hụt ngân sách
hình thành nợ chính phủ và gọi là Tín dụng nhà nước. Tín dụng nhà nước
28
được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau: công trái, tín phiếu, trái
phiếu quốc tế, TPCP.
Lúc đầu tìn dụng nhà nước chỉ được dùng để bù đắp bội chi tài chính.
Theo đà phát triển của kinh tế, Tín dụng nhà nước đã trở thành CSTC quan
trọng điều tiết quan hệ cung cầu tiền tệ và điều tiết mối quan hệ tài chính với
tiền tệ - tín dụng.
Tác dụng điều tiết của Tín dụng nhà nước chủ yếu thể hiện trên 3 mặt
như sau:
Thứ nhất, Tín dụng nhà nước đã thu hút một nguồn lực tài chính đáng
kể từ dân cư cho nhà nước, làm cho đầu tư và tiêu dùng của dân cư giảm đi.
Do đó, tín dụng của nhà nước có tác dụng điều tiết đối với một bộ phận
nguồn lực tài chính sử dụng cho mục đích đầu tư và tiêu dùng của nền kinh
tế.
Thứ hai, Tín dụng nhà nước có tác động đến cung cầu tiền tệ. Nhờ có
Tín dụng nhà nước mà một bộ phận tiền tệ nhàn rỗi, nằm im biến thành tiền
tệ lưu thông và đưa vào ĐTPT kinh tế. Sự biến động về số lượng tiền tệ do
Tín dụng nhà nước đưa đến gọi là "hiệu ứng tiền tệ" của Tín dụng nhà nước.
Thứ ba, do nguồn trả nợ của Tín dụng nhà nước chủ yếu dựa vào gia
tăng thu thuế ở các năm sau. Đối với những người cho nhà nước vay, khi Tín
dụng nhà nước đến hạn, họ không chỉ thu hồi được vốn mà còn nhận được lợi
tức. Nhà nước phát hành Tín dụng nhà nước chủ yếu dùng cho các nhu cầu
chung của xã hội, mọi người dân đều được hưởng. Như vậy sẽ sinh ra vấn đề
chuyển dịch thu nhập giữa những người nộp thuế với những người cho nhà
nước vay. Ngoài ra, vấn đề trả nợ do tín dụng nhà nước đưa đến, không chỉ
ảnh hưởng đến những người đương thời, mà còn tồn tại cái gọi là vấn đề
chuyển dịch thu nhập và gánh vác của "các đời". Điều đó gọi là hiệu ứng thu
nhập, có tác động điều tiết nguồn lực tài chính của khu vực dân cư.
Tác dụng của tín dụng nhà nước chủ yếu thông qua quy mô tín dụng
nhà nước, cơ cấu người mua, cơ cấu về kỳ hạn, lãi suất tín dụng nhà nước.
Nhà nước thông qua việc điều chỉnh quy mô tín dụng nhà nước, lựa chọn đối
tượng mua, phân chia kỳ hạn hoàn trả tín dụng nhà nước, xây dựng lãi suất
tín dụng nhà nước khác nhau, để thực hiện mục tiêu điều tiết của CSTC.
Trong điều kiện thực thi CSTC gắn với CSTT, thông qua thị trường
tín dụng nhà nước, Chính phủ có thể điều hành được hai hệ thống chính sách
lớn: một mặt, tín dụng nhà nước có thể làm nhẹ bớt hậu qủa lạm phát do bội
chi ngân sách, việc huy động vốn từ tín dụng nhà nước để bù đắp bội chi
ngân sách so với bù đắp bằng phát hành tiền có ảnh hưởng nhỏ hơn tới sự
biến động của tiền tệ và lạm phát; mặt khác, còn có thể gia tăng khả năng linh
hoạt điều tiết việc cung ứng tiền tệ của NHTW.
29
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG MỞ CỦA HỘI NHẬP
1.2.1. Xác định mục tiêu của chính sách tiền tệ
CSTT là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng để đạt
được các mục tiêu kinh tế - xã hội của các quốc gia trong một thời kỳ nhất
định.
Trong tác phẩm “Tiền tệ, ngân hàng và TTTC”, F.S. Miskin đã đưa ra
quan điểm về CSTT theo nghĩa rộng: “CSTT là một trong các chính sách vĩ
mô, trong đó ngân hàng Trung ương thông qua các công cụ của mình thực
hiện việc kiểm soát và điều tiết khối lượng tiền cung ứng nhằm tác động tới
các mục tiêu cơ bản của nền kinh tế trên cơ sở đó đạt được những mục tiêu
cuối cùng của mình là công ăn việc làm cao, tăng trưởng kinh tế, ổn định giá
cả, ổn định lãi suất, ổn định TTTC và ổn định tỷ giá hối đoái”.
Bất kỳ nền kinh tế nào, ổn định tiền tệ và nâng cao sức mua đồng tiền
trong nước luôn được coi là mục tiêu có tính chất dài hạn. NHTW điều hành
CSTT phải kiểm soát được tiền tệ, làm sao cho phù hợp giữa khối lượng tiền
với mức tăng tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa, giữa tổng cung và tổng
cầu tiền tệ, giữa tiền và hàng, không gây thừa hoặc thiếu tiền so với nhu cầu
của lưu thông.
Xét cho cùng, CSTT có thể được xác định theo một trong hai hướng
sau:
- CSTT mở rộng là việc cung ứng thêm tiền cho nền kinh tế, nhằm
khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm. Trong trường
hợp này, chính sách nhằm vào chống suy thoái.
- CSTT thắt chặt là việc giảm cung ứng tiền cho nền kinh tế, nhằm hạn
chế đầu tư, kìm hãm sự phát triển quá nóng của nền kinh tế, trường hợp này
CSTT nhằm vào việc kiềm chế lạm phát.
Bằng cách NHTW tác động đến cung ứng tiền (money supply) làm
thay đổi cung ứng tiền để tác động đến lãi suất, từ đó ảnh hưởng đến chi tiêu
của các khu vực nền kinh tế, cuối cùng CSTT có tác động quan trọng đến
GDP (thực, tiềm năng) và lạm phát. Trong dài hạn, CSTT xác định giá trị
danh nghĩa hay giá trị tiền tệ của hàng hóa và dịch vụ - đó chính là mức giá
chung hay CSTT chính là yếu tố quyết định mức giá chung trong dài hạn.
Tuy nhiên, những thay đổi của CSTT cũng có ảnh hưởng nhất định đến hoạt
động kinh tế trong ngắn hạn và trung hạn. CSTT là cách thức hay tổng thể
các biện pháp, công cụ của NHTW nhằm góp phần đạt được các mục tiêu
của chính sách kinh tế, thông qua việc chi phối, điều tiết quá trình cung ứng
tiền và tín dụng, tức là thông qua chi phối dòng chu chuyển tiền và khối
lượng tiền2.
30
Như vậy, vấn đề xác định đúng đắn, chính xác mục tiêu của CSTT và
sự lựa chọn có ý nghĩa quan trọng trong việc phát huy vai trò của CSTT trong
nền kinh tế thị trường. Để đảm bảo sự lựa chọn đúng đắn, hợp lý cần xem xét
qui trình hoạt động của CSTT. Quy trình này có thể tóm tắt như sau:
Để đạt được cái đích cuối cùng của CSTT, trong quá trình điều hành
CSTT, NHTW phải theo đuổi những đích trực tiếp và gián tiếp khác. Các
đích này có sự liên kết lẫn nhau và liên kết với cái đích cuối cùng của CSTT,
từ đó hình thành “ hệ thống mục tiêu” của CSTT. Nhiều nghiên cứu thực tế
đã chỉ ra rằng, CSTT chỉ đạt được hiệu quả cao khi NHTW lựa chọn được hệ
thống mục tiêu CSTT phù hợp với thực trạng của nền kinh tế và hệ thống tài
chính.
Mục tiêu cuối cùng
Mục tiêu cuối cùng của CSTT thường là mục tiêu trung hạn, vì tác
động trễ của tiền tệ đến sản lượng và lạm phát. CSTT là một công cụ quản lý
kinh tế vĩ mô, nên mục tiêu CSTT theo đuổi không ngoài mục tiêu của kinh
tế vĩ mô là “ mức sản lượng cao và tăng trưởng nhanh; mức công ăn việc làm
hữu hiệu với mức thất nghiệp tự nguyện thấp nhất; ổn định giá cả”. Trên thực
tế NHTW các nước điều hành CSTT đều theo đuổi mục tiêu trên. Tuy nhiên,
CSTT không phải là duy nhất để nền kinh tế đạt được sự ổn định kinh tế vĩ
mô với mức tăng trưởng bền vững, công ăn việc làm cao và lạm phát thấp,
mà để đạt được điều đó phải phối hợp đồng bộ với nhiều chính sách khác như
chính sách tài khoá, chính sách thu nhập, chính sách đối ngoại...Có thể khái
quát hoá mục tiêu cuối cùng của CSTT thường là ổn định hệ thống tiền tệ, hỗ
trợ sự phát triển kinh tế bền vững, ổn định giá cả hay là kiểm soát được lạm
phát ở mức mong muốn. Trong từng thời kỳ, mục tiêu cuối cùng được lượng
hoá cụ thể phù hợp với diễn biến kinh tế và diễn biến tiền tệ.
Mục tiêu trung gian
Mục tiêu trung gian là những biến số tiền tệ mà có thể đo lường được,
NHTW có thể kiểm soát được và phải có tác dụng dự báo được mục tiêu cuối
cùng. Điều đó có nghĩa rằng biến số tiền tệ đó có mối liên kết với mục tiêu
hoạt động và có thể tác động đến mục tiêu cuối cùng của CSTT.
Qua đúc kết kinh nghiệm của các nước, IMF đã chia mục tiêu trung
gian được chia thành 3 loại: Mục tiêu trung gian là tổng tiền, thường là lượng
chọn M2 và/hoặc là tổng tín dụng nền kinh tế. Mục tiêu trung gian là tổng
tiền, hoặc tỷ giá hối đoái, hoặc lãi suất thị trường đã được áp dụng trong
nhiều thập kỷ qua, qua đó cho thấy mỗi một mục tiêu được lựa chọn gắn liền
với những diễn biến kinh tế và TTTC trong từng giai đoạn phát triển, gắn liền
Mục tiêu hoạt
động
Mục tiêu
trung gian
Mục tiêu
cuối cùng
Công cụ của CSTT
31
với mục tiêu và giải pháp đảm bảo sự ổn định vĩ mô. Như vậy, để lựa chọn
được mục tiêu trung gian thích hợp, đòi hỏi sự phân tích kỹ lưỡng về các diễn
biến kinh tế, tiền tệ hiện tại và dự báo trong tương lai, và xác định rõ định
hướng phát triển kinh tế trong ngắn hạn cũng như dài hạn.
Mục tiêu hoạt động
Mục tiêu hoạt động là những biến tiền tệ mà NHTW có thể tác động
hay kiểm soát một cách trực tiếp bằng các công cụ CSTT nhằm thay đổi mục
tiêu trung gian, qua đó tác động đến mục tiêu cuối cùng của CSTT. Mục tiêu
hoạt động có vai trò quan trọng đối với việc điều hành CSTT, đây là điểm
khởi đầu trong cơ chế truyền tải tiền tệ, là biến số chủ yếu để NHTW thực thi
CSTT.
IMF đã chia mục tiêu hoạt động thành hai loại là mục tiêu hoạt động
giá cả hay lãi suất ngắn hạn và mục tiêu hoạt động là khối lượng (tiền cơ
bản), cụ thể như sau:
+ Gắn với mục tiêu hoạt động là giá cả nghĩa là NHTW kiểm soát lãi
suất ngắn hạn trên thị trường liên ngân hàng. Thông thường NHTW qui định
lãi suất trần và lãi suất sàn của NHTW trên thị trường liên ngân hàng nhằm
tạo ra hành lang dao động cho lãi suất ngắn hạn trên thị trường theo mức
mong muốn của NHTW, thông qua sự tác động của công cụ CSTT như
nghiệp vụ thị trường mở v.v. Trong trường hợp việc chỉ đạo CSTT hầu hết
thông qua sự can thiệp của NHTW trên thị trường ngoại hối hơn là việc điều
chỉnh lãi suất thì tỷ giá được xem như là mục tiêu hoạt động.
+ Gắn với mục tiêu hoạt động là khối lượng tiền tệ nghĩa là NHTW
kiểm soát tiền cơ bản (MB), hoặc các cấu thành của nó, chẳng hạn như Dự
trữ quốc tế ròng, Dự trữ của các NHTM, hoặc tài sản có trong nước ròng trên
bảng cân đối của NHTW.
+ Đối với mục tiêu giá cả tiền tệ, việc kiểm soát lãi suất sẽ có hiệu quả
trong điều kiện thị trường tiền tệ phát triển (thị trường liên ngân hàng có tính
thanh khoản cao và hiệu quả, hệ thống NHTM tồn tại sự cạnh tranh, NHTW
phải có sự tín nhiệm với thành viên thị trường). Sở dĩ phải có điều kiện này là
do lãi suất chỉ có tính nhạy cảm cao trong môi trường như vậy, khi đó bất cứ
sự thay đổi nhỏ trong cung tiền của NHTW sẽ tác động đến sự biến động của
lãi suất. Đối với mục tiêu là khối lượng, điều kiện áp dụng có phần ngược lại,
tức là có thể áp dụng trong điều kiện thị trường tiền tệ chưa phát triển, kém
hiệu qủa, khả năng cạnh tranh giữa các ngân hàng là thấp, nhất là trong điều
kiện môi trường lạm phát cao. Tuy nhiên trong tình hình như vậy, một điều
kiện tiên quyết là giữa hệ số tạo tiền và hàm cầu tiền phải có sự liên hệ chặt
chẽ với nhau3, và gắn với nó là mục tiêu trung gian là tổng tiền (tổng phương
tiện thanh toán hoặc tổng tín dụng nền kinh tế).
32
1.2.2. Các công cụ của chính sách tiền tệ và sự lựa chọn
1). Các công cụ của chính sách tiền tệ
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn sử dụng các công cụ CSTT trong điều
hành CSTT của các NHTW trên thế giới, IMF đã tổng kết và phân chia các
công cụ CSTT thành 2 loại chủ yếu: Công cụ tiền tệ trực tiếp và công cụ tiền
tệ gián tiếp.
2). Công cụ trực tiếp
Là cách thức mà NHTW trực tiếp tác động thông qua các quy định để
giới hạn mục tiêu giá cả (hoặc mục tiêu khối lượng) thường nhằm vào các chỉ
tiêu trên bảng cân đối của ngân hàng thương mại. Các công cụ này thường
được áp dụng trong điều kiện thị trường tiền tệ chưa phát triển, khả năng sử
dụng các điều kiện thị trường để điều tiết tiền tệ của NHTW còn hạn chế,
như: kiểm soát trực tiếp lãi suất của nền kinh tế, hạn mức tín dụng, tín dụng
chỉ định.
Ấn định lãi suất tiền gửi và tiền vay
Nếu lãi suất qui định cao, sẽ thu hút được nhiều tiền gửi, làm gia tăng
nguồn vốn cho vay. Nếu lãi suất thấp, sẽ làm giảm tiền gửi, giảm khả năng
mở rộng kinh doanh tín dụng.
Nhược điểm của biện pháp này là làm cho các TCTD mất đi tính linh
hoạt và quyền tự chủ kinh doanh, nó dễ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn ở ngân
hàng nhưng lại thiếu vốn đầu tư hoặc khuyến khích dân cư dùng tiền vào dự
trữ ngoại tệ, bất động sản, trong khi ngân hàng bị hụt hẫng về tiền mặt cũng
như nguồn vốn cho vay.
Ấn định khung lãi suất tiền gửi và cho vay
NHTW có thể qui định khung lãi suất (giới hạn tối đa và tối thiểu về
lãi suất) bắt buộc các TCTD phải thực hiện.
Biện pháp này có ưu điểm là giúp ngân hàng lựa chọn dự án kinh tế tối
ưu để cho vay, loại bỏ những dự án kinh tế kém hiệu quả. Nhìn chung việc ấn
định khung lãi suất tiền gửi và cho vay ngày càng ít được áp dụng ở các nước
theo cơ chế thị trường. Bởi vì, trong cơ chế thị trường, lãi suất rất nhạy cảm
với đầu tư, nó phải được vận động theo quan hệ cung cầu vốn trên thị trường.
Ấn định hạn mức tín dụng đối với các TCTD
Đây là biện pháp mà NHTW khống chế mức cho vay tối đa đối với
các TCTD. Trên cơ sở qui mô, tình hình hoạt động cũng như khả năng huy
động vốn của từng TCTD, NHTW tiến hành phân chia hạn mức tín dụng cho
từng TCTD, đó chính là mức tối đa mà mỗi TCTD được phép vay từ NHTW.
Với việc sử dụng biện pháp này tạo cho NHTW dễ đạt được các mục tiêu
trung gian của CSTT. Tuy nhiên trong điều kiện kinh tế thị trường, với sự
33
biến động thường xuyên của cung và cầu tiền vay, biện pháp này bỏ ra không
còn phù hợp vì không điều chỉnh kịp thời với sự biến động của nền kinh tế.
Bên cạnh việc qui định hạn mức tín dụng đối với các TCTD, NHTW
còn qui định hạn mức tín dụng đối với nền kinh tế. Trong trường hợp này,
NHTW có thể qui định giới hạn khối lượng tín dụng mà các TCTD có thể
cung cấp cho nền kinh tế. Nó được sử dụng để kiểm soát chặt chẽ sự mở rộng
tín dụng khi NHTW thực hiện chính sách chặt tiền tệ.
Phát hành tín phiếu ngân hàng trung ương
Trong một số trường hợp, NHTW có thể phát hành tín phiếu để giảm
khối lượng tiền trong lưu thông. Việc phân bổ tín phiếu mang tính chất bắt
buộc đối với TCTD. Việc phát hành tín phiếu NHTW thường áp dụng trong
trường hợp lạm phát cao, hoặc được sử dụng để hỗ trợ một số công cụ khác.
Phát hành trực tiếp cho NSNN và cho đầu tư
Trong điều kiện NSNN bị thiếu hụt, NHTW phát hành tiền để bù đắp
sự thiếu hụt ấy. Biện pháp này làm gia tăng khối lượng trong lưu thông, hậu
quả là gia tăng lạm phát.
Phát hành trực tiếp cho đầu tư có thể qua NSNN hoặc qua con đường
tín dụng ngân hàng. Biện pháp này cần thiết trong điều kiện nền kinh tế suy
thoái, dư thừa tiềm năng kinh tế. Nó sẽ mang lại hiệu quả tích cực, nếu phát
hành này được sử dụng để khơi tăng tiềm năng về tài nguyên và con người.
3). Công cụ gián tiếp
Các công cụ gián tiếp là các công cụ mà sự tác động của chúng vào
các mục tiêu trung gian được thông qua một biến số khác thuộc về sự kiểm
soát của NHTW và phải thông qua cơ chế tự điều tiết của các lực lượng thị
trường. Thuộc về nhóm công cụ này bao gồm:
Dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các TCTD phải duy trì theo qui định của
NHTW. Nó được xác định bằng tỷ lệ phần trăm nhất định trên tổng số dư tiền
gửi trong một khoảng thời gian nhất định.
Dự trữ bắt buộc được xác định bằng cách:
DTBBTGBB xTLTDTBB
Trong đó:
o DTBB: Tiền dự trữ bắt buộc
o TGBBT : Tổng số tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc
o DTBBTL : Tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Về nguyên tắc, các khoản tiền gửi dự trữ bắt buộc gửi trên tài khoản
chuyên dùng tại NHTW và không được NHTW trả lãi.
34
Tuỳ theo điều kiện của từng nước, trong từng thời kỳ, có nhiều qui
định về việc xác định tỷ lệ dự trữ bắt buộc khác nhau. Dự trữ bắt buộc có thể
qui định cho tất cả các TCTD hoặc có thể chỉ tính cho một số các TCTD. Tỷ
lệ dự trữ bắt buộc có thể được qui định chung cho toàn bộ các nguồn vốn huy
động được của các TCTD hoặc có thể chỉ được qui định đối với tiền gửi
không kỳ hạn và tiền gửi ngắn hạn dưới một năm.
Việc quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm đảm bảo khả năng thanh
toán của các TCTD và quan trọng hơn là để NHTW kiểm soát quá trình tạo
tiền của hệ thống TCTD. Sự thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động tới sự
thay đổi số nhân tiền và qua đó tác động đến mức cung tiền.
Nếu tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng, các yếu tố khác không đổi, làm giảm
khả năng cho vay và đầu tư của TCTD, do đó làm giảm tiền trong lưu thông.
Ngược lại, NHTW giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, mở rộng cho vay và đầu tư của
các TCTD, dẫn đến tăng mức cung ứng tiền.
Như vậy thông qua công cụ dự trữ bắt buộc, NHTW tác động cả về
khối lượng và giá cả tín dụng của các ngân hàng thương mại:
Về số lượng: Tăng, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng có nghĩa là thắt
chặt hay nới lỏng khả năng tạo tiền của ngân hàng thương mại.
Về chi phí: Tăng, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng có nghĩa là làm tăng
hoặc giảm cho phí tín dụng của các ngân hàng thương mại.
Do đó dự trữ bắt buộc tạo ra tác động kép (vừa tác động về khối
lượng, vừa tác động về chi phí) để buộc các ngân hàng thương mại có thể mở
rộng hay hạn chế tín dụng.
Tái cấp vốn
Tái cấp vốn là cách để NHTW đưa tiền ra lưu thông, đồng thời khống
chế về số lượng và chất lượng tín dụng của các TCTD.
Nếu căn cứ vào mục đích, các khoản tái cấp vốn của NHTW đối với
TCTD bao gồm: Cho vay thanh toán đối với các ngân hàng thiếu hụt tạm
thời; cho vay bổ sung nguồn vốn tín dụng ngắn hạn; cho vay thời vụ để đáp
ứng nhu cầu thời vụ của một số ngân hàng.
Thông qua việc ấn định lãi suất tái cấp vốn, NHTW tác động đến chi
phí vay mượn của các TCTD tại NHTW. Nếu lãi suất tái cấp vốn tăng lên,
chi phí các khoản tiền vay từ NHTW tăng lên, các TCTD sẽ bất lợi trong vay
vốn. Trong điều kiện đó, các TCTD không có khả năng bành trướng tín dụng.
Nếu lãi suất tái cấp vốn giảm xuống, các TCTD có khả năng bành trướng tín
dụng. do được lợi trong việc vay vốn của NHTW.
Điều kiện để NHTW tái cấp vốn là:
- Còn hạn mức tín dụng dành cho TCTD đó.
35
- Các khoản tín dụng đem đến tái chiết khấu phải lành mạnh và đảm
bảo khả năng thu hồi nợ.
Ở các nước công cụ tái cấp vốn được sử dụng một cách phổ biến để
tác động đến cơ số tiền và cung ứng tiền tệ và qua đó thực hiện các mục tiêu
về tăng trưởng kinh tế và ổn định tiền tệ. Qua công cụ tái cấp vốn, NHTW là
người cho vay cuối cùng. Tái cấp vốn được thực hiện trên nền các giấy tờ có
giá, nên thời hạn vay mượn là rõ ràng, việc hoàn trả nợ tương đối chắc chắn,
tiền vay vận động phù hợp với sự vận động của quy luật cung cầu thị trường.
Mặc dù công cụ tái cấp vốn có nhiều công dụng trong việc thực hiện
CSTT, nhưng việc kiểm soát cơ số tiền và mức tiền cung ứng thường kém
chặt chẽ. Sự thay đổi của lãi suất tái cấp vốn có thể làm tăng hay giảm khối
lượng vay mượn của TCTD, nhưng mức độ thay đổi là bao nhiêu lại phụ
thuộc phần lớn vào hoạt động của TCTD. Vì vậy, đôi khi khối lượng tiền vay
mượn của TCTD nằm ngoài ý định của NHTW, do vậy NHTW không thể
kiểm soát chặt chẽ sự thay đổi của mức cung ứng tiền.
Nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua bán các chứng khoán ngắn
hạn của NHTW trên thị trường tiền tệ.
Ở các nước phát triển, nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ quan
trọng trong việc thực hiện CSTT của NHTW nhằm đạt được mục đích là điều
tiết mức dự trữ của TCTD, điều tiết mức cung tiền.
Nếu ý muốn gia tăng khối lượng tiền trong lưu thông, mở rộng tín
dụng, NHTW thực hiện nghiệp vụ mua các giấy tờ có giá trên thị trường tiền
tệ. Ngược lại, khi muốn giảm mức cung ứng tiền thu hẹp tín dụng, NHTW
bán các giấy tờ có giá đang nắm giữ.
Qua nghiệp vụ mua bán này, NHTW làm tăng hay giảm dự trữ của
ngân hàng thương mại, tác động tới khả năng tín dụng của ngân hàng này và
từ đó làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ.
Công cụ thị trường mở có ưu điểm là nó trực tiếp tác động ngay đến
dự trữ của các TCTD và buộc các ngân hàng này phải gia tăng tín dụng hoặc
giảm tín dụng đối với nền kinh tế. Nếu không có sự tham gia mua bán của
NHTW trên thị trường tiền tệ mà chỉ có việc mua bán tín phiếu kho bạc giữa
các TCTD với nhau thì khối lượng tiền tệ sẽ không thay đổi. Bởi vì một
TCTD này bán tín phiếu cho TCTD thì chỉ là sự chuyển dịch tín phiếu và
một phần dự trữ dư thừa từ TCTD này qua TCTD khác mà thôi.
Công cụ tiền tệ gián tiếp là cách tác động thông qua thị trường dưới
những điều kiện về cung cầu vốn, và hầu hết các công cụ này nhằm vào bảng
cân đối tiền tệ của NHTW. Các công cụ tiền tệ gián tiếp (dự trữ bắt buộc, tái
cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở…) không ngừng phát triển cùng với sự
phát triển của thị trường tiền tệ, hệ thống thanh toán. Đến nay, công cụ dự dữ
bắt buộc ít được sử dụng hơn ở những nước phát triển,mà dự trữ bắt buộc chủ
36
yếu được sử dụng ở những nước đang phát triển và những nước chuyển đổi.
Còn công cụ tái cấp vốn cũng được mở rộng thêm, đến nay NHTW nhiều
nước đã thực hiện nghiệp vụ thấu chi cung cấp nguồn vốn qua đêm cho các
NHTM do thiếu hụt khả năng thanh toán khi tham gia hệ thống thanh toán
của NHTW và thực hiện nghiệp vụ gửi tiền (deposit facility) để thu hút vốn
khả dụng thừa của các NHTM nhằm ngăn chặn lãi suất thị trường hạ xuống
mức quá thấp. Nghiệp vụ tiền gửi thường được kết hợp với nghiệp vụ
lombard hoặc cho vay qua đêm tạo ra một hành lang dao động cho lãi suất thị
trường liên ngân hàng.
Nghiệp vụ thị trường mở ngày nay đã trở thành công cụ CSTT chủ yếu
ở những nước phát triển. Từ nghiệp vụ thị trường mở truyền thống (mua bán
hẳn chứng khoán chính phủ) đến nay nghiệp vụ này đã phát triển dưới nhiều
hình thức, như nghiệp vụ mua – bán có kỳ hạn giấy tờ có giá (Repo); nghiệp
vụ mua – bán có kỳ hạn ngoại tệ (nghiệp vụ Swap); bán tín phiếu của NHTW
trên thị trường sơ cấp.
Ngoài nghiệp vụ tái cấp vốn và nghiệp vụ thị trường mở là những
công cụ tiền tệ gián tiếp chủ yếu được áp dụng trong điều hành CSTT của
NHTW các nước, còn một số công cụ khác được áp dụng trong những điều
kiện nhất định và chỉ có một vài nước áp dụng. Chẳng hạn như nghiệp vụ tiền
gửi của khu vực công – là sự phân bổ lại tiền gửi chính phủ giữa NHTW với
các NHTM để bù đắp sự thiếu hụt ngắn hạn vốn khả dụng của các NHTM.
Sử dụng công cụ này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa NHTW và Kho
bạc…
Như vậy, để điều hành CSTT, NHTW đã sử dụng rất nhiều các công
cụ tiền tệ, mỗi công cụ đều có những vai trò nhất định trong việc tác động
đến cung, cầu vốn trên thị trường. Tùy theo các điều kiện của thị trường tiền
tệ, mức độ phát triển của thị trường tiền tệ, mục tiêu và khuôn khổ CSTT của
NHTW mà mỗi công cụ khi áp dụng có thể mang lại những hiệu quả tối đa.
4). Lựa chọn sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ
Có thể đưa ra nét chung nhất mà IMF đã tổng kết làm cơ sở tham khảo
để lựa chọn công cụ CSTT cho phù hợp với mục tiêu điều hành của NHTW
như sau:
- Công cụ dự phòng: Tạo hành lang lãi suất trên thị trường liên ngân
hàng, do vậy phù hợp với mục tiêu hoạt động là lãi suất ngắn hạn hơn là với
mục tiêu hoạt động là tiền cơ bản.
- Nghiệp vụ thị trường mở: Mục tiêu điều tiết của nghiệp vụ thị trường
mở là giá cả (lãi suất) hay khối lượng tiền tùy thuộc vào việc lựa chọn
phương thức đấu thầu là đấu thầu khối lượng hay đấu thầu lãi suất trong các
giao dịch mua bán hẳn hoặc mua bán có kỳ hạn các giấy tờ có giá.
Khi thực hiện nghiệp vụ Swap, NHTW không tác động được đến tỷ
giá hối đoái, mà tác động đến khối lượng tiền. Nhưng khi thực hiện mua –
37
bán đứt ngoại tệ, NHTW vừa tác động đến tỷ giá hối đoái vừa tác động đến
khối lượng tiền cơ bản.
- Công cụ dự trữ bắt buộc: Là công cụ không hiệu quả để định hướng
lãi suất ngắn hạn, mà cũng như tác động đến khối lượng tiền cơ bản. Tuy
nhiên, với việc áp dụng dự trữ bình quân, công cụ dự trữ bắt buộc có thể
đóng góp vào sự ổn định của lãi suất ngắn hạn, về khía cạnh nào đó tạo thuận
lợi cho hệ thống thanh toán và hỗ trợ việc ổn định hệ số tạo tiền, qua đó góp
phần cho cơ chế truyền dẫn tiền tệ thực hiện trôi chảy.
Việc lựa chọn các công cụ CSTT có vị trí quan trọng trong việc nâng
cao hiệu quả điều hành, việc áp dụng các công cụ CSTT gắn liền với khuôn
khổ CSTT nhất định. Trong một khuôn khổ CSTT, mỗi một công cụ có một
vai trò nhất định trong điều tiết tiền tệ, như có công cụ giữ vị trí chủ yếu để
cung ứng vốn khả dụng, tạo tín hiệu CSTT, điều chỉnh lãi suất; có công cụ thì
có vai trò hạn chế sự biến động của lãi suất, hoặc cung ứng dài hạn vốn khả
dụng cho các NHTM... Ngoài ra, với cùng một công cụ, kỹ thuật áp dụng
cũng có sự khác nhau giữa các nước, giữa các thời kỳ phát triển, điều đó thể
hiện tính đa năng, linh hoạt của các công cụ chính sách. Để phát huy hết tính
đa năng và hiệu quả của các công chính sách phụ thuộc nhiều vào kỹ năng
điều hành và các điều kiện thực thi CSTT của NHTW.
5). Cơ chế truyền tải tác động của chính sách tiền tệ
Cơ chế truyền tải tiền tệ là tuyến đường, hay những kênh tác động mà
NHTW có thể sử dụng các công cụ CSTT làm thay đổi các điều kiện tiền tệ
trên thị trường, qua đó tác động đến tổng cầu của nền kinh tế làm thay đổi sản
lượng, giá cả và việc làm (mục tiêu cuối cùng của CSTT). Trong nhiều thập
kỷ qua, NHTW đã có những kênh khác nhau làm thay đổi tổng cầu và hoạt
động kinh tế. Sự hình thành và phát triển cơ chế truyền tải CSTT được bắt
đầu từ lược đồ đơn giản của Keynes để xem xét sự thay đổi trong cung tiền,
lãi suất của NHTW ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động kinh tế.
Qua nhiều nghiên cứu của các nhà học giả kinh tế thế giới đã tổng kết
CSTT tác động đến nền kinh tế được thực hiên qua một số kênh chủ yếu sau:
38
Sơ đồ 1 - Các kênh truyền tải của CSTT
Kênh lãi suất trực tiếp: Kênh lãi suất là đặc trưng cơ bản của mô hình
Keynes truyền thống áp dụng cho nền kinh tế đóng. CSTT thắt chặt làm tăng
lãi suất danh nghĩa ngắn hạn trên thị trường tiền tệ (thị trường liên ngân hàng)
và tiếp đến tăng lãi suất tiền gửi và cho vay của các ngân hàng. Sự gia tăng lãi
suất của các ngân hàng tác động tới các khoản chi nhạy cảm với lãi suất và
thu nhập theo các cách khác nhau.
+ Tác động lãi suất tới chi tiêu: Sự thay đổi lãi suất của NHTW tác
động đến cầu thực và sản lượng thực của nền kinh tế, vì xét về mặt ngắn hạn,
với kỳ vọng về lạm phát không thay đổi thì sự thay đổi lãi suất danh nghĩa
dẫn đến sự thay đổi lãi suất thực, qua đó sẽ có tác động nhạy cảm đến sản
lượng và giá cả.
+ Tác động tới thu nhập: Lãi suất tăng hơn sẽ phân phối lại thu nhập từ
người vay tiền sang người gửi tiền.
- Kênh tỷ giá hối đoái: Kênh truyền tải qua tỷ giá hối đoái của CSTT
được xây dựng từ mô hình Mundell-Fleming áp dụng cho nền kinh tế mở có
chế độ tỷ giá linh hoạt. Lãi suất tăng dẫn đến giá nội tệ tăng có thể làm cho
giá cả hàng hoá sản xuất trong nước tăng so với hàng hoá của nước ngoài,
đưa tới giảm nhu cầu đối với hàng hoá trong nước, tăng nhu cầu hàng nhập
làm suy yếu cán cân thương mại, giảm tổng cầu và sản lượng. Tỷ giá không
chỉ tác động tới tổng cầu, mà còn có thể tác động tới tổng cung. Như vậy,
ngược với tổng cầu, tổng cung có thể tăng lên khi đồng nội tệ lên giá.
Cung ứng tiền tệ
Lãi suất Tiền gửi ngân hàng Tín dụng ngân hàng
Giá trị doanh nghiệp Thu nhập, tài sản Tài sản ròng
Tiêu dùng
Đầu tư
Giá cả
Thương mại Tỷ giá Giá cổ phiếu
39
Ở những nước có chế độ tỷ giá cố định hoặc bị kiểm soát chặt, CSTT
có thể tác động tới tỷ giá thực thông qua giá cả trong nước và do vậy vẫn có
thể tác động tới xuất khẩu ròng mặc dù với mức độ thấp hơn và chậm hơn.
- Kênh giá cả tài sản: Sự thay đổi của của CSTT tác động tới giá cả
của cổ phiếu, trái phiếu và bất động sản. Sự thay đổi về giá cả các tài sản này
tác động tới tổng cầu qua các kênh: tác động Tobin, thực trạng tài chính và
năng lực tài sản ròng.
- Kênh tín dụng ngân hàng: CSTT thắt chặt làm giảm tiền gửi ngân
hàng. Để cân đối giữa cung và cầu tín dụng, các ngân hàng không chỉ tăng lãi
suất mà còn áp dụng hạn mức tín dụng thông qua tăng các chuẩn mực về uy
tín tín dụng. Sự giảm sút của vốn tín dụng sẽ hạn chế đầu tư và sản lượng của
doanh nghiệp.
1.2.3. Chính sách ngoại hối và chế độ điều hành tỷ giá
1). Chính sách ngoại hối
Chính sách ngoại hối được thể hiện trên các phương diện: (i) Chính
sách hối đoái; (ii) Dự trữ ngoại hối và (iii) Tỷ giá hối đoái.
Chính sách hối đoái: Chính sách hối đoái thường hướng vào việc ngăn
chặn tích trữ ngoại hối trong các pháp nhân và thế nhân, quản lý việc mua
bán ngoại tệ, thu hút các nguồn ngoại tệ vào NHTW.
Dự trữ ngoại hối: Mỗi nước đều có dự trữ ngoại hối tùy thuộc vào khả
năng của nền kinh tế đó. Dự trữ ngoại hối phục vụ cho nhu cầu thanh toán
quốc tế và điều chỉnh khối lượng tiền trong nước. Khi NHTW mua ngoại tệ
sẽ làm gia tăng dự trữ ngoại tệ, gia tăng khối lượng tiền tệ và ngược lại. Qua
việc mua bán ngoại hối, NHTW can thiệp vào thị trường, chủ động tác động
vào tỷ giá hối đoái theo ý muốn nhất định.
Tỷ giá hối đoái: Phản ánh tương quan sức mua giữa nội tệ và ngoại tệ.
Tỷ giá hối đoái ảnh hưởng trực tiếp đến xuất nhập khẩu. Nếu tỷ giá hối đoái
quá thấp sẽ khuyến khích nhập khẩu, gây bất lợi cho xuất khẩu. Ngược lại,
nếu tỷ giá hối đoái quá cao sẽ bất lợi cho nhập khẩu. Do tầm quan trọng của
nó, nên NHTW rất quan tâm và khi cần thiết dùng nhiều biện pháp để ổn
định tỷ giá hối đoái.
Tỷ giá hối đoái là giá cả của ngoại tệ tính bằng đồng bản tệ hoặc tỷ
giá là giá cả của đồng bản tệ tính bằng đồng ngoại tệ.
Hiện nay nước ta sử dụng cách yết giá của đồng đô la Mỹ (USD) tính
bằng đồng Việt Nam (VND), vì thế nó liên quan đến các thước đo tỷ giá. Các
thước đo này bao gồm:
- Tỷ giá hối đoái danh nghĩa (NER) là giá của một đơn vị ngoại tệ tính
theo nội tệ và chưa tính đến sức mua của đồng tiền.
40
-Tỷ giá hối đoái thực (RER) là tỷ giá danh nghĩa đã được điều chỉnh
theo giá tương đối giữa các nước (nghĩa là tỷ giá danh nghĩa đã loại trừ yếu tố
giá cả trong nước và ngoài nước). Tương quan giữa tỷ giá thực E(r) và tỷ giá
danh nghĩa E được biểu diễn như sau:
E(r) = EP*/P
Trong đó: P* là mức giá cả nước ngoài
P là mức giá ở trong nước
Tỷ giá thực là thước đo đầy đủ sức cạnh tranh hàng hóa của một nước
so với hàng hóa nước ngoài xét về phương diện giá cả.
- Tỷ giá hối đoái thực hiệu quả (REER) là tỷ giá được điều chỉnh theo
các tỷ giá thực của các nước có giao dịch với một nước theo tỷ trọng thương
mại của nước đó với các nước bạn hàng. REER là một thước đo hiệu quả về
tính cạnh tranh của một nước trong quan hệ thương mại với nước khác.
Tỷ giá thực cân bằng (RERE) là mức tỷ giá mà tại đó nền kinh tế đồng
thời đạt cân bằng bên trong và cân bằng bên ngoài.
Tỷ giá hối đoái là nhân tố quan trọng tác động đến giá cả của hàng hoá
và dịch vụ xuất nhập khẩu, đến chi phí đối với hoạt động đầu tư nước ngoài
và lợi nhuận từ hoạt động đầu tư đó. Nhiều quốc gia đã có những biện pháp
nhằm kiểm soát tỷ giá danh nghĩa. Các biện pháp này, cùng với những công
cụ được sử dụng để đạt được mục tiêu tỷ giá đề ra được gọi là chính sách tỷ
giá.
Nội dung của chính sách tỷ giá được thể hiện ở 3 khía cạnh sau đây:
- Lựa chọn chế độ tỷ giá phù hợp với điều kiện phát triển của quốc gia
trong nền kinh tế toàn cầu;
- Xác định một mức tỷ giá hối đoái áp dụng cho các hoạt động kinh tế
có liên quan nhằm đạt được mục tiêu của chính sách tỷ giá;
- Xác định phương pháp và công cụ điều hành tỷ giá. Thông qua đó,
nhà nước thực hiện vai trò điều tiết lưu thông ngoại hối để đạt được mức tỷ
giá đã xác định.
2). Các chế độ tỷ giá
Chế độ tỷ giá đóng vai trò quan trọng trong phân tích và hoạch định
chính sách. Một khi Chính phủ đã lựa chọn một chế độ tỷ giá cụ thể thì mọi
phân tích và đề xuất chính sách dựa trên cơ sở chế độ tỷ giá đó. Có 3 chế độ
tỷ giá điển hình:
- Chế độ tỷ giá cố định: Chế độ tỷ giá cố định là chế độ tỷ giá trong đó
Ngân hàng Trung ương ấn định tỷ giá danh nghĩa giữa đồng nội tệ và một
đồng ngoại tệ ở một mức cố định. Thông thường, đồng ngoại tệ trong trường
hợp này là đồng tiền của một quốc gia lớn hoặc một nhóm các quốc gia
(đồng tiền chung) có quan hệ thương mại chặt chẽ hoặc có mức lạm phát thấp
41
hoặc cả hai. Trong trường hợp cầu ngoại tệ lớn hơn cung ngoại tệ tại mức tỷ
giá cố định, NHTW phải bán dự trữ ngoại hối của mình để cân bằng cung cầu
và ngược lại, trong trường hợp cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ, NHTW
phải mua lại số ngoại tệ dư thừa. Để thực hiện được chế độ tỷ giá này, đương
nhiên NHTW phải có một lượng ngoại tệ đủ lớn để sẵn sàng can thiệp thị
trường.
Tại một số quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi, do nhiều lý do mà
NHTW quyết định cố định tỷ giá tại một mức nhất định cho dù là không có
đủ dự trữ ngoại tệ cần thiết để can thiệp thị trường. Trong trường hợp này sẽ
hình thành 2 thị trường về ngoại tệ: Thị trường chính thức sẽ giao dịch với
mức tỷ giá chính thức do NHTW quyết định và thị trường phi chính thức sẽ
giao dịch với mức tỷ giá do cung cầu ngoại tệ quyết định và đôi khi mức tỷ
giá này được bị chi phối bởi yếu tố đầu cơ.
Dưới chế độ tỷ giá cố định, Chính phủ quyết định tỷ giá theo một mục
tiêu và sử dụng các công cụ để bảo vệ mức tỷ giá này. Các loại tỷ giá thuộc
vùng cố định như chế độ tỷ giá bò trườn, chế độ neo tỷ giá, tỷ giá neo có khả
năng điều chỉnh.
+ Chế độ tỷ giá bò trườn là chế độ tỷ giá trong đó NHTW cố định tỷ
giá trong một khoảng thời gian nhất định thông thường là một tháng hoặc
một quý. Trong cơ chế này, tỷ giá có thể được cố định với một ngoại tệ hoặc
một rổ tiền tệ. NHTW sẽ thông báo khi nào họ sẽ thay đổi tỷ giá hoặc thậm
chí công khai về công thức tính tỷ giá.
+ Chế độ neo tỷ giá là chế độ cho phép gắn đồng nội tệ theo một đồng
tiền mạnh hoặc rổ tiền tệ. Thường thì một nước neo đồng nội tệ của mình
theo một loại ngoại tệ mạnh nhất. Trong một số trường hợp, tỷ giá bị gắn chặt
với một rổ tiền tệ tính theo bình quân gia quyền của các bạn hàng. Biên độ
dao động cho phép của tỷ giá dưới chế độ này nằm trong khoảng từ 2-3%, đủ
để các tổ chức kinh doanh tiền tệ không thể chủ động điều tiết được. Biên độ
này được phép thay đổi khi có quyết định của NHTW.
+ Chế độ neo có thể điều chỉnh là chế độ mà trong đó giá đồng nội tệ
bị neo theo một đồng tiền khác mạnh hơn một rổ tiền tệ nhưng với biên độ
dao động nới rộng hơn (khoảng từ 5%-10%). Dưới chế độ này, các nhà kinh
doanh tiền tệ có thể chủ động điều tiết tỷ giá trong hoạt động kinh doanh của
mình.
+ Một hình thức khá phổ biến của chế độ tỷ giá cố định là chế độ tỷ
giá gắn với dự trữ ngoại hối (Currency Board). Trong cơ chế này, NHTW
cam kết chuyển đổi bất kỳ một lượng bản tệ nào thành ngoại tệ với một tỷ giá
cố định. Đương nhiên trong trường hợp này, việc phát hành đồng bản tệ của
NHTW phụ thuộc chặt chẽ vào lượng dự trữ ngoại hối. Vì vậy, về bản chất,
đây là chế độ phát hành tiền lấy ngoại tệ làm đảm bảo của NHTW.
42
- Chế độ tỷ giá thả nổi: Chế độ tỷ giá thả nổi là chế độ tỷ giá mà trong
đó tỷ giá danh nghĩa hoàn toàn được quyết định bởi quan hệ cung cầu trên thị
trường ngoại tệ và NHTW không thực hiện bất kỳ sự can thiệp nào vào thị
trường. Xét về mặt lý thuyết, khi thực hiện chế độ tỷ giá thả nổi, NHTW
không cần có dự trữ ngoại tệ. Tuy nhiên, trên thực tế gần như không quốc gia
nào thả nổi hoàn toàn tỷ giá mà luôn có những biện pháp can thiệp khi cần
thiết để thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô của mình.
- Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết: Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết là
chế độ tỷ giá hỗn hợp giữa chế độ tỷ giá cố định và chế độ tỷ giá thả nổi. Tỷ
giá được tự do biến động trong phạm vi giới hạn cao nhất và giới hạn thấp
nhất do NHTW ấn định. NHTW cũng có thể can thiệp khi tỷ giá có xu hướng
vượt ra khỏi phạm vi cho phép. Hình thức phổ biến nhất của chế độ tỷ giá
này là việc NHTW quy định tỷ giá chính thức và biên độ dao động tính bằng
tỷ lệ phần trăm của tỷ giá chính thức. Chính vì vậy, cơ chế này còn được gọi
là chế độ tỷ giá quy định biên độ dao động.
1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
1.3.1. Cấu trúc của thị trường tài chính
Hiện nay, có 2 quan điểm khác nhau về mô hình TTTC:
Quan điểm thứ nhất: Theo mô hình của các nhà kinh tế Nhật, Pháp thì
TTTC nằm trong thị trường vốn, thị trường vốn bao gồm TTTC và thị trường
tiền tệ.
Thị trường vốn
TTTC Thị trường tiền tệ
Thị trường sơ cấp Thị trường thứ cấp
Theo mô hình này, hoạt động trên TTTC bao gồm các công ty chứng
khoán, công ty môi giới, công ty tài chính, sở giao dịch chứng khoán... còn
hoạt động trên thị trường tiền tệ chủ yếu là các NHTM và các tổ chức tín
dụng.
Quan điểm thứ 2: Theo mô hình của các nhà kinh tế Mỹ, Đức, Anh thì
TTTC bao hàm thị trường vốn. Trong đó, thị trường giao dịch công cụ nợ có
thời hạn từ 1 năm trở xuống (tuỳ theo từng nước, thời hạn này có thể là dưới
43
1 năm đến dưới 2 năm) gọi là thị trường vốn ngắn hạn (tương đương thị
trường tiền tệ). Thị trường giao dịch các công cụ có giá với thời hạn từ trên 1
năm (hoặc trên 2 năm tuỳ theo từng nước) được gọi là thị trường vốn dài hạn
- thị trường này về cơ bản là bao hàm TTCK vì ngoài chứng khoán còn bao
gồm sự luân chuyển của 1 bộ phận vốn tín dụng dài hạn.
TTTC
Thị trường vốn dài hạn Thị trường vốn ngắn hạn (thị trường tiền tệ)
TTCK TTTD dài hạn
Quan điểm thứ 2 về cấu trúc của TTTC là quan điểm được sử dụng
phổ biến trên thế giới và ở Việt Nam. Mô hình này căn cứ vào đặc thù, tính
chất và thời gian luân chuyển của công cụ để phân định nên nó đơn giản, có
tính bao quát. Bởi vì trên thị trường tiền tệ có các công cụ có tính lỏng cao,
độ an toàn và biên độ dao động giá nhỏ, trong khi các công cụ trên thị trường
vốn dài hạn tính linh hoạt kém hơn. Với ý nghĩa trên, có thể mô hình hoá
TTTC theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 2 – Cấu trúc TTTC
Trong lịch sử hình thành và phát triển của TTTC, thị trường tiền tệ
được hình thành trước do ban đầu nhu cầu vốn cũng như tiết kiệm trong dân
Thị trường tiền tệ Thị trường vốn
Thị
trường tín
dụng dài
hạn
Thị trường
giao dịch
các khoản
vốn vay
ngắn hạn
Thị trường
mua bán các
chứng khoán
ngắn hạn
Thị
trường
ngoại hối
Thị
trường
chứng
khoán
Thị trường tài chính
Thị
trường
bất động
sản
44
cư chưa cao, nhu cầu về vốn chủ yếu có tính ngắn hạn. Sau đó, cùng với sự
phát triển kinh tế, nhu cầu về các nguồn vốn dài hạn cho đầu tư ngày càng
tăng và thị trường vốn cần thiết phải hình thành để đáp ứng các nhu cầu
khách quan này. Để huy động được các nguồn vốn dài hạn bên cạnh việc đi
vay của ngân hàng thông qua hình thức tài chính gián tiếp, Chính phủ và một
số công ty còn thực hiện huy động thông qua phát hành các chứng khoán.
Khi các chứng khoán được phát hành tất yếu, nảy sinh nhu cầu mua bán
chứng khoán. Vì vậy, TTCK ra đời với tư cách là một bộ phận của thị trường
vốn nhằm đáp ứng nhu cầu mua bán, trao đổi chứng khoán.
1.3.2. Các công cụ của thị trường tài chính và sự phát triển của nghiệp
vụ chứng khoán hóa
1). Các công cụ truyền thống của thị trường tài chính
Đối với thị trường tiền tệ
Các công cụ của thị trường tiền tệ bao gồm công cụ ngắn hạn có kỳ
hạn dưới 1 năm, bao gồm: tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHTW, chứng chỉ tiền
gửi, thương phiếu… Hoạt động phát hành, giao dịch các công cụ này trên thị
trường tiền tệ sẽ tác động đến hoạt động huy động và cho vay của các
NHTM, huy động và sử dụng vốn kinh doanh của các doanh nghiệp, qua đó,
tác động đến thay đổi cơ cấu kinh tế và cơ cấu tài chính.
Tác động của cơ chế chính sách sử dụng các công cụ của thị trường
tiền tệ đối với nền kinh tế được thể hiện trên các mặt sau:
- Thông qua việc phát hành các công cụ huy động vốn ngắn hạn như:
chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu… các NHTM, tổ chức tín dụng huy động vốn
ngắn hạn để cho vay. Nguồn vốn này không chỉ dùng để cho vay ngắn hạn,
mà một phần có thể cho vay trung và dài hạn (theo thông lệ quốc tế tối đa là
25% vốn huy động ngắn hạn), qua đó, tác động đến hoạt động ĐTPT sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Nhà nước có thể sử dụng các công cụ của thị trường tiền tệ để điều
chỉnh mức lượng tiền trong lưu thông, điều chỉnh cung – cầu về vốn trên thị
trường tiền tệ và điều chỉnh lãi suất thị trường. Từ đó tác động làm thay đổi
lãi suất - “giá cả” trên TTTC và tác động làm thay đổi cơ cấu các nguồn lực
tài chính lưu thông trên thị trường.
- Nhà nước sử dụng công cụ của thị trường tiền tệ (tín phiếu kho bạc)
để đáp ứng nhu cầu, bù đắp thiếu hụt chi tiêu của NSNN, làm thay đổi cơ cấu
tài chính nhà nước.
- Các doanh nghiệp có thể sử dụng các công cụ của thị trường tiền tệ
như thương phiếu, phiếu chấp thuận trả… để tạo nguồn vốn phục vụ cho hoạt
động sản xuất kinh doanh, làm thay đổi cơ cấu vốn của mình.
Đối với thị trường tín dụng ngân hàng
45
Tín dụng ngân hàng là kênh huy động vốn quan trọng, chủ yếu của các
doanh nghiệp và các chủ thể trong nền kinh tế. Bởi vậy, công cụ của thị
trường tín dụng ngân hàng chính là các khoản tín dụng, trong đó bao gồm:
Các khoản tín dụng cầm cố là các khoản cho vay đối với các doanh
nghiệp hoặc các hộ gia đình để nua nhà ở, đất đai, bất động sản và dùng
chính các tài sản này làm vất thế chấp khoản vay.
Các khaỏn tín dụng thương mại là các khoản cho vay trung và dài
hạn của các NHTM hoặc các công ty tài chính cho người tiêu dùng và các
doanh nghiệp vay. Các khaỏn vay này không được giao dịch mua bán trên thị
trường thứ cấp nên tính thanh khoản thấp.
Các công cụ TTCK
Cổ phiếu
Cổ phiếu (chứng khoán vốn) là chứng khoán xác nhận quyền sở hữu
một phần công ty cổ phần. Cổ phiếu. Chứng chỉ do công ty cổ phần phát
hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần
của công ty đó gọi là cổ phiếu.
Trái phiếu
Trái phiếu (chứng khoán nợ) là chứng khoán xác nhận một khoản nợ
của người phát hành đối với người nắm giữ. Chủ thể phát trái phiếu có thể là
doanh nghiệp, chính phủ và tổ chức tài chính.
Chứng chỉ quỹ đầu tư
Chứng chỉ quỹ đầu tư là một loại chứng khoán do các công ty quản lý
quỹ đầu tư chứng khoán phát hành, xác nhận quyền hưởng lợi của người đầu
tư đối với quỹ.
Ngoài các công cụ trên, trên TTCK còn có một số loại công cụ khác
như chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán, chứng quyền, hợp đồng quyền
chọn…
Chứng quyền là một loại chứng khoán được phát hành kèm theo trái
phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi, cho phép người nắm giữ chứng quyền được
quyền mua một khối lượng cổ phiếu phổ thông nhất định theo mức giá đã
được xác định trước trong thời kỳ nhất định.
Hợp đồng quyền chọn là một loại chứng khoán được phát hành và bán
cho các nhà đầu tư, trong đó cho phép người nắm giữa quyền chọn được
quyền mua hoặc bán một loại chứng khoán nhất định, tại một mức giá xác
định trước trong một thời kỳ nhất định.
2). Sự phát triển của nghiệp vụ chứng khoán hóa
Vào đầu những năm 80 của thế kỷ 20 ở Mỹ đã xuất hiện một loại hàng
hoá mới trên TTCK và liên tục phát triển cho tới nay - Đó là các chứng khoán
nợ (TP) được các Công ty tài chính chuyên biệt gọi là “Công ty công cụ đặc
46
biệt” – Special Purpose Vehicle (SPV) chuyên thu gom các hợp đồng hoặc
các khế ước tín dụng trong dân chúng hoặc từ các Công Ty để phát hành
chứng khoán huy động tiền từ công chúng trên cơ sở tổng giá trị của các món
nợ đó để trả nợ đến hạn cho NHTM theo từng hợp hợp đồng và thực hiện
“quyền đòi nợ” đối với các con nợ theo hồ sơ các hợp đồng tín dụng đã thu
gom để lấy tiền thanh toán cho các chứng khoán đến hạn.
Việc phát hành trái phiếu trả nợ theo cơ chế đặc biệt nói trên của SPV
chỉ được diễn ra trong điều kiện SPV là một Định chế tài chính chuyên biệt,
có vốn tự có ở mức an toàn giống như đối với NHTM, có uy tín thông qua
một Tổ chức kiểm toán quốc tế hoặc một tổ chức xếp hạng tín nhiệm có uy
tín và cần thiết có thể phải bao gồm cả việc có sự bảo lãnh của một cơ quan
công quyền có nguồn thu NSNN ở cấp Chính Phủ hoặc cấp Tỉnh, Thành
phố...
Sơ đồ 3 - Cơ chế phân chia lợi ích trong nghiệp vụ CKH các HĐTD
NHTM- Cho vay với lãi suất
i1
Người đi vay-Nhu cầu khác nhau
-Thế chấp đễ dàng
Công ty CCĐB(SPV)
-Tổng giá trị CK = Tổng giá trị nghĩa vụ
trả nợ
-Có uy tin,
được kiểm
toán hoặc
xếp hạng
-Trả nợ
NHTM và
chịụ rủi ro
Tổ chức,
cá nhân-Mua CK
của SPV
- Lãi suất >
lãi suất tiết
kiệm
K
K(1+i4)
K(1+i3)
Lãi suất tiết kiệm
K(1+i2)
i1 > i2 ≥ i3 > i4 ∆ i = (i1- i4) - cơ chế chia sẻ lợi ích của “4 bên”K là tổng dư nợ bình quân / năm
Mô hình trên có một số ưu thế như sau:
Thứ nhất, tạo ra mối liên kết tự nhiên và bền chặt giữa các NHTM bán
lẻ với TTCK và làm cho “nhiều bên” cùng có lợi, nhờ đó NHTM dễ dàng mở
rộng được tín dụng thông qua việc giảm nhẹ các điều kiện cho vay.
Thứ hai, tạo ra cơ chế hoạt động an toàn dựa trên cơ sở san sẻ rủi ro
Dựa trên những nguyên lý phân chia lợi ích “đặc biệt” đã tạo ra cơ chế
san sẻ rủi ro:
- Đối với NHTM: toàn bộ rủi ro đã “bán” cho SPV;
47
- Khách hàng của NHTM chính là các cá nhân và thể nhân trong nền
kinh tế chỉ phải trả lãi i2 thấp hơn mức lãi i1 đã ghi trong hợp đồng
tín dụng với NHTM để “bán” nghĩa vụ trả nợ kèm hợp đồng tín
dụng của mình cho SPV;
- SPV có điều kiện chuyên nghiệp hoá ở trình độ cao của mình trong
các việc: Tổ chức phát hành trái phiếu; với lãi suất i3 thấp hơn hoặc
tối đa bằng lãi suất i2 mà SPV thu được từ các hợp đồng tín dụng,
đồng thời cao hơn lãi suất tiền gửi cùng thời hạn để thu hút người
dân đầu tư vào chứng khoán; Dùng tiền huy động từ trái phiếu để
trả nợ cho NHTM với lãi suất i4 thấp hơn lãi suất ghi trong hợp
đồng tín dụng mà NHTM đồng ý bán quyền đòi nợ cho SPV; Thực
hiện quyền “đòi nợ” đến hạn đối với các con nợ của NHTM để
thanh toán cho chủ sở hữu của các trái phiếu khi đáo hạn.
1.4. PHỐI HỢP ĐỒNG BỘ CSTK VÀ CSTT TRONG ĐIỀU TIẾT
KINH TẾ VĨ MÔ
1.4.1. Các quan điểm lý thuyết về sự phối hợp giữa CSTK và CSTT
trong điều tiết kinh tế vĩ mô.
1). Lý thuyết tài chính nhà nước của J.M.Keynes
Nhà kinh tế lỗi lạc người Anh Kenyes đã đặt nền móng về ký luận và
thực tiễn cho tư tưởng sử dụng tài chính nhà nước để điều tiết vĩ mô nền kinh
tế. Lý thuyết của Ông đã đưa ra một quan niệm mới về vị trí và vai trò của tài
chính nhà nước trong nền sản xuất xã hội, đồng thời bắt đầu thời kỳ đoạn
tuyệt với những trào lưu cũ trong lý thuyết kinh tế về sự không can thiệp của
nhà nước vào hoạt động kinh tế.
Trong cuốn sách “Lý thuyết chúng về việc làm, lãi suất và tiền tệ”
(1936), các quan điểm về CSTC điều tiết kinh tế của Kenyes được xuất phát
từ các luận điểm sau:
Thứ nhất, tất cả những vấn đề quan trọng của nền kinh tế phải được
nghiên cứu với quan điểm cầu. Sự khủng hoảng của sản xuất là xuất phát từ
cầu tiêu dùng. Bởi vậy, vấn đề cân bằng trong nền kinh tế cần được giải quyết
với quan điểm cầu. Ông sử dụng thuật ngữ “cầu hiệu qủa” để biểu hiện sự
cân bằng giữa nhu cầu và sản xuất, thu nhập và việc làm.
Thứ hai, công cụ quan trọng để thực hiện điều chỉnh nền kinh tế là
CSTK, còn chính cách tiền tệ - tín dụng bị ông đưa xuống hàng thứ yếu. Ông
viết: “Nhà nước cần phải thực hiện sự lãnh đạo của mình ảnh hưởng đến giới
hạn tiêu dùng bằng cách sử dụng hệ thống thuế phù hợp, lãi suất tín dụng và
cả các phương pháp nữa”4.
Ông coi chi tiêu nhà nước là một công cụ cơ bản của Chính phủ để
can thiệp vào sự phát triển có tính chất chu kỳ của nền kinh tế và vượt qua
khủng hoảng. Bởi vậy, sự hình thành, cơ cấu và tốc độ của chi tiêu nhà nước
48
được ông coi là yếu tố quan trọng và không thể tách rời để đạt được "cầu hiệu
qủa". Tốc độ chi tiêu nhà nước theo ông cần phải thúc đẩy tăng thu nhập
quốc dân và cuối cùng phải nhằm vào mục tiêu đảm bảo việc làm. Để thực
hiện được điều đó, nhà nước phải tác động đến các tác nhân của cầu là: tiêu
dùng cá nhân và tiêu dùng đầu tư. Theo quan điểm của Kenyes, tốc độ đầu tư
nhà nước có vai trò hỗ cho các biện pháp của chính phủ để kích thích "giới
hạn đối với đầu tư".
Bên cạnh chi tiêu nhà nước, ông coi thuế là một công cụ quan trọng
của tài chính nhà nước trong việc điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế và cho rằng sự
thay đổi trong chính sách thuế có thể tác động đến "giới hạn tiêu dùng" và
cầu của Chính phủ được đảm bảo bằng thuế sẽ khuấy động hoạt động kinh
doanh để làm tăng thu nhập quốc dân và việc làm.
Ngoài ra, một điểm đáng chú ý trong học thuyết của ông là cần tăng
chi tiêu nhà nước bằng nguồn vay nợ. Những người ủng hộ ông đã gọi
nguyên tắc này là “cấp phát tài chính thiếu hụt". Kenyes khẳng định rằng, sự
đầu tư của nhà nước và chi tiêu hiện tại của Nhà nước có thể được đảm bảo
từ nguồn vay nợ. Đầu tư của chính phủ được đảm bảo bằng vay nợ sẽ đưa
đến mở rộng “khuynh hướng đối với đầu tư", còn đảm bảo tài chính cho chi
tiêu hiện tại của chính phủ sẽ mở rộng “khuynh hướng đối với tiêu dùng".
Tốc độ nợ nhà nước được coi là một bộ phận khăng khít của chính sách điều
chỉnh của nhà nước để đạt được “cầu hiệu qủa". Sự thiếu hụt ngân sách trở
thành một trong những phương thức điều chỉnh nền kinh tế.
Sau này những nhà kinh tế khác như: A.Han Xen, P. Sammuelson,
A.Lerher, R.Makgreiv, G.Ekkli, U.Kheller, J.Pecman (Mỹ), J.Khics (Anh) đã
bổ sung những cơ cấu mới cho lý thuyết của Kenyes về điều chỉnh tài chính
nhà nước không chỉ trong giai đoạn khủng hoảng mà còn cả trong giai đoạn
phát triển kinh tế theo chu kỳ.
2). Lý thuyết tài chính nhà nước của trường phái Trọng cung
Sự khủng hoảng của điều chỉnh nhà nước nền kinh tế thị trường dựa
trên cơ sở học thuyết kinh tế của Kenyes diễn ra sau những năm 1970 đã dẫn
đến sự tìm kiếm tích cực của các nhà kinh tế phương Tây một quan điểm mới
làm lành mạnh hóa nền kinh tế. Khoảng những năm 1980 ở Mỹ và Anh đã ra
đời một học thuyết kinh tế mới dựa trên cơ sở luận điểm của các nhà kinh tế
Trọng cung, mà các đại biểu của trường phái này là Arthur Laffer, Jude
Winniski, Norman Ture.
Một trong những luận điểm cơ bản của thuyết Trọng cung là giảm bớt
sự can thiệp của nhà nước đến các qúa trình kinh tế và kích thích sự phát triển
kinh doanh của tư nhân. Mặc dù vai trò cơ bản trong chính sách kinh tế của
nhà nước thuộc vẫn về tài chính nhà nước và công cụ chủ yếu trong việc điều
hành CSTC vẫn là các đòn bẩy; thuế, chi tiêu nhà nước và vay nợ chính phủ,
nhưng những biện pháp của thuyết Trọng cung lại hoàn toàn đối lập với
thuyết Trọng cầu của Kenyes.
49
Thuyết Trọng cung đưa ra những đề nghị cơ bản là: thứ nhất, cắt giảm
thuế; thứ hai, cắt giảm chi tiêu nhà nước; thứ ba, giảm số lượng tiền trong lưu
thông với sự trợ giúp của các chính sách vay nợ của chính phủ và tiến hành
định mức tốc độ phát hành tiền trong lưu thông.
Các đại biểu của trường phái này cho rằng, tốc độ tăng trưởng kinh tế
được xác định bởi mức tiết kiệm và tích lũy đủ đến mức độ nhất định. Theo
họ, mức tiết kiệm từ những khoản thu nhập cao sẽ hình thành nguồn tài chính
để mở rộng ĐTPT kinh doanh. Vì vậy, chính phủ cần tích cực sử dụng các
biện pháp tín dụng để kích thích tăng trưởng kinh tế, đồng thời thông qua hệ
thống thuế, cần tạo ra những điều kiện cần thiết để hình thành mức tiết kiệm
đủ để đảm bảo đầu tư trong các thành phần tư nhân. Laffer – một đại biểu
chính của trường phái Trọng cung đã đưa ra đề nghị bãi bỏ biểu thuế suất luỹ
tiến và hạ thấp thuế lợi nhuận công ty, coi đó như một trong những biện pháp
quan trọng nhằm tăng tích luỹ tư bản, mở rộng ĐTPT kinh tế.
Friedman lại cho rằng chính sách phục hồi kinh tế bằng ngân sách
thực chất cũng là CSTT nhằm tăng thêm khối lượng tiền tệ trong lưu thông
mà đó lại là một yếu tố đảm bảo cho sự phục hồi phát triển kinh tế.
3). Lý thuyết tài chính nhà nước của kinh tế học hiện đại
Từ sau những năm 1970 hình thành một trào lưu hậu Kenyes, được
phát triển trên cơ sở phê phán các học thuyết cổ điển mới và học thuyết
Kenyes chính thống. Những đại biểu của trường phái hậu Kenyes ở Anh là
Robinson, Kando, Sekl, Arestic.
Trong các tác phẩm về tài chính của các nước phương Tây đã giành sự
chú ý đến việc giải quyết một mâu thuẫn vĩ đại giữa trường phái kinh tế của
Kenyes và trường phái tân cổ điển. Một trong những nhà nghiên cứu lịch sử
các học thuyết về tài chính Kindlebege đã nhận xét rằng, những người tân cổ
điển thường coi trọng các vấn đề lạm phát, giá cả và số lượng tiền tệ trong
lưu thông, còn Kenyes - việc làm và sản xuất. Ông đưa ra kết luận rằng, kể cả
tân cổ điển và kể cả Kenyes cũng không thể giải quyết những vấn đề phức
tạp của xã hội tư sản, bởi vì họ đã không tính hết các yếu tố kinh tế khác nhau
và sự thay đổi quá trình chính trị . Về bản chất, CSTC của hai trường phái
này là hai phương thức khác nhau để điều tiết nền kinh tế TBCN. Sự khác
nhau và mâu thuẫn giữa chúng có tính chất đối kháng.
Hiện nay đang diễn ra xu hướng xích lại gần nhau giữa hai trường phái
tư tưởng tài chính phương Tây: tư tưởng Trọng cung được lồng trong lý
thuyết của Kenyes còn tư tưởng của Kenyes lại được đưa vào trong lý thuyết
Trọng cung để hình thành lý thuyết kinh tế học hiện đại. Biểu hiện rõ nét nhất
là sự cần thiết kết hợp chính sách tài khoá và CSTT. Còn các nhà tân cổ điển
thì cho rằng hiệu quả áp dụng lý thuyết Trọng cung sẽ cao hơn nếu như bao
hàm trong đó một vài cơ cấu của Kenyes.
50
Cũng cần phải thừa nhận rằng, tư tưởng hòa hợp và xích lại gần nhau
giữa hai trường phái lý thuyết nổi tiếng nhất trong lịch sử các học thuyết kinh
tế đã góp phần làm thay đổi tư duy lý luận trong khoa học tài chính và việc
vận dụng các công cụ tài chính nhà nước vào hoạt động thực tiễn. Điều đó
được thể hiện rõ nét trong việc soạn thảo các chính sách kinh tế có ý nghĩa
quan trọng trong dài hạn cũng như ngắn hạn để đối phó với nền kinh tế chu
kỳ, mức thất nghiệp ngày càng tăng cao, tình trạng lạm phát đang đe doạ và
mức tiết kiệm tư nhân ngày càng giảm sút trong các nước phát triển hiện nay.
Có thể khẳng định rằng, Mỹ là nước đi đầu trong việc vận dụng thành
công lý thuyết về tài chính nhà nước hiện đại để điều tiết nền kinh tế trong
thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX. Chính sách tài khoá được thực hiện trên cơ
sở kiên quyết cắt giảm thâm hụt ngân sách làm cho lãi suất thấp được duy trì,
thực hiện chính sách lấy kiềm chế lạm phát làm ưu tiên số một sang cân bằng
giữa kiềm chế lạm phát, góp phần kích thích nền kinh tế phục hồi và phát
triển. Các biện pháp tài chính cứng rắn cũng đã được áp dụng nhằm điều tiết
và chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ sản xuất sang dịch vụ để làm giảm tính chu
kỳ của nền kinh tế và kéo dài thời kỳ ổn định để tăng trưởng nhiều hơn.
CSTT linh hoạt cũng đã được áp dụng bằng cách chuyển hướng CSTC từ
trung lập sang thắt chặt trên cơ sở tăng lãi suất tín dụng. Ngoài ra, nhà nước
còn có vai trò quan trọng trong việc tạo ra nhiều cơ chế tự động điều chỉnh để
hình thành quỹ phúc lợi làm xoa dịu sức ép giảm thu nhập khi thất nghiệp gia
tăng, quỹ bảo hiểm chống lại nguy cơ khủng hoảng ngân hàng.
Như vậy, bằng việc thực hiện CSTC linh hoạt có sự kết hợp chặt chẽ
giữa chính sách tài khoá và CSTT, giữa CSTC ngắn hạn (theo trường phái
Trọng cầu) với CSTC dài hạn (theo trường phái Trọng cung) các nhà kinh tế
học hiện đại đã tạo dựng một lý thuyết tài chính nhà nước mới phù hợp với
đặc điểm phát triển kinh tế trong giai đoạn hiện nay.
1.4.2. Mối quan hệ tác động qua lại giữa CSTK và CSTT trong việc
thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô
Mặc dù mỗi chính sách dù là CSTK hay CSTT đều sử dụng hệ thống
các công cụ khác nhau: CSTK sử dụng công cụ thuế, chi tiêu ngân sách và
vay nợ chính phủ; CSTT sử dụng hệ thống công cụ gián tiếp dựa trên cơ sở
thị trường nhưng cuối cùng cả hai chính sách đều nhằm đạt được các mục
tiêu vĩ mô như sau:
- Tăng trưởng kinh tế
- Lạm phát ổn định
- Việc làm và thu nhập
- Cán cân thanh toán quốc tế
Có thể nói giữa CSTK và CSTT có mối quan hệ gắn bó với nhau. Để
đảm bảo thực hiện các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của một nền kinh tế thì hai
51
chính sách này không thể tách rời nhau, bởi vì, nhiều chỉ tiêu kinh tế vĩ mô
sẽ không thể thực hiện được khi mà không sự kết hợp điều chỉnh của hai
chính sách này.
1). Tác động của CSTK đến CSTT
Việc điều hành CSTK cũng có ảnh hưởng đến mục tiêu của CSTT.
Chẳng hạn,
CSTK nới lỏng (hay thắt chặt) gắn liền với tăng (giảm) thâm hụt ngân
sách, trong đó phương thức tài trợ thâm hụt ngân sách sẽ tác động đến việc
thực hiện mục tiêu ổn định tiền tệ của CSTT. Khi xuất hiện thâm hụt NSNN,
chính phủ có thể sử dụng các phương thức bù đắp như sau:
- Phát hành tiền hoặc vay NHTW.
- Vay từ dân cư và các tổ chức tín dụng hoặc các tổ chức khác bằng
việc phát hành các chứng khoán nợ (tín phiếu, trái phiếu công trình, công trái
giáo dục và các loại trái phiếu có mục đích khác).
- Vay nợ nước ngoài.
Nếu thâm hụt ngân sách được bù đắp bằng cách phát hành tiền thì sẽ
gây ra lạm phát. Nếu thâm hụt được tài trợ bằng vốn vay từ các ngân hàng
thương mại mà NHTW không điều tiết thêm tiền cung ứng cho nhu cầu vốn
tín dụng của các NHTM thì các NHTM sẽ buộc phải hạn chế cho vay đối với
khu vực tư nhân. Điều này sẽ làm giảm nhu cầu đầu tư của khu vực tư nhân,
qua đó ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
Trường hợp Chính phủ vay từ NHTM và NHTW hỗ trợ cung ứng
thêm tiền cho các NHTM thì tác động cũng tương tự như việc Chính phủ vay
trực tiếp từ NHTW (tương tự phát hành tiền).
Nếu Chính phủ tài trợ thâm hụt ngân sách bằng cách phát hành trái
phiếu, dù bán cho công chúng hay bán cho các tổ chức tín dụng, đều có tác
động đến nguồn vốn huy động của các ngân hàng và cuối cùng sẽ hạn chế
khả năng cung ứng vốn tín dụng của ngân hàng. Việc Chính phủ vay từ hệ
thống ngân hàng hay khu vực phi ngân hàng để tài trợ thâm hụt ngân sách
cũng làm giảm nhu cầu đầu tư tư nhân thông qua việc hạn chế lượng vốn
tín dụng hoặc qua việc tăng lãi suất. Trường hợp tài trợ bằng nguồn vay
nước ngoài cũng có tác động nhất định đến việc thực hiện mục tiêu ổn
định cán cân thanh toán...
Ngoài ra, CSTK nới lỏng sẽ đi liền với tăng chi tiêu Chính phủ, tác
động mạnh đến tổng cầu. Trường hợp cung nhỏ hơn cầu sẽ dẫn đến áp lực
tăng giá cả trong nước, hoặc làm tăng nhu cầu đối với hàng nhập khẩu và
tăng giá hàng nhập khẩu.
Do vậy, trong điều hành CSTT cần luôn quan tâm xem xét các diễn
biến CSTK để đảm bảo có sự nhất quán giữa CSTT và CSTK.
52
2). Tác động của CSTT đến CSTK
Hiệu quả của CSTK ở một chừng mực nhất định cũng phụ thuộc vào
việc kết quả điều hành CSTT. Chẳng hạn, khi thực hiện CSTT mở rộng sẽ
làm giảm giá vay nợ chính phủ do giảm áp lực của lãi suất. Tuy vậy điều này
có thể dẫn tới cơ hội tăng mức bội chi ngân sách và lạm phát, lãi suất danh
nghĩa tăng lên, người đầu tư chịu đựng rủi ro lợi vốn và vì thế yêu cầu mức
lãi suất tăng thêm nhằm bù đắp rủi ro. Giá nợ tăng, đến lượt nó, hạn chế mức
bội chi. Ngược lại, một CSTT thắt chặt sẽ làm tăng giá các khoản nợ chính
phủ, tâm lý lo sợ rủi ro lợi vốn sẽ gây sức ép làm tăng lãi suất thị trường và
cuối cùng ảnh hưởng tới tổng cầu, ảnh hưởng tới mức tăng trưởng và một
mức bội chi tăng thêm trong tương lai.
Tuy nhiên, quá trình này nếu diễn ra trong điều kiện có sự phối hợp
với một CSTK hợp lý thì những động thái của CSTT sẽ không dẫn tới kỳ
vọng rủi ro lợi vốn và vì thế mặt bằng lãi suất không bị ảnh hưởng bởi phản
ứng dây chuyền của người đầu tư, TTTC nội địa ổn định.
Như vậy, thiếu sự phối hợp hiệu quả giữa CSTT và CSTK có thể kéo
theo sự thiếu ổn định tài chính mà biểu hiện là những dao động mạnh của lãi
suất, tỷ giá, mức lạm phát và vì thế mà phá huỷ nền tảng của tăng trưởng kinh
tế.
Từ những phân tích đó có thể kết luận rằng, việc kết hợp giữa CSTK
và CSTT là hết sức quan trọng để đảm bảo các chính sách được đưa ra
đồng bộ, góp phần thực hiện được các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô.
53
Chương 2. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ TRONG VIỆC SỬ
DỤNG CÔNG CỤ TÀI CHÍNH, TIỀN TỆ THÚC
ĐẨY TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
2.1. KINH NGHIỆM CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á
2.1.1. Kinh nghiệm về thực thi CSTK
Trong giai đoạn tiến hành công nghiệp hoá (từ năm 1970 đến năm
2000), mặc dù gặp khủng hoảng tài chính, tiền tệ trong khu vực, song một số
nước Đông Nam á, bao gồm Malayxia, Inđônêxia, Thái Lan, Phi-líp-pin đã
có nhiều thành công trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ và phát triển TTTC. Vì
vậy, nghiên cứu kinh nghiệm các nước Đông Nam á rất có ý nghĩa với Việt
Nam.
Những kinh nghiệm quý báu của các nước Đông Nam á trong lĩnh vực
tài chính, tiền tệ được khắc họa bởi một số nội dung sau
1). Điều chỉnh quy mô và cơ cấu NSNN phù hợp
Trong giai đoạn 1970-2000 quy mô NSNN ở các nước Đông Nam Á
đã có những thay đổi rõ nét. Điều này thể hiện trên bảng sau:
Bảng 1 - Thu, chi và thâm hụt NSTW ở một số nước Đông Nam Á
Đơn vị: % GDP
Nước/giai đoạn 1971-1980 1981-1990 1991-2000
Inđônêxia Thu 20,04 12,37 17,62
Chi 21,3 13,1 16,2
Thâm hụt -1,26 -0,73 1,42
Malayxia Thu 21,82 25,88 24,84
Chi 27,9 33,3 24,3
Thâm hụt -6,08 -7,42 0,54
Philippiin Thu 13,68 14,38 18,36
Chi 13,2 15,4 18,8
Thâm hụt 0,48 -1,02 -0,44
Thái Lan Thu 13,30 16,60 17,74
Chi 16,4 17,2 16,1
Thâm hụt -3,1 -0,6 1,64
Nguồn: Kinh tế tài chính thế giới 1970-2000. Hà Nội 2000. tr.191-203
Bảng số liệu trên ta thấy:
Ở Inđônêxia: Quy mô thu và chi của NSTW giảm trong thập kỷ 1980,
nhưng sau đó tăng lên trong thập kỷ 1990. Sự suy giảm về quy mô NSTW ở
Inđônêxia trong thập kỷ 1980 và tăng lên trong thập kỷ 1990 là do sự thay đổi
đường lối chính sách phát triển kinh tế của Chính phủ. Nếu như trong thập kỷ
54
1970, Inđônêxia vẫn theo đuổi mô hình phát triển kinh tế dựa vào một khu
vực kinh tế nhà nước mạnh (kiểm soát các ngành quan trọng như điện, nước,
vận tải đường sắt và hàng không, bưu điện, viễn thông...), thì kể từ khi cuộc
khủng hoảng dầu lửa diễn ra vào năm 1980, Chính phủ Inđônêxia đã chuyển
sang chính sách kinh tế thúc đẩy sự phát triển của thị trường (xuất khẩu được
tự do hoá, một số độc quyền quốc gia bị phá vỡ...). Để theo đuổi chính sách
đó, trong thập kỷ 1970, Chính phủ phải tăng quy mô của khu vực tài chính.
Tuy nhiên, trong thập kỷ 1980 (đặc biệt kể từ năm 1983) Chính phủ đã áp
dụng các biện pháp cắt giảm chi tiêu ngân sách (chi ngân sách đã giảm
khoảng 20% từ 10.873 tỷ Rupi năm 1985 xuống còn 8.332 tỷ Rupi năm
1986), đặc biệt là các khoản chi liên quan đến các ngành phi sản xuất. Từ
năm 1994, Inđônêxia bắt đầu thực hiện chính sách tăng đầu tư xây dựng cơ
sở hạ tầng và phát triển nguồn nhân lực. Chính sách này làm cho quy mô chi
của NSTW tăng lên.
Ở Malayxia: Quy mô thu và chi của NSTW tăng trong thập kỷ 1980,
nhưng sau đó lại giảm trong thập kỷ 1990. Sự gia tăng của NSTW ở
Malayxia trong thập kỷ 1980 là do Chính phủ nước này đã áp dụng chính
sách tài khoá mở rộng nhằm thoát khỏi tình trạng sa sút kinh tế. Kết quả của
việc thi hành chính sách tài khoá mở rộng đã dẫn tới sự thâm hụt ngân sách
nặng nề. Tuy vậy, nhờ thực hiện chương trình điều chỉnh cơ cấu và kiểm soát
tài khoá từ năm 1983, quy mô của khu vực tài chính công giảm dần và thâm
hụt ngân sách cũng dần được khắc phục.
Ở Thái Lan và Philippin: Quy mô của NSNN trong thập kỷ 1990 gần
như không thay đổi so với trong thập kỷ 1980. Trong thập kỷ 1970 ở Thái
Lan và Philíppin quy mô của NSTW còn khá nhỏ bé (quy mô thu ngân sách
ở mức khoảng 13%GDP) nên không đáp ứng được nhu cầu đầu tư xây dựng
cơ sở hạ tầng cần thiết cho quá trình phát triển kinh tế. Vì vậy, trong những
năm gần đây, các nước này có xu hướng gia tăng nhanh chóng quy mô ngân
sách để đáp ứng các nhiệm vụ phát triển kinh tế.
Qua phân tích quy mô NSNN ở các nước Đông Nam á, có thể rút ra
các nhận xét sau :
- Nhìn chung quy mô thu NSNN của các nước có xu hướng tăng
lên, đặc biệt ở Malayxia, quy mô thu NSNN tăng khá nhanh nhằm đảm
bảo nguồn lực tài chính cần thiết cho công cuộc phát triển kinh tế.
- Quy mô các khoản chi của NSTW ở các nước Đông Nam Á có xu
hướng tăng và xích lại gần nhau.
Nếu như trong thập kỷ 1970, quy mô chi NSTW ở các nước dao động
từ 13,2% (Philippin) tới 27,9% (Malayxia), thì trong thập kỷ 90, mức dao
động chỉ từ 16,1% (Thái Lan) tới 24,3% (Malayxia). Sự tương đồng này có
được là do trong quá trình công nghiệp hoá các nước Đông Nam Á đã điều
chỉnh chính sách tài khoá của mình, trong khi coi trọng vai trò to lớn của khu
vực tài chính công trong việc thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước.
55
2). Giảm thâm hụt ngân sách
Sự gia tăng của quy mô thu NSTW là nhờ các nước vừa tiến hành cải
cách thuế và vừa tăng các nguồn thu ngoài thuế. Tại Inđônêxia, Chính phủ đã
áp dụng một loại thuế thu nhập mới vào năm 1984. Đến năm 1985, lại thay
thuế bán hàng bằng thuế GTGT ở cấp độ nhà sản xuất và nhà nhập khẩu;
đồng thời áp dụng thuế bán hàng đánh vào hàng xa xỉ, thuế dán tem và thuế
bất động sản mới. Tại Phi-líp-pin, vào tháng 7/1986, Chính phủ đã xoá bỏ
nhiều chính sách ưu đãi và miễn thuế, hợp lý hoá thuế nhập khẩu...
Ở Inđônêxia cũng như Thái Lan và Malayxia, các nguồn thu ngoài
thuế đều tăng. Từ năm 1980 đến năm 1997, tỷ lệ nguồn thu ngoài thuế/thu
thường xuyên ở Inđônêxia đã tăng từ 3,1% đến 10%; tại Thái Lan từ 7,4%
đến 10,5%, tại Malayxia từ 13,4% đến 18,4%. Điều này chủ yếu là do hệ
thống thuế của các nước, cho dù đang được cải cách, những vẫn còn chưa
thật hiệu quả.
3). Tăng vay nợ nước ngoài
Trong quá trình công nghiệp hoá ở các nước Đông Nam Á, do nhu cầu
nguồn lực tài chính tăng nhanh nên việc huy động vốn ngoài nước đuược đặc
biệt chú ý.
Trước hết, các nguồn lực tài chính được huy động dưới hình thức đầu
tư trực tiếp nước ngoài tăng rất nhanh. Chỉ riêng trong giai đoạn từ 1989 đến
1996, vốn đầu tư nước ngoài mỗi năm vào Inđônêxia đã tăng từ 782 triệu
USD năm 1989 tới 5.205 triệu USD năm 1996. Tại Malayxia, đầu tư trực tiếp
nước ngoài trong mỗi năm tăng từ 1.668 triệu USD vào năm 1989 tới 9.025
triệu USD vào năm 1996.
Bảng 2 - Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một số nước Đông Nam Á
Đơn vị: triệu USD
Năm 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996
Inđônêxia 782 1.093 1.356 1.774 1.474 1.565 4.254 5.205
Malayxia 1.668 2.332 4.073 4.118 4.677 4.477 6.068 9.025
Philippin 475 554 517 798 1.137 1.961 1.521 1.038
Thái Lan 1.730 2.389 1.848 1.981 1.202 1.382 1.452 1.732
Nguồn: ASEAN Macroeconomic Outlook 1995-1996, Báo cáo đầu tư của UNCTAD,
Tin kinh tế quốc tế số 015 năm 1997, International Financial Statistics 9/1997.
Cùng với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, các nguồn vốn ngắn hạn
được huy động từ nước ngoài vào các Đông Nam Á giữa thập kỷ 90 cũng
tăng tương đối nhanh.
56
Bảng 3 - Luồng vốn tư nhân ròng ở một số nước Đông Nam Á
Đơn vị: triệu USD
Nước 1990 1997
Inđônêxia 3.235 10.863
Malayxia 769 9.312
Philippin 639 4.164
Thái Lan 4.399 3.444
Nguồn: Ngân hàng thế giới: Bước vào thế kỷ 21. Hà Nội 1999, tr. 336.
Do vốn nước ngoài đổ vào các nước Đông Nam Á ngày càng lớn nên
kết quả là làm tăng nhanh các khoản nợ nước ngoài, trong đó chủ yếu là nợ
của các ngân hàng.
Bảng 4 – Nợ nước ngoài ở một số nước Đông Nam Á
Đơn vị: tỷ USD
Nước 1993 1994 1995 1996
Inđônêxia 37,20 41,62 48,93 56,52
Malayxia 16,02 14,48 18,76 25,84
Philippin 6,61 6,54 8,07 13,35
Thái Lan 34,73 54,44 92,18 98,69
Nguồn: Giancarlo Corsetti..... Nguyên nhân gì dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính
và tiền tệ ở châu Á. Tháng 3/1998, tr. 128, 129.
Trong số các khoản nợ nước ngoài, nợ ngắn hạn chiếm một tỷ lệ
không nhỏ và tăng nhanh (21,7% so với tổng số nợ vào năm 1995 ở
Malayxia và 32,25% vào năm 1995 ở Thái Lan). Tại Thái Lan tỷ lệ nợ ngắn
hạn/dự trữ đã tăng từ 47,86% năm 1994 tới hơn 150% vào thời điểm trước
khủng hoảng năm 1997.
Việc tăng nhanh nợ nước ngoài, trong khi kiểm soát vốn không chặt
chẽ là nguyên nhân gây nên đổ vỡ tài chính và khủng hoảng tài chính, tiền tệ
khu vực năm 1997. Đây cũng là bài học bổ ích để Việt Nam nghiên cứu khi
xem xét vấn đề nợ nước ngoài.
2.1.2. Kinh nghiệm về phát triển TTTC
Trong những năm 1980, đặc biệt là từ giữa thập kỷ, khu vực TTTC tại
một số nước Đông Nam Á phát triển khá nhanh. Điều này được thể hiện
thông qua sự gia tăng tỷ lệ tổng tài sản của các tổ chức tài chính/GDP. Chẳng
hạn, tại Malayxia, chỉ trong giai đoạn từ 1985 đến 1989 tỷ lệ tổng tài sản của
các tổ chức tài chính/GDP đã tăng từ 137% tới 155%5.
57
Bảng 5 - Gíá trị cổ phiếu được giao dịch trên TTCK
Đơn vị: triệu USD
Nước 1985 1986 1987 1988 1989 1990
Malayxia 2.485 1.309 3.999 2.581 6.843 10.083
Thái Lan 549 932 4.370 5.262 13.180 22.860
Philippin 84 410 937 477 1.306 1.228
Inđônêxia 3 1 3 18 559 3.995
Nguồn: TTTC và thị trường vốn ở Châu Á. Hà Nội 1992, tr. 62- 63.
Cùng với sự phát triển của khu vực TTTC nói chung, cơ cấu nội bộ
của khu vực TTTC cũng đã có những chuyển dịch đáng kể, trong đó TTCK
có xu hướng phát triển mạnh, tỷ trọng huy động vốn của các NHTM giảm
trong khi tỷ trọng huy động vốn của một số các tổ chức tài chính phi ngân
hàng tăng.
Nhờ sự phát triển nhanh chóng của TTCK, mà tỷ lệ vốn hóa so với
GDP đã tăng khá cao. Năm 1996 ở Malayxia tăng tới 310%; ở Thái Lan là
55%; ở Phi-líp-pin là 97,3% và ở Inđônêxia là 40%.
Sự phát triển mạnh của các TTCK được quyết định bởi các yếu tố sau
đây
Thứ nhất, áp dụng các giải pháp tăng cung trên thị trường.
Các chính phủ này đã thông qua các ưu đãi về thuế, nới lỏng một số
quy định pháp lý để khuyến khích các công ty có đủ điều kiện niêm yết trên
thị trường. Chẳng hạn, tại Thái Lan, Chính phủ đã cho phép các tổ chức
không phải công ty phát hành chứng khoán và trái phiếu mới, giảm 30-35%
thuế công ty đối với các công ty có niêm yết. Chính phủ Phi-líp-pin đã giảm
dần, sau đó bãi bỏ thuế đối với lợi tức cổ phiếu. Tại Inđônêxia, yêu cầu về tỷ
suất lợi nhuận bình quân cần thiết (hay mức tối thiểu) đối với các công ty
muốn niêm yết đã giảm từ mức 10% trong 2 năm cuối xuống còn chỉ cần có
lãi là đủ. Nhờ áp dụng các biện pháp này mà chỉ trong thời gian ngắn, số
lượng các công ty niêm yết đã tăng lên rất nhanh: trong giai đoạn từ 1985-
1990 số công ty chứng khoán ở Thái Lan tăng hơn gấp đôi (từ 97 lên 214); ở
Inđônêxia tăng gấp 5 lần (từ 24 lên 123).
Thứ hai, thực hiện các giải pháp tăng cầu chứng khoán, như cho phép
người nước ngoài tham gia thị trường. Đây là một trong những yếu tố quan
trọng tạo nên sự phát triển mạnh mẽ TTCK ở các nước này.
Thứ ba, nâng cao năng lực của các tổ chức môi giới: tăng mức quy
định tối thiểu về vốn đối với các công ty môi giới, cho phép các công ty môi
giới nước ngoài tham gia vào thị trường (ở một mức độ nhất định, tại
Inđônêxia là 40%, Malayxia là 30%, Thái Lan là 49% và 25% ở một số
ngành đặc biệt), cho phép các ngân hàng tham gia vào lĩnh vực chứng khoán,
58
thành lập TTCK phi tập trung. Tại Inđônêxia, Chính phủ còn cho phép thành
lập Sở GDCK tư nhân.
Thứ tư, củng cố môi trường hoạt động của TTCK, chẳng hạn như cung
cấp thông tin cho các nhà đầu tư chứng khoán, đặt ra các điều khoản luật
pháp và quy chế xử phạt các giao dịch nội bộ... Mục đích của các giải pháp
này là để tăng thêm lòng tin của những nhà đầu tư vào các công ty niêm yết,
từ đó khuyến khích họ đầu tư.
Xu hướng gia tăng quy mô của TTCK cùng với sự phát triển kinh tế
nói trên phần nào cũng được thể hiện thông qua việc so sánh cơ cấu khu vực
TTTC giữa các nước. Tại những nước có nền kinh tế phát triển hơn, với mức
GDP bình quân đầu người cao hơn thì quy mô tương đối của TTCK cũng lớn
hơn.
Bảng 6 - Cơ cấu khu vực TTTC ở một số nước Đông Nam Á năm 1989
Đơn vị: %GDP
Nước
Giá trị vốn của các
chứng khoán trên thị
trường/GDP danh
nghĩa
Tổng giá trị tài sản
của các NHTM/tổng
giá trị tài sản toàn bộ
các tổ chức tài chính
Tổng số tài sản của
các tổ chức tài
chính/GDP danh
nghĩa
Malayxia 154 46,8 155
Thái Lan 44 73,5 115
Philíppin 27 65,9 66
Inđônêxia 3 84,8 50
Nguồn: TTTC và thị trường vốn ở Châu Á. Hà Nội 1992. tr. 14, 47.
Theo bảng trên, cuối những năm 1980 tại Malayxia quy mô của TTCK
là tương đối cao so với ở Inđônêxia. Các nước như Thái Lan, Philíppin nằm ở
vị trí giữa. Ngoài ra, cũng có thể nhận thấy rằng, tại các nước có trình độ phát
triển cao hơn, khi TTTC phát triển mạnh hơn (được đo bằng tỷ lệ tổng tài sản
của các tổ chức tài chính/GDP danh nghĩa), quy mô tương đối của các
NHTM giảm. Xu hướng này cũng được thể hiện qua số liệu về cơ cấu của
các tổ chức tài chính ở các nước theo thời gian.
Tại Malayxia, tỷ lệ tài sản mà các NHTM nắm giữ trong tổng tài sản
của các tổ chức tài chính đã giảm từ 42,3% năm 1987 xuống còn 39,4% năm
1993. Tại Thái Lan, tỷ lệ này giảm từ 69,55% năm 1989 xuống còn 68,02
năm 1992.
Ngoài ra, quy mô tương đối của nhiều loại hình tổ chức tài chính phi
ngân hàng, chẳng hạn như các công ty tài chính lại tăng lên. Tại Thái Lan, tỷ
lệ tài sản của các công ty tài chính trong tổng tài sản của các tổ chức tài chính
đã tăng từ 13,93% vào năm 1989 tới 18,05% vào năm 1992. Tại Malayxia,
con số này đã tăng từ 10,5% năm 1987 tới 11,1% năm 1993.
Nhờ việc áp dụng chính sách tự do hoá tài chính để tăng mức độ cạnh
tranh trong việc huy động các nguồn lực tài chính (TTCK, các NHTM, các tổ
59
chức tài chính phi ngân hàng), mà các hình thức huy động nguồn lực tài
chính thông qua TTCK và các tổ chức tài chính phi ngân hàng đã dần chiếm
thị phần của các NHTM. Sự thay thế sẽ diễn ra cho đến khi TTCK và các tổ
chức tài chính phi ngân hàng sử dụng hết các lợi thế so sánh của mình trong
việc huy động các nguồn lực tài chính. Kết quả là tạo ra một cơ cấu tài chính
mới. Một cơ cấu cụ thể sẽ phụ thuộc vào mức độ tự do hoá tài chính trên một
số khía cạnh chính như lãi suất, quyền tham gia vào các loại hình kinh doanh
khác nhau...
Chẳng hạn, tại Thái Lan, tỷ lệ tài sản của các NHTM/tổng tài sản của
các tổ chức tín dụng giảm không mạnh trong thập kỷ 1980 và 1990 là vì
không có một ngân hàng mới nào được thành lập trong giai đoạn này (1978-
1998). Ngoài ra, Chính phủ Thái Lan chưa cho phép sáp nhập quốc tế và mua
đứt đối với các ngân hàng Thái Lan, mặc dù có nới lỏng các hạn chế về quốc
tịch đối với giám đốc ngân hàng cũng như nới lỏng trần sở hữu của người
nước ngoài trong các ngân hàng trong nước. Tuy nhiên, việc tự do hoá nội bộ
và nới lỏng trần lãi suất đối với các công ty tài chính vào đầu thập kỷ 90 đã
cho phép những công ty này chiếm thị phần của các công ty tín dụng và phát
triển rất nhanh. Ngược lại, do các công ty tín dụng không được phép tham gia
vào các quỹ ngắn hạn và phát hành chứng khoán có thế chấp, trong khi các
NHTM và các công ty tài chính lại được phép tham gia các hoạt động này, tỷ
lệ tài sản của các công ty tín dụng/tổng tài sản của các tổ chức tài chính đã
giảm từ 0,7% năm 1983 xuống còn 0,17% năm 1992.
Tuy nhiên, trong cơ cấu của khu vực TTTC ở các nước Đông Nam Á
nói trên các NHTM vẫn giữ vai trò chủ đạo trên TTTC. Chúng vẫn chiếm thị
phần cao và có ảnh hưởng sâu sắc tới nền kinh tế (từ 46,8% tài sản của các tổ
chức tài chính ở Malayxia tới 84,8% tại Inđônêxia). Ngoài ra mức độ tập
trung hoá trong khu vực ngân hàng tương đối cao. Vào năm 1992, tại
Malayxia, 5 ngân hàng hàng đầu nắm tới 52% tài sản của ngành ngân hàng, 2
ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước lớn nhất chiếm tới 1/3 tài sản của toàn bộ
hệ thống. Tại Thái Lan, 3 ngân hàng lớn nhất trong nước chiếm 50% tài sản
của cả hệ thống ngân hàng vào thời điểm năm 1993.
2.2. KINH NGHIỆM CỦA TRUNG QUỐC
2.2.1. Kinh nghiệm về thực thi CSTK
Trong giai đoạn 1980-2000, quy mô và cơ cấu NSNN ở Trung Quốc
có những đặc điểm và xu hướng như sau:
1). Quy mô NSNN trong thập kỷ 1980 có xu hướng giảm xuống và chỉ bắt đầu tăng lên từ cuối thập kỷ 1990
Sự suy giảm của NSTW trong những năm đầu cải cách đi cùng với
quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường (sự phát triển của khu vực
kinh tế tư nhân và việc cổ phần hoá các DNNN). Trong thời gian này, thu
60
NSNN ở Trung Quốc vẫn phụ thuộc phần lớn vào các DNNN. Bởi vậy, khi
hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp này thấp hơn so với các doanh
nghiệp tư nhân hay khi chúng bị cổ phần hoá, tỷ lệ thu NSNN so với GDP sẽ
giảm đi. Qua cải cách, số lượng các doanh nghiệp do nhà nước nắm 100%
vốn đã giảm nhanh chóng và hiện nay chỉ có 512 doanh nghiệp nhà nước
thực sự do Ttung ương nắm giữ so với 1000 doanh nghiệp năm 1995. Những
thay đổi này đã làm cho tỷ lệ thu, chi NSTW so với GDP suy giảm.
Hình 1 - Thu NSNN ở Trung Quốc giai đoạn 1979-2001
Đơn vị: % GDP
Nguồn: Niên giám thống kê Trung Quốc 2002.
Trong những năm sau, nhờ cải cách thuế GTGT, thu NSNN ở Trung
Quốc đã tăng lên và tạo điều kiện cho tăng chi NSNN ở các lĩnh vực y tế và
giáo dục.
2). Quy mô NSĐP trong khu vực tài chính công có xu hướng gia tăng
Các khoản chi của địa phương từ chỗ chỉ chiếm 45% tổng chi năm
1981 đã tăng lên đến 70% năm 1998. Đây là kết quả của chính sách "phân
chia thu chi, phân cấp khoán" của Trung Quốc được đưa vào thực hiện từ
năm 1980. Theo chính sách này, Trung Quốc đã thực hiện phân tách mối
quan hệ về trách nhiệm, quyền hạn và lợi ích giữa các cấp tài chính. Địa
phương phải nộp lên Trung ương một tỷ lệ thu nhập nhất định (được cố định
trong 5 năm), số còn lại để cho địa phương sử dụng. Đối với những địa
phương có ngân sách liên tục thâm hụt, chính phủ Trung ương để lại cho địa
phương toàn bộ thu nhập và một khoản trợ cấp nhất định (năm 1981, khoản
trợ cấp này là 9,108 tỷ NDT, đến năm 1988 khoản trợ cấp này đã lên tới
33,231 tỷ NDT, tăng gấp 4 lần).
61
Hình 2 - Mối quan hệ tỷ lệ giữa chi NSTW và chi NSĐP ở Trung Quốc
Đơn vị: % tổng chi
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%
1980 1982 1984 1986 1993 1995 1997
Tỷ trọng chi ngân sách giữa trung ương và địa phương
NSTW
NSĐP
Nguồn: Niên giám thống kê Trung Quốc 2002
Năm 1985 Trung Quốc thực hiện chính sách "phân loại thuế, hoạch
định thu chi và phân cấp khoán"; Năm 1988 thực hiện chính sách khoán tài
chính; Năm 1994 thực hiện cải cách quan hệ tài chính giữa Trung ương và
địa phương thông qua việc hoàn thiện và phân định rõ ràng trách nhiệm trong
thu - chi và các khoản chuyển giao tài chính của Trung ương và địa phương,
cụ thể như sau:
Về thu tài chính
Trung Quốc quy định các loại thuế cần thiết, các loại thuế chủ yếu liên
quan trực tiếp đến phát triển kinh tế, được quy thành thuế trung ương và địa
phương cùng hưởng. Các loại thuế thuận tiện cho địa phương quản lý được
quy thành thuế của địa phương. Cụ thể là:
Thu nhập cố định của Trung ương gồm: thuế XNK, thuế TTĐB do hải
quan thu hộ, thuế TNDN của doanh nghiệp trung ương, thuế lợi tức của ngân
hàng địa phương, ngân hàng vốn đầu tư nước ngoài và các tổ chức tín dụng
phi ngân hàng, thu nhập do ngân hàng thuộc trung ương, ngành đường sắt và
các tổng công ty bảo hiểm nộp tập trung (gồm thuế doanh nghiệp, thuế lợi
tức, lợi nhuận và thuế tu sửa, xây dựng thành phố), lợi nhuận do các doanh
nghiệp trung ương nộp lên.
Thu nhập cố định của địa phương gồm có: Thuế TNDN (không bao
gồm thuế thu nhập doanh nghiệp của các ngân hàng thuộc trung ương, ngành
đường sắt, các Tổng công ty bảo hiểm nộp tập trung), thuế lợi tức doanh
nghiệp địa phương (không bao gồm thuế doanh nghiệp của các ngân hàng địa
phương, ngân hàng vốn đầu tư nước ngoài và của các tổ chức tín dụng phi
ngân hàng nói trên nộp), lợi nhuận do doanh nghiệp địa phương nộp, thuế thu
nhập cá nhân, thuế sử dụng đất đai thành thị, thuế điều tiết phương hướng đầu
62
tư tài sản cố định, thuế tu sửa và xây dựng thành phố (không bao gồm phần
nộp tập trung của các ngân hàng thuộc trung ương, ngành đường sắt và của
các Tổng công ty bảo hiểm), thuế nhà đất, thuế sử dụng tàu xe, thuế trước bạ,
thuế sát sinh, thuế nông nghiệp và chăn nuôi, thuế đặc sản nông nghiệp, thuế
chiếm dụng đất canh tác, thuế khế ước, thuế di sản và quà tặng, thuế GTGT
đất đai, thu nhập về trả tiền sử dụng đất đai của nhà nước.
Thu nhập do trung ương và địa phương cùng hưởng bao gồm: Thuế
GTGT (trung ương hưởng 75%, địa phương hưởng 25%), thuế giao dịch
chứng khoán (địa phương được hưởng 20%). Riêng thuế tài nguyên, căn cứ
vào các loại tài nguyên khác nhau để phân định, đại bộ phận thuế tài nguyên
là thu nhập của địa phương, thuế tài nguyên dầu khí ngoài biển thuộc thu
nhập của trung ương.
Về chi tài chính
Trung Quốc thực hiện phân định về phạm vi cũng như nội dung chi
tiêu giữa Trung ương và địa phương. Tài chính trung ương chịu trách nhiệm
về các khoản chi cần thiết cho an ninh quốc gia, cho hoạt động ngoại giao và
các cơ quan nhà nước trung ương; các chi tiêu cần thiết cho việc điều chỉnh
cơ cấu kinh tế quốc dân, phối hợp phát triển các vùng, thực hiện việc điều
hành vĩ mô và phát triển các sự nghiệp do trung ương trực tiếp quản lý. Cụ
thể là: chi quốc phòng, kinh phí cảnh sát vũ trang, chi phí ngoại giao và viện
trợ nước ngoài, chi phí hành chính cấp trung ương, đầu tư XDCB do trung
ương quản lý, chi phí cải tạo kỹ thuật và sản xuất thử sản phẩm mới của các
doanh nghiệp trực thuộc trung ương, chi phí thăm dò địa chất, chi phí khuyến
nông do trung ương đảm nhận, chi phí trả vốn và lãi các khoản vay nợ trong
và ngoài nước, chi phí về công an, kiểm sát, cơ quan pháp luật của cấp trung
ương và chi phí cho các sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế, khoa học.
Tài chính địa phương chịu trách nhiệm về các chi tiêu cần thiết cho sự
hoạt động của các cơ quan chính quyền trong khu vực và các khoản chi tiêu
cần thiết cho sự phát triển kinh tế, sự nghiệp của khu vực mình. Cụ thể là: chi
phí quản lý hành chính địa phương; chi phí cho công an, kiểm sát, pháp luật;
chi phí về dân quân; đầu tư XDCB do địa phương quản lý; kinh phí cho cải
tạo kỹ thuật và sản xuất thử sản phẩm mới của các doanh nghiệp địa phương;
chi phí khuyến nông; chi phí sửa chữa và xây dựng thành phố, chi phí cho sự
nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế địa phương; chi bù giá và các chi phí khác.
Về chuyển giao tài chính:
- Xác định số hoàn trả thuế của tài chính trung ương cho địa phương.
Đây là một loại chuyển giao tài chính vô điều kiện. Từ năm 1994,
phần thu nhập mà các tỉnh được giữ lại trong năm 1993 được sử dụng như số
liệu cơ sở để tính toán phần thu hoàn trả. Một phần thu nhập của các địa
phương được chuyển thành thu nhập của trung ương như đã quy định và
thông qua hệ thống phân chia thuế được hoàn trả đầy đủ cho các tỉnh. Căn cứ
63
vào thu nhập thực tế của địa phương năm 1993, vào tình hình cải cách chế độ
thuế và phân định thu nhập giữa trung ương, xác định số thu nhập thực mà
địa phương nộp cho trung ương năm 1993 (bao gồm thuế TTĐB và 75% thuế
GTGT - thu nhập của trung ương chuyển xuống). Số thu nhập thực mà địa
phương nộp về trung ương năm 1993 được hoàn trả toàn bộ cho địa phương
và được lấy làm số gốc hoàn trả thuế của trung ương đối với địa phương sau
này. Sau năm 1994, số hoàn trả trên cơ sở gốc của năm 1993 tăng dần hàng
năm. Tỷ lệ tăng dần căn cứ theo hệ số 1/0,3 của tỷ lệ tăng trưởng của thuế
GTGT và thuế TTĐB của địa phương để xác định, tức tại địa phương này cứ
mỗi 1% tăng trưởng của 2 loại thuế trên thì phần hoàn trả thuế cho địa
phương được tăng 0,3%. Nếu sau năm 1994 thu nhập nộp về cho trung ương
không đạt được số gốc của năm 1993 thì cũng giảm tương ứng số hoàn trả
thuế. Điều này có nghĩa là chính quyền trung ương sẽ không có quyền quyết
định thực sự đối với khoản tiền chuyển giao theo kiểu này.
- Phần chuyển giao từ chính quyền trung ương.
Đây là sự tiếp tục của hệ thống tài chính cũ. Có hai cách chuyển giao
tài chính giữa các cấp chính quyền. Phần chuyển giao giữa trung ương và tỉnh
là những khoản trợ cấp cố định tới các tỉnh nghèo và các khu tự trị; phần
chuyển giao giữa các địa phương là khoản tiền chuyển bởi các tỉnh giàu cho
các tỉnh nghèo. Khoản tiền chuyển giao được quyết định thông qua thoả
thuận. Đây là một hình thức khác của hình thức chuyển giao vô điều kiện,
dựa trên số liệu cơ sở của năm 1980.
Trên thực tế, khoản tiền trợ cấp vô điều kiện cho một tỉnh được tính
toán theo công thức: đối với các tỉnh giàu: lấy khoản tiền thu hoàn trả trừ đi
khoản tiền chuyển; đối với các tỉnh nghèo: lấy khoản tiền thu hoàn trả cộng
với khoản trợ cấp cố định.
- Phần trợ cấp cho những mục đích đặc biệt.
Ban đầu, khoản tiền này chủ yếu được dùng để ủng hộ cho các vùng bị
thiên tai và trợ cấp cho các vùng nghèo đói. Sau đó, số lượng các chương
trình và số lượng các khoản tiền tăng lên. Hiện nay có hàng loạt các chương
trình trợ cấp đặc biệt như: trợ cấp giáo dục, trợ cấp cho công trình quan trọng
hay chương trình di dân, trợ cấp bảo vệ môi trường... Chính quyền các tỉnh
được quyền sử dụng các nguồn theo sự chỉ đạo của chính quyền trung ương.
Các khoản trợ cấp loại này được áp dụng cho phân chia giữa các cấp chính
quyền địa phương và được sự phê chuẩn của Bộ Tài chính.
2.2.2. Kinh nghiệm về thực thi CSTT
1). Về xác định mục tiêu của CSTT
Trước cải cách, CSTT của Trung Quốc được thực hiện thông qua kế
hoạch tín dụng và kế hoạch tiền mặt. Kế hoạch tiền mặt bao gồm nhiều nhân
tố tác động đến khối lượng tiền mặt trong nền kinh tế và theo đúng nghĩa bổ
64
sung cho kế hoạch tín dụng. Có thể nói CSTT chỉ là một công cụ bị động
trong việc thực hiện các mục tiêu của Chính phủ.
Kể từ năm 1979, quy trình hoạt động của CSTT dần dần thay đổi,
phản ánh sự tồn tại song song các công cụ kế hoạch và cơ chế thị trường
trong nền kinh tế. Kể từ khi đưa vào sử dụng các công cụ CSTT mới, CSTT
phải đối mặt với tình thế khó khăn là cả công cụ trực tiếp lẫn công cụ gián
tiếp đều hoạt động không hiệu quả. Trên thực tế, cải cách khu vực tài chính
đã tiến xa về phi tập trung hoá và đa dạng hoá, làm cho các kiểm soát trực
tiếp’’kiểu cũ” trở nên kém hiệu quả. Tuy nhiên, việc sử dụng các công cụ
gián tiếp vẫn yếu kém vì cơ sở hạ tầng chưa đủ phát triển cho việc thực hiện
có hiệu quả CSTT gián tiếp và NHTW cần có sự độc lập lớn hơn để quản lý
kinh tế vĩ mô. Vì vậy, đặc điểm nổi bật nhất của CSTT trong giai đoạn
chuyển đổi là quy trình hoạt động của CSTT tiến triển theo một hệ thống
kiểm soát kép (dual-control system) do các biện pháp kiểm soát gián tiếp dần
dần thay thế các biện pháp kiểm soát trực tiếp. Kế hoạch tín dụng vẫn là công
cụ chính sách cơ bản, nhưng việc xây dựng kế hoạch này đã có những thay
đổi khi các khía cạnh kinh tế vĩ mô ngày càng được tính đến. Việc thực hiện
các kế hoạch tín dụng được nới lỏng khi các ngân hàng được trao quyền độc
lập hơn trong việc quy định lãi suất cho vay. Tuy nhiên, từ nửa sau thập kỷ
80, hạn mức tín dụng (xuất phát từ kế hoạch tín dụng) đã mất đi một phần
tính hiệu quả của mình do những thay đổi trong khu vực tài chính. Các công
cụ gián tiếp như dự trữ bắt buộc, tín dụng của PBC cho các ngân hàng, và sự
thay đổi lãi suất thường xuyên - được đưa vào áp dụng ngay khi PBC bắt đầu
hoạt động vào năm 1984-1985. Những công cụ này nhằm thay thế hạn mức
tín dụng, giúp PBC phản ứng linh hoạt hơn với những thay đổi của nền kinh
tế. “Cửa sổ định hướng” (“window guidance”) cũng được sử dụng ở một
mức độ nào đó như là một công cụ của CSTT.
Tuy nhiên, nhu cầu liên tục về các khoản cho vay chính sách đặt lên
vai hệ thống tài chính đã hạn chế sự linh hoạt và hiệu quả của việc thay thế
các công cụ CSTT trực tiếp thành các công cụ CSTT gián tiếp trong giai
đoạn 1992-1993. Những hạn chế này có thể thấy rõ thông qua vai trò lãi suất.
Lãi suất được sử dụng ngày càng nhiều để kiểm soát các biến tiền tệ, nhưng
hiệu quả của chúng vẫn còn hạn chế, một phần vì những khoản ngân sách với
lãi suất ưu đãi cho các DNNN, làm cho các doanh nghiệp này không chịu
trách nhiệm về chi phí vay. Trong năm 1993, PBC bắt đầu sử dụng nghiệp vụ
thị trường mở như là một công cụ chính sách chủ yếu, trong khi đó, dự trữ bắt
buộc và tín dụng của PBC cho các ngân hàng đóng vai trò là các công cụ hỗ
trợ. Kế hoạch tín dụng được dần dần bãi bỏ và thay thế bằng các tỷ lệ quản lý
tài sản nợ - tài sản có để quản lý tài sản nợ và tài sản có. Các công cụ gián
tiếp của CSTT được sử dụng ngày càng thường xuyên hơn. Như là một phần
của quá trình chuyển đổi, tín dụng trực tiếp của PBC cho Chính phủ được
ngừng lại vào đầu năm 1994.
65
Những cải cách trong hệ thống ngoại hối vào đầu năm 1994 đã đem lại
những kết quả quan trọng đối với việc quản lý tiền tệ. Sự tự do hoá các giao
dịch ngoại hối là một nguồn tiềm năng của luồng ra và luồng vào của vốn khả
dụng, với mục tiêu của PBC là ổn định tỷ giá hối đoái. Vì vậy, những cải
cách này làm tăng nhu cầu quản lý vốn khả dụng dựa trên việc sử dụng các
công cụ CSTT gián tiếp.
Do cần có thời gian để phát triển cơ sở hạ tầng thích hợp cho việc thực
hiện có hiệu quả CSTT gián tiếp và thực hiện mục tiêu chống lạm phát, PBC
buộc phải sử dụng một số công cụ tình thế kể như phát hành tín phiếu tài
chính (một dạng của tín phiếu NHTW) vào năm 1993, và thu hút vốn khả
dụng vượt (excess liquidity) bằng cách đưa ra các mức lãi suất tiền gửi đặc
biệt tại ngân hàng trung ương trong năm 1994 và 1995.
Khi các cải cách tài chính và kinh tế đã trở nên sâu sắc hơn, thị trường
tiền tệ và thị trường vốn cũng phát triển hơn, PBC tăng cường sử dụng các
công cụ tiền tệ gián tiếp như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất, tái chiết khấu và
nghiệp vụ thị trường mở. Đến năm 1999, theo đánh giá của PBC, Trung quốc
đã hoàn thành việc chuyển các công cụ CSTT từ trực tiếp sang gián tiếp.
2). Các công cụ CSTT
Kế hoạch tín dụng:
Trước đây, kế hoạch tín dụng đơn giản đóng vai trò là đối tác tài chính
của kế hoạch đầu tư của chính phủ. Kết quả là, kế hoạch này được xây dựng
theo một quy trình “từ dưới lên”, tập trung vào nhu cầu tín dụng của người
vay để thực hiện mục tiêu sản lượng.
Thay đổi đầu tiên xảy ra vào đầu thập kỷ 80 khi các ngân hàng được
trao nhiều tự do hơn trong việc cho vay vốn lưu động. Thứ hai, điều kiện kinh
tế thay đổi giữa thập kỷ 80 ảnh hưởng đến việc giám sát và thực hiện kế
hoạch tín dụng và hạn mức tín dụng liên quan. Trong giai đoạn 1986-1988,
hạn mức tín dụng trở thành các chỉ tiêu định hướng, tuy nhiên, nếu vượt quá
hạn mức cũng không bị trừng phạt. Trong các trường hợp khác, đặc biệt
trong giai đoạn ’’thắt lưng buộc bụng’’ vào năm 1989, hạn mức tín dụng bị
bắt buộc phải tuân thủ nghiêm ngặt, và tỷ lệ tín dụng trực tiếp tăng lên. Thứ
ba, cùng với sự đa dạng hoá của hệ thống tài chính, quy mô của kế hoạch tín
dụng được mở rộng trong năm 1988 bao gồm cả tín dụng cho các TCTD phi
ngân hàng và tài trợ trực tiếp của các doanh nghiệp, cũng như tín dụng cho
các ngân hàng chuyên doanh và các ngân hàng đa năng. Cuối cùng, sự thay
đổi quan trọng so với việc xây dựng kế hoạch tín dụng truyền thống diễn ra
cuối thập kỷ 80 khi PBC bắt đầu đánh giá đến tính thống nhất của kế hoạch
tín dụng với các mục tiêu kinh tế vĩ mô như ổn định giá cả, cán cân thanh
toán và tăng trưởng kinh tế. Mục tiêu đối với tổng tín dụng trong nước được
xây dựng phù hợp với các mục tiêu cung tiền. Điều này cho thấy vai trò ngày
càng tăng của cơ chế thị trường trong nền kinh tế Trung quốc.
66
Tuy nhiên, những thay đổi về quy trình này làm xuất hiện những mâu
thuẫn tiềm tàng. Trên thực tế, kế hoạch tín dụng là một thoả hiệp giữa ba bên:
Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước (với mối quan tâm đảm bảo kế hoạch cung cấp
đủ vốn cho đầu tư trong kế hoạch 5 năm); Bộ Tài Chính (nơi cố gắng giảm
thiểu chi phí ngân sách để tài trợ cho các DNNN thua lỗ); và PBC ( với mục
tiêu đảm bảo sự ổn định kinh tế vĩ mô).
Sự dịch chuyển nhanh chóng sang các công cụ CSTT gián tiếp giúp
PBC đưa ra chiến lược loại bỏ dần kế hoạch tín dụng sau năm 1994. Năm
1995, chỉ 4 NHTMQD và 4 ngân hàng đa năng phải tuân thủ các hạn mức tín
dụng chính thức. Tất cả hoạt động cho vay của các ngân hàng được hướng
dẫn bởi tỷ lệ cho vay trên tiền gửi. Hạn mức tín dụng được bãi bỏ vào năm
1998.
