Lũ quét

38
Lũ quét, thiệt hại và các biện pháp phòng tránh Lũ quét xảy ra ở hầu khắp các nước trên thế giới, đặc biệt ở các lưu vực sông nằm trong vùng nhiệt đới chịu ảnh hưởng của khí hậu gió mùa và bão.Theo tài liệu điều tra khảo sát từ năm 1953 đến năm 2004 trên toàn quốc đã xảy ra ít nhất 317 trận lũ quét. Có thể thấy hầu như năm nào cũng xảy ra hàng chục trận lũ quét ở các vùng núi nước ta. Lũ quét xuất hiện ngày càng nhiều, những trận lũ quét dồn dập, có sức tàn phá lớn.Những trận lũ quét này đã gây thiệt hại nghiêm trọng đến tính mệnh, tài sản của nhân dân và Nhà nước 1.1 Đặt vấn đề Lũ quét xảy ra ở hầu khắp các nước trên thế giới, đặc biệt ở các lưu vực sông nằm trong vùng nhiệt đới chịu ảnh hưởng của khí hậu gió mùa và bão. Những nơi thường bị lũ quét nhất là ở miền nam nước Pháp, Bắc ý, áo vùng núi Cacpat. Các lưu vực sông quanh núi San-Gabriel thuộc bang California là nơi có nguy cơ lũ quét lớn nhất nước Mỹ. Lũ quét xảy ra ở sườn núi Andes, ở Mexico, Colombia, Ecuado, Peru, Chilê, ở các nước châu Phi, châu úc, các lưu vực miền núi thuộc bờ biển Thái Bình Dương, Đại Tây Dương và ấn Độ Dương. ở Châu á, lũ quét thường xảy ra ở khu vực nhiệt đới, cận nhịet đới như: ấn Độ, Trung Quốc, Pakístan, Thái Lan, Nepan, Inđônêsia, Philippines, Malaysia, Nhật Bản, Việt Nam... Lũ, lụt, thiên tai nói chung, lũ quét nói riêng ở các nước có khí hậu gió mùa và xoáy thuận nhiệt đới châu á ngày càng gia tăng cả về tần suất và cương độ. ở Việt Nam, trong những năm gần đây, hiện tượng lũ lớn, lũ bất ngờ, cường độ lên nhanh, biên độ lũ cao có sức tàn phá lớn thường xảy ra ở các lưu vực nhỏ và vừa ở miền núi được gọi là lũ quét. Theo tài liệu điều tra khảo sát từ năm 1953 đến năm 2004 trên toàn quốc đã xảy ra ít nhất 317 trận lũ quét. Có thể thấy hầu như năm nào cũng xảy ra hàng chục trận lũ quét ở các vùng núi nước ta. Lũ quét xuất hiện ngày càng nhiều, những trận lũ quét dồn dập, có sức tàn phá lớn. Đặc biệt trong 15 năm gần đây (1990-2005), đã xảy ra gần 300 trận lũ quét gây nên những tổn thất vô cùng to lớn về người và của, trong đó có 10 trận lũ đặc biệt lớn gây thiệt hại khủng khiếp, là lỗi kinh hoàng của cả nước như ở Mường Lay và Thị xã Lai Châu liên tiếp trong các năm

Transcript of Lũ quét

Page 1: Lũ quét

Lũ quét, thiệt hại và các biện pháp phòng tránh Lũ quét xảy ra ở hầu khắp các nước trên thế giới, đặc biệt ở các lưu vực sông nằm trong vùng nhiệt đới chịu ảnh hưởng của khí hậu gió mùa và bão.Theo tài liệu điều tra khảo sát từ năm 1953 đến năm 2004 trên toàn quốc đã xảy ra ít nhất 317 trận lũ quét. Có thể thấy hầu như năm nào cũng xảy ra hàng chục trận lũ quét ở các vùng núi nước ta. Lũ quét xuất hiện ngày càng nhiều, những trận lũ quét dồn dập, có sức tàn phá lớn.Những trận lũ quét này đã gây thiệt hại nghiêm trọng đến tính mệnh, tài sản của nhân dân và Nhà nước

1.1 Đặt vấn đề Lũ quét xảy ra ở hầu khắp các nước trên thế giới, đặc biệt ở các lưu vực sông nằm trong vùng nhiệt đới chịu ảnh hưởng của khí hậu gió mùa và bão.

Những nơi thường bị lũ quét nhất là ở miền nam nước Pháp, Bắc ý, áo vùng núi Cacpat. Các lưu vực sông quanh núi San-Gabriel thuộc bang California là nơi có nguy cơ lũ quét lớn nhất nước Mỹ. Lũ quét xảy ra ở sườn núi Andes, ở Mexico, Colombia, Ecuado, Peru, Chilê, ở các nước châu Phi, châu úc, các lưu vực miền núi thuộc bờ biển Thái Bình Dương, Đại Tây Dương và ấn Độ Dương. ở Châu á, lũ quét thường xảy ra ở khu vực nhiệt đới, cận nhịet đới như: ấn Độ, Trung Quốc, Pakístan, Thái Lan, Nepan, Inđônêsia, Philippines, Malaysia, Nhật Bản, Việt Nam... Lũ, lụt, thiên tai nói chung, lũ quét nói riêng ở các nước có khí hậu gió mùa và xoáy thuận nhiệt đới châu á ngày càng gia tăng cả về tần suất và cương độ.

ở Việt Nam, trong những năm gần đây, hiện tượng lũ lớn, lũ bất ngờ, cường độ lên nhanh, biên độ lũ cao có sức tàn phá lớn thường xảy ra ở các lưu vực nhỏ và vừa ở miền núi được gọi là lũ quét.

Theo tài liệu điều tra khảo sát từ năm 1953 đến năm 2004 trên toàn quốc đã xảy ra ít nhất 317 trận lũ quét. Có thể thấy hầu như năm nào cũng xảy ra hàng chục trận lũ quét ở các vùng núi nước ta. Lũ quét xuất hiện ngày càng nhiều, những trận lũ quét dồn dập, có sức tàn phá lớn. Đặc biệt trong 15 năm gần đây (1990-2005), đã xảy ra gần 300 trận lũ quét gây nên những tổn thất vô cùng to lớn về người và của, trong đó có 10 trận lũ đặc biệt lớn gây thiệt hại khủng khiếp, là lỗi kinh hoàng của cả nước như ở Mường Lay và Thị xã Lai Châu liên tiếp trong các năm 1990 - 1991, 1994, 1996, 2000; Thị xã Sơn La và huyện Sông Mã năm 1991, Cao Bằng, Hà Giang 2004; Yên Bái 2005; Hà Tĩnh 2002; Trường Sơn - Quảng Bình năm 1992; Hàm Tân- Bình Thuận 1999; Đắc Lắc 1990; lũ quét đầu tháng 11 và 12/1999 trên toàn bộ miền Trung. Những trận lũ quét này đã gây thiệt hại nghiêm trọng đến tính mệnh, tài sản của nhân dân và Nhà nước (Bảng 1).

Chỉ tính riêng trong 15 năm gần đây:

- Số người chết trên 965 người, bị thương trên 628 người.

- Nhà đổ trôi: 13.280 cái, lúa và hoa mầu bị hư hỏng: 197.879ha.

- Tổng thiệt hại ước tính khoảng 1.915 tỷ đồng. (TBNN~25-200 tỷ đồng). Lũ quét năm 1990 gây thiệt hại lớn nhất là 295,7tỷ đồng.

1.1.1 Khái niệm cơ bản về lũ quét a) Định nghĩa lũ quét

Lũ quét là hiện tượng tự nhiên, chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như: mưa với cường suất lớn trên địa hình đặc biệt, nơi có độ dốc lưu vực trên 20% - 30%, nhất là ở nơi có độ che phủ của

Page 2: Lũ quét

thảm thực vật thưa do lớp phủ thực vật bị tàn phá mạnh, độ ổn định của lớp đất mặt lưu vực kém, tạo điều kiện tập trung hình thành dòng chảy dồn vào các sông suối thuận lợi, làm cho lượng nước tích tụ ngày càng nhanh và tạo ra thế năng rất lớn.

Bảng1- 10 trận lũ quét điển hình trong thời kỳ 1990 -2005

TT

Ngày Khu vực bị ảnh hưởng Sông, suốiLượng mưa

Thiệt hại

Người (Chết/BT)

Tiền

1 27/06/ 1990 Thị xã Lai Châu Suối Nậm Lay 233 104/200 22

2 23/07/ 1994 Mường Lay, Lai Châu Suối Nậm Lay 187 34 18

3 17/08/ 1996 Tỉnh Lai Châu - 258 89 21

4 3/10/ 2000Nậm Coóng, Sin Hồ Lai Châu

- 138 39 2

5 27/07/ 1991 Thị Xã Sơn LaS. Nậm La, Nậm Pàn

403 42 26

6 16/06/ 1990Krông Bông, Ging Sơn, Lak, Đắc Lắc

Vỡ 4 hồ chứa nhỏ

370 22 3.4

729-30/ 07/1999

Hàm Tân, Bình Thuận Sông Dinh 300 27 187

819-20/ 09/2002

Hương Sơn, Hà Tĩnh Sông Ngàn Phố 500-700 53/111 824

918-19/ 07/2004

Du Già, Yên Minh, Hà Giang

- 200 - 300 45/16 50

1027-28/ 09/2005

Văn Chấn, Yên Bái - 233 50/8 162

Định nghĩa: Lũ quét thường là những trận lũ lớn, xảy ra bất ngờ, tồn tại trong một thời gian ngắn (lên nhanh, xuống nhanh), dòng chảy xiết có hàm lượng chất rắn cao và có sức tàn phá lớn.

Sự xuất hiện của lũ quét thường chỉ trong vài ba giờ sau khi có mưa với cường độ lớn. Sự hình thành lũ quét có liên quan mật thiết với cường độ mưa, điều kiện khí hậu, đặc điểm địa hình, các hoạt động của con người cũng như điều kiện tiêu thoát lũ của lưu vực.

b) Sự khác nhau giữa lũ quét với lũ thông thường - các đặc trưng của lũ quét

Khác với lũ thông thường, lũ quét là một dạng lũ lớn chứa nhiều vật chất rắn, xảy ra bất ngờ trong thời gian ngắn trên các lưu vực nhỏ, địa hình dốc, lưu tốc cao nên có sức tàn phá lớn.

Lũ quét chuyển động rất nhanh, tập trung gần như tức thời, đỉnh lũ thường xuất hiện chỉ từ 3h đến 4h sau khi bắt đầu mưa, thường chỉ bằng 1/2 hoặc 1/3 thời gian truyền lũ thông thường. Vì vậy mà thường khó có thể sử dụng các phương pháp thông dụng hiện có trong tính toán dự báo thuỷ văn để dự báo hoặc cảnh báo lũ quét.

Do lũ quét thường xuất hiện rất nhanh và chỉ diễn biến trong thời gian ngắn nên thời gian dự kiến của dự báo hoặc cảnh báo lũ quét cũng rất ngắn, thậm chí không thể dự báo được; vì vậy, để

Page 3: Lũ quét

giảm nhẹ thiệt hại cần có một hệ thống truyền tin cảnh báo nhanh cho cộng đồng và kế hoạch phản ứng linh hoạt, cơ động của cộng đồng khi lũ quét xảy ra.

c) Các dạng lũ quét

Lũ quét là loại hình thiên tai xảy ra từ lâu trên thế giới. Dựa vào hình thức, quy mô phát triển và các vật chất mang theo trong dòng chảy lũ mà lũ quét được phân ra các lọai chính sau:

- Lũ quét sườn dốc (Sweeping flood, flash flood: lũ xảy ra với tốc độ lớn và ngắn, quét đi mọi chướng ngại trên đường nó đi qua)

- Lũ bùn đá (Mudflow: lũ có mang nhiều bùn, đá trong dòng lũ)

- Lũ nghẽn dòng (Debris flood: Lũ mang nhiều rác, cành cây, đất đá, cuội sỏi).

