LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa...

74
1 LỜI GIỚI THIỆU Thuật ngữ văn hóa dân gian "folklore" được W J.Thom sử dụng đầu tiên vào năm 1846 để chỉ "phong tục, tập quán, nghi thức, mê tín, ca dao, tục ngữ... của người thời trước". Từ đó đến nay, bộ môn văn hóa dân gian học đã ra đời, phát triển và đạt nhiều thành tích nổi bật. Ở Việt Nam, thuật ngữ "folklore" được sử dụng từ lâu và tùy theo mỗi thời kỳ được dịch ra tiếng Việt là "văn học dân gian", "văn nghệ dân gian" và nay là "văn hóa dân gian". Các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian nước ta đã triển khai việc sưu tầm, nghiên cứu văn hóa dân gian trên nhiều lĩnh vực, với hàng ngàn công trình có chất lượng. Tại Đà Nẵng, ngay từ thế kỷ XVI, XVII… Tiến sĩ Dương Văn An trong tác phẩm “Ô Châu cận lục”, Cristophoro Borri trong “Xứ Dàng Trong năm 1621” và nhiều tác giả khác đã những ghi chép rải rác về văn hóa dân gian Đà Nẵng Từ năm 1975 trở về sau, nhiều tập sách, công trình đậm chất văn hóa dân gian lần lượt ra đời như “Văn nghệ dân gian Quảng Nam – Đà Nẵng” của Nguyễn Văn Bổn, “Tín ngưỡng thờ Nữ thần của người Việt ở xứ Quảng (Quảng Nam - Đà Nẵng)“ của Nguyễn Xuân Hương, “Văn hoá dân gian Hoà Vang” của Võ Văn Hòe, “Chuyện làng nghề đất Quảng” của Phạm Hữu Đăng Đạt, đặc biệt là Tổng tập văn hóa dân gian đất Quảng của Hội Văn nghệ dân gian Đà Nẵng… Đồng thời, nhiều bài viết, bài nghiên cứu có nội dung về văn hóa dân gian được công bố rộng rãi trên báo, tạp chí Trung ương và địa phương, đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn hóa, văn nghệ dân gian của thành phố Đà Nẵng. Để thực hiện kế hoạch Số 1700/KH-UBND của Ủy ban Nhân dân thành phố Đà Nẵng, song song với việc tuyên truyền, phổ biến cũng như tổ chức các hoạt động hưởng ứng Ngày Sách Việt Nam lần thứ 2, Thư viện Khoa học Tổng hợp Đà Nẵng chủ trương xuất bản tập thư mục chuyên đề “Văn hóa dân gian Đà Nẵng”. Tập thư mục gồm hai phần chính là Thư mục toàn văn và Thư mục chỉ chỗ. Thư mục toàn văn giới thiệu những bài biết, bài nghiên cứu về văn hóa dân gian trên tất cả các lĩnh vực, từ ẩm thực đến làng nghề, phong tục tập quán, lễ hội và nhiều vấn đề khác. Thư mục chỉ chỗ giúp độc giả có thể dễ dàng tra tìm những bài biết, bài nghiên cứu, những tập sách có nội dung mà mình quan tâm. Mặc dù có nhiều cố gắng nhưng do công tác sưu tầm, tập hợp tư liệu, sách báo còn hạn chế nên tập thông tin thư mục rõ ràng không thể tránh khỏi những thiếu sót, khuyết điểm. Rất mong bạn đọc gần xa góp ý để công tác biên soạn thư mục của Thư viện Khoa học Tổng hợp ngày càng tốt hơn. Xin chân thành cảm ơn! THƯ VIỆN KHOA HỌC TỔNG HỢP ĐÀ NẴNG

Transcript of LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa...

Page 1: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

1

LỜI GIỚI THIỆU

Thuật ngữ văn hóa dân gian "folklore" được W J.Thom sử dụng đầu tiên vào năm 1846 để chỉ "phong tục, tập quán, nghi thức, mê tín, ca dao, tục ngữ... của người thời trước". Từ đó đến nay, bộ môn văn hóa dân gian học đã ra đời, phát triển và đạt nhiều thành tích nổi bật. Ở Việt Nam, thuật ngữ "folklore" được sử dụng từ lâu và tùy theo mỗi thời kỳ được dịch ra tiếng Việt là "văn học dân gian", "văn nghệ dân gian" và nay là "văn hóa dân gian". Các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian nước ta đã triển khai việc sưu tầm, nghiên cứu văn hóa dân gian trên nhiều lĩnh vực, với hàng ngàn công trình có chất lượng.

Tại Đà Nẵng, ngay từ thế kỷ XVI, XVII… Tiến sĩ Dương Văn An trong tác phẩm “Ô Châu cận lục”, Cristophoro Borri trong “Xứ Dàng Trong năm 1621” và nhiều tác giả khác đã những ghi chép rải rác về văn hóa dân gian Đà Nẵng … Từ năm 1975 trở về sau, nhiều tập sách, công trình đậm chất văn hóa dân gian lần lượt ra đời như “Văn nghệ dân gian Quảng Nam – Đà Nẵng” của Nguyễn Văn Bổn, “Tín ngưỡng thờ Nữ thần của người Việt ở xứ Quảng (Quảng Nam - Đà Nẵng)“ của Nguyễn Xuân Hương, “Văn hoá dân gian Hoà Vang” của Võ Văn Hòe, “Chuyện làng nghề đất Quảng” của Phạm Hữu Đăng Đạt, đặc biệt là Tổng tập văn hóa dân gian đất Quảng của Hội Văn nghệ dân gian Đà Nẵng… Đồng thời, nhiều bài viết, bài nghiên cứu có nội dung về văn hóa dân gian được công bố rộng rãi trên báo, tạp chí Trung ương và địa phương, đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn hóa, văn nghệ dân gian của thành phố Đà Nẵng.

Để thực hiện kế hoạch Số 1700/KH-UBND của Ủy ban Nhân dân thành phố Đà Nẵng, song song với việc tuyên truyền, phổ biến cũng như tổ chức các hoạt động hưởng ứng Ngày Sách Việt Nam lần thứ 2, Thư viện Khoa học Tổng hợp Đà Nẵng chủ trương xuất bản tập thư mục chuyên đề “Văn hóa dân gian Đà Nẵng”. Tập thư mục gồm hai phần chính là Thư mục toàn văn và Thư mục chỉ chỗ. Thư mục toàn văn giới thiệu những bài biết, bài nghiên cứu về văn hóa dân gian trên tất cả các lĩnh vực, từ ẩm thực đến làng nghề, phong tục tập quán, lễ hội và nhiều vấn đề khác. Thư mục chỉ chỗ giúp độc giả có thể dễ dàng tra tìm những bài biết, bài nghiên cứu, những tập sách có nội dung mà mình quan tâm.

Mặc dù có nhiều cố gắng nhưng do công tác sưu tầm, tập hợp tư liệu, sách báo còn hạn chế nên tập thông tin thư mục rõ ràng không thể tránh khỏi những thiếu sót, khuyết điểm. Rất mong bạn đọc gần xa góp ý để công tác biên soạn thư mục của Thư viện Khoa học Tổng hợp ngày càng tốt hơn.

Xin chân thành cảm ơn!

THƯ VIỆN KHOA HỌC TỔNG HỢP ĐÀ NẴNG

Page 2: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

2

MỤC LỤC

Lời giới thiệu: ....................................................................................................... 1 Mục lục: ................................................................................................................ 2 Phần I: Thư mục toàn văn .................................................................................... I. Những vấn đề chung .......................................................................................... Bài 1. Chuyện ghi ở Đa Phước .............................................................................. 3 Bài 2. Chuyện núi cấm rừng thiêng ....................................................................... 5 Bài 3. Chuyện xưa làng Mỹ Thị ............................................................................ 7 Bài 4. Sự tích đường Cầu Vồng ........................................................................... 10 II.Văn hóa ẩm thực ............................................................................................... Baì 1. Ăn bánh bèo với dao tre ........................................................................... 12 Bài 2. Dư vị nếp nổ ............................................................................................. 13 Bài 3. “Túy Loan trăm thứ đều ngon” ................................................................. 14 Bài 4. Tô mì xứ Quảng ........................................................................................ 16 III. Phong tục tập quán ......................................................................................... Bài 1. Con thuyền trong đời sống tín ngưỡng ...................................................... 18 Bài 2. Kể chuyện tâm linh ................................................................................... 21 Bài 3. Tết xưa chơi bài…xạo ............................................................................... 24 IV. Làng nghề truyền thống ................................................................................. Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô.............................................................................. 26 Bài 2. Làng đá mỹ nghệ Non Nước ..................................................................... 28 Bài 3. Giữ lại hương vị nước mắm Nam Ô .......................................................... 31 Bài 4. Làng guốc Xuân Dương ............................................................................ 34 V. Lễ hội ................................................................................................................. Bài 1. Đà Nẵng vào mùa lễ hội ............................................................................ 36 Bài 2. Độc đáo tôn vinh trẻ chăn trâu .................................................................. 38 Bài 3. Hội làng Đà Sơn ....................................................................................... 42 Bài 4. Khao lề thế lính Hoàng Sa – Khúc bi ca bất diệt ....................................... 44 Bài 5. Lễ hội cầu ngư của các làng biển Quảng Nam – Đà Nẵng ......................... 47 Bài 6. Lễ hội Quán Thế Âm ................................................................................ 52 Phần II. Thư mục chỉ chỗ ..................................................................................... I. Thư mục sách ................................................................................................... 55 II. Thư mục báo, tạp chí .......................................................................................... A. Những vấn đề chung ....................................................................................... 64 B. Ẩm thực .......................................................................................................... 67 C. Phong tục tập quán ......................................................................................... 69 D.Làng nghề truyền thống ................................................................................... 70 E. Lễ hội ............................................................................................................ 72

Page 3: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

3

Phần I THƯ MỤC TOÀN VĂN

I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

Bài 1

CHUYỆN GHI Ở ĐA PHƯỚC

Lễ tế chiến sĩ trận vong tại Nghĩa trủng làng Đa Phước

Làng Đa Phước hình thành từ gần 600 năm trước, bao gồm hầu hết địa giới hành chính phường Hòa Khánh Bắc và một phần phường Hòa Khánh Nam, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng ngày nay. Các cụ cao niên vẫn còn kể cho con cháu những chuyện kỳ thú ở làng ngày trước.

“La làng” để được ly dị

Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. Ngoài hương ước của làng, các họ tộc còn lập tộc ước riêng nhằm khuyên răn con cháu gìn giữ gia phong cốt cách. Một điều rất lạ, hễ ai lớn tiếng “la làng” là thế nào cũng bị phạt vạ. Cụ Bùi Hộ, 91 tuổi, nguyên Chánh bái làng, kể rằng lần đó cha cụ ra ruộng gặt lúa trước, dặn cụ cột bò xong là chạy ra coi lúa ngay kẻo người ta mót hết. Cụ ra chưa kịp, bị cha ví chạy có cờ, nhưng cha sức yếu đuổi không kịp nên la làng ầm ầm. Tối đó, làng tới nhà phạt mấy giác bạc và một bàn trầu cau rượu vì tội… la làng!

Thế nhưng, “la làng” đôi lúc cũng mang lại cái lợi. Ngày đó không ít những vụ bạo hành khiến người vợ phải cắn răng chịu đựng chứ chẳng biết kêu

Page 4: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

4

vào đâu. Ấy thế mà làng Đa Phước lại xử được mấy cái vụ này mới tài. Ở Đà Sơn (nay thuộc phường Hòa Khánh Nam) có dâu ông Hương Ấm, ở Đông Sơn (nay thuộc xã Hòa Ninh) có dâu ông Hương Thống, cả hai bị nhà chồng đối xử tệ bạc.

Không hẹn mà gặp, bữa nọ cả hai bà dâu cùng đến trước đình Đa Phước kêu to “Quớ làng! Quớ làng” rồi nằm lăn ra đó. Ngay tức khắc, người trong làng đem mõ ra đánh um lên một hồi. Lát sau có một phụ nữ đem chiếu ra cho họ nằm, che thêm cái nong để họ trốn nắng. Cứ thế, họ “nằm vạ” cho đến khi lý trưởng, hương mục làng Đa Phước khăn áo tới xem xét. Hỏi han một hồi đâu vào đó, lý trưởng Đa Phước quyết định làm giấy cho mời hai ông lý trưởng Đà Sơn và Đông Sơn cùng sui gia của hai bà dâu đến để giải quyết cho họ được ly dị.

Người phụ nữ đầu tiên viết tiểu thuyết

Trong làng có ông Huỳnh Phúc Lợi làm quan Triều Nguyễn đến chức Quang lộc Tự khanh thuộc hàm tam phẩm, nên thường được gọi là ông Quang Lợi. Về sau, ông tham gia Hội Cần vương Quảng Nam. Mỗi lần về làng ông đều đi bằng xe kéo, cả làng đổ ra xem. Cậu bé Bùi Hộ cùng trẻ con trong làng chạy đến vịn vào xe, phụ đẩy tới. Mỗi lần như thế, ông đều xoa đầu bọn trẻ rồi cho mỗi đứa mấy xu, nhiều nhất là 5 xu (10 xu là 1 giác hay 1 cắc) - bằng nửa ngày công lúc đó.

Ông Quang Lợi có hai người con nổi tiếng. Một người là Huỳnh Phúc Quý, thường gọi là Nghè Quý hay Giáo Quý, vì ông đỗ tiến sĩ và làm giáo viên trường làng. Người kia là Huỳnh Thị Thái (1896-1982), nổi tiếng với bút danh Huỳnh Thị Bảo Hòa, là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên viết tiểu thuyết với cuốn Tây phương mỹ nhơn năm 1927. Bà sánh duyên cùng Hàn lâm viện đại học sĩ Vương Khả Lãm, và theo chồng về sống tại Đà Nẵng. Có điều, nhiều tài liệu ghi nhầm rằng bà là người gốc phường Hòa Minh, quận Liên Chiểu.

Bà là người phụ nữ đầu tiên của Đà thành cắt tóc ngắn, đi xe đạp, là ký giả của nhiều tờ báo lúc bấy giờ. Cuộc đời và sự nghiệp văn chương của bà được nhà phê bình văn học Lại Nguyên Ân chú ý và nhà nghiên cứu Trương Duy Hy tập hợp tư liệu, hình ảnh, các tác phẩm đã xuất bản và di cảo của bà để cho ra đời cuốn Nữ sĩ Huỳnh Thị Bảo Hòa - Người phụ nữ viết tiểu thuyết đầu tiên (NXB Văn học - 2003).

Ngôi đình 7 lần xây dựng

Đình Đa Phước lập từ bao giờ, chưa ai xác quyết được. Cụ Bùi Hộ kể rằng từ thời ông nội cụ đã có đình rồi. Đình xây dựng theo hướng Đông Bắc, năm gian, bốn mái với các hàng cột xếp theo thứ tự từ lớn đến nhỏ là cột cái, cột con, cột hiên (cụ gọi là cột trỏng). Nhà ông nội cụ lúc đó ở xóm Trảng, cách đình gần nửa cây số, nhưng cả vùng trống huơ trống hoác nên thấy rõ mồn một hướng đình đâm thẳng vào hướng nhà. Xưa người ta quan niệm thế là không tốt, mà thực sự trong nhà cũng xảy mấy chuyện lục đục chẳng đâu vào đâu. Cuối cùng, nội cụ chuyển nhà xuống khu đất nằm trên đường Âu Cơ bây giờ.

Gần đình có cây cốc và cây sộp cao nghệu. Trên hai cây cổ thụ này, Pháp

Page 5: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

5

đã treo ngược hàng chục người dân để tra tấn. Một số người bị giặc giết, dân làng mang thi thể về an táng ở Nghĩa trủng cách đình khoảng 100m. Gần cây cốc cổ thụ là cống Đình (gọi thế, vì cống ở gần đình). Hôm nọ, khi cậu thanh niên Bùi Hộ cùng trai tráng trong làng đang đào đất phá cống thì hai sĩ quan Pháp đi qua, gặn hỏi. Ông Phạm Đình Hiển, lúc đó là Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến hành chính xã Đa Hòa, trả lời bằng tiếng Pháp là dân sửa đường. Tụi nó vặn lại: Phá đường chứ sửa đường gì?!

Mà đúng thế thật - cụ Hộ nhớ lại, mình phá cống để ngăn xe Pháp không qua được, cắt đứt đường liên lạc, tiếp tế của giặc lên phía trên. Tụi nó điên tiết, không bao lâu sau đưa quân tới phá dỡ đình, lấy hết mọi thứ ra lấp cống. Thế là bao nhiêu hoành phi, liễn thờ, cuốn thư, câu đối... sơn son thiếp vàng đều bị vùi dập nhưng làng không một ai dám lên tiếng trước họng súng của giặc.

Từ đó trở đi, đình đã bị Pháp rồi Mỹ phá dỡ trước sau 5 lần. Đến năm 1969, dân làng xây một nhà cấp 4 tạm làm đình để có nơi hương khói tiền nhân. Năm 2012, thể theo nguyện ước của dân làng, Hội đồng các gia tộc quyết định đại trùng tu đình theo kiến trúc ban đầu để lưu giữ nét lịch sử - văn hóa xưa. Các cụ mong rằng lần thứ 7 xây đình với kinh phí dự toán 2,5 tỷ đồng này sẽ là dịp để con cháu các họ tộc làng Đa Phước xưa thể hiện tâm nguyện của mình trong đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”. Dân làng ai cũng tin thế, bởi tên làng có nghĩa là nhiều phước…

LÊ HUỲNH

Chuyện ghi ở Đa Phước / Lê Huỳnh.- Đà Nẵng chủ nhật.- 2013 . - Ngày 19, tháng 5 . -Tr. 6, 7

Bài 2

CHUYỆN NÚI CẤM RỪNG THIÊNG

Bãi Làng phía nam núi cấm - gành đá Nam Ô. Ảnh: V.T.L

Từ thời phong kiến, gành đá Nam Ô được xem là núi cấm - cấm chặt cây, cấm lấy đá. Quy định này được dân làng nhiều đời tuân thủ nghiêm ngặt, ai vi

Page 6: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

6

phạm sẽ bị bắt tội. Thậm chí người ta còn cho đây là khu rừng linh, chỉ được sử dụng gỗ cho việc xây dựng đình miếu trong làng.

Có nhiều chuyện kể về các vị lão làng đã đột tử sau khi quyết định cho phép chặt cây để sử dụng cho việc công của làng xã. Dân gian đồn rằng đó là do thần rừng không thuận ý. Điều ấy giải thích vì sao, trong hoàn cảnh thiếu chất đốt trầm trọng một thời trong sinh hoạt của dân làng mà gành đá Nam Ô vẫn nguyên màu xanh tốt rậm rạp. Nhiều cây cổ thụ vẫn tồn tại từ lúc gành đá được sinh ra trên mặt đất. Người bảo vệ rừng và rừng lại bảo vệ người bằng bức tường thiên nhiên trước những trận cuồng phong bão tố.

Gành đá Nam Ô vốn là núi thấp, nhỏ, chạy từ tây sang đông (từ biển vào đất liền) ước chừng 500m, từ bắc về nam hơn 200m, đỉnh cao nhất 50m so với mặt nước biển. Trên núi đây đó chất chồng nhiều tảng đá to đá nhỏ, mọc nhiều cây gỗ tạp, phía nam có nhiều cây cổ thụ. Nửa phần núi nhoài ra biển, sóng biển xâm thực lâu đời hình thành gành đá bao bọc chung quanh. Đi vòng gành đá từ phía nam ra phía bắc rất khó khăn đối với người chưa từng đi trên những hòn đá lô nhô to nhỏ nối tiếp vô hồi kỳ trận, phải mò mẫm, bu bám, bò leo bám từng tảng đá. Nhưng với người Nam Ô, họ nhảy từ tảng đá này sang tảng đá khác thoăn thoắt như trong phim kiếm hiệp, gọi là nhảy gành.

Cách tốt nhất và an toàn để ta đến được đầu mom xem “sóng phun trong nắng sớm” như tú tài Trần Nhật Tĩnh từng mô tả vào nửa sau thế kỷ XIX trong “Hòa Vang huyện chí”, là đi xuyên rừng.

Từ bãi Làng phía nam leo qua mấy bậc đá lởm chởm là đã vào rừng. Đường mòn trong rừng quanh co, luồn qua những gốc cây cổ thụ, tay vẹt những lùm cây rậm rạp tưởng như kín mít, cho ta cảm giác đang đi giữa đại ngàn thâm u lắm. Đang giữa mùa hè nóng bức, khi đã vào rừng không khí mát dịu làm sao. Hàng ngàn con ve bầu kéo âm thanh chào đón. Có thể đó là hậu duệ của loài “chá thiền tử” - một loại ve sầu khi lột xác cho món ăn độc đáo từng được tiến vua hàng trăm năm trước, được ghi vào sách Đại Nam nhất thống chí.

Những hoa cẩm nhung đỏ rực treo trên cành cao, những con cánh cam, quýt quýt đa sắc ngời xanh vàng tím ma mị xếp cánh nép trên lá rừng. Nếu may mắn ta sẽ bắt gặp những con sóc chuyền cành, hoang dã làm sao! Đường mòn trong rừng quanh co nhiều lối rẽ, nhưng đi dọc theo mé nam núi, ta sẽ bắt gặp ít nhất hai phế tích của hàng bao thế kỷ trước bị vùi lấp chỉ còn lại nền móng trơ vơ.

Theo truyền thuyết thì phía trong là miếu Bà “Chúa Tiên Thần Nữ” - vị nữ thần bảo hộ dân làng có từ thời các Chúa Nguyễn thế kỷ XVI-XVII. Phía ngoài mé biển có một tàn tích được cho là miếu vọng Công chúa Huyền Trân, điểm ẩn nấp cuối cùng của con gái vua Trần trong cuộc đào thoát khỏi đất Chiêm Thành trước khi lên “thuyền nhẹ” ra “thuyền lớn” giong về cố quốc. Cũng có thuyết cho đây là miếu bà Đại Càn, miếu được dựng từ những thế kỷ xa xưa, khởi đầu cho tục thờ “Đại Càn Quốc gia Nam hải Tứ vị Thánh nương” có từ thời vua Trần Anh Tông chinh phục Chiêm Thành năm 1312 (theo Đại Việt sử ký toàn thư).

Page 7: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

7

Cách miếu này không xa có một hang gọi là hang Cây Bớm, vì trước cửa hang có một cây bớm nhiều gai sắc nhọn. Hang chỉ rộng chừng 2m, sâu hơn 3m, ẩn dưới bụi rậm nên khó tìm. Đây là nơi trú ẩn và hội họp của các chiến sĩ cách mạng và đội du kích thời kháng Pháp. Đã từng có một liệt sĩ thời ấy hy sinh tại đây trước họng súng Tây. Và, rừng gành này cũng là nơi ẩn nấp của các chiến sĩ đặc công khi đánh cảng Tiên Sa, đánh cầu Nam Ô, khi dạt vào đây được người dân giúp đỡ che giấu, sau đó tìm cách đưa về căn cứ an toàn.

Đi trong rừng, dưới tán cây rậm rạp, vượt hơn 200m đường rừng, có gập ghềnh đôi chút để thưởng thức những thú vị từ rừng mang lại - nào hoa lá, nào tiếng chim líu lo, tiếng ve rền vang. Đang có cảm giác giữa rừng đại ngàn bỗng trước mặt là gành đá lởm chởm đủ màu mang dáng vẻ hoang sơ kỳ lạ nhô mình ra sóng nước đại đương sáng lóa dưới ánh mặt trời, sóng vỗ vào gành đá tung bọt trắng xóa, xô vào kẽ đá róc rách vui tai. Nước biển trong vắt mát rượi bên bờ đá lô nhô, mời mọc chúng ta đắm mình vào. Thú vị làm sao!

Trước năm 1975 gành đá Nam Ô có lẽ là một địa điểm duy nhất thường được lính tráng, thanh niên nam nữ học sinh, người dân Đà Nẵng và vùng phụ cận tìm đến khi có nhu cầu thư giãn, trải nghiệm cùng với thiên nhiên. Họ đến đây thưởng thức các món hải sản tươi sống vừa được bắt lên từ biển, trong những hàng quán tự phát dựng trên bãi Làng, bãi Cửa, trên gành đá, tuyệt nhiên không có quán xá nào dựng lên trong rừng. Rừng cấm mà! Vì thế, rừng vẫn giữ được nét nguyên sơ kín đáo, dành cho cuộc hẹn hò của các cặp tình nhân. Để rồi gành đá Nam Ô, được báo chí thời ấy đặt cho tên thật là lãng mạn: Rừng Ái Ân!

ĐẶNG DÙNG

Chuyện núi cấm rừng thiêng / Đặng Dùng.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2014 .- Ngày 5, tháng10 .- Tr. 7

Bài 3

CHUYỆN XƯA LÀNG MỸ THỊ

Địa giới của làng Mỹ Thị nay đã khác xưa: phần đất phía Nam hợp nhất với làng Khuê Bắc thành phường Khuê Mỹ; phần đất phía Bắc hợp nhất với thôn An Thượng của làng An Hải thành phường Mỹ An. Thế nhưng, chuyện xưa gắn liền với danh xưng Mỹ Thị vẫn còn được nhiều người truyền tụng.

Mỹ Thị là một trong bảy xã (An Hải, Mỹ Khê, Hóa Khuê, Mỹ Thị, Phước Trường, Tân An và Nam An) thuộc hữu ngạn sông Hàn đã được Khâm sai Thống chế Nguyễn Văn Thoại (lúc đó đang trấn thủ đồn Châu Đốc, lãnh nhiệm vụ bảo hộ nước Cao Miên) tán thành ý nguyện đoàn kết lập chợ để chống lại sự cạnh tranh của xã Hải Châu trong tờ trát gửi cho xã trưởng và hào mục xã An Hải ngày 20 tháng 4 năm Minh Mạng thứ 8 (1827).

Địa danh Mỹ Thị đã được Đại Nam thực lục (tập VII, tr. 465-466) nhắc đến nhiều lần trong đoạn viết về thời kỳ Đà Nẵng chống liên quân Pháp – Tây Ban Nha những năm 1858-1860. Theo đó, đồn Mỹ Thị kiên cường trụ vững,

Page 8: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

8

nhưng rồi quân giặc tràn vào xã Mỹ Thị... Tướng Nguyễn Tri Phương sai Tổng đốc Nam Ngãi là Đào Trí đem quân sang sông, đóng ở xã Mỹ Thị...

Người có công làm thay đổi bộ mặt làng Mỹ Thị là ông Lê Hữu Khánh, còn có tên là Lê Văn Hiển, sinh năm 1850 tại làng Mỹ Thị, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, nay là phường Khuê Mỹ, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng. Ông làm quan từ đời Tự Đức đến đời Duy Tân, từng giữ các chức vụ: Thị Giảng học sĩ, Thị Độc học sĩ, Quang Lộc Tự khanh, Triều Liệt Đại phu. Người đương thời quen gọi ông là quan Thị Hiển. Ông còn là thầy dạy của các vua Thành Thái và Duy Tân.