Tín dụng của Ngân hàng Trung ương Trung Quốc
Tín dụng của PBC bao gồm những loại sau:
- Cho vay kỳ hạn năm: có kỳ hạn từ 1 đến 2 năm, chủ yếu là tín dụng
theo chỉ định nhằm đáp ứng các mục tiêu sản lượng;
- Cho vay thời vụ, có kỳ hạn từ 2 đến 4 tháng, chủ yếu để bù đắp việc
rút tiền gửi theo mùa;
- Cho vay qua đêm: có thời hạn đến 10 ngày; và
- Tái chiết khấu: chủ yếu đối với thương phiếu, có kỳ hạn 6 tháng để
cung cấp thêm nguồn lực cho các ngân hàng chuyên doanh trong năm.
Vào cuối thập kỷ 80, khoảng 60% tổng tín dụng của PBC cho các
ngân hàng chuyên doanh là cho vay kỳ hạn năm, cho vay thời vụ và qua đêm
chiếm tương ứng 35% và 5% tổng tín dụng. Về cơ bản, tín dụng của PBC chỉ
được cấp cho các ngân hàng chuyên doanh, nhưng một số các TCTD phi
ngân hàng được PBC chấp thuận cho tiếp cận với các khoản tín dụng.
Trong những năm gần đây, công cụ cho vay của PBC được hoàn thiện
dần nhằm tách công cụ này khỏi kế hoạch tín dụng và chuyển thành một
công cụ để quản lý vốn khả dụng. Cùng với việc cải cách hệ thống quản lý
ngoại hối vào năm 1994, tiền cơ sở cung cấp theo kênh tín dụng của ngân
hàng trung ương cho các TCTD giảm nhanh. Năm 1997, 1998, PBC giảm tín
dụng cho các TCTD. Ngược lại, sang năm 1999, tín dụng của PBC cho các
TCTD một lần nữa lại trở thành kênh tăng tiền cơ sở chính, chiếm tới 33%
tổng tiền cơ sở tăng thêm. Tuy nhiên, hoạt động cho vay của PBC còn một số
hạn chế. Cụ thể là, tín dụng của PBC cho các NHTM cổ phần, các ngân hàng
đô thị và TCTD hợp tác ở nông thôn còn thấp, mặc dù những TCTD vừa và
nhỏ này cần tiền cơ sở. Thêm vào đó, do thị trường tiền tệ chưa phát triển và
việc nắm giữ trái phiếu của các TCTD vừa và nhỏ còn hạn chế, PBC hướng
nghiệp vụ thị trường mở chủ yếu vào các NHTMQD. Tái cấp vốn cho các
TCTD vừa và nhỏ từ “cửa sổ chiết khấu” rất thấp. Sự không phù hợp giữa
cung và cầu tiền cơ sở đã hạn chế vai trò của CSTT ở một mức độ nào đó. Vì
67
vậy, vào tháng 12/1999, PBC đưa ra những quyết định nhằm tăng tín dụng
của PBC cho các TCTD vừa và nhỏ một cách hợp lý, đồng thời hình thành cơ
chế cho vay khẩn cấp của PBC.
Dự trữ bắt buộc
DTBB được áp dụng vào năm 1984 để tác động đến vốn khả dụng và
việc phân bổ vốn khả dụng trong hệ thống tài chính. Trong năm đầu tiên, tỷ
lệ DTBB rất khác nhau phụ thuộc vào loại tiền gửi và ở mức khá cao (thấp
nhất là 20%). Năm 1985, dự trữ bắt buộc được giảm xuống và đồng loạt ở
mức 10%, áp dụng đối với tất cả các TCTD. Để đáp ứng nhu cầu thắt chặt
CSTT, tỷ lệ này được tăng lên 12% vào năm 1987 và lên 13% trong năm
1988.
Nhằm thắt chặt CSTT hơn nữa, năm 1989, PBC đưa ra hướng dẫn về
“yêu cầu dự trữ vượt mức” trong khoảng 5-7% tiền gửi nội tệ. Để đáp ứng
những yêu cầu dự trữ này, các ngân hàng được yêu cầu duy trì tài khoản dự
trữ tại PBC. Dự trữ bắt buộc và dự trữ vượt mức được trả cùng tỷ lệ lãi suất.
Dự trữ vượt mức có thể được xem như cấp thứ hai của dự trữ bởi vì ngân
hàng có thể sử dụng để thanh toán, cho vay thị trường liên ngân hàng, hoặc
rút tiền mặt. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của các điều kiện kinh tế và tài
chính, hệ thống dự trữ bắt buộc bộc lộ nhiều hạn chế như: Tổng tỷ lệ dự trữ
quá cao làm hạn chế khả năng cấp tín dụng của ngân hàng; Lãi suất PBC trả
cho dự trữ cao khiến cho các tổ chức tín dụng lợi dụng để thu chênh lệch lãi
suất,... Bởi vậy, vào tháng 3 năm 1998, PBC đã kết hợp 2 tài khoản dự trữ bắt
buộc và dự trữ vượt mức, đồng thời hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc xuống còn
5% và đến năm 1999, tỷ lệ dự trữ bắt buộc lại được hạ thấp một lần nữa. PBC
cũng nhiều lần hạ lãi suất của dự trữ bắt buộc. Những thay đổi này đã góp
phần làm tăng vốn khả dụng của các TCTD để cho vay và thanh toán, đáp
ứng yêu cầu phát triển tài chính và kinh tế vĩ mô.
Lãi suất
Cơ cấu lãi suất của Trung quốc rất phức tạp, với hơn 50 loại lãi suất
do PBC quản lý (nhưng những thay đổi về lãi suất trước hết phải được Hội
đồng Nhà nước chấp thuận). Bắt đầu từ năm 1985 và đặc biệt kể từ năm
1988, lãi suất được điều chỉnh thường xuyên hơn, chủ yếu là để phản ứng lại
với những áp lực lạm phát, cũng như do quan tâm hơn đến tính lợi nhuận của
các ngân hàng chuyên doanh và các doanh nghiệp. Các ngân hàng được phép
điều chỉnh lãi suất cho vay trong biên độ 10% trên mức lãi suất chính thức.
Tuy nhiên, không có sự linh hoạt nhiều như vậy đối với lãi suất tiền gửi.
Chương trình khắc khổ năm 1989 duy trì sự tự do hoá lãi suất từng phần,
nhưng sự tự do hoá này không được tiếp tục cho đến đầu thập kỷ 90 khi giai
đoạn khắc khổ chấm dứt và các ngân hàng được phép xác định lãi suất cho
vay trong giới hạn đã quy định trước. Vào đầu năm 1996, việc quản lý lãi
suất cũng được áp dụng cho các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng.
68
Trần lãi suất liên ngân hàng bằng lãi suất cho vay vốn lưu động cộng thêm
20%.
Việc áp dụng lãi suất linh hoạt hơn dường như bị hạn chế bởi ít nhất 3
yếu tố. Thứ nhất, yêu cầu cần có sự chấp thuận trước của Hội đồng Nhà nước
đối với mỗi lần thay đổi lãi suất làm cho quá trình này rắc rối và kéo dài. Thứ
hai, trong suốt giai đoạn này, chính sách lãi suất được chỉ đạo theo 2 mục tiêu
thường là mâu thuẫn với nhau, đó là: khuyến khích huy động tiết kiệm dài
hạn và tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNN vay vốn, đặc biệt là các doanh
nghiệp có những khó khăn về tài chính. Theo đuổi những mục tiêu này
thường dẫn đến mâu thuẫn, chẳng hạn lãi suất tiền gửi cao hơn lãi suất cho
vay trong cùng giai đoạn, làm cho chênh lệch lãi suất bị âm đối với các ngân
hàng. Để giải quyết những mâu thuẫn này, các cơ quan có thẩm quyền phảỉ
sử dụng hệ thống chỉ số (indexation scheme) đối với lãi suất tiền gửi dài hạn
trong thời gian lạm phát cao. Hệ thống này cho phép các ngân hàng duy trì lãi
suất cho vay thấp trong khi vẫn duy trì lãi suất tiền gửi hấp dẫn. Thứ ba, làm
giảm sự linh hoạt của lãi suất là các ngân hàng chuyên doanh dựa nhiều vào
tín dụng của PBC (lên đến 1/3 nguồn vốn), do vậy, bất cứ sự thay đổi lãi suất
cho vay của PBC cũng ảnh hưởng trực tiếp và nhanh chóng tới chi phí bình
quân nguồn vốn của những ngân hàng này.
Mặc dù có những khó khăn trên, PBC đã từng bước điều chỉnh và tự
do hoá lãi suất một cách thích hợp. Chẳng hạn, trong giai đoạn từ tháng
5/1996 đến tháng 6/1999, PBC đã 7 lần cắt giảm lãi suất tiền gửi và cho vay
của các TCTD với mức cắt giảm tích luỹ tương ứng là 5,73% và 6,47%.
Đồng thời, PBC cũng nhiều lần cắt giảm lãi suất cho vay và tiền gửi của PBC
nhằm hoàn thiện hệ thống dự trữ bắt buộc và phục vụ mục tiêu tăng cung tiền
và tín dụng. Bên cạnh đó, lãi suất cho vay ngoại tệ được tự do hoá. Tại Trung
Quốc, lãi suất tiền gửi ngoại tệ được xác định bởi một uỷ ban kết hợp của các
NHTM. Biên độ lãi suất cho vay đồng Nhân dân tệ được nới rộng trong khi
lãi suất tiền gửi Nhân dân tệ vẫn được kiểm soát. Lãi suất của các chứng chỉ
tiền gửi lớn được phép thả nổi trong một biên độ thích hợp. Nhìn chung, PBC
đã điều chỉnh lãi suất tương đối kịp thời tuỳ theo các điều kiện kinh tế và tài
chính.
Nghiệp vụ thị trường mở
Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc bắt đầu sử dụng nghiệp vụ thị
trường mở vào năm 1993 để tác động đến vốn khả dụng của hệ thống tài
chính. Cuối năm 1993, PBC đã tính đến khả năng áp dụng nghiệp vụ thị
trường mở như là công cụ CSTT chủ yếu. Tuy nhiên, PBC nhanh chóng nhận
ra rằng sự thiếu vắng một thị trường liên ngân hàng thống nhất, cũng như tự
do hoá lãi suất là những cản trở cho việc thực hiện nghiệp vụ thị trường mở
hiệu quả.
Những chuẩn bị cho nghiệp vụ thị trường mở bao gồm việc phát hành
tín phiếu kho bạc 6 tháng và một năm của Bộ Tài chính vào cuối năm 1995,
69
và phát triển một hệ thống vào sổ tạm thời (Hệ thống Thanh toán Chứng
khoán tạm thời) của PBC.
Từ năm 1998, TTTP liên ngân hàng phát triển nhanh chóng, không
những cho phép các TCTD tăng cường quản lý vốn khả dụng mà còn tạo ra
các điều kiện cần thiết cho ngân hàng trung ương thực hiện kiểm soát tiền tệ
gián tiếp thông qua nghiệp vụ thị trường mở. Có thể nói, nghiệp vụ thị trường
mở trở thành một kênh quan trọng trong việc điều chỉnh tiền cơ sở. Đến năm
1999, lượng tiền cơ sở tăng lên thông qua nghiệp vụ thị trường mở đã chiếm
tới 52% trong tổng nguồn tiền cơ sở tăng thêm. Nói cách khác, nghiệp vụ thị
trường mở đã trở thành công cụ chính sách chủ chốt.
Cửa sổ định hướng
Ngoài các công cụ CSTT đã đề cập ở trên, “cửa sổ định hướng” cũng
đóng một vai trò quan trọng trong việc thực thi CSTT. Cùng với việc bãi bỏ
hạn mức tín dụng đối với các NHTMQD vào năm 1998, “cửa sổ định
hướng’’ trở thành một công cụ quan trọng để chuyển tải các mục tiêu của
CSTT, mặc dù “cửa sổ định hướng’’ chỉ đơn thuần là một công cụ mang tính
chất gợi ý và hướng dẫn, nó không tác động trực tiếp đến tiền sơ sở hay số
nhân tiền tệ. Tuy nhiên, hoạt động tiền tệ trong những năm gần đây đã thực
sự làm thay đổi nội dung của “cửa sổ định hướng’’. Trước hết, chính sách tín
dụng trở thành cơ sở quan trọng và là đối tượng của “cửa sổ định hướng’’.
Thứ hai, khối lượng và tốc độ cấp tín dụng trở thành mục tiêu quan trọng của
“cửa sổ định hướng’’. Tuy vậy, NHTW vẫn phải học cách để sử dụng “cửa
sổ định hướng’’ một cách cân bằng, để một mặt, có thể phát huy đầy đủ vai
trò của công cụ này và mặt khác, không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình
thường của các NHTM.
3). Các giai đoạn phát triển tiền tệ
Kể từ năm 1979, Trung Quốc đã trải qua bốn giai đoạn phát triển kinh
tế vĩ mô chủ yếu. Việc tổng kết sự phát triển tiền tệ trong bốn giai đoạn này
sẽ cho thấy sự thống nhất giữa CSTT và sự phát triển trong khu vực tài chính,
cũng như những thách thức mà PBC phải đối mặt.
- Giai đoạn thứ nhất (1979-1982): Động cơ chính của tăng trưởng
kinh tế trong giai đoạn thứ nhất là cải cách nông nghiệp, làm tăng đáng kể thu
nhập ở nông thôn và tăng đầu tư trong nước. Tiền rộng (broad money) tăng
gần 25% trong năm 1979 và năm 1980, trong khi đó, tỷ lệ lạm phát/năm lên
tới 20%. Năm 1981, kiểm soát giá cả, kiểm soát tín dụng trực tiếp và chính
sách thương mại được thắt chặt để thiết lập lại trật tự.
- Giai đoạn thứ hai (1984 - đầu năm 1986): Giai đoạn thứ hai được bắt
đầu cùng với sự ra đời của hệ thống giá cả hai cấp, trao quyền tự chủ cho các
doanh nghiệp trong việc xác định tiền lương, tự do hoá ngoại thương và thiết
lập hệ thống ngân hàng hai cấp. Tuy nhiên, chi cho đầu tư và tiền lương tăng
đã dẫn đến sự quá nóng của nền kinh tế. Tín dụng mở rộng từ mức tăng
70
trưởng 9%/ năm trong năm 1984 lên tới 76% trong quý 4 của năm đó. Lạm
phát đạt tới 17% vào đầu năm 1985. Phản ứng chủ yếu của PBC đối với tình
trạng quá nóng về tiền tệ là việc bắt buộc tuân thủ nghiêm ngặt các hạn mức
tín dụng trong năm 1985. Các biện pháp bổ sung bao gồm tăng lãi suất và
phá giá đồng Nhân dân tệ.
- Giai đoạn thứ ba (giữa năm 1986-cuối năm 1989): Giai đoạn thứ ba
được bắt đầu cùng với những quan ngại về sự sụt giảm tăng trưởng kinh tế do
thực hiện các chính sách thắt chặt trong năm 1985. Vào năm 1986, chính
sách tín dụng được nới lỏng. Ngân hàng được tự do hơn trong việc đưa ra
mức lãi suất. Thêm vào đó, thị trường liên ngân hàng khu vực xuất hiện. Sự
kết hợp các biện pháp và những đổi mới này đã kích thích tăng trưởng tiền
rộng và tín dụng trong nước lên tới trên 30%.
Sau khi lạm phát “leo thang” tới 25%/năm, các biện pháp mạnh mẽ
nhằm thắt chặt chính sách tín dụng, cùng với các biện pháp về kinh tế khác,
đã được áp dụng. Hạn mức tín dụng lại trở nên phổ biến, tỷ lệ dự trữ tăng tới
13%, tín dụng của PBC được thắt chặt, các biện pháp tự do hoá lãi suất được
gác lại, lãi suất tăng lên, đồng Nhân dân tệ bị phá giá tới 21%. Yêu cầu về dự
trữ bắt buộc vượt trong năm 1989 có tác dụng hấp thụ phần lớn dự trữ vượt
của các ngân hàng. Các biện pháp bổ sung được đề ra vào năm 1988 nhằm
củng cố sự kiểm soát của trụ sở chính PBC đối với các hoạt động tín dụng
của các chi nhánh như: đặt ra yêu cầu là việc chỉ định các giám đốc chi nhánh
phải được sự phê chuẩn của trụ sở chính của PBC, và đảm bảo rằng tín dụng
ngắn hạn của PBC cho các tổ chức tài chính phải được hoàn lại khi đến hạn.
Kết quả của các biện pháp này là tốc độ tăng trưởng tiền rộng giảm, lạm phát
cũng bắt đầu giảm, làm cho lãi suất thực lại dương.
- Giai đoạn thứ tư (từ năm 1992 - Đến nay): Vào cuối năm 1991, quá
trình cải cách trong nước, cũng như việc mở cửa nền kinh tế, lại được tiếp
tục, bao gồm cải cách giá, cải cách các DNNN, và mở rộng các đặc khu kinh
tế. Cũng như trong các chu kỳ trước đó, những cải cách này đã kích thích sự
bùng nổ đầu tư. Khi các cải cách tài chính và kinh tế đã sâu rộng hơn, thị
trường tiền tệ và thị trường vốn cùng phát triển, làm cho việc chuyển tải
CSTT đơn thuần thông qua kiểm soát tín dụng của các NHTMQD trở nên
kém hiệu quả. Trong khi tiền rộng trở thành thước đo tổng cung nguồn vốn
tốt hơn tổng tín dụng thì tiền hẹp (narrow money) cũng thể hiện nhiều ưu
điểm hơn trong việc cho vay vốn lưu động, cũng như để đánh giá vốn khả
dụng của các doanh nghiệp. Việc loại bỏ hạn mức tín dụng cũng phù hợp với
yêu cầu tự chủ về quản lý của các NHTMQD. Bắt đầu từ năm 1994, PBC sử
dụng cung tiền như là mục tiêu trung gian thay vì tổng tín dụng. Trong khi
đó, PBC tiếp tục thử nghiệm và tăng cường sử dụng các công cụ kiểm soát
tiền tệ gián tiếp như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất, tái chiết khấu và nghiệp vụ
thị trường mở.
Tốc độ tăng trưởng tiền rộng dao động xung quanh mức 30% trong
năm 1992. Lạm phát bắt đầu tăng trong quý 3 năm 1992 và đạt 20% cuối
71
năm 1993. Các biện pháp nhằm thắt chặt tín dụng được thực hiện trong mùa
hè năm 1993 như một phần của Chương trình 16 điểm. Những biện pháp này
bao gồm tăng lãi suất và thắt chặt tín dụng của PBC cho các ngân hàng, cũng
như thu hồi các khoản tín dụng quá hạn của PBC, thu hồi các khoản tín dụng
bất hợp pháp được thực hiện thông qua thị trường liên ngân hàng của các
ngân hàng và các TICs, thực hiện các biện pháp để củng cố sự kiểm soát của
ngân hàng trung ương đối với các hoạt động trên thị trường liên ngân hàng.
Trong năm 1994, các CSTT và tín dụng cũng được thắt chặt một cách
đáng kể. Tuy vậy, tiền rộng vẫn tăng nhanh chóng (34%/năm vào cuối tháng
9/1994). Tăng trưởng tín dụng trong nước cũng tăng mạnh từ 20% năm 1993
lên khoảng 27% trong năm 1994. Mức tăng trưởng cao này phản ánh việc
tăng tín dụng nhiều của PBC cho khu vực công cộng vào cuối năm 1993 và
tăng tài sản ngoại tệ ròng của PBC trong năm 1994.
Trong năm 1998, sau bốn năm ’’hạ cánh an toàn’’, nền kinh tế Trung
Quốc phải đối mặt với tình trạng suy thoái do giảm sút tổng cầu và giá cả. Vì
vậy, PBC áp dụng CSTT hướng vào mục tiêu tăng tổng cầu, kích thích tăng
trưởng kinh tế, chuyển từ khắc phục lạm phát sang ngăn ngừa thiểu phát.
Hàng loạt các chính sách và biện pháp cải cách đã được thực hiện như cắt
giảm lãi suất, bãi bỏ hạn mức tín dụng đối với các NHTMQD, hoàn thiện hệ
thống dự trữ bắt buộc, và tăng cường sử dụng nghiệp vụ thị trường mở nhằm
tăng tiền cơ sở và tín dụng ngân hàng. Kết quả là, cung tiền và cung tín dụng
đều tăng lên phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế.
Trong năm 1999, ngân hàng trung ương tăng tiền cơ sở bằng cách sử
dụng nhiều công cụ chính sách. Đồng thời, PBC tiếp tục củng cố thị trường
tiền tệ, và tăng quy mô hoạt động thị trường mở, làm cho hoạt động thị
trường mở trở thành công cụ chủ chốt để tăng cung tiền cơ sở, thể hiện một
bước tiến xa hơn trong việc chuyển sang kiểm soát tiền tệ gián tiếp. Theo
đánh giá của PBC, trong năm 1999, Trung quốc đã hoàn thành quá trình
chuyển các công cụ CSTT từ trực tiếp sang gián tiếp.
2.2.3. Kinh nghiệm về cải cách hệ thống tỷ giá hối đoái
1). Mục tiêu cải cách tỷ giá hối đoái
Tuỳ theo từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế mà Trung Quốc
đưa ra những mục tiêu cải cách tỷ giá hối đoái khác nhau. Trong những năm
cuối thập kỷ 70, mục tiêu chỉ là đưa tỷ giá đồng Nhân dân tệ (NDT) về sát
với tỷ giá thực. Từ giữa thập kỷ 80, cùng với những tiến triển của cải cách,
những mục tiêu rõ ràng hơn đã được định hình. Tỷ giá hối đoái lần đầu tiên
được coi như một đòn bẩy kinh tế, được sử dụng để đẩy mạnh xuất khẩu,
trong dự thảo kế hoạch 5 năm lần thứ 7 (1986-1990). Sau đó, trong dự thảo
kế hoạch 5 năm lần thứ 8 (1991-1995) có nêu rõ ’’Cơ chế hình thành tỷ giá
cần được cải cách để thiết lập một chế độ tỷ giá hối đoái có điều chỉnh hợp lý
và linh hoạt dưới sự quản lý của Nhà nước”. Tháng 11/1993, Trung Quốc
72
quyết định cải cách chế độ quản lý ngoại hối bằng việc thiết lập một chế độ tỷ
giá hối đoái thả nổi thống nhất có sự quản lý dựa trên cung cầu thị trường và
tiến tới biến đồng NDT trở thành đồng tiền có khả năng chuyển đổi ’’. Có thể
nói, mục tiêu của cải cách tỷ giá hối đoái ở Trung Quốc là làm tăng vai trò
của các lực lượng thị trường trong chính sách tỷ giá và qua đó thiết lập một
mức tỷ giá sát thực, biến tỷ giá thành một đòn bẩy kinh tế hữu hiệu.
2). Quá trình cải cách
Vào đầu những năm 1980, Trung Quốc thực hiện chính sách tỷ giá cố
định gắn đồng NDT với đồng Đô la Mỹ, giá trị danh nghĩa của đồng NDT
luôn cao hơn giá trị thực của nó. Các giao dịch ngoại hối thường dựa vào một
kế hoạch ngoại hối - kế hoạch này được chuẩn bị bởi các bộ ngành khác
nhau. Ngân hàng Trung Quốc (BOC) chịu trách nhiệm về việc thực hiện kế
hoạch này. Chính sách tỷ giá và cách thức quản lý ngoại hối trên đã làm cho
xuất khẩu giảm sức cạnh tranh, nền kinh tế bị mất cân đối nghiêm trọng, nợ
nước ngoài tăng mạnh, trong khi dự trữ ngoại tệ gần như cạn kiệt và lạm phát
lên cao đến đỉnh điểm. Để đẩy mạnh xuất khẩu, nhằm đưa đất nước thoát
khỏi khủng hoảng, bên cạnh việc tiến hành các biện pháp cải cách kinh tế,
Trung Quốc thực hiện cải cách hệ thống tỷ giá hối đoái theo nhiều bước và
theo các giai đoạn sau đây:
- Giai đoạn 1 (1979-1984): Trước năm 1979, chế độ thương mại và
ngoại hối của Trung Quốc phải tuân thủ theo những kiểm soát hành chính và
kế hoạch hoá tập trung. Vào đầu năm 1981, bên cạnh tỷ giá chính thức, tỷ giá
thanh toán nội bộ được đưa ra (internal settlement rate). Đây là mức tỷ giá để
các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động ngoại thương thực hiện việc mua
ngoại tệ ở BOC. Vào cuối năm 1981, tỷ giá chính thức là 1,74 NDT/USD,
trong khi đó, tỷ giá thanh toán nội bộ là 2,8 NDT/USD. Tỷ giá chính thức
được sử dụng cho các giao dịch phi thương mại.
Vào ngày 1/1/1981, hệ thống giao dịch thử nghiệm được thành lập bởi
BOC ở một số thành phố (Bắc Kinh, Quảng Châu, Thượng Hải, Hefei, Thiên
Tân). Các doanh nghiệp trong nước cho phép giữ lại ngoại tệ dưới dạng hạn
ngạch sử dụng (retention quotas) hoặc qua đó bán ngoại tệ này cho các doanh
nghiệp khác có quyền mua ngoại tệ. BOC hoạt động như một nhà môi giới
cho những giao dịch trên và lấy phí hoa hồng từ 0,1%-0,3%.
Các điều chỉnh tỷ giá (phần lớn là phá giá) dẫn đến kết quả là tỷ giá
chính thức ngang bằng với tỷ giá nội bộ vào cuối năm 1984 và cuối cùng làm
vô hiệu hoá tỷ giá này.
- Giai đoạn 2 (1985-1993): Đầu năm 1985, ngừng hoàn toàn việc giao
dịch tỷ giá hối đoái nội bộ và tất cả các giao dịch được thực hiện theo tỷ giá
hối đoái chính thức, và toàn bộ các giao dịch được thực hiện theo tỷ giá chính
thức do Cơ quan Quản lý Nhà nước về kiểm soát ngoại hối công bố. Từ đầu
năm 1986, chế độ tỷ giá của Trung Quốc chuyển từ gắn cố định với một
73
ngoại tệ sang gắn cố định với một ’’rổ’’ tiền tệ, rồi chuyển thành chế độ tỷ
giá thả nổi có quản lý.
Vào tháng 11/1986, các doanh nghiệp Trung Quốc và các công ty có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại bốn đặc khu kinh tế (SEZs) ở Sơn Đầu,
Thẩm Quyến, Hạ Môn và Chu Hải được phép giao dịch ngoại tệ tại các
Trung tâm Điều phối ngoại tệ (Foreign Exchange Adjustment Centers-
FEACs) theo tỷ giá thoả thuận giữa người mua và người bán (tỷ giá này
thường bị giảm giá so với tỷ giá chính thức, ví dụ, tại Thẩm Quyến, tỷ giá bị
giảm giá từ 5,5 NDT/USD xuống còn khoảng 6 NDT/USD trong năm 1987).
Vào đầu năm 1988, tất cả các đơn vị được phép giữ lại ngoại tệ cũng tham
gia giao dịch tại các trung tâm. Vào tháng 10/1988, 80 trung tâm hoán đổi
ngoại hối (swap centers) được thành lập. Khởi đầu, khối lượng giao dịch trên
các trung tâm này rất nhỏ, sau đó, các trung tâm này phát triển rất nhanh,
doanh thu tăng 30-40% mỗi năm trong vòng 5 năm liền tính đến năm 1992.
Tuy nhiên, mức tăng trưởng chậm lại vào năm 1993. Tỷ giá hoán đổi ngoại
hối dao động từ 7-8 NDT/USD trong 6 tháng đầu năm 1993, vào ngày
1/6/1993, tỷ giá hoán đổi bị giảm giá xuống còn khoảng 10,5 NDT/USD (tỷ
giá này sát với tỷ giá trên thị trường chợ đen) ở hầu hết các trung tâm giao
dịch. Ngày 5/7/1993, PBC can thiệp vào các thị trường hoán đổi ngoại hối,
trong vòng một tuần, đồng NDT lên giá từ 10,7 NDT/USD lên 8,5
NDT/USD.
Trong khi đó, tỷ giá hối đoái chính thức của đồng NDT tương đối ổn
định. Từ 5/7/1986 đến 15/12/1989, tỷ giá hối đoái chính thức không thay đổi
và đứng ở mức 3,72 NDT/USD, sau đó đồng NDT giảm giá 21,2%. Vào cuối
năm 1989, tỷ giá đồng NDT/USD là 4,72.
- Giai đoạn 3 (1994-1997): Vào tháng 3/1993, Hội đồng Nhà nước
quyết định rằng chức năng Quản lý Nhà nước về quản lý ngoại hối (SAEC)
trực thuộc PBC. Nhờ vậy, giảm bớt những chức năng và những biện pháp
chồng chéo liên quan đến các vấn đề ngoại hối. Mối quan ngại chính của các
cơ quan tiền tệ Trung Quốc là sự khác biệt về tỷ giá tại các trung tâm hoán
đổi ngoại hối và tình trạng lợi dụng chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ
giá tại các trung tâm để kiếm lời. Để giải quyết vấn đề này, cần hợp nhất các
thị trường khu vực vào một thị trường ngoại hối quốc gia. Cùng với sự hợp
nhất này, sự chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá hoán đổi ngoại hối
giảm xuống, và các tỷ giá cần thống nhất trong vòng 5 năm. Sau khi thống
nhất các tỷ giá, PBC đưa ra một mục tiêu trung tâm hoặc tỷ giá hối đoái tham
chiếu. SAEC có thể can thiệp, khi cần thiết, nhằm giữ cho tỷ giá hối đoái thị
trường nằm trong biên độ định trước trong mối tương quan với tỷ giá hối đoái
tham chiếu. Việc hợp nhất các thị trường khu vực là cần thiết để đạt được hai
mục tiêu. Thứ nhất, luồng lưu chuyển và phân bổ các quỹ ngoại tệ giữa các
khu vực sẽ được thúc đẩy thông qua cơ chế thị trường. Thứ hai, để các cơ
quan tiền tệ có thể can thiệp một cách hiệu quả vào các thị trường ngoại hối,
cần có một tỷ giá hối đoái chung trên thị trường, bởi vì rất khó can thiệp khi
74
tỷ giá tại các trung tâm hoán đổi là khác nhau. Để đạt được sự hợp nhất các
thị trường, tất cả các thị trường hoán đổi ngoại hối khu vực liên kết vào một
trung tâm chung, đặt tại Thượng Hải. Cơ quan điều hành thị trường chung
này là Hệ thống Giao dịch Ngoại hối Trung Quốc (CFETS). Sự hợp nhất các
thị trường khu vực được thực hiện theo ba giai đoạn. Giai đoạn một, 18 trung
tâm hoán đổi ngoại tệ đã sử dụng hệ thống giao dịch điện tử cần gắn kết với
trung tâm Thượng Hải vào tháng 6/1994. Những trung tâm này chiếm
khoảng 70% tổng các giao dịch trên các thị trường hoán đổi. Giai đoạn hai,
thêm 18 trung tâm nữa được gắn kết với Thượng Hải vào cuối năm 1994.
Giai đoạn ba, thêm 34 trung tâm nữa được gắn kết với Thượng Hải, đưa tổng
số trung tâm lên 70, chiếm 95% các giao dịch, đồng thời tạo ra một thị trường
ngoại hối quốc gia thống nhất.
- Giai đoạn 4 (từ 1997- đến nay): Các doanh nghiệp trong nước mua
và bán ngoại tệ thông qua các tổ chức tài chính được phép. Các ngân hàng
mua và bán ngoại tệ theo tỷ giá tham chiếu của ngày hôm trước với biên độ
dao động tối đa là +/- 0,25%. Trên thực tế, còn sự phân biệt đối xử giữa các
doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
(FFEs) về phí giao dịch, giai đoạn thanh toán, và về các quy định. Cụ thể là,
các doanh nghiệp trong nước phải trả 0,25% chênh lệch cho việc mua ngoại
tệ từ các ngân hàng, trong khi các FEEs chỉ phải trả 0,15% phí cho các giao
dịch của mình thông qua Hệ thống Giao dịch Ngoại hối (CFETS). Giai đoạn
thanh toán cũng khác nhau đối với doanh nghiệp trong nước và FFEs. Các
giao dịch của các doanh nghiệp trong nước được thực hiện thông qua thị
trường bán lẻ, việc thanh toán được thực hiện vào cùng ngày, trong khi các
giao dịch của FFEs thanh toán vào ngày hôm sau thông qua CFETS. Trên thị
trường ngoại hối Trung Quốc, các quy định khác nhau được áp dụng cho các
ngân hàng trong nước và các ngân hàng nước ngoài. Các ngân hàng trong
nước có thể mua và bán ngoại tệ cho khách hàng của mình, nhưng các ngân
hàng nước ngoài chỉ có thể bán ngoại tệ lấy NDT trên thị trường CFETS. Tuy
nhiên, giới hạn này không áp dụng đối với những giao dịch của ngân hàng
nước ngoài thực hiện thay mặt FEEs. Các ngân hàng nước ngoài không được
phép hoạt động trên thị trường tiền tệ trong nước.
Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBC) cam kết duy trì một tỷ giá ổn
định trên thị trường ngoại hối thông qua việc can thiệp vào Hệ thống Giao
dịch Ngoại hối.
2.2.4. Kinh nghiệm về thiết lập hệ thống giám sát tài chính hiện đại
PBC đang nghiên cứu các biện pháp nhằm thiết lập hệ thống giám sát
hiện đại kể từ khi tiến hành chương trình cải cách trật tự tài chính vào năm
1993. Thứ nhất, thông qua sự phát triển cơ sở pháp lý tài chính, PBC đã xây
dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho việc giám sát tài chính. Sau khi
công bố bốn luật tài chính bao gồm Luật Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc,
Luật các Ngân hàng Thương mại Trung quốc, Luật Công cụ thanh toán
75
Trung Quốc và Luật Bảo hiểm Trung Quốc năm 1995, PBC đã công bố hơn
200 quy định và điều khoản về giám sát tài chính nhằm cung cấp cơ sở pháp
lý cho giám sát tài chính cũng như duy trì trật tự tài chính và phòng tránh rủi
ro tài chính. Thứ hai, PBC nỗ lực tăng cường hệ thống tổ chức giám sát tài
chính. PBC đã chuyển giao nhiệm vụ điều tiết các khu vực bảo hiểm và
chứng khoán cho Uỷ ban Chính sách Chứng khoán và Uỷ ban Chính sách
Bảo hiểm nhằm đặt các tổ chức tài chính dưới sự giám sát của các cơ quan
thẩm quyền liên quan. Thứ ba, các biện pháp giám sát tài chính đã được cải
cách thông qua việc tổ chức lại các vụ thanh tra tại trụ sở chính của PBC để
áp dụng các tiêu chuẩn giám sát đối với các tổ chức tài chính trong nước và
nước ngoài. Mỗi vụ thanh tra chịu trách nhiệm về một loại tổ chức tài chính
từ tham gia thị trường, hoạt động đến khi rời khỏi thị trường. Các tài khoản
vãng lai trong nước và nước ngoài, các hoạt động kinh doanh trên bảng cân
đối và ngoại bảng, các hoạt động kinh doanh trong nước và nước ngoài được
củng cố nhằm mục đích điều tiết.
Năm 1997, các rủi ro tài chính tiềm ẩn trong khu vực tài chính Trung
Quốc bắt đầu xuất hiện và thu hút sự chú ý của công chúng và các cơ quan có
thẩm quyền. Trước tình hình này, PBC đặt trọng tâm vào vấn đề phòng tránh
rủi ro tài chính và tích luỹ được một số kinh nghiệm về giám sát và phòng
tránh rủi ro tài chính. PBC đặc biệt chú trọng những mặt sau:
Củng cố cơ sở pháp lý tài chính và hiệu lực thực thi
Củng cố các tiêu chuẩn tham gia thị trường
Tham gia thị trường khi cần thiết
Phòng tránh rủi ro bằng các cải cách toàn diện
Cảnh báo và kiểm soát kịp thời các rủi ro tài chính
Tăng cường vai trò chủ động của chính quyền địa phương trong việc
phòng tránh rủi ro tài chính
Đưa ra các biện pháp hành chính cần thiết để hỗ trợ các biện pháp thị
trường
Chú ý các rủi ro tiềm ẩn trong khi xử lý các rủi ro nhằm giảm thiểu chi
phí xử lý rủi ro
Đóng cửa các tổ chức tài chính bất hợp pháp và tăng cường hiệu lực
thực thi các quy định
Những nhiệm vụ quan trọng nhằm tăng cường giám sát
Trung Quốc đã đạt được những tiến bộ quan trọng trong việc hoàn
thiện khuôn khổ pháp lý, cơ sở thể chế và cơ chế giám sát tài chính qua nhiều
năm nghiên cứu và cải cách. Gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giơí (WTO)
sẽ đặt khu vực tài chính Trung Quốc trước những thách thức mới. Vì vậy,
Trung Quốc cần thúc đẩy tiến độ cải cách các NHTMQD, tăng cường sự phát
triển lành mạnh của các tổ chức tài chính vừa và nhỏ, và hoàn thiện khuôn
76
khổ pháp lý cho giám sát tài chính. Bên cạnh đó, cần nỗ lực hơn nữa trong
đào tạo chuyên môn và các chuyên gia ngân hàng nhằm tăng vị thế cạnh
tranh trên trường quốc tế của khu vực tài chính Trung Quốc và đối phó được
những thách thức khi gia nhập WTO. Muốn vậy, PBC cần thực thi những
nhiệm vụ sau đây nhằm tăng cường giám sát tài chính:
Tăng cường tính công khai và hiệu lực giám sát
PBC xây dựng các chính sách giám sát tài chính theo Luật Ngân hàng
Thương mại Trung Quốc để xác định rõ ràng phạm vi giám sát. Đồng thời,
PBC sẽ xem xét quá trình triển khai hệ thống giám sát, đưa ra các hình thức
kỷ luật đối với những nhân viên không hoàn thành nhiệm vụ và thay thế các
nhân viên không đảm bảo chất lượng công việc. Hơn nữa, tiêu chuẩn trình độ
chuyên môn đối với 4 cấp giám sát viên sẽ được kiểm tra. PBC tăng cường
tính hiệu lực của luật và các quy định, phát hiện và công bố các trường hợp vi
phạm điển hình. Các tổ chức trung gian sẽ đóng vai trò quan trọng hơn trong
kiểm toán độc lập và giám sát các tổ chức tài chính.
Tăng cường các nguyên tắc thanh toán và củng cố trật tự tài chính
Hệ thống ngân hàng chủ yếu sẽ được mở rộng và hoàn thiện dần dần
để mỗi doanh nghiệp có một tài khoản cơ sở. Hệ thống đăng ký tín dụng sẽ
được áp dụng giúp các doanh nghiệp không phải mở nhiều tài khoản, nhằm
tránh nghĩa vụ thanh toán nợ và chi phí giám sát, cũng như phí dịch vụ. Bên
cạnh đó, PBC cũng tiến hành cải cách các công cụ thanh toán và khuyến
khích sử dụng hối phiếu ngân hàng, và thanh toán tín dụng. Đồng thời, PBC
tăng cường giám sát thanh toán và áp dụng các hình thức phạt khi chậm
thanh toán và khi có các hoạt động vi phạm nguyên tắc thanh toán khác.
Tăng cường giám sát các NHTMQD
Thành lập các Hội đồng Giám sát ở 4 NHTMQD theo các quy định
liên quan nhằm quản lý các hoạt động kinh doanh và các điều kiện tài chính
của các ngân hàng, cũng như đánh giá hiệu quả của Hội đồng Quản trị. PBC
phát triển hệ thống giám sát hoạt động và hoàn thiện các tiêu chuẩn giám sát
công khai và minh bạch. Bên cạnh đó, PBC tiến hành phân tích hàng quý về
tài sản nợ - tài sản có nội tệ và ngoại tệ, các hoạt động kinh doanh trong bảng
cân đối và ngoại bảng, cũng như tài sản nợ - tài sản có trong nước và nước
ngoài. Đồng thời, PBC cũng kiểm tra điều kiện tài chính của các NHTMQD
và đánh giá việc tuân thủ các yêu cầu dự phòng rủi ro tín dụng, xử lý lãi cho
vay và lãi vay. Các NHTMQD được yêu cầu khẩn trương trình kế hoạch triển
khai để giảm tỷ lệ những khoản cho vay không hiệu quả (NPLs) và nâng cao
hiệu quả hoạt động. Việc kiểm tra tại chỗ hoạt động kinh doanh ngoại hối của
các ngân hàng thương mại được tiến hành nhằm làm giảm các khoản cho vay
không hiệu quả bằng ngoại tệ và giảm rủi ro ngoại hối. Hơn nữa, kiểm tra tại
chỗ sẽ đánh giá được chất lượng khoản vay và quản lý tín dụng sau khi
chuyển giao các NPLs, và những đánh giá các tiêu chuẩn kiểm soát việc hình
thành các khoản cho vay không hiệu quả mới sẽ được công bố. Hiệp hội
77
Ngân hàng sẽ được thành lập để tăng cường tính kỷ luật của các ngân hàng
thương mại.
Tăng cường giám sát các NHTMCP
Giám sát chặt chẽ NHTMCP trên cơ sở Luật các Ngân hàng Thương
mại Trung Quốc và các Nguyên tắc an toàn vốn. Phải tăng cường quản trị các
NHTMCP và chuẩn hoá các hành vi của chủ tịch hội đồng quản trị và các cổ
đông. Việc cho các cổ đông vay phải được kiểm soát chặt chẽ, và các khoản
dự phòng rủi ro, cũng như xoá các khoản cho vay không hiệu quả phải được
tiến hành theo các nguyên tắc an toàn. PBC sẽ phối hợp với các chính quyền
địa phương tiến hành các biện pháp để giải quyết những rủi ro của các ngân
hàng thương mại thành phố.
Củng cố các hợp tác xã tín dụng nông thôn và thành phố trên cơ sở phân loại các tổ chức này
Các hợp tác xã tín dụng thành phố được phép phát triển và được
khuyến khích sáp nhập với các tổ chức khác theo các nguyên tắc của các
ngân hàng thương mại. Những hợp tác xã tín dụng thành phố cấp quận hoạt
động tốt có thể đổi tên thành các hợp tác xã tín dụng nông thôn hoặc sát nhập
với hợp tác xã nông thôn, và được quản lý bởi các hiệp hội hợp tác xã tín
dụng. Các hợp tác xã tín dụng thành phố không có khả năng trả nợ sẽ bị đóng
cửa. Các hợp tác xã có thể cứu vãn và tiếp tục phát triển sẽ được hỗ trợ, còn
các hợp tác xã không có hy vọng làm ăn có lãi sẽ được các hợp tác xã mạnh
hơn mua lại. Đồng thời, các quỹ hợp tác xã nông thôn sẽ được tăng cường.
Các điều kiện và thủ tục sát nhập các quỹ hợp tác xã vào các hợp tác xã tín
dụng nông thôn phải được phân loại để tránh việc chuyển giao các rủi ro.
Củng cố các công ty uỷ thác và đầu tư (TICs) và tăng cường giám sát các tổ chức tài chính phi ngân hàng
Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc sẽ hoàn thành thẩm tra tài sản có và
đánh giá vốn của các TICs. Các chương trình tái cơ cấu TICs bao gồm giải
thể và sáp nhập các tổ chức sẽ được công bố, và việc thực hiện tái cơ cấu
được đánh giá. Các Quy định Dự phòng đối với các Công ty Tài chính được
chỉnh sửa nhằm phân định lại chức năng của các công ty tài chính như là các
nhà cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp. Các công ty tài chính này không
được phép tham gia vào hoạt động kinh doanh ngân hàng thương mại.
Đóng cửa các tổ chức tài chính bị phá sản
PBC sẽ đóng cửa các tổ chức tài chính không có khả năng trả nợ, hoặc
vi phạm luật và các quy định một cách nghiêm trọng. Những tổ chức này đã
mất hy vọng phục hồi, hoặc để xảy ra tình trạng rút tiền gửi ồ ạt.
78
2.3. KINH NGHIỆM CỦA HÀN QUỐC
2.3.1. Kinh nghiệm về thực thi CSTK
Với tốc độ tăng trưởng vào khoảng 8% năm giai đoạn 1960 đến 2000
nền kinh tế Hàn Quốc được coi là một trong những nền kinh tế có tốc độ tăng
trưởng kinh tế nhanh nhất thế giới. Mặc dù Hàn Quốc đã phải trải qua nhiều
khó khăn như chia rẽ đất nước, nền kinh tế bị tàn phá sau chiến tranh, song
nhờ các sử dụng các CSTC và CSTT phù hợp nên Hàn Quốc đã thành công
trong phát triển kinh tế.
Những yếu tố chủ chốt mang lại tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong
giai đoạn này là tăng cường đầu tư vốn để phát triển kinh tế.
Để phát huy tác động tích cực của nhân tố này đối với tăng trưởng
kinh tế, Chính phủ Hàn Quốc đã tích cực sử dụng CSTK, coi đó là đòn bẩy
tích cực thúc đẩy đầu tư cho tăng trưởng kinh tế.
Trong giai đoạn này, để đạt tốc độ tăng trưởng cao cần phải tăng
nhanh tỷ trọng vốn đầu tư xã hội cho phát triển kinh tế. Muốn vậy, vấn đề
quan trọng đầu tiên là phải đẩy mạnh tiết kiệm nội địa, coi việc tăng nhanh tỷ
lệ tiết kiệm nội địa là một nhân tố quan trọng tạo tiền đề thay đổi cơ cấu huy
động nguồn lực cho ĐTPT. Vì vậy, trong thực tiễn tỷ lệ tiết kiệm nội địa ở
Hàn Quốc đã tăng khá nhanh: 22,5%GDP thời kỳ 1971-1980 lên 32,6%GDP
1991-2000. Tỷ lệ đầu tư cũng tương ứng là 28,6%GDP và 34,8%GDP.
Chính nhờ mức đầu tư cao mà yếư tố vốn được coi là yếu tố quan
trọng nhất góp phần tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1980-2000
Bảng 7 - Mức độ đóng góp của các yếu tố đầu vào cho tăng trưởng kinh tế
Tốc độ tăng
GDP
Tăng năng suất
lao động Vốn Lao động
1987-1996 8,38 1,72
(20,5%)
3,62
(43,2%)
3,05
(36,4%)
Như vậy, trong giai đoạn 1980-2000, vốn vẫn được coi là nhân tố quan
trọng đóng góp nhiều nhất vào tăng trưởng kinh tế Hàn Quốc 43,2%. Vì thể
các biện pháp tăng cường huy động vốn được đặc biệt coi trọng
Việc huy động vốn, trước hết được đặt trọng tâm vào hệ thống ngân
hàng. Do dựa vào hệ thống ngân hàng, trong đó có các ngân hàng phát triển,
cùng với các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô đã cho phép Hàn Quốc thành
công trong việc huy động các nguồn lực trong nước, phân phối chúng tới
những khu vực kinh doanh có triển vọng. Thành công trong việc huy động
vốn thông qua hệ thống ngân hàng ở Hàn Quốc được thể hiện qua tỷ lệ
M2/GDP và chỉ số độ sâu tài chính M2/M1.
79
Bảng 8 - Tỷ lệ M2/GDP và chỉ số độ sâu tài chính (M2/M1) ở Hàn Quốc
Đơn vị: %
Giai đoạn 1971-1980 1981-1990 1991-2000
M2/GDP 34,6 35,7 45,0
M2/M1 284,8 383,9 465,7
Nguồn: Kinh tế tài chính thế giới 1970-2000. Hà Nội 2000. tr. 253, 257
Do chủ động khai thác nguồn vốn đầu tư trong nước nên nguồn vốn
nước ngoài ít được Hàn Quốc chú trọng. Điều này thể hiện rõ thông qua chỉ
tiêu đầu tư trực tiếp nước ngoài chỉ chiếm khoảng 1,3% tổng đầu tư toàn xã
hội trong giai đoạn 1966-1970 và 1,1% trong giai đoạn 1971-1980.
Tuy nhiên, mặc dù ít coi trọng vốn FDI, nhưng Hàn Quốc lại dựa
nhiều vào viện trợ và vay nợ nước ngoài trong giai đoạn đầu của quá trình
phát triển. Mặc dù tổng nợ của chính phủ so với GDP không cao, nhưng nợ
nước ngoài trong tổng nợ của chính phủ ở Hàn Quốc trong giai đoạn đầu của
quá trình phát triển cũng khá lớn .
Bảng 9 - Nợ Chính phủ của Hàn Quốc qua các giai đoạn
Đơn vị: %GDP
1971-1980 1981-1990 1991-2000
Tổng Nợ CP/GDP 14,0 12,0 10,4
Nợ nước ngoài/tổng nợ CP 72,51 51,58 20,65
Nguồn: Kinh tế tài chính thế giới 1970-2000. Hà Nội 2000. tr. 221, 225
Tuy nhiên, cơ cấu tài chính này chỉ phát huy tác dụng mạnh mẽ trong
giai đoạn đầu - trong thời kỳ công nghiệp hoá. Trong giai đoạn phát triển sau
- thời kỳ hậu công nghiệp hoá (từ những năm 1990), sự cứng nhắc của cơ cấu
tài chính dựa nhiều vào hệ thống ngân hàng và cũng như việc định hướng
phân bổ các nguồn lực tài chính của chính phủ đã làm giảm hiệu quả phân bổ
các nguồn lực tài chính. Bởi vậy, mặc dù tiết kiệm và đầu tư của các nước
này, tuy vẫn được giữ ở mức cao, nhưng tốc độ tăng trưởng đã giảm xuống.
Cùng với việc giảm hiệu quả phân bổ và sử dụng các nguồn lực tài
chính trong giai đoạn hậu công nghiệp ở Hàn Quốc, sự bất ổn định kinh tế ở
các nước này đã xảy ra. Mặc dù hệ thống ngân hàng vẫn giữ được hiệu quả
trong việc huy động các nguồn lực tài chính, nhưng do việc phân bổ chúng
không hiệu quả nên quy mô các khoản nợ khó đòi của các ngân hàng tại Hàn
Quốc ngày càng tăng và dẫn đến các nguy cơ về khủng hoảng nợ.
Tại Hàn Quốc, việc sử dụng hệ thống ngân hàng để tập trung phân bổ
các nguồn lực tài chính cho các Chaebol cũng đã tạo nên những nguy cơ đổ
vỡ trong thập kỷ 1990, khi hiệu quả sử dụng vốn của các Chaebol giảm
xuống (lợi nhuận giảm). Tỷ lệ nợ/vốn cổ phần của nhiều Chaebol đã lên đến
mức trên 300% vào năm 1995 và trên 500% vào năm 1997, và khi xảy ra
80
cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, nhiều Chaebol đã lâm vào tình trạng
mất khả năng thanh toán.
2.3.2. Kinh nghiệm về thực thi CSTT
1). Mục tiêu của CSTT
Mục tiêu hàng đầu:
NHTW Hàn Quốc (Bank of Korea – BOK) được thành lập từ năm
1950 theo Luật Ngân hàng Trung ương. Cũng giống như NHTW ở các nước
phát triển, BOK đã xác định mục tiêu cuối cùng của CSTT gắn chặt với các
mục tiêu về kinh tế vĩ mô như ổn định giá cả, kiểm soát lạm phát, tăng trưởng
kinh tế, tạo công ăn việc làm, ổn định TTTC v.v, trong đó hai mục tiêu hàng
đầu được coi là:
Mục tiêu của CSTT ở Hàn Quốc được BOK thực thi là:
- Ổn định giá cả.
- Ổn định tài chính
Là một nước đã từng chịu ảnh hưởng nặng nề từ cuộc khủng hoảng tài
chính, tiền tệ, chính phủ Hàn Quốc nhận thức sâu sắc hơn bao giờ hết là phát
triển và ổn định tài chính là tiền đề cho tăng trưởng kinh tế bền vững.
Có thể nói, trong vòng 50 năm qua, các chính sách của BOK khá hiệu
quả và góp phần thúc đẩy quá trình phát triển với tốc độ tăng trưởng cao của
nền kinh tế Hàn Quốc.
Mục tiêu trung gian:
Ban đầu, hệ thống khung cho các hoạt động CSTT của Hàn Quốc bắt
đầu được hình thành từ năm 1957 với sự ra đời của Chương trình ổn định tài
chính được sửa đổi năm 1963. Tiếp đó, tháng 3 năm 1965, Hàn Quốc đã ký
kết thỏa thuận tín dụng với IMF nhằm ổn định sự biến động thất thường của
cán cân thanh toán. Kể từ năm 1979, sau khi đã cải thiện được cán cân thanh
toán, Hàn Quốc đã chuyển sang thực hiện điều hành CSTT theo cơ chế “chỉ
tiêu tiền tệ” (monetary targeting). Tuy nhiên, hiệu quả trong việc áp dụng các
chỉ tiêu tiền tệ không cao đã khiến Hàn Quốc bắt đầu cân nhắc việc áp dụng
một cơ chế thay thế là cơ chế chỉ tiêu lạm phát (inflation targeting). Đây là cơ
chế được đa số các nước phát triển trên thế giới thực hiện.
Kể từ năm 1998 đến nay, chỉ tiêu lạm phát đã chính thức được áp dụng
cùng với việc ban hành Luật Ngân hàng trung ương ngày 1/4/1998, theo đó,
với tư cách là một cơ quan chịu trách nhiệm hoạch định và thực thi CSTT
một cách độc lập với Chính phủ Hàn quốc. Luật Ngân hàng Trung ương có
hiệu lực từ năm 1998 cũng khẳng định ổn định giá cả là nhiệm vụ trọng tâm
hàng đầu. Để thực hiện được mục tiêu này, BOK cần định ra mức lạm phát
mục tiêu hàng năm và phải tập trung mọi nỗ lực để đạt được mức mục tiêu
81
này. Mức mục tiêu hàng năm sẽ có sự tham vấn của Chính phủ Hàn Quốc và
thực hiện theo khuyến nghị về nguyên tắc hoạt động tiền tệ của IMF.
Mục tiêu hoạt động:
NHTW Hàn Quốc không tác động trực tiếp đến các mục tiêu trung
gian mà thông qua các công cụ CSTT để tác động vào mục tiêu hoạt động,
qua đó đạt mục tiêu trung gian và cuối cùng là đạt mục tiêu của CSTT.
Cơ chế hoạt động của hệ thống chỉ tiêu lạm phát ở Hàn Quốc là một hệ
thống gồm 3 yếu tố: chỉ số chỉ tiêu, mức chỉ tiêu cụ thể và thời hạn đạt chỉ
tiêu.
- Chỉ số chỉ tiêu: mỗi ngân hàng trung ương lựa chọn một chỉ số làm
chỉ số chỉ tiêu. Giai đoạn đầu, tốc độ tăng CPI được lấy làm chỉ số chỉ tiêu
song kể từ năm 2000, BOK đã thay chỉ tiêu này bằng lạm phát cơ bản.
- Mức chỉ tiêu cụ thể được xác định bằng phương pháp định ra một
con số cụ thể và con số này phải có tính khả thi, dựa vào các dự báo về giá cả
trên cơ sở đánh giá thực trạng nền kinh tế, TTTC trong nước cũng như bối
cảnh kinh tế quốc tế. Giai đoạn đầu, chỉ tiêu lạm phát do BOK đặt ra là 9 ±
1%, năm 1999 là 3 ± 1%, trong những năm gần đây là 3 ± 1%. Biên độ dao
động 1% được đặt ra do nền kinh tế luôn có những biến động rất đa dạng.
Thực tế thực hiện đã cho thấy mức chỉ tiêu đề ra và mức thực tế có sai lệch
không cao.
- Thời hạn đạt chỉ tiêu là một khoảng thời gian nhất định. Ban đầu thời
hạn quy định là một năm những do đặc thù của CSTT có độ trễ nên thời hạn
thực hiện một năm gặp nhiều khó khăn trên thực tế. Kể từ năm 2000 BOK đã
đề ra chỉ tiêu trung hạn, theo đó BOK sẽ đạt mục tiêu lạm phát cơ bản là
2,5%. Mức 2,5% không cứng nhắc mà có thể thay đổi tuỳ theo những biến
động trong cơ cấu kinh tế và các điều kiện tác động từ bên ngoài.
2). Cơ chế vận hành CSTT
Cũng như các NHTW khác trên thế giới, các công cụ CSTT của BOK
bao gồm: nghiệp vụ thị trường mở, chính sách cho vay và chính sách dự trữ
bắt buộc.
Để thực hiện được chỉ tiêu lạm phát đặt ra, BOK đã chọn lãi suất qua
đêm làm chỉ tiêu hoạt động, tuỳ theo bối cảnh của nền kinh tế, BOK sẽ điều
chỉnh mức lãi suất qua đêm liên ngân hàng.
Cơ chế chuyển tải tác động của lãi suất tới nền kinh tế thực được thông
qua ba bước:
- Lãi suất qua đêm liên ngân hàng sẽ tác động tới lãi suất ngắn hạn.
- Lãi suất ngắn hạn tiếp tục tác động tới lãi suất dài hạn.
- Lãi suất dài hạn sẽ tác động tới nền kinh tế thực.
82
Để giữ mức lãi suất qua đêm liên ngân hàng ở mức cần thiết, các công
cụ được sử dụng là các nghiệp vụ thị trường mở bao gồm các giao dịch mua
đứt bán đoạn hoặc các giao dịch mua lại (repo). Các giao dịch mua đứt bán
đoạn được thực hiện nhằm giải quyết các vấn đề về thanh khoản mang tính
cơ cấu, còn các giao dịch mua lại được thực hiện nhằm giải quyết vấn đề
thanh khoản mang tính thời vụ.
Công cụ dự trữ bắt buộc được áp dụng với tỷ lệ 1-5%, thời hạn tính
mức dự trữ bắt buộc là 2 tuần và thời hạn giữ có độ trễ một tuần.
Chính sách cho vay bao gồm chính sách cho vay đối với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, chính sách cho vay nhằm hỗ trợ về thanh khỏan cho các
công ty tài chính.
3). CSTT của Hàn Quốc qua các giai đoạn
Giai đoạn khủng hoảng tài chính, tiền tệ (1997-1998)
Ngay sau khi xảy ra khủng hoảng, BOK đã tập trung vào chính sách
bình ổn tỷ giá. Lãi suất được áp dụng trong các nghiệp vụ thị trường mở là
35%, các mức lãi suất chủ chốt trên thị trường tăng liên tục tới mức 30-40%.
Đây là những mức lãi suất cao chưa từng có trong lịch sử của Hàn Quốc.
Theo dự kiến, lãi suất cao sẽ ổn định tỷ giá thông qua hai kênh: (i) chấm dứt
việc chảy máu luồng ngoại tệ ra nước ngoài và thu hút vốn nước ngoài đổ
vào trong nước, góp phần cải thiện tài khoản vốn và bình ổn tỷ giá hối đoái
và (ii) lãi suất cao sẽ buộc các doanh nghiệp phải thực hiện cải cách cơ cấu
dẫn tới giảm nhu cầu nhập khẩu, đặc biệt là cầu đầu tư cho máy móc thiết bị.
Nhập khẩu giảm sẽ cải thiện cán cân vãng lai cũng dẫn tới bình ổn tỷ giá.
Nhờ có chính sách tăng lãi suất khá mạnh bạo nói trên, đồng Won đã tăng giá
mạnh vào cuối tháng 3 năm 1998, đạt mức 1300 Won/USD so với mức 1965
Won/USD hồi cuối tháng 12 năm 1997 và mức 1600-1700 Won/USD trong
tháng 1 và tháng 2 năm 1998.
Tỷ giá hối đoái đã được bình ổn song mức lãi suất cao lỷ lục lại đưa
tới sụt giảm kinh doanh trong toàn bộ nền kinh tế. Hiện tượng phổ biến sau
cuộc khủng hoảng tiền tệ là thắt chặt tín dụng quá mức6. Vốn phụ thuộc quá
cao vào vay ngân hàng, việc thắt chặt tín dụng quá mức của các ngân hàng
sau khủng hoảng đã khiến nhiều doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
Sau khi tỷ giá hối đoái đã được bình ổn, hạ lãi suất là một động thái cần thiết
nhằm khuyến khích các hoạt động sản xuất và kinh doanh cũng như nới lỏng
tín dụng ở khu vực ngân hàng. Thông qua các nghiệp vụ thị trường mở, BOK
đã kéo lãi suất thị trường xuống cũng với một tốc độ nhanh chóng. Từ mức
28% tháng 1 năm 1998, lãi suất đã hạ xuống chỉ còn 10,7% vào tháng 7,
thậm chí đây là mức thấp hơn ở mức lãi suất ngay trước khi xảy ra khủng
hoảng. Vào khoảng tháng 10 năm 1998, các mức lãi suất chủ chốt trên thị
trường đã giảm xuống mức một con số. Ngoài công cụ lãi suất, để khuyến
khích hoạt động cho vay của các ngân hàng, mức trần tổng tín dụng đã tăng
từ 3,6 ngàn tỷ Won lên 4,6 ngàn tỷ Won vào tháng 3 và tới mức 6,6 ngàn tỷ
83
Won vào tháng 9 trong khi lãi suất đối với các khoản này cũng đã giảm từ
mức 5% xuống còn 3%.
Các chính sách nhằm ổn định TTTC cũng được thực hiện song song
và bổ trợ với các CSTT. Những tổ chức tài chính phi ngân hàng và các ngân
hàng thương mại thua lỗ đã buộc phải rời khỏi thị trường, đồng thời các quỹ
công đã được bơm tiền nhằm giải quyết các khoản nợ xấu. Những khoản tiền
khổng lồ cùng với các bước cải cách khá kiên quyết đã mang lại những kết
quả tích cực, hệ thống ngân hàng của Hàn Quốc đã được cải cách với một tốc
độ khá nhanh.
Giai đoạn phục hồi kinh tế và mất ổn định trên TTTC (1/1999 đến 2/2000)
Những biện pháp thực hiện trong giai đoạn sau khủng hoảng đã từng
bước mang lại hiệu quả. Kể từ tháng 2 năm 1999, cho vay của khu vực ngân
hàng đã bắt đầu xu hướng gia tăng, các chỉ số của nền kinh tế thực như sản
lượng công nghiệp, tiêu dùng và xuất khẩu cũng tăng lên. BOK đã duy trì
chính sách lãi suất thấp cho đến tháng 5, sau đó, do nền kinh tế bắt đầu có
một số dấu hiệu phát triển quá nóng về ngắn hạn (cuối tháng 4 năm 1999, chỉ
số chứng khoán KOSPI đã tăng tới 753 điểm, tăng 78% so cùng kỳ năm
trước) quá trình cắt giảm lãi suất đã được chấm dứt và lãi suất được giữ ở
mức 4,75%.
Tháng 7 năm 1999, một lần nữa TTTC của Hàn Quốc lại rơi vào tình
trạng khó khăn do kế hoạch tái cơ cấu của tập đoàn Daewoo Group và một số
công ty thành viên đã tạo ra một lượng cung lớn trái phiếu trên thị trường.
Với tâm lý e ngại sau cuộc khủng hoảng tiền tệ năm 1997-1998, nhu cầu rút
tiền khỏi các công ty đầu tư tín thác đã đột ngột tăng vọt trong khi nhu cầu
mua trái phiếu giảm đã khiến lãi suất dài hạn tăng mạnh. TTTP suy giảm đã
kéo lùi quá trình hồi phục của khu vực kinh tế thực. Nhằm khôi phục lại
TTTP, mục tiêu của CSTT lúc này của BOK là ổn định thị trường, bao gồm
bốn nhiệm vụ:
- Cung cấp thanh khoản theo nhu cầu của thị trường trong khi vẫn giữ
lãi suất chính sách ổn định.
- Thành lập Quỹ ổn định TTTP với mục tiêu mua trái phiếu kích cầu
trên thị trường này.
- Thực hiện chương trình tái cơ cấu nợ một cách nhanh chóng cho tập
đoàn Daewoo.
- Những biện pháp trên đã bình ổn lãi suất lãi suất dài hạn.
Tuy nhiên khoảng cách giữa lãi suất dài hạn và lãi suất ngắn hạn vẫn
còn lớn, tăng từ mức 2-3 điểm % lên mức 6 điểm % trong nửa đầu năm 1999
tạo nên sức ép lạm phát trong tương lai cũng như làm giảm cơ chế tác động
của CSTT đối với TTTC cũng như làm yếu đi vai trò chủ đạo của lãi suất
chính sách. Nhằm thu hẹp khoảng cách, BOK phải tiêp tục tăng lãi suất chính
84
sách. Ngày 10 tháng 2, BOK quyết định tăng lãi suất lên mức 5% thu hẹp
khoảng cách giữa lãi suất ngắn hạn và dài hạn còn 4 điểm %.
Giai đoạn phục hồi kinh tế và khủng hoảng khả năng thanh khoản của các công ty lớn (từ tháng 3 đến 12/2000)
Sau khi đã bình ổn TTTC, các CSTT của BOK lại tập trung vào những
chỉ số kinh tế vĩ mô như giá cả, tốc độ tăng trưởng GDP và cán cân thanh
toán. Vào nửa cuối năm 1999, khu vực kinh tế thực đã có được tốc độ phục
hồi nhanh chóng, tốc độ tăng GDP đạt 10,9% trong năm 1999 và 12,6% quý
I năm 2000, giá cả ổn định song thặng dư cán cân vãng lai đã bắt đầu giảm.
Sau tháng 6, giá cả bắt đầu tăng, trong vòng 5 tháng đầu năm 2000, lạm phát
giá tiêu dùng tăng 0,4% so cuối năm 2004. Đây là điều khó tránh khỏi do cầu
tăng cao trong bối cảnh kinh tế phục hồi. Nhằm giảm sức ép lạm phát, BOK
đã điều chỉnh tăng lãi suất lên mức 5,25% vào 5/10/2000.
Đồng thời TTTP công ty cũng bắt đầu xuất hiện vấn đề do đây là thời
điểm đáo hạn các trái phiếu công ty đã được phát hành từ năm 1997, đồng
thời việc các ngân hàng hạn chế cấp tín dụng sau khi các công ty lớn gặp khó
khăn về tài chính cũng gây nên nguy cơ phá sản của nhiều doanh nghiệp. Nếu
như năm 1998 tình trạng đóng băng tín dụng xuất hiện trong khu vực ngân
hàng thì nay là trên thị trường vốn. Một lần nữa BOK phải thực hiện các biện
pháp trọn gói hồi tháng 6 năm 2000 thông qua việc thành lập quỹ mua lại các
trái phiếu công ty và phát hành trái phiếu nghĩa vụ cầm cố (collateralized
Bond Obligations), chính phủ đồng thời cũng có chương trình tái cơ cấu ngày
5 tháng 9 năm 2000 buộc các doanh nghiệp mất khả năng thanh toán phải ra
khỏi thị trường.
Bảng 10 - So sánh hai chương trình tái cơ cấu năm 1998 và năm 2000
Năm 1998 2000
Hoạt động kinh doanh Suy giảm Hồi phục
Lãi suất Cao Thấp
Bản chất Cho vay của các ngân hàng Trái phiếu doanh nghiệp
Đối tượng gặp khó khăn Các doanh nghiệp vừa và nhỏ Các công ty lớn
Mức độ thực hiện điều
chỉnh cơ cấu
Giai đoạn khởi đầu Giai đoạn nâng cao
Các yếu tố gây nên
khủng hoảng
Rủi ro tín dụng của các công ty
Cần đảm bảo thanh khoản cần
thiết cho các tổ chức tài chính
Rủi ro tín dụng của một số
tập đoàn lớn
Cần đảm bảo thanh khoản
cần thiết cho các tổ chức tài
chính
Trong thời gian tiếp theo, mặc dù họat động kinh doanh đã tăng trưởng
tương đối nhanh song BOK vẫn tiếp tục duy trì chính sách lãi suất thấp nhằm
cung cấp thanh khoản cho TTTP, đặc biệt là TTTP công ty.
85
Như vậy, mặc dù đã xảy ra một số bất ổn trên TTTC song lãi suất dài
hạn vẫn ổn định và khoảng cách giữa lãi suất ngắn hạn và dài hạn đã được
thu hẹp đảm bảo chuyển tải được tác động của CSTT tới nền kinh tế.
Giai đoạn suy giảm kinh tế (từ tháng 1 đến 11/2002)
Bắt đầu từ đầu năm 2001, bối cảnh thực hiện các CSTT của Hàn Quốc
bắt đầu thay đổi. Trong bối cảnh FED hạ lãi suất các ngân hàng chủ chốt trên
thế giới cũng đã tiến hành hạ lãi suất nhằm hạn chế suy giảm kinh tế. BOK
cũng đi theo xu hướng này, lãi suất qua đêm hạ xuống mức còn 5% khi nền
kinh tế Hàn Quốc bắt đầu có dấu hiệu suy giảm (tốc độ tăng trưởng của sản
xuất công nghiệp chậm lại). Mặc dù FED liên tục cắt giảm lãi suất với tốc độ
nhanh chóng song BOK vẫn giữ nguyên mức lãi suất 5% do giá cả có xu
hướng tăng với tốc độ cao do tác động của giá dầu tăng, tăng giá các dịch vụ
công và đồng Won mất giá. Cho tới tháng 7 và 8 năm 2001, BOK mới tiếp
tục giảm lãi suất trong hai tháng liên tiếp với mức giảm mỗi lần là 25 điểm
%. Trần tín dụng cũng được hạ xuống mức 2,5% nhằm khuyến khích các
ngân hàng cung cấp các khoản vay cũng như làm giảm nhẹ gánh nặng chi phí
nợ cho các doanh nghiệp. Có thể thấy mặc dù lạm phát có xu hướng gia tăng
song BOK vẫn tiếp tục CSTT nới lỏng do lạm phát giai đoạn này là do cầu
kéo, giá dầu tăng song nền kinh tế lại đang rơi vào giai đoạn trầm lắng. Chính
vì vậy, lãi suất được giữ ở mức 4% cho tới tháng 4 năm 2000. Việc duy trì
mức lãi suất thấp đã góp phần khuyến khích đầu tư và xuất khẩu và nền kinh
tế đã phục hổi nhờ tiêu dùng và đầu tư XDCB.
Phải đến tháng 5 sau khi cầu trong nước đã được ổn định, xuất khẩu đã
phục hồi và áp lực lạm phát từ phía cầu bắt đầu gia tăng trong lúc bối cảnh
quốc tế tăng giá dầu và bất động sản, BOK mới lại bắt đầu thực hiện tăng lãi
suất từ mức 4% lên mức 4,25% và giữ ở mức này cho tới tháng 11.
Giai đoạn từ năm 2002 đến nay
Hiện nay, CSTT của BOK nhằm cải thiện khu vực kinh tế thực và ổn
định giá cả. Với sức ép lạm phát tự nhiên vốn có của giai đoạn phục hồi kinh
tế, BOK đã bắt đầu điều chỉnh tăng lãi suất qua đêm theo ba bước thực hiện
trong tháng 10, tháng 12 năm 2005 và tháng 2 năm 2006. Với mỗi lần tăng
25 điểm cơ bản, mức lãi suất qua đêm trong vòng nửa năm đã tăng từ mức
3,25% lên 4%. Lãi suất đối với các khoản vay điều chỉnh thanh khoản
(Liquidity Adjustment Loans) cũng tăng với biên độ như vậy. Tuy nhiên,
nhiệm vụ tạo cơ hội kinh doanh cho khu vực doanh nghiệp nên chính sách lãi
suất vẫn tính tới các đối tượng này, cụ thể là đối với các doanh nghiệp vừa và
nhỏ đang gặp khó khăn trong kinh doanh thì lãi suất trần đối với các khoản
tín dụng chỉ tăng một lần trong tháng 1 năm 2006, hiện ở mức 2,25%. Động
thái điều chỉnh lãi suất là nhằm từng bước xóa bỏ các tác động có thể xảy ra
sau thời kỳ lãi suất thấp cũng như giảm các áp lực tới giá các loại tài sản, việc
tập trung vốn của các tổ chức tài chính vào cuối các kỳ hạn ngắn cũng như
86
giảm áp lực tăng giá khi nền kinh tế Hàn Quốc bắt đầu vào giai đoạn phục
hồi tăng trưởng.
2.3.3. Kinh nghiệm về giám sát TTTC
1). Thực trạng phát triển TTTC
Trong giai đoạn hiện nay tăng trưởng tiềm năng GDP của Hàn Quốc
bắt đầu chậm lại.
Bảng 11 - Tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2002-2006
2002 2003 2004 2005 2006
7,0 3,1 4,8 4,7 4,5
Nguồn: Khảo sát tại Hàn Quốc, tháng 6 năm 2006
Nguyên nhân tăng trưởng chậm lại chủ yếu do tăng trưởng của vốn bị
chậm lại. Vì vậy, cần phải chuyển dịch huy động vốn thông qua TTTC. Điều
đó xuất phát bởi những lý do sau:
- Quy mô của khu vực tài chính công không thể mở rộng nhanh chóng
trong một thời gian ngắn bằng nguồn nội lực. Sự gia tăng của khu vực tài
chính công còn phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế nói chung và năng lực,
kinh nghiệm quản lý nền kinh tế thị trường, trong đó có quản lý thuế nói
riêng. Kinh nghiệm Hàn Quốc cho thấy, khi nền kinh tế thị trường mới đang
trong giai đoạn đầu của sự hình thành và phát triển, khả năng kiểm soát việc
thu thuế (đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân) của các chính phủ là không cao.
Do vậy, quy mô của khu vực tài chính công khó có thể nâng cao hơn 25%
GDP. Hơn nữa, do thu nhập còn thấp, nguồn thu từ thuế thu nhập cá nhân
chưa thể tăng mạnh. Đây cũng là lý do khiến chính phủ nhiều nước chưa coi
việc thực hiện công bằng xã hội là nhiệm vụ chủ đạo của khu vực tài chính
công như ở các nước phát triển. Khu vực tài chính công chưa thể gánh vác tốt
nhiệm vụ này. Tuy nhiên, khả năng này sẽ dần tăng lên cùng với những nỗ
lực trong việc cải cách quản lý thuế, cũng như cùng với sự phát triển của nền
kinh tế thị trường nói chung.
- Sự phát triển của khu vực TTTC sẽ nâng cao hiệu quả phân bổ và sử
dụng các nguồn lực tài chính thông qua cạnh tranh và động cơ lợi nhuận để
phục vụ các mục tiêu kinh tế.
Để phát triển khu vực TTTC, chính sách của Chính phủ cần phải tiến
tới mục tiêu là đạt được tính trung lập đối với các chủ thể trên TTTC.
Tính trung lập sẽ tăng cường vai trò tự điều tiết của cơ chế thị trường
đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu tài chính. Thông qua cạnh tranh lành
mạnh, các kênh huy động, phân bổ và các đơn vị sử dụng vốn với hiệu quả
cao sẽ tồn tại, từ đó tạo nên một cơ cấu tài chính mới hợp lý của khu vực
TTTC, có thể phát huy hết tiềm năng của khu vực TTTC. Để các chính sách
của Chính phủ đạt được tính trung lập, cần phải giảm bớt các can thiệp trực
87
tiếp của Chính phủ như nới lỏng các hạn chế về lĩnh vực kinh doanh đối với
một số các tổ chức tài chính, giảm điều tiết lãi suất, giảm tín dụng bắt buộc...
Chính sách của chính phủ cần tập trung vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng pháp
lý (các thể chế tài chính) để đảm bảo cho các hợp đồng tài chính được ký kết
và thực thi với chi phí thấp, từ đó khuyến khích các chủ thể tham gia tích cực
vào TTTC trên tinh thần cộng tác với nhau để mở rộng các hoạt động tín
dụng (vay và cho vay).
Với vai trò quan trọng và tính chất phức tạp của mình, TTTC đòi hỏi
phải có một cơ chế điều hành và giám sát thị trường hiệu quả và nhất quán.
Theo quan điểm của tài chính hiện đại, sự phát triển của TTTC phụ thuộc rất
nhiều vào vai trò của Chính phủ. Kinh nghiệm ở các nước chuyển đổi đã cho
thấy, những chính sách không hợp lý và thiếu nhất quán lại trở thành rào cản
cho sự phát triển này. Việc dựa vào thị trường nợ trong nước của Chính phủ
để tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách – một hiện tượng thường xảy ra
ở các nước kinh tế chuyển đổi đã gián tiếp dẫn tới việc thu hẹp thị trường của
khu vực tư nhân, nó mang nặng tính chất kiềm chế cạnh tranh và sự phát triển
của thị trường cũng như làm giảm tính hiệu quả trong hoạt động của thị
trường. Xét về dài hạn, những chính sách này tác động rất tiêu cực tới các nhà
đầu tư cũng những người đi vay trên thị trường. Chính vì vậy, có một chiến
lược phù hợp đối với TTTC là một nhiệm vụ quan trọng được đặt ra. Chính
phủ cần có định hướng rõ ràng về quy mô, cơ chế hoạt động của thị trường
phù hợp với mục tiêu huy động vốn trung và dài hạn cho sự nghiệp phát triển
của đất nước. Từ đó, dễ tạo nguồn lực cho công cuộc bảo đảm sự phát triển
bền vững và công bằng, bình đẳng, tăng cường xóa đói giảm nghèo.
2). Sự cần thiết phải thống nhất hệ thống giám sát tài chính
Thống nhất giám sát tài chính đã và đang là xu thế của các nền kinh tế
phát triển nói chung và ở Hàn Quốc nói riêng. Hiện nay, hệ thống giám sát tài
chính của Hàn Quốc đang thực hiện những bước cải cách theo hướng thống
nhất mọi khâu giám sát tài chính vào một cơ quan duy nhất.
Sự cần thiết phải thống nhất hệ thống giám sát tài chính xuất phát từ
nhu cầu cấp bách đối với Hàn Quốc để đối phó với các yếu tố:
(i) cuộc khủng hoảng tài chính,
(ii) sự phát triển và lớn mạnh của khu vực dịch vụ tài chính và
(iii) sự hòa nhập lẫn nhau giữa các khu vực tài chính.
Cuộc khủng hoảng tài chính vào cuối năm 1997 đã làm bộc lộ những
yếu kém của khu vực tài chính trên nhiều phương diện, đặc biệt là trong công
tác giám sát.. Điều đó đã đặt ra yêu cầu cấp bách về sự cần thiết phải thiết lập
một hệ thống giám sát tài chính thống nhất. Trong giai đoạn phục hồi và tăng
trưởng kinh tế như hiện nay, ngăn ngừa các cuộc khủng hoảng là một trong
những nhiệm vụ được ưu tiên. Do đó, thống nhất hệ thống giám sát tài chính
là một giải pháp hữu hiệu. Một cơ quan giám sát duy nhất ra đời với các chức
88
năng giám sát đầy đủ sẽ đảm bảo được hai yêu cầu chủ chốt là: Điều tiết
được hệ thống tài chính một cách lành mạnh; và quá trình giám sát các lĩnh
vực khác nhau sẽ được thực hiện một cách công bằng.
Sự lớn mạnh và phát triển của các dịch vụ tài chính cũng đặt ra nhu
cầu phải củng cố hệ thống giám sát tài chính. Các dịch vụ tài chính ngày càng
đa dạng do các tập đoàn tài chính cũng ngày càng lớn mạnh và mở rộng
phạm vi hoạt động. Chính vì vậy, ranh giới phân biệt giữa các khu vực tài
chính ngày càng trở nên mờ nhạt hơn khiến việc phân tách công tác giám sát
theo từng khu vực trở nên không còn phù hợp, chồng chéo và đôi lúc lại
không bao quát hết các lĩnh vực cũng như các vấn đề.
Việc hợp nhất các cơ quan giám sát tài chính cho phép tận dụng ưu thế
về quy mô kinh tế, thúc đẩy sự đồng nhất của các TTTC, qua đó làm tăng
cường mức độ hiệu quả của TTTC, củng cố tính minh bạch của các doanh
nghiệp. Việc hợp nhất giám sát tài chính cũng sẽ tăng cường tính đồng bộ và
thống nhất khi áp dụng các chính sách cho các lĩnh vực và các đối tượng khác
nhau, tăng cường trách nhiệm trong hoạt động của cơ quan giám sát tài chính,
qua đó nâng cao hiệu quả giám sát tài chính, thúc đẩy quá trình cải cách của
khu vực tài chính và doanh nghiệp cũng như đảm bảo sự hoạt động thông
suốt của TTTC như một kênh cấp vốn cho toàn bộ nền kinh tế.
3). Quá trình thực hiện thống nhất giám sát tài chính
Quá trình hợp nhất giám sát tài chính được thực hiện trên hai phương
diện là (i) hợp nhất các cơ quan thực hiện giám sát về tổ chức và (ii) hợp nhất
các văn bản pháp quy có liên quan tới giám sát và điều tiết khu vực tài chính.
1. Hợp nhất các cơ quan giám sát tài chính
Tháng 1 năm 1999, bốn cơ quan giám sát tài chính đã được hợp nhất
thành Ủy ban giám sát tài chính/Dịch vụ giám sát tài chính.
So sánh cấu trúc của hệ thống giám sát tài chính trong hai thời kỳ
chúng ta có thể thấy có sự khác biệt như sau:
Ở giai đoạn trước, Bộ Tài chính và kinh tế (MOFE) là cơ quan điều
tiết toàn bộ TTTC trong khi Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc (BOK) điều
tiết khu vực ngân hàng.
Giai đoạn từ tháng 1 năm 1999 đến nay, Ủy ban giám sát tài chính
(FSC) và cơ quan dịch vụ giám sát tài chính (FSS) chịu trách nhiệm cấp phép
hoặc rút giấy phép cũng như giám sát toàn bộ hoạt động của các tổ chức tài
chính. MOFE chịu trách nhiệm hoạch định chính sách chung và các luật (có
tư vấn trước với FSC); Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc (BOK) chịu trách
nhiệm hoạch định chính sách.
89
Sơ đồ 4 - Hệ thống giám sát tài chính trước ngày
1/4/1998
Sơ đồ 5 - Hệ thống giám sát tài chính trước sau tháng 1/1999
Sau khi thực hiện thống nhất hệ thống giám sát tài chính thì FSC/FSS
trở thành cơ quan điều tiết duy nhất toàn bộ khu vực tài chính.
Cơ cấu tổ chức của hệ thống giám sát hiện nay bao gồm Ủy ban giám
sát tài chính (FSC), Ủy ban Chứng khoán và các giao dịch tương lai (SFC) và
Cơ quan dịch vụ giám sát tài chính (FSS).
(i) FSC
Mục tiêu hoạt động của FSC/FSS bao gồm:
NHTW
(BOK) Văn phòng giám sát ngân hàng
Bộ Tài chính và Kinh tế
(MOFE)
UBCK Hội đồng
Giám sát
Chứng
khoán
Ủy ban
Giám sát
Bảo hiểm
Tập đoàn
bảo hiểm
tiền gửi phi
ngân hàng
Các
ngân
hàng
Các
công ty
chứng
khoán
Các
công ty
bảo
hiểm
Các
TCTC
phi
Ngân hàng
Ủy ban giám sát tài chính
KFC
Bộ Tài chính và Kinh tế
MOFE
Dịch vụ giám sát
FSS
Mọi thể chế giám sát
90
- Duy trì sự hội nhập của các TTTC Hàn Quốc
- Đảm bảo sự công bằng trong các giao dịch tài chính.
- Bảo về quyền và quyền lợi của các nhà đầu tư và người tiêu dùng.
Chức năng của FSC:
- Đánh giá, định hướng và đưa ra các giải pháp về những vấn đề điều
tiết tài chính.
- Cấp hoặc rút giấy phép tài chính.
- Hướng dẫn và giám sát FSS.
(ii) SFC
Là cơ quan trực thuộc FSC và giám sát các TTCK và thị trường tương
lai ở nước ngoài với các chức năng:
Điều tra các giao dịch không lành mạnh.
Xem xét các chuẩn mực kế toán và kiểm toán.
Lập kế hoạch và xem xét các vấn đề trình lên FSC.
(iii) FSS
Là cơ quan thực thi của FSC và SFC với các chức năng chủ chốt là:
- Giám sát, kiểm tra, điều tra quá trình cưỡng chế đối với các công ty
tài chính.
- Giải quyết các vấn đề do FSC chỉ định.
- Trọng tài đối với các tranh chấp giữa các công ty tài chính và các
khách hàng.
Về cơ cấu tổ chức
FSS bao gồm 28 vụ và 4 văn phòng khu vực, 4 văn phòng ở nước
ngoài, số nhân viên là 1650 trong 5 lĩnh vực cụ thể như sau:
- Giám sát và trách nhiệm (11 vụ)
- Kiểm tra (9 vụ)
- Điều tra và Cưỡng chế (2 vụ)
- Bảo vệ người tiêu dùng (1 vụ)
- Tổng hợp và Hỗ trợ giám sát (7 vụ)
2. Hợp nhất các văn bản pháp quy về giám sát tài chính
Hệ thống văn bản pháp quy về giám sát tài chính cũng đã thực hiện.
Gần đây Hàn Quốc đã ban hành Luật Quản lý kinh doanh tài sản đầu tư gián
tiếp và Luật về các Tập đoàn. Tuy nhiên, đa số các luật vẫn chỉ đề cập tới
từng lĩnh vực có liên quan. Tuy nhiên một số biện pháp nhằm tăng cường đối
xử với các lĩnh vực khác nhau cũng đã được thực hiện.
91
Bảng 12 – Phân định lĩnh vực giám sát tài chính ở Hàn Quốc
Tổ chức Luật giám sát Cơ quan giám sát
Các ngân hàng Luật Ngân hàng chung FSC/FSS
Các công ty chứng khoán Luật giao dịch chứng khoán FSC/FSS
Các công ty bảo hiểm Luật Bảo hiểm FSC/FSS
Các công ty quản lý tài sản Luật Quản lý kinh doanh tài sản đầu tư
gián tiếp
FSC/FSS
Định hướng trong thời gian tới, tất cả các tổ chức nói trên sẽ chịu sự
quản lý của luật tài chính duy nhất (theo mô hình của Mỹ).
Tuy nhiên, quá trình hợp nhất giám sát tài chính cũng còn gặp nhiều
khó khăn như vấn đề về phối hợp giữa cơ quan giám sát tài chính với ngân
hàng trung ương nhằm tạo ra sự đồng nhất với CSTT. Bên cạnh đó, thực hiện
quá trình chuyển đổi sang cơ chế thống nhất cũng đòi hỏi có nhiều nỗ lực
trong quá trình thực hiện nhằm đạt hiệu quả tối đa, đồng thời có tính tới các
yếu tố về nhân sự và hành chính.
92
Phần 2. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHÍNH
SÁCH TÀI CHÍNH, TIỀN TỆ CỦA
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001-2005
93
Chương 1. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TÀI
KHÓA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001-2005
1.1. THỰC TRẠNG QUY MÔ, CƠ CẤU THU NSNN GIAI ĐOẠN
2001-2005
1.1.1. Đánh giá kết quả chuyển dịch quy mô và cơ cấu thu NSNN giai
đoạn 2001-2005
Phân tích tình hình thực hiện quy mô và cơ cấu thu NSNN trong giai
đoạn 2001-2005 có thể đưa ra những đánh giá và nhận xét như sau:
1). Quy mô thu ngân sách nhà nước tăng nhanh với tốc độ tăng thu cao.
Giai đoạn 2001-2005 tổng thu NSNN đạt 799.241 tỷ đồng, tăng 8,81
lần so với năm 2000, với tốc độ tăng thu khá cao. Năm 2001 tăng 14,48% so
với năm 2001, các sau tăng lần lượt là: năm 2002 – 19,22%; năm 2003 –
14,82%; năm 2004 – 34,26% và năm 2005 là 19,57%. Tốc độ tăng bình quân
trong 5 năm đạt 20,46%, mức tăng cao nhất trong 15 năm qua.
Bảng 13 – Thu ngân sách nhà nước giai đoạn 2001-2005
Đơn vị: tỷ đồng
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2001
2005
Thu NSNN 103888 123860 142210 190929 228287 799241
Tỷ lệ tăng (%) 14.48 19.22 14.82 34.26 19.57 20.46
Nguồn: www.gso.gov.vn và www.mof.gov.vn
Đặc biệt trong 2 năm (2004-2005) tốc độ tăng thu NSNN cao gấp đôi
những năm trước đó. Do quy mô thu NSNN ngày càng lớn và có tốc độ tăng
trưởng nhanh nên thu NSNN đã đảm bảo nguồn lực tài chính to lớn cho các
mục tiêu phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001-2005.
Trong những năm 2006-2008 số thu NSNN tiếp tục tăng cao. Cụ thể:
- Tổng thu NSNN năm 2006 ước đạt 264.260 tỷ đồng, vượt 11,1%
(26.360 tỷ đồng) so dự toán năm, tăng 21,7% so với thực hiện năm 2005.
- Tổng thu NSNN năm 2007 ước đạt 287.900 tỷ đồng, vượt 2,1%
(6.000 tỷ đồng) so với dự toán, tăng 11,6% so với thực hiện năm 2006.
- Dự toán thu NSNN năm 2008 là 323.000 tỷ đồng, tăng 12,2% so với
thực hiện năm 2007; Ước thực hiện cả năm là 399.000 tỷ đồng, vượt 23,5%
(76.000 tỷ đồng) so dự toán, tăng 26,3% so với thực hiện năm 2007.
Như vậy, quy mô thu NSNN năm 2005 cao gấp 2,2 lần so với năm
2001, ước thực hiện quy mô thu năm 2008 cao gấp 3,8 lần so với năm 2001,
trong khi tốc độ tăng thu nhập quốc dân thực tế năm 2005 chỉ gấp 1,74 lần
94
năm 2001 và ước thực hiện năm 2008 tăng gấp 2,34 lần. Tốc độ tăng thu
ngân sách nhanh hơn tốc độ tăng GDP thể hiện việc đề cao vai trò huy động
nguồn lực tài chính nhằm đảm bảo nhu cầu chi tiêu lớn để thực hiện các mục
tiêu phát triển kinh tế-xã hội ở nước ta trong những năm qua.
2). Tỷ lệ động viên thu NSNN có xu hướng tăng rất nhanh.
Sau khi đạt tỷ lệ động viên 21,59%GDP vào năm 2001, tỷ lệ động
viên thu NSNN đã có sự bứt phát trong những năm tiếp theo: đạt
23,12%GDP năm 2002; 23,18%GDP năm 2003; tăng lên 26,69%GDP trong
năm 2004 và 27,2%GDP trong năm 2005.
Bảng 14 – Tỷ lệ động viên thu NSNN giai đoạn 2001-2005
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2001
2005
GDP (tỷ đồng) 481295 535762 613443 715307 839261
Thu NSNN (tỷ
đồng)
103888 123860 142210 190929 228287 799241
Tỷ lệ động viên
thu NSNN (%)
21.59 23.12 23.18 26.69 27.20 24.36
Nguồn: www.gso.gov.vn và www.mof.gov.vn
Nếu tính chung tỷ lệ động viên bình quân trong cả thời kỳ thì giai đoạn
2001-2005 tỷ lệ động viên thu NSNN đạt 24,36%GDP, cao hơn rất nhiều so
với giai đoạn 1996-2000 (20,7%GDP).
Tỷ lệ động viên thu NSNN trong những năm 2006-2008 vẫn có xu
hướng tăng cao. Cụ thể:
- Năm 2006 tỷ lệ động viên thu NSNN là 28,69%GDP.
- Năm 2007 tỷ lệ động viên thu NSNN đạt 27,76%GDP.
- Năm 2008 tỷ lệ động viên thu NSNN đạt khoảng 27,33%GDP.
Tính chung cả giai đoạn 2001-2008 tỷ lệ động viên thu NSNN đạt
mức 27,03%GDP.
Như vậy, nghiên cứu sự chuyển dịch về quy mô và tỷ lệ động viên thu
ngân sách nhà nước trong cả giai đoạn 2001-2008 cho thấy: sự chuyển dịch
có xu hướng tăng nhanh cả về quy mô thu ngân sách và tỷ lệ động viên nhằm
đảm bảo nguồn lực tài chính góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát
triển kinh tế -xã hội trong cả giai đoạn.
3). Cơ cấu và chính sách thu ngân sách nhà nước chuyển dịch tích cực theo sự chuyển dịch của cơ cấu kinh tế, đồng thời có tác động thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và khuyến khích phát triển các ngành sản xuất trong nước.
Thông qua việc ưu đãi miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, tiền sử
dụng đất, thuế sử dụng đất với mức độ khác nhau, chính sách thuế đã khuyến
95
khích các dự án đầu tư vào ngành sản xuất công nghiệp, dịch vụ; đầu tư vào
các khu công nghiệp; đầu tư vào khu chế xuất; vào khu công nghệ cao; vào
vùng nông thôn; đầu tư vào địa bàn kinh tế- xã hội khó khăn; đầu tư vào các
sản phẩm công nghiệp trọng điểm; sản xuất phần mềm; vào giáo dục và y tế
... từ đó tăng tỷ trọng sản phẩm công nghiệp và dịch vụ trong tổng sản phẩm
xã hội... Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nâng dần tỷ trọng công
nghiệp dịch vụ trong cơ cấu kinh tế đã góp phần tăng nhanh số thu ngân sách
và làm thay đổi đáng kể cơ cấu thu NSNN.
Xem xét tác động của chuyển dịch cơ cấu thu ngân sách đến chuyển
dịch cơ cấu kinh tế cho kết quả ở bảng sau:
Bảng 15 - Mối quan hệ giữa tỷ lệ động viên thu ngân sách nhà nước với chuyển dịch cơ
cấu kinh tế giai đoạn 1991-2005
Đơn vị: %
Chỉ tiêu 1991-1995 1996-2000 2001-2005
Tỷ lệ động viên thu NSNN 20,2 20,7 24,5
Tỷ trọng Công nghiệp và Dịch vụ trong cơ
cấu kinh tế
68,2 74,2 79,1
Nguồn: Tổng hợp
Nhìn vào tính toán ở bảng trên cho ta thấy tồn tại một mối quan hệ tỷ
lệ nhất định giữa mức động viên thu NSNN với tỷ trọng các ngành công
nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu kinh tế, khi đó cơ cấu các ngành công nghiệp
và dịch vụ tăng thì tỷ lệ động viên cũng có xu hướng tăng lên.
Như vậy, trong giai đoạn 2001-2005 cơ cấu thu ngân sách nhà nước
đã được điều chỉnh phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, động viên các
nguồn thu sát với các hoạt động kinh tế, góp phần thúc đẩy hoạt động sản
xuất kinh doanh phát triển.
Mặt khác, chính sách thu NSNN luôn đặt ra mục tiêu “thúc đẩy phát
triển nhanh sức sản xuất; khuyến khích xuất khẩu; khuyến khích đầu tư;
khuyến khích đổi mới công nghệ; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế; đảm
bảo cho nền kinh tế tăng trưởng cao, bền vững”, vì thế việc xác định đối
tượng đánh thuế, mức thu và miễn giảm thuế luôn quán triệt quan điểm thúc
đẩy sản xuất kinh doanh phát triển để tạo ra nguồn thu ngày càng tăng.
Trong hoạt động thực tiễn, cơ cấu thu NSNN đã được chuyển dịch
theo hướng tăng cơ cấu thu trong nước, giảm cơ cấu thu ngoài nước. Điều đó
thể hiện sự chuyển dịch tích cực cơ cấu thu NSNN do sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và mức độ phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn.
Trong giai đoạn 2001-2005, cơ cấu thu nội địa ngày càng tăng, hạn
chế sự phụ thuộc vào thuế XNK và dầu thô, tăng dần tỷ trọng các nguồn thu
từ kinh tế trong nước. Nếu lấy tổng thu NSNN giai đoạn 2001-2005 để so
sánh thì tỷ trọng thu nội địa không kể dầu thô tăng từ 50,7% năm 2001 lên
96
57,5% vào năm 2005, bình quân đạt 53,7%; với tốc độ tăng trung bình
18,3%/năm;
Tỷ trọng thu NSNN từ hai khoản dầu thô và thu hải quan giảm dần, từ
48% tổng thu NSNN năm 2001 xuống 41,4% năm 2005.
Trong tổng thu nội địa (trừ dầu), nguồn thu từ khu vực doanh nghiệp
tăng trưởng ở mức cao và trở thành nguồn thu quan trọng của NSNN. Tốc độ
tăng trưởng bình quân hàng năm của khu vực này là 19,4%/năm, cao hơn
mức tăng trưởng chung của thu nội địa là 18,3%. Giai đoạn 1996-2000, tỷ
trọng của khu vực doanh nghiệp chiếm 66,4% thì giai đoạn 2001-2005 tăng
lên 71,4%.
Như vậy, sự chuyển dịch cơ cấu thu trong nước đã gắn với sự chuyển
dịch của cơ cấu kinh tế theo xu hướng mở cửa và giảm tỷ trọng các nguồn
thu chịu tác động bởi những yếu tố bên ngoài, tăng thu nội địa.
4). Cơ cấu và chính sách thu ngân sách nhà nước đã được điều chỉnh sát với tính chu kỳ của nền kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong từng giai đoạn
Trong những năm nền kinh tế nước ta chuyển mạnh sang cơ chế thị
trường, đặc biệt là giai đoạn 1991-1996 do lạm phát được kiềm chế và duy trì
ở mức thấp, hoạt động sản xuất kinh doanh bước đầu được phục hồi và phát
triển nên đã góp phần đạt mức tăng trưởng kinh tế cao. Do mức tăng trưởng
tăng từ 5,8% năm 1991 lên 9,3% năm 1996 nên tỷ lệ động viên thu NSNN
trong giai đoạn này có xu hướng tăng lên, từ 13,1% năm 1991 lên 21,8% năm
1996; tương ứng với thời kỳ 2001-2005, tốc độ tăng trưởng từ 6,9% năm
2001 lên 7,5% năm 2005 thì tỷ lệ động viên thu NSNN cũng tăng từ 20,4%
năm 2001 lên 20,9% năm 2005.
Phân tích số liệu dưới đây ta thấy: giai đoạn 1991-1996 do nền kinh tế
đạt tốc độ tăng trưởng cao nên đã tạo ra tiền đề để tăng tỷ lệ động viên thu
NSNN. Mặt khác, trong chỉ đạo và điều hành, cơ quan thuế đã tích cực, chủ
động xây dựng các chính sách động viên hợp lý và xác định mức động viên
phù hợp để làm tăng thu NSNN. Nhờ đó, chính sách thuế đã trở thành nhân
tố kích thích và tạo đà cho tăng trưởng kinh tế.
Bảng 16 - Tỷ lệ động viên thu NSNN bình quân từ 1991 đến 2005
Đơn vị:%GDP
Giai đoạn 1991
1996
1997
2000
2001
2005
Tỷ lệ động viên thu NSNN 20,0 19,2 24,5
Tốc độ tăng trưởng kinh tế 8,4 6,4 7,5
Nguồn: Tổng hợp
Bước vào những năm 1997-1999, do khủng hoảng kinh tế tài chính
Châu Á tác động đến nền kinh tế nước ta làm cho tốc độ tăng trưởng bị chậm
lại và giảm dần. Để giữ vững nhịp độ tăng trưởng, nhiều giải pháp kinh tế đã
97
được sử dụng, trong đó việc điều chỉnh tỷ lệ động viên thu NSNN giữ vai trò
quan trọng. Mức thuế trong giai đoạn này đã được giảm nhẹ nhằm kích thích
các doanh nghiệp và cá nhân tăng đầu tư để phát triển sản xuất kinh doanh.
Cụ thể:
- Giảm mức động viên từ khu vực sản xuất nông nghiệp nên đã làm tỷ
trọng thu từ khu vực này trong tổng thu NSNN giảm từ 6% năm 1995 xuống
còn 2,3% năm 1999.
- Tỷ lệ động viên từ khu vực doanh nghiệp nhà nước cũng đã từng
bước giảm từ 6,2% thời kỳ 1991-1995 xuống 4,8% thời kỳ 1996-2000 nhằm
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhà nước có khả năng tích tụ và tập trung
nguồn vốn cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
Do áp dụng các biện pháp nêu trên nên tỷ lệ động viên thông qua thuế
đã giảm từ 21,8% năm 1996 xuống 19,4% năm 1997 và 18,6% năm 1999.
Bên cạnh đó, bắt đầu từ những năm 2007-2008 nền kinh tế nước ta lâm vào
tình trạng lạm phát cao: mức lạm phát cuối năm 2007 đạt 12,63% đã làm
kinh tế tăng trưởng chậm lại. Trong bối cảnh đó, chính sách động viên thu
NSNN trong những năm 2007-2008 cũng được điều chỉnh xuống thấp
khoảng 24-25%GDP so với 26-27%GDP những năm 2004-2005 nhằm hạ
thấp gánh nặng về thuế cho các khu vực kinh tế.
Như vậy, tỷ lệ động viên thu ngân sách nhà nước đã được điều chỉnh
theo hướng tăng lên trong thời kỳ nền kinh tế đạt tăng trưởng cao, đồng thời
giảm đi trong những năm suy giảm tốc độ tăng trưởng. Nhờ đó, chính sách
và cơ cấu thu ngân sách nhà nước đã góp phần điều tiết vĩ mô nền kinh tế,
thúc đẩy kinh tế tăng trưởng theo các mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh
tế-xã hội.
1.1.2. Những vấn đề đặt ra trong quá trình chuyển dịch cơ cấu thu
NSNN giai đoạn 2001-2005
1). Cơ cấu thu ngân sách nhà nước chưa thực sự bền vững
Để xem xét tính chất bền vững của thu NSNN, cần phân loại thu
NSNN theo các khoản thu có tính chất ổn định, phát sinh từ các hoạt động
kinh tế trong nước và các khoản thu phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài. Với
cách phân chia này, thu NSNN bao gồm các cơ cấu sau đây:
- Thu nội địa, bao gồm các khoản thu từ các hoạt động kinh tế trong
nước, trong đó chủ yếu từ các khu vực doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp dân doanh.
- Thu dầu thô: phụ thuộc vào trữ lượng khai thác dầu thô và giá cả dầu
thô trên thị trường thế giới.
- Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu: phụ thuộc vào hoạt động xuất nhập
khẩu và giá cả trên thị trường thế giới. Khoản thu này trong điều kiện thực
98
hiện các cam kết quốc tế có xu hướng giảm dần tỷ trọng trong tổng thu
NSNN.
Trên cơ sở phân chia đó, có thể phân tích sự ổn định cơ cấu nguồn thu
NSNN qua các giai đoạn như sau:
Hình 3 - Cơ cấu thu NSNN theo tính chất ổn định nguồn thu
Đơn vị: %
Thu nội địa Thu từ Dầu thô Thu từ hoạt động XNK Thu khác
Nguồn: Tổng hợp từ www.mof.gov.vn.
Thứ tự từ năm 2001 đến 2005 là từ trong ra ngoài
Nhìn vào đồ thị trên cho thấy:
- Thu nội địa là khoản thu chủ yếu của NSNN và có chuyển biến tích
cực theo hướng tăng tỷ trọng trong tổng thu NSNN: Năm 2001 tỷ trọng thu
nội địa mới chiếm 50,68% tổng thu NSNN thì đến năm 2005 đã tăng tỷ trọng
lên 52,49%. Điều này cho thấy chất lượng hoạt động kinh tế trong nước đã có
bước cải thiện làm tăng nguồn thu từ hoạt động kinh tế trong nước.
- Thu dầu thô là khoản thu giữ vị trí quan trọng thứ hai sau thu nội địa
và có xu hướng tăng nhanh tỷ trọng trong tổng thu NSNN. Nếu năm 2001 thu
dầu tô mới chỉ chiếm 25,3% trong tổng thu NSNN thì năm 2005 đã tăng lên
với mức khá cao, chiếm gần 30% tổng thu NSNN.
- Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu có xu hướng giảm từ tỷ trong
22,09% tổng thu NSNN xuống còn 16,7% và có xu hướng giảm nhanh hơn
trong thời gian tới.
Như vây, qua xem xét cơ cấu nguồn thu trên ta thấy:
Thứ nhất, thu nội địa được coi là nguồn thu ổn định của NSNN, ít chịu
sự biến động của các yếu tổ bên ngoài, nhưng tỷ trọng thu nội địa còn khá
thấp trong tổng thu NSNN (mới khoảng 50-52%).
- Trong thu nội địa các khoản thu từ hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp chưa chiếm tỷ trọng tuyệt đối và có xu hướng biến động khác nhau.
99
Bảng 17 - Cơ cấu thu nội địa trong tổng thu NSNN theo lĩnh vực
Đơn vị: %
Năm 2001 2002 2003 2004 2005
Thu nội địa 100 100 100 100 100
Thu từ khu vực QD 44 41 37 31 33
Thu từ DN ĐTNN 11 12 13 14 16
Thu từ khu vực NQD 13 13 13 13 14
Nguồn: Tổng hợp từ www.mof.gov.vn
Trong cơ cấu thu nội địa, thu từ DNNN chiếm bộ phận đáng kể, song
có xu hướng giảm dần từ 44% tổng thu nội địa năm 2001 xuống còn 33%
năm 2005. Ngược lại, tỷ trọng thu từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài trong tổng thu nội địa tăng từ 11% năm 2001 lên 16% năm 2005. Điều
này chứng tỏ hoặc là sự thu hẹp quy mô các DNNN, hoặc là hiệu quả kinh tế
của các DNNN ngày càng giảm dần.
- Ngay trong cơ cấu nội tại thu nội địa cũng còn hàm chứa nhiều
khoản thu không thực sự gắn với kết quả sản xuất kinh doanh, hịêu quả nền
kinh tế, từ sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân.
Chẳng hạn:
Năm 2005: nếu loại trừ một số khoản thu không thật chắc chắn trong
tổng số thu nội địa khoảng 77.910 tỷ đồng (gồm: thu từ nhà, đất là 17.210 tỷ
đồng; thu xổ số kiến thiết 5.200 tỷ đồng); số thu từ sản xuất kinh doanh có
tính ổn định khoảng 93.590 tỷ đồng, chiếm 44,27% tổng số thu cân đối
NSNN. Trong tổng số thu NSNN năm 2005 ước vượt 28.400 tỷ đồng so với
dự toán, nếu loại trừ một số khoản thu tăng không phát sinh từ sản xuất kinh
doanh trong thu nội địa thì số tăng thu từ sản xuất kinh doanh còn ở mức thấp
(chỉ chiếm khoảng 20%).
Năm 2006: nếu loại trừ một số khoản thu không thật chắc chắn trong
tổng số thu nội địa (gồm thu từ nhà, đất; thu xổ số kiến thiết) thì số thu từ
hoạt động sản xuất kinh doanh có tính ổn định chỉ chiếm 43% tổng số thu cân
đối NSNN, giảm so với năm 2005 (44,5%).
Hai là, tuy có những chuyển biến tích cực trong một số năm gần đây,
nhưng nhìn chung cơ cấu thu NSNN vẫn chậm được cải thiện và vẫn phụ
thuộc nhiều vào các khoản thu thiếu tính ổn định là thu dầu thô và thu xuất
nhập khẩu (chiếm gần 48-50% tổng thu NSNN).
Các khoản thu này phụ thuộc nhiều vào các yếu tố bên ngoài như: sản
lượng khai thác không ổn định, giá cả phụ thuộc nhiều vào sự biến động của
thị trường thế giới. Mặt khác, công tác phân tích dự báo, lập dự toán thu từ
dầu thô chưa thật sự tích cực. Năm 2006, sản lượng khai thác dầu thô không
đạt so với kế hoạch (giảm 1 triệu tấn), nhưng do giá dầu thô thế giới tăng cao
nên thu ngân sách đạt 77.400 tỷ đồng, tăng 22,1% (14.000 tỷ đồng) so với dự
toán, tương ứng với mức giá bán dầu thô bình quân 65 USD/thùng.
100
Hình 4 - Sự biến động của nguồn thu ngân sách nhà nước trong giai đoạn 1991-2005
Phân tích cơ cấu thu theo tính chất ổn định của nguồn thu cho thấy
một số vấn đề nổi lên như sau:
Thứ nhất, tỷ trọng nguồn thu từ hoạt động xuất nhập khẩu trong tổng
thu NSNN đã có xu hướng giảm khá rõ do thực hiện lộ trình cắt giảm thuế
quan theo tiến trình hội nhập quốc tế. Đây là một hướng đi đúng đắn, thể hiện
sự cam kết hội nhập chắc chắn của Việt Nam, tuân thủ các thông lệ và cam
kết quốc tế.
Thứ hai, thu từ dầu thô vẫn đạt mức động viên vào ngân sách khá cao.
Đây là nguồn thu dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khách quan như: giá dầu
quốc tế, tình hình chính trị ở các nước có nguồn dầu mỏ lớn…
Thứ ba, tỷ trọng nguồn thu từ nền kinh tế (trừ dầu thô) có xu hướng
tăng nhưng chưa cao. Đây là nguồn thu chủ yếu, vững chắc và quan trọng
nhất vì ít chịu ảnh hưởng của các nhân tố bên ngoài.
Do đó, để đảm bảo tính ổn định của nguồn thu NSNN, cần có phương
hướng biện pháp tăng tỷ trọng thu nội địa trong tổng thu NSNN. Điều đó đòi
hỏi phải tăng tính hiệu quả hoạt động cảu các loại hình doanh nghiệp và các
hoạt động kinh tế.
2). Cơ cấu thu ngân sách nhà nước còn bất hợp lý phản ánh sự bị động trong điều tiết kinh tế.
Cơ cấu thu NSNN bất hợp lý được thể hiện trong những phân tích
dưới đây:
Một là, cơ cấu thu ngân sách còn bất hợp lý xét theo tính chất
0%
5%
10%
15%
20%
25%
30%
1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 ước
2005
ước
2006
Thuế, phí không kể từ dầu thô Thu từ dầu thô
Thu giao quyền sử dụng đất Thu bán nhà thuộc sở hữu nhà nước
Thu viện trợ
101
nguồn thu
Xem xét cơ cấu thu NSNN theo tính chất nguồn thu tức là phân chia
nguồn thu theo tính chất nguồn thu, bao gồm: thuế tiêu dùng đánh vào hàng
hóa và dịch vụ, thuế thu nhập đánh vào các thể nhân và pháp nhân và các loại
thuế đánh vào tài sản.
Để nghiên cứu cơ cấu này, cần phân tích mối quan hệ trực tiếp giữa
các sắc thuế có tính chất đặc trưng của 3 loại thuế nói trên (loại trừ thu từ dầu
thô và một số khoản thu phí khác không có liên quan). Trong giai đoạn 2001-
2005, mối quan hệ giữa thuế hàng hóa dịch vụ, thuế thu nhập và thuế tài sản
trong cơ cấu thu ngân sách thể hiện như sau:
Bảng 18 - Cơ cấu giữa thuế hàng hóa, thuế thu nhập và thuế tài sản
trong tổng thu ngân sách nhà nước
Đơn vị: %
Loại thuế 2001 2002 2003 2004 2005 2001
2005
Thuế hàng hóa 68,44 69,68 65,35 61,69 61,92 65,42
Thuế thu nhập 26,21 24,14 23,94 23,53 25,00 24,56
Thuế tài sản 5,35 6,18 10,71 14,78 13,08 10,02
Nguồn: Tính toán theo số liệu của Tổng cục Thuế
- Thuế hàng hóa (bao gồm thuế GTGT, thuế TTĐB, thuế XNK) chiếm
tỷ trọng trên 65% tổng thu ngân sách; trong đó số thuế GTGT chiếm trên
32%; thuế TTĐB chiếm trên 12% và thuế XNK chiếm 205% tổng thu ngân
sách.
- Thuế thu nhập (bao gồm thuế TNDN, thuế TNCN) chiếm gần 25%
tổng số ngân sách; trong đó thuế TNDN chiếm 21,5%; thuế TNCN chiếm
khoảng 3%.
- Các loại thuế tài sản (bao gồm thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế
sử dụng đất, tiền thuê đất, lệ phí trước bạ) chiếm tỷ trọng nhỏ - khoảng 10%
tổng thu ngân sách.
Từ cơ cấu thu ngân sách nói trên, có thể rút ra một số nhận xét sau:
1. Thuế hàng hóa mặc dù có xu hướng giảm dần tỷ trọng song vẫn
chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng số thu ngân sách. Trong cơ cấu thuế hàng
hóa, tỷ trọng thuế GTGT có xu hướng tăng nhanh từ 30,72% năm 2001 tăng
lên 32,71% năm 2005. Còn tỷ trọng thuế XNK giảm mạnh từ 25,46% năm
2001 xuống còn 20,55% năm 2005.
2. Thuế thu nhập có xu hướng giảm nhẹ, nhưng tốc độ giảm không
nhiều và mức độ giảm không đồng đều giữa các sắc thuế. Tỷ trọng thuế thu
nhập doanh nghiệp giảm từ 22,93%xuống còn 21,5%; tỷ trọng thuế thu nhập
cá nhân tuy giảm nhưng mức giảm không đáng kể.
102
3. Các hình thức thuế thu vào tài sản có xu hướng tăng nhanh, đặc biết
tỷ trọng các loại thuế thu vào đất đai tăng đáng kể. Điều này có nguyên nhân
do sự phát triển nóng của thị trường bất động sản trong những năm qua.
Nếu xem xét cơ cấu thu trong mối quan hệ giữa thuế gián thu và thuế
trực thu cũng tìm thấy những điểm bất cập.
Bảng 19 - Cơ cấu giữa thuế gián thu và thuế trực thu trong tổng thu ngân sách nhà nước
Đơn vị: %
Loại thuế 2001 2002 2003 2004 2005 2001
2005
Thuế gián thu 68,44 69,68 65,35 61,69 61,92 65,42
Thuế trực thu 31,56 30,32 34,65 38,31 3808 34,58
Nguồn: Tính toán theo số liệu của Tổng cục Thuế
Rõ ràng, thuế gián thu có xu hướng giảm tỷ trọng còn thuế trực thu có
xu hướng tăng tỷ trọng, song mức tăng và giảm là không nhiều. Tuy nhiên, tỷ
trọng thuế gián thu còn khá cao với mức gần gấp 2 lần so với thuế trực thu.
Hai là, cơ cấu giữa các hình thức thuế không hợp lý
Đánh giá cơ cấu thu NSNN theo sắc thuế chính là việc xem xét tỷ
trọng và sự biến động số thu của các sắc thuế chủ yếu và quan trọng trong
tổng thu NSNN theo giai đoạn, qua đó xem xét tính hợp lý của chính sách thu
NSNN.
Bảng 20 - Cơ cấu thuế, phí và lệ phí trong tổng thu ngân sách nhà nước (%)
Giai đoạn 1991-1995 1996-2000 2001-2005
Tổng số thu thuế và phí 100 100 100
Trong đó:
- Thuế GTGT 15.41 19.78 24.99
- Thuế TTĐB 6.32 7.30 8.69
- Thuế XNK 21.51 19.25 14.50
- Thuế TNDN 10.26 13.05 15.12
- Thuế TNCN 0.80 2.37 2.21
- Thuế sử dụng đất nông nghiệp 3.96 2.65 0.29
- Thuế nhà đất 0.53 0.49 0.26
- Phí, lệ phí khác 4.16 2.95 2.54
Nguồn: Bộ Tài chính
Phân tích bảng trên cho thấy:
- Cơ cấu thu NSNN theo các sắc thuế thể hiện sự bất hợp lý trong bản
thân hệ thống thuế ở nước ta. Trong cơ cấu thu, thuế TNDN chiếm khoảng
24,4% tổng số thu ngân sách từ thuế, phí và lệ phí; thuế thu nhập cá nhân
chiếm 2,3%; thuế GTGT và thuế TTĐB chiếm 35,7%; thuế xuất nhập khẩu
chiếm 13,6%; còn lại các loại thuế khác chiếm 23,9%.
- Cơ cấu thu NSNN theo sắc thuế thể hiện sự bất hợp lý so với các
103
nước trong khu vực.
Bảng 21 - Cơ cấu thu ngân sách nhà nước của các nước Châu Á
%GDP
Nước/ năm Tổng số
Thuế thu nhập Thuế hàng hóa, dịch vụ
Khác Thuế
TNDN
Thuế
TNCN
Thuế
GTGT
Thuế
TTĐB
Thuế
XNK
Camphuchia -2003 7.2 0.7 0.2 2.3 1.3 2.4 0.2
Indonexia – 2003 11.8 2.8 3.2 3.8 1.3 0.5 0.2
Philippines – 2004 12.4 3.6 2.1 1.9 1.8 2.5 0.5
Singapore – 2004 12.6 4.6 1.9 3.4 1.1 0.0 1.5
Malaysia – 2004 16.0 8.0 2.9 2.0 1.4 1.2 0.5
Thái Lan – 2004 18.0 4.1 2.1 5.0 4.2 1.6 1.0
Trung bình 13.0 4.0 2.1 3.1 1.8 1.4 0.7
Việt Nam – 2006 22.0 10.4 0.5 6.2 1.8 2.7 0.4
Nguồn: Tính toán trên cơ sở số liệu của Bộ Tài chính
- Cơ cấu thu NSNN theo sắc thuế thể hiện sự bất hợp lý so với các
nước có điều kiện tương đồng như Việt Nam
Bảng 22 - Cơ cấu số thu thuế ở các nước theo GDP bình quân đầu người
STT Khối nước
GDP bình
quân
đầu người
Cơ cấu thuế (% tổng số thu thuế)
Tổng
số
Thuế
TNDN
Thuế
TNCN
Thuế
hàng
hóa
Thuế
XNK
Thu
khác
1 Các nước đang phát
triển thu nhập thấp
nhỏ hơn
745
100 19.28 16.62 43.5 16.4 4.2
2 Các nước đang phát
triển thu nhập TB
746-2.975 100 15.47 16.03 51.8 9.3 7.4
3 Các nước đang phát
triển thu nhập cao
2.976-
9.205
100 8.91 20.49 53.1 5.4 12.1
4 Bình quân các nước
đang phát triển
100 13.20 18.00 51.2 8.6 9
Trong đó: Việt
Nam (ước 2004)
100 24.4 2.3 35.7 13.6 23.9
5 Các nước đã phát
triển
lớn hơn
9.206
100 9.67 44.63 32.9 0.7 12.1
Nguồn: Can Developing Countries Impose an Individual Income Tax?, J. Alm and S.
Wallace, May 2004
Mức trung bình của các nước đang phát triển là tỷ lệ số thu thuế thu
nhập doanh nghiệp 13,2%; thuế thu nhập cá nhân 18%; thuế hàng hoá, dịch
vụ chiếm 51,2%, thuế xuất nhập khẩu chiếm 8,6% và các loại thuế khác chỉ
chiếm 9%. Các nước đang phát triển có thu nhập thấp cũng có các tỷ lệ tương
ứng là 19,28%, 16,62%, 43,5%, 16,4% và 4,2%. Đối với các nước đã phát
triển, thuế thu nhập cá nhân chiếm tỷ trọng cao nhất: 44% tổng số thu thuế;
trong khi đó thuế thu nhập doanh nghiệp chỉ chiếm 9,67% và thuế xuất nhập
khẩu chỉ chiếm 0,7%. Điều này phản ánh thực tế trào lưu cải cách thuế ở các
nước này với mục tiêu giảm gánh nặng thuế đối với doanh nghiệp để khuyến
104
khích tái đầu tư và giảm thuế quan để khuyến khích phát triển tự do hoá đầu
tư và thương mại.