- Sự cố hồ chứa nước nhân tạo...

Các dạng lũ quét thường gây thiệt hại ở nước ta là lũ quét sườn dốc, lũ bùn đá và lũ nghẽn dòng.

1.1.2. Đặc điểm của lũ quét a) Loại lũ quét sườn dốc

Lũ quét sườn dốc thường phát sinh do mưa lớn trên khu vực có độ dốc lớn, độ che phủ thảm thực vật thấp là nhân tố tạo ra dòng chảy mặt sườn dốc lớn, tích tụ nước nhanh về các suối tạo nên dòng lũ quét ở phía hạ lưu. Dạng lũ quét này thường xảy ra ở các lưu vực nhỏ hình nan quạt. Khi có mưa lớn trên lưu vực, từng nhánh suối tập trung nhanh đổ về dòng chính gây ra lũ quét trên dòng chính.

b) Loại lũ quét bùn đá

Lũ bùn đá là một dạng đặc biệt của lũ quét, có sức tàn phá huỷ diệt ghê gớm. Hầu hết những dòng bùn đá thường bắt nguồn từ sự trượt lở đất gây ra bởi nhiều nhân tố như nước mưa, động đất, xói mòn, trượt ngầm, nước ngầm,... những mảnh vụn (đất, đá) do trượt đất cuốn đi hoà với nước sông, suối trở thành dòng bùn. Tốc độ lớn nhất trung bình của dòng bùn thường là từ một vài m/s đến vài chục m/s tuỳ thuộc vào độ dốc lòng dẫn, thường bao gồm một khối lượng lớn những vật bị cuốn trôi. Nói chung dòng bùn có mật độ cao, khối lượng dòng bùn có thể từ 1,1 - 1,2 tấn/m3 và có khi cao hơn nữa. Đó là trường hợp dòng bùn mật độ lớn cuốn theo nhiều tảng đá, có khả năng va đập, cuốn trôi các công trình kiến trúc, cầu cống, kết cấu thép, móng công trình, những tảng đá khổng lồ... nghĩa là tất cả mọi vật cản, mọi chướng ngại trên đường nó đi qua.

Trong những năm gần đây liên tiếp xảy ra lũ bùn đá ở nước ta. Điển hình là trận lũ quét xảy ra ở Thị xã Lai Châu năm 1996. Trong 2 ngày 17, 18 tháng 8 năm 1996 lũ bùn đá đã huỷ diệt gần hết thị trấn Mường lay và một số vùng dân cư trong huyện, làm 54 người chết, 13 công sở, trường học, cửa hàng cùng hàng trăm nhà dân và ruộng vườn quanh thị trấn đã bị đất đá vùi kín. Nhiều tảng đá đường kính 4-5m từ hai bên sườn núi trôi ra chắn ngang suối, vùi kín cả cánh đồng lúa, nhiều đoạn đường giao thông chính bị tắc nghẽn.

c) Loại lũ quét nghẽn dòng

Một loại hình lũ quét xảy ra cũng khá phổ biến nữa ở miền núi nước ta có thể gọi là lũ quét nghẽn dòng. Lũ quét nghẽn dòng là loại hình lũ miền núi thường phát sinh từ các khu vực có

Page 4: Lũ quét

nhiều trượt lở ven sông, suối. Đó là các khu vực đang có biến dạng mạnh, sông suối đào xẻ lòng dữ dội, mặt cắt hẹp thường có dạng chữ V, sườn núi rất dốc. Sau khi mưa lớn kéo dài, dòng suối đột nhiên bị tắc nghẽn, nước sông suối dâng cao ngập một vùng rộng lớn thường là các vùng lòng chảo, những thung lũng. Thời gian lũ lên với tốc độ lớn nhỏ khác nhau và thời gian ngâm lũ cũng kéo dài khác nhau tuỳ thuộc điều kiện địa lý của vùng thung lũng rộng hay hẹp và điều kiện có mưa lớn kéo dài hay ngắn. Một trong những khu lòng chảo lớn đã bị tác động bởi lũ quét nghẽn dòng là thị xã Sơn La, dải phía bắc huyện Phong Thổ hay khu đồi ven đường Lai Châu - Mường Lay, khu vực xã Nam Cường thuộc tỉnh Bắc Cạn, A Lưới (tỉnh Quảng Trị), Nam Đông (Huế), Trường Sơn (Quảng Bình) v..v..

Nguyên nhân chính gây ra lũ quét nghẽn dòng là phía hạ lưu của vùng lòng chảo có lòng sông, suối bị thu hẹp. Dòng chảy bị co thắt dễ dàng bị tắc nghẽn do đất đá trượt lở và cây cối lấp tắc đường thoát lũ, tạo thành con đập tạm đột ngột chắn ngang dòng suối. Khi dòng lũ tích tụ đến mức đập chắn bị mất ổn định và vỡ, lượng nước tích lại trong vùng lòng chảo khi bị nghẽn dòng được giải phóng đột ngột tạo thành sóng lũ lớn cho phía hạ lưu.

Lũ quét nghẽn dòng thường tái diễn nhiều lần trên một sông suối. Do phát sinh từ khu vực tiềm tàng nhiều trượt lở, nên khả năng xảy ra nhiều lần lũ quét rất cao.

d) Sự cố hồ chứa nước nhân tạo

Một dạng lũ quét tương tự loại lũ quét nghẽn dòng là sự cố của những hồ chứa nước nhân tạo. Sự cố hồ chứa nước nhân tạo do nhiều nguyên nhân: do thiếu quy hoạch, do thiếu tài liệu điều tra cơ bản, do thiéu sót của công tác thiết kế, công tác thi công và quản lý, cũng có trường hợp do nhiều nguyên nhân phối hợp hình thành sự cố của hồ chứa nước. Khi đập của hồ chứa nước bị vỡ, sóng lũ sẽ gây ra lũ quét tương tự như dạng lũ quét nghẽn dòng.

Nhìn chung, loại lũ quét nghẽn dòng hoặc sự cố hồ chứa nước nhân tạo thường gây ra sóng lũ lớn, tính chất tàn phá khốc liệt hơn loại lũ quét sườn dốc.

c) Đặc điểm thời gian của lũ quét

· Về tần suất của lũ quét:

Là một nước có độ ẩm cao với lượng mưa bình quân năm lớn nên lũ quét ở Việt Nam có thể xảy ra nhiều lần ở cùng một địa điểm, nơi có những điều kiện thuận lợi cho việc hình thành như có lượng mưa lớn, địa hình dốc, thảm phủ thực vật thưa.

Qua số liệu thống kê cho thấy tại thị trấn Mường Lay và thị xã Lai Châu (tỉnh Lai Châu) là một trong những trường hợp điển hình, từ năm 1990 đến năm 1997 đã xảy ra 6 trận lũ quét, riêng năm 1994 tại thị xã Lai châu lũ quét đã xuất hiện hai lần. Lũ quét đã gây thiệt hại rất nghiêm trọng cho huyện Mường Lay và thị xã Lai Châu. Đặc biệt, 2 trận lũ xảy ra năm 1990 và năm 1996 là 2 trận lũ hiếm thấy trong lịch sử đối với các sông suối ở vùng này cả về độ lớn và tính ác liệt do lũ quét gây ra cho nhân dân địa phương.

· Về thời gian xuất hiện lũ quét:

Lũ quét có thể xảy ra ngay từ đầu mùa mưa, thậm chí ngay sau một trận mưa lớn ở thời kỳ đầu mùa mưa, khi gặp các điều kiện thuận lợi cho việc hình thành dòng chảy mặt lớn như trận lũ ngày 23 - 24/5/1990 tại tỉnh Lào Cai, trận lũ lịch sử trên sông Ngàn Phố ngày 26/5/1989... Lũ quét hay xảy ra vào đêm về sáng.

Page 5: Lũ quét

· Về mức độ xuất hiện của lũ quét:

Những năm gần đây, lũ quét có xu hướng ngày càng tăng cả về số lượng và sức tàn phá của nó do nhiều yếu tố hợp thành, mà nguyên nhân chủ yếu do việc phát triển dân sinh, kinh tế ở vùng núi, do việc chặt phá rừng đầu nguồn của những cộng đồng du canh du cư, do xây dựng các công trình hạ tầng cơ sở không có quy hoạch như xây dựng các công trình chắn ngang dòng chảy, làm tắc nghẽn các đường thoát lũ.

II. Tổng quan về thiệt hại do lũ quét gâ

Việc đánh giá thiệt hại do lũ quét gây ra dựa trên cơ sở thu thập tổng hợp và phân tích đánh giá chuỗi số liệu trong 10 năm (1990-1999) về các trận lũ quét đã xảy ra và thiệt hại do chúng gây ra đối với các ngành dân sinh kinh tế xã hội.

2.1 Thiệt hại trực tiếp

2.1.1. Thiệt hại chung

Xét cho tất cả các vùng trên phạm vi cả nước, các số liệu cho thấy thiệt hại do lũ quét đối với tính mạng con người, đối với nền kinh tế quốc dân trong 10 năm qua là:

- Về người: chết - 482; bị thương 393 người; mất tích 110 người, làm ảnh hưởng trực tiếp đến 6.821 hộ và 43.881 người bị ảnh hưởng, trong đó 1.728 người mất hết tài sản.

- Về kinh tế, có hàng chục ngàn ha lúa, màu và cây lương thực bị hư hại, hàng ngàn gia cầm, gia súc bị chết; hàng ngàn nhà cửa, kho tàng trường học bệnh viện bị đổ trôi; hàng trăm ngàn m3 đất giao thông thuỷ lợi bị trôi, hàng chục công trình giao thông, thuỷ lợi nhỏ bị xuống cấp hoặc hư hỏng. Thiệt hại về kinh tế lên đến hàng trăm tỉ đồng. Đây là những thiệt hại không nhỏ đối với nền kinh tế xã hội, hơn nữa các thiệt hại đó lại tập trung chủ yếu ở những vùng cao, vùng sâu, nơi trình độ dân trí cũng như kinh tế còn thấp.

So sánh với thiệt hại lũ sông cùng thời kỳ cho thấy thiệt hại về kinh tế do lũ quét gây ra thấp hơn rất nhiều, nhất là phạm vi ảnh hưởng tới số ngành trong nền kinh tế quốc dân. Song, một điều đặc biệt là lũ quét đã gây ra những thiệt hại to lớn về người, của đối với một bộ phận nhân dân thuộc vùng sâu, vùng xa mà đại bộ phận là thuộc nhóm dân tộc thiểu số - một đối tượng thuộc diện chính sách chăm lo ưu đãi của Nhà nước ta hiện nay.

2.1.2 Thiệt hại đối với từng ngành

a) Về Nông nghiệp:

Lúa/Hoa mầu úng ngập 90.848/18.684 (ha)Mạ bị ngập 1.968 (ha)Lương thực/Giống ướt 33.245/1.676 (tấn)Cây công nghiệp bị mất trắng/Hư hại109/5.773 (ha)Trâu, bò chết/ Lợn chết 350/762 (con)Gia cầm chết 7.865 (con)

ước tính thành tiền là 43.649 triệu đồng.