Vào đời Tự Đức, ông nhận thấy làng Mỹ Thị dân đông, thiếu đất canh tác, quanh năm chỉ biết bám biển, nhưng đến mùa mưa bão là đành bó tay chịu đói, bèn làm tờ sớ tả cảnh cơ cực của dân làng tấu trình lên triều đình. Trong sớ có đoạn “Phù cư thủy diện, sanh vô gia cư, tử vô địa táng”, nghĩa là “ở bềnh bồng trên mặt nước, sống không có nhà cửa, chết không có đất chôn”. Triều đình Huế xét thực tế, ra chỉ dụ cho làng Mỹ Khê cắt 30 mẫu bạch sa, làng An Hải cắt 20 mẫu bạch sa nhượng cho làng Mỹ Thị. Nhận thấy dọc theo làng Mỹ Thị hầu hết là ruộng đầm lầy nhiễm mặn mọc toàn cỏ năng, ông bèn huy động dân làng đắp đê ngăn mặn từ đầu làng Khuê Bắc cho đến cuối làng An Hải cải tạo thành 32 mẫu ruộng sâu, cày cấy lúa nếp. Toàn bộ số ruộng này được triều đình Huế chấp

cho làng Mỹ Thị được thụ hưởng, bởi hai lý do. Thứ nhất, về tình, làng Mỹ Thị không có đất ruộng để canh tác, mà là công thổ, tức đất của Nhà nước, lẽ nào để dân đói vì thiếu lương thực. Thứ hai, về lý, thì đây là ruộng đất thuộc địa phận làng Mỹ Thị.

Nhưng dân làng Khuê Bắc thì kịch liệt phản đối. Cho rằng số ruộng đó là sở hữu của mình, ngày 18 tháng 10 năm Quý Mùi (1883), họ phát đơn kiện và cử hai người ra sẵn sàng tự tử để bảo vệ “lẽ phải”. Vụ kiện kéo dài cho đến năm Mậu Tuất (1898). Tuy thế, trước sau triều đình Huế vẫn phán quyết cho dân làng Mỹ Thị được sở hữu 32 mẫu ruộng sâu này. Vụ kiện sôi nổi này đã để lại trong dân gian thời bấy giờ bài

Chân dung ông Lê Hữu Khánh tại tư gia ở làng

Mỹ Thị. Ảnh: V.T.L

Page 9: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

9

vè sau đây:

“Lừng đừng siển hạt (chuyện nói qua, nói về) bấy nhiêu lần/ Mưa nắng bao nào với xã dân/ Việc ngoại mười lăm năm mới ổn/ Quan trong hai mạng lẽ nào thân/ Ruộng năng, đất cát bằng lòng thẳng/ Gạo bị, tiền lưng nhẹ túi khăn/ Dặn cho Mỹ (Mỹ Thị), Hóa (Hóa Khuê Bắc) đừng kiện nữa/ Chuối xôi ai ních quả thầy bưng”.

Nhờ công mang lại ấm no cho dân làng, quan Thị Hiển được phong làm Hậu hiền làng Mỹ Thị. Các con của ông là Lê Châu Hàn (còn có tên Lê Cảnh Hàn hay Lê

Cảnh Thái) và Lê Châu Nam (Lê Cảnh Vận) cùng hợp tác với Trần Cao Vân, Thái Phiên tham gia Khởi nghĩa Duy Tân năm 1916 và trở thành hai nhân vật đóng vai trò then chốt trong cuộc mưu khởi nghĩa ở Đà Nẵng và Quảng Nam.

Dân gian phía hữu ngạn sông Hàn ngày trước có câu “Nhứt Nguyễn Mỹ Khê, nhì Lê Mỹ Thị” nói về hai cự tộc của hai làng. Tộc Nguyễn có ông tổ là Hậu hiền làng Mỹ Khê, có quan Hường Lô Tự khanh Nguyễn Văn Hữu, thường quen gọi là quan Thị Hữu. Tộc Lê có ông tổ là Tiền hiền làng Mỹ Thị, có quan Triều Liệt đại phu Lê Hữu Khánh, thường quen gọi là quan Thị Hiển. Đó là ghi nhận của truyền khẩu dân gian về đóng góp của những con người một thời dựa vào vị thế của mình trong xã hội mà đem lại sự sung túc, đủ đầy nhất định cho làng quê nơi mình sinh ra. Người Mỹ Thị đời nay mỗi khi ngâm nga “Ai về Mỹ Thị thì về/ Trước sông, sau biển, rừng kề một bên”, trong lòng lại thầm nhớ đến công ơn người xưa.

ANH DUY

Chuyện xưa làng Mỹ Thị / Anh Duy.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2009. - Ngày 5 tháng 7. - Tr.7

32 mẫu ruộng sâu dọc theo làng Mỹ Thị đã từng là nguyên nhân của một vụ kiện kéo dài 15 năm. Ảnh: V.T.L

Page 10: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

10

Bài 4

SỰ TÍCH ĐƯỜNG CẦU VỒNG

Ở Đà Nẵng xưa có một con đường khá đặc biệt. Đó là đường… Cầu Vồng, chỉ đoạn kéo dài từ ngã tư Ngô Gia Tự - Lê Duẩn đến ngã tư Lê Duẩn - Ông Ích Khiêm hiện nay. Thật ra, đường Cầu Vồng là cách gọi dân dã chứ Đà Nẵng không có con đường nào được đặt tên là đường Cầu Vồng cả.

Tên gọi chính thức của con đường có đoạn đường Cầu Vồng thay đổi qua nhiều giai đoạn trong lịch sử. Tên xưa nhất là Rue Pigneau de Béhaine (một giáo sĩ người Pháp mà dân ta thường gọi là Bá Đa Lộc), do thực dân Pháp đặt. Năm 1954, chính quyền Sài Gòn đổi lại là đường Thống Nhất; đến năm 1987 được đổi tên thành đường Lê Duẩn. Còn sự xuất hiện của đoạn đường mà dân gian thường gọi là đường Cầu Vồng, xóm Cầu Vồng, vì đó là đoạn đường có dốc khá cao, giống như độ dốc của cầu vượt Hòa Cầm hiện nay.

Và, mươi năm trở về trước, khi đoạn đường Cầu Vồng chưa bị san bằng để tiến hành thi công đường Lê Duẩn thẳng tắp, khang trang, những ai đi xe đạp đều có tâm lý… tránh đoạn đường này. Bởi, mười người như một rất ngại đạp xe lên Cầu Vồng. Lên dốc và xuống dốc đâu phải dễ. Đạp lên đã mệt nhưng khi xuống, luôn phải cẩn thận, vì độ dốc khá lớn, rất nguy hiểm.

Thật ra, địa điểm xưa gọi là Cầu Vồng hoàn toàn không có đồi, cũng không có nổng đất cao nào cả. Đó là chỗ đất bằng phẳng. Thế rồi, khi thực dân Pháp tiến hành làm con đường sắt nối ga xe lửa Đà Nẵng, bấy giờ gọi là Gare de Tourane central, thì có một con đường sắt băng ngang qua đường Rue Pigneau de Béhaine - một trong những tuyến đường quan trọng trên cửa ngõ chính vào Đà Nẵng lúc đó nên luôn có nhiều người qua kẻ lại. Để tránh tai nạn giao thông, thực dân Pháp cho xây một cái ba-ri-e để đóng lại khi có tàu lửa đi ngang qua. Thế rồi, một lần nọ, một vị quan đầu tỉnh có công chuyện phải đi ngang qua đoạn đường có cái ba-ri-e ấy. Quan đi bằng ô-tô, bấy giờ gọi là xe đít vịt, sơn màu đen, nhỏ nhắn. Đã là xe quan thì sang trọng, ai không biết, ai không sợ. Quan mà, hét ra lửa, đâu phải chuyện chơi. Thêm vào đó, quan mà đi ô-tô thì phải là quan lớn, quyền hành ghê gớm lắm.

Chẳng may, khi ô-tô chở quan lớn từ ngã ba Huế vừa đến nơi thì tàu cũng hụ còi, báo hiệu sắp đi qua. Nhân viên gác ba-ri-e vội vàng cho đóng cổng lại nhằm ngăn tất cả người băng qua, bảo vệ tính mạng của họ. Viên quan ngồi trong xe thấy vậy, tỏ ra hậm hực. Đường đường là quan lớn mà cái gã nhân viên gác ba-ri-e quèn cũng không nể mặt cho. Ít ra, gã phải để cho quan qua, thế mới phải lẽ chứ? Tàu hú còn xa, đâu phải đã sắp đến mà không nể mặt quan, cứ thản nhiên đóng cổng lại. Hỏi thử không tức sao được. Quan nghĩ vậy. Ông ta bảo thằng lính theo hầu phải nạt gã nhân viên gác cổng một hơi cho hả giận.

Sau khi tàu lửa đi khỏi, thằng lính đi theo hầu theo lệnh quan, hùng hổ đi tới, trừng trừng nhìn nhân viên gác cổng, quát rằng: “Sao thấy xe quan đi qua mà đóng cổng, bộ không sợ sao?”. Người gác cổng thưa lại: “Tui không đóng cổng thì giờ ni quan đã chết mất rồi. Tàu lửa qua, nó có biết quan mô mà tránh.

Page 11: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

11

Lúc đó, ai chịu tội? Quan chớ vua qua tui cũng đóng”. Lý lẽ nhân viên gác cổng nghe qua thật có lý. Ông bà thường nói “Nói thật cục đất cũng nghe”. Thằng lính hầu lúc ấy cứng họng, ngẩn tò te, không biết nói sao. Hắn đành quay lại, bẩm sự tình với quan.

Quan nghe qua, không nói gì. Nhưng thời gian sau, quan lệnh xuống cho dân các xã Hải Châu, Thạch Thang, Thạc Gián và Tân Chính gánh đất đổ cao lên, làm Cầu Vồng. Thực chất, đây là một chiếc cầu tránh xe lửa. Quan nghĩ, khi cầu hoàn thành, xe lửa chạy mặc xe lửa, người ta vẫn đi được. Cầu tránh xe lửa mà! Tiện lợi đôi đường. Không những tiện cho quan khi đi công vụ mà người dân cũng được hưởng lợi. Dù gì, đây cũng là công trình công ích.

Cầu Vồng xưa, hình ảnh giờ không còn. Ảnh: Ông Văn Sinh

Bấy giờ, không khí lao động thi công đoạn đường có danh xưng là Cầu Vồng nhiều khi rất náo nhiệt. Hầu như tất cả đều làm bằng tay nên đòi hỏi sức lực ghê gớm. Thôi thì đầu này kẻ gánh, đầu kia kẻ xúc. Trưa, cát bụi bay mù mịt. Tuy gọi là lệnh cho dân nhưng khi thi công, quan cũng xuất công quỹ. Mỗi người khi làm đoạn đường nói trên được hưởng một ít tiền công. Thế cho nên, trong dân gian mới có câu hát vui rằng “Đẩy ông Lô/ Ngày năm bảy giác/ Cũng vô bánh bèo”. Số là, thi công đường hồi đó chưa có xe lăn, xe đầm, người ta phải sử dụng gốc tre gốc, đục lỗ, chế tạo ra cái đầm bằng tay, gọi là ông lô. Đẩy ông lô tức đẩy cái đầm qua lại để nén đất cho thật chặt. Tương truyền người ta đầm cả mấy tháng trời. Tất cả đều bằng sức người là chính. Công việc nặng nhọc, vất vả, người dân mau đói bụng. Cho nên, với mấy giác (phương ngữ miền Trung, nghĩa là một hào, một cắc - ĐNCT) tiền công, chỉ đủ cho họ ăn… bánh bèo đỡ đói, chẳng nhằm nhò gì!

PHẠM HỮU ĐĂNG ĐẠT

Sự tích đường Cầu Vồng / Phạm Hữu Đăng Đạt.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2013. - Ngày 5,tháng 5. - Tr. 6, 7

Page 12: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

12

II. VĂN HÓA ẨM THỰC

Bài 1

ĂN BÁNH BÈO VỚI DAO TRE

Người Quảng, khi đi xa, không ai không nhớ hương vị của chén bánh bèo dân dã quê mình.

Bánh bèo Quảng khác trong Nam. Miền Trung nghèo khó, các món ăn, bao giờ cũng đặt yêu cầu no lên trước. Bánh bèo cũng vậy, bánh phải dày, phải nhiều chứ không bé tí, chỉ để “ăn chơi” như trong Nam, thanh nhã như ngoài Huế.

Nhớ ngày còn bé, khi rảnh tay, tôi thường phụ má và chị đổ bánh. Bánh bèo là món ăn rất mất công vì tốn nhiều… chén. Bột gạo sau khi xay, lấy trùng (pha nước vào bột) cho vừa, đổ vào chén, đĩa, thậm chí cả tô rồi cho vào chiếc nồi to để hấp. Nói lấy trùng cho vừa vì nếu bột quá lỏng, bánh bèo sẽ không đông lại, xem như hỏng, nếu đặc trùng quá, bánh sẽ cứng, ăn không ngon. Muốn chén bánh được ngon, ngoài lấy trùng vừa tay, phải đổ vào chén lượng bột vừa phải và hấp cho đến khi bánh chín tới, đem ra ăn. Một chén bánh bèo ngon chưa ăn chỉ cần nhìn là biết, chén bánh sau khi hấp, có vòng xoáy tròn ở tâm và màu trắng như lòng trắng trứng.

Nhưn (nhân) để ăn với bánh bèo rất đa dạng. Với người dân nghèo quê tôi thì nhưn bánh chỉ là bột gạo - thứ bột làm nên chén bánh. Bột gạo, cho vào ít nghệ bột, nước mắm, bột ngọt, hành lá… tất cả cho vào nồi quấy lên thành một thứ bột đặc quánh, quét lớp bột này (còn gọi là nhưn) lên chén bánh, thế là ăn. Gia đình nào khá giả tí thì nhưn bánh thêm một ít thịt heo xắt nhỏ hay tôm khô giã nhỏ trộn chung với bột.

Điều đặc biệt là dụng cụ để ăn của bánh bèo Quảng. Khi má đổ bánh thì ba tôi dùng tre vót thành những chiếc que giống như con dao gọi là dao tre.

Page 13: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

13

Dùng dao tre, quệt nhưn lên mặt bánh rồi xẻ chén bánh thành nhiều mảnh nhỏ, dùng đầu nhọn của dao tre, nạo một vòng quanh chén để lấy bánh ra khỏi chén. Hương thơm của bánh bèo quyện với mùi tre của con dao là hương vị mà khi xa quê, tôi cũng như những người con xứ Quảng mãi không bao giờ quên được.

ĐAN LINH

Ăn bánh bèo với dao tre / Đan Linh.- Thanh niên tuần san.- 2011. - Số ra ngày 8 tháng 4. - Tr. 39

Bài 2

DƯ VỊ NẾP NỔ

Ngoài những vụ bắp, khoai, đậu xen kẽ với lúa, năm nào ba má cũng dành một thửa ruộng nhỏ cấy lúa nếp. Cây lúa nếp rất kén đất, chỉ phù hợp với chất đất phù sa bồi và đất thịt nặng ven sông. Vào tầm trung tuần tháng tám, lúa nếp bắt đầu chín ngả màu nâu nhạt chứ không vàng như lúa gạo. Chị em tôi xúm xít rủ nhau đi cắt lúa, phụ với ba má tuốt lấy hạt. Trong bữa cúng cơm mới, thế nào cũng có nồi xôi nấu từ lúa nếp vụ mới. Ngoài nấu xôi, má còn làm các loại bánh và nấu rượu. Ngày tôi còn nhỏ, vào những chiều sau khi ăn cơm xong, mây núi kéo về đen thẫm, mưa rả rích mãi đến tận khuya, cả nhà ngồi chờ món nếp nổ má rang với đường. Nếp rang đường tưởng chừng đơn giản nhưng để có được những bông nếp đúng điệu là cả một kỳ công.

Má bắc nồi đất lên bếp củi chờ chảo nóng già, bỏ vào nắm cát trắng mịn, giữ lửa cho cát thiệt nóng. Cho vào vài nắm lúa nếp, dùng đũa bếp đảo đều, đậy kín nắp vung. Thỉnh thoảng má nhấc nồi ra khỏi bếp và lắc cho phần hạt chưa nổ rơi xuống dưới, tránh cho nếp đã nổ bị cháy. Tiếng nếp tách vỏ nổ lụp bụp, rôm rả trong lòng nồi. Chờ nếp nổ đều rồi mở nắp vung. Những hạt lúa nếp bấy giờ trở thành những bông nếp trắng tinh, nhanh tay trút nồi nếp ra nia, dùng sàng thưa sàng bỏ cát và vỏ trấu.

Tiếp theo là công đoạn thắng đường. Đường chín tới, má cho chén gừng giã nát vào, khuấy đều rồi trút nếp nổ vào chảo đường, nhanh tay đảo đều cho đường thấm, lại đổ trở ra nia. Mùi thơm của hương nếp, vị ngọt của đường hòa vào mùi cay nồng của gừng thơm. Đợi cho bông nếp hơi nguội là có thể thưởng thức. Cuộc sống ngày càng hiện đại, con người ta được thưởng thức nhiều món ngon vật lạ, thế mà lại không dễ dàng quên được những dư vị quà quê một thời.

THANH LY

Dư vị nếp nổ / Thanh Ly.- Quảng Nam cuối tuần.- 2010. - Ngày 16 và 17 tháng 10. - Tr. 3

Page 14: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

14

Bài 3

“TÚY LOAN TRĂM THỨ ĐỀU NGON”

Chưa thể dò cho hết "trăm thứ đều ngon", nhưng bao nhiêu năm nay, ai đi ngang qua vùng đất Hòa Phong, Hòa Nhơn mà không ghé làm tô mì Quảng, khi về còn gói theo chục bánh tráng làm quà. Hấp dẫn tô mì Túy Loan

Hình như trời phú cho người dân Túy Loan đôi tay chế biến mì Quảng, quán nào cũng ngon, cũng tạo hương vị đặc trưng trong mỗi tô mì. Nhưng nổi tiếng hơn cả có lẽ là mì Bà Tỉnh. Người phụ nữ này đã khuất bóng mười năm có

lẻ, nhưng thương hiệu mì Bà Tỉnh vẫn theo du khách khắp nơi: Ở ngay đất Túy Loan, lên tận Hòa Phú, ra Liên Chiểu ở làng Hòa Mỹ. Tất cả những quán mì này do cháu, chắt của bà Tỉnh làm chủ nhưng trung thành với tên người khai sinh ra tô mì nhỏ bé, bán trong sân ngôi nhà ngói ở làng Phú Hòa mấy chục năm về trước.

Ông Nguyễn Đại Phúc, cháu nội bà Tỉnh cũng không nhớ rõ bà mình tráng mì, làm bánh và bắt đầu bán tô mì Quảng đầu tiên vào năm nào. Theo trí nhớ của ông thì vào khoảng những năm 1950 của thế kỷ trước. Bà chỉ bán trong sân nhà, mỗi ngày vài chục tô, cho bà con trong vùng. Cái tên mì Bà Tỉnh bắt đầu ăn khách từ dạo đó. Tô mì bà Tỉnh làm ra có lẽ vừa ngon vừa bắt mắt với bí quyết riêng về các công đoạn làm bánh tráng, tráng mì. Ông Phúc mô tả về tô mì ngon nhờ nhưn chế biến từ thịt mông con bò vừa tơ đối với mì bò; chọn loại gà mái mới đẻ một lứa đối với mì gà. Nước lèo cũng hầm từ xương bò. Đậu phộng không chọn loại quá lâu trên một mùa, rang lửa than vừa đủ độ để giữ chất bùi bùi, mằn mặn của đậu. Rau sống dùng kèm có đủ cải non, giá, rau muống non xanh chẻ nhỏ, xà lách chọn lá xanh lợt, rau thơm, diếp cá…, tất cả trộn đều với bắp chuối chát xắt thật mỏng. Sợi mì làm từ gạo xiệc chính gốc Đại Hiệp, Đại Lộc, Quảng Nam, ăn vừa có độ dai, vừa bùi. Muốn làm mì màu vàng, bà nội ông Phúc thường dùng nghệ tươi giã nát vắt lấy nước cốt, chứ không phải loại màu thực phẩm để tạo màu cho sợi mì như bây giờ.

Ông Phúc khi là một cậu bé lên mười đã bắt đầu học cách xay bột, tráng bánh và phụ bà nội bưng mì cho khách. Ai ngờ sống chết với nghề từ đó.

Từ nghề gia truyền của gia đình, ông Phúc sáng tạo ra kỹ thuật làm mì không hư, có thể để được 3 ngày mà sợi mì vẫn mềm, không bị cứng. Trước đây ông dùng gạo Ba trăng, giờ chỉ dùng 2 loại gạo có giống lúa dài ngày là xiệc và 5 số. Gạo làm mì phải là thứ đã được sấy thật khô, nếu không mì dễ bị chua… 6 người con của bà Tỉnh, trước đây ai cũng theo nghề làm mì Quảng, rồi rơi rớt

Page 15: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

15

dần. Ông Phúc là truyền nhân đời thứ 3 theo và gắn bó với nghề của bà nội. Ba người con trai của ông, ai cũng biết làm mì, làm bánh tráng, nhưng chưa ai theo nghiệp bố.

Giòn tan bánh tráng Phú Hòa

Ăn mì Quảng mà thiếu bánh tráng thì coi như không đúng cách. Bánh tráng cho ta cái giòn giã, thơm tho của gạo nướng. Món bánh tráng Phú Hòa-Túy Loan càng làm cho địa danh Hòa Phong của huyện Hòa Vang thêm nổi tiếng.

Đến nay cả làng vẫn còn khoảng dăm nhà làm bánh tráng. Bánh tráng nướng Túy Loan vẫn giữ tiếng trong vùng. Để có bánh tráng ngon phải tài khéo trong lựa chọn thứ gạo thơm ngon làm nguyên liệu, chế biến đủ năm thứ gia vị mắm, muối, đường, tỏi và mè. Khi nướng bánh trên than hồng, mùi ngầy ngậy, thơm ngon hấp dẫn, kích thích vị giác của bao người.

Nếu như người Đại Lộc chỉ làm được bánh tráng mỏng để ăn món cuốn thì người Túy Loan làm mỗi bánh tráng nướng để ăn kèm mì Quảng. Món ăn cứ đi kèm nhau như thế, thủy chung son sắt bao đời, mà nếu đổi qua món bánh tráng của một xứ sở khác, chắc gì nó đã ngon, đã làm dậy mùi và đậm đà cho món mì Quảng.

Cũng như mì Quảng, bánh tráng của bà Tỉnh cũng tạo được thương hiệu riêng trong mấy chục năm qua. Nay ông Nguyễn Đại Phúc thừa hưởng thương hiệu và nghề của bà nội, đã làm rạng danh món bánh tráng nướng này với công nghệ làm thủ công như trước đến nay. Sản phẩm của ông đã được UBND huyện Hòa Vang đặt hàng làm quà tặng trong dịp Tết Tân Mão vừa qua và nó có mặt trong túi quà của người Đà Nẵng mang ra Hà Nội, vào TP. Hồ Chí Minh và xuất ngoại khi các Việt kiều mang về Mỹ hàng chục ngàn cái. Ông bày tỏ: “Mỗi ngày làm ra khoảng 1.500-2.000 cái bánh tráng, trên 2 tạ mì. Đến thời điểm trước Tết, đơn đặt hàng làm bánh tráng rất nhiều nhưng không đủ sức để làm. Giá thành của một chục bánh ngày thường chỉ khoảng 20.000; nhưng hàng đặt có khi lên đến 120 nghìn đồng”. Với 4 lò, 8 nồi làm bánh, không phải ai cũng có kinh nghiệm, khả năng để có thể đứng bếp làm ra chiếc bánh tráng tròn, nhỏ bé cho khách hàng mang đi xa hay mua ăn kèm món mì Quảng.

Với thương hiệu sẵn có, huyện Hòa Vang đang xây dựng và đăng ký nhãn hiệu cho món bánh tráng Phú Hòa, để nâng giá trị cũng như giá thành của bánh tráng. Ông Phan Văn Tôn, Trưởng phòng Công thương huyện Hòa Vang cho rằng, khi có nhãn hiệu, bánh tráng Phú Hòa có thể làm sản phẩm thương mại, giúp bà con làng Phú Hòa có điều kiện phát triển kinh tế, định hình một làng

Bao bì nhãn hiệu bánh tráng Bà Tỉnh đã nâng giá trị của sản phẩm này lên rất nhiều lần.

Page 16: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

16

nghề thủ công từ nghề truyền thống bao đời.

Cứ tưởng chiếc bánh tráng sẽ biến mất dần giữa cuộc sống hiện đại, nhưng không, loại bánh mộc mạc ấy vẫn hiện hữu và không thể thiếu được trong những ngày xuân về, Tết đến, luôn đi kèm với món mì Quảng thân thương. Nâng tô mì bốc khói, kèm trái ớt xanh, chút bánh tráng vàng rụm trong cái nắng nhẹ mùa xuân, không ai thấy ngán món ăn dân dã vốn được định danh tự bao đời.

HOÀNG NHUNG

"Tuý Loan trăm thứ đều ngon" / Hoàng Nhung.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2011. - Ngày 20 tháng 2. - Tr. 4

Bài 4

TÔ MÌ XỨ QUẢNG

Mỗi lần, cô bạn thân ra thăm Thủ đô, tôi đều đưa đi thưởng thức món phở Thìn gia truyền nổi tiếng trên phố Lò Đúc và thao thao bất tuyệt tự đắc cho rằng, phở là món ăn tinh túy, đặc sắc, mộc mạc, đậm đà… nhất mà không vùng nào sánh được. Nhưng một lần cô ấy đã phản ứng: “Nếu Hà Nội-Thủ đô ngàn năm văn vật có món phở thơm ngon, Huế mộng mơ có món bún bò đặc sắc, trong Nam có món hủ tiếu đậm đà hương vị, thì Quảng Nam quê tôi lại nổi danh với món mì Quảng truyền thống”. Có lẽ vì vậy mà ngay khi tôi có dịp vào thăm Đà Nẵng, cô ấy đã bằng mọi giá mời tôi thưởng thức tô mì Quảng.

Một tô mì được đặt ngay trước mắt với đầy đủ màu sắc bắt mắt, màu vàng nhạt của sợi mì, màu đỏ au của tôm, màu xanh của rau, màu vàng ruộm của lạc rang, mùi thơm nức của hành khô… Tôi cầm đũa và bắt đầu thưởng thức. Chao ôi! Mì nóng, ớt cay, đủ các vị mặn, ngọt, chua, cay, béo, bùi, ngầy ngậy… ăn vào đến đâu làm tôi xuýt xoa đến đó. Thật lạ miệng và ngon không kém gì phở

Hà thành. Thì ra, mì Quảng là món ăn đặc trưng trong nghệ thuật ẩm thực vùng đất Quảng Nam-Đà Nẵng. Bánh phở, sợi bún, hủ tiếu hay sợi mì đều được làm từ gạo. Nhưng ở mỗi vùng miền, mỗi loại sợi lại có cách chế biến khác nhau, đem đến những vị cảm giác khác nhau khi ăn. Bà chủ quán người Quảng Nam chính gốc cho biết, công cụ chính để làm mì rất đơn giản, chỉ cần cối xay bột và lò tráng bánh. Gạo để làm sợi mì phải được chọn loại thơm ngon nhất là gạo xiệc chính gốc ở Đại Hiệp, Đại Lộc, Quảng Nam. Gạo ngâm thật kỹ, khi xay nhẹ tay thì

nước bột xay mới mịn. Những lá mì mềm, trắng nõn được tráng lần lượt. Trước khi xắt, người ta xoa một lớp dầu ăn đã khử chín để mì nhấc lên không dính.

Tô mì Quảng được ăn cùng bê thui, bánh tráng và cơm gà.