Như vậy, cơ cấu thuế của Việt Nam vẫn còn bất cập so với xu thế
chung của các nước trên thế giới. Tỷ lệ số thu thuế thu nhập cá nhân của Việt
Nam còn thấp hơn nhiều so với mức trung bình của các nước đang phát triển,
kể cả các nước đang phát triển có thu nhập thấp cùng loại; trong khi đó tỷ
trọng số thu thuế thu nhập doanh nghiệp đang ở mức rất cao; bên cạnh đó, tỷ
trọng của thuế xuất nhập khẩu và các loại thuế khác (thuế tài nguyên, thuế sử
dụng đất nông nghiệp, phí xăng dầu, phí và lệ phí khác...) cũng còn khá cao.
Nói cách khác, gánh nặng thuế đối với doanh nghiệp còn khá lớn, điều này
làm giảm khả năng cạnh tranh của hệ thống thuế Việt Nam so với các nước.
3). Tỷ lệ động viên còn cao tạo ra gánh nặng thuế lớn, cản trở sự đầu tư phát triển hoạt động kinh doanh.
Một là, tỷ lệ động viên từ thuế vào NSNN so với GDP còn bất hợp
lý khi xem xét trong dài hạn
Xem xét tỷ lệ động viên thu NSNN ở nước ta trong giai đoạn 1991-
2005 cho thấy: Tỷ lệ động viên GDP vào NSNN ngày càng có xu hướng tăng
nhanh. Xu hướng tăng nhanh không phải chỉ thể hiện trong từng năm của giai
đoạn 2001-2005 mà còn so với các giai đoạn trước.
Giai đoạn 1991-1995 tỷ lệ động viên thu NSNN bình quân đạt
20,24%GDP và đạt 20,7% trong giai đoạn 1996-2000 thì đến giai đoạn 2001-
2005 tỷ lệ động viên đã đạt mức 24,68% với tốc độ tăng khoảng 20% so với
các giai đoạn trước đó.
Ngay trong giai đoạn 2001-2005, tỷ lệ động viên thu NSNN của năm
2005 cũng tăng 26% so với năm 2001.
Bảng 23 - Tỷ lệ động viên thu NSNN giai đoạn 1991-2005
Đơn vị: %
1991-1995 1996-2000 2001 2002 2003 2004 2005 2001-2005
20,2 20,7 21,59 23,12 24,82 26,69 27,20 24,68
Nguồn: Tổng hợp
Như vậy, tỷ lệ động viên thu NSNN giai đoạn 2001-2005 đã tăng bất
hợp lý so với bản thân hệ thống thu NSNN ở nước ta. Nếu xem xét tỷ lệ động
viên thu NSNN trong khoảng 10 năm 1996-2005 ta thấy:
Bảng 24 - Tỷ lệ động viên thu NSNN trong 10 năm 1996-2005
Đơn vị: %GDP 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 1996
2005
Tỷ lệ động viên thu NSNN
22,93 20,84 19,56 19,63 16,65 21,59 23,12 24,82 26,69 27,20 22,30
Tỷ lệ thu từ dầu
thô
2,69 2,82 2,38 3,12 5,33 5,46 4,95 5,99 6,79 7,93 4,75
Tỷ lệ động viên trừ dầu thô
20,24 18,01 17,18 16,51 11,32 16,12 18,17 18,84 19,9 19,27 17,56
Chênh lệch 0,63 -1,46 -2,74 2,68 5,66 0,72 0,82 2,52 4,39 4,90
105
chung
Chênh lêch dầu thô
-2,05 -1,92 -2,37 -1,63 0,58 0,72 0,20 1,24 2,04 3,19
Nguồn: Tổng hợp
- Trong giai đoạn 1996-2005, tỷ lệ động viên thu NSNN trung bình 10
năm là 22,30%GDP, trong đó tỷ lệ động viên từ dầu thô chiếm 4,75%GDP,
còn lại là tỷ lệ động viên thu NSNN trừ dầu thô 17,56%GDP. Sự tăng lên của
tỷ lệ động viên thu NSNN của những năm 2001-2005 so với mức bình quân
chung 10 năm là khá lớn.
- Trong giai đoạn 2001-2005 tỷ lệ động viên thu NSNN có mức tăng
so với mức bình quân chung lớn có nguyên nhân bởi mức tăng của 2 năm
2004-2005, trong đó năm 2005 có mức tăng so với mức bình quân chung là
lớn nhất. Năm có mức tăng phù hợp với mức bình quân chung là năm 2002,
khi đó tỷ lệ động viên thu NSNN đạt mức khoảng 23%GDP, trong đó tỷ lệ
thu NSNN trừ dầu thô đạt khoảng 18%GDP.
- Trong giai đoạn 2006-2008 tỷ lệ động viên thu NSNN có mức tăng
cao nhất so với tất cả các giai đoạn trước đó – gần đạt 28%GDP, mặc dù năm
2008 xảy ra khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Từ sự phân tích trên đây có thể rút ra kết luận sau: Tỷ lệ động viên thu
NSNN giai đoạn 2001-2008 là chưa hợp lý so với cơ cấu nội tại của hệ thống
thu thuế ở nước ta.
Hai là, tỷ lệ động viên thu NSNN so với GDP còn chưa hợp lý khi
so sánh với những nước có điều kiện tương đồng Việt Nam
Nếu so với các nước trên thế giới thì tỷ lệ động viên thu NSNN ở Việt
Nam là khá cao và bất hợp lý.
Bảng 25 - Cơ cấu số thu thuế ở các nước theo GDP bình quân đầu người
STT Khối nước
Thu nhập bình
quân đầu người
(USD)
Tỷ lệ động viên qua
thuế (%GDP)
1 Các nước đang phát triển thu nhập thấp Thấp hơn 745 14.1
2 Các nước đang phát triển thu nhập TB 746-2.975 16.7
3 Bình quân các nước đang phát triển 17.6
Trong đó: Việt Nam (năm 2005) 27
4 Các nước đang phát triển thu nhập cao 2.976-9.205 20.2
5 Các nước đã phát triển Cao hơn 9.206 25.0
Nguồn: Can Developing Countries Impose an Individual Income Tax?, J. Alm and S.
Wallace, May 2004
Nhìn vào bảng trên ta thấy: các nước đang phát triển có mức thu nhập
thấp tương đương Việt Nam hiện nay (thu nhập bình quân đầu người đạt
745USD), tỷ lệ động viên thu NSNN chỉ đạt khoảng 14,1%GDP thì Việt
Nam cao hơn nhiều (khoảng 27%GDP). Nếu so với mức bình quân chung
106
của các nước đang phát triển là 17,6%GDP, hoặc các nước đang phát triển có
thu nhập cao đạt khoảng 20,2%GDP thì Việt Nam vẫn đạt mức khá cao.
Ba là, tỷ lệ động viên thu NSNN so với GDP còn chưa hợp lý khi
so sánh với những nước có nguồn thu phụ thuộc vào dầu thô như Việt
nam
Có thể lý giải tỷ lệ động viên thu NSNN ở Việt Nam cao là do sự biến
động của tỷ lệ thu từ dầu thô. Tuy nhiên, xem xét tỷ lệ động viên từ thu
NSNN so với GDP ở những nước có nguồn thu phụ thuộc dầu khí có điều
kiện tương đồng như Việt Nam cũng thấy tỷ lệ thu NSNN ở Việt Nam cũng
chưa hợp lý.
Bảng 26 - Tỷ lệ động viên thu ngân sách ở những nước xuất khẩu đầu
Tên nước
Thu ngân sách hàng năm từ dầu
khí
Tổng thu
NSNN trừ
dầu khí
Tổng thu ngân
sách hàng năm
% trong tổng thu
NSNN %GDP %GDP %GDP
Azerbaijan 33.3 8.5 17.03 25.53
Cameroon 27.7 4.8 12.53 17.33
Ecuador 26 6.6 18.78 25.38
Indonesia 30.3 5.5 12.65 18.15
Kazakhstan 25.1 6.3 18.8 25.10
Mexico 33.3 7.5 15.02 22.52
Trinidad&Tobago 36.4 9.3 16.25 25.55
Trung bình 30.3 6.9 15.86 22.79
Vietnam 31.2 7.4 16.30 23.72
Nguồn: Guide on Resource Revenue Transparency - IMF 2007
Nhìn vào bảng trên ta thấy: Những nước có tỷ trọng nguồn thu từ dầu
khí chiếm trong tổng thu NSNN tương đương với Việt Nam bao gồm:
Mexico có tỷ trọng thu từ dầu thô trong tổng thu NSNN là 33,3%
tương đương Việt Nam (31,2%), tức chiếm 7,5%GDP (Việt Nam –
7,4%GDP), nhưng tỷ lệ động viên thu NSNN chỉ ở mức 22,52%GDP, thấp
hơn so với Việt Nam (23,73%GDP).
Indonesia cũng có những tỷ trọng thu dầu khí trong tổng thu NSNN là
30,3%, tương đương Việt Nam, nhưng tỷ lệ động viên thu NSNN lại thấp
hơn Việt Nam khá nhiều (18,15%GDP).
Bốn là, tỷ lệ động viên thu NSNN bất hợp lý khi xem sét tính chất
điều tiết kinh tế vĩ mô của thuế
Tỷ lệ động viên thu NSNN so với GDP cao hay thấp phục thuộc vào
nhiều yếu tố, trong đó có các yếu tố về đảm bảo bù đắp đủ các nhu cầu chi
tiêu của nhà nước cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, các yếu tố về thu
nhập quốc dân đầu người, năng suất hiệu quả của nền kinh tế, đồng thời tỷ lệ
động viên còn được coi là một chỉ số để điều tiết tính chu kỳ kinh tế.
107
Trong nền kinh tế thị trường, tỷ lệ động viên thu NSNN có mối quan
hệ mất thiết với thu nhập quốc dân. Vì vậy, nhà nước sử dụng tỷ lệ động viên
để điều tiết tính chu kỳ của nền kinh tế thị trường, đảm bảo sự tăng trưởng
liên tục của nền kinh tế trong mọi giai đoạn. Khi nền tăng trưởng nóng, nhà
nước có thể tăng tỷ lệ động viên, tăng thuế để điều tiết đầu tư, góp phận hạ
nhiệt tốc độ tăng trưởng. Ngược lại, khi nền kinh tế giảm phát, nhà nước cần
thiết phải giảm thuế để kích thích đầu tư, kích thích tăng trưởng kinh tế cao
hơn.
Xem xét tỷ lệ động viên thu NSNN ở nước ta trong giai đoạn 2001-
2005 cho thấy: Tỷ lệ động viên thu NSNN tăng không tương xứng với tốc độ
tăng trưởng kinh tế và chưa đáp ứng yêu cầu điều tiết kinh tế vĩ mô.
Để có cơ sở xem xét mối quan hệ giữa tỷ lệ động viên thu NSNN và
tốc độ tăng trưởng, có thể phân tích tình hình số liệu cho ở bảng sau:
Bảng 27- Mối quan hệ giữa tỷ lệ động viên thu NSNN với tốc độ tăng trưởng kinh tế giai
đoạn 1991-2005
Đơn vị: %
Chỉ tiêu 1991-1995 1996-2000 2001-2005
Tỷ lệ động viên thu NSNN 20,2 20,7 24,5
Tốc độ tăng trưởng kinh tế 8,18 6,96 7.50
Nguồn: Tổng hợp
Như vậy, giai đoạn 1991-1995 tỷ lệ động viên được giữ ở mức thấp
nhất – 20,2%GDP, nhưng nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất
8,18%/năm. Đến giai đoạn 2001-2005 là giai đoạn có nhiều thuận lợi, nhưng
vì tỷ lệ động viên được nâng lên rất cao và tăng khá nhanh – 24,5%GDP, do
đó tốc độ tăng trưởng kinh tế chỉ đạt bình quân 7,5%/năm, thấp xa so với giai
đoạn 1991-1995, chỉ cao hơn giai đoạn khủng hoảng kinh tế 1996-2000 ở
mức 0,5%/năm. Rõ ràng, có thể thấy tỷ lệ động viên thu NSNN giai đoạn
2001-2005 là cao và không hợp lý.
Để chứng minh tính đúng đắn của nhận định trên có thể phân tích mối
quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng về thuế và tốc độ tăng GDP thông qua xem
xét hệ số điều tiết kinh tế của thuế trong cả giai đoạn 1991–2005 trên cơ sở
phân tích biếu số liệu sau:
Bảng 28 - So sánh tốc độ tăng GDP và tốc độ tăng thuế
91 92 93 94 95 96 97 98 99 00 01 02 03 04 05
Tốc độ
tăng
TNQD
1,0
0
1.4
4
1.2
7
1.2
7
1.2
8
1.1
9
1.1
5
1.1
5
1.1
1
1.1
0
1.0
9
1.1
1
1.1
4
1.1
7
1.1
7
Tốc độ
tăng thuế
1,0
0
2.0
3
1.4
5
1.3
8
1.2
7
1.1
7
1.0
5
1.0
8
1.1
1
1.1
6
1.1
4
1.1
9
1.2
3
1.2
5
1.2
0
Hệ số
điều tiết
1 1.4
1
1.1
4
1.0
9
0.9
9
0.9
8
0.9
1
0.9
4
1.0
0
1.0
5
1.0
5
1.0
7
1.0
7
1.0
8
1.0
2
Nguồn: Tính toán trên cơ sở số liệu của Bộ Tài chính
108
Nhìn vào bảng trên cho thấy:
- Trong thời gian 1991–1995, tốc độ tăng GDP là lớn nhất trong cả
thời kỳ 1991-2005 làm cho tốc độ tăng của thuế trong những năm này cũng
cao hơn so với giai đoạn 1996-2000, nhưng tốc độ tăng thuế vẫn nhanh hơn
tốc độ tăng GDP, thể hiện qua hệ số điều tiết kinh tế luôn luôn lớn hơn 1.
Điều này phản ánh quy luật bình thường.
- Trong những năm 1996–2000, tốc độ tăng của GDP chậm dần lại
(năm 1997 tăng 15%, nhưng hệ số điều tiết chỉ thực hiện ở mức thấp 0,91
trong năm 1997 và 0,94 trong năm 1998, sau đó lại tăng và lớn hơn 1. Điều
này cũng phản ánh sự giảm thuế để kích thích tăng trưởng trong những năm
khủng hoảng kinh tế tài chính tiền tệ châu Á.
- Tuy nhiên, trong cả thời kỳ tăng trưởng 2001-2005, hệ số điều tiết
kinh tế luôn lớn hơn 1 và cao hơn năm đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất trong
giai đoạn 1991-1996.
Như vậy, mặc dù nền kinh tế đang trong giai đoạn phục hồi tăng
trưởng song gánh nặng thuế vẫn còn lớn, nên đã gây áp lực làm hạn chế sự
bứt phá tăng trưởng nhanh hơn.
Hình 5 - Tốc độ tăng thu NSNN thường nhanh hơn tốc độ tăng GDP
Do đó, có thể kết luận rằng, tỷ lệ động viên thu NSNN ở nước ta trong
giai đoạn 2001-2005 xem xét ở tất cả các tiêu chí đều cho thấy mức tăng là
khá cao và bất hợp lý. Nếu mức động viên thu ngân sách cao sẽ tạo ra gánh
nặng lớn cho nền kinh tế. Trong trường hợp đó, mức tăng trưởng chưa chắc
đã thực hiện được. Vì vậy, xác định hợp lý mức động viên thông qua thuế có
ý nghĩa rất lớn trong việc đảm bảo mục tiêu tăng trưởng.
109
1.2. THỰC TRẠNG QUY MÔ, CƠ CẤU CHI NSNN GIAI ĐOẠN
2001-2005
1.2.1. Đánh giá kết quả thực hiện cơ cấu chi NSNN giai đoạn 2001-2005
Phân tích tình hình chi NSNN trong giai đoạn 2001-2005 có những
đánh giá và nhận xét như sau:
1). Quy mô chi NSNN tăng nhanh đáp ứng nhu cầu thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội
Quy mô chi NSNN, cả số tuyệt đối và và tỷ lệ so với GDP, đều tăng
nhanh, đáp ứng được nhu cầu thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội
ở nước ta trong từng thời kỳ.
Bảng 29 - Chi NSNN so với GDP qua các giai đoạn từ 1991 đến 2005
đơn vị tính Giai đoạn
1991-1995
Giai đoạn
1996-2000
Giai đoạn
2001-2005
GDP (giá thực tế) tỷ VND 734 924 1 788 264 3 183 665
So sánh GDP theo giá thực tế lần 1 2,4 1,8 (4,3)
Tổng chi NSNN trong cân đối tỷ VND 190 088 435 524 923 407
So sánh quy mô chi NSNN lần 1 2,3 2,1 (4,9)
Nguồn: Bộ Tài chính
Trong giai đoạn 1991-1995, quy mô chi NSNN, về số tuyệt đối đạt
190.088 tỷ đồng, nhưng đến giai đoạn tiếp theo (1996-2000) tổng chi NSNN
đã tăng lên 435.524 tỷ đồng, cao gấp 2,3 lần giai đoạn trước. Đến giai đoạn
2001-2005, quy mô chi NSNN đã đạt 923.407 tỷ, gấp 2,1 giai đoạn 1996-
2000 và cao gấp 4,9 lần giai đoạn 1991-1995. Trong khi đó, quy mô GDP
tăng chậm hơn. Nếu tính theo giá thực tế, tổng GDP giai đoạn 2001-2005 chỉ
tăng 1,8 lần so với giai đoạn trước và tăng 4,3 lần so với giai đoạn 1991-
1995. Nguyên nhân là do giai đoạn 2001-2005, nền kinh tế nước ta chịu ảnh
hưởng sau khủng hoảng tài chính châu Á 1997 và NSNN tăng chi do kích
cầu. Mặt khác, cũng do nguồn thu NSNN qua các giai đoạn đều đạt khá nên
quy mô và tỷ lệ chi NSNN mới có điều kiện tăng cao. Nhờ quy mô chi tăng
khá nên NSNN đã đảm bảo nguồn lực để Nhà nước thực hiện các mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội.
Bảng 30 - Tỷ lệ chi NSNN so với GDP qua các giai đoạn từ 1991 đến 2005
1991-1995 1996-2000 2001-2005
Tỷ lệ chi NSNN so với
GDP (%)
25,9 24,4 29,0
Nguồn: Bộ Tài chính
Khi so sánh với GDP, nếu như năm 1991 chi NSNN mới chỉ chiếm
15,9%GDP thì năm 1995 đã tăng lên 27,4%GDP. Năm 2000 là 24,7%GDP
thì năm 2005 đã đạt mức cao 30%. Trong giai đoạn 1991-1995, tổng chi
110
NSNN so với GDP đạt 25,9% GDP. Sang giai đoạn tiếp theo (1996-2000)
tổng chi NSNN đạt 24,4%GDP. Nguyên nhân chủ yếu là giai đoạn 1991-
2000, do vừa thoát khỏi thời kỳ khủng hoảng ở thập niên trước, nên CSTK
thiên về thắt chặt. Nhưng sau đó, từ 1999-2000, để thúc đẩy kinh tế phát triển
khắc phục các tác động xấu của khủng hoảng tài chính châu Á, Chính phủ đã
thực hiện chính sách kích cầu, tăng chi NSNN. Vì vậy, tổng chi NSNN so với
GDP giai đoạn 2001-2005 đã tăng lên tới 29%GDP. Điều đó thể hiện rất rõ
khi xem xét tỷ lệ chi NSNN so với GDP qua từng năm trong giai đoạn này.
Hình 6 - Tỷ lệ chi NSNN so với GDP
Tỷ lệ chi NSNN so với GDP
30,0%29,9%29,5%
27,7%
26,7%25,9%
24,7%
29,0%
24,4%
0,0%
5,0%
10,0%
15,0%
20,0%
25,0%
30,0%
35,0%
Giai
đoạn
1991-
1995
Giai
đoạn
1996-
2000
Giai
đoạn
2001-
2005
2000 2001 2002 2003 2004 2005
Nguồn: Bộ Tài chính và Tổng cục Thống kê
Trong những năm 2006 - 2008 quy mô chi NSNN cũng đạt đỉnh cao.
Nếu như những năm 1997-2000, tổng chi NSNN không quá 25%GDP, thì đã
có sự thay đổi lớn vào những năm 2001-2008, trong đó năm 2006 đạt đến
đỉnh 39,6%GDP. Bắt đầu từ sau năm 2006, nhận thấy quy mô chi NSNN
tăng quá cao, hiệu quả chi đầu tư từ NSNN còn nhiều yếu kém, hàng loạt
chương trình tiết giảm chi NSNN, nhất là chi đầu tư từ NSNN đã được triển
khai. Vì vậy, tốc độ cũng như tỷ suất chi NSNN trên GDP đã được kìm hãm
và giảm dần. Trong những năm này, tốc độ tăng chi đầu tư phát triển đã thấp
hơn tốc độ tăng chi thường xuyên. Những điểm thay đổi của mấy năm gần
đây (sau 2006) có xu hướng tích cực, không tăng chi bằng mọi giá, thể hiện
nhận thức củng cố tính bền vững của NSNN dưới góc độ điều hành chi tiêu.
111
Hình 7 – Chi ngân sách nhà nước giai đoạn 2001-2008
Nguồn: Bộ Tài chính và Tổng cục Thống kê
Xét về tốc độ tăng và xét trong cả giai đoạn 1991-2008, tổng chi
NSNN tăng với tốc độ rất khác biệt, không ổn định. Điều đó chứng tỏ quy
mô chi NSNN thiếu ổn định, thiếu tầm nhìn dài hạn. Tuy nhiên, gần đây, tình
hình này đã có biểu hiện được cải thiện. Nếu xu hướng này được duy trì thì sẽ
có những đóng góp tốt vào việc duy trì tính bền vững của NSNN xét dưới
góc độ chi tiêu, đảm bảo một tốc độ tăng nhu cầu chi NSNN không quá cao
so với khả năng thu, thì sẽ giảm được gánh nặng tăng thuế, không gây sức ép
xấu đến cân đối bền vững của NSNN.
112
Hình 8 – Tốc độ chi ngân sách nhà nước giai đoạn 1991-2008
Nguồn: Bộ Tài chính và Tổng cục Thống kê
2). Cơ cấu chi NSNN dịch chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ lệ chi cho ĐTPT tạo tiền đề thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội
Một là, quy mô và tỷ trọng chiĐTPT trong tổng chi NSNN có xu
hướng tăng nhanh.
Nhờ đổi mới cơ cấu chi NSNN khá mạnh theo hướng tăng nhanh tỷ
trọng chi cho ĐTPT nên đã đáp ứng được nhu cầu chi cho những công trình
kinh tế quan trọng, cần đầu tư bằng nguồn NSNN cấp. Trên thực tế, cả quy
mô và tỷ trọng chi cho ĐTPT đều tăng nhanh. Trong đó, cơ cấu nội tại chi
ĐTPT cũng có sự chuyển dịch tích cực.
Trong những năm qua, cơ cấu chi NSNN cho ĐTPT, chi thường
xuyên và chi trả nợ, viện trợ có sự điều chỉnh và biến động khác nhau tùy
từng thời kỳ nhưng xu hướng rõ nhất là chi ĐTPT tăng nhanh, từ 24% tổng
chi NSNN trong giai đoạn 1991-1995 đã tăng lên 27% trong giai đoạn 1996-
2000 và đạt 30% trong giai đoạn 2001-2005.
113
Hình 9 – Cơ cấu chi NSNN giai đoạn 1991-2005
Cơ cấu chi NSNN các giai đoạn 1991-1995, 1996-
2000, 2001-2005 (tính từ trong ra)
24%
15%61%
0%27%
13%59%
1%30%
14%
53%
3%
Chi đầu tư phát triển
Chi trả nợ, viện trợ
Chi thường xuyên
Các khoản chi khác của
NSNN
Nguồn: Bộ Tài chính và Tổng cục Thống kê
Mặc dù mức độ tăng từng năm có khác nhau, song ưu tiên chi ĐTPT
là xu hướng nổi trội. Qua mỗi năm, tỷ trọng chi ĐTPT trong tổng chi NSNN
tăng đáng kể: từ 22,3% (3,5%GDP) năm 1991 lên 30,2% vào năm 2001, sau
đó, giữ ổn định ở mức trên 30% tổng chi NSNN. Riêng năm 2005, tuy có
giảm chút ít, xuống còn 28,2%, nhưng vẫn tương đương 8,5%GDP.
Liên tục trong 5 năm 2001-2005, chi ĐTPT luôn chiếm lĩnh vị trí cao
trong tổng chi NSNN. Năm thấp nhất (2005) cũng đạt 28,2%, năm cao nhất
(2003) đạt 32,9%, bình quân đạt 30,6% tổng chi NSNN. Các năm 2005,
2006, tỷ trọng chi ĐTPT từ NSNN có biểu hiện giảm, năm 2005 đạt 28,2%,
năm 2006 đạt 28,6% chi NSNN (nhưng vẫn đạt 8,8%GDP) là do thực hiện
chủ trương rà soát chặt chẽ các dự án đầu tư, chống thất thoát, lãng phí,
chống dàn trải trong đầu tư XDCB từ nguồn vốn NSNN.
Bảng 31 - So sánh tốc độ tăng chi ĐTPT và chi thường xuyên giai đoạn 2001-2005
2001 2002 2003 2004 2005 2001
2005
Chi ĐTPT (tỷ đ) 38.802 45.218 59.629 66.115 71.000 56.153
Tốc độ tăng (%) 31,0 16,5 31,9 10,9 7,4 19,5
Chi thường xuyên (tỷ đ) 73.408 78.039 95.608 107.979 124.698 95.946
Tốc độ tăng (%) 18,7 6,3 22,5 12,9 15,5 15,2
Nguồn: Bộ Tài chính và Tổng cục thống kê
Trong các năm 2001-2003, tuy tốc độ tăng ĐTPT giảm dần nhưng vẫn
tăng nhanh hơn tốc độ tăng chi thường xuyên, các năm 2004-2005, tốc độ
tăng chi thường xuyên cao hơn chi ĐTPT chủ yếu có sự đóng góp của việc
tăng chi cho cải cách tiền lương.
114
Trong giai đoạn 1996-2005 tỷ trọng chi NSNN cho ĐTPT trong tổng
chi NSNN có xu hướng tiếp tục tăng lên, bình quân thời kỳ 1996-2000 là
26,2%, năm 2001 đạt 30,2%, năm 2005 đạt 28,2%, tính bình quân thời kỳ
2001-2005 là 30,6%. So với GDP, tổng chi ĐTPT giai đoạn 1996-2000 chỉ
chiếm 6,5% nhưng đã tăng khá mạnh trong giai đoạn 2001-2005, đạt 8,8%.
Trong giai đoạn 2001-2005, với tốc độ tăng bình quân hàng năm là 19,5%,
cao hơn tốc độ tăng bình quân của tổng chi NSNN và của chi thường xuyên
(đều là 15,2%), rõ ràng chi ĐTPT được ưu tiên hơn chi thường xuyên.
Chính sách chi ĐTPT của Nhà nước thể hiện rõ chủ trương thúc đẩy
kinh tế thông qua đầu tư vào cơ sở hạ tầng kinh tế đường sá, cầu cống, bến
cảng, đào tạo nguồn nhân lực, hỗ trợ xúc tiến thương mại... Mặt khác, Nhà
nước đã thắt chặt các hình thức trợ cấp tài chính cho các DNNN: giảm bao
cấp, chấm dứt chi bù lỗ hàng cung cấp, bù chênh lệch ngoại thương, việc cấp
vốn lưu động cho các DNNN chỉ giới hạn trong một phạm vi nhất định và áp
dụng đối với các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hoặc mới đi vào sản xuất
hoặc đối với những doanh nghiệp mang tính chất phúc lợi công cộng, các
công trình kinh tế và các ngành nghề mũi nhọn trọng yếu có tác dụng chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, phát triển sản xuất.
Tuy nhiên, việc tăng chi ĐTPT sẽ trực tiếp ảnh hưởng tới tổng nguồn
còn lại để chi cho các nhiệm vụ thường xuyên của NSNN, trong đó, có nhiệm
vụ chi cho bộ máy quản lý hành chính nhà nước, chi giáo dục, y tế,
KH&CN... Việc tăng chi ĐTPT quá nhiều đồng nghĩa với việc Nhà nước ưu
tiên thực hiện chức năng kinh tế hơn là chú trọng thực hiện chức năng quản
lý hành chính, tạo môi trường thuận lợi cho kinh tế phát triển, hoặc chuẩn bị
các điều kiện cần thiết và thuận lợi cho nền kinh tế phát triển lâu dài bền
vững (Ví dụ như chi cho giáo dục nhất là giáo dục tiểu học, y tế dự phòng,
KH&CN nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, góp phần cải thiện
NSLĐ...). Nếu NSNN ưu tiên chi đủ mạnh cho quản lý hành chính (kể cả chi
hiện đại hóa cơ sở vật chất và chi cho con người), bảo đảm cho cán bộ công
chức sống đủ bằng lương, có điều kiện làm việc tốt thì chắc chắn NSLĐ cũng
như chất lượng và trách nhiệm của cán bộ công chức hành chính sẽ được cải
thiện. Khi đó, đóng góp của khu vực hành chính nhà nước vào sự phát triển
của nền kinh tế còn lớn hơn những đóng góp trực tiếp từ những khoản chi
ĐTPT từ NSNN cho nền kinh tế. Ít nhất, cũng giảm được tình trạng thất
thoát, tham nhũng, cản trở kinh tế phát triển.
Chúng tôi cho rằng, chủ trương tăng chi ĐTPT trong thời gian qua đã
góp phần bảo đảm đủ vốn đầu tư cho các công trình chiến lược, trọng điểm,
cần vốn đầu tư của Nhà nước. Trong giai đoạn tới, khi đã đạt tới được một
mức độ nhất định (như ngày nay) về cơ sở hạ tầng, cần thiết phải có chiến
lược điều chỉnh cơ cấu chi NSNN theo hướng tập trung ưu tiên thích đáng
cho chi thường xuyên, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của cải cách hành chính,
giáo dục, y tế và KH&CN nhằm tháo gỡ các vướng mắc cản trở sự phát triển
của nền kinh tế, chuẩn bị nền tảng cho nền kinh tế phát triển bền vững.
115
Hai là, nội dung kết cấu chi ĐTPT từ nguồn NSNN có nhiều thay đổi
thể hiện sự chuyển biến tích cực về chính sách chi ĐTPT
Thực tế cho thấy, cùng với việc tăng quy mô chi ĐTPT, thì điều quan
trọng là các nội dung và định hướng chi ĐTPT cũng đã có sự thay đổi đáng
kể: tập trung nguồn đầu tư XDCB để cải tạo, xây dựng hạ tầng cơ sở như
giao thông, thủy lợi, hạ tầng xã hội như giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao... Về
quan điểm cũng có sự thay đổi rõ rệt: giảm dần đầu tư trực tiếp từ ngân sách,
thực hiện bảo lãnh của Chính phủ, vay về cho vay lại.
Kết quả nghiên cứu xem xét các nội dung kết cấu cụ thể của chi ĐTPT
từ NSNN những năm qua cho phép rút ra nhiều nhận xét quan trọng về
những thay đổi tích cực cả về quan điểm, chủ trương và phương pháp sử
dụng công cụ NSNN tác động vào nền kinh tế của Nhà nước. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, chi NSNN cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng có xu hướng
tăng nhanh
Nếu như giai đoạn 1986-1990 chi xây dựng cơ sở hạ tầng chỉ chiếm
52,8% tổng chi XDCB, thì đến giai đoạn 1991-1995 đã tăng lên 60,9%. Bên
cạnh đó, tỷ trọng các khoản chi đầu tư cho các cơ sở sản xuất kinh doanh
cũng giảm tương ứng từ 47,2% tổng chi XDCB giai đoạn 1986-1990 xuống
còn 39,1% trong giai đoạn 1991-1995 và tiếp tục giảm trong các năm tiếp
theo.
Thứ hai, chi đầu tư XDCB so với tổng chi ĐTPT tăng trong khi chi xây
lắp giảm, chi đền bù giải phóng mặt bằng cũng tăng
Trong chi ĐTPT, chi đầu tư XDCB so với tổng chi ĐTPT đã tăng từ
78,6% năm 1991 lên 90% năm 1995 và đạt 93,9% năm 2005. Cơ cấu chi đầu
tư XDCB có sự thay đổi theo hướng tập trung hơn cho các công trình trọng
điểm quốc gia như giao thông, thủy lợi, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho
các vùng còn có nhiều khó khăn và các lĩnh vực ưu tiên, như: chi đầu tư từ
NSNN thời kỳ 2001-2005 cho ngành nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 22,2%;
giao thông vận tải, bưu điện 27%; GD&ĐT 8,9%; y tế - xã hội 6,9%; văn
hóa, thể thao 4,3%; khoa học công nghệ 3,1%.
Bảng 32 - Cơ cấu chi ĐTPT
Đơn vị:%
1991 1995 2000 2005
Tổng chi ĐTPT 100 100 100 100
- Chi đầu tư XDCB 78,6 90,0 88,5 93,8
- Chi ĐTPT khác 21,4 10,0 11,5 6,2
Nguồn: Bộ Tài chính
Cơ cấu chi đầu tư XDCB trong thời gian qua đã có những chuyển dịch
theo hướng tập trung xây dựng các công trình trọng điểm quốc gia có ý nghĩa
quan trọng góp phần vào tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tuy vậy,
mặc dù chi đầu tư XDCB có tăng nhanh nhưng chi cho xây lắp lại có xu
116
hướng giảm (năm 1991 là 83,9%, năm 2002 là 74,4%), trong khi đó chi cho
đền bù, giải phóng mặt bằng lại có xu hướng tăng đáng kể. Điều này phản
ánh khá rõ những bất cập trong đầu tư XDCB ở nước ta. Chi XDCB t
Tỷ trọng chi thiết bị không tăng (chi xây, chưa tập trung phát triển hiện
đại hóa kỹ thuật khi đầu tư, điều đó không làm tăng nhanh
Bảng 33 - Cơ cấu chi đầu tư XDCB
Đơn vị:%
1991 1995 2000 2002
Tổng chi đầu tư XDCB 100 100 100 100
- Chi xây lắp 83,9 75,4 73,5 74,4
- Chi mua sắp thiết bị 8,1 9,4 9,6 9,3
- Chi XDCB khác 8,6 15,2 16,9 16,3
Trong đó: chi đền bù, giải phóng
mặt bằng
- - 8,1 13,2
Nguồn: Bộ Tài chính
Thứ ba, vốn đầu tư từ NSNN được tập trung cho những công trình
trọng điểm, mang tính chiến lược, những cơ sở hạ tầng quan trọng của cả
nước, đã có lựa chọn ưu tiên ngành và kết hợp chi NSNN theo ngành và theo
lãnh thổ
Trong những năm qua, đặc biệt trong giai đoạn 2001-2005, vốn đầu tư
NSNN đã chú trọng tập trung đầu tư nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế-
xã hội. Sự chuyển hướng tích cực đó thể hiện qua hàng loạt chương trình như
chương trình kiên cố hóa kênh mương, kiên cố hóa trường lớp học, chương
trình tôn nền vượt lũ Đồng bằng sông Cửu Long, chương trình phát triển đội
tàu Việt Nam, các công trình giao thông chính như đường HCM, đường Hà
Tĩnh- Ngọc Hồi; cải tạo, mở rộng và xây dựng mới các cảng biển Hải Phòng,
Cái Lân, Nghi Sơn, Cửa Lò, Dung Quất, Liên Chiểu và các cầu lớn như cầu
Cần Thơ, cầu Bãi Cháy, cầu Rạch Miễu, các sân bay Nội Bài, Tân Sơn Nhất,
Phú Bài, Liên Khương.... Đầu tư từ NSNN cũng đã chú trọng phát triển các
ngành kinh tế mũi nhọn (khí điện đạm, xi măng, thép, thủy điện...), các vùng
kinh tế động lực, các khu công nghiệp, khu công nghệ cao, đồng thời ưu tiên
phát triển các vùng sâu, vùng xa và vùng có khó khăn (Tây Nguyên, Miền núi
phía Bắc, các tỉnh miền Tây Nam Bộ...).
Trong những năm qua, đặc biệt từ năm 1995, đã có những chính sách
rất quan trọng đối với phát triển ngành như tập trung ưu tiên phát triển nguồn
nhân lực thông qua GD&ĐT, phát triển nông nghiệp nông thôn, giao thông
vận tải, y tế... Cơ cấu chi NSNN của một số ngành chủ yếu như bảng sau.
117
Bảng 34 - Cơ cấu chi NSNN theo ngành kinh tế
Đơn vị tính:%
1991 1995 2000 2005
Tổng chi NSNN 100 100 100 100
- Nông nghiệp 4,8 5,0 5,2 8,9
- Giao thông vận tải 6,3 7,8 10,8 12,1
- GD&ĐT 10,3 11,0 15,0 18,0
- Khoa học công nghệ 1,2 1,3 2,0 2,0
- Y tế 3,1 3,6 4,2 5,4
- Văn hóa, thể thao 2,0 2,3 3,2 3,3
Nguồn: Bộ Tài chính
Đối với lĩnh vực giao thông vận tải: Trong những năm qua Nhà nước
đã tập trung đầu tư nâng tỷ trọng chi ngân sách tăng từ 6,3% năm 1991 lên
12,1% vào năm 2005 nên tổng mức đầu tư cho ngành giao thông vận tải được
duy trì ở mức 14% vốn đầu tư toàn xã hội, đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách
chiếm khoảng 27,5% tổng nguồn vốn đầu tư của ngân sách. Nhà nước đã tập
trung đầu tư cho hệ thống đường quốc lộ, trục đường quan trọng, hạ tầng giao
thông nông thôn, đặc biệt là các vùng núi, biên giới, Tây Nguyên. Đã hoàn
thành một số đoạn đường quan trọng trên các trục quốc lộ và đồng thời khởi
công và tập trung đầu tư cho một số dự án lớn như: quốc lộ 1, 5, 10, 18, 51,
đẩy mạnh tiến độ thi công dự án đường Hồ Chí Minh; cầu Bãi Cháy, Cần
Thơ, cầu Rạch Miễu, cầu Bính; hoàn thành việc mở rộng và nâng cấp để đưa
vào sử dụng nhà ga T1, sân bay quốc tế Nội Bài, đường hạ cất cánh 1B sân
bay Nội Bài; xây dựng nhà ga hành khách quốc tế sân bay Tân Sơn Nhất,
nâng cấp sân bay Phú Bài, Liên Khương, Buôn Ma Thuật, Tuy Hòa; cải tạo
mở rộng và xây dựng mới cảng biển Hải Phòng, Cái Lân, Nghi Sơn,..
Đối với nông, lâm, ngư nghiệp và thủy lợi: Chi cho lĩnh vực này đã đạt
tốc độ tăng khá, do vậy tỷ trọng chi cho lĩnh này ngày càng tăng trong tổng
chi NSNN (năm 1991 là 4,8% đến năm 2005 là 8,9%), đầu tư từ ngân sách ở
khu vực này chiếm 13,1% vốn đầu tư toàn xã hội, bằng 22,6% tổng vốn đầu
tư từ NSNN. Đã chú trọng đầu tư nhằm chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông
nghiệp và kinh tế nông thôn. Về thủy lợi: tập trung cho chương trình kiểm
soát lũ, đặc biệt các dự án thủy lợi thuộc đồng bằng sông Cửu Long, các tỉnh
miền Trung, phát triển thủy lợi đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2, các hồ
chứa nước các tỉnh Tây Nguyên như: Ea Súp Thượng, hồ Eakao, hồ Đắc
Yên, thủy lợi Na Hang...
Thứ tư, đã triển khai nhiều chính sách hỗ trợ khuyến khích phát triển
nông nghiệp, nông thôn, góp phần cải thiện đời sống vật chất và tinh thần
của nông dân, tăng cường đoàn kết dân tộc, ổn định chính trị-xã hội.
Với khoảng 72% dân số sống ở nông thôn, 20% GDP đóng góp từ lĩnh
vực nông nghiệp; nông thôn là nguồn cung cấp lao động, là nơi cung cấp
lương thực, thực phẩm phục vụ đời sống xã hội, cung ứng nguyên liệu, tài
118
nguyên khoáng sản cho sản xuất công nghiệp... Vì vậy, việc phát triển nông
nghiệp, nông thôn có vị trí hết sức quan trọng. Trong những năm vừa qua
Nhà nước đã có nhiều chính sách hỗ trợ khuyến khích phát triển kinh tế nông
nghiệp, nông thôn, nhờ đó kinh tế nông nghiệp đã có những sự chuyển dịch
theo hướng tích cực, đời sống vật chất và tinh thần của khu vực nông thôn
được cải thiện, đoàn kết dân tộc được tăng cường, góp phần ổn định kinh tế-
xã hội. Cụ thể từ năm 2001-2005 nhiều chính sách cho lĩnh vực nông nghiệp,
nông thôn đã được bố trí lên đến hàng nghìn tỷ đồng như: chương trình 135
là 6.779 tỷ đồng, chương trình kiên cố hóa trường lớp học 2.578 tỷ đồng,
chương trình tôn nền vượt lũ đồng bằng sông Cửu Long 2.000 tỷ đồng, dự án
5 triệu ha rừng 6.679 tỷ đồng...
Cùng với đầu tư trực tiếp từ ngân sách, Nhà nước còn ĐTPT kinh tế
nông nghiệp nông thôn qua chính sách tín dụng như ưu tiên bố trí vốn tín
dụng ưu đãi cho chương trình kiên cố hóa kênh mương, đường giao thôn
nông thôn, cơ sở hạ tầng nuôi trồng thủy sản và cơ sở hạ tầng làng nghề ở
nông thôn 5.485 tỷ đồng; các dự án đầu tư mở rộng sản xuất, tăng xuất khẩu
trong nông nghiệp, ngân sách bù lãi suất cho vay hỗ trợ sản xuất thông qua
Quỹ hỗ trợ phát triển, ngân hàng CSXH... Nhờ đó, kinh tế nông nghiệp nông
thôn có bước chuyển dịch và phát triển với tốc độ tăng bình quân giá trị sản
xuất toàn ngành nông, lâm, ngư nghiệp thời kỳ 2001-2005 là 5,4%/năm,
trong đó nông nghiệp tăng 4,0%, lâm nghiệp tăng 1,3%, ngư nghiệp tăng
10,7%. Giá trị tăng thêm của ngành nông, lâm, ngư nghiệp tăng hàng năm là
4,3%/năm; độ che phủ rừng tăng từ 33,7% năm 2000 lên khoảng 38% năm
2005.
Kết quả là kinh tế nông thôn đã và đang phát triển theo hướng đa dạng
hóa ngành nghề, tăng tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ, giảm sản xuất
thuần nông. Trong 5 năm 2001-2005, tỷ lệ công nghiệp trong kinh tế nông
thôn đã cao hơn 6%, tỷ trọng dịch vụ đã cao hơn 4%, trong khi tỷ trọng nông
nghiệp trong kinh tế nông thôn giảm 10%. Tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn đã
giảm hơn một nửa từ 20,1% năm 2000 xuống còn 10% năm 2005.
Chính nhờ sự chuyển dịch này (cả chuyển dịch về quan điểm, chủ
trương, cả về bố trí NSNN) mà hệ thống cơ sở hạ tầng của nước ta đã được
cải thiện so với giai đoạn trước, nhất là hệ thống giao thông, hệ thống thuỷ lợi
phục vụ nông nghiệp, góp phần tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Thứ năm, ngoài việc chuyển dịch cơ cấu chi cho ĐTPT, phạm vi chi
ĐTPT của NSNN cũng có chuyển dịch căn bản, trên cơ sở đầu tư có tính chất
định hướng để thu hút đầu tư xã hội
Việc Nhà nước xác định rõ phạm vi chi NSNN là một trong nhiều
nguồn tài chính ĐTPT KT-XH đã tạo ra cơ chế huy động thêm các nguồn lực
ngoài ngân sách đảm bảo mục tiêu phát triển kinh tế cũng như sự phát triển
của các lĩnh vực GD&ĐT, y tế, văn hoá, xã hội, xóa đói giảm nghèo.
119
Bên cạnh nguồn vốn NSNN và vốn vay nợ, viện trợ của các nước, các
tổ chức quốc tế, Nhà nước thực hiện chính sách huy động đóng góp của các
tổ chức kinh tế và của dân cư cho việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng các
công trình trọng yếu tại các địa phương: đường liên thôn, liên xã, trường học,
trạm xá... Nhờ có chính sách này mà nhiều địa phương đã cải thiện đáng kể
hạ tầng cơ sở và các dịch vụ công, đồng thời phát triển sản xuất tại địa
phương. Tính đến hết năm 2004, đã có 8.481 xã có điện/tổng số 8.991 xã
(chiếm tỷ lệ 94,33%); số xã chưa có điện còn 510 xã. Giao thông nông thôn
có bước phát triển mới, đến hết năm 2004, cả nước đã có 8.461 xã (chiếm
94,5%) có đường ô tô đến trung tâm xã, trong đó đồng bằng Sông Hồng đạt
tỷ lệ cao nhất 99,9%, thấp nhất là đồng bằng sông Cửu Long 78,1%; cả nước
có 23 tỉnh, thành phố đạt tỷ lệ 100% số xã có đường ô tô đến UBND xã.
Cùng với việc mở rộng và nâng cấp đường giao thông đến trung tâm xã, chất
lượng đường giao thông liên thôn đã được nâng cấp (đến nay đã có 1427 xã,
chiếm 16% tổng số xã có đường liên thôn được nhựa hóa, bê tông hóa trên
50%). Mạng lưới trường học, trạm xá, nhà trẻ, chợ... ở nông thôn được mở
rộng: 99,8% số xã có trường cấp I, 76,6% xã có trường cấp II, 7% xã có
trường cấp III, 92% xã có trạm y tế, 78% số xã có trường mẫu giáo, 36% số
xã có nhà trẻ, 62% số hộ nông thôn được dùng nước sạch.
Bảng 35 - Cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội so với tổng số (%)
1991
1995
1996-
2000 2001 2003 2005
2000
2005
Vốn NSNN 22,4 23,6 26,7 24,0 23,1 24,8
Vốn tín dụng đầu tư 6,8 15,4 16,8 16,9 9,4 13,8
Vốn từ DNNN 8,5 16,1 10,6 9,3 15,6 11,2
Vốn đầu tư nước ngoài 28,1 21,4 17,6 16,3 14,7 16,4
Vốn dân cư và tư nhân 34,1 23,6 22,6 29,7 32,8 28,0
Vốn huy động khác 0 0 3,9 4,4 4,4
Nguồn: Số liệu niên giám thống kê và Báo cáo Quốc hội của Bộ Kế hoạch và đầu tư
Ngoài nguồn đầu tư từ ngân sách, trong những năm qua, các chính
sách ưu đãi đầu tư của Nhà nước đã khuyến khích các khu vực khác tham gia
vào ĐTPT sản xuất kinh doanh, với tốc độ tăng hàng năm bằng với tốc độ
tăng đầu tư của NSNN. Điều đó đã góp phần đưa tổng mức đầu tư của toàn
xã hội ngày càng tăng nhanh. Trong đó, mặc dù, chi đầu tư từ ngân sách tăng
nhanh nhưng tỷ trọng đầu tư của ngân sách trong tổng đầu tư toàn xã hội
không tăng lên tương ứng: thời kỳ 96-2000 chiếm 23,6% tổng đầu tư toàn xã
hội đến thời kỳ 2001-2005 là 24,8%. Điều này chứng tỏ việc huy động các
nguồn tài chính ngoài NSNN đã có tác dụng tốt.
3). Tỷ trọng chi thường xuyên có xu hướng giảm
Xét về cơ cấu trong tổng số chi NSNN thì tỷ trọng chi thường xuyên
nhiều năm qua có xu hướng giảm, song xét về quy mô và tốc độ tăng thì
không hoàn toàn như vậy. Từ năm 1991 đến năm 1995, bình quân chi thường
120
xuyên tăng khoảng 49%, trong đó tăng cho các sự nghiệp GD&ĐT là 56,3%,
sự nghiệp văn hoá-thông tin 49,3%, sự nghiệp thể dục thể thao 81,0%, đảm
bảo xã hội 60,5%, quản lý hành chính 53,1%... Tỷ trọng chi thường xuyên so
với GDP tăng từ 10,4% năm 1991 lên 17,0% năm 1995 nhằm đáp ứng một
phần nhu cầu chi tăng lên rất lớn hàng năm về sự nghiệp kinh tế, GD&ĐT,
văn hoá xã hội, cải cách bộ máy hành chính, đảm bảo quốc phòng-an ninh;
đồng thời có nguồn lực thực hiện các chính sách phát triển kinh tế miền núi,
vùng cao, vùng đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn, xóa đói giảm nghèo,
khắc phục hậu quả thiên tai... Thực hiện được cải cách tiền lương năm 1993,
đảm bảo chi thực hiện một số chính sách mới của Đảng và Nhà nước đối với
người có công với cách mạng.
Bảng 36 - Cơ cấu chi thường xuyên giai đoạn 1991 – 1995 (%)
1991 1992 1993 1994 1995 1991 -1995
Tổng chi thường xuyên 100 100 100 100 100 100
Trong đó:
- Chi GD&ĐT 13,9 13,8 13,4 14,8 16,1 14,3
- Chi y tế 7,2 7,3 7,1 7,3 7,3 7,2
- Nghiên cứu khoa học 1,4 2,0 2,2 1,9 1,9 2,0
- Quản lý hành chính 15,9 17,6 18,5 15,3 14,4 16,8
Nguồn: Bộ Tài chính
Tuy nhiên, từ những năm sau, nhất là trong các năm 2001-2005, tỷ
trọng chi thường xuyên của NSNN có xu hướng giảm nhường chỗ cho sự gia
tăng chi ĐTPT và chi trả nợ, viện trợ. Trong giai đoạn 1996-2000, tỷ trọng
chi thường xuyên chiếm khoảng 59,2% tổng chi NSNN và 14,3% GDP. Bình
quân 10 năm (1991-2000), đạt 60,1% tổng chi NSNN. Nhưng sang giai đoạn
2001-2005, tổng chi thường xuyên chỉ còn chiếm 50% tổng chi NSNN và
bằng 15,1%GDP.
Bảng 37 – Cơ cấu chi ĐTPT và chi thường xuyên giai đoạn từ 1991-2005
1991-1995 1996-2000 2001-2005
Chi ĐTPT từ NSNN (tỷ đ) 46 297 115 796 280 764
Tỷ lệ chi ĐTPT từ NSNN so GDP (%) 6,3 6,5 8,8
Chi thường xuyên từ NSNN 115 461 256 522 479 732
Tỷ trọng chi thường xuyên so GDP (%) 15,7 14,3 15,1
Nguồn: Bộ Tài chính và Tổng cục Thống kê
Bên cạnh việc tỷ trọng chi thường xuyên giảm trong tổng chi NSNN
thì cơ cấu chi thường xuyên cũng đã có sự thay đổi đáng kể. Theo đó, các
nhiệm vụ quan trọng có tốc độ tăng khá cao như chi cho GD&ĐT thời kỳ
1996-2000 tăng 14,8%, thời kỳ 2001-2005 tăng 16%; Khoa học công nghệ
tốc độ tăng tương ứng 14,2% và 15,2%; Y tế tăng 7,7% và 15%... (tỷ lệ này
chưa tính chi ĐTPT trong từng lĩnh vực).
121
Bảng 38 - Cơ cấu chi thường xuyên NSNN thời kỳ 1996-2005
1996-2000 2001 2003 2005
Tổng chi thường xuyên 100 100 100 100
- Chi GD&ĐT 19,0 21,6 23,8 26,3
- Chi y tế 6,0 5,9 5,6 7,4
- Nghiên cứu khoa học 1,7 2,3 2,1 2,0
- Quản lý hành chính 13,7 12,2 11,9 11,9
Nguồn: Bộ Tài chính
Trong giai đoạn này, kết hợp với việc thay đổi quy mô và cơ cấu chi,
Nhà nước đã có chính sách huy động nguồn lực trong xã hội để bổ sung phát
triển các ngành GD&ĐT, y tế, văn hoá, nghệ thuật... Cơ chế quản lý tài chính
theo hướng tăng cường tự chủ tài chính và nâng cao trách nhiệm của đơn vị
sử dụng ngân sách được thí điểm đã có kết quả bước đầu, tạo cơ sở cho việc
đổi mới cơ chế quản lý tài chính công trong những năm sau theo hướng mở
rộng đối tượng thực hiện khoán chi, khoán biên chế hành chính, áp dụng cơ
chế quản lý tài chính mới, tăng quyền và trách nhiệm đối với các đơn vị sự
nghiệp.
Hình 10 - Xu hướng biến động chi ĐTPT và chi thường xuyên
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%
2001 2002 2003 2004 2005
Tỷ trọng chi thường xuyên của NSNN có xu hướng giảm,
chi trả nợ và chi đầu tư phát triển có xu hướng tăng
Các khoản chi khác của NSNN
Chi trả nợ, viện trợ
Chi đầu tư phát triển
Chi thường xuyên
Nguồn: Bộ Tài chính
4). Tỷ trọng chi trả nợ và viện trợ có xu hướng tăng đáng kể
Trong khi chi đầu tư tăng nhanh và sự giảm đáng kể của chi thường
xuyên thì tỷ trọng chi trả nợ và viện trợ cũng có xu hướng tăng đáng kể từ
11,2% năm 1991 lên 15,1% vào năm 2005.
122
Có thể đánh giá từ năm 1991 đến nay, việc cơ cấu lại nợ ngoài nước đã
đạt được những kết quả rất lớn thông qua Câu lạc bộ Paris, London góp phần
vào giảm dư nợ Chính phủ từ 53,6% so GDP năm 1991 xuống còn 31%
GDP vào năm 1995. Tiếp theo, đã thành công trong xử lý các khoản nợ bằng
Rúp với các nước Đông Âu và Nga góp phần vào giảm nợ Chính phủ, nợ
quốc gia. Đồng thời, với việc cơ cấu lại nợ như đã phân tích trên, đã có
những thay đổi rất quan trọng về quan điểm vay nợ của NSNN như: không
vay thương mại, không phát hành tiền, chỉ vay ưu đãi nước ngoài và vay
trong nước để bù đắp bội chi ngân sách và bội chi chỉ dùng cho ĐTPT. Chính
từ những chính sách trên, nợ của Chính phủ đã trở nên lành mạnh, dư nợ
chính phủ, dư nợ quốc gia đến hết năm 2005 vẫn trong giới hạn an toàn, đảm
bảo an ninh tài chính quốc gia (dư nợ Chính phủ đến hết năm 2005 là 36,2%
GDP). Đây là mức dư nợ nằm trong giới hạn an toàn, chưa tác động xấu đến
sự ổn định kinh tế vĩ mô.
Xuất phát từ việc cơ cấu lại nợ nên đã chủ động bố trí trả nợ đúng hạn.
Thời kỳ 1991-1995 chi trả nợ chiếm 14,9% tổng chi NSNN (trong đó trả nợ
nước ngoài là 7,1%), bằng 17,9% tổng thu NSNN và 3,9% GDP.
Chi trả nợ thời kỳ 1996-2000 chiếm 13,2% tổng chi NSNN, thời kỳ
2001-2005 chiếm 13,9% tổng chi NSNN. Trả nợ bình quân thời kỳ 1996-
2000 chiếm 15,6% tổng thu NSNN và 8,9% kim ngạch xuất khẩu; tỷ lệ này
lần lượt với thời kỳ 2001-2005 là 16,6% và 6,1%.
Bảng 39 - Tỷ trọng chi trả nợ so với thu chi NSNN
Đơn vị tính:%
1991 1995 2000 2005
Chi trả nợ so tổng chi NSNN 11,2 15,9 12,2 13,4
Chi trả nợ so với tổng thu NSNN 13,2 18,6 14,6 16,5
Chi trả nợ nước ngoài so với kim ngạch
xuất khẩu
6,1 8,1 2,5 1,9
Nguồn: Bộ Tài chính
Trong cơ cấu trả nợ thì trả nợ lãi mặc dù tỷ trọng giảm trong tổng chi
trả nợ do cơ cấu lại nợ (năm 1991 trả nợ lãi trong tổng chi trả nợ là 84,4%,
năm 2000 là 26,1% và đến 2005 là 24,4%), tuy nhiên tỷ trọng chi trả nợ lãi so
tổng chi thường xuyên lại có chiều hướng tăng từ 5,7% năm 2000 lên 6,8%
vào năm 2005.
Bảng 40 - Tỷ trọng chi trả nợ gốc và lãi
Đơn vị tính:%
1991 1995 2000 2003 2005
Tổng chi trả nợ 100 100 100 100 100
- Chi trả nợ gốc 10,6 70,9 73,2 74,9 75,6
- Chi trả nợ lãi 89,4 29,1 26,1 25,1 24,4
Tỷ trọng chi trả nợ lãi so với
tổng chi thường xuyên
15,1 7,4 5,7 6,7 6,8
Nguồn: Bộ Tài chính
123
Nhìn chung, công tác quản lý nợ Chính phủ có tiến bộ, chủ động đàm
phán để dãn, hoãn nợ hoặc đạt được phương thức trả nợ có lợi nhất (trả bằng
hàng, tái đầu tư cho nền kinh tế), điều hành chi trả nợ theo nguyên tắc có lợi
cho NSNN và đảm bảo thực hiện các cam kết.
Trong những năm qua cơ cấu NSNN đã chuyển từ ngân sách tiêu dùng
sang ngân sách phát triển: tỷ lệ dành cho ĐTPT ngày càng được tăng lên,
đảm bảo chi trả kịp thời, đúng hạn các khoản nợ đến hạn, góp phần vào việc
ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
5). Chi NSNN đã đảm bảo thực hiện mục tiêu phát triển nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp GD&ĐT, KH&CN.
Mặc dù chi thường xuyên giảm tỷ trọng trong tổng chi NSNN, song
các nhu cầu chi tiêu phát triển sự nghiệp GD&ĐT, KH&CN đều được đáp
ứng và tốc độ chi tăng nhanh qua các năm.
Chi NSNN cho GD&ĐT:
Chi NSNN cho GD&ĐT đã được ưu tiên nhằm tạo bước chuyển biến
về giáo dục, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đào tạo công nhân
lành nghề. Chi ngân sách cho GD&ĐT chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong
tổng chi ngân sách, năm 2000 là 15% đến năm 2005 tỷ lệ này là 18,0%. Cơ
cấu chi cho GD&ĐT đã có sự thay đổi theo hướng tăng chi ở giáo dục từ
64,2% năm 1991 lên 82% vào năm 2005, trong khi đó chi cho đào tạo giảm
tương ứng là từ 35,8% xuống còn 18%. Điều này phản ánh quan điểm ưu tiên
đầu tư cho giáo dục cơ bản và giáo dục ở những vùng còn có nhiều khó khăn,
vùng dân tộc thiểu số.
Xét tỷ trọng so với GDP, chi NSNN cho GD&ĐT tăng từ 2,9%GDP
(năm 1996) lên 3,5%GDP (năm 1998) và 4,7%GDP (năm 2004). Nếu kể cả
chi bằng nguồn công trái giáo dục đã giải ngân 5.000 tỷ đồng trong kế hoạch
2003-2004, trong đó năm 2003 đã huy động 2.579 tỷ đồng, thì chi cho
GD&ĐT của ta đã vượt qua mức chi tiêu cho GD&ĐT tính trên GDP của
Châu Á và cao hơn nhiều nước trong khu vực7.
Nhờ có sự đầu tư của Nhà nước, nội dung chương trình giảng dạy đã
có nhiều đổi mới, chất lượng bước đầu được cải thiện. Chất lượng và hiệu
quả giáo dục phổ thông đã có chuyển biến tích cực. Tỷ lệ lưu ban, bỏ học
giảm dần...
Bảng 41 - Cơ cấu chi GD&ĐT
Đơn vị tính:%
1991 1995 2000 2005
Tổng chi cho GD&ĐT 100 100 100 100
Chia ra:
- Chi cho giáo dục 64,2 72,3 75,9 82,0
- Chi cho đào tạo 35,8 27,7 24,1 18,0
Nguồn: Bộ Tài chính
124
Chi NSNN cho y tế
Năm 2005 chiếm khoảng 5,4% tổng chi NSNN. Nhờ có đầu tư từ
NSNN, y tế Việt Nam đã đạt được kết quả quan trọng, các chỉ số về sức khỏe
tiếp tục được cải thiện và tỷ lệ sinh nở đã được kiểm soát. Việt Nam cũng là
nước có bước tiến nhanh chóng trong việc kiểm soát các bệnh dịch có thể
phòng chống bằng vắc xin như: sởi, bạch hầu, ho gà, uốn ván... Tuy nhiên,
chi NSNN cho y tế của Việt Nam so với các nước trong khu vực vẫn ở mức
thấp, chỉ đạt 1,75%GDP trong khi tỷ lệ chi NSNN cho y tế của các nước Thái
Lan đạt 2,1% GDP; Trung Quốc, Malaysia đạt 2%GDP.
Chi cho KH&CN
Chi cho KH&CN đạt 2% tổng chi NSNN, trong đó 37% là chi ĐTPT,
63% là kinh phí sự nghiệp. Tốc độ tăng chi bình quân đạt 10%/năm.
1.2.2. Những vấn đề đặt ra về chi NSNN giai đoạn 2001-2005
1). Mức độ ảnh hưởng của tổng chi đến tính bền vững của NSNN.
Xem xét dự toán và thực tế chi NSNN qua các năm đều thấy xuất hiện
tình trạng tổng chi tiêu của NSNN năm sau luôn cao hơn dự toán và cao hơn
thực hiện của năm trước nhưng bội chi vẫn được duy trì ở mức 5%GDP. Liệu
điều này có ảnh hưởng đến sự bền vững của NSNN hay không?
Trước hết, cho dù quy mô chi NSNN giai đoạn 2001 - 2005 đạt
29%GDP, cao hơn giai đoạn 1996-2000 (24,4%GDP); thậm chí, quy mô chi
NSNN năm sau thường cao hơn năm trước, tăng từ 24,7% năm 2000 lên
30% năm 2005 nhưng tốc độ tăng khá ổn định và có xu hướng chậm lại. Do
vậy, nhìn chung, quy mô chi thực tế của NSNN những năm vừa qua được
đánh giá là không quá cao so với khả năng thu, không gây sức ép xấu đến
mức độ bền vững và cân đối NSNN.
Hình 11 – Biến động của quy mô chi NSNN
Quy mô chi NSNN tăng nhưng tốc độ giảm dần
-
50 000
100 000
150 000
200 000
250 000
300 000
350 000
400 000
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
0,0%
5,0%
10,0%
15,0%
20,0%
25,0%
Chi cân đối NSNN
Tốc độ tăng chi NSNN
Nguồn: Bộ Tài chính
125
Tuy nhiên, tình trạng thực hiện chi NSNN luôn luôn vượt dự toán đã
được Quốc hội phê chuẩn là điều đáng xem xét. Nhiều khoản chi đã vượt dự
toán khá lớn. Năm 2005, chi sự nghiệp kinh tế vượt 30,2% so với dự toán, chi
bổ sung quỹ dự trữ quốc gia vượt 58%, chi quản lý bộ máy vượt 11,9%...
Tình trạng chi tiêu vượt dự toán đã phê chuẩn thể hiện kỷ luật tài chính chưa
nghiêm và chứa đựng những nguy cơ ảnh hưởng đến tính bền vững, ổn định
của NSNN.
Qua xem xét các số liệu thực tế đã được kiểm chứng thì, do tăng
trưởng kinh tế luôn ở mức cao, tốc độ tăng chi NSNN (sau khi quy về một
mặt bằng để so sánh) ổn định, có xu hướng giảm và thấp hơn tốc độ tăng
trưởng kinh tế, tỷ suất chi NSNN không cao, chưa vượt quá 1/3 GDP. Do đó,
có thể đánh giá rằng, quy mô chi NSNN không trực tiếp ảnh hưởng xấu đến
sự bền vững của NSNN. Tuy nhiên, cũng cần xem xét mức độ hợp lý của
việc bố trí các khoản mục chi NSNN cụ thể trong từng giai đoạn để đánh giá
tính bền vững của NSNN.
2). Cơ cấu chi đầu tư còn bất cập, tỷ trọng đầu tư của NSNN ngày càng tăng cao nhưng hiệu quả đầu tư chưa tăng tương xứng
Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong những năm qua tăng khá nhưng chủ
yếu theo mô hình tăng trưởng số lượng; đầu tư xã hội tăng nhanh nhưng hiệu
quả thấp, hệ số ICOR cao; chuyển dịch cơ cấu tuy có khá hơn trước nhưng
vẫn còn chậm.
Cơ cấu NSNN giữa chi đầu tư và chi thường xuyên đã có thay đổi, tập
trung ưu tiên chi ĐTPT nhưng tình trạng dàn trải, phân tán trong đầu tư chậm
được khắc phục, hiệu quả đầu tư còn thấp, tình trạng thất thoát lãng phí xảy
ra từ khi quyết định chủ trương đầu tư cho đến khâu tổ chức thực hiện.
Mặc dù cơ cấu nội bộ chi đầu tư từ NSNN đã có có chuyển dịch theo
chiều hướng tích cực, như giảm bao cấp, chỉ đầu tư vào cơ sở hạ tầng kinh tế
- xã hội phục vụ thu hút vốn ĐTPT sản xuất, nhưng lại xuất hiện xu hướng
tăng nhanh các khoản chi đền bù, giải phóng mặt bằng. Điều này càng làm
hiệu quả chi ĐTPT ngày càng thấp.
Trên thực tế, chi đầu tư còn rất dàn trải, hiệu quả thấp, cơ cấu chi theo
ngành lĩnh vực kết hợp với vùng lãnh thổ còn nhiều bất cập; công tác quy
hoạch, chuẩn bị dự án, chuẩn bị đầu tư chưa được chú trọng và chưa có tầm
nhìn trung hạn nên chất lượng dự án thấp.
Cơ cấu chi ngân sách theo ngành lĩnh vực đã có bước thay đổi khá
quan trọng như ưu tiên ĐTPT, GD&ĐT, KH&CN, bố trí ngân sách ĐTPT
cơ sở hạ tầng giao thông, thủy lợi... Tuy nhiên, công tác quy hoạch phát
triển ngành, vùng và lãnh thổ được chuẩn bị chưa tốt và không được cập
nhật thường xuyên dẫn đến việc việc phân phối và sử dụng ngân sách đầu
tư theo ngành và theo địa phương còn phân tán, hiệu quả thấp và có sự
trùng lặp.
126
Điều đáng chú ý là, tổng chi ĐTPT đã đạt 85,7 ngàn tỷ (2006), dự toán
năm 2007 là 99,5 ngàn tỷ, với đà thực hiện vượt dự toán như hàng năm trên
10% thì chi ĐTPT từ NSNN chắc chắn sẽ vượt ngưỡng 100 ngàn tỷ trong
năm 2007. Từ nhiều năm nay, chi ĐTPT đều vượt dự toán lớn và tăng cao so
với năm trước, hiện đã chiếm gần 9%GDP. Hiện tượng tổng vốn bố trí chi
đầu tư từ NSNN luôn tăng cao, luôn phải trám vào những công trình dở dang,
thể hiện tình trạng đầu tư XDCB vẫn chưa thoát khỏi tình trạng thiếu tập
trung. Năm 2005, bình quân một dự án do TW quản lý chỉ được bố trí 6,8 tỷ
đồng. Dự án do địa phương quản lý chỉ là 3,15 tỷ đồng. Cá biệt, có dự án chỉ
được bố trí vài trăm triệu đồng. Việc bố trí vốn cho các dự án nhóm C (và
nhất là ở các tỉnh có khó khăn về thu, chi ngân sách) thường rất phân tán.
Tình trạng bố trí vốn dàn trải, phân tán chính là một nguyên nhân tiềm ẩn sự
lãng phí, thất thoát, tác động xấu đến sự bền vững của NSNN.
Bên cạnh đó, việc xử lý nợ tồn đọng vốn đầu tư XDCB chưa thật tích
cực. Quốc hội đã có Nghị quyết. Chính phủ đã quyết định tạm ứng để thanh
toán nợ tồn đọng vốn đầu tư XDCB của các công trình do Trung ương quản
lý, thu hồi dần từ kế hoạch năm 2005 đến năm 2007. Trong khi đó, nhiều
tỉnh, thành phố trực thuộc TW chưa thực sự nghiêm túc chấp hành Nghị
quyết của Quốc hội về bố trí vốn đầu tư XDCB trong kế hoạch năm 2005, chỉ
dành một phần nhỏ để thanh toán nợ tồn đọng vốn đầu tư XDCB là không
thoả đáng. Điều đó dẫn đến tình trạng nợ cũ vẫn chưa được giải quyết dứt
điểm, nợ mới tiếp tục phát sinh, trong đó có nợ phát sinh do đầu tư xây dựng
trụ sở xã…
Theo Báo cáo Đánh giá chi tiêu công 2005, tính bền vững NSNN đang
chịu sự tác động cụ thể từ các khoản nợ chi đầu tư XDCB ngoài cân đối ngân
sách đang tăng lên8. Đặc biệt, nợ ở các dự án của ngành giao thông đã lên tới
mức 6,5 ngàn tỷ đồng, trong đó, 3 ngàn tỷ ở cấp trung ương và 3,5 ngàn tỷ ở
cấp địa phương. Đây là một gánh nặng lớn đối với NSNN.
Chính những vấn đề bất cập trong phân bổ, quản lý và sử dụng vốn
ĐTPT của NSNN là nguyên nhân chính tiềm ẩn những tác động xấu, đe dọa
sự bền vững của NSNN.
3). Còn nhiều bất hợp lý trong cơ cấu chi thường xuyên, chi lương chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi thường xuyên nhưng mức lương công chức thấp, không đủ đảm bảo cuộc sống cá nhân
Trong cơ cấu chi thường xuyên, chi lương chiếm tỷ trọng ngày càng
tăng (năm 1997 là 46% tăng lên 56% vào năm 2004), chi ngoài lương giảm
tương ứng (năm 1997 là 54%, năm 2004 là 44%) dẫn đến chi phí cho hoạt
động thường xuyên của bộ máy nhà nước, hoạt động giảng dạy trong giáo
dục, chi duy tu bảo dưỡng các công trình cơ sở hạ tầng trong giao thông sẽ
không tăng, thậm chí một số lĩnh vực còn giảm. Cơ cấu chi này không đảm
bảo tăng hiệu quả sử dụng và hiệu quả đầu tư.
127
Trong khi đó, tuy tỷ trọng chi lương trong chi thường xuyên ngày càng
tăng nhưng mức lương của cán bộ công chức và người hưởng lương từ ngân
sách vẫn còn thấp do số lượng người hưởng lương từ NSNN còn lớn.
NSNN trong giai đoạn 2001-2005 đã được cơ cấu lại một cách hợp lý
nhằm phục vụ hiệu quả các mục phát triển kinh tế-xã hội của đất nước; tốc độ
và tỷ lệ thu NSNN đạt khá cao, không những đảm bảo được chi thường
xuyên mà còn có tích lũy để ĐTPT; tăng chi NSNN cho đầu tư cơ sở hạ tầng,
tăng chi cho GD&ĐT, chi cho nghiên cứu khoa học và tạo môi trường kinh
doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh; từng
bước cơ cấu lại chi NSNN theo hướng giảm phạm vi bao biện, giảm mạnh
các đối tượng bao cấp; bước đầu có cơ chế huy động thêm các nguồn lực
ngoài ngân sách để tập trung chi cho con người và phát triển nguồn nhân lực;
bố trí tăng chi y tế, bảo vệ và chăm sóc trẻ em; chú trọng chi cho công tác xoá
đói giảm nghèo; chính sách quản lý, sử dụng ngân sách đã từng bước được
hoàn thiện đảm bảo việc phân bổ, quản lý, sử dụng NSNN hiệu quả, chặt chẽ,
gắn quyền hạn với trách nhiệm...
Đánh giá chung
Sau 20 năm đổi mới, vị thế và tiềm lực của nền tài chính công đã củng
cố và tăng cường, dự trữ tài chính nhà nước và dự trữ ngoại tệ tăng khá, cải
thiện được cán cân thanh toán. Thu NSNN đã tăng từ mức 13,4%GDP giai
đoạn 1986-1990 lên 20,5%GDP giai đoạn 1991-2000 và đạt mức 22% trong
giai đoạn 2001-2005. Chi NSNN đã tăng từ mức bình quân 19,7%GDP giai
đoạn 1986-1990 lên 24,4%GDP trong giai đoạn 1991-2000 và 29% trong
giai đoạn 2001-2005. Chính các yếu tố đó đã tạo đủ nguồn lực để nhà nước
thực thi các nhiệm vụ chiến lược, đưa nền tài chính thoát khỏi tình trạng phụ
thuộc, có tích luỹ vốn để ĐTPT, cải thiện cơ sở hạ tầng kinh tế, giải quyết các
vấn đề xã hội.
Về chính sách ngân sách, bước đầu hình thành những quan điểm tích
cực trong xây dựng và điều hành ngân sách. Bắt đầu chuyển đổi từ một ngân
sách thụ động, chủ yếu trông chờ ngoại viện, mang nặng tính bao biện, bao
cấp, chi đủ, thu đủ sang một ngân sách mang tính tích cực hơn. Bước đầu
chuyển đổi cơ cấu thu-chi NSNN theo hướng duy trì các quan hệ cân đối tài
chính hợp lý, xác định tỷ lệ cần thiết giữa tỷ lệ động viên từ nền kinh tế vào
NSNN với tỷ lệ để lại tích luỹ tái sản xuất tại khu vực doanh nghiệp; giữa các
tỷ lệ thu, chi, bội chi NSNN. Trong cơ cấu chi ngân sách, đã bước đầu xác
lập được các quan hệ cân đối cần thiết giữa các tỷ lệ chi ngân sách cho đầu
tư, phục vụ định hướng phát triển kinh tế nhanh, bền vững với tỷ lệ chi
thường xuyên, đáp ứng nhu cầu chi tiêu hợp lý của bộ máy nhà nước và chi
trả nợ, dự trữ, dự phòng. Đồng thời, đã bắt đầu chuyển những nội dung chi
tiêu không thuộc phạm vi chức năng của NSNN sang khu vực doanh nghiệp
và dân cư (xã hội hoá); Trong điều hành vĩ mô, đã bắt đầu áp dụng các biện
pháp kích cầu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
128
Tuy nhiên, kết cấu chi NSNN vẫn còn chứa đựng những nội dung bao
cấp, bao biện, kế thừa từ thời kế hoạch hoá tập trung. Chi NSNN cho nhu cầu
thường xuyên của bộ máy quản lý nhà nước, nhất là chi lương, còn thiếu,
không đảm bảo tái sản suất sức lao động, hạn chế năng suất, hiệu quả công
tác. Việc xác định cơ cấu chi và lựa chọn ưu tiên chi NSNN còn thiếu những
quyết sách có chiều sâu, có tầm nhìn trung và dài hạn, có khả năng bảo đảm
cho kinh tế phát triển bền vững, còn thiên về mô hình tăng trưởng theo số
lượng. Chi NSNN cho ĐTPT còn quá dàn trải, lãng phí ngay từ khâu thiết kế
và lựa chọn dự án đầu tư, chưa chú trọng vào hàm lượng thiết bị, mới chỉ
quan tâm đến quy mô số lượng về vốn xây dựng cơ bản nên hiệu quả đầu tư
chậm được phát huy, nhất là chương trình mía đường, xi măng lò đứng... Chi
phát triển KH&CN, GD&ĐT và nguồn nhân lực từ NSNN chưa được coi
trọng đúng mức nên tăng trưởng kinh tế tuy đạt mức cao nhưng chất lượng
tăng trưởng còn hạn chế, thiếu bền vững, nền kinh tế chưa thoát khỏi vòng
luẩn quẩn: công nghệ lạc hậu, NSLĐ thấp, hao phí nhiều, chất lượng sản
phẩm thấp, giá thành cao, sức cạnh tranh yếu, hàng hoá khó tiêu thụ, thiếu
vốn để mở rộng đầu tư, công nghệ tiếp tục lạc hậu...
Việc tổ chức kết cấu chi và điều hành NSNN vẫn chưa dựa trên nền
tảng lý luận về nhà nước và NSNN trong kinh tế thị trường, tính hòa nhập
quốc tế của các chỉ tiêu thu, chi NSNN còn khá thấp, điều hành chi ngân sách
còn thiếu mục tiêu chiến lược rõ ràng, thiên về cấp phát-hiểu theo đúng nghĩa
đen của nó- còn thiếu vắng các quan điểm đổi mới táo bạo, tích cực nhằm
thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh và bền vững, góp phần đẩy nhanh quá trình
thực hiện CNH, HĐH.
1.3. THỰC TRẠNG BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ NỢ
CÔNG GIAI ĐOẠN 2001-2005
1.3.1. Đánh giá kết quả xử lý bội chi ngân sách nhà nước và nợ công
giai đoạn 2001-2005
1). Bội chi NSNN nằm trong giới hạn kiểm soát được
Bội chi NSNN là nguyên nhân trực tiếp của nợ công. Nhiều năm qua,
nhất là những năm 90, chính sách tài khoá của nước ta được điều hành với độ
thận trọng đáng kể. Hiện tại, dù áp dụng CSTK nới lỏng từ 1999, nhưng mức
thâm hụt ngân sách vẫn nhỏ và tổng nợ khu vực công (cả nợ nước ngoài và
nợ trong nước) khá thấp, luôn ở trong tình trạng kiểm soát được.
Theo cách tính và các công bố chính thức, bội chi NSNN Việt Nam
nhiều năm gần đây thường không quá 5%GDP. Trong giai đoạn 2001-2005,
bội chi NSNN năm cao nhất (2001) tính theo chuẩn quốc tế là 3,4%GDP.
Bình quân cả giai đoạn 2001-2005, bội chi tính theo chuẩn quốc tế chỉ ở mức
2,2%GDP. Các nguồn thu thường xuyên từ thuế, phí, lệ phí đã trang trải được
toàn bộ các khoản chi thường xuyên, và có "dư dật" để bảo đảm một phần
cho chi ĐTPT.
129
Bội chi NSNN ở mức rất thấp khi so sánh cùng tiêu chí với nước ngoài
và được xem là nằm trong giới hạn an toàn. Điều hành NSNN một cách thận
trọng đã và đang bảo đảm được sự an toàn của khu vực tài chính nhà nước.
2). Nợ trong nước và nợ nước ngoài được cơ cấu lại và được duy trì trong giới hạn an toàn, góp phần đảm bảo an ninh tài chính quốc gia.
Nợ công được duy trì trong giới hạn an toàn và đảm bảo an ninh tài
chính quốc gia thể hiện trên các mặt sau:
Thứ nhất, nợ nước ngoài của Chính phủ nằm trong giới hạn an toàn
Tại đến thời điểm 31/12/2007, tổng dư nợ nước ngoài của Chính phủ
và nợ được Chính phủ bảo lãnh là 310.832 tỷ VND (19,25 tỷ USD) chiếm
27,2%GDP. Trong giai đoạn 2002-2007, tỷ suất nợ nước ngoài của Chính
phủ và được Chính phủ bảo lãnh bình quân chiếm 27,6%GDP, trong đó, nợ
nước ngoài của Chính phủ chỉ chiếm 25,7%GDP. Đây là một mức khá thấp,
đảm bảo trong ngưỡng an toàn về nợ nước ngoài.
Bảng 42 - Tình hình nợ nước ngoài giai đoạn 2002-2007
2002 2003 2004 2005 2006 2007
GDP thực tế 535.762 613.443 715.307 839.211 974.266 1.144.015
Tỷ suất tổng dư nợ so GDP 26,9% 28,9% 29,7% 26,9% 25,8% 27,2%
Trong đó: Nợ của Chính phủ 26,0% 27,3% 27,6% 25,1% 24,1% 24,4%
Nợ được Chính phủ bảo lãnh 0,9% 1,7% 2,1% 1,7% 1,7% 2,8%
Nợ của Chính phủ 139.181 167.393 197.094 210.955 234.566 278.834
Nợ được Chính phủ bảo lãnh 5.191 10.197 15.169 14.431 16.556 31.999
Tổng cộng (tỷ VND) 144.372 177.590 212.262 225.386 251.122 310.832
Nguồn: Bộ Tài chính và Tổng cục Thống kê
Hai là, nợ trong nước của Chính phủ nằm trong giới hạn an toàn
Nợ trong nước của Chính phủ chủ yếu phát sinh từ vay trong nước bù
đắp bội chi, trái phiếu và công trái huy động vốn cho một số mục tiêu đầu tư
cụ thể như công trái giáo dục, trái phiếu đầu tư phát triển các công trình giao
thông chiến lược…
Tình hình cụ thể như sau:
130
Bảng 43-Tình hình vay bù đắp bội chi NSNN 1991-2008
(đơn vị:
tỷ VND) Vay trong
nước để bù đắp bội chi
Vay nước
ngoài để bù đắp bội chi
Tổng cộng
vay bù đắp bội chi
Tổng thu
NSNN Tỷ lệ vay bù
đắp bội chi trên tổng
thu NSNN
2000 15370 6630 22000 90749 24,2%
2001 16950 7550 24500 102974 23,8%
2002 18382 7215 25597 123860 20,7%
2003 27450 7253 34703 152273 22,8%
2004 27450 7253 34703 190929 18,2%
2005 32420 8326 40746 228286 17,8%
2006 35864 12749 48613 279471 17,4%
2007 43000 13500 56500 287900 19,6%
2008 51900 15000 66900 399000 16,8%
Nguồn: Bộ Tài chính, số 2008 là ước tính
Tỷ suất vay bù đắp bội chi NSNN giai đoạn từ 1991 đến nay nhìn
chung đều được kiềm chế ở mức thấp. Cho dù số tiền vay tuyệt đối luôn luôn
tăng nhưng tỷ suất vay bù đắp bội chi tính trên GDP không có nhiều biến
động lớn. Ngoại trừ năm 1993 có mức vay khá cao, lên tới 8.915 tỷ VND,
tương đương 6,4%GDP, các năm khác thường dao động trong khoảng 5%
+/- 0,5% GDP, bình quân cả giai đoạn là 4,5%GDP. Đây là một mức khá
thấp, không làm trầm trọng cán cân nợ công.
Thứ ba, nợ của Chính quyền địa phương đảm bảo giới hạn an toàn
Nợ của các địa phương hiện nay đều là nợ trong nước, được tổng hợp
và ghi nhận ở cấp tỉnh. Theo các quy định hiện hành, điển hình là Luật
NSNN (điều 8), Nghị định 141/2003/NĐ-CP của Chính phủ và Thông tư
86/2004/TT-BTC của Bộ Tài chính, các địa phương cấp tỉnh được huy động
vốn trong nước (vay) để đầu tư khi có nhu cầu đầu tư xây dựng các công
trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi địa phương nhưng vượt quá khả năng cân
đối của ngân sách cấp tỉnh.
Điều kiện được huy động vốn để đầu tư là công trình phải thuộc danh
mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm của tỉnh đã được HĐND cấp tỉnh, phải nằm
trong quy hoạch được duyệt, hoàn tất đủ thủ tục đầu tư và xây dựng theo chế
độ quy định.
Giới hạn huy động tối đa là tổng mức dư nợ từ nguồn vốn huy động
(gồm cả vốn đã huy động và vốn dự kiến huy động) không vượt quá 30%
tổng vốn đầu tư XDCB trong nước hàng năm của ngân sách tỉnh đã được
HĐND cấp tỉnh quyết định. Riêng Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh không
vượt quá 100%. Trong đó, tổng vốn đầu tư XDCB trong nước của ngân sách
tỉnh bao gồm: (i) Vốn đầu tư XDCB tập trung trong nước; (ii) Vốn đầu tư
XDCB từ nguồn thu tiền sử dụng đất; (ii) Các nguồn bổ sung có mục tiêu về
đầu tư XDCB có tính chất ổn định từ ngân sách trung ương (nếu có).
Cách thức huy động được thực hiện theo hình thức phát hành trái
phiếu đầu tư hoặc huy động từ các nguồn tài chính hợp pháp khác theo luật
131
định. Nguồn vốn huy động được được hạch toán thu ngân sách cấp tỉnh và
được bố trí trong ngân sách cấp tỉnh để trả nợ (gốc, lãi và chi phí liên quan)
hàng năm khi đến hạn.
Về nguyên tắc, NSĐP được cân đối với tổng số chi không vượt quá tổng số thu; trường hợp cấp tỉnh có nhu cầu đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp
tỉnh bảo đảm, thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã được HĐND cấp tỉnh quyết định, nhưng vượt quá khả năng cân đối của ngân sách cấp tỉnh năm dự toán, thì được phép huy động
vốn trong nước và phải cân đối ngân sách cấp tỉnh hàng năm để chủ động trả hết nợ khi đến hạn. Mức dư nợ từ nguồn vốn huy động không vượt quá 30% vốn đầu tư XDCB trong nước hàng năm
của ngân sách cấp tỉnh.
(Trích khoản 3, điều 8 Luật NSNN)
Trên thực tế, tính đến hết tháng 12/2007, dư nợ huy động của các địa
phương (theo khoản 3, Điều 8 Luật NSNN) là 20.416 tỷ đồng, tương đương
1,8% GDP – một tỷ lệ khá nhỏ. Điều này thể hiện giới hạn đảm bảo an toàn
đối với các khoản nợ của Chính quyền địa phương.
Như vậy, công tác quản lý nợ Chính phủ và nợ nước ngoài của quốc
gia đã có nhiều tiến bộ, nâng cao dần vị thế tài chính của Việt Nam trên thế
giới, góp phần đảm bảo an ninh tài chính quốc gia.
1.3.2. Những vấn đề đặt ra trong xử lý bộ chi NSNN và quản lý nợ
công giai đoạn 2001-2005
1). Bội chi NSNN thiếu bền vững
Tổng bội chi/thâm hụt (Bội chi quy ước) được tính bằng tổng thu
NSNN và viện trợ trừ tổng chi NSNN và cho vay thuần của Chính phủ. Theo
cách tính này, tổng bội chi NSNN Việt Nam giai đoạn 1991-2008 có nhiều
khác biệt so với các số liệu công bố.
Hình 12 – Bội chi NSNN giai đoạn 1991-2008
Nguồn: Bộ Tài chính và Tổng cục Thống kê
132
Nhìn tổng thể cả giai đoạn 1991-2008, NSNN Việt Nam năm nào
cũng có thâm hụt, tình trạng thu thấp hơn chi năm nào cũng diễn ra. Song,
nếu như sau 10 năm bội chi ở mức thấp, phổ biến dưới 5%GDP thì đến năm
2002, đường cong chi NSNN đã có một sự đứt gãy để chuyển sang một giai
đoạn bội chi cao.
Trong những năm 1991-1996, nền kinh tế phát triển tốt, bội chi NSNN
đã ở mức hợp lý. Ngoại trừ việc tập trung chi đầu tư xây dựng đường dây tải
điện 500KV Bắc-Nam và phân bổ cho các năm 1993, 1994, 1995 làm tăng
tổng chi đầu tư từ NSNN. Do đó, những năm này, bội chi cũng ở mức khá
cao, tương ứng là 6,4; 4,7 và 4,1%GDP. Các năm khác, bội chi NSNN đều ở
mức thấp dưới 3%GDP. Bình quân cả giai đoạn, bội chi đạt 3,9%GDP là
mức chấp nhận được.
Bảng 44 – Tỷ lệ bội chi NSNN giai đoạn 1991-1996
1991 1992 1993 1994 1995 1996
Tổng cộng thu NSNN 10353 21024 32199 41440 53374 62387
Tổng chi NSNN, cả trên dòng và
dưới dòng
12170 24331 41114 49794 62679 70111
Tổng bội chi NSNN -1817 -3307 -8915 -8354 -9305 -7724
Tỷ lệ bội chi NSNN so với GDP -2,4% -3,0% -6,4% -4,7% -4,1% -2,8%
Nguồn: Bộ Tài chính và Tổng cục Thống kê
Sang giai đoạn tiếp theo, 1997-2002, thời kỳ chính sách kích cầu được
sử dụng nhằm đối phó với khủng hoảng tài chính châu Á. Vì vậy, bội chi
NSNN đã tăng cao hơn, bình quân đạt 4,2%GDP.
Bảng 45 – Tỷ lệ bội chi NSNN giai đoạn 1997-2002
1997 1998 1999 2000 2001 2002
Tổng cộng thu NSNN 65352 70612 78489 90749 102974 123860
Tổng chi NSNN, cả trên
dòng và dưới dòng
78057 81138 95791 108642 128019 148743
Tổng bội chi NSNN -12705 -10526 -17302 -17893 -25045 -24883
Tỷ lệ bội chi NSNN so với
GDP
-4,1% -2,9% -4,3% -4,1% -5,2% -4,6%
Nguồn: Bộ Tài chính và Tổng cục Thống kê
Sang giai đoạn 2003-2008, tình hình đã đổi khác khá nhiều. Những
năm này, thu NSNN đạt mức rất cao (bình quân 26,6%GDP), song tổng bội
chi NSNN không những không giảm mà còn có xu hướng tăng mạnh hơn so
với các giai đoạn trước. Hầu hết các năm, tổng bội chi đều cao hơn 10%GDP,
bình quân đạt 11,9%GDP là mức rất cao.
Bảng 46 – Tỷ lệ bội chi NSNN giai đoạn 2003-2008 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Tổng cthu NSNN 152273 190929 228286 279471 287900 399000
Tổng chi NSNN 224391 273375 353618 418310 422990 506378
Tổng bội chi NSNN -72118 -82446 -125332 -138839 -135090 -107378
Tỷ lệ bội chi so với GDP -11,8% -11,5% -14,9% -14,3% -11,8% -7,2%
Nguồn: Bộ Tài chính và Tổng cục Thống kê
133
Điều này chủ yếu là do đã có sự đóng góp khá lớn của mức bội chi
ngoài cân đối, nếu chỉ tính “trong cân đối” thì mức bội chi thấp hơn. Thực
vậy, sau khi loại trừ các khoản mục chi từ các nguồn vay về cho vay lại và
các khoản chi từ nguồn công trái giáo dục, nguồn thu quản lý qua NSNN thì
tổng bội chi trên dòng trong những năm 2003-2008 chỉ còn chiếm bình quân
7,8%GDP, nhưng đó vẫn là mức khá cao. Riêng 2 năm 2005 và 2006, tổng
bội chi trên dòng vẫn trên 10%GDP (tương ứng là 10,2 và 10,9%GDP).
Bảng 47 – Tỷ suất thu và chi NSNN giai đoạn 2003-2008
%GDP 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Tổng bội chi NSNN -11,8% -11,5% -14,9% -14,3% -11,8% -7,2%
Tỷ suất thu NSNN 24,8% 26,7% 27,2% 28,7% 25,2% 26,8%
Nguồn: Bộ Tài chính và Tổng cục Thống kê
Nếu tiếp tục loại trừ chi trả nợ và viện trợ, thì bội chi trên dòng còn lại
khá thấp. Bình quân 6 năm gần đây chỉ là 3,4%GDP. Riêng 2 năm 2005,
2006, mức bội chi vẫn khá cao (5,3 và 6%GDP), các năm khác tương đối ổn
định ở mức trên dưới 3%GDP.
Bảng 48 – Bội chi và chi trả nợ, viện trợ giai đoạn 2003-2008
2003 2004 2005 2006 2007 2008
Tổng bội chi trên dòng -7,4% -8,1% -10,2% -10,9% -7,0% -3,1%
Bội chi trên dòng sau khi trừ
các khoản chi trả nợ và viện trợ
-3,2% -3,3% -5,3% -6,0% -2,7% 0,3%
Nguồn: Bộ Tài chính và Tổng cục Thống kê
Truy tìm nguyên nhân bội chi cao ở 2 năm 2005, 2006 thì thấy tại
những năm này, nhiều khoản chi đã có mức tăng đột biến so với năm trước.
Chi hỗ trợ doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu năm 2005 tăng 92% so với
năm 2004. Chi chuyển nguồn để thực hiện cải cách tiền lương & tinh giản
biên chế năm 2005 tăng 76,6% so với năm 2004; năm 2006 vẫn tiếp tục tăng
37,1% so với 2005. Đặc biệt các khoản chi xuất quỹ chưa quyết toán đã tăng
đột biến ở mức rất cao trong các năm 2005 và 2006. Tổng chi đã xuất quỹ
chưa quyết toán năm 2005 bằng 133,5% năm 2004; năm 2006 bằng 162,8%
năm 2005.
Bảng 49 – Các khoản chi ảnh hưởng đến bội chi giai đoạn 2003-2008
2003 2004 2005 2006 2007 2008
Chi hỗ trợ doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu
337 5.560 10.700 9.539 2.000 2.000
Chi chuyển nguồn để thực hiện cải cách
tiền lương & tinh giản biên chế
3.200 11.143 19.682 26.987 9.080 5.700
Chi bổ sung tăng quỹ dự trữ tài chính 111 78 69 135 100 100
Chi xuất quỹ chưa quyết toán 13.190 23.296 31.099 50.621 - -
Nguồn: Bộ Tài chính và Tổng cục Thống kê
134
Lý thuyết về bền vững ngân sách cho thấy, hoàn toàn có thể cắt bỏ
những khoản chi vừa nêu trên để cải thiện tình hình thâm hụt NSNN. Nếu cắt
bỏ các khoản mục chi “đặc thù” này (gồm chi hỗ trợ doanh nghiệp kinh
doanh xăng dầu; chi tinh giản biên chế; chi chuyển nguồn để thực hiện cải
cách tiền lương & tinh giản biên chế; chi bổ sung tăng quỹ dự trữ tài chính;
chi xuất quỹ chưa quyết toán), thì bội chi NSNN sẽ giảm rất đáng kể vì, trung
bình những năm 2003-2008, chúng chiếm tới 4,4%GDP, có năm lên tới
9%GDP (2006) – một mức có thể “gây sốc”.
Bảng 50 – Các khoản chi khác ảnh hưởng đến bội chi
2003 2004 2005 2006 2007 2008
Tổng cộng các khoản chi “đặc thù” chiếm
bao nhiêu %GDP?
2,8% 5,6% 7,3% 9,0% 1,0% 0,5%
Nguồn: Bộ Tài chính và Tổng cục Thống kê
2). Quản lý nợ công còn tiềm ẩn các yếu tố rủi ro có nguy cơ tác động xấu đến bền vững ngân sách
Theo các quan niệm hiện hành, nợ của khu vực công là nợ (cả nợ
nước ngoài và nợ trong nước) của Chính phủ, chính quyền địa phương các
cấp và nợ của các DNNN1. Điều đó rất xác đáng, song, trong khuôn khổ
nghiên cứu khoa học, nợ của Chính phủ và Chính quyền địa phương các cấp
(chủ yếu là cấp tỉnh) sẽ được ưu tiên nghiên cứu, phân tích trực tiếp; phần nợ
liên quan đến khu vực DNNN sẽ được nghiên cứu dưới góc độ nợ dự phòng.
Các lý do chủ yếu là:
Do DNNN được định nghĩa là các thực thể kinh tế độc lập, có tư
cách pháp nhân đầy đủ, hiện tại hoạt động theo luật DNNN nhưng
sau này sẽ hoạt động theo luật doanh nghiệp chung. Do vậy, các
DNNN có đầy đủ quyền hạn và trách nhiệm (cả về kinh tế và
pháp lý) về vay và trả nợ.
Trong một số trường hợp, nhất là đối với nợ nước ngoài, ngoài
phần nợ trực tiếp do Chính phủ vay, Chính phủ còn bảo lãnh vay
cho các đối tượng mà Chính phủ thấy cần bảo lãnh để các đối
tượng này vay được nợ ngoài nước (thông thường là các DNNN).
Do bảo lãnh, nên nếu khi đáo hạn, bên đi vay (các DNNN được
bảo lãnh) không trả được nợ thì Chính phủ phải đứng ra trả nợ
thay. Khi đó, gánh nặng nợ công trực tiếp tăng lên bởi nguồn tài
chính trả nợ đương nhiên là từ NSNN. Từ đó, làm ảnh hưởng
không nhỏ tới tính bền vững của NSNN.
Trong một số trường hợp hãn hữu khác, nếu như khoản nợ đó
không được Chính phủ bảo lãnh, DNNN hoạt động kém hiệu quả,
không trả được nợ, rơi vào phá sản, vỡ nợ… - nhất là nợ nước
ngoài - thì cuối cùng, bằng cách này hay cách khác, Nhà nước
1 Bao gồm các DNNN hoạt động trong lĩnh vực tài chính và phi tài chính của nhà nước.
135
cũng phải gánh chịu một phần trách nhiệm vật chất thay cho
DNNN.
Các trường hợp nêu trên đều có nguy cơ phát sinh nợ dự phòng, làm
giảm tính bền vững của ngân sách và được nghiên cứu dưới góc độ nợ dự
phòng.
Những yếu tố rủi ro tiềm ẩn có nguy cơ tác động đến bền vững ngân
sách nằm trong thành phần nợ công gồm: các quỹ ngoài NSNN, nợ của các
DNNN, nợ của DNNN được chính phủ bảo lãnh, mức độ an toàn của hệ
thống tài chính.
Một là, nợ nước ngoài của DNNN được Chính phủ bảo lãnh có tiềm
ẩn yếu tố rủi ro
Nợ nước ngoài của các DNNN được chính phủ bảo lãnh chủ yếu phát
sinh từ sau năm 2001. Trong đó, nợ từ các chủ nợ chính thức chiếm tỷ trọng
chủ yếu nhưng đang có xu hướng giảm dần và nhường chỗ cho các chủ nợ tư
nhân, có xu hướng tăng dần trong kết cấu nợ nước ngoài của các DNNN
được chính phủ bảo lãnh.
Hình 13 – Nợ nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh
Nguồn: Bộ Tài chính và Tổng cục Thống kê
Theo định nghĩa, các chủ nợ chính thức là các chủ nợ thuộc khu vực
công, bao gồm cả các tổ chức đa phương. Các chủ nợ tư nhân là những chủ
nợ không phải là chính phủ và các tổ chức thuộc khu vực công. Các chủ nợ
tư nhân bao gồm các tổ chức tài chính tư nhân, các nhà sản xuất, nhà xuất
khẩu và các nhà cung cấp hàng hóa khác có khả năng tài chính. Do vậy, xu
hướng tăng dần lên của tỷ trọng nợ từ các chủ nợ tư nhân báo hiệu cần thận
trong khi bảo lãnh vay cho các DNNN.
Khi nền kinh tế ngày càng hội nhập sâu rộng với các nền kinh tế thị
trường khác trên thế giới thì việc các DNNN vay tư nhân nhiều hơn là được
vay từ các chủ nợ chính thức cũng là điều dễ hiểu. Song, trong khi các
136
DNNN Việt Nam hoạt động còn chưa thực sự hiệu quả, môi trường cạnh
tranh chưa thực sự bình đẳng, nền kinh tế còn nhiều khe hở cho độc quyền
sinh ra nhờ các quan hệ và áp đặt hành chính... thì việc tăng quá nhanh tỷ
trọng nợ tư nhân là dấu hiệu không tốt. Cần rất thận trọng trong việc cam kết
bảo lãnh trong các trường hợp này.
Bảng 51 - Tình hình nợ nước ngoài giai đoạn 2002-2007
2002 2003 2004 2005 2006 2007
Tổng số 9.413 11.383 13.505 14.208 15.641 19.253
Nợ của Chính phủ 9.075 10.729 12.540 13.299 14.610 17.271
Nợ được Chính phủ bảo lãnh 338 654 965 910 1.031 1.982
Nguồn: Bộ Tài chính, triệu USD, tỷ giá quy đổi cuối kỳ
Cho đến cuối 2007, tổng dư nợ nước ngoài của các doanh nghiệp nhà
nước được Chính phủ bảo lãnh không phải quá lớn, chỉ đạt 1,982 tỷ USD,
chiếm 2,8%GDP. Song, có điểm đáng chú ý là trong kết cấu nợ được Chính
phủ bảo lãnh của các DNNN nợ từ các chủ nợ là khu vực tư nhân càng ngày
càng cao. Năm 2007, nợ các chủ nợ tư nhân tăng đột biến lên 66,8%, trong
nợ tư nhân, chủ yếu là nợ các NHTM (64,2%). Trong khi đó, nợ từ các chủ
nợ chính thức càng ngày càng giảm, từ 69,3% năm 2003 đã giảm xuống còn
33,2% vào năm 2007.
Hình 14 – Nợ song phương và đa phương
Nguồn: Bộ Tài chính và Tổng cục Thống kê
Đối với các chủ nợ chính thức, nợ song phương luôn chiếm vị trí chủ
đạo, bình quân 2002-2007, chiếm tới 91,7% tổng nợ chính thức của các
DNNN được bảo lãnh, trong khi đó, nợ đa phương chỉ chiếm 8,3% tổng nợ
chính thức.
137
Hình 14 – Nợ song phương và đa phương
Nguồn: Bộ Tài chính và Tổng cục Thống kê
Trong thành phần các chủ nợ song phương đối với DNNN, nợ Nhật
Bản và các nước khác có xu hướng giảm dần nhường chỗ cho xu hướng tăng
khá mạnh của các khoản nợ Mỹ và Trung Quốc. Nợ Nhật Bản đã giảm từ
56,6% năm 2002 xuống còn 17,4% năm 2007. Nợ Trung Quốc bắt đầu phát
sinh từ 2005 với tỷ lệ nhỏ (1,2%) nhưng đã nhanh chóng tăng lên 28,4% vào
năm 2007. Nợ Mỹ, ngay từ năm đầu phát sinh (năm 2003) đã đạt khối lượng
lớn (197 USD), chiếm 43,5% tổng số nợ song phương của các DNNN được
bảo lãnh. Sau đó, tăng trên 60% vào cácc năm 2004 đến 2006. Năm 2007,
tuy thấp hơn cũng chiếm tỷ trọng 45,9%; bình quân 2003-2007, các khoản
DNNN vay nợ Mỹ được Chính phủ bảo lãnh đạt tới 47,1% (302 triệu USD)
trong tổng số nợ song phương của các DNNN được bảo lãnh của Chính phủ.
Bảng 52 - Kết cấu nợ nước ngoài của doanh nghiệp được Chính phủ bảo lãnh
triệu USD, tỷ giá quy đổi cuối kỳ
2002 2003 2004 2005 2006 2007
Chủ nợ chính thức 38,9% 69,3% 62,5% 59,6% 51,2% 33,2%
Đa phương 0,0% 14,3% 9,9% 10,0% 9,2% 6,6%
Song phương 100,0% 85,7% 90,1% 90,0% 90,8% 93,4%
Mỹ 0,0% 43,5% 64,2% 66,3% 62,7% 45,9%
Trung Quốc 0,0% 0,0% 0,0% 1,2% 5,5% 28,4%
Nhật 56,6% 31,5% 19,5% 17,1% 18,6% 17,4%
Các nước khác (Hàn Quốc, Phần Lan, Thụy Điển, Canada, Bỉ)
43,4% 10,7% 6,5% 5,4% 4,0% 1,7%
Các chủ nợ tư nhân 61,1% 30,7% 37,5% 40,4% 48,8% 66,8%
Nguồn: Bộ Tài chính và Tổng cục Thống kê
Nợ nước ngoài của các DNNN được Chính phủ bảo lãnh giai đoạn
2002-2007 có những diễn biến khá chú ý như sau:
138
Bảng 53 - Nghĩa vụ trả nợ hàng năm (nợ nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh)
Đvt: tỷ VND
2002 2003 2004 2005 2006 2007
Tổng trả nợ được Chính phủ bảo lãnh
1.106 1.231 1.933 2.614 2.598 2.974
Trong đó, trả nợ gốc 755 856 1.410 1.878 1.912 1.921
Trả nợ lãi và phí 350 375 524 736 686 1.053
Nguồn: Bộ Tài chính và Tổng cục Thống kê
Đối với nợ trong nước của khu vực DNNN, tính đến cuối 2000, tổng
dư nợ của khu vực DNNN là 190 ngàn tỷ VND (13,1 tỷ USD), tương đương
38%GDP. Trong đó, DNNN nợ ngân hàng 165 ngàn tỷ VND (11,4 tỷ USD),
tương đương 33%GDP. Nợ xấu theo tiêu chuẩn quốc tế (IMF) là 57 ngàn tỷ
VND (3,9 tỷ USD), tính theo tiêu chuẩn Việt Nam là 21 ngàn tỷ VND, tương
đương 1,5 tỷ USD). Đứng đằng sau các khoản nợ của DNNN là Chính phủ,
là NSNN. Rõ ràng, nợ và nhất là nợ xấu của khu vực DNNN là một mối đe
dọa tới bền vững NSNN. Nếu tính cả nợ DNNN thì gánh nặng nợ mà NSNN
phải gánh chịu, tính đến cuối 2000, không chỉ là 30%GDP (số dư nợ thuần
tuý của NSNN là 144 ngàn tỷ VND hoặc 9,9 tỷ USD) mà phải là 63%GDP
(144 ngàn tỷ nợ của ngân sách cộng với 165 ngàn tỷ nợ của các DNNN).
Việc cấp tín dụng ngân hàng cho DNNN cũng tiềm ẩn các rủi ro đe
dọa tính bền vững NSNN. Tín dụng của các NHTM quốc doanh và ngoài
quốc doanh cấp cho DNNN đã tăng từ 10,5%GDP vào năm 1998 lên
17,2%GDP vào năm 2003. Tuy nhiên, tỷ trọng tín dụng cấp cho DNNN
trong tổng tín dụng ngân hàng đã và đang giảm dần từ 52% (1998) xuống
36% (2003). Theo đó, tỷ trọng của DNNN trong tín dụng của các NHTM
quốc doanh đã giảm từ 58% xuống 45% trong cùng kỳ.
Hai là, nợ xấu của các DNNN vấn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro
Cho đến nay, tuy không có báo cáo chính thức, cũng như không có số
liệu chính xác dư nợ vốn vay của các DNNN tại các NHTM, song, từng ngân
hàng luôn có những số liệu khá đầy đủ về công nợ của từng DNNN. Tuy
không có số liệu được công bố nhưng có thể phân chia các DNNN theo thực
trạng nợ quá hạn với các NHTM theo các nhóm chủ yếu sau đây:
Nhóm thứ nhất là nhóm doanh nghiệp có số nợ quá hạn lớn nhất, kéo
dài nhất và nan giải đối với các NHTM. Điển hình là các TCT xây dựng công
trình giao thông thuộc Bộ Giao thông vận tải. Số nợ của các TCT này ước
tính hiện nay lên tới trên 12.300 tỷ đồng, chủ yếu là nợ xấu, tập trung chủ yếu
ở các NHTM Nhà nước, đã được các NHTM xử lý dự phòng rủi ro đưa ra theo dõi ngoại bảng.
Nhóm thứ hai là nhóm các doanh nghiệp có số nợ xấu khá lớn, bao
gồm một số TCT xây dựng thuộc một số bộ, ngành và địa phương khác nhau. Số nợ xấu của khối doanh nghiệp này ước tính cũng lên tới trên 2.000
tỷ đồng.
139
Nhóm thứ ba là nhóm các doanh nghiệp có nợ xấu hoạt động trong
khu vực xuất nhập khẩu, thương mại, dịch vụ, giao thông, xây dựng, chế biến
nông sản, may mặc, cung ứng vật tư nông nghiệp, in ấn và bao bì, mía
đường… thuộc địa phương. Số nợ xấu của khối doanh nghiệp này ước tính
cũng lên tới 2.500–3.000 tỷ đồng.
Trong thực tế hiện nay, có nhiều DNNN hoạt động kém hiệu quả, nợ
xấu ngân hàng lớn và kéo dài, không được các NHTM tiếp tục cho vay, nên
càng thiếu vốn và càng làm ăn không có hiệu quả. Doanh nghiệp chạy gõ cửa
hết ngân hàng này đến ngân hàng khác để xin vay vốn từng dự án cụ thể có
hiệu quả, từng dự án mới có tính khả thi cao, nhưng do nợ xấu, nợ cũ, thế hệ
lãnh đạo trước của doanh nghiệp để lại nên các ngân hàng đều tư chối. Nhiều
trường hợp, Lãnh đạo và trưởng phòng kế toán tài chính của nhiều doanh
nghiệp được ví như “lẩn trốn ngân hàng như trạch” vì bị đôn đốc nợ.
Việc thu nợ quá hạn tại các DNNN của các NHTM hiện nay gặp rất
nhiều khó khăn, nhiều khoản nợ rơi vào tình trạng khê đọng. Nhiều chi
nhánh NHTM thành lập riêng một tổ chuyên đi thu nợ DNNN. Có chi nhánh
Ngân hàng Công thương trên địa bàn Hà Nội rất hạn chế cho vay mới mà
công việc chính của phòng kinh doanh là lo việc đi đôn đốc nợ, đi đòi nợ và
giải quyết nợ DNNN. Một số chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
cũng bị hạn chế không cho tăng dư nợ mới mà buộc phải tập trung thu nợ
một số DNNN.
Nợ nước ngoài không được bảo lãnh hiện hầu như chưa phát sinh, bởi
doanh nghiệp nhà nước, nếu không được bảo lãnh thì hầu như không được
cac chủ nợ nước ngoài cho vay. Cho đến nay, việc vay nợ nước ngoài của
DNNN chủ yếu vẫn dựa trên các điều kiện ưu đãi (bảo lãnh) của Nhà nước.
Ba là, nợ đọng trong các DNNN còn rất lớn và phức tạp
Nợ đọng trong các DNNN là rất lớn và phức tạp. Mặc dù Nhà nước ta
đã áp dung nhiều biện pháp giãn nợ, khoanh nợ, thanh toán công nợ giai đoạn
I và giai đoạn II, nhưng đến nay nợ tồn đọng trong các DNNN vẫn rất lớn.
Thực tế hiện nay, nợ khó đòi tồn đọng của các NHTM nhà nước lên tới hơn
20 nghìn tỷ đồng, trong đó đa phần là nợ tồn đọng trong các DNNN.
Nợ xấu của DNNN vẫn gia tăng. Ngày 17/4/2005, Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam đã công bố con số nợ nần của các DNNN là
31.935 tỷ đồng. Trong đó, nợ phải thu là 21.218 tỷ đồng, nợ phải trả lên tới
10.717 tỷ đồng, cả hai thứ nợ đều cao gấp nhiều chục lần thu ngân sách của
nhiều tỉnh.
Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, đến tháng 8/2005, dư nợ cho
vay đối với doanh nghiệp nhà nước chiếm 33,2% tổng dư nợ cho vay nền
kinh tế và dự kiến đến cuối năm, dư nợ cho vay đối với khu vực này sẽ chiếm
xấp xỉ 40% tổng dư nợ. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ xấu của khu vực này lại có chiều
140
hướng gia tăng. Đến hết 8 tháng đầu năm 2005, tỷ lệ nợ xấu của các DNNN
là 3,08%, tiếp tục tăng so với năm 2004 là 2,41% và năm 2003 là 2,72%.
Việc Chính phủ thực hiện các chương trình tái cơ cấu đối với các
NHTM quốc doanh cũng hình thành các khoản nợ dự phòng. Một chương
trình tái cơ cấu 4 NHTM quốc doanh lớn đã được triển khai trong các năm
2001-2003; đến cuối năm 2003, gần 70% khoản nợ khó đòi trong tổng số 23
ngàn tỷ đồng tiền nợ khó đòi xác định cuối năm 2000 đã được xử lý thông
qua các kế hoạch tái cơ cấu. Các năm 2001-2003, các NHTM quốc doanh đã
được rót một khoản vốn khoảng 10,9 ngàn tỷ đồng từ nhiều nguồn khác
nhau, chủ yếu được thực hiện dưới hình thức trái phiếu chính phủ kỳ hạn 20
năm lãi suất mệnh giá là 3,3%. Trái phiếu đã phát hành để tái cấp vốn cho các
ngân hàng quốc doanh là các khoản nợ dự phòng của Chính phủ.
Bên cạnh đó, dư nợ tín dụng của các NHTM quốc doanh tăng nhanh
với tốc độ 28% và đạt mức 37%GDP vào cuối năm 2003. Tuy nhiên, chất
lượng cho vay tín dụng vẫn là một mối lo ngại. Trong một chừng mực nào
đó, có thể coi việc tín dụng gia tăng nhanh là yếu tố góp phần làm tăng nợ dự
phòng của Chính phủ.
Các khoản cho vay lại được huy động từ các nguồn ODA và vay trong
nước từ các quỹ BHXH, tiết kiệm bưu điện và phát hành trái phiếu chính
phủ. KBNN cũng đã phát hành các loại trái phiếu có kỳ hạn 15 năm và lãi
suất mệnh giá 9,4% và tiền huy động từ các loại trái phiếu này được chuyển
cho Quỹ HTPT. Đây là một khoản nợ dự phòng lớn của Chính phủ.
Trong năm 2004, ước tính dư nợ của Quỹ HTPT (nay là Ngân hàng
Phát triển Việt Nam) tương ứng 12%GDP. Trong đó, hơn một nửa, khoảng
9%GDP, được huy động từ các nguồn trong nước. Trong đó, khoảng 80%
các nguồn huy động trong nước được dùng cho các DNNN vay. Điều này
cho thấy, việc quản lý số lượng, chất lượng huy động và cho vay từ BDV
cũng đang tiềm ẩn những nguy cơ nhất định đe dọa bền vững NSNN. Mặc dù
gần đây, Chính phủ đã có biện pháp kiểm soát bằng cách giới hạn vay đầu tư
và bảo lãnh tín dụng của BDV không được vượt quá 70% mức đầu tư của dự
án. Hỗ trợ lãi suất không vượt quá 85% mức đầu tư của dự án nhưng rõ ràng
ở đây cũng chứa đựng nhiều yếu tố ảnh hưởng đến mức độ bền vững NSNN.
Cần có sự đổi mới, cải cách cần thiết để giảm thiểu nguy cơ mất an toàn tài
chính, tăng gánh nặng nợ của NSNN.
Đến hết năm 2008, nợ xấu của hệ thống ngân hàng Việt Nam ở
khoảng 43.500 tỷ đồng, chiếm 3,5% tổng dư nợ tín dụng. Trong đó, không ít
các khoản nợ phát sinh từ các chương trình “cà phê Arabica”, “đánh bắt xa
bờ”, “mía đường”... sẽ đè nặng lên ngân sách, buộc Chính phủ phải “khoanh
nợ”, “xóa nợ” và điều đó sẽ không những làm hao tổn nguồn lực quốc gia mà
còn làm giảm tính bền vững của NSNN.
141
Bảng 54 - Nợ nước ngoài của Chính phủ và nợ được Chính phủ bảo lãnh tính lại
theo các loại tiền chủ yếu
2002 2003 2004 2005 2006 2007
JPY 3.473 4.530 5.498 5.174 5.840 7.195
Euro 825 1.159 1.411 1.461 1.737 2.360
USD và các đồng tiền khác 5.115 5.694 6.596 7.574 8.065 9.697
Tổng số 9.413 11.383 13.505 14.208 15.641 19.253
Nguồn: Bộ Tài chính và Tổng cục Thống kê
Nhiều năm qua, chính sách tài khoá của nước ta được điều hành với độ
thận trọng đáng kể. Nhờ vậy, mức thâm hụt ngân sách nhỏ và tổng nợ khu
vực công (cả nợ trong nước và nước ngoài) khá thấp và luôn ở trong tình
trạng kiểm soát được. Các nguồn thu thường xuyên từ thuế, phí, lệ phí đã
trang trải được toàn bộ chi thường xuyên, đồng thời, đã có thể dành một phần
cho chi đầu tư phát triển. Các con số về bội chi và nợ khu vực công ở nước ta
thấp thua nhiều so với giới hạn nợ theo tiêu chuẩn khu vực đồng Euro (bội
chi không quá 3%; dư nợ công không quá 60%) – khu vực được xem là mẫu
mực về sự chặt chẽ trong quản lý tài chính công.
142
Chương 2. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH
TIỀN TỆ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001-2005
2.1. THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ GIAI
ĐOẠN 2001-2005
2.1.1. Đánh giá kết quả thực hiện CSTT giai đoạn 2001-2005
Công tác điều hành CSTT ở nước ta trong giai đoạn 2001-2005 đã đạt
được những thành tựu và tiến bộ như sau:
1). Đã xác định rõ mục tiêu cuối cùng của CSTT
Mục tiêu cuối cùng và các công cụ CSTT đã được xác định trong Pháp
lệnh NHNN năm 1990 là nhằm ổn định giá trị đồng tiền.
Sau đó, Luật NHNN cũng đã quy định mục tiêu của CSTT nhằm ổn
định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh
tế-xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống nhân dân.
Trên thực tế, về cơ bản các mục tiêu này đã được thực hiện. Điều đó
được thể hiện rõ qua các chỉ tiêu vĩ mô như: Tỷ lệ lạm phát giai đoạn 2001-
2005 trong khoảng 3-8,4%; Tốc độ tăng trưởng GDP đạt tương ứng 6,8-8%.
Bảng 55 - Mục tiêu và thực tế về GDP và CPI giai đoạn 1998-2005
Đơn vị: %
1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
CPI mục tiêu 7-8 6-8 6 5 3-4 5 5 6,5
CPI thực tế 9,2 0,1 -0,6 0,8 4 3 9,5 8,4
GDP mục tiêu 8,5-9 5-6 5,5-6 7,5-8 7-7,3 7-7,5 7,5-8 8-8,5
GDP thực tế 5,8 4,8 6,75 6,84 7,04 7,34 7,69 8,5
Nguồn số liệu: Tổng cục thống kê
Tuy nhiên, bên cạnh việc thực hiện các mục tiêu được quy định trong
Luật Ngân hàng, trong từng giai đoạn cụ thể, NHNN còn theo đuổi một số
mục tiêu khác như đảm bảo ổn định hệ thống ngân hàng. Vì vậy, trong điều
hành CSTT của NHNN còn có một số khó khăn do NHNN thường phải theo
đuổi nhiều mục tiêu, chưa xác định rõ mục tiêu hàng đầu và một số mục tiêu
chưa được lượng hóa đầy đủ. Vì thế mục tiêu chính có lúc lại bị sao nhãng.
Chẳng hạn:
- Năm 1999 mục tiêu kiểm soát lạm phát (CPI) đề ra ở mức 6-8%
nhưng kết quả mức tăng CPI chỉ là 0,1%.
- Năm 2000, mục tiêu kiểm soát lạm phát phải đạt dưới 6%, nhưng
thực tế lại là -0,6%.
143
- Năm 2004 và 2005, mục tiêu lạm phát đặt ra là dưới 5% và dưới
6,5%, song kết quả CPI lại ở mức tương ứng là 9,5% và 8,4%.
Tương tự, đối với mục tiêu tăng trưởng kinh tế, mức tăng trưởng GDP
thực tế hàng năm nhìn chung đã bám sát mục tiêu, nhưng vẫn còn có sự
chênh lệch nhất định.