Page 6: Lũ quét

b) Về nhà cửa, kho tàng, bến bãi:

Tổng số nhà cửa, trường học, bệnh viện... bị đổ trôi là 3.703cái; bị hư hại là 9.437cái và ước tính thành tiền là 21.615 triệu đồng. Cụ thể: 

Nhà đổ, trôi/ Ngập, hư hại 3.312/9.312 CáiTrường học đổ, trôi/ Hư hại 255/103 PhòngBệnh viện, Bệnh xá đổ, trôi/ Hư hại 6/12 CáiKho bị đổ, trôi/Hư hại 105/8 CáiTrụ sở nhà ở cơ quan đổ 25 CáiƯớc tính thành tiền 21.615 Triệu đồng

c) Về Giao thông, Thuỷ lợi:

+ Thuỷ lợi Đất sạt, trôi 892.654 (m3)

  Kênh mương sạt lở 183.814/m

  CT thuỷ lợi nhỏ vỡ/Hư hại 659/32 (cái)

  Phai tạm bị trôi 2.078(cái)

  Ước tính thành tiền 6.529 Triệu đồng

+  Giao thông Đất/Đá sạt, trôi 216.1254/1.585 (m3)

  Đường quốc lộ/Nội tỉnh 950.500/149.830 (m3)

  Cầu cống sập, trôi/Hư hại 518/54 cái

  Ngầm tràn bị hỏng 169 cái

  Ô tô bị hỏng, trôi 32 cái

  Đường bị hư hại 14.671 Km

  Ước tính thành tiền  49.418 triệu đồng

ước thành tiền là: 55.947 triệu đồng.

2.2. Đánh giá khả năng mức độ có thể gây ra thiệt hại cao ở một số vùng, lưu vực khi xảy ra lũ quét. Qua phân tích về sự phát triển toàn diện các mặt của từng vùng trong những năm tới, những trận lũ quét trong lịch sử, cùng với việc sử dụng bản đồ phân vùng rủi ro của lũ quét, có thể nói những vùng miền núi phía bắc là nơi có khả năng rủi ro cao do lũ quét gây ra, nhất là một số tỉnh phía Tây Bắc bộ như Sơn La, Lai châu, Hà giang. Ngoài ra ở Trung bộ các tỉnh như Bình Thuận, Ninh Thuận; Tây nguyên như Đắc Lắc, Lâm Đồng… Do yếu tố mặt đệm gồm thảm phủ rừng và địa chất bề mặt dễ biến đổi, nhất là những năm gần đây tình trạng chặt phá rừng vô tổ chức, rừng không kịp hồi phục, khai hoang sản xuất và phát triển các khu định cư không theo quy hoạch. Đặc biệt, một số khu định cư mới nằm trong khu thường chịu tác động của lũ quét là các yếu tố chính gây sự gia tăng về khả năng rủi ro cao.

2.2.1. Các thiệt hại gián tiếp và lâu dài Xét với một vùng cụ thể, tai biến lũ quét không chỉ gây ra hậu quả nặng nề cho vùng ở thời điểm

Page 7: Lũ quét

hiện tại mà nhiều lúc, nhiều nơi hậu quả còn kéo dài.

a) Kinh phí cho khắc phục hậu quả, ổn định sinh hoạt sản xuất của nhân dân

Một việc làm cấp thiết sau tai biến là phục hồi tái định cư cho một bộ phận không nhỏ dân cư phải sơ tán trong tai biến. Hàng loạt các vấn đề phải giải quyết như cung cấp lương thực cứu đói, nước sạch, điều trị bệnh tật, sửa chữa hoặc xây dựng lại nhà ở v.v. Để giải quyết các vấn đề cấp thiết đó đòi hỏi phải có một lượng kinh phí không nhỏ, nhiều lúc vượt quá khả năng của vùng.

b) Việc khắc phục các hậu quả về Giao thông, Thuỷ lợi, Nông nghiệp, các công trình hạ tầng cơ sở

Lũ quét thường phá huỷ nặng nề các công trình Giao thông, Thuỷ lợi, Nông nghiệp và các công trình hạ tầng cơ sở. Đặc biệt, đất đá và dòng bùn có lúc, có nơi đã vùi lấp hoặc làm xói lở một diện tích lớn đất đai nông nghiệp, hoa màu, dẫn tới làm gián đoạn sản xuất nông nghiệp, giảm năng suất và sản lượng lương thực, có nơi ruộng đồng bị xói lở hoặc bị đất đá vùi lấp từ 1 – 2m đã làm mất hẳn diện tích canh tác. Những điều này có thể dẫn đến nạn phá rừng tiếp tục gia tăng để khai thác đất đai hoặc gia tăng các hoạt động phá rừng vô tổ chức để tìm kiếm các nguồn lợi khác nhằm thay thế phần đất đai đã mất. Mặt khác, do đại bộ phận các khu vực bị lũ quét là những vùng xa xôi hẻo lánh, mưa lớn không chỉ gây ra lũ quét mà còn gây ra sạt lở làm tắc nghẽn giao thông, khiến cho khó tiếp cận những vùng bị thiên tai. Những thiệt hại này đã cản trở những nổ lực của cộng đồng trong và ngoài khu vực ảnh hưởng trong việc tự khắc phục, và thực hiện công tác cứu trợ, cứu nạn nhằm ổn định nơi ở và sản xuất như trường hợp đã xẩy ra trong đợt lũ quét vùng Thị xã Lai Châu năm 1990, mưa lớn đã gây ra sạt lở nghiêm trọng làm tắc nghẽn tất cả các ngả đường dẫn đến thị xã Lai Châu như đường Phong Thổ (Lao Cai) – Lai Châu, đường Sơn La – Lai Châu và đường Điện Biên – Lai Châu. Do việc tắc nghẽn đường tiếp tế bằng đường bộ cho Thị Xã Lai Châu, Chính phủ đã phải điều động trực thăng chuyên trở lương thực, thực phẩm và thuốc chữa bệnh đến khắc phục hậu quả trong điều kiện thời tiết xấu không bảo đảm an toàn cho việc dùng trực thăng bay đến những vùng có núi cao hiểm trở.

c) Kinh phí khắc phục suy thoái môi trường

Môi trường trong vùng xảy ra lũ quét bị xuống cấp là điều không tránh khỏi: các nguồn nước uống và sinh hoạt bị ô nhiễm, đất đai bị rửa trôi vùi lấp ruộng nương, thảm phủ mặt đệm bị phá hoại, cân bằng sinh thái tiểu khu vực có thể bị phá vỡ. Việc trả lại hiện trạng môi trường sau một số tai biến điển hình đòi hỏi nhiều nỗ lực khắc phục trong một thời gian dài và cần có sự hợp sức của nhiều ngành đầu tư sức người và của mới tạo dựng được một môi trường trong sạch như trước khi xảy ra lũ quét.

2.2.2. Hậu quả về Văn hoá xã hội Nhiều trường hợp, do tai biến xảy ra có tính lặp lại và đã gây hậu quả nghiêm trọng, buộc phải di dân ra khỏi vùng để tái định cư ở nơi an toàn hơn, do bị lũ quét tàn phá nhiều lần liên tiếp, năm 1996 tỉnh Lai Châu đã phải di dân thị trấn Mường Lay đến nơi ở mới. Việc tái định cư cũng đồng nghĩa với việc tổ chức cho cộng đồng sống, sinh hoạt và sản xuất ở tại một khu vực khác, điều này đòi hỏi phải giải quyết hàng loạt các vấn đề thuộc về kinh tế xã hội. Việc di dời có thể có lúc làm nhạt phai bản sắc văn hoá vùng vốn đã gắn chặt vớí điều kiện địa lý, kinh tế, tập quán và thói quen sản xuất của cộng đồng. Ngoài ra, sau tai biến nhiều di tích lịch sử, thắng cảnh đã bị xuống cấp hoặc bị hư hại.

2.3. Kết luận chung về thiệt hại Lũ quét là một thiên tai có tính cục bộ, diễn biến nhanh, mang tính bất thần và khốc liệt, mỗi trận xảy ra trên một diện hẹp và phạm vi tác động cũng hẹp hơn lũ sông. Do vậy thiệt hại do lũ quét

Page 8: Lũ quét

gây ra đối với các ngành cũng có nhiều điểm khác biệt.

· Thiệt hại lớn nhất là tính mạng con người.

· Gây hậu quả xấu kéo dài, nhất là đối với sản xuất nông nghiệp, công trình thuỷ lợi, làm mất ổn định xã hội ở một bộ phận xã hội thuộc vùng sâu vùng xa - nơi địa bàn thuộc diện Nhà nước đang có chính sách ưu tiên chăm lo cải thiện đời sống cho đồng bào.

· Tính khốc liệt do lũ quét gây ra đã gây nên những tác động mạnh về tâm lý khiếp sợ cho nhân dân địa phương.

· Khó cảnh báo, dự báo trước.

III - Nguyên nhân hình thành lũ quét

3.1. Cơ chế lũ quét 3.1.1. Chỉ tiêu phân dạng lũ quét Kết quả nghiên cứu cơ chế lũ quét và khảo sát thực địa trên các lưu vực nhỏ đi đến chỉ tiêu phân dạng lũ quét như sau:

- Thời gian tập trung nước của lũ quét sườn dốc thường xẩy ra ngắn (chỉ từ 1 đến 6 giờ), còn thời gian tập trung của lũ quét nghẽn dòng tuỳ thuộc vào dung tích của hồ nhân tạo được hình thành trong trận lũ. Lượng nước được tích tụ lại càng lớn thì sức phá hoại càng khốc liệt.

- Đỉnh lũ cao (có nơi lớn hơn hai lần lũ lịch sử), riêng đối với loại lũ quét nghẽn dòng có thể gây ra biên độ lũ rất cao tuỳ thuộc vào lượng nước tích tụ trong hồ chứa nhân tạo như trường hợp lũ quét ở xã Trường Sơn tỉnh Quảng Bình, biên độ lũ cao đến 10m.

- Hàm lượng chất rắn trong lũ quét thường rất lớn, nhất là các trận lũ quét có biên độ lũ cao.

3.1.2. Đặc tính lũ quét Có thể tổng hợp các đặc tính của lũ quét như sau:

- Tính bất ngờ:

Thời gian từ khi xuất hiện đến khi kết thúc, lũ quét diễn biến rất nhanh (thường chỉ từ 1h đến 3h sau khi có mưa lớn), đặc biệt là đối với loại lũ quét nghẽn dòng có thể gây ra sóng lũ cao đột ngột. Mặt khác, lũ quét thường xảy ra ở vùng núi hiểm trở, việc đi lại đo đạc, thu thập tài liệu khó khăn, do vậy với các phương pháp thính toán dự báo thông thường khó có thể dự báo một cách có hiệu quả.

- Tính xảy ra trong thời gian ngắn:

Từ lúc bắt đầu có mưa đến lúc kết thúc, lũ quét thường không kéo dài quá 1 ngày (trận lũ 27/6/1990, 27/7/1991 ở Nậm Lay, 27/7/1991 tại Nậm Pàn, Nậm Na chỉ từ 1h đến 3h ). Lũ quét ở suối Quận Cậy, tại Phúc Thuận Phổ Yên tỉnh Bắc Thái xảy ra lúc 23h45' ngày 20/10/1969, kết thúc lúc 1h ngày 21/10/1969, trận lũ này có đường quá trình mực nước lũ lên và xuống rất dốc.