Page 17: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

17

Còn nước nhưng (người Bắc gọi là nước dùng), nếu là gà, lúc mổ xong, lọc thịt nạc, ướp kỹ rồi đem xào. Xương và những thứ khác chặt, bỏ vào nồi nấu cho ngọt nước. Khi nước sôi, chín, đổ thịt nạc đã xào kỹ vào nồi. Dĩ nhiên, nước nhưng có thơm, ngon hay không tùy thuộc ở gia vị và kinh nghiệm của người nấu. Rau sống không thể thiếu vắng trong tô mì và đóng vai trò rất quan trọng. Mì Quảng chính hiệu phải ăn cùng rau sống Trà Quế nổi tiếng đất Quảng thì hương vị tô mì mới thực sự đậm đà, hấp dẫn. Muốn làm tô mì, trước hết, cho một lớp rau sống vào tô rồi phủ một lớp mì xắt sẵn lên trên, sao cho sợi mì vừa xoắn xuýt nhau vừa đều đặn. Nước nhưng chan thế nào để nước thấm vào từng sợi mì, lẫn vào lớp rau sống. Cuối cùng, rắc một nhúm lạc rang giòn giã vừa nhỏ lên trên, gia thêm tí dầu khử chín và cho vào một ít hành tươi xắt vụn, chanh, ớt... là những phần phụ làm tăng độ béo, chua, cay... đồng thời, có tác dụng điểm thêm màu mè, khiến tô mì chưa ăn đã thấy ngon và hấp dẫn.

Bánh tráng nướng giòn không thể thiếu, nếu thiếu sẽ giảm đi ý vị tô mì. Có người cứ để nguyên rồi cắn từng miếng bánh một rồi ăn mì, có người lại bóp nhỏ ra, trộn đều, dùng đũa xáo lên, thêm tí ớt, vừa ăn vừa hít hà mới đủ độ khoái khẩu. Khác với ăn phở hay ăn bún bò. Ăn phở vừa có thìa vừa có đũa, ăn từ từ, điềm đạm thể hiện phong cách thanh lịch của người Thủ đô. Ăn bún bò, đặc sản xứ Huế, lại biểu lộ sự nhàn nhã, quan cách... của người dân Cố đô. Còn ăn mì Quảng, có thể gọi là rất độc đáo: ăn nhanh và càng đông người ăn càng ngon miệng. Phải chăng, cách ăn mì ấy phần nào bộc lộ cá tính của người Quảng-mạnh mẽ, bộc trực và nóng nảy. Quảng Nam có bán nhiều loại mì vì mỗi vùng có một vị đặc trưng riêng, ở làng Thanh Chiêm, Điện Bàn, Bàu Bàu ở Núi Thành nổi tiếng với loại mì được làm từ tôm, vùng Túy Loan thuộc huyện Hòa Vang lại nổi tiếng với món mì gà, vùng Ái Nghĩa (Đại Lộc), Tiên Phước thì có món mì cá lóc, cá nục...

Có lẽ vậy mà câu ca dao “Thương nhau múc bát chè xanh/ Làm tô mì Quảng cho anh xơi cùng” luôn nằm trong tiềm thức của mỗi người dân xứ Quảng dù đi đâu vẫn luôn nhớ về.

Bài và ảnh: HÀ ĐĂNG

Tô mì xứ Quảng / Hà Đăng.- Quân đội nhân dân cuối tuần.- 2009.- Ngày 19 tháng 7. - Tr. 14

Page 18: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

18

III. PHONG TỤC TẬP QUÁN

Bài 1

CON THUYỀN TRONG ĐỜI SỐNG TÍN NGƯỠNG

Ngư dân tin rằng mắt thuyền sẽ giúp cho thuyền tìm được bến bờ an toàn, tránh bị thủy quái làm hại. Ảnh: T.Y

Những lần tác nghiệp tại Âu thuyền Thọ Quang, tôi cảm giác có hàng trăm đôi mắt vui tươi đang chăm chú nhìn theo những giỏ cá trĩu nặng trên vai người ngư dân lần lượt nối đuôi nhau lên bờ. Những đôi mắt nhấp nhô trên sóng nước trong một buổi sáng đầy nắng tươi. Những đôi mắt nhiều màu sắc, na ná giống nhau được ngư dân nơi đây gọi tên: mắt thuyền.

Những con mắt chỉ đường

Trong đời sống tín ngưỡng phong phú của cư dân biển, thuyền bè ngoài chức năng là phương tiện đi lại, đánh bắt thủy hải sản, vận chuyển còn là sản phẩm văn hóa độc đáo, gắn liền với các phong tục, tập quán cùng nghi lễ thờ cúng trên sông nước.

Sách Lĩnh nam chích quái nhắc đến tục vẽ mắt thuyền bằng câu chuyện rằng: “Dân miền chân núi làm nghề chài cá, thường bị giao long làm hại, mới kêu Hùng Vương. Hùng Vương nói: Loài ở chân núi với loại thủy tộc khác nhau. Loài kia ưa đồng loại mà ghét dị loại cho nên làm hại bèn khiến người ta lấy mực mà xăm mình thành hình thủy quái, từ đó không còn nạn giao xà làm hại nữa. Tục xăm mình bắt đầu từ đó. Về loài thủy tộc lớn đánh đắm thuyền, vua Thủy Tề đã hiện lên bảo các ngư dân hãy vẽ những con mắt lên hai bên mạn thuyền thì loài thủy tộc sẽ không dám quấy phá nữa”. Câu chuyện ấy được cư dân ven biển Đà Nẵng truyền tai nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác, như một dấu mốc quan trọng trong quá trình tiến ra biển lớn của người Việt xưa.

Ngư dân Trần Văn Đạt (phường Thọ Quang, quận Sơn Trà) cho biết ông luôn tin mắt thuyền tượng trưng cho đôi mắt của “thuồng luồng” – một loài thủy quái có nhiều quyền năng trên sông nước, tạo thành “vỏ bọc” hoàn hảo giúp

Page 19: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

19

thuyền tránh được xung đột với thủy quái “đồng loại” khác. Cũng như con người, mắt thuyền ẩn chứa nhiều tâm trạng vui, buồn theo mỗi vụ cá, tôm. Do đó, việc giữ gìn, chăm chuốt mắt thuyền cũng giống như mình bảo vệ con ngươi của chính mình.

Tuy cùng mục đích, ý nghĩa nhưng ở mỗi vùng miền lại có cách vẽ mắt thuyền khác nhau. Với người gắn bó với sông nước, chỉ cần nhìn vào mắt ghe (tròn to, dài, xếch, dẹt) là có thể biết được nơi ghe xuất bến. Nếu ở các tỉnh phía Nam, mắt ghe được vẽ tròn to, trang trí sặc sỡ trên nền sơn đỏ, tạo nên sự vui nhộn, hiền hòa cho thuyền thì các tỉnh, thành miền Trung như Quảng Nam, Đà Nẵng, mắt ghe được vẽ hai màu chủ đạo là trắng và đen, xếch phần đuôi mắt trông khá dữ dằn kèm con ngươi nhìn xuống nước mang ngụ ý “nhìn thật sâu để tìm nơi có nhiều tôm cá”.

Theo ông Phan Văn Minh, Chủ tịch Nghiệp đoàn nghề cá phường Nại Hiên Đông, mỗi ghe, thuyền trước khi hạ thủy đều phải trải qua một nghi lễ rất quan trọng là lễ “điểm nhãn” với ý nghĩa truyền cho ghe sự sống. Nghi lễ này được thực hiện vào ngày lành tháng tốt, hợp cung mạng với chủ thuyền. Lễ vật cúng “điểm nhãn” gồm hoa, rượu, nón thúng và bộ “tam sên” gồm tôm (cua), thịt heo, trứng vịt. Sau nghi lễ này, ghe được “mở mắt”, đủ điều kiện hạ thủy. Ngoài ra, dân đi biển tin rằng mắt thuyền tượng trưng cho hình ảnh một vị thần giáng thế vào thân thuyền, giúp ngư dân vững vàng trong những chuyến ra khơi vào lộng.

Nghi lễ quanh con thuyền hạ thủy

Có nhiều điều thú vị trong văn hóa ứng xử của ngư dân xung quanh hình tượng con thuyền. Trong đó phải kể đến các tục phạt mộc, lễ giáp ghim, tống mộc đưa dăm, hành thuyền phóng thủy, lễ cúng sương mành, lễ nhúng nghề, lễ tất niên thuyền, cúng cáo Thủy và nhiều nghi lễ xung quanh công việc đánh bắt cá như lễ cầu bông cầu ba (cầu mùa), lễ cúng tạ, lễ tống cói, lễ cúng vũng cúng vịnh… của cư dân vùng biển Quảng Nam, Đà Nẵng.

Sách Nghề truyền thống Hội An do Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di tích Hội An phát hành năm 2008 khi viết về nghề đóng ghe thuyền Kim Bồng có nói trước khi tiến hành đóng ghe, thuyền phải tiến hành lễ phạt mộc. Lễ phạt mộc đánh dấu thời điểm khởi công với nghi thức cầm rìu phạt vào khúc gỗ dùng làm bộ phận quan trọng nhất của ghe như lô hoặc long cốt. Những miếng dăm phạt từ khúc gỗ ra được mang đặt nơi bàn thờ cúng, sau đó gói thật kỹ chờ đến lễ đưa dăm tống mộc (nghi lễ cuối cùng của quy trình đóng ghe sẽ đem đặt vào bè chuối thả trôi sông) và chỉ người thợ cả mới được tiến hành nghi thức trên.

Ông Võ Văn Hòe, Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian thành phố Đà Nẵng: Những cư dân vùng sông nước xưa kia đã gửi gắm một quan niệm thuần phát, mang đậm tính huyền thoại trong tục vẽ mắt thuyền. Ngày nay, khoa học kỹ thuật phát triển, người dân được trang bị nhiều kiến thức về biển nên quan niệm về mắt thuyền trấn áp thủy quái có lẽ không còn được xem trọng như xưa. Điều ấy phần nào lý giải vì sao những con tàu có công suất lớn, hiện đại, vượt đại dương ngày nay không được tô điểm bởi những mắt thuyền một thời dọc, ngang trên sông, biển.

Page 20: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

20

Ngoài ra, một trong những nghi lễ cần có trong quá trình đóng mới thuyền phải kể đến lễ giáp ghim. Lễ giáp ghim đánh dấu giai đoạn nối long cốt với hai lô. Đây là những bộ phận quan trọng, liên quan đến toàn bộ kết cấu bên trên của ghe. Họ tin rằng, công đoạn này còn liên quan đến sinh mạng của chủ ghe và những người đi ghe sau này. Về mặt tín ngưỡng, lễ giáp ghim có những nét giống lễ thượng lương khi dựng nhà.

Nếu lần nào đó bạn bước xuống thuyền của một ngư dân đang hành nghề đánh bắt trên sông nước, để ý, sẽ thấy chi tiết được thiết kế nơi mũi thuyền hơi nhích lên cao (thường làm nơi gác dây neo). Trong những dịp đặc biệt như mồng một, rằm hay lễ, Tết, vị trí đó - có nhiều cách gọi là ngà làn, ngà ghe, càn làn hay con cóc - sẽ được ngư dân dùng làm “ngũ tự”, đặt lễ vật thờ cúng. Với ý nghĩa thiêng liêng đó, không một ngư dân nào được phép ngồi hay dẫm chân lên đó nhằm tránh sự ô ế, phỉ báng thần linh.

Trong cuộc đời một con thuyền, những nghi lễ trên được ngư dân thực hiện thường niên và nghiêm túc. Theo ông Phan Văn Minh, hình thức thờ cúng trên biển có nhiều điểm tương đồng với các nghi lễ của hoạt động nông nghiệp. Đích đến của những nghi lễ này là cầu nguyện bình an, gặt hái mùa vàng và đó cũng là cách giúp họ tìm đến sự bình an trong tâm, thể hiện lòng biết ơn đối với các lực lượng siêu nhiên đã che chở họ trong suốt quá trình hành nghề.

Có thể thấy rằng, những nghi lễ xung quanh con thuyền đã góp phần tạo nên đời sống tín ngưỡng phong phú cho ngư dân ven biển. Với họ, thuyền là nhà, biển là vùng đất hứa mang lại cuộc sống ấm no, dẫu trải qua nhiều bão tố.

Theo nghiên cứu của các nhà khảo cổ, từ những năm 2700 trước Công nguyên, trên những chiếc thuyền lớn của Ai Cập đã có vẽ một con mắt lớn của thần Osiris. Đây là một vị thần Ai Cập, ban đầu là thần ruộng đất, tượng trưng cho sức mạnh vô tận của cỏ cây, sau đó được đồng nhất hóa với mặt trời buổi đêm, tượng trưng cho tính liên tục của các chu kỳ sinh nở và tái sinh. Đối với các quốc gia khác như tại Lào, người ta cho các tàu thuyền những cặp mắt bằng cách giả vờ hiến sinh một thiếu nữ và lấy mắt cô ta gắn lên mũi thuyền.

Mũi thuyền độc mộc ở Bali (Indonesia) thì vẽ đầu Makara, một con quái vật biển trong các tranh tượng Hindu giáo, phát sinh từ con cá heo, con vật huyền thoại nửa voi nửa cá, biểu tượng của các vùng sông nước. Các thuyền rồng Bắc Âu lại trang trí bằng một chiếc đầu rồng, còn thuyền Hy Lạp và La Mã thì cúi nhìn sóng nước bằng những đôi mắt lợn rừng hoặc cá heo”.

(Trích từ cuốn Một góc nhìn về Văn hóa biển của Nguyễn Thanh Lợi, Nxb Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh năm 2014)

TIỂU YẾN

Con thuyền trong đời sống tín ngưỡng / Tiểu Yến.- Đà Nẵng cuối tuần.-2014

Page 21: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

21

Bài 2

KỂ CHUYỆN TÂM LINH

Hàng trăm năm trước, trên cung đường vòng quanh bán đảo Sơn Trà xuất hiện nhiều ngôi miếu thờ thần làng, thần biển và những danh nhân, tướng sĩ có công với đất nước được nhân dân phong thần. Họ tin rằng, sự hiển linh của những vị thần sẽ giúp ngư dân tìm ra luồng cá, mang về cuộc sống no đủ bình an.

Ảnh: T.Y

Đồng hồ nhích dần sang giờ ngọ, mặt trời dội xuống cát bỏng rát nhưng bà Đặng Thị Mực ở tổ 22, khối phố Thọ An cùng một số phụ nữ trong làng vẫn kiên nhẫn ngồi dưới gốc dương già nua giữa bãi Nồm, mặt hướng về phía biển chờ đợi. Mọi khi vào giờ này, bà đã tạt về nhà ăn cơm, nghỉ ngơi trước khi quay lại cùng chồng chăm sóc mấy bè cá nuôi cách bờ vài trăm mét. Chuyện là, do sáng hôm ấy, hơn 30 hộ dân khối phố Thọ An trong đó có bà Mực cùng nhau tổ chức lễ cầu mùa trước miếu ông Cao Các, cách chỗ bà ngồi khoảng 50 mét, mong mưa thuận gió hòa, người dân đi biển gặp nhiều may mắn. “Ông Cao Các linh lắm, nhiều năm vừa làm lễ xong là thấy từng đàn cá vào gần bờ, người dân chèo thúng ra bắt được nhiều lắm”. Vừa nói, bà Mực vừa chỉ tay về miếu ông Cao Các, nơi ngày ngày bà vẫn cùng chồng đến thắp hương trước khi ra biển khai thác thủy sản.

Tích xưa kể lại rằng, ông Cao Các là đô úy trấn thủ vùng biển này vào thời hậu Lê, là người tài đức vẹn toàn nên được dân làng xưng tôn là Cao Các quảng độ đại vương. Dân làng đã xây miếu thờ sau khi ông mất. Trong kháng chiến chống Pháp, miếu đã từng bị tàu Pháp bắn sập, được nhân dân xây dựng lại vào cuối năm 2000. Miếu hiện có 2 sắc phong vào năm Tự Đức thứ 5 (1852), và Tự Đức thứ 33 (1880), trên mái có hình “lưỡng long tranh châu”, bàn thờ trong miếu có chữ “thần” cùng hai bài vị bằng đá. Hằng năm vào tháng 3 âm lịch, dân trong làng chọn ngày tốt làm lễ cầu mùa trước khuôn viên miếu cầu

Page 22: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

22

mong ông bảo vệ che chở.

Cách miếu Cao Các vài bước chân là miếu Bạch Mã (thờ thần núi Long Đỗ, hiệu Quảng Lợi Bạch Mã đại vương) và miếu Tứ nương nữ thần (thờ 4 vị nữ thần là con cháu Long Vương) tạo nên “tam miếu” nhưng không hiểu vì sao khi cúng tế hoặc thắp hương, người dân đều chọn Cao Các để thực hiện các nghi lễ đầu tiên dù cả hai miếu trên có năm ghi trong sắc phong trước cả miếu Cao Các. Ông Trần Văn Lự (75 tuổi) hiện là Phó Ban quản lý di tích đình làng Nam Thọ cũng không giải thích được điều này, ngoài sự khẳng định chắc như đinh đóng cột: “Ngày trước cạnh miếu Cao Các có cây thông già, người dân đi biển thường nhìn thấy bóng ông về ngồi nghỉ dưới gốc cây, nhưng sau cơn bão lịch sử Chanchu 2006, cây bật gốc chết, người ta không thấy bóng ông về nữa nhưng tin rằng sự linh hiển vẫn còn”.

Bao năm nay, không ai giải thích được vì sao tại bán đảo Sơn Trà có 19 lăng, miếu thờ các vị thần được người dân hương khói, về độ linh ứng, thì mỗi nơi mỗi khác. Ví như, miếu Bà nằm giữa khu rừng già thuộc tiểu khu 62-63 Bãi Bắc cũng là một địa chỉ được nhiều người dân tìm đến. Đứng trước miếu Bà, anh Phạm Trường Mai, Giám đốc Công ty TNHH một thành viên Trường Mai, người bỏ nhiều công sức chăm sóc, nhang khói tại miếu Bà kể lại câu chuyện rằng nhiều năm trước, có một du khách nọ lên miếu Bà thắp hương thấy cạnh miếu có viên đá rất đẹp nên lấy mang về với ý định làm vật trang trí. Tuy nhiên, khi mang viên đá đi được một quãng ngắn thì ô-tô tự dưng chết máy, sửa cách nào cũng không chạy được. Đứng giữa rừng núi, vị khách bỗng dưng thấy lòng bất an, ruột gan nóng như lửa đốt bèn bảo người tài xế quay lại trả viên đá về chỗ cũ, thắp hương khấn lạy miếu Bà. Lạ kỳ thay, khi viên đá vừa đặt lại vị trí cũ thì xe nổ máy. Cứ thế, một đồn mười, mười đồn trăm khiến miếu Bà trở thành địa chỉ tâm linh không chỉ của người dân đi biển sống quanh vùng đất Sơn Trà.

Cũng theo anh Phạm Trường Mai, từ khi gia đình anh đến khu vực này xây dựng Khu du lịch sinh thái Trường Mai năm 2007 thì miếu Bà chỉ là ngôi miếu nhỏ, nằm lẩn khuất trong lùm cây bụi được người dân địa phương thờ một thiếu nữ làng Thọ Quang bị giặc Pháp bắt lên đây làm nô lệ rồi chết mất xác giữa rừng thiêng nước độc. Do miếu nằm trong khu đất gia đình anh Mai khai thác làm du lịch, nên năm 2009, anh đã xin phép chính quyền được sửa sang, xây dựng lại ngôi miếu này.

Có lẽ, những câu chuyện kể trên đều là sự ngẫu nhiên nhưng anh Mai cũng như người dân đều có một niềm tin vào sự linh thiêng từ các lăng, miếu thờ các vị thần. Anh Phạm Trường Mai tin vào quan niệm “có thờ có kiêng có thiêng có lành”.

Do chữ duyên mà thành

Cách trung tâm thành phố Đà Nẵng 19km, chùa Linh Ứng Bãi Bụt nằm trên sườn núi Bãi Bụt, bán đảo Sơn Trà, rộng hơn 20ha, có độ cao 100m so với mực nước biển. Đây là ngôi chùa mới nhất, đẹp nhất và to nhất trong 3 Linh Ứng tự, cũng là chùa lớn nhất Đà Nẵng với thời gian xây dựng 6 năm, khánh thành năm 2010. Điểm nhấn thu hút khách tham quan, hành hương từ khắp nơi đổ về Đà Nẵng là bức tượng Phật Bà Quán Thế Âm cao khoảng 67m, đường

Page 23: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

23

kính tòa sen 35m, tương đương với tòa nhà 30 tầng. Tượng Phật đứng tựa lưng vào núi, mặt hướng ra biển, đôi mắt hiền từ nhìn xuống dưới, một tay bắt ấn tam muội, tay kia cầm bình nước cam lồ như đang rưới bình an cho những ngư dân vươn ra khơi xa.

Từ khi xây dựng chùa, nhiều sư thầy cùng du khách đã chụp được những vầng hào quang tỏa sáng xung quanh tượng Phật, người dân tin rằng là sự hiển linh của đức Phật nên càng kính cẩn cầu nguyện. Thượng tọa Thích Thiện Nguyện, trụ trì chùa Linh Ứng Bãi Bụt nói rằng xét về khoa học, ánh hào quang do khúc xạ ánh mặt trời mà ra, nhưng với người có tín ngưỡng, thì đó là sự hiển linh của Phật pháp. Cũng theo vị thượng tọa này, dù chùa mới xây dựng nhưng nổi tiếng về sự “linh ứng” là do chữ duyên mà thành. Duyên với trời đất, với con người và với vùng đất Bãi Bụt (bãi tức là bãi biển, bụt tức là Phật hay còn gọi là cõi Phật chốn trần gian) nơi ngôi chùa đang đứng chân. Hãy thử hình dung, người dân đi biển xa đất liền, mắt hướng về tượng Phật, nhìn thấy đức Phật Quán Thế Âm từ đất mẹ nhìn ra như nhìn thấy niềm tin, sức mạnh, sự nương tựa tinh thần để tiếp tục cưỡi sóng vươn khơi.

Sức mạnh tinh thần

Sau cơn bão lịch sử Chanchu năm 2006, ngư trường Đà Nẵng có nhiều biến động, không ít người đổi nghề vì không thể bám trụ cộng với nỗi lo biển giã. Thế nhưng, lòng tin vào sự phù hộ của các vị thần làng, thần biển đã giúp ngư dân Sơn Trà quyết tâm bám nghề, tạo công ăn việc làm cho hàng trăm lao động ven biển. Ông Đặng Văn Tâm, Trưởng ban công tác Mặt trận khu vực Thọ An 1, nói rằng Sơn Trà vốn có tài nguyên biển dồi dào, trữ lượng hải sản lớn với nhiều loại quý hiếm, cho giá trị kinh tế cao. Vùng đất này hiện đang lưu giữ một nền văn hóa dân gian mang hơi hướng tâm linh độc đáo, gắn liền với đời sống người dân, đặc biệt là người đi biển. Ông đúc kết: “Không như đình là chốn thâm nghiêm, ngày thường cửa đóng then cài thì lăng, miếu, chùa, cửa luôn rộng mở. Vào bất kỳ thời điểm nào, ngư dân đều có thể đến cúng, cầu xin thần linh che chở và ban phước cho những chuyến đi biển. Văn hóa tâm linh mang lại sức mạnh tinh thần to lớn giúp mỗi người tìm thấy cho mình niềm tin vào cuộc sống, vững vàng trước mọi thiên tai có thể xảy ra trên biển”.

Ngay như ngôi miếu Hải Trân tại Bãi Trẹ xây dựng thời vua Lê Thần Tông niên hiệu Khánh Đức thứ 4 (năm Nhâm Thìn 1625) cũng gắn liền với câu chuyện tâm linh khác được truyền từ đời này sang đời khác. Rằng vào năm Khánh Đức thứ 3, Triệu quận công Tổng tấn Vũ úy đại thần Thanh Hóa trấn, sau khi từ quan đã đem gia nhân từ làng Nga Mỹ huyện Nga Sơn, Thanh Hóa vượt biển vào Nam. Khi 7 thuyền đi ngang qua vũng Sơn Trà, chẳng may gặp sóng to gió lớn, gọi là bão Nồm, mọi người trên thuyền liền khấn nguyện thần biển Đại càn Thánh nương và Đức ngư ông hiển linh cứu giúp. Sau lời khấn, trong phút chốc sóng yên biển lặng, dưới 7 thuyền đều có 7 bóng đen nâng nhẹ thuyền lên đưa vào bờ an toàn. Để tạ ơn hai vị thần đã cưu mang, họ quyết định ở lại sinh sống, lập lên 2 ngôi miếu thờ Đại càn Thánh nương và miếu Ông mong cuộc sống bình yên ở vùng đất mới. Về sau, khi Triệu quận công mất, vua Lê Thần Tông phong ông làm Vương Linh Dược quận tế, Quốc công tôn thần, thượng

Page 24: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

24

đẳng thần và sai dân làng lập miếu thờ, đặt tên Hải Trân.

Những câu chuyện nửa hư nửa thật gắn liền với mỗi địa chỉ tâm linh càng khẳng định niềm tin của con người vào quan niệm “có thờ có thiêng có kiêng có lành” từ ngàn đời nay của dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đền, miếu, thì ngôi chùa chính là chốn tâm linh để người dân ngưỡng vọng, nương tựa tinh thần cầu mong sự bình an sẽ đến với người thân, gia đình mình. Với ngư dân làng biển, việc lập đền thờ Cá Ông, hương khói cầu nguyện thường xuyên tại lăng, miếu thờ không chỉ là chuyện tâm linh mà còn là một nét văn hóa không thể tách rời trong đời sống, khác với những loại hình “mê tín dị đoan” ở những điện thờ do các “thầy” tự lập nên.

TIỂU YẾN

Kể chuyện tâm linh / Tiểu Yến.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2014 .- Ngày 20, tháng4 .- Tr. 6

Bài 3

TẾT XƯA, CHƠI BÀI… XẠO

. Cùng một bộ bài 60 con với 30 đôi, người Quảng có thể đánh bài chòi, chơi bài trùng hoặc bài xạo. Nếu hai hình thức trước còn duy trì đến ngày nay và được nhiều người biết đến thì cách chơi sau cùng đã sắp đến hồi tuyệt tích. Cảnh các cụ khăn đóng đen, áo dài chữ Thọ ngồi quây quần bên nhau đọ trí qua những hội bài xạo đầy cân não đã vơi dần qua các Tết

Xạo, theo giải thích của các cụ, là một cách gọi trại đi của từ “xảo”. Ngay bản thân cái từ “xảo” này cũng lắm nghĩa, nếu "tinh xảo" là tốt, mà "xảo trá", "xảo quyệt" lại mang nghĩa hoàn toàn xấu. Người chơi bài xạo theo kiểu quân tử là biết cách làm cho hội bài trở thành một cuộc đấu trí giữa những con người lịch lãm, cao thượng chứ không phải sát phạt nhau ăn thua đủ theo kiểu tầm thường.

Bộ bài 30 đôi (60 con) chia ra làm 3 pho. Pho Văn gồm các con bài có hình tròn như đồng tiền, pho Vạn có hình đầu người, pho Sách có hình sọc ngang song song với nhau. (Nhờ hình vẽ đặc trưng này mà các cụ xưa không biết chữ hoặc cầm

Người giỏi chơi bài xạo hiện nay ở Đà Nẵng đều đã lên tuổi lão. (ảnh V.P.Q)

Page 25: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

25

ngược các con bài cũng có thể nhận ra chúng). Mỗi pho có 9 đôi bài (3 pho vị chi 27 đôi), còn lại 3 đôi được đánh dấu màu đỏ, cũng thuộc pho Sách. Vì sao có tên gọi như thế, không ai giải thích được, chỉ biết xưa bày nay bắt chước.