2). Đã sử dụng đầy đủ hệ thống các công cụ CSTT để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Việc hình thành các công cụ CSTT được thực hiện từ đầu những năm
1990 theo quy định tại Pháp lệnh NHNN. Để phù hợp với điều kiện thực tế
phát triển thị trường, NHNN đã lựa chọn sử dụng các công cụ trực tiếp, từng
bước tiến tới sử dụng các công cụ gián tiếp. Khác với NHTW của nhiều
nước, lãi suất và tỷ giá cũng được quy định là công cụ CSTT.
Từ năm 1998 đến nay, việc điều hành công cụ CSTT được thực hiện
theo quy định của Luật NHNN. Để đáp ứng yêu cầu phát triển của hệ thống
ngân hàng và của nền kinh tế, NHNN đã chuyển đổi mạnh mẽ từ sử dụng
công cụ trực tiếp sang sử dụng các công cụ gián tiếp9. Công cụ dự trữ bắt
buộc, công cụ tái cấp vốn không ngừng được hoàn thiện theo hướng nâng cao
khả năng kiểm soát tiền tệ của NHNN, đồng thời tạo điều kiện cho các
TCTD sử dụng vốn linh hoạt. Đặc biệt từ 7/2000, NHNN chính thức sử dụng
nghiệp vụ thị trường mở, đánh dấu một bước tiến mới trong đổi mới điều
hành CSTT theo các nguyên tắc thị trường.
Như vậy, đến nay về cơ bản NHNN đã hình thành được hệ thống các
công cụ CSTT tương đối đầy đủ để thực hiện điều tiết tiền tệ, bao gồm công
cụ dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn, tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở,
SWAP, nghiệp vụ thấu chi, cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên
ngân hàng.
2.1.2. Những vấn đề đặt ra trong điều hành CSTT giai đoạn 2001-2005
1). Chưa xác định rõ mục tiêu trung gian và mục tiêu hoạt động của CSTT
Đối với mục tiêu trung gian
Ngay từ năm 1995, NHNN đã xác định và điều hành lượng tiền cung
ứng của NHNN tăng thêm hàng năm để thực hiện ổn định tiền tệ theo các chỉ
tiêu dự kiến. Khối lượng tiền cung ứng cần thiết tăng thêm này được xác định
trên cơ sở mức tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán (M2) phù hợp với
mức độ tăng trưởng GDP và chỉ số lạm phát và hệ số tạo tiền dự kiến của các
TCTD.
Trên thực tế, NHNN đã chủ động và linh hoạt điều hành lượng tiền
cung ứng thông qua các công cụ CSTT như dự trữ bắt buộc, lãi suất tái cấp
vốn của NHNN, trần lãi suất cho vay của các TCTD đối với nền kinh tế…
Như vậy, mục tiêu trung gian trong điều hành CSTT chưa được xác định rõ
144
ràng. Tuy nhiên, xét về khía cạnh nào đó M2 được coi là mục tiêu trung gian
trong điều hành CSTT. Bên cạnh M2, trong điều hành CSTT hàng năm,
NHNN đã chú ý xây dựng mục tiêu về tăng trưởng tín dụng. Đây có thể coi
là mục tiêu trung gian của CSTT. Tuy nhiên, mục tiêu này chưa thực sự gắn
kết chặt chẽ với các mục tiêu cuối cùng như tăng trưởng GDP hay kiểm soát
lạm phát (CPI).
Hình 15 - Mối quan hệ giữa M2, tín dụng nền kinh tế với tăng trưởng GDP và tỷ lệ
lạm phát (CPI)
Đơn vị: %/năm
- Xem xét mối quan hệ giữa tín dụng nền kinh tế và M2 với các mục
tiêu về tăng trưởng GDP và CPI từ năm 1996 đến nay cho thấy kết quả
không thật rõ ràng: Nếu năm 1998 mức tăng CPI là cao nhất 9% nhưng mức
tăng trưởng tín dụng lại thấp nhất 16,3% và mức tăng trưởng M2 cũng không
quá cao 23,9%; Trong khi đó, năm 2000 là năm tín dụng cho nền kinh tế tăng
rất cao 38-39% nhưng CPI lại ở mức - 0,6%.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, sự tăng trưởng của M2 và tín
dụng là nguyên nhân tăng nhanh mức lạm phát. Kể từ năm 2004 mức tăng
trưởng cung tiền M2 luôn duy trì ở mức khoảng 30% và tăng vọt lên khoảng
50% vào năm 2007, làm cho mức lạm phát ở Việt Nam trở nên “vượt trội” so
với các nước trong khu vực. Chẳng hạn như vào thời điểm tháng 6/2007,
lượng tiền mặt trong lưu thông và tiền gửi ngân hàng ở Việt Nam đã tăng tới
21,1% so với đầu năm như các con số tương ứng của Trung Quốc và Thái
Lan lần lượt chỉ là 10% và 1,4%.
- Nếu xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng GDP và M2, tín dụng
nền kinh tế trong một số năm cũng cho những nhận xét tương tự. Nguyên
nhân của tình trạng này là do trong quá trình điều hành CSTT, NHNN chưa
thực sự kiểm soát hết các nhân tố tác động đến M2, đặc biệt là các nhân tố
làm thay đổi tài sản có ngoại tệ ròng và cho vay chính phủ ròng. Việc kiểm
145
soát M2 của NHNN còn chưa xem xét đầy đủ đến thực trạng đôla hóa và tác
động của cán cân thanh toán đến thay đổi cung tiền nên việc kiểm soát cung
tiền của NHNN còn bị động nhiều bởi luồng ngoại tệ ra, vào. Trong nhiều
thời điểm, M2 tăng không xuất phát từ việc tăng tiền cơ bản mà từ việc tăng
huy động ngoại tệ của NHTM.
- Đối với việc cho vay chính phủ ròng, theo quy định về thống kê tiền
tệ của IMF, tiền gửi của chính phủ là khoản tiền được chi tiêu có kế hoạch,
nên không có tác động đến lãi suất thị trường, do đó không được hạch toán
vào tiền cơ bản mà được hạch toán bên tài sản có của bảng cân đối tiền tệ
toàn ngành với dấu âm, có nghĩa là tiền gửi chính phủ càng lớn thì M2 càng
giảm. Nhưng trên thực tế, tiền gửi chính phủ tại các NHTM đã tham gia vào
quá trình tạo tiền, qua đó ảnh hưởng đến cung cầu vốn và lãi suất thị trường
mà NHNN không thể kiểm soát được. Đối với tiền gửi và tín dụng của các tổ
chức khác hoạt động ngân hàng cũng trong tình trạng tương tự. Nhất là từ
năm 2000 đến nay, các tổ chức khác hoạt động ngân hàng đã phát triển với
quy mô tương đối lớn, như Quỹ Hỗ trợ đầu tư, tiết kiệm bưu điện, hệ thống
bảo hiểm, Kho bạc Nhà nước... đã có tác động đến cung tiền ngoài phạm vi
kiểm soát của NHNN.
Như vậy, do chưa xác định rõ ràng mục tiêu trung gian nên trong thực
tế xác định lượng tiền cung ứng hàng năm phải dựa vào mức tăng M2, nhưng
việc điều hành các công cụ CSTT nhiều lúc hướng vào lãi suất thị trường và
tỷ giá.
Như vậy, việc điều hành CSTT hướng vào nhiều mục tiêu trung gian
(M2, tín dụng, tỷ giá, lãi suất) dẫn đến hiệu quả điều hành CSTT rất bị động,
điều tiết thị trường không đạt được mục tiêu mong muốn.
Đối với mục tiêu hoạt động
Trong điều kiện thị trường tiền tệ kém hiệu quả, khả năng cạnh tranh
giữa các ngân hàng thấp, ứng xử của các TCTD đối với những thay đổi của
thị trường còn kém, dẫn đến các mức lãi suất của NHNN chưa có tác động
hiệu ứng đáng kể đối với lãi suất thị trường. NHNN chưa thể lựa chọn mục
tiêu hoạt động là giá cả. Trong thực tế điều hành CSTT, NHNN chủ yếu
hướng vào điều tiết lượng tiền cung ứng do Chính phủ phê duyệt hàng năm
cho 2 mục tiêu mua ngoại tệ, tái cấp vốn cho các NHTM và các mục đích
khác.
Với cách điều hành như vậy, thực chất NHNN đã lựa chọn mục tiêu
hoạt động theo khối lượng. Tuy nhiên, việc điều hành theo khối lượng còn
chưa bao trùm toàn bộ sự thay đổi của tiền dự trữ (MB) và cũng không
hướng vào sự thay đổi MB để tác động làm thay đổi M2, mà chỉ chú trọng
thực hiện cung ứng theo kế hoạch mà Chính phủ phê duyệt cho 2 mục tiêu.
Sự thay đổi của tiền dự trữ không chỉ qua kênh mua bán ngoại tệ của
NHNN và việc tái cấp vốn cho các NHTM mà còn qua các kênh khác theo
146
mục đích chỉ định của Nhà nước như cho vay NSNN, xử lý nợ cho các
TCTD như khoản thu chi của NSNN.
Do vậy, diễn biến MB thực tế chưa thực sự gắn kết chặt chẽ với M2 và
các diễn biến CPI, tăng trưởng GDP.
2). Việc sử dụng các công cụ CSTT còn bộc lộ nhiều hạn chế.
Xem xét từng công cụ CSTT cho thấy:
- Công cụ tái cấp vốn:
Chưa thực hiện được đúng vai trò là công cụ cấp tín dụng ngắn hạn
của NHNN cho các ngân hàng và chưa có sự phân biệt rõ giữa các hình thức
tái cấp vốn nhất là về thời hạn vay vốn, cũng như về các điều kiện tiếp cận.
Việc điều tiết tiền tệ trong từng thời kỳ cũng chưa được định hướng rõ: Điều
tiết lãi suất hay khối lượng tiền. Mức độ tác động của lãi suất tái cấp vốn đối
với lãi suất thị trường và nhu cầu tiền tệ chưa cao.
- Nghiệp vụ thị trường mở:
Chưa xác định rõ mục tiêu hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở là
điều tiết khối lượng hay điều tiết lãi suất. Từ năm 2003, NHNN đã mở rộng
chủng loại giấy tờ có giá sử dụng trong các phiên giao dịch nghiệp vụ thị
trường mở cũng như trong các giao dịch vay tái cấp vốn, chiết khấu tại
NHNN. Song số giấy tờ có giá được bổ sung sử dụng bao gồm cả TPCP và
công trái cũng vẫn chỉ tập trung vào các NHTMNN. Đến đầu năm 2006,
NHNN cho phép sử dụng cả các TPCP do Quỹ Hỗ trợ phát triển và trái phiếu
chính quyền địa phương do UBND TP Hà nội và TP. HCM phát hành trong
nghiệp vụ thị trường mở. Tuy nhiên, số thành viên tham gia các phiên giao
dịch vẫn hạn chế (thường có dưới 10 thành viên) làm cho tác động của hoạt
động nghiệp vụ thị trường mở đến vốn khả dụng của các TCTD và các điều
kiện thị trường tiền tệ còn rất khiêm tốn.
- Công cụ dự trữ bắt buộc:
Phạm vi dự trữ bắt buộc chỉ bao gồm tiền gửi có kỳ hạn đến dưới 24
tháng nên vai trò của công cụ này đối với việc kiểm soát tiền tệ của NHNN
cũng còn có hạn chế nhất định.
Bảng 56 - Nghiệp vụ thị trường mở giai đoạn 2001-2005
Đơn vị: tỷ đồng
2001 2002 2003 2004 2005
Mua Bán Mua Bán Mua Bán Mua Bán Mua Bán
Số phiên 42 6 42 8 52 55 112 11 146 12
Doanh số 3314 620 57715 850 9843 11340 60986 950 100.711 1.800
Nguồn: NHNN
147
- Về điều hành lãi suất:
Khi lãi suất nền kinh tế được tự do hoá, đòi hỏi NHNN phải xây dựng
được một hành lang dao động cho lãi suất thị trường liên ngân hàng. Trên
thực tê, mặc dù NHNN đã bước đầu hình thành hành lang dao động cho lãi
suất thị trường liên ngân hàng cùng với lãi suất nghiệp vụ thị trường mở để
định hướng lãi suất thị trường, nhưng tác động của lãi suất do NHNN quy
định đến lãi suất thị trường tiền tệ còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân của tình
trạng này xuất phát bởi những bất cập về cơ chế truyền tải, sự kém phát triển
của TTTC nói chung và thị trường tiền tệ nói riêng. Trong nhiều trường hợp,
NHNN còn phải sử dụng một số biện pháp hỗ trợ cần thiết khác (như các
hình thức cảnh báo…) nhằm tác động điều tiết lãi suất thị trường.
Hình 16 - Diễn biến lãi suất giai đoạn 2003-2004
3). Tác động của cơ chế truyền tải CSTT còn những hạn chế và bất cập
Việc đánh giá cơ chế truyền tải CSTT được xem xét trên cơ sở đánh
giá tác động của CSTT qua các kênh cung ứng tiền, tín dụng, lãi suất và tỷ
giá.
Tác động của CSTT qua kênh cung ứng tiền và tín dụng đến nền kinh tế.
- Xem xét tác động của CSTT qua kênh cung ứng tiền thông qua mối
quan hệ giữa M2 và các mục tiêu tăng trưởng GDP, lạm phát (CPI):
Qua xem xét thực tế và chạy mô hình kinh tế lượng đơn giản về mối
quan hệ giữa M2 với lạm phát (CPI) từ năm 1990-2005 cho thấy 2 biến tố
này biến động cùng xu hướng, nhưng mối liên kết giữa chúng chưa thực sự
chặt chẽ do sự gia tăng của M2 còn chịu tác động của việc huy động tiền gửi
ngoại tệ và việc sử dụng số ngoại tệ này ở trong nước hay nước ngoài; vòng
quay tiền tệ không ổn định và có xu hướng giảm liên tục từ 3,44 vòng năm
1990 xuống còn 1,35 vòng năm 2005.
148
- Xem xét tác động của CSTT qua kênh tín dụng thông qua mối quan
hệ giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng GDP, lạm phát (CPI):
Mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và GDP:
Qua số liệu thực tế và kết quả phân tích định lượng từ 1999-2005 cho
thấy: về xu hướng dài hạn, giữa tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng GDP có
mối quan hệ thuận chiều. Tuy nhiên, sự tăng trưởng GDP có xu hướng nhanh
hơn tăng trưởng tín dụng ngân hàng do có một số nguồn vốn khác ngoài kênh
tín dụng ngân hàng (qua Quỹ Hỗ trợ phát triển, vốn NSNN cấp…) đóng góp
vào GDP ngày càng tăng.
Xét mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và CPI cho thấy:
Về ngắn hạn cũng như dài hạn, tăng trưởng tín dụng có tác động nhất
định đến lạm phát. Qua nghiên cứu gần đây cho thấy thường sự tác động của
tín dụng đến CPI có tác động trễ 14 tháng, với độ trễ của kỳ vọng lạm phát 1
tháng. Giả thiết các nhân tố khác không thay đổi thì khi tín dụng thay đổi 1%
có tác động làm CPI thay đổi 0,3%.
Như vậy, kênh cung tiền và tín dụng có vai trò đáng kể trong việc
truyền tải tác động CSTT, điều này cũng phù hợp với xu hướng chung ở các
nước đang phát triển. Theo đó, việc lựa chọn mục tiêu trung gian là tổng tiền
hay tín dụng là tương đối phù hợp với điều kiện thực tế, mặc dù kiểm soát
các mục tiêu có khó khăn nhất định. Tuy nhiên, để thực hiện vai trò mục tiêu
trung gian, biến số tín dụng cần được mở rộng hơn gồm toàn bộ các kênh tín
dụng nền kinh tế.
Tác động của CSTT qua kênh lãi suất, giá tài sản đến nền kinh tế
- Xem xét tác động của lãi suất đến tăng trưởng kinh tế: đánh giá qua
việc nghiên cứu tác động của lãi suất đến cấu thành GDP tính theo phương
pháp sử dụng (tiêu dùng và đầu tư), cho thấy:
Lãi suất tác động đến tiêu dùng của hộ gia đình:
Qua xem xét số liệu thực tế cho thấy mối quan hệ giữa lãi suất thực
tiền gửi tiết kiệm 3 tháng bằng VND với tỷ lệ tăng tiêu dùng của hộ gia đình
không có sự gắn kết chặt chẽ (hệ số tương quan giữa lãi suất tiền gửi 3 tháng
với tiêu dùng là 0,047). Quan hệ này giải thích tác động hạn chế của lãi suất
đến tiêu dùng của cá nhân thông qua tác động đến giá của các tài sản tài
chính do các công cụ tài chính còn hạn chế xét trên cả góc độ chủng loại và
khối lượng giao dịch và thu nhập của người dân còn thấp, thu nhập từ lãi thu
được từ các tài sản tài chính còn tương đối nhỏ. Ngoài ra, trong nền kinh tế
đô la hóa một phần, một tỷ trọng nhất định tiền gửi của dân cư là bằng ngoại
tệ, thu nhập từ tiền gửi này chịu tác động bởi yếu tố tỷ giá và lãi suất ngoại tệ.
Lãi suất tác động đến đầu tư:
Qua xem xét số liệu từ năm 1995 đến nay cho thấy những thay đổi về
lãi suất cho vay ngắn hạn có tác động rất nhỏ đến tổng đầu tư xã hội và mối
149
quan hệ giữa 2 biến số này là không chặt chẽ. Thực trạng này là do tín dụng
ngân hàng chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng đầu tư xã hội. Hơn nữa, sự thiếu
nhạy cảm của nhu cầu đầu tư với lãi suất có thể giải thích từ hiệu quả của quá
trình đầu tư, bản chất của nguồn vốn đầu tư và một phần tác động của chu kỳ
kinh tế. Trong tổng đầu tư của toàn xã hội, khu vực nhà nước chiếm tỷ trọng
lớn (khỏang 42-58% từ năm 1994 đến nay). Như vậy, vai trò của kênh lãi
suất trong truyền tải tác động của CSTT còn rất hạn chế.
Tác động của chính sách tiền qua kênh tỷ giá đến nền kinh tế
- Xem xét tác động của tỷ giá đến tăng trưởng kinh tế: Tác động của tỷ
giá đến tăng trưởng kinh tế thể hiện chủ yếu thông qua tác động đến hoạt
động xuất nhập khẩu.
Kết quả chạy mô hình kinh tế lượng cho thấy tỷ giá có tác động đến
xuất khẩu hơn nhập khẩu chỉ 23% thay đổi về giá trị nhập khẩu được giải
thích bởi thay đổi về tỷ giá, trong khi đối với xuất khẩu là 74%. Tuy nhiên,
tác động của tỷ giá đến xuất khẩu thường có độ trễ là 1 quý. Ngoài ra, vai trò
của tỷ giá trong việc cải thiện cán cân thương mại cũng hạn chế (Tổng hệ số
co giãn của khối lượng xuất nhập khẩu đối với 1% thay đổi của tỷ giá chỉ là
0,06).
- Xét tác động của tỷ giá đến lạm phát (CPI):
Kết quả phân tích kinh tế lượng cho thấy mất giá đồng tiền trong ngắn
hạn ít nhất cũng làm tăng chi phí nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ, qua đó tác
động tăng lạm phát. Tuy nhiên, nếu xét riêng mối quan hệ giữa tỷ giá và CPI
thì kết quả kiểm định cho thấy giữa các hệ số hồi quy không có ý nghĩa thống
kê. Khi xem xét mối quan hệ giữa tỷ giá với lạm phát đồng thời cùng với các
biến số khác như GDP, M2, chỉ số giá nhập khẩu thì kết quả cho thấy hệ số
tương quan của tỷ giá và lạm phát là rất thấp (2,41E-05) và tỷ giá có ý nghĩa
hạn chế đến việc giải thích những thay đổi của CPI (R2 = 0,76).
Trên thực tế, sự thay đổi của tỷ giá có ảnh hưởng đến sự ổn định tiền
tệ, làm thay đổi luồng luân chuyển vốn và lãi suất. Đối với trường hợp của
Việt Nam, tỷ giá có tác động nhất định đến lãi suất VND. Chính vì vậy, tác
động trực tiếp của tỷ giá đến các mục tiêu cuối cùng như tăng trưởng kinh tế,
lạm phát (CPI) hạn chế. Song trong điều hành CSTT vẫn cần quan tâm đến
những thay đổi về tỷ giá, CSTT gắn liền với chính sách tỷ giá do tỷ giá còn
có tác động gián tiếp đến các mục tiêu cuối cùng thông qua lãi suất.
4). Đánh giá chung
Qua phân tích mối quan hệ giữa các biến số tiền tệ như M2, tín dụng,
lãi suất và tỷ giá với các biến số kinh tế vĩ mô như lạm phát, tăng trưởng
GDP, hay các yếu tố cấu thành của tổng cầu như tiết kiệm, đầu tư, xuất nhập
khẩu cho thấy trong các biến số tiền tệ thường được NHTW lựa chọn làm
mục tiêu trung gian thì đối với trường hợp của Việt Nam, biến số tín dụng
nền kinh tế có mối quan hệ với CPI và nhất là với tăng trưởng GDP (là các
150
biến số kinh tế vĩ mô chủ yếu và cũng là mục tiêu hàng đầu của CSTT) với
độ nhạy cảm hơn so với M2. Do vậy, về ngắn hạn nên chọn tín dụng là mục
tiêu trung gian thì hiệu quả hơn là chọn M2 hoặc lãi suất thị trường.
Việc kiểm định các biến số có thể xem xét lựa chọn thành mục tiêu
họat động trong điều hành CSTT cũng bước đầu cho thấy với điều kiện thị
trường tiền tệ chưa phát triển, việc lựa chọn mục tiêu điều tiết khối lượng có
thể phù hợp hơn mục tiêu lãi suất.
Tuy nhiên, có thể thấy rõ là từ 1990 đến nay cơ chế chuyển tải CSTT
chưa được định hình rõ ràng, nên việc điều hành CSTT của NHNN còn có
hạn chế trong việc theo đuổi mục tiêu. Song qua xem xét mối quan hệ giữa
các biến số mục tiêu nêu trên cho thấy kênh lãi suất, tỷ giá cho thấy vai trò
hạn chế trong việc chuyển tải tác động CSTT đến nền kinh tế, trong khi đó
tác động tiền tệ chủ yếu thực hiện qua kênh cung ứng tiền và tín dụng cho
nền kinh tế. Điều này cũng phù hợp với điều kiện thị trường tiền tệ và thị
trường vốn ở Việt Nam chưa thực sự phát triển, nền kinh tế bị đô la hóa một
phần và đang trong quá trình chuyển đổi, HNQT.
2.2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NGOẠI HỐI VÀ ĐIỀU HÀNH TỶ
GIÁ GIAI ĐOẠN 2001-2005
2.2.1. Đánh giá kết quả quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá giai đoạn
2001-2005
Chính sách quản lý ngoại hối ở nước ta trong những năm qua đã đạt
được những thành tựu và tiến bộ sau:
1). Đã dần thực hiện tự do hóa hoàn toàn về chuyển đổi đối với giao dịch vãng lai
Trong quản lý và điều hành chính sách quản lý ngoại hối, Việt Nam đã
từng bước thực hiện chuyển đổi các giao dịch vãng lai qua từng giai đoạn
như sau:
- Trước những năm 1990, cơ chế QLNH được thực hiện trên cơ sở chế
độ độc quyền về ngoại thương, mọi nguồn thu vãng lai của doanh nghiệp đều
phải kết hối 100%.
- Từ năm 1993, khi Nghị định số 161/1993/NĐ-CP ra đời, các quy
định về QLNH đã được nới lỏng dần, khuyến khích mở rộng thương mại và
đầu tư quốc tế theo hướng: đối với tổ chức kinh tế được duy trì tài khoản
ngoại tệ và được giữ lại một phần nhất định. Đối với cá nhân, chuyển tiền
kiều hối được khuyến khích và được gửi vào tài khoản ngoại tệ, được rút ra
bằng ngoại tệ. Các cá nhân đi học, tham quan, công tác ở nước ngoài cũng
được xem xét mua ngoại tệ cần thiết.
151
- Từ năm 1998 khi Nghị định số 63/1998/NĐ-CP ra đời thay thế Nghị
đinh số 161, nhiều quy định về QLNH được dỡ bỏ, từng bước nâng cao khả
năng chuyển đổi của VND.
- Từ năm 2001, chính sách cân đối ngoại tệ được dỡ bỏ, các tổ chức
được đối xử bình đẳng khi tiếp cận ngoại tệ của hệ thống ngân hàng. Các
doanh nghiệp được mở nhiều tài khoản tiền gửi ngoại tệ và có quyền tiếp cận
với các NHTM để vay ngoại tệ cho mục đích thanh toán giao dịch vãng lai,
mặc dù không hạn chế về số lượng ngoại tệ mua nhưng phải xuất trình các
giấy tờ cần thiết và chuyển lợi nhuận về nước cũng cần xuất trình những giấy
tờ liên quan đến nộp thuế. Đối với các cá nhân đã được tiếp cận mua ngoại tệ
cho các mục đích tham quan, học tập, chữa bệnh nhiều hơn, nhưng vẫn còn
hạn chế số lượng ngoại tệ đem ra trên mức 3.000 USD phải được sự chấp
thuận của NHNN.
- Từ tháng 11/2005, theo quy định tại Nghị định số 131 sửa đổi một số
điều của Nghị định số 63 thì các hạn chế trên đã được dỡ bỏ và IMF đã công
nhận Việt Nam đã tự do hoá hoàn toàn các giao dịch vãng lai. Hơn nữa, với
các quy định tại Pháp lệnh Ngoại hối số 28/PL-UBTVQH ban hành ngày
13/12/2005, có hiệu lực thi hành từ 01/6/2006, quản lý ngoại hối đã được nới
lỏng theo hướng tự do hoá các giao dịch vãng lai.
Như vậy, chính sách quản lý ngoại hối theo hướng tự do hóa dần các
chuyển đổi tài khoản vãng lai ở nước ta ngày càng phù hợp hơn với thông lệ
quốc tế, đáp ứng được hầu hết các cam kết song phương và đa phương của
Việt Nam trong tiến trình hội nhập, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp
và dân cư tiến hành các giao dịch ngoại hối, góp phần thúc đẩy hoạt động
kinh tế đối ngoại.
2). Mức độ chuyển đổi đối với các giao dịch vốn đã được nới lỏng
Đến nay, sự quản lý ngoại hối đối với các giao dịch vốn đã được
chuyển hướng từ quản lý trực tiếp sang gián tiếp, từng bước thực hiện tự do
hoá giao dịch vốn, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp. Chẳng hạn:
- Đối với hoạt động vay trả nợ nước ngoài:
Công tác quản lý vay trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp đã được đổi
mới để tạo thế chủ động cho doanh nghiệp và ngân hàng theo hướng: Bãi bỏ
các qui định về điều kiện lãi suất.; Các doanh nghiệp có quyền mở tài khoản
vốn khác để tiếp nhận vốn vay và hoàn trả khoản vay; Cho phép các NHTM
được chủ động xác định hạn mức L/C trong giới hạn an toàn10.
- Đối với quản lý ngoại hối trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài
Đến nay, nhiều hạn chế liên quan đến đầu tư nước ngoài đã được dỡ
bỏ, đặc biệt là quy định về chuyển đổi ngoại tệ để đáp ứng yêu cầu chi
chuyển lợi nhuận cũng như vốn pháp định. Từ năm 1999, các nhà đầu tư
được quyền chuyển đổi ra ngoại tệ để chuyển về nước; Các doanh nghiệp
152
FDI đều được đối xử bình đẳng khi tiếp cận nguồn ngoại tệ của hệ thống
ngân hàng. Pháp lệnh Ngoại hối số 28/PL-UBTVQH ra đời cũng có những
quy định cụ thể theo hướng nhà đầu tư nước ngoài chuyển vốn vào Việt Nam
phải chuyển ra VND để đầu tư và được chuyển đổi ra ngoại tệ để chuyển về
nước lợi nhuận cũng như các nguồn thu hợp pháp khác.
- Đầu tư vào giấy tờ có giá
Hiện nay, các nhà đầu tư nước ngoài đã được phép đầu tư vào trái
phiếu, cố phiểu của các doanh nghiệp của Việt Nam với một tỷ lệ tối đa nhất
định. NHNN đã cho phép chuyển vốn vào Việt Nam, chuyển đổi ra VND để
góp vốn, mua cổ phần, mua chứng khoán. Tuy nhiên, tỷ lệ nắm giữ cổ phần
của nước ngoài vẫn bị hạn chế dưới 49%.
- Chính sách đầu tư ra nước ngoài:
Trên cơ sở giấy phép về đầu tư ra nước ngoài, các doanh nghiệp được
phép mua ngoại tệ tại hệ thống NHTM và chuyển vốn ra để đầu tư ở nước
ngoài. Điều này đã thúc đẩy hoạt động đầu tư ra nước ngoài: Tính đến cuối
năm 2005, Việt Nam đã có 150 dự án đầu tư ra nước ngoài với tổng số vốn
đầu tư hơn 620,6 triệu USD. Phần lớn dự án tập trung tại hai nước Lào (với
50 dự án, tổng vốn đầu tư là 367 triệu USD) và Liên bang Nga (có 11 dự án,
tổng vốn đầu tw là 38,3 triệu USD).
Như vậy, bằng những chính sách tự do hóa và nới lỏng, VND đã được
nâng cao tính chuyển đổi theo giao dịch vãng lai và giao dịch vốn, trong đó
các giao dịch vãng lai đã được tự do hoá hơn so với các giao dịch vốn nhằm
tạo thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh
doanh.
3). Quy mô dự trữ ngoại hối không ngừng tăng lên
Trong giai đoạn 2001-2005 do tiềm lực tài chính quốc gia của nước ta
đã không ngừng được củng cố và tăng cường, nền tài chính không những
đảm bảo có tích lũy, trả được nợ và có mức dự trữ tài chính không ngừng
tăng cao, trong đó đặc biệt là DTNH có mức tăng đáng kể.
Nếu năm 2000, mức DTNH của Việt Nam mới đạt khoảng trên 2 tỷ
USD thì đến năm 2007 mức DTNH đã tăng trên 20 tỷ USD; Đến tháng
9/2008 DTNH của Việt Nam đã đạt 21,9 tỷ USD và cả năm năm 2008 ước
đạt gần 23 tỷ USD. Như nậy, từ năm 2000 đến năm 2007 mức tăng trưởng
của DTNH của Việt nam đã tăng khoảng 10 lần. Nếu so sánh với quy mô
GDP thì tỷ lệ DTNH của Việt Nam cũng chiếm trên 28%GDP năm 2007 và
khoảng 30%GDP năm 2008. Đây là mức DTNH khá cao so với một số nước
trên thế giới.
153
Bảng 57 - Tình hình DTNH của Việt Nam giai đoạn 2001-2007
Đơn vị: Triệu USD
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Tổng DTNH 3.765 4.232 6.359 6.308 7.730 10.742 20.000
Dự trữ/nhập khẩu (số
tuần)
10,9 10,3 12,35 9,8 10,2 12 16
Tỷ lệ dự trữ/nợ ngắn
hạn (lần)
33,0 26,1 33,8 47,1 7,4 4,5 n.a
Tỷ lệ dự trữ/M2 (%) 18,3 17,3 21,4 20,2 20,6 21,9 n.a
Nguồn: NHNN, IMF và ước tính của nhóm tác giả
Nếu so sánh mức DTNH với giá trị một tuần nhập khẩu thì có mức
DTNH cũng tăng lên khá nhanh từ trên 10 tuần trong những năm 2001-2002
lên mức 16 tuần vào năm 2007. Như vậy, đến nay mức DTNH của Việt Nam
đang dao động và xoay quanh mức 12 tuần nhập khẩu, đạt ngưỡng tỷ lệ
DTNH tối thiểu theo tiêu chuẩn quốc tế. Đây là một cố gắng lớn của Việt
Nam trong chiến lược tăng DTNH trong giai đoạn vừa qua.
Hình17 - Tốc độ tăng dự trữ ngoại hối của Việt Nam giai đoạn 2001-2008
Bên cạnh đó, công tác quản lý DTNH của NHNN nhìn chung cơ bản
đáp ứng các mục tiêu đặt ra là thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bảo đảm
khả năng thanh toán quốc tế, tăng dự trữ ngoại tệ nhà nước qua đó góp phần
vào việc thúc đẩy xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế.
Qui mô dự trữ ngoại hối gia tăng trong thời gian qua đã góp phần tăng
khả năng phòng vệ của NHNN trước khả năng có thể đảo chiều nhanh chóng
của các luồng vốn ngắn hạn, nhất là luồng vốn đầu tư gián tiếp của các nhà
đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán của Việt Nam và góp phần
nâng cao tính chuyển đổi của đồng Việt Nam.
Công tác quản lý DTNH đã có sự tách bạch giữa hoạt động quản lý
DTNH thanh khoản và hoạt động quản lý DTNH kiếm lời bằng việc duy trì
hai Quỹ dự trữ ngoại tệ (quỹ bình ổn tỷ giá và quỹ dự trữ). Hai quỹ này có
154
quan hệ qua lại đảm bảo nguyên tắc quản lý chặt chẽ và đảm bảo sự linh hoạt
tương đối trong quản lý, điều hành. Cơ chế chính sách quản lý dự trữ ngoại
hối góp phần điều hòa nguồn ngoại tệ trong nền kinh tế, đảm khả năng thanh
toán quốc tế, ổn định giá trị đối nội và đối ngoại của đồng tiền, ổn định kinh
tế vĩ mô.
4). Điều hành chính sách tỷ giá đã linh hoạt hơn góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và ổn định vĩ mô nền kinh tế.
Cho tới tháng 3/1989, Việt Nam vẫn duy trì một chế độ đa tỷ giá cho
nhiều loại giao dịch ngoại hối khác nhau, tỷ giá chính thức do NHNN công
bố giữ một khoảng cách khá xa so với tỷ giá trên thị trường chợ đen và giá trị
chính thức của VND được đánh giá quá cao so với giá trị thực.
Đến năm 1997, do áp lực mạnh mẽ đối với việc phá giá đồng bản tệ
dưới tác động của cuộc khủng hoàng tài chính, tiền tệ châu Á, NHNN đã đổi
mới điều hành tỷ giá mạnh mẽ hơn: xoá bỏ tỷ giá chính thức do NHNN công
bố, thay vào đó NHNN quy định các NHTM được giao dịch trong phạm vi
giao động 0,1% so với giá đóng cửa trên thị trường liên ngân hàng trong
phiên giao dịch gần nhất. NHNN liên tục điều chỉnh tăng tỷ giá chính thức và
nới lỏng biên độ giao động tỷ giá áp dụng với các NHTM từ +/-5% đến 10%
trong giai đoạn 1997-1999.
Từ tháng 2/1999, NHNN bãi bỏ việc công bố tỷ giá chính thức mà
công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ Liên ngân hàng,
các NHTM được xác định tỷ giá mua- bán với USD trong phạm vi 0,1%.
Đây là bước cải cách có ý nghĩa chuyển từ cơ chế xác định chủ quan sang cơ
chế xác định trên cơ sở cung cầu thị trường.
Tiếp đến 7/2002, biên độ tỷ giá cũng được nới rộng lên tới +/-0,25% .
Như vậy, đến nay việc điều hành tỷ giá đã được đổi mới một bước trên
cơ sở từng bước tách rời sự neo buộc của VND vào USD để tiến đến gắn kết
vào một rổ đồng tiền dựa trên quan hệ thương mại và đầu tư của Việt Nam.
Chính sách này đã đưa đến những kết quả tích cực:
- Tạo điều kiện cho NHNN dễ dàng kiểm soát, điều tiết thị trường
ngoại hối, trước hết là thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
- Quy định biên độ dao động xung quanh tỷ giá chính thức là một công
cụ hữu hiệu giúp NHNN có thể hạn chế những biến động đột biến gây sốc
lớn cho nền kinh tế.
- Tạo điều kiện cho các NHTM chủ động hơn trong việc xác định tỷ
giá của mình trên cơ sở cung cầu ngoại tệ, góp phần thúc đẩy thị trường ngoại
hối phát triển và tạo điều kiện cho các NHTM hội nhập nền kinh tế thế giới
theo nguyên tắc cạnh tranh và bình đẳng.
155
2.2.2. Những vấn đề đặt ra về quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá giai
đoạn 2001-2005
1). Mức độ chuyển đổi của VND vẫn còn hạn chế
Mặc dù chính sách quản lý ngoại hối đã được đổi mới theo hướng tự
do hóa và nói lỏng tài khoản vốn và giao dịch vãng lai, song khả năng đáp
ứng nhu cầu ngoại tệ của các NHTM vẫn còn mất cân đối. Điều này, đã hạn
chế mức độ chuyển đổi của VND.
Nguyên nhân của tình trạng trên bắt nguồn tự sự găm giữ ngoại tệ ở
các khu vực của nền kinh tế. Cụ thể:
- Nguồn thu ngoại tệ của quốc gia chưa được tập trung thống nhất: một
phần do NHNN nắm giữ, phần lớn nguồn thu ngoại tệ của Chính phủ do Bộ
Tài chính nắm giữ, nhưng việc bán ngoại tệ của NSNN để đáp ứng cho nhu
cầu ngoại tệ của các khu vực khác trong nền kinh tế lại chưa kịp thời.
- Khu vực doanh nghiệp nghiệp vẫn còn găm giữ một lượng ngoại tệ
lớn vì có tâm lý lo sợ hệ thống ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu ngoại
tệ. Mặt khác xu hướng gia tăng tỷ giá giữa VND và lợi tức nắm giữ đồng đô
la xem ra hấp dẫn hơn VND.
- Khu vực tư nhân luôn có một lượng lớn ngoại tệ thặng dư từ nguồn
chuyển tiền kiều hối, tuy nhiên phần lớn kiều hối được bán và gửi hệ thống
ngân hàng. Tiền gửi tiết kiệm của dân cư và ngoại tệ tiền mặt trong lưu thông
thực chất là hai bình thông nhau: khi lợi tức của việc nắm giữ USD và VND
không được đảm bảo thì có sự chuyển dịch giữa USD sang VND, hạn chế
việc sử dụng ngoại tệ từ nguồn này đáp ứng cho nhu cầu ngoại tệ của các khu
vực khác.
- Với chức năng trung gian tài chính, hệ thống ngân hàng đã có nhiều
cố gắng đáp ứng kịp thời nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế. Tuy nhiên, lượng
ngoại tệ trong nước lại chủ yếu nằm dưới dạng tiền gửi tiết kiệm của khu vực
dân cư nên đã hạn chế khả năng cung ngoại tệ của NHTM trên thị trường
ngoại hối. Khi lãi suất USD trên thị trường quốc tế cao hơn lãi suất trong
nước, các NHTM tăng cường huy động ngoại tệ để hưởng chênh lệch giữa lãi
suất trong nước và quốc tế. Một nghịch lý là trong khi các NHTM chuyển
ngoại tệ ra nước ngoài, nhưng trong nhiều thời điểm nhu cầu ngoại tệ để phục
vụ nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ chưa được đáp ứng.
- VND chưa được chấp nhận trên thị trường quốc tế. Vì vậy, VND hầu
như chưa được chuyển đổi ở nước ngoài trừ tại một số nước có chung biến
giới. Và việc chuyển đổi cũng chỉ quanh khu vực biên giới và tại các ngân
hàng liên doanh với Việt Nam.
Có thể nói, khả năng chuyển đổi của VND ở nước ngoài một mặt phụ
thuộc vào ý muốn chủ quan của nhà nước nhưng mặt khác lại phụ thuộc vào
cầu của người không cư trú đối với VND, điều này phụ thuộc vào rất nhiều
156
yếu tố như tiềm lực kinh tế, khả năng cạnh tranh, sức khoẻ của hệ thống ngân
hàng...
2). Mức độ đô la hoá ở Việt Nam có xu hướng ngày càng tăng so với các nước trên thế giới và trong khu vực
Việc đánh giá mức độ đô la hoá có thể trên giác độ của cả nền kinh tế
được đo bằng tỷ lệ giữa tiền gửi ngoại tệ trên tổng phương tiện thanh toán.
Xem xét diễn biến đôla hóa giai đoạn 1991-2005 cho thấy, giá trị tiền gửi
ngoại tệ có xu hướng tăng lên, đặc biệt tăng mạnh trong giai đoạn 1998-2000,
ổn định trong giai đoạn 2000-2002 và tăng mạnh từ năm 2004. Tuy nhiên, tỷ
lệ tiền gửi ngoại tệ trên tổng tiền gửi và M2 lại có xu hướng giảm trong giai
đoạn 1991-1996, bắt đầu gia tăng từ năm 1998-2001 và giảm trong giai đoạn
2002-2003, ổn định trong giai đoạn 2004-2005.
Hình 18 - Diễn biến đôla hóa ở Việt Nam giai đoạn 1991-2005
Để có cơ sở khoa học trong việc phân tích, đánh giá mức độ đô la hoá,
cần thiết phải nghiên cứu theo từng khu vực của nền kinh tế, từ đó xác định
rõ nguyên nhân của tình trạng đôla hoá.
- Đối với khu vực dân cư:
Tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ của khu vực dân cư trên M2 gia tăng từ mức
dưới 5% trong giai đoạn 1992-1996 lên đến mức khoảng 10% trong mấy
năm gần đây. Đồng thời, tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trên tổng tiền gửi (bao gồm cả
tiền gửi VND và USD) của khu vực dân cư tăng lên từ mức ổn định khoảng
10% trong giai đoạn 1992-1994 lên 30% trong năm 1998 và lên 50% từ năm
2000 đến nay.
Mặc dù mức độ đô la hoá của khu vực dân cư tăng lên nhưng đây là
điểm tích cực so với việc nắm giữ ngoại tệ tiền mặt trong lưu thông bởi ngoại
tệ tiền mặt được huy động vào hệ thống ngân hàng sẽ được cung cấp nhiều
hơn cho việc mở rộng tín dụng của các ngân hàng.
0
50
100
150
1991
1993
1995
1997
1999
2001
2003
Jun-
05
1.000 ty VND
020406080
Tien gui ngoai te Tien gui ngoai te/Tong tien gui TG $/M2
157
Nguyên nhân chủ yếu khiến tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ của dân cư trên M2
tăng lên là:
- Nhờ những cải cách mạnh mẽ trong hệ thống ngân hàng, dân chúng
ngày càng tin tưởng hơn vào hệ thống ngân hàng;
- Chính sách QLNH của Việt Nam đã khuyến khích thu hút nguồn
kiều hối;
- Do M2 trên Bảng cân đối tiền tệ toàn ngành không bao gồm đôla tiền
mặt do khu vực dân cư nẵm giữ, bởi vậy khi lượng đôla tiền mặt được gửi
vào ngân hàng, tỷ lệ giữa tiền gửi ngoại tệ của khu vực dân cư trên M2 tăng
lên;
Ở Việt Nam, ngoại tệ tiền mặt lưu hành trong lưu thông có thể tích lũy
từ nhiều kênh khác nhau nhưng được tập trung vào NHTM với số lượng
không lớn. Trong giai đoạn 1996-2000, lượng chuyển tiền tư nhân ròng đóng
góp vào lượng ngoại tệ trong lưu thông khoảng 2,6 tỷ USD. Từ năm 2001
đến nay, số lượng này đã tăng lên gần gấp đôi giai đoạn 1996-2000. Bên cạnh
đó còn một lượng ngoại tệ trong lưu thông trước ước tính vào khoảng 2,5 tỷ
USD tiền mặt và khoảng 3 tỷ USD nắm giữ bằng vàng11.
- Đối với khu vực doanh nghiệp:
Do nhu cầu ngoại tệ của khu vực doanh nghiệp tăng nhanh nên có xu
hướng tăng lượng tiền gửi ngoại tệ của doanh nghiệp trong hệ thống ngân
hàng.
Hình 19 – Đô la hóa tiền gửi của các tổ chức kinh tế giai đoạn 1991-2004
Tuy nhiên, mặc dù lượng tiền gửi ngoại tệ của doanh nghiệp tăng lên,
nhưng mức độ đô la hoá tính bằng tỷ lệ giữa tiền gửi ngoại tệ của khu vực
này trong M2 lại giảm mạnh từ 39,7% năm 1991 xuống còn 8,4% năm 1998
và tăng lên khoảng 12 % trong giai đoạn 2000-2001, sau đó giảm xuống chút
ít còn 10-11% giai đoạn 2002-2004.
158
Nguyên nhân chủ yếu là do:
- Từ trước năm 1998, sự phối hợp giữa chính sách tỷ giá và lãi suất
chưa phù hợp, USD tỏ ra hấp dẫn hơn VND và các doanh nghiệp có xu
hướng đầu cơ và nắm giữ ngoại tệ;
- Từ năm 1999, cán cân thương mại của Việt Nam đươc cải thiện do
xuất khẩu tăng trưởng nhanh hơn nhập khẩu;
- Vốn từ nước ngoài dưới hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài và vay
nợ nước ngoài vẫn tiếp tục đổ vào Việt Nam cũng góp phần làm cho tiền gửi
ngoại tệ của các tổ chức kinh tế tăng lên.
- Đô la hoá các trung gian tài chính:
Đô la hoá bên tài sản nợ:
Trong 1991-1997 mức độ đô la hoá tiền gửi của khu vực doanh nghiệp
có xu hướng giảm, nhưng mức độ đô la hoá tiền gửi của khu vực dân cư lại
tăng lên. Về tổng thể, mức độ đô la hoá tài sản nợ của hệ thống ngân hàng
tính bằng tỷ lệ giữa tiền gửi ngoại tệ trên M2 giảm mạnh trong giai đoạn
1991-1993 và khá ổn định trong giai đoạn 1994-1996.
Nguyên nhân là do trong giai đoạn 1991-1993 là do lợi tức của VND
cao hơn nhiều so với lợi tức của USD. Nhu cầu ngoại tệ cho các giao dịch
kinh tế đối ngoại vẫn còn ở mức thấp do nền kinh tế mới thực hiện chính sách
mở cửa. Hơn nữa, lượng ngoại tệ của khu vực dân cư gửi tại ngân hàng trong
giai đoạn này ở mức không đáng kể. Trong thời gian xảy ra khủng hoảng khu
vực và sau đó, lòng tin của dân chúng vào VND bị giảm xuống và lợi tức của
VND thấp hơn so với lợi tức của USD. Khu vực dân cư và các doanh nghiệp
có xu hướng chuyển sang nắm giữ bằng USD. Do đó, tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ
trên tổng phương tiện thanh toán tăng lên ở mức khoảng 30% trong giai đoạn
2000-2001. Từ năm 2001đến nay, mức độ đô la hoá giảm xuống còn khoảng
25%.
- Đô la hoá bên tài sản có:
Số liệu thực tế cho thấy mức độ đô la hoá tài sản có của hệ thống ngân
hàng thương mại tính bằng tỷ lệ giữa tín dụng ngoại tệ trên M2 giảm từ mức
ổn định 29% trong giai đoạn 1994-1996 xuống mức 12-14% trong giai đoạn
1999-2001, tăng lên từ năm 2000 và ở mức khoảng gần 20% vào cuối năm
2004. Có thể thấy rõ điều này qua những phân tích sau đây:
Từ trước cho đến cuối năm 1999, tín dụng ngoại tệ chỉ được cấp cho
các doanh nghiệp bởi quy chế quản lý ngoại hối hiện hành không cho phép
các ngân hàng thương mại cho các cá nhân và hộ gia đình vay. Nguyên nhân
của việc tín dụng ngoại tệ không tăng mạnh mà chỉ ổn định trong giai đoạn
này đã được đề cập khi đánh giá mức độ đô la hoá tiền vay của các doanh
nghiệp.
159
Trong những năm gần đây đặc biệt, trong giai đoạn 1999-2000, các
NHTM tăng cường huy động ngoại tệ để kiếm chênh lệch giữa lãi suất đô la
Mỹ ở thị trường trong nước và lãi suất đôla Mỹ thu được từ việc gửi ngoại tệ
ở nước ngoài. Do vậy lượng ngoại tệ bán cho NHNN để tăng dự trữ ngoại tệ
của đất nước không đáng kể. Bắt đầu từ năm 2002, lượng ngoại tệ gửi ở nước
ngoài của các NHTM đã giảm hơn trước.
Một số nguyên nhân chủ yếu của đô la hóa thời gian vừa qua là:
- Nền kinh tế tăng trưởng nhưng chưa bền vững. Lạm phát của Việt
Nam luôn cao hơn lạm phát của Mỹ khiến người ta cho rằng khả năng phá
giá đồng Việt Nam là chính sách thường trực;
- Mối quan hệ giữa tỷ giá và lãi suất chưa hợp lý;
- Việc quản lý thị trường phi chính thức chưa nghiêm ngặt;
- Tâm lý sử dụng tiền mặt trong thanh toán (cả nội tệ và ngoại tệ) và
khó thay đổi;
- Tình hình buôn lậu, thanh toán bằng tiền mặt ngoại tệ phổ biến ở các
tỉnh biên giới thúc đẩy sự phát triển thị trường không chính thức.
- Công tác quản lý ngoại hối còn hạn chế ở chỗ chưa tạo được sự
thông suốt về chu chuyển ngoại tệ giữa các khu vực của nền kinh tế, tính
chuyển đổi về VND còn hạn chế. Đặc biệt, trong bối cảnh nền kinh tế ngày
càng hội nhập với nền kinh tế thế giới, nhu cầu ngoại tệ để phục vụ thanh
toán quốc tế ngày càng tăng, đồng thời các doanh nghiệp và cá nhân có nhiều
nguồn thu ngoại tệ từ xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ, chuyển tiền kiều hối... Do
còn những nguyên nhân nêu trên, luồng ngoại tệ vẫn được các doanh nghiệp,
cá nhân nắm giữ ngoại tệ trên tài khoản gửi tại các ngân hàng, nên tỷ lệ tiền
gửi ngoại tệ trên tổng phương tiện thanh toán tăng, khiến mức độ đô la hoá
ngày càng tăng; Kết quả là chỉ số tiền gửi ngoại tệ/M2 tăng lên.
Ảnh hưởng của đô la hoá đến việc điều hành CSTT
- NHNN gặp khó khăn trong việc kiểm soát và dự báo tiền tệ:
Khi nền kinh tế có tình trạng đô la hoá, lượng tiền gửi ngoại tệ/M2 ở
mức cao, sự dịch chuyển giữa USD và VND có thể xảy ra gây khó khăn
trong việc kiểm soát và dự báo M2, MB và nhất là kiểm soát lượng ngoại tệ
tiền mặt trong nền kinh tế. Việc tính toán vòng quay tiền tệ theo công thức
V=GDP/M2 sẽ thiếu chính xác khi chưa kiểm soát được lượng ngoại tệ tiền
mặt, từ đó gây khó khăn trong việc dự báo tiền tệ.
- Gây khó khăn trong việc kiểm soát lạm phát trong điều hành mục
tiêu của CSTT
Trong cơ cấu M2, gồm M2 bằng VND và bằng ngoại tệ. M2 bằng
ngoại tệ chịu tác động bởi tình trạng cán cân thanh toán của một nước, mặt
khác phụ thuộc vào sự dịch chuyển giữa VND và USD. Khi NHNN lựa chọn
160
M2 là mục tiêu trung gian trong điều hành CSTT thì tình trạng đô la hoá cao
sẽ làm giảm hiệu quả điều hành.
- Đô la hoá cao gắn liền với rủi ro ngoại hối đối với hệ thống ngân
hàng cũng như đối với các doanh nghiệp, gây khó khăn cho NHNN khi dự
trữ quốc tế còn mỏng.
Khi tỷ giá không ổn định, lãi suất ngoại tệ biến động, các doanh
nghiệp và ngân hàng thực hiện vay và cho vay bằng ngoại tệ sẽ bị ảnh hưởng,
qua đó ảnh hưởng tiêu cực đối với việc điều hành CSTT của NHNN.
3). Quy mô DTNH mặc dù tăng song còn chưa đáp ứng yêu cầu, nguồn DTNH còn bị phân tán
Quy mô DTNH, mặc dù có xu hướng tăng trong những năm gần đây,
song mức DTNH còn khá khiêm tốn, chỉ bằng 10-12 tuần nhập khẩu. Trong
bối cảnh hội nhập quốc tế mạnh mẽ, tỷ giá giữa đô la Mỹ và đồng Việt Nam
có nhiều thay đổi, chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến cán cân thanh toán quốc tế.
Trong khi DTNH còn thấp thì nguồn ngoại tệ còn khá phân tán. Hiện
nay, nguồn ngoại tệ do Bộ Tài chính nằm giữ rất lớn do nguồn thu ngoại tệ
của Chính phủ lớn hơn nguồn chi ngoại tệ. Xem xét nguồn thu, chi ngoại tệ
của khu vực Chính phủ trong thời gian qua ta thấy nguồn thu ngoại tệ của
Chính phủ chủ yếu là nguồn thu từ xuất khẩu dầu thô, thu từ viện trợ và vay
nợ nước ngoài (chủ yếu là các khoản vay ODA). Chi ngoại tệ chủ yếu là
khoản chi trả nợ của nước ngoài. Trên thực tế, nguồn thu ngoại tệ của Chính
phủ vượt xa so với nhu cầu chi ngoại tệ phục vụ cho trả nợ gốc, lãi vay nợ
nước ngoài và một số mục đích khác.
Tại Điều 3 Quyết định số 173/1998/QĐ/TTg ngày 12/09/1998 quy
định “Tài khoản quỹ ngoại tệ của Ngân sách Nhà nước phải gửi tại NHNN
Việt Nam để thực hiện mọi khoản thu, chi bằng ngoại tệ của Ngân sách Nhà
nước. Hàng năm, trên cơ sở kế hoạch thu, chi ngoại tệ của Ngân sách Nhà
nước, Bộ Tài chính cùng NHNN thống nhất phương án mua, bán ngoại tệ của
Ngân sách Nhà nước”. Trên thực tế, việc bán ngoại tệ của Ngân sách Nhà
nước nhiều khi chưa kịp thời, nên nhiều thời điểm số dư tiền gửi ngoại tệ của
Ngân sách Nhà nước gửi tại NHNN rất lớn. Số dư của hai quỹ (quỹ ngoại tệ
tập trung và quỹ tích luỹ trả nợ nước ngoài) lên tới 1,5 tuần nhập khẩu. Như
vậy, trong khi các khoản vay nước ngoài của Chính phủ chưa có nhu cầu
thanh toán, số ngoại tệ này vẫn được găm giữ trên tài khoản của Bộ Tài chính
thay vì bán cho NHNN để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của các khu vực khác
trong nền kinh tế. Điều này khiến cung ngoại tệ bị bóp méo, làm tăng áp lực
giảm giá đồng Việt Nam và làm tăng tâm lý tích trữ ngoại tệ ở tất cả các khu
vực trong nền kinh tế.
Tóm lại, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường trong bối cảnh hội
nhập, việc hình thành dự trữ tài chính ở nước ta không chỉ đòi hỏi mức dự trữ
phải đủ lớn, mà còn yêu cầu xây dựng một cơ chế quản lý hiệu quả. Tuy
161
nhiên, những mặt hạn chế trên đây trong hoạt động quản lý dự trữ quốc gia
của Việt Nam đưa đến làm suy yếu vai trò của dự trữ tài chính trong điều
kiện hiện nay. Vì vậy, để phát huy vai trò của dự trữ tài chính trong công
cuộc phát triển kinh tế trong điều kiện hội nhập, việc đổi mới cơ chế, chính
sách quản lý và sử dụng dự trữ tài chính là đòi hỏi cấp thiết.
4). Chính sách tỷ giá của Việt Nam còn có những hạn chế bất cập
Cơ chế tỷ giá hối đoái hiện nay đang tồn tại những bất hợp lý là: tỷ giá
có xu hướng neo vào đồng USD và bị kiểm soát bởi biên độ, vì vậy tỷ giá
chưa phản ánh đúng giá trị VND và cung, cầu ngoại tệ trên thị trường; rủi ro
tỷ giá tiềm ẩn khá lớn, nhất là khi thị trường có biến động bất thường do các
nhân tố ngoại sinh. Những hạn chế này biểu hiện:
- Tỷ giá chưa thực sự gắn với cung cầu thị trường.
- NHNN còn có sự khống chế nhất định đến hình thành tỷ giá như quy
định biên độ dao động tỷ giá còn hẹp,
- Còn có sự cam kết nhất định của NHNN về sự biến động của tỷ
giá12.
Những hạn chế trên có ảnh hưởng nhất định đến việc phát triển thị
trường ngoại hối, mức độ rủi ro của thị trường ngoại hối có thể tăng. Điều đó
ảnh hưởng nhất định đến việc điều hành CSTT để đảm bảo mục tiêu ổn định
tiền tệ, có thể làm tăng quá mức đồng bản tệ, gây ảnh hưởng đối với sự ổn
định kinh tế vĩ mô và tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu, tăng rủi ro đầu cơ
tiền tệ và thông qua chính sách lãi suất, NHNN khó có thể điều tiết được tỷ
giá.
Trình trạng trên xuất phát từ những nguyên nhân sau:
- Sự mất cân đối cung, cầu ngoại tệ;
- Tình trạng đô la hoá cao khiến khối lượng tài sản nợ (chủ yếu là tiền
gửi) bằng ngoại tệ lớn;
- Tồn tại sự chênh lệch lớn giữa tài sản có và tài sản nợ bằng ngoại tệ
(về giá trị và kỳ hạn);
Rõ ràng, để điều hành chế độ tỷ giá hợp lý, cần xem xét và khắc phục
những nguyên nhân kể trên, đồng thời cần nâng cao năng lực của các TCTD
trong việc kiểm soát rủi ro tỷ giá và các công cụ phái sinh, áp dụng các
nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro trong quản lý tỷ giá.
162
2.3. THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT GIAI
ĐOẠN 2001-2005
2.3.1. Đánh giá tình hình thực hiện chính sách tín dụng và lãi suất giai
đoạn 2001-2005
Chính sách tín dụng và lãi suất của NHNN trong giai đoạn 2001-2005
đã đạt được một số thành tựu như sau:
1). Chính sách tín dụng và lãi suất đã được đổi mới theo cơ chế lãi suất phù hợp dần với qui luật thị trường và thông lệ quốc tế
Trong giai đoạn 1991-2000, chính sách lãi suất được đổi mới theo
hướng như sau:
- Chuyển mạnh từ việc quản lý chi tiết từng loại, từng mức sang quản
lý theo một số loại và mức lãi suất định hướng;
- Từ lãi suất âm sang lãi suất thực dương;
- Kéo ngắn khoảng cách chênh lệch giữa lãi suất tín dụng nội tệ và lãi
suất tín dụng ngoại tệ;
- Chuyển từ cơ chế lãi suất đặc thù (lãi suất ngắn hạn lớn hơn lãi suất
dài hạn, lãi suất phân biệt chi tiết đối với các thành phần kinh tế khác nhau ...)
sang một cơ chế lãi suất phù hợp dần với qui luật thị trường và thông lệ quốc
tế.
Từ giai đoạn 2000- 2003:
Trong năm 2000 do ảnh hưởng trễ của khủng hoảng tài chính khu vực
giai đoạn 1997-1999, nền kinh tế nước ta có dấu hiệu giảm phát (lạm phát
năm 1999 là 0,1%, năm 2000 là -0,6%), tốc độ tăng trưởng đạt thấp (4,8%).
Do đó, để chặn đà giảm sút nhịp độ tăng trưởng kinh tế, NHNN đã đề ra mục
tiêu điều hành CSTT năm 2000 là thực hiện một CSTT nới lỏng thận trọng
để vừa đảm bảo mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát, góp
phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tiếp tục ổn định hệ thống ngân hàng.
Trong các năm 2001-2002 mục tiêu CSTT tiếp tục được đặt ra tương
tự như năm 2000. Các tiêu chí tiền tệ định hướng cũng được đề ra cụ thể từng
năm sát với diễn biến kinh tế, tiền tệ. Mức tăng trưởng tín dụng luôn định
hướng ở mức từ 21-22% và huy động vốn tăng ở mức từ 24-25%.
Năm 2004-2005 đặt ra một sức ép tăng trưởng cao của nền kinh tế từ
8-8,5% nhằm đạt được mức tăng trưởng bình quân 7,5% trong 5 năm 2001-
2005, CSTT đã phải đối mặt với những thách thức lớn là vừa phải thực hiện
kiềm chế lạm phát, vừa phải hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, NHNN đã đề ra mục
tiêu điều hành CSTT năm 2004 và năm 2005 là thực hiện một CSTT chặt
chẽ, thận trọng để kiểm soát lạm phát, nhưng không làm ảnh hưởng đến mục
tiêu tăng trưởng kinh tế.
163
Bảng 58 - Diễn biến lãi suất chính thức giai đoạn 2002-2005
Đơn vi: %/năm
30/6/02 31/12/02 30/6/03 31/12/03 30/6/04 31/12/04 30/6/05 31/12/05
LS cơ bản 7.2 7.5 7.5 7.5 7.5 7.5 7,8 7,8
LS tái cấp vốn 4.8 4.8 6.6 5.0 5.0 5.0 6,0 6,0
LS chiết khấu 4.2 4.2 4.2 3.0 3.0 3.0 4,0 4,0
LS TTM 4.9 5.0 4.7 3.0 3.5 6.0 6,25 6,50
LS cho vay
qua đêm
21.6 10.8 10.8 10.8 10.8 10.8 10,825 10.850
Nguồn: NHNN
Bảng 59 - Lãi suất giao dịch bình quân trên thị trường liên ngân hàng
Đơn vị: %năm
Loại kỳ hạn 2001 2002 2003 2004 2005
Một tuần 5.86 5.99 5.30 5.17 6.05
Một tháng 6.75 6.84 6.37 6.23 7.17
Ba tháng 7.10 7.45 7.22 6.98 7.92
Sáu tháng 7.70 7.78 7.78 7.43 7.95
Nguồn: NHNN
Qua các bảng số liệu trên cho thấy, lãi suất cơ bản mà NHNN áp
dụng để các TCTD tham chiếu hầu như ổn định qua các năm, lãi suất tái
cấp vốn đã được điều chỉnh tăng từ 0,4%/tháng lên 0,55%/tháng (từ tháng
3/2003 là 6,6%/năm), nhưng do lãi suất thị trường tiền tệ có xu hướng tăng
cao nên đến tháng 6/2003 NHNN lại phải điều chỉnh giảm xuống còn
6,0%/năm để ổn định lãi suất thị trường.
Trong năm 2005, do sự biến động của thị trường tiền tệ sau khi FED
liên tục tăng lãi suất bưộc NHNN Việt Nam phải nhiều lần điều chỉnh lãi
suất tái cấp vốn ở mức 0,5%/tháng (6%/năm) và lãi suất chiết khấu ở mức
0,33%/tháng (4%/năm) để đáp ứng nhu cầu tín dung trên thị trường Việt
Nam
- Lần 1 vào 15/1/2005: LSCB ở mức 7,5%/năm, LSTCV 5,5%/năm,
LSCK 3,5%/năm;
- Lần 2 vào 1/4/2005: LSCB ở mức 7,8%/năm, LSTCV 6%/năm,
LSCK 4%/năm;
- Lần 3 vào 1/12/2005: LSCB là 8,25%/năm LSTCV 6,5%/năm,
LSCK 4,5%/năm).
Như vậy, chính sách điều hành lãi suất của NHNN đã được sử dụng
linh hoạt nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra và có tác động tích cực trong việc
kiềm chế tăng giá và đảm bảo sự ổn định tiền tệ.
164
2). Thực hiện kiểm soát lãi suất theo hướng tự do hoá với những bước đi thận trọng
Từ tháng 8/2000 - 5/2002, NHNN đã thực hiện cơ chế điều hành lãi
suất theo luật NHNN (cơ chế điều hành lãi suất cơ bản) thay cho cơ chế lãi
suất trần. Theo cơ chế này, NHNN công bố lãi suất cơ bản hàng tháng. Trên
cơ sở lãi suất cơ bản các tổ chức tín dụng được phép cộng thêm biên độ, đối
với cho vay ngắn hạn cộng 0,3%/tháng, cho vay trung và dài hạn cộng
0,5%/tháng. Đối với lãi suất ngoại tệ, qui định theo lãi suất Sibor cộng biên
độ, và đến năm 2001 đã được tự do hoá, mức lãi suất cho vay ngoại tệ và lãi
suất huy động ngoại tệ do các NHTM tự quyết định theo cung cầu vốn trên
thị trường. Riêng lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ của các DN tại NHTM, và
tiền gửi ngoại tệ của các NHTM tại NHNN chưa được tự do hoá mà vẫn do
NHNN qui định, nhằm khuyến khích các DN bán ngoại tệ cho các NHTM và
các NHTM không gửi ngoại tệ ra nước ngoài.
Từ 1/6/2002, NHNN thay cơ chế điều hành lãi suất thông qua lãi suất
trần và biên độ bằng việc áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động
tín dụng thị trường bằng VND của TCTD đối với khách hàng. Theo đó, các
TCTD xác định lãi suất cho vay bằng VND trên cơ sở cung cầu vốn thị
trường và mức độ tín nhiệm của khách hàng. NHNN không quy định biên độ
lãi suất cho vay so với lãi suất cơ bản nhưng vẫn tiếp tục công bố lãi suất cơ
bản để làm “lãi suất” tham khảo và định hướng lãi suất thị trường.
Quá trình đổi mới kiểm soát lãi suất nền kinh tế từ cơ chế lãi suất
trần sang cơ chế lãi suất thoả thuận (thực chất là tự do hoá lãi suất), là
những bước đi rất thận trọng, đến nay, đã khẳng định thành công của quá
trình đổi mới đó.
Như vậy, có thể nói rằng tự do hoá lãi suất cho vay bằng đồng Việt
Nam là khâu cuối cùng của chính sách tự do hoá lãi suất ở Việt Nam. Việc
chuyển từ sử dụng các công cụ trực tiếp sang các công cụ gián tiếp, tức là
các công cụ dựa trên nền tảng thị trường trong điều hành và thực thi CSTT.
Điều đó đã giúp NHTW điều tiết linh hoạt hơn và có hiệu quả hơn các nguồn
vốn khả dụng trong nền kinh tế.
3). Chính sách tín dụng ngân hàng bước đầu đã có tác động tích cực đối với hoạt động kinh tế
Trong hơn 10 năm qua, chính sách tín dụng ở Việt Nam đã chuyển
mạnh từ cơ chế bao cấp tràn lan (qua NHTM) sang cơ chế tín dụng thị
trường là chủ yếu và có chính sách riêng để khuyến khích đầu tư ở vùng
sâu, vùng xa, hải đảo và đồng bào Khơme tập trung... NHTMNN do có lợi
thế về thị phần nên luôn được đảm nhận vai trò là thành phần chủ đạo, chủ
lực trong hoạt động tín dụng - ngân hàng. Đến nay trong cấu trúc thị phần
tín dụng, tuy các NHTMNN không còn chiếm vị trí độc quyền như trước
đây, song vẫn đang là những đơn vị có tỷ trọng thị phần lớn nhất:
NHTMNN: 70%; NHCP: 11%; NH nước ngoài: 16% và các thành phần
165
Ngân hàng khác chiếm 3%. Sau 10 năm, tốc độ tăng trưởng huy động tăng
rất cao, đưa doanh số huy động sau hơn 10 năm tăng 28 lần từ 18.000 tỷ
năm 1988 lên trên 500.000 tỷ tính đến 31/12/2005 và tương đương 63%
GDP; Tốc độ tăng dư nợ bình quân cũng tăng tương đương, đến năm 2005
tăng 29 lần, trong đó tín dụng trung và dài hạn từ dưới 10% lên 43%; tín
dụng cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh từ 5% lên xấp xỉ 55%
đã trực tiếp góp phần kích thích thay đổi cơ cấu kinh tế và thúc đẩy tăng
trưởng, không ngừng làm gia tăng giá trị tuyệt đối của 1% GDP hàng năm:
từ 1750 tỷ lên xấp xỉ 8000 tỷ tăng 4,57 lần.
Bảng 60 - Tình hình hoạt động của các TCTD Việt Nam
Đơn vị: Tỷ VNĐ
Loại hình NHTM NN NHTM CP NHNNg và liên doanh
31/12/04 30/06/05 30/9/05 31/12/04 30/6/05 30/9/05 31/12/04 30/6/05 30/9/05
Vốn điều lệ 20.438 21.344 21.833 6.054 7.203 8.160 8.271 8.473 8.478
Tổng tài sản
có
556.478 560.715 586.948 101.472 122.755 135.247 79.379 90.426 95.433
Vốn huy động
và đi vay
425.816 472.360 497.707 86.502 103.122 115.078 64.155 73.727 77.727
Tổng dư nợ 364.137 392.186 404.852 56.113 67.953 74.061 44.551 53.540 55.698
Lợi nhuận 3.111 4.972 6.727 1.267 1.188 1.589 843 793 1.066
Nguồn: NHNN
Bên cạnh đó, chính sách tín dụng ngân hàng đã có vai trò quan trọng
trong việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong bối cảnh TTTC Việt
Nam chưa phát triển đồng bộ thì NHNN đã tham gia cung ứng bình quân tới
gần 70% tổng đầu tư toàn xã hội hàng năm (với vai trò là trung gian tài
chính). Trong đó hầu hết các NHTM đã cung ứng tín dụng bình đẳng với mọi
thành phần, kinh tế.
Bảng 61 - Tín dụng ngân hàng phân tỷ trọng theo ngành giai đoạn 2002-2005
Đơn vị: %
Ngành 2002 2003 2004 2005
Tỷ
trọng
Tăng
trưởng
Tỷ
trọng
Tăng
trưởng
Tỷ
trọng
Tăng
trưởng
Tỷ
trọng
Tăng
trưởng
Nông, Lâm ngư
nghiệp
29,6 44,3 29,4 28,2 29,7 26,9 29,6 19,7
Công nghiệp 25,4 34,6 25,1 26,9 25,1 26,0 25,3 21,0
Xây dựng 13,9 32,5 13,9 29,7 14,2 27,5 14,3 22,2
Thương nghiệp sửa
chữa... và khách sạn
nhà hàng
17,2 15,5 17,2 30,7 17,7 28,0 17,6 19,8
Giao thông vận tải 5,2 42,0 5,7 25,0 5,6 39,4 5,8 28,4
Ngành khác 8,5 5,8 8,7 12,1 7,7 31,0 7,3 10,1
Tổng số 100 30,5 100 26,9 100 28,0 100 20,2
Nguồn: NHNN
166
Như vậy, nhu cầu vốn cho đầu tư cho phát triển kinh tế – xã hội ở
nước ta trong những năm qua vẫn chủ yếu thông qua kênh tín dụng của các
NHTM Việt Nam. Điều đó chứng tỏ vai trò quan trọng của nguồn vốn này
đóng góp trong tăng trưởng kinh tế ở nước ta.
2.3.2. Những vấn đề đặt ra trong chính sách tín dụng và lãi suất giai
đoạn 2001-2005
1). Chính sách lãi suất chưa xuất phát từ quan hệ cung cầu trên thị trường.
Hạn chế lớn nhất trong việc xác định lãi suất của NHTW để cung ứng
tiền cho nền kinh tế là lãi suất được công bố để có tính “định hướng” thị
trường nhưng hầu như không có lực lượng vật chất để đảm bảo. Điển hình là
lãi suất trần, sàn trước năm 2002 và lãi suất cơ bản từ 2002 đến nay. Sau khi
các lãi suất trên do NHTW công bố hầu như không gây được hiệu ứng tức
khắc hoặc hiệu ứng lan toả đáng kể trong TTTC nói chung và thị trường tiền
tệ nói riêng. Điều đó có nguyên nhân ở chỗ: hầu như NHTW không cho vay
ra hoặc hút vào theo lãi suất do mình công bố mà cung ứng tiền chủ yếu vẫn
dựa vào lãi suất qui định của Bộ Tài chính hoặc “lãi suất” đấu thầu theo định
lượng được “lập kế hoạch” cung ứng theo từng quí và cho từng “mục tiêu”
cung ứng với lãi suất theo lãi suất “trúng thầu” trên thị trường mở.
Bên cạnh đó, lượng tiền cung ứng theo kênh “tăng tài sản có ngoại tệ”
vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lượng tiền cung ứng theo kế hoạch hàng
năm. Trong khi lượng ngoại tệ có được qua kênh này lại trở thành “bộ phận
chính” của Quĩ dự trữ ngoại hối quốc gia, mà lẽ ra theo thông lệ, quĩ này phải
được hình thành căn bản thông qua các nguồn thu quốc gia về ngoại tệ từ các
nhân tố thu quốc gia của Nhà nước. Còn tiền cung ứng mua ngoại tệ phải là
Quĩ điều hoà ngoại tệ – Quĩ này phải liên tục được chuyển hoá qua thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu, bảo đảm giá trị đồng
nội tệ đã bơm ra mua ngoại tệ trong thời hạn ngắn trước đó. Quĩ này càng
không được dùng để “chuyển” ra gửi ở nước ngoài để bảo đảm “an toàn” và
thu lãi! Vì bản chất Quĩ ngoại tệ này có được là từ nguồn tiền cung ứng phải
được bảo đảm bằng hàng hoá ở nước ngoài mà giá trị của nó chính là số
ngoại tệ vừa mua được bằng việc phát hành tiền. Do đó, quỹ phải nhanh
chóng chuyển hoá thành nguồn vón đáp ứng nhu cầu nhập khẩu hàng hoá
bán trong nước và bán để thu hồi nội tệ hoàn cho Quỹ ở chu kỳ sau và đảm
bảo “ổn định giá trị đồng bản tệ”. Nếu kéo dài thời gian hoàn Quỹ dưới hình
thái nội tệ ban đầu sẽ là hành vi “phá” giá nội tệ để “mua” ngoại tệ tích trữ
thuần tuý.
Tuy nhiên, trong từng thời điểm cơ chế lãi suất cũng bộc lộ những
nhược điểm, ảnh hưởng đến việc thực thi CSTT. Thực tế, năm 1997 do tác
động của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ khu vực làm mặt bằng lãi suất
huy động VND đã xuống mức rất thấp, tỷ giá biến động rất mạnh (14,2%), lãi
167
suất tiền gửi đôla Mỹ khoảng 5%/năm đã gây nên sự dịch chuyển từ tiền gửi
VND sang tiền gửi ngoại tệ (tốc độ huy động vốn VND năm 1997 tăng 20%,
ngoại tệ tăng 43%).
Trong điều kiện đó nếu nâng lãi suất sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu tăng
trưởng kinh tế, còn nếu hạ lãi suất cũng sẽ ảnh hưởng đến sự chuyển dịch
nguồn vốn giữa VNĐ với ngoại tệ, gây bất lợi cho việc thực hiện mục tiêu ổn
định giá trị VNĐ. Do đó NHNN buộc phải có những bước đi thận trọng để
đáp ứng trình độ tiếp cận của hoạt động tín dụng. Đây là cơ chế phù hợp với
qui luật khách quan và thông lệ quốc tế:
Tuy nhiên, hiệu quả của việc sử dụng các công cụ này sẽ tích cực khi lãi
suất được xác định theo cơ chế thị trường do sự chi phối của mối quan hệ
cung – cầu.
Như vậy, mặc dù lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng được xác định
hướng hướng tự do hóa dần, song lãi suất có tính chất định hướng của
NHTW lại chưa phải là lãi suất thị trường được xác định trên cơ sở mối quan
hệ cung cầu của thị trường tín dụng.
2). Hoạt động tín dụng ngân hàng đang tiềm ẩn nhiều rủi ro
Việc phân định giữa tín dụng chính sách và tín dụng thị trường ở Việt
Nam còn có nhiều bất cập, các NHTM sử dụng nguồn vốn huy động để cho
vay các dự án trọng điểm của Chính phủ, cho vay ưu đãi đối với các đối
tượng chính sách. Hoạt động tín dụng tiềm ẩn rủi ro tín dụng do khả năng tự
lực về vốn của khách hàng vay còn rất thấp, các kênh khác của TTTC lại
càng thấp. Một số NHTM gặp khó khăn trong thu hồi nợ vay các dự án BOT,
BT do ngân sách trung ương và địa phương không có khả năng bố trí vốn
thanh toán đúng hạn; Việc đồng tài trợ để phân tán rủi ro tín dụng giữa các
NHTM còn hạn chế; Cơ chế chính sách liên quan đến cấp tín dụng chưa đồng
bộ như chính sách về đất đai, thủ tục hành chính liên quan đến xử lý tài sản
bảo đảm còn phức tạp. Cho vay ngoại tệ đối với các dự án trọng điểm theo
Quyết định 118, có một số dự án không có khả năng tái tạo ngoại tệ để trả nợ
vay như các dự án sản xuất xi măng, phân bón, thủy điện… đã gây rủi ro cả
về tín dụng cả về tỷ giá đối với các nhà đầu tư và rủi ro thanh khoản đối với
các NHTM cho vay.
Trong hoạt động Ngân hàng của các Định chế tài chính là NHTM ở
Việt Nam trong nhiều năm qua và cả hiện nay đã và đang phải cạnh tranh
trong một môi trường không đồng nhất. Nhiều NHTM còn buộc phải kéo dài
nhiều giải pháp tình thế như: Chuyển một phần nguồn huy động ngắn hạn
cho vay trung và dài hạn; Sử dụng bộ máy hoạt động kinh doanh của NHTM
để kiêm nhiệm làm dịch vụ tín dụng ưu đãi; Còn buộc phải chuyển một phần
nguồn huy động theo lãi suất thị trường để bổ sung với giá “bán buôn” cho
nguồn vốn của Ngân hàng CSXH; Còn khuyến khích tín dụng ngoại tệ kể cả
tín dụng ngoại tệ ngắn hạn; Nhiều nguồn vốn lớn còn chạy lòng vòng bên
trong TTTC - tiền tệ – nhất là “chạy” lòng vòng giữa các NHTM với các
168
Định chế tài chính phi ngân hàng v.v mà chưa có cơ chế hoặc dự án đủ sức
hấp dẫn cho vốn được đầu tư triệt để vào sản xuất, kinh doanh...Phần lớn các
NHTM hiện nay đang tồn tại và hoạt động được là dựa vào ba nguồn chính:
nguồn huy động, nguồn thu lãi trước (đòi nợ gốc sau) và dựa vào chiếc phao
bảo trợ của Chính phủ. Năng lực quản trị Ngân hàng nói chung còn yếu,
nhiều cán bộ chủ chốt chưa được đào tạo bài bản những kiến thức mới về
kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng theo cơ chế thị trường.
Một trong những thách thức lớn nhất của hệ thống Ngân hàng Việt
Nam là từ phía các DNNN (khách hàng có những món vay lớn nhất của ngân
hàng) với hiệu quả kinh doanh rất thấp nhưng lại đang đối mặt với cạnh tranh
quốc tế cả trên thị trường nội địa và thị trường thế giới. Hàng loạt các doanh
nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp lâu nay được bảo hộ mậu dịch, thay thế
nhập khẩu với hàng chục ngàn tỷ đồng dư nợ ngân hàng (80% vốn hoạt động
của các DNNN là vốn vay ngân hàng) đang có nguy cơ thua lỗ nếu hàng rào
thuế quan bị gỡ bỏ trong vài ba năm tới. Điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
chất lượng tín dụng (biểu thị bằng tỷ lệ nợ quá hạn còn vượt qua mức cho
phéơp từ 1,5 đến 2,5 lần) của các NHTM trong tương lai rất gần.
Từ những thực trạng trên, tại thời điểm hiện nay, hoạt động tín dụng
của các NHTM Việt Nam đang đứng trước ít nhất 4 nguy cơ lớn gồm:
- Rủi ro kỳ hạn;
- Rủi ro đồng tiền do bị đôla hóa;
- Rủi ro do bất cập trong hoạt động Thanh tra và thanh toán toàn
ngành;
- Rủi ro tín dụng – nhất là tín dụng cho khu vực khách hàng là
DNNN.
Bảng 62 - Tỷ lệ nợ quá hạn của các ngân hàng Việt Nam
Đơn vị: %
Nhóm ngân hàng 2000 2001 2002 2003 2004
NHTM NN 11.43 4.72 8.83 1.98 7.62 2.22 5.13 2.34 2.90 2.08
NHTMCP 21.67 14.85 15.48 11.72 10.43 6.65 6.44 4.59 3.80 2.88
NHNNg và liên
doanh
1.29 0.71 0.62 0.42 0.55 0.43 0.15 0.15 0.13 0.13
Toàn hệ thống 10.09 5.12 8.52 2.79 7.23 2.56 4.86 2.44 2.88 2.09
Nguồn: Báo cáo phân loại nợ quá hạn của NHNN
Như vậy, những rủi ro trong hoạt động tín dụng ngân hàng đang tiềm
ẩn khả năng mất an toàn trong hệ thống các trung gian tài chính, đưa đến sự
không đảm bảo an ninh tài chính quốc gia.
169
2.4. THỰC TRẠNG PHỐI HỢP CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VÀ
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN 2001-2005
2.4.1. Đánh giá kết quả phối hợp CSTK và CSTT trong việc thực hiện
các mục tiêu kinh tế vĩ mô
1). CSTK và CSTT đã có sự phối hợp để thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát
Sự phối hợp này được minh chứng rõ nhất đó là giai đoạn nền kinh tế
Việt nam đang trong thời kỳ đại khủng hoảng (những năm 80): siêu lạm phát;
kinh tế suy thoái trầm trọng; thất nghiệp cao; tích lũy thấp. Để vượt qua được
giai đoạn khó khăn đó có sự phối hợp của nhiều chính sách kinh tế vĩ mô,
trong đó có sự phối hợp thông qua CSTK và CSTT.
CSTK thắt chặt: tức hạn chế chi tiêu của Chính phủ, việc chi tiêu căn
cứ vào các nguồn thu từ ngân sách chứ không ỷ lại vào việc phát hành tiền.
Mặt khác, việc bù đắp bội chi ngân sách chủ yếu được thực hiện thông qua
vay nợ nước ngoài và các tổ chức quốc tế. Trên cơ sở đó, việc thực hiện
CSTT cũng theo hướng mới, NHTW hạn chế việc phát hành tiền mà có các
quyết sách khuyến khích NHTM huy động nguồn vốn từ dân cư với mức lãi
suất cao kỷ lục trong thời kỳ đó (12%/tháng). Sự phối hợp nhịp nhàng của
CSTK và CSTT đã mang lại những dấu hiệu tác động tích cực: lạm phát đã
giảm xuống còn 2 con số và trong tầm kiểm soát của NHNN.
Trong giai đoạn 2001-2005 trước những biến động của nền kinh tế thế
giới và trong khu vực, sự phối hợp của CSTT và CSTK đã được cải thiện,
linh hoạt hơn. Chẳng hạn, năm 2001, CSTK và CSTT đã nới lỏng nhằm tạo
đà tăng trưởng cho nền kinh tế. Năm 2004 và năm 2005 mục tiêu thực hiện
CSTT và CSTK lại thay đổi nhằm phù hợp với diễn biến phức tạp của nền
kinh tế (giá dầu trên thế giới cao; Fed liên tục tăng lãi suất; dịch cúm gà...).
Mục tiêu thực hiện của CSTT là thận trọng nhằm kiềm chế mức lạm phát
đang có xu thế tăng cao; CSTK cũng thay đổi phù hợp với mục tiêu của
CSTT: giảm thuế xăng dầu; cân đối thu chi NSNN...
2). CSTT và CSTK đã có sự phối hợp tích cực trong việc thực hiện các cân đối vĩ mô
- Đối với mục tiêu tài trợ thâm hụt NSNN
Trong điều hành CSTK giai đoạn 1991-2005 ở nước ta đã chấm dứt
tình trạng phát hành tiền cho nhu cầu chi tiêu ngân sách, chuyển sang
thực hiện tài trợ thâm hụt ngân sách bằng cách phát hành Chứng khoán nợ
Chính phủ
Tài trợ thâm hụt ngân sách bằng phát hành chứng khoán Chính phủ
không phải là phương thức mới, tuy nhiên, trước những năm 1995, kênh huy
động vốn này chưa được Chính phủ sử dụng phổ biến do thị trường tiền tệ
chưa phát triển; trình độ quản lý nợ công còn thấp và đặc biệt là do NHNN
170
lúc đó chỉ đóng vai trò như là cơ quan tài chính thứ hai của Nhà nước (tài trợ
thâm hụt ngân sách bằng phát hành tiền) hay nói cách khác CSTT chưa có sự
phối hợp chặt chẽ với CSTK.
Sau năm 1995 khi thị trường tiền tệ phát triển cùng với việc tăng
cường tính độc lập tương đối của CSTT và CSTK thì phát hành chứng khoán
Chính phủ cho tài trợ thâm hụt ngân sách mới có điều kiện thực hiện. Từ đó,
chứng khoán Chính phủ (trái phiếu kho bạc, tín phiếu kho bạc, trái phiếu đầu
tư, trái phiếu công trình, công trái) ngày càng được sử dụng thường xuyên và
với quy mô ngày càng lớn thay thế căn bản cho nguồn tiền từ NHNN.
- Đối với quản lý nợ công
Phối hợp đầu thầu tín phiếu kho bạc với NHNN và bảo lãnh phát hành
TPCP qua NHTM và các TCTD khác, tạo hàng hoá cho một số giao dịch thứ
cấp thông qua sử dụng hệ thống công cụ CSTT. Tín phiếu kho bạc là hàng
hoá chủ yếu trong giao dịch nghiệp vụ thị trường mở, nghiệp vụ tái chiết
khấu và là vật thế chấp trong cho vay cầm cố. Chủng loại và thời hạn chứng
khoán chính phủ được chấp nhận trong các giao dịch của NHNN được mở
rộng theo điều 21, luật NHNN sửa đổi, góp phần tăng quy mô giao dịch của
NHNN, đồng thời, đa dạng hoá đối tượng tham gia các giao dịch này, cải
thiện hiệu lực tác động của CSTT.
2.4.2. Những hạn chế của cơ chế phối hợp CSTK và CSTT trong việc
thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
1). Trong điều hành CSTT và CSTK chưa phối hợp xây dựng một cách đồng bộ mục tiêu chính sách để vận hành có hiệu quả.
Những bất cập nổi lên là:
- Chưa có sự phối hợp trong việc hoạch định mục tiêu chính sách ở
tầm dài hạn và trong ngắn hạn.
Việc định lượng các mục tiêu về lạm phát và tăng trưởng thường dựa
vào mức đã đạt được năm trước mà ít có sự dự báo những biến động trong kỳ
kế hoạch cũng như những ảnh hưởng trễ của chính sách trong các thời kỳ
trước. Hơn nữa, việc ấn định mục tiêu ở một con số mà không quy định
khung biến động trong điều kiện đầy biến động sẽ gây nên sự thiếu tin tưởng
đối với các cam kết chính sách. Bởi không thể đồng thời theo đuổi 2 mục tiêu
trái chiều nên việc xác định và công bố mục tiêu trọng tâm trong từng thời kỳ
cần làm thường xuyên và nhất quán nhằm định hướng hoạt động cho từng
chính sách. Trên cơ sở đó các hoạt động của từng chính sách cần có sự phối
hợp nhằm đạt được mục tiêu thời kỳ mà không phương hại đến mục tiêu dài
hạn.
Trong thực tế, chính phủ kêu gọi kiềm chế giá cả nhằm duy trì mục
tiêu lạm phát nhưng mức vay nợ của chính phủ không giảm, dư nợ cho vay
171
của hệ thống quỹ hỗ trợ phát triển không ngừng tăng đã là cú hích đẩy mặt
bằng giá tăng rất nhanh. ảnh hưởng lan truyền của tình trạng này là mặt bằng
lãi suất bị đẩy lên, cộng hưởng bởi nhu cầu huy động vốn của các TCTD đáp
ứng nhu cầu tín dụng tăng mạnh do áp lực của mục tiêu tăng trưởng. Lãi suất
cao cùng với các quy chế thắt chặt việc kiểm soát chất lượng tín dụng của hệ
thống ngân hàng sẽ làm cho nhu cầu đầu tư giảm tương đối, trong khi mức lãi
suất cao lại không giảm được tỷ lệ lạm phát bởi nguyên nhân chủ yếu xuất
phát từ phía tổng cung; giá nguyên liệu thế giới, cơ cấu, hiệu quả…
2). Việc thực thi CSTK có tác động không tích cực đến CSTT
Những bất cập này thể hiện rõ như sau:
Một là, việc tài trợ gián tiếp thâm hụt NSNN đã khiến cho CSTT phụ
thuộc phần nào vào CSTK.
Hiện nay, tín dụng của NHNN cấp trực tiếp cho Chính phủ hàng năm
không đáng kể, song những khoản tái cấp vốn cho NHTMNN được sử dụng
cho mục đích ngân sách có nguy cơ gây lên những tác động bất lợi đối với
điều hành CSTT của NHNN. Tính độc lập của NHNN trong bộ máy của
Chính phủ còn hạn chế sẽ tạo ra sự phụ thuộc của CSTT vào CSTK là điều rõ
ràng. Bên cạnh việc phải theo đuổi đa mục tiêu có nhiều khả năng xung đột
với nhau trong ngắn hạn, đặc biệt là ổn định giá trị đồng tiền và tăng trưởng
kinh tế, CSTT chịu sự tác động bởi những áp lực và phải neo vào các mục
tiêu ngắn hạn của Chính phủ.
Hai là, sự phối hợp trong hoạt động quản lý nợ công chưa hữu hiệu:
- Khối lượng trái phiếu, thời hạn, thời điểm phát hành do BTC quyết
định tuỳ theo chu chuyển tiền tệ của NSNN, song sự phối hợp giữa NHNN
và BTC còn chưa chặt chẽ, đồng bộ trong việc xây dựng, triển khai kế hoạch,
chiến lược vay nợ và phát hành trái phiếu của Chính phủ. Điều này dẫn đến
nhiều khi thời điểm phát hành không hợp lý hoặc điều hành CSTT không có
lợi cho việc tối ưu hoá chi phí vay nợ của Chính phủ. Ngược lại, có khi việc
tăng cường phát hành trái phiếu vào những thời điểm không hợp lý không
những không tiết kiệm chi phí vay nợ của Chính phủ mà còn đẩy lãi suất thị
trường lên cao hơn, gây bất lợi cho đầu tư khu vực tư nhân thông qua tạo hiệu
ứng crowding-out và ảnh hưởng tiêu cực đến điều hành tiền tệ, lãi suất của
NHNN.
- Các TPCP không được phát hành tập trung tại NHNN mà qua nhiều
kênh khác nhau như bán lẻ qua hệ thống kho bạc, đấu thầu trên TTCK, vì thế
không kích thích mạnh thị trường mở và thị trường tiền tệ nói chung phát
triển về qui mô và mức độ linh hoạt. Trong thực tế, việc thiếu hàng hoá giao
dịch trên thị trường mở - mà đó là một trong những nguyên nhân khiến cho
công cụ này chưa phát huy được vai trò chủ đạo trong điều hành tiền tệ của
NHNN, đã buộc NHNN đôi khi phải phát hành tín phiếu NHNN để sử dụng
172
trong các nghiệp vụ thị trường của NHNN. Điều này làm trầm trọng thêm chi
phí thâm hụt ngân sách và chi phí điều hành CSTT.
- Nếu như TPCP có rủi ro thấp nhất thì TPCP phải có lãi suất thấp nhất
và trở thành mức lãi suất chuẩn trên thị trường. Nhưng trên thực tế TPCP
chưa bảo đảm được vị trí này.
Lãi suất đấu thầu trái phiếu qua NHNN còn chịu mức lãi suất chỉ đạo
của Bộ Tài chính, làm cho tính cạnh tranh và tính thị trường của các hoạt
động nghiệp vụ thị trường mở bị hạn chế, đồng thời không kích thích TTTC
phát triển.
- Hoạt động của khu vực "tín dụng ưu đãi" cũng gây thêm tính phức
tạp của thị trường tiền tệ, tín dụng khi mà cùng một đối tượng khách hàng
trên cùng một địa bàn "được" hưởng cùng lúc quá nhiều loại chính sách tín
dụng khác nhau. Trong nhiều năm qua, NHNN đã không chỉ chịu áp lực
trong điều hành bởi một môi trường kinh doanh lẫn lộn giữa tín dụng chính
sách với tín dụng thương mại trong nội bộ hệ thống NH, mà còn chịu áp lực
từ môi trường đan xen không có cơ chế minh bạch giữa tín dụng của hệ thống
NSNN, của hệ thống các Quỹ tài chính Nhà nước ngoài NSNN với tín dụng
của hệ thống Ngân hàng dưới nhiều hình thức và qui mô khác nhau. Từ môi
trường phức hợp này, chắc chắn nhiều nguồn vốn sẽ chạy lòng vòng từ loại
định chế tài chính này sang loại định chế tài chính kia theo hướng gây thiệt
hại đến tiền bù lỗ chính sách tín dụng hoặc nguồn đầu tư XDCB của NSNN.
- Các nguồn thu ngoại tệ của NSNN chưa được bán lại hoặc chuyển
giao đầy đủ cho NHNN để quản lý tập trung, thống nhất nhằm đảm bảo hiệu
quả chính sách quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá.
3). CSTT cũng có ảnh hưởng kém tích cực trong việc thực thi CSTK
Những bất cập nổi lên là:
- TTTC, tiền tệ kém phát triển (qui mô nhỏ, tính cạnh tranh thấp, kém
linh hoạt) đã hạn chế đáng kể tính hiệu quả của sự phối hợp giữa CSTT và
CSTK theo hướng bảo đảm đạt được đồng thời các mục tiêu của 2 chính sách
trên trong ngắn hạn và bền vững trong dài hạn với chi phí thấp nhất.
- Năng lực điều hành CSTT, nhất là lãi suất còn nhiều hạn chế đã làm
hạn chế khả năng hỗ trợ của CSTT đến hiệu quả của chính sách quản lý nợ
công của BTC. Các công cụ gián tiếp của CSTT đã được triển khai nhưng
hiệu quả còn nhiều hạn chế. Cơ chế điều hành lãi suất còn chưa hiệu quả dẫn
đến khả năng điều tiết lãi suất thị trường của NHNN còn nhiều hạn chế trong
việc giảm thiểu chi phí vay nợ của Chính phủ. Bên cạnh năng lực tài chính
các tổ chức tín dụng còn nhiều yếu kém, thì chính sự hạn chế về qui mô hoạt
động của thị trường mở và các nghiệp vụ thị trường khác của NHNN cũng
làm hạn chế khả năng huy động vốn của Chính phủ qua NHNN và tính thanh
khoản của chứng khoán Chính phủ.
173
- Thực hiện CSTT thắt chặt là nguyên nhân đổ vỡ TTCK tháng 6 năm
2008:
Lạm phát đột ngột tăng cao từ cuối năm 2007 và đầu năm 2008 dẫn tới
sựu cần thiết khách quan phải thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ. Chính
sách này đã tác động mạnh tới TTCK và đưa tới sự sụp đổ vào tháng 6/2008.
Trong những năm 2007-2008, cùng với sự tăng trưởng kinh tế, gia
nhập WTO, TTCK Việt Nam đã tăng trưởng rất mạnh mẽ. Để tham gia thị
trường các nhà đầu tư (tổ chức và cá nhân) đã đổ xô đi vay tiền từ ngân hàng,
công ty chứng khoán, công ty tài chính và hiện tượng này đã trở thành phong
trào. Từ hiện tuợng đi vay đã trở thành phong trào đi vay, hầu như đa phần
các nhà đầu tư đều muốn có nhiều tín dụng để gia tăng đầu tư.
Khi mà việc đi vay tiền để đầu tư chứng khoán đã phát triển thành
phong trào thì rất nguy hiểm vì “rủi ro hệ thống “ đã được hình thành và phát
triển nhanh: Nhà đầu tư mới, nhà đầu tư chưa có kinh nghiệm cũng lao vào
việc đi vay tiền mà không hề ý thức được các rủi ro nguy hiểm. Phong trào đi
vay đã nhanh chóng tạo cầu ảo rất lớn do những giao dịch mua bán chứng
khoán ngắn hạn bằng vốn đi vay.
Sự cạnh tranh để giành giật khách hàng nhằm gia tăng tín dụng cho
vay từ các tổ chức tài chính đã dẫn tới nhiều biểu hiện cạnh tranh không lành
mạnh, không an toàn, không theo đúng qui định của pháp luật như: (i) Giá trị
tài sản thế chấp là cổ phiếu được định giá cao; (ii) Thiếu sự chọn lọc đối với
nhiều loại cổ phiếu được cầm cố và (iii) Việc cho vay đã được thực hiện dưới
nhiều hình thức như mua khống T+3, giao dịch ký quỹ, ửy thác đầu tư, repo
cổ phiếu....
Hậu quả của phong trào đi vay là làm cho TTCK “mất hết khả năng đề
kháng” và khi có biến động nào đó thì sẽ hình thành liên tiếp những đợt bán
tháo cổ phiếu. Thị trường đi xuống, giá trị cổ phiếu giảm về hoặc vượt giá trị
thế chấp sẽ lại tiếp tục tạo những nguồn cung cổ phiếu rẻ mạt. Rất nhiều nhà
đầu tư đang từ địa vị “ khách hàng được săn đón “ bỗng nhiên trở thành
những đối tượng nợ bất đắc dĩ và họ luôn bị NHTM, CTCK thúc ép đòi nợ.
Từ hiện tượng đi vay phát triển thành phong trào đi vay, sau đó phát
triển thành phong trào bán tháo cổ phiếu và tiếp nối là phong trào đòi nợ. Chỉ
số chứng khoán đã sụt xuống lại càng đi xuống nhanh hơn. Đây là một bài
học đắt giá về việc phối hợp thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt với việc
phát triển TTCK trong thời gian vừa qua.
4). Những bất cập trong phối hợp giữa CSTK và CSTT
- Về năng lực phối hợp điều hành lãi suất: Hiện nay, trên thị trường
tiền tệ, các lãi suất do NHNN chỉ đạo gồm lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái
chiết khấu, lãi suất thị trường mở. Trên thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc
có lãi suất tín phiếu kho bạc.
174
Tuy nhiên, các loại lãi suất này chưa vận hành theo đúng định hướng
điều hành lãi suất chung, giữa các loại lãi suất có mối quan hệ lỏng lẻo. Lãi
suất tín phiếu kho bạc còn mang tính chỉ đạo của Bộ Tài chính, phụ thuộc chủ
yếu vào nhu cầu huy động vốn của ngân sách nên không mang tính thị
trường. Lãi suất thị trường mở cũng được xác định trên cơ sở lãi suất tín
phiếu kho bạc, do vậy cũng không theo tín hiệu thị trường và không có quan
hệ chặt chẽ với lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu.
Về lý thuyết, lãi suất TPKB lẽ ra phải là lãi suất thấp nhất nhưng trên
thực tế lại bằng hoặc cao hơn lãi suất huy động của các TCTD cùng kỳ hạn.
Việc này không đảm bảo an toàn vốn cho TCTD và không khuyến khích các
TCTD tăng đầu tư chứng khoán, tăng hàng hoá cho nghiệp vụ thị trường mở.
Đấu thầu TPKB tại NHNN chưa hoàn toàn đấu thầu lãi suất nên chưa hình
thành lãi suất chuẩn cho thị trường tiền tệ.
- Về phối hợp quản lý dự trữ ngoại tệ quốc gia: Là một trong những
khu vực của nền kinh tế, Chính phủ tham gia thực hiện các giao dịch kinh tế
đối ngoại và theo đó có nguồn thu và chi ngoại tệ. Mặc dù có quy định về
việc Bộ Tài chính phải bán ngoại tệ cho NHNN tại Quyết định số
173/1998/QĐ/TTg ngày 12/9/1998 nhưng trên thực tế, việc bán ngoại tệ của
NSNN nhiều khi chưa kịp thời. Có lúc số dư của hai Quỹ (Quỹ Ngoại tệ tập
trung và Quỹ Tích luỹ trả nợ nước ngoài) lên tới 1,5 tuần nhập khẩu trong khi
dự trữ ngoại hối nhà nước có số dư tương đương với 8-9 tuần nhập khẩu13,
hạn chế khả năng ổn định thị trường ngoại tệ và điều hành CSTT.
- Về phối hợp quản lý TTTC: Trong những năm gần đây nhất là từ
năm 2000, nhiều tổ chức tài chính phi ngân hàng như Quỹ Hỗ trợ phát triển,
Công ty dịch vụ tiết kiệm bưu điện, công ty bảo hiểm tiền gửi, các công ty
bảo hiểm…được thành lập và hoạt động của những tổ chức này ảnh hưởng
không nhỏ đến diễn biến tiền tệ. Theo quy định của Luật NHNN, các giấy tờ
có giá ngắn hạn được trao đổi trên thị trường tiền tệ bao gồm tín phiếu kho
bạc, tín phiếu NHNN, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có giá ngắn hạn
khác, nhưng trên thực tế hàng hoá giao dịch chủ yếu trên thị trường là tín
phiếu kho bạc và tín phiếu NHNN. Mặc dù tín phiếu kho bạc đã chiếm vị trí
quan trọng trên thị trường tiền tệ nhưng công cụ này vẫn còn nhiều hạn chế
như kỳ hạn tín phiếu chưa đa dạng, vẫn chủ yếu là kỳ hạn 364 ngày (năm
2004, trong tổng số tín phiếu bán ra có khoảng 97% là tín phiếu kỳ hạn 364
ngày, còn lại là tín phiếu kỳ hạn 273 ngày).
Trong khi đó, thị trường mua, bán lại tín phiếu kho bạc chưa phát triển,
do đó, hạn chế khả năng sử dụng tín phiếu kho bạc như một công cụ của các
TCTD trên thị trường tiền tệ. Với vai trò là người cung cấp hàng hóa cho thị
trường, Bộ Tài chính chưa phối hợp tốt với NHNN trong việc cải tiến đấu
thầu tín phiếu kho bạc sao cho lãi suất đấu thầu phản ánh đúng lãi suất của thị
trường. Ngoài ra, trái phiếu kho bạc vẫn còn được Bộ Tài chính phát hành
theo hình thức bán lẻ cho dân chúng, không đấu thầu qua NHNN đã làm hạn
chế sự phát triển của TTTC Việt Nam.
175
Chương 3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ
TRƯỜNG TÀI CHÍNH GIAI ĐOẠN 2001-2005
3.1. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN 2001-
2005
3.1.1. Đánh giá tình hình phát triển của thị trường tiền tệ giai đoạn
2001-2005
1). Đối với thị trường nội tệ liên ngân hàng
Thị trường liên ngân hàng là thị trường tiền tệ của các TCTD, tại đó
các nhu cầu về vay và cho vay, gửi và nhận tiền gửi và các nhu cầu khác về
vốn được thoả mãn nhằm giúp các TCTD sử dụng nguồn vốn có hiệu quả và
bảo đảm khả năng chi trả trong thanh toán. NHNN là thành viên đặc biệt của
thị trường với tư cách là người điều tiết, giám sát thị trường. Năm 1993, thị
trường liên ngân hàng tập trung do NHNN tổ chức và điều hành được thành
lập.
Tổ chức và hoạt động thị trường liên ngân hàng có đặc điểm như sau:
- Mô hình thị trường liên ngân hàng theo hình thức phi tập trung:
Thị trường liên ngân hàng là thị trường bán buôn hoạt động tự do,
thông thoáng. Các TCTD được quyền chủ động và tự chịu trách nhiệm trong
các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng.
- Đa dạng hoá về loại hình và thời hạn giao dịch trên thị trường
liên ngân hàng theo hướng phù hợp hơn với thông lệ quốc tế:
Các TCTD chú trọng triển khai nhiều loại hình cho vay/đi vay, gửi và
nhận tiền gửi với các thủ tục đơn giản, nhanh gọn phù hợp với yêu cầu kinh
doanh vốn và quản lý vốn. Các giao dịch tiền gửi và tiền vay trên thị trường
liên ngân hàng phổ biến là các giao dịch ngắn hạn (qua đêm, 3 ngày, 1
tuần,…) và không có bảo đảm bằng tài sản, chủ yếu dựa trên quan hệ tín
nhiệm giữa các TCTD.
Hình 20 - Thị phần của các nhóm ngân hàng
Năm 1998 Năm 2005
NHTMNN
79%
NHLD
0%
NHTMCP
7%
Chi
nh¸nh
NHNg
14%
NHTMCP
2%
Chi nh nh
NHNg
38%
NHLD
0%
NHTMNN
60%
176
- Các NHTMNN chiếm thị phần chi phối và có khả năng gây ảnh
hưởng lớn trên thị trường liên ngân hàng.
Các NHTMNN là nhóm thành viên tham gia thị trường tích cực nhất
với vai trò là các thành viên cung ứng tiền VND chủ yếu trên thị trường
(chiếm tới 80-85% lượng tiền VND cung ứng trên thị trường). Do các
NHTMNN có nhiều lợi thế và khả năng huy động VND về qui mô và giá cả
nên các NHTMNN có khả năng chi phối lãi suất thị trường liên ngân hàng.
Các giao dịch giữa các NHTMNN chiếm tới 2/3 tổng khối lượng giao dịch
thị trường. Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có xu hướng chiếm thị phần
giao dịch ngày càng giảm, 38% (năm 1998) và 14% (năm 2005). Đây là
nhóm thành viên cung ứng vốn ngoại tệ quan trọng trên thị trường liên ngân
hàng (trên 60% nguồn cung ngoại tệ). Trong quan hệ với các NHTMNN, các
chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các NHTMCP chủ yếu thực hiện các
giao dịch đi vay (chi nhánh ngân hàng nước ngoài chủ yếu vay VND).
Tuy nhiên, mục đích hình thành thị trường nội tệ liên ngân hàng là
nhằm phản ánh đúng nhu cầu vốn và thanh toán phát sinh khách quan trong
hoạt động nghiệp vụ của nội bộ ngành Ngân hàng. Song do rất nhiều lý do
khác nhau - trong đó đặc biệt là lý do cơ chế chính sách không đồng bộ và
công nghệ thanh toán - nhất là mạng thanh toán quốc gia còn quá lạc hậu,
mang tính rời rạc, chưa có mạng thanh toán quốc gia thống nhất qua một
trung tâm nên thị trường này đã hoạt động rất cầm chừng và teo dần đi qua
thời gian. Đến 1996 thì hầu như chỉ còn những phiên giao dịch thanh toán bù
trừ thủ công qua tài khoản của các tổ chức tín dụng và Kho bạc trên từng địa
bàn chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố. Trung tâm thanh toán quốc gia vẫn
chưa ra đời, các nhu cầu vốn ngắn hạn tạm thời của các NHTMNN hầu như
được đáp ứng đễ dàng qua NHNNTW, các NHCP, NHLD, chi nhánh NH
nước ngoài tuy có quan hệ tín dụng ngắn hạn tạm thời với nhau nhưng chủ
yếu mang tính "song phương", bất thường và hầu như không xẩy ra qua trung
tâm NHNN. Cứ như vậy thị trường nội tệ liên ngân hàng đã trầm lắng và hầu
như tự động giải thể ngay từ những năm cuối của thế kỷ 20 - Một quá trình
chết yểu rất đáng tiếc mà xu thế phát triển hiện nay không thể không khôi
phục và hiện đại hoá hoạt động của mảng thị trường quan trọng này.
2). Đối với thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do NHNN tổ chức và điều hành
nhằm hình thành thị trường mua bán ngoại tệ có tổ chức giữa các TCTD
được phép kinh doanh ngoại tệ. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng được
thành lập tháng 10/1994 với các thành viên là các TCTD được phép kinh
doanh ngoại tệ, có đủ điều kiện tham gia giao dịch và được NHNN chấp
thuận.
Mục địch thành lập thị trường là để các Ngân hàng thành viên đáp ứng
nhu cầu ngoại tệ tạm thời nhàn rỗi cho nhau trong quá trình hoạt động kinh
177
doanh và tạo ra một kênh kiểm soát lượng lưu chuyển ngoại tệ quan trọng
thông qua trung gian tổ chức và can thiệp thị trường của NHNN.
Các giao dịch trên thị trường chủ yếu bao gồm nghiệp vụ mua bán trao
ngay, mua bán kỳ hạn và hoán đổi ngoại tệ (giữa VND và ngoại tệ và giữa
các loại ngoại tệ với nhau). Tỷ giá trên thị trường được xác định trên cơ sở tỷ
giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của ngày làm
việc gần nhất trước đó và một biên độ do NHNN qui định (+0,25%). Hiện
nay, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng đang đóng vai trò "phong vĩ biểu" cho
việc điều hành tỷ giá của NHTW theo cơ chế thả nổi có kiểm soát.
Tuy nhiên, nếu cơ chế điều hành tỷ giá đang là cơ chế tích cực và tiến
bộ, thì chính sách quản lý ngoại hối lại nổi lên rất nhiều vấn đề bất cập làm
suy yếu, nếu không muốn nói là làm vô hiệu hoá tính khoa học của phương
pháp điều hành tỷ giá hiện hành. Biểu hiện ra bên ngoài của chính sách quản
lý ngoại hối yếu kém nổi rõ nhất là tình trạng đôla hóa trong hầu hết các lĩnh
vực luân chuyển ngoại tệ: từ đôla hóa trong tín dụng đến đôla hóa trong trao
đổi (gồm thanh toán và lưu thông hàng hoá) ngoài xã hội. Còn quá nhiều
"đơn vị đặc biệt" được phép bán hàng thu trực tiếp ngoại tệ; Quan hệ giữa lãi
suất ngoại tệ với lãi suất nội tệ đã để một thời gian dài cho tình trạng chuyển
tiền gửi nội tệ sang tiền gửi ngoại tệ bằng cách "rút" nội tệ ra trước hạn để
mua ngoại tệ gửi vào Ngân hàng và được hưởng lợi lớn hơn từ lãi suất cộng
với chênh lệch tỷ giá qua thời gian. "Đất dụng võ" của đồng ngoại tệ thường
được hưởng những ưu ái cho sự màu mỡ nhân tạo hơn so với đồng nội tệ vốn
đã yếu ớt lại bị làm yếu ớt hoá do chính chính sách liên tục nới lỏng tiền tệ và
quản lý ngoại hối lỏng lẻo như hiện nay.
3.1.2. Những vấn đề đặt ra đối với thị trường tiền tệ giai đoạn 2001-
2005
1). Những bất cập của thị trường tiền tệ nói chung
Có thể xem đây là thị trường truyền thống, rộng lớn. Nó thậm chí ra
đời từ trước khi ra đời các tổ chức tín dụng độc lập ở Việt Nam. Như đã nói ở
trên, thị trường này bao gồm doanh số hoạt động tiền gửi, tiền vay giữa các tổ
chức tín dụng với nền kinh tế. Cùng với thời gian và sự hoàn thiện dần, các
nhân tố cấu thành hàng hoá của thị trường này ngày càng đa dạng, phong phú
và hiện đại. Ngoài doanh số tiền gửi, tiền vay ngắn hạn (gồm cả tiền gửi
không kỳ hạn), thì đã xuất hiện các hình thức mua, bán, chuyển nhượng các
giấy tờ có giá ngắn hạn như séc Ngân hàng phát hành từ tài khoản tiền gửi
thanh toán của khách hàng, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn, kỳ phiếu ngân hàng,
tín phiếu ngắn hạn của Kho bạc, tín phiếu thương mại (gồm thương phiếu và
lệnh phiếu). Ngoài ra, những công cụ tài chính dài hạn như: chứng khoán,
Công trái...khi sử dụng làm vật thế chấp để mua, bán tín dụng trong thời hạn
ngắn cũng nằm trong phạm trù bao quát của thị trường tín dụng ngắn hạn.
178
Tổng doanh số của thị trường này hiện chiếm gần 60% doanh số hoạt động
của thị trường tín dụng nói chung...
Vấn đề phải bàn trong thực trạng của thị trường này không phải ở chỗ
nó "lớn" hay nó "bé" vì còn tuỳ thuộc vào qui mô của nền kinh tế và nền văn
minh tiền tệ của đất nước. Tuy nhiên điều đáng quan tâm và vấn đề đặt ra để
giải bài toán ở đây chính lại là ở thực trạng "nền văn minh tiền tệ" của Việt
Nam còn ở mức lạc hậu nhiều so với khu vực và thế giới. Cho đến nay, nền
kinh tế Việt Nam vẫn bị coi là một nền kinh tế tiền mặt. Nếu có thể nói khác
đi về định nghĩa thị trường tiền tệ nói chung là thị trường luân chuyển M2
trong nền kinh tế thì tiền mặt của chúng ta hiện còn chiếm tới 22% M2 trong
khi con số này ở nhiều nước trong khu vực chỉ chiếm không quá 12%, ở
những nước công nghiệp phát triển chỉ chiếm không quá 5%, thậm chí ở
Thuỵ Điển chỉ còn 1,2% và ở Na Uy là 0,7%. Nền văn minh tiền tệ quyết
định dung lượng và tính văn minh của thị trường tín dụng ngắn hạn - Bộ phân
cấu thành của thị trường tiền tệ. Một khi quan hệ trao đổi và thanh toán trong
lưu thông hàng hoá giữa các bên tham gia thị trường hàng hoá, dịch vụ trong
xã hội với nhau vẫn cơ bản bằng tiền mặt trực tiếp thì dung lượng của thị
trường tín dụng ngắn hạn còn không chỉ nghèo nàn về số lượng mà còn lạc
hậu về các hình thức được sử dụng làm "hàng hoá" cung ứng cho xã hội.
Nhiều tiện ích Ngân hàng (nhất là các dịch vụ bán lẻ) dù được coi là những
phát minh mang tính thời đại làm cho cả hai bên Ngân hàng và khách hàng
cùng có lợi vẫn chưa được sử dụng nhiều ở Việt Nam, nền kinh tế do đó còn
bị kìm hãm bởi chính nền văn minh của thị trường tín dụng ngắn hạn còn ở
đẳng cấp thấp như hiện nay. Thêm vào đó, bản thân đồng tiền Việt Nam
mệnh giá ngày càng lớn trong khi sức mua của một đơn vị tiền tệ ngày càng
giảm (xét trong 21 năm qua – Trong đó đặc biệt là từ ngày 14/9/1985 – ngày
đổi tiền lần thứ 4 đến hết năm 1991, đồng tiền mất giá tới hàng 1000 lần!)
càng làm cho áp lực phải đổi mới nền văn minh tiền tệ nói chung và văn
minh thị trường tín dụng ngắn hạn nói riêng càng bức xúc và trở thành vấn đề
chiến lược đặc biệt quan trọng.
2). Một số tồn tại, hạn chế của thị trường liên ngân hàng
Thị trường liên ngân hàng vẫn đang hoạt động rất manh mún, tự phát,
thiếu tính tổ chức và tính chuyên nghiệp.
- Thị trường liên ngân vẫn chưa thể vận hành có hiệu quả và các lực
lượng của thị trường chưa thể phát huy tác dụng đầy đủ do:
(1) Hệ thống chính sách, qui định điều tiết thị trường chưa hoàn chỉnh,
đồng bộ. Khả năng của NHNN còn hạn chế trong điều tiết, can thiệp thị
trường một cách linh hoạt và kịp thời;
(2) Thị trường thiếu hệ thống giám sát rủi ro và cảnh báo sớm;
179
(3) Chưa hình thành được hệ thống chỉ tiêu chuẩn để phản ánh tình
trạng thị trường và định hướng kỳ vọng cho các thành viên, đặc biệt chưa có
được đường cong lãi suất chuẩn;
(4) NHNN thiếu công cụ điều tiết và giám sát thị trường liên ngân
hàng;
(5) Hệ thống công nghệ thông tin và hệ thống thanh toán còn nhiều
yếu kém, kể cả hệ thống báo cáo, thống kê;
(6) Các TCTD tham gia thị trường liên ngân hàng nhằm mục tiêu chủ
yếu để bảo đảm khả năng thanh khoản, chưa quan tâm nhiều đến phát triển
các nghiệp vụ đầu tư trên thị trường liên ngân hàng để kết hợp 2 mục tiêu bảo
đảm khả năng thanh khoản và sinh lời.
- Thị trường liên ngân hàng có qui mô nhỏ, tính cạnh tranh thấp.
- Hoạt động thị trường liên ngân hàng còn đơn điệu, chủ yếu là các
giao dịch tiền gửi và tín dụng truyền thống, các nghiệp vụ phái sinh tiền gửi
và đầu tư liên ngân hàng chưa được triển khai (đầu thầu tiền gửi, giao dịch kỳ
hạn vốn, nghiệp vụ Arbitrate...) hoặc ở giai đoạn thử nghiệm (SWAP lãi suất,
thấu chi).
- Tiềm ẩn nhiều rủi ro: Năng lực kiểm soát rủi ro tín dụng, rủi ro thanh
khoản và rủi ro thị trường của các TCTD còn yếu. Nhiều TCTD chưa có khả
năng kiểm soát và quản lý vốn tập trung toàn hệ thống, chưa thiết lập lên bộ
phận kinh doanh vốn, hệ thống quản lý rủi ro độc lập và năng lực tài chính
của các TCTD còn nhiều yếu kém.
- Thị trường liên ngân hàng không thống nhất và bị phân đoạn, chia
tách: Các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng chủ yếu tập trung vào các
NHTMNN và chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
- Thị trường liên ngân hàng Việt Nam chưa gắn kết với TTTC khu vực
và quốc tế.
- Hệ thống thông tin, báo cáo về hoạt động thị trường liên ngân hàng
còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu kinh doanh của TCTD và
kiểm soát thị trường của NHNN.
3). Một số tồn tại, hạn chế của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và thị trường ngoại tệ nói chung:
- Trình độ phát triển thị trường còn thấp, qui mô thị trường nhỏ, kém
linh hoạt: Doanh số giao dịch còn nhỏ bé do nguyên nhân một phần là sự tồn
tại công khai và với qui mô khá lớn của thị trường ngoại tệ phi chính thức so
với thị trường ngoại tệ chính thức. Năm 2005, doanh số giao dịch trên thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng đạt hơn 5 tỷ USD, trong đó khoảng 50% là
giao dịch với NHNN, nhóm NHTMNN và các chi nhánh ngân hàng nước
ngoài chiếm thị phần lớn nhất (đến gần 90% tổng doanh số giao dịch). Các
nghiệp vụ phái sinh như quyền chọn, hợp đồng tương lai hoặc arbitrate giữa
180
thị trường trong nước và thị trường quốc tế chưa được triển khai phổ biến.
Các giao dịch chủ yếu là VND và ngoại tệ; giao dịch giữa các đồng ngoại tệ
với nhau chưa phổ biến.
- Mất cân đối cung, cầu kéo dài dẫn đến khiến tỷ giá giao dịch
thường ở mức sát trần.
- Năng lực quản lý, giám sát thị trường ngoại tệ của NHNN còn nhiều
hạn chế. Khả năng can thiệp thị trường và tỷ giá của NHNN còn hạn chế do
dự trữ ngoại tệ nhỏ.
3.2. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG VỐN GIAI ĐOẠN 2001-2005
3.2.1. Đánh giá thực trạng phát triển thị trường vốn giai đoạn 2001-
2005
1). Hệ thống thị trường vốn về cơ bản đã được hình thành, từng bước chuyển động theo hướng lành mạnh, vận hành an toàn, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế-xã hội.
Các bộ phận cấu thành cơ bản của thị trường vốn đã được hình thành.
Hệ thống các định chế tài chính phát triển cả về số lượng và chất lượng, một
số loại hình trung gian tài chính mới đã hình thành và hoạt động hiệu quả.