- Tỷ lệ vật chất rắn trong lũ quét rất lớn:

Lượng chất rắn thường chiếm từ 3 đến 10% lượng lũ. Tổng lượng lũ quét thường tăng từ 1,1 đến 1,2 lần lượng nước lũ đã sinh ra nó. Có thể nói nước lũ quét là pha trung gian giữa vật thể lỏng

Page 9: Lũ quét

và vật thể rắn nên ngoài sự phá hoại do lưu tốc của dòng lũ gây ra hiện tượng xói mà còn làm bồi lắng đá cát sỏi trên dọc đường lũ đi qua.

- Tính khốc liệt.:

Do lũ có lưu lượng lớn và dòng chảy xiết, đặc biệt là khi nước lũ tích tụ tạo ra sóng lũ lớn đột ngột nên có thế năng rất lớn, các vật thể rắn chuyển động va đập làm cho lũ quét có sức tàn phá lớn các công trình, cuốn đi mọi vật cản trên đường chuyển động của nó.

3.2. Tiêu chuẩn đánh giá thiệt hại do lũ quét gây ra Có thể dùng các đặc trưng sau để đánh giá mức độ thiệt hại, đồng thời cũng là cơ sở để đưa ra các biện pháp phòng tránh thiệt hại của lũ quét:

1. Chiều sâu ngập nước của trận lũ qué :

Nền móng công trình và thực vật sẽ có mức độ chịu đựng khác nhau khi ngập nước, nên mức độ thiệt hại cũng tuỳ theo độ sâu ngập nước, độ sâu ngập nước càng lớn thì mức độ thiệt hại càng lớn.

2. Thời gian duy trì lũ quét:

Mức độ thiệt hại đối với các công trình, các cơ sở hạ tầng và thực vật thường liên quan và có tỷ lệ thuận với khoảng thời gian bị ngập nước.

3. Vận tốc nước lũ:

Vận tốc dòng chảy lớn, nguy hiểm có thể tạo ra lực xói và áp lực thuỷ động lớn, nó có thể phá huỷ hoặc làm yếu đi độ ổn định của công trình, nền đất tự nhiên và thảm thực vật.

4. Cường suất lũ:

Cường suất của lũ quét càng cao thì sức phá hoại càng lớn. ước tính cường suất và lưu lượng của một dòng sông, suối là cơ sở chính để cảnh báo lũ, lập kế hoạch sơ tán.

5. Tần suất xuất hiện:

ảnh hưởng luỹ tích và tần suất xuất hiện đo được trong suốt thời đoạn dài là cơ sở để quy hoạch, xây dựng biện pháp phòng tránh, sẽ xác định loại hoạt động nông nghiệp hoặc xây dựng gì cần phải thực hiện để hạn chế những tác động phá hoại của lũ quét dùng làm tài liệu quy hoạch khu dân cư và quy hoạch khu canh tác thích nghi với lũ quét.

3.3. Những điều kiện thuận lợi cho việc xuất hiện lũ quét ở Việt Nam · Lưu vực là điều kiện đủ để hình thành dòng chảy lũ nhưng lưu vực thường chịu tác động của con người như việc khai thác gỗ củi, đốt, phá rừng làm nương rẫy, khai thác khoáng sản vô tổ chức dẫn đến bề mặt lưu vực bị rửa trôi mạnh mẽ, tập trung dòng chảy nhanh.

· Đặc điểm địa hình chia cắt, các dẫy núi cao thường có hướng tây bắc - đông nam gần như vuông góc với hướng gió mùa đông bắc - tây nam. Các dẫy núi này tựa như bức tưòng thành chặn giữ các dải hội tụ, tạo ra các tâm mưa lớn. Các sông suối có diện tích lưu vực nhỏ (nhỏ hơn

Page 10: Lũ quét

500 km2) nằm ở thượng nguồn các lưu vực sông, đặc biệt là đối với những vùng gần các tâm mưa lớn.

· Sườn lưu vực có độ dốc cao từ 15% đến trên 30%, làm cho cường độ dòng chảy mặt lớn và tạo điều kiện cho việc xuất hiện dòng chảy vượt thấm.

3.3.1. Những giai đoạn chính hình thành lũ quét · Mưa lớn hình thành dòng lũ mặt lớn và đặc biệt lớn tràn ngập trên mặt lưu vực nhỏ của vùng núi dốc, nơi có độ che phủ thảm thực vật nhỏ do bị khai thác mạnh mẽ.

· Nước mưa hình thành dòng chảy mặt xói mòn và rửa trôi bề mặt lưu vực làm tăng đáng kể lượng bùn, cát, rác trong dòng nước lũ.

· Nước lũ tập trung hầu như đồng thời, đổ về rất nhanh từ các sườn dốc lưu vực (thường có độ dốc trên 20-30%) đổ vào lòng dẫn (thời gian tập trung chỉ 1-3 giờ cho đến dưới 6 giờ); Dòng lũ có tốc độ xói mạnh, tàn phá mọi vật cản trên đường chuyển động, có thể tạo ra lòng dẫn mới, bồi lấp lòng dẫn cũ, làm cho tốc độ truyền lũ về phía hạ du nhanh hơn.

· Dòng lũ xói sâu ở những khu vực cao, bồi lắng bùn, cát, đá, rác ở các vùng trũng dọc đường đi như các bãi lầy, đồng ruộng, vườn tược, thậm chí cả những khu dân cư.

Như vậy, lũ quét là một hiện tượng thiên tai thường xảy ra ở những lưu vực nhỏ (diện tích không quá 300-400 km2) ở miền núi nơi có độ dốc lớn (trên 15-30%), mức độ khai thác lưu vực lớn chỉ còn lớp phủ thực vật không đáng kể (dưới 10-15%).

3.3.2. Các nhân tố hình thành lũ quét Lũ quét xảy ra do ảnh hưởng của tổ hợp các điều kiện tự nhiên và các hoạt động của con người trên lưu vực. Tuỳ theo tốc độ biến đổi có thể phân các nhân tố theo 3 nhóm: 

Các hình thức hoạt động của con người trên lưu vực có thể ảnh hưởng đến cả 3 nhóm các nhân tố nêu trên. Song, biểu hiện rõ nhất là nhóm các nhân tố biến đổi nhanh. Đây là nhóm nhân tố chỉ thị, thường được chọn để phân biệt lũ quét với lũ thông thường. Nhóm các nhân tố ít biến đổi và biến đổi chậm tham gia vào quá trình hình thành lũ quét khi quá trình biến đổi vượt qua một “ngưỡng” nào đó.

Dưới đây phân tích một số nhân tố chính và nhận xét về đặc điểm và vai trò của chúng đối với sự hình thành lũ quét.

a) Mưa

Trong cùng một lưu vực hoặc một miền, vùng núi thường có lượng mưa lớn hơn vùng đồng bằng, do đặc điểm địa hình có sườn núi chắn gió và các thung lũng có tác dụng hút luồng không khí ẩm từ biển vào. Các tâm mưa lớn của nước ta hầu hết đều tập trung ở các vùng núi có điều kiện địa hình như vậy.

Page 11: Lũ quét

Mưa là nhân tố quyết định gây ra lũ quét, thường tập trung trong vài giờ với cường độ rất lớn trên diện tích hẹp từ vài chục đến vài trăm km2. Điều đó giải thích lý do tại sao nhiều khi lũ quét xảy ra trên một số khu vực lại không đồng bộ với lũ trên sông lớn.

Mưa gây ra lũ quét thường tập trung với cường độ lớn hiếm thấy trong 1giờ hoặc 2 giờ; Mưa với cường suất lớn có ý nghĩa quyết định trong sự hình thành lũ quét. Mưa lớn còn là động lực chủ yếu gây ra xói mòn, sụt lở tạo thành phần rắn của dòng lũ quét.

Các hình thế thời tiết thường gây ra lũ quét ở Việt Nam

+ Phía tây bắc Bắc bộ

· Xoáy thấp Bắc bộ hoặc xoáy thấp nằm trong giải thấp có trục tây bắc - đông nam vắt qua Bắc Bộ, hoạt động với cường độ mạnh từ thấp lên cao.

· Xoáy thấp hoặc giải thấp tồn tại ở phía nam Trung Quốc kết hợp với không khí lạnh hoặc bị cao lạnh đẩy xuống phía nam gây mưa.

· Giải hội tụ nhiệt đới có xoáy thuận, kết hợp với không khí lạnh hoặc các hình thế thời tiết khác.

· Bão hoặc áp thấp nhiệt đới tan sau khi đổ bộ vào đất liền, di chuyển theo hướng tây gây mưa.

+ Phía đông bắc Bắc bộ

· Bão hoặc do áp thấp kết hợp với không khí lạnh.

· Rãnh thấp nóng phía tây kết hợp với không khí lạnh hoặc rìa lưỡi cao áp Thái Bình Dương lấn sang.

· Hoạt động của không khí lạnh.

· Hoạt động của dải hội tụ nhiệt đới.

+ Vùng ven biển Trung Bộ

· Tiết tiểu mãn do sự dịch chuyển của dải hội tụ nhiệt đới từ vĩ độ thấp lên vĩ độ cao.

· Hoạt động của không khí lạnh từ phía bắc tràn xuống.

Page 12: Lũ quét

· Bão, áp thấp nhiệt đới.

· Sự kết hợp giữa các dạng trên.

Kết quả khảo sát cho thấy các ngưỡng mưa sinh lũ quét như bảng sau:

Thời đoạn (giờ) 1 3 6 12 24

Ngưỡng mưa (mm) 100 120 140 180 220

b) Biến đổi khí hậu toàn cầu và các hiện tượng khí hậu cực đoan

Theo số liệu thống kê cho thấy có khoảng 70% số thiên tai là do các hiện tượng khí tượng, thuỷ văn cực đoan gây ra. Biến đổi khí hậu là nhân tố biến đổi chậm. Nhiều đánh gía cho rằng con người đã đóng góp đáng kể vào quá trình biến đổi này mà nguyên nhân chủ yếu là hiện tượng phá rừng và làm huỷ hoại môi trường.

Mức độ suy thoái môi trường hiện nay trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng đã đến mức báo động. Những hậu quả của sự suy thoái môi trường biểu hiện đáng chú ý là:

- Số trận bão ảnh hưởng đến Việt Nam tăng lên, nhất là đối với vùng Trung Bộ.

- Tiết mùa khí hậu có thay đổi, mưa lũ dị thường đã xảy ra ở một số nơi. Một số vùng bị hạn hán nghiêm trọng đã làm cho nhiều dòng sông bị cạn kiệt, thiếu nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, có nơi không đủ nước cho người và gia súc.

- Mưa, đặc biệt là mưa có cường suất lớn trong thời đoạn ngắn tăng lên. Các tháng đầu mùa và cuối mùa có lượng mưa tăng lên. Đợt mưa đặc biệt lớn ở các tỉnh Miền Trung trong những ngày đầu tháng 11 năm 1999 đã chứng tỏ điều đó : Từ ngày 1 tháng 11 đến 4 tháng 11 do ảnh hưởng của đợt không khí lạnh mạnh kết hợp với hoạt động của dải hội tụ nhiệt đới, tiếp sau đó từ ngày 5 tháng 11 đến 6 tháng 11 năm 1999 lại bị ảnh hưởng trực tiếp của áp thấp nhiệt đới đã gây ra mưa to đến rất to trên diện rộng. Đặc biệt ở một số địa phương có cường suất rất lớn như:

· Tỉnh Quảng Bình mưa phổ biến từ 600mm đến 800mm, riêng Gia Vòng: 901mm, Lệ Thuỷ: 847mm.