Mỗi hội bài xạo chỉ chơi được 4 người. Có 2 cách ăn bài: ăn liền theo pho và ăn thướng (thưởng). Từ 3 cây liên tiếp cùng pho trở lên gọi là liền bài (như tiến lên của bài tây). Ví dụ, nhứt văn (Gối), nhì văn (Bánh hai), tam văn (Bánh ba) là liền pho. Ngoài ra, có 4 bộ, mỗi bộ 3 con, tuy không liền pho, nhưng cũng được quyền ăn, gọi là ăn thướng. Các con bài không nằm liền pho hay thuộc bộ ăn thướng, gọi là "rác". Người nào sạch "rác" và có người đánh đúng con bài cuối cùng mình đang chờ là "tới".

Các "thuật ngữ" trong bài xạo được dùng thống nhất cho cả vùng Quảng Nam. Đánh con bài xuống mà không có ai ăn thì gọi là xạo (tỏ ý khen hay). Nếu cờ tướng có luật "hạ thủ bất hoàn" thì bài xạo cũng có luật "tọa tịch bất hồi" - bài đã đánh xuống chiếu rồi thì không được lấy lui. Ai (vô tình hoặc cố ý) quên không đặt tiền ra treo thưởng thì không cho ăn: “Vô cốc bất thực”. Gặp con bài ăn được thì ăn ngay: “Ngộ thực tắc thực”.

Ở Đà Nẵng, một trong những người trẻ tuổi nhất còn biết chơi bài xạo hiện nay là ông Nguyễn Nhựt (Mười Nhựt) ở thôn Phước Hưng, xã Hòa Nhơn, huyện Hòa Vang. Cha ông Nhựt là ông Hương Ngự (dân gian gọi là thầy Hương Ngự) một thời nổi tiếng khắp vùng không chỉ về tài coi ngày giờ, cho liễn đối, mà còn cả tài chơi bài xạo ít ai sánh nổi.

Bài xạo có từ bao giờ, không ai biết, từ thời ông cố của ông Nhựt đã có rồi. Đánh loại bài này rất khó, có khi cả tiếng đồng hồ không xong một hội (một ván), nhưng cũng có khi cầm bài lên đã tới rồi. Ông Nhựt ngồi học lóm trường kỳ không biết mấy năm, cha ông mới cho cầm tới con bài. Tuổi trẻ ngày nay có thông minh lắm cũng phải học mấy tháng mới chơi được. Có phải vì thế mà người biết chơi bài xạo ở Quảng Nam-Đà Nẵng hiện nay không còn mấy người? Ở Quế Sơn nghe đâu còn vài xóm, ở Hòa Vang thì chỉ riêng xóm Bàu Rô thuộc thôn Phước Hưng còn được khoảng chưa tới 20 người.

Người cao tuổi nhất ở xóm Bàu Rô biết chơi bài xạo hiện nay là ông Huỳnh Toán, thiếu 1 tuổi đầy 90. Ông Toán từng theo dõi những hội bài nẩy lửa giữa ông Phó Minh ở Phú Thượng (nay thuộc xã Hòa Sơn) và ông Hương Ngự. Ông Minh ruộng đất nhiều vô kể, thừa tiền mua ruộng vô tới Phước Hưng, mua luôn chức phó tổng để danh gía với đời.

Ông Phó Minh từng đi với vợ vào Phước Hưng chơi bài xạo. Lúc đầu, chỉ đánh chơi xã giao ngày Tết mấy hội cho vui. Nhưng được một lát, ông Phó Minh nổi hứng đòi đặt tiền treo thưởng cao dần lên, cuối cùng đem cả ruộng đất ra đánh cược. Có điều, càng cay cú, ông càng thua to, phải ký văn tự cầm cố đất ruộng cho ông Hương Ngự và ông Hội Quờn, cũng người làng Phước Hưng.

Sau chuyện này, các bô lão làng Phước Hưng căn dặn con cháu mỗi khi chơi bài xạo phải có kỉnh có nhường; không cãi cọ, ồn ào; không ăn thua, sát phạt. Cờ bạc là bác thằng bần. Đánh lớn thì thua lớn. Chỉ tiêu khiển trong 3 ngày Tết để

Page 26: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

26

vừa giải trí, vừa giữ nếp văn hóa cổ truyền.

Tết rồi, các bô lão làng Phước Hưng ngồi lại với nhau làm mấy hội bài xạo để khỏi… quên bài. Những người "trẻ" biết chơi loại bài gần tuyệt tích này như ông Mười Nhựt cũng đã trên 50 tuổi. Đây là một thú tiêu khiển ngày Tết đậm nét dân gian, rất đáng được các nhà nghiên cứu cất công sưu tầm, bảo lưu trước khi nó biến mất trong kho tàng văn hóa dân gian.

VIÊN PHÚC QUÂN

Tết xưa, chơi bài xạo / Viên Phúc Quân.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2009 . - Ngày 8,tháng 2 . - Tr. 7

IV. LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG

Bài 1

NGHỀ “ ĂN” MỨT NAM Ô

Gành đá Hải Vân là một trong những nơi có nhiều mứt. Ảnh: V.T.L

Mứt là thực phẩm của đất trời sinh ra từ đá gành trong điều kiện khắc nghiệt ở biển. Thu hái nó, người Nam Ô gọi là “ăn” mứt, như “ăn” trầm, “ăn” lá làm nón…

Từ giữa tháng 9 đến giữa tháng 12 âm lịch, khi tiết trời trở lạnh, từng đợt sóng biển cuồng nộ bủa chất nước biển pha ít nước ngọt từ các nguồn sông lên những tảng đá gành bao bọc quanh vũng Sơn Trà – Hải Vân, cộng thêm trời mưa lâm thâm và khí trời tê lạnh là đủ để những tảng đá sát mép nước này lún phún mọc lên một loài rêu màu đen mà từ cổ người Nam Ô gọi là mứt, tên gọi

Page 27: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

27

cho ta cảm giác mềm, ngon, hấp dẫn. Các cụ lão nho sính chữ nghĩa thì gọi là huyền tảo (?).

Khoảng độ mười ngày đến nửa tháng, rêu ấy dài thêm cả tấc, để lâu nữa có thể dài 3-4 tấc, đen nhánh như tóc. Các mâm cơm thời bây giờ có thể không còn xa lạ gì với món quà của biển này, thế nhưng chỉ khoảng 30-40 năm trước, người ta hãy còn cho đây là loại thực phẩm lạ lẫm, chưa từng nếm qua...

Có quá không khi nói người Nam Ô đã biết khai thác và sử dụng món ăn của đất trời này rất sớm, trước cả “các chú” người Tàu trong Nam biết tiếng lặn lội ra tận Nam Ô tìm mua về làm món sang trọng cao cấp trong các nhà hàng ở Chợ Lớn và không dám đặt tên mới mà vẫn cứ gọi nôm na là “tóc tiên” một cách gợi hình, gợi nhớ.

Gợi nhớ một truyền thuyết giải thích về sự sớm hiểu biết giá trị tuyệt vời của mứt ở làng Nam Ô.

Chuyện kể rằng, ngày xưa, xưa lắm, khi dân cư làng chài Nam Ô còn mông muội, chỉ độc một nghề đánh bắt cá tôm. Bữa ăn cơm ít, hải sản nhiều. Những nơi làm nông thời ấy cũng đói trong ngày giáp hạt, thóc có dư đâu mà trao đổi lại qua. Nghề biển đến tiết tháng 10 là sập cửa, thuyền không ra biển thì lấy gì giữ bữa hằng ngày, rau thông, rau bãi luộc chấm mắm suông sao?

Có ông Câu, truyền thuyết gọi tên vậy, một bữa bụng đói vác cần ra gành mong tìm con cá. Cá chưa kịp ăn câu mà người đã đói lả, thiếp đi. Trong cơn mơ thấy một bà tiên tóc dài đen nhánh bay trong gió, bụng dạ đang đói muốn thèm ăn, bèn đưa tay quơ quào bứt lấy tóc ấy bỏ vội vào mồm. Tóc có vị mặn, dịu mát, đậm đà hương vị biển. Ăn một hồi cảm thấy cơ thể có nguồn sinh lực tái sinh, đúng lúc con sóng lớn bủa lên gành tạt nước biển lên mình ướt sũng, choàng tỉnh. Vẫn thấy tay mình còn nắm một mớ rêu biển đen mềm. Ông Câu nghĩ rằng tiên hiện ra cứu khổ, vội thu một mớ rêu mà ông gọi là tóc tiên đem về truyền cho khắp làng để cứu đói.

Đến mùa, các hòn đá từ gành lộng đến gành khơi đã đen nhánh những mứt. Mứt có hai loại: loại to bản bè ra gọi mứt lá, loại mảnh mai dài ra như tóc gọi mứt tóc. Tóc đã tốt thì cần phải cạo. Cạo là cách thu hái, chỉ dành cho những ai có đầy đủ các tố chất như gan dạ, phản ứng nhanh nhẹn, thủ pháp lanh lẹ, quen sóng gió.

Ngày trước, người “ăn” mứt chuyên nghiệp phải trang bị cho mình một cái gùi mang vai (như cái gùi bằng mây của người Thượng), một cái cảu (như cái rổ) đan bằng tre sâu bụng hẹp miệng và 5-6 cái “dũm” để cạo mứt, mòn cái này thay cái khác. “Dũm” là một miếng sắt tây cắt tròn từ thùng phuy đựng xăng dầu, có đường kính sau khi gò chừng 10cm, hình thể như cái vá múc canh. (Hồi chưa có loại sắt tây này, có lẽ ông bà ngày xưa “ăn” mứt bằng cách bứt bằng tay).

Ngày nay chỉ mang theo mấy cái bao tời, trong đó có một bao miệng lận vành sắt tròn làm đồ chứa mứt trong lúc cạo, tiện lợi vô cùng khi gặp phải sóng đánh mà mứt thu được vẫn còn nguyên.

Page 28: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

28

Như đã nói, mứt chỉ mọc trên các gành đá gần cửa sông mang nước ngọt từ nguồn pha nước biển, trong lộng thì gành đá Nam Ô, xa hơn thì gành Hải Vân và phía bắc gành bán đảo Sơn Trà.

Người theo nghề “ăn” mứt có hai cách để đến điểm có nhiều mứt kể trên: “ăn” mứt bộ và “ăn” mứt ghe. Biển động, ghe không xuất bến được thì đi “ăn” bộ, một nhóm 5-7 người phải dậy từ 2 giờ sáng cuốc bộ, nhưng chỉ đến được những điểm gần. Đi “ăn” mứt ghe, mỗi ghe hơn chục người, dậy từ 3 giờ sáng. Xuất bến thì sóng êm nhưng có khi đến điểm “ăn” mứt thì gió to, sóng lớn, đòi hỏi người đi “ăn” mứt phải đủ bản lĩnh tay nghề. Nhưng đó là đề tài của một bài viết khác.

Kết thúc bài này, xin nêu một vài cảm nhận của người đã dùng qua món mứt Nam Ô. Họ bảo, mứt là sự lựa chọn hàng đầu vì sức bổ dưỡng vô song và còn đồn rằng có thể ngăn ngừa bướu cổ và chữa được các bệnh phụ khoa (?). Thực hư thế nào không quan trọng, hãy một lần thưởng thức mứt Nam Ô, bởi khoảng giữa tháng chạp, đất trời sắp chuyển sang xuân ấm áp, mứt tự biến mất, kết thúc một vòng đời ngắn ngủi của mình, hẹn mùa sau tái ngộ, để lại cho người theo nghề “ăn” mứt xóm Gành một mùa xuân no đủ.

ĐẶNG PHƯƠNG TRỨ

Cheo leo nghề cạo mứt / Hàng Vang.- Đà Nẵng.- 2007. - Ngày 15 tháng 1. -Tr. 3

Bài 2

LÀNG ĐÁ MỸ NGHỆ NON NƯỚC

Đà Nẵng là một trong những địa danh du lịch nổi tiếng của Việt Nam, dường như mọi cảnh đẹp của đất nước đều hội tụ ở thành phố này. Vẻ đẹp thiên nhiên diễm lệ hòa trong nét văn hóa đặc sắc, con người đôn hậu gắn với lịch sử hào hùng, ẩm thực và lễ hội đặc sắc…Tất cả cứ đan xen lẫn nhau tạo nên một Đà Nẵng quyến rũ và cuốn hút nhiều bước chân du khách trong nước và quốc tế tìm về hằng năm. Trong các địa danhdu lịch ở Đà Nẵng, làng đá mỹ nghệ Non Nước có sức níu chân du khách bởi tinh hoa văn hóa đặc sắc, sự tinh tế ẩn chứa trong các tác phẩm nghệ thuật. Đến đây, các bạn sẽ có cơ hội chiêm ngưỡng những tác phẩm đá độc đáo nhất và chắc chắn một điều rằng, bạn sẽ phải mê mệt và khâm phục trước sự sáng tạo và bàn tay khéo léo của các nghệ nhân làng đá. Nào! Hãy cùng tham quan làng đá mỹ nghệ Non Nước với Danang.holiday nhé!

Page 29: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

29

Những tác phẩm đá nghệ thuật tại làng đá mỹ nghệ Non Nước

Làng đá mỹ nghệ Non Nước nằm dưới chân núi Ngũ Hành Sơn thuộc phường Hòa Hải quận Ngũ Hành Sơn thành phố Đà Nẵng, làng đá được hình thành vào thế kỷ XVIII do một nghệ nhân đến từ Thanh Hóa tên là Huỳnh Bá Quát sáng lập. Cho đến nay, dẫu trải qua bao nhiều thế kỉ, dưới tác động của nền kinh tế hiện đại nhưng ngôi làng vẫn được duy trì và phát triển. Bởi lẽ, đối với người dân Đà Nẵng, bảo bệ làng và phát huy làng đá mỹ nghệ cũng chính là bảo tồn tinh hoa văn hóa của dân tộc.

Những nghệ nhân chế tác đá thủ công và nhiều kinh nghiệm

Bước chân vào làng đá, các bạn sẽ phải sừng sở trước thế giới đá sống động với các tạo hình và nét chạm khắc tinh tế. Các tác phẩm đá là một nghệ thuật do chính bàn tay con người kiến tạo và sáng tác. Được chiêm ngưỡng những tác phẩm đá ấy, chúng ta sẽ không khỏi ngỡ ngàng trước sự khéo léo và tỉ mẫn của những nghệ nhân nơi đây. Khi các bạn cầm những tác phẩm đá mỹ nghệ trên tay cũng giống như bạn đang chạm đến nét văn hóa đặc sắc đáng tự hào của Đà Nẵng.

Page 30: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

30

Những tác phẩm đá tại làng đá dưới chân núi Ngũ Hành Sơn

Tác phẩm thường có đủ loại hình thù của vạn vật, đặc sắc nhất là tượng các vị Phật, vị Thánh, Chúa, thần Vệ Nữ, các con vật huyền thoại như kỳ lân, rồng rồi đèn đá và các đồ trang sức bằng đá…Tất cả làm nên sự đang dạng và tạo nên một thế giới đá bắt mắt và cuốn hút lạ thường. Đến làng đá mỹ nghệ Non Nước, du khách sẽ được hòa vào không khí, nhịp sống lao động nghệ thuật sôi động của làng. Một không gian thanh bình, những tiếng động quen thuộc của làng nghề chắc chắc sẽ làm bạn thích thú. Nếu ưa thích, các bạn có thể tham gia một công đoạn chế tác như một người thợ thực thụ của làng. Cảm giác thích thú biết bao khi cầm trên tay tác phẩm mà mình góp công sáng tác.

Công xưởng đá mỹ nghệ bên dưới chân núi Ngũ Hành Sơn

Hầu hết, các du khách khi đến làng đá mỹ nghệ Non Nước thường rất thích mua hàng lưu niệm bằng đá làm quà để tặng người thân, bạn vè sau mỗi chuyến du ngoạn Đà Nẵng. Món quà bằng đá mỹ nghệ hết sức tinh tế mang ý nghĩa lớn lao khiến cho những ai khi nhận được đều thấy vui và trân trọng. Đối với những sản phẩm nhỏ, nhẹ, bạn có thể xách tay nhưng đối với những sản phẩm kích thước lớn, cồng kềnh bạn có thể đặt mua trước và chủ các cơ sở bán hàng sẽ có nhân viên giao đến địa chỉ theo yêu cầu, kể cả nước ngoài.

Hiện nay, làng đá mỹ nghệ Non Nước có khoảng hơn 300 cơ sở sản xuất

Page 31: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

31

với hàng nghìn nhân công làm việc bận rộn suốt ngày đêm. Các cơ sở này nằm sát ngay danh thắng Ngũ Hành Sơn đã tạo điều kiện thuận tiện cho việc trưng bày, mua bán sản phẩm để góp phần quảng bá văn hóa, du lịch miền đất Quảng đến với công chúng và bạn bè quốc tế.

Những món hàng lưu niệm dành cho khách du lịch khi đến tham quan làng đá mỹ nghệ Non Nước

Sự tinh tế và đặc sắc của những tác phẩm đá mỹ nghệ khiến đã khiến nhiều người mê đắm khi được chiêm ngưỡng. Có du khách đã nói rằng: “Đến Đà Nẵng mà không ghé làng đá mỹ nghệ Non Nước thì bạn đã mang một sự tiếc nuối ra về”. Chính câu nói ấy đã cho ta thấy rằng, làng đá mỹ nghệ Non Nước chính là địa điểm tham quan lý thú ở Đà Nẵng mà nhất định bạn không nên bỏ qua khi đi du lịch Đà Nẵng, Những điều thú vị và cả một tinh hoa văn hóa đặc sắc của Đà Nẵng đang chờ những bước chân bạn đến khám phá đấy!

THIẾU DANH

Đá mỹ nghệ Non Nước: Nét văn hoá đặc sắc / Thiếu Danh.- Kinh tế hợp tácViệt Nam.- 2004. - Ngày 1, tháng 7. - Tr. 5.

Bài 3

GIỮ LẠI HƯƠNG VỊ NƯỚC MẮM NAM Ô

(LV) - Nam Ô là một ngôi làng nhỏ nằm bên vịnh Đà Nẵng, thuộc phường Hòa Hiệp Nam, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng. Không chỉ là điểm du lịch kỳ thú mà còn nổi tiếng với nghề làm nước mắm.

Tuy trải qua nhiều biến thiên và thăng trầm của lịch sử, nhưng nghề sản xuất nước mắm Nam Ô đến nay vẫn còn tồn tại, góp phần ổn định đời sống của cư dân địa phương.

Kỹ thuật chế biến nước mắm Nam Ô

Để chế biến ra loại nước mắm có màu sậm đỏ, tỏa mùi thơm đầy hấp dẫn, người dân Nam Ô phải chuẩn bị công phu từ muối để muối cá, đến hũ, rồi cá…

Page 32: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

32

Chuẩn bị muối : Muối dùng để muối cá phải là loại có hạt to, xuất xứ từ những vùng sản xuất muối nổi tiếng như Sa Huỳnh hay Cà Ná. Muối mua về được đổ trên nền nhà lót gạch hoặc nền xi măng khô ráo từ 5 đến 10 ngày để cho muối rỉ ra hết vị đắng trong nước biển.

Niềm vui của người làm nước mắm.

Sau đó, người ta cho muối vào các chum hoặc hũ đưa vào nhà (kho) cất giữ khoảng hai đến ba năm mới đem ra muối cá, như vậy sẽ tạo ra loại nước mắm không đắng chát.

Dụng cụ muối mắm: Từ những chiếc thùng, chum, hũ to, nhỏ được làm bằng gỗ bằng lăng hay gỗ mít đến các loại kiệu bằng chum sành hoặc được đúc bằng ximăng với nhiều kích cỡ khác nhau.

Khâu lựa chọn cá: Cá dùng để muối là loại cá cơm than được đánh bắt vào tháng ba âm lịch trên vùng biển Đà Nẵng. Cá phải tươi xanh, không to quá hoặc nhỏ quá. Bởi nếu cá to thì khi muối xong cá lâu phân rã, hoặc phân rã không đều đến khi lấy nước mắm có mùi vị không thơm, màu nước mắm không đỏ đậm, như thế sẽ không ngon. Khi muối, cá không cần rửa lại, vì trước khi đưa lên bờ, cá đã được rửa bằng nước biển. Nếu rửa bằng nước ngọt sẽ làm cá mất ngon, để lâu dễ bị thối.

Các hộ làm mắm khi muối cá thường pha chế theo công thức 10cá/4 muối và chỉ lường bằng bát, không dùng lon. Họ vừa lường cá, vừa lường muối, vừa cho cá vào chum. Dưới đáy chum đặt một lớp sạn đã rửa sạch và phơi khô, cây đót thời kỳ chưa ra hoa.

Khi muối cá phải trộn đều muối với cá, trộn cẩn thận sao cho một lớp cá, một lớp muối thật đều, không được làm cho cá bị dập nát, sau đó cho từng lớp một vào chum đều đặn. Sau khi cá muối đầy đến miệng chum, bên trên đặt một chiếc vỉ đan bằng tre cật, hoặc tre già. Xong dùng mo cau, lá chuối khô gài miệng chum lại, đậy nắp sao cho thật kín và để chum ở nguyên nơi nhà muối cá, bởi ở đây khô ráo, an toàn và kín gió.

Một chum có thể chứa được 200 - 300 kg cá ướp muối, 12 tháng sau mới

Page 33: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

33

lấy được khoảng 100 - 150 lít nước mắm loại một, còn lại là loại hai, loại ba.

Như vậy, cá được muối gần một năm sau người ta mới tiến hành lọc mắm. Khi lọc, phải lọc nước mắm bằng chuộc mới đảm bảo nước mắm tinh chất, thơm đậm. Trước khi lọc phải nhẹ tay lấy vỉ tre đậy và các lớp mo nan, lá chuối ra, trộn đều mắm và dùng vải mịn để lọc mắm. Nước mắm Nam Ô thường đạt độ đạm cao từ 22 - 25 % tổng thể các chất và có màu đỏ tươi, vàng óng trong suốt.

Sự thơm ngon của nước mắm Nam Ô là kết quả của nhiều yếu tố như: chất lượng cá, muối, khí hậu đặc biệt ở Nam Ô và kinh nghiệm của người sản xuất được tích lũy qua nhiều năm trong nghề.

Lọc nước mắm.

Bảo tồn và phát triển làng nghề

Trải qua hàng thế kỷ tồn tại và phát triển, đến nay, làng nghề sản xuất nước mắm Nam Ô vẫn bảo lưu và gìn giữ những kinh nghiệm dân gian, những bí quyết về kỹ thuật sản xuất nước mắm. Đây là một sản phẩm có truyền thống lâu đời, hiện diện trong bữa ăn hàng ngày của người dân xứ Quảng .

Đã có một thời gian dài nghề sản xuất nước mắm Nam Ô rơi vào tình trạng khủng hoảng, có nguy cơ bị mai một. Sau đó, được khôi phục trở lại nhưng quy mô của làng nghề còn nhỏ, thị trường chưa ổn định, sản phẩm làm ra chủ yếu tiêu thụ tại chỗ.

Trước tình hình đó, năm 2005, Trung tâm Khuyến công thuộc Sở Công nghiệp (nay là Sở Công thương) thành phố Đà Nẵng đã mở lớp tập huấn cho 37 hộ sản xuất nước mắm ở Nam Ô. Bên cạnh đó, Phòng Kinh tế quận Liên Chiểu cũng đã triển khai Đề án khôi phục nghề sản xuất nước mắm với 50 hộ được hưởng lợi từ dự án.

Page 34: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

34

Để bảo tồn làng nghề, người dân làng Nam Ô luôn giữ gìn và bảo lưu những phương pháp, kinh nghiệm về sản xuất nước mắm. Ngoài ra, cần tăng cường các hoạt động quảng cáo, xúc tiến thương mại để xây dựng thương hiệu nước mắm Nam Ô. Bởi đây là khâu quan trọng tác động trực tiếp hay gián tiếp đến người tiêu thụ, để người tiêu dùng biết đến sản phẩm nước nắm Nam Ô nhiều hơn.

Hiện nay, Hội làng nghề truyền thống nước mắm Nam Ô đã được thành lập và được Cục Sở hữu Trí tuệ Việt Nam công nhận và cấp Giấy chứng nhận nhãn mác tập thể cho Hội làng nghề.

Lãnh đạo thành phố Đà Nẵng đã chú trọng đầu tư về nguồn nguyên liệu và dụng cụ giúp bà con phát triển làng nghề cải thiện đời sống. Sản phẩm nước mắm Nam Ô hiện đã có chỗ đứng trên thị trường trong cả nước.

Hy vọng trong thời gian đến, làng nghề sản xuất nước mắm Nam Ô được các cấp, các ngành chức năng quan tâm ngày càng nhiều hơn, để thương hiệu nước mắm Nam Ô trở thành sản phẩm ẩm thực không thể thiếu trong bữa ăn hàng ngày của người Việt và những quốc gia trên thế giới, góp phần đem lại cuộc sống ấm no cho người dân địa phương.

ĐINH THỊ TRANG

10.Giữ lại hương vị nước mắm Nam Ô / Đinh Thị Trang.- Làng Việt.- 2013. - Số35 . - Tháng 6. - Tr. 22 – 23

Bài 4

LÀNG GUỐC XUÂN DƯƠNG

Núi Xuân Dương và ngôi đình cùng tên đã gắn bó một thời với nghề làm guốc mộc ở Xuân Dương. (Ảnh V.T.L)

Làng Xuân Dương được tách ra từ làng Xuân Thiều, thuộc tổng Bình Thới hạ, huyện Hòa Vang; nay thuộc phường Hòa Hiệp Bắc, quận Liên Chiểu. Cách đây gần 100 năm, bên cạnh nghề nông, người dân làng Xuân Dương còn có nghề làm guốc mộc, do một người từ Huế vào truyền lại.

Người dân làng Xuân Dương còn lưu truyền câu chuyện kể rằng, có một

Page 35: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

35

thanh niên còn rất trẻ, quê ở tận ngoài Huế (nay dân làng không còn nhớ rõ họ tên và nguyên quán ông ở đâu, chỉ biết là ở Huế), lặn lội vượt đèo Hải Vân vào sống ở làng Xuân Dương. Trong thời gian sinh sống ở đây, ông đã hướng dẫn cho dân làng cách làm những chiếc guốc mộc mà ông đã từng làm tại quê nhà. Từ đó người dân làng Xuân Dương nhanh chóng nắm bắt kỹ thuật làm guốc và lấy đó làm nghề phụ của làng trong lúc nông nhàn.

Để làm được những đôi guốc mộc tiêu thụ ngoài thị trường, đem lại đời sống cho mình, người dân Xuân Dương lúc bấy giờ phải đi tìm nguồn nguyên liệu gỗ ở các nơi, nhất là những vùng rừng núi phía tây huyện Hòa Vang. Chất liệu làm guốc là các loại gỗ như chim chim, sầu đông, xác mướp, mứt..., nhưng chủ yếu là gỗ chim chim, vì nó vừa dẽo, vừa dễ đẽo gọt. Dụng cụ để làm guốc cũng như dụng cụ của những người làm thợ mộc gồm: đục, cưa, chàng, đá mài…

Một đôi guốc mộc muốn hoàn thành phải qua các công đoạn, đó là, khi gỗ được đưa về, người thợ làm guốc thường phải chọn những cây gỗ tốt, thẳng, và đẽo cho nhỏ lại có đường kính khoảng 10 cm, rồi cưa thành lóng, vừa bằng chiều dài chiếc guốc, sau đó chẻ thành miếng, và dùng chàng, đục đẽo cho ra thành hình chiếc guốc. Khi đẽo xong chuyển qua xả cho có chiều cong, tiếp theo là rập cho có khuôn, từ đó mới đẽo lại gọi là đẽo thuyền - đẽo dọc theo miếng gỗ - rồi mới vanh tròn chiếc guốc. Sau đó, chấn bụng dưới để tạo thành đế guốc, tiếp theo là bào cho nhẵn các bên, bào lại bề mặt chiếc guốc cho sạch, mịn, rồi đánh số thứ tự từng đôi theo các số 1 - 1, 2 - 2,… đôi nào theo đôi nấy, sau đó chỉnh trang lại hai đế cho bằng nhau. Khi xong việc đẽo gọt hình thành được đôi guốc, thì đóng quai. Quai guốc ngày xưa làm bằng da bò, sau này mới làm quai bằng ni-lông và nhựa mềm.