Tính đến tháng 12/2005, hệ thống tín dụng Việt Nam bao gồm: 5
NHTMQD hoạt động kinh doanh đa năng, 1 Ngân hàng CSXH, 12
NHTMCP đô thị, 20 NHTMCP nông thôn, 25 chi nhánh ngân hàng nước
ngoài, 4 ngân hàng liên doanh, 5 công ty tài chính, 8 công ty cho thuê tài
chính, 40 văn phòng đại diện ngân hàng nước ngoài. Một hệ thống gồm 1
Quỹ tín dụng Trung ương, 12 quỹ tín dụng khu vực và gần 1000 Quỹ tín
dụng nhân dân cơ sở; 3 văn phòng đại diện của WB, ADB, IMF; khoảng 12
công ty tài chính và công ty thuê mua tài chính, Công ty tài chính quốc tế
(IFC), gần 10 quỹ đầu tư nước ngoài, hệ thống Quỹ tín dụng bưu điện, hệ
thống Quỹ Hỗ trợ phát triển và 4 quỹ ĐTPT tại địa phương, các Quỹ hỗ trợ
xuất khẩu, Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp
chế biến hàng xuất khẩu.
Hệ thống các trung gian trên TTCK, bao gồm: 13 công ty chứng
khoán, 1 công ty quản lý quỹ, 1 quỹ đầu tư chứng khoán với tổng số vốn điều
lệ gần 900 tỷ đồng; 1 ngân hàng chỉ định thanh toán, 2 ngân hàng lưu ký
trong nước, 3 ngân hàng lưu ký nước ngoài, 7 công ty kiểm toán được chấp
nhận.
TTCK ra đời năm 2000, sau hơn 5 năm hoạt động đã trở thành một
kênh huy động vốn dài hạn cho ĐTPT, bước đầu hoạt động an toàn, không
gây ra những biến động lớn hoặc tác động tiêu cực đến hoạt động kinh tế - xã
hội của đất nước.
181
2). Thị trường tín dụng ngân hàng đã đạt được kết quả nhất định trong việc huy động nguồn lực tài chính cho ĐTPT.
Trong khu vực các trung gian tài chính thì khu vực ngân hàng chiếm vị
trí quan trọng nhất.
Giai đoạn 1996–2000, tỷ trọng cơ cấu của khu vực trung gian tài chính
chiếm 39,3% tổng vốn đầu tư thì tỷ trọng của khu vực ngân hàng chỉ đã
chiếm tới 32,4% tổng vốn đầu tư. Phần lớn vốn huy động đều qua hệ thống
ngân hàng.
Giai đoạn 2001–2005, tỷ trọng của khu vực trung gian tài chính giảm
xuống 37,3% tổng vốn đầu tư thì khu vực ngân hàng chỉ còn 27,9% tổng vốn
đầu tư.
Như vậy, huy động vốn thông qua hệ thống ngân hàng mặc dù có xu
hướng giảm nhưng vẫn là kênh chủ yếu huy động và đầu tư tín dụng phục vụ
phát triển kinh tế-xã hội.
Hoạt động huy động và cho vay vốn của hệ thống NHTM được đẩy
mạnh và tăng tưởng nhanh qua các năm.
Bảng 63 - Huy động vốn thông qua thị trường tín dụng ngân hàng
Đơn vị: %
Giai đoạn 2001 2002 2003 2004 2005
Tăng trưởng vốn huy động 32,0 22,7 24,1 21,9 23,1
Tăng trưởng dư nợ cho vay nền kinh tế 23,2 30,4 28,0 26,2 19,0
Tỷ trọng vốn trung và dài hạn 28,4 30,7 28,1 29,4 30,0
Tỷ trọng dư nợ trung và dài hạn 38,4 41 43,5 42,7 43
Nguồn: NHNN
Đến cuối năm 2005, mức vốn huy động của hệ thống ngân hàng tăng
gấp 20 lần so với năm 1990, tương đương khoảng 62% GDP. Tín dụng cho
nền kinh tế tăng gấp 30 lần năm 1990, tương đương khoảng 65% GDP. Giai
đoạn 2000 – 2005 mức tăng trưởng huy động vốn và cho vay bình quân của
hệ thống ngân hàng tăng khoảng 22-25%/năm. Các tổ chức tín dụng đã chủ
động áp dụng nhiều hình thức huy động vốn hấp dẫn như tiết kiệm bậc thang,
tiết kiệm dự thưởng... Đồng thời, hệ thống ngân hàng cũng cung cấp nhiều
sản phẩm tín dụng đa dạng như tín dụng doanh nghiệp, tín dụng tiêu dùng,
cho vay chỉ định, cho vay trả góp...
Cơ chế điều hành lãi suất và chính sách tín dụng được đổi mới theo
hướng tự do hoá và vận hành theo nguyên tắc thị trường. Lãi suất VND đã
được tự do hoá (năm 2002) và lãi suất ngoại tệ được nới lỏng kiểm soát (chỉ
kiểm soát lãi suất tiền gửi ngoại tệ của pháp nhân). Lãi suất được tự do hoá
và xác lập dựa trên cơ sở quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường có tác dụng
định giá tài sản tài chính và vốn tín dụng chính xác hơn, góp phần nâng cao
hiệu quả huy động và phân bổ các nguồn lực tài chính song cũng đặt các
TCTD trước những rủi ro lãi suất lớn hơn. Cơ chế tín dụng đã được đổi mới
182
theo hướng các TCTD có quyền tự chủ và chủ động trong quyết định cho vay
(điều kiện vay vốn, lãi suất, mức vay, thời hạn vay, phương thức cho vay), lựa
chọn khách hàng và biện pháp bảo đảm tiền vay trên nguyên tắc thương mại,
phù hợp với chiến lược kinh doanh. Chính sách tín dụng mới về nguyên tắc
đã hướng tới sự bình đẳng trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng
của dân cư và doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Các hoạt động tín
dụng theo chỉ định hoặc phục vụ các đối tượng chính sách của Nhà nước đã
được giảm dần và tách bạch về cơ bản với các hoạt động tín dụng thương
mại;
Chất lượng tín dụng được cải thiện nhờ áp dụng đồng loạt các giải
pháp tăng cường năng lực tự kiểm soát chất lượng tín dụng của các TCTD;
thanh tra, giám sát của NHNN và đẩy mạnh xử lý nợ xấu (đến nay các
NHTMNN đã xử lý xong số nợ tồn đọng khoảng 23 ngàn tỷ đồng tại thời
điểm cuối năm 2000 theo Đề án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại
Quyết định số 149/QĐ-TTg). Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ (theo tiêu chuẩn
phân loại nợ của Việt Nam) của toàn hệ thống các TCTD giảm từ 10,8%
(năm 2000) xuống mức phổ biến dưới 5% (năm 2005). Nếu tính theo tiêu
chuẩn phân loại tại Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN
thì tỷ lệ nợ xấu bình quân của hệ thống ngân hàng cũng chỉ khoảng 3,5%.
3). TTCK đã trở thành một kênh huy động vốn quan trọng của nền kinh tế, từ chỗ quy mô thị trường còn nhỏ bé trong một thời gian dài đã phát triển nhanh chóng và đạt được sự tăng trưởng cao về giao dịch và đầu tư chứng khoán niêm yết
Giai đoạn 2000-2005
Sau 5 năm hoạt động, thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn ở giai
đoạn phát triển sơ khai. Đến 31/12/2005: tổng giá trị chứng khoán niêm yết
đạt 38.740 tỷ đồng, bao gồm 1.920 tỷ đồng cổ phiếu, 300 tỷ đồng chứng chỉ
quỹ đầu tư và 36.520 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa
phương. Trên thị trường giao dịch tập trung chỉ có 40 công ty niêm yết; Chỉ
số VN-index đến 31/12/2005 đạt 307,5 điểm và chỉ số Hastc-Index đạt 96,24
điểm. Tổng giá trị vốn hóa toàn thị trường mới đạt ở mức 5,1%GDP năm
2005, trong đó cổ phiếu đạt mức rất thấp 0,7%GDP, trái phiếu đạt 4,4%GDP.
Từ năm 2006 đến nay:
Quy mô thị trường chứng khoán có tổ chức đã phát triển khá nhanh.
Năm 2006
Thị trường cổ phiếu đã có 193 công ty niêm yết đăng ký giao dịch tại
TTGDCK, tổng giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt 221.156 tỷ đồng
(tương đương 14 tỷ USD), chiếm 22,7%GDP 2006.
Thị trường trái phiếu tăng trưởng nhanh với gần 400 loại trái phiếu
Chính phủ, trái phiếu đô thị và trái phiếu ngân hàng niêm yết với tổng giá trị
trên 70.000 tỷ đồng, bằng 7,7%GDP.
183
Số lượng tài khoản giao dịch của nhà đầu tư đã lên tới 130.000 (tăng
gần 4 lần so với cuối năm 2005), nhà đầu tư nước ngoài khoảng 1.700 với
lượng cổ phiếu nắm giữ của các công ty niêm yết khoảng 25-30%. Các quỹ
đầu tư chứng khoán nước ngoài tham gia vào thị trường tăng khá nhanh, đến
cuối năm 2006 đã có 23 quỹ với quy mô khoảng 2,5 tỷ USD.
Năm 2007:
Tổng khối lượng chứng khoán được giao dịch trên HOSE đạt hơn
2,389 tỷ chứng khoán, tương ứng với giá trị 245.485 tỷ đồng (trong đó cổ
phiếu là gần 1,814 tỷ cổ phiếu, tương ứng với giá trị 200.760 tỷ đồng và
chứng chỉ quỹ đầu tư là hơn 196 triệu chứng chỉ, tương ứng với 5,262 tỷ
đồng). Chỉ số VN-Index đạt 927,02 điểm vào phiên giao dịch ngày
28/12/2007, tăng 185,75 điểm so với phiên giao dịch ngày 02/01/2007 là
741,27 điểm.
Tổng khối lượng chứng khoán được giao dịch trên HASTC là hơn
1,364 tỷ chứng khoán, tương ứng với giá trị 140.943 tỷ đồng (trong đó cổ
phiếu được giao dịch là 612,04 triệu cổ phiếu, tương ứng với hơn 63.422 tỷ
đồng; giao dịch trái phiếu là 75,273 triệu trái phiếu, tương ứng với hơn
77.521 tỷ đồng). Chỉ số Hastc-Index đóng cửa ở mức 323,55 điểm vào ngày
28/12/2007, tăng 81,63 điểm so với phiên giao dịch ngày 02/01/2007 là
241,92 điểm.
Trên TTCK tập trung đã có 253 công ty niêm yết (tăng 59 công ty
niêm yết so với năm 2006) và khoảng 570 loại trái phiếu được niêm yết, đạt
giá trị khoảng 115.660 tỷ đồng, chiếm 10% GDP năm 2007.
Mức vốn hóa thị trường đạt 43%GDP.
Số lượng tài khoản giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài là 8.141 tài
khoản (nhà đầu tư có tổ chức khoảng 480 tài khoản), tăng gần 4 lần so với
năm 2006. Nhà đầu tư nước ngoài hiện đã nắm giữ từ 25-30% cổ phần của
công ty niêm yết, và doanh số giao dịch chiếm khoảng 18% giao dịch toàn thị
trường. Ước tính vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài trong năm 2007 đạt khoảng
6,5 tỷ USD, đưa giá trị danh mục đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài trên thị
trường chính thức ước đạt 7,6 tỷ USD (nếu tính cả thị trường không chính
thức ước đạt gần 20 tỷ USD), tăng gấp 3 lần so với cuối năm 2006.
Tính đến 2007 đã có 80 công ty chứng khoán được cấp phép thành lập
và hoạt động trên thị trường chứng khoán với quy mô vốn đạt khoảng 13.000
tỷ đồng tăng gấp 3 lần so với cuối năm 2006, trong đó năm 2007 đã cấp phép
thành lập 23 công ty chứng khoán. Ngoài ra có 24 công ty quản lý quỹ đầu tư
đã được cấp giấy phép hoạt động trong đó có 11 công ty đã lập và quản lý các
quỹ đầu tư, quy mô vốn của các công ty quản lý quỹ tăng xấp xỉ 03 lần từ 251
tỷ đồng cuối năm 2006 lên 725 tỷ đồng tại thời điểm tháng 12/2007.
184
Cùng với sự bùng nổ của thị trường chính thức cuối năm 2006, hoạt
động của thị trường tự do phát triển mạnh. Quy mô vốn hoá ước tính gấp 2-3
lần thị trường chính thức.
Năm 2008
Bảng 64 - Hoạt động của TTCK năm 2008
Các chỉ số 12/2007 12/2008
Gia tri vôn hoa (ty đông) 504.406 225.934
Sô lương cổ phiếu niêm yêt 250 338
Sô lương trai phiêu niêm yêt 505 596
Số lượng công ty chứng khoán 78 102
Số lượng công ty quản lý quỹ 25 43
Số lượng công ty kiêm toan đươc châp thuân 13 38
Số lượng công ty đại chúng đa đăng ky 0 1.090
Sô lương tai khoan của nhà đầu tư 312.139 531.428
Trong đo: - Tai khoan nhà đầu tư trong nươc 303.990 519.466
- Tai khoan nhà đầu nươc ngoai 8.149 11.962
Nguồn: Bộ Tài chính
Trước bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu, thị trường chứng
khoán Việt nam chịu nhiều biến động. Chỉ số Vn Index đầu năm là 921,07
điểm (ngày 2/1/2008) và đóng cửa vào phiên giao dịch cuối năm là 315,62
điểm (ngày 31/12/2008), giảm khoảng 65%. Diễn biến thị trường chứng
khoán trong năm 2008 biến động qua 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: thị trường suy giảm từ đầu năm cho đến tháng 6/2008 do
những khó khăn về kinh tế vĩ mô (lạm phát, giá cả nguyên liệu thế giới tăng
cao, lãi suất tăng cao, khó khăn tiếp cận tín dụng), chỉ số chứng khoán giảm
xuống còn 366 điểm (20/6/2008).
Giai đoạn 2: từ cuối tháng 6 đến tháng 8/2008, Chính phủ triển khai
nhóm các giải pháp ổn định kinh tế và kiểm soát lạm phát và bước đầu phát
huy tác dụng, kinh tế vĩ mô có dấu hiệu tốt lên (nhập siêu, dự trữ ngoại tệ
được cải thiện, luồng vốn đầu tư nước ngoài gia tăng) và lạm phát bị kiềm
chế thị trường đã tăng trở lại, Vn Index đã tăng điểm trở lại và đạt 558 điểm
(tháng 9/2008).
Giai đoạn 3: từ tháng 9/2008 đến nay khi kinh tế thế giới gặp những
khó khăn lớn do khủng hoảng thị trường tài chính khởi nguồn từ nước Mỹ,
thị trường chứng khoán Việt Nam lại giảm điểm trở lại, chỉ số Vn Index giảm
xuống còn 286,85 điểm (tháng 12/2008).
Cùng với sự suy giảm nhanh về doanh số giao dịch trên thị trường nói
chung, tình hình giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài giảm rõ rệt, thể hiện
qua doanh số giao dịch thuần (bán ra- mua vào) khá lớn, đặc biệt là các
chứng khoán có tính thanh khoản cao (như trái phiếu Chính phủ). Tính đến
thời điểm tháng 12/2008, giá trị danh mục của nhà đầu tư nước ngoài trên thị
185
trường chứng khoán khoảng 4,6 tỷ USD, so với thời điểm đầu năm 2008
(thời điểm giá trị danh mục đầu tư lớn nhất), giá trị danh mục của nhà đầu tư
nước ngoài giảm gần 4 tỷ USD. Mặc dù, giá trị danh mục đầu tư giảm mạnh,
một phần do giá cổ phiếu giảm (khoảng 70%), một phần do nhà đầu tư nước
ngoài cơ cấu lại danh mục đầu tư, một phần dòng vốn chuyển sang các kênh
đầu tư khác, nên dòng vốn rút ra khỏi Việt Nam không nhiều (khoảng 1,8 – 2
tỷ USD).
Mức vốn hoá thị trường vào cuối năm 2008 của 338 công ty niêm yết
là 225.000 tỷ đồng bằng khoảng 20% GDP năm 2007 (giảm nhiều so với
mức vốn hóa 43% GDP của năm 2007). Mức vốn huy động qua thị trường
chứng khoán trong năm 2008 là 29 nghìn tỷ đồng (trong đó, giá trị phát hành
là 14,3 nghìn tỷ đồng, giá trị đấu giá là 7,8 nghìn tỷ đồng, giá trị đấu thầu trái
phiếu Chính phủ 7 nghìn tỷ đồng) bằng khoảng 23% mức vốn huy động của
năm 2007 là 127 nghìn tỷ đồng.
3.2.2. Những vấn đề đặt ra trong việc phát triển thị trường vốn giai
đoạn 2001-2005
1). Những bất cập của thị trường tín dụng
Mặc dù cơ cấu tài chính của hệ thống ngân hàng đã có nhiều chuyển
biến tích cực, tốc độ tăng trưởng tín dụng cao, như hiệu quả, chất lượng tín
dụng và khả năng cạnh tranh không cao, vấn đề an ninh của hệ thống ngân
hàng chưa được đảm bảo tốt, thể hiện ở một số điểm sau:
- Tỷ lệ nợ xấu nếu phân loại nợ theo tiêu chuẩn quốc tế thì sẽ tương
đối cao, khoảng trên 2 con số, chủ yếu là khối NHTM Nhà nước. Các khoản
cho vay theo chỉ định của Nhà nước, cho vay đầu tư bất động sản và DNNN
đã và sẽ là nguy cơ chủ yếu gây mất an toàn hệ thống.
- Tỷ lệ vốn tự có/tổng tài sản có của khu vực NHTM Nhà nước
(khoảng 4,3%) thấp hơn nhiều so với qui định tiêu chuẩn của quốc tế (8%),
nguy cơ này càng xấu đi khi tốc độ tăng tài sản có nhanh hơn tốc độ tăng vốn
tự có.
- Rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá đang là nguy cơ đe doạ nghiêm trọng
tới tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng. Năm 2004, tỷ trọng vốn huy
động bằng ngoại tệ khá cao (khoảng 30%). Tỷ trọng vốn huy động trung, dài
hạn chỉ chiếm khoảng 30% tổng vốn huy động, trong khi cho vay trung và
dài hạn chiếm với 43% dư nợ. Tình trạng cho vay khu vực kinh tế nhà nước
chiếm tỷ trọng lớn, khoảng 42% dư nợ, trong đó khối lượng nợ trong XDCB
là tương đối lớn.
Rủi ro hoạt động tín dụng ở nước ta trong giai đoạn 2006-2010 vẫn
còn là vấn đề khá hiện hữu do sự tác động của các yếu tố sau:
Chất lượng tài sản có thấp:
186
Tốc độ tăng trưởng tín dụng cao và tỷ lệ nợ xấu theo tiêu chuẩn phân
loại nợ quốc tế còn cao (lên tới hai chữ số) và chưa được kiểm soát hợp lý
dẫn đến tiềm ẩn rủi ro lớn trong hệ thống ngân hàng, đặc biệt là khối
NHTMNN. Tuy nhiên, việc trích lập dự phòng rủi ro chưa phù hợp với mức
độ rủi ro thực tế mà TCTD phải đối mặt;
Vốn tự có nhỏ so với qui mô tài sản, đặc biệt là các NHTMNN; khả
năng tự bổ sung vốn tự có bị hạn chế do tốc độ tăng tài sản có lớn nhưng
chất lượng tài sản có thấp và khả năng sinh lời không được cải thiện tương
ứng.
Hầu hết các TCTD không phải NHTMNN đã đạt tỷ lệ an toàn vốn
8%, nhiều NHTMCP đạt trên 10%. Đa số các NHTMNN có tỷ lệ an toàn vốn
thấp và chưa đạt tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo quy định của NHNN (bình
quân khoảng 6%). Riêng Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã đạt tỷ lệ an
toàn vốn 8,5% từ cuối năm 2005. Nếu phân loại nợ và trích lập đủ dự phòng
rủi ro theo thông lệ quốc tế thì nhiều NHTM, đặc biệt là NHTMNN thiếu dự
phòng, bị lỗ và không đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu;
Mức độ rủi ro hoạt động ngân hàng cao:
Rủi ro sai lệch kép lớn (rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá) hiện đang rất
đáng lo ngại ở Việt Nam nhất là trong điều kiện đô la hóa cao. Vốn huy động
bằng ngoại tệ lớn (chiếm khoảng 28% tổng nguồn vốn huy động); Tỷ trọng
cho vay trung, dài hạn có xu hướng tăng (42% tổng dư nợ tín dụng). Nói
chung, môi trường hoạt động ngân hàng có mức độ rủi ro cao do năng lực tài
chính và hiệu quả kinh doanh của khách hàng của các TCTD còn rất nhiều
hạn chế; nhiều khách hàng không đáp ứng yêu cầu vay vốn do thiếu tài sản
bảo đảm hoặc dự án đầu tư không có hiệu quả kinh tế; hệ thống kế toán và
quản lý tài chính thiếu minh bạch và tin cậy.
Quản trị điều hành còn yếu kém và chưa phù hợp với thông lệ tốt nhất về
quản trị doanh nghiệp; chưa tách bạch chức năng quản trị và chức năng điều
hành kinh doanh:
Trình độ quản lý rủi ro còn non yếu (cho vay chủ yếu dựa vào tài sản
bảo đảm, năng lực thẩm định tín dụng yếu, hệ thống phân loại nợ chưa phù
hợp, nguyên tắc kiểm tra, kiểm soát thiếu chặt chẽ). Hầu hết các NHTM chưa
thiết lập được hệ thống quản lý rủi ro hợp lý và chưa có chiến lược kinh
doanh phù hợp dẫn đến có nơi, có lúc các NHTM cạnh tranh quá mức.
2). Những bất cập của TTCK
TTCK phát triển không ổn định: từ chỗ còn nhỏ bé, chưa tạo ra sự hấp dẫn để huy động vốn dài hạn cho ĐTPT trong một thời gian dài bỗng trở nên quá nóng, chứa đựng nguy cơ bất ổn cho an ninh tài chính quốc gia.
Giai đoạn 2001-2005: Quy mô TTCK có tổ chức còn rất nhỏ bé, tốc
độ phát triển chưa theo kịp với tiến trình phát triển nền kinh tế; cơ chế hoạt
187
động chưa thực sự hoàn chỉnh; cơ sở hạ tầng kỹ thuật cũng như năng lực
trình độ của cán bộ quản lý chưa đáp ứng được với yêu cầu phát triển lâu dài
của thị trường. Vì vậy, nhu cầu hỗ trợ nhà đầu tư tiếp cận thị trường bị hạn
chế.
Quy mô thị trường TPCP vẫn còn nhỏ, tổng dư nợ TPCP chỉ bằng
khoảng 6,6 % GDP; tỷ lệ vay nợ dưới hình thức phát hành trái phiếu còn
thấp, mới đạt khoảng 10% GDP. Chủ thể phát hành chủ yếu là nước bao gồm
Kho bạc nhà nước và Quỹ Hỗ trợ phát triển; Chính quyền địa phương; các
doanh nghiệp hầu như chưa tham gia vào thị trường này.
Kỹ thuật phát hành TPCP còn đơn điệu, chủ yếu phát hành thông qua
qua bảo lãnh phát hành, khối lượng trái phiếu phát hành qua đấu thầu còn hạn
chế. Các tổ chức bảo lãnh phát hành không phân phối lại trái phiếu cho các
nhà đầu tư riêng lẻ mà nắm giữ như một khoản đầu tư, do vậy hạn chế các
giao dịch trái phiếu ở thị trường thứ cấp, không huy động được nguồn lực từ
các nhà đầu tư riêng lẻ.
Đến ngày 30/6/2006, tổng giá trị vốn hoá của 37 cổ phiếu niêm yết và đăng ký giao dịch
tại TTGDCK Thành phố Hồ Chí Minh là 28.809 tỷ đồng, tương đương 3,5% GDP. Tính bình
quân trong năm 2005, giá trị giao dịch cổ phiếu và chứng chỉ quỹ đạt trên 12,1 tỷ đồng/phiên và
trái phiếu đạt 94 tỷ đồng/phiên14. Trên TTTP chưa hình thành hệ thống các tổ chức kinh doanh
chuyên nghiệp. Qui mô phát hành tại TTTP sơ cấp quá nhỏ bé để có thể hình thành một TTTP có
tính thanh khoản cao; nhiều doanh nghiệp chưa quan tâm huy động vốn qua phát hành trái phiếu
và một số doanh nghiệp khác thì lại không đủ điều kiện tiếp cận TTTP.
Bảng 65 - Qui mô niêm yết cổ phiếu đến hết 30/6/2006
Số loại cổ
phiếu
Tổng khối lượng
niêm yết
Tổng mệnh giá niêm yết Vốn hoá thị trường
VND USD VND USD
37 426.053.080 4.260 tỷ 269,2 triệu 28.809 tỷ 1,8 tỷ
Tỷ trọng 0,53% GDP 3,5% GDP
Nguồn: Bộ Tài chính
Tuy nhiên, từ tháng 7/2006, đặc biệt khi Việt Nam trở thành thành
viên thứ 150 của WTO, TTCK Việt Nam bỗng chốc trở nên phát triển quá
nóng. Kêt thúc năm 2006 có khoảng 170 cổ phiếu và chứng chỉ quỹ của các
công ty và quỹ đầu tư được niêm yết và đăng ký giao dịch trên hai trung tâm
giao dịch chứng khoán ở TP.HCM và Hà Nội với tổng giá trị vốn hóa gần 14
tỷ đô-la, bằng 22.7% GDP năm 2006, cao hơn cả mục tiêu chiến lược phát
triển của TTCK đến năm 2010 (10-15%).
Mặc dù mức độ vốn hóa của thị trường tăng khá nhanh vào cuối năm
2006 nhưng nhìn chung quy mô thị trường chứng khóan Việt Nam còn nhỏ
bé so với các nước và sự hoạt động vẫn chưa thực sự vững chắc.
Giá cổ phiếu và chỉ số chứng khoán VN-Index chưa phản ánh đúng
thực tế diễn biến kinh tế vĩ mô, nói cách khác TTCK chưa là "hàn thử biểu"
về diễn biến kinh tế. Số lượng cổ phiếu niêm yết quá ít, trong đó chủ yếu là
các doanh nghiệp có qui mô nhỏ và vừa không thể phản ánh trạng thái của
188
nền kinh tế. Mặt khác, sự lến xuống của cổ phiếu trong nhiều thời điểm nhạy
cảm thể hiện sự phát triển chưa ổn định và báo hiệu nhiều nguy cơ bất ổn của
thị trường.
Nguyên nhân của sự phát triển TTCK quá nóng là do trong từng thời
điểm quan hệ cung cầu trên thị trường mất cân đối, gây những biến động cho
thị trường.
Thứ nhất, nhu cầu mua chứng khoán gia tăng đột biến.
Có thời điểm cầu gia tăng quá lớn trong khi cung chứng khoán còn
hạn chế. Nhu cầu mua chứng khoán tăng mạnh trong thời gian qua do các
yếu tố sau:
- Việc tự do hoá thị trường dịch vụ tài chính, mở cửa cho các nhà đầu
tư nước ngoài, tăng tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu cho các nhà đầu tư nước ngoài đã
thu hút một khối lượng vốn đầu tư lớn vào TTCK từ các nhà đầu tư nước
ngoài;
- Nguồn vốn đầu tư của các tầng lớp dân cư và nguồn vốn kiều hối đổ
vào TTCK tăng nhanh;
- Một số NHTMCP đã bơm một khối lượng vốn lớn vào thị trường
thông qua cho vay cầm cố chứng khoán.
- Sự khởi đầu của trào lưu đầu tư trên TTCK của một bộ phận dân số
có thu nhập cao, tỷ lệ tiết kiệm lớn.
Thứ hai, nguồn cung chứng khoán còn ít
Trong khi số lượng các DNNN được CPH đến thời điểm này là khá
nhiều nhưng số lượng công ty niêm yết còn rất hạn chế. Bên cạnh đó, hầu hết
các doanh nghiệp lớn (Các tổng công ty 90, 91) đều chưa cổ phần hoá hoặc
mới chỉ được cổ phần hoá một bộ phận. Một số doanh nghiệp tuy cổ phần
hoá nhưng theo cơ chế khép kín nên việc chuyển nhượng cổ phiếu trên thị
trường thứ cấp còn kém phát triển. Điều này cho thấy rõ sự bất cập của tiến
trình cổ phần hóa DNNN trong những năm qua: cổ phần hóa chậm, chủ yếu
là các DNNN quy mô vốn nhỏ. Nhà nước vẫn giữ một tỷ lệ vốn đáng kể
trong các DNNN đã cổ phần hóa mà số cổ phiếu này không được giao dịch
trên thị trường nên càng tạo ra sự khan hiếm hàng hoá.
Hai là, tăng trưởng thị trường chứng khoán trong thời gian qua vẫn còn
chứa đựng những yếu tố chưa bền vững, tính rủi ro còn lớn.
Việc gia tăng tổng giá trị vốn hoá thị trường bên cạnh việc đưa thêm
một lượng hàng hoá vào niêm yết còn có yếu tố do tăng giá chứng khoán.
Tâm lý “mua bán theo phong trào” cũng góp phần làm cho thị trường lên,
xuống thất thường. Tỷ trọng tham gia đầu tư của các tổ chức đầu tư chuyên
nghiệp (ngân hàng, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư) chỉ khoảng 20% thị phần.
Nội dung, chất lượng công bố thông tin vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu quản
lý và cung cấp thông tin cho thị trường.
189
Ba là, chất lượng các công ty niêm yết còn thấp, hoạt động chưa thật sự
hiệu quả
Điều này thể hiện trên một số khía cạnh như sau:
Chất lượng quản trị doanh nghiệp nói chung, bao gồm cả quản trị
doanh nghiệp, quản trị tài chính, quản trị nhân sự… còn thấp. Nguồn nhân
lực, nhất là nhân lực đảm nhiệm các vị trí lãnh đạo chủ chốt như HĐQT, Ban
giám đốc… có trình độ chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu của loại hình doanh
nghiệp cổ phần có tham gia niêm yết chứng khoán trên Sở GDCK. Quản trị
tài chính của các doanh nghiệp còn rất nhiều vấn đề, trong đó tình trạng
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nhưng lại đầu tư tài chính lớn; vấn đề báo
cáo tài chính hợp nhất… rất phức tạp và chưa được quản lý một cách có hiệu
quả.
Hầu hết các doanh nghiệp chưa phải là các doanh nghiệp hàng đầu
của nền kinh tế; Nhiều doanh nghiệp niêm yết là các doanh nghiệp vừa và
nhỏ, qui mô vốn thấp, chất lượng kinh doanh chỉ đạt mức trung bình, cơ hội
mở rộng và phát triển không cao. Chính vì vậy, vấn đề huy động vốn qua thị
trường chứng khoán của các doanh nghiệp đã niêm yết còn hạn chế; Nhiều
doanh nghiệp có chất lượng tốt, doanh nghiệp hàng đầu của nền kinh tế chưa
muốn tham gia thị trường niêm yết.
Chưa đánh giá được một cách trung thực, chính xác chất lượng doanh
nghiệp tham gia niêm yết; Bản thân chất lượng hoạt động thu thập và xử lý
thông tin, nhất là công tác kế toán của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung,
doanh nghiệp niêm yết nói riêng chưa được thực hiện tốt.
Chất lượng công tác kiểm toán, hoạt động thanh tra, giám sát của các
Sở GDCK, UBCKNN cũng chưa cao, chưa đánh giá được một cách chính
xác chất lượng của doanh nghiệp niêm yết; Tổ chức dịch vụ chuyên về đánh
giá chất lượng của các doanh nghiệp niêm yết chưa phát triển…
Bốn là, các nhà đầu tư, các tổ chức tham gia thị trường và các tổ chức
trung gian, hỗ trợ thị trường còn hạn chế về năng lực tài chính, quản trị công
ty và chất lượng dịch vụ.
Đa số các nhà đầu tư chứng khoán trên TTCK Việt Nam là các nhà đầu
tư cá nhân, các nhà đầu tư nhỏ lẻ. Hoạt động đầu tư bầy đàn, theo phong trào
vẫn rất lớn. Đồng thời hoạt động đầu tư ngắn hạn, lướt sóng kiếm lời là hoạt
động đầu tư chính trên TTCK Việt Nam. Đến nay, gần như chưa có nhà tạo
lập thị trường trên TTCK Việt Nam, nhất là trên thị trường sơ cấp - thị trường
phát hành và đặc biệt là các nhà tạo lập thị trường trái phiếu.
Quản lý hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài, nhất là quản
lý luồng vốn ra – vào vẫn gặp nhiều khó khăn, khó kiểm soát và thông tin
chưa đầy đủ, chính xác.
Quy mô vốn mặc dù đã tăng lên, nhưng mạng lưới công ty chứng khoán
mới tập trung ở các thành phố lớn, hạn chế cung cấp dịch vụ cho nhà đầu tư
190
rộng khắp trên toàn quốc. Hệ thống công nghệ thông tin, đội ngũ nhân viên
hành nghề hạn chế cả về số lượng và chất lượng; kiểm soát nội bộ, quản trị
công ty còn yếu nên chất lượng dịch vụ chưa cao.
Năm là, cấu trúc thị trường còn nhiều bất cập, hoạt động của thị trường
chứng khoán tự do còn ở phạm vi khá rộng, chưa có sự quản lý điều tiết của
Nhà nước.
Hiện nay, trên TTCK Việt Nam tồn tại 2 Sở GDCK là HOSE và
HNX, ngoài ra còn nhiều TTGDCK khác được hình thành một cách tự phát,
bao gồm:
- Hoạt động giao dịch thứ cấp tại các công ty chứng khoán - một hình
thức của thị trường OTC tự phát do các công ty chứng khoán đứng ra thực
hiện;
- Hoạt động mua bán qua mạng không chính thức;
- Hoạt động cầm cố trái phiếu (chủ yếu là trái phiếu chính phủ) và hoạt
động mua bán trên thị trường tự do…
- Ngay tại HNX cũng có tới ba (03) bảng giao dịch khác nhau, gồm:
Bảng giao dịch cổ phiếu niêm yết; Bảng giao dịch trái phiếu chính phủ
chuyên biệt; Bảng giao dịch cho thị trường UpCom - thị trường cho các công
ty đại chúng chưa niêm yết.
Đối với hoạt động chào bán chứng khoán trên thị trường sơ cấp được
thực hiện hết sức đa dạng dưới nhiều hình thức bao gồm: đấu giá, đấu thầu,
tự phát hành, bảo lãnh phát hành…
Quy mô thị trường tự do còn lớn (ước tính có quy mô gấp đôi thị trường
có tổ chức), thiếu tính công khai, minh bạch, thiếu sự quản lý và giám sát,
khả năng xảy ra rủi ro cao (như mất khả năng thanh toán, lừa đảo…) gây bất
ổn cho thị trường chính thức và hệ thống tài chính.
Sáu là, công tác quản lý, giám sát hoạt động và tuân thủ pháp luật trên
thị trường chứng khoán còn nhiều bất cập, đặc biệt là giám sát đầu tư nước
ngoài
Trong điều kiện luồng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài thông qua thị
trường chứng khoán ngày càng tăng nhưng năng lực quản lý, kiểm soát còn
hạn chế, dẫn đến tình trạng khó kiểm soát luồng vốn; xuất hiện các hành vi
rửa tiền, thao túng thị trường..., đồng thời gây sức ép lên đồng bản tệ và nguy
cơ đảo chiều rút vốn khỏi thị trường.
Bảy là, chưa có sự phối hợp đồng bộ trong chính sách điều hành và
quản lý, giám sát hoạt động thị trường chứng khoán với chính sách tiền tệ,
Thiếu cơ chế phối hợp trong điều hành chính sách lãi suất, tỷ giá; phối
hợp xử lý khi phát sinh khủng hoảng trong hệ thống tài chính ngân hàng.
Liên quan đến niêm yết của các ngân hàng thương mại trên thị trường chứng
khoán. Đến nay, vẫn chưa có sự kết hợp trong giám sát các ngân hàng thương
191
mại niêm yết trên thị trường chứng khoán (bao gồm thủ tục niêm yết, giao
dịch và tỷ lệ nắm giữ cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài); chuẩn mực công
bố thông tin theo thông lệ quản trị doanh nghiệp nói chung và hệ thống ngân
hàng nói riêng còn có khác biệt lớn; chưa có cơ chế phối hợp quản lý, giám
sát giao dịch cổ phiếu ngân hàng thương mại trên thị trường tự do; những
hoạt động tiềm ẩn rủi ro cho cả thị trường tiền tệ - ngân hàng và thị trường
chứng khoán.
3.3. THỰC TRẠNG THANH TRA GIÁM SÁT THỊ TRƯỜNG TÀI
CHÍNH GIAI ĐOẠN 2001-2005
3.3.1. Thực trạng thanh tra, giám sát ngân hàng giai đoạn 2001-2005
1). Những thành tựu
1. Đã hình thành đồng bộ hệ thống các biện pháp thận trọng trong gám sát an toàn hoạt động ngân hàng
Trên cơ sở qui định của Luật NHNN, NHNN đã xây dựng được hệ
thống các qui định an toàn và biện pháp thận trọng trong lĩnh vực ngân hàng,
bao gồm các quy định cụ thể về: Tỷ lệ an toàn tối thiểu; Giới hạn tín dụng đối
với khách hàng; Tỷ lệ về khả năng chi trả; Tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn
hạn được sử dụng để cho vay trung hạn và dài hạn; Giới hạn góp vốn, mua cổ
phần.
Ngoài ra, NHNN cũng quy định nhiều biện pháp thận trọng khác
nhằm đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng, đồng thời là cơ sở để Thanh tra
ngân hàng thực hiện giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ, phát hiện, ngăn chặn
và xử lý kịp thời các rủi ro, vi phạm.
2. Đã hình thành tổ chức bộ máy thanh tra NHNN với hoạt động ổn định
Theo Luật Thanh tra, TTNH là cơ quan thanh tra Bộ, có nhiệm vụ
giúp Thống đốc NHNN quản lý Nhà nước về công tác thanh tra, thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành trong
lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
3. Đã tổ chức hoạt động thanh tra tại chỗ có hiệu quả
TTNH thường tiến hành thanh tra tại chỗ định kỳ (một năm một lần)
hoặc đột xuất tuỳ theo yêu cầu công tác thanh tra và kết quả theo dõi, phân
tích giám sát và đánh giá đối với các đối tượng thanh tra, nhằm phát hiện,
ngăn chặn và xử lý những vi phạm, rủi ro trong hoạt động của các TCTD.
Nội dung thanh tra tại chỗ định kỳ bao gồm việc kiểm tra về quản trị,
điều hành; kiểm soát và kiểm toán nội bộ; nguồn vốn; chất lượng tài sản có
và tín dụng; nghiệp vụ bảo lãnh và thanh toán; kinh doanh ngoại tệ; đầu tư,
góp vốn liên doanh; công tác kế toán và quản lý tài chính; các hoạt động khác
có liên quan. Nội dung thanh tra đột xuất thường tập trung vào một trong
192
những nội dung trên tuỳ theo yêu cầu thực tế cần phải tiến hành thanh tra tại
chỗ đột xuất, chẳng hạn TTNH phát hiện ra dấu hiệu về nợ xấu gia tăng, mất
khả năng thanh khoản hoặc nguy cơ, rủi ro phát hiện qua giám sát từ xa, kể cả
các vụ việc nổi cộm, TTNH có thể tiến hành thanh tra đột xuất về tín dụng và
hoạt động thanh toán, huy động vốn.
4. Đã tổ chức tốt công tác giám sát từ xa
Về cơ bản, công tác giám sát từ xa chủ yếu tập trung vào việc giám sát
vi mô, thực hiện phân tích các chỉ tiêu tài chính và hoạt động của các TCTD
để tiến hành cảnh báo sớm và cung cấp thông tin cho công tác thanh tra tại
chỗ có trọng tâm, trọng điểm hơn. Ngược lại, kết quả thanh tra tại chỗ còn là
điều kiện để cho quá trình giám sát các TCTD được liên tục và kiểm tra, đối
chiếu để xác định độ tin cậy của các báo cáo giám sát mà các NHTM gửi tới
TTNH. Giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ là hai phương thức bổ trợ lẫn cho
nhau, không thể thay thế được nhằm giúp cho quá trình theo dõi, giám sát các
TCTD được diễn ra liên tục, theo sát diễn biến hoạt động của các TCTD.
Trên cơ sở đó, Thanh tra NHNN có được bức tranh toàn diện hơn về rủi ro
hoạt động của từng TCTD và toàn bộ hệ thống ngân hàng.
2). Những hạn chế bất cập
Mô hình tổ chức và hoạt động TTNH hiện nay còn nhiều bất cập so
với các thông lệ tốt, các chuẩn mực quốc tế15 và yêu cầu bảo đảm sự ổn định,
an toàn của hệ thống các TCTD và mục tiêu phát triển NHNN trở thành
NHTW hiện đại trong bối cảnh tự do hoá thương mại dịch vụ tài chính và hội
nhập kinh tế quốc tế.
1. Mô hình tổ chức và hoạt động của thanh tra ngân hàng chưa bảo đảm sự độc lập thoả đáng cũng như hiệu quả và hiệu lực hoạt động của thanh tra ngân hàng.
- Thiếu sự độc lập, tự chủ về tổ chức và hoạt động của TTNH:
Mô hình tổ chức hiện tại của TTNH hiện hành là mô hình của Thanh
tra Bộ, không phù hợp với nguyên tắc và thông lệ quốc tế để bảo đảm sự độc
lập tương đối của TTNH trong việc bảo đảm sự an toàn của hệ thống các
TCTD, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền. Mô hình tổ chức
của TTNH hiện nay mang tính phân tán, chia cắt, không thống nhất giữa
Thanh tra NHNN và Thanh tra chi nhánh NHNN. Vì vậy, TTNH chưa trở
thành một hệ thống dọc thống nhất, được điều hành tập trung.
- Thanh tra NHNN chịu sự lãnh đạo song trùng của Tổng Thanh tra
và Thống đốc NHNN.
Điều này dẫn đến thực tế Chánh Thanh tra NHNN không quản lý được
nhân sự và không trực tiếp quản lý được lực lượng cán bộ thanh tra trong
toàn hệ thống nhằm thực hiện chương trình, nhiệm vụ chung.
193
- Phân bố màng lưới Thanh tra chi nhánh NHNN bất hợp lý, dàn trải,
không có trọng tâm.
- Khó xử lý mối quan hệ giữa Chánh Thanh tra NHNN với Thống đốc
NHNN và Tổng Thanh tra Nhà nước khi có bất đồng về quan điểm:
2. Phương pháp thanh tra, giám sát còn nhiều bất hợp lý và kém hiệu quả, chưa theo kịp yêu cầu giám sát an toàn hoạt động ngân hàng trong điều kiện hiện đại hoá
Hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng chưa có được sự cải thiện căn
bản về chất lượng và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Nội dung, phương
pháp thanh tra đã có đổi mới nhưng chưa đáp ứng kịp yêu cầu quản lý hệ
thống ngân hàng hiện đại và thực tiễn phát triển nhanh chóng của hệ thống tài
chính - ngân hàng.
Thanh tra tại chỗ (thanh tra tuân thủ) vẫn là phương pháp chủ yếu; khả
năng giám sát toàn bộ thị trường tiền tệ, phát hiện/cảnh báo sớm, ngăn chặn,
phòng ngừa và xử lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng còn yếu. Thanh tra
NHNN còn hoạt động một cách bị động theo kiểu xử lý vụ việc đã phát sinh.
Thanh tra dựa trên cơ sở rủi ro và thanh tra hợp nhất chưa được triển khai.
Thực tế, không ít các NHTM có hoạt động trên TTCK, thị trường bảo hiểm
nhưng TTNH không thể tiếp cận và giám sát được các hoạt động này, mặc dù
các hoạt động này có thể đem lại những rủi ro không nhỏ cho các NHTM.
Nội dung giám sát còn rườm rà. Chưa có chương trình giám sát cảnh
báo sớm các rủi ro trong hoạt động của các TCTD và chưa có khả năng giám
sát vĩ mô. Hoạt động giám sát vi mô chủ yếu tập trung vào phân tích tài
chính, đánh giá việc tuân thủ các qui định an toàn hoạt động ngân hàng, chưa
có khả năng giám sát và đánh giá về tính hợp lý và hiệu quả của chíên lược
kinh doanh, hệ thống quản trị điều hành, đặc biệt là hệ thống quản trị rủi ro
của các TCTD. TTNH chưa thể giám sát và cảnh báo một cách hữu hiệu các
rủi ro thị trường, tỷ giá, lãi suất, thanh khoản, rủi ro công nghệ thông tin.
Giám sát từ xa ở chi nhánh còn mang tính hình thức và không có hiệu quả
đáng kể trong việc phát hiện sớm các rủi ro tiềm ẩn.
Nội dung thanh tra tại chỗ còn dàn trải, làm nhiều nhưng không trọng
tâm, trọng điểm và tính phát hiện kém, vì vậy các cuộc thanh tra toàn diện,
thanh tra định kỳ, kể cả thanh tra đột xuất theo các vụ việc phải trưng tập một
đội ngũ cán bộ đông và tiến hành trong thời gian khá dài gây lãng phí và ảnh
hưởng nhất định đến hoạt động của TCTD. Kết quả giám sát chưa có tác
dụng phòng ngừa và phát hiện sớm những vấn đề khó khăn của TCTD.
Trong điều kiện chất lượng thông tin kém và mức độ tuân thủ các chế độ
thống kê, báo cáo yếu như hiện nay thì sự trùng lắp công việc giữa thanh tra
tại chỗ và giám sát từ xa là đáng kể, thanh tra tại chỗ làm nhiều công việc mà
lẽ ra không cần phải tổ chức đoàn thanh tra đi kiểm tra tại chỗ.
194
Mục tiêu và phương thức phối hợp giữa giám sát từ xa và thanh tra tại
chỗ chưa chặt chẽ với nhau. Đôi khi các thông tin của bộ phận giám sát cung
cấp chỉ có giá trị tham khảo mà không có giá trị cảnh báo và các kết quả
thanh tra tại chỗ không được phản hồi lại cho giám sát từ xa. Do không đáp
ứng được tính cập nhật và tính chính xác từ thông tin giám sát từ xa, nên các
phòng thanh tra tại chỗ chưa coi trọng việc khai thác thông tin từ giám sát từ
xa để phục vụ xây dựng kế hoạch và đề cương thanh tra tại chỗ các TCTD.
Vì thế, việc xử lý những vấn đề tồn tại qua giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ
đối với TCTD còn chậm, nhiều khi không phù hợp nhau. Các phương pháp
và kỹ thuật thanh tra, giám sát hiện nay không thể cho TTNH nhận biết, đánh
giá và xử lý các rủi ro tổng thể hệ thống các TCTD và riêng từng TCTD. Mặt
khác, quá trình giám sát hoạt động không được tiến hành một cách thường
xuyên, liên tục và cập nhật thông tin mang tính định tính của các TCTD.
3. Chức năng, nhiệm vụ giám sát ngân hàng không tập trung vào TTNH mà bị chia xẻ bởi nhiều đơn vị khác nhau trong bộ máy của NHNN khiến cho hoạt động thanh tra, giám sát an toàn hoạt động ngân hàng chưa trở thành một hệ thống thống nhất
Chức năng, nhiệm vụ của TTNH hẹp so với thông lệ quốc tế và mục
tiêu của TTNH. TTNH không có thẩm quyền ban hành qui chế an toàn hoạt
động ngân hàng, cấp giấy phép thành lập TCTD và hoạt động ngân hàng, hệ
thống thông tin tín dụng tách dời khỏi hệ thống giám sát ngân hàng. TTNH
về cơ bản không tham gia vào quá trình quản lý dịch vụ ngân hàng và cơ cấu
lại hệ thống ngân hàng. Trong khi đó, thiếu một cơ chế phối hợp, chia xẻ
thông tin giữa các đơn vị tham gia vào nhiệm vụ giám sát hoạt động ngân
hàng.
4. Thiếu cơ chế trao đổi thông tin và phối hợp hành động hữu hiệu giữa TTNH với các cơ quan giám sát tài chính trong nước và quốc tế trong việc phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các rủi ro trong hoạt động ngân hàng
TTNH không thường xuyên tiếp nhận và cung cấp thông tin cho các
cơ quan giám sát tài chính trong nước và nước ngoài. Kết quả thanh tra, giám
sát các tổ chức tài chính không phải là TCTD thuộc các TCTD không được
các cơ quan giám sát tài chính có liên quan cung cấp cho NHNN để làm cơ
sở đánh giá mức độ rủi ro chung/hợp nhất của TCTD. TTNH hầu như không
phối hợp với các cơ quan giám sát tài chính khác để tiến hành các cuộc thanh
tra tổng hợp hoạt động của TCTD.
TTNH không tham gia quan hệ trao đổi thông tin thường xuyên với
các cơ quan giám sát của các nước có ngân hàng hoạt động tại Việt Nam,
ngay cả trong thời điểm cuộc khủng hoảng tài chính Châu á xảy ra năm 1997
nhiều ngân hàng nước ngoài gặp nhiều khó khăn, song TTNH hầu như không
có bất cứ động thái hợp tác quốc tế nào trong việc ngăn chặn rủi ro lây nhiễm
và phòng, chống khủng hoảng.
195
5. Năng lực, trình độ nghiệp vụ của cán bộ thanh tra đại bộ phận còn nhiều hạn chế so với yêu cầu tiếp cận và thực thi các thông lệ, chuẩn mực quốc tế về giám sát ngân hàng, thậm chí ngay cả đối với yêu cầu thực thi nhiệm vụ hiện tại.
Hiểu biết về quản trị rủi ro, các dịch vụ ngân hàng mới và các kỹ năng
về giám sát rủi ro hoạt động ngân hàng của cán bộ TTNH rất hạn chế. Nhiều
cán bộ TTNH có trình độ toán học, ngoại ngữ, tin học yếu đã hạn chế đến
khả năng tiếp cận, cập nhật những kiến thức mới. Công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ không được tiến hành thường xuyên, không có trọng tâm, trọng
điểm do thiếu kinh phí thực hiện.
3.3.2. Thực trạng thanh tra, giám sát bảo hiểm
1). Những ưu điểm
1. Đã hình thành hệ thống các văn bản pháp lý và tổ chức bộ máy độc lập cho hoạt động thanh tra giám sát bảo hiểm
Về hệ thống khung pháp lý
Hệ thống pháp lý điều chỉnh hoạt động thanh tra, giám sát bảo hiểm
bao gồm:
- Luật Kinh doanh bảo hiểm, trong đó có nội dung liên quan đến hoạt
động thanh tra, giám sát bảo hiểm;
- Luật Thanh tra và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật;
- Nghị định số 118/2003/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm.
Ngoài các văn bản qui phạm pháp luật trên, hoạt động thanh tra, giám
sát bảo hiểm còn bao gồm Luật Doanh nghiệp16 và các văn bản quy phạm
pháp luật hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp; Luật DNNN và các văn
bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật DNNN; Luật Đầu tư và các
văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư...
Tổ chức bộ máy
Theo Luật Kinh doanh Bảo hiểm, BTC là cơ quan quản lý chuyên
ngành và thực hiện nhiệm vụ thanh tra, giám sát hoạt động bảo hiểm. Trên
cơ sở tổ chức bộ máy và phân công chức năng nhiệm vụ giữa các đơn vị
thuộc BTC, đơn vị chịu trách nhiệm chính đối với hoạt động thanh tra, giám
sát bảo hiểm là Vụ Bảo hiểm và Thanh tra BTC.
- Vụ Bảo hiểm thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt
động kinh doanh bảo hiểm.
- Thanh tra BTC chịu trách nhiệm chính thanh tra, giám sát việc chấp
hành luật pháp, chế độ chính sách về bảo hiểm của các đối tượng thuộc
quyền quản lý của BTC.
196
2. Hoạt động thanh tra giám sát bảo hiểm đã được tiến hành thường xuyên, liên tục và đã đạt được những kết quả nhất định
Thanh tra tại chỗ
Để bảo đảm chấp hành nghiêm chỉnh chế độ, chính sách về tài chính,
an toàn hoạt động bảo hiểm và đảm bảo khả năng thanh toán trong trường
hợp phải bồi thường, đền bù tổn thất, nội dung thanh tra, giám sát bảo hiểm
hiện nay chủ yếu tập trung vào hai nội dung chính sau:
Một là thanh tra, giám sát việc chấp hành luật pháp, chế độ chính sách
về hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Hai là thanh tra, giám sát việc chấp hành chế độ chính sách về tài
chính, trong đó nổi bật là hoạt động giám sát năng lực tài chính và khả năng
thanh toán của các DNBH.
Trong đó giám sát thường xuyên tình hình tài chính và hoạt động của
các DNBH là nhiệm vụ quan trọng nhất để bảo đảm kịp thời phát hiện và xử
lý vi phạm trong lĩnh vực bảo hiểm. Tuy nhiên, hoạt động thanh tra tại chỗ
đối với các DNBH chủ yếu tập trung vào (i) việc chấp hành các chính sách,
qui định pháp luật trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm; (ii) thanh tra bất
thường khi phát hiện những dấu hiệu vi phạm pháp luật của DNBH.
Trên thực tế, Thanh tra BTC chủ yếu tiến hành thanh tra tại chỗ các
DNBH theo kế hoạch, chương trình hoặc khi phát hiện vụ việc xảy ra, thanh
tra theo đơn thư khiếu nại, tố cáo hoặc theo đề nghị của các cơ quan liên
quan.
Giám sát từ xa
Hoạt động giám sát từ xa chủ yếu do Vụ Bảo hiểm của BTC thực hiện
trên cơ sở hệ thống chỉ tiêu giám sát về tài chính và hoạt động đối với các
DNBH và các thông tin do các DNBH báo cáo định kỳ. Theo cơ chế giám sát
hiện hành, các DNBH có trách nhiệm tính toán các chỉ tiêu giám sát và gửi
cho BTC (1 lần/năm vào thời điểm nộp báo cáo tài chính năm) để thực hiện
phân tích, đánh giá tình hình và kết quả tài chính và hoạt động của các
DNBH (xem Hộp 1). Vụ Bảo hiểm tiến hành phân tích, đánh giá tình hình tài
chính, hoạt động; theo dõi việc chấp hành chính sách, pháp luật về bảo hiểm
của DNBH; giám sát các rủi ro, giới hạn an toàn hoạt động thông qua đó phát
hiện sớm những doanh nghiệp có nguy cơ mất khả năng thanh toán để có các
biện pháp khắc phục, xử lý, can thiệp kịp thời để bảo vệ quyền lợi của người
tham gia bảo hiểm và sự an toàn, lành mạnh của hệ thống bảo hiểm.
2). Hạn chế
1. Hệ thống pháp lý điều chỉnh hoạt động thanh tra, giám sát bảo hiểm còn những tồn tại
Hiệu lực thực thi pháp luật trong một số lĩnh vực hoạt động bảo hiểm
chưa cao.
197
Trong thời gian qua vấn đề trục lợi bảo hiểm đã và đang nổi lên là một
thách thức lớn đối với sự phát triển ngành bảo hiểm, nhưng về khía cạnh cơ
sở pháp lý, chế tài xử lý các hành vi trục lợi bảo hiểm còn thiếu và yếu.
Mục tiêu của giám sát bảo hiểm chưa rõ ràng.
Mục tiêu chung của giám sát bảo hiểm phải nhằm bảo vệ lợi ích của
người tham gia bảo hiểm, nhưng trên thực tế mục tiêu thanh tra của cơ quan
nhà nước lại không rõ là bảo vệ lợi ích của người tham gia bảo hiểm hay thúc
đẩy tăng trưởng của ngành, trong khi hai mục tiêu này trong nhiều trường
hợp mâu thuẫn nhau.
Chưa qui định rõ thẩm quyền của Bộ Tài chính trong việc thực hiện
thanh tra tại chỗ, giám sát từ xa với tư cách là cơ quan thực hiện thanh tra,
giám sát chuyên ngành bảo hiểm.
Chưa hình thành được hệ thống các biện pháp mang tính ngăn chặn và
điều chỉnh thích hợp, đặc biệt là các biện pháp ngăn chặn thông qua các qui
chế an toàn hoạt động kinh doanh, đầu tư và nghiệp vụ giám sát từ xa để cảnh
báo sớm những nguy cơ tiềm ẩn của các DNBH.
Chế tài giám sát và xử lý vi phạm thông qua giám sát chưa được xác
định rõ ràng.
2. Mô hình tổ chức bộ máy thanh tra, giám sát bảo hiểm còn một số bất cập sau:
So với các nguyên tắc cơ bản về bảo hiểm (ICPs) do Hiệp hội các
cơ quan giám sát bảo hiểm quốc tế, mô hình tổ chức giám sát bảo hiểm
hiện nay còn bất cập. Nhiệm vụ thanh tra, giám sát hoạt động bao hiểm
còn bị phân tán giữa Vụ Bảo hiểm và Thanh tra BTC, song chưa có cơ chế
phối hợp thích đáng và chia sẻ thông tin hữu hiệu. Thanh tra BTC (thực
hiện chức năng thanh tra bộ) và Vụ Bảo hiểm (chủ yếu thực hiện giám sát
tuân thủ) là các đơn vị nằm trong tổ chức bộ máy của BTC với quyền hạn,
tính độc lập, tự chủ trong việc thực thi nhiệm vụ giám sát và quản lý cán
bộ rất hạn chế, đồng thời còn thiếu thốn về nguồn nhân lực và hạ tầng
công nghệ kỹ thuật, cơ chế phối kết hợp hoạt động chưa rõ ràng, hiệu quả
không cao.
3. Hoạt động giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ đối với các DNBH
chưa có hiệu quả.
Chưa có khả năng cảnh báo các nguy cơ đối với các DNBH, đặc biệt
là rủi ro mất khả năng thanh toán, thanh khoản, rủi ro đầu tư và các rủi ro mất
vốn khác; Chưa có khả năng phát hiện, cảnh báo, ngăn chặn và xử lý các rủi
ro, vi phạm pháp luật để bảo đảm sự an toàn và lành mạnh của hoạt động bảo
hiểm.
198
Hệ thống giám sát bảo hiểm chưa thực sự trở thành công cụ hỗ trợ đắc
lực cho các hoạt động thanh tra, kiểm tra tại chỗ trong việc xác định trọng
tâm, trọng điểm các cuộc kiểm tra, thanh tra tại chỗ.
Hoạt động giám sát các DNBH chưa mang tính thường xuyên, liên
tục, các kết quả phân tích chưa đáng tin cậy, không được điều chỉnh theo kết
quả thanh tra tại chỗ nên chưa thể cảnh báo và dự báo rủi ro tương đối chính
xác đối với các DNBH và thị trường bảo hiểm;
Hiệu quả giám sát bị hạn chế nhiều do thiếu hệ thống các biện pháp
can thiệp, kể cả kế hoạch hành động giảm thiểu rủi ro khi phát hiện các dấu
hiệu rủi ro về tài chính và hoạt động của DNBH.
Nội dung và phương pháp thanh tra, giám sát chuyên ngành bảo hiểm
chưa được phát triển kịp với sự phát triển của thị trường bảo hiểm. Tính
chuyên nghiệp hay chuyên ngành về giám sát bảo hiểm chưa cao, chưa hình
thành được hệ thống nghiệp vụ (phương pháp, qui trình, thủ tục) giám sát bảo
hiểm hữu hiệu. Thanh tra tuân thủ pháp luật vẫn là trọng tâm;
Các qui định về kiểm toán và công bố thông tin đối với DNBH còn bất
cập. Các qui định về an toàn hoạt động, hệ thống quản trị rủi ro, kiểm soát nội
bộ, trích lập dự phòng rủi ro và các giới hạn an toàn hoạt động trong lĩnh vực
bảo hiểm chưa phù hợp và còn thiếu. Các qui định về quản trị doanh nghiệp
và các hệ thống kiểm soát nội bộ chưa được ban hành và các doanh nghiệp
chưa chú trọng áp dụng.
Hạ tầng hỗ trợ hệ thống giám sát yếu kém: Chất lượng thông tin, báo
cáo không có đủ độ tin cậy, thông tin không được kiểm toán. Hạ tầng công
nghệ thông tin và phương tiện hỗ trợ phân tích, dự báo chưa được xây dựng
hoàn chỉnh;
Năng lực của đội ngũ cán bộ thanh tra, giám sát, đặc biệt là về kỹ năng
phân tích và dự báo về tài chính, hoạt động và rủi ro trong kinh doanh bảo
hiểm còn nhiều hạn chế;
Hệ thống hướng dẫn tính toán các chỉ tiêu giám sát chưa hợp lý trong
khi đó hệ thống kế toán và chính sách quản lý tài chính của DNBH còn nhiều
bất cập.
3.3.3. Thực trạng thanh tra, giám sát chứng khoán
1). Những ưu điểm
1. Đã hình thành hệ thống các văn bản pháp lý và tổ chức bộ máy độc lập làm cơ sở cho hoạt động thanh tra chứng khoán
Về khung pháp lý
Văn bản pháp luật quan trọng nhất điều chỉnh công tác thanh tra, giám
sát chứng khoán hiện nay bao gồm:
199
- Nghị định số 144/2003/NĐ-CP của Chính phủ.
- Luật Chứng khoán đã được Quốc hội khoá XI thông qua tại kỳ họp
thứ 9 và có hiệu lực từ 1/1/2007.
- Nghị định số 161/2004/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực chứng khoán và TTCK.
Tổ chức bộ máy
Bộ máy làm nhiệm vụ thanh tra, giám sát chứng khoán chủ yếu bao
gồm:
Thanh tra UBCKNN là cơ quan thuộc hệ thống tổ chức Thanh tra
BTC, là tổ chức thuộc UBCKNN thực hiện chức năng thanh tra hành chính
và thanh tra chuyên ngành trong phạm vi quản lý nhà nước của UBCKNN
theo phân công của Bộ trưởng BTC.
Thanh tra Chứng khoán chủ yếu thực hiện thanh tra theo pháp luật
Thanh tra, không thực hiện hiện nhiệm vụ ban hành qui chế, cấp phép và
giám sát các thành viên thị trường và giao dịch trên TTCK tập trung. Thanh
tra Chứng khoán có quyền xử phạt vi phạm hành chính và kiến nghị cấp có
thẩm quyền xử lý các vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán.
Các Ban của UBCKNN chủ yếu làm nhiệm vụ giám sát hoạt động
chứng khoán, khi cần có thể phối hợp với Thanh tra Chứng khoán để thực
hiện thanh tra tại chỗ hoặc kiểm tra trực tiếp các đối tượng quản lý.
TTGDCK Hà Nội và TTGDCK thành phố Hồ Chí Minh là hai đơn vị
sự nghiệp trực thuộc UBCKNN tham gia giám sát hoạt động liên quan đến
công bố thông tin, phát hành, niêm yết và giao dịch các chứng khoán niêm
yết, đăng ký giao dịch tại TTGDCK, tuy nhiên các Trung tâm này không có
thẩm quyền xử phạt mà chỉ có quyền kiến nghị biện pháp xử lý vi phạm.
2. Hoạt động thanh tra, giám sát chứng khoán đã được tăng cường và củng cố, năng lực hoạt động được nâng cao
Thanh tra tại chỗ
Công tác thanh tra, kiểm tra tại chỗ các CTCK, công ty quản lý quĩ,
ngân hàng giám sát và các đối tượng chịu sự thanh tra của UBCKNN được
tiến hành định kỳ hàng năm hoặc bất thường khi có vụ việc nghiêm trọng,
phức tạp xảy ra cần phải điều tra, làm rõ.
UBCKNN đã ban hành các qui định về qui trình và kỹ thuật thanh tra
CTCK, tổ chức niêm yết và các hành vi vi phạm giao dịch chứng khoán trên
TTCK.
Hoạt động thanh tra Chứng khoán trong thời gian vừa qua chủ yếu tập
trung vào vấn đề tuân thủ các qui định của pháp luật của các tổ chức tham gia
thị trường, đặc biệt là vấn đề công bố thông tin của các công ty niêm yết.
200
Thông qua các cuộc thanh tra tại chỗ, Thanh tra Chứng khoán đã đưa
ra nhiều kiến nghị, đề xuất sửa đổi, bổ sung các qui định, chính sách về
TTCK và kiến nghị các tổ chức bị thanh tra chỉnh sửa các chính sách quản lý
nội bộ, khắc phục các sai phạm để giúp các tổ chức này chấp hành đúng các
qui định của pháp luật và bảo đảm đảm an toàn hoạt động. Hoạt động thanh
tra tại chỗ giúp cho các nhà quản lý đánh giá được mức độ phát triển của thị
trường, rà soát lại các cơ chế, chính sách về quản lý, phát triển TTCK. Đồng
thời, kết quả thanh tra diện rộng góp phần giúp Thanh tra Chứng khoán xác
định và xử lý các hành vi vi phạm phổ biến trên TTCK.
Những vi phạm pháp luật trên TTCK do Thanh tra Chứng khoán phát
hiện, xử lý theo đề nghị đều được giải quyết theo đúng quy định pháp luật.
Hình thức xử lý vi phạm đã được áp dụng gồm phạt tiền hoặc cảnh cáo, trong
đó các biện pháp giáo dục và ngăn chặn được coi trọng. Hầu hết, kết quả xử
lý các vụ việc của Thanh tra Chứng khoán được công khai trên TTCK.
Giám sát từ xa
Hệ thống giám sát thị trường có ý nghĩa rất quan trọng, hướng tới giám
sát việc tuân thủ pháp luật của tất cả các đối tượng, chủ thể tham gia vào các
hoạt động giao dịch chứng khoán, phát hành, niêm yết, kinh doanh và cung
cấp dịch vụ chứng khoán trên TTCK.
UBCKNN thông qua các đơn vị chức năng của mình tiến hành các
hoạt động giám sát từ xa đối với các đối tượng chịu sự quản lý, giám sát của
UBCKNN trên cơ sở các thông tin, báo cáo, thông tin công bố của các đối
tượng bị giám sát và một hệ thống các chỉ tiêu giám sát về tài chính, hoạt
động. Trong thời gian qua hoạt động giám sát TTCK tập trung vào một số nội
dung cơ bản sau:
- Giám sát công ty quản lý quĩ, ngân hàng giám sát tài sản quỹ và quĩ
đầu tư chứng khoán
- Giám sát các CTCK
- Giám sát các tổ chức phát hành chứng khoán ra công chúng
- Giám sát các thành viên lưu ký và TTGDCK, TTLKCK.
2). Những tồn tại, bất cập của hoạt động thanh tra, giám sát chứng khoán
1. Hệ thống văn bản pháp lý điều chính hoạt động thanh tra chứng khoán chưa hoàn chỉnh
Hệ thống pháp lý điều chỉnh công tác thanh tra, giám sát chứng khoán
rất rộng, điều chỉnh nhiều đối tượng khác nhau trong nền kinh tế, song hệ
thống pháp luật về chứng khoán và thanh tra, giám sát chứng khoán chậm
được hệ thống hoá bằng một bộ luật chuyên ngành chứng khoán.
Hệ thống pháp luật thanh tra, giám sát chứng khoán có hiệu lực pháp
lý và tính răn đe chưa cao; chưa bảo đảm cho cơ quan giám sát chứng khoán
201
có vị thế độc lập tương đối và quyền tự chủ về hoạt động cũng như thẩm
quyền thực thi nhiệm vụ một cách thoả đáng. Thanh tra UBCKNN (Thanh
tra Chứng khoán) là đơn vị thuộc UBCKNN của BTC có vị thế tương đương
với một ban trong tổ chức bộ máy của UBCKNN, vì vậy mọi nguồn lực tài
chính và công tác cán bộ chịu sự chi phối của BTC. Chấp hành chế độ thông
tin báo cáo là yêu cầu quan trọng đối với hoạt động của TTCK, song theo
Nghị định số 161/2004 ngày 7/9/2004 thì hành vi vi phạm chế độ báo cáo chỉ
bị cảnh cáo hoặc bị phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng.
2. Tổ chức bộ máy thanh tra, giám sát chứng khoán còn bất cập
Sự phối hợp giữa các cơ quan giám sát tài chính còn chưa chặt chẽ dẫn
đến các doanh nghiệp niêm yết chịu quá nhiều sự thanh tra, giám sát. Các cơ
quan giám sát tài chính chưa kế thừa, sử dụng thông tin, kết quả thanh tra,
giám sát của nhau do thiếu sự tin cậy nhau và sự phân chia thẩm quyền thanh
tra, giám sát đối với mỗi khu vực hoạt động tài chính theo sự phân công để
bảo đảm quyền lực quản lý và sự ảnh hưởng của mỗi cơ quan giám sát tài
chính.
Có rất nhiều đơn vị của UBCKNN cùng tham gia vào hoạt động thanh
tra, giám sát chứng khoán nhưng trách nhiệm không được xác định rõ ràng,
cơ chế phối hợp giữa các đơn vị cùng tham gia vào hoạt động thanh tra, giám
sát chứng khoán chưa thực sự hiệu quả, thậm chí giữa các cơ quan giám sát
tài chính có liên quan và tính chuyên môn hoá trong hoạt động thanh tra,
giám sát chứng khoán chưa cao. Thanh tra Chứng khoán không có nhiệm vụ
ban hành qui chế và cấp, thu hồi giấy phép.
3. Hệ thống thanh tra, giám sát chứng khoán còn nhiều hạn chế về khả năng phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi và các giao dịch bất hợp pháp trên thị trường và các rủi ro tiềm ẩn để có biện pháp can thiệp thị trường một cách hợp lý
Chưa có khả năng giám sát bao quát toàn bộ TTCK, một bộ phận lớn
cổ phiếu chưa niêm yết chưa có cơ chế giám sát hợp lý. Một số lớn doanh
nghiệp có các hoạt động chứng khoán nhưng không chịu sự thanh tra, giám
sát của UBCKNN, đặc biệt đối với các công ty cổ phần chưa tham gia niêm
yết hoặc đăng ký giao dịch trên các TTGDCK. Các công ty, doanh nghiệp cổ
phần này không chịu sự điều chỉnh của các qui định về giao dịch chứng
khoán và công bố thông tin như các doanh nghiệp niêm yết. Gần đây "cơn
sốt" cổ phiếu ngân hàng đã đẩy giá cổ phiếu của các NHTM cổ phần lên cao
trung bình gấp 3-5 lần, vượt qua giá trị thực của các ngân hàng. Điều này
ngoài tầm thanh tra, giám sát của UBCKNN, ngoài những khuyến cáo đối
với công chúng đầu tư thận trọng và phối hợp với NHNN đặt ra những qui
định về công bố thông tin, minh bạch hoá để bảo vệ nhà đầu tư và hoạt động
của TTCK.
Thanh tra tuân thủ hay thanh tra tại chỗ hoạt động chứng khoán là
phương thức thanh tra chủ yếu của Thanh tra Chứng khoán đối với các dấu
202
hiệu vi phạm. Tuy nhiên, Thanh tra Chứng khoán còn yếu trong việc thanh
tra các giao dịch nội gián, lũng đoạn thị trường do mức độ phát triển thị
trường cũng như trình độ nghiệp vụ của cán bộ thanh tra còn hạn chế.
Thanh tra tuân thủ pháp luật còn chưa có hiệu quả cao do hệ thống
văn bản qui pháp pháp luật về chứng khoán và TTCK chưa hoàn thiện và
chưa được tuyên truyền, quán triệt đầy đủ và toàn diện đến các thành viên
của thị trường;
Công tác thanh tra định kỳ chưa được tiến hành thường xuyên, liên tục
cả về bề rộng và chiều sâu đối với tất cả các lĩnh vực của thị trường do hạn
chế về nguồn lực, đặc biệt là chất lượng và qui mô nguồn nhân lực của Thanh
tra Chứng khoán, vì vậy kết quả thanh tra tại chỗ chưa có khả năng đánh giá
toàn diện hoạt động thị trường để phục vụ cho công tác quản lý và phát triển
TTCK.
Do tách bạch giữa thanh tra tại chỗ và giám sát từ xa đối với hoạt động
của TTCK, vì vậy thanh tra tại chỗ và giám sát từ xa chưa có sự phối hợp
chặt chẽ để giúp cho UBCKNN kiểm soát và có biện pháp can thiệp một
cách hữu hiệu đối với hoạt động của TTCK.
Thanh tra Chứng khoán không thực hiện giám sát thường xuyên các
hoạt động chứng khoán (chủ yếu xử lý các vụ việc phát sinh phát hiện quan
giám sát do các Ban và TTGDCK chuyển sang) và có quyền lực hạn chế
trong quá trình giám sát từ xa. Thanh tra Chứng khoán thực hiện nhiệm vụ
thanh tra tại chỗ như là một đơn vị có chức năng thực thi và xử lý.
Hệ thống các qui chế an toàn, thận trọng trong kinh doanh chứng
khoán chưa được ban hành đồng bộ, thiếu các qui định thống nhất về quản trị
điều hành, hệ thống quản trị rủi ro hợp lý trong các CTCK, công ty quản lý
quĩ;
Hệ thống công cụ giám sát TTCK còn hết sức thô sơ, hệ thống chỉ tiêu
giám sát TTCK chưa được hoàn chỉnh, mới xây dựng được đối với CTCK và
công ty quản lý quĩ; chưa có hệ thống cảnh báo sớm thị trường và giám sát vĩ
mô đối với khu vực TTCK trong mối liên kết với các khu vực còn lại của nền
kinh tế; kiểm toán mới được sử dụng để tăng cường tính minh bạch thị
trường song chưa có ý nghĩa thiết thực trong việc hỗ trợ giám sát rủi ro và
hoạt động cho Thanh tra Chứng khoán và TTGDCK.
Lực lượng cán bộ thanh tra, giám sát chứng khoán còn hạn chế cả về
số lượng và về chuyên môn nghiệp vụ chứng khoán và TTCK.
Hạ tầng công nghệ và dịch vụ hỗ trợ giám sát như IT, hệ thống thông
tin báo cáo, hệ thống kế toán, hệ thống phần mềm phân tích, dự báo, các tổ
chức định mức tín dụng, kiểm toán,... hỗ trợ cho hoạt động giám sát TTCK
còn thiếu hoặc đã có nhưng còn nhiều bất cập so với yêu cầu giám sát hữu
hiệu TTCK. Thực tế, UBCKNN chưa thiết lập được hệ thống công cụ và
203
phương tiện giám sát tiên tiến dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, phù hợp
với thông lệ quốc tế.
3.3.4. Đánh giá sự phối hợp giữa các cơ quan thanh tra, giám sát tài
chính
1). Những mặt tích cực
Về khung pháp lý cho sự phối hợp giữa thanh tra, giám sát ngân hàng, bảo hiểm và chứng khoán
Luật Thanh tra không qui định cụ thể mối quan hệ phối hợp giữa các
cơ quan thanh tra, giám sát khu vực tài chính, ngoại trừ trách nhiệm của các
cơ quan thanh tra phải chuyển hồ sơ các vụ việc vi phạm pháp luật sang cơ
quan điều tra khi phát hiện thấy dấu hiệu tội phạm của đối tượng bị thanh tra,
đồng thời thông báo bằng văn bản cho Viện Kiểm sát cùng cấp biết (Điều 42
Luật Thanh tra).
Tuy nhiên, Chính phủ có một số qui định về sự phối hợp giữa các cơ
quan thanh tra, giám sát chuyên ngành tài chính trong các hoạt động thanh
tra, giám sát tài chính và phòng, chống rửa tiền như các Nghị định số
191/1999/NĐ-CP ngày 4/9/1999, 42/2001/NĐ-CP ngày 1/8/2001,
74/2005/NĐ-CP ngày 7/6/2005. Đặc biệt là, Nghị định số 191/1999/NĐ-CP
dành riêng một chương với 4 điều khoản qui định về mối quan hệ giữa
TTNH với các cơ quan liên quan. Theo qui định hiện hành, các cơ quan
thanh tra, giám sát tài chính có nghĩa vụ:
Đối với TTNH, trong quá trình thanh tra tổ chức và hoạt động ngân
hàng của TCTD và hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác, nếu phát hiện
có dấu hiệu vi phạm pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ hoặc cơ quan, đơn vị địa phương
nào đó thì TTNH có trách nhiệm thông báo cho Thanh tra Bộ, cơ quan ngang
Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ hoặc của cơ quan và địa phương đó. (Điều 20
của Nghị định số 191/1999/NĐ-CP)
Cơ quan Thanh tra Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
và các tổ chức Thanh tra Nhà nước ở địa phương khi thực hiện thanh tra,
kiểm tra các hoạt động thuộc lĩnh vực quản lý quản lý nhà nước của mình,
nếu phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân
hàng thì cơ quan thanh tra đó có trách nhiệm thông báo cho TTNH. (Điều 20
của Nghị định số 191/1999/NĐ-CP)
Trong quá trình thanh tra, kiểm tra, nếu phát hiện ra vi phạm có dấu
hiệu tội phạm thì cơ quan thanh tra phải chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra có
thẩm quyền, đồng thời thông báo cho cơ quan thanh tra có liên quan.
Các cơ quan thanh tra, giám sát trong khu vực tài chính có trách nhiệm
phối hợp với nhau trong kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về ngân
hàng, chứng khoán và bảo hiểm; đấu tranh phòng, chống tội phạm; giải quyết
204
khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động ngân hàng,
chứng khoán và bảo hiểm.
Các cơ quan thanh tra của BTC có trách nhiệm cung cấp cho Trung
tâm thông tin phòng, chống rửa tiền (hiện nay đang thuộc TTNH) về các giao
dịch phải báo cáo và các giao dịch đáng ngờ theo qui định của pháp luật về
phòng, chống rửa tiền.
Theo đề nghị của Trung tâm Thông tin phòng, chống rửa tiền, các cơ
quan thanh tra của BTC có trách nhiệm tổ chức thanh tra, kiểm tra đối với các
đơn vị thuộc đối tượng quản lý BTC mà có giao dịch tài chính liên quan đến
rửa tiền.
Như vậy, các qui định pháp luật về hình thức, cơ chế phối hợp hoạt
động thanh tra, giám sát giữa các cơ quan giám sát tài chính hiện nay không
rõ ràng, cụ thể. Trên thực tế hiệu lực và hiệu quả thực thi các qui định này
còn hạn chế. Quan trọng hơn là cơ chế về thông tin, báo cáo thường xuyên
giữa các cơ quan giám sát tài chính theo qui định tại các luật, văn bản của
Chính phủ và các Bộ, ngành không được qui định một cách cụ thể, rõ ràng.
Về cơ chế thực thi sự phối hợp giữa cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng, các cơ quan thanh tra, giám sát tài chính phi ngân hàng
Cùng với sự phát triển của TTTC, đặc biệt là sự đan xen giữa các hoạt
động ngân hàng và hoạt động tài chính phi ngân hàng, không ít NHTM tham
gia cung cấp các dịch vụ bảo hiểm và chứng khoán, các cơ quan giám sát tài
chính cũng đã có sự phối hợp được thể hiện trên các mặt sau:
Các cơ quan thanh tra, giám sát của BTC tiến hành giám sát các hoạt
động kinh doanh chứng khoán và bảo hiểm của các NHTM (các CTCK và
công ty bảo hiểm do NHTM thành lập) theo qui định của pháp luật. TTNH
thực hiện thanh tra, giám sát các hoạt động ngân hàng do các TCTD tiến
hành theo phân cấp thẩm quyền.
Trong quá trình thanh tra tổ chức và hoạt động của TCTD và hoạt
động ngân hàng của tổ chức khác, nếu phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp
luật thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của BTC thì TTNH thông báo cho
Thanh tra Bộ và BTC. Ngược lại, cơ quan Thanh tra Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ và các tổ chức Thanh tra Nhà nước ở địa phương khi thực hiện
thanh tra, kiểm tra các hoạt động thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của mình,
nếu phát hiện các dấu hiệu vi phạm pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân
hàng thì tổ chức thanh tra đó có trách nhiệm thông báo cho TTNH; nếu
những vi phạm đó có dấu hiệu cấu thành tội phạm thì phải chuyển hồ sơ cho
cơ quan điều tra có thẩm quyền, đồng thời thông báo cho TTNH.
TTNH và cơ quan Thanh tra của BTC có sự phối hợp với các cơ quan
điều tra, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Toà án nhân dân các cấp trong
việc đấu tranh phòng chống tội phạm theo qui định của pháp luật. Không ít
205
các vụ việc vi phạm pháp luật đã được TTNH và cơ quan Thanh tra của BTC
chuyển hồ sơ cho cơ quan bảo vệ pháp luật để xử lý và thu hồi tài sản cho
Nhà nước. Các cơ quan điều tra khi tiến hành các nhiệm vụ thường phối hợp
với TTNH và cơ quan thanh tra của BTC để xác minh về mặt chuyên môn
nghiệp vụ và yêu cầu hỗ trợ thông tin cho quá trình điều tra và xét xử. Nhiều
vụ việc vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tài chính, đặc biệt là hoạt động ngân
hàng do cơ quan bảo vệ pháp luật phát hiện ra đã có sự phối hợp chặt chẽ của
các cơ quan thanh tra chuyên ngành tài chính để làm rõ.
2). Một số hạn chế về sự phối hợp giữa BTC và NHNN trong việc quản lý, giám sát TTTC nói chung
Cơ chế cung cấp và chia sẻ thông tin giữa BTC và NHNN còn nhiều bất cập.
Hiện nay, giữa NHNN và BTC chưa hình thành được cơ sở dữ liệu
tài chính tập trung, thống nhất mà các cơ quan giám sát tài chính có thể
truy cập, tham chiếu trong quá trình thanh tra, giám sát hoạt động tài
chính. Chưa có cơ chế trao đổi thông tin, báo cáo thường xuyên giữa
TTNH và cơ quan thanh tra của BTC. Kết quả thanh tra, giám sát hoặc các
báo cáo giám sát trạng thái rủi ro của của các định chế tài chính, các kết
luận thanh tra không được cung cấp, chia sẻ lẫn nhau giữa các cơ quan
giám sát tài chính. Điều này khiến cho việc xác định, đánh giá rủi ro các
định chế tài chính khó chính xác, đặc biệt khi qui mô và phạm vi hoạt
động của các định chế tài chính lớn, thậm chí có trường hợp các cơ quan
giám sát tài chính khác nhau đưa ra các kết luận không thống nhất với
nhau về cùng một vấn đề. Mặt khác, điều này cũng dẫn đến làm tăng chi
phí cho các cuộc thanh tra, giám sát và đôi khi gây cản trở cho hoạt động
của các định chế tài chính do nhiều cơ quan giám sát tài chính tiến hành
đồng thời, đặc biệt là tạo gánh nặng về thống kê, báo cáo đối với các tổ
chức chịu sự thanh tra, giám sát. Có nghĩa là, cơ chế thanh tra, giám sát tài
chính hợp nhất chưa thể triển khai do thiếu cơ chế trao đổi thông tin, báo
cáo hữu hiệu giữa các cơ quan thanh tra, giám sát của NHNN và BTC.
Sự phối hợp giữa BTC và NHNN trong quá trình xây dựng các chính sách, cơ chế quản lý, giám sát TTTC thiếu chặt chẽ.
Hầu hết những phối hợp của NHNN và BTC về mặt chính sách, qui
định quản lý, giám sát TTTC khi những chính sách và qui định đó thuộc
thẩm quyền ban hành của Chính phủ hoặc theo qui định của pháp luật phải
lấy ý kiến của các bên liên quan. Các qui định, chính sách thuộc thẩm quyền
ban hành của NHNN và BTC thông thường thiếu sự phối hợp cần thiết. Điều
này tạo ra những kẽ hở và bất cập trong quản lý, giám sát TTTC, chẳng hạn
theo Luật kinh doanh bảo hiểm, các DNBH được phép cấp tín dụng cho nền
kinh tế, song NHNN không có qui định hướng dẫn cụ thể về hoạt động tín
dụng, quản lý rủi ro, phân loại nợ và trích lập dự phòng của các DNBH. Các
NHTM cổ phần là những đối tượng cũng cần sự giám sát chặt chẽ của
206
UBCKNN vì các giao dịch cổ phiếu của các ngân hàng này trên TTCK phi
tập trung khá sôi động, song UBCKNN hầu như là đứng ngoài cuộc trong
việc giám sát các NHTM cổ phần. Để bảo vệ các nhà đầu tư, NHNN cũng
mới chỉ dừng lại trong việc yêu cầu minh bạch hoá tài chính và hoạt động của
các NHTM cổ phần.
Chưa hình thành được một hệ thống các biện pháp nghiệp vụ thanh tra, giám sát dựa trên cơ sở rủi ro và hợp nhất để bảo đảm giám sát được toàn bộ TTTC.
Các biện pháp giám sát của cơ quan thanh tra, giám sát của BTC chưa
mang tính liên tục (thường là hàng năm, trừ giám sát các giao dịch chứng
khoán được tiến hành hàng ngày), song các biện pháp do TTNH tiến hành
đối với các TCTD được tiến hành một cách thường xuyên và liên tục hơn
(định kỳ hàng tháng, quí, năm). Chưa xây dựng được hệ thống cảnh báo rủi
ro đối với từng khu vực thị trường cũng như là toàn bộ TTTC, đặc biệt là
thiếu sự giám sát cẩn trọng vĩ mô. Hệ thống các chuẩn mực về tài chính, mức
độ an toàn và lành mạnh đối với các khu vực các TCTD và tổ chức tài chính
phi TCTD chưa được ban hành hoặc đã có nhưng chưa phản ánh hợp lý mức
độ rủi ro thực của các định chế tài chính. NHNN và BTC rất hiếm khi phối
hợp tổ chức các cuộc thanh tra tại chỗ đối với các định chế tài chính nhà
nước. Nếu có thì chủ yếu đó là các cuộc kiểm tra, đánh giá tình trạng tài
chính để phục vụ cho các mục tiêu xử lý nợ, tăng vốn điều lệ.
Các nhiệm vụ thanh tra, giám sát TTTC bị chia cắt về mặt ranh giới hành chính.
Theo chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực,
hiện nay thanh tra, giám sát TTTC ở Việt Nam chủ yếu do BTC và NHNN
thực hiện. Trong đó, BTC thực hiện thanh tra, giám sát hoạt động chứng
khoán và bảo hiểm; NHNN thực hiện thanh tra, giám sát hoạt động tiền tệ,
ngân hàng. Điều này khiến cho sự phối hợp thiếu chặt chẽ trong việc phát
hiện và xử lý các rủi ro hoạt động của TTTC, đặc biệt khi mà các sản phẩm
dịch vụ tài chính mới, chẳng hạn các sản phẩm phái sinh quản lý vốn, quản lý
danh mục đầu tư, uỷ thác đầu tư, cho vay đầu tư chứng khoán, phát hành
chứng khoán huy động vốn,... phát triển mạnh thì rất khó xác định được trách
nhiệm quản lý, giám sát thuộc về cơ quan nào. Trên thực tế, sự thiếu tính độc
lập của các cơ quan giám sát tài chính, sự phân chia gianh giới quản lý nhà
nước và các cơ quan thanh tra, giám sát tài chính với tư cách là đơn vị trong
tổ chức bộ máy của NHNN và BTC đã dẫn đến hầu hết các cơ quan thanh
tra, giám sát tài chính khi tiến hành các hoạt động thanh tra, giám sát đều giới
hạn rõ ràng phạm vi, đối tượng tiến hành trong khuôn khổ thẩm quyền của
mình. Vì vậy, một số rủi ro và hoạt động tài chính phái sinh giữa hoạt động
ngân hàng và tài chính phi ngân hàng không được giám sát chặt chẽ hoặc bị
bỏ qua, chẳng hạn kinh doanh bất động sản, kinh doanh vàng, hoạt động ngân
hàng của các tổ chức không phải là TCTD.
207
Sự phối hợp chưa chặt chẽ về đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ thanh tra và chia xẻ kinh nghiệm, hiểu biết về chuyên môn, nghiệp vụ giữa các TTNH và cơ quan thanh tra của BTC.
TTNH và các cơ quan thanh tra, giám sát của BTC đều là những đơn
vị thuộc bộ máy tổ chức của NHNN và BTC (thiếu tính độc lập và hạn chế về
quyền lực), vì vậy rất khó bảo đảm cho việc chủ động phối hợp đào tạo và
chia xẻ kinh nghiệm nghiệp vụ giữa các cơ quan này.
Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan thanh tra, giám sát tài chính và giữa cơ quan giám sát tài chính với các cơ quan bảo vệ pháp luật chưa rõ ràng dẫn đến sự chồng chéo, trùng lắp về hoạt động, gây ảnh hưởng đến các hoạt động tài chính của các tổ chức tài chính.
Hiện tượng hình sự hoá quan hệ kinh tế trong lĩnh vực tài chính diễn ra
tương đối phổ biến khiến cho tâm lý e ngại minh bạch hoá các giao dịch tài
chính. Trên thực tế, cơ quan công an giám sát toàn diện các hoạt động tài
chính và có quyền can thiệp vào bất cứ vi phạm nào. Sự can thiệp không
đúng lúc của cơ quan bảo vệ pháp luật và sự thiếu sự phối hợp chặt chẽ với
cơ quan giám sát chuyên ngành tài chính, cùng với đó là sự đưa tin thiếu
khách quan và không chính xác của báo chí có thể làm phương hại nghiêm
trọng đến uy tín của TCTD và lòng tin của công chúng đối với hệ thống tài
chính. Tuy nhiên, cũng có nhiều vụ việc vi phạm trong lĩnh vực tài chính
không phải do cơ quan giám sát tài chính phát hiện mà lại là do cơ quan công
an phát hiện ra, đồng thời quá trình xử lý cũng rất phức tạp do sự không
thống nhất về quan điểm chuyên môn nghiệp vụ và trách nhiệm hình sự giữa
cơ quan thanh tra tài chính và cơ quan công an. Tình trạng này nảy sinh một
phần do thiếu sự rõ ràng về thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan giám
sát tài chính và cơ quan bảo vệ pháp luật, đặc biệt là quyền lực của các cơ
quan giám sát chuyên ngành chưa được bảo đảm.
208
Phần 3. MỤC TIÊU ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI
PHÁP ĐỔI MỚI CSTC, TIỀN TỆ
GIAI ĐOẠN 2006-2010
209
Chương 1. NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ MỤC TIÊU ĐỊNH
HƯỚNG HOẠT ĐỘNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006-2010
1.1. NHỮNG XU HƯỚNG VÀ ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ
TRONG NƯỚC ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG TÀI
CHÍNH, TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN 2006-2010
1.1.1. Xu hướng và đặc điểm kinh tế thế giới giai đoạn 2006-2010
Trong thập kỷ 2001-2010 kinh tế thế giới nẩy sinh những đặc điểm và
xu hướng chủ yếu có tác động và ảnh hưởng đến hoạt động tài chính, tiền tệ
Việt Nam như sau:
1). Kinh tế thế giới sau khi đạt tốc độ tăng trưởng cao trong giai đoạn 2001-2005 đã rơi vào thời kỳ suy thoái nặng nề bởi khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008
Giai đoạn 2001-2005 kinh tế thế giới trải qua một thời kỳ phát triển
đầy biến động và mất cân bằng do những thay đổi lớn như giá dầu tăng
nhanh đến mức kỷ lục, kinh tế Mỹ bị thâm hụt kép, đồng USD mất giá gây ra
những xáo trộn lớn trên thị trường ngoại hối toàn cầu... Tuy vậy, kinh tế thế
giới giai đoạn 2001-2005 đồng loạt phục hồi và đạt tốc độ tăng trưởng tương
đối cao.
Bảng 66 - Tăng trưởng kinh tế thế giới giai đoạn 2001-2005 (%)
Năm 2001 2002 2003 2004 2005
Thế giới 2,4 2,9 4,0 5,3 4,3
Nguồn: Tổng hợp
Giai đoạn 2001-2005 kinh tế thế giới đạt tốc độ tăng trưởng bình quân
khoảng 3,8%/năm, trong đó năm 2005 kinh tế thế giới đạt tốc độ tăng trưởng
cao nhất trong vòng 20 năm qua - 5,3%. Trong quá trình phục hồi và tăng
trưởng kinh tế nói trên, Mỹ vẫn là nước đi đầu: tăng từ mức 0,3% năm 2001
lên 3,9% năm 2004. Bên cạnh Mỹ, Trung Quốc đã nổi lên như một động lực
thứ hai thúc đẩy sự phục hồi của nền kinh tế thế giới với tốc độ tăng trưởng từ
7,5% năm 2001 lên đến 10,1% năm 2005.
Bước vào giai đoạn 2006-2010, đặc biệt trong những năm 2007-2008
kinh tế thế giới bước sang giai đoạn suy giảm tốc độ tăng trưởng và suy thoái
nặng nề do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Nguyên nhân
sâu sa của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu chính là sự phát triển kinh tế
các nước trong trạng thái không bền vững, mất cân đối; sự bấp bênh của
chính sách tiền tệ, mức lạm phát cao lan rộng ra toàn cầu làm ảnh hưởng đến
sự tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. Nguyên nhân trực tiếp là khủng
hoảng trong mảng cho vay thế chấp trên thị trường bất động sản Mỹ trong bối
cảnh phát triển quá nóng của nghiệp vụ chứng khoán hóa. Cuộc khủng hoảng
210
này được ví như cơn sóng thần tàn phá hệ thống kinh tế thế giới, đưa các nền
kinh tế lớn rơi vào suy thoái sớm nhất và nặng nề nhất.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu giảm từ 5% trong năm 2007
xuống còn 3,7% trong năm 2008 do tiêu dùng và đầu tư tại các nước phát
triển giảm mạnh. Sự trì trệ của kinh tế thế giới thể hiện rõ ràng nhất tại Mỹ,
các nước Châu Âu và Nhật Bản.
Nền kinh tế Mỹ, trong quý I và II/2008 vẫn còn tăng trưởng ở mức
0,9% và 2,8%. Sang quý III/2008, do những đổ vỡ trên thị trường tài chính,
các hoạt động tín dụng bị thắt chặt. Nhiều công ty lâm vào tình trạng thiếu
vốn cho đầu tư và sản xuất kinh doanh dẫn đến thua lỗ, thậm chí phá sản
khiến GDP của Mỹ quý 4/2008 giảm 6,2%. Mức đi xuống này vượt mọi dự
đoán của các chuyên gia kinh tế và là mức cao nhất kể từ năm 1982.
Khu vực đồng euro sau khi tăng trưởng 0,7% trong quý I/2008, đã rơi
vào suy thoái khi tăng trưởng âm 0,2% trong 2 quý tiếp theo. Tồi tệ hơn,
GDP quý IV của khu vực này giảm tới 1,3% so với quý trước và là mức giảm
mạnh nhất trong vòng 13 năm. Nguyên nhân của sự sụt giảm này là do sự
tăng giá của đồng euro cũng như giá năng lượng và chi phí tăng cao.
Các nền kinh tế châu Á cũng giảm mạnh mức tăng trưởng, đạt 6,9% so
với mức 9% của năm 2007. Nền kinh tế Nhật Bản lún sâu vào suy thoái, bất
chấp những nỗ lực cứu trợ của Chính phủ nước này, tăng trưởng kinh tế chỉ
đạt 0,69%, giảm mạnh so với mức 2,08% của năm 2007. Những nguyên
nhân chính là sư suy giam xuất khẩu; giam nhu cầu trong nước; đầu tư của tư
nhân vào khu vực địa ốc giảm do Chính phủ Nhật Bản thắt chặt các tiêu
chuẩn xây dựng. Đây là lần đầu tiên sau 7 năm qua, người Nhật lại hứng chịu
cảnh suy thoái. Kinh tế Trung Quốc chỉ tăng trưởng 9%, mức thấp nhất trong
vòng 7 năm trở lại đây.
Khu vực Mỹ - La tinh cũng bị ảnh hưởng nặng nề bởi suy thoái toàn
cầu, trong năm 2008 chỉ tăng trưởng 4,5% so với mức 5,6% của năm 2007.
Bắt đầu từ quý 2/2008, các nền kinh tế hùng mạnh nhất thế giới (Mỹ,
Nhật, Đức, Pháp, Ý, Anh và Canada) đã rơi vào suy thoái khi các chỉ số kinh
tế và nhất là GDP giảm trong hai quý liên tiếp. Đối với nhiều nước khác, mặc
dù không tuyên bố rơi vào suy thoái nhưng các nền kinh tế năng động, từng
được coi là phao cứu sinh của thế giới như Trung Quốc, Ấn Độ… cũng đã bị
bao trùm bởi bóng đen suy giảm kinh tế: tăng trưởng giảm mạnh, thị trường
xuất khẩu bị thu hẹp cả về lượng và giá, thất nghiệp gia tăng... Suy thoái hoặc
suy giảm kinh tế đã gây ra những tác động tiêu cực đối với tất cả các nền kinh
tế trên thế giới và để lại những hậu quả chưa biết tới bao giờ mới có thể khắc
phục được. Hàng triệu người lao động đã, đang và sẽ lâm vào cảnh mất việc
làm, bất ổn xã hội gia tăng. Tuy vậy, mức độ tác động có lẽ cũng không đến
nỗi quá tồi tệ như những hậu quả của cuộc Đại khủng hoảng 1929-1933.
211
Như vậy, trong điều kiện tăng trưởng kinh tế thế giới bị chậm lại, thậm
chí nhiều quốc gia có quy mô kinh tế lớn bị tăng trưởng âm đã đưa đến hậu
quả tiêu cực đối với kinh tế Việt Nam, làm tốc độ tăng trưởng kinh tế của
nước ta sụt giảm nhanh so với những năm trước.
Do đó, đối với Việt Nam để duy trì tăng trưởng bền vững thì bên cạnh
việc ổn định kinh tế vĩ mô, yêu cầu có tính cấp bách là phải đổi mới CSTK,
CSTT, sử dụng các chính sách một cách hữu hiệu để duy trì, ổn định mọi
hoạt động kinh tế-xã hội và nhanh chóng đưa nền kinh tế nước ta thoát khỏi
khủng hoảng, suy thoái.
2). Sự gia tăng của giá cả và lạm phát ngày càng cao đang đặt các quốc gia phải đối mặt với nhiều thách thức cần phải ứng phó
Trong giai đoạn 2003-2007, tổng GDP thế giới đã tăng 5% mỗi
năm, nhanh hơn mọi thời kỳ trước đó và lạm phát duy trì dưới 4%. Đi
kèm với tăng trưởng là tăng nhu cầu lao động, thực phẩm và năng lượng.
Và gần đây, lần đầu tiên sau 35 năm, thế giới đang đối mặt với lạm phát
đồng loạt và nghiêm trọng.
Vào cuối năm 2007, giá dầu mỏ có lúc đã chạm mức 100 USD/thùng,
gần gấp đôi mức giá đầu năm. Sang đến quý II/2008, giá dầu thô luôn đứng ở
mức cao, nhiều phiên đã xấp xỉ 140 USD/thùng. Bên cạnh đó, giá nhiều
nhóm hàng hóa cơ bản đã tăng nhanh trong năm 2007 và chưa có dấu hiệu
giảm nhiều trong năm 2008. Tính theo USD, từ năm 2003 đến 2007, giá
đồng tinh luyện tăng 5 lần, giá thép tăng gấp đôi, giá kim loại nói chung tăng
17,9%. Sự tăng giá lương thực thực phẩm trong năm 2007 đã đến mức kỷ
lục, song lại tiếp tục tăng cao trong năm 2008 do cung không đáp ứng đủ cầu.
Do giá cả hàng hóa, nguyên liệu, lương thực, thực phẩm tăng cao là
nguyên nhân đưa mức lạm phát chung trên thế giới năm 2008 tiếp tục tăng
mạnh hơn so với năm 2007. Có thể nói, lạm phát đang lan tràn trên toàn thế
giới, ở cả nước giàu cũng như các nước đang phát triển.
Đứng trước nguy cơ lạm phát ngày càng gia tăng, chính phủ các nước
đã có nhiều biện phát để đối phó với lạm phát, từ việc thắt chặt chính sách
tiền tệ, chính sách tiết kiệm tới những giải pháp đồng bộ. Tại những nước
công nghiệp phát triển, áp lực lạm phát có thể được chống chọi bằng cách cắt
giảm nhu cầu và chính sách thắt chặt tiền tệ. Do lạm phát cao hiện đang là
thách thức lớn nhất về kinh tế, khiến cho các nước buộc phải điều chỉnh tăng
lãi suất, cắt giảm thâm hụt ngân sách, giữ giá đồng nội tệ, kiềm chế giá cả và
các giải pháp tiết kiệm.
Lạm phát toàn cầu cũng tác động lớn đến kinh tế Việt Nam đưa đến
chính sách thắt chặt tiền tệ và giảm tốc độ tăng trưởng.
212
3). Sự mất cân bằng về tài chính - nguyên nhân sâu xa của khủng hoảng tài chính, tiếp tục tồn tại trong nền kinh tế toàn cầu.
Trong những năm gần đây, kinh tế toàn cầu phải đối mặt với những
mất cân bằng lớn, đặc biệt là kinh tế Mỹ - nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Những mất cân bằng đó lộ rõ trên những điểm sau.
Một là, thâm hụt ngân sách và thâm hụt cán cân thương mại ngày
càng lớn.
Giai đoạn 2001-2005, Theo IMF thâm hụt ngân sách của Chính phủ
trung ương các nước phát triển đã tăng lên kể từ sau năm 2001. Mỹ và Nhật
Bản là 2 quốc gia tiêu biểu cho các nước phát triển, có mức thâm hụt tương
đối cao: khoảng 3% GDP đối với Mỹ và trên 6% GDP đối với Nhật Bản
trong cả giai đoạn 2001-2005.
Năm 2006, theo số liệu của IMF thâm hụt ngân sách các nước bắt đầu
có dấu hiệu giảm nhẹ, nhưng mức giảm hầu như không đáng kể (chiếm 2,1%
GDP). Ở các nước đang phát triển, cán cân ngân sách cũng đang có xu hướng
được cải thiện dần trong những năm gần đây. Trong năm 2006, mức thâm hụt
ngân sách của các nước phát triển Châu Á đang có xu hướng giảm dần, tiêu
biểu là Trung Quốc giảm xuống mức 1,2% GDP và Ấn Độ 4% GDP. Tình
trạng thâm hụt ngân sách của các nước Trung và Đông Âu cũng có chuyển
biến tích cực, với mức giảm từ 8% GDP năm 2002 xuống còn khoảng 3,6%
năm 2006.
Theo dự báo của IMF trong giai đoạn 2007-2010, thâm hụt ngân sách
vẫn chưa có khả năng cải thiện ở các nước phát triển, tiêu biểu là Mỹ, khu
vực đồng Euro và Nhật Bản với các mức dự báo thâm hụt lần lượt là 2,8%
GDP, 1,7% GDP và 5,1% GDP. Tại các nước đang phát triển Châu Á, Trung
và Đông Âu, mức thâm hụt được dự báo sẽ giảm nhiều hơn và có khả năng
xuống mức dưới 2% GDP đối với các nước đang phát triển Châu Á hoặc
dưới 3% GDP đối với các nước Trung và Đông Âu trong năm 2007. Riêng ở
các nước NIEs và Trung Đông, thặng dư ngân sách sẽ tiếp tục được mở rộng,
ở biên độ hẹp hơn với các mức thặng dư lần lượt là 1,1% GDP và 8,4% GDP
trong năm 2007.
Tình hình thâm hụt ngân sách gia tăng sẽ kéo theo mức thâm hụt cán
cân thương mại của các nền kinh tế lớn, nhất là Mỹ ngày càng lớn. Đối với
nền kinh tế Mỹ, mức thâm hụt cán cân thương mại đã tăng từ 400 tỷ năm
2000 bằng 4%GDP tăng lên mức 811 tỷ năm 2006, bằng 6% GDP. Năm
2007, đồng đô la mất giá, có làm giảm mức thiếu hụt xuống 734 tỷ nhưng
cũng ở mức rất cao. Năm 2008 dự báo mức độ thâm hụt trong các cán cân
thanh toán lên tới 6,5% GDP và chưa có giải pháp hữu hiệu để cân bằng. Đó
là một nguy cơ lớn đối với kinh tế thế giới. Để đối phó với tình trạng thâm
hụt ngày càng gia tăng, không loại trừ phương án Mỹ tiếp tục để cho đồng
đôla Mỹ trượt dốc, điều này có lợi cho xuất khẩu Mỹ, song lại gây khó khăn
cho nhiều nền kinh tế khác.
213
Hai là, sự thay đổi tương quan giữa các đồng tiền chủ chốt
Trong giai đoạn 2001-2005, sự giảm giá của USD so với các đồng tiền
chủ chốt và sự lên giá của các đồng tiền Châu Á là xu hướng nổi bật làm thay
đổi trong tương quan giữa các đồng tiền chủ chốt trên thế giới. Đồng USD
liên tục giảm giá so với hầu hết các đồng tiền chủ chốt. Cụ thể: USD giảm giá
hơn 30% so với đồng EURO và GBP, đồng thời giảm giá từ 1% đến 15% so
với hầu hết các đồng tiền châu Á khác.
Nguyên nhân chính ảnh hưởng bất lợi tới đồng đôla Mỹ là tình trạng
thâm hụt kép của Mỹ, bao gồm thâm hụt ngân sách và thâm hụt cán cân vãng
lai lên tới 791,5 tỷ USD (chiếm 6,5% GDP) trong năm 2005.
Bên cạnh xu hướng giảm giá của USD so với các đồng tiền chủ
chốt, sự lên giá của các đồng tiền châu Á cũng là một đặc trưng đáng ghi
nhận, đặc biệt giai đoạn 2004-2005, khi chính sách tỷ giá của Trung
Quốc đã bắt đầu có những chuyển biến tích cực theo hướmg đưa đồng
NDT tiến dần đến tự do chuyển đổi hoàn toàn. Sự kiện Trung Quốc quyết
định thả nổi và nâng giá đồng NDT 2,1% (ngày 21/7/2005) và tiếp tục có
những điều chỉnh nhỏ nâng giá đồng NDT trước sức ép kinh tế và chính
trị từ Mỹ đã khiến đồng tiền này tăng giá nhanh hơn. Tính chung cả giai
đoạn 2001-2005, NDT tăng giá 3%.
Năm 2006, mặc dù FED đã 4 lần quyết định tăng lãi suất, nhưng đồng
USD vẫn giảm giá so với hầu hết các đồng tiền chủ chốt khác như Euro,
Bảng Anh và Yên Nhật. Chỉ trong năm 2006, USD trên thị trường thế giới
mất giá khoảng 8% so với đồng EUR, 7% so với Bảng Anh và hơn 1% so với
Yên Nhật.
Tuy vậy, việc đồng USD giảm giá liên tiếp so với các đồng tiền trong
khu vực đã và đang tạo thuận lợi để Việt Nam thực thi chính sách tỷ giá theo
hướng bò trườn, nhằm tạo lợi thế cho xuất khẩu, tránh bị phá giá mạnh và
những cú sốc về tỷ giá trong bối cảnh tiềm lực dự trữ ngoại hối còn quá thấp,
đồng thời làm giảm bớt áp lực tăng tỷ giá VND/USD ở nước ta trong bối
cảnh hiện nay. Bảng 67 - Tỷ giá các đồng tiền giai đoạn 2000-2006
Tỷ giá các đồng
tiền so với USD
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Euro 0,924 0,896 0,944 1,131 1,243 1,246 1,250
Bảng Anh 1,516 1,440 1,501 1,634 1,832 1,820 1,821
Yên Nhật 107,7 121,5 125,2 115,8 108,1 110,0 115,6
Đôla Canada 1,485 1,548 1,569 1,397 1,299 1,211 1,132
Franc Thụy Sỹ 1,687 1,686 1,554 1,346 1,242 1,243 1,254
Won Hàn Quốc 1.130,4 1.290,8 1.251,6 1.191,6 1.146,2 1.024,2 950,0
Đôla Đài Loan 31,216 33,787 34,571 34,441 33,418 32,156 32,415
Đôla Hồng Kông 7,791 7,799 7,799 7,787 7,788 7,777 7,765
Đôla Singapore 1,724 1,792 1,791 1,742 1,690 1,664 1,589
Nguồn: World Economic Outlook, IMF 9/2006
Dự báo đến năm 2010: mối tương quan giữa các đồng tiền chủ chốt
trên thế giới sẽ biến động theo một số xu hướng sau:
214
- Tỷ giá giữa các ngoại tệ mạnh tương đối ổn định, trong đó đồng USD
có xu thế giảm giá so với các đồng tiền khác.
- Với việc thực thi một chính sách tỷ giá với mức độ linh hoạt cao hơn,
đồng NDT của Trung Quốc sẽ có xu hướng tăng giá trong thời gian tới.
- Các đồng tiền châu Á bao gồm đồng Won Hàn Quốc và đồng tiền
các nước khu vực ASEAN có xu hướng tăng giá.
Thứ hai,những rối ren trên thị trường tín dụng ngày càng gia tăng
Giai đoạn 2004-2006, chỉ số giá tiêu dùng tăng cao ở nhiều nước đã
buộc Chính phủ các nước này phải đưa ra các hàng loạt biện pháp điều chỉnh,
trong đó việc tăng lãi suất được coi là biện pháp cơ bản. Mỹ đã mở đầu cho
khuynh hướng tăng lãi suất với việc tăng 17 lần liên tiếp trong vòng hơn hai
năm, kể từ tháng 6/2004 đến nay, đưa lãi suất cơ bản đồng USD hiện nay lên
mức 5,25%/năm. Nhiều nước thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ. Trong hai
năm 2005 và 10 tháng đầu năm 2006, NHTW châu Âu cũng đã 4 lần tăng lãi
suất nhằm kiềm chế lạm phát, đưa lãi suất của khu vực này hiện lên mức
3,25%.
Hưởng ứng quan trọng nhất cho cuộc đua lãi suất tại châu Á là quyết
định nâng lãi suất từ mức 0% lên mức 0,25% của Ngân hàng Trung ương
Nhật Bản BOJ (ngày 11/7/2006). Quyết định tăng lãi suất của BOJ được xem
như là một bước đột phá ban đầu trong điều hành CSTT thắt chặt của Nhật
Bản sau khi đã duy trì CSTT siêu lỏng trong 5 năm qua, khi nước này vừa
thoát ra khỏi tình trạng giảm phát. Chính phủ Trung Quốc một mặt khống chế
lượng tiền cho vay từ các ngân hàng cho các dự án đầu tư chưa thiết thực,
một mặt tăng lãi suất cơ bản đồng NDT. Khuynh hướng tăng lãi suất cũng
diễn ra tương đối mạnh ở các nước châu Á khác: Indonesia với 5 lần tăng lãi
suất, Thái Lan với 7 lần tăng lãi suất và Hàn Quốc với 3 lần tăng lãi suất.
Bảng 68 - Lãi suất cơ bản của một số nước trên thế giới (%)
Nước,
khu
vực
Mỹ
Khu vực
đồng
Euro
Anh Nhật
Bản
Thái
Lan Malayxia Indonesia
Hàn
Quốc
Lãi suất 5,25 3,25 5,00 0,25 5,00 3,50 10,75 4,25
Ghi chú: Tính đến thời điểm 10/11/2006
Việc FED liên tục tăng lãi suất cộng với nguy cơ lạm phát cao đã
khiến các nền kinh tế khác như Trung Quốc, Hàn Quốc, Anh ... tăng lãi suất
theo đưa mặt bằng lãi suất thế giới tăng vọt.
Tuy nhiên, từ năm 2007 do những rối ren trong mảng cho vay thế chấp
nhà đất tại Mỹ đã làm nảy sinh cuộc khủng hoảng tín dụng đưa đến hậu quả
là làm giảm khả năng tín dụng của các ngân hàng thương mại. Một số ngân
hàng Mỹ buộc phải phá sản. Để hỗ trợ khả năng chi trả cho các ngân hàng
thương mại, Chính phủ Mỹ phải nhiều lần bơm thêm khối lượng tiền lớn vào
hệ thống tín dụng nhằm giúp các ngân hàng thương mại vượt qua khủng
215
hoảng, trong đó có việc thống nhất thành lập một quỹ chống khủng hoảng
chung. Đồng thời FED đã nhiều lần hạ thấp mức lãi suất để điều tiết thị
trường, giữa cho hệ thống ngân hàng ổn đinh. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng
tài chính của nước Mỹ đã lan rộng ra toàn cầu, kiến nó đang có nguy cơ trầm
trọng hơn và tác động xấu đến nền tài chính của nhiều quốc gia khác trên thế
giới.
Bốn là, xu hướng gia tăng dự trữ tài chính trên toàn cầu
Kể từ cuộc khủng hoảng châu Á năm 1997 đến nay, các quốc gia có
một cách nhìn rất thận trọng về một mức dự trữ ngoại hối quốc gia an toàn.
Mức dự trữ ngoại hối (ngoại tệ, vàng, bạc, đá quý và các giấy tờ có giá khác)
phải đủ để đối phó với những nguy cơ khủng hoảng và do đó dự trữ sẽ được
tính trên mức nợ ngắn hạn của quốc gia đó, thay vì chỉ tính trên các khoản
nhập khẩu. Chính vì lẽ đó, mức độ dự trữ an toàn thường được tính cao hơn
mức quy ước, theo nhiều nghiên cứu mức dự trữ này là vào khoảng 6 tháng
nhập khẩu hoặc toàn bộ nợ ngắn hạn nước ngoài. Những quốc gia trong khu
vực như Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan và Indonesia hiện có dự trữ nhiều
hơn gấp bốn lần nợ ngắn hạn. Trung Quốc hiện là nước có dự trữ ngoại hối
cao nhất trên thế giới (trên 2000 tỷ USD), tiếp đến là Nhật Bản, Nga, Hàn
Quốc, Đài Loan và Ấn Độ.
Bảng 69 - Dự trữ ngoại hối của một số quốc gia tiêu biểu
Đơn vị: triệu USD
Quốc gia 1999 2004 2005 2006 6/2007
Trung Quốc 157,728 614,500 821,514 1,068,490 1,334,590**
Nhật Bản 286,916 833,891 834,275 879,682 907,346
Đài Loan 106,200 241,738 253,290 266,148 261,372***
Hàn Quốc 73,987 198,997 210,317 238,882 250,667*
Singapore 76,843 112,232 115,794 136,260 144,056**
Thái Lan 34,063 48,664 50,691 65,291 72,227
Việt Nam 3,326 7,041 9,051 13,384
(Ghi chú: *: tính đến tháng 5/2007; **: tính đến tháng 6/2007; ***: tính đến tháng
8/2007))
Nguồn: IMF International Financial Statistics (IFS); Financial Statistics of the
Central Bank of China, Republic of China
Năm 2006, Nga hoàn thành việc trả nợ cho câu lạc bộ Paris. Năm
2007, dự trữ ngoại tệ của Nga vượt mức 400 tỷ USD và trong 8 tháng đầu
năm 2008, có nguồn tin cho biết dự trữ của Nga đã lên mức xấp xỉ 800 tỷ
USD.
Tích lũy dự trữ ngoại hối cao hơn ở các nước đang phát triển là bằng
chứng hiển nhiên của các chính sách thận trọng và thành quả thương mại
mạnh mẽ kể từ cuộc khủng hoảng vào cuối thập niên 1990. Nói chung, dự trữ
ngoại hối cao sẽ làm giảm khả năng dễ bị tổn thương do các cú sốc bên
ngoài. Ở các quốc gia “con nợ”, nơi mà sức mạnh tài chính thường được xem
216
xét thông qua mức độ dự trữ ngoại hối, những gia tăng trong dự trữ ngoại hối
sẽ giúp cho các quốc gia này có nhiều thông thoáng hơn trong hoạch định
chính sách.
Bên cạnh đó, các nước châu Á đang có xu hướng thành lập một quỹ
dự trữ tài chính lớn của khu vực nhằm bảo vệ đồng tiền của các nước này
trước nguy cơ bị tấn công bởi các hoạt động đầu cơ. Cuộc khủng hoảng tài
chính châu Á 1997 đã có tác động tới tất cả các quốc gia châu Á và đặt sự
thần kỳ của kinh tế châu lục này, vốn được đặt trên một nền móng không
vững chắc, trước hàng loạt rủi ro. Hiện nay, các yếu tố rủi ro mà các quốc gia
châu Á đang phải đối mặt không hề giảm so với 10 năm trước đây, thậm chí
tính dễ bị tổn thương của các dòng vốn và cả độ lớn của các dòng vốn hiện
nay cũng lớn hơn rất nhiều. Trước cuộc tấn công của giới đầu cơ, những
nước như Thái Lan, Malaysia và Indonesia đã phải chứng kiến sự sụp đổ của
đồng tiền các nước này. Tại Hàn Quốc, nợ xấu của các công ty lớn đã khiến
thị trường chứng khoán đổ vỡ. Vì vậy, việc thành lập một dự trữ đa phương
sẽ giúp các nước thành viên có được một nguồn quỹ phòng vệ lớn hơn để
tránh sự lặp lại của cuộc khủng khoảng tài chính 1997 và khả năng tự giải
quyết khủng hoảng trước khi nhờ đến sự giúp đỡ bên ngoài.
Hiện nay, mức dự trữ ngoại hối khu vực theo đề xuất vào khoảng 120
tỷ USD. Dự trữ tài chính nói trên sẽ được trích từ lượng dự trữ ngoại hối hiện
ở mức khoảng 3.100 tỷ USD của các nước châu Á, chiếm 65% dự trữ ngoại
hối toàn cầu, và cho phép các nước thành viên được sử dụng trong trường
hợp cần thiết. Khoản dự trữ này sẽ mở rộng một hệ thống an toàn hiện có
cung cấp nguồn vốn khẩn cấp trong trường hợp cần thiết thông qua hoạt động
hoán đổi tiền tệ song phương trong các nước châu Á.
Nhưng từ đầu năm 2008 do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính
tiền tệ toàn cầu làm cho kinh tế thế giới sẽ tăng trưởng chậm lại, thậm chí suy
thoái, thêm vào đó là sự mất cân bằng cán cân thương mại toàn cầu, sự thay
đổi bất thường của tỷ giá và lãi suất, sự đi xuống của thị trường chứng
khoán... đang là những yếu tố tác động sự di chuyển các luồn vốn giữa các
quốc gia. Trong bối cảnh đó các quốc gia đều xem xét vấn đề tăng DTNH để
phòng ngừa những bất ổn, để đảm bảo an toàn tài chính quốc gia.
1.1.2. Bối cảnh kinh tế trong nước giai đoạn 2006-2010
1). Việc gia nhập WTO đã mở ra thời kỳ nước ta hội nhập ngày càng sâu rộng và đầy đủ với nền kinh tế thế giới.
Việc gia nhập WTO đã tạo ra những cơ hội to lớn để Việt Nam tăng
tốc, nhưng cũng đặt ra nhiều vấn đề và những thách thức cần phải tính toán
kỹ lưỡng. Cùng với tiến trình hội nhập sâu rộng trong các lĩnh vực, hội nhập
trong linh vực tài chính, tiền tệ cũng diễn ra hết sức nhanh chóng.