· Tỉnh Quảng Trị trong 5 ngày có lượng mưa trung bình 800mm – 1.000mm, riêng Thạch Hãn mưa gần 1.500mm.

· Tỉnh Thừa Thiên – Huế trong 7 ngày (từ 1/11 đênư 6/11/1999) nhiều nơi có mưa trên 1.000mm, một số nơi có mưa trên 2.000mm; đặc biệt, tại A Lưới mưa 2.271mm, Huế mưa 2.288mm. Lượng mưa trong 24h (từ 7h ngày 2 đến 7h ngày 3/11/1999) đo được 1.384mm.

· Thành phố Đà Nẵng trong 5 ngày (từ ngày 1/11 đến 5/11/1999) có mưa trên dưới 1.000mm.

· Tỉnh Quảng Nam trong 5 ngày (từ ngày 1 đến 5/11/1999) có mưa trên dưới 1.000mm. Riêng Hộ An mưa 1.183mm, ái Nghĩa mưa 1.881mm, Hiên 1.174mm, Tiên Phước mưa 1.257mm.

· Tỉnh Quảng Ngãi trong 5 ngày có mưa từ 650 – 800mm ở vùng đồng bằng và ở các khu vực miền núi phổ biến từ 1.000mm đến 1.200mm.

Page 13: Lũ quét

· Tỉnh Bình Định trong 5 ngày (từ 1 đến 5/11/1999) có mưa từ 300mm đến 500mm.

Đây là lượng mưa chưa từng xảy ra trong chuỗi số liệu đo đạc hơn 100 năm từ năm 1886 trên toàn lãnh thổ Việt Nam. (Trước đó, số liệu mưa 24h lớn nhất đo được tại Huế ngày 10 tháng 11 năm 1964 là 731mm).

c) Địa hình

Địa hình vùng núi Việt nam nói chung rất dốc, do đó độ dốc lòng sông lớn, đó là một trong những điều kiện thuận lợi để phát sinh lũ quét.

ở những nơi có địa hình núi cao thường là nơi có lượng mưa lớn và phân hoá rất mạnh. Qua khảo sát các khu vực bị lũ quét cho thấy: Các lưu vực đã xảy ra lũ quét thường ở nơi có dạng đường cong lõm, địa hình bị chia cắt dữ dội, sườn núi rất dốc (>30%). Độ dốc lòng sông ở phần đầu nguồn rất lớn, tạo điều kiện thuận lợi hình thành lũ quét. Mặt cắt dọc sông nhiều nơi có điểm gãy mà sau điểm này là vùng thường bị lũ quét ác liệt. Sườn núi dốc chuyển đột ngột sang các mặt bằng bồn địa là đặc trưng của địa hình miền Trung.

Các lưu vực sinh lũ quét thường nhỏ (diện tích <500 km2), sông suối bắt nguồn từ các đỉnh núi cao (khoảng 1000 - 2000m). Lưu vực có hình rẻ quạt hoặc tròn, xung quanh có núi cao bao bọc, có hướng thuận lợi đón gió ẩm hình thành những tâm mưa. Sườn dốc được phủ bởi lớp đất đá có độ liên kết kém, dễ xói mòn, sụt lở. Khi có mưa lớn, lũ quét kéo theo nhiều vật rắn: đá, cát, sỏi, cây cối.

d) Mạng lưới sông suối

Địa hình chia cắt tạo nên mạng lưới sông suối dày đặc. ở vùng đầu nguồn, nhiều nơi mật độ sông suối lớn hơn 1km/1km2, thậm chí tới 2km/km2. Độ dốc lòng sông, suối lớn nên thời gian tập trung dòng chảy ngắn, tốc độ dòng chảy lớn, năng lượng, sức tải lớn. Độ dốc lòng sông, suối lớn nên dòng nước lũ thường cuốn theo nhiều đất đá, cây cối do xói mòn, sụt lở như đã xảy ra ở nhiều nơi thuộc vùng Tây Bắc nước ta, có nơi trở thành lũ bùn đá.

Sông, suối chảy giữa những kẽ núi, mặt cắt ngang thường có dạng chữ V hoặc chữ U sâu và hẹp. Chảy qua các bậc thềm địa hình, mặt cắt dọc sông thay đổi phức tạp kéo theo sự thay đổi mặt cắt ngang. Nơi thu hẹp, sông sâu thẳng, nơi mở rộng ở các thung lũng, sông chảy quanh co, có bãi tràn rộng, thường có điểm quần cư, phát triển kinh tế mạnh cũng chính là vùng chịu tác động mạnh mẽ của lũ quét.

+ Đặc điểm lũ

Mùa lũ quét về cơ bản trùng với mùa mưa. ở Miền Bắc lũ bắt đầu xảy ra từ tháng 5 và kết thúc vào cuối tháng 10. Trên thực tế, mùa lũ và mùa mưa có một thời gian lệch pha nhất định, nhưng đối với lũ quét sự lệch pha không nhiều nên có thể coi mùa mưa và mùa lũ quét là trùng nhau. Nếu xét trên cùng một khu vực, càng vào

Page 14: Lũ quét

cuối mùa mưa, khi có mưa lớn thời gian xuất hiện lũ quét càng nhanh hơn do mặt đất đã bão hoà nước.

+ Đặc điểm sông ngòi

Các sông suối ở vùng núi phía bắc Việt Nam có độ dốc rất lớn. Độ dốc lòng sông nhiều khi đạt tới 20-30%, một số sông có độ dốc lớn hơn 35% hoặc trên 40%. Do vậy thời gian tập trung lũ nhanh, vận tốc dòng lũ lớn và sức phá hoại cực kỳ nghiêm trọng.

+ Dòng chảy lũ

Dòng chảy lũ là nhân tố biến đổi nhanh, biểu thị hậu quả tổng hợp của các nhân tố gây nên lũ quét. Lũ quét xảy ra bất ngờ, lên nhanh xuống nhanh, mang nhiều chất rắn, động năng lớn nên có sức tàn phá lớn.

* Lưu lượng đỉnh lũ quét thường lớn, có khi lớn gấp 1.5-2 lần lũ thường

* Dòng chảy rắn, tạo ra các hiện tượng xói mòn, sụt lở, bồi lấp trong lũ quét.

* Trong lũ quét, hàm lượng chất rắn bao gồm đất đá, cây cối, rác rưởi bị cuốn theo rất lớn, có khi chiếm tới 20% lưu lượng nước lũ.

Lũ quét thường xẩy ra bất ngờ, cực nhanh và ác liệt, đã gây thiệt hại lớn về người, các công trình xây dựng, phá hoại sản xuất và cản trở các hoạt động dân sinh, kinh tế trong vùng bị ảnh hưởng.

+ Dòng chảy rắn, xói mòn, sụt lở, bồi lấp trong lũ quét

Kết quả khảo sát cho thấy trong lũ quét hàm lượng chất rắn gồm đất, đá, cây cối, rác rưởi bị cuốn theo rất lớn. Việc định lượng thành phần dòng chảy rắn trong lũ quét có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tính toán, mô phỏng lũ quét, song rất khó khăn. Có thể, lượng chất rắn mang theo làm cho đặc trưng lũ bao gồm tổng lượng, lưu lượng đỉnh lũ, động năng tăng.

e) Rừng và thảm phủ thực vật

Rừng, lớp phủ thực vật là những yếu tố biến đổi chậm. Song do tác động của con người, sự suy thoái đến một “ngưỡng” mà vai trò lá chắn của rừng không còn nữa, tổ hợp với các điều kiện khác làm lũ quét xuất hiện nhiều hơn.

Cho đến nay, ở nước ta lớp phủ rừng bị phá nghiêm trọng. Khảo sát các lưu vực đã xảy ra lũ quét tỷ lệ rừng còn lại rất thấp, nhiều nơi còn dưới 5% (Nậm Lay 2%, Nậm Na 5%, Nậm Pàn 2%, Ngòi Thia 3%, Sa Pa 3%, Tràng Sá 5%,...).

Page 15: Lũ quét

Kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước đều đi đến nhận định: Rừng có tác dụng điều tiết dòng chảy mặt và dòng chảy lũ. Khảo sát sự thay đổi các đặc trưng lũ như thời gian lũ lên TL, chênh lệch giữa lưu lượng đỉnh lũ QMAX và lưu lượng trước đỉnh 1 giờ DQ khi lớp phủ rừng giảm. Trong những trận mưa tương tự nhận thấy sự rút ngắn thời gian rõ rệt khi lũ lên, sự tăng nhanh DQ và lưu lượng đỉnh lũ QMAX .

Bảng 2 - Sự thay đổi một số đặc trưng lũ khi rừng giảm 

Lưu vực Trận lũTỷ lệ rừngtương ứng

TL(h) Q (m3/s)QMAX (m3/s)

Nà Hừ

(155 km2)

14-VII-1974

30-VII-1987

14%

7%

6

3

24,0

106

74,0

1461

Pa Há

(493km2)

7-VII-1964

18-VII-1974

32%

16%

11

4

7,5

130

175

580

M.CangChải

(230km2)

22-VI-1984

12-VI-1989

32%

27%

10

5

90

80

170

230

 ở nhiều lưu vực, modun dòng chảy đỉnh lũ và modun dòng chảy cát bùn lơ lửng tăng lên rõ rệt khi tỷ lệ rừng giảm. Kết quả xác định định tính và định lượng ảnh hưởng của rừng, lớp phủ thực vật đến sự hình thành lũ quét được đưa vào phân vùng phân tích khả năng xuất hiện lũ quét.

Sự biến đổi của rừng là nhân tố ảnh hưởng quan trọng đến sự hình thành lũ quét, có trường hợp là nguyên nhân chủ yếu gây ra lũ quét. Biết bảo vệ rừng, hơn thế nữa biết trồng rừng để bù đắp lại phần đã bị khai phá, rừng sẽ là bộ máy điều tiết lũ, nó có tác dụng giảm tốc độ dòng chảy mặt, tăng dòng chảy ngầm (chậm lũ), hạn chế sạt lở.v.v... và làm giảm tác hại của lũ quét; thậm chí có trường hợp không để xảy ra lũ quét. Ngược lại, nếu khai thác rừng một cách bừa bãi, nguy hại hơn là để cháy rừng, dẫn đến thảm họa lũ và lũ quét.

3.4. Tác động của con người góp vào việc để xảy ra lũ quét Hoạt động dân sinh kinh tế có ảnh hưởng rõ rệt đối với việc hình thành lũ quét, có những trường hợp có ảnh hưởng quyết định đối với việc hình thành lũ quét. Cùng một lượng và cường độ mưa, nếu lưu vực được bảo vệ rừng tốt có thể không gây ra lũ quét; ngược lại, nếu rừng bị phá, sông suối tiêu thoát kém, là điều kiện làm tăng lũ quét.