Sau khi đóng xong quai thì bắt đầu sơn từng chiếc guốc. Sơn thường dùng là sơn ta trộn với dầu màu, gồm có ba màu chính là đỏ, đen và vàng. Tùy theo tuổi tác và giới tính mà guốc được sản xuất thành hai loại, loại đế cao gọi là guốc cao gót, cao từ 6 đến 7cm, loại đế bằng cao từ 3 đến 4cm. Loại cao gót dùng cho thiếu nữ, loại đế bằng dùng cho nữ trung niên, và nam giới có tuổi.

Ngày xưa, nghề làm guốc đã nuôi sống nhiều gia đình, làng Xuân Dương lúc bấy giờ có khoảng 20 hộ làm guốc, mỗi người trong một ngày nếu làm tích cực thì có thể làm đến vài chục đôi guốc, mỗi đôi thời kỳ đó bán được ba đồng hai. Thời kỳ thịnh nhất của làng nghề là giai đoạn thập niên 50 – 60 của thế kỷ XX, có nhiều người từ làng khác đến Xuân Dương để học nghề và thị trường tiêu thụ mạnh là các tỉnh miền Trung như Huế, Quảng Ngãi, Bình Định, Nha Trang… buôn bán thường là bán sỉ.

Đến năm 1980, làng nghề làm guốc Xuân Dương đã không còn phát triển và buôn bán thịnh như trước và cho đến nay thì đã bị mai một hẳn; những người làm nghề hiện còn sống là ông Nguyễn Bá Sanh, Huỳnh Nghè, Phạm Sĩ Tấn, Phạm Chữ, Phạm Cầm. Tuy nhiên, đến nay thị hiếu thẩm mỹ của phụ nữ nói chung đã theo hướng hoài cổ, phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, nên thời trang cũng trở lại với áo lụa Hà Đông, với guốc mộc, nhất là với miền Trung sẽ

Page 36: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

36

là vật cần thiết cho phụ nữ trong những ngày mưa lầy lội.

Qua trao đổi với các nghệ nhân, chúng tôi được biết, họ rất muốn phục dựng lại làng nghề để ngõ hầu trao truyền lại cho các thế hệ sau những tinh hoa, những giá trị truyền thống của làng nghề, để gìn giữ, bảo tồn bản sắc văn hóa của dân tộc.

HỒ TẤN TUẤN

Làng nghề guốc mộc Xuân Dương / Hồ Tấn Tuấn.- Văn hoá Đà Nẵng.- 2007. - Số đặc biệt xuân Đinh Hợi. - Tr. 38-39

V. LỄ HỘI

Bài 1

ĐÀ NẴNG VÀO MÙA LỄ HỘI

Lễ hội cầu ngư tại quận Thanh Khê.

Từ tháng Giêng kéo dài đến hết tháng 3 âm lịch, trên địa bàn thành phố

Page 37: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

37

Đà Nẵng diễn ra nhiều lễ hội dân gian, lễ hội tôn giáo đặc sắc, thu hút đông đảo người dân tham gia.

Theo thống kê của Sở VH-TT&DL, chỉ riêng từ tháng Giêng đến tháng 3 âm lịch có gần 20 lễ hội đình làng, lễ hội cầu ngư, lễ hội tôn giáo…

Tháng Giêng:

Lễ hội đình làng Hòa Mỹ: diễn ra vào ngày 12 và 13-1 âm lịch tại khối phố Hòa Mỹ, phường Hòa Minh (quận Liên Chiểu) để tưởng niệm Thành hoàng, Tiền hiền, Hậu hiền. Lễ hội gồm hai phần: phần lễ và phần hội. Phần lễ có Lễ vọng, Lễ cầu an, Hội kỵ; phần hội gồm kéo co, nhảy bao bố, đập om, bài chòi, hát tuồng…

Lễ hội đình làng Hòa Phú: diễn ra vào ngày 12 và 13-1 âm lịch ở phường Hòa Minh (quận Liên Chiểu). Lễ hội cũng gồm hai phần: phần lễ và phần hội. Phần lễ có Lễ vọng, Lễ tạ, Lễ cầu an. Phần hội bao gồm: thi nấu cơm, cắm hoa, kéo co, đẩy gậy, hát hò khoan đối đáp…

Lễ hội đình làng Túy Loan: diễn ra vào ngày 9 và 10-1 âm lịch tại thôn Túy Loan, xã Hòa Phong (huyện Hòa Vang), bao gồm: Lễ dâng hương, Văn tế Thần hoàng, Tiền hiền. Bên cạnh đó, phần hội gồm: kéo co, đẩy gậy, đua thuyền, hát tuồng, làm bánh, cắm hoa, văn nghệ.

Lễ hội cầu ngư: diễn ra vào ngày 25-1 âm lịch, tại Miếu âm linh Hà Khê, bãi Hà Xuân, phường Xuân Hà (quận Thanh Khê). Phần lễ gồm: Lễ cúng Thành hoàng; Lễ nghinh ngoại hải, Lễ túc, Cúng đăng, Chánh lễ, Lễ cầu an; phần hội gồm: kéo co, vật tay, đan lưới, lắc thúng chai...

Trong 2 ngày 25 và 26 -1 âm lịch, lễ hội cầu ngư cũng diễn ra tại Lăng Âm Linh, phường Mân Thái và tại phường Phước Mỹ (quận Sơn Trà). Phần lễ gồm: Lễ vọng, Lễ nghinh thủy thần, Lễ cúng bà, Lễ tế cô hồn; phần hội gồm: kéo co, lắc thúng chai, hát bả trạo, hát hò khoan…

Tháng 2 âm lịch:

Lễ hội Tắt bếp: diễn ra vào ngày 12-2 âm lịch tại thôn Trà Kiểm, xã Hòa Phước (huyện Hòa Vang). Tại lễ hội có Lễ nghinh Ông và các trò chơi như: cờ tướng, kéo co, đẩy gậy, hát hò khoan, đồng thời các vị bô lão ôn lại truyền thống, động viên dân làng…

Lễ hội đình làng Dương Lâm: diễn ra vào ngày 19 và 20-2 âm lịch tại thôn Dương Lâm, xã Hòa Phong (huyện Hòa Vang). Phần lễ gồm: Lễ tế, Lễ dâng hương, Lễ dựng neo; phần hội gồm: văn nghệ, thi kéo co, nhảy bao bố, cõng bạn xem hội…

Lễ hội cầu ngư: diễn ra vào ngày 15 và 16- 2 âm lịch tại phường An Hải Bắc; ngày 19-2 âm lịch tại phường Nại Hiên Đông; 19 và 20-2 âm lịch, tại các phường An Hải Tây, Thọ Quang (cùng thuộc quận Sơn Trà); tại Lăng Ông Hải Nam, phường Hòa Hiệp Nam (quận Liên Chiểu) vào ngày 15-2 âm lịch. Phần lễ gồm: Lễ vọng, Lễ rước, Chánh lễ. Phần hội gồm: kéo co, đẩy gậy, cờ tướng, hò khoan, hát tuồng…

Page 38: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

38

Lễ hội Quán Thế Âm: diễn ra vào ngày 17, 18 và 19-2 âm lịch tại chùa Quán Thế Âm, phường Hòa Hải (quận Ngũ Hành Sơn). Phần lễ gồm: Lễ thượng phan, thường kỳ; triển lãm tranh, ảnh; hô hát bài chòi khu 5; triển lãm mỹ thuật thư pháp - thiền trà; trình diễn nghệ thuật kết hoa lá; Lễ tế xuân cầu quốc thái dân an; biểu diễn hội hoa bức tranh chủ đề “Bách liên Ngũ Hành khai hội-Trăm hoa sen năm màu mở hội”; chương trình nghệ thuật; giao lưu thơ nhạc, đặc san lễ hội, hội hoa đăng; pháp đàn Quán Thế Âm; cầu nguyện và thiền tọa; Lễ vía Đức Bồ Tát Quán Thế Âm; hội đua thuyền truyền thống… Ngoài ra, năm nay, chùa Quán Thế Âm còn mời Nghệ nhân Thái Lan, Trung tâm Việt Nam Thư đạo và Trung tâm Mỹ thuật Phật giáo Việt Nam về tham dự và giao lưu văn hóa, trình diễn nghệ thuật tại lễ hội.

Tháng 3 âm lịch:

Lễ hội đình làng Trung Nghĩa: diễn ra vào ngày 9 và 10-3 âm lịch tại khối phố Trung Nghĩa, phường Hòa Minh (quận Liên Chiểu). Lễ hội cũng gồm hai phần: phần lễ và phần hội. Phần lễ có Lễ vọng, Lễ tạ, Lễ cầu an. Phần hội gồm kéo co, đẩy gậy, đập om, văn nghệ…

Lễ hội đình làng Xuân Lộc: diễn ra vào ngày 18-3 âm lịch tại thôn Xuân Phú, xã Hòa Sơn (huyện Hòa Vang). Lễ rước văn, nghinh thần, giỗ tiền hiền, âm linh, cầu an; văn nghệ, thi nấu cơm, cắm hoa, đập om, kéo co, đẩy gậy…

Lễ hội đình làng Hải Châu: diễn ra vào ngày 23-3 và 24-3, tại đình làng Hải Châu, quận Hải Châu. Phần lễ gồm Lễ vọng, Lễ chánh tế. Phần hội gồm: thi văn nghệ, trang phục truyền thống; chưng bánh chưng, nấu ăn, thi cắm hoa, cờ tướng, đẩy gậy…

Lễ hội cầu ngư: diễn ra vào ngày 4-3 âm lịch tại Lăng Miếu Ông, phường Thuận Phước (quận Hải Châu). Ngày 22-3 âm lịch, lễ hội cầu ngư diễn ra tại bãi biển Nguyễn Tất Thành (luân chuyển địa điểm tổ chức giữa 3 phường Xuân Hà, Thanh Khê Tây, Thanh Khê Đông, quận Thanh Khê).

Bài và ảnh: NGỌC HÀ

Đà Nẵng vào múa lế hội / Ngọc Hà.- Đà Nẵng.- 2015 .- Ngày 26, tháng 2 .- Tr. 3

Bài 2

ĐỘC ĐÁO LỄ HỘI TÔN VINH TRẺ CHĂN TRÂU

Chiều hè yên ả, chúng tôi tìm về làng Phong Lệ, xã Hòa Châu, huyện Hòa Vang, Đà Nẵng, nơi lưu giữ những phong tục, tập quán và lễ hội, đình chùa về mục đồng (trẻ chăn trâu) độc nhất Việt Nam.

Page 39: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

39

Đình Thần Nông duy nhất ở Việt Nam

Làng Phong Lệ (thuộc xã Hòa Châu, huyện Hòa Vang ngày nay) có nhiều công trình kiến trúc cổ đại như nhà thờ làng, chùa làng, lăng miếu, đình đã được xây dựng từ bao đời. “Làng tôi có một ngôi đình cổ kính mang nhiều nét độc đáo và đã trở thành truyền thuyết” – ông Ngô Văn Nghĩa, Bí thư Chi bộ thôn Phong Nam (trước gọi là làng Phong Lệ) “bật mí” rồi đưa chúng tôi đến thăm ngôi đình cổ. Ông Nghĩa cho biết: “Ngôi đình được xây dựng trước thời vua Thiệu Trị, gọi là đình Thần Nông. Vị trí xây dựng ở đầu làng, hướng Tây Nam, phong cảnh trang nghiêm. Năm 1933, thực dân Pháp xây dựng đường sắt xuyên Việt, chạy ngang trước mặt ngôi đình nên đã không còn sự yên tĩnh và bị cản trở phương hướng. Đến năm Bảo Đại thứ IX, nhân dân làng Phong Lệ thống nhất bàn bạc di dời ngôi đình về vườn Lãng, xứ đất Hoan Thanh, nằm ở phía Đông làng Phong Lệ. Ngôi đình tọa lạc trên một vùng đất cao, nằm giữa cánh đồng tươi tốt, màu mỡ mà theo thuật phong thủy thì đó là nơi “tiềm long, cản thủy, phương hướng thịnh đạt, nhìn thẳng Đông Hải, án ngữ núi Ngũ Hành Sơn, mưu cầu an dân, lạc nghiệp và tồn tại cho đến ngày hôm nay. Ngôi đình đặc biệt có ý nghĩa về đời sống nông nghiệp”, là nơi tế lễ cầu cho mưa thuận gió hòa, lúa màu tươi tốt, tăng năng suất chống đói nghèo, nên có tên gọi là đình Thần Nông – tên một vị thần trong truyền thuyết khuyến khích nông nghiệp. Đây là ngôi đình có một không hai trong cả nước, được gắn liền với lễ hát mục đồng. Vì vậy, người dân ở đây thường gọi là đình Mục Đồng và lưu truyền câu ca: “Nhất Phong Lệ mục đồng, nhì Giáng Đông hát vật…”.

Cấu trúc của đình Thần Nông có 3 bộ phận gắn liền nhau, từ ngoài vào trong là nhà Tiền Đường có gác chuông, trống; hai bên nhà chính có 5 gian; trong cùng là tẩm. Mái đình lợp ngói âm dương. Trên nóc nhà chính tẩm và các góc đuôi mái đều có đắp tượng Long, Lân, Quy, Phụng, biểu tượng sừng trâu và nhiều tiết tấu hoa văn rực rỡ sắc màu. Cột kèo, xà nhà được chạm trổ tinh vi, trên tường đắp phù hiệu, ngay giữa nhà chính đắp tấm biển lớn gắn 3 chữ Phong Lệ Đình bằng chữ Hán được sơn son thiếp vàng, nội tẩm còn có 3 chữ anh khí chuông (tức tiếng chuông vang xa) viết bằng chữ Hán. Các câu liễn đối của các bậc tiền bối như Cao Bá Quát, Phan Bội Châu ban tặng được ấn phẩm vào tấm gỗ quý vẫn còn lưu giữ cho đến ngày nay.

Trong những năm tháng Cách mạng, đình Thần Nông là nơi tổ chức hội họp, là nơi nằm vùng của nhiều lực lượng cách mạng. Rồi một thời đình Thần Nông trở thành trường học để dạy con em trong làng và cũng là nơi dân làng trú ẩn lúc biến cố chiến tranh…

Truyền thuyết Thần Nông

Tương truyền, ngày xưa có một cụ già tóc bạc, râu trắng và dài như tiên ông. Không biết cụ già từ đâu đến làng. Cụ rất gần gũi và yêu mến trẻ em chăn trâu và cụ cũng được bọn trẻ yêu quý như người 39han thích. Bọn trẻ kính trọng cụ còn vì lý do cụ nói những điều thật linh nghiệm! Khi tuổi già sức yếu, cụ chết tại một gò đất mà sau đó trẻ em chăn trâu gọi là cồn Thần (ở Xóm Đồng, Hòa Châu, Hòa Vang). Trẻ em chăn trâu mai 39han và đắp cho cụ một nấm mộ, gọi

Page 40: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

40

là mộ Thần Nông. Mặc dù cụ đã mất, nhưng ngày ngày bọn trẻ thường đến gò đất chuyện trò, chăm sóc mộ, tỏ 40han thương tiếc cụ. Và lạ thay, trẻ chăn trâu nào có trâu đi lạc, đến mộ khấn vái nhờ cụ, sau đó trâu… tự giác trở về. “Tiếng lành đồn xa” lan truyền đến người lớn, nơi này, nơi nọ và theo linh ứng của cụ,bà con Phong Lệ mở hội rước Thần Nông về làng.

Tượng đồng trẻ chăn trâu thôi sáo trúc

Về tảng đá duy nhất ở Cồn Thần cũng là hiện tượng lạ. Tương truyền rằng: Bất kỳ những ai đến gò vô tình ngồi lên tảng đá, bị dính chặt không đứng dậy được. Có những đàn vịt đi ăn trên cánh đồng, khi leo lên tảng đá rỉa 40han, thậm chí chỉ chạy qua là hai chân dán chặt vào mặt đá. Khi những tình huống ấy xảy ra, chỉ có một cách duy nhất là người nhà đến thắp hương khấn vái, thì người và vật được trở lại bình thường. Duy chỉ có trẻ em chăn trâu và những con trâu, con bò thân thiết của chúng hàng ngày đến đây là vô sự.

Trước và vài năm sau 1930 (thời Bảo Đại thứ IX) tại Đình Thần Nông, cứ 3 năm lại diễn ra đáo lệ hát mục đồng vào ngày 4/4 âm lịch. Thời gian lễ hội diễn ra trong 3 ngày 3 đêm. Giới mục đồng vui mừng hò reo, chơi các trò chơi dân gian và được “ăn trên ngồi trốc”, vinh hạnh làm lễ trọng thể.

Theo cụ Ngô Viêm (SN 1923), một trong số rất ít cụ còn sống từng tham gia Lễ rước Mục Đồng cuối cùng vào năm 1934, xứ Quảng Nam là vùng nông nghiệp, nên những gì liên quan đến nghề nông đều được xem trọng. Qua Lễ rước Mục Đồng cho thấy vị trí quan trọng của người nông dân lam lũ và trẻ em chăn trâu với ước mơ xóa bỏ sự phân biệt giai cấp trong xã hội phong kiến đương thời.

Lễ hội độc đáo

Cụ Viêm nhớ lại: Canh một, gà mới xao xác gáy, cả làng Phong Lệ đã có mặt ở đình Thần Nông. Ai cũng cố tỏ ra lật bật lăng xăng dù chẳng có việc gì để làm. Bởi lẽ từ hào lý chức việc, thứ dân đến đứa mục đồng đều mong rằng vị thần đang được thờ ở giữa đình để mắt đến mình. Khi cỗ kiệu hai đòn khiêng giăng hoa, kết trái được đặt ngay ngắn trước điện thờ, ba hồi chiêng trống dõng dạc vang lên – tất cả im phăng phắc. Vị Trùm Mục tóc bạc trắng lom khom thành kính trước điện thờ lâm râm khấn vái. Sau 40han ông là bốn mục đồng áo dài 40han đóng giữ phần khiêng kiệu nghền nghệt, trang nghiêm đứng trình diện.

Vị Trùm mục khấn xong, cúi rạp xuống chiếu lạy ba lạy cuối cùng rồi lui ra nhường chỗ cho Trùm chỉ, Trùm phụ và bọn mục đồng khiêng kiệu lô nhô trong khói hương nghi ngút. Lại ba hồi chiêng trống nữa vang lên, Trùm mục cung kính thỉnh bài vị Thần Nông nâng ngang mày rồi quỳ xuống đặt vào trong kiệu. Trùm chỉ, Trùm phụ đi khắp lượt hò hét sửa soạn hàng lối và cờ xí. Xong đâu đấy, chiêng trống lại vang lên. Tất cả mục đồng hướng vào trong điện đồng loạt chắp tay xá ba cái. Rồi, đám rước nối dài những người, dăng dăng cờ xí khởi hành. Đi đầu đám rước là đám mục đồng cầm đuốc và vác lễ kỳ của làng, ở giữa là kiệu thần, kế đến là chiêng trống, phường bát âm, cờ xí của mọi nhà

Page 41: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

41

trong làng.

Trong đêm, đám rước cứ thế đi qua những cánh đồng mới gặt nứt nẻ và trơ những gốc rạ để đến cồn Thần. Khi ấy, sao trên trời vẫn chưa chịu tắt. Tảng đá trắng giữa cồn – nơi Thần giáng xuống được trải một chiếc chiếu hoa còn thơm mùi cói. Trước vô số ngọn đuốc bập bùng và đám đông thành kính, tảng đá trắng vô tri thường ngày bỗng trở nên huyền bí, linh thiêng.

Kiệu Thần hạ xuống, Trùm mục quỳ trên chiếu hoa, ngửa mặt lên trời lầm rầm khấn giữa hai hàng đuốc chập chờn hư ảo. Sau một hồi lâu khấn vái, Trùm mục tung hai đồng tiền cho rơi xuống đĩa con trước mặt: Một đồng sấp, một đồng ngửa. Với vẻ mặt hân hoan, Trùm mục hô to: “Thần đã giáng!“. Một hồi sênh nổi lên, tiếp đó là ba hồi chiêng trống. Rồi, trống cơm, phường bát âm cử tấu những âm điệu rộn rã chào mừng.

Đoàn mục đồng vừa reo vừa cầm cờ nối đuôi nhau theo vị Trùm mục chạy quanh tảng đá trắng giữa cồn Thần. Đoàn mục đồng chạy đến đâu, đám đông kính cẩn dạt ra đến đó. Cờ lớn, cờ nhỏ của gia nông và con cháu Phong Lệ đi xa làm ăn khấm khá trong tay đám mục đồng cứ phất phơ trước gió. Ai cũng muốn cây cờ của mình phải to nhất, cao nhất.

Trời hửng sáng, đám rước về đến đình làng. Sân đình đông kín người. Đây đó có người lễ mễ 41han đóng áo dài đội lễ vật đến. “Phép vua thua lệ làng”, từ quan chí dân, ai ai cũng tỏ ra khiêm nhường khép nép trước đám mục đồng tiện hạ trong cái ngày trọng đại này. Còn, đám mục đồng, đứa nào đứa nấy đều hể hả thấy được cái giá trị của mình. Chúng tỏ ra nghiêm túc và trang trọng lắm. Lễ bái xong xuôi, Trùm chỉ, Trùm phụ - hai đứa trẻ chăn trâu cùng thì thụp cáo lạy trước linh vị Thần Mục Đồng, kết thúc công việc quan trọng của chúng trong lễ rước.

Sau lễ rước Thần Nông về làng, nhân dân Phong Lệ như được tiếp thêm sức mạnh, bởi họ tin có vị Thần Nông giúp đỡ cho mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu. Sau vụ gặt mùa chính, nhân dân Phong Lệ nói riêng và Hòa Vang nói chung có lệ cúng cơm mới, xôi mới dâng tổ tiên ông bà. Gắn với lễ rước Thần Nông, Phong Lệ còn có hát giao tuồng, gọi là Hát mục đồng.

“Hiện nay, với sự thay đổi và nhịp sống đô thị hóa, bóng trâu rất hiếm trên những cánh đồng. Và nữa, thế hệ trẻ hôm nay không mặn mà lắm với những phong tục, lễ hội xưa của cha ông. Vì thế, để duy trì lễ hội có một không hai này là một vấn đề không dễ”, cụ Viêm trăn trở.

Ghi chép của H.NGUYÊN

Độc đáo lễ hội tôn vinh trẻ chăn trâu / H.Nguyên.- Đời sống và Pháp luật.- 2010. - Ngày 3 tháng 8. - Tr. 4

Page 42: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

42

Bài 3

HỘI LÀNG ĐÀ SƠN

Dầu ai đi ngược về xuôi/ Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng mười tháng ba. Với dân làng Đà Sơn, mồng mười tháng ba âm lịch, ngoài lễ Giỗ Tổ Hùng Vương, còn là ngày con dân các họ tộc trong làng quy tụ về đình làng để dâng nén hương tưởng nhớ nước nguồn cây cội.

Làng Đà Sơn nay thuộc phường Hòa Khánh Nam, quận Liên Chiểu, với lịch sử hơn 660 năm hình thành và phát triển, nơi đây được xem là cái nôi của cư dân đất Hóa Châu xưa và Đà Nẵng-Quảng Nam ngày nay. Buổi đầu, vùng đất mới này được gọi là động Trà Na, kéo dài từ sông Cu Đê đến sông Cẩm Lệ; về sau đổi thành làng Đà Sơn. Các vị tiền nhân đã xây dựng tại đây một trung tâm kinh tế phồn thịnh, một căn cứ quân sự để ngăn ngừa tham vọng bành trướng của quân Mông Cổ thời đó muốn mượn đất Chămpa làm bàn đạp đánh Đại Việt.

Lễ rước Bằng xếp hạng Di tích lịch sử - văn hóa cấp thành phố đình Đà Sơn.

Người có công đầu là ông Phan Công Thiên (1318-1405) và phu nhân là Công chúa Trần Thị Ngọc Lãng (1323-1406). Theo gia phả tộc Phan, vị phò mã của vua Trần này làm quan đến chức Thành hoàng Thuận Quốc công, sau đó, được điều vào vùng đất phía Nam đèo Hải Vân để trấn giữ biên ải. Đến triều Tự Đức, với công trạng “là người sáng lập ra khu vực này”, ông đã được vua phong là Tiền hiền làng Đà Sơn. Mộ ông hiện còn trong làng, đã được xếp hạng di tích cấp thành phố. Để nhớ ơn tiền nhân, năm 2008, chư phái tộc làng Đà Sơn lần đầu tiên khôi phục Lễ hội Thành hoàng nhân khánh thành ngôi đình mới. Năm nay, lễ hội được tổ chức sau khi đình làng được xếp hạng Di tích lịch sử - văn hóa cấp thành phố. Ý nghĩa trọng đại này đã là tiền đề để chư phái tộc tổ chức một

Page 43: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

43

hội làng khác trước với sự chỉ đạo của UBND phường.

Ông Nguyễn Văn Thanh, Trưởng ban Hội đồng Chư phái tộc, Trưởng ban Tổ chức Lễ hội Thành hoàng làng Đà Sơn cho biết, các vị đại diện chư phái tộc sẽ phục dựng lại lễ rước sắc Tiền hiền từ Nhà thờ 12 Chư phái tộc về đình trước khi tiến hành các nghi lễ cổ truyền khác như Cầu an, Tế Thổ thần, Cúng Thành hoàng...

Trong các hiện vật bằng gỗ có niên đại trên thế kỷ còn được lưu giữ và trưng bày tại lễ hội, bên cạnh những đầu rui, đầu kèo chạm khắc hoa văn, cửa tủ và bàn án đặt sắc phong, hai con mắt như thường thấy ở các nhà cổ Hội An... có một chiếc mõ dài khoảng 35cm, đường kính 15cm. Các cụ cao niên bảo đó là chiếc mõ xưa dùng để tống tiễn xua đuổi ôn hoàng dịch lệ trong Lễ tế Thổ thần. Ngày trước các cụ vừa gõ mõ, vừa rồng rắn rước những chiếc thuyền bằng thân chuối trên đó đặt các lễ phẩm ra đến suối Mương Nhàn rồi thả chúng trôi giạt ra sông, ra biển, để “tống ôn binh ra hải ngoại”.

Năm nay, lần đầu tiên chư phái tộc phục dựng lại Lễ Cầu an trong đình, ngoài sân khấu thì hát Phúc Lộc Thọ trước khi diễn Tuồng, tất cả đều tâm nguyện sao cho mưa thuận gió hòa, dân an quốc thái.