Trong lĩnh vực tài chính: việc thực hiện các cam kết cắt giảm thuế
nhập khẩu, không chỉ tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, mà
217
còn ảnh hưởng giảm thu NSNN. Đồng thời, theo cam kết Việt Nam cũng
phải bãi bỏ ngay các khoản trợ cấp và hỗ trợ tài chính bị cấm đối với các
ngành sản xuất và xuất khẩu.
Trong lĩnh vực dịch vụ tài chính: Việt Nam sẽ mở cửa cho phép tổ
chức và cá nhân nước ngoài được mua cổ phần trong các doanh nghiệp
Việt Nam nhưng tỷ lệ phải phù hợp với mức mở cửa thị trường ngành đó.
Riêng đối với ngân hàng Việt Nam cho phép ngân hàng nước ngoài mua
tối đa 30% cổ phần. Đồng thời cho thành lập ngân hàng con 100% vốn
nước ngoài không muộn hơn ngày 1/4/2007.
Đối với dịch vụ chứng khoán: Việt Nam cho phép thành lập công
ty chứng khoán 100% vốn nước ngoài và chi nhánh sau 5 năm kể từ khi
gia nhập WTO.
Về dịch vụ bảo hiểm: Việt Nam đồng ý cho Hoa Kỳ thành lập chi
nhánh bảo hiểm phi nhân thọ sau 5 năm kể từ ngày gia nhập.
Bên cạnh việc nới lỏng cho phép các ngân hàng nước ngoài tham gia
vào trị trường trong nước, để phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế,
Việt Nam cũng đã từng bước thực hiện tự do hoá lãi suất và tỷ giá theo
nguyên tắc thị trường, chỉ can thiệp vào lãi suất và tỷ giá thông qua thị trường
tiền tệ và các công cụ của CSTT. Do đó, lãi suất và tỷ giá sẽ phản ánh chính
xác hơn giá trị đồng Việt Nam và phù hợp với diến biến thị trường tiền tệ
trong nước và quốc tế. lãi suất sẽ được tự do hoá từng bước theo trật tự và
khá thận trọng.
Đồng thời, hội nhập tài chính, tiền tệ cũng đòi hỏi Nhà nước phải sửa
đổi, bổ sung những quy định trong quản lý ngoại hối. Điều này không chỉ liên
quan đến các nguồn ngoại tệ của doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước
ngoài mà cả ngoại tệ của các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào TTTC Việt
Nam.
Như vậy, hội nhập WTO đã tác động trực tiếp đến toàn bộ hoạt động
tài chính, tiền tệ của Việt Nam, đòi hỏi Nhà nước phải có chính sách điều
chỉnh cần thiết trong tất cả các lĩnh vực để đảm bao hội nhập diễn ra sâu
rộng, đầy đủ và thành công.
2). Kinh tế tăng trưởng chậm lại và bước vào thời kỳ suy giảm
Trong những năm gần đây, Việt Nam là một nước có mức độ kinh tế
tăng trưởng cao nhất trong vùng châu Á chỉ đứng sau Trung Quốc. Năm
2006 mức tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đạt khoảng 8,2% so với 8.4%
trong năm 2005. Năm 2007, nền kinh tế tiếp tục phát triển ổn định, đạt mức
tăng trưởng cao nhất trong vòng 10 năm qua - khoảng 8,5%; trong đó, khu
vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,41%, khu vực công nghiệp và xây
dựng tăng 10,6%, khu vực dịch vụ tăng 8,68%.
Tuy nhiên, từ năm 2008 mức tăng trưởng của Việt Nam có xu hướng
chậm lại. Kết thúc năm 2008, nền kinh tế chỉ đạt mức tăng trưởng 6,23% và
218
kế hoạch đề ra cho năm 2009 phải đạt 6,5%. Tuy nhiên nhiều dự báo cho
thấy trong năm 2009 nền kinh tế Việt Nam chỉ có thể đạt mức tăng trưởng
khoảng 5-5,5%.
Do kinh tế tăng trưởng chậm lại, các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô có nhiều
bất ổn, nhiều khó khăn trong nền kinh tế nảy sinh làm ảnh hưởng xấu đến
môi trường kinh tế-xã hội. Để phát triển kinh tế ổn định và bền vững, một
mặt cần ổn định cân đối vĩ mô, mặt khác cần tăng dự trữ tài chính để phòng
ngừa những bất ổn có thể xảy ra đối với nền kinh tế.
3). Nhập siêu tăng đột biến
Trong những năm gần đây tỷ lệ nhập siêu có xu hướng tăng lên: năm
2006 tỷ lệ nhập siêu bằng là 12,7% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu, năm
2007 tỷ lệ nhập siêu tăng đến 25,7% tổng kim ngạch xuất khẩu với mức nhập
siêu khoảng trên 10 tỷ USD.
Từ năm 2008: mức nhập siêu tăng lên đột biến, riêng tháng sáu là 736
triệu USD, sang đến tháng 7 đã tăng lên 753 triệu USD và tháng 8 dự kiến
khoảng 900 triệu USD. Như vậy, mức nhập siêu của năm 2008 đã vượt con
số 16 tỷ USD, chiếm gần 40% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Mức nhập siêu cao làm giảm khả năng tích lũy ngoại tệ. Đó là một
thách thức lớn đối với việc tăng DTNH quốc gia trong những thời điểm nền
kinh tế - tài chính thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang gặp khó
khăn.
4). Lạm phát trong nước sau thời kỳ tăng cao đã giảm xuống, song vẫn ở mức cao
Trong giai đoạn 2001-2005, mức lạm phát của Việt Nam ổn định trong
khoảng 5%. Tuy nhiên, từ năm 2007 chỉ số giá tiêu dùng tăng cao hơn khá
nhiều so với các năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng năm 2007 là 12,63%, giá
tiêu dùng bình quân năm 2007 so với bình quân năm 2006 tăng 8,3%.
Năm 2008, chỉ số giá tiếp tục tăng với mức tăng rất cao. Chỉ số giá
bình quân 8 tháng đầu năm nay so với con số tương ứng của năm 2007 tăng
22,14%. Tính chung năm 2008 chỉ số lạm phát tăng lên ở mức gần 20%.
Mặc dầu năm 2009, chỉ số lạm phát có xu hướng giảm thấp, song vẫn
còn khá cao so với giai đoạn 2001-2005, đồng thời vẫn tiềm ẩn nhiều nguy
cơ bùng phát trở lại.
Nguyên nhân của sự biến động giá tiêu dùng, nếu xét theo từng nhóm
hàng cụ thể cũng có nguyên nhân do giá đầu vào tăng cao, như: giá xăng dầu,
sắt thép, xi măng,... Đối với nhóm hàng ăn uống (lương thực và thực phẩm)
tăng do tác động của giá cả lương thực thế giới tăng do thiếu hụt lương thực
nhiều nơi trên thế giới và kéo theo là giá thực phẩm tăng do dịch bệnh ở gia
súc, gia cầm.
219
Lạm phát cao là một trong những rủi ro cho sự phát triển kinh tế. Lạm
phát gia tăng sẽ kéo theo tăng lãi suất và và chi phí sản xuất. Hậu quả của lạm
phát là ảnh hưởng tiêu cực đến tât cả các hoạt động kinh tế-xã hội và đời
sống.
5). Thị trường chứng khoán trong nước đang suy giảm trầm trọng, tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với hoạt động kinh tế trong nước.
Trước những biến động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, thị
trường chứng khoán thế giới đã suy giảm trầm trọng. Thị trường chứng
khoán Việt Nam cũng nằm trong vòng xoáy của khủng hoảng đó. Bức tranh
ảm đạm của thị trường chứng khoán Việt Nam cuối năm 2008 đầu năm 2009
được khắc họa bởi chỉ số VN-Index giảm thấp: từ 927 điểm vào ngày
1/1/2008 xuống 360 điểm vào ngày 20/6/2008, giảm 71%. Mặc dù cuối năm
2008 thị trường chứng khoán có xu hướng tăng điểm, song chỉ số VN-Index
đóng cửa vào phiên giao dịch cuối năm là 315,62 điểm, giảm khoảng 65%.
Tổng giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu giảm từ 43% năm 2007 còn 19%
năm 2008.
Hình 21 – Biến động của thị trường chứng khoán Việt Nam 2001-2008
Cùng với suy giảm thị trường chứng khoán thế giới, sự suy giảm của
thị trường chứng khoán Việt Nam đã đưa đến hậu quả là sự rút vốn đầu tư
trực tiếp và gián tiếp. Mặc dù chưa có biểu hiện rút vốn ồ ạt, song sự ra đi của
các dòng vốn ra khỏi Việt Nam cũng tạo ra những nguy cơ mất an toàn tài
chính. Trong bối cảnh đó, việc tăng cường quản lý thị trường tài chính trong
nước càng đặt ra bức thiết để đối phó với các tình huống khó lường của thị
trường tài chính thế giới.
220
1.2. CÁC MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ ĐỊNH HƯỚNG LỚN VỀ
KINH TẾ, TÀI CHÍNH TIỀN TỆ ĐẾN 2010
1.2.1. Các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội đến 2010
1). Mục tiêu tổng quát
Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được bước chuyển biến
quan trọng về nâng cao tính bền vững của sự phát triển. Cải thiện rõ rệt đời
sống vật chất, văn hoá và tinh thần của nhân dân. Tạo được nền tảng để đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an
toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an
ninh quốc gia. Nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường
quốc tế.
2). Các nhiệm vụ chủ yếu
(1) Giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát huy
mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo bước đột phá về xây dựng kết cấu hạ tầng và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh, tăng tốc
độ tăng trưởng kinh tế, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng của nước đang
phát triển có thu nhập thấp17.
(2) Chuyển mạnh sang kinh tế thị trường, thực hiện các nguyên tắc
của thị trường, hình thành đồng bộ các thị trường và hệ thống thể chế kinh tế
thị trường định hướng XHCN phù hợp với điều kiện của nước ta.
(3) Tích cực, chủ động đẩy nhanh hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng
kinh tế đối ngoại gắn với nâng cao khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế.
(4) Phát triển mạnh khoa học và công nghệ, GD&ĐT; nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước và phát triển kinh tế tri thức.
(5) Tạo chuyển biến mạnh trong việc xây dựng văn hoá, trí tuệ, đạo
đức và lối sống; nâng cao thể chất và sức khoẻ nhân dân; bảo vệ và cải thiện
môi trường sinh thái.
(6) Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, giải quyết việc làm, khuyến
khích làm giàu hợp pháp, xoá đói giảm nghèo, phát triển hệ thống an sinh;
đẩy lùi các tệ nạn xã hội.
(7) Phát huy dân chủ, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nâng
cao hiệu lực của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tạo bước chuyển rõ
rệt về cải cách hành chính, ngăn chặn và đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng,
lãng phí.
(8) Tăng cường quốc phòng - an ninh, ổn định chính trị - xã hội, mở
rộng quan hệ đối ngoại, giữ vững môi trường hòa bình và ổn định, tạo thuận
lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
221
1.2.2. Các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu
Trên cơ sở Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần
thứ X, Kế hoach phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006-2010 đã thông qua các
chỉ tiêu như sau:
- Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 theo giá so sánh gấp
hơn 2,1 lần năm 2000. Trong 5 năm 2006 - 2010, tốc độ tăng trưởng GDP 7,5
- 8%/năm; phấn đấu đạt trên 8%/năm. GDP bình quân đầu người năm 2010
theo giá hiện hành đạt khoảng 950 - 1000 USD.
- Cơ cấu ngành trong GDP năm 2010: khu vực nông nghiệp khoảng
15 - 16%; công nghiệp và xây dựng 42 - 43%; dịch vụ 41 - 42%.
- Kim ngạch xuất khẩu tăng 14 - 16%/năm.
- Tỷ lệ huy động GDP vào ngân sách đạt 21 - 22%.
- Vốn đầu tư xã hội đạt khoảng 37-38% GDP.
- Tốc độ phát triển dân số khoảng 1,12%/năm.
- Lao động nông nghiệp năm 2010 chiếm dưới 50% lao động xã hội.
- Tạo việc làm cho 8 triệu lao động; tỷ lệ thất nghiệp thành thị dưới
5%.
- Tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn mới) giảm xuống còn 15 - 16% vào năm
201018.
- Năm 2010, hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở; giáo dục
đại học và cao đẳng đạt 200 sinh viên/10.000 dân; lao động đã qua đào tạo
chiếm 40% tổng lao động xã hội.
- Tỷ lệ bác sỹ, dược sỹ đạt 6 người/10.000 dân.
- Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam năm 2010 đạt 72 tuổi.
- Tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 1 tuổi là 20 %o và dưới 5 tuổi là 27%o; tỷ
lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi giảm xuống dưới 20%; tỷ lệ tử vong bà
mẹ liên quan thai sản dưới 7/10.000.
- Năm 2010, 100% hộ dân có nhà ở.
- Tỷ lệ sử dụng điện thoại đạt 32 máy/100 dân; tỷ lệ sử dụng Internet
đạt 25 thuê bao/100 dân.
1.2.3. Các định hướng phát triển tài chính, tiền tệ đến năm 2010
1). Về tài chính
Đảm bảo tiềm lực tài chính quốc gia đủ mạnh để chủ động thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững, có khả năng kiểm soát lạm
phát, ổn định tiền tệ, giá cả và thị trường;
222
Hệ thống chính sách động viên, phân phối tài chính có hiệu lực cao,
đảm bảo công bằng, năng động, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN, có tác động mở đường khai thông các nguồn nội lực, thu hút
ngoại lực và sử dụng hiệu quả toàn bộ các nguồn lực cho phát triển kinh tế-xã
hội của đất nước;
Xây dựng nền tài chính quốc gia lành mạnh, công khai, minh bạch,
dân chủ, được quản lý và kiểm toán chặt chẽ, làm cho tài chính trở thành
thước đo hiệu quả mọi hoạt động kinh tế, là động lực thúc đẩy phát triển kinh
tế – xã hội;
Năng lực, hiệu lực quản lý nhà nước về tài chính được tăng cường và
đổi mới trên cơ sở đẩy mạnh cải cách hành chính, hiện đại hoá công cụ và
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý tài chính;
Củng cố và nâng cao vị thế tài chính Việt Nam trong quan hệ quốc tế
trên cơ sở bảo đảm độc lập tự chủ và an ninh tài chính quốc gia.
2). Về phát triển NHNN
Xây dựng NHNN thành NHTW hiện đại với cơ cấu tổ chức bộ máy
tinh gọn, chuyên nghiệp.
NHNN có đủ nguồn lực, năng lực về xây dựng và thực thi CSTT theo
nguyên tắc thị trường, thực hiện đầy đủ các chuẩn mực và thông lệ quốc tế về
hoạt động NHTW để hội nhập với cộng đồng tài chính quốc tế, thực hiện có
hiệu quả chức năng quản lý nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ và họat động ngân
hàng;
Nâng cao trách nhiệm và quyền hạn của NHNN, tăng cường tính độc
lập của NHNN trong việc tổ chức thực hiện chiến lược, hoạch định và thực
thi CSTT.
Chức năng, nhiệm vụ của NHNN tập trung chủ yếu vào ổn định giá trị
đồng tiền, kiểm soát lạm phát, bảo đảm an toàn hệ thống, tạo môi trường vĩ
mô thuận lợi cho tăng trưởng và phát triển kinh tế- xã hội.
CSTT phải trở thành công cụ đắc lực để điều chỉnh và kiểm soát kinh
tế vĩ mô nhằm góp phần thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế
và đảm bảo sự an toàn, lành mạnh của hệ thống TTTC.
1.3. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CHỦ YẾU ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG TÀI CHÍNH TIỀN TỆ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006-
2010
1.3.1. Cơ hội đối với hoạt động kinh tế và tài chính, tiền tệ Việt Nam
1). Có cơ hội thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao hơn
Việt Nam đang trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế cao và ổn định với
tốc độ tăng hàng năm bình quân trên 7% trong suốt hai thập kỷ qua. Kim
223
ngạch xuất khẩu tăng trưởng trên 70% kể từ năm 2000 nên đã đóng góp tích
cực vào tăng trưởng kinh tế. Thu hút vốn FDI được phục hồi sau thời kỳ
khủng hoảng châu Á và sẽ đạt khoảng 4 tỷ USD mỗi năm trong thập kỷ tới,
đưa mức FDI bình quân đầu người xấp xỉ với Trung Quốc. Mức sống của
người dân ngày càng được cải thiện. Mặc dù lạm phát trong những năm gần
đây tăng cao, năm 2004 mức lạm phát là 9,5%, năm 2005 là 8,4% song sự ổn
định kinh tế vĩ mô nhìn chung được đảm bảo với thâm hụt NSNN và qui mô
vay nợ của chính phủ nằm trong tầm kiểm soát, tỷ giá hối đoái giữ ổn định so
với đồng USD.
Tuy nhiên, trong giai đoạn hội nhập WTO, tốc độ tăng trưởng của Việt
Nam sẽ phải đối mặt với những cơ hội và nhiều rủi ro, thách thức. Bên cạnh
đó, khủng hoảng tài chính toàn cầu ảnh hưởng nặng nề đến tăng trưởng kinh
tế thế giới, trong đó có Việt Nam, song khủng hoảng vừa là thách thức vừa là
cơ hội để tận dụng để bức phá sau giai đoạn khủng hoảng.
Mặc dù, những rủi ro và thách thức đó có ảnh hưởng đáng kể đến tốc
độ tăng trưởng của Việt Nam, song có thể nhìn thấy những nhân tố thuận lợi
để có thể duy trì được tốc độ và chất lượng tăng trưởng cao hơn, đó là:
- Năng suất lao động có xu hướng tăng lên.
- Thị trường được mở rộng tạo điều kiện tăng nhanh kim ngạch xuất
khẩu hàng hóa và dịch vụ.
- Quy mô và cơ cấu đầu tư thay đổi theo hướng tích cực.
2). Mức thu nhập và mức tiêu dùng có khả năng thanh toán có xu hướng tăng
Tiêu dùng chiếm tới 2/3 trong cơ cấu tích lũy tiêu dùng tổng sản phẩm
trong nước và thường xuyên ở mức trên 70%GDP trong nhiều năm qua cho
thấy vai trò đặc biệt quan trọng của tiêu dùng cá nhân và tiêu dùng nhà nước
trong tăng trưởng kinh tế của nước ta. Theo Tổng cục Thống kê, tổng mức
bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong 5 năm qua đã đạt
1.738,8 nghìn tỷ đồng, bình quân tăng 16,86%/năm. So với tỷ lệ tăng trưởng
trong giai đoạn 1996 – 2000 chỉ là 12,71%/năm thì đây là tín hiệu đáng khích
lệ. Với mức tăng trưởng tiêu dùng như vậy, thêm vào đó là một nước đông
dân số (trên 83 triệu người vào năm 2005), thu nhập bình quân đầu người
đang ngày càng được cải thiện (GDP bình quân đầu người đạt trên 600 USD
năm 2005, gấp 3 lần so với năm 1991), tỷ lệ nghèo đói theo chuẩn quốc tế
(dưới 1 USD/người/ngày) giảm nhanh từ 50,8% năm 1990 xuống 10,9% năm
2003, Việt Nam được đánh giá là một trong những thị trường bán lẻ hấp dẫn
và có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới.
Trong giai đoạn tới có nhiều cơ hội để tăng tiêu dùng trên các góc độ
sau:
- Do cắt giảm thuế nhập khẩu, làm hạ thấp giá cả hàng hóa nên người
tiêu dùng sẽ tiết kiệm được một phần thu nhập do việc mua hàng với giá rẻ
224
hơn. Thu nhập tiết kiệm được có thể tăng mức tiêu dùng đối với các sản
phẩm khác hoặc được tích lũy để đầu tư cho phát triển sản xuất kinh doanh.
Nhiều chuyên gia kinh tế dự đoán chắc chắn rằng, tiêu dùng ở nước ta
sẽ tiếp tục tăng mạnh trong giai đoạn tới, thậm chí “bùng nổ” do thu nhập và
kỳ vọng tăng thu nhập được cải thiện, cơ cấu hàng hóa tiêu dùng chuyển dần
từ những hàng hóa dịch vụ thiết yếu, cơ bản sang tiêu dùng cao cấp, lâu bền
có giá trị cao hơn. Việc giá cả nhiều loại hàng hóa dịch vụ hiện đang cao hơn
so với khu vực và thế giới giảm xuống cũng là một kích thích mạnh tăng tiêu
dùng, đồng thời, hàng hóa dịch vụ sản xuất trong nước sẽ phải hạ giá thành,
nâng cao chất lượng, đa dạng hóa nhằm cạnh tranh với hàng hóa dịch vụ
nhập khẩu nên người tiêu dùng sẽ được lợi nhiều nhất.
- Do giảm thuế nhập khẩu nên xã hội sẽ giảm bớt được những thiệt hại
vô ích phải gánh chịu do thuế nhập khẩu bảo hộ gây ra. Không những đối với
người tiêu dùng mà cả xã hội đều lấy lại được những mất mát không đáng có
khi thực hiện chính sách thuế nhập khẩu bảo hộ.
3). Khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài lớn hơn
Hiện nay, theo tính toán của Tổng cục Thống kê vốn đầu tư là nhân tố
quan trọng nhất đóng góp tới gần 54% vào mức tăng trưởng kinh tế ở nước ta
kể từ năm 2003 đến nay. Trong giai đoạn tới, dự báo qui mô vốn đầu tư và cơ
cấu nguồn vốn đầu tư toàn xã hội sẽ có những chuyển biến tích cực. Cụ thể:
- Tạo cơ hội và khả năng thu hút mạnh hơn các nguồn vốn bên ngoài
cho ĐTPT.
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng trong nền
kinh tế nước ta: chiếm gần 30% vốn đầu tư xã hội, 35% giá trị sản xuất công
nghiệp, giải quyết việc làm cho hơn 70 vạn lao động và hàng chục vạn lao
động gián tiếp. Hiện Việt Nam đứng thứ 50 trong số 140 nước về chỉ số FDI
và được xếp vào hàng những quốc gia nhận được vốn FDI nhiều hơn so với
tương quan qui mô của nền kinh tế.
Nhờ dòng vốn đầu tư toàn cầu khởi sắc đã giúp hoạt động thu hút vốn
đầu tư nước ngoài của Việt Nam trở thành một điểm sáng trong những năm
vừa qua. Kết quả là, kết thúc năm 2004, cả nước đã thu hút được 4,2 tỷ USD
vốn đầu tư mới, tăng 37,8% so với năm 2003; Năm 2005 thu hút gần 6 tỷ
USD và là mức cao nhất kể từ khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ
khu vực châu Á năm 1997.
4). Phân bổ nguồn lực tài chính hiệu quả hơn
Trong giai đoạn hội nhập WTO do Việt Nam phải thực hiện cam kết
minh bạch hóa chính sách, xóa bỏ các khoản hỗ trợ tài chính bị cấm nên buộc
phải cơ cấu lại chi tiêu khu vực tài chính công và phân bổ nguồn lực tài chính
trong nền kinh tế theo hướng hiệu quả.
225
Đồng thời do phải thực hiện cắt giảm thuế quan và các biện pháp phi
thuế quan trong những thời hạn nhất định theo các cam kết quốc tế đã tác
động đến năng lực và hiệu quả của các ngành sản xuất kinh doanh trong
nước. Những ngành có năng lực hoạt động yếu, khả năng cạnh tranh kém
phải di chuyển nguồn lực của mình sang các ngành khác có hiệu quả hơn.
Với sự giới hạn về nguồn lực của toàn xã hội, sự giảm bớt nguồn lực của
ngành này sẽ tập trung cho những ngành khác. Đến lượt các ngành đó lại tiếp
tục tác động tới những ngành có liên quan theo hướng đầu tư vào những
ngành đem lại hiệu quả. Do đó, sẽ diễn ra tác động phân bổ lại nguồn lực của
xã hội, làm cho nguồn lực tài chính của đất nước được sử dụng hiệu quả hơn.
5). Tạo cơ hội để phát triển hoạt động ngân hàng
Hội nhập kinh tế trong lĩnh vực ngân hàng mang lợi những cơ hội lớn
để các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, và
nền kinh tế có thể nâng cao khả năng phân bổ các nguồn lực và tiếp cận các
dịch vụ với các chi phí thấp hơn hoặc chất lượng tốt hơn, các nguồn lực sẽ
được phân bổ hiệu quả hơn.
Hội nhập trong lĩnh vực ngân hàng ngoài việc cho phép các ngân hàng
nước ngoài cạnh trạnh trong một sân chơi công bằng, còn tạo điều kiện thuận
lợi cho các ngân hàng trong nước thâm nhập vào thị trường quốc tế, mở ra cơ
hội cho ngành ngân hàng thực hiện các trao đổi, hợp tác quốc tế, từ đó nâng
cao uy tín và vị thế của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong các giao dịch tài
chính quốc tế19.
Sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài vào thị trường Việt Nam sẽ
làm gia tăng cả mức độ cạnh tranh và sự lành mạnh, an toàn của hệ thống
ngân hàng trong nước: Các ngân hàng Việt Nam có điều kiện tranh thủ vốn,
công nghệ, kinh nghiệm quản lý của ngân hàng các nước trên thế giới và đào
tạo đội ngũ cán bộ, buộc các NHTM Việt Nam phải cơ cấu lại tổ chức, tăng
năng lực tài chính, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn và phát triển dịch
vụ ngân hàng mới.
Như vậy, bối cảnh mới đang diễn ra trong lĩnh vực ngân hàng đã tạo ra
động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và nâng cao tính minh bạch, tính tự
chịu trách nhiệm của hệ thống ngân hàng, qua đó nâng cao hiệu quả điều
hành trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng.
1.3.2. Thách thức đối với kinh tế và tài chính, tiền tệ
1). Thách thức đối với nền kinh tế
Mặc dù kinh tế nước ta có tốc độ tăng trưởng khá, nhưng vẫn có nguy cơ tụt hậu, thu nhập quốc dân đầu người thấp, khoảng cách phát triển vẫn doãng rộng
Trong giai đoạn 2006-2010, dự báo tăng trưởng kinh tế trong nước
tiếp tục đạt tốc độ cao 7,5-8%/năm. Một mặt, tăng trưởng cao có khả năng
226
tạo ra nguồn lực tài chính lớn, nhưng mặt khác, để tăng trưởng cao đòi hỏi
tiếp tục tăng đầu tư cho tăng trưởng. Bên cạnh đó, đây được xem là giai đoạn
nhà nước sẽ chú trọng tới hiệu quả tăng trưởng.
Tuy những thành tựu đã đạt được trong 5 năm qua là đáng ghi nhận
nhưng còn dưới mức khả năng phát triển của đất nước. Hoạt động kinh tế- xã
hội còn nhiều bất cập, yếu kém.
Chất lượng phát triển kinh tế-xã hội và năng lực cạnh tranh của nền
kinh tế còn yếu. Tăng trưởng kinh tế những năm qua chưa phát huy mạnh các
nhân tố theo chiều sâu, chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước.
Năng lực cạnh tranh, năng suất, chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế
còn thấp. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, hiệu quả thấp. Công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn triển khai chậm, còn lúng túng,
thiếu tính bền vững. Tỷ trọng công nghiệp gia công, lắp ráp còn lớn: tốc độ
đổi mới công nghệ chậm. Đóng góp của khu vực dịch vụ vào GDP còn thấp
và có xu hướng giảm xuống.
Trong giai đoạn 2006-2010, cho dù về chỉ tiêu GDP/đầu người có
vượt ngưỡng những nước kém phát triển thì nền kinh tế trong nước vẫn còn
trong tình trạng kém phát triển, tụt hậu xa so với nhiều nước trong khu vực
và trên thế giới.
Các cân đối vĩ mô chưa vững chắc
Các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc. Cán cân thanh toán quốc tế,
dự trữ ngoại tệ còn mất cân đối. nguồn lực đất nước chưa được huy động hết
và sử dụng chưa thật hiệu quả; tỷ lệ thu nội địa thấp, chưa đáp ứng được nhu
cầu chi tiêu; cơ cấu chi ngân sách chưa thực sự hợp lý; đầu tư của nhà nước
còn dàn trải, thất thoát, hiệu quả thấp. Nợ xấu trong hệ thống ngân hàng còn
cao và còn tiềm ẩn những yếu tố rủi ro.
Hội nhập kinh tế quốc tế và hoạt động đối ngoại còn nhiều khó khăn,
hạn chế. Quy mô xuất khẩu còn nhỏ bé, sản phẩm xuất khẩu qua chế biến,
chế tác sâu còn chiếm tỷ lệ thấp, nhập siêu còn lớn.
Do khủng hoảng tài chính tác động ảnh hưởng đến khu vực tài chính
nói chung làm cho hoạt động dịch vụ tài chính của Việt Nam đã yếu kém,
khả năng cạnh tranh thấp lại càng gặp nhiều khó khăn trong bối cảnh hội
nhập tài chính đang ngày càng sâu rộng.
2). Thách thức đối với hoạt động tài chính
Nhu cầu đòi hỏi huy động nguồn vốn lớn để tăng trưởng nhưng khả năng đáp ứng còn hạn chế.
Để tăng trưởng kinh tế cao đòi hỏi phải huy động được một số vốn
không nhỏ nhằm đáp ứng được mức đầu tư toàn xã hội khoảng trên 40%GDP
(để đảm bảo tăng trưởng GDP trên 8%/năm, trong điều kiện hệ số ICOR
227
chưa có nhiều cải thiện). Điều này đòi hỏi đa dạng hóa các kênh huy động
vốn đồng thời nâng cao tỷ lệ động viên thu NSNN.
Tuy nhiên, trong bối cảnh khi mà nền kinh tế Việt Nam còn đang
trong quá trình chuyển đổi và HNQT, đây không phải là một nhiệm vụ dễ
dàng. Những bất cập nổi lên là:
- Do thực hiện các cam kết quốc tế về cắt giảm thuế quan và phi
thuế quan nên số thu NSNN từ thuế XNK sẽ giảm trong những
năm tới
- Trong điều kiện giá dầu diến biến thất thường và có thể sẽ hạ
trong vài năm tới kéo theo giảm tỷ trọng thu từ dầu thô trong
tổng thu NSNN.
- Việc tăng tỷ trọng thu nội địa trong tổng thu NSNN sẽ gặp
những khóa khăn, đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân do thu nhập
bình quân đầu người thấp và khả năng kiểm soát thu nhập còn
nhiều bất cập.
- Nếu tăng tỷ lệ động viên về thuế so với GDP quá cao có thể sẽ
hạn chế kích thích tăng trưởng kinh tế do khả năng tích lũy nội
bộ nền kinh tế còn thấp.
- Nếu tăng vay nợ chính phủ cả trong và ngoài nước sẽ đặt áp lực
tăng lạm phát và an ninh tài chính quốc gia.
Hiệu quả phân bổ vốn NSNN còn bất cập
Hiện nay tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực nhà nước khá lớn, nhưng
hiệu quả phân bổ vốn còn chưa cao. việc phân bổ các nguồn lực tài chính còn
mang nhiều tính chủ quan, duy ý chí và không phù hợp với yêu cầu phát triển
kinh tế. Nhiều DNNN và nhiều ngành kinh doanh kém hiệu quả nhưng vẫn
nhận được nhiều vốn để phát triển, trong khi nhiều dự án có triển vọng lại rơi
vào tình trạng thiếu vốn. Bởi vậy, thách thức đối với hoạt động tài chính
trong tương lai là phải làm sao để các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, các
ngành kinh tế có triển vọng nhận được đủ vốn để phát triển.
Tăng rủi ro và bất ổn đến an ninh tài chính quốc gia
HNQT tạo ra những cơ hội để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Tuy
nhiên, nguồn vốn nước ngoài tăng, đặc biệt là vốn đầu tư gián tiếp đổ vào
TTTC tăng nhanh cũng tạo ra áp lực đối với từng bộ phận của TTTC và toàn
bộ hệ thống tài chính. Điều đó có thể dẫn đến nguy cơ đổ vỡ và bất ổn cho an
ninh tài chính quốc gia.
228
3). Thách thức đối với hoạt động ngân hàng
Điều hành CSTT, quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá sẽ gặp nhiều thách thức
Trong giai đoạn phát triển và hội nhập, hoạt động điều hành CSTT,
quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá sẽ gặp khó khăn trong các lĩnh vực sau:
- Kiểm soát tổng phương tiện thanh toán của NHNN sẽ khó khăn hơn.
Trong một nền kinh tế mở, hoạt động của nền kinh tế chịu tác động
của môi trường kinh tế đối ngoại ngày càng nhiều. Những diễn biến cán cân
thanh toán và sự dịch chuyển luồng vốn có tác động rất lớn đối với việc điều
hành CSTT.
- Ảnh hưởng của cán cân thanh toán đến tổng phương tiện thanh toán.
Theo lý thuyết cũng như trên thực tiễn, kết quả của cán cân thanh toán
làm thay đổi tài sản có ngoại tệ ròng (NFA), qua đó làm thay đổi tổng
phương tiện thanh toán. Điều đó được thể hiện qua công thức:
NFA= Cán cân vãng lai (CAB)+ cán cân vốn (CB)
M2 = Tài sản có nước ngoài ròng (NFA) + Tài sản có trong nước
ròng (NDA).
Nhờ quá trình tự do hoá thương mại và đầu tư mà qui mô thương mại
quốc tế của Việt Nam ngày càng gia tăng. Tăng trưởng xuất, nhập khẩu hàng
hóa trong bối cảnh hội nhập chịu tác động mạnh bởi những thay đổi của môi
trường kinh tế thế giới, đặc biệt là diễn biến giá cả hàng hoá trên thị trường
quốc tế. Do vậy, cán cân thương mại không ổn định và theo đó cán cân vãng
lai cũng bất ổn bởi cán cân thương mại luôn là chỉ tiêu phản ánh sát với xu
hướng của cán cân vãng lai.
Trong một số năm, cán cân vãng lai đạt thặng dư nhưng đây chỉ là
thặng dư một cách tạm thời. Thực chất, Việt Nam vẫn đang là nước thiếu hụt
giữa tiết kiệm và đầu tư và việc dựa vào nguồn vốn nước ngoài là cần thiết.
Nhờ chính sách tự do hoá đầu tư, mà trong những năm qua, Việt Nam đã tiếp
cận được nhiều nguồn vốn khác nhau để bù đắp cho thâm hụt cán cân vãng
lai. Vì vậy, cán cân thanh toán tổng thể chủ yếu bội thu qua các năm, giảm
sức ép giảm giá VND, giúp cho việc điều hành CSTT trong nền kinh tế đôla
hoá của Việt Nam có phần thuận lợi hơn. Song nhìn chung diễn biến cán cân
thanh toán không ổn định nên có ảnh hưởng đến diễn biến M2, qua đó đòi
hỏi NHNN phải có những giải pháp hạn chế sự tác động bất ổn này đến M2,
đảm bảo M2 tăng hàng năm phù hợp với mục tiêu.
Trường hợp nền kinh tế20 có dư cung ngoại tệ thì NFA tăng lên và nếu
tài sản có trong nước ròng (chủ yếu là tín dụng trong nước) không đổi, tổng
phương tiện thanh toán sẽ tăng lên. Số liệu thực tế từ 2000-2005 cho thấy, tỷ
trọng NFA trong tổng phương tiện thanh toán (M2) có xu hướng giảm dần từ
43% năm 2000 xuống còn khoảng 26% năm 2005. Tuy nhiên, mức độ tác
229
động đến M2 không ổn định, từ mức tác động 54% năm 2000 xuống 0% năm
2002, sau đó lại tăng lên 20,75% năm 2005. Như vậy, diễn biến cán cân
thanh toán đã có tác động đến sự thay đổi NFA và làm cho biến động của M2
không ổn định.
- Ảnh hưởng của việc tự do hoá các giao dịch vốn đến khả năng kiểm
soát tiền tệ của NHNN.
Trong quá trình mở cửa TTTC, tự do hoá các giao dịch vốn là một xu
thế tất yếu, thực chất của quá trình này là xóa bỏ các hạn chế trong việc
chuyển dịch vốn của các nhà đầu tư nước ngoài, nhất là các khoản đầu tư
gián tiếp. Việc xóa bỏ các rào cản như vậy, theo kinh nghiệm của các nước
có thể xảy ra những bất ổn như sau: (i) Các nhà đầu tư nước ngoài rút vốn
(hoặc đầu tư) đột ngột với qui mô lớn chủ yếu do tâm lý phản ứng dây
chuyền của các nhà đầu tư phát sinh từ những lo lắng về thực trạng kinh tế có
thể bị suy giảm của nước họ đang đầu tư, cũng như lo lắng về sự yếu kém, rủi
ro trong ngành ngân hàng và vĩ mô; (ii) Cho vay bất cẩn và đầu tư không sinh
lời có nguy cơ gia tăng hơn khi tự do hóa các giao dịch vốn, nhất là khi tự do
hóa nhanh trong khu vực tài chính và tự do hóa luồng vốn không đi kèm với
các biện pháp nâng cao năng lực quản trị rủi ro của hệ thống tài chính, cũng
như các cơ quan giảm sát hoạt động của hệ thống này; (iii) Khả năng mất cân
đối vĩ mô có thể xẩy ra khi tự do hóa các giao dịch vốn: Dòng vốn lớn đổ vào
trong nước cũng có thể gây mất cân đối tầm vĩ mô, đặc biệt khi chính sách vĩ
mô không nhất quán và hướng tới những mục tiêu mâu thuẫn nhau. Rủi ro vĩ
mô thường hay xảy ra nếu không có một cơ chế tỷ giá hợp lý phù hợp, thiếu
một CSTT tin cậy.
Trong trường hợp tự do hoá các giao dịch vốn, nếu vẫn duy trì một
chế độ tỷ giá cố định hoặc thiếu linh hoạt, NHTW sẽ không thể sử dụng
CSTT để duy trì sự ổn định giá trong nước, vì khi đó cung tiền phải mở rộng
để ổn định tỷ giá khiến lạm phát trong nước có thể gia tăng. Từ đó cân đối vĩ
mô có thể bị phá vỡ.
Một cơ chế tỷ giá không được các chính sách kinh tế và khu vực tài
chính hỗ trợ sẽ dẫn đến các rủi ro liên quan đến dòng vốn đổ vào trong nước,
cụ thể làm tăng giá trị đồng tiền trong nước, gây khó khăn cho điều hành
CSTT, gây ảnh hưởng đối với sự ổn định kinh tế và tính cạnh tranh của hàng
xuất khẩu. Một cơ chế tỷ giá được các nhà đầu tư quốc tế coi là không ổn
định và thiếu độ tin cậy sẽ làm tăng thêm rủi ro đầu cơ tiền tệ và dòng vốn đổ
ra nước ngoài lớn sẽ gây ra bất ổn TTTC.
Tạo ra áp lực đối với cơ chế truyền tải của CSTT
Thực hiện các cam kết hội nhập đòi hỏi giảm dần sự can thiệp trực tiếp
của chính phủ vào các hoạt động tiền tệ ngân hàng. Chính điều đó cũng tạo ra
áp lực đến cơ chế truyển tải của CSTT.
230
Sự giảm dần can thiệp của Chính phủ vào các hoạt động tiền tệ, tín
dụng có ảnh hưởng nhất định đến cơ chế truyền tải CSTT. Quá trình đổi mới
công cụ điều hành CSTT của NHNN từ năm 1991 đến nay (tăng cường sử
dụng công cụ gián tiếp, tăng tính thị trường trong điều hành tỷ giá và lãi suất)
gắn liền với việc giảm dần sự can thiệp của Chính phủ vào các hoạt động tiền
tệ tín dụng. Các hoạt động cho vay chính sách, cho vay theo chỉ định của
Chính phủ được tách khỏi các hoạt động cho vay thương mại của các NHTM
Nhà nước. Ngân hàng CSXH, Quĩ hỗ trợ phát triển (nay là Ngân hàng Phát
triển) được thành lập để thực hiện cho vay các chương trình kinh tế, cho vay
chính sách của Chính phủ. Điều đó đã góp phần làm cho hoạt động của các
NHTM tuân thủ các nguyên tắc thị trương hơn, từ đó tạo tính nhạy cảm hơn
trong phản ứng chính sách của các NHTM Nhà nước trước những thay đổi
của CSTT.
Mặt khác, hội nhập kinh tế quốc tế lại ảnh hưởng lớn đến tính cạnh
tranh, độ sâu và sự đa dạng của TTTC, điều đó sẽ tăng khả năng truyền tải
các tác động của CSTT đến nền kinh tế, cơ chế truyền tải CSTT trở nên năng
động và nhạy cảm hơn. Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực và các
nước đang phát triển trên thế giới thì mức độ cạnh tranh, độ sâu và sự đa dạng
của TTTC còn những hạn chế nhất định, như mức độ cạnh tranh của các chủ
thể trong lĩnh vực tài chính ngân hàng Việt Nam còn thấp do có sự “độc
quyền” theo nhóm của các NHTM Nhà nước; thị trường tín dụng còn nhiều
bất cập: chất lượng tín dụng thấp, nợ quá hạn cao, thị trường tín dụng còn
phân cách... làm ảnh hưởng đáng kể đến tác động của CSTT đến tổng cầu; sự
gắn kết giữa thị trường tiền tệ và TTCK còn rất mỏng manh, mức độ tác động
qua lại giữa thị trường tiền tệ và TTCK ở Việt Nam còn chưa rõ nét do thị
trường tiền tệ mức độ phát triển còn hạn chế. Chính những hạn chế này ảnh
hưởng đến khả năng truyền tải nhanh những tác động của CSTT đến nền
kinh tế.
231
Chương 2. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI
CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN 2006-2010
2.1. ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU THU NSNN GIAI ĐOẠN 2006-2010
2.1.1. Yêu cầu chủ yếu điều chỉnh cơ cấu thu NSNN giai đoạn 2006-
2010
Mục tiêu xuyên suốt của chuyển dịch cơ cấu thu NSNN là tiến đến xây
dựng một cơ cấu thu ngân sách ổn định một cách linh hoạt, đảm bảo tính bao
quát và hệ thống, phù hợp với nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa nhằm đảm bảo đảm bảo nguồn lực tài chính ổn định lâu dài phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; góp phần thực hiện
bình đẳng, công bằng xã hội và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Xuất phát từ mục tiêu nói trên, các yêu cầu đối với chuyển dịch cơ cấu
thu ngân sách bao gồm:
1) Chuyển dịch cơ cấu thu ngân sách phải đảm bảo phù hợp với điều
kiện kinh tế xã hội và có tác động tích cực thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội.
Đây là yêu cầu quan trọng nhất đối với việc chuyển dịch cơ cấu thu ngân
sách vì với cùng một tổng mức thu nhưng cơ cấu thu khác nhau sẽ có ảnh
hưởng khác nhau đến nền sản xuất xã hội. Một cơ cấu thu ngân sách phù hợp
là một cơ cấu thu ngân sách trong đó ít ảnh hưởng bóp méo nhất đến các hoạt
động của nền kinh tế và các hành vi của các chủ thể trong xã hội. Tuỳ theo
từng giai đoạn và điều kiện phát triển kinh tế xã hội của từng nước, cơ cấu
thu ngân sách tối ưu thường khác nhau và do vậy không có chung một cơ cấu
thu ngân sách phù hợp cho mọi hoàn cảnh và giai đoạn phát triển của nền
kinh tế.
2) Chuyển dịch cơ cấu thu ngân sách phải đảm bảo huy động đủ các
nguồn thu để đáp ứng nhu cầu chi thường xuyên của Nhà nước và dành một
phần cho tích luỹ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đây là yêu cầu mang tính bắt buộc đối với việc chuyển dịch cơ cấu thu ngân
sách ở nước ta nhằm đáp ứng các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế-xã
hội đã đặt ra.
3) Chuyển dịch cơ cấu thu ngân sách phải đảm bảo áp dụng một hệ
thống thu thống nhất, công bằng, bình đẳng, không phân biệt giữa các thành
phần kinh tế cũng như giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài.
4) Chuyển đổi hệ thống thu ngân sách phải đảm bảo phát huy vai trò
tích cực của thu NSNN tác động đến việc phân phối thu nhập công bằng hợp
lý, tách chính sách xã hội ra khỏi các chính sách thu ngân sách và tạo điều
232
kiện thúc đẩy cải cách hành chính và hiện đại hoá công tác quản lý thu
NSNN.
5) Chuyển dịch cơ cấu thu ngân sách phải đảm bảo phù hợp với tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế, đáp ứng được yêu cầu bảo hộ có chọn lọc, có
thời hạn, có điều kiện một cách hợp lý, tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế,
thúc đẩy sản xuất phát triển, bảo đảm lợi ích quốc gia.
2.1.2. Định hướng điều chỉnh cơ cấu thu NSNN
1). Xác định tỷ lệ động viên hợp lý
Theo mục tiêu của Đại hội IX thì tỷ lệ động viên vào NSNN cả giai
đoạn 2001-2010 phải đạt là 20-21%GDP, trong đó thuế, phí khoảng 18-
19%GDP; giai đoạn 1991-2000 đạt 20,8%GDP, trong đó động viên thông
qua thuế, phí là 19,7%GDP.
Giai đoạn 2001-2005 tỷ lệ động viên bình quân vào NSNN đạt
24,68%GDP. Đây là mức tăng khá cao và nhanh so với các giai đoạn trước.
Một mặt, do cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công
nghiệp và dịch vụ; mặt khác, mở rộng đối tượng tính thuế và chịu thuế, công
tác quản lý thuế ngày càng hiệu quả.
Theo kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006-2010, dự báo với
quy mô thu NSNN đạt 1.400-1.500 tỷ thì tỷ lệ động viên vào NSNN có thể
đạt khoảng 23%GDP.
Tuy nhiên trong thực tế những năm gần đây, tỷ lệ động viên thu
NSNN vẫn có xu hướng tăng cao. Năm 2006 tỷ lệ động viên đạt 27,1%GDP,
năm 2007 ước đạt 25,2%GDP. Như vậy, tỷ lệ động viên thu NSNN trong
thực tế vẫn tăng với tốc độ khá nhanh. Đó là điều bất hợp lý.
Để thuế trở thành công cụ điều tiết vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng đạt
mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội đã đề ra, đồng thòi đảm bảo cân
đối ngân sách một cách tích cực, giữ bội chi ở mức hợp lý, tăng dần dự trữ,
đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và phù hợp với lộ trình hội nhập quốc tế, thì
cần phải xác định tỷ lệ động viên thu NSNN ở mức hợp lý.
Xem xét, cơ cấu thu NSNN giai đoạn 10 năm (1996-2005) ta thấy:
- Tỷ lệ động viên thu NSNN cả giai đoạn đạt trung bình: 22,3%GDP
- Tỷ lệ động viên từ dầu thô đạt trung bình 4,75%GDP
- Tỷ lệ thu NSNN trừ dầu thô đạt trung bình 17,56%GDP
Trong đó, tỷ lệ thu NSNN từ dầu thô thường không ổn định và phụ
thuộc vào các yếu tố bên ngoài. Vì vậy, để xác định cơ cấu và tỷ lệ động viên
hợp lý có thể áp dụng 2 phương án sau:
- Xác định tỷ lệ động viên thu NSNN trừ dầu thô: 17-18% GDP
233
- Xác định tỷ lệ động viên thu NSNN bằng mức 17-18%GDP cộng với
tỷ lệ thu NSNN từ dầu thô khoảng 5%GDP. Như vậy tỷ lệ động viên thu
NSNN hợp lý khoảng 22-23%GDP
2). Điều chỉnh cơ cấu thu giữa trong nước và ngoài nước
Thực hiện chuyển dịch cơ cấu hệ thống thu theo hướng tăng dần tỷ
trọng nguồn thu trong nước và tỷ trọng thuế, phí trong tổng nguồn thu
NSNN: Thu nội địa đạt bình quân trên 60% tổng thu NSNN.
Đến năm 2010 tỷ trọng thu nội địa trong tổng thu NSNN đạt mức
63,9%, đạt mức trung bình trong 5 năm là 60% (bình quân 5 năm 2001-2005
là 52,3%).
Thu từ dầu thô sẽ giảm tỷ trọng, đạt mức bình quân trên 20% tổng thu
NSNN
Do giảm sản lượng khai thác dầu thô, (với mức bình quân hàng năm
khoảng 1 triệu tấn, tốc độ trung bình khoảng 7%/năm) và xu hướng giảm nhẹ
giá dầu trên thị trường thế giới, nên tỷ trọng thu từ dầu thô dự báo giảm
xuống còn 17,9% vào năm 2010, trung bình 5 năm đạt 20,5% (mức bình
quân 5 năm 2001-2005 là 23,9%).
Tỷ trọng thu từ thuế XNK giảm còn khoảng 18% tổng thu NSNN.
Tỷ trọng thu từ thuế XNK sẽ giảm xuống còn 17,6% vào năm 2010 do
thực hiện việc cắt giảm thuế quan trong các khuôn khổ cam kết quốc tế, trung
bình 5 năm 2006-2010 đạt 18,2% (bình quân 5 năm 2001-2005 đạt 22%).
3). Điều chỉnh cơ cấu giữa các sắc thuế
Trên cơ sở mở rộng diện thuế trực thu và tăng tỷ trọng thuế trực thu
trong tổng số thu NSNN từ thuế, phí; xây dựng cơ cấu hợp lý giữa các loại
thuế trực thu, thuế gián thu và thuế tài sản.
Cơ cấu thu ngân sách từ thuế, phí và lệ phí dự báo:
- Thuế gián thu đánh trên hàng hoá, dịch vụ: 45%;
- Thuế trực thu đánh trên thu nhập: 35% (kể cả thu từ dầu thô; trong đó
thu từ dầu thô khoảng 10%);
- Thuế tài sản và các loại phí lệ phí: 10%;
2.1.3. Chính sách và giải pháp điều chỉnh cơ cấu thu NSNN
1). Đổi mới thứ tự mục tiêu chính sách
Mục tiêu của chính sách thu NSNN thể hiện những quan điểm tư
tưởng và đường lối, chủ trương của nhà nước trong việc sử dụng công cụ
thuế trong hoạt động thực tiễn. Thông thường mục tiêu chính sách bao hàm
các nội dung sau:
- Mục tiêu huy động nguồn thu NSNN
234
- Mục tiêu kinh tế
- Mục tiêu xã hội
Các mục tiêu nói trên là thống nhất, nhưng trong những điều kiện nhất
định lại mâu thuẫn và chế ước lẫn nhau. Do đó, trong việc đặt ra chính sách
phải có sự xử lý thứ tự ưu tiên của mục tiêu chính sách.
Trong giai đoạn vừa qua, mục tiêu ưu tiên của chính sách thu NSNN
có xu hướng ưu tiên theo thứ tự: trước hết các công cụ thu NSNN phải đảm
bảo huy động đủ nguồn thu để đảm bảo nhu cầu thực hiện các nhiệm vụ kinh
tế-xã hội, sau đó mới thực hiện điều tiết vĩ mô và thực hiện chính sách phân
phối công bằng xã hội. Vì vậy, trong thực tiễn những năm vừa qua mức động
viên thu NSNN có xu hướng tăng và đã tăng rất nhanh, trong khi tác động
của chính sách thu đến kích thích tăng trưởng và phân phối công bằng xã hội
còn nhiều hạn chế.
Có thể nói rằng, đến thời điểm này sứ mạng của mục tiêu huy động
nguồn thu đã hoàn thành, mặc dù nhu cầu chi tiêu NSNN luôn đặt ra áp lực
đối với huy động nguồn thu. Tuy nhiên, mục tiêu quan trọng nhất hiện nay
cần được ưu tiên là kích thích tăng trưởng và phân phối công bằng.
Mặc dù, mục tiêu phân phối công bằng là mục tiêu cuối cùng, song
giai đoạn này chưa thể đặt lên ưu tiên hàng đầu. Với những cơ sở như vậy,
thứ tự thực hiện mục tiêu chính sách thu NSNN trong giai đoạn tới là:
- Mục tiêu kinh tế
- Mục tiêu phân phối, thực hiện chính sách xã hội
- Mục tiêu huy động nguồn thu
Thứ tự thực hiện mục tiêu trên phải được quán triệt và vận dụng vào
từng chính sách thuế cụ thể. Tất nhiên, mỗi sắc thuế do đảm nhiệm chức năng
và vai trò khác nhau nên thứ tự mục tiêu có thể khác nhau, tùy theo chức
năng chính của sắc thuế đó, nhưng trong bất kỳ tình huống nào cũng không
nên đặt mục tiêu huy động nguồn thu NSNN lên hàng đầu.
2). Đổi mới công tác lập kế hoạch thu NSNN
Trong giai đoạn 2001-2005 quy mô và tốc độ thu NSNN có xu hướng
tăng rất nhanh nhanh. Tính chung cả giai đoạn 2001-2005 tổng thu NSNN
đạt 799.241 tỷ đồng, tăng 8,81 lần so với năm 2000, với tốc độ tăng thu khá
cao. Năm 2001 tăng 14,48% so với năm 2001, các sau tăng lần lượt là: năm
2002 – 19,22%; năm 2003 – 14,82%; năm 2004 – 34,26% và năm 2005 là
19,57%. Tính tính độ tăng bình quân trong 5 năm đạt 20,46%, mức tăng cao
nhất trong 15 năm qua.
Mức tăng thu cao ngoài nhân nhân do tăng trưởng kinh tế do hiệu quả
hoạt động kinh doanh và sự chuyển dịch tích cực của cơ cấu kinh tế, còn có 1
phần do yếu tố tăng giá.
235
Tuy nhiên trong thực tiễn xây dựng kế hoạch thu NSNN, thường
không căn cứ vào các quy luật khách quan để tính toán vào các chỉ tiêu thu
ngân sách, mà chỉ ước đoán tốc độ tăng thu ngân sách ở mức bao nhiêu. Từ
đớ ước đoán xây dựng thành các chỉ tiêu kế hoạch. Vì vậy có hiện tượng tốc
độ tăng thu nănm kế hoạch có thể khác xa so với tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Có thể xảy ra 2 các trường hợp:
Tốc độ tăng thu ngang bằng tốc độ tăng trưởng, Trường hợp này được
coi là bình thường, nghĩa là hệ số điều tiết kinh tế của thuế bằng 1 và thuế
không kích thích và không kìm hãm tăng trưởng kinh tế.
Tốc độ tăng thu lớn hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế, thể hiện hệ số điều
tiết kinh tế của thuế lớn hơn 1. Điều này phát sinh tác động kìm hãm tăng
trưởng của thuế
Tốc độ tăng thu nhỏ hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế, thể hiện hệ số điều
tiết kinh tế của thuế nhỏ hơn 1. Điều này phát huy tác động kích thích kinh tế
của thuế.
Trong thực tế, tốc độ tăng trưởng kinh tế thường được tính toán theo
giá cố định đã loại trừ yếu tố tăng giá, còn tốc độ tăng thu NSNN được tính
bao hàm cả yếu tố tăng giá. Do đó, để công tác kế hoạch hóa thu NSNN đảm
bảo thực hiện được các mục tiêu chính sách, chúng tôi đề xuất về tính toán
chỉ tiêu kế hoạch thu NSNN như sau:
- Bước 1: Lập kế hoạch thu NSNN vĩ mô
Tkh = Tbc x {1 + (Tkt + Tgc)}
Trong đó: Tkh - Tổng thu NSNN năm kế hoạch
Tbc – Tổng thu NSNN năm báo cáo
Tkt – Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm kế hoạch
Tgc – Tốc độ trượt giá năm kế hoạch
Với công thức trên, hệ số điều tiết kinh tế của thuế là bằng 1, chứng tổ
thuế là công cụ trung lập trong điều tiết vĩ mô. Tuy nhiên có thể điều chỉnh
chỉ tiêu Tkt tăng giảm tùy thuộc ngữ cảnh của năm kế hoạch để phát huy tác
động điều tiết kinh tế vĩ mô của thuế.
Nếu áp dụng công thức này để tính số thu NSNN năm 2005 cho thấy:
Năm 2004 tổng thu NSNN là 190,927 nghìn tỷ đồng, tốc độ tăng
trưởng kinh tế năm 2005 dự kiến 8,5%, tốc độ tăng giá năm 2005 dự kiến
8,3%. Như vậy số thu NSNN năm 2005 được xác định như sau:
Tổng thu NSNN năm 2005 = 190,927 x 1 + (8,5%+8,3%)
Tổng thu NSNN năm 2005 = 190,927 x 1+ 16,8%
Tổng thu NSNN năm 2005 = 223,000 nghìn tỷ
236
Nếu tính tỷ lệ động viên thì chỉ đạt 26,57%GDP thấp hơn tỷ lệ thực tế
là 27,2%GDP, với tổng thu đạt 228,287 nghìn tỷ.
Tùy thuộc vào yêu cầu điều tiết và kích thích kinh tế, tốc độ tăng thu
có thể được xây dựng thấp hơn mức 16,8%, trên cơ sở cân đối với mục tiêu
huy động nguồn thu NSNN.
Bước 2: Lập kế hoạch tu NSNN theo từng khoản thu
Phân loại các khoản thu có các cơ sở thuế khác nhau, mà các cơ sở
đánh thuế này bị thuộc vào các yếu tố khác nhau. Bảng dưới đây đưa ra
những nhân tố phụ thuộc của từng khoản thu.
Bảng 70 - Các yếu tố chủ yếu hình thành nguồn thu
STT Khoản thu Yếu tố hình thành
1 Thuế GTGT GDP, Giá
2 Thuế TTĐB GDP, Giá
3 Thuế TNDN Lợi nhuận
4 Thu từ dầu thô Sản lượng khai thác và Giá dầu thô
5 Thuế TNCN Tiền lương
6 Thuế nhập khẩu Kim ngạch nhập khẩu
7 Thu khác GDP, Giá
Trên cơ sở các nhân tố phụ thuộc, các khoản thu được phân loại thành
2 nhóm sau đây:
Nhóm có tốc độ tăng trưởng theo mức tăng trưởng của GDP, bao gồm:
Thuế GTGT, Thuế TTĐB và các khoản thu khác.
Nhóm có tốc độ nhanh hơn tốc độ tăng trưởng, bao gồm: Thu từ xuất
nhập khẩu, thu dầu thô.
Nhóm có tốc độ tăng chậm hơn tốc độ tăng trưởng: Thuế TNDN,
Thuế TNCN.
Trên cơ sở phân loại trên có thể áp dụng hệ số điều tiết vĩ mô phù
hợp.
Bước 3: Tổng hợp kế hoạch thu NSNN
Trên cơ sở 2 bước trên sẽ nghiên cứu xem xét để tổng hợp thành kế
hoạch thu NSNN với những cơ cấu giữa các khoản thu được hình thành một
cách kế hoạch.
3). Đổi mới nội dung chính sách thuế
1. Thuế GTGT
Xuất phát từ những mặt hạn chế của chế độ thuế GTGT ở nước ta thời
gian qua, định hướng và giải pháp đổi mới nội dung chính sách thuế GTGT
như sau:
237
Về phạm vi áp dụng:
Nguyên tắc áp dụng thuế GTGT một cách hiệu quả là mở rộng diện
chịu thuế nhưng thu hẹp đối tượng thu thuế. Để áp dụng nguyên tắc đó, đề
nghị thực hiện các giải pháp sau:
- Xác định ngưỡng chịu thuế GTGT hợp lý
- Giảm dần các đối tượng không thuộc diện chịu thuế GTGT
Về thuế suất:
- Thu hẹp phạm vi áp dụng nhiều mức thuế suất thuế GTGT (5%,
10%)
- Tiến đến áp dụng thống nhất 1 thuế suất thuế GTGT (trừ mức 0%)
Trong những năm qua, việc áp dụng thuế GTGT với nhiều mức thuế
suất đã tạo ra nhiều khó khăn trong quản lý và có tác động yếu đến khả năng
tăng trưởng của những ngành cần khuyến khích. Để hoàn thiện thuế GTGT,
đề nghị áp dụng thống nhất một mức thuế GTGT cho tất cả các loại hàng
hoá, dịch vụ (trừ mức 0% vẫn áp dụng đối với hàng hoá và dịch vụ xuất
khẩu). Tuy nhiên 1 mức thống nhất là bao nhiêu thì cần phân tích tính toán kỹ
lưỡng để đảm bảo cơ cấu thu NSNN hợp lý, có tác dụng kích cầu tiêu dùng
và kích thích tăng trưởng.
Mặt khác, thuế GTGT là một nguồn thu ổn định của NSNN. Do đó, để
có cơ cấu thu NSNN ổn định và hợp lý thì sự ổn định của cơ cấu thuế GTGT
trong tổng thu NSNN có ý nghĩa rất quan trọng.
Tuy nhiên, trong những năm qua tỷ trọng thuế GTGT chiếm tỷ lệ quá
lớn trong tổng thu NSNN, lại có xu hướng tăng nhanh. Mức tăng quá nhanh
của tỷ trọng thuế GTGT là nhân tố nhạy cảm hạn chế tăng sản lượng và tăng
quy mô hoạt động kinh doanh.
Vì vậy, để phát huy vai trò của thuế GTGT chúng tôi đề nghị chỉ nên
áp dụng thuế GTGT thống nhất là 5-7%.
2. Thuế TTĐB:
Thuế TTĐB là loại thuế gián thu cũng có tác động đến hành vi tiêu
dùng nhưng là tiêu dùng hàng hoá cần hạn chế hoặc những hàng hoá cao cấp
cần điều tiết thu nhập. Vì vậy thuế cao hay thấp cũng ít nhiều tác động đến
kích cầu tiêu dùng và tăng trưởng kinh tế.
Hiện nay, thuế TTĐB chỉ đánh vào một số ít đối tượng hàng hoá tiêu
dùng có tính chất đặc biệt. Tuy vậy, chính sách thuế TTĐB vẫn còn phân biệt
mức thuế suất giữa hàng hoá được sản xuất trong nước và nhập khẩu, phân
biệt mức thuế suất tuỳ theo chất lượng và chủng loại trong từng nhóm hàng
hoá chịu thuế. Mặt khác, có một số nhóm hàng hoá đánh thuế TTĐB không
có ý nghĩa thiết thực (vàng mã, bài lá...). Mặc dù áp dụng thuế suất cao gấp
238
nhiều lần thuế GTGT nhưng thuế TTĐB cũng chỉ chiếm tỷ trọng không cao
trong tổng thu thuế.
Phương hướng cải cách thuế TTĐB được nhiều ý kiến đề xuất là nâng
cao tỷ trọng thuế TTĐB trong tổng thu về thuế bằng cách mở rộng đối tượng
chịu thuế TTĐB đối với những hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng cao cấp hoặc
có mức tích luỹ lớn và thực hiện phân biệt các mức thuế suất tuỳ theo chất
lượng, chủng loại từng hàng hoá chịu thuế TTĐB.
Theo quan điểm của chúng tôi, việc mở rộng đối tượng chịu thuế
TTĐB đối với những hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng cao cấp hoặc có mức
tích luỹ lớn là hợp lý, nhưng áp dụng với mức thuế suất thuế TTĐB quá cao
là không hợp lý. Bởi vì, thuế TTĐB cũng là loại thuế gián thu và có vai trò
quan trọng hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng đối với một số hàng hoá tiêu
dùng có tính chất đặc biệt. Bởi vậy, thuế suất cũng nên xây dựng ở mức phù
hợp cho từng loại nhóm hàng hoá và không nên quá cao để các đối tượng nộp
thuế tìm cách trốn thuế. Theo đề xuất của chúng tôi, thuế TTĐB cần hoàn
thiện theo hướng sau đây:
1) Mở rộng đối tượng chịu thuế TTĐB:
Đề nghị đưa thêm một số loại hàng hoá và dịch vụ vào Danh mục
hàng hoá và dịch vụ chịu thuế TTĐB như: điện thoại, điện thoại di động, đồ
điện cao cấp...
2) Xác định hợp lý mức thuế suất thuế TTĐB:
Thực hiện phân biệt mức thuế theo nhóm hàng hoá và dịch vụ chịu
thuế, không áp dụng nhiều mức thuế TTĐB đối với cùng một nhóm hàng
hóa, dịch vụ.
Đề nghị thực hiện phân biệt thuế suất theo nhóm hàng hoá sau đây:
- Những hàng hoá tiêu dùng có hại cho sức khoẻ như rượi, thuốc lá
cần đánh thuế TTĐB với mức thuế suất thật cao.
- Những hàng hoá tiêu dùng cao cấp và những hàng hoá cần thực hiện
điều tiết thu nhập thì nên xây dựng mức thuế hợp lý. Mức thuế cao sẽ kích
thích động cơ trốn thuế. Mặt khác, mức thuế hợp lý vừa góp phần kích cầu
tiêu dùng (kể cả đối với hàng hoá cao cấp), vừa góp phần điều tiết thu nhập
hợp pháp của người tiêu dùng. Theo quan điểm của chúng tôi thuế suất thuế
TTĐB chỉ nên cao gấp 2-3 lần thuế GTGT là phù hợp.
3. Thuế TNDN
Đề nghị hoàn thiện thuế TNDN theo định hướng sau đây
1) Chuyển thuế TNDN thành thuế thu nhập công ty.
Phạm vi điều chỉnh của thuế thu nhập công ty (TNCT) là thu nhập của
các pháp nhân. Hiện nay, thuế TNDN có phạm vi điều chỉnh đối với thu nhập
của các cá nhân kinh doanh và thu nhập của các doanh nghiệp tư nhân. Điều
239
quy định này vừa không phù hợp với thông lệ quốc tế vừa không hiệu quả
trong công tác quản lý thu thuế. Vì vậy, không nên đưa thu nhập của cá nhân
kinh doanh và các doanh nghiệp tư nhân vào phạm vi điều chỉnh của thuế
TNCT. Bởi vì:
Thứ nhất, phản ánh đúng nội dung kinh tế của thuế TNCT là thu nhập
của các pháp nhân kinh doanh.
Thứ hai, tạo điều kiện cho công tác quản lý thu thuế đối với các cá
nhân và hộ kinh doanh tư nhân, khuyến khích thành lập công ty để được
hưởng ưu đãi của nhà nước, góp phần chống thất thu thuế.
Mức thuế TNCT áp dụng chung đối với mọi loại hình công ty thuộc
tất cả các thành phần kinh tế (trừ các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ có ưu đãi
hơn). Đề xuất này đòi hỏi không chỉ liên quan đến việc cải cách thuế TNDN,
mà còn liên quan đến cải cách cả thuế TNCN.
2) Giảm mức thuế suất thuế thu nhập công ty,
Nhằm khuyến khích các doanh nghiệp tích tụ và tích luỹ vốn, tăng
cường đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh và tạo
đà tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, thì nên hạ thấp hơn nữa mức thuế
suất thuế TNDN.
Hiện nay, mức thuế TNDN là 28% áp dụng chung cho các loại hình
doanh nghiệp. Tại Kỳ họp thứ ba Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật thuế
TNDN (sửa đổi) để áp dụng từ ngày 1/1/2009 thì mức thuế suất thuế TNDN
phổ thông giảm xuống còn 25%. Tuy nhiên, theo quan điểm của chúng tôi
trong giai đoạn hiện nay, mức thuế suất này vẫn còn cao, bởi vì: hiện nay
nhiều nước trong khu vực có xu hướng giảm rất thấp thuế TNDN để tạo ra
môi trường cạnh tranh trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài: Singapore
đã triển khai chương trình cắt giảm thuế TNDN từ 24,5% xuống 20% trong 3
năm 2002 – 2004, từ năm 2007 thuế suất thuế TNDN còn 18%.
Với quan điểm đó, chúng tôi đề nghị tiếp tục giảm thuế suất thuế
TNDN, trước mắt xuống 25%, sau đó xuống dưới mức 25% trong dài hạn để
kích thích các doanh nghiệp tăng cường đầu tư phát triển hoạt động kinh
doanh.
Việc giảm thuế suất thuế TNDN sẽ dẫn đến giảm thu NSNN trong
thời gian trước mắt nhưng có tác dụng kích thích tăng trưởng, xét trong dài
hạn sẽ có tác động tăng nguồn thu NSNN.
3) Áp dụng biểu thuế TNDN riêng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
Để góp phần công bằng về thuế giữa các doanh nghiệp lớn và các
doanh nghiệp nhỏ, đề nghị quy định mức thuế TNDN ưu đãi cho các doanh
nghiệp nhỏ và vừa. Có thể áp dụng biểu thuế suất ưu đãi đối với các doanh
nghiệp nhỏ và vừa theo 2 phương án như sau:
240
Phương án 1: áp dụng mức thuế suất thuế TNDN 15% và 20% tuỳ
theo quy mô kinh doanh.
Phương án 2: áp dụng thuế suất thuế TNDN theo biểu luỹ tiến như
biểu sau đây:
Bảng 71 - Biểu thuế TNDN áp dụng đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Bậc Thu nhập chịu thuế cả năm Thuế suất (%)
1 Đến 10.000 15
2 Trên 10.000 đến 20.000 20
3 Trên 20.000 đến 50.000 25
4 Trên 50.000 đến 100.000 28
5 Trên 100.000 25
Với biểu thuế suất trên, nếu thu nhập chịu thuế là 1.000 triệu
đồng/năm chịu tỷ lệ huy động 15%, thu nhập chịu thuế 2.000 triệu tương ứng
17,5%; thu nhập chịu thuế trên 5.000 triệu, mặc dù áp dụng thuế suất 28%
tưởng chừng như chịu gánh nặng thuế cao nhưng thực chất mức huy động
cũng chỉ chiếm 22% (gánh nặng thuế vẫn dưới mức 25%); thu nhập chịu thuế
trên 10.000 triệu mới phải chịu thuế 25%, tương ứng với gánh nặng thuế
25%. Như vậy, mức huy động tăng dần theo mức độ tăng của thu nhập.
Nhưng khi thu nhập tăng đến ngưỡng nhất định (tức là vượt mức giới hạn của
doanh nghiệp nhỏ và vừa) thì gánh nặng về thuế TNDN cao nhất cũng chỉ
bằng 25% (mức thuế đối với doanh nghiệp lớn). Biểu thuế này có sự ưu đãi
đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa nên có tác động kích thích các doanh
nghiệp này phát triển.
So sánh giữa 2 phương án ta thấy: phương án 1 chưa đảm bảo tính
kích thích nhiều nhưng đơn giản và phù hợp với trình độ quản lý hiện tại nên
dễ dàng được chấp nhận. Còn phương án 2 mặc dù đảm bảo tính kích thích
cao hơn nhưng cũng đòi hỏi trình độ quản lý cao hơn, do đó nó phù hợp hơn
trong giai đoạn sau năm 2010.
4. Thuế TNCN
Thuế TNCN gắn nhiều hơn với việc phân phối thu nhập đảm bảo công
bằng xã hội. Mục tiêu của chính sách thuế TNCN ở nước ta là đảm bảo điều
tiết một cách hợp lý thu nhập của cá nhân vào NSNN, đảm bảo công bằng xã
hội và khuyến khích làm giàu hợp pháp. Hiện nay, Luật thuế TNCN đang
được ban hành và chính thức có hiệu lực tưd ngày 1/1/2008. Tuy nhiên để
thuế thu nhập cá nhân phát huy được vai trò tích cực là công cụ điều tiêt phân
phối thu nhập hợp lý, xin đề xuất định hướng như sau:
241
- Mở rộng đối tượng chịu thuế và đối tượng nộp thuế TNCN; từng
bước đưa thuế thu nhập cá nhân trở thành một trong những sắc thuế chính
của hệ thống thuế với cơ sở tính thuế rộng, số lượng đối tượng nộp thuế bao
quát một bộ phận đáng kể người lao động (khoảng 20% số lao động), toàn bộ
các cá nhân và hộ kinh doanh cá thể.
- Từng bước hạ thuế suất để đảm bảo giảm mức thu nhằm khuyến
khích phát triển sản xuất kinh doanh và nỗ lực lao động cũng như đảm bảo
phù hợp với trào lưu giảm thuế suất thuế thu nhập nói chung trên thế giới.
Thuế suất thuế TNCN cao nhất chỉ nên khoảng 25-30%; thấp nhất có thể nên
ở mức 2-3%.
Đối với các khoản thu nhập của cá nhân từ đầu tư vốn như trái phiếu,
cổ phiếu, thu nhập từ bất động sản và một số khoản thu nhập đặc thù cần quy
định mức thuế suất hợp lý hoặc chưa thu thuế để khuyến khích phát triển các
hoạt động và thị trường này trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển.
- Đơn giản hoá các trình tự, thủ tục kê khai, thu nộp, quyết toán thuế,
đặc biệt đối với thuế thu nhập cá nhân, để đảm bảo tiết kiệm thời gian và chi
phí cho đối tượng nộp thuế và cơ quan thuế.
5. Thuế tài sản
Mục tiêu chủ yếu của chính sách thuế tài sản là đảm bảo khuyến khích
sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên và tài sản,
đồng thời đảm bảo nguồn thu ổn định cho ngân sách địa phương. Việc xây
dựng và đưa vào áp dụng các luật thuế tài sản còn có ý nghĩa quan trọng
trong việc tăng cường quản lý các loại tài sản, bao gồm cả tài sản công như
đất đai, tài nguyên và tài sản tư như nhà xưởng, công trình kiến trúc, nhà ở,
phương tiện đi lại... Đây là những loại thuế mới và có ý nghĩa ngày càng
quan trọng, do đó, việc định hướng thiết kế các loại thuế này cần tập trung
vào các nội dung sau:
- Về đối tượng chịu thuế: quy định bao quát các loại đất đai, tài
nguyên, tài sản thuộc đối tượng chịu thuế.
- Về căn cứ tính thuế: quy định thống nhất theo giá thị trường (giá đất
đối với thuế sử dụng đất, giá bán tài nguyên đối với thuế tài nguyên và giá trị
tài sản đối với thuế tài sản).
- Về thuế suất: cần quy định thuế suất hợp lý ở mức thấp để khuyến
khích các đối tượng tự nguyện nộp thuế cho NSNN; thông qua đó góp phần
mở rộng đối tượng nộp thuế và tạo nguồn thu đáng kể cho NSNN (phân cấp
cho ngân sách địa phương).
- Về quản lý thuế: để đảm bảo quản lý các loại thuế tài sản một cách
chặt chẽ, có hiệu quả, cần gắn liền công tác quản lý thuế với công tác quản lý
hành chính; từng bước phân cấp quản lý cho các cấp chính quyền địa phương
242
để khuyến khích các địa phương áp dụng các biện pháp nhằm tăng thu cho
ngân sách địa phương.
2.2. ĐIỀU CHỈNH CƠ CẤU CHI NSNN GIAI ĐOẠN 2006-2010
2.2.1. Yêu cầu chủ yếu điều chỉnh cơ cấu chi NSNN giai đoạn 2006 -
2010
1) Chuyển trọng tâm ưu tiên chi NSNN từ đầu tư phát triển sang
thường xuyên, xây dựng một NSNN phát triển nhanh, bền vững về quy mô,
tăng chi NSNN cho các lĩnh vực giáo dục phổ thông, nhất là tiểu học, y tế
cộng đồng, KH&CN.
2) Đảm bảo nhu cầu chi quốc phòng, an ninh, xoá đói giảm nghèo, giải
quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội, đưa mục tiêu phát triển xã hội ngang tầm
phát triển kinh tế, đảm bảo tăng trưởng và phát triển toàn diện, bền vững.
3) Tăng cường dự trữ tài chính và dự trữ quốc gia để chủ động đối phó
thiên tai và thực thi những nhiệm vụ quan trọng đột xuất phát sinh, giảm tác
động xấu của những biến động lớn của thị trường, giá cả thế giới.
4) Chú trọng đúng mức tới chi bảo vệ môi trường, bố trí đủ nguồn để
chi trả đầy đủ các khoản nợ trong và ngoài nước khi đến hạn.
5) Thực hiện cân đối NSNN tích cực, vững chắc ở cả NSTW và
NSĐP, đảm bảo vai trò chủ đạo của NSTW để thực hiện những nhiệm vụ
chiến lược của quốc gia, điều phối, ổn định kinh tế vĩ mô đảm bảo tính bền
vững của toàn hệ thống.
6) Tăng cường phân cấp, phát huy vai trò chủ động của NSĐP trong
việc thực hiện nhiệm vụ phát triển KT-XH, trật tự an toàn ở địa phương, tăng
số địa phương tự cân đối và có đóng góp với NSNN.
7) Bố trí phân bổ ngân sách hợp lý, hiệu quả giữa các vùng kinh tế trên
cơ sở phát huy triệt để lợi thế của từng vùng và sức mạnh tổng hợp trong sự
liên kết giữa các vùng; ưu tiên đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông, giáo
dục, y tế đối với miền núi, đảm bảo kết nối thông suốt, thuận tiện và nhanh
chóng giữa các vùng đồng bào dân tộc ít người, khó khăn với các đô thị,
đồng bằng, duyên hải.
8) Đẩy mạnh thực hiện xã hội hoá, đa dạng hoá công tác huy động
nguồn lực ở những khu vực có điều kiện huy động toàn xã hội chăm lo sự
nghiệp giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao.
2.2.2. Định hướng đổi mới cơ cấu chi NSNN
1). Tăng quy mô, điều chỉnh kết cấu chi NSNN
Quy mô chi NSNN giai đoạn 2006-2010 tăng lên khoảng 1.800 - 2000
nghìn tỷ đồng, chiếm 30-31% so GDP, tăng 2 lần so giai đoạn 2001 – 2005,
243
với tốc độ tăng chi đạt 12,5-13%/năm. Giai đoạn 2011-2015 và 2016-2020,
quy mô chi NSNN nên được đảm bảo theo tỷ trọng này (30-31%GDP).
Theo đó, cơ cấu chi NSNN sẽ được điều chỉnh theo hướng “đảm bảo
các tỷ trọng hợp lý, có mục tiêu ưu tiên rõ ràng giữa chi thường xuyên, chi
đầu tư phát triển và chi trả nợ theo hướng giảm tỷ trọng chi đầu tư phát
triển, tăng ổn định chi thường xuyên, bố trí đủ chi trả nợ, viện trợ; điều chỉnh
tăng các mức chi cho con người, đảm bảo tiền lương đủ để tái sản xuất sức
lao động của người hưởng lương.”
2). Giảm tỷ trọng chi ĐTPT
Tỷ trọng chi ĐTPT trong tổng chi NSNN bình quân 5 năm 2001-2005
đạt mức 30,6% (8,5%GDP) là khá cao. Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5
năm 2006-2010 dự kiến: Tổng chi cho ĐTPT từ nguồn NSNN giai đoạn
2006-2010 đạt 498 nghìn tỷ đồng, tương đương 377 nghìn tỷ đồng theo giá
năm 2005 với tỷ trọng chi ĐTPT đạt 29% tổng chi NSNN. Tuy tỷ lệ này đã
giảm so với giai đoạn 2001-2005 nhưng vẫn còn khá cao.
Để tập trung nguồn tài chính cho phát triển nhân lực, cần thiết phải
giảm tỷ trọng chi đầu tư phát triển xuống mức 26-28% trong giai đoạn 2006-
2010 và còn khoảng 25% giai đoạn sau 2010. Phần “dôi ra” này được bố trí
tăng chi thường xuyên (chủ yếu là chi cho con người, KH&CN, giáo dục phổ
thông, y tế dự phòng). Thực hiện ổn định và tăng dần tỷ trọng chi thường
xuyên, đảm bảo chi trả nợ, viện trợ ở mức đủ thực hiện đầy đủ, đúng hạn các
nghĩa vụ nợ của khu vực công.
3). Ổn định và tăng dần tỷ trọng chi thường xuyên
Tương ứng với việc giảm tỷ lệ chi đầu tư, cần tăng tỷ lệ chi thường
xuyên trong tổng chi NSNN lên khoảng 55% trong giai đoạn 2006-2010 và
cao hơn 55% sau năm 2010.
Trong chi thường xuyên, cần tăng mức đầu tư phát triển sự nghiệp
giáo dục phổ thông, giảm chi cho sự nghiệp đào tạo để đảm bảo cân đối chi
cho cả giáo dục và đào tạo – dạy nghề với mức chi khoảng 21-22% tổng chi
NSNN và sau 2010, cần tăng dần lên mức 25% tổng chi NSNN.
Các khoản chi cho KH&CN, trong giai đoạn 2001-2005 đạt 2% tổng
chi là còn thấp so với thực tế nhu cầu và so với các nước đang phát triển
khác. Để KH&CN trở thành động lực thúc đẩy tăng trưởng, cần tăng mức chi
lên khoảng 2,5-3% tổng chi NSNN vào năm 2010. Phấn đấu đưa mức chi
NSNN cho phát triển KH&CN, đạt bình quân 1%GDP (hiện đã đạt khoảng
0,6%) và đạt bình quân 1,5 đến 2%GDP cho giai đoạn 2011-2020, gần bằng
mức chi của các nước trong khu vực.
Đối với y tế, cần chú trọng tăng chi y tế cộng đồng, giảm tỷ trọng chi
khám chữa bệnh từ NSNN; cần đặc biệt chú trọng y tế cộng đồng và y tế dự
phòng, đồng thời, khuyến khích xã hội hoá huy động các nguồn lực thực hiện
bảo hiểm y tế toàn dân từ năm 2010.
244
4). Xác định cơ cấu chi trả nợ, viện trợ hợp lý
Bố trí hợp lý mức và tỷ trọng chi trả nợ, viện trợ, đảm bảo đủ nguồn để
chi trả các nghĩa vụ nợ khi đáo hạn. Tỷ trọng chi trả nợ, viện trợ dự kiến tăng
từ 14,6% năm 2005 lên 20,9% vào năm 2010, trung bình giai đoạn 2006-
2010 cần đạt 18,1%, giai đoạn 2011-2020 duy trì ở mức 18-20% tổng chi
NSNN là hợp lý. Lý do chủ yếu là sau 20 năm đổi mới, nhiều khoản nợ đã
đến hạn trả, NSNN cần bố trí tăng chi đảm bảo thanh toán đầy đủ, đúng hạn
các nghĩa vụ trả nợ (cả gốc và lãi) trong thời gian tới.
2.2.3. Chính sách giải pháp đổi mới cơ cấu chi NSNN giai đoạn 2006-
2010
Trên quan điểm kế thừa và phát huy các chính sách cơ bản đã được
định hướng và thực hiện từ các năm trước, đồng thời tạo ra sự đổi mới có tính
đột phá nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội có chất lượng, bền vững,
từ nay cho đến năm 2010, kiến nghị về giải pháp cơ bản đổi mới cơ cấu ngân
sách là:
1). Xác định đúng thứ tự ưu tiên chi NSNN
- Trong điều kiện quy mô NSNN có giới hạn, nếu phạm vi chi rộng thì
mỗi khoản chi sẽ nhỏ; khi thiếu sự lựa chọn ưu tiên thì chi ngân sách càng
dàn trải, nhỏ giọt dẫn đến lãng phí, chi không có hiệu quả. Do đó, xác định
khoản nào cần, khoản nào không cần chi, có đúng đối tượng không? có phù
hợp bản chất, chức năng NSNN không? và lựa chọn thứ tự, mức độ ưu tiên
(cơ cấu định lượng) phù hợp với bối cảnh, nhiệm vụ của từng thời kỳ (ngắn
hạn, trung hạn, dài hạn) là rất quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng
NSNN. Do đó, giải pháp trước tiên trong đổi mới cơ cấu chi NSNN là phải
lựa chọn ưu tiên, xác định trọng điểm chi NSNN.
Trong thời kỳ CNH, HĐH, về mặt định lượng, trật tự ưu tiên tổng quát
của chi NSNN cần được xác định theo các trọng điểm sau:
Trước hết, bố trí đủ nguồn bảo đảm thực hiện chức năng quản lý nhà
nước, bảo đảm công bằng xã hội và trả đầy đủ nợ đến hạn của nhà nước, thực
hiện ưu tiên chi đúng, chi đủ cho các nội dung chi thường xuyên của NSNN.
Tiếp theo là ưu tiên chi ĐTPT một cách hợp lý. Trong đó, chú trọng
đặc biệt tới việc thu hút các nguồn vốn khác của toàn xã hội cho đầu tư xây
dựng, hoàn thiện cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội, năng lượng, giao thông, hạ
tầng công nghệ cao, hạ tầng bưu chính, viễn thông, hạ tầng thanh toán quốc
gia nhằm tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho kinh tế cả nước phát triển,
tiết kiệm chi phí, tăng cường sức cạnh tranh quốc gia và sức cạnh tranh của
các doanh nghiệp trong nước.
Cần chuyển hướng ưu tiên chi trong kết cấu chi NSNN, nghiên cứu
chuyển một phần chi ĐTPT sang bổ sung cho đủ nguồn ngân sách thường
xuyên bảo đảm hoạt động bình thường của bộ máy quản lý nhà nước. Chí ít,
245
trong những năm tới cũng không nên chú trọng quá mức cần thiết cho chi đầu
tư cho đến khi nào chưa thay đổi căn bản diện mạo đầu tư thiếu hiệu quả,
lãng phí, thất thoát như trong thập niên vừa qua. Phần vốn đầu tư bị giảm đi
chủ yếu sẽ được cắt giảm ở việc đầu tư tràn lan, trước mắt, cần nghiêm túc rà
soát và cắt giảm các công trình trụ sở làm việc, các công trình nhóm C... Sau
khi nghiên cứu tình tình thực tế, cân đối nhu cầu chi thường xuyên và ĐTPT,
giả định rằng có thể chuyển khoảng 10% đến 15% tổng nguồn chi ĐTPT
(khoảng 1%GDP) sang bổ sung cho đủ ngân sách thường xuyên, tăng chi cho
KH&CN, giáo dục, quản lý hành chính nhà nước, phát triển nhân lực có giáo
dục, được đào tạo, đủ trình độ cho CNH, HĐH, tạo động lực cho CNH,
HĐH, xây dựng được hệ thống bộ máy nhà nước trong sạch, hiệu quả, lao
động có năng suất, chất lượng bảo đảm hoạt động bình thường của bộ máy
quản lý nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi để triển khai thông suốt các chính
sách phát triển kinh tế, thực hiện CNH, HĐH.
Tăng chi phát triển KH&CN có bước chuyển biến mạnh mẽ về tốc độ
tăng và mức tăng chi NSNN cho KH&CN tới mức đủ để đưa KH&CN thực
sự trở thành động lực cho CNH, HĐH, hạt nhân quyết định tăng NSLĐ, tạo
dựng nền tảng cho tăng trưởng cao và bền vững, đuổi kịp các nước tiên tiến.
Phấn đấu đưa mức chi NSNN cho phát triển KH&CN, đến 2010, đạt bình
quân 1%GDP (hiện đã đạt khoảng 0,6%) và đạt bình quân 1,5%GDP cho
giai đoạn 2011-2020, gần bằng mức chi của các nước trong khu vực. Cùng
với chính sách huy động các nguồn khác của toàn xã hội, NSNN cung cấp
nguồn tài chính đủ lớn để tạo bước đột phá trong KH&CN.
Tăng cường chi và tích cực quản lý hiệu quả chi ngân sách nhằm nâng
cao chất lượng GD, ĐT và dạy nghề, tạo cơ sở cải thiện chất lượng nguồn
nhân lực cho CNH, HĐH và phát triển bền vững. Cần thiết phải tách chi đào
tạo nghề ở bậc đại học và sau đại học ra khỏi chi giáo dục (từ phổ thông trung
học trở xuống) để có chung mặt bằng so sánh quốc tế, phản ánh chân thực sự
quan tâm đối với giáo dục, thể hiện thực tế chính sách ngân sách đối với giáo
dục phổ thông và giáo dục đại học.
Bố trí hợp lý ngân sách dự phòng, dự trữ tài chính quốc gia. Bố trí
thích đáng nguồn ngân sách để nhà nước triển khai kịp thời các chính sách
can thiệp kinh tế bảo đảm công bằng xã hội trong phát triển kinh tế, phù hợp
với yêu cầu hội nhập quốc tế.
2). Xác định tỷ trọng hợp lý giữa chi ĐTPT và chi thường xuyên theo hướng giảm tỷ trọng chi ĐTPT, tăng chi thường xuyên
Thực hiện cơ cấu hợp lý và quản lý thống nhất giữa chi ĐTPT với chi
thường xuyên và chi trả nợ, trong đó đảm bảo tỷ trọng hợp lý cho ĐTPT, ưu
tiên các nhiệm vụ chi thường xuyên, nhất là chi cải cải cách hành chính, cải
cách toàn diện chế độ tiền lương, chi duy tu bảo dưỡng...
- Duy trì tỷ trọng chi ĐTPT từ ngân sách trong giai đoạn 2006-2010
bằng khoảng 20% tổng mức đầu tư toàn xã hội và bố trí hướng vào mục tiêu
246
tạo nền thu hút các luồng đầu tư xã hội, đảm bảo tính đồng bộ và hợp lý trong
cơ cấu đầu tư. Ban hành và thực hiện nguyên tắc bố trí vốn XDCB theo tiến
độ thực hiện công trình, dự án, có tầm nhìn trung hạn, bãi bỏ việc duyệt, bố
trí hàng năm theo niên độ ngân sách, trên cơ sở quyết định danh mục công
trình trọng điểm của quốc gia, từng ngành, từng địa phương giai đoạn 2006-
2010; yêu cầu dành tối thiểu 70% vốn đầu tư XDCB hàng năm để bố trí cho
công trình thuộc danh mục đã được quyết định đầu tư, chấm dứt tình trạng
đầu tư phân tán, dàn trải, nợ XDCB.
Đồng thời, trong phạm vi an ninh tài chính quốc gia cho phép, thực
hiện bổ sung nguồn đầu tư từ phát hành TPCP trong nước và ngoài nước để
đầu tư các công trình quan trọng...
Trong bố trí vốn đầu tư, tiếp tục ưu tiên tăng vốn đầu tư cho miền núi,
các địa phương và các vùng, miền còn khó khăn để chuyển dịch mạnh cơ cấu
kinh tế, tránh tụt hậu xa so với các địa phương khác; bố trí tăng vốn hợp lý
cho công tác quy hoạch, chuẩn bị đầu tư. Tạo cơ chế về tài chính cho phép
các địa phương, vùng kinh tế trọng điểm, các địa phương có điều kiện phát
triển thuận lợi huy động vốn từ các doanh nghiệp, nhà đầu tư trong nước và
ngoài nước đầu tư không chỉ cho sản xuất kinh doanh mà cả hạ tầng kinh tế -
xã hội. Tổ chức bán hoặc cho thuê quyền khai thác cơ sở hạ tầng quan trọng
như: cầu, đường, cảng hàng không, cảng biển, cơ sở hạ tầng xã hội... để tái
tạo nguồn vốn đầu tư cho ngân sách và nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản.
- Bố trí đủ kinh phí cho hệ thống quản lý nhà nước, cải cách hành
chính và chế độ tiền lương, đảm bảo an ninh quốc phòng. Phối hợp đồng bộ
với các chính sách để thực hiện cải cách hành chính, xoá bỏ các khâu trung
gian, tinh giản bộ máy, trên cơ sở tách bạch quản lý nhà nước với quản lý
kinh doanh và quản lý hoạt động của tổ chức sự nghiệp dịch vụ công.
Đẩy mạnh thực hiện khoán chi hành chính, chuyển các khoản chi có
tính chất dịch vụ như trụ sở, cung ứng vật phẩm văn phòng, phương tiện đi
lại... sang thuê, mua theo hợp đồng để giảm chi phí, tăng hiệu quả sử dụng
kinh phí NSNN.
Thực hiện triệt để và toàn diện về cải cách tiền lương, đảm bảo tiền
lương thực sự thành nguồn thu nhập chính và từng bước trở thành một động
lực cho sự phát triển; tiếp tục thực hiện các giải pháp tạo nguồn thực hiện cải
cách tiền lương theo nguyên tắc các ngành, các cấp, các địa phương, các đơn
vị chủ động sử dụng ngân sách, kinh phí, nguồn thu được giao để tổ chức
thực hiện; NSTW đảm bảo đối với gia đình chính sách, người có công, lực
lượng vũ trang, khu vực hành chính và tăng cường hỗ trợ đối với những
vùng, ngành khó khăn; chống tư tưởng trông chờ ỷ lại vào NSTW; Ban hành
Luật Bảo hiểm xã hội thúc đẩy cải cách chính sách bảo hiểm xã hội theo
hướng tách bạch rõ khu vực nhà nước, khu vực sự nghiệp và khu vực sản
xuất kinh doanh thực hiện nguyên tắc hưởng thụ trên cơ sở đóng góp, khuyến
247
khích xã hội hoá mở rộng các loại hình bảo hiểm tự nguyện đồng thời nâng
cao vai trò quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này.
- Đối với ngân sách phục vụ phát triển các sự nghiệp xã hội, trên cơ sở
xác định rõ các nội dung chi thuộc trách nhiệm Nhà nước, thực hiện ưu tiên
chi có chọn lọc, kiên quyết chuyển các nội dung không thuộc chức năng
nhiệm vụ của Nhà nước hoặc những nội dung mà xã hội có thể đảm nhận
sang các thành phần kinh tế khác và xã hội đảm nhiệm.
- Đảm bảo mức chi ngân sách cho GD&ĐT tăng lên trên 20% tổng chi
NSNN vào năm 2010. Từng bước thực hiện cơ chế Nhà nước tập trung ưu
tiên chi có chọn lọc cho giáo dục tiểu học, trung học cơ sở đối với vùng núi
khó khăn, người nghèo, các gia đình chính sách và một phần trung học phổ
thông. Các đối tượng còn lại (nhất là đào tạo sau trung học phổ thông) do
người đi học đóng góp, tự đảm bảo chi phí học tập.
- Xác định rõ tỷ lệ bố trí chi ngân sách hợp lý giữa khoa học cơ bản và
khoa học ứng dụng. Khoa học ứng dụng tập trung đối với những nhiệm vụ
thuộc khu vực nhà nước, nông thôn, miền núi và vấn đề môi trường. Phát
triển thị trường khoa học công nghệ. Chuyển các tổ chức nghiên cứu
KH&CN sang hoạt động theo mô hình doanh nghiệp; Nhà nước, các doanh
nghiệp, các tổ chức sẽ mua sản phẩm nghiên cứu theo các hợp đồng hoặc đơn
đặt hàng.
Những đánh giá thực trạng về chi NSNN cho thấy, chi ngân sách cho
KH&CN còn rất nhỏ, khoảng 2% tổng chi NSNN, chưa xứng đáng với vị trí
của KH&CN trong nền kinh tế hội nhập, mở cửa theo hướng phát triển hiện
đại, mức chi NSNN cho KH&CN ở nước ta còn quá nhỏ bé (0,6%GDP),
không đủ công lực cho KH&CN tạo đột phá chiến lược để phát triển. Chính
vì thế, cần có những giải pháp đồng bộ tạo nguồn tài chính đa dạng cho
KH&CN gắn với vai trò then chốt của chi NSNN cho phát triển KH&CN,
thúc đẩy tăng NSLĐ. Nói cách khác, cơ cấu chi NSNN hiện hành cần được
đổi mới để nâng cao vị thế của chi NSNN cho KH&CN, tạo đà, tạo thế và
mở rộng khả năng phát huy đa dạng nguồn lực cho KH&CN phát triển.
Cần đổi mới cơ cấu chi NSNN theo hướng tăng chi cho KH&CN để
hỗ trợ hợp pháp cho nền kinh tế tăng sức cạnh tranh quốc tế, nâng cao vị thế
của KH&CN một cách từ từ, liên tục, có trọng điểm, cả về tốc độ chi và số
chi tuyệt đối, đảm bảo mỗi khoản đầu tư từ NSNN cho KH&CN đều đạt tới
ngưỡng cần thiết, đủ để KH&CN nghiên cứu thành công và phát huy được
kết quả nghiên cứu, nâng cao hiệu quả ứng dụng, triển khai. Đến năm 2010
chi NSNN cho KH&CN phải đạt 1% GDP, đến năm 2015 đạt 1,5% (tương
ứng là 3% và 4,5% tổng chi NSNN), thậm chí đến 2020 đạt 2%GDP. Trong
đó, mức chi, tốc độ tăng và CSTC đối với KH&CN phải minh bạch, ổn định,
nhất quán.
Cũng cần lưu ý rằng tăng chi ngân sách cho KH&CN không phải chỉ
là những đòi hỏi một phía. Cần có những thể chế quy định tuân thủ bắt buộc
248
đối với các đơn vị thụ hưởng kinh phí ngân sách cấp trong khuôn khổ những
cơ chế rõ ràng, nhất quán và cởi mở. Đặc biệt tôn trọng nguyên tắc hiệu quả
và nguyên tắc có địa chỉ cụ thể trong quản lý chi cho KH&CN. Nhà nước
phải xác định rõ ràng, cụ thể định hướng chiến lược phát triển KH&CN; phải
có sự phối hợp chặt chẽ, thống nhất và nhất quán giữa các cơ quan chức năng
của chính phủ; cơ chế tài chính, quy trình lập, duyệt dự toán chi, quản lý và
sử dụng hiệu quả nguồn vốn NSNN cấp cho KH&CN phải công khai, đơn
giản, dễ áp dụng.
Nguồn tài chính để tăng chi NSNN cho KH&CN, về dài hạn, được
bảo đảm từ phần KH&CN đóng góp làm tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Trước mắt, có thể lấy từ số vốn dôi ra do hợp lý hóa chi NSNN và mức tăng
bội chi để tăng chi cho KH&CN, tạo bước đột phá cho phát triển kinh tế-xã
hội.
- Đẩy mạnh xã hội hoá các sự nghiệp xã hội theo hướng NSNN chỉ chi
cho các nhiệm vụ mà các thành phần kinh tế khác không đảm nhiệm được
(chi đào tạo nhân tài, chi cho người nghèo, chi cho đối tượng chính sách...),
ngoài phạm vi đó, muốn sử dụng dịch vụ, các đối tượng phải cơ bản tự trang
trải, Nhà nước chỉ hỗ trợ một phần.
- Đổi mới cơ chế quản lý sự nghiệp công, giao quyền và trách nhiệm
cho đơn vị trên cả 3 mặt: tổ chức thực hiện nhiệm vụ, bộ máy tổ chức và tài
chính; thực hiện chuyển cơ chế hoạt động của các cơ sở sự nghiệp công sang
cơ chế quản lý, hạch toán cung ứng dịch vụ; hoạt động tài chính của đơn vị
được công khai và kiểm toán; thực hiện chính sách quản lý tài chính bình
đẳng giữa khu vực công lập và ngoài công lập; từng bước xoá bỏ khái niệm
“biên chế” trong các cơ sở công lập, chuyển sang chế độ “hợp đồng” lao
động dài hạn. Tách bạch quản lý nhà nước ra khỏi việc điều hành công việc
thường xuyên của cơ sở; một mặt trao cho cơ sở đầy đủ quyền tự chủ và đề
cao trách nhiệm người đứng đầu đơn vị về số lượng, chất lượng và hiệu quả
dịch vụ cung ứng; mặt khác đảm bảo quyền sở hữu và vai trò của đại diện
chủ sở hữu trong các cơ sở công lập và ngoài công lập. Thực hiện đẩy mạnh
xã hội hoá trên cơ sở xác định rõ các nội dung nhiệm vụ chi thuộc trách
nhiệm Nhà nước; chuyển các nội dung không thuộc chức năng nhiệm vụ của
Nhà nước sang các thành phần kinh tế khác và xã hội đảm nhiệm; nghiên cứu
thực hiện chính sách đấu thầu cung cấp dịch vụ do Nhà nước đặt hàng;
khuyến khích các cơ sở thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia; chuyển việc
cấp kinh phí Nhà nước hỗ trợ cho người thụ hưởng thông qua các cơ sở công
lập sang cấp trực tiếp cho người thụ hưởng phù hợp với từng lĩnh vực; từng
bước tạo điều kiện cho người thụ hưởng lựa chọn cơ sở dịch vụ không phân
biệt công lập hay ngoài công lập; nghiên cứu chuyển việc thực hiện một số
nhiệm vụ, dịch vụ xã hội công hiện nay đang giao cho các cơ sở công lập
sang cho chính quyền địa phương các cấp quản lý, tổ chức thực hiện.
- Áp dụng rộng rãi cơ chế cổ phần hóa theo lộ trình nhanh để chuyển
hình thức sở hữu và quản trị của đại đa số các cơ sở cung ứng dịch vụ công
249
cộng thuộc sở hữu nhà nước như các trường Đại học, Cao đẳng, các bệnh
viện công,... Xây dựng cơ chế tài chính khuyến khích các nhà đầu tư trong
nước, ngoài nước mở rộng các hình thức liên doanh hoặc đầu tư trực tiếp để
phát triển các cơ sở đào tạo đại học, trên đại học, dạy nghề, khám chữa
bệnh... có chất lượng cao ở các thành phố, khu vực đô thị, khu vực kinh tế
phát triển.
- Ưu tiên đầu tư ngân sách thực hiện chương trình hành động quốc gia
về xoá đói giảm nghèo; phấn đấu đến năm 2010 cơ bản không còn hộ đói, tỷ
lệ hộ nghèo giảm còn không quá 15% số hộ theo tiêu chuẩn quốc tế (năm
2005 còn khoảng 24%).
3). Hoàn thiện Luật NSNN
Trên cơ sở đánh giá tổng kết thực hiện Luật NSNN năm 2002, nghiên
cứu sửa đổi, bổ sung hoàn thiện theo hướng: đảm bảo tính thống nhất của
NSNN, vai trò chủ đạo của NSTW; tăng cường phân cấp, tăng nguồn thu
theo các nguyên tắc phù hợp với sự phát triển của kinh tế thị trường cho
NSĐP nhất là cấp xã, tăng số tỉnh, thành phố tự cân đối được ngân sách và có
đóng góp với NSNN; nghiên cứu quy định phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi
đối với từng cấp chính quyền địa phương (tỉnh, huyện, xã) thống nhất trong
phạm vi toàn quốc; tăng quyền hạn của Quốc hội, HĐND các cấp trong việc
quyết định và giám sát ngân sách; tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của
ngân sách các cấp, nghiên cứu bỏ phương thức lồng ghép giữa các cấp ngân
sách như hiện nay; ban hành chế độ trách nhiệm đối với người đứng đầu
trong việc quản lý sử dụng ngân sách; đồng thời ban hành đồng bộ những
quy định pháp luật về tiêu chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật các dịch vụ
công quan trọng trên địa bàn làm cơ sở để địa phương thực hiện phân bổ
ngân sách đúng những ưu tiên của quốc gia trong điều kiện phân cấp ngân
sách, giao quyền quyết định NSĐP cho HĐND các cấp; phân định rõ ràng về
phạm vi ngân sách (các khoản thu ngân sách, các nguồn tài chính của đơn vị
sự nghiệp công; phạm vi, đối tượng chi ngân sách) để có phương thức quản
lý phù hợp, chặt chẽ, hiệu quả, đồng thời tạo điều kiện xã hội hoá phát triển
các lĩnh vực xã hội; thay đổi phương pháp xác định bội chi NSNN đầy đủ,
phù hợp với thông lệ quốc tế (bao gồm cả các khoản Chính phủ vay về cho
vay lại; các khoản Chính phủ bảo lãnh vay...); cho phép ngân sách cấp tỉnh
được vay trong nước bù đắp bội chi và quản lý, giám sát chặt chẽ trong phạm
vi tổng mức bội chi NSNN; xây dựng và thực hiện kế hoạch tài chính trung
hạn gắn với thực hiện chiến lược tài chính - ngân sách của các ngành quan
trọng: giao thông, nông nghiệp, giáo dục, y tế... ; nghiên cứu ban hành quy
định pháp luật về việc thực hiện mở rộng phương thức phân bổ, quản lý
NSNN theo chương trình mục tiêu, nhiệm vụ, dự án đầu tư; xây dựng hệ
thống định mức, tiêu chí phân bổ ngân sách đầu tư, phương thức hỗ trợ ngân
sách ưu tiên đối với địa phương nghèo khó khăn, đồng thời có cơ chế khuyến
khích phát triển đối với vùng kinh tế động lực; cải cách hành chính trong
quản lý NSNN, thực hiện nguyên tắc một đầu mối, một cơ quan chịu trách
250
nhiệm quản lý nhà nước về NSNN; thực hiện theo nguyên tắc thống nhất chế
độ kế toán ngân sách, kế toán kho bạc, kế toán các đơn vị dự toán, kế toán
các dự án đầu tư; đổi mới chế độ kế toán nhằm xác định đầy đủ những tác
động có liên quan đến NSNN (các khoản phải thu của NSNN như: thuế nợ
đọng, các khoản ngân sách cho vay, tạm ứng... ; các nghĩa vụ nợ trực tiếp,
gián tiếp của NSNN như: công nợ, kết quả tài chính của DNNN, của các quỹ
tài chính nhà nước, công nợ XDCB của các dự án thuộc đối tượng đầu tư
của NSNN; công nợ của các đơn vị sự nghiệp công;...); từng bước thực hiện
chế độ kiểm toán nhà nước bắt buộc đối với các cấp ngân sách, các đơn vị sử
dụng ngân sách trên cơ sở tăng cường hệ thống cơ quan kiểm toán nhà nước,
đồng thời xây dựng, hoàn thiện cơ sở pháp lý mở rộng thực hiện kiểm toán
nội bộ, kiểm toán độc lập; đổi mới công tác thống kê tài chính Chính phủ,
phân ngành ngân sách phù hợp với đổi mới về phân ngành kinh tế quốc dân...
2.3. XỬ LÝ BỘI CHI NSNN VÀ NỢ CÔNG GIAI ĐOẠN 2006-2010
2.3.1. Quan điểm về xử lý bội chi NSNN nhằm duy trì sự bền vững của
NSNN trong giai đoạn 2006-2010
Trái với quan điểm "ngân sách cai trị" có quy mô vừa phải, đủ đảm
bảo chi thường xuyên, chi quốc phòng, an ninh là quan điểm ủng hộ nhà
nước sử dụng ngân sách tác động vào nền kinh tế-xã hội, Nhà nước cần phải
tác động vào quá trình phát triển kinh tế, dù đó là kinh tế kế hoạch hóa tập
trung hay kinh tế thị trường. Với ý nghĩa đó, tiềm lực tài chính của Nhà nước
phải đủ mạnh đảm bảo triển khai các biện pháp can thiệp kinh tế. Quy mô
thu, chi NSNN phải đủ lớn bảo đảm cho Nhà nước chủ động thực hiện các
CSTK nới lỏng (hoặc thắt chặt), thực hiện kích cầu đầu tư, tiêu dùng nhằm
thúc đẩy kinh tế phát triển. Tuy nhiên, để thực hiện CSTK nới lỏng với mục
đích kích cầu cũng cần phải lưu ý đến những hệ quả và điều kiện thực thi
chính sách đó. Bởi vì, CSTK nới lỏng cũng kéo theo nguy cơ lạm phát, tình
trạng suy giảm cán cân thương mại quốc tế và cán cân thanh toán do kích cầu
chứa đựng nguy cơ tăng nhập khẩu, tăng bội chi NSNN, tăng gánh nặng nợ
quốc gia, tạo cơ hội cho lãng phí, tham nhũng...
Trong thực tiễn, từ sau khủng hoảng tài chính châu Á 1997 đến nay, cả
Trung Quốc (từ 1998) và Việt Nam (từ 1999) đều triển khai các biện pháp
kích cầu. Nhưng Trung Quốc thành công hơn là do quy mô nền kinh tế, thu
nhập bình quân đầu người và sức mua của thị trường nội địa Trung Quốc đủ
lớn; Trung Quốc có khả năng kiểm soát được nhập khẩu; sản phẩm của
Trung Quốc có sức cạnh tranh thực sự tại thị trường trong nước và thêm vào
đó, bộ máy quản lý nhà nước Trung Quốc có hiệu quả hơn, sức ỳ khi triển
khai chính sách ít hơn, thất thoát thấp hơn. Nhưng dù sao, giải pháp kích cầu
của cả Trung Quốc và Việt Nam cũng đã mang lại những kết quả nhất định,
góp phần khắc phục hậu quả suy giảm tăng trưởng kinh tế sau khủng hoảng
tài chính châu á.
251
Trong quá trình chuyển đổi, xây dựng và phát triển thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở nước ta, không những cần có sự chuyển đổi thể
chế và cơ cấu kinh tế nói chung mà còn đòi hỏi sự đổi mới cần thiết về cả
nhận thức, thể chế và cơ cấu tài chính, đổi mới nhận thức về ích lợi và tác hại
của CSTK nới lỏng, có bội chi để từ đó có thể xác định đúng vai trò, đặt đúng
vị trí để sử dụng có hiệu quả công cụ ngân sách và bội chi NSNN trong điều
hành kinh tế vĩ mô, thực hiện CNH, HĐH.
Đối với Việt Nam, việc tác động vào quá trình phát triển kinh tế, xây
dựng thể chế kinh tế thị trường là hoàn toàn cần thiết, vừa có ý nghĩa kích
cầu, vừa bảo đảm một phần kinh phí quan trọng cho sự tồn tại và phát triển
của nhiều lĩnh vực quan trọng mà khu vực tư nhân chưa có điều kiện tham
gia. Với ý nghĩa đó, tiềm lực tài chính của Nhà nước phải đủ mạnh để có thể
triển khai các biện pháp can thiệp kinh tế. Đặc biệt, khi tiềm lực của khu vực
doanh nghiệp ngoài quốc doanh và dân cư còn yếu, phân tán, chưa đủ sức tự
phát triển thì Nhà nước càng cần phải tiếp tục là trụ cột của nền kinh tế.
Do đó, phải tăng quy mô chi NSNN, chấp nhận ngân sách có bội chi
(đủ lớn và đủ an toàn) để tạo vốn thúc đẩy phát triển kinh tế trên cơ sở củng
cố nguồn thu lâu dài, bền vững của NSNN, tăng quy mô chi NSNN so với
GDP lên đủ lớn để tăng ĐTPT kinh tế.
2.3.2. Định hướng về bội chi NSNN và xử lý nợ công nhằm duy trì sự
bền vững hợp lý của NSNN trong giai đoạn 2006-2010
1). Tăng bội chi và đảm bảo kiềm chế bội chi NSNN trong giới
hạn an toàn theo thông lệ quốc tế
Bội chi NSNN giai đoạn 2006-2010 dự kiến khoảng 312 nghìn tỷ
đồng, bằng 5%GDP (giai đoạn 2001-2005 đạt 4,9%GDP), mới chỉ tương
đương khoảng 2,8% khi tính theo thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, thực tế đã chỉ
ra rằng những năm giữa thập niên 90 là những năm NSNN có quy mô thu,
chi cao nhất và cũng là lúc nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng ngoạn mục nhất
(9,54%). Trong giai đoạn tới, bội chi NSNN cần được tăng thêm nữa và được
sử dụng cho ĐTPT, có dự án khả thi, có kế hoạch thu hồi vốn, không sử dụng
bội chi NSNN cho tiêu dùng trên cơ sở các nguyên tắc sau:
Số thu NSNN từ thuế, phí phải lớn hơn chi thường xuyên, có tích
luỹ cho ĐTPT;
Tốc độ tăng chi ĐTPT phải lớn hơn tốc độ tăng chi thường xuyên;
Mức bội chi phải nhỏ hơn mức chi ĐTPT;
Không phát hành tiền, hạn chế tối đa vay thương mại nước ngoài
để bù đắp bội chi ngân sách.
Đối với nước ta, trong những năm tới (2006-2010), đứng trước nhu
cầu chi tiêu cấp bách của ĐTPT cơ sở hạ tầng, KH&CN, giáo dục phổ thông,
252
bảo vệ môi trường... trước yêu cầu duy trì mức độ vừa phải về nghĩa vụ thuế
đối với các doanh nghiệp, trước yêu cấu nâng cao tiềm lực tài chính nhà
nước, nhu cầu bội chi NSNN được xác định trên nguyên tắc là phải ở mức
hợp lý và có thể kiểm soát được.
Theo đó, quy mô thu NSNN bình quân duy trì ở mức 22% - 23%GDP;
Quy mô chi NSNN duy trì ở mức 29-30%GDP, kết hợp với đổi mới cơ cấu,
tăng cường kiểm soát và nâng cao hiệu quả chi NSNN; Kiểm soát và duy trì
tỷ lệ bội chi NSNN ở mức bình quân khoảng 5 - 7%GDP (theo cách tính
thông lệ quốc tế) là hợp lý và có thể kiểm soát được.
Xét về số tương đối, nếu so sánh với yêu cầu của các nước thuộc Liên
minh kinh tế tiền tệ châu Âu quy định bội chi NSNN mỗi nước thành viên
không được vượt quá 3%GDP, thì tỷ lệ bội chi bình quân 5-7%GDP có thể bị
coi là hơi cao. Tuy nhiên, kết cấu chi của các nước EU khác hẳn kết cấu chi
ngân sách nước ta. Nhất là các khoản chi ĐTPT kinh tế của ngân sách các
nước EU chiếm tỷ trọng thấp hơn nhiều so với nước ta. Hơn nữa, do "mẫu số
- GDP" của ta còn quá nhỏ bé, quy mô nền kinh tế còn khá khiêm tốn nên số
bội chi tuyệt đối cũng chưa phải là lớn lắm.
Nếu tăng trưởng kinh tế những năm tới đạt mức tăng bình quân trên
7,5%/năm thì bình quân quy mô GDP hàng năm sẽ đạt khoảng 60 tỷ USD,
mức bội chi 5-7%GDP, tương đương khoảng 3 tỷ USD, tính theo giá cố định
1994. Nếu tính theo giá hiện hành, với mức bội chi 6-7%GDP, mỗi năm nhà
nước sẽ có thêm (so với mức bội chi hiện tại 5%GDP) một khoản tiền khá
lớn, khoảng 1,2-1,5 tỷ USD để triển khai các chính sách điều tiết vĩ mô, kích
thích nền kinh tế phát triển, hoặc đầu tư hoàn thành dứt điểm 1 vài công trình
trọng điểm.
Mặt khác, mức bội chi 5-7%GDP không phải là quá lớn để có thể gây
mất ổn định tài chính, nhất là khi đặt trong bối cảnh so sánh với mức bội chi
hiện tại đã là 5%GDP, hoặc so với yêu cầu phát triển trong tương lai.
Thực ra, trong số tổng mức bội chi dự kiến đã có khoảng 2/3 (4% đến
5%GDP) là bội chi như mức hiện tại, phát sinh từ xu hướng vận động của
NSNN và nền kinh tế. Mức bội chi chủ động đưa ra nhằm tạo nguồn lực để
thúc đẩy tăng trưởng chỉ chiếm khoảng 1/3 tổng số bội chi. Do đó, bên cạnh
việc sử dụng bội chi, trực tiếp tạo nguồn tài chính đảm bảo triển khai các
chương trình phát triển kinh tế, thực hiện các mục tiêu chiến lược thì không
được xem nhẹ các biện pháp đổi mới cơ chế tác động, thực hiện cơ cấu lại và
hiệu quả hoá thu chi NSNN, đẩy mạnh xã hội hoá, nâng cao năng lực sử
dụng công cụ tài khoá để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Điều kiện duy trì mức bội chi cao ở nước ta là tăng trưởng phải liên
tục ở tốc độ cao, ngân sách phải được sử dụng hiệu quả, hạn chế tới mức tối
đa tình trạng tham nhũng dưới mọi hình thức.
253
Rõ ràng, luôn phải chú ý kiểm soát bội chi ở mức kiềm chế được,
không gây mất ổn định tài chính nhà nước. Nhưng mặt khác, phải xem xét
NSNN, bội chi NSNN, nợ công như những công cụ vĩ mô có hiệu quả để tác
động vào nền kinh tế. Trong giai đoạn từ nay đến khi hoàn thành sự nghiệp
CNH, HĐH thì ngân sách nước ta không nên phấn đấu để cố đạt được trạng
thái cân bằng (thu bằng chi), mà ngược lại và thực tế hơn, NSNN cần tiếp tục
duy trì bội chi ở mức không thấp, tạo nguồn cho Nhà nước thúc đẩy pt xã hội
phát triển bền vững. Nếu cố đạt đến sự cân bằng ngân sách, thì, hoặc phải
tăng thêm gánh nặng thuế đối với các doanh nghiệp, hoặc phải cắt giảm chi
tiêu công. Nhưng cả 2 điều đó đều kìm hãm sự phát triển của đất nước và
không duy trì lâu dài sự bền vững của NSNN.
2). Duy trì ổn định tỷ suất nợ của khu vực công trên GDP, xác định rõ ngưỡng giới hạn của cán cân ngân sách cơ bản
Duy trì ổn định tỷ suất nợ của khu vực công trên GDP, xác định rõ
ngưỡng giới hạn của cán cân ngân sách cơ bản, tiếp tục phát huy những kinh
nghiệm tốt trong huy động và quản lý công và nợ nước ngoài theo hướng duy
trì sự bền vững các ngưỡng an toàn về vay nợ, thực hiện các nghĩa vụ trả nợ
nước ngoài đầy đủ, đúng hạn là một khuyến nghị quan trọng nhằm bảo đảm
tính bền vững của NSNN ở nước ta.
Có thể đánh giá từ năm 1991 đến nay, trên cơ sở rút kinh nghiệm từ
việc điều hành vay nợ trong thập kỷ 1980’s trở về trước, việc duy trì một mức
độ bội chi ngân sách, nợ khu vực công ở mức hợ lý và thận trọng đã góp
phần duy trì sự ổn định của nền tài chính nhà nước Việt Nam. Công tác quản
lý nợ của Chính phủ có nhiều tiến bộ, trong những bối cảnh khó khăn, đã chủ
động đàm phán để dãn, hoãn nợ hoặc đạt được phương thức trả nợ có lợi nhất
(trả bằng hàng hóa, tái đầu tư...), điều hành chi trả nợ theo nguyên tắc có lợi
cho NSNN và đảm bảo thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết. Trong đó, cơ cấu
lại nợ ngoài nước đã đạt được những kết quả rất lớn thông qua Câu lạc bộ
Paris, London góp phần vào giảm dư nợ Chính phủ từ 53,6% so GDP năm
1991 xuống còn 31% GDP vào năm 1995. Tiếp theo, đã thành công trong xử
lý nợ đối các khoản nợ trước đây bằng Rúp với các nước Đông Âu và Nga
góp phần vào giảm nợ Chính phủ, nợ quốc gia. Đồng thời, với việc cơ cấu lại
nợ như đã phân tích trên, đã có những thay đổi rất quan trọng về quan điểm
vay nợ của NSNN như: không vay thương mại, không phát hành tiền, chỉ vay
ưu đãi nước ngoài và vay trong nước để bù đắp bội chi ngân sách và bội chi
ngân sách chỉ dùng cho đầu tư phát triển. Chính từ những quyết sách trên, nợ
của Việt Nam đã trở nên lành mạnh, dư nợ chính phủ, dư nợ quốc gia đến
nay vẫn trong giới hạn an toàn, đảm bảo an ninh tài chính (dư nợ Chính phủ
đến hết năm 2007 chưa vượt quá 40% GDP), đây là mức mà nhiều chuyên
gia kinh tế trong và ngoài nước cho rằng rất an toàn, không gây tác động quá
xấu đến ổn định kinh tế vĩ mô.