Hoạt động dân sinh kinh tế góp phần vào việc gây ra lũ quét chủ yếu do các loại sau:

Page 16: Lũ quét

Hình 1 - Bản đồ độ che phủ rừng Việt Nam năm 1943

Hình 2 - Bản đồ độ che phủ rừng Việt Nam năm 1995

3.4.1. Phát triển dân số Sự phát triển dân số có ảnh hưởng nhiều mặt đến việc hình thành lũ quét, rõ ràng là dân số càng tăng thì các hoạt động kinh tế, xã hội cũng tăng theo, dẫn đến việc làm biến đổi khí hậu, thời tiết và nhiệt độ bề mặt trái đất càng tăng làm cho môi trường suy thoái, khí hậu biến đổi. Sự tổng kết nguyên nhân xẩy ra lũ lụt liên tiếp ở Trung Quốc trong những năm gầm đây, nhất là trận lụt xảy ra năm 1998 đã xác nhận điều đó.

Sự gia tăng dân số dẫn đến các vùng dân cư được mở rộng, dẫn đến nhiều vùng đất bị nhựa hoá, bê tông hoá, làm cho lượng nước ngấm xuống đất bị giảm đi, dòng chảy ngầm hạn chế, dòng chảy mặt tăng lên, nhiều hồ ao bị lấp, nhiều đoạn sông bị co thắt đã gây ra hiện tượng chậm lũ và tiêu lũ kém.

Dân số ngày càng phát triển đông, chẳng những làm gia tăng tác hại của lũ quét, mà còn gây ra các trận lũ quét nhân tạo. Thí dụ tai nạn xảy ra ngay giai đoạn đầu xây dựng công trình thuỷ lợi Adun Hạ (Gia lai), việc vỡ một hồ nhỏ trên lưu vực trong trận lũ tháng 6/1990 trên lưu vực suối Nậm lay, Lai châu đã gây ra một số thiệt hại, hoặc ở nước ngoài, tại Cộng hoà Liên Bang Nga hồi tháng 8/1994 đã vỡ đập nước làm cho hơn 2000 người chết.v.v.

3.4.2. Phát triển nông, công nghiệp Song song với việc phát triển nông thôn, công nghiệp cũng phát triển không ngừng, bình quân mỗi năm tăng 13%, các khu công nghiệp chiếm các khu đất rộng lớn làm các khu vực này bị nhựa hóa và bê tông hóa, có nơi còn làm tắc nghẽn đường thoát lũ. Đặc biệt là ở các khu khai thác mỏ, lượng đất san ủi lớn đã làm thay đổi môi trường, nếu không có quy hoạch ắt gây ra những tác hại khôn lường. Chẳng hạn khu công nghiệp Tuyên Quang tại hai xã Xuân Giao và Tăng Long lưu vực Ngòi Thia, sông Thao, trong giai đoạn thi công khối lượng đào đất đá rất lớn, ở xã Xuân Giao có 4 đường sắt và hai đường bộ đi qua, làm cho bề mặt lưu vực bị cầy xới ngổn ngang, nhiều đoạn suối bị đất đá xô xuống gây co hẹp lòng dẫn; làm cho lòng dẫn thay đổi lớn, vì thế khi có mưa lớn kéo dài, dòng nước từ các sườn núi ào ạt tràn xuống lòng sông suối nơi bị tắc, ứ tạm thời, dẫn đến tình trạng phá vỡ các vùng tắc ứ, tạo dòng dẫn mới, có sức tàn phá rất lớn, gây ra lũ quét nguy hiểm.

3.4.3 Phát triển khu dân cư, xây dựng các công trình Giao thông, Thuỷ lợi và các cơ sở hạ tầng thiếu quy hoạch Xem xét một số các khu vực đã xảy ra lũ quét cho thấy ngoài những tác động vào lưu vực còn do các nguyên nhân:

- Xây dựng các khu vực dân cư, xây dựng các công trình hạ tầng như đường xá, cầu cống và vùng canh tác không theo quy hoạch.

- Làm ách tắc đột ngột đường thoát lũ.

- Xây dựng hệ thống công trình thuỷ lợi thiếu quy hoạch

Page 17: Lũ quét

Có nhiều hoạt động của con người trên các sông suối như xây đập các cỡ, xây dựng các công trình trên sông hoặc ven sông làm lòng sông thu hẹp,... chưa được tính toán đầy đủ về độ ổn định, an toàn, khả năng cắt lũ, trữ lũ và bùn đá, ảnh hưởng tới khả năng thoát lũ sau các điểm quần cư.

Việc xây dựng các công trình thủy lợi, thủy điện, giao thông trên sông thiếu quy hoạch thường gây ra cản trở dòng chảy, nhất là tính toán không đúng với tần suất lũ có khi gây vỡ công trình làm tăng tính ác liệt hoặc là nguyên nhân chính gây ra lũ quét. Thí dụ:

- Công trình thuỷ nông Huổi Phàn khi thiết kế dựa vào tài liệu thuỷ văn từ 1959-1964, lưu lượng lớn nhất 3.000m3/s; ngày 17/7/1994 lũ lịch sử đã xảy ra với lưu lượng đỉnh lũ 4.090m3/s, hậu quả là công trình đã bị vỡ.

- Việc xây dựng các hồ chứa nước kiểu bậc thang ở Đắc Lắc, các hồ chứa nước này chỉ thiết kế với tần suất P = 5%, khi gặp lũ lớn khẩu diện tràn không đủ tiêu đã dâng cao làm vỡ đập đất. Khi hồ chứa nước ở phía thượng lưu bị vỡ sóng lũ tràn xuống các hồ phía hạ lưu đã gây ra vỡ liên tiếp 4 hồ chứa nuớc và kéo theo 4 đập bối dâng nước khác cũng bị vỡ. Các hồ, đập này vỡ, gây ra sóng lũ quét làm trôi 22 nhà, thiệt hại tài sản của 38 nhà khác, chết 22 người.

3.4.4. Chặt phá và cháy rừng ở Việt Nam cháy rừng là hiện tượng thường xuyên xảy ra, nhưng về mức độ nhiều năm không thể thống kê được đầy đủ. Trong 36 năm qua, từ năm 1963 đến năm 1998 cả nước đã xảy ra 5.492 vụ cháy rừng, thiêu huỷ 630.059 ha rừng kinh tế bao gồm rừng trồng và rừng tự nhiên, chưa kể hàng chục vạn ha đồng cỏ, cây bụi lúp xúp.

Cháy rừng đã gây ra nhiều tác động suy thoái môi trường, trong đó tác động phá vỡ cấu tượng đất, do mất lớp thảm mục nên đã làm tăng độ chặt của lớp đất mặt và dẫn đến làm giảm khả năng thấm nước của đất, gây xói mòn, rửa trôi, làm bạc màu đất, làm mất khả năng giữ nước, điều tiết nước, gây ra lũ lụt. Mặt khác, làm tăng nhiệt độ mặt đất dẫn đến hiện tượng sa mạc hoá, gây nên lũ quét, lũ bùn đá.

3.4.5. Khai thác lưu vực Khai thác lưu vực là cách nhìn tổng quát mọi hình thức hoạt động của con người trên lưu vực, có thể khái quát thành 2 nhóm:

· Nhóm khai thác phổ biến tức là khai thác trên diện rộng, làm biến đổi lớp phủ thực vật và lớp đất bề mặt thường diễn ra ở cả khu vực sinh lũ và chịu lũ như việc khai thác gỗ, củi, phá rừng, đốt nương làm rẫy v...v.

· Nhóm khai thác cục bộ bao gồm các hoạt động khai thác trong từng khu vực của lưu vực, địa phương gây biến đổi sâu sắc điều kiện mặt đệm, địa hình, tầng đất mặt, lòng dẫn, làm thay đổi đặc tính thuỷ lực dòng nước, gồm các hoạt động như khai mỏ, khai thác tài nguyên, khoáng sản, đào vàng, xây dựng nhà cửa, cầu cống, đường xá, đập ngăn nước, các công trình thuỷ lợi, thuỷ điện.

Qúa trình khai thác lưu vực làm thay đổi đặc tính, cấu trúc đất, lớp phủ thực vật trên đó bao gồm cả việc làm thay đổi địa hình, địa mạo đều có ảnh hưởng tới sự hình thành lũ quét.

3.5. Phân vùng khả năng xuất hiện lũ quét

Page 18: Lũ quét

ở vùng núi phía bắc, lũ quét thường xảy ra trong khoảng từ tháng VI đến tháng X, tập trung vào giai đoạn đầu mùa mưa khoảng tháng VI, tháng VII, sau đó chuyển dần vào phía nam. ở Miền Trung và Tây Nguyên, lũ quét xảy ra trong các tháng từ tháng X đến tháng XII (nhiều nhất vào tháng X).

3.5.1. Các vùng có nhiều khả năng xuất hiện lũ quét - Miền Bắc:

+ ở hữu ngạn sông Đà :

* Các lưu vực sông Nậm Pô, Nậm Mức huyện Mường Tè, Mường Lay, Lai Châu.

* Nậm Pàn, Nậm La tỉnh Sơn La

+ ở thượng nguồn sông Chảy thuộc tỉnh Lào Cai

+ ở hữu ngạn sông Thao

* Khu vực ngòi Đum, ngòi Đường thuộc tỉnh Lào Cai

+ ở thượng nguồn sông Cầu thuộc tỉnh Bắc Cạn.

- Miền Trung:

+ ở hữu ngạn sông Mã (Thanh Hoá)

* Lưu vực khe Luồng

+ ở hữu ngạn sông Cả ( Nghệ An)

* Lưu vực khe Choang

+ Sông Đại Giang thuộc Lệ Thuỷ tỉnh Quảng Bình.

+ Thượng nguồn sông Bến Hải tỉnh Quảng Trị.

+ Thượng nguồn sông Hương thuộc tỉnh Thừa Thiên – Huế.

+ Vùng A Lưới tỉnh Thừa Thiên – Huế.

+ Thượng nguồn sông Thu Bồn thuộc tỉnh Quảng Nam

+ ở hữu ngạn sông Đà Rằng

* Sông Hinh thuộc tỉnh Phú Yên

3.5.2. Những vùng có khả năng xuất hiện lũ quét - Miền Bắc

+ ở tả ngạn sông Đà

* Phần lớn lưu vực sông Nậm Mu.

Page 19: Lũ quét

* Các huyện Than Uyên, Phong Thổ, Mù Căng Chải thuộc sườn dãy Hoàng Liên Sơn.

+ ở hữu ngạn sông Thao

* Thượng nguồn ngòi Thia thuộc tỉnh Yên Bái.

+ ở hữu ngạn sông Lô

* Ngòi Nạc thuộc Vĩnh Tuy tỉnh Hà Giang.

+ Các huyện Phổ Yên, Đại Từ, Đình Cả và Võ Nhai thuộc tỉnh Thái Nguyên.

+ Các lưu vực sông suối nhỏ thuộc các tỉnh Cao Bằng, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hoà Bình...

- Miền Trung và khu vực Tây Nguyên:

+ ở hữu ngạn sông Cả

* Sông Ngàn Sâu, sông Ngàn Phố thuộc tỉnh Hà Tĩnh

+ ở hữu ngạn sông Gianh thuộc tỉnh Quảng Bình.

* Sông Rào Nam

* Thượng nguồn sông Dinh

+ Thượng nguồn sông Ba Tơ thuộc tỉnh Quảng Ngãi.

+ Thượng nguồn sông Cái Phan Rang, sông Luỹ, sông Cà Ty (Bình Thuận)

+ Thượng nguồn sông Srê Pôc thuộc tỉnh Đắc Lắc.

- ở miền Đông Nam Bộ: thượng nguồn sông La Ngà, Sông Bé thuộc tỉnh Đồng Nai.