Trong phần Văn hóa ẩm thực địa phương, những người phụ nữ trong làng có dịp khoe cái ngon, cái đẹp của những món ăn, thức uống dân gian được lưu truyền từ bao thế hệ trước. Dấu tích cơ cực của những ngày đầu khai phá vùng đất nằm dưới chân núi Phước Tường đã được lưu giữ qua một số loại bánh lạ chẳng nơi nào có được. Lâu nay, thường nghe nói đến bánh ít lá gai, thế mà ở Đà Sơn có một loại bánh ít làm bằng sắn - một loại cây lương thực chủ yếu ở những vùng đất nông nghiệp tưới bằng nước trời. Cũng từ củ sắn, dân làng đã “sáng chế” ra một loại bánh khác gọi là tu huýt, nhào nhuyễn bột sắn, dùng đũa ngoáy tròn vào bột thành hình cái tu huýt, nhúng vào nồi nước sôi một lát cho chín rồi ăn với nước mắm. Thời cơ cực đã qua, giờ thì không ai dùng các loại bánh xưa ấy nữa, nhưng mỗi khi đến hội làng lại bày ra để giữ lấy cội nguồn.

Sôi nổi, hào hứng là các trò chơi dân gian: Bịt mắt bắt lươn, bịt mắt bắt sâu, kéo co… Gay cấn, hấp dẫn, đình đám nhất vẫn là trò “cạp bánh tráng trước gió”. Được anh con trai cõng trên vai, cô gái gắng sức dùng miệng cạp bánh tráng trong lúc gió đồng từng cơn thổi tung chiếc bánh được treo lủng lẳng trên sợi dây mảnh.

Để có một lễ trang trọng, một hội tươi vui, các họ tộc đã nỗ lực hết mình. Ngay từ năm ngoái, giới nông dân và thanh niên trong làng đã đóng góp gần 100 triệu đồng để nâng cấp, tu bổ sân vận động phía trước Nhà thờ 12 Chư phái tộc của làng để chuẩn bị cho các hoạt động thể thao diễn ra trong khuôn khổ hội làng. Tại đây, 3 ngày trước khi diễn ra chính lễ, các đội bóng đá và bóng chuyền sẽ tham gia các trận đấu giao hữu.

VIÊN PHÚC QUÂN

Hội làng Đà Sơn / Viên Phúc Quân.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2012. - Ngày 1 tháng 4. - Tr. 7, 15

Page 44: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

44

Bài 4

KHAO LỀ THẾ LÍNH HOÀNG SA – KHÚC BI CA BẤT DIỆT

Trong hàng loạt các di tích vật thể, phi vật thể đang hiện hữu trên đảo, Khao lề thế lính Hoàng Sa là một áng văn bi ca bất hủ được lưu truyền từ đời này qua đời khác, như một dòng chảy không ngưng nghỉ, vừa để tri ân, vừa để gửi gắm tâm tư tình cảm vào đấng tối thượng vô hình, cầu mong cho những người đăng lính, đi làm nhiệm vụ an bình trở về.

Đại diện các tộc họ cúng tại lễ Khao lề thế lính

Cội nguồn của nghi lễ này xuất phát từ việc 70 suất đinh của các dòng họ trên đảo được gọi xung vào đội lính Hoàng Sa đi làm nhiệm vụ, hoạt động liên tục suốt ba, bốn thế kỷ để đo đạc thủy trình, cắm mốc dựng bia chủ quyền lãnh thổ trên đảo và khai thác tài nguyên biển theo lệnh của các Chúa Nguyễn và Triều Nguyễn sau này. Tính theo thời gian, thì đã có hàng vạn người con của Lý Sơn đi lính Hoàng Sa. Ngày nay trên đảo vẫn còn lưu truyền câu ca “Hoàng Sa trời nước mênh mông/Người đi thì có mà không thấy về/Hoàng Sa mây nước bốn bề/Tháng hai khao lề thế lính Hoàng Sa”. Câu ca trên là lời tóm tắt số phận của những người đăng lính đi Hoàng Sa, Trường Sa. Chắc chắn trong hàng vạn người ra đi, không có nhiều người may mắn trở về. Khu mộ lính Hoàng Sa không xác người trong cụm di tích Âm Linh Tự và Mộ lính Hoàng Sa, cùng các khu mộ chiêu hồn của các tộc họ trên đảo, đang hiện hữu trong đời sống tâm linh của các dòng họ, là một minh chứng đầy bi hùng của tiền nhân trong quá khứ. Có lẽ xuất phát từ nguồn cội đó, nên từ ngày 10 đến 20 tháng hai âm lịch hằng năm, các tộc họ trên đảo đều thực hiện nghi lễ này.

Khao lề thế lính, hay khao lề tế lính, đều có chung một ý nghĩa. Nếu là để chia tay những người đăng lính ra đi làm nhiệm vụ, thì thực hiện nghi lễ khao lề thế lính; còn nếu để tưởng niệm những người đã mất thì đó là nghi thức khao lề tế lính. Việc khao cúng theo lề, thì có lẽ ở khắp đất nước Việt Nam ta đâu đâu cũng có, nhưng thế lính, thì có lẽ chỉ riêng có ở Lý Sơn. Đây là một nghi lễ nặng yếu tố phù phép, nhằm thế mạng cho người đi lính Hoàng Sa, tạo ra niềm tin về mặt tinh thần cho cả người

Page 45: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

45

ra đi làm nhiệm vụ và cho cả người thân ở lại. Mô tả về lễ khao lề thế lính này, Tiến sĩ Nguyễn Đăng Vũ cho biết: “Trước khi người đăng lính Hoàng Sa lên thuyền ra biển lớn, cùng với việc tộc họ bàn soạn lễ vật, hương đăng tỏa rạng, thầy phù thủy sẽ nặn hình nhân thế mạng bằng bột gạo, hoặc đất sét. Hình nhân thế mạng sẽ được đặt cạnh linh vị đã ghi tên tuổi người đi lính Hoàng Sa. Trong khói hương nghi ngút, lời phù chú lầm rầm trên nền nhạc bát âm hoặc ngũ âm xen lẫn tiếng mõ thị uy của thầy phù thủy với áo thụng, mũ tam sơn sẽ diễn ra suốt cả hai ngày. Bên cạnh hình nhân và linh vị người đi lính Hoàng Sa, người lính ấy luôn đứng hầu thần suốt trong thời gian diễn ra buổi lễ bằng chính niềm tin từ lời nguyện cầu của chính mình, của tộc họ thấu chốn cao xanh và các thần linh sẽ về phù hộ, cùng với tay nghề ấn quyết của thầy phù thủy sẽ xua đuổi tà ma, quỷ ám trên suốt dặm dài sóng nước. Sau lễ thức ở nhà thờ tộc họ, người ta sẽ đặt các hình nhân và linh vị, cùng những thứ tượng trưng mà người lính phải mang theo như: gạo, muối, củi, nước ngọt, lưới… vào một chiếc thuyền bằng cây chuối rồi đem thả ra biển. Lời cầu nguyện về sự bình yên, lẫn lời xua đuổi rủi ro sẽ được bỏ chung cùng thuyền lễ. Giữa bập bềnh sóng gió, hình nhân là kẻ thế mạng cho người đăng lính. Khi buổi lễ tế thế lính kết thúc, người lính coi như “đã có một lần chết” và “hùng binh” ấy có quyền tin tưởng rằng mình sẽ không phải chết nữa, dù chặng đường dài 6 tháng trời trước mắt sẽ gặp muôn ngàn bất trắc. Vì thế có thể xem lễ tế có người đăng lính đứng hầu chính là một “lễ tế sống”. Cùng với lễ này, vào ngày 15 và 16 tháng ba âm lịch, tại Âm Linh Tự, các tộc họ trên đảo vẫn tổ chức cầu siêu và hội hoa đăng, cầu cho linh hồn lính Hoàng Sa được siêu thoát, vẫn có những thầy pháp làm phép, vẫn có hình nhân bằng đất sét, bằng bột gạo và bằng giấy, cùng hàng trăm linh vị cắm trên các nài chuối, cùng những thứ tượng trưng mà người lính Hoàng Sa, Trường Sa thường mang theo, được cung thỉnh thả ra biển lớn…

Các tộc họ thả thuyền trong ngày lễ khao lề thế lính.

Ảnh: NGUYỄN ĐĂNG LÂM-TTXVN

Tuy không có sử sách nào ghi lại, lễ khao lề thế lính Hoàng Sa có từ bao

Page 46: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

46

giờ, nhưng có thể khẳng định chắc chắn rằng, lễ này xuất hiện khi đội Hoàng Sa được thành lập vào hồi đầu bản triều của Chúa Nguyễn ở Đàng Trong, tức là cuối thế kỷ XVI, hoặc đầu thế kỷ XVII. Như vậy lễ khao lề thế lính Hoàng Sa đã có bề dầy lịch sử đến hơn bốn thế kỷ. Bản văn tế chiến sĩ Hoàng Sa, Trường Sa bằng chữ Hán đang lưu giữ tại Âm Linh Tự, được dịch ra tiếng việt càng khẳng định chắc chắn điều đó. Xin được chép nguyên văn bản dịch được công bố trong “Lý lịch di tích Âm Linh Tự và mộ lính Hoàng Sa”.

“Than ôi !

Đất Việt trời Nam

Trải mấy phen lao khổ gian nan, nghĩ những kẻ điêu linh từ thủa nọ.

Cho hay, sinh ký tử quy, đi có về không, thân ấy mất mà danh ấy thọ.

Xót thương thay, liều thân vì Tổ quốc, son sắt một lòng, ngang dọc chí nam nhi, phong ba vùi dập-Tuyết sương chẳng quản, mưa gió chẳng sờn - Thề quyết bảo vệ biên cương bờ cõi-Hoàng Sa, Trường Sa lãnh hải, biển cả mênh mông, tháng năm vô định-Đã biết mấy phen thề non, hẹn biển, quyết một lòng chiến đấu đến cùng – Mong ơn trên soi thấu tấm kiên trinh, trường tranh đấu biết đâu là số mệnh!

Kẻ thời chen chân ngựa, quyết giật cờ trong trận.

Kẻ đứng mũi thuyền người tay lái nọ buồm chèo bon bon lướt sóng toan cướp giáo giữa dòng.

Thương thay phép trọng thân khinh, thân da ngựa mặc bèo trôi sóng vỗ.

Hồn tráng sĩ biết đâu miền minh mạc, mịt mù gió lọt, chạnh cảnh tha hương.

Ôi! Lòng trung nghĩa, cuộc công danh, phải chia phần kim cổ - Đoái là tiếc xương đồng da sắt, nợ áo cơm phải trả đến hình hài – Những là khen dạ đá gan vàng, ân dày đội cũng cam long phế phủ.

Phận dù không gác khỏi đài mây, thân đã ngàn dâu nội cỏ.

Tiếc vì thủa theo cờ trước gió, thân chẳng quản màn sương đêm giá, những chờ xem cao thấp bậc cân thường.

Tiếc cho khi lỡ bước giữa dòng, nào kịp thấy ít nhiều ơn vũ lộ.

Đã biết anh hùng thì chẳng quản, cái sinh không, cái tử cũng không.

Nhưng tiếc cho tạo hóa khéo vô tình, phận thủy có, phận chung sao chẳng có.

Tuân lệnh triều đình bảo vệ lãnh hải, lênh đênh chạnh miền viễn thú.

Trường chinh chiến hoặc là oan hay chẳng, hội thăng bình chớ nghĩ rằng không.

Cơ huyền diệu hoặc thăng trầm chưa rõ, thương thì về cố quận để hương thơm đèn sáng, kiếp tái sinh trở lại thăng quan.

Đã anh hùng dù sinh tử chớ nề, thiêng thì giúp Hoàng triều giữ vẹn biên cương, duy vạn kỷ vẫn trường tồn ngôi báu.

Page 47: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

47

Hộ hương thôn nhân vật phụ khương, quốc thái dân an, rạng danh cổ độ.

Ngưỡng lại âm linh chiến sĩ phù trì chi gia huệ dã.

Phục duy cẩn cáo”

Nếu như trong các bộ chính sử của các vương triều Nguyễn và những ghi chép trong các bộ sách của Đỗ Bá, Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú, Nguyễn Thông… mô tả khá chi tiết về nhiệm vụ của đội Hoàng Sa và Bắc Hải, là những cứ liệu lịch sử khẳng định chủ quyền lãnh thổ Quốc gia trên biển đông cách đây ba, bốn thế kỷ, thì việc tổ chức Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa hằng năm ở huyện đảo Lý Sơn và áng văn tế chiến sĩ Hoàng Sa, Trường Sa trong nghi lễ này là sự bổ sung, củng cố thêm chứng lý một cách toàn diện, hùng hồn nhất. Đề nghị các cơ quan chức năng cần sớm xem xét, thẩm định; đưa việc tổ chức Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa ở Lý Sơn hằng năm trở thành Quốc lễ. Phải tổ chức lễ này một cách trang trọng và thiêng liêng, để xứng đáng với công lao, sự hy sinh xương máu của tiền nhân trong việc dựng nước và giữ nước. Chỉ có như vậy, sự tri ân tổ tiên mới đúng với hiếu nghĩa của dân tộc, đồng thời qua đó sẽ có tác dụng giáo dục, nhắc nhở và bồi đắp tinh thần yêu nước cho muôn đời con cháu hôm nay và mai sau.

Ghi chép của ĐẶNG TRUNG HỘI

Khao lề thế lính Hoàng Sa-Khúc bi ca bất diệt / Đặng Trung Hội.- Quân đội Nhân dân.- 2009. - Ngày 7 tháng 6. - Tr. 3

Bài 5

LỄ HỘI CẦU NGƯ CỦA CÁC LÀNG BIỂN QUẢNG NAM – ĐÀ NẴNG

Lễ hội cầu ngư là một sinh hoạt văn hoá thường niên, náo nức, trang trọng của cộng đồng cư dân làm nghề biển từ Quảng Bình vào đến Nam Bộ.

Bài viết này phác họa lễ cầu ngư truyền thống ở vùng biển Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng, như góp thêm sắc màu vào bức tranh văn hoá biển Trung Bộ và Nam Bộ.

Đối với đời sống cộng đồng cư dân biển, lễ hội cầu ngư là lễ hội cầu mùa, mà đường dây tạo ra nó chính là niềm tin của ngư dân về sự phù trợ của ngư thần: Ngư Ông - cá voi. Cá voi, một động vật có thật ngoài biển khơi và có mối quan hệ mật thiết với nghề biển, nên được dân biển suy tôn, thiêng hóa thành phúc thần. Lễ cầu mùa - cầu ngư là lễ tế ngư thần và cầu xin thần ban cho được mùa biển.

Người dân vùng biển Quảng Nam - Đà Nẵng quan niệm Ngư Ông không chỉ là một vị thần biển - ân nhân của người đi biển, mà còn là vị thần liên quan đến sự hưng thịnh của cộng đồng làng biển. Đó là thành hoàng của làng vạn. Họ tin rằng có hai vị thần ngư: một thần sống, gọi là ông Sanh với danh thần Đông Hải Ngọc Lân, một thần đã hoá thiêng (chết) gọi là ông Tử với danh thần Nam

Page 48: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

48

Hải Ngọc Lân. Ông Sanh là thần hộ mạng của người đi biển; Ông Tử là phúc thần bảo trợ cho cuộc sống của vạn làng. Dân biển gọi cá voi bằng những danh xưng tôn kính như: đức Ngư Ông, đức lịnh Ông, ngài, song thông dụng nhất là Ông. Nơi thờ tự cá Ông gọi là lăng Ông. Ở Quảng Nam Đà Nẵng, các vạn làng đều có lăng Ông. Lăng Ông vừa là nơi trú sở của thần ngư, vừa là nơi diễn ra các sinh hoạt văn hoá cộng đồng, trong đó có lễ hội cầu mùa - cầu ngư.

Lễ hội cầu ngư cổ truyền của các làng biển Quảng Nam và Đà Nẵng là lễ tế thần Nam Hải Ngọc Lân. Đây là lễ hội lớn nhất trong năm, gắn với niềm tin và ước vọng được thần hộ trì cho làng vạn “tấn tài, tấn lợi, tấn bình an”. Nếp xưa để lại, thường niên, các làng biển đều tổ chức hai lễ tế thần là lễ Xuân và lễ Thu. Trong đó, lễ tế Xuân được đặc biệt coi trọng, tổ chức lớn gọi là đại tế.

Tiết xuân tế thần Nam Hải Ngọc Lân thường từ trung tuần tháng Giêng đến tháng Hai âm lịch. Nghi thức cúng tế tương tự nghi thức cúng đình hàng năm. Nhân sự thực hiện cuộc tế là một ban Khánh Tiết do vạn làng cử, gồm các bậc cao niên, đức độ, gia đình trọn vẹn, hoà thuận và không mắc tang. Người đứng Chánh tế phải tập quỳ lạy hàng tháng trước đó. Phải ăn chạy, dọn mình sạch sẽ 3 ngày trước lễ tế. Khi lễ thần, nếu lạy sai sẽ bị vạn làng bắt vạ.

- Lễ tế thần Nam Hải tiến hành trong hai ngày với các lễ và hội:

- Lễ vọng (lễ cáo - tiên thường).

- Lễ nghinh ông Sanh (rước ông Sanh - Đông Hải Ngọc Lân về nhập điện chứng lễ tế Ông Tử - Nam Hải Ngọc Lân).

- Lễ tế Cô hồn.

- Lễ Chánh tế.

- Lễ xây chầu Bã Trạo và hát Bội.

Trong ngày lễ tế thần - cầu ngư, quang cảnh lăng Ông được trần thiết rực rỡ, trang nghiêm, cờ Đại, cờ Ngũ Hành cắm dọc hai hàng trước cổng lăng, bến cá, đường thôn được quét dọn sạch sẽ. Các ghe thuyền đậu neo tại bến. Chủ ghe khăn đóng áo dài tham dự lễ tế.

Ngày đầu tiên là lễ vọng. Lễ bắt đầu vào lúc sáng sớm, với mục đích cáo giỗ và cầu xin thần Nam Hải báo ứng cho vạn chài điềm lành dữ trong năm. Lễ vọng cử hành nghiêm trang, dâng đủ 3 tuần rượu và đọc văn cúng.

Sáng hôm sau là lễ nghinh ông Sanh, tức lễ rước Đông Hải Ngọc Lân thần về ngự tại điện thần để chứng lễ tế thần Nam Hải. Sau đó là lễ đi nghinh thỉnh Cô Bác (Cô hồn) và các vị tiền vãng ngụ tại các đình, lăng, miếu, về lăng Ông phụ hưởng.

Tiếp theo là lễ tế Cô hồn tại sân lăng Ông. Lễ vật cúng Cô hồn gồm: một bát cháo thánh (cháo hoa), một bát to gạo, muối, bỏng nổ nhiều sắc, một đĩa khoai, một đĩa sắn, ít bánh oản và một mâm trầu rượu với hương đăng và đồ vàng mã. Khởi sự tế, vị Chánh tế gõ ba hồi mõ, sau đó dâng ba tuần rượu và đọc văn tế. Xong, thức cúng được tung ra khắp nơi để thí thực Cô hồn khuất (chết)

Page 49: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

49

và Cô hồn sống (trẻ em).

Lễ Chánh tếđược tiến hành vào lúc nửa đêm về sáng. Thức cúng gồm đầu heo, hương, hoa, đăng, trà, quả, thực, bánh tráng, bát muối sống. Phần tế với các nghi thức dâng hương, dâng rượu và đọc văn tế ca ngợi công đức thần Ngư, cầu xin thần ban cho vạn làng vụ muà bội thu, thuyền ra đi xuôi chèo mát mái, khi trở về tôm cá đầy khoang. Sau đó, ngư dân làm lễ xuống thuyền đầu năm, mở màn cho một năm đánh bắt với ước vọng và niềm tin được mùa.

Lễ xây chầu Bã trạo là nghi lễ bắt buộc, cố định, mở màn cho buổi hát thờ, đã trở thành tục lệ trong kỳ đại tế thần Nam Hải. Ở xứ Quảng, hát Bã Trạo vừa là một bộ phận của nghi lễ/diễn xướng nghi lễ tổng hợp, bao gồm các yếu tố hát làm chủ đạo và múa với đạo cụ là mái chèo, vừa là một lối hát dân gian độc đáo. Đội hình trình diễn bao gồm các con trạo (tay chèo), thường là nam giới, dưới sự điều khiển của bốn ông tổng: tổng mũi (tổng tiền), tổng thương (tổng khoang), tổng lái, tổng khậu (tổng hậu). Tất cả được dàn sắp theo hình chiếc thuyền đưa linh chèo đưa đức Ngư Ông phiêu diêu miền cực lạc. Nội dung suốt quá trình hát là tạ ơn và ca tụng công đức Ngư Ông, cầu xin Ông phù hộ cho làng vạn có cuộc sống bình an, sung túc. Vínhư bài “Mười cầu” của làng Mân Thái, thành phố Đà Nẵng chẳng hạn.

Tổng thương tán: Như chúng dân dây, miền duyên hải ra khơi vào lộng, chí những mong tìm kế sinh nhai, ngài trấn nơi biển rộng gành dài, người ngộ biến ra tay cứu độ, cứu độ khỏi vòng hoạn nạn, công ơn này đoàn vạn nào quên. Nay vạn dân hội kỵ chư thần, tạm chèo quế chèo hầu lễ tế, cốt mười cầu ngư nghệ niên phong.

(Sau đó, cứ một câu xướng của tổng lái - một cầu, hai cầu,... mười cầu thì Bã Trạo/ con chèo xô theo một câu cho đến hết Mười cầu).

Một cầu mật võng đại đăng

Cá to cá nhỏ dăng dăng bằng đời

Hai cầu mành lớn nghề khơi

Nước êm gió thuận thảnh thơi thay là

Ba cầu nghề nhỏ mành chà

Đắc tài đắc lợi trẻ già vui ưa

Bốn cầu lưới căng lưới sưa

Lênh đênh giữa biển đẩy đưa cá vào

Năm cầu lưới quét lưới cào

Tiền ngàn bạc vạn dồi dào vui thay

Sáu cầu câu bủa câu tay

Thả mồi cá đớp vui vầy hôm mai

Bảy cầu lưới cước lưới hai

Page 50: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

50

Bủa đâu đặng đó ai ai cũng dùng

Tám cầu te trủ lưới dùng

Làm ăn thịnh lợi thong dung thanh nhàn

Chín cầu mành nục lưới gang

Trăm nghề thịnh vượng giàu sang vui vầy.

Mười cầu rớ giả chài tay

Nơi nơi phát đạt tháng ngày sinh nhai.

Đan xen với phần tế cá Ông là các sinh hoạt văn hoá dân gian truyền thống, đặc trưng của dân biển xứ Quảng. Không kể hát Bã Trạo - một hình thức diễn xướng tổng hợp, vừa mang tính nghi lễ, vừa mang tính chất hội (vui),thì còn có những hình thức mang đặc điểm của hội, như:hát Hò khoan đối đáp, đua ghe, lắc thúng v.v... Các sinh hoạt văn hóa này là những hoạt động giải trí, giải toả, tạo không khí vui vẻ, náo nức trong làng vạn trước khi bước vào vụ mùa mới,

Hò khoan là một làn điệu dân ca ở Quảng Nam - Đà Nẵng. Người dân xứ Quảng, trong đó có dân biển, rất thích Hò khoan. Gọi là hát Hò khoan đối đáp vì đây là lối hát hò mà người tham gia diễn xướng phải ứng tác tại chỗ, gọi là khiến tại. Từ lối hát đối đáp giao duyên nam nữ ở các làng quê xứ Quảng xưa, hát Hò khoan đã được kế thừa và trở thành một thành tố hội của lễ cầu ngư. Lời hát Hò khoan ca ngợi tình yêu đôi lứa; phản ảnh công việc nông tang hoặc lao động trên sông biển.

Trong lễ hội cầu ngư, hát Hò khoan thường trình diễn ở sân lăng Ông. Người xem ngồi xung quanh, ở giữa là các “diễn viên” hò khoan ngồi đối diện theo từng cặp, say sưa hò đối đáp trong tiếng hò reo, cổ vũ của mọi người. Hát Hò khoan hấp dẫn bà con ngư dân bởi việc khiến tại kịp thời mà thông minh, hóm hỉnh của bên nam, bên nữ. Thí dụ như câu hát đối đáp sau đây:

Gặp anh ba đây bậu mới hỏi anh ba rằng, bấy lâu nay làm ăn có khấm khá hay vẫn sát da như bọn mình.

Bậu hỏi thì qua đây trả lời, bấy lâu nay làm ăn khấm không khấm, khá không khá nhưng vẫn đu đưa như mọi ngàyđộng.

Còn đua ghe, lắc thúng, đó là hình thức sinh hoạt văn hoá - thể thao truyền thống tiêu biểu của cư dân biển xứ Quảng. Vào dịp tế thần Nam Hải, ngư dân thường tổ chức đua, gọi là bơi đua, với mục đích làm vui lòng thần thánh, Cô Bác, đồng thời rèn luyện tay chèo vững vàng trên sóng nước. Bơi đua có hai hình thức là đua ghe và đua thúng.

Về đua ghe, cơ bản cũng giống như các cuộc đua thuyền hay bơi chải của người Việt ở các nơi. Ghe đua hình thoi, bằng gỗ, màu đỏ. Mũi ghe vẽ cặp mắt to, tròng trắng. Mỗi ghe khoảng 20 đến 30 tay chèo, gọi là một phổ đua. Trang phục của các tay chèo đồng một màu. Phổ nào thắng cuộc xem như là điềm báo vận may sẽ đến với làng vạn. Nhưng thua cũng không sao, thần linh vẫn chứng giám phù hộ.

Page 51: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

51

Trước khi đua, đội trưởng các phổ ghe đua phải vào lăng lạy thần Nam Hải, cầu xin cho phổ đua thắng cuộc. Theo lệ, tất cả các phổ đua phải đua hai giải là giải rượu (còn gọi là giải cúng) và giải chính. Giải rượu có tính chất thăm dò, thử tài nhưng rất quan trọng. Vì, nếu phổ nào đoạt giải thì có nghĩa là đã mang đến sự may mắn cho làng vạn mình trong năm đó. Do đó, giải rượu còn mang ý nghĩa cầu may mà cũng là cầu mùa.

Giải chính của đua ghe mới khẳng định cuộc đua là cuộc thi đấu thực sự. Đường đua dài từ 1,5 km đến 2 km, dọc bờ biển, hướng vào ba tiêu: tiêu trên, tiêu dưới và tiêu rốn. Lệnh đua là một hồi trống dài âm vang. Cờ lệnh phất lên, từ bến, các ghe xuất phát trước bàn án rồi vòng qua tiêu rốn, hướng lên tiêu trên, xong lại vòng trở về tiêu rốn để xuống tiêu dưới. Cứ thế đua đủ ba vòng theo quy định, rồi lại vòng qua tiêu rốn để về bến. Các ghe về nhất nhì được coi là thắng cuộc. Đua ghe trong lễ hội cầu ngư là một sinh hoạt văn hoá thể thao truyền thống, thể hiện ước vọng có sức khỏe, tinh thần đoàn kết lái - bạn; tạo sự phấn khích, hấp dẫn, náo nhiệt trong ngày hội cầu mùa của cộng đồng dân biển.