Liên quan đến vay nợ và bội chi NSNN, kiến nghị là cần xác định rõ
ngưỡng giới hạn bội chi hoặc thặng dư ngân sách thường xuyên nhằm ổn
254
định tỷ suất nợ trên GDP bằng chênh lệch giữa lãi suất nợ phải trả và tốc độ
tăng trưởng kinh tế dự kiến cho năm kế hoạch nhân với tổng số dư nợ tại thời
điểm 31/12 năm trước. Việc xác định giới hạn mức nợ vay hoặc giới hạn bội
chi ngân sách để duy trì ổn định tỷ suất nợ vay trên GDP được xác định theo
2 bước: (1) Xác định giới hạn tổng bội chi ngân sách; (2) Xác định giới hạn
thặng dư ngân sách thường xuyên cần phải đạt được để duy trì ổn định tỷ suất
nợ trên GDP.
Trong luật NSNN, cần thể hiện rõ, cụ thể các yêu cầu: (i) Phải có
thặng dư ngân sách thường xuyên; (ii) Duy trì ổn định tỷ suất nợ nhà nước
trên GDP; (iii) Mức bội chi ngân sách nói chung phải nằm trong giới hạn an
toàn sao cho tỷ suất nợ trên GDP được duy trì ổn định.
Mức cụ thể sẽ được Chính phủ và Bộ Tài chính căn cứ vào tình hình
thực tế và những công thức đề xuất ở trên mà xác định cho phù hợp với bối
cảnh kinh tế và yêu cầu thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã
hội cũng như yêu cầu ổn định tài chính quốc gia trong từng năm.
Đồng thời, cần bổ trợ thêm một số kiến nghị sau:
1. Đưa khoản vay nợ ra khỏi cân đối nguồn thu hàng năm của NSNN đồng
thời đưa khoản chi trả nợ gốc ra khỏi tổng chi hàng năm của NSNN.
2. Tách bạch rõ ràng bội chi NSTW, bội chi NSĐP và bội chi NSNN.
3. Quy định bắt buộc phải có thặng dư ngân sách thường xuyên nhưng khi
cân đối toàn bộ ngân sách thì cho phép có bội chi, cụ thể đối với từng cấp
ngân sách (NSTW, ngân sách tỉnh nói riêng và NSNN nói chung).
4. Mức bội chi và vay nợ NSNN tuân theo nguyên tắc:
Mức bội chi cụ thể từng năm sẽ do Quốc hội xác định tuỳ theo
tình hình và bối cảnh kinh tế bảo đảm nằm trong phạm vi giới
hạn được phép nhằm ổn định tỷ suất nợ, theo nguyên tắc: (i)
Tổng số thu từ thuế, phí và lệ phí phải lớn hơn tổng số chi
thường xuyên; (ii) Số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát
triển.
NSTW được phép vay trong nước và vay nước ngoài để bù
đắp bội chi, nhưng chỉ được phép vay trung và dài hạn, không
được phép vay ngắn hạn (dưới 1 năm) để bù đắp bội chi.
Không sử dụng vay bù đắp bội chi ngân sách cho tiêu dùng,
chỉ sử dụng cho mục đích phát triển; không vay ngắn hạn để
chi dùng vào các mục tiêu dài hạn;
Những khoản vay trung và dài hạn để bù đắp bội chi đầu tư
phát triển phải kèm theo kế hoạch thu hồi vốn vay và bảo đảm
cân đối ngân sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn;
Tổng mức dư nợ nhà nước, cả trong và ngoài nước, không
vượt quá 60% GDP của cả nước; Duy trì ổn định tỷ suất nợ
255
nhà nước trên GDP; Lãi suất huy động (trung và dài hạn)
được xác định theo cơ chế thị trường.
5. Hoàn thiện kết cấu định tính về chi NSNN, về cơ chế cân đối ngân sách
gắn với hiệu quả chi ngân sách; Xác định rõ cân đối ngân sách thường
xuyên và tổng cân đối ngân sách nói chung để xác định mức thặng dư
ngân sách thường xuyên, đảm bảo yêu cầu tổng số thu từ thuế, phí và lệ
phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên; tổng bội chi ngân sách nằm
trong giới hạn an toàn; số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư phát triển.
6. Thiết lập cơ quan quản lý nợ thống nhất trực thuộc Bộ Tài chính, gắn liền
với vụ NSNN để thống nhất quản lý bội chi, xây dựng và triển khai các
biện pháp bù đắp bội chi thuộc NSTW.
7. Liên quan đến quản lý bội chi và vay nợ, cần phải tăng hiệu quả quản lý
vốn vay và chất lượng sử dụng vốn vay; đảm bảo có kế hoạch trả nợ và
khả năng trả nợ, do đó sẽ tăng uy tín và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
8. Khắc phục tình trạng vay ngắn hạn chi dài hạn, tình trạng vi phạm luật
vay ĐTPT. Thực tế đã chỉ ra rằng nếu huy động vốn vay ngắn hạn để bù
đắp cho chi đầu tư phát triển thì khó có thể chỉ ra rõ ràng minh bạch
khoản tiền vay ngắn hạn đó có thực dùng để chi cho đầu tư phát triển hay
không.
9. Tách vay nợ bù đắp bội chi NSNN ra khỏi cân đối nguồn thu của ngân
sách ngoài ưu thế giúp quản lý và điều hành ngân sách và nợ được minh
bạch rõ ràng, còn có ưu điểm tăng cường chất lượng quản lý, điều hành tài
chính nhà nước theo thông lệ quốc tế, giúp hệ thống đó có thể trao đổi, hội
nhập được với thế giới bên ngoài, phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế nói
chung.
Khi tách bạch giữa quản lý ngân sách và quản lý nợ như vậy, hệ thống
chỉ tiêu tài chính công của nước ta mới thực sự có ích cho phân tích, dự báo,
phục vụ tốt cho công tác cảnh báo sớm, duy trì an ninh tài chính quốc gia và
tạo cơ sở thuận lợi về lưu trữ và cung cấp số liệu cho công tác xây dựng
chính sách cũng như hoạch định chiến lược tài chính, kinh tế - xã hội. Dưới
góc độ cải cách hành chính, việc tổ chức quản lý bội chi, vay nợ, và cân đối
ngân sách như trên đòi hỏi thiết lập một bộ phận quản lý nợ tương đối độc lập
để hoạch định và thực thi chiến lược quản lý thống nhất nợ, tổ chức phát hành
vay và trả nợ gốc đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn vay.
2.3.3. Các giải pháp xử lý và tăng cường quản lý nợ công trong giai
đoạn 2006-2010
1). Tiếp tục hoàn thiện công tác quản lý nợ nước ngoài theo hướng thống nhất quản lý
Việc thống nhất quản lý nợ phải được triển khai đồng thời theo các
hướng, tránh tình trạng phân tán, gây ảnh hưởng không tốt đến tính bền vững
256
trong quản lý nợ, bao gồm: (i) Thống nhất quản lý nợ của khu vực công (gồm
nợ của chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh, nợ trong nước, nợ nước
ngopài của khu vực công); (ii) Thống nhất quản lý nợ nước ngoài của quốc
gia, bao gồm nợ nước ngoài của Chính phủ nói riêng, nợ nước ngoài của khu
vực công và tổng nợ nước ngoài của quốc gia;
Xây dựng chiến lược quản lý nợ nước ngoài, cải cách thể chế và
khuôn khổ pháp lý. Xây dựng hệ thống giám sát nợ, hệ thống các chỉ tiêu
đánh giá hiệu quả các dự án, chương trình sử dụng vốn vay nước ngoài, đặc
biệt chú ý tăng cường kiểm soát nguồn vốn vay thương mại nước ngoài của
các doanh nghiệp theo cơ chế tự vay tự trả, thường xuyên phân tích và đánh
giá danh mục nợ, tăng cường quản lý rủi ro, đặc biệt là các nghĩa vụ nợ bất
thường.
Tổ chức tốt việc trả nợ đúng hạn của Hiệp định vay nước ngoài, đồng
thời nghiên cứu đề xuất đề xuất các phương án tiếp tục giảm nghĩa vụ trả nợ
Quốc gia (chuyển đổi nợ, mua lại nợ, hoán đổi tay tay...).
Tăng cường năng lực quản lý nợ thông qua đào tạo phương pháp
hoạch định chiến lược nợ, xây dựng quy trình kỹ thuật nghiệp vụ quản lý nợ
nước ngoài, phát triển và nâng cao chất lượng hệ thống mạng trong quản lý
nợ hiệu quả, theo hướng tập trung vào một đầu mối nhằm phân định trách
nhiệm rõ ràng trong việc theo dõi, quản lý và tổng hợp đánh giá hiệu quả sử
dụng vốn vay.
2). Lành mạnh hóa ngân sách và nợ của các địa phương
Tiếp tục quan điểm địa phương không được trực tiếp vay nước ngoài, chỉ được vay trong nước để bổ sung nguồn vốn chi đầu tư phát triển trên địa bàn.
Vì mục đích an toàn và bền vững của cả hệ thống trong lĩnh vực vay
và trả nợ, nhất là vay nợ nước ngoài, kết hợp với các kết quả nghiên cứu thực
tiễn Việt Nam cho thấy, hiện nay, năng lực quản lý nợ nước ngoài của các địa
phương chưa cho phép các địa phương trực tiếp vay vốn nước ngoài, các địa
phương chưa thể đáp ứng được yêu cầu quản lý nợ nước ngoài bền vững...
Hơn nữa, việc quản lý nợ nước ngoài bền vững luôn lấy ”quốc gia”
làm trung tâm. Do đó, cần tiếp tục duy trì việc không cho phép địa phương
trực tiếp vay nợ nước ngoài, cả song phương và đa phương, cả vay ưu đãi và
vay trên thị trường vốn quốc tế. Địa phương chỉ nên được tiếp cận các nguồn
vốn nước ngoài thông qua hình thức vay lại từ Bộ Tài chính. Làm như vậy,
vừa đảm bảo tính thống nhất, bền vững trong quản lý nợ nước ngoài của
Chính phủ và quốc gia, vừa tạo điều kiện để các địa phương huy động thêm
nguồn vốn trong nước cho đầu tư phát triển.
Bỏ quy định NSĐP không được bội chi
Theo quy định của Luật NSNN hiện hành, NSĐP không được bội chi
trong khi quy định (khoản 3 điều 8 Luật NSNN) vẫn cho phép chính quyền
257
địa phương huy động vốn để đầu tư các công trình hạ tầng kinh tế khi có nhu
cầu vượt quá khả năng thu NSĐP. Khoản 3 điều 8 Luật NSNN ghi rõ: “Về
nguyên tắc, NSĐP được cân đối với tổng số chi không vượt quá tổng số thu;
trường hợp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có nhu cầu đầu tư xây dựng
công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh bảo đảm, thuộc
danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã được HĐND cấp tỉnh quyết định,
nhưng vượt quá khả năng cân đối của ngân sách cấp tỉnh năm dự toán, thì
được phép huy động vốn trong nước và phải cân đối ngân sách cấp tỉnh hàng
năm để chủ động trả hết nợ khi đến hạn. Mức dư nợ từ nguồn vốn huy động
không vượt quá 30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong nước hàng năm của
ngân sách cấp tỉnh”.
Đây là một quy định không mấy có cơ sở. Việc duy trì đồng thời 2
khái niệm ”NSĐP không được bội chi” và ”cho phép địa phương bố trí đầu
tư (thông qua huy động vốn vay) vượt quá khả năng cân đối của ngân sách
cấp tỉnh khi có nhu cầu đầu tư các công trình mà NSĐP không bố trí được”
luôn tạo ra những ”xung đột” về nhận thức, từ đó, làm giảm hiệu quả quản lý.
Do tính xung đột của 2 khái niệm này nên sẽ chỉ có 1 trong 2 là có ý
nghĩa thực tế, khái niệm còn lại sẽ chỉ có ý nghĩa hình thức. Hoặc là địa
phương sẽ không vay thêm vốn để đầu tư phát triển KT-XH trên địa bàn (tôn
trọng quy định NSĐP không được bội chi); Hoặc là địa phương sẽ huy động
vốn vay để đầu tư phát triển và đương nhiên bố trí chi nhiều hơn thu (nghĩa là
vi phạm nguyên tắc đã đặt ra). Thực tế tình trạng huy động vốn vay theo
khoản 3 điều 8 Luật NSNN và tình trạng nợ XDCB tràn lan ở các địa phương
là một minh chứng cho sự bất cập này.
Xét thực tiễn nhu cầu đầu tư phát triển của các địa phương là khá lớn
và sinh động, cần thiết phải bỏ quy định cấm NSĐP bội chi, đồng thời, tiếp
tục cho phép địa phương được huy động vốn vay trong nước để đầu tư phát
triển. Vấn đề là phải quy định cụ thể và hợp lý các giới hạn bội chi và giới
hạn vay nợ cho các địa phương.
Tóm lại, nên chính tứhc cho phép ngân sách cấp tỉnh có bội chi và
được phép huy động vốn vay trong nước để bù đắp các khoản bội chi cho đầu
tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, cần xác định công khai
các điều kiện được phép có bội chi ngân sách tỉnh (như chỉ được chi dùng
cho các dự án đầu tư có hiệu quả, dự án được đánh giá tốt, đảm bảo khả
năng trả nợ, có kế hoạch kinh doanh và kế hoạch trả nợ khả thi, nằm trong
mức không chế của Nhà nước, không có nguy cơ phá sản và nhất thiết phải
có phương án tự cân đối nguồn trả nợ...).
Cụ thể là mức bội chi ngân sách tỉnh phải thấp hơn 3% GDP của tỉnh;
tổng mức dư nợ không vượt quá 60% GDP của tỉnh; tỉnh chỉ được phép vay
trung và dài hạn trong nước, không được phép vay ngắn hạn và không được
phép vay nước ngoài để bù đắp bội chi ngân sách tỉnh; lãi suất huy động (dài
258
hạn) không vượt quá mức lãi suất của các khoản vay tương đương do TW
phát hành.
Đổi mới tư duy ”ngân sách cấp trên cân đối thay ngân sách cấp dưới”.
Cũng vì những xung đột mang tính học thuật nêu trên, nên, khi nhu
cầu chi NSĐP (cả thường xuyên, đầu tư, trả nợ) lớn hơn khả năng thu của địa
phương (tổng các nguồn thu 100% thuộc NSĐP cộng với phần thu phân chia
giữa trung ương và địa phương đã được trung ương để lại cho địa phương
hưởng 100%) thì trung ương (nhất định) sẽ cấp bù phần chênh lệch thiếu đó
dưới dạng “trợ cấp cân đối ngân sách”. Rõ ràng, “trợ cấp cân đối ngân sách
thực hiện sứ mạng “trung ương cân đối thay NSĐP”.
Những phân tích này, một mặt cho thấy sự bao biện của trung ương
(trong khi trung ương không gắn sát được với thực tế sinh động và biến động
của từng địa phương). Mặt khác, cũng cho thấy quy định NSĐP không được
bội chi là mang tính hình thức vì khi nhu cầu chi của địa phương lớn hơn
tổng nguồn thu, thì, trong hầu hết các trường hợp, đều được trung ương cân
đối (cấp bổ sung) phần chênh lệch đó. Vì cân đối từ nguồn không phải của
địa phương nên thực chất là địa phương có bội chi nhưng được trung ương tài
trợ bội chi (ngay từ khâu dự toán).
Một điều không mấy tích cực nữa là quy định NSĐP không được bội
chi là quy định mang tính cào bằng, áp dụng chung cho tất cả các địa phương,
nhưng sau đó, khi tính trợ cấp cân đối lại trợ cấp cho từng điều kiện cụ thể
theo từng đề xuất của từng địa phương. Do đó, thiếu sự công bằng và minh
bạch.
Việc trung ương cân đối thay địa phương còn làm giảm tính chủ động,
giảm trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc xác định nhu cầu,
xây dựng dự toán chi cũng như trong huy động quản lý, sử dụng các nguồn
thu của ngân sách trên địa bàn. Do vậy, nên trao quyền tự chủ ngân sách cho
các địa phương, cho phép địa phương được bội chi trong phạm vi ngân sách
được quyền và chịu trách nhiệm quản lý, bỏ quy định trợ cấp cân đối cho địa
phương, trung ương chỉ nên trợ cấp ngân sách cho địa phương theo những
tiêu chí cần thiết phục vụ các mục tiêu quản lý hệ thống chứ không phải trợ
cấp để cân đối thăng bằng thu, chi ngân sách cho địa phương.
Xác định giới hạn bội chi ngân sách địa phương ở những ngưỡng thích hợp
Khi cho phép địa phương được bội chi, trước mắt, có thể chưa quen về
từ ngữ và tư duy, song, điều đó sẽ tăng trách nhiệm giải trình của NSĐP
trước HĐND, công chúng và ngôn luận. Từ đó, vấn đề hiệu quả chi tiêu cũng
như bệnh dàn trải sẽ từng bước được hỗ trợ khắc phục. Song, vấn đề là giới
hạn bội chi ở mức nào là phù hợp?.
259
Trước hết, vì hệ thống số liệu của mỗi địa phương đều có sai số rất
lớn. Trong đó có cả những sai số bắt nguồn từ cả yếu tố chủ quan, như bệnh
thành tích, thiếu trách nhiệm… Có cả những sai số thống kê do các hoạt động
kinh tế bị trùng lắp và kỹ thuật thống kê không cho phép loại bỏ những sai số
đó. Do vậy, sử dụng số liệu địa phương cần rất thận trọng.
Đề xuất của chúng tôi là kết hợp số liệu cả nước và số liệu địa phương
khi tính toán giới hạn bội chi ngân sách và nợ của từng địa phương. Sẽ sử
dụng các số liệu đã xác định, ít bị ảnh hưởng làm sai lệch tính khách quan của
nó nhất, nhưng đồng thời, số liệu đó cũng phải khi thi, dễ tìm kiếm, tuy chỉ là
số liệu trung gian dùng để tính toán nhưng cũng phải góp phần phản ánh
được tính đa dạng và sự khác biệt của các địa phương.
Trên cơ sở lập luận như vậy, đề xuất về ngưỡng giới hạn bội chi
NSĐP sẽ tính theo tiêu chí “thu NSNN bình quân đầu người của cả nước” và
“dân số trung bình” theo số liệu điều tra dân số toàn quốc đã điều tra, đã công
bố (điều tra dân số toàn quốc 5 năm 1 lần cũng rất thích hợp với các tính toán
và chiến lược tài chính ổn định). Cụ thể, cần sửa đổi và bổ sung các nội dung
sau đây vào Luật NSNN:
1. Tất cả các địa phương đều phải phấn đấu bảo đảm và duy trì cán
cân ngân sách cơ bản lớn hơn hoặc bằng 0 (cân đối được hoặc có
thặng dư ngân sách cơ bản). Tức là mọi địa phương đều có trách
nhiệm (được ghi vào luật) cân đối thu thường xuyên lớn hơn
hoặc bằng chi thường xuyên.
2. Các địa phương được phép bố trí bội chi NSĐP và bội chi đó chỉ
để dùng cho chi đầu tư phát triển của địa phương. Tức là, sau khi
có cân đối ngân sách cơ bản thì địa phương mới được phép tính
đến huy động vốn để đầu tư cho các công trình đầu tư phát triển
đã được HĐND phê chuẩn.
3. Địa phương nào chưa cân đối được ngân sách cơ bản thì phải tìm
giải pháp cho việc cân đối ngân sách cơ bản trước hết. Không
được phép có bội chi đối với các địa phương chưa cân đối được
ngân sách cơ bản.
4. Đối với những địa phương quá giàu, có nguồn thu lớn hơn rất
nhiều so với mức bình quân chung của cả nước, có vị trí đặc biệt
trong chiến lược phát triển KT-XH của cả nước thì sẽ có cơ chế
riêng. Những trường hợp này nên rất ít, chỉ nên quy định như
hiện tại là Hà Nội và TPHCM là vừa đủ.
5. Do không thể tính chính xác được tốc độ tăng trưởng GDP của
mỗi địa phương nên không thể xây dựng được công thức tính giới
hạn bội chi theo công thức bằng tốc độ tăng trưởng GDP nhân
với tổng mức dư nợ được. Vì vậy, có thể quy định giới hạn bội
chi dựa theo thu nhập tài chính tính cho mỗi địa phương, áp dụng
cho một thời kỳ giữa 2 kỳ điều tra dân số. Mức bội chi tối đa đó
260
được quy định bằng một tỷ lệ % tính trên tổng thu NSĐP dùng để
tính bội chi.
6. Số thu NSĐP dùng để tính bội chi của từng địa phương bằng mức
thu NSNN bình quân đầu người của cả nước của năm báo cáo
(năm t-1, t là năm lập dự toán) nhân với dân số bình quân của địa
phương trong kỳ điều tra gần nhất (theo số liệu điều tra dân số
quốc gia đã công bố để giảm bớt sai số).
7. Tỷ lệ % vượt (bội chi) cụ thể của mỗi địa phương sẽ được quy
định trên cơ sở cân nhắc giữa (i) Số liệu bình quân gia quyền về
tình hình thu chi NSĐP trong 3-5 năm gần nhất, quyền số là dân
số theo số liệu điều tra dân số quốc gia đã công bố; (ii) Chiến
lược và nhu cầu phát triển của giai đoạn 5 năm tiếp theo trong
tương lai; (iii) Chiến lược sử dụng ngân sách có bội chi, chính
sách tài khóa nới lỏng hay thắt chặt, mục tiêu và lộ trình cân đối
thu bằng chi của NSNN nói chung của cả nước và/hoặc ngân
sách từng địa phương.
8. Một đề xuất mang tính gợi ý của đề tài là có thể duy trì tỷ lệ bội
chi NSĐP ở mức 10% tổng thu NSĐP bình quân đầu người và
lưu ý là, khi áp dụng tỷ lệ này, mức độ được bội chi tuyệt đối của
từng tỉnh sẽ khác nhau do dân số khác nhau; việc bỏ qua sự khác
biệt về năng lực thu NSNN nhằm tạo yếu tố kích thích, phấn đấu
giữa các tỉnh.
9. Tuy nhiên, nếu chỉ quy định một chỉ số giới hạn bội chi NSĐP thì
lũy kế nợ của các địa phương sẽ tăng dần theo thời gian. Điều đó,
có thể dẫn đến “đổ vỡ” nợ địa phương. Vì vậy, cần bổ sung thêm
1 chỉ tiêu nữa là giới hạn tỷ suất nợ địa phương.
10. Thông thường, tỷ suất nợ quốc gia được tính theo tỷ lệ % của
tổng số dư nợ trên GDP thực tế. Song, để giảm bớt sai số như đã
đề cập, việc giới hạn tỷ suất nợ địa phương sẽ được tính theo tỷ lệ
giữa dư nợ bình quân đầu người của mỗi địa phương trên GDP
bình quân đầu người cả nước nhân với dân số bình quân của từng
địa phương, theo số liệu điều tra dân số quốc gia đã công bố. Để
bảo đảm duy trì ổn định tính bền vững về nợ địa phương, đồng
thời, tạo nguồn tài chính cho các địa phương triển khai các chiến
lược đầu tư phát triển, trong khung khổ quản lý bền vững ngân
sách và nợ quốc gia, nên duy trì cố định tỷ suất nợ địa phương ở
mức 50%.
261
Chương 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN 2006-2010
3.1. HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN 2006-2010
3.1.1. Xác định hệ thống mục tiêu và cơ chế truyền tải CSTT
1). Mục tiêu hàng đầu
Để điều hành CSTT hiệu quả, mục tiêu cuối cùng của CSTT đến 2010
là ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát, đảm bảo an toàn hệ thống và
tạo môi trường thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế.
Do vậy, mục tiêu hàng đầu của CSTT là ổn định giá trị đồng tiền. Mục
tiêu này cần được quy định rõ trong Luật NHNN và cần được lượng hóa cụ
thể làm cơ sở thuận lợi cho việc điều hành CSTT. Đặc biệt trong giai đoạn
2011- 2020 trước xu thế tự do hóa và toàn cầu hóa tài chính-tiền tệ ngày càng
gia tăng mạnh mẽ, thị trường tiền tệ và thị trường vốn trong nước đã có
những bước phát triển và đã từng bước mở cửa phù hợp với xu hướng và
thông lệ quốc tế, theo đó năng lực điều hành CSTT tất yếu phải được nâng
cao. Chính vì vậy, để đảm bảo hiệu quả điều hành CSTT, mục tiêu điều hành
CSTT vẫn cần tiếp tục được xác định rõ là ổn định giá cả.
2). Mục tiêu trung gian, mục tiêu hoạt động
Với thực trạng điều kiện thị trường đang trong quá trình phát triển,
một số họat động tiền tệ còn chưa thuộc tầm kiểm soát của NHNN và NHNN
trong giai đọan tăng cường hơn nữa năng lực kiểm soát tiền tệ theo thông lệ
quốc tế, mục tiêu điều hành CSTT của NHNN cần hướng vào việc kiểm soát
toàn bộ khối lượng tiền trong nền kinh tế, tập trung các nguồn ngoại tệ vào hệ
thống ngân hàng. Theo đó, mục tiêu trung gian của CSTT cần được lựa chọn
là các mục tiêu khối lượng tiền như tổng khối lượng tiền của nền kinh tế,
tổng tín dụng cho nền kinh tế. Đồng thời, mục tiêu họat động của CSTT cũng
nên là điều tiết khối lượng tiền để gắn kết chặt chẽ với mục tiêu trung gian và
phù hợp với điều kiện thị trường đang trong quá trình phát triển.
Tuy nhiên, sau năm 2010 khi thị trường tiền tệ phát triển và xu thế tự
do hóa tài chính gia tăng mạnh mẽ, NHNN cần chuyển sang thực hiện khuôn
khổ CSTT theo mục tiêu lạm phát để nâng cao hiệu quả, tính minh bạch
trong điều hành CSTT, đáp ứng yêu cầu hội nhập. Theo đó, mục tiêu họat
động của CSTT cần chuyển từ mục tiêu điều tiết khối lượng tiền sang điều
tiết giá cả, tạo điều kiện thực hiện cơ chế truyền tải tác động CSTT đến lạm
phát.
3). Xác định cơ chế truyền tải CSTT
Để đạt được định hướng chiến lược điều hành CSTT đến năm 2010
nêu trên, trong giai đọan từ nay đến năm 2010, NHNN cần xây dựng khuôn
khổ CSTT với cơ chế chuyển tải thích hợp. Đó chính là cơ chế tác động từ hệ
262
thống công cụ CSTT gián tiếp theo các nguyên tắc thị trường nhất là nghiệp
vụ thị trường mở đến mục tiêu hoạt động là khối lượng tiền dự trữ, qua đó tác
động đến khối lượng tiền của nền kinh tế nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng
của CSTT, trong đó mục tiêu hàng đầu là ổn định giá trị đồng tiền.
Đồng thời, NHNN cần từng bước tạo lập các điều kiện cần thiết để
chuyển sang thực hiện khuôn khổ CSTT theo mục tiêu lạm phát sau năm
2010. Theo đó, cơ chế chuyển tải CSTT cũng cần được điều chỉnh thích hợp
trong đó vai trò của kênh lãi suất trong việc chuyển tải tác động tiền tệ cần
được xác định rõ. Vì vậy, để đạt được các mục tiêu trung hạn về lạm phát,
thực hiện mục tiêu hàng đầu là ổn định giá cả, trong ngắn hạn các kết quả dự
báo lạm phát cần được NHNN quan tâm xem xét. Mục tiêu hoạt động của
CSTT nên chuyển sang mục tiêu điều tiết giá cả (lãi suất) và NHNN sẽ sử
dụng các công cụ CSTT gián tiếp, nhất là nghiệp vụ thị trường mở để tác
động làm cho lãi suất thị trường theo sát lãi suất định hướng của NHNN và
cuối cùng là đạt mục tiêu về lạm phát.
3.1.2. Giải pháp hoàn thiện hệ thống mục tiêu, cơ chế truyền tải CSTT
1). Nâng cao tính độc lập của NHNN
Sửa đổi Luật NHNN, Luật Các TCTD và các văn bản pháp lý liên
quan khác để đảm bảo tính độc lập tương đối của NHNN, quy định rõ mục
tiêu hàng đầu của CSTT là ổn định giá trị đồng tiền;
Xây dựng cơ chế phối hợp giữa NHNN với các Bộ, ngành trong điều
hành CSTT, phân định rõ quyền hạn, nhiệm vụ của các Bộ, ngành trong xây
dựng và thực thi CSTT.
2). Nâng cao năng lực phân tích, dự báo tiền tệ, dự báo lạm phát
Tăng cường đào tạo về kinh tế vĩ mô và kinh tế lượng, nâng cao trình
độ phân tích, dự báo cho cán bộ ngân hàng; Trang bị mới và nâng cấp máy
móc thiết bị đáp ứng yêu cầu đổi mới trong công tác phân tích, dự báo; áp
dụng mô hình kinh tế lượng trong dự báo tiền tệ, xây dựng chương trình tiền
tệ hàng năm và thực hiện dự báo lạm phát theo định kỳ (năm, quý, tháng) .
Trong hoạch định và điều hành CSTT, cần đặc biệt quan tâm công tác
dự báo diễn biến cán cân thương mại, cán cân thanh toán, dự báo luồng vốn
vào ra để có giải pháp điều hành CSTT phù hợp, hạn chế ảnh hưởng của
luồng vốn đến các diễn biến tiền tệ.
Hoàn thiện hệ thống thông tin nội bộ ngành theo hướng tin học hóa,
đảm bảo nắm bắt được đầy đủ, kịp thời, chính xác các thông tin về tiền tệ- tín
dụng; Tăng cường sự phối hợp trao đổi, cung cấp thông tin giữa các Bộ,
ngành, phục vụ công tác phân tích, dự báo tiền tệ, dự báo lạm phát.
263
3). Nâng cao hiệu quả điều tiết tiền tệ của NHNN
Thực hiện chính sách thu hút cán bộ nghiên cứu, họach định chính
sách, các chuyên gia về tài chính - ngân hàng có năng lực và trình độ chuyên
môn cao; Nâng cao hiệu quả, chất lượng đào tạo đối với các khóa học,
chương trình đào tạo dành cho các cán bộ nghiên cứu, họach định chính sách.
Cơ cấu lại tổ chức một số Vụ, Cục liên quan để tăng cừơng sự thống
nhất, phối hợp giữa các đơn vị NHNN trong điều hành CSTT.
Hạn chế sự bảo hộ, can thiệp của Nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ, tín
dụng nhằm tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng, nâng cao sức cạnh
tranh của các TCTD trong điều kiện hội nhập.
Nâng cao hiệu quả sử dụng các công cụ tiền tệ gián tiếp, nhất là nghiệp
vụ thị trường mở. Nghiên cứu và áp dụng những chính sách đối phó với
luồng vốn vào để có những giải pháp điều hành công cụ CSTT phù hợp.
Các TCTD có biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn
phù hợp với thông lệ quốc tế, hoàn thiện hệ thống thông tin thanh toán nhằm
thực hiện quản lý vốn tập trung, điều chuyển vốn linh họat trong nội bộ từng
hệ thống ngân hàng, cũng như giữa các ngân hàng; đẩy mạnh thực hiện các
giải pháp nâng cao năng lực quản lý kinh doanh, năng lực tài chính và sức
cạnh tranh.
4). Tăng cường tính minh bạch, tự chịu trách nhiệm của NHNN
Xây dựng quy định về trách nhiệm của NHNN trong điều hành CSTT,
đảm bảo công khai, minh bạch các thông tin về điều hành CSTT (quy định về
trách nhiệm của Thống đốc NHNN, hình thức báo cáo giải trình của NHNN
về điều hành CSTT…).
Quy định về hình thức, cơ chế công bố thông tin về lạm phát để tăng
cường sự hiểu biết của công chúng về lạm phát, tăng cường tính minh bạch
và trách nhiệm của NHNN trong điều hành CSTT.
5). Phát triển thị trường tiền tệ
Phát triển thị trường tiền tệ an toàn, hiệu quả, đồng bộ, mang tính cạnh
tranh cao, tạo cơ sở quan trọng cho việc tiếp nhận và truyền tải tác động của
CSTT đến nền kinh tế. Theo đó, một số giải pháp cần thực hiện là:
- Củng cố lại thị trường liên ngân hàng và tăng cường vai trò giám sát,
điều tiết họat động thị trường của NHNN. Tăng cường sự kiên kết giữa các
bộ phận của thị trường tiền tệ, giữa thị trường tiền tệ và TTCK.
- Hoàn thiện các chính sách, quy định về thị trường tiền tệ theo hướng
mở rộng quyền tiếp cận thị trường và khả năng phát hành các công cụ tài
chính có mức độ rủi ro thấp; đa dạng hóa các công cụ trên thị trường tiền tệ,
đặc biệt là các công cụ phòng ngừa rủi ro.
264
- Triển khai các biện pháp phát triển thị trường thứ cấp để nâng cao
tính thanh khoản của các công cụ trên thị trường tiền tệ.
6). Phối hợp giữa CSTT với các chính sách kinh tế vĩ mô
Các Bộ, ngành liên quan cần có sự phối hợp để đảm bảo giữ ổn định
kinh tế vĩ mô, đảm bảo sự nhất quán giữa điều hành CSTT và điều hành các
chính sách kinh tế vĩ mô khác: Phối hợp chặt chẽ giữa NHNN và Bộ Tài
chính trong việc xây dựng và thực thi CSTT, CSTK hàng năm; phối hợp giữa
CSTT và chính sách tiền lương, giữa chính sách lãi suất, tín dụng của ngân
hàng và chính sách đầu tư của Chính phủ; Giữa chính sách tỷ giá và chính
sách thương mại (hỗ trợ xuất khẩu của Bộ Tài chính, Bộ Thương mại)..;.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư với vai trò là cơ quan hoạch định chiến lược,
kế hoạch phát triển của Chính phủ cần phối hợp chặt chẽ với NHNN, Bộ Tài
chính, Bộ thương mại và các bộ, ngành liên quan để xây dựng chương trình
tài chính quốc gia ngắn hạn và dài hạn, gồm tổng thể các giải pháp kinh tế vĩ
mô, qua đó đảm bảo sự nhất quán giữa các chính sách, thực hiện mục tiêu
chung là ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế bền vững.
3.2. HOÀN THIỆN CƠ CHẾ QUẢN LÝ VÀ ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ
GIAI ĐOẠN 2006-2010
3.2.1. Định hướng hoàn thiện cơ chế quản lý và điều hành tỷ giá
Quán triệt đường lối, chính sách của Đảng về chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế, định hướng hoàn thiện cơ chế quản lý ngoại hối từ nay đến 2010
là:
- Tạo dựng một khuôn khổ pháp lý thuận lợi cho việc thực hiện các
họat động ngoại hối và phát triển thị trường ngoại hối nhằm thúc đẩy phát
triển kinh tế, thực thi các mục tiêu CSTT quốc gia.
- Tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước về ngoại hối, hoàn thiện hệ
thống quản lý ngoại hối của Việt Nam, tôn trọng các cam kết song phương và
đa phương mà Việt Nam đã, đang và sẽ tham gia.
- Đổi mới công tác quản lý ngoại hối theo hướng tự do hóa vừa đảm
bảo thông thoáng, bình đẳng, phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế,
vừa phù hợp với trình độ phát triển và thực tiễn nền kinh tế trong nước.
- Tăng cường khả năng và mức độ bao quát của NHNN trong việc
quản lý các giao dịch ngoại hối trong nước với nước ngoài. Nâng cao hiệu
quả cơ chế quản lý ngoại hối trong điều kiện tự do hóa tài khoản vãng lai và
kiểm soát có chọn lọc các giao dịch vốn phù hợp với lộ trình mở cửa TTTC.
- Nâng cao năng lực dự trữ ngoại hối Nhà nước, nâng cao tính chuyển
đổi của đồng Việt Nam, từng bước tạo nền tảng cho VND trở thành đồng tiền
tự do chuyển đổi sau năm 2010. Thu hẹp phạm vi sử dụng đồng ngoại tệ trên
lãnh thổ Việt Nam và giảm tình trạng đô la hóa; Tiến tới thực hiện trên lãnh
265
thổ Việt Nam chỉ sử dụng đồng Việt Nam, đảm bảo vị trí độc tôn của đồng
Việt Nam trên lãnh thổ Việt Nam.
- Thực hiện chính sách ngoại hối mở để khuyến khích xuất khẩu và
thu hút nguồn ngoại tệ chảy vào nền kinh tế thông qua hệ thống ngân hàng;
Nâng cao trách nhiệm của các doanh nghiệp và NHTM trong việc tự đáp ứng
nhu cầu về ngoại tệ cho các mục đích nhập khẩu, trả nợ nước ngoài đến hạn.
NHNN chỉ đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho các mục đích bình ổn thị trường và
các nhu cầu thiết yếu của đất nước. Doanh nghiệp và ngân hàng có quyền tự
quyết định việc áp dụng các hình thức đầu tư, cho vay và công cụ phòng
ngừa rủi ro ngoại hối.
- Điều hành tỷ giá với phương châm linh họat trong ngắn hạn và ổn
định trong dài hạn. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả cơ chế tỷ giá thị trường
theo hướng gắn với một rổ đồng ngoại tệ mạnh, nới lỏng biên độ tỷ giá, giảm
dần sự can thiệp hành chính của NHNN vào thị trường ngoại hối; Nâng cao
năng lực quản lý và can thiệp thị trường ngoại tệ thông qua các nghiệp vụ thị
trường của NHNN nhằm kiểm soát tỷ giá, cung, cầu trên thị trường ngoại tệ.
3.2.2. Giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý ngoại hối và điều hành tỷ
giá
Để thực hiện các mục tiêu định hướng nêu trên về quản lý ngoại hối và
điều hành tỷ giá, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế, công nghiệp hóa và hiện
đại hóa đất nước, cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:
1). Hoàn thiện các quy định về QLNH
- Hoàn thiện hệ thống các quy định về quản lý ngoại hối theo hướng,
tạo khuôn khổ pháp lý thống nhất, đảm bảo quy định cụ thể, có tính chiến
lược rõ ràng và khả thi. Các chế tài, thiết chế xử lý vi phạm cần được quy
định rõ, chi tiết, minh bạch kết hợp với phân cấp quản lý rõ ràng, đồng bộ
trên cơ sở gắn với trách nhiệm trực tiếp. Chuẩn hóa các quy định về QLNH
theo thông lệ quốc tế.
- Tạo sự thông suốt các luồng ngoại tệ luân chuyển giữa các khu vực
trong nền kinh tế, tránh tình trạng “tắc nghẽn, găm giữ ngoại tệ” và những bất
hợp lý về luồng ngoại tệ giữa các khu vực của nền kinh tế, đảm bảo ngoại tệ
dư thừa của các khu vực trong nền kinh tế tập trung vào NHNN, đảm bảo dự
trữ ngoại tệ tối thiểu ở mức 12 tuần nhập khẩu nhằm tạo sự chủ động cho
NHNN khi thực hiện vai trò người cứu cánh cuối cùng trên thị trường, góp
phần đắc lực vào việc điều hành tỷ giá của NHNN và tăng tính thanh khoản
cho thị trường ngoại hối.
- Thể chế hoá các quy định thanh toán ở khu vực biên giới theo hướng
khuyến khích sử dụng đồng Việt Nam và thanh toán chuyển khoản.
266
2). Đảm bảo an toàn, an ninh quốc gia trong QLNH
- Để đảm bảo an toàn, an ninh quốc gia về phương diện QLNH, cần
ưu tiên sử dụng vốn trong nước; Xây dựng hạn mức vay vốn nước ngoài phù
hợp với các chỉ tiêu an toàn nợ; Tập trung vay vốn để ĐTPT, đặc biệt các dự
án có khả năng tái tạo ngoại tệ để đảm bảo trả nợ nước ngoài; Phát triển các
hình thức huy động mới như phát hành trái phiếu, bán cổ phần cho nước
ngoài.
- Quản lý và giám sát các luồng vốn ngoại tệ vào ra thông qua hệ
thống ngân hàng được phép, thông qua các tài khoản ngoại tệ mở tại ngân
hàng được phép áp dụng cho từng loại hình giao dịch vốn.
Tăng cường kiểm soát các luồng vốn ngắn hạn thông qua yêu cầu báo
cáo đầy đủ và kịp thời các giao dịch vay vốn ngắn hạn đồng thời tăng cường
chế tài xử phạt nghiêm để chấn chỉnh công tác báo cáo chậm và không đầy
đủ. Bên cạnh đó, có thể sử dụng các điều kiện vay trả theo từng thời kỳ để
điều chỉnh mức vay nợ nước ngoài ngắn hạn cũng như dài hạn của doanh
nghiệp ở mức hợp lý.
- Tập trung và thống nhất quản lý nguồn dự trữ Nhà nước vào một đầu
mối là NHNN, tăng cường các giải pháp tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước để
đảm bảo khả năng điều hành CSTT quốc gia, đảm bảo khả năng thanh toán
quốc tế cũng như khẳng định vị thế của quốc gia đối với quốc tế và các nhà
đầu tư nước ngoài.
- Xây dựng cơ chế quản lý dự trữ ngoại hối hiệu quả, thực hiện các
nguyên tắc quản lý dự trữ đảm bảo tính thanh khoản, an toàn, sinh lời, có cơ
chế sử dụng hợp lý phục vụ cho mục tiêu can thiệp CSTT và chính sách tỷ
giá.
- Các NHTM cần tính toán cẩn thận và cần có các biện pháp phòng
ngừa rủi ro khi mở rộng cho vay bằng ngoại tệ trong nước, có chính sách
khách hàng có uy tín và ưu tiên cho vay ngoại tệ với các doanh nghiệp xuất
khẩu, có nguồn thu ngoại tệ; riêng cho vay ngoại tệ để trả nợ trước hạn, các
NHTM cần có hạn mức riêng của mình để hạn chế việc chuyển nợ xấu từ
ngoài nước vào trong nước vì đây là một kênh chuyển nợ xấu từ ngoài nước
vào trong nước có thể gây rủi ro cho hệ thống NHTM.
3). Hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá và phát triển thị trường ngoại hối
- Chính sách tỷ giá và lãi suất cần được phối hợp đồng bộ, đảm bảo
cân bằng mức độ hấp dẫn của đồng nội tệ và ngoại tệ, tránh sự dịch chuyển từ
việc nắm giữ đồng nội tệ sang ngoại tệ.
Nâng cao khả năng điều tiết của NHNN thông qua thị trường ngoại tệ
liên ngân hàng trên cơ sở tính toán tỷ giá mục tiêu của nền kinh tế bằng các
mô hình định lượng hiện đại. Cơ chế xác định tỷ giá cần linh hoạt và phản
ánh sát hơn cung cầu về ngoại tệ trong nền kinh tế, từng bước xem xét nới
267
rộng biên độ tỷ giá theo lộ trình mở cửa TTTC, hướng tới tự do hoá tỷ giá để
triệt tiêu tâm lý găm giữ ngoại tệ của các tầng lớp kinh tế trong xã hội như
hiện nay.Với sự linh hoạt của tỷ giá, NHNN sẽ độc lập hơn trong việc điều
hành CSTT.
- Hoàn thiện các quy định về giao dịch ngoại hối, điều kiện thực hiện
các giao dịch hối đoái đối với các TCTD họat động ngoại hối phù hợp với
thông lệ quốc tế nhằm thúc đẩy thị trường phát triển.
- Hoàn thiện quy chế quản lý trạng thái ngoại tệ của các tổ chức tín
dụng nhằm giúp NHNN dự đoán được tính thanh khoản trên thị trường, tín
hiệu thị trường, qua đó có những can thiệp kịp thời trên thị trường ngoại hối,
dự đoán tín hiệu thị trường và quản lý tốt tính thanh khoản của từng NHTM.
- Chuẩn hoá tổ chức hoạt động kinh doanh ngoại tệ ở các NHTM theo
hướng mỗi NHTM có một phòng kinh doanh ngoại tệ với quy mô thích hợp
và có đủ thẩm quyền để thực hiện giao dịch tức thời. Ngoài ra cần một số
phòng hỗ trợ như phòng thanh toán (back office) để thanh toán, đối chiếu số
dư, sao kê tài khoản và phòng quản lý rủi ro (miđle office) để giám sát hoạt
động kinh doanh tránh đầu cơ quá mạo hiểm và vượt quá mức rủi ro cho
phép. Tách bạch chức năng kinh doanh với chức năng thanh toán và quản lý
rủi ro để hạn chế rủi ro và tạo sự thông suốt trong hoạt động kinh doanh ngoại
hối.
- Thành lập công ty môi giới ngoại hối để đóng vai trò cầu nối giữa
cung và cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối. Trước mắt, khi hệ thống các
công ty môi giới chưa hình thành thì có thể cho phép một số NHTM thành
lập một số công ty con với chức năng môi giới ngoại tệ trên thị trường ngoại
hối Việt Nam.
- Cải thiện họat động của thị trường ngoại hối bằng việc nới lỏng các
hạn chế đối với các công cụ sẵn có, áp dụng thêm các công cụ mới để các
thành viên tham gia thị trường có thêm nhiều lựa chọn. Hoàn thiện tổ chức thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng theo hướng đẩy mạnh các nghiệp vụ kỳ hạn
và hoán đổi, cho phép các NHTM thực hiện giao dịch quyền chọn, tương lai
để phòng ngừa rủi ro tỷ giá, góp phần cải thiện tính thanh khoản cho thị
trường.
- Khuyến khích các NHTM tăng cường công tác đào tạo cán bộ trong
họat động kinh doanh ngoại hối, nâng cao trình độ kinh doanh, giao dịch
ngoại hối cùng với việc xây dựng các biện pháp đảm bảo an toàn và phòng
ngừa rủi ro trong hoạt động ngoại hối.
- Nâng cao vai trò của NHNN trên thị trường ngoại hối theo hướng
NHNN vừa là ngân hàng thành viên, vừa là người tổ chức, quản lý hoạt động
của thị trường này. NHNN thực hiện chức năng tổ chức và quản lý hoạt động
thị trường và can thiệp khi cần thiết nhằm bôi trơn và giúp cho thị trường
hoạt động được thông suốt. Để thực hiện tốt hơn vai trò của NHNN trên thị
268
trường, ngoài việc cần tăng mức dự trữ ngoại hối tạo đủ nguồn cho NHNN
để can thiệp kịp thời, tỷ giá cần linh hoạt hơn để phản ánh sự cân bằng của thị
trường, nhờ đó tỷ giá có thể trở thành công cụ can thiệp hữu hiệu.
4). Hạn chế tối đa tình trạng đôla hoá trên thị trường tiền tệ
- Thể chế hoá bằng Luật pháp về vấn đề chống đôla hóa
NHNN cùng các cơ quan liên quan phải triệt để bảo vệ tính nghiêm
minh của Pháp Luật. Đối với những nước kém phát triển và có đồng tiền
yếu thì giải pháp tăng cường uy tín của đồng tiền phải bao gồm đồng bộ
các giải pháp kinh tế nhằm bảo vệ giá trị đồng nội tệ là giải pháp mang
tính quyết định nhất. Nội dung then chốt nhất của Pháp luật về chống đôla
hóa là nghiêm cấm mọi thể nhân, mọi Pháp nhân và mọi tổ chức xã hội
khác dùng ngoại tệ để sử dụng chức năng số 1 của tiền tệ - phương tiện
trao đổi trực tiếp trong lưu thông hàng hoá, dịch vụ nội địa; Mọi đối tượng
nói trên phải tuân thủ qui chế kiểm soát của NHTW đối với việc sử dụng
ngoại tệ trong chức năng số 3 của tiền tệ (phương tiện tích luỹ giá trị dưới
hình thức mở tài khoản ngoại tệ tại Ngân hàng trong nước); Phải xoá bỏ
tín dụng ngoại tệ, trước hết là xoá ngay tín dụng ngoại tệ ngắn hạn...
- NHTW được toàn quyền vận dụng qui luật tiền tệ để tác động trực
tiếp vào mối quan hệ giữa lãi suất đồng nội tệ với lãi suất đồng ngoại tệ theo
nguyên tắc ưu tiên sự tôn trọng tính ổn định giá trị của đồng nội tệ.
- Xây dựng thiết chế nghiêm ngặt để thực thi một cách triệt để trên
thực tiễn về quyền hạn của NHTW là cơ quan độc quyền quản lý dự trữ
ngoại hối quốc gia theo luật đã định.
Đây là một trong những mấu chốt quan trọng đảm bảo cho NHTW đủ
tiềm lực ngoại tệ để sử dụng tỷ giá thực sự là một công cụ của CSTT trong cơ
chế thị trường, mở cửa và hội nhập. Theo đó, phải hoàn thiện cơ chế quản lý
chi tiết và sớm đưa vào Luật NHTW mới các điều khoản điều chỉnh về quản
lý ngoại hối theo nguyên tắc NHTW là cơ quan duy nhất, độc quyền quản lý
ngoại hối và điều hành chính sách ngoại hối.
5). Hình thành các quỹ DTNH theo chức năng và xây dựng cơ cấu ngoại tệ và cơ cấu đầu tư DTNH cho từng quỹ.
Các quỹ DTNH bao gồm:
(i) Quỹ bình ổn tỷ giá và giá vàng đảm bảo tính thanh khoản cao cho
mục đích sử dụng thường xuyên, mục tiêu lợi nhuận ở mức thấp. Cơ cấu
ngoại tệ DTNH của quỹ này phù hợp với cơ cấu thanh toán các giao dịch
thương mại hàng hoá và dịch vụ trong từng thời kỳ;
(ii) Quỹ trả nợ nước ngoài đầu tư vào những công cụ với cơ cấu đồng
tiền và kỳ hạn phù hợp với nghĩa vụ nợ công. Cơ cấu ngoại tệ dự trữ phù hợp
với cơ cấu tài sản nợ nước ngoài của Chính phủ và Ngân hàng Trung ương
(NHTW);
269
(iii) Quỹ đầu tư dài hạn thực hiện đầu tư vào những công cụ sinh lời
cao;
(iv) Quỹ đầu tư uỷ thác cho nhà đầu tư nước ngoài nhằm mục đích
sinh lời và chuyển giao kinh nghiệm quản lý. Đối với quỹ dự trữ đầu tư dài
hạn và uỷ thác, cơ cấu DTNH là các ngoại tệ mạnh khác nhau trên cơ sở phân
tích, đánh giá diễn biến trên thị trường.
Dự trữ được chia thành các quỹ khác nhau và mỗi quỹ sẽ được đầu tư
bằng những công cụ và hình thức khác nhau đảm bảo việc quản lý DTNH đạt
hiệu quả tối đa và phân tán rủi ro, đồng thời phải hình hành cơ chế điều
chuyển giữa các quỹ. Mỗi quỹ dự trữ sẽ được xây dựng danh mục đầu tư
chuẩn, phân cấp quản lý đầu tư... để đảm bảo dự trữ ngoại hối được quản lý
tốt nhất. Đặc biệt, Quỹ dự trữ đầu tư dài hạn phải chú trọng đến công việc
đánh giá, lựa chọn đối tác.
6). Nâng cao vị thế và tính chuyển đổi của đồng Việt Nam
- Cần có giải pháp và lộ trình cụ thể để nâng dần tính chuyển đổi của
đồng Việt Nam.
- Để đáp ứng điều kiện cần của việc nâng cao tính chuyển đổi của
VND: (i) Cần xem xét và dỡ bỏ từng bước các hạn chế đối với các giao dịch,
nhất là giao dịch vốn theo lộ trình thích hợp.(ii) Đối với các giao dịch được
phép, cần đơn giản hoá các thủ tục chuyển đổi ngoại tệ cho các giao dịch,
giúp các doanh nghiệp thuận lợi trong việc mua ngoại tệ. (iii) Phát triển các
công cụ của thị trường ngoại hối, đảm bảo thuận tiện cho việc chuyển đổi
ngoại tệ và tăng cường khả năng phòng chống rủi ro.
- Để đáp ứng điều kiện đủ của việc nâng cao tính chuyển đổi của đồng
Việt Nam: Ngoài các giải pháp về tạo sự luân chuyển ngoại tệ thông suốt
trong nền kinh tế, tăng cường dự trữ ngoại hối đảm bảo sẵn sàng can thiệp thị
trường, nâng cao năng lực phân tích dự báo và kiểm soát tiền tệ của NHNN
như nêu trên, cần thực hiện các biện pháp hỗ trợ cụ thể để nâng cao dần tính
chuyển đổi và nâng dần tầm ảnh hưởng của VND ra khu vực và quốc tế nếu
điều kiện cho phép như:
+ Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao, bền vững, duy trì lạm phát ở mức
thấp và ổn định, qua đó củng cố được sức mua đối nội và đối ngoại của đồng
tiền, làm cho người dân tin tưởng hơn vào đồng nội tệ, hạn chế sử dụng ngoại
tệ, khắc phục và tiến tới xóa bỏ tình trạng đô la hóa.
+ Nâng cao chất lượng dịch vụ hệ thống ngân hàng, khiến người dân
tin tưởng vào hệ thống ngân hàng và tiện lợi trong việc sử dụng dịch vụ ngân
hàng, khuyến khích thanh toán qua ngân hàng thông qua việc cải thiện hoạt
động thanh toán bù trừ, thanh toán điện tử, cải thiện dịch vụ ngân hàng với
chi phí rẻ và tiện lợi, phát triển sử dụng thẻ để thanh toán hàng hoá và dịch vụ
tại nhiều nơi công cộng và cửa hàng lớn, qua đó thu hút toàn bộ ngoại tệ
người dân có vào hệ thống ngân hàng.
270
- Thực hiện các giải pháp đồng bộ từ phía chỉ đạo của Chính phủ, các
Bộ ngành quản lý kinh tế vĩ mô, các cơ quan luật pháp và quản lý thị trường
nhằm khuyến khích người dân bán ngoại tệ cho hệ thống ngân hàng để đáp
ứng nhu cầu chi ngoại tệ của các khu vực khác trong nền kinh tế và có thể
bán cho NHNN góp phần tăng dự trữ quốc tế của đất nước.
- Bộ Tài chính cần phối hợp chặt chẽ hơn nữa trong việc bán kịp thời
toàn bộ số ngoại tệ thu được cho NHNN, khi cần ngoại tệ để trả nợ nước
ngoài, NHNN sẽ bán kịp thời cho Bộ Tài chính. Về lâu dài, mọi khoản thu
ngoại tệ của Chính phủ nên được chuyển sang VND để tạo điều kiện tăng dự
trữ quốc tế.
- Tăng cường khâu kiểm soát và chế tài xử phạt các hoạt động ngoại tệ
trong nước, đặc biệt là các bàn thu đổi ngoại tệ, các quầy mua bán ngoại tệ tại
các vùng biên giới.
- Tăng cường công tác tuyên truyền để tác động tới tâm lý người dân,
khắc phục tình trạng thanh toán bằng ngoại tệ tiền mặt và khuyến khích bán
ngoại tệ cho ngân hàng, chú trọng công tác quản lý thị trường và xử lý
nghiêm khắc đối với các cá nhân và tổ chức sử dụng ngoại tệ trong thanh
toán trái với quy định của pháp luật.
7). Nâng cao vai trò, trách nhiệm của NHTW trong quản lý ngoại hối
Nâng cao vai trò và trách nhiệm của NHTW trong việc quản lý, kiểm
soát và trực tiếp tham gia vào thị trường ngoại tệ nói riêng, vào hoạt động
quản lý ngoại hối nói chung, theo đó cần phải đổi mới cơ chế quản lý ngoại
hối và điều hành tỷ giá nhằm lập lại trật tự của thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng cũng như thị trường ngoại tệ nói chung.
Các giải pháp cụ thể như sau:
- Kiểm soát chặt chẽ, nghiêm cấm mọi tổ chức và cá nhân sử dụng
ngoại tệ mặt làm phương tiên lưu thông trên lãnh thổ. Ngoại tệ mặt do đó chỉ
được dùng 3 chức năng trên lãnh thổ Việt Nam: (i) Thước đo giá trị hàng
hoá; (ii) Phương tiện tích trữ hoặc tiết kiệm; (iii) Chức năng thanh toán quốc
tế ở ngoài lãnh thổ, hoặc thanh toán chuyển khoản ở trong và ngoài lãnh thổ.
- NHTW là cơ quan độc quyền quản lý dự trữ ngoại hối quốc gia (Quĩ
1) và đưa vào Luật NHTW mới.
- Về cơ chế xác định và công bố tỷ giá của NHTW, cần tiếp tục thực
hiện theo phương pháp gắn với thị trường ngoại tệ như hiện nay là tối ưu.
- Về xu hướng hoàn thiện thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, cần bổ
sung thêm hầu hết các thành viên tham gia thị trường vào việc tính tỷ giá bình
quân cuối giờ ngày hôm trước và mở rộng thêm biên độ giao động cho phép
từ 0,1 lên 0,3%, hoặc 0,5. Đây là tỷ giá có hiệu lực trong thanh toán đối ngoại
của NHTW và thanh toán giữa NHTW với các bên đối tác trong nước.
271
3.3. HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT VÀ TÍN DỤNG GIAI
ĐOẠN 2006-2010
3.3.1. Định hướng hoàn thiện chính sách lãi suất và tín dụng giai đoạn
2006 – 2010.
1). Đổi mới chính sách lãi suất của NHTW
Hoàn thiện chính sách lãi suất theo nguyên tắc thị trường – trên thị
trường tái chiết khấu, thị trường mở, theo đó từ năm 2007, chính sách lãi suất
phải xuất phát từ CSTT mục tiêu lạm phát thấp làm nền tảng của chính sách
lãi suất trên thị trường để điều tiết nguồn cung ứng tiền cơ bản của NHTW.
Trên cơ sở, NHTW phải triệt để sử dụng 4 loại lãi suất phổ biến gồm:
- Lãi suất tái cấp vốn hoặc lãi suất cho vay khẩn cấp qua đêm của
NHTW làm “lãi suất trần” trong việc tái cấp vốn của NHTW cho các TCTD
(lãi suất cao nhất).
- Lãi suất đấu thầu tín phiếu, TPCP hoặc Công trái Nhà nước (lãi suất
trung bình). Đây là lãi suất mà TCTD và cá nhân cho Nhà nước vay tiền
trong điều kiện thời gian, không gian và hoàn cảnh nhất định phải đi qua tài
khoản của Chính phủ hoặc Kho bạc Nhà nước tại NHTW để NHTW kiểm
soát tổng lượng chu chuyển tiền tệ trong nền kinh tế.
- Lãi suất liên ngân hàng do các NHTM cho vay lẫn nhau, lãi suất này
xoay quanh lãi suất đấu thầu trái phiếu hoặc tín phiếu nói trên.
- Lãi suất tiền gửi của các Ngân hàng thương mại tại NHNN (lãi suất
thấp nhất).
2). Đổi mới chính sách ưu đãi lãi suất
Chuyển dần từ ưu đãi lãi suất sang ưu đãi “có điều kiện” và tôn trọng
qui luật hình thành lãi suất thị trường; Chuyển từ “bao cấp” một phần lãi suất
sang khuyến khích đầu tư theo chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế qua
từng thời kỳ và phát triển môi trường thị trường hàng hoá cụ thể trong nền
kinh tế thị trường và hội nhập của Việt Nam.
3.3.2. Giải pháp hoàn thiện chính sách lãi suất và tín dụng giai đoạn
2006 - 2010.
1). Đổi mới chính sách lãi suất trên thị trường tín dụng ngân hàng:
Nguyên tắc và cơ chế quản lý các loại lãi suất này phải tôn trọng cơ
chế thị trường. Tiếp tục tổng kết và phát huy tính ưu việt của cơ chế lãi suất
thoả thuận trong thị trường tín dụng.
Dưới đây là một số ví dụ để đề xuất việc xác lập công thức và xây
dựng một số chỉ tiêu trong tính toán lãi suất và phân tích tài chính trong quản
trị kinh doanh của Ngân hàng thương mại:
272
Tính toán và phân tích lãi suất (giá cả) cho nhóm sản phẩm chính của NHTM "vay để cho vay" trong đầu tư tín dụng:
Công thức xác định giá ở ngưỡng hiệu quả (C+V =Lscvo)
Công thức dưới đây được đúc rút từ nghiên cứu lý thuyết và quan sát
thực tiễn, có thể áp dụng không chỉ đối với các Giám Đốc, Tổng Giám Đốc
NHTM mà cả cho các nhà hoạch định dùng làm công cụ để kiểm chứng
chính sách:
Gọi M là tổng nguồn huy động phân cho mục đích đầu tư tín dụng
(trong cấu thành sử dụng vốn), thì (aM) sẽ là tổng dư nợ lớn nhất có thể
được. Trong đó: a là hệ số sử dụng vốn bằng phần còn lại của tổng tỷ trọng
cấu thành M sau khi trừ đi tổng tỷ lệ dự trữ bắt buộc r + tỷ lệ quĩ đảm bảo
thanh toán e của NH (a= (1- (r+e)). => M x Lstg = aM x Lscvo=> Lstg/Lscvo
= a với (0<a<1) =>Lscvo = Lstg/a => đây chính là giá ở ngưỡng hiệu quả
của hoạt động cho vay (Tr.đó: Lstg: lãi suất huy động bình quân. Lscvo: Lãi
suất cho vay ở ngưỡng hiệu quả chưa tính đến lợi nhuận). Tại thời điểm tính
toán, trên thị trường có Lscv cùng loại là i, thì (i - Lscvo = DT) chính là
doanh thu ròng trên một đơn vị sản phẩm trong hoạt động đầu tư tín dụng bao
gồm cả chi phí sản xuất (không tính đến chi phí trả lãi huy động và "thuế" an
toàn vốn=Lscv x (R+E)), cả lợi nhuận mà NH có thể đạt tới. DT chính là hiệu
số "chênh lệch Ls bình quân đầu ra - đầu vào". Như vậy, trong cơ chế thị
trường, giá cả thị trường (trong trường hợp này là lãi suất thị trường i) quyết
định CPSX, chứ không phải ngược lại như thời cơ chế bao cấp...
Theo năng lực của các NH có trình độ trung bình quốc tế và khu vực
hiện nay thì tổng DT nói trên thường đạt từ 3% đến 4,5% tổng dư nợ.
DT nói trên cần được phân tích các quan hệ cấu thành sao cho hợp lý
nhất trên cơ sở các số liệu lịch sử và nghệ thuật kinh doanh trong từng điều
kiện công nghệ, cạnh tranh và từng thời kỳ khác nhau. Nhiệm vụ của Phòng
Marketing là phải đề xuất được cơ cấu này thông qua vô số các cuộc khảo sát
từ hoạt động thực tiễn của chính NH mình. Dưới đây là ví dụ về một cơ cấu
của DT có thể tham khảo, (thậm chí chuẩn hoá để phấn đấu cho các NHTM):
Nếu gọi DT là 100% thì quan hệ tỷ lệ cấu thành sau đây là một ví dụ
để tham khảo:
DT =100%, trong đó:
1. Chi phí quản lý (lương gián tiếp, công tác phí, quảng cáo, đối ngoại,
hội họp...) =7,5%. Trong nhóm này có thể tăng lương gián tiếp nếu các chi
phí khác giảm được tương ứng.
2. Chi phí văn phòng phẩm: (trang thiết bị rẻ tiền, mau hỏng...)=7,5%
3. Chi phí điện, điện thoại, viễn thông...=5%
4. Chi phí dự phòng rủi ro: (tính toán theo từng nhóm TSC rủi
ro)=15%
273
5. Chi tiền lương cho người lao động trực tiếp = 20%
6. Chi phí khác = 5%
7. Lợi nhuận trước thuế = 40% gồm: thuế DT, thuế lợi tức (nếu có),
thuế vốn (thay khấu hao mà bản chất của nó là chi phí C1 trong cơ cấu giá),
lợi nhuận còn lại để chia 3 quĩ (Khen thưởng, Phát triển nghiệp vụ, phúc
lợi)...
Để ý rằng: nếu giả sử NH đạt được tổng DT = 3% dư nợ thì
P=40%x3%=1,2% dư nợ là đồng nghĩa với chỉ số P/TSC=ROA trong nhóm
sản phẩm vay để cho vay của NH. Các con số trên khác đi thì tương ứng với
nó là một chỉ số ROA khác. Nếu con số này tăng thì chiều hướng hiệu quả
kinh doanh tốt lên, nếu giảm thì chiều hướng hiệu quả xấu đi...
Phân tích các chỉ tiêu về chi phí sản xuất và hiệu suất hoạt động
Trong đó:
- Chi phí hoạt động/DT phải không lớn hơn 60%.
- Tài sản có/một cán bộ nhân viên phải lớn dần theo thời gian...(con số
này hiện nay bình quân của NHTMVN là 8,5 tỷ - thấp xa so với các Ngân
hàng ở Malaixia đạt tới 40 tỷ qui VND). Đến 2010, theo quan điểm của
chúng tôi, NHTM Việt Nam không nhất thiết phải chú trọng tăng tỷ lệ này
lên quá 30 tỷ/người (vì nó phản ánh tính chất “chuyên doanh” của một Ngân
hàng), mà rất cần chú ý phấn đấu đạt các chỉ tiêu hiệu suất khác như:
- ROE (Lợi nhuận ròng trên vốn tự có) không dưới 15%, đến 2020
phải đạt mức không dưới 17%;
- ROA (lợi nhuận ròng trên tổng giá trị tài sản có) đạt mức 1,1% vào
năm 2006 và phấn đấu không dưới 1,5% vào sau 2015.
- Phương thức chủ yếu để đạt được các chỉ tiêu nói trên là áp dụng các
thông lệ quốc tế trong quản trị rủi ro tốt nhất, đa dạng hoá tài sản có để phân
bổ vốn đầu tư vào những lĩnh vực đem lại hiệu quả cao nhất. Ngành NHVN
cùng các ngành liên quan cần có cơ chế phối hợp để chuyển mạnh trách
nhiệm cung ứng vốn đầu tư trung và dài hạn sang TTCK. Các NHTM,
TCTD sẽ đảm nhiệm chủ yếu chức năng cung ứng vốn ngắn hạn, đóng vai
trò tốt nhất trong việc biến các công cụ vốn dài hạn thành các “vòng đời” vốn
ngắn hạn thông qua hình thức tín dụng cầm cố, tín dụng thế chấp, tín dụng
chiết khấu, tái chiết khấu các công cụ tài chính dài hạn làm cho thị trường
vốn ngày càng lưu hoạt, sôi động cùng với việc chú trọng phát triển ngày
càng nhiều các loại sản phẩm dịch vụ tiện ích Ngân hàng cho nền kinh tế
quốc dân - Đó mới là sứ mệnh và định hướng phát triển lành mạnh TTTC
Việt Nam phù hợp với xu thế hội nhập và phát triển trong không gian mới và
trình độ mới.
274
2). Đổi mới cơ chế, chính sách tín dụng trên thị trường liên ngân hàng:
- Thực hiện bình đẳng về điều kiện tiếp cận thị trường,
- Đa dạng hoá và phân biệt theo giá trị của từng loại hàng hoá tham gia
trao đổi trên thị trường này. Không sử dụng cùng một loại “giấy có giá” để sử
dụng chung cho các quan hệ tín dụng khác nhau trên thị trường tiền tệ.
- Tăng cường vai trò “cho vay cuối cùng” bằng những cơ chế mạnh
của NHTW – Vừa thu hút, vừa gắn trách nhiệm cho các Ngân hàng, định chế
tài chính thành viên.
3). Đổi mới cơ chế, chính sách tín dụng trên thị trường tín dụng đối với nền kinh tế:
- Đổi mới chính sách kỳ hạn theo hướng: kỳ hạn khoản vay phải xuất
phát từ chu kỳ tái sản xuất, hoặc nhu cầu vay cụ thể của bên vay. Phải gắn kỳ
hạn khoản vay với lãi suất trong từng hợp đồng tín dụng theo nguyên tắc:
Thời hạn dài, lãi suất cao; Tính khả thi cao, lãi suất thấp; Rủi ro dự báo thấp,
lãi suất thấp...
- Đổi mới chính sách đảm bảo tiền vay theo hướng ngày càng dựa
nhiều vào thông tin tín nhiệm khách hàng, tăng cường các hoạt động dịch vụ
thẩm điọnh dự án, dịch vụ giao dịch đảm bảo và phát triển tín dụng bảo lãnh,
phân chia hoạt động qui trình tín dụng thành các nghiệp vụ độc lập giữa thẩm
định với rải ngân và với thu hồi nợ. Tăng cường các quan hệ thông tin liên
ngân hàng và liên ngành về khách hàng và thường xuyên kiểm tra qui trình
và tiến trình sử dụng vốn vay; Khuyến khích các dịch vụ thu hộ, chi hộ khách
vay trên tài khoản vay của khách hàng tại Ngân hàng v.v
- Cải tiến thủ tục, quy trình tín dụng theo hướng ngân hàng ngày càng
làm nhiều việc hơn so với những thủ tục “yêu cầu” khách hàng phải làm.
4). Tín dụng trên thị trường cung ứng tiền tệ của NHTW:
- NHTW Việt Nam cần sử dụng chủ yếu nghiệp vụ thị trường mở
(TTM) để điều tiết vốn khả dụng của các TCTD.
Dựa trên những thông tin về thay đổi mức dự trữ vốn khả dụng của
các TCTD, NHTW phải xác định được mức dự trữ cần duy trì cho các TCTD
để thực hiện mục tiêu CSTT của NHTW trên cơ sở khả năng huy động vốn,
sử dụng vốn và ảnh hưởng của các chính sách kinh tế vĩ mô trong thời gian
tiếp theo. Qua đó NHTW xác định mức dự trữ của các tổ chức tín dụng mà
NHTW sẽ thu về hoặc cấp thêm và xác định cơ chế tác động vào mức dự trữ
đó, như sử dụng nghiệp vụ thị trường mở, hoặc mua bán ngoại tệ để điều
chỉnh dự trữ bằng đồng nội tệ cho các tổ chức tín dụng, hoặc sử dụng các
nghiệp vụ cơ bản khác như dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn để điều chỉnh mức dự
trữ cho hệ thống tổ chức tín dụng.
275
Khi xác định được mức dự trữ cần can thiệp trên thị trường mở,
NHTW cần đưa ra thời hạn của các giao dịch và hình thức giao dịch cho phù
hợp với CSTT. Các giao dịch trên thị trường là các giao dịch mua đứt bán
đoạn và các giao dịch theo hợp đồng mua lại. Các giao dịch mua đứt bán
đoạn thường được sử dụng khi cần điều chỉnh vốn khả dụng của hệ thống tài
chính trong thời gian tương đối dài, do nó có thể làm thay đổi vốn khả dụng
của hệ thống tài chính ngay lập tức và chưa có cơ sở để bồi hoàn lượng vốn
khả dụng đó trong tương lai. Các giao dịch mua đứt bán đoạn phải đòi hỏi
thời hạn còn lại của chứng khoán giao dịch đủ ngắn theo yêu cầu của CSTT,
một phần là để đảm bảo rằng các chứng khoán này đã được giao dịch trên thị
trường, tức là hạn chế việc NHTW cho vay trực tiếp người phát hành chứng
khoán đó, một phần là thời hạn còn lại của chứng khoán ngắn thì sẽ không
ảnh hưởng đến số dư của các chứng khoán giao dịch trên thị trường và như
vậy sẽ thúc đẩy thị trường thứ cấp phát triển. Tuy nhiên, trên TTM thì các
giao dịch được NHTW các nước ưa thích sử dụng là các giao dịch hợp đồng
mua, bán lại. Các giao dịch theo hợp đồng mua, bán lại chỉ điều chỉnh vốn
khả dụng trong một thời gian nhất định, sau đó lượng vốn khả dụng lại được
tự động bồi hoàn như cũ khi hợp đồng mua lại hết hiệu lực. Vì vậy các chứng
khoán được sử dụng trong trường hợp này chủ yếu là các chứng khoán dài
hạn để giảm bớt chi phí in ấn một cách không cần thiết. Việc điều chỉnh dự
trữ bằng các hợp đồng mua bán lại sẽ mang tính thận trọng hơn các giao dịch
mua đứt bán đoạn, nên thường được NHTW sử dụng khi chưa xác định mức
dự trữ và thời hạn cần can thiệp trên TTM.
Khi giao dịch được thực hiện qua phương thức đấu thầu lãi suất hoặc
đấu thầu khối lượng, mức lãi suất hình thành trên thị trường mở là tín hiệu lãi
suất cho thị trường tiền tệ và như vậy nghiệp vụ TTM là công cụ vừa để điều
chỉnh lượng vốn khả dụng của các Ngân hàng thương mại, vừa để điều chỉnh
lãi suất của thị trường tiền tệ nói chung. Việc đấu thầu nhằm tăng tính cạnh
tranh giữa các thành viên tham gia và các yếu tố xác định thông qua đấu thầu
sẽ mang tính thị trường hơn.
5). Đổi mới chính sách tín dụng ưu đãi và tín dụng hỗ trợ của Nhà nước
- Đổi mới quan điểm đầu tư, đối tượng đầu tư và các hình thức đồng
tài trợ theo nguyên tắc đấu thầu công khai, khoán gọn, trọn gói, ràng buộc
trách nhiệm cá nhân gồm cá nhân người tác nghiệp trực tiếp và cá nhân người
đứng đầu tổ chức liên quan đến các dịch vụ tín dụng cụ thể từ khi phát sinh
đến khi kết thúc kể cả vào thời điểm kết thúc, các cá nhân đó đã nghỉ hưu hay
chuyển nơi làm việc...
Ngoài ra, chúng tôi cũng đề xuất các cấp, các ngành liên quan cần có
những hoạt động phối hợp phù hợp với yêu cầu đổi mới chung của TTTC
Việt Nam nhằm thu hút mọi nguồn lực ĐTPT và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Cụ thể, đề tài xin đề xuất:
276
- Đối với Bộ Tài chính: Cần phải đa dạng hoá các “kênh” huy động
thông qua việc phát hành trái phiếu, tín phiếu kho bạc để đáp ứng nhu cầu bội
chi NSNN và nhu cầu đầu tư (đối với các dự án đầu tư lớn của Chính phủ, để
có hiệu quả thì số vốn tham gia của Chính phủ phải chiếm một tỷ trọng
khoảng từ 30-40% trên tổng số vốn đầu tư). Quốc hội đã thông qua Luật sửa
đổi một số Điều của Luật NHNN đã tạo ra một thị trường thứ cấp cho các
chứng khoán của Chính phủ lưu thông, vì vậy việc phát hành các TPCP sẽ
thuận lợi hơn. Tuy nhiên, đề nghị Bộ Tài chính phát hành các trái phiếu, tín
phiếu có thời hạn đa dạng hơn và lãi suất huy động sát với lãi suất thị trường
để phát triển có hiệu quả thị trường TPCP.
Hiện nay lượng ngoại tệ trong dân rất lớn (riêng lượng kiều hối chuyển
về nước trong những năm gần đây bình quân khoảng trên 3,5 tỷ đô la Mỹ
một năm). Vì vậy, đề nghị Bộ Tài chính có kế hoạch phát hành trái phiếu
bằng ngoại tệ với lãi suất huy động hợp lý để đầu tư cho các dự án lớn hiện
nay (điều này sẽ thuận lợi trong điều kiện lãi suất trên thị trường quốc tế đang
ở mức thấp). Nguồn ngoại tệ này cũng sẽ là một bộ phận rất quan trọng để
Chính phủ thông qua Bộ Tài chính tham gia vào thị trường ngoại tệ theo cơ
chế hoạt động của Quĩ can thiệp thị trường ngoại tệ của NHTW.
- Phân cấp và nâng cao tính chủ động về huy động vốn cho các cấp
ngân sách: Ngân sách trung ương chỉ tập trung vào các dự án lớn, có ảnh
hưởng đến toàn bộ nền kinh tế, các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng quan
trọng, còn lại phân cấp cho các địa phương và huy động mọi nguồn lực của
xã hội để thực hiện. Bên cạnh việc phát hành các loại TPCP, các địa phương
cũng có thể phát hành trái phiếu của địa phương để huy động vốn đầu tư vào
các dự án đầu tư có hoàn vốn. Đa dạng hoá các hình thức đầu tư, các hình
thức liên doanh liên kết để huy động triệt để mọi nguồn lực của xã hội cho
phát triển kinh tế...
- Hoàn thiện khung pháp lý cho sự hình thành và phát triển thị trường
bất động sản để tạo điều kiện cho các Ngân hàng thương mại xử lý được các
khoản nợ có đảm bảo bằng bất động sản, qua đó giải phóng vốn nhanh để
tiếp tục tái đầu tư...
3.4. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHỐI HỢP
GIỮA CSTK VÀ CSTT TRONG ĐIỀU TIẾT VĨ MÔ NỀN
KINH TẾ
3.4.1. Định hướng phối hợp giữa CSTK và CSTT
1). Phối hợp chặt chẽ trong việc thực hiện mục tiêu chính sách
Bộ Tài chính và NHNN cần phải phối hợp chặt chẽ hơn trong việc
thực hiện mục tiêu chung chính sách
Trong giai đoạn tới, việc thực hiện CSTK nới lỏng là cần thiết nhằm
tăng nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, việc giải quyết hợp lý mối
277
quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát là tiền đề quan trọng để phát triển ổn
định. Điều đó đòi hỏi phải tăng cường sự phối hợp giữa CSTK và CSTT
trong điều tiết vĩ mô.
Trong bối cảnh đó, mục tiêu phối hợp giữa CSTK và CSTT được thể
hiện như sau:
- Đối với CSTK: Tiếp tục duy trì chính sách tài khoá có bội chi
nhằm tăng thêm nguồn lực cho ĐTPT, nhưng không gây hậu quả xấu đối
với nền kinh tế cả hiện tại và cả thời kỳ chiến lược.
- Đối với CSTT: Cần hướng tới lấy kiểm soát lạm phát và ổn định
giá trị VND là mục tiêu ưu tiên hàng đầu.
2). Phối hợp chặt chẽ trong việc sử dụng các công cụ chính sách và cơ chế truyền tải chính sách
Trên cơ sở các mục tiêu về lạm phát, GDP và dự báo cán cân thanh
toán, Bộ Tài chính phối hợp với NHNN lập dự toán NSNN, xác định quy mô
thâm hụt, nhu cầu tài trợ từ nguồn vốn trong nước và ngoài nước. Đối với
nguồn vốn trong nước, cần dự kiến các đợt phát hành trái phiếu và thời gian
dự kiến giải ngân các khoản chi tiêu của Chính phủ. Căn cứ vào dự toán thu,
chi NSNN cho năm tới, NHNN dự kiến tác động của từng hoạt động đến
Bảng cân đối tiền tệ của NHNN và của toàn ngành, qua đó xác định mức
cung ứng tiền tệ cho các mục đích cần thiết trong từng thời kỳ. Có định
hướng phối hợp các công cụ CSTT để điều tiết vốn khả dụng phù hợp với dự
kiến ngân sách của Chính phủ.
3.4.2. Giải pháp tăng cường phối hợp giữa CSTK và CSTT
1). Tăng cường phối hợp giữa Bộ Tài chính và NHNN trong việc thực hiện các mục tiêu vĩ mô
- Hoàn thiện thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc: (i) Về thành viên,
hiện nay các giao dịch trên thị trường tín phiếu kho bạc chủ yếu là các
NHTM nhà nước, giao dịch của các NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh,
chi nhánh ngân hàng nước ngoài còn hạn chế. Trong thời gian tới, cần có cơ
chế để các NHTM cổ phần và ngân hàng có quy mô nhỏ hơn trúng thầu.
Ngoài ra, Bộ Tài chính cần có biện pháp đưa các quỹ ngoài ngân sách tham
gia đấu thầu tín phiếu, không để tình trạng để lãng phí vốn, có quan hệ tiền
gửi trực tiếp tại các tổ chức tín dụng như hiện nay. (ii) Về thời hạn tín phiếu,
cần được đa dạng hơn. (ii) Về lãi suất, cần được xác định phù hợp hơn để có
mức lãi suất chuẩn, làm cơ sở cho định hướng điều hành lãi suất trên thị
trường tiền tệ.
- Phối hợp xây dựng CSTK và CSTT phù hợp với hạn mức nợ nước
ngoài của quốc gia: Trước hết, để đảm bảo an ninh tài chính quốc gia, Bộ Tài
chính cần phối hợp với các Bộ, ngành xây dựng các chỉ tiêu nợ nước ngoài an
toàn, phù hợp với thông lệ quốc tế. Căn cứ vào các chỉ tiêu vay và trả nợ
278
nước ngoài hàng năm, NHNN đánh giá những ảnh hướng tới ngân sách, tới
cán cân thanh toán quốc tê và điều chỉnh mức cung ứng tiền tệ thích hợp. Để
trung hòa ảnh hưởng luồng vốn vào tới M2, coi trọng giải pháp chuyển tiền
gửi của Chính phủ từ các NHTM sang NHNN. Trong bối cảnh Việt Nam
ngày càng tự do hoá tài chính, luồng vốn chu chuyển ngày càng mạnh hơn và
nhanh hơn, đòi hỏi các nhà lập CSTK và CSTT phải có những giải pháp để
đối phó. Như đã đề cập ở trên, tiền gửi của chính phủ chủ yếu tại các NHTM,
nên để triệt tiêu tác động của luồng vốn vào tới cấu phần thay đổi tài sản có
ngoại tệ ròng trong M2, bên cạnh việc sử dụng nghiệp vụ can thiệp vô hiệu
(sterilization) thông qua thị trường mở, NHNN cần phối hợp với Bộ Tài
chính thực hiện giải pháp chuyển tiền gửi của Chính phủ từ các NHTM sang
NHNN. Giải pháp này thường được sử dụng ở các nước như Thái lan,
Malayxia khi mà tiền gửi của chính phủ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tiền
gửi của hệ thống ngân hàng. Việc sử dụng phương pháp này để can thiệp vô
hiệu các luồng vốn vào đạt hiệu quả rất cao và dường như không phải tốn
kém một chi phí nào nếu Ngân hàng Trung ương trả lãi cho tiền gửi chính
phủ bằng mức lãi mà các ngân hàng thương mại trả.
- Bộ Tài chính phối hợp chặt chẽ với NHNN trong việc bán ngoại tệ
thặng dư cho NHNN kịp thời: Trong điều kiện nguồn thu cán cân vãng lai
chưa mấy ổn định bởi cơ cấu xuất khẩu vẫn còn bất cập, giá cả hàng hóa trên
thị trường thế giới luôn biến động, sản xuất hàng xuất khẩu, đặc biệt là những
mặt hàng nông, lâm, hải sản phụ thuộc nhiều vào thiên tai, dịch bệnh…Sản
xuất trong nước phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên
vật liệu nên trong nhiều thời điểm, đặc biệt là khi giá dầu lên cao, tạo ra sức
ép sử dụng dự trữ quốc tế để đáp ứng nhu cầu chi ngoại tệ của nền kinh tế.
Bộ Tài chính cần phối hợp chặt chẽ hơn nữa trong việc bán kịp thời toàn bộ
số ngoại tệ thu được cho NHNN, khi cần ngoại tệ để trả nợ nước ngoài,
NHNN sẽ bán kịp thời cho Bộ Tài chính. Về lâu dài, mọi khoản thu ngoại tệ
của Chính phủ nên được chuyển sang VNĐ để tạo điều kiện tăng dự trữ quốc
tế.
2). Xây dựng một chương trình tiền tệ thống nhất:
Chương trình tiền tệ này sẽ giúp để hạn chế sự không phù hợp giữa hai
chính sách. Chương trình tiền tệ là một khung chính sách nhằm thiết kế một
cơ chế điều chỉnh của CSTT nhằm đạt được mục tiêu quản lý tiền tệ trong
một khoảng thời gian nhất định có tính đến những tác động qua lại giữa
CSTT và CSTK. Chương trình tiền tệ này có thể gắn với việc kiểm soát
lượng tiền rộng (trong điều kiện sử dụng hệ thống công cụ CSTT trực tiếp)
hoặc gắn vơi việc kiểm soát lượng tiền dự trữ (trong điều kiện sử dụng hệ
thống công cụ gián tiếp). Việc xây dựng chương trình tiền tệ bao gồm từ việc
xác định mục tiêu điều hành, mục tiêu chính sách cho tới xây dựng hệ thống
cơ chế chuyển tảI chính sách, theo đó tính đến các tác động qua lại của chính
sách tài khoá, thực trạng tài chính của doanh nghiệp, mức độ phát triển của
thị trường cũng như thực trạng cạnh tranh giữa các NH. Khâu đầu tiên của
279
chương trình tiền tệ này là khả năng dự báơ cung cầu vốn khả dụng dựa trên
những biến động các khoản mục trên bảng cân đối tài sản của NHTW, trong
đó khoản mục tín dụng cho NS và tiền gửi NS đòi hởi sự phối hợp hàng ngày
giữa NHNN, Bộ Tài chính và Kho bạc Nhà nước. Hơn nữa, việc chuyển dần
sang các mục tiêu về giá (thay cho mục tiêu về lượng) của CSTT đang làm
cho chương trình tiền tệ trở nên chặt chẽ hơn, và yêu cầu phối hợp với chính
sách quản lý nợ công hiệu quả hơn.
3). Cần nâng cao vị thế độc lập của NHNN trong điều hành CSTT
Điều hành CSTT là một vấn đề rất phức tạp và nhạy cảm, mọi quyết
định được đưa ra phải kịp thời và bám sát những diễn biến kinh tế vĩ mô, thị
trường trong nước và quốc tế. Mục tiêu điều hành CSTT bao gồm cả mục
tiêu ngắn hạn và mục tiêu dài hạn… Các yêu cầu này chỉ được đáp ứng khi
Ngân hàng Trung ương có được sự chủ động cao trong điều hành. Để có
được một CSTT độc lập cần có một Ngân hàng Trung ương độc lập. Kinh
nghiệm thực tế cho thấy có quan hệ chặt chẽ giữa mức độ hiệu quả giữa
CSTT trong việc thực hiện mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền với mức độ độc
lập của Ngân hàng Trung ương. Vì vậy, cần xây dựng NHNN trở thành Ngân
hàng Trung ương hiện đại độc lập về khuôn khổ thể chế và hoạt động.
Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam, để NHNN độc lập hoàn toàn
với Chính phủ là vấn đề không dễ có được sự đồng thuận về mặt quan điểm,
vì trong ngắn hạn, mục tiêu của CSTT và NHNN có thể không phù hợp mục
tiêu của các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Nhưng nếu cho phép NHNN có
một sự độc lập nhất định trong chức năng phát hành và kiểm soát khối lượng
tiền tệ thì đó là một bước đi thích hợp. Chính phủ và Quốc hội chỉ đưa ra
những định hướng, mục tiêu lớn về cung ứng tiền trong những khoảng thời
gian nhất định và kiểm soát việc điều hành của NHNN theo các mục tiêu đó.
Trên cơ sở những định hướng, mục tiêu được giao, NHNN chủ động điều
hành cung ứng tiền hướng vào các mục tiêu đó. Vì việc phát hành tiền, thu
hút tiền về được thực hiện rất thường xuyên và thường phải theo sát những
diễn biến của thị trường cho nên mỗi đợt phát hành bao nhiêu, qua con đường
nào sẽ do NHNN tự quyết định. Có như vậy mới tạo ra được sự linh hoạt
trong điều hành vì lợi ích quốc gia. Sự độc lập ngoài tác dụng làm cho
NHNN tự nâng cao năng lực, tự chịu trách nhiệm còn hạn chế được sức ép
chính trị can thiệp vào quá trình cung ứng tiền vì các mục tiêu ngắn hạn.
280
Chương 4. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH GIAI ĐOẠN 2006-
2010
4.1. PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ GIAI ĐOẠN 2006-2010
4.1.1. Định hướng chủ yếu phát triển thị trường tiền tệ giai đoạn 2006-
2010
1. Phát triển TTTC (thị trường vốn và thị trường tiền tệ) theo hướng
đồng bộ, có cơ cấu hoàn chỉnh; tăng nhanh qui mô và mở rộng phạm vi hoạt
động; vận hành an toàn, được quản lý, giám sát hiệu quả; khuyến khích mở
rộng các hoạt động dịch vụ hỗ trợ phát triển TTTC; bảo vệ lợi ích hợp pháp
của mọi đối tượng tham gia thị trường
2. Phát triển thị trường tiền tệ theo hướng hiện đại hoá và đa dạng hoá
các hình thức hoạt động; hoàn thiện hệ thống luật pháp, nâng cao sức cạnh
tranh, năng lực quản trị của các ngân hàng; xoá bỏ các phân biệt đối xử trong
tiếp cận nguồn vốn và tham gia thị trường, tạo môi trường bình đẳng trên thị
trường tiền tệ; tăng cường liên kết giữa thị trường tiền tệ với thị trường vốn.
3. Mục tiêu của CSTT trong 5 năm tới là ổn định giá trị đồng tiền,
kiểm soát lạm phát, góp phần tăng trưởng kinh tế và bảo đảm an ninh hệ
thống các ngân hàng và tổ chức tín dụng. Kết hợp chặt chẽ CSTT với chính
sách tài khoá để ổn định kinh tế vĩ mô, tăng dự trữ ngoại tệ, khuyến khích
doanh nghiệp và nhân dân tiết kiệm, ĐTPT sản xuất, kinh doanh.
4. Xây dựng và thực thi CSTT theo nguyên tắc thị trường, khẩn trương
thực hiện đầy đủ các chuẩn mực và thông lệ quốc tế về hoạt động ngân hàng,
mở rộng nhanh các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt và thanh toán
qua ngân hàng; nâng dần và tiến tới thực hiện đầy đủ tính chuyển đổi của
đồng tiền Việt Nam. Thực hiện chính sách lãi suất thoả thuận theo nguyên
tắc thị trường và đi tới loại bỏ hoàn toàn quy định hành chính đối với lãi suất
ngoại tệ.
5. Tiếp tục thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt theo nguyên
tắc thị trường với biên độ được mở rộng hơn phù hợp với mức độ mở cửa
TTTC và năng lực kiểm soát của NHNN, tiến tới thực hiện cơ chế tỷ giá hối
đoái thả nổi có kiểm soát. Đổi mới chính sách quản lý ngoại hối theo hướng
tự do hoá hoàn toàn giao dịch vãng lai, từng bước mở cửa các giao dịch vốn;
thu hẹp và tiến tới xoá bỏ tình trạng sử dụng ngoại tệ làm phương tiện thanh
toán trên lãnh thổ Việt Nam.
6. Phát triển nhanh thị trường dịch vụ tài chính
281
4.1.2. Giải pháp phát triển thị trường tiền tệ giai đoạn 2006 – 2010.
1). Đổi mới cơ bản phương thức cung ứng tiền và đổi mới cơ chế hoạt động của thị trường tiền tệ:
- NHTW cần kết hợp chặt chẽ việc sử dụng linh hoạt tỷ trọng về hàm
lượng các công cụ CSTT theo hướng ưu tiên dần việc phát triển các công cụ
gián tiếp như nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ, tỷ lệ dự trữ bắt buộc và đặc biệt là
nghiệp vụ thị trường mở - Trong đó cần cải cách kết cấu và và dung lượng
các hàng hoá của thị trường này theo hướng đa dạng chủng loại, đa dạng thời
hạn và từng bước mở rộng thành viên tham gia thị trường. Trên cơ sở hình
thành Trung tâm thanh toán quốc gia, cần tiến tới mở rộng đối tượng tham
gia thị trường này không chỉ những thành viên là các tổ chức tín dụng mà cả
những thành viên là các chủ Doanh nghiệp lớn và các tổ chức tín dụng phi
Ngân hàng.
- NHTW cần đổi mới ngay phương pháp tính toán xác định lượng tiền
cung ứng tăng thêm hàng năm theo hướng: Lượng tiền TW tăng trưởng phải
được tính toán bằng mô hình kinh tế lượng mà đầu vào phải được dựa căn
bản trên tiềm lực tài chính của bản thân NHTW và sự tăng trưởng thực của
NSNN hàng năm. Cần thay thế phương pháp tính lượng tiền cung ứng giản
đơn hiện nay là tính toán thủ công dựa vào tốc độ tăng trưởng GDP và tốc độ
lạm phát dự báo được "phê chuẩn" rồi phân bổ lượng gia tăng đó theo từng
quí qua hai con đường tái cấp vốn và tăng dự trữ ngoại tệ - Đó là phương
pháp vừa lạc hậu, vừa bị động và không phản ánh đúng nguyên lý về sự tăng
trưởng tiền TW hàng năm mặc dù suy cho cùng tiền TW tăng là để đáp ứng
nhu cầu tăng trưởng kinh tế hàng năm - Là sự gia tăng tài sản nợ của nền kinh
tế tại NHTW hàng năm.
2). Sớm thiết lập trung tâm tiền tệ quốc gia và thành lập Trung tâm thanh toán quốc gia để thu hút ngày càng nhiều đối tượng tham gia thanh toán bù trừ qua NHTW.
Đây không chỉ là nguyên lý về luân chuyển tiền tệ qua một cửa, mà
còn có thể coi là "kết cấu hạ tầng" đặc biệt để tạo điều kiện phát triển mạnh
mẽ không chỉ thị trường sơ cấp mà quan trọng hơn là phát triển mạnh thị
trường tiền tệ thứ cấp trong quá trình hiện đại hoá nền văn minh tiền tệ Việt
Nam và hội nhập với thị trường tiền tệ quốc tế.
- Chuyển từ cơ chế điều hành M2 sang điều hành theo cơ chế lạm
phát mục tiêu.
- Hoàn thiện cơ chế quan hệ giữa 2 thị trường – thị trường tiền tệ và thị
trường vốn theo hướng: Tôn trọng các qui luật thị trường, phát triển hàng hoá
trao đổi giữa 2 thị trường để “lỏng hoá” các nguồn vốn dài hạn cho ĐTPT
kinh tế và phù hợp với tiến trình HNQT trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng của
các ngân hàng Việt Nam...
282
- Cơ cấu lại các Định chế tài chính phi Ngân hàng theo hướng Ngân
hàng hoá các định chế tài chính nào đã hội đủ các mặt hoạt động của một
NHTM hoặc hình thành các mô hình Tập đoàn tài chính trong đó có các
Công ty thành viên hạch toán độc lập, chuyên kinh doanh những sản phẩm
dịch vụ khác nhau và chịu sự điều hành thống nhất bởi một thiết chế quản trị
Tập đoàn chung trên cơ sở luật pháp và phù hợp với thông lệ quốc tế. Theo
đó, chúng tôi đề nghị:
Chính phủ đã thành lập Ngân hàng phát triển quốc gia từ tháng
1/6/2006 thay cho Quĩ hỗ trợ phát triển cần bị điều chỉnh đầy đủ bới Luật về
Ngân hàng, trong đó ngoài việc phải chịu sự giám sát của thanh tra chuyên
ngành ngân hàng, cần phải thực hiện các điều chỉnh bình đẳng của cơ chế
chính sách chung của NHTW như: chế dộ dự trữ bắt buộc, mở tài khoản bắt
buộc và bắt buộc thanh toán qua NHTW...
Đề nghị thành lập Ngân hàng xuất nhập khẩu Việt Nam thay cho Quĩ
hỗ trợ xuất khẩu, không để “nằm chung” trong Ngân hàng phát triển mới ra
đời như cấu trúc hiện nay. Vì hoạt động xuất nhập khẩu sẽ là khu vực phát
triển rất nhanh sau khi Việt Nam gia nhập WTO.
Các ngân hàng nói trên là những Nngân hàng chiến lược của Chính
phủ, hoạt động theo cơ chế thị trường và đều phải chịu sự điều chỉnh thống
nhất của các Luật về Ngân hàng và chịu sự thanh tra chuyên ngành của thanh
tra ngân hàng;
3). Phát triển nhanh những dịch vụ ngân hàng hiện đại phù hợp thông lệ quốc tế.
- Dịch vụ quản lý và chi trả tiền lương của cán bộ và CNV của những
doanh nghiệp lớn. Đây là thị trường dịch vụ đầy tiềm năng và có nhiều triển
vọng thành công vì những tiện ích của nó như: Tạo sự tiện lợi cho người dân
trong chi tiêu thanh toán một cách văn minh; Đồng tiền không bị đóng băng
trong túi cá nhân; Ngân hàng có điều kiện tăng số dư trong tài sản nợ để mở
rộng cho vay đầu tư quay vòng vốn; Giúp các cơ quan thuế quản lý hiệu quả
các khoản thu nhập cá nhân trong xã hội.
- Dịch vụ nạp và rút tiền tự động đã triển khai và cần mở rộng hơn
nâng cấp hơn. Trong thời gian tới các NHTM cần khắc phục những hạn chế
của ATM để thu hút nhiều khách hàng hơn. Đặc biệt nên có chương trình
khuyến khích phát triển thẻ cá nhân, gia tăng hạn mức dịch vụ thấu chi...
- Dịch vụ thanh toán hộ tiêu dùng là dịch vụ mà ngân hàng đứng ra
thay mặt cho chủ tài khoản thực hiện thanh toán các khoản chi tiêu của chủ
tài khoản khi có giấy báo nợ gửi đến ngân hàng. Hiện nay các khoản chi phí
của người dân chiếm một khoản lớn trong tổng thu nhập của mỗi gia đình.
Đây là dịch vụ nhiều tiềm năng và nếu khai thác tốt sẽ đem lại lợi ích lớn cho
cả ngân hàng và cho nền kinh tế.
283
- Dịch vụ thanh toán hàng đối ngoại: Hiện nay tuy các ngân hàng đã
kết nối mạng thông tin của mình đến một số doanh nghiệp lớn nhưng vẫn
chưa phát huy hết tiện ích của mạng thông tin trong việc xử lý nghiệp vụ
thanh toán quốc tế thông qua mạng từ ngân hàng đến các doanh nghiệp cũng
như từ ngân hàng mẹ đến các chi nhánh trong các nghiệp vụ như mở L/C
nhập khẩu, thực hiện các dịch vụ thanh toán quốc tế... Các khách hàng của
các ngân hàng còn phải mất nhiều thời gian chờ đợi, đi lại để có đủ hồ sơ cho
các hoạt động xuất nhập khẩu.
- Dịch vụ phát hành thẻ tín dụng, thẻ bảo chi nội - ngoại bằng vốn tự
có của khách hàng. Phát hành thẻ này ngân hàng cũng an toàn hơn các thẻ tín
dụng khác vì ngân hàng chỉ phát hành thẻ dựa trên số dư tiền gửi thanh toán
của khách hàng. Đây là dịch vụ rất phổ biến ở các nước phát triển và ở nhiều
quốc gia đang phát triển. Công chúng của ta sẽ đón nhận mạnh mẽ hơn nếu
mệnh giá các thẻ đa dạng hơn, có nhiều ưu đãi kèm theo hơn.
Bên cạnh đó các NHTM cũng cần chú ý đến các nghiệp vụ tuy còn
mới mẻ, nhưng lại khá quen thuộc đối với các NHTM nước ngoài và chắc
chắn sẽ được các tổ chức này khai thác khi họ đã đặt chân được vào thị
trường nội địa Việt Nam như: mua, bán lại khoản cho vay của NHTM. Các
ngân hàng thu lợi bằng cách bán lại khoản cho vay với số tiền lớn hơn so với
số tiền của khoản cho vay ban đầu. Người mua khoản cho vay này thu được
lãi suất thấp hơn so với lãi suất ban đầu của khoản vay đó. Hoạt động này
đem lại thu nhập đáng kể cho các NHTM. Một hình thức nữa là cung cấp
dịch vụ chuyên môn hoá cho các khách hàng của NHTM như: thực hiện kinh
doanh hối đoái nhân danh 1 khách hàng; phục vụ một chứng khoán hỗ trợ
vay thế chấp bằng cách thu tiền gốc và tiền lãi rồi đem thanh toán hết; hoặc
đảm bảo các chứng khoán vay nợ bằng phát hành hối phiếu được ngân hàng
chấp nhận; cung cấp tín dung hỗ trợ như thư tín dụng dự phòng, đảm bảo
cung cấp cho khách hàng một khoản tiền vay đã định theo yêu cầu, thư tín
dụng hỗ trợ bằng phát hành thương phiếu và các chứng khoán khác v.v... Để
phát triển những dịch vụ này, điều quan trọng đối với các NHTM VN không
phải chỉ là vấn đề tìm kiếm thị trường, mà điều quan trọng hơn, và phải được
chuẩn bị ngay từ bây giờ, là bản thân các NHTM phải tự lớn lên cả về tiềm
lực tài chính và cả về trình độ đội ngũ lao động trong ngành.
- Chủ động, tích cực tạo mối liên kết, phối hợp giữa các TCTD để phát
triển các hoạt động dịch vụ. Thực tế cho thấy, trong điều kiện nền kinh tế mở
các hoạt động dịch vụ có liên quan ảnh hưởng và hỗ trợ mạnh mẽ cho nhau.
Sự liên kết mang tính hợp tác giữa các TCTD trong triển khai các dịch vụ
ngân hàng hiện đại không chỉ giúp các TCTD tiết kiệm được nguồn vốn đầu
tư ban đầu cho việc triển khai các dịch vụ này, mà còn làm tăng khả năng
chiếm lĩnh thị trường dịch vụ của các ngân hàng thương mại. Có lẽ cũng cần
phải xác định rõ rằng, đối thủ mà các NHTM VN cần cạnh tranh trong điều
kiện hội nhập không phải là ai khác, chính là các tổ chức trung gian tài chính
nước ngoài khi họ đã tiếp cận được thị trường dịch vụ nội địa. Việc triển khai
284
mạng ATM liên ngân hàng được thực hiện thời gian qua là điển hình cần
được nhân rộng.
- Kết hợp hài hoà các loại hình dịch vụ truyền thống và dịch vụ hiện
đại, trên cơ sở phát huy thế mạnh hiện có của từng ngân hàng. Thực tế cho
thấy, thiếu vắng những dịch vụ hiện đại, hoạt động của những dịch vụ truyền
thống hiện có sẽ gặp khó khăn, kém hiệu quả. Những dịch vụ như tư vấn
phân tích dự báo, dịch vụ bảo hiểm tỷ giá, ngăn ngừa rủi ro do tỷ giá biến
động, dịch vụ ngoại hối có liên quan chặt chẽ với nhau.
- Có kế hoạch bồi dưỡng nâng cao trình độ nguồn nhân lực. Tìm kiếm
các mô hình đào tạo cán bộ tích cực chủ động hơn bằng việc liên kết với các
cơ sở cung ứng nguồn nhân lực có chất lượng cao cho ngành. Về lâu dài cần
phải thừa nhận tính chuyên môn hoá trong đào tạo nguồn nhân lực, tách hoạt
động kinh doanh của NHTM với công việc đào tạo nguồn nhân lực. Vấn đề
đào tạo mới cũng như đào tạo lại nguồn nhân lực cho ngành ngân hàng phải
trở thành chức năng của các cơ sở đào tạo. Điều này hoàn toàn phù hợp với
xu hướng gắn nhà trường với cơ sở tuyển dụng lao động hiện đang được chú
trọng triển khai ở các cơ sở đào tạo của chúng ta.
4.2. PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG VỐN GIAI ĐOẠN 2006-2010
4.2.1. Định hướng chủ yếu phát triển thị trường vốn giai đoạn 2006-
2010
1) Phát triển trường chứng khoán trở thành một trong những kênh
huy động vốn cơ bản và chủ đạo của nền kinh tế, cung cấp
nguồn vốn và đáp ứng kịp thời các nhu cầu về vốn cho tiến
trình CNH, HĐH đất nước.
2) Phát triển an toàn và bền vững thị trường chứng khoán trên cơ
sở phát triển bền vững nền kinh tế và nâng cao chất lượng hoạt
động của các công ty niêm yết, đảm bảo tính công khai và
minh bạch, thực hiện liên kết và hội nhập bình đẳng với thị
trường chứng khoán các nước trong khu vực và thế giới.
3) Hệ thống thể chế, khung pháp lý, chính sách phát triển thị trường
chứng khoán Việt Nam phải thường xuyên hoàn thiện đồng bộ, phù
hợp với thực tiễn Việt Nam và thông lệ quốc tế, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của các bên tham gia thị trường.
4) Hiện đại hóa công nghệ phát triển thị trường đồng thời với hiện đại
hóa công nghệ giám sát và cảnh báo thị trường, duy trì sự phát triển
lành mạnh, an toàn của thị trường, xứng đáng với vị trí then chốt
của thị trường chứng khoán trong việc đảm bảo an ninh tài chính
quốc gia.
5) Phấn đấu đến năm 2020, thị trường chứng khoán Việt Nam có cấu
trúc hoàn thiện, phát triển tương đương thị trường chứng khoán
285
các nước trong khu vực; duy trì giá trị vốn hóa thị trường bình
quân đạt 70-80%GDP trong giai đoạn 10 năm 2015-2020.
Mục tiêu cụ thể
Bình quân giai đoạn 2011-2015, giá trị vốn hóa thị trường
tương đương 50-60% GDP; Mức độ huy động vốn cho đầu tư
phát triển qua thị trường chứng khoán đạt khoảng 15-16%
GDP;
Giai đoạn 2016-2020, giá trị vốn hóa thị trường đạt bình quân
70-80% GDP; Mức độ huy động vốn cho đầu tư phát triển qua
thị trường chứng khoán đạt 30-32% GDP.
4.2.2. Giải pháp phát triển thị trường vốn 2006-2010
1). Hoàn thiện cấu trúc TTCK trên cơ sở quy hoạch và phát triển các Sở Giao dịch chứng khoán, thị trường OTC và phát triển Trung tâm Lưu ký chứng khoán theo hướng hiện đại hoá theo kịp với trình độ phát triển trong khu vực, đảm bảo khả năng quản lý, giám sát của Nhà nước.
- Xây dựng Sở giao dịch chứng khoán hiện đại với hệ thống giao
dịch, hệ thống giám sát và công bố thông tin thị trường tự động hoá hoàn
toàn; Hoàn thiện và phát triển hai Sở GDCK hiện nay theo mô hình một
Sở nhưng có nhiều Bảng giao dịch khác nhau
Với qui mô thị trường Việt Nam hiện nay, việc có hai Sở GDCK về cơ
bản đã đảm bảo môi trường hoạt động cho TTCK Việt Nam trong thời gian
đầu. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm phát triển TTCK trên thế giới là liên kết,
sát nhập thành thị trường khu vực và thế giới. Việc hình thành và phát triển
thêm các Sở GDCK mới là không cần thiết, gây lãng phí nguồn lực xã hội.
Do vậy, nên tập trung hoàn thiện tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu quả hoạt
động để chuẩn bị cho các bước phát triển tiếp theo, nhất là quá trình khu vực
hoá và quốc tế hoá TTCK Việt Nam.
- Trên cơ sở phát triển ổn định SGDCK, TTLKCK theo mô hình
Công ty THNN Nhà nước một thành viên, thực hiện cổ phần hóa và bán
dần theo lộ trình phần vốn Nhà nước tại SGDCK, TTLKCK.
- Xây dựng các Bảng giao dịch hay còn được gọi là các thị trường
giao dịch khác nhau trong cùng một Sở GDCK để phân chia, phân khúc
thị trường theo chất lượng chứng khoán và loại chứng khoán. Các loại
chứng khoán có chất lượng rất cao sẽ được tập trung vào một Bảng giao
dịch tại HOSE. Bên cạnh đó, trong HOSE có thể thiết lập Bảng giao dịch
cho các loại chứng khoán của các ngành công nghệ cao, công nghệ mới.
- Phát triển thị trường OTC cho cổ phiếu của các doanh nghiệp vừa
và nhỏ tại Hà Nội.
286
- Mở rộng các dịch vụ cung cấp trên cơ sở hiện đại hóa và tự động
hóa hệ thống của Trung tâm Lưu ký Chứng khoán.
- Hoàn thiện và phát triển thị trường trái phiếu theo các chuẩn
mực chung của thông lệ quốc tế; Nghiên cứu xây dựng chỉ số trái phiếu,
nghiên cứu đưa vào triển khai các công cụ phái sinh lấy TPCP là công cụ
gốc.
- Chuẩn bị cho sự ra đời và phát triển của TTCK phái sinh. Đây là xu
hướng tất yếu trong quá trình phát triển của TTCK. Nếu chúng ta không sớm
chuẩn bị các điều kiện cần thiết sẽ không phản ứng kịp với sự phát triển tự
phát của thị trường.
2). Phát triển quy mô, gắn với nâng cao chất lượng và đa dạng hoá các loại hàng hoá để đáp ứng nhu cầu của thị trường
- Tập trung đẩy nhanh việc cổ phần hoá các doanh nghiệp, tổng công
ty nhà nước, tập đoàn kinh tế và các ngân hàng thương mại nhà nước, gắn
việc cổ phần hoá với niêm yết trên thị trường chứng khoán. Đối với những
doanh nghiệp đã cổ phần hoá đủ điều kiện phải thực hiện việc niêm yết.
- Cấu trúc lại thị trường phát hành trái phiếu Chính phủ theo lô lớn; tái
cấu trúc các lô nhỏ TPCP hiện có; đa dạng hoá các kỳ hạn TPCP; xây dựng
cơ chế hình thành lãi suất phát hành hợp lý để tạo đường cong lãi suất chuẩn
cho thị trường vốn.
- Phát hành và niêm yết cổ phiếu các doanh nghiệp lớn, các ngân hàng
thương mại trên thị trường chứng khoán tập trung, bán bớt phần vốn nhà
nước tại các doanh nghiệp thuộc các ngành nghề nhà nước không cần nắm
giữ cổ phần chi phối.
- Mở rộng việc phát hành cổ phiếu mới để huy động vốn trên thị
trường.
- Khuyến khích và tạo điều kiện để đưa các loại trái phiếu công trình,
trái phiếu đô thị lên niêm yết, giao dịch trên thị trường chứng khoán tập
trung; Phát triển các loại trái phiếu chuyển đổi của doanh nghiệp, trái phiếu
công trình để đầu tư vào các dự án hạ tầng trọng điểm của quốc gia;
- Phát triển các loại chứng khoán mới, chứng khoán phái sinh, quỹ
chỉ số.
- Giám sát và hỗ trợ các công ty niêm yết trong việc thực hiện
thông lệ tốt nhất về quản trị công ty; thực hiện chế độ kế toán, kiểm toán
theo quy định của pháp luật.
- Tăng cường quản lý, giám sát các công ty niêm yết, công ty đại
chúng chưa niêm yết trong việc thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin và
các nghĩa vụ đối với nhà đầu tư.
287
3). Phát triển hệ thống các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư có tổ chức:
- Thiết lập hệ thống các nhà đầu tư có tổ chức bao gồm các ngân
hàng thương mại, các công ty chứng khoán, các công ty tài chính, công ty
bảo hiểm, các quỹ bảo hiểm, quỹ đầu tư, quỹ hưu trí...
- Mở rộng và phát triển các loại hình quỹ đầu tư chứng khoán; tạo
điều kiện cho các nhà đầu tư nhỏ, các nhà đầu tư cá nhân tham gia vào thị
trường chứng khoán thông qua góp vốn vào các quỹ đầu tư. Thực hiện
các chính sách khuyến khích các tổ chức và cá nhân tham gia thị trường
chứng khoán.
- Mở rộng giới hạn đầu tư cổ phiếu đối với các nhà đầu tư nước
ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam; thành lập Công ty Chứng
khoán có vốn đầu tư nước ngoài theo lộ trình hội nhập; khuyến khích
việc thành lập các quỹ đầu tư ở nước ngoài đầu tư dài hạn vào thị trường
Việt Nam.
4). Phát triển đầy đủ các định chế tài chính trung gian; đa dạng hoá các dịch vụ chứng khoán.
- Tăng cường chất lượng, quy mô và phạm vi hoạt động nghiệp vụ
kinh doanh, dịch vụ của các công ty chứng khoán. Trước mắt, tiến hành
cấu trúc lại các công ty theo hướng hợp nhất, sáp nhập để tạo ra các công
ty chứng khoán theo hướng mô hình ngân hàng đầu tư.
- Phát triển các công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, công ty
đầu tư chứng khoán cả về quy mô và chất lượng hoạt động. Đa dạng hóa
các loại hình quỹ đầu tư (đóng; mở); các quỹ chuyên ngành...
- Thành lập các tổ chức phụ trợ thị trường (công ty định mức tín
nhiệm để đánh giá, xếp loại rủi ro các loại chứng khoán niêm yết và định
mức tín nhiệm của các doanh nghiệp Việt Nam; các tổ chức đăng ký;
thanh toán chứng khoán..).
- Đa dạng hoá các loại hình dịch vụ cung cấp trên thị trường, nâng cao
tính chuyên nghiệp và chất lượng các dịch vụ; đảm bảo tính công khai, minh
bạch và bình đẳng trên thị trường.
- Mở rộng phạm vi hoạt động TTLKCK, áp dụng các chuẩn mực lưu ký
quốc tế, thực hiện liên kết giao dịch thanh toán giữa TTCK và thị trường tiền
tệ.
- Áp dụng quy định về quản trị công ty theo thông lệ quốc tế đối
với các công ty niêm yết, các công ty chứng khoán, các công ty quản lý
quỹ đầu tư và chế độ công bố thông tin theo luật định.
288
5). Tăng cường quản lý Nhà nước và nâng cao hiệu quả thanh tra, kiểm tra giám sát
- Tăng cường năng lực quản lý nhà nước với TTCK trên cơ sở nghiên
cứu đưa vào áp dụng mô hình quản lý – dựa trên- rủi ro (risk based
regulation).
- Nhà nước thực hiện điều chỉnh, điều tiết thị trường thông qua các
chính sách, công cụ kinh tế tài chính - tiền tệ như chính sách thuế, lãi suất,
đầu tư và các công cụ tài chính khác.
- Đảm bảo có một hệ thống công bố thông tin có thể truyền phát rộng
và truy cập dễ dàng cho các đối tượng tham gia thị trường, đặc biệt là các nhà
đầu tư. Mở rộng phạm vi thông tin cần công bố trên cơ sở xây dựng cơ sở dữ
liệu thông tin đầy đủ.
- Củng cố bộ máy, nâng cao năng lực quản lý, giám sát của Nhà nước
đối với thị trường; từng bước tách bạch chức năng quản lý với chức năng
giám sát các hoạt động của thị trường; kiện toàn tổ chức của Cơ quan giám
sát tài chính quốc gia theo hướng thống nhất đầu mối giám sát tài chính, bao
gồm các cơ quan giám sát ngân hàng, bảo hiểm và chứng khoán và hình
thành, phát triển các dịch vụ giám sát tài chính. Đẩy mạnh việc thanh tra,
kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật của các thành viên tham gia thị
trường; kiểm tra, giám sát hàng hoá đưa ra thị trường, đảm bảo tính công
khai, minh bạch; tăng cường năng lực giám sát, cưỡng chế thực thi của cơ
quan giám sát thị trường. Phối hợp giữa công tác giám sát và công tác thanh
tra, kiểm tra việc tuân thủ pháp luật của các thành viên thị trường và áp dụng
nghiêm các chế tài dân sự, hình sự đối với các hành vi vi phạm pháp luật về
chứng khoán và thị trường chứng khoán.
- Tăng cường cảnh báo sớm khủng hoảng thị trường chứng khoán.
- Đẩy mạnh hoạt động và tăng cường vai trò của Hiệp hội ngành
chứng khoán, các tổ chức nghiên cứu và tư vấn độc lập trong việc hỗ trợ cơ
quan quản lý nhà nước.
6). Chủ động mở cửa, hội nhập với khu vực và quốc tế
- Mở cửa từng bước thị trường cho nhà đầu tư nước ngoài theo lộ trình
hội nhập đã cam kết, đồng thời đảm bảo kiểm soát được luồng vốn vào, vốn ra.
- Mở rộng hoạt động hợp tác quốc tế trên các mặt tư vấn chính sách, tư
vấn pháp luật và phát triển thị trường.
- Đẩy mạnh công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho thị trường
vốn; tăng cường phổ cập kiến thức cho công chúng, doanh nghiệp và các tổ
chức kinh tế.
- Thực hiện tốt việc giám sát các giao dịch vốn; áp dụng các biện pháp
kiểm soát luồng vốn chặt chẽ; trong những trường hợp cần thiết để giảm áp lực
đối với tỷ giá, ngăn ngừa nguy cơ biến dạng và khủng hoảng trên thị trường,
cần có những giải pháp xử lý thích hợp.
289
- Thực hiện cơ chế giám sát đặc biệt với các định chế trung gian yếu
kém để giảm thiểu tác động tiêu cực có tính chất dây chuyền trong toàn hệ
thống.
4.3. ĐỔI MỚI VÀ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG THANH TRA GIÁM
SÁT THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
4.3.1. Sự cần thiết phải đổi mới và hoàn thiện hệ thống thanh tra, giám
sát TTTC và dịch vụ tài chính Việt Nam
Thứ nhất, sự yếu kém của các định chế tài chính, đặc biệt là hệ thống
ngân hàng đi đôi với việc tiềm ẩn các nguy cơ, rủi ro lớn làm hạn chế vai
trò của hệ thống tài chính đối với ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng kinh
tế.
Trong quá trình hoạt động, các định chế tài chính của Việt Nam có
tiềm lực tài chính yếu, qui mô hoạt động nhỏ, hiệu quả kinh doanh chưa cao,
mức độ rủi ro khá cao, đặc biệt là các rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro
thanh khoản, rủi ro tác nghiệp. bên cạnh đó, môi trường hoạt động của các
định chế tài chính cũng chứa đựng nhiều rủi ro do khu vực phi tài chính, kể
cả DNNN, doanh nghiệp tư nhân và một bộ phận không nhỏ dân cư còn
nhiều yếu kém, đặc biệt là về tài chính; hệ thống pháp luật, chính sách chưa
đồng bộ và kém hiệu quả..., đặc biệt là các CSTT, thương mại, đầu tư. Vì
vậy, hệ thống giám sát tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm
an toàn và lành mạnh của hệ thống tài chính nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước.
Thứ hai, yêu cầu thực hiện mục tiêu ổn định hệ thống tàì chính và
bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư, người gửi tiền trở thành động lực thúc đẩy
đổi mới thể chế giám sát tài chính, tăng cường phối hợp giữa các cơ quan
giám sát tài chính.
Rủi ro của bất cứ khu vực nào của TTTC đều có khả năng lan truyền
đến các khu vực còn lại của TTTC. Vì vậy, sự an toàn và lành mạnh của mỗi
khu vực TTTC gắn liền với toàn bộ TTTC nói chung. Niềm tin của công
chúng vào hệ thống tài chính rất quan trọng đối với sự ổn định tài chính trong
điều kiện hệ thống tài chính đang trong giai đoạn phát triển nhanh để hỗ trợ
cho các mục tiêu phát triển kinh tế. Sự sụp đổ niềm tin của công chúng vào
hệ thống tài chính ngân hàng sẽ kéo theo sự sụp đổ của hệ thống tài chính.
Bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư và người gửi tiền là cách thức để cải thiện uy
tín của hệ thống tài chính Việt Nam.
Thứ ba, sự yếu kém, bất cập về thể chế, mô hình tổ chức và hoạt
động của hệ thống giám sát tài chính khiến cho hiệu quả và hiệu lực giám
sát tài chính còn chưa cao.
290
Những yếu kém và bất cập của hệ thống giám sát tài chính cần phải
được khắc phục để tiến tới xây dựng một hệ thống tài chính hiện đại, an toàn
và hiệu quả. Mô hình tổ chức và hoạt động của TTNH, các cơ quan giám sát
tài chính của BTC cũng như cấu trúc thể chế của hệ thống giám sát tài chính
nói chung chưa đáp ứng được các chuẩn mực quốc tế của các tổ chức quốc tế
như BASEL, IOSCO và IAIS.