Dựa vào số liệu thống kê các trận lũ quét đã xẩy ra ở các vùng trong cả nước, khoanh vùng chịu tác động của lũ quét hoặc có nguy cơ xảy ra lũ quét trong tương lai, đặc biệt là với các vùng dễ xảy ra sạt lở đất và tạo ra lũ quét nghẽn dòng.

Hình 3: Phân vùng đã xảy ra lũ quét

Page 20: Lũ quét

 

Hình 4- Phân vùng nguy cơ xảy ra lũ quét

Chương IV : Chiến lược phòng chống lũ quét

4.1 Chiến lược phòng chống lâu dài Để góp phần phát triển bền vững, trong chiến lược phòng chống và giảm nhẹ thiên tai lâu dài của Việt Nam, chiến lược phòng chống lũ quét phải nhằm thực hiện các mục tiêu :

- Giảm tổn thất về người, sinh mạng.

- Giảm thiệt hại của cải vật chất của xã hội.

- Giảm sự ngừng trệ về sản xuất, nhanh chóng phục hồi sản xuất, ổn định đời sống của nhân dân.

- Giảm sự nguy cơ ngày càng gia tăng mức độ của lũ quét.

4.2 Các biện pháp phòng tránh lũ quét Thông thường, các biện pháp phòng tránh thiên tai nói chung, phòng tránh lũ quét nói riêng ở trên thế giới cũng như ở Việt Nam đều được phân ra làm hai loại: biện pháp công trình và biện pháp phi công trình. Mỗi loại biện pháp có những ý nghĩa, tác dụng khác nhau và thường được sử dụng hỗn hợp nhằm hỗ trợ nhau khắc phục những tác động của thiên tai.

4.2.1Các biện pháp mang tính khái quát, định hướng chiến lược Các biện pháp có tính tổng quát, định hướng là:

- Xây dựng chính sách về lũ quét đặt chung trong chính sách về phòng chống thiên tai, Nhà nước cử ra một cơ quan đứng đầu có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan liên quan để hoạch định chính sách và tổ chức chỉ đạo thực hiện. Đối với Việt Nam, cơ quan đứng đầu là Ban Chỉ Đạo phòng chống lụt bão Trung ương và thường trực là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan thành viên trong Ban Chỉ Đạo để thực hiện công tác chỉ đạo phòng chống lũ quét. ở các cấp từ tỉnh đến xã, mỗi cấp có Ban Chỉ Huy Phòng chống lụt bão chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện các kế hoạch và phương án phòng chống lụt bão nói chung, đặc biệt là các địa phương miền núi quan tâm chỉ đạo thực hiện các phương án phòng chống lũ quét ở địa phương mình.

- Hình thành một hệ thống biện pháp tổng hợp bao gồm các biện pháp quản lý lưu vực ở cả khu sinh lũ và khu chịu lũ, trong đó, nghiên cứu xây dựng hệ thống các biện pháp phòng, chống phải bao gồm cả các điều kiện tự nhiên như: Các thông tin vật lý của lưu vực, các phân tích điều kiện mưa, lũ, các nguy cơ tàn phá của lũ quét... và các điều kiện kinh tế, xã hội, môi trường, các dự án dự kiến phát triển trong tương lai. Cuối cùng là việc xây dựng luật pháp và các quy định dưới luật để việc quản lý được thống nhất và phân công trách nhiệm thực hiện.

Page 21: Lũ quét

4.2.2Các biện pháp cụ thể để giảm nhẹ thiệt hại do lũ quét gây ra a) Các biện pháp công trình

- Trồng và bảo vệ rừng phòng hộ đầu nguồn

Từ những phân tích các nguyên nhân hình thành lũ quét nêu ở các phần trên, để đề phòng lũ lụt nói chung và lũ quét nói riêng cần phải tích cực khôi phục rừng phòng hộ đầu nguồn, đặc biệt là các khu vực thường gây ra lũ quét, nhằm bảo vệ môi trường sinh thái, nhanh chóng trả lại cơ chế bão hoà cho lưu vực, hạn chế khả năng tập trung dòng chảy lũ.

- Xây dựng hồ chứa điều tiết lũ ở khu vực thường xẩy ra lũ quét.

ở các khu vực thường xẩy ra lũ quét cần được nghiên cứu kết hợp với việc quy hoạch khai thác trị thuỷ, xây dựng các hồ chứa nước đa tác dụng: chống lũ, tích nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, phát điện...kết hợp với việc điều tiết lũ, phòng chống lũ quét.

- Khai thông các đường thoát lũ.

Tổ chức khai thông các đường tập trung lũ ở phía thượng lưu các khu vực cần bảo vệ nhằm mục đích không để sinh ra hiện tượng tắc nghẽn dòng chảy, tích tụ nước tạo ra lũ quét nghẽn dòng. Đồng thời cũng phải tổ chức khai thông các đường dẫn lũ ở phía hạ lưu các khu vực cần bảo vệ để đề phòng hiện tượng tắc ứ sinh ra ngập lụt.

- Xây dựng đê, tường chắn lũ quét.

ở các khu vực có điều kiện xây dựng công trình ngăn lũ quét có thể nghiên cứu xây dựng các tuyến đê hoặc tường chắn lũ quét để giữ dòng lũ chảy trong lòng dẫn, ngăn chặn các tác động của lũ quét đối với khu vực cần bảo vệ.

- Phân dòng lũ

Dựa vào địa hình có thể nghiên cứu phân dòng lũ nhằm làm giảm tác động của lũ quét vào khu vực cần bảo vệ. Phân lũ quét đi lệch sang các sông nhánh bằng cách tạo ra kênh hay đường dẫn lũ kéo lệch pha, lệch đỉnh, hạn chế khả năng tập trung lũ tàn phá khu vực cần bảo vệ.

- Xây dựng bổ sung các tràn sự cố ở các hồ chứa nước

Để đề phòng sự cố ở các hồ chứa nước gây ra lũ quét nhân tạo cần phải gấp rút xây dựng bổ sung các tràn sự cố cho các hồ này đồng thời với việc xây dựng các phương án phòng chống lụt bão cho hồ chứa nước, bố trí đủ vật tư, phương tiện và lực lượng cần thiết để có thể khắc phục được ngay những sự cố do lũ, bão gây ra.

- Mở rộng khẩu độ thoát lũ của hệ thống cầu cống của đường sắt Thống nhất và đường Quốc lộ 1A thuộc địa phận các tỉnh Miền Trung.

Do đặc điểm các sông của miền Trung ngắn và dốc, để tránh tình trạng làm cản dòng lũ gây ra ngập lụt, lũ quét và ách tắc giao thông ở khu vực các tỉnh miền Trung thường diễn ra hàng năm cần phải tính toán quy hoạch tiêu lũ của các hệ thống cầu cống trên hai hệ thống đường này. Đối với những vùng cần tiêu thoát lượng nước lớn cần phải mở rộng thêm khẩu độ các cầu cống, hoặc có thể làm các hệ thống cầu cạn để tạo cho việc tiêu thoát nhanh nước lũ ra biển.

Các biện pháp công trình thường tác động trực tiếp vào dòng lũ quét nhằm chống lại những tác

Page 22: Lũ quét

động phá hoại của chúng. Để áp dụng các biện pháp công trình nêu trên cần xuất phát từ điều kiện cụ thể của lưu vực sinh ra lũ quét và khu vực cần bảo vệ. Việc phối hợp hệ thống các biện pháp công trình từ khu sinh lũ đến khu vực chịu lũ cho phép làm giảm, hạn chế các tác hại do lũ quét gây ra, thậm chí có thể loại trừ được lũ quét cho vùng chịu lũ. Đây là vấn đề phức tạp đòi hỏi phải giải quyết bài toán quy hoạch trên cơ sở những nghiên cứu cơ bản về lũ quét.

b) Các biện pháp phi công trình

Các biện pháp phi công trình không tác động trực tiếp vào dòng chảy lũ nhưng lại tác động vào nguyên nhân, cơ chế hình thành lũ quét nên cũng có thể hạn chế được những tác hại của lũ quét, thậm chí còn có thể triệt tiêu lũ quét. Những biện pháp phi công trình không làm biến đổi đột ngột điều kiện môi trường trên lưu vực, đồng thời đảm bảo sự phát triển lâu bền và mang tính xã hội cao.

Các biện pháp phi công trình được kết hợp một cách hài hoà với biện pháp công trình, hỗ trợ biện pháp công trình phát huy hiệu quả cao trong việc đối phó với lũ quét.

Các biện pháp phi công trình bao gồm:

- Lập bản đồ những nơi xảy ra lũ quét và những nơi nguy hiểm

+ Khảo sát điều tra, tìm kiếm và phát hiện những vùng có nguy cơ về lũ quét, đặc biệt là loại lũ quét nghẽn dòng Dựa trên đặc điểm địa hình, địa mạo, kết hợp với phương pháp thống kê những trận lũ đã từng xảy ra của từng khu vực để phát hiện những vùng có nguy cơ cao về lũ quét. + Lập bản đồ có nguy cơ xảy ra lũ quét. Việc lập bản đồ vùng có nguy cơ xảy ra lũ quét được kết hợp với các bản đồ theo dõi các loại thiên tai khác tạo ra một bức tranh đầy đủ về vùng bị ảnh hưởng của thiên tai. Các đầu vào bao gồm: Phân tích tần suất, các bản đồ vùng bị ảnh hưởng, tần suất lũ, các báo cáo thiệt hại, các bản đồ độ dốc và các bản đồ liên quan khác như bản đồ sử dụng đất, thảm phủ thực vật, mật độ dân số và các bản đồ cơ sở hạ tầng. - Dự báo và Cảnh báo lũ quét

Căn cứ vào tài liệu thống kê các trận lũ quét đã xảy ra trong quá khứ, khoanh vùng có khả năng xảy ra lũ quét để đề phòng, đặc biệt quan tâm các khu vực dễ xảy ra hiện tượng sạt lở đất làm tích tụ nước, tạo ra lũ quét nghẽn dòng. Căn cứ các vết lũ hoặc các tàn tích do lũ quét gây ra thiệt hại dùng làm cơ sở để xây dựng các quy hoạch phòng ngừa lâu dài hoặc xây dựng phương án phòng, chống lũ quét hàng năm. Hệ thống cảnh báo gồm các khái niệm là “Chuẩn bị - Sẵn sàng - Thực hiện” , trong đó các khái niệm đựơc hiểu như sau: Chuẩn bị: Dự đoán các sự kiện thời tiết khắc nghiệt liên quan đến lũ có thể xảy ra trong tương lai gần (trong khoảng 6h, 12h)

Sẵn sàng: Báo động trước các sự kiện liên quan đến lũ có thể xảy ra ở một địa điểm đã xác định tương đối cụ thể ở trong tương lai gần (chẳng hạn chậm nhất 2 giờ trước khi xẩy ra lũ…)

Thực hiện: Cảnh báo lũ (chẳng hạn muộn nhất là trong vòng 1h trước khi xẩy ra lũ quét) ở một địa điểm cụ thể của địa phương.

+ Nền tảng của công tác dự báo, cảnh báo.