So với đua ghe, đua thúng cũng không kém phần hấp dẫn. Ghe thúng là một ngư cụ thuận lợi để ngư dân di chuyển từ bến ra tàu thuyền, còn có tên là thúng chai hoặc bọng bơi. Trong ngày hội, nó trở thành một dụng cụ thể thao của cá nhân để thi tài thi khéo

Đua thúng có hai kiểu là bơi thúng và lắc thúng. Bơi thúng do một người ngồi trong thúng, dùng hai tay cầm hai mái chèo ngắn quạt nước liên tục, điều khiển thúng về đích. Còn lắc thúng khác bơi thúng ở chỗ người lắc không được ngồi, mà phải đứng khom lưng, dùng hai tay giữ vành thúng rồi vừa nhún vừa lắc. Giữ thúng cho thăng bằng đã khó, còn phải nhún và lắc sao cho thúng về đích trong thời gian nhanh nhất, lại càng khó hơn. Nó đòi hỏi người điều khiển phải nhanh nhẹn, thông minh, khéo léo. Tư thế lắc thúng trông xa giống như đang phi ngựa trên nước, trông rất vui mắt. Nếu không có tài điều khiển thì cả người lẫn "ngựa" dễ dàng bị lật xuống biển.Và lúc đó, trên bờ lại vang lên những tiếng cười giòn giã, thích thú. Lắc thúng là một tiết mục độc đáo, hấp dẫn, không bao giờ thiếu trong lễ hội cầu ngư của ngư dân xứ Quảng.

Gắn bó với cư dân biển, tín ngưỡng cá Ông và lễ hội tế thần góp phần tạo sự yên ổn trong tâm linh cá nhân và cộng đồng. Nghề biển cực kỳ khó nhọc và vất vả. Để sinh tồn và phát triển, con người phải dám đương đầu với sóng gầm, gió dữ. Phải có đủ tố chất để chịu được cuồng phong của biển cả. Chính hiện thực cuộc sống khó khăn, vất vả đã hun đúc nên những đức tính dũng cảm, cương trực, phóng khoáng, nhân hậu trong cộng đồng người lấy nghề biển làm sinh nghiệp. Song, trong đời sống tâm linh, sự yên ổn về tâm lý cũng có ảnh hưởng lớn đến năng xuất đánh bắt. Do đó, cũng từ hiện thực cuộc sống, dân biển đã tìm được một vị thần “Mang tiếng cá lòng đâu phải cá. Tài sóng êm gió lặng cũng tày trời. Chẳng phải người mà lòng tốt hơn người. Đức rộng ơn dày không kém Phật” (lời hát Bã Trạo), để gửi gắm niềm tin, ước muốn được thần phù trợ cho cộng đồng có cuộc sống phồn thịnh.

Cũng như cư dân các vùng biển từ Nam Trung Bộ trở vào đến Nam Bộ,

Page 52: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

52

các làng biển ở Quảng Nam - Đà Nẵng đã hóa thiêng một động vật hiện hữu, có thật ở biển; xác tín và tôn thành thần linh trong đời sống tín ngưỡng cộng đồng. Lập lăng miếu thờ phụng, mở lễ hội tế thần - cầu mùa, đấy như một phương thức để khải thị tâm thức biển của cư dân ở một vùng biển giàu tài nguyên nhưng cũng đầy bão tố.

Lễ hội cầu ngư, với tính chất nêu trên, đã trở thành một sinh hoạt tín ngưỡng - văn hoá cộng đồng của cư dân biển, hàm chứa những giá trị văn hoá - nhân văn. Đó là sự tích hợp những giá trị văn hoá dân gian truyền thống, đậm sắc biển, được phô diễn trong ngày hội tế thần. Đó còn là một cách điều tiết đời sống tâm lý của cá nhân và cộng đồng sau một năm vật lộn với biển để mưu sinh. Các sinh hoạt văn hoá trong lễ hội đem lại niềm vui, sự hưng phấn cho ngư dân, tạo tâm thế vững tin để bước vào vụ mùa mới. Lễ hội cầu ngư còn là dịp để cộng đồng dân biển tri ân các thế hệ tiền nhân - những người có công trong việc phát triển nghề cá.

Hàm chứa trong lễ hội cầu ngư là ý nghĩa và giá trị nhân sinh, là ý chí và tinh thần hướng biển của cư dân vùng biển xứ Quảng đương đại.

NGUYỄN XUÂN HƯƠNG

Lễ hội cầu ngư của các làng biển Quảng Nam - Đà Nẵng / Nguyễn Xuân Hương.- Văn hóa du lịch Đà Nẵng.- 2011. - Số Xuân Nhâm Thìn. - Tr. 28 - 29, 35

Bài 6

LỄ HỘI QUÁN THẾ ÂM

Các tín nữ dâng hoa chúc mừng Lễ hội Quán Thế Âm. Ảnh: L.G.L

Là một trong 15 lễ hội trên toàn quốc được Tổng cục Du lịch Việt Nam đầu tư đưa vào chương trình quảng bá văn hóa du lịch vào năm 2000 với mục tiêu “Việt Nam - Điểm đến thiên niên kỷ mới”, Lễ hội Quán Thế Âm là lễ hội lớn nhất Đà Nẵng hiện nay.

Page 53: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

53

Lễ hội Quán Thế Âm được tổ chức lần đầu tiên vào năm 1960, nhân lễ khánh thành tượng Bồ tát Quán Thế Âm tại động Hoa Nghiêm (núi Thủy Sơn, phía tây Ngũ Hành Sơn); hai năm sau lại được tổ chức nhân lễ khánh thành chùa Quan Âm ở động Quan Âm, là nơi phát hiện một khối thạch nhũ có hình tượng Phật bà Quán Thế Âm. Sau đó, vì nhiều lý do, lễ hội không được tổ chức trong một thời gian khá dài.

Mãi đến ngày Lễ vía đức Phật bà Quán Thế Âm năm 1991 (nhằm ngày 19-2 năm Tân Mùi), Lễ hội Quán Thế Âm mới được khôi phục trở lại với nhiều hoạt động đậm nét văn hóa dân tộc, trong đó có phần trình diễn múa Tứ linh ngoạn mục của đội Múa Tứ linh đến từ phường Khuê Trung (lúc đó thuộc quận Hải Châu). Trên nền nhạc bát âm, các linh vật Long, Lân, Quy, Phụng lần lượt xuất hiện trên sân khấu với ngọn pháo cần xoay gắn trên đầu, vừa phun lửa vừa phun khói làm tăng thêm vẻ thiêng liêng cho không gian Ngũ Hành Sơn huyền bí. Đặc biệt, diễn viên đóng vai linh vật Long đã thể hiện hết tài năng của mình để minh họa truyền thuyết Ngũ Hành Sơn được sinh ra từ quả trứng Rồng.

Từ đó, hằng năm, qua mỗi lần tổ chức, lễ hội Quán Thế Âm lại có một tầm vóc quy mô hơn. Lễ hội diễn ra trong 3 ngày, phần lễ mang màu sắc nghi lễ truyền thống Phật giáo, phần hội diễn ra sôi nổi với các hoạt động văn hóa - thể thao truyền thống xen lẫn với hiện đại. Nhờ vào vị thế sơn thủy hữu tình trời cho, các nội dung của lễ hội đã được đổi mới hằng năm nhằm thu hút đông đảo khách hành hương, khách du lịch trong và ngoài nước đến với phía Tây thắng tích Ngũ Hành Sơn.

Qua hơn 20 kỳ lễ hội, nhiều loại hình văn hóa - thể thao đã được tổ chức giữa không gian sơn thủy hữu tình ở phía tây núi Ngũ Hành. Nếu các cuộc thi kéo co, đua thuyền, lắc thúng,… sôi nổi, hào hứng thì khu vực triển lãm thư pháp, tranh thủy mặc,… lại đưa khách hành hương quay về với sự tĩnh tâm đầy thiền vị. Đêm xuống, trên các đường phố diễn ra lễ rước đuốc, rước cộ; bên Bến Ngự - nơi được cho là vua Minh Mạng từng ghé thuyền trong những lần ngự du Ngũ Hành Sơn, hàng nghìn hoa đăng được các vị cư sĩ và thiện nam tín nữ thả xuống sông Cổ Cò, gởi lời cầu nguyện cho ánh sáng trí tuệ mãi trường tồn như dòng nước.

Năm 2000 đánh dấu một mốc quan trọng trong lịch sử hình thành và phát triển của lễ hội Quán Thế Âm khi lễ hội tuy mang màu sắc đạo pháp nhưng lại đi sâu vào tự tình dân tộc này được Tổng cục Du lịch Việt Nam xếp vào một trong 15 lễ hội trên toàn quốc và đầu tư đưa vào chương trình quảng bá văn hóa du lịch với mục tiêu “Việt Nam - Điểm đến thiên niên kỷ mới”. Lễ hội, ngoài địa điểm chính là khuôn viên chùa Quán Thế Âm phía tây, còn mở rộng ra các địa điểm phụ khác là Ban Quản lý Khu du lịch thắng cảnh Ngũ Hành Sơn, các tuyến đường Sư Vạn Hạnh, Lê Văn Hiến…

7 năm sau, năm 2007, Hòa thượng Thiền sư Thích Nhất Hạnh và Tăng thân Làng Mai từ nước ngoài về dự lễ hội và mở khóa tu tại các chùa trong Khu Danh thắng Ngũ Hành Sơn. Sự kiện này đã góp phần khẳng định lễ hội thật sự xứng đáng tầm cỡ quốc gia.

Page 54: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

54

Một năm sau, năm 2008, Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc nhằm kỷ niệm ngày Đản sanh, Thành đạo và Niết bàn của Đức Phật đã được tổ chức lần đầu tiên tại Việt Nam. Sự kiện được xem là dịp truyền bá thông điệp tình thương, hòa bình, bất bạo động và lòng từ bi của thế giới này cũng là cơ hội để Lễ hội Quán Thế Âm ở Đà Nẵng quảng bá hình ảnh của mình ra toàn thế giới.

Năm nay, 2014, sẽ có đoàn sư sãi, cao tăng của Vương quốc Thái Lan và phật tử tham gia lễ hội và dự Lễ gia trì về ý nghĩa ngọc xá lợi mà chùa Quán Thế Âm được Đức Tăng thống Thượng phụ Vua Sãi Hoàng gia Thái Lan ban tặng. Sau đó, đoàn sẽ tham gia Lễ pháp đàn cầu nguyện theo Phật giáo Nam Tông và thiền tọa, hoa đăng.

Lễ hội Quán Thế Âm là lời cầu nguyện quốc thái dân an, mưa hòa gió thuận; là dịp để mọi người, mọi giới chan hòa trong không khí hội hè, soi mình vào bản sắc văn hóa dân tộc để ngày một sống đẹp hơn. Sở hữu một lễ hội lớn nhất Đà Nẵng, Ngũ Hành Sơn có đủ điều kiện để xây dựng một sản phẩm du lịch văn hóa đặc thù, có sức cạnh tranh cao đó là du lịch tâm linh, du lịch hành hương.

LÊ GIA LỘC

Lễ hội Quán Thế Âm / Lê Gia Lộc.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2014 .- Ngày 16, tháng 3 .- Tr. 2, 15

Page 55: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

55

Phần II THƯ MỤC CHỈ CHỖ

I. THƯ MỤC SÁCH

1. 40 năm Nhà hát tuồng Nguyễn Hiễn Dĩnh / Chủ biên: Trần Đình Sanh, Hoàng Hương Việt. - Đà Nẵng : Nxb.Đà Nẵng, 2007. - 184tr. : Ảnh ; 28cm

Ký hiệu kho: Kho Địa chí: DNG.002353

2. 50 năm sưu tầm, nghiên cứu, phổ biến văn hóa, văn nghệ dân gian: Kỷ yếu hội thảo khoa học tổ chức tại Hà Nội tháng 11 năm 1995 / Hội văn nghệ dân gian Việt Nam. - Hà Nội: Khoa học xã hội, 1997. - 356tr. ; 21cm + Phụ lục: Tr.351 - 356

Ký hiệu kho: Kho Đọc Việt vừa: VV.061461

3. Âm nhạc kịch dân ca / Trần Hồng.- Hà Nội: Sân khấu, 2003. - 592tr. : ảnh; 27cm

Ký hiệu kho: Kho Địa chí: DNG.002966 Kho Mượn: M.091008, M.091311 Kho Đọc Việt lớn: VL.011713

4. Ẩm thực đất Quảng / Hoàng Hương Việt, Võ Văn Hoè, Bùi Văn Tiếng.- Hà Nội: Văn hoá Thông tin, 2013. - 553tr. ; 21cm

Tóm tắt: Tổng quan về ẩm thực dân gian đất Quảng. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên, cơ cấu, thành phần, tổ chức ẩm thực đất Quảng; đồng thời giới thiệu một số món ăn đặc sản của vùng đất này.

Ký hiệu kho: Kho Địa chí: DNG.003051 Kho Đọc Việt vừa: VV.068728

5. Các lễ hội vùng biển miền Trung / Trần Hồng.- Hà Nội: Văn hoá Thông tin, 2014. - 411tr. : ảnh, bảng ; 21cm

Tóm tắt: Giới thiệu về các lễ hội ven biển miền Trung. Lễ hội Cầu Ngư - lễ hội lớn nhất của cư dân vùng biển, cách thức tổ chức lễ hội Cầu Ngư. Một số nghi thức cúng lễ của cư dân vùng biển: điếu văn, ban nghi lễ tiến hành lễ, lòng xướng, lễ cúng cô hồn, triệu thỉnh cô hồn...

Ký hiệu kho: Kho Mượn: M.096626 Kho Đọc Việt vừa: VV.069628

6. Chuyện làng nghề Đất Quảng/ Phạm Hữu Đăng Đạt. - Đà Nẵng: Nxb.Đà Nẵng, 2002. - 214tr. ; 20cm

Tóm tắt: Những làng nghề thủ công truyền thống: Đúc đồng, làm trống, gốm, chiếu, đan lờ, nước mắm...

Ký hiệu kho Kho Mượn: M.064070, M.064071 Kho Đọc Việt vừa: VV.055466

7. Chuyện xưa đất Quảng / Phạm Hữu Đăng Đạt.- Đà Nẵng: Nxb. Đà Nẵng, 2013. - 232tr. : hình ảnh ; 19cm

Page 56: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

56

Tóm tắt: Gồm nhiều câu chuyện kể, truyền thuyết về mảnh đất, con người Quảng Nam, Đà Nẵng chủ yếu thời kì trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Ký hiệu kho: Kho Mượn: M.092679, M.092680 Kho Đọc Việt vừa: VV.067950 Kho Địa chí: DNG.003001

8. Đà Nẵng - Mảnh đất, con người / Sưu tầm, biên soạn: Hoàng Hương Việt, Thy Hảo Trương Duy Hy.- Đà Nẵng: Nxb. Đà Nẵng, 2012. - 400tr. : ảnh ; 21cm

Tóm tắt: Đôi nét về xuất xứ địa danh, địa lí, dân cư của Đà Nẵng; Giới thiệu những người con tiêu biểu cho mảnh đất Đà Nẵng như: danh tướng Trần Quang Diệu, Lê Văn Hoan, danh thần Nguyễn Văn Thoại, Đỗ Thúc Tĩnh.

Ký hiệu kho: Kho Địa chí: DNG.003002, DNG.003003 Kho Đọc Việt vừa: VV.067952 Kho Mượn. M.092697, M.092698

9. Đà Nẵng: Chuyện phố, chuyện làng / Lưu Anh Rô.- : Nxb. , 2011. - 359tr. ; 21cm

Ký hiệu kho: Kho Mượn: M.086174, M.086175 Kho Địa chí: DNG.002730 Kho Đọc Việt vừa: VV.065591

10. Đà Nẵng trên con đường di sản / Phạm Hoàn Hải. - Đà Nẵng: Nxb. Đà Nẵng, 2004. - 247tr ; 20cm Ký hiệu kho:

Kho Mượn: M.068474, M.068473 Kho Đọc Việt vừa: VV.057584

11. Đại Nam dư địa chí ước biên / Cao Xuân Dục; Hà Nội: Văn học. - 672tr. ; 21cm

Tóm tắt: Phong tục khí hậu, lãnh thổ đất đai, thời đại nào lên thì quy chế của thời đại đó, cả quá trình khai thác sự thay đổi của các thời kỳ...

Ký hiệu kho: Kho Mượn: M.066323, M.066322 Kho Đọc Việt vừa: VV.056406

12. Đại Nam nhất thống chí / Quốc sử quán triều Nguyễn ; Phạm Trọng Điềm dịch ; Đào Duy Anh hiệu đính- T.2; Huế: Nxb Thuận Hóa. - 427tr. ; 19cm

Tóm tắt: Những tư liệu về địa lý, lịch sử, văn hóa, chính trị, kinh tế... của các tỉnh Quảng Bình, Đạo Hà Tĩnh, tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa, Quảng Nam, Quảng Ngãi.

Ký hiệu kho: Kho Tra cứu khổ vừa: TV.001088

13. Đạo thờ mẫu ở Việt Nam / Ngô Đức Thịnh.- Hà Nội: Thời đại, 2012. - 367tr. ; 21cm

Tóm tắt: Nghiên cứu những vấn đề chung về Đạo Mẫu, về tín ngưỡng tôn giáo cũng như về giá trị văn hoá nghệ thuật và giá trị văn hóa Việt Nam. Các hình thức thờ mẫu ở ba miền Bắc, Trung, Nam.

Ký hiệu kho:

Page 57: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

57

Kho Mượn: M.091900, M.091899 Kho Đọc Việt vừa: VV.067634

14. Địa chí Quảng Nam - Đà Nẵng / Biên soạn: Thạch Phương(ch.b.),...[và những người khác].- Hà Nội: Khoa học xã hội, 2010. - 1845tr.,56tr. ảnh ; 24cm

Tóm tắt: Nghiên cứu về đặc điểm tự nhiên, lịch sử, kinh tế, văn hoá của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng cùng một số vấn đề về con người, niên biểu, địa danh,... của tỉnh này

Ký hiệu kho: Kho Đọc Việt Lớn: VL.011206, VL.011207 Kho Địa chí: DNG.002776, DNG.002777

15. Địa chí văn hóa dân gian làng Phong Lệ / Võ Văn Hòe.- Hà Nội: Thanh niên, 2011. - 464tr. ; 21cm

Tóm tắt: Khái quát về tự nhiên, dân cư, kinh tế của làng Phong Lệ (Đà Nẵng). Các phong tục văn hóa dân gian về sinh hoạt hàng ngày, nghề thủ công truyền thống, các lễ hội, tín ngưỡng tôn giáo, văn hóa xã hội...

Ký hiệu kho: Kho Địa chí: DNG.002984

16. Đình làng Đà Nẵng / Biên soạn: Hồ Tấn Tuấn (ch.b), Lê Xuân Thông, Đinh Thị Toan.- Đà Nẵng: Nxb. Đà Nẵng, 2012. - 288tr. : ảnh ; 21cm

Tóm tắt: Khái quát quá trình hình thành làng xã và sự ra đời của đình làng Đà Nẵng. Nghiên cứu kiến trúc nghệ thuật của đình làng như: nghệ thuật điêu khắc, trang trí; công trình ngoại vi: cổng ngõ, bình phong. Giới thiệu 35 ngôi đình làng ở Đà Nẵng.

Ký hiệu kho: Kho Mượn: M.090190, M.090191 Kho Đọc Việt vừa: VV.066924 Kho Địa chí: DNG.002958

17. Giai thoại đất Quảng / Sưu tầm và biên soạn: Hoàng Hương Việt. - Đà Nẵng: Nxb. Đà Nẵng, 2004. - 265tr. ; 19cm

Ký hiệu kho: Kho Mượn: M.068736, M.068737 Kho Đọc Việt vừa: VV.057712

18. Hải ngoại ký sự / Thích Đại Sán, Nguyễn Phương; Nguyễn Duy Bột dịch; Huế: Đại học Huế. - 296tr. ; 19cm

Tóm tắt: Tập sách là những ghi chép quí báu về các mặt kinh tế xã hội Đàng Trong dưới triều chúa Nguyễn Ký hiệu kho:

Kho Địa chí: DNG.000842 19. Hát Bả trạo / Sưu tầm, biên soạn: Trần Hồng.- Hà Nội: Sân khấu, 2010. -

369tr. : ảnh ; 21cm Ký hiệu kho: Kho Mượn: M.091005, M.091309 Kho Địa chí: DNG.0029634 Kho Đọc Việt vừa: VV.067231

20. Hát Bả trạo - Hò đưa linh / Sưu tầm, giới thiệu: Trương Đình Quang, Thy Hảo Trương Duy Hy.- Hà Nội: Văn hoá Dân tộc, 2011. - 335tr. : ảnh ; 21cm

Page 58: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

58

Tóm tắt: Giới thiệu nguồn gốc hát Bả trạo. Sự khác biệt giữa hát Bả trạo với hát Chèo. Cách tổ chức Hò đưa linh để đưa tiễn người đã qua đời ra nơi an táng.

Ký hiệu kho: Kho Mượn: M.090239; M.090240 Kho Đọc Việt vừa: VV.066934

21. Hò đưa linh / Sưu tầm, biên soạn: Trần Hồng.- Hà Nội: Sân khấu, 2012. - 488tr. : ảnh ; 21cm

Ký hiệu kho: Kho Mượn: M.091006, M.091308 Kho Địa chí: DNG.002963 Kho Đọc Việt vừa: VV.067230

22. Hoàng Việt Nhất Thống Dư Địa Chí / Lê Quang Định; Phan Đăng dịch, chú giải và giới thiệu. - Huế: Thuận hóa; Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2005. - 1850tr. ; 27cm + Phụ lục: Tr.579 – 1847

Tóm tắt: Mô tả một cách chính xác về đường đi , các dịch trạm, các địa danh, sông núi, khe suối, ngòi rạch, cửa biển, kèm theo lời chú giải mặt mạnh mặt yếu, chỗ hiểm chỗ thuận lợi của từng địa phương rất cụ thể

Ký hiệu kho: Kho Đọc Việt lớn: VL.009746

23. Hỏi đáp Non nước Xứ Quảng / Lê Minh Quốc- T.4. - Tp.Hồ Chí Minh : Nxb.Trẻ, 2003. - 154tr. ; 20cm

Tóm tắt: Gồm di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, con người của Quảng Nam, Đà Nẵng

Ký hiệu kho: Kho Đọc Việt vừa: VV.056468

24. Hỏi đáp non nước xứ Quảng / Lê Minh Quốc- T.2. - Tp.Hồ Chí Minh : Nxb.Trẻ, 2002. - 143tr. ; 20cm

Tóm tắt: Gồm di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, con người của Quảng Nam, Đà Nẵng

Ký hiệu kho: Kho Mượn: M.063834, M.063833, M.063832 Kho Đọc Việt vừa: VV.055317

25. Hỏi đáp non nước xứ Quảng / Lê Minh Quốc - T.1. - Tp.Hồ Chí Minh : Nxb.Trẻ, 2002. - 139tr. ; 20cm

Tóm tắt: Di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, con người của người dân đất Quảng Nam và Đà Nẵng Ký hiệu kho:

Kho Mượn: M.063831, M.063832 Kho Đọc Việt vừa: VV.055316

26. Hương vị Quảng Nam / Phạm Hữu Đăng Đạt. - Đà Nẵng: Nxb. Đà Nẵng, 1998. - 123tr. ; 19cm

Tóm tắt: Giới thiệu một số món ăn đặc sản và sản vật thiên nhiên của Đà Nẵng và Quảng Nam Ký hiệu kho:

Kho Mượn: M.057696 Kho Đọc Việt vừa: VV.051998, VV.051999

Page 59: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

59

Kho Địa chí: DNG.002115 27. Lần giở lịch sử - văn hoá - Miền Thuận - Quảng / Lê Duy Anh, Lê Hoàng

Vinh. - Đà Nẵng: Nxb. Đà Nẵng, 2004. - 627tr. ; 21cm Ký hiệu kho: Kho Mượn: M.068740 Kho Đọc Việt vừa: VV.057714.

28. Lễ hội và văn hoá dân gian Xứ Quảng / Lê Duy Anh.- Hà Nội: Quân đội Nhân dân, 2010. - 654tr. ; 21cm

Tóm tắt: Một số lễ hội đặc trưng, các giai thoại về những nhân vật lịch sử, chuyện kể mang đậm nét văn hoá dân gian tại xứ Quảng

Ký hiệu kho: Kho Địa chí: DNG.002574

29. Nét đặc sắc trong đời sống văn hoá làng Phước Thuận / Võ Văn Hoè.- Hà Nội: Thanh niên, 2011. - 191tr. : hình ảnh ; 21cm

Tóm tắt: Khái quát lịch sử, địa lí làng Phước Thuận. Các thiết chế văn hoá. Giới thiệu lối hát huê tình - loại hình nghệ thuật đặc sắc trong đời sống văn hoá làng Phước Thuận.

Ký hiệu kho: Kho Mượn: M.089188, M.089189, M.089190 Kho Đọc Việt vừa: VV.066510

30. Nghề và làng nghề truyền thống đất Quảng / Biên soạn: Võ Văn Hoè (ch.b.),... [và những người khác].- Hà Nội: Văn hoá Thông tin, 2012. - 837tr. : hình ảnh ; 21cm

Tóm tắt: Tổng quan về nghề và làng nghề truyền thống đất Quảng. Giới thiệu một số nhóm nghề truyền thống như: nhóm nghề liên quan nông nghiệp, nhóm nghề liên quan lâm nghiệp, nhóm nghề liên quan ngư nghiệp...

Ký hiệu kho: Kho Mượn: M.085443, M.085444 Kho Đọc Việt lớn: VL.010948 Kho Địa chí: DNG.002381, DNG.003083

31. Nghi lễ rước nước sông Hàn: XQ Việt Nam. - Đà Nẵng: [K. nxb], 20??. - 1 DVD : Âm thanh, tiếng, hình ảnh ; 4 3/4in

Ký hiệu kho: Kho ĐPT_DVD: DVD.000085

32. Ngũ Hành Sơn - Di sản văn hoá và danh thắng / Hồ Tấn Tuấn.- Đà Nẵng: Nxb. Đà Nẵng, 2014. - 216tr. : ảnh ; 20cm

Tóm tắt: Giới thiệu về di sản văn hoá trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn, từ di tích danh thắng, di tích kiến trúc tôn giáo - tín ngưỡng, di tích lịch sử cách mạng, di chỉ khảo cổ học, đến làng nghề, lễ hội và các trò chơi dân gian. Ký hiệu kho:

Kho Mượn: M.097269; M.097268 Kho Địa chí: DNG.003136 Kho Đọc Việt vừa: VV.070030

33. Nhạc đàn kịch dân ca / Sưu tầm, biên soạn, tư liệu: Trần Hồng.- Hà Nội: Sân khấu, 2007. - 558tr. : ảnh ; 27cm

Ký hiệu kho: Kho Mượn: M.091310, M.091007 Kho Địa chí: DNG.002965

Page 60: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

60

Kho Đọc Việt lớn: VL.011712 34. Những điệu hò Xứ Quảng / Trần Hồng. - Đà Nẵng: Nxb.Đà Nẵng, 2004. -

192tr. Ký hiệu kho: Kho Mượn: M.068785; M.068786 Kho Đọc Việt vừa: VV.057763

35. Non nước Quảng Nam / Hạ Ngọc Anh. - Đà Nẵng: Niền Trung, 1969. - 98tr. ; 19cm

Tóm tắt: Giới thiệu địa danh lịch sử, danh lam thắng cảnh, danh nhân chí sĩ, kinh tế tài nguyên phong tục tập quán... của Quảng Nam. Ký hiệu kho:

Kho Địa chí: DNG.000338 36. Ô Châu cận lục / Biên soạn: Dương Văn An ; Người dịch: Trịnh Khắc Mạnh,

Nguyễn Văn Nguyên. - Hà Nội: Khoa học xã hội, 1997. - 390tr. ; 21cm Tóm tắt: Tài liêu địa phương chí sớm nhất nước ta. Đề cập đến nhiều

phương diện: Núi sông, sản vật, phong tục,. thành quách, danh lam, ... Từ Quảng Bình vào đến Quảng Nam từ thế kỷ XVI.

Ký hiệu kho: Kho Tra cứu khổ vừa: TV.001291

37. Phủ biên tạp lục / Lê Quý Đôn ; Người dịch: Đỗ Mộng Khương ; Hiệu đính: Đào Duy Anh. - Hà Nội: Khoa học, 1964. - 386tr. ; 19cm

Tóm tắt: Sự tích khai thiết khôi phục Thuận Hóa Quảng Nam. Hình thế sông núi, thành lũy, trụ sở, đường sá, bến đò, nhà tạm. Số ngạch công tư điền trang và hoa chấu lê cũ và tổng số thóc gạo trưng thu. Lệ thuế đầu nguồn, thuế vàng bạc, đồng sắt, tỉ lệ vận tải. Nhân tài, thơ văn và vật sản phong tục của 2 xứ Thuận Hóa Quảng Nam Ký hiệu kho:

Kho Đọc Việt vừa: VV.019454 38. Phương Đình dư địa chí / Nguyễn Siêu; Người dịch: Ngô Mạnh Nghinh. - In

lần thứ 1. - Sài Gòn: Nxb. Tự do, 1960. - 280tr. ; 19cm Tóm tắt: Tập sách cung cấp những tư liệu về dư địa chí Việt Nam, trong

đó có Quảng Nam và Đà Nẵng thế kỷ 19 trở về trước. Sách được ấn hành lần đầu tiên vào năm 1900 bằng chữ Hán

Ký hiệu kho: Kho Địa chí: DNG.000623

39. Sắc bùa xứ Quảng / Phạm Hữu Đăng Đạt.- Đà Nẵng: Nbx.Đà Nẵng, 2010. - 216tr. ; 19cm

Tóm tắt: Giới thiệu hát sắc bùa, một loại hình văn nghệ dân gian độc đáo của Quảng Nam nói riêng và nhiều tỉnh ở Việt Nam nói chung. Các lời ca, bài hát, làn điệu hát sắc bùa các nơi

Ký hiệu kho: Kho Địa chí: DNG.003145 Kho Đọc Việt vừa: VV.070224 Kho Mượn. M.097801

40. Sổ tay địa danh du lịch các Tỉnh Trung Trung Bộ / Nguyễn Quang Hà... [ và những người khác]. - Tái bản lần thứ 3, có bổ sung. - Hà Nội: Giáo dục, 1998. - 227tr. ; 18cm

Page 61: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

61

Tóm tắt: Địa danh du lịch của Tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Thành phố Đà Nẵng, Tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định. Ký hiệu kho:

Kho Đọc Việt vừa: VV.052865 41. Tập tục lễ hội Đất Quảng/ Võ Văn Hoè,...[và những người khác]- T. 3. - Hà

Nội : Lao động, 2011. - 860tr. ; 21cm Ký hiệu kho: Kho Mượn: M.088781; M.088782, M.088783 Kho Đọc Việt vừa: VV.066325

42. Tập tục xứ Quảng theo một vòng đời / Võ Văn Hòe.- Hà Nội: Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010. - 376tr. ; 21cm + Phụ lục: Tr.303 - 364

Tóm tắt: Khái quát tình hình nghiên cứu nền văn hoá Chăm. Quan niệm, lễ thức từng giai đoạn đời người trong nghi lễ vòng đời của người Chăm Ahiêr ở Ninh Thuận. Những sắc thái, giá trị văn hoá và hạn chế trong nghi lễ vòng đời người Chăm Ahiêr, định hướng và giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị của văn hoá Chăm qua nghi lễ vòng đời người

Ký hiệu kho: Kho đọc Việt vừa: VV.065199

43. Thắng cảnh và đặc sản Quảng Nam Đà Nẵng : [Tập tài liệu] / Phạm Hữu Bốn, Trần Thanh Lục

Tóm tắt: Tập tài liệu có nội dung viết về những thắng cảnh nổi tiếng và những món ăn của quê hương Quảng Nam Đà Nẵng

Ký hiệu kho: Kho Địa chí: DNG.000830

44. Tìm hiểu con người xứ Quảng / Biên soạn: Nguyên Ngọc (ch.b.),...[và những người khác]; Đà Nẵng: Nxb. Đà Nẵng. - 674tr. ; 24cm

Tóm tắt: Môi trường tự nhiên và lịch sử chủ yếu của sự hình thành và phát triển con người Xứ Quảng; Con người Xứ Quảng trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, lịch sử Ký hiệu kho:

Kho Mượn: M.071495, M.071496; Kho Đọc Việt lớn: VL.008703 Kho Địa chí: DNG.003082

45. Tín ngưỡng cư dân ven biển Quảng Nam - Đà Nẵng : Hình thái, đặc trưng và giá trị / Nguyễn Xuân Hương.- Hà Nội: Lao động, 2012. - 412tr. ; 21cm

Tóm tắt: Tìm hiểu hình thái tín ngưỡng và sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng của cư dân ven biển Quảng Nam - Đà Nẵng. Nhận diện các giá trị văn hoá, tài sản văn hoá của cư dân ven biển, bảo tồn và phát huy trong cuộc sống hiện nay. Ký hiệu kho:

Kho Mượn: M.093901 Kho Địa chí: DNG.003036 Kho Đọc Việt vừa: VV.068388

46. Tín ngưỡng thờ Nữ thần của người Việt ở xứ Quảng (Quảng Nam - Đà Nẵng) / Nguyễn Xuân Hương.- Đà Nẵng: Nxb. Đà Nẵng, 2011. - 99tr. : ảnh ; 19cm

Tóm tắt: Giới thiệu môi trường tự nhiên và xã hội của Xứ Quảng (Quảng Nam - Đà Nẵng). Trình bày nội dung tín ngưỡng và nghi lễ thờ Nữ thần ở Xứ

Page 62: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

62

Quảng. So sánh nét chung và riêng trong tín ngưỡng thờ Nữ thần ở Xứ Quảng so với các vùng đất khác. Ký hiệu kho:

Kho Mượn: M.090188; M.090189 Kho Đọc Việt vừa: VV.066923

47. Tổng tập dư địa chí Việt Nam / Dương Văn An..., [và những người khác] ; Chủ biên: Bùi Văn Vượng- T. 3 - Dư địa chí địa phương (Phương chí). - Hà Nội : Thanh niên, 2012. - 1343tr. : bản đồ ; 27cm

Tóm tắt: Tuyển chọn các tác phẩm có giá trị về Dư địa chí của các tác gia danh tiếng ở Việt Nam trình bày về nguồn gốc, vị trí địa lí, địa hình núi sông, điều kiện tự nhiên, sản vật, thành quách, chợ, đền chùa, danh lam thắng cảnh, phong thổ, phong tục, tính cách con người, danh nhân… của vùng Thuận Hoá, Gia Định (Nam Bộ sau này), vùng Kinh Bắc – Hà Bắc, tỉnh Nghệ An, tỉnh Phú Thọ, tỉnh Vĩnh Yên, tỉnh Thanh Hoá, Thăng Long – Hà Nội và quá trình chinh phục thiên nhiên vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng của nhân dân ta dưới các triều đại phong kiến

Ký hiệu kho: Kho Địa chí: DNG.002961

48. Tổng tập văn hoá văn nghệ dân gian Đất Quảng / Chủ biên: Võ Văn Hoè, Hoàng Hương Việt, Bùi Văn Tiếng- T.5 - Ẩm thực đất Quảng. - Đà Nẵng : Nxb. Đà Nẵng, 2011. - 396tr. ; 24cm

Tóm tắt: Tổng quan về ẩm thực dân gian; vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và xã hội trong văn hoá ẩm thực; cơ cấu, thành phần tổ chức ẩm thực và đặc sản ẩm thực đất Quảng Ký hiệu kho:

Kho Mượn: M.086180; M.086179 Kho Địa chí: DNG.002733 Kho Đọc Việt lớn: VL.011110

49. Tổng tập văn hoá văn nghệ dân gian / Nhóm biên soạn: Võ Văn Hoè(ch.b),...[và những người khác]- T. 3 - Tập tục, lễ hội đất Quảng. - Đà Nẵng : Nxb.Đà Nẵng, 2008. - 687tr. ; 24cm

Ký hiệu kho: Kho Mượn: M.081304; M.082639 Kho Địa chí: DNG.002360 Kho Đọc Việt lớn: VL.010400

50. Truyện kể dân gian đất Quảng / Biên soạn: Hoàng Hương Việt (ch.b),...[và những người khác]- Q.1. - Hà Nội : Văn hóa Thông tin, 2014. - 491tr. ; 21cm

Ký hiệu kho: Kho Mượn: M.096718 Kho Đọc Việt vừa: VV.069675

51. Văn hóa ẩm thực trong lễ hội truyền thống Việt Nam / Nguyễn Quang Lê sưu tầm, giới thiệu; Hà Nội: Văn hóa Dân tộc. - 432tr. : minh họa màu ; 21cm

Tóm tắt: Giới thiệu văn hóa ẩm thực trong phong tục lễ hội truyền thống xưa và nay, cỗ lễ vật dâng cúng dùng trong ngày lễ tết theo phong tục cổ truyền…

Ký hiệu kho: Kho Mượn: M.091644, M.091645 Kho Đọc Việt vừa: VV.067515

Page 63: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

63

52. Văn hóa dân gian Đà Nẵng cổ truyền và đương đại / Biên soạn: Võ Văn Hòe... [và những người khác].- Đà Nẵng: Nbx.Đà Nẵng, 2010. - 679tr. ; 21cm

Tóm tắt: Sách do Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng tài trợ chào mừng 35 năm giải phóng thành phố Đà Nẵng (29.3.1975 - 29.3.2010)

Ký hiệu kho: Kho Địa chí: DNG.003146

53. Văn hoá dân gian Hoà Vang / Võ Văn Hoè.- Hà Nội: Dân trí, 2012. - 792tr. : ảnh ; 21cm

Tóm tắt: Khái quát về huyện Hòa Vang (Đà Nẵng). Các phong tục văn hóa dân gian về sinh hoạt hàng ngày, nghề thủ công truyền thống, các lễ hội, văn học, văn nghệ...

Ký hiệu kho: Kho Mượn: M.091140 Kho Đọc Việt vừa: VV.067296

54. Văn hóa dân gian Quảng Nam - Đà Nẵng: Tác giả - Tác phẩm / Biên soạn: Võ Văn Hòe... [và những người khác].- Đà Nẵng: Nbx.Đà Nẵng, 2008. - 628tr. ; 21cm

Tóm tắt: Giới thiệu về các tác phẩm tiêu biểu của các hội viên trong Hội Văn nghệ Dân gian Đà Nẵng.

Ký hiệu kho: Kho Địa chí: DNG.003147

55. Văn hoá Quảng Nam - Những giá trị đặc trưng: Kỷ yếu hội thảo / Trần Quốc Vượng... [ và những người khác ]. - Quảng Nam: Sở Văn hoá Thông tin Quảng Nam xb., 2001. - 617tr. : hình vẽ ; 24cm

Tóm tắt: Tập hợp một số tham luận, khảo cứu về vùng đất, con người Quảng Nam, về ngưỡng giá trị văn hoá truyền thống và bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá Quảng Nam.

Ký hiệu kho: Kho Địa chí: DNG.002025

56. Văn hoá xứ Quảng một góc nhìn / Võ Văn Hoè, Hồ Tấn Tuấn, Lưu Anh Rô. - Đà Nẵng.: Nxb Đà Nẵng, 2007. - 416tr. ; 21cm

Tóm tắt: Giới thiệu những nét đặc sắc trong văn hoá Quảng Nam, Đà Nẵng.

Ký hiệu kho: Kho Mượn: M.075808 Kho Đọc Việt vừa: VV.060828

57. Văn nghệ dân gian Quảng Nam Đà Nẵng / Hồ Hải Học chủ biên; Nguyễn Văn Bổn biên soạn. - In lần thứ 2 có sửa chữa, bổ sung. - Đà Nẵng: Sở Văn hoá Thông tin Quảng Nam Đà Nẵng xb, 1985. - 454tr. ; 19cm

Tóm tắt: Tục ngữ, ca dao, câu đố, đồng dao, dân ca, vè, truyện kể, hát bả trào...trong kho tàng văn nghệ dân gian Quảng Nam Đà Nẵng. Ký hiệu kho:

Kho Địa chí: DNG.000204, DNG.000203, DNG.000205 58. Văn nghệ dân gian Quảng Nam-Đà Nẵng / Biên soạn: Nguyễn Văn Bổn- T.1.

- Quảng Nam-Đà Nẵng : Sở văn hóa và thông tin Quảng Nam-Đà Nẵng, 1983. - 470tr. : ảnh ; 19cm

Page 64: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

64

Tóm tắt: Đất nước, con người Quảng Nam Đà Nẵng qua văn học nghệ thuật dân gian; Một số làn điệu dân ca về múa, hát tại Quảng Nam; Thơ ca dân gian của hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ Ký hiệu kho:

Kho Đọc Việt vừa: VV.028761, VV.028763 59. Văn nghệ dân gian Quảng Nam Đà Nẵng: Truyên cổ / Nguyễn Văn Bổn

biên soạn- T. 2. - Quảng Nam-Đà Nẵng : Sở văn hoá thông tin, 1986. - 335tr. ; 19cm

Ký hiệu kho: Kho Đọc Việt vừa: VV.032697

60. Xứ Đàng Trong năm 1621/ Cristophoro Borri; Hồng Nhụê... dịch. - T.P.Hồ Chí Minh : T.P.Hồ Chí Minh , 1998. - 136tr ; 23cm

Tóm tắt: Bài tường trình do chính phủ của tác giả - một nhà thám hiểm người ý đã đến sống ở xứ Đàng Trong vào thế kỷ 17 về đất nước, địalý, văn hóa, phong tục tập quán.... người Việt Nam.

Ký hiệu kho: Kho Đọc Việt lớn: VL.006821,VL.006822

61. Xứ Quảng - Vùng đất và con người / Nguyễn Phước Tương.- Hà Nội ; Đà Nẵng: Hồng Đức ; Hội Sử học Tp. Đà Nẵng, 2013. - 771tr. : ảnh ; 24cm

Tóm tắt: Giới thiệu sự ra đời của một số lớn các thành phố và huyện của Quảng Nam - Đà Nẵng cùng cơ cấu hành chính qua các thời kì lịch sử, cùng đóng góp của những con người đất Quảng trong tiến trình lịch sử của dân tộc Việt trên nhiều lĩnh vực: lịch sử, chính trị, văn hoá, xã hội, giáo dục, nghệ thuật…

Ký hiệu kho: Kho Mượn: M.093347, M.093348 Kho Đọc Việt lớn: VL.012026 Kho Địa chí: DNG.0030

II. THƯ MỤC BÁO, TẠP CHÍ

A. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1. Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể ở Đà Nẵng / Văn Nở.- Đà Nẵng.- 2011. - Ngày 7 tháng 11. - Tr. 3

2. Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể ở Đà Nẵng (Tiếp theo và hết) / Văn Nở.- Đà Nẵng.- 2011. - Ngày 8 tháng 11. - Tr. 3

3. Bếp lửa của người Cơ Tu / Khánh Long.- Hồn Việt..- 2011. - Số tháng 6. - Tr. 39 - 40

4. Chuyện ghi ở Đa Phước / Lê Huỳnh.- Đà Nẵng chủ nhật.- 2013 . - Ngày 19, tháng 5 . - Tr. 6, 7

5. Chuyện làng Quan Nam / Văn Thành Lê.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2012. - Ngày 25 tháng 3. - Tr. 6, 7

6. Chuyện núi cấm rừng thiêng / Đặng Dùng.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2014 .- Ngày 5, tháng 10 .- Tr. 7

7. Chuyện về miếu Hàm Trung / Hồ Tấn Tuấn.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2008 . - Ngày 28, tháng 9 . - Tr. 10

Page 65: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

65

8. Chuyện xưa làng Mỹ Thị / Anh Duy.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2009. - Ngày 5 tháng 7. - Tr. 7

9. Cu Đê là chỗ nào? / Đặng Huyền Dung.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2012. - Ngày 10 tháng 6. - Tr. 6, 7

10. Di sản văn nghệ dân gian xứ Quảng / Tấn Vịnh.- Đất Quảng.- 2012 .- Số 104. - Tháng 11. - Tr. 64 - 67

11. Đình làng Đà Nẵng - đôi điều về cảnh quan và kiến trúc / Hồ Tấn Tuấn, Lê Xuân Thông.- Non Nước.- 2012. - Số tháng 3. - Tr. 62 - 74

12. Đình làng Đà Nẵng - Những giá trị cần bảo lưu / Ngô Thị Hường.- Văn hoá du lịch Đà Nẵng.- 2011. - Số kỷ niệm ngày 30 tháng 4. - Tr. 40 - 43

13. Đình làng Mỹ Khê với cuộc khởi nghĩa cướp chính quyền năm 1945 / Hồ Tấn Tuấn.- Văn hoá Đà Nẵng.- 2006. - Số 13. - Tháng 9. - Tr. 16-17

14. Đình làng Phú Hoà được công nhận di tích lịch sử / Hạ Sơn.- Đà Nẵng.- 2010. - Ngày 16 tháng 3. - Tr. 1

15. Đình làng Thạc Gián / Hồ Tấn Tuấn, Lê Xuân Thông.- Văn hóa du lịch Đà Nẵng.- 2012. - Số Xuân Nhâm Thìn. - Tr. 36 - 38

16. Đình làng Thạc Gián và đình Đà Sơn: Đón nhận bằng xếp hạng di tích / Kim Ngân.- Đà Nẵng.- 2011. - Ngày 18 tháng 4. - Tr. 2

17. Ngôi đình bốn lần trùng tu / Viên Phúc Quân.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2010. - Ngày 21 tháng 3. - Tr. 7, 15

18. Đình làng Trung Nghĩa giá trị kiến trúc nghệ thuật đặc sắc và tín ngưỡng / Viên Đình Phong.- Văn hóa du lịch Đà Nẵng.- 2011. - Số ra ngày 21 tháng 6. - Tr. 56 - 58

19. Đình làng Tùng Lâm và các đạo sắc phong / Hồ Tấn Tuấn.- Non Nước.- 2010. - Số Xuân Canh Dần. - Tr. 98 - 99

20. Đình làng và nhà thờ chư phái tộc Hải Châu / Hồ Tấn Tuấn.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2007. - Ngày 21 tháng 10. - Tr. 10

21. Đôi nét bi hùng về câu ca dao Lý Sơn / Xuân Khánh.- Kiến thức ngày nay.- 2010. - Số ra ngày 10 tháng 6. - Tr. 52 - 53, 139

22. Giai thoại câu đối Tết xứ Quảng / Viên Phúc Quân.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2012. - Ngày 15 tháng 1. - Tr. 6 - 7

23. Giáo sư Hòang Châu Ký cây đại thụ tuồng / Nguyễn Thị Thanh Vân.- Văn hiến Việt Nam.- 2009. - Số 3. - Tr. 11-13

24. Giữ "lửa" cho dân ca Khu 5 / Ngọc Hân.- Đà Nẵng.- 2012. - Ngày 25 tháng 6. - Tr. 3

25. Hoàng Sa một thời tuổi trẻ / Nguyễn Thị Thu Sương.- Tiền Phong.- 2009. - Ngày 9 tháng 9. - Tr. 9

26. Hoàng Sa và Trường Sa trong tâm linh người Việt.- Toàn cảnh sự kiện và dư luận.- 2011. - Số tháng 9. - Tr. 42 - 43

27. Huyền bí dòng sông Cổ Cò và trận chiến với cá sấu của 5 vị quan huyện / Du Ngoạn.- Đời sống pháp luật.- 2013 . - Số 3, tháng 7 . - Tr. 22

28. Kể chuyện... Tân Thái / Phạm Hữu Đăng Đạt.- Văn hóa du lịch Đà Nẵng.- 2013. - Số ra ngày 2, tháng 9. - Tr. 66, 69

29. Kiện đòi... nước / Phạm Hữu Đăng Đạt.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2013 . - Ngày 25, tháng 8 . - Tr. 7, 15

30. Ký ức một ngôi làng / Phạm Hữu Đăng Đạt.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2010. - Ngày 31 tháng 10. - Tr. 7

Page 66: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

66

31. Lạ lùng Sũng Chén / Đặng Dùng.- Đà Nẵng.- 2013. - Ngày 6, tháng 10. - Tr. 6 - 7

32. Lại bàn về địa danh ở Đà Nẵng / Lưu Anh Rô.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2010. - Ngày 14 tháng 11. - Tr. 3

33. Lưu truyền di sản văn hóa cho đời sau / Văn Nở.- Đà Nẵng.- 2009. - Ngày 23, tháng 2. - Tr. 7

34. Nam Ô - Huyền sử sắp mất? / Hồ Trung Tú.- Tuổi trẻ cuồi tuần.- 2011. - Ngày 1 tháng 5. - Tr. 24 - 25

35. Ngũ Hành Sơn 300 năm trước / Phạm Hữu Đăng Đạt.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2010. - Ngày 7 tháng 3. - Tr. 3

36. Ngữ nghĩa địa danh Đà Nẵng / Vũ Hùng.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2011.- Ngày 06 tháng 11.-Tr.6,15

37. Người Cơ Tu ở Đà Nẵng / Đỗ Vinh.- Công an thành phố Đà Nẵng.- 2012 .- Số 191 .- Ngày 10, tháng 8 .- Tr. 6

38. Những điều kỳ lạ xung quanh số phận ngôi đình phá đi, xây lại 7 lần / Phương Hưng, Ái Linh.- Đời sống pháp luật.- 2013. - Số tháng 9. - Tr. 11

39. Nói lái / Tiểu Yến.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2014 .- Ngày 3, tháng 8 .- Tr. 5 40. Nối dài huyền sử Nam Ô / Đặng Dùng.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2012. - Ngày 21,

tháng 10. - Tr. 7 41. Nỗi nhớ Hoàng Sa / Lê Văn Hoa.- Đà Nẵng.- 2015 .- Ngày 11, tháng 3 .- Tr. 5 42. Nông lịch của người Cơtu / Hoà Vang.- Tài hoa trẻ.- 2011. - Số ra ngày 16

tháng 2. - Tr. 55 - 58 43. Ông Tú làng Vân Dương / Viên Phúc Quân.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2015 .-

Ngày 1, tháng 3 .- Tr. 6 - 7 44. Phong sắc cho hòn đá / Lê Văn Tất.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2011. - Ngày 24

tháng 7. - Tr. 6 45. Quan ta kiện nhà buôn Tây / Phan Thị Miều.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2008.

Ngày 6 tháng 7. - Tr. 10,11 46. Quan xưa xử án / Viên Phúc Quân.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2014 .- Ngày 3,

tháng 8 .- Tr. 6, 15 47. Rạn Nam Ô, của quý trời cho / Đặng Phương Trứ.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2012.

- Ngày 11 tháng 3. - Tr. 6, 7 48. Sống mãi cây đại thụ của nghệ thuật tuồng / Hoàng Chương.- Quân đội nhân

dân cuối tuần.- 2008. - Ngày 6 tháng 4. - Tr. 9 49. Sự tích đường Cầu Vồng / Phạm Hữu Đăng Đạt.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2013. -

Ngày 5, tháng 5. - Tr. 6, 7 50. Thần biển / Hoàng Nhung.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2014. - Ngày 12, tháng 1. -

Tr. 3, 15 51. Thực hư mấy chuyện xưa ở Khuê Đông / Văn Thành Lê.- Đà Nẵng cuối

tuần.- 2010. - Ngày 21 tháng 11. - Tr. 10 52. Truyền thuyết quanh ta / Hoàng Hương Việt.- Đà Nẵng.- 2002. - Số Xuân

Nhâm Ngọ 53. Từ địa phương trong ca dao dân ca xứ Quảng / Nguyễn Phước Tương.-

Ngôn ngữ & đời sống.- 2006. - Số 8 (130). - Tr. 19-22 54. Từ Hải Châu đến Đà Nẵng / Lê Văn Tất.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2009. - Ngày

19 tháng 4. - Tr. 7 55. Từ Xuân Sơn đến Xuân Dương / Đặng Dùng.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2015 .-

Ngày 8, tháng 2 .- Tr. 6 - 7

Page 67: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

67

56. Văn chỉ La Châu / Hồ Tấn Tuấn.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2007. - Ngày 30 tháng 9. - Tr. 10

57. Văn hiến Quảng Nam / Lê Duy Anh.- Khoa học & Phát triển.- 2004. - Số 102. - Tr.32 - 35

58. Vè kêu gọi bỏ thuốc phiện / Hương Trà.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2009. - Ngày 28 tháng 6. - Tr. 7

59. Về địa danh Mân Quan, Cổ Mân / Châu Yến Loan, Nguyễn Thiếu Dũng.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2012. - Ngày 25 tháng 3. - Tr. 6

60. Về địa danh Mân Quang và Tuý Loan / Đinh Thị Toan.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2012. - Ngày 25 tháng 3. - Tr. 6

61. Về nguồn bản sắc Cơ - Tu / Viên Phúc Quân.- Đà Nẵng cuối tuần. -.- 2007. - Ngày 23 tháng 9. - Tr. 9

62. Về tên gọi hai cây cầu trước năm 1975 / Văn Thành Lê.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2012. - Ngày 1 tháng 4. - Tr. 4, 15

63. Vợt xúc cá bằng vỏ cây / Tấn Vịnh.- Quảng Nam cuối tuần.- 2011. - Ngày 12 và 13 tháng 2. - Tr. 9

64. Xoá "giặc mùa" / Võ Văn Trường.- Quảng Nam.- 2012. - Số đặc biệt chào mừng 15 năm tái lập tỉnh. - Tr. 22

65. Y phục bằng vỏ cây của người Cơ Tu / Tiên Sa.- Tin tức cuối tuần.- 2013 . - Ngày 23 đến ngày 29, tháng 5 . - Tr. 17

B. ẨM THỰC

1. 3 món ăn Đà Nẵng được công nhận đặc sản của Việt Nam / Văn Nở.- Đà Nẵng.- 2012. - Ngày 6, tháng 11. - Tr. 1

2. Ẩm thực Quảng Nam đặc sản lưu dân / Tâm An.- Doanh nghiệp chủ nhật.- 2006. - Ngày 23, tháng 7. - Tr. 11

3. Ăn bánh bèo với dao tre / Đan Linh.- Thanh niên tuần san.- 2011. - Số ra ngày 8 tháng 4. - Tr. 39

4. Bánh canh Đà Nẵng / Hoàng.- Thanh niên tuần san.- 2011. - Ngày 10 tháng 6. - Tr. 42-43

5. Bánh ngọt ngày Tết của người Quảng Nam / Phạm Hữu Đăng Đạt.- Đất Quảng.- 2010.- Số Xuân Canh Dần. - Tr. 118 - 121

6. Bánh tráng Túy Loan / Hiền Lương.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2015 .- Ngày 1, tháng 2 .- Tr. 3, 15

7. Bánh tráng xứ Quảng / Phạm Hữu Đăng Đạt.- Thế giới mới.- 2011. - Số ra ngày 11 tháng 4. - Tr. 46 - 47

8. Canh chua khoai môn cá tràu / Trần Thanh Sơn.- Nhân dân hằng tháng.- 2011. - Số tháng 4. - Tr. 17

9. Cây cho bột độc đáo ở Trường Sơn / Hoà Vang.- Kiến thức ngày nay.- 2011. - Số ra ngày 10 tháng 6. - Tr. 92 - 94

10. Dư vị nếp nổ / Thanh Ly.- Quảng Nam cuối tuần.- 2010. - Ngày 