Thứ tư, sự đổi mới và phát triển nhanh chóng của khu vực tài chính
trong mấy năm trở lại đây và triển vọng trong tương lai sẽ dẫn đến sự thay
đổi cấu trúc của hệ thống tài chính theo hướng cân bằng hơn giữa khu vực
ngân hàng và khu vực tài chính phi ngân hàng21.
Hệ thống tài chính Việt Nam tiếp tục có sự phát triển mạnh mẽ về qui
mô và số lượng các định chế mới gia nhập thị trường, cung cấp các dịch vụ
tài chính, ngân hàng đa dạng hơn làm tăng áp lực cạnh tranh và rủi ro trên
TTTC. Sự phát triển của công nghệ thông tin và tự do hoá tài chính sẽ tạo ra
sự phát triển mạnh mẽ các công cụ tài chính và các dịch vụ tài chính đi kèm
theo những rủi ro mới. Mặt khác, sẽ xuất hiện sự giao thoa mạnh mẽ hơn
giữa các hoạt động ngân hàng và các hoạt động tài chính phi ngân hàng khiến
cho ranh giới giữa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng và tài chính phi ngân
hàng ngày càng khó phân biệt. Xu hướng chung, các ngân hàng mở rộng hoạt
động sang TTCK và thị trường bảo hiểm, đồng thời các tổ chức kinh doanh
bảo hiểm, chứng khoán và đầu tư tài chính cũng có thể thâm nhập thị trường
dịch vụ ngân hàng mạnh mẽ hơn để tối đa hoá hiệu quả kinh tế theo qui mô,
chuyển đổi và kiểm soát rủi ro một cách hữu hiệu hơn. Kết quả của quá trình
đó là sự ra đời các tập đoàn tài chính, hoạt động trên khắp các khu vực của
TTTC. Tuy nhiên, theo đó mức độ rủi ro cũng gia tăng cho không chỉ bản
thân các định chế tài chính mà cho cả công chúng và nền kinh tế.
Thứ năm, mở cửa TTTC và đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế trong
lĩnh vực tài chính.
Mở cửa thị trường sẽ làm gia tăng áp lực cạnh tranh, thôn tính và đổ
vỡ các định chế tài chính do sự xuất hiện các định chế tài chính nước ngoài
có khả năng cạnh tranh mạnh hơn các định chế trong nước. Điều này đòi hỏi
hệ thống giám sát tài chính phải đổi mới về mô hình tổ chức và hoạt động,
đặc biệt các biện pháp nghiệp vụ phải phù hợp với các thông lệ, chuẩn mực
quốc tế để có thể giám sát một cách hữu hiệu hệ thống tài chính, đặc biệt là
các định chế tài chính nước ngoài hoạt động ở Việt Nam.
291
4.3.2. Giải pháp đổi mới hệ thống giám sát thị trường tài chính, hình
thành tổ chức giám sát TTTC thống nhất
Mô hình phối hợp giữa cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng với các cơ quan thanh tra, giám sát tài chính phi ngân hàng trong điều kiện duy trì hơn một cơ quan giám sát tài chính
Trong điều kiện khuôn khổ thể chế và hệ thống pháp luật về giám sát
tài chính chưa có nhiều thay đổi, có thể:
- Thành lập Hội đồng Giám sát TTTC quốc gia với cơ cấu như sau:
+ Chủ tịch Hội đồng là Thủ tướng hoặc một Phó Thủ tướng Chính phủ
+ Các thành viên khác bao gồm: Bộ Trưởng BTC, Thống đốc NHNN
(Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng) và các đại diện lãnh đạo của Thanh tra
Chính phủ, Bộ Công An, Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao.
+ Cơ chế hoạt động: Hội đồng hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm,
không chuyên trách, quyết nghị tập thể đối với các vấn đề chính sách và các
vấn đề quan trọng trong hoạt động giám sát TTTC. Hội đồng họp định kỳ
hàng tháng và đột xuất theo yêu cầu của Chủ tịch Hội đồng.
+ Nhiệm vụ của Hội đồng:
(i) Xem xét và quyết định các vấn đề quan trọng liên quan đến các
chính sách quản lý, giám sát an toàn hoạt động TTTC;
(ii) Phối hợp chính sách và hoạt động giám sát giữa khu vực ngân
hàng và khu vực tài chính phi ngân hàng;
(iii) Chỉ đạo tái cấu trúc hệ thống tài chính;
(iv) Chỉ đạo xử lý các vấn đề rủi ro trọng yếu, có tính hệ thống của
TTTC.
- Thành lập Ban Thư ký Hội đồng Giám sát TTTC Quốc gia với các
thành viên là các chuyên gia, các nhà quản lý và nhà khoa học thuộc lĩnh vực
tài chính – ngân hàng.
- Xây dựng cơ chế báo cáo định kỳ, thường xuyên của BTC và NHNN
cho Hội đồng Giám sát TTTC Quốc gia.
- Xây dựng cơ chế trao đổi thông tin giám sát TTTC trực tiếp giữa
NHNN và BTC; giữa TTNH và Thanh tra Chứng khoán, Thanh tra BTC.
- Xây dựng Trung tâm thông tin tài chính hoạt động như Kho dữ liệu
tài chính lưu trữ tất cả các thông tin (lịch sử và cập nhật) vĩ mô và vi mô phục
vụ cho hoạt động giám sát của NHNN và BTC. Các cơ quan giám sát tài
chính có thể kết nối trực tuyến với Trung tâm này để khai thác và sử dụng các
thông tin, dữ liệu cần thiết. Trung tâm Thông tin tài chính thuộc tổ chức bộ
máy của NHNN và có thể cung cấp một số dịch vụ thông tin cho TTTC hoạt
động.
292
- Các cơ quan giám sát tài chính có nghĩa vụ cung cấp đầy đủ, kịp thời
các thông tin về hoạt động thanh tra, giám sát thuộc trách nhiệm được giao có
liên quan đến hoạt động của cơ quan giám sát tài chính khác, kể cả các kết
luận thanh tra và kết quả giám sát, cảnh báo theo đề nghị của bên yêu cầu.
- Hình thành mạng thông tin giám sát tài chính kết nối trực tuyến giữa
các cơ quan giám sát tài chính và với Trung tâm Thông tin tài chính.
- Đẩy mạnh hợp tác trong việc phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn và xử
lý rủi ro của hệ thống tài chính trên cơ sở phối hợp lực lượng giữa các cơ
quan giám sát tài chính khi cần phải tiến hành thanh tra, giám sát hợp nhất,
toàn diện đối với TCTD hay tổ chức tài chính hoạt động trên nhiều TTTC
khác nhau. Các cơ quan giám sát tài chính cần phải thường xuyên đồng tổ
chức các cuộc thanh tra, giám sát các định chế tài chính để giám sát toàn diện
các rủi ro trong hoạt động của các định chế tài chính.
- Cần phải xây dựng được hệ thống cảnh báo sớm và xử lý các loại rủi
ro mang tính hệ thống, chẳng hạn khủng hoảng, phá sản hàng loạt tổ chức tài
chính.
- BTC và NHNN định kỳ (hàng quý, năm) phải xây dựng Báo cáo
giám sát TTTC hoặc Báo cáo ổn định tài chính thuộc phạm vi hoạt động của
mình trình Hội đồng Giám sát TTTC quốc gia nhằm đánh giá toàn diện các
nguy cơ và trạng thái rủi ro của TTTC. Từ đó, Hội đồng Giám sát TTTC
quốc gia có thể đưa ra những quyết định chính sách phù hợp cho hoạt động
giám sát từng bộ phận TTTC cũng như toàn bộ TTTC.
- Tăng cường sự hiểu biết, trao đổi kinh nghiệm và đối thoại chính
sách giữa các cơ quan giám sát tài chính, đồng thời thường xuyên tổ chức các
chương trình đào tạo kỹ năng, nâng cao trình độ nghiệp vụ thanh tra, giám sát
tài chính dựa trên cơ sở rủi ro và tổng hợp phù hợp với các thông lệ, chuẩn
mực quốc tế.
Mô hình hình thành duy nhất một cơ quan giám sát tài chính hợp nhất
Về lâu dài, khi TTTC phát triển phức tạp, cân bằng hơn giữa khu vực
ngân hàng và tài chính phi ngân hàng, một cơ quan giám sát tài chính hợp
nhất thực hiện chức năng giám sát toàn bộ TTTC nên được thành lập để có
thể giám sát một cách hữu hiệu toàn bộ TTTC
Thành lập Uỷ ban Giám sát TTTC Quốc gia với vị thế là cơ quan trực
thuộc Chính phủ với cơ cấu nhân sự và chức năng, nhiệm vụ sau:
+ Chủ tịch Uỷ ban là thành viên Chính phủ và do Thủ tướng Chính
phủ bổ nhiệm sau khi được Quốc hội chuẩn y. Các Phó Chủ tịch Uỷ ban do
Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm.
+ Uỷ ban Giám sát TTTC Quốc gia là cơ quan thanh tra, giám sát nhà
nước chuyên ngành tài chính, có nhiệm vụ:
293
(i) Cấp phép thành lập và cung cấp dịch vụ tài chính;
(ii) Ban hành các qui chế an toàn hoạt động tài chính;
(iii) Giám sát toàn bộ hoạt động và TTTC;
(iv) Tái cơ cấu hệ thống tài chính;
(v) Quản lý dịch vụ tài chính và cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính
nhằm mục tiêu bảo đảm sự ổn định của TTTC và bảo vệ người
gửi tiền, nhà đầu tư;
(vi) Xử phạt các vi phạm pháp luật và áp dụng các biện pháp ngăn
chặn, phòng ngừa và xử lý các rủi ro trong lĩnh vực tài chính.
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Uỷ ban Giám sát TTTC quốc
gia:
+ Là tổ chức độc lập trên các khía cạnh sau:
Tác nghiệp
Có khung pháp lý điều chỉnh riêng
Có đủ lực lượng cán bộ thực thi nhiệm vụ
Có nguồn kinh phí hoạt động riêng từ NSNN
ít chịu áp lực và can thiệp về mặt chính trị trong việc quản lý và
giám sát hoạt động tài chính
Có đủ quyền lực xử lý các rủi ro và vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực tài chính
+ Có sự phối hợp chặt chẽ với NHNN và BTC trong việc giám sát vĩ
mô
+ Có sự phối hợp chặt chẽ với cơ quan bảo vệ pháp luật trong quá
trình xử lý các rủi ro và vi phạm trong lĩnh vực tài chính.
+ Tuân thủ các thông lệ và chuẩn mực quốc tế về giám sát tài chính
(Basel, IOSCO, ICP)
+ Thực hiện giám sát các định chế tài chính dựa trên cơ sở rủi ro và
hợp nhất.
+ Gắn chặt thanh tra tại chỗ với giám sát từ xa: Trong đó, đặc biệt đề
cao vai trò cảnh báo sớm rủi ro hệ thống để có biện pháp phòng ngừa và ngăn
chặn, đồng thời hỗ trợ thanh tra tại chỗ.
+ Thực hiện giám sát toàn diện vĩ mô và vi mô
+ Sử dụng các biện pháp thận trọng và qui định an toàn hoạt động tài
chính theo hướng thân thiện thị trường.
294
Toàn bộ các hoạt động nghiệp vụ giám sát từ xa, thanh tra tại chỗ, cấp
phép, ban hành qui chế, xử lý vi phạm do Uỷ ban Giám sát TTTC quốc gia
tiến hành.
Uỷ ban Giám sát TTTC quốc gia có cơ cấu tổ chức bộ máy phù hợp
với yêu cầu giám sát TTTC. Theo đó, Uỷ ban Giám sát TTTC quốc gia chỉ
thiết lập bộ máy ở Trụ sở chính và hình thành văn phòng đại diện ở một số
nơi trong và ngoài nước, không đặt các cơ sở ở tại các tỉnh, thành phố để
trực tiếp tiến hành các hoạt động thanh tra, giám sát tài chính. Uỷ ban có
thể được mở văn phòng đại diện ở các TTTC có nhiều các định chế của
nước nguyên xứ đến hoạt động ở Việt Nam hoặc nhiều định chế tài chính
của Việt Nam hoạt động ở đó.
- Uỷ ban Giám sát TTTC quốc gia chủ yếu chịu trách nhiệm giám sát
an toàn đối với hoạt động của các NHTM, ngân hàng đầu tư, ngân hàng
chính sách, ngân hàng phát triển, các quĩ hưu trí, công ty quản lý quĩ, CTCK,
tập đoàn tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ mạo hiểm, công ty tài chính, công
ty cho thuê. Các hoạt động tài chính khác do các đối tượng khác tiến hành sẽ
được quản lý, giám sát bởi các cơ quan khác thuộc thể chế giám sát tài chính
theo sự uỷ quyền:
+ Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam hoặc Hiệp hội nghề nghiệp liên quan
trực tiếp quản lý, giám sát các ngân hàng hợp tác và các tổ chức tài chính vi
mô;
+ Sở/TTGDCK trực tiếp quản lý, giám sát hàng ngày hệ thống giao
dịch chứng khoán và việc chấp hành các chính sách, qui định của
Sở/TTGDCK.
Uỷ ban Giám sát TTTC quốc gia có thẩm quyền giám sát và thanh tra
tại chỗ các tổ chức mà nó uỷ quyền và bất cứ định chế tài chính nào chịu sự
kiểm tra, giám sát bởi các tổ chức mà nó uỷ quyền.
Quan hệ giữa Uỷ ban với NHNN và BTC là quan hệ đồng cấp, phối
hợp. Trong đó:
+ NHNN tham gia quản lý, giám sát vĩ mô các hoạt động tiền tệ ngân
hàng và giám sát chấp hành pháp luật về tiền tệ, hoạt động ngân hàng, đồng
thời có trách nhiệm báo cáo Uỷ ban. NHNN không tiến hành các hoạt động
thanh tra tại chỗ đối với các tổ chức và cá nhân.
+ BTC, UBCKNN tham gia quản lý, giám sát vĩ mô các hoạt động tài
chính phi ngân hàng và có trách nhiệm báo cáo Uỷ ban. BTC, UBCKNN
không tiến hành các hoạt động thanh tra tại chỗ các hoạt động chứng khoán
và bảo hiểm.
+ BTC và NHNN có thể cử đại diện tham gia các đoàn công tác của
Uỷ ban hoặc cho ý kiến chuyên môn khi được Uỷ ban yêu cầu.
295
Xây dựng hệ thống công nghệ thông tin và viễn thông tiên tiến phục
vụ cho hệ thống giám sát tài chính và được kết nối trực tuyến đến NHNN,
BTC và các định chế tài chính chịu sự thanh tra, giám sát của Uỷ ban
Giám sát TTTC quốc gia.
Để thực hiện mô hình cơ quan giám sát tài chính hợp nhất, cần ban
hành Luật Giám sát tài chính để bảo đảm cơ quan giám sát tài chính hợp nhất
có đủ thẩm quyền, trách nhiệm, mục tiêu hoạt động rõ ràng, minh bạch và
trách nhiệm giải trình cao.
296
KẾT LUẬN
Qua phân tích, đánh giá thực trạng tài chính, tiền tệ giai đoạn 2001-
2005 và định hướng 2006-2010, có thể rút ra kết luận về một số vấn đề tài
chính, tiền tệ như sau:
Một là, cơ cấu lại thu NSNN
Trong giai đoạn 2001-2005, quy mô và tỷ lệ động viên thu NSNN có
xu hướng tăng nhanh nhằm đảm bảo nguồn lực tài chính cần thiết để thực
hiện các mục tiêu phát triển kinh tế -xã hội; Tỷ lệ động viên NSNN đã được
điều chỉnh sát với hoạt động kinh tế, góp phần kích thích tăng trưởng kinh tế
trong từng giai đoạn.
Tuy nhiên, trong bối cảnh nước ta trở thành WTO chính thức bước
vào thời kỳ hội nhập hoàn toàn và đầy đủ thì cơ cấu thu NSNN đã bộc lộ
nhiều bất cập, cơ cấu số thu theo từng sắc thuế không đảm bảo tính cân đối
phù hợp với trào lưu chung của các nước trên thế giới. Tỷ lệ số thu thuế thu
nhập cá nhân của Việt Nam còn thấp hơn nhiều so với mức trung bình của
các nước đang phát triển, kể cả các nước đang phát triển có thu nhập thấp
cùng loại; trong khi đó tỷ trọng số thu thuế thu nhập doanh nghiệp đang ở
mức rất cao; bên cạnh đó, tỷ trọng của thuế xuất nhập khẩu và các loại thuế
khác (thuế tài nguyên, phí xăng dầu, phí và lệ phí khác...) cũng còn khá cao.
Bên cạnh đó, tỷ lệ động viên so với GDP ngày càng có xu hướng tăng, nếu so
với các nước trên thế giới thì tỷ lệ này là khá cao và bất hợp lý. Điều này làm
cho gánh nặng thuế đối với doanh nghiệp còn khá lớn, làm giảm khả năng
cạnh tranh của hệ thống thuế Việt Nam so với các nước. Mặt khác, cùng với
tiến trình hội nhập, tỷ trọng thu nội địa trong tổng thu NSNN biến động
không ổn định qua các giai đoạn và có xu hướng giảm dần. Điều này chứng
tỏ xu hướng chuyển dịch cơ cấu thu nội địa trong tổng số thu NSNN là không
tích cực và kém vững chắc.
Vì vậy, trong giai đoạn 2006-2010 để thuế trở thành công cụ điều tiết
vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, đồng thời đảm bảo cân
đối ngân sách một cách tích cực, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và phù hợp
với lộ trình HNQT thì vấn đề cơ cấu lại thu NSNN càng trở nên cấp thiết.
Mục tiêu xuyên suốt của việc cơ cấu lại thu NSNN là tiến đến xây
dựng một cơ cấu thu ổn định một cách linh hoạt, đảm bảo tính bao quát và hệ
thống, phù hợp với nền kinh tế thị trường và mở cửa hội nhập.
Định hướng đổi mới cơ cấu thu NSNN thể hiện:
- Ôn định tỷ lệ động viên vào NSNN ở mức 21-22%GDP.
- Trên cơ sở mở rộng diện thuế trực thu và tăng tỷ trọng thuế trực thu
trong tổng số thu NSNN để xây dựng cơ cấu hợp lý giữa các loại thuế trực
thu, thuế gián thu và thuế tài sản.
297
- Để thực hiện lộ trình cắt giảm thế theo các cam kết hội nhập, cần chủ
động cơ cấu lại thu giữa thu trong nước và thuế xuất nhập khẩu, thu từ dầu
thô, hạn chế sự phục thuộc của nguồn thu NSNN vào các yếu tố bên ngoài,
xây dựng cơ cấu thu ổn định, bền vứng.
Hai là, cơ cấu lại chi NSNN
Chi NSNN giai đoạn 2001-2005 đã được cơ cấu lại một cách hợp lý
nhằm phục vụ hiệu quả các mục phát triển kinh tế-xã hội của đất nước;
NSNN không những đảm bảo được chi thường xuyên mà còn có tích lũy để
ĐTPT; tăng chi NSNN cho đầu tư cơ sở hạ tầng, tăng chi cho GD&ĐT, chi
cho nghiên cứu khoa học và tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các
doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh; từng bước cơ cấu lại chi NSNN
theo hướng giảm mạnh các đối tượng bao cấp; bước đầu có cơ chế huy động
thêm các nguồn lực ngoài ngân sách để tập trung chi cho con người và phát
triển nguồn nhân lực; bố trí tăng chi y tế, bảo vệ và chăm sóc trẻ em; chú
trọng chi cho công tác xoá đói giảm nghèo; chính sách quản lý, sử dụng ngân
sách đã từng bước được hoàn thiện đảm bảo việc phân bổ, quản lý, sử dụng
NSNN hiệu quả, chặt chẽ, gắn quyền hạn với trách nhiệm,…
Tuy nhiên, cơ cấu NSNN vẫn còn những bất cập: Tỷ trọng chi đầu tư
của NSNN ngày càng tăng cao nhưng hiệu quả đầu tư chưa tăng tương xứng;
Trong khi nguồn ngân sách dành cho đầu tư còn nhỏ bé nhưng cơ cấu đầu tư
chưa hợp lý, tình trạng dàn trải, phân tán trong chi đầu tư chậm được khắc
phục; nhiều khoản chi không hiệu quả có xu hướng tăng nhanh làm hiệu quả
chi ĐTPT ngày càng thấp.
Trong khi tỷ trọng chi thường xuyên có xu hướng giảm thì tỷ lệ chi
lương chiếm tỷ trọng chi thường xuyên ngày càng tăng nhưng mức lương của
cán bộ công chức và người hưởng lương từ ngân sách vẫn còn thấp. Bên cạnh
đó, chi phí cho hoạt động thường xuyên của bộ máy nhà nước, hoạt động
giảng dạy trong giáo dục, chi duy tu bảo dưỡng các công trình cơ sở hạ tầng
thiếu nguồn nên không tăng, thậm chí một số lĩnh vực còn giảm. Sự bất cập
trong cơ cấu chi NSNN làm hạn chế tốc độ tăng trưởng kinh tế, hạn chế khả
năng thực hiện các chương trình xã hội và xoa đói giảm nghèo.
Trong điều kiện mở rộng HNQT giai đoạn 2006-2010, đảm bảo thực
hiện những nhiệm vụ chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, thực hiện đổi mới
cơ cấu và chính sách quản lý chi NSNN, trên cơ sở phân định rõ nội dung và
phạm vi NSNN phải đảm bảo, xác định rõ những nhiệm vụ quan trọng, thiết
yếu NSNN cần đầu tư: hạ tầng kinh tế – xã hội, đào tạo nhân lực, tạo cơ chế
phát triển các vùng kinh tế trọng điểm; ưu tiên đầu tư chăm lo đối với các đối
tượng chính sách, người nghèo, đồng bào ở miền núi, vùng sâu, đồng bào dân
tộc thiểu số khó khăn; xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm; đảm bảo an ninh
quốc phòng.
Vì vậy, định hướng đổi mới cơ cấu được xác định như sau:
298
- Đảm bảo cơ cấu hợp lý giữa chi ĐTPT, chi thường xuyên và chi trả
nợ, nhằm thúc đẩy tăng trưởng và giải quyết các vấn đề xã hộ theo hướng
giảm tỷ trọng chi ĐTPT để tập trung nguồn lực ĐTPT nguồn nhân lực; Ổn
định và tăng dần tỷ trọng chi thường xuyên để tăng mức ĐTPT sự nghiệp
giáo dục, giảm chi cho sự nghiệp đào tạo để đảm bảo cân đối chi cho cả
GD&ĐT – dạy nghề; Tăng chi cho khoa học –công nghệ để khoa học-công
nghệ trở thành động lực thúc đẩy tăng trưởng; Ưu tiên tăng chi phát triển sự
nghiệp y tế, đồng thời khuyến khích xã hội hoá huy động các nguồn lực thực
hiện bảo hiểm y tế toàn dân vào năm 2010.
- Thực hiện chính sách ngân sách thắt chặt, kiểm soát và duy trì tỷ lệ
bội chi ở mức hợp lý có thể kiềm chế được theo thông lệ quốc tế, tiến tới sau
năm 2010 thực hiện giảm dần bội chi.
Ba là, xác định hợp lý mức bội chi NSNN
Trong thập kỷ qua, chính sách tài khoá của nước ta được điều hành với
độ thận trọng đáng kể. mức thâm hụt ngân sách nhỏ và tổng nợ khu vực công
(cả nợ nước ngoài và nợ trong nước) khá thấp, luôn ở trong tình trạng kiểm
soát được. Bội chi NSNN năm cao nhất, tính theo chuẩn quốc tế là
3,4%GDP. Bình quân giai đoạn 2001-2005 chỉ ở mức 2,2%GDP.
Mặc dù bội chi NSNN được kiềm chế trong giới hạn an toàn song, tỷ
lệ bội chi quá thấp cũng chưa phải là CSTC hợp lý trong bối cảnh hiện nay.
Bởi vì nếu để tỷ lệ bội chi ở mức thấp quá cũng giảm khả năng huy động
thêm nguồn lực cho ĐTPT kinh tế-xã hội.
Trong giai đoạn tới, để phát triển kinh tế và tăng trưởng cao, tiềm lực
tài chính nhà nước phải đủ mạnh để vừa thực hiện kích cầu vừa đảm bảo
nguồn lực cho ĐTPT, đặc biệt khi tiềm lực của khu vực doanh nghiệp ngoài
quốc doanh và dân cư còn yếu, phân tán, chưa đủ sức tự phát triển thì bội chi
NSNN cần được tăng thêm. Dự báo mức bội chi NSNN bình quân khoảng 5 -
7%GDP là hợp lý và có thể kiểm soát được.
Bốn là, đổi mới căn bản điều hành CSTT
CSTT trong giai đoạn 2001-2005 còn nhiều bất cập trong việc chưa
xác định rõ mục tiêu trung gian và mục tiêu hoạt động, dẫn đến hiệu quả điều
hành CSTT rất bị động, không điều tiết được thị trường như mục tiêu đặt ra.
Các công cụ của CSTT như lãi suất, tỷ giá có vai trò hạn chế trong việc
chuyển tải tác động CSTT đến nền kinh tế, trong khi đó tác động tiền tệ chủ
yếu thực hiện qua kênh cung ứng tiền và tín dụng cho nền kinh tế. Điều này
cũng có nguyên nhân từ chố thị trường tiền tệ và thị trường vốn ở Việt Nam
chưa thực sự phát triển, nền kinh tế đô la hóa và đang trong quá trình chuyển
đổi, HNQT.
Để điều hành CSTT hiệu quả, mục tiêu cuối cùng của CSTT đến 2010
cần tiếp tục được xác định rõ là ổn định giá cả, ổn định giá trị đồng tiền, kiểm
soát lạm phát, đảm bảo an toàn hệ thống và tạo môi trường thuận lợi cho tăng
299
trưởng kinh tế. Tuy nhiên, sau năm 2010, mục tiêu họat động của CSTT cần
chuyển từ mục tiêu điều tiết khối lượng tiền sang điều tiết giá cả, tạo điều
kiện thực hiện cơ chế truyền tải tác động CSTT đến lạm phát.
Để đạt được các mục tiếu đó, cần thực hiện các giải pháp đồng bộ,
trong đó cần phẩi nâng cao tính độc lập của NHNN trong điều hành CSTT;
Nâng cao hiệu quả sử dụng các công cụ tiền tệ gián tiếp, nhất là nghiệp vụ thị
trường mở. Củng cố lại thị trường liên ngân hàng và tăng cường vai trò giám
sát, điều tiết họat động thị trường của NHNN; Tăng cường sự kiên kết giữa
các bộ phận của thị trường tiền tệ, giữa thị trường tiền tệ và TTCK; Phát triển
thị trường thứ cấp để nâng cao tính thanh khoản của các công cụ trên thị
trường tiền tệ.
Năm là, đổi mới cơ chế quản lý và điều hành tỷ giá, khắc phục căn
bản tình trạng đôla hóa nền kinh tế
Trong giai đoạn 2001-2005, mặc dù chính sách quản lý ngoại hối đã
được đổi mới theo hướng tự do hóa và nói lỏng tài khoản vốn và giao dịch
vãng lai, song khả năng đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của các NHTM vẫn còn
hạn chế, từ đó làm hạn chế mức độ chuyển đổi của VND; Bên cạnh đó mức
độ đô la hoá ở nước ta có xu hướng ngày càng tăng so với các nước trên thế
giới và trong khu vực.
Nguyên nhân chủ yếu của đô la hóa thời gian vừa qua là: Nền kinh tế
tăng trưởng nhưng chưa bền vững, lạm phát của Việt Nam luôn cao hơn lạm
phát của Mỹ khiến người ta cho rằng khả năng phá giá đồng Việt Nam là
chính sách thường trực; Mối quan hệ giữa tỷ giá và lãi suất chưa hợp lý; Việc
quản lý thị trường phi chính thức chưa nghiêm ngặt; Tâm lý sử dụng tiền mặt
trong thanh toán (cả nội tệ và ngoại tệ) và khó thay đổi; Tình hình buôn lậu,
thanh toán bằng tiền mặt ngoại tệ phổ biến ở các tỉnh biên giới thúc đẩy sự
phát triển thị trường không chính thức; Công tác quản lý ngoại hối còn hạn
chế và bất cập. Từ những nguyên nhân đó khiến cho luồng ngoại tệ vẫn được
các doanh nghiệp, cá nhân nắm giữ trên tài khoản gửi tại các ngân hàng, tỷ lệ
tiền gửi ngoại tệ trên tổng phương tiện thanh toán tăng, làm mức độ đô la hoá
ngày lớn.
Tình trạng đô la hóa đã ảnh hưởng đến việc điều hành CSTT, gây khó
khăn trong việc kiểm soát lạm phát trong điều hành mục tiêu của CSTT, tiềm
ẩn nguy cơ gây rủi ro ngoại hối đối với hệ thống ngân hàng cũng như đối với
các doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, chính sách tỷ giá của Việt Nam còn có những hạn chế
bất cập: Tỷ giá chưa thực sự gắn với cung cầu thị trường; NHNN còn có sự
khống chế nhất định đến hình thành tỷ giá như quy định biên độ dao động tỷ
giá còn hẹp và còn cam kết nhất định đến sự biến động của tỷ giá.
Những hạn chế trên có ảnh hưởng nhất định đến việc phát triển thị
trường ngoại hối, mức độ rủi ro của thị trường ngoại hối có thể tăng. Điều đó
300
ảnh hưởng nhất định đến việc điều hành CSTT để đảm bảo mục tiêu ổn định
tiền tệ, có thể làm tăng quá mức đồng bản tệ, gây ảnh hưởng đối với sự ổn
định kinh tế vĩ mô
Trong giai đoạn 2006-2010, cần đổi mới công tác quản lý ngoại hối
theo hướng tự do hóa vừa đảm bảo thông thoáng, bình đẳng, phù hợp với
thông lệ và chuẩn mực quốc tế, vừa phù hợp với trình độ phát triển và thực
tiễn nền kinh tế trong nước. Nâng cao hiệu quả cơ chế quản lý ngoại hối
trong điều kiện tự do hóa tài khoản vãng lai và kiểm soát có chọn lọc các giao
dịch vốn phù hợp với lộ trình mở cửa TTTC.
Bên cạnh đó, cần nâng cao năng lực dự trữ ngoại hối, nâng cao tính
chuyển đổi của đồng Việt Nam, từng bước tạo nền tảng cho VND trở thành
đồng tiền tự do chuyển đổi sau năm 2010. Thu hẹp phạm vi sử dụng đồng
ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam và giảm tình trạng đô la hóa; Tiến tới thực
hiện trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng đồng Việt Nam, đảm bảo vị trí độc
tôn của đồng Việt Nam trên lãnh thổ Việt Nam.
Để thực hiện định hướng trên cần phải hoàn thiện cơ chế quản lý ngoại
hối và điều hành tỷ giá trên cơ sở quản lý và giám sát các luồng vốn ngoại tệ
vào ra thông qua các tài khoản ngoại tệ mở tại ngân hàng được phép áp dụng
cho từng loại hình giao dịch vốn; Tập trung và thống nhất quản lý nguồn dự
trữ Nhà nước vào một đầu mối là NHNN, tăng cường các giải pháp tăng dự
trữ ngoại hối Nhà nước để đảm bảo khả năng điều hành CSTT quốc gia, đảm
bảo khả năng thanh toán quốc tế cũng như khẳng định vị thế của quốc gia đối
với quốc tế và các nhà đầu tư nước ngoài.
Chính sách tỷ giá và lãi suất cần được phối hợp đồng bộ, đảm bảo cân
bằng mức độ hấp dẫn của đồng nội tệ và ngoại tệ, tránh được sự dịch chuyển
từ việc nắm giữ đồng nội tệ sang ngoại tệ.
Để hạn chế tối đa tình trạng đôla hóa trên thị trường tiền tệ, xin đề xuất
các giải pháp sau:
- Để chống đôla hóa, vừa phải thể chế hoá bằng Luật pháp, vừa phải
nâng uy tín và bảo vệ giá trị đồng bản tệ.
- NHTW được toàn quyền vận dụng qui luật tiền tệ để tác động trực
tiếp vào mối quan hệ giữa lãi suất đồng nội tệ với lãi suất đồng ngoại tệ theo
nguyên tắc ưu tiên sự tôn trọng tính ổn định giá trị của đồng nội tệ.
- Có thiết chế nghiêm ngặt để thực thi một cách triệt để trên thực tiễn
về quyền hạn của NHTW là cơ quan độc quyền quản lý dự trữ ngoại hối
quốc gia theo luật đã định.
- Hình thành và phát triển quy mô hai quỹ ngoại tệ gồm Quỹ dự trữ và
Quỹ can thiệp thị trường ngoại hối.
Và cuối cùng, cần nâng cao vị thế và tính chuyển đổi của đồng Việt
Nam
301
Sáu là, đổi mới chính sách lãi suất và tín dụng ngân hàng
Trong những năm qua, mặc dù lãi lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín
dụng được xác định theo hướng tự do hóa dần, song lãi suất có tính chất định
hướng của NHTW lại chưa phải là lãi suất thị trường được xác định trên cơ
sở mối quan hệ cung cầu của thị trường tín dụng.
Bên cạnh đó, chính sách tín dụng còn bộc lộ nhiều khuyết tật và hạn
chế: Hoạt động của khu vực "tín dụng ưu đãi" đã và đang thực sự gây thêm
tính phức tạp của thị trường tín dụng khi mà cùng một đối tượng khách hàng
trên cùng một địa bàn "được" hưởng cùng lúc quá nhiều loại chính sách tín
dụng khác nhau.
Đồng thời, do bất cập trong cơ chế, chính sách lãi suất và tín dụng mà
hoạt động tín dụng ngân hàng đang tiềm ẩn nhiều rủi ro: Rủi ro kỳ hạn; Rủi
ro đồng tiền do bị đôla hóa; Rủi ro do bất cập trong hoạt động Thanh tra và
thanh toán toàn ngành; Rủi ro tín dụng – nhất là tín dụng cho khu vực khách
hàng là DNNN. Những rủi ro đó đang tiềm ẩn khả năng mất an toàn trong hệ
thống các trung gian tài chính, đưa đến sự không đảm bảo an ninh tài chính
quốc gia.
Vì vậy, trong giai đoạn 2006 – 2010 cần nhanh chóng đổi mới chính
sách lãi suất của NHTW theo nguyên tắc thị trường – trên thị trường tái chiết
khấu, thị trường mở, xuất phát từ CSTT mục tiêu lạm phát thấp. Để thực hiện
định hướng đó, cần phải triệt để sử dụng 4 loại lãi suất phổ biến gồm: Lãi
suất tái cấp vốn hoặc lãi suất cho vay khẩn cấp qua đêm của NHTW ; Lãi
suất đấu thầu tín phiếu, TPCP hoặc Công trái Nhà nước (lãi suất trung bình);
Lãi suất liên ngân hàng do các NHTM cho vay lẫn nhau; Lãi suất tiền gửi của
các Ngân hàng thương mại tại NHNN. Bên cạnh đó, cần đổi mới cơ chế hỗ
trợ lãi suất theo hướng “hỗ trợ sau đầu tư”; chuyển dần từ ưu đãi lãi suất sang
ưu đãi “có điều kiện” và tôn trọng qui luật hình thành lãi suất thị trường;
Bẳy là, phát triển TTTC ổn định vững chắc
Trong những năm qua, TTTC Việt Nam, mới được hình thành, sự phát
triển chưa đồng bộ, chưa vững chắc, sự tăng trưởng có lúc quá chậm nhưng
có thời điểm quá nóng, đe dọa an ninh tài chính quốc gia.
Thị trường tiền tệ, đặc biệt là thị trường tiền tệ thứ cấp phát triển ở
trình độ thấp, thiếu đồng bộ và chưa năng động, nghèo nàn về công cụ giao
dịch. Thị trường vốn và thị trường tiền tệ chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu
của các TCTD về huy động vốn và đầu tư làm hạn chế khả năng đa dạng hoá
kinh doanh và phòng ngừa rủi ro.
TTTC phát triển thiếu cân bằng, áp lực về vốn của nền kinh tế tiếp tục
dồn lên hệ thống ngân hàng, nhất là nhu cầu vốn cho tăng trưởng kinh tế
nhanh, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá tạo ra áp lực cho hệ thống
ngân hàng phát triển kém bền vững do tăng trưởng tín dụng, đầu tư quá mức
an toàn và tăng tập trung tín dụng quá mức.
302
Rủi ro kỳ hạn, rủi ro thị trường và rủi ro thanh khoản ngày càng trở
lên hiện hữu khi các TCTD tiếp tục mở rộng tín dụng trung, dài hạn không
tương xứng với cơ cấu nguồn vốn. Sự liên kết giữa các thị trường tiền tệ bộ
phận với nhau; giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn chưa chặt chẽ.
Công nghệ kỹ thuật về thanh toán và giao dịch cũng như quy trình
kiểm soát và khuôn khổ thể chế chưa hoàn chỉnh và kém hiệu quả. Điều này
làm tăng rủi ro thị trường cho các TCTD.
TTCK thời kỳ đầu còn còn nhỏ bé mới ở giai đoạn phát triển ban đầu,
chưa trở thành kênh huy động vốn dài hạn cho nền kinh tế, nhưng đã trở nên
phát triển quá nóng, gây bất ổn cho an ninh tài chính quốc gia. Bên cạnh đó
sự phát triển méo mó của TTTC và khuôn khổ thể chế, cơ chế quản lý, điều
tiết TTTC còn bất cập sẽ làm tăng mức độ rủi ro cho các hoạt động tài chính -
ngân hàng.
Trong giai đoạn 2006-2010, cần phát triển TTTC (thị trường vốn và thị
trường tiền tệ) theo hướng đồng bộ, có cơ cấu hoàn chỉnh; tăng nhanh qui mô
và mở rộng phạm vi hoạt động; vận hành an toàn, được quản lý, giám sát
hiệu quả; khuyến khích mở rộng các hoạt động dịch vụ hỗ trợ phát triển
TTTC; bảo vệ lợi ích hợp pháp của mọi đối tượng tham gia thị trường.
Phát triển thị trường tiền tệ theo hướng hiện đại hoá và đa dạng hoá
các hình thức hoạt động; tăng cường liên kết giữa thị trường tiền tệ với thị
trường vốn. Mục tiêu của CSTT trong 5 năm tới là ổn định giá trị đồng tiền,
kiểm soát lạm phát, góp phần tăng trưởng kinh tế và bảo đảm an ninh hệ
thống các ngân hàng và tổ chức tín dụng.
Kết hợp chặt chẽ CSTT với chính sách tài khoá để ổn định kinh tế vĩ
mô, tăng dự trữ ngoại tệ, khuyến khích doanh nghiệp và nhân dân tiết kiệm,
ĐTPT sản xuất, kinh doanh.
Xây dựng và thực thi CSTT theo nguyên tắc thị trường, khẩn trương
thực hiện đầy đủ các chuẩn mực và thông lệ quốc tế về hoạt động ngân hàng,
mở rộng nhanh các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt và thanh toán
qua ngân hàng; nâng dần và tiến tới thực hiện đầy đủ tính chuyển đổi của
đồng tiền Việt Nam.
Thực hiện chính sách lãi suất thoả thuận theo nguyên tắc thị trường và
đi tới loại bỏ hoàn toàn quy định hành chính đối với lãi suất ngoại tệ.
Tiếp tục thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt theo nguyên tắc
thị trường với biên độ được mở rộng hơn phù hợp với mức độ mở cửa TTTC
và năng lực kiểm soát của NHNN, tiến tới thực hiện cơ chế tỷ giá hối đoái
thả nổi có kiểm soát. Đổi mới chính sách quản lý ngoại hối theo hướng tự do
hoá hoàn toàn giao dịch vãng lai, từng bước mở cửa các giao dịch vốn; thu
hẹp và tiến tới xoá bỏ tình trạng sử dụng ngoại tệ làm phương tiện thanh toán
trên lãnh thổ Việt Nam.
303
Phát triển mạnh thị trường vốn theo hướng phát huy vai trò của các
ngân hàng có chức năng huy động và cho vay vốn đầu tư, đồng thời khẩn
trương nâng cấp TTCK, thực hiện các biện pháp đồng bộ để phát triển nhanh
TTCK thành một kênh huy động vốn dài hạn quan trọng trong nền kinh tế.
Đẩy nhanh và mở rộng diện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, khuyến
khích hình thành các công ty cổ phần thuộc mọi thành phần kinh tế, kể cả các
doanh nghiệp FDI, niêm yết cổ phiếu và huy động vốn qua TTCK. Hình
thành đồng bộ thể chế về TTCK; tăng cường hỗ trợ của Nhà nước về kết
cấu hạ tầng kỹ thuật, đào tạo nguồn nhân lực, phổ cập kiến thức, tạo điều
kiện thuận lợi cho công chúng tham gia thị trường này.
Trên cơ sở định hướng trên, mục tiêu cụ thể cần đạt được như sau:
- Điều chỉnh cơ cấu huy động vốn thông qua TTTC: Phần đấu tới năm
2010, vốn huy động cho ĐTPT qua TTTC chiếm 56% tổng vốn đầu tư, trong
đó, qua các công cụ chứng khoán khoảng 20% và trung gian tài chính là 36%
tổng vốn đầu tư.
- Từng bước nâng dần quy mô thị trường vốn trung và dài hạn để đến
năm 2010 quy mô thị trường vốn trung hạn và dài hạn chiếm thị phần lớn
hơn thị trường vốn ngắn hạn.
- Giảm tốc độ tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh
tế từ 22,7%/năm giai đoạn 2001-2005 xuống còn khoảng 18-19%/năm giai
đoạn 2006-2010. Tốc độ tăng trưởng tín dụng ngân hàng giảm từ 26,2%/năm
giai đoạn 2001-2005 xuống khoảng 20%/năm giai đoạn 2006-2010. Tốc độ
tăng trưởng huy động vốn của khu vực tín dụng ngân hàng giảm từ 22,9%
năm giai đoạn 2001-2005 xuống 19-20%/năm giai đoạn 2006-2010.
Tám là, phối hợp đồng bộ giám sát tài chính và giám sát ngân
hàng tiền tệ, hình thành tổ chức bộ máy giám sát tài chính thống nhất
đối với TTTC.
Trong những năm qua, hệ thống giám sát TTTC Việt Nam tồn tại 3
mô hình tổ chức: cơ quan giám sát ngân hàng, cơ quan giám sát bảo hiểm và
cơ quan giám sát chứng khoán. Mặc dù có 3 tổ chức thực hiệm nhiệm vụ
thanh tra giám sát tài chính, nhưng sự yếu kém của các định chế tài chính,
đặc biệt là hệ thống ngân hàng đi đôi với việc tiềm ẩn các nguy cơ, rủi ro
lớn làm hạn chế vai trò của hệ thống tài chính đối với ổn định kinh tế vĩ mô
và tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, sự đổi mới và phát triển nhanh chóng
của khu vực tài chính dẫn đến sự thay đổi cấu trúc của hệ thống tài chính
theo hướng cân bằng hơn giữa khu vực ngân hàng và khu vực tài chính phi
ngân hàng.
Vì vậy, trong điều kiện mở cửa TTTC và đẩy mạnh hội nhập kinh tế
quốc tế trong lĩnh vực tài chính, việc hợp nhất các tổ chức giám sát tài chính
là cần thiết và cấp bách.
304
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tiếng Việt
1. Báo cáo tự đánh giá 25 nguyên tắc về giám sát ngân hàng hữu hiệu do
Công ty Ernst & Young thực hiện.
2. Bộ ngoại giao” Việt nam hội nhập kinh tế quốc tế trong xu thế toàn cầu
hoá”, Bộ ngoại giao -Vụ hợp tác quốc tế đa phương, Nhà xuất bản chính
trị quốc gia 2002, trang 210.
3. Đề tài khoa học ngành ngân hàng "Vấn đề quản lý nhà nước trong hệ
thống NHNN Việt Nam". Mã số KNH 2000-20.
4. Đề tài khoa học ngành ngân hàng "Thanh tra ngân hàng với tiến trình hội
nhập của hệ thống ngân hàng Việt Nam". Mã số KHN 2001-14.
5. Đề tài khoa học ngành ngân hàng "Vấn đề phát triển TTTC: thị trường
tiền tệ, tín dụng, tài sản và mối tương tác với CSTT ở Việt Nam thập kỷ
2001- 2010. Mã số KHN 01-17.
6. Đổi mới căn bản TTNH – Một cấu phần quan trọng bảo đảm đưa NHNN
việt nam trở thành ngân hàng trung ương hiện đại. TS. Nguyễn Văn Bình,
Chánh Thanh tra NHNN.
7. Đào Duy Huân. Kinh tế các nước Đông Nam Á. NXB Giáo dục. Hà Nội
1997.
8. Kỷ yếu Hội thảo khoa học "Giải pháp khuyến khích đầu tư hiệu quả vào
nền kinh tế của các DNBH" do Viện Khoa học Tài chính phối hợp với
Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam tổ chức.
9. MPI- JICA. ‘Tài liệu Hội thảo “Dự án Việt nam- Nhật bản về đổi mới
chính sách kinh tế Việt nam”, MPI-JICA, tháng 7/1999.
10. IMF, 1993, Cẩm nang cán cân thanh toán
11. IMF, 2003, Một số vấn đề về kinh tế Việt Nam và Phụ lục số liệu thống
kê
12. IMF, Thống kê tài chính quốc tế, trang Việt Nam, tháng 12 năm 2000 và
tháng 11 năm 2004.
13. Ngân hàng Thế giới. Tài chính cho tăng trưởng: lựa chọn chính sách
trong một thế giới đầy biến động. NXB Văn hóa Thông tin. Hà Nội 2001.
14. Ngân hàng Thế giới. Đông Á: phục hồi và phát triển. NXB Chính trị
Quốc gia. Hà Nội 2000.
15. Ngân hàng Thế giới. Tấn công đói nghèo. NXB Chính trị quốc gia. Hà
Nội 2000.
16. Ngân hàng Thế giới. Bước vào thế kỷ 21. NXB Chính trị quốc gia. Hà
Nội 1999.
17. Ngân hàng Thế giới. Đông Á: con đường dẫn đến phục hồi. NXB Chính
trị Quốc gia. Hà Nội 1999.
305
18. Ngân hàng Thế giới. Xây dựng thể chế hỗ trợ thị trường. NXB Chính trị
quốc gia. Hà Nội 2002.
19. Tài liệu toạ đàm giới thiệu kết quả các nghiên cứu về dịch vụ ngân hàng
trong bối cảnh hội nhập quốc tế của Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế
quốc tế, NHNN, Cơ quan Adetef Việt Nam và Dự án hỗ trợ Việt Nam
hội nhập kinh tế quốc tế FSP 2000-148
20. Thị trường Bảo hiểm Việt Nam năm 2004 - Nhà xuất bản tài chính, năm
2005
21. TTTC và thị trường vốn ở châu Á. NXB Tài chính. Hà Nội 1992
22. Tổng cục Thống kê. “ Niên giám thống kê” các năm 1990-2005
23. Viện nghiên cứu tài chính. Kinh tế tài chính thế giới 1970-2000. NXB Tài
chính. Hà Nội tháng 2/2000.
B. Tiếng Anh
24. Financial Institutions - Understanding and Managing financial services.
Fourth Edition. Peter Rose, James W.Kolari, Donald R. Fraser
25. Monetary and the financial system. Second Edition. Paul M. Horvitz
26. The Economics of Money, Banking and Financial Markets (Fourth
Edition), 1995, Frederic S. Mishkin
27. Financial Sector Assessment Handbookcủa WB và IMF
28. Hiệp ước vốn năm 1988 (Basel I) và các nội dung sửa đổi sau đó
29. Hiệp ước vốn mới (Basel II)
30. Should financial sector regulator be independent? Marc Quintyn và
Michael W. Taylor - Economic Issues (IMF)
31. Giancarlo Corsetti, Poalo Pesenti...; Nguyên nhân gì dẫn đến cuộc
khủng hoảng tài chính và tiền tệ ở châu Á. Tháng 3/1998.
32. Lim Chong Yan. Đông Nam Á: chặng đường dài phía trước. NXB Thế
giới. Hà Nội 2002.
33. Wendy Dobson, Pierre Jacquet; Tự do hoá dịch vụ tài chính trong
khuôn khổ WTO: Kinh nghiệm các nước. NXB Tài chính. Hà Nội
2001.
34. Frederic S. Mishkin. “ The economics of money, banking and financial
markets”, Fourth edition, HarperCollins College Publishers, 1995.
35. European Central Bank, The monetary policy of the ECB, 2001.
36. International Monetary Fund, “ The use of standing facilities in indirect
monetary management; country practices and operational features”, MAE
Operational Paper, October, 1997.
306
37. International Monetary Fund, “ The use of reserve requirements in
monetary control operational features and country practices”, MAE
Operational Paper, May, 1996.
38. Tomas J.T.Balino et. al “Monetary Policy in Dollarized
Economies”,Occasional Paper, International Monetary Fund, Washington
DC, 1999.
39. Andrea Schaechter, “ Implementation of Monetary Policy and the Central
Bank’s Balance Sheet”, IMF Working paper, Washington DC, October,
2001.
40. William E. Alexander et. al “ The adoption of direct Instruments of
Monetary Policy”, Occasional Paper, International Monetary Fund,
Washington DC, 1995.
41. Tomas J.T. Balino and Lorena M. Zamalloa, “ Instruments of Monetary
Management- Issues and Country Experiences”, International Monetary
Fund, Washington DC, 1997.
42. Andrea Schaechter et. al “ Adopting Inflation Targeting: Practical Issues
for Emerging Market Countries”, Occasional Paper, International
Monetary Fund, Washington DC, 2000.
43. Thomas F. Cargill et. al “ The Political Economy of Japanese Monetary
Policy”,. The MIT Press, cambridge, Massachusetts, London, England,
1997.
44. Lawrence S. Ritter & William L. Silber. “ Principles of money, banking,
and financial markets”, Seventh Edition, BasicBooks,1991.
45. Alain Ize and Eduardo Levy-Yeyati, “ Dollarization of financial
intermediation: Causes and Policy Implications”, IMF, Washington DC,
1998.
46. Alan S. Blinder. “Central banking in theory and practice”, the MIT Press,
cambridge, Massachusetts, London, England.
47. Gregory Mankiw, Macroeconomics, second edition, Worth publishers.
48. Luis Catao and Marco Terrones, “ Determinants of Dollarization: The
Banking Side”, IMF, Washington DC, 2000.
49. Bank of Korea, The Monetary Policy, 2002.
307
PHỤ LỤC
QUYẾT ĐỊNH CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Số 211/2004/QĐ-TTg ngày 14 tháng 12 năm 2004
PHÊ DUYỆT ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH VIỆT NAM
ĐẾN NĂM 2010
Điều 1. Phê duyệt Định hướng phát triển tài chính Việt Nam đến năm 2010 với
những nội dung sau đây:
A. Mục tiêu tổng quát:
Đảm bảo tiềm lực tài chính quốc gia đủ mạnh để chủ động thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững, có khả năng kiểm soát lạm phát, ổn định tiền tệ, giá
cả và thị trường; hệ thống chính sách động viên, phân phối tài chính có hiệu lực cao, đảm
bảo công bằng, năng động, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, có tác động mở đường khai thông các nguồn nội lực, thu hút ngoại lực và sử dụng
hiệu quả toàn bộ các nguồn lực cho phát triển kinh tế-xã hội của đất nước; xây dựng nền tài
chính quốc gia lành mạnh, công khai, minh bạch, dân chủ, được quản lý và kiểm toán chặt
chẽ, làm cho tài chính trở thành thước đo hiệu quả mọi hoạt động kinh tế, là động lực thúc
đẩy phát triển kinh tế – xã hội; năng lực, hiệu lực quản lý nhà nước về tài chính được tăng
cường và đổi mới trên cơ sở đẩy mạnh cải cách hành chính, hiện đại hoá công cụ và nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý tài chính; củng cố và nâng cao vị thế tài chính Việt
Nam trong quan hệ quốc tế trên cơ sở bảo đảm độc lập tự chủ và an ninh tài chính quốc gia.
B. Các mục tiêu cụ thể:
1. Xử lý tốt quan hệ tích luỹ và tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư, tăng tiềm lực tài
chính cho ĐTPT kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh.
- Tăng tỷ lệ tổng vốn đầu tư xã hội so với GDP giai đoạn 2001 - 2010 lên khoảng
36 - 40%, trong đó đầu tư từ NSNN chiếm khoảng 8%.
- ổn định tỷ trọng chi ĐTPT (bao gồm cả phần chi bằng nguồn TPCP) ở mức 29-
30% tổng chi NSNN.
2. Nâng tỷ lệ huy động GDP vào NSNN từ 20 - 21% lên 21 -22%, trong đó thu từ
thuế và phí từ 19 - 20% lên 20 - 21%.
3. Tăng mức chi cho GD&ĐT, khoa học và công nghệ, văn hoá trong tổng chi
NSNN.
- Đến năm 2005, so với tổng chi NSNN chi cho GD&ĐT đạt 18%, chi cho khoa
học và công nghệ đạt 2%.
- Đến năm 2010, so với tổng chi NSNN chi cho GD&ĐT đạt 20%, chi cho khoa
học và công nghệ đạt 2,1%, chi cho văn hoá đạt 1,8%.
4. Kiểm soát và duy trì tỷ lệ bội chi NSNN ở mức không quá 5%GDP.
5. Kiểm soát nợ Chính phủ, nợ ngoài nước của quốc gia đều ở mức không quá
50%GDP.
6. Hình thành đồng bộ các loại thị trường, trong đó có TTTC, dịch vụ tài chính và
bất động sản.
308
7. hoàn thành việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước, nâng cao hiệu quả và
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp.
8. Giảm tỷ trọng tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán, ổn định sức mua và
giá trị đồng tiền, nâng dần tính chuyển đổi của đồng Việt Nam.
C. Các nhóm giải pháp lớn:
1. Khai thác cao độ các nguồn lực tài chính để phát triển kinh tế - xã hội
Thực hiện cơ chế, CSTC đồng bộ, thống nhất, tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định
và hấp dẫn, thúc đẩy các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư, các
nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn đầu tư để phát triển kinh tế-xã hội.
Đổi mới và hoàn thiện các CSTC thu hút các nguồn lực trong và ngoài nước thúc
đẩy phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các vùng động lực, vùng kinh tế trọng điểm
để tạo bước đột phá trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư gián tiếp thông qua TTTC trong nước, sử dụng có
hiệu quả tất cả các kênh, các công cụ, các hình thức đầu tư tài chính; khuyến khích cung
cấp hàng hóa và hoàn thiện cơ chế để thúc đẩy TTCK phát triển thành kênh huy động vốn
chủ yếu cho ĐTPT. Hoàn thiện cơ chế tài chính tạo điều kiện để các địa phương trong vùng
kinh tế trọng điểm phát hành trái phiếu theo quy định để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
kinh tế-xã hội. Chủ động huy động vốn trên TTTC quốc tế thông qua phát hành TPCP,
nghiên cứu thí điểm thực hiện việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp trên TTTC quốc tế.
Động viên hợp lý các nguồn thu cho NSNN trên cơ sở cải cách hệ thống thuế, phí
phù hợp với cơ chế thị trường, theo hướng công bằng, thống nhất, có cơ cấu hợp lý và đồng
bộ trên cả 3 mặt: chính sách thuế, hành chính thuế và dịch vụ tư vấn thuế, đảm bảo môi
trường thuận lợi khuyến khích phát triển sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy kinh tế tăng
trưởng, tăng tích lũy cho doanh nghiệp.
Quản lý chặt chẽ và khai thác có hiệu quả theo kế hoạch dài hạn nguồn lực từ đất
đai. Đẩy mạnh việc bán, cho thuê tài sản nhà nước kể cả bán, cho thuê quyền khai thác, sử
dụng kết cấu hạ tầng (đường giao thông, bến cảng, các cơ sở đào tạo, dịch vụ...) để tái tạo
nguồn vốn đầu tư cho ngân sách và nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản.
Động viên, thu hút rộng rãi các nguồn vốn trong xã hội nhằm tăng đầu tư nâng cao
số lượng và chất lượng các dịch vụ công cộng. Đẩy mạnh thực hiện xã hội hóa bằng cách
áp dụng cơ chế tài chính phù hợp đối với các đơn vị sự nghiệp. Hoàn thiện CSTC khuyến
khích nhà đầu tư bỏ vốn cung cấp dịch vụ công.
2. Phân phối hợp lý và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính
Hoàn thiện cơ chế, chính sách phân phối và sử dụng hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả
nguồn lực đầu tư của xã hội, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển đồng bộ các
vùng kinh tế, đảm bảo nguồn lực tài chính thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế gắn với
đảm bảo công bằng xã hội và xoá đói giảm nghèo.
Nâng cao vai trò định hướng của nguồn lực tài chính nhà nước trong việc ĐTPT
kinh tế - xã hội, trong đó vốn đầu tư của NSNN tập trung chủ yếu cho xây dựng, nâng cấp
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là kết cấu hạ tầng trong nông nghiệp và nông thôn;
đảm bảo vốn cho các công trình trọng điểm quốc gia và các mục tiêu, nhiệm vụ ưu tiên của
chiến lược; hỗ trợ ĐTPT hợp lý cho các vùng khó khăn.
Điều chỉnh cơ cấu đầu tư để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc
biệt chú trọng ưu tiên ĐTPT các vùng kinh tế động lực, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong
nông nghiệp, nông thôn; tiếp tục thực hiện cơ chế khuyến khích định hướng đầu tư của xã
309
hội vào các ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghệ cao, góp phần thúc đẩy đổi mới công
nghệ. Khuyến khích ĐTPT dịch vụ, nhất là dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, xổ số…
Thực hiện CSTC khuyến khích phát triển các vùng kinh tế động lực làm đầu tầu
tăng trưởng kinh tế gắn liền với tạo điều kiện phát triển các vùng khác trên cơ sở phát huy
thế mạnh của từng vùng, đồng thời quan tâm đầu tư nhiều hơn cho các vùng khó khăn.
Chủ động phân phối, sử dụng nguồn lực NSNN hiệu quả, đáp ứng yêu cầu về phát
triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh và các yêu cầu về hoạt động quản lý
nhà nước. Tiếp tục cơ cấu lại chi NSNN trên cơ sở phân định rõ nội dung và phạm vi
NSNN cần đảm bảo cho các đối tượng chi của ngân sách, phát huy tính chủ động của các
địa phương, đơn vị, xoá bao cấp trực tiếp và gián tiếp qua NSNN, gắn cơ cấu lại chi NSNN
với cải cách hành chính cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của nhà nước và đẩy mạnh
xã hội hoá để huy động cao độ nguồn lực cho phát triển kinh tế – xã hội.
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế phân cấp; vừa đảm bảo tập trung thống nhất, vai trò chủ
đạo và điều phối của ngân sách trung ương, vừa phân cấp mạnh đi đôi với tăng cường trách
nhiệm và tính chủ động trong quản lýý ngân sách của chính quyền địa phương; phấn đấu
tăng số địa phương tự cân đối ngân sách.
3. Đổi mới và phát triển tài chính doanh nghiệp
Xây dựng và hoàn thiện chính sách, cơ chế tài chính doanh nghiệp, đảm bảo bình
đẳng, ổn định, minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế khai thác và phát huy mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài doanh nghiệp
phát triển sản xuất, kinh doanh và nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và
quốc tế.
Hoàn thiện chính sách, cơ chế tài chính theo hướng đẩy nhanh quá trình đổi mới,
sắp xếp gắn liền với việc tăng cường năng lực tài chính cho các doanh nghiệp nhà nước
thông qua các hình thức cổ phần hóa, giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê, sáp nhập, hợp
nhất, giải thể hoặc phá sản doanh nghiệp nhà nước. Mở rộng diện các doanh nghiệp nhà
nước cần cổ phần hóa, kể cả các Tổng công ty và doanh nghiệp lớn.
Đổi mới căn bản chính sách, cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp nhà nước trên
cơ sở tách bạch rõ chức năng quản lý nhà nước, quản lý của chủ sở hữu với chức năng
quản trị kinh doanh của doanh nghiệp; xóa bỏ cơ chế chủ quản; phân định rõ quyền của các
cơ quan nhà nước thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước;
áp dụng cơ chế nhà nước đặt hàng việc sản xuất, cung cấp các hàng hoá và sản phẩm công
ích.
5. Phát triển TTTC, thị trường dịch vụ tài chính, đáp ứng yêu cầu thu hút các
nguồn lực tài chính cho ĐTPT.
Đa dạng hóa hàng hóa trên TTTC và dịch vụ tài chính, tăng số lượng và chất lượng
hàng hóa cho TTCK trên cơ sở đẩy mạnh tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước,
gắn cổ phần hoá với việc niêm yết trên TTCK. Khuyến khích các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế khác, kể cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài niêm yết cổ
phiếu và huy động vốn qua TTCK.
Nâng cấp Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh thành Sở
giao dịch chứng khoán, thành lập Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội. Chuẩn bị các
điều kiện để từng bước liên kết TTCK Việt Nam với TTCK các nước trong khu vực.
Hoàn chỉnh khung pháp lý điều chỉnh hoạt động TTTC, tăng cường liên kết giữa
thị trường tiền tệ, thị trường vốn cả về hoạch định chính sách, cơ chế hoạt động, quản lý
điều hành, giám sát hoạt động.
310
6. Mở rộng hoạt động tài chính đối ngoại và chủ động hội nhập quốc tế về tài chính
nhằm củng cố và phát triển nền tài chính quốc gia
Xác định lộ trình hợp lý đối với phát triển và tự do hóa từng bước luồng vốn trong
điều kiện hội nhập, thực hiện đa dạng hóa nguồn vốn, đa phương hóa quan hệ đối tác. Hoàn
thiện công tác quản lý nợ nước ngoài. Xây dựng hệ thống giám sát nợ, hệ thống các chỉ tiêu
đánh giá hiệu quả các dự án, chương trình sử dụng vốn vay nước ngoài, đặc biệt đối với
nguồn vốn vay thương mại nước ngoài của các doanh nghiệp theo cơ chế tự vay tự trả.
Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn của Quỹ tích luỹ trả nợ nước ngoài và tổ chức việc
thanh toán nợ đúng hạn. Tăng cường nguồn nhân lực và năng lực trong quản lý nợ nước
ngoài.
Hoàn thiện khung pháp lý về tài chính theo chuẩn mực quốc tế để hội nhập thành
công; điều chỉnh và xây dựng cơ chế, CSTC phù hợp với các cam kết song phương và đa
phương. Thực hiện bảo hộ đối với sản xuất trong nước và các định chế tài chính, ngân
hàng, thương mại có trọng điểm, có thời gian và lộ trình rõ ràng, minh bạch.
7. Nâng cao năng lực và hiệu quả giám sát tài chính, đảm bảo lành mạnh hóa tài
chính và an ninh tài chính quốc gia
Thiết lập hệ thống cảnh báo sớm để kịp thời ngăn chặn những nguy cơ làm mất an
ninh trong hệ thống tài chính, áp dụng chế độ báo cáo tài chính bắt buộc, thực hiện công
khai tài chính, hoàn chỉnh hệ thống kiểm soát chi NSNN. Thực hiện kiểm toán đối với tất
cả các đơn vị thụ hưởng kinh phí NSNN. Hoàn thiện và nâng cao năng lực, chất lượng hoạt
động của công tác kiểm tra, thanh tra tài chính trong tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là công tác
quản lý, sử dụng kinh phí NSNN, công tác quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Kiện toàn
tổ chức và nâng cao năng lực tổ chức giám sát tài chính, tập trung đầu mối vào Bộ Tài
chính.
8. Cải cách hành chính trong lĩnh vực tài chính, đảm bảo hoạt động tài chính thông
suốt, chất lượng và hiệu quả.
Đồng bộ hoá hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và cải cách thủ tục hành chính
về tài chính; hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, củng cố và kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý
tài chính; tiêu chuẩn hóa cán bộ tài chính, xây dựng đội ngũ công chức ngành tài chính đủ
về số lượng, có cơ cấu hợp lý, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao; hiện đại hóa quản lý tài
chính, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật để nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý tài
chính.
D. Các chương trình hành động cụ thể
Định hướng phát triển tài chính đến năm 2010 được triển khai thực hiện theo các
chương trình và đề án, cụ thể như sau:
1) Chương trình cải cách hệ thống thuế đến năm 2010 (Bộ Tài chính chủ trì tổ chức
thực hiện).
2) Chương trình đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp, bao
gồm các đề án xây dựng cơ chế, CSTC đẩy nhanh tiến trình cải cách doanh nghiệp nhà
nước; đề án xây dựng cơ chế tài chính đối với các loại hình doanh nghiệp; đề án tăng
cường năng lực tài chính và nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp và đề án xây dựng
hệ thống giám sát tài chính doanh nghiệp (Bộ Tài chính chủ trì tổ chức thực hiện).
3) Chương trình đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản công, bao gồm các đề
án xây dựng cơ chế, CSTC quản lý đất đai, đề án đổi mới cơ chế, chính sách quản lý tài
chính đối với tài sản kết cấu hạ tầng, đề án hoàn thiện cơ chế quản lý tài sản khu vực hành
chính sự nghiệp của nhà nước, đề án thành lập cơ quan mua sắm và bán đấu giá tài sản
311
công khu vực hành chính sự nghiệp của nhà nước, đề án tăng cường năng lực và nâng cao
năng lực quản lý tài sản công (Bộ Tài chính chủ trì tổ chức thực hiện).
4) Đề án huy động, phân phối và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư; bao gồm đề án
xây dựng chính sách huy động và đầu tư vốn (cả trong và ngoài nước) (Bộ Tài chính phối
hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức thực hiện).
5) Đề án triển khai Luật NSNN, bao gồm hoàn thiện công tác quản lý, xây dựng
chính sách, cơ chế quản lý NSNN; đề án đổi mới cơ cấu chi NSNN (Bộ Tài chính chủ trì tổ
chức thực hiện).
6) Đề án xây dựng cơ chế thí điểm Nhà nước xây dựng nhà cửa, cơ sở hạ tầng cho
các cơ sở ngoài công lập cho thuê dài hạn; khuyến khích về tài chính, về giao quyền sử
dụng đất…nhằm khuyến khích khu vực ngoài công lập phát triển (Bộ Tài chính chủ trì
thực hiện).
7) Đề án triển khai thực hiện Chiến lược phát triển thị trường Bảo hiểm giai đoạn
2003 - 2010 (Bộ Tài chính chủ trì tổ chức thực hiện).
8) Đề án xây dựng lộ trình tổng thể về phát triển và hoàn thiện TTTC đến 2010 (Bộ
Tài chính chủ trì và phối hợp với các bộ liên quan tổ chức thực hiện).
9) Đề án đổi mới quản lý nợ Chính phủ và quản lý nợ nước ngoài của quốc gia (Bộ
Tài chính chủ trì và phối hợp với các bộ liên quan tổ chức thực hiện).
10) Đề án đổi mới hoạt động hải quan theo Luật Hải quan (Bộ Tài chính chủ trì tổ
chức thực hiện).
11) Đề án hoàn thiện quản lý giá theo Pháp lệnh giá, bao gồm hoàn thiện cơ chế
quản lý giá, xóa bỏ cơ chế bảo hộ, bao cấp qua giá, xoá bỏ cơ chế hai giá, hình thành các
Sở giao dịch hàng hóa; nghiên cứu xây dựng khung pháp lý về chống bán phá giá và kiểm
soát giá độc quyền, kiểm soát chuyển giá nội bộ; tăng cường áp dụng phương thức đấu giá
(Bộ Tài chính chủ trì tổ chức thực hiện).
12) Đề án tăng cường và đổi mới công tác thanh tra tài chính (Bộ Tài chính chủ trì
tổ chức thực hiện).
13) Đề án xây dựng tiêu chuẩn, định mức trang bị cho các cơ quan hành chính nhà
nước và công chức hành chính (Bộ Tài chính chủ trì tổ chức thực hiện).
14) Đề án cải cách hành chính và nâng cao năng lực quản lý nền tài chính quốc gia,
đề án đổi mới công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ
công chức ngành Tài chính (Bộ Tài chính chủ trì tổ chức thực hiện).
15) Đề án thực hiện Quyết định của Chính phủ về kế hoạch phát triển, ứng dụng tin
học và hiện đại hoá công nghệ quản lý tài chính, ngân sách (Bộ Tài chính chủ trì tổ chức
thực hiện).
Điều 2. Tổ chức thực hiện
1. Giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với NHNN Việt Nam, Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, các Bộ, ngành có liên quan và Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương tổ chức triển khai thực hiện Định hướng phát triển tài chính Việt Nam đến năm 2010.
2. Căn cứ nội dung của Định hướng phát triển tài chính quy định tại Quyết định
này, Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan và Uỷ ban Nhân dân
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch hoạt
động theo định kỳ hàng năm và 5 năm phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước trong cùng thời kỳ; hướng dẫn, kiểm tra, giám sát và tổng hợp tình hình thực hiện
312
theo định kỳ hàng năm, báo cáo Thủ tướng Chính phủ; tổ chức sơ kết tình hình thực hiện
vào năm 2005 và tổng kết tình hình thực hiện vào năm 2010.
Điều 3. Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công
báo.
Điều 4. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc
Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu
trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
313
QUYẾT ĐỊNH CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Số 201/2004/QĐ-TTg ngày 6 tháng 12 năm 2004
PHÊ DUYỆT CHƯƠNG TRÌNH CẢI CÁCH HỆ THỐNG THUẾ
ĐẾN NĂM 2010
Điều 1. Phê duyệt chương trình cải cách hệ thống thuế đến năm 2010 với những
nội dung chủ yếu sau đây:
1. Mục tiêu tổng quát: xây dựng hệ thống chính sách thuế đồng bộ, có cơ cấu hợp lý
phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn với hiện đại hoá công
tác quản lý thuế nhằm đảm bảo chính sách động viên thu nhập quốc dân, đảm bảo nguồn lực
tài chính phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; góp phần thực hiện bình
đẳng, công bằng xã hội và chủ động trong hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Mục tiêu, yêu cầu cụ thể:
a) Chính sách thuế, phí và lệ phí (sau đây gọi chung là chính sách thuế) phải là
công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế, động viên được các
nguồn lực, thúc đẩy phát triển nhanh sản xuất; khuyến khích xuất khẩu, đầu tư, đổi mới
công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế; đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng cao, bền
vững, góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân.
b) Chính sách thuế phải huy động đầy đủ các nguồn thu vào NSNN, đảm bảo nhu
cầu chi tiêu thường xuyên của Nhà nước và dành một phần cho tích luỹ phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đảm bảo tỷ lệ động viên về thuế vào NSNN bình
quân hàng năm đạt từ 20% - 21% GDP.
c) Chính sách thuế phải thể hiện và tạo ra những nội dung cụ thể phù hợp với tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời bảo đảm được yêu cầu về bảo hộ có chọn lọc, có
thời hạn, có điều kiện một cách hợp lý, tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế, thúc đẩy sản
xuất phát triển, bảo đảm lợi ích quốc gia.
d) Chính sách thuế phải tạo môi trường pháp lý bình đẳng, công bằng. áp dụng hệ
thống thuế thống nhất không phân biệt giữa các thành phần kinh tế cũng như giữa các
doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
đ) Đẩy mạnh cải cách hệ thống thuế theo hướng đơn giản, minh bạch, công khai;
tách CSXH ra khỏi chính sách thuế.
e) Nhanh chóng hiện đại hoá và nâng cao năng lực của bộ máy quản lý thuế; khắc
phục các hiện tượng tiêu cực, yếu kém làm cho bộ máy quản lý thuế trong sạch, vững
mạnh.
3. Nội dung cải cách hệ thống chính sách thuế:
a) Ban hành mới các sắc thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế chống
phân biệt đối xử; thuế bảo vệ môi trường; thuế tài sản; thuế sử dụng đất.
Việc ban hành và thực hiện các sắc thuế mới trên đây phải chú ý đến đối tượng,
mức độ và thời điểm áp dụng cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước, đảm
bảo ổn định sản xuất, thị trường và đời sống nhân dân.
b) Sửa đổi, bổ sung đồng bộ các sắc thuế hiện hành; tăng dần tỷ trọng các nguồn
thu trong nước cho phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng diện thuế trực
thu và tăng tỷ trọng thuế trực thu trong tổng số thu về thuế.
314
c) Nội dung, lộ trình cải cách một số sắc thuế chủ yếu:
- Thuế GTGT: đến năm 2008 sẽ hoàn thiện theo hướng giảm bớt số lượng nhóm
hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế tạo điều kiện cho việc tính thuế, khấu trừ thuế được liên
hoàn giữa các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh; áp dụng một mức thuế suất để
đảm bảo công bằng về nghĩa vụ thuế và đơn giản trong việc tính thuế GTGT của hàng hoá,
dịch vụ; hoàn thiện phương pháp tính thuế, tiến tới xác định ngưỡng doanh thu chịu thuế
GTGT để thực hiện một phương pháp tính thuế khấu trừ, phù hợp với thông lệ quốc tế.
- Thuế TTĐB: đến năm 2008 sẽ hoàn thiện theo hướng mở rộng đối tượng chịu
thuế TTĐB, điều chỉnh thuế suất thuế TTĐB cho phù hợp với mục tiêu điều tiết thu nhập
và hướng dẫn tiêu dùng. Tiến tới xoá bỏ miễn, giảm thuế TTĐB để đảm bảo công bằng,
bình đẳng về nghĩa vụ thuế và nguyên tắc không phân biệt đối xử giữa hàng hoá sản xuất
trong nước và nhập khẩu.
- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: trong năm 2005 sẽ trình Quốc hội hoàn thiện
Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu theo hướng khuyến khích tối đa xuất khẩu; sửa đổi
các quy định về thuế suất, giá tính thuế, thời hạn nộp thuế để thực hiện cam kết và thông lệ
quốc tế; sửa đổi quy trình, thủ tục thu nộp thuế cho phù hợp với Luật Hải quan, góp phần
tăng cường quản lý hoạt động xuất, nhập khẩu theo cam kết quốc tế.
- Thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế chống phân biệt đối xử dự kiến
sẽ trình Quốc hội ban hành vào cuối năm 2005.
- Thuế thu nhập doanh nghiệp: đến năm 2008 sẽ hoàn thiện theo hướng giảm mức
thuế suất, giảm diện miễn, giảm thuế; thống nhất mức thuế suất và ưu đãi thuế giữa các
thành phần kinh tế để khuyến khích đầu tư và đảm bảo bình đẳng trong cạnh tranh.
- Thuế thu nhập cá nhân: đến năm 2007 sẽ trình Quốc hội ban hành Luật Thuế thu
nhập cá nhân thay thế cho Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao hiện
hành theo hướng mở rộng đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế, thu hẹp sự khác biệt
giữa đối tượng nộp thuế là người Việt Nam và người nước ngoài.
- Thuế sử dụng đất, thuế tài nguyên: đến năm 2008 sẽ hoàn thiện theo hướng mở
rộng đối tượng chịu thuế và đối tượng nộp thuế.
- Thuế bảo vệ môi trường: đến năm 2008 sẽ trình Quốc hội ban hành Luật Thuế
bảo vệ môi trường theo hướng đối tượng chịu thuế là các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ gây ô
nhiễm môi trường; căn cứ tính thuế được xác định phù hợp với từng loại hàng hoá, dịch vụ
gây ô nhiễm môi trường. Nguồn thu từ thuế bảo vệ môi trường chỉ dành để dùng cho bảo
vệ môi trường, không dùng cho việc khác.
- Thuế tài sản: đến năm 2008 sẽ trình Quốc hội ban hành Luật Thuế tài sản theo
hướng mở rộng đối tượng tài sản chịu thuế để bảo đảm công bằng giữa các tổ chức, cá
nhân có quyền sở hữu, sử dụng tài sản.
- Về phí, lệ phí được sắp xếp lại theo hướng: tiếp tục rà soát, bãi bỏ hoặc sửa đổi
các loại phí, lệ phí không hợp lý, gây phiền hà cho sản xuất và đời sống. Các loại phí thu do
cung cấp dịch vụ công sẽ chuyển dần sang giá dịch vụ, các loại phí mang tính chất thuế
chuyển thành thuế. Thống nhất mức thu phí, lệ phí đối với tổ chức, cá nhân trong nước và
tổ chức, cá nhân nước ngoài để thực hiện công bằng xã hội.
4. Nội dung, lộ trình cải cách quản lý thuế: đẩy mạnh cải cách hành chính thuế,
nâng cao trình độ quản lý thuế của Việt Nam ngang tầm với các nước trong khu vực theo
hướng:
a) Hiện đại hoá toàn diện công tác quản lý thuế cả về phương pháp quản lý, thủ tục
hành chính, bộ máy tổ chức, đội ngũ cán bộ, áp dụng rộng rãi công nghệ thông tin để nâng
315
cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý, kiểm soát cho được tất cả các đối tượng chịu thuế,
đối tượng nộp thuế, hạn chế thất thu thuế ở mức thấp nhất, bảo đảm thu đúng, thu đủ và kịp
thời các khoản thu vào NSNN.
b) Đẩy mạnh cải cách hành chính trong công tác quản lý thu thuế nhằm nâng cao
quyền hạn, trách nhiệm và hiệu lực của bộ máy quản lý thuế. Năm 2006 sẽ trình Quốc hội
ban hành Luật Quản lý thuế nhằm quy định rõ nghĩa vụ, trách nhiệm của đối tượng nộp
thuế, cơ quan thuế và các tổ chức, cá nhân khác có liên quan; bổ sung quyền cưỡng chế
thuế, điều tra các vụ vi phạm về thuế cho cơ quan thuế. Từ năm 2007 áp dụng cơ chế tự
khai, tự nộp thuế trên phạm vi toàn quốc.
c) Thực hiện tuyên truyền, giáo dục về thuế bằng nhiều hình thức phong phú để
nâng cao ý thức tự giác tuân thủ pháp luật của đối tượng nộp thuế; khuyến khích và phát
triển mạnh mẽ các dịch vụ tư vấn, kế toán thuế; mở rộng diện nộp thuế theo phương pháp
kê khai. Từ năm 2005, áp dụng các hình thức dịch vụ hỗ trợ về thuế cho mọi đối tượng nộp
thuế trên toàn quốc.
d) Áp dụng công nghệ tin học hiện đại vào công tác quản lý thuế: giai đoạn 2005 -
2008 sẽ kết nối mạng giữa các cơ quan: Thuế, Hải quan, Kho bạc, doanh nghiệp và các cơ
quan liên quan; xây dựng chương trình ứng dụng hỗ trợ cho công tác thanh tra, kiểm tra
thuế; cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho đối tượng nộp thuế; xây dựng chương trình ứng dụng
quản lý thuế theo cơ chế đối tượng nộp thuế tự khai, tự nộp thuế; xây dựng chương trình
ứng dụng quản lý thuế thu nhập cá nhân.
Giai đoạn 2009 - 2010 củng cố các chương trình đã được thiết lập, mở rộng việc
kết nối thông tin với mọi tổ chức, cá nhân có liên quan phục vụ cho công tác quản lý thuế.
đ) Mở rộng ủy nhiệm thu đối với một số loại thu gắn với cơ quan, tổ chức chi trả
nguồn thu nhập để đảm bảo chống thất thu.
e) Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực điều hành, trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức của cán bộ thuế theo hướng chuyên sâu,
chuyên nghiệp.
g) Nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác thanh tra, kiểm tra thuế nhằm
ngăn ngừa, phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm pháp luật thuế.
5. Giải pháp thực hiện:
a) Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, thường xuyên của Đảng, Quốc hội,
Chính phủ, các Bộ, ngành và chính quyền địa phương các cấp trong tất cả các mặt của lĩnh
vực thuế và cải cách hệ thống thuế.
b) Các cơ quan thông tin đại chúng, hệ thống giáo dục quốc gia có trách nhiệm đẩy
mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về các chính sách thuế để mọi tổ chức, cá nhân hiểu
rõ và tự giác chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật thuế. Biểu dương các tổ chức, cá nhân thực
hiện tốt nghĩa vụ thuế, đồng thời phê phán mạnh mẽ các hiện tượng vi phạm pháp luật thuế.
c) Hoàn thiện, cải cách đồng bộ các cơ chế, chính sách quản lý về đất đai, thanh
toán không dùng tiền mặt, đăng ký kinh doanh, xuất, nhập khẩu, xuất, nhập cảnh, kế toán,
giá... để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý thuế và cải cách hệ thống thuế.
d) Tăng cường trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc phối hợp với cơ
quan thuế như: cung cấp thông tin, điều tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo và
các biện pháp hành chính khác để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của pháp luật thuế.
đ) Khuyến khích, đẩy mạnh các hoạt động tư vấn, cung cấp dịch vụ về thuế, kế
toán, kiểm toán, đại lý thuế nhằm giúp cho tổ chức, cá nhân nộp thuế hiểu rõ các quy định
316
của pháp luật về thuế, làm tốt công tác kế toán, thực hiện đúng nghĩa vụ và trách nhiệm của
mình.
e) Kiện toàn bộ máy ngành thuế theo hướng quản lý theo chức năng, tăng cường
trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan thuế các cấp.
g) Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ thuế theo
hướng chuyên nghiệp, chuyên sâu, đáp ứng yêu cầu quản lý thuế tiên tiến, hiện đại.
h) Các chính sách về thuế được quy định và chỉ có giá trị pháp lý trong các văn bản
pháp luật về thuế.
Điều 2. Giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương triển
khai thực hiện chương trình cải cách hệ thống thuế đến năm 2010 nêu tại Quyết định này.
Điều 3. Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công
báo.
Điều 4. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc
Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách
nhiệm thi hành Quyết định này.
317
QUYẾT ĐỊNH CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Số 163/2003/QĐ-TTg ngày 5 tháng 8 năm 2003
PHÊ DUYỆT CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2010
Điều 1. Phê duyệt Chiến lược phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2010 với những
nội dung chủ yếu sau:
A. Mục tiêu
Phát triển TTCK cả về quy mô và chất lượng hoạt động nhằm tạo ra kênh huy động
vốn trung và dài hạn cho ĐTPT, góp phần phát triển TTTC Việt Nam; duy trì trật tự, an
toàn, mở rộng phạm vi, tăng cường hiệu quả quản lý, giám sát thị trường nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người đầu tư; từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh và
chủ động hội nhập TTTC quốc tế.
B. Quan điểm và nguyên tắc phát triển TTCK.
1. Phát triển TTCK phù hợp với điều kiện thực tế và định hướng phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước, với các tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế, từng bước hội nhập với TTTC
khu vực và thế giới.
2. Xây dựng TTCK thống nhất trong cả nước, hoạt động an toàn, hiệu quả góp
phần huy động vốn cho ĐTPT và thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà
nước.
3. Nhà nước thực hiện quản lý bằng pháp luật, tạo điều kiện để TTCK hoạt động và
phát triển; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp và có chính sách khuyến khích các chủ thể
tham gia TTCK.
4. Bảo đảm tính thống nhất của TTTC trong phạm vi quốc gia, gắn việc phát triển
TTCK với việc phát triển thị trường vốn, thị trường tiền tệ, thị trường bảo hiểm.
C. Định hướng phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2010
1. Mở rộng qui mô của TTCK tập trung, phấn đấu đưa tổng giá trị thị trường đến
năm 2005 đạt mức 2 - 3% GDP và đến năm 2010 đạt mức 10 - 15% GDP.
a) Tập trung phát triển TTTP, trước hết là TPCP để huy động vốn cho NSNN và
cho ĐTPT.
b) Tăng số lượng các loại cổ phiếu niêm yết trên TTCK tập trung nhằm tăng qui
mô về vốn cho các doanh nghiệp và nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các công
ty niêm yết.
2. Xây dựng và phát triển các Trung tâm Giao dịch chứng khoán, Sở Giao dịch
chứng khoán, Trung tâm Lưu ký chứng khoán nhằm cung cấp các dịch vụ giao dịch, đăng
ký, lưu ký và thanh toán chứng khoán theo hướng hiện đại hoá.
a) Xây dựng Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh thành Sở
giao dịch chứng khoán với hệ thống giao dịch, hệ thống giám sát và công bố thông tin thị
trường tự động hoá hoàn toàn.
b) Xây dựng thị trường giao dịch cổ phiếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Hà
Nội; chuẩn bị điều kiện để sau năm 2010 chuyển thành thị trường Giao dịch Chứng khoán
phi tập trung (OTC).
318
c) Thành lập Trung tâm Lưu ký độc lập cung cấp các dịch vụ đăng ký chứng
khoán, lưu ký và thanh toán cho hoạt động giao dịch chứng khoán của Sở giao dịch Chứng
khoán và Trung tâm Giao dịch Chứng khoán; mở rộng phạm vi lưu ký các loại chứng
khoán chưa niêm yết.
3. Phát triển các định chế tài chính trung gian cho TTCK Việt Nam.
a) Tăng quy mô và phạm vi hoạt động nghiệp vụ kinh doanh, dịch vụ của các công
ty chứng khoán. Phát triển các công ty chứng khoán theo hai loại hình: Công ty Chứng
khoán đa nghiệp vụ và công ty chứng khoán chuyên doanh, nhằm tăng chất lượng cung cấp
dịch vụ và khả năng chuyên môn hoá hoạt động nghiệp vụ.
b) Khuyến khích và tạo điều kiện để các tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế có
đủ điều kiện thành lập các công ty chứng khoán, khuyến khích các công ty chứng khoán
thành lập các chi nhánh, phòng giao dịch, đại lý nhận lệnh ở các tỉnh, thành phố lớn, các
khu vực đông dân cư trong cả nước.
c) Phát triển các công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán cả về quy mô và chất
lượng hoạt động. Đa dạng hoá các loại hình sở hữu đối với công ty quản lý quỹ đầu tư.
Khuyến khích các công ty chứng khoán thực hiện nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư.
d) Thành lập một số công ty định mức tín nhiệm để đánh giá, xếp loại rủi ro các
loại chứng khoán niêm yết và định mức tín nhiệm của các doanh nghiệp Việt Nam.
4. Phát triển các nhà đầu tư có tổ chức và các nhà đầu tư cá nhân
a) Thiết lập hệ thống các nhà đầu tư có tổ chức bao gồm các ngân hàng thương
mại, các công ty chứng khoán, các công ty tài chính, công ty bảo hiểm, các quỹ bảo hiểm,
quỹ đầu tư..., tạo điều kiện cho các tổ chức này tham gia thị trường với vai trò là các nhà
đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và thực hiện chức năng của nhà tạo lập thị trường.
b) Mở rộng và phát triển các loại hình quỹ đầu tư chứng khoán; tạo điều kiện cho
các nhà đầu tư nhỏ, các nhà đầu tư cá nhân tham gia vào TTCK thông qua góp vốn vào các
quỹ đầu tư.
D. Các giải pháp thực hiện:
1. Hoàn thiện khung pháp lý cho TTCK
Ban hành đồng bộ hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động TTCK theo
hướng bao quát, toàn diện và phù hợp với thực tiễn thị trường. Xây dựng Luật chứng khoán
trình Quốc hội thông qua vào năm 2005.
2. Tăng cung chứng khoán cho thị trường về số lượng, chất lượng và chủng loại.
a) Cải tiến phương thức phát hành TPCP, tăng cường phát hành theo phương thức
đấu thầu và bảo lãnh phát hành TPCP; đa dạng hoá các kỳ hạn TPCP để tạo đường cong lãi
suất chuẩn cho thị trường vốn; xây dựng và thực hiện kế hoạch phát hành theo lịch biểu,
nhằm cung cấp đều đặn khối lượng trái phiếu cho TTCK.
b) Gắn tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước với việc phát hành cổ phiếu
ra công chúng và niêm yết trên TTCK.
c) Lựa chọn các doanh nghiệp lớn, các NHTMCP có đủ điều kiện để phát hành
thêm cổ phiếu và tham gia niêm yết trên TTCK tập trung.
d) Mở rộng việc chuyển các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành công ty
cổ phần và có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tham gia niêm yết cổ phiếu trên
thị trường tập trung.
319
đ) Khuyến khích và tạo điều kiện để đưa các loại trái phiếu công trình, trái phiếu đô
thị lên niêm yết, giao dịch trên TTCK tập trung.
e) Phát triển các loại chứng khoán khác như: quyền mua cổ phiếu, trái phiếu công
ty, trái phiếu chuyển đổi của doanh nghiệp, chứng chỉ quỹ đầu tư để đưa vào niêm yết và
giao dịch trên TTCK.
g) Giám sát và hỗ trợ các công ty niêm yết trong việc thực hiện thông lệ tốt nhất về
quản trị công ty; thực hiện chế độ kế toán, kiểm toán theo quy định của pháp luật. Tăng
cường quản lý, giám sát các công ty niêm yết trong việc thực hiện nghĩa vụ công bố thông
tin và các nghĩa vụ đối với nhà đầu tư.
3. Thực hiện các chính sách khuyến khích các tổ chức và cá nhân tham gia TTCK.
a) Thực hiện chính sách khuyến khích về thuế, đối với nhà đầu tư.
b) Khuyến khích và tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng, các tổ chức và cá nhân
nước ngoài tham gia TTCK.
c) Mở rộng giới hạn đầu tư cổ phiếu đối với các nhà đầu tư nước ngoài trên TTCK
Việt Nam; cho phép các tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài góp vốn, mua cổ
phần hoặc thành lập Công ty Chứng khoán liên doanh với các pháp nhân trong nước; cho
phép các quỹ đầu tư chứng khoán nước ngoài tham gia TTCK Việt Nam.
4. Nâng cao chất lượng hoạt động của các Trung tâm Giao dịch Chứng khoán, Sở
Giao dịch Chứng khoán và Trung tâm Lưu ký chứng khoán.
a) Đưa hệ thống giao dịch tự động hiện đại tại Trung tâm Giao dịch chứng khoán
Thành phố Hồ Chí Minh vào vận hành. Kết nối mạng diện rộng giữa hệ thống giao dịch
của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán với các công ty chứng khoán thành viên. Xây dựng
hệ thống giám sát tự động kết nối với các hệ thống giao dịch, công bố thông tin, lưu ký,
thanh toán.
b) Đảm bảo có một hệ thống công bố thông tin có thể truyền phát rộng và truy cập
dễ dàng cho các đối tượng tham gia thị trường, đặc biệt là các nhà đầu tư. Mở rộng phạm vi
thông tin cần công bố trên cơ sở xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin đầy đủ.
c) Tự động hoá hệ thống lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán. Thực hiện dịch
vụ lưu ký cho các chứng khoán chưa niêm yết. Giảm thời gian thanh toán giao dịch chứng
khoán nhằm nâng cao tính thanh khoản cho thị trường. Thực hiện nối mạng giữa các thành
viên lưu ký và Trung tâm Giao dịch Chứng khoán để cung cấp chính xác, kịp thời những
thông tin về người sở hữu chứng khoán.
5. Nâng cao chất lượng hoạt động của TTCK
a) Áp dụng biện pháp cưỡng chế thực thi quy định về quản trị công ty theo thông lệ
quốc tế đối với các công ty niêm yết, các công ty chứng khoán, các công ty quản lý quỹ đầu
tư và chế độ công bố thông tin theo luật định.
b) Tăng số lượng và nâng cao chất lượng nhân viên thực hiện nghiệp vụ kinh
doanh chứng khoán; các công ty chứng khoán phải thực thi quy tắc đạo đức nghề nghiệp.
c) Mở rộng mạng lưới cung cấp dịch vụ Lưu ký chứng khoán trong phạm vi cả
nước; chú trọng cấp phép hoạt động Lưu ký chứng khoán cho các ngân hàng thương mại
đủ điều kiện.
d) Nâng cao chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính của tổ chức phát hành, niêm
yết và kinh doanh chứng khoán.
6. Nâng cao năng lực quản lý nhà nước đối với TTCK.
320
a) Tăng cường năng lực quản lý nhà nước đảm bảo sự quản lý linh hoạt, nhạy bén
đối với TTCK. Nhà nước thực hiện điều chỉnh, điều tiết thị trường thông qua các chính
sách, công cụ kinh tế tài chính, tiền tệ như chính sách thuế, lãi suất, đầu tư và các công cụ
tài chính khác.
b) Phối hợp chặt chẽ giữa Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và các cơ quan hữu
quan trong việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu của công tác quản lý TTCK.
c) Xây dựng và áp dụng các tiêu chí giám sát hoạt động của TTCK; phát triển kỹ
năng giám sát thích hợp để phát hiện được các giao dịch bất thường; nâng cao kỹ năng điều
tra chuyên sâu các giao dịch nội gián, thao túng giá cả.
d) Phối hợp giữa công tác giám sát và công tác thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ
pháp luật của các thành viên thị trường và áp dụng nghiêm các chế tài dân sự, hình sự đối
với các hành vi vi phạm pháp luật về chứng khoán và TTCK.
7. Đẩy mạnh hoạt động và tăng cường vai trò của Hiệp hội ngành chứng khoán
trong việc hỗ trợ cơ quan quản lý nhà nước trên các phương diện: xây dựng khuôn khổ
pháp lý, đào tạo nhân lực, giám sát sự tuân thủ quy định pháp luật của các thành viên tham
gia thị trường và phát triển TTCK.
8. Tăng cường hợp tác quốc tế
Hợp tác quốc tế trên các mặt tư vấn xây dựng chính sách phát triển và quản lý thị
trường; xây dựng khuôn khổ pháp luật cho TTCK; đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức quản
lý; từng bước mở cửa và hội nhập với các TTCK thế giới theo lộ trình đã cam kết.
9. Tăng cường công tác đào tạo, nghiên cứu và thông tin tuyên truyền
a) Xây dựng và phát triển Trung tâm Nghiên cứu và Bồi dưỡng nghiệp vụ chứng
khoán và TTCK thành đơn vị có đủ điều kiện và khả năng nghiên cứu về TTCK; đào tạo,
bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý TTCK, hợp tác với các trường đại học, các cơ sở nghiên cứu
trong và ngoài nước trong hoạt động nghiên cứu, đào tạo cơ bản và nâng cao kiến thức về
thị trường vốn.
b) Đa dạng hoá hình thức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ nhằm đáp ứng nhu cầu của
các đối tượng và thông tin tuyên truyền, phổ biến kiến thức về TTCK cho công chúng.
10. Kinh phí và cơ sở vật chất kỹ thuật cho TTCK
Nhà nước đảm bảo cơ sở vật chất, kỹ thuật và chi phí hoạt động cho các Trung tâm
Giao dịch Chứng khoán, Sở Giao dịch Chứng khoán, Trung tâm Lưu ký. Đồng thời
khuyến khích huy động các nguồn lực trong nước, nguồn tài trợ của nước ngoài, nguồn của
các tổ chức cá nhân tham gia thị trường để phát triển các tổ chức cung cấp dịch vụ hỗ trợ
hoạt động phát hành và giao dịch chứng khoán.
Điều 2. Tổ chức thực hiện
1. Căn cứ vào mục tiêu, nội dung cơ bản và định hướng phát triển TTCK Việt
Nam, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức
triển khai thực hiện Quyết định này.
2 . Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách
nhiệm phối hợp với Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước trong việc thực hiện Quyết định này;
đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ phục vụ việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội của ngành và địa phương.
321
Điều 3. Quyết định này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Điều 4. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc
Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Thủ
trưởng các cơ quan có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
322
QUYẾT ĐỊNH CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Số 175/2003/QĐ-TTg ngày 29 tháng 8 năm 2003
PHÊ DUYỆT CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG BẢO
HIỂM VIỆT NAM TỪ NĂM 2003 ĐẾN NĂM 2010
Điều 1. Phê duyệt "Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam từ năm
2003 đến năm 2010" với những nội dung chủ yếu sau đây :
1. Mục tiêu
Phát triển thị trường bảo hiểm toàn diện, an toàn và lành mạnh nhằm đáp ứng nhu
cầu bảo hiểm cơ bản của nền kinh tế và dân cư; bảo đảm cho các tổ chức, cá nhân được thụ
hưởng những sản phẩm bảo hiểm đạt tiêu chuẩn quốc tế; thu hút các nguồn lực trong nước
và nước ngoài cho ĐTPT kinh tế - xã hội; nâng cao năng lực tài chính, kinh doanh của các
doanh nghiệp hoạt động kinh doanh bảo hiểm, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh và hội nhập
quốc tế.
Nhà nước quản lý, giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm theo pháp luật Việt
Nam và phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế.
2. Một số chỉ tiêu chủ yếu
a) Tổng doanh thu phí bảo hiểm tăng bình quân khoảng 24%/năm; trong đó, bảo
hiểm phi nhân thọ tăng khoảng 16,5%/năm và bảo hiểm nhân thọ tăng khoảng 28%/năm.
Tỷ trọng doanh thu phí của toàn ngành bảo hiểm so với GDP là 2,5% năm 2005 và 4,2%
năm 2010.
Đến năm 2010, tổng dự phòng nghiệp vụ của các doanh nghiệp bảo hiểm tăng
khoảng 12 lần; tổng vốn đầu tư trở lại nền kinh tế tăng khoảng 14 lần so với năm 2002.
b) Tạo công ăn việc làm cho khoảng 150.000 người vào năm 2010. Nộp NSNN
giai đoạn 2003 - 2010 tăng bình quân 20%/năm.
3. Những giải pháp chủ yếu
a) Về cơ chế chính sách
- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về hoạt động kinh doanh bảo hiểm để thị
trường phát triển lành mạnh, an toàn, phù hợp với yêu cầu hội nhập; bảo đảm tính chủ động
và tự chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm.
- Nhà nước có chính sách khuyến khích người dân tham gia bảo hiểm nhân thọ, ưu
tiên phát triển các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ có tính chất đầu tư dài hạn; khuyến khích
các doanh nghiệp bảo hiểm nghiên cứu triển khai các sản phẩm bảo hiểm nông, lâm, ngư
nghiệp; chú trọng mở rộng phạm vi hoạt động đến các vùng sâu, vùng xa.
- Phát triển mạng lưới đại lý bảo hiểm chuyên nghiệp, doanh nghiệp môi giới bảo
hiểm và các kênh phân phối khác. Đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp môi giới bảo
hiểm, Nhà nước không trực tiếp đầu tư thêm vốn vào lĩnh vực môi giới bảo hiểm.
- Doanh nghiệp bảo hiểm được thành lập quỹ đầu tư, quỹ tín thác và công ty quản
lý quỹ theo qui định của pháp luật. Các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài
sử dụng phí bảo hiểm thu được để đầu tư tại Việt Nam được áp dụng các cơ chế, chính
sách về đầu tư như các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước.
323
- Nhà nước có cơ chế, chính sách để các doanh nghiệp bảo hiểm tự bổ sung vốn
điều lệ cho phù hợp với tính chất hoạt động và quy mô kinh doanh của doanh nghiệp.
- Khuyến khích các doanh nghiệp bảo hiểm hiện đại hoá công nghệ quản lý kinh
doanh, đào tạo đội ngũ cán bộ có đủ trình độ theo các chuẩn mực quốc tế, được thuê
chuyên gia trong nước và ngoài nước để quản lý một số lĩnh vực hoạt động theo đúng quy
định của pháp luật.
b) Về tổ chức hoạt động của các doanh nghiệp
- Sắp xếp các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước hiện có, bảo đảm nâng cao năng
lực kinh doanh, phát triển các sản phẩm bảo hiểm, mở rộng thị phần, thị trường. Các thành
phần kinh tế không thuộc kinh tế nhà nước có đủ các điều kiện theo quy định của Luật
Kinh doanh bảo hiểm, được thành lập công ty cổ phần bảo hiểm.
Các doanh nghiệp nhà nước không được sử dụng vốn nhà nước để thành lập doanh
nghiệp bảo hiểm mới và góp vốn thành lập công ty cổ phần bảo hiểm mang tính chuyên
ngành.
- Cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mở rộng nội dung, phạm vi
hoạt động, tăng vốn điều lệ, nếu đủ điều kiện theo quy định của pháp luật.
- Việc cấp phép thành lập cho các công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài hoạt
động tại Việt Nam phải phù hợp với quy mô, yêu cầu phát triển của thị trường, lộ trình hội
nhập và các cam kết quốc tế. Chú trọng đến các công ty bảo hiểm thuộc các nước có quan
hệ thương mại và đầu tư với Việt Nam, các công ty có năng lực tài chính, trình độ công
nghệ, kinh nghiệm hoạt động bảo hiểm và có đóng góp vào sự phát triển thị trường bảo
hiểm Việt Nam.
- Khuyến khích các doanh nghiệp trong nước mở rộng phạm vi hoạt động kinh
doanh, kể cả ở thị trường bảo hiểm quốc tế và khu vực, tham gia góp vốn vào các công ty
bảo hiểm, môi giới bảo hiểm, tái bảo hiểm đang hoạt động thành công ở nước ngoài và
thành lập các công ty con kinh doanh bảo hiểm ở nước ngoài.
c) Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước
- Đổi mới phương thức và nâng cao năng lực quản lý nhà nước đối với hoạt động
kinh doanh bảo hiểm, tiến dần tới thực hiện các nguyên tắc và chuẩn mực quản lý bảo hiểm
quốc tế. Nhà nước giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm thông qua hệ thống các chỉ tiêu
về hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm và kiểm tra, xử lý vi phạm theo pháp luật,
không can thiệp hành chính vào hoạt động của các doanh nghiệp.
- Kiện toàn bộ máy tổ chức của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam để Hiệp hội thực hiện
được vai trò cầu nối giữa doanh nghiệp bảo hiểm và các cơ quan quản lý nhà nước.
Điều 2. Tổ chức thực hiện
1. Giao Bộ trưởng Bộ Tài chính chịu trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức thực hiện Chiến
lược phát triển thị trường bảo hiểm từ năm 2003 đến năm 2010 đã được phê duyệt.
2. Các Bộ liên quan có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tài chính thực hiện các
phương án sắp xếp lại những doanh nghiệp bảo hiểm trực thuộc theo các quy định pháp
luật hiện hành và Chiến lược đã được phê duyệt.
Điều 3. Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công
báo.
Điều 4. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc
Chính phủ, Chủ tịch ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách
nhiệm thi hành Quyết định này./.
324
QUYẾT ĐỊNH CỦA THỦ TƯỞNG CHÍNH PHỦ
Số 112/2006/QĐ-TTg ngày 24/5/2006
PHÊ DUYỆT ĐỀ ÁN PHÁT TRIỂN NGÀNH NGÂN HÀNG
GIAI ĐOẠN 2006 - 2010
1. Mục tiêu, định hướng phát triển NHNN đến năm 2010
Mục tiêu phát triển NHNN đến năm 2010
Đổi mới tổ chức và hoạt động của NHNN để hình thành bộ máy tổ chức tinh
gọn, chuyên nghiệp, có đủ nguồn lực, năng lực xây dựng và thực thi CSTT theo
nguyên tắc thị trường dựa trên cơ sở công nghệ tiên tiến, thực hiện các thông lệ,
chuẩn mực quốc tế về hoạt động NHTW, hội nhập với cộng đồng tài chính quốc tế,
thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ và hoạt động
ngân hàng, tạo nền tảng đến sau năm 2010 phát triển NHNN trở thành NHTW hiện
đại, đạt trình độ tiên tiến của các NHTW trong khu vực Châu á.
Xây dựng và thực thi có hiệu quả CSTT nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiểm
soát lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng kinh tế và thực hiện thắng
lợi công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
1.1 Nâng cao vị thế của Ngân hàng nhà nước Việt Nam
Vị thế của NHNN Việt Nam được thể hiện thông qua các nhiệm vụ và hoạt
động chức năng của NHNN Việt Nam. Ngân hàng nhà nước thực hiện các chức năng
NHTW và chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
Nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước chủ yếu nhằm mục tiêu ổn định giá trị
đồng tiền, kiểm soát lạm phát, bảo đảm an toàn hệ thống tiền tệ, ngân hàng, góp phần
tạo môi trường vĩ mô thuận lợi cho tăng trưởng và phát triển bền vững kinh tế – xã
hội.
1.2 .Đổi mới cơ cấu tổ chức bộ máy của NHNN Việt Nam
Đổi mới cơ cấu tổ chức của NHNN từ trung ương đến chi nhánh theo hướng
tinh gọn và hiện đại :
- Sắp xếp lại các Vụ, Cục ở NHTW theo hướng tập trung quản lý, điều hành
trên cơ sở xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và quan hệ phối hợp giữa các Vụ, Cục tại
trụ sở chính.
- Cơ cấu lại các chi nhánh NHNN theo hướng tập trung và không áp dụng một
cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ đồng nhất đối với tất cả các chi nhánh NHNN.
- Sắp xếp lại tất cả các doanh nghiệp trực thuộc NHNN và chỉ giữ lại Nhà
máy in tiền Quốc gia
1.3 Đổi mới điều hành chính sách tiền tệ.
Mục tiêu của CSTT: ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát, bảo đảm an
toàn hệ thống Ngân hàng và góp phần tạo môi trường thuận lợi cho tăng trưởng kinh
tế bền vững.
- Xây dựng và thực thi CSTT theo nguyên tắc thị trường.
325
- Tăng cường sự phối hợp đồng bộ giữa các công cụ của CSTT và giữa việc
điều hành CSTT với các chính sách kinh tế vĩ mô khác, đặc biệt là với Chính sách tài
khoá.
1.4 Đổi mới chính sách quản lý ngoại hối
- Thực hiện tự do hoá các giao dịch vãng lai và từng bước nới lỏng các giới
hạn trong các giao dịch vốn một cách thận trọng, phù hợp với lộ trình mở cửa thị
trường tài chính của Việt Nam.
1.5 Phát triển hệ thống giám sát ngân hàng
Xây dựng hệ thống giám sát ngân hàng hiện đại nhằm đáp ứng yêu cầu thực
tiễn phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam và thực hiện các nguyên tắc, chuẩn mực
quốc tế về giám sát Ngân hàng.
a. Hoàn thiện các điều kiện tiên quyết cho một hệ thống giám sát có hiệu quả:
+ Đổi mới mô hình tổ chức, hoạt động của Thanh tra NHNN theo hướng nâng
cao tính độc lập, thống nhất về hoạt động nghiệp vụ và chỉ đạo điều hành.
+ Hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về giám sát ngân hàng và hoàn thiện hạ
tầng cơ sở kỹ thuật phục vụ hoạt động giám sát ngân hàng.
+ Hiện đại hoá và sử dụng có hiệu quả công nghệ thông tin trong công tác
thanh tra – giám sát ngân hàng.
+ Đổi mới hoạt động cấp giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng, đơn
giản hoá thủ tục cấp phép.
b. Đổi mới và nâng cao hiệu quả phương pháp giám sát ngân hàng
+ Nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiệp vụ giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ
trên cơ sở sử dụng kết quả và hoạt động kiểm toán nội bộ và kiểm toán độc lập làm
công cụ hỗ trợ.
+ Hoàn thiện môi trường pháp lý trong hoạt động thanh tra – giám sát phù hợp
với thông lệ quốc tế về giám sát ngân hàng.
+ Chỉnh sửa phù hợp các qui định chính sách về bảo hiểm tiền gửi để buộc các
tổ chức tài chính tín dụng có huy động tiền gửi theo qui định cảu Luật Các Tổ chức
tín dụng đều phải tham gia bảo hiểm. Nâng cao vai trò, năng lực tài chính của Bảo
hiểm tiền gửi trong giám sát, hỗ trợ, xử lý các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi
gặp khó khăn, đảm bảo an toàn hệ thống.
+ Tăng cường vai trò và năng lực hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng
nhằm hỗ trợ hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng và hoạt động giám sát của
NHNN
1.6 Đổi mới quản lý và phát triển nhân lực
NHNN tập trung xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ có đầy đủ năng lực và
phẩm chất nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình phát triển
2. Mục tiêu, định hướng phát triển các TCTD đến năm 2010
Cải cách căn bản, triệt để và phát triển toàn diện hệ thống các TCTD theo
hướng hiện đại, hoạt động đa năng để đạt trình độ phát triển trung bình tiên tiến trong
khu vực ASEAN, đồng thời tạo nền tảng đến sau năm 2010 xây dựng được hệ thống
các TCTD hiện đại, đạt trình độ tiên tiến trong khu vực Châu á.
326
Tách bạch tín dụng chính sách và tín dụng thương mại trên cơ sở phân biệt
chức năng cho vay của ngân hàng chính sách với chức năng kinh doanh tiền tệ của
NHTM. Bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của TCTD trong kinh doanh. Bảo
đảm quyền kinh doanh của các ngân hàng và các tổ chức tài chính nước ngoài theo
các cam kết của Việt Nam với quốc tế. Gắn cải cách ngân hàng với cải cách doanh
nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước. Tiếp tục củng cố, lành mạnh hoá và phát
triển các ngân hàng cổ phần; ngăn ngừa và xử lý kịp thời, không để xảy ra đổ vỡ ngân
hàng ngoài sự kiểm soát của NHNN đối với các TCTD yếu kém. Đưa hoạt động của
quỹ tín dụng nhân dân đi đúng hướng và phát triển vững chắc, an toàn, hiệu quả.
2.1. Phát triển các ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN) và ngân
hàng thương mại cổ phần (NHTMCP)
Cơ cấu lại toàn diện các NHTM theo Đề án cơ cấu lại các NHTMNN và Đề
án củng cố, chấn chỉnh các NHTMCP, cụ thể :
Tăng cường năng lực thể chế ( cơ cấu lại tổ chức và hoạt động )
- Sắp xếp lại tổ chức bộ máy của các NHTM từ trung ương đến chi nhánh theo
hướng nâng cao hiệu quả kinh tế và phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và
thông lệ quốc tế
- Mở rộng quan hệ đại lý, hợp tác kinh doanh, phát triển sản phẩm, ứng dụng
và chuyển giao công nghệ với các tổ chức tài chính nước ngoài. Xúc tiến hiện diện
thương mại (chi nhánh, liên doanh, văn phòng đại diện và hình thức pháp nhân khác)
của các NHTM Việt Nam tại các thị trường tài chính khu vực và quốc tế.
- Mở rộng qui mô hoạt động đi đôi với tăng cường năng lực tự kiểm tra, quản
lý rủi ro, bảo đảm an toàn và hiệu quả kinh doanh. Phát triển các hệ thống quản lý của
NHTM phù hợp với các chuẩn mực, thông lệ quốc tế và điều kiện Việt Nam
Tăng cường năng lực tài chính ( cơ cấu lại tài chính )
- Tăng qui mô vốn điều lệ, tài sản có đi đôi với nâng cao chất lượng và khả
năng sinh lời của tài sản có; giảm tỷ trọng tài sản có rủi ro trong tổng tài sản có. Xử lý
dứt điểm nợ tồn đọng và làm sạch bảng cân đối của các NHTMNN.
- Tăng vốn tự có của các NHTM từ nguồn lợi nhuận để lại; phát hành cổ
phiếu, trái phiếu; sáp nhập; hợp nhất; mua lại. Xử lý các NHTMCP yếu kém và có
khả năng gây rủi ro lớn cho hệ thống ngân hàng, bao gồm cả các biện pháp giải thể,
phá sản. Bảo đảm duy trì mức vốn tự có của các NHTM phù hợp với qui mô tài sản
có trên cơ sở thực hiện tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% trong trung hạn và 10% trong
dài hạn;
- Từng bước cổ phần hóa các NHTMNN theo nguyên tắc thận trọng, bảo đảm
ổn định kinh tế - xã hội và an toàn hệ thống ngân hàng. Cho phép các nhà đầu tư nước
ngoài mua cổ phiếu, tham gia quản trị, điều hành NHTM Việt Nam.
- Đổi mới căn bản cơ chế quản lý đối với các NHTMNN và các TCTD khác:
các TCTD được tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động kinh doanh trong khuôn
khổ pháp lý minh bạch, công khai, bình đẳng.
2.2. Phát triển các quĩ tín dụng nhân dân
Phát triển QTDND thực sự trở thành TCTD hợp tác độc lập, dựa trên nguyên
tắc tự nguyện, tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với kết quả hoạt động và nhằm mục
đích chủ yếu là tương trợ giữa các thành viên. Phạm vi hoạt động chủ yếu của
QTDND là huy động vốn và cho vay các thành viên ở khu vực nông thôn nhằm huy
327
động các nguồn lực tại chỗ để góp phần phát triển kinh tế, xoá đói, giảm nghèo và
đẩy lùi cho vay nặng lãi.
2.3. Phát triển các TCTD nước ngoài hoạt động tại Việt Nam
Tuân thủ các quy định và các cam kết quốc tế về mở cửa thị trường dịch vụ tài
chính - ngân hàng. Tiếp tục chủ động nới lỏng các hạn chế về tiếp cận thị trường và
hoạt động ngân hàng của các TCTD nước ngoài tại Việt Nam theo lộ trình đã cam
kết.
2.4. Phát triển dịch vụ ngân hàng
Phát triển hệ thống dịch vụ ngân hàng đa dạng đáp ứng các nhu cầu của nền
kinh tế trên cơ sở nâng cao chất lượng và hiệu quả các dịch vụ ngân hàng truyền
thống và phát triển các dịch vụ ngân hàng mới, hiện đại.
3. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng đến năm
2010.
Sau năm 2007, sẽ trình Quốc hội Luật Bảo hiểm tiền gửi, Luật giám sát hoạt
động ngân hàng
Trong năm 2008, sẽ trình Quốc hội Việt nam phê duyệt 2 Luật:
- Luật NHNN mới thay thế Luật NHNN ( năm 1997 ), Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật NHNN ( năm 2003 )
- Luật Các TCTD mới thay thế Luật các TCTD ( năm 1997), Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Các TCTD ( năm 2004)
Lụât NHNN mới và Luật Các TCTD mới hướng tới :
+ Hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý, áp dụng đày đủ hơn các thiết chế và
chuẩn mực quốc tế về an toàn kinh doanh tiền tệ – dịch vụ ngân hàng.
+ Tạo lập môi trường pháp lý minh bạch và công bằng trong lĩnh vực tiền tệ
ngân hàng nhằm thúc đảy cạnh tranh và bảo đảm an toàn hệ thống.
+ Điều chỉnh mọi hoạt động tiền tệ, ngân hàng không phân biệt đối tượng tiến
hành hoạt động ngân hàng.
+ Một số dự án, đề án về nâng cao năng lực tài chính của các NHTM (chủ yếu
là tăng vốn tự có, xử lý nợ xấu), Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt,
Hiện đại hoá hoạt động ngân hàng và hệ thống thanh toán giai đoạn II do WB tài trợ,
Đề án lộ trình nâng cao tính chuyển đổi của đồng Việt nam
328
CÁC TRÍCH DẪN
1 Larousse, Nxb Larousse, Paris, 1993.
2 Xem CSTT của NHTW Đức, xuất bản văn hoá và thông tin, năm 1994
3 Mối quan hệ giữa hệ số tạo tiền với hàm cầu dựa trên cơ sở lý thuyết về thuyết lượng cầu tài sản
4 J.Keynes Lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ. Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva. Năm 1978, tr.368
tiếng Nga. 5 Các nước khác xem trong “TTTC và thị trường vốn ở Châu Á”. Hà Nội 1992, tr. 28.
6 credit crunch là tình trạng các ngân hàng do lo sợ rủi ro tín dụng thắt chặt tín dụng ngay cả với những doanh
nghiệp lành mạnh.
7 Mức chi tiêu cho GD&ĐT tính trên GDP của Châu Á bình quân là 3,8%GDP; Trung Quốc - 2,2%GDP;
Nhật Bản - 3,5%GDP; Singapore - 3,7%GDP và Ấn Độ - 4,1%GDP.
8 Số liệu của Bộ Tài chính cho thấy chi giao thông chiếm 3,5% GDP năm 2002 trong khi số liệu của Bộ Giao
thông đưa ra chi tiêu cho ngành giao thông chiếm khoảng 5% GDP – chênh nhau khoảng 1,5% GDP. Sự
chênh lệch giữa con số thực chi của Bộ Tài chính và con số cam kết chi của Bộ Giao thông phản ánh mức nợ
chi ngoài cân đối ngân sách hàng năm trong lĩnh vực giao thông (Đánh giá chi tiêu công 2005).
9 Công cụ hạn mức tín dụng đã phát huy tác dụng góp phần kiểm soát mức độ gia tăng tổng phương tiện thanh
toán, kiềm chế lạm phát theo mục tiêu đề ra trong giai đoạn 1994-1997. Tuy nhiên, từ Quý II/1998, NHNN
không sử dụng hạn mức tín dụng như một công cụ thường xuyên trong điều hành CSTT.
10 Trước năm 1999, các doanh nghiệp khi vay vốn nước ngoài phải đáp ứng điều kiện lãi suất khoản vay ngắn
hạn <7,5%/năm, lãi suất vay trung hạn < LIBOR + 2,5%, năm 1997 qui định chặt chẽ đối với NH và DN về
hạn mức mở L/C, đến năm 2001 xoá bỏ hạn mức mở L/C.
11 Theo IMF trong “Việt Nam chuyển sang kinh tế thị trường”.
12 Trong năm 2004, để kiểm soát lạm phát, Thống đốc NHNN cam kết VND không mất giá so với USD không
quá 1%. Cam kết này có tác động tích cực để kiểm soát giá cả, nhưng cũng có tác động tiêu cực đến sự phát
triển của thị trường ngoại hối. 13 Tham khảo Đề tài Đô la hóa của Vũ Phương Liên, 2002.
14 Tạp chí Công nghệ Ngân hàng tháng 1-2/2006.
15 Theo đánh giá sơ bộ của Earns & Young (tháng 6/2006), có đến 19/25 nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân
hàng hữu hiệu của Uỷ ban Giám sát ngân hàng Basel phần lớn chưa tuân thủ.
16 Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư mới được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá XI. Hai
Luật này đã có hiệu lực từ 1/7/2006.
17 Theo dự báo năm 2004 của NHTG thì ngưỡng nước có thu nhập thấp năm 2010 có thể nâng lên khoảng 900
USD/người. Như vậy, nếu Việt Nam đạt kế hoạch tăng GDP 7,5 - 8%/năm thì đến 2009 mức GDP bình quân
đầu đầu người dự kiến đạt trên 900 USD, Việt Nam sẽ vượt ngưỡng nước có thu nhập trung bình thấp. Nếu
phấn đấu đạt tốc độ tăng GDP cao hơn 8%/năm thì mốc thời gian đạt được chỉ tiêu này còn sớm hơn.
18 Theo chuẩn mới, tỷ lệ hộ nghèo năm 2005 là 25-26%.
19 Xem quyết định số 663/QĐ-NHNN, ngày 26/6/2003 về kế hoach hội nhập kinh tề quốc tế ngành ngân hàng.
20 Cung, cầu ngoại tệ của nền kinh tế ở đây có nghĩa là của tất cả các khu vực khác trong nền kinh tế trừ hệ
thống ngân hàng.
21 Đến năm 2010, TTCK đạt qui mô vốn hoá tương đương 10-15% GDP và doanh thu phí bảo hiểm đạt 4,2%
GDP.