Page 23: Lũ quét

Đối với lũ quét thường xảy ra trong một thời gian rất ngắn nên không cho phép dùng các biện pháp quan trắc như ở trên các sông lớn để cảnh báo lũ. Bởi vì mưa lớn mặc dù có thể biết trước được song vì lượng mưa và cường độ mưa ta chỉ có thể được biết khi mưa đã chấm dứt mà khi mưa chấm dứt như trên đã nói lũ có thể xảy ra ngay lập tức, như vậy công tác dự báo và cảnh báo thường khó đáp ứng yêu cầu của công tác phòng chống. Nếu chỉ dự báo định tính lũ quét từ trước khi có mưa thì mức độ chính xác rất thấp, có khi lại gây ra lãng phí cho công tác chuẩn bị phòng chống. Ngoài ra, việc dự báo các trận mưa do ảnh hưởng của địa hình hoặc các hình thế thời tiết đặc biệt mang tính chất cục bộ địa phương là một việc làm rất khó khăn hoặc hầu như không thực hiện được. Trong trường hợp này chỉ có thể dùng những kinh nghiệm địa phương.

Để dự báo lũ quét cần phải thiết lập hệ thống được gọi là Báo động (ALERT) để tự động báo động tại chỗ mới đáp ứng yêu cầu về giảm nhẹ thiệt hại.

Hệ thống cảnh báo lũ quét

 Hệ thống này bao gồm 3 lọai trạm: Trạm đo mưa, mực nước, trạm trung chuyển và trạm báo động. Trạm đo mưa, mực nước là hệ thống đo đạc tự động và phát tín hiệu báo động khi mưa, mực nước trên sông lên đến mức nguy hiểm. Trạm trung chuyển có nhiệm vụ tiếp nhận những số liệu, tín hiệu báo động của trạm mưa, lũ, xử lý số liệu rồi chuyển về trạm báo động. Trạm báo động thường được đặt ở đồn cảnh sát hoặc gần các khu dân cư, các khu kinh tế cần phải bảo vệ và có nhiệm vụ phát tín hiệu cảnh báo lũ cho công chúng.

+ Hệ thống dự báo, cảnh báo và vận hành hệ thống.

Các bộ phận của một hệ thống cảnh báo lũ hoàn chỉnh bao gồm:

- Bộ phận dự báo các sự kiện thời tiết khắc nghiệt

Đây là bộ phận quan trọng của toàn bộ hệ thống và cũng là bộ phận phức tạp nhất. Năng lực của các nhân viên điêù hành bộ phận này là hết sức quan trọng.

Các yêu cầu ở đây là lưu trữ số liệu khí tượng sinop cơ bản, các số liệu của trạm đo tự động, các số liệu và ảnh vệ tinh, ảnh do các trạm ra đa thời tiết cung cấp. Thêm vào đó là các trang thiết bị, các phần mềm máy tính để khai toán các thông tin phức tạp trong một khoảng thời gian ngắn nhằm phục vụ kịp thời cho việc dự báo lũ quét.

Các số liệu dự báo do các mô hình thời tiết toàn cầu, dự báo mưa số trị sẽ là những trợ giúp đắc lực có ích cần tham khảo trong cảnh báo, dự báo lũ quét.

- Sử dụng Ra đa thời tiết để dự báo mưa.

Sử dụng các Ra đa thời tiết chuyên dụng để thiết lập bản đồ chi tiết về mưa. Việc sử dụng các Ra đa này sẽ mang lại một số kết quả sau:

* Đánh giá chính xác hơn lượng mưa, đặc biệt là ở các lưu vực nhỏ, sự phân bố lượng mưa trong các không gian hẹp.

Page 24: Lũ quét

* Có khả năng theo dõi các diễn biến, đặc biệt là nơi đổ bộ của bão.

- Hệ thống trạm đo thuỷ văn

Các số liệu đo mưa mặt đất là rất cần thiết để hiệu chỉnh bản đồ mưa do Ra đa cung cấp. Hệ thống trạm đo mưa có nhiệm vụ cung cấp kịp thời các thông tin cần thiết để dự báo lũ. Mật độ trạm đo và chất lượng số liệu mưa cũng rất quan trọng bởi vì trong thực tế có nhiều trạm đo không đại biểu cho lưu vực. Các số liệu đo dòng chảy cũng rất cần thiết dùng để hiệu chỉnh các kết quả dự báo thuỷ văn và diễn toán lũ (chẳng hạn như các số liệu lũ lịch sử, số thực đo v..v)

Trong trường hợp không có giải pháp nào khác thay thế để đưa ra thông tin cảnh báo ở giai đoạn “sẵn sàng” thì có thể dùng các số liệu dự báo mưa.

- Các Mô hình thuỷ văn

Sử dụng kết quả các trận lũ quét đã khảo sát để thiết lập các mô hình phục vụ việc tính toán dự báo.

- Hệ thống thông tin

Các yêu cầu cơ bản về thông tin cần trong hệ thống cảnh báo lũ quét là việc thu thập thông tin và truyền bá kịp thời các thông tin đó.

Hệ thống thông tin này phải bảo đảm là thu thập được các số liệu thuỷ văn từ các trạm quan sát nằm rải rác khắp nơi trong khu vực và từ các “trung tâm thu thập thông tin”.

Thông thường thì hệ thống thông tin dễ bị thương tổn trong khi thiên tai xảy ra, nhưng do tính chất quan trọng của công tác dự báo, yêu cầu rằng mức độ hỏng hóc của hệ thống thông tin là phải thấp, riêng đối với các khu vực được yêu cầu bảo vệ đặc biệt cần phải có các hệ thống thông tin dự phòng.

- Quản lý sử dụng đất

Thường phải cân bằng giữa hai mặt đối lập là sử dụng quỹ đất hiệu quả, đồng thời phải hạn chế sự phát triển vùng xung yếu gây nên lũ quét. Đối với các vùng thường xảy ra lũ quét, công tác quản lý sử dụng đất được phối hợp chặt chẽ với cuộc vận động định canh định cư, gồm các hoạt động như phân vùng sử dụng đất, quy hoạch sử dụng đất.

- Điều chỉnh các điểm định cư

Điều chỉnh các điểm định cư tránh những khu vực lũ quét thường gây tác động và phát quang lòng dẫn là hai biện pháp đi liền nhau đối với những vùng ven sông bị lũ quét đe dọa, đặc biệt là đối với các khu dân cư đã phát triển thiếu quy hoạch trước đây.

- Điều chỉnh điều kiện mặt đệm lưu vực và các khu trữ lũ.

Thực hiện biện pháp "nông, lâm kết hợp" không chỉ bảo đảm chống xói mòn, tập trung dòng chảy lũ quét mà còn cải tạo đất, đảm bảo năng suất cây trồng, phát huy hiệu quả sử dụng đất.

- Sơ tán khỏi vùng lũ quét.

Đối với các vùng thường xẩy ra lũ quét phải có phương án bao gồm việc chuẩn bị bảo vệ các tài

Page 25: Lũ quét

sản, lương thực ở những vị trí cao ráo đề phòng lũ quét gây ra trôi, ngập lụt. Có phương án sơ tán người lên các vùng cao và những địa điểm an toàn, nhất là đối với người già, trẻ em. Để thực hiện công tác này có hiệu quả thì việc cảnh báo sớm phải được làm trước một bước. Bên cạnh đó để người dân có ý thức chủ động thì các kế hoạch về di dân phải được tuyên truyền đến cộng đồng trước đó.

- Hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật

Để giảm nhẹ các thiệt hại do lũ quét gây ra cần tăng cường biện pháp quản lý bằng pháp luật như bảo vệ các khu vực rừng phòng hộ, quản lý các lưu vực sinh lũ và khu vực chịu lũ để hạn chế các hành vi làm gia tăng lũ quét và gia tăng thiệt hại do lũ quét gây ra.

- Các hoạt động sơ tán, tìm kiếm và cứu trợ khi lũ quét xảy ra

Thành lập các đơn vị xung kích cứu nạn để sẵn sàng làm nhiệm vụ giúp dân sơ tán, tìm kiếm, cứu trợ, cấp cứu người bảo vệ tài sản trong thời gian có lũ quét.

- Tổ chức nghiên cứu về lũ quét

Căn cứ vào tình hình xuất hiện lũ quét trong những năm gần đây, tổ chức điều tra thu thập các tài liệu để có những nghiên cứu sâu về đặc điểm xuất hiện lũ quét, xây dựng một số sự án điển hình về hạn chế sự phát triển và tác hại do lũ quét gây ra. Tổng kết, rút kinh nghiệm để áp dụng chung cho khu vực và cho toàn quốc.

- Nghiên cứu, ban hành các chính sách có liên quan đến quản lý lũ quét

- Soát xét các chế độ chính sách có liên quan đến quản lý rừng, đất đai.

- Xây dựng các chính sách có liên quan đến quản lý thiên tai lũ quét.

- Tuyên truyền giáo dục về lũ và lũ quét, huấn luyện tập dượt các phương án phòng chống lũ

Việc giảm nhẹ thiệt hại do lũ quét gây ra có liên quan mật thiết tới sự hiểu biết các đặc điểm của lũ quét của cộng đồng để phòng tránh và đối phó với lũ quét là rất cần thiết.

Phải coi trọng và tăng cường làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục cho toàn dân hiểu về pháp lệnh Phòng Chống Lụt Bão, hiểu rõ nguy cơ và tác hại của lũ quét nhằm nâng cao tinh thần cảnh giác cho mọi người dân để họ tự lo bảo vệ mình và góp phần tham gia phối hợp, bảo vệ cộng đồng.

Phương pháp tuyên truyền bằng nhiều hình thức: Chiếu băng hình trên ti vi, đăng bài trên báo địa phương, ở vùng sâu, vùng xa tổ chức quán triệt đến cán bộ cấp xã, mời đi tham quan diễn tập để khi về họ tự tổ chức tại xã mình, bản mình.

- Cơ cấu tổ chức

Phòng chống lụt bão là sự nghiệp của toàn dân, đồng thời là nghĩa vụ của mọi người nên phải có sự lãnh đạo và chỉ đạo chặt chẽ của các cấp uỷ Đảng và chính quyền các cấp (nhất là chính quyền các cơ sở). Nhà nước ta đã ban hành Pháp lệnh về phòng chống lụt bão, và gần đây Quốc hội đã thông qua Luật tài nguyên nước trong đó có phần nói về phòng chống lụt bão. Thủ tướng Chính phủ, Ban chỉ đạo phòng chống lụt bão Trung ương, các Bộ, Ngành, Chủ tịch UBND tỉnh, huyện hằng năm đều có chỉ thị đôn đốc công tác phòng chống lụt bão và giảm nhẹ thiên tai. Kinh

Page 26: Lũ quét

nghiệm cho thấy nơi nào chính quyền cấp cơ sở có trách nhiệm cao, có kế hoạch và phương án phòng tránh cụ thể, tích cực thì ở đó vai trò, sức mạnh của quần chúng được phát huy và chủ động khi tình huống xẩy ra.

Tài liệu tham khảo

1. PGS. TS. Cao Đăng Dư, PGS. TS. Lê Bắc Hùynh, 2000. Lũ quét nguyên nhân và biện pháp phòng tránh.

2. PGS. TS. Lê Bắc Huỳnh, 1993. Về nguyên nhân, cơ chế hình thành và vận động lũ quét.

3. TS. Nguyễn Viết Thi, 1998. Công tác dự báo mưa, lũ và lũ quét ở Việt Nam.

4. TS. Nguyễn Viết Thi, 1999. Các biện pháp phòng tránh lũ quét ở Việt Nam.

5. TS. Nguyễn Viết Thi, 2004. Các hình thế thời tiết gây mưa sinh lũ quét và khả năng cảnh báo, dự báo lũ quét ở Việt Nam.

6. Lũ quét- Thiệt hại và các biện pháp phòng chống CụcPCLB&QLĐĐ- 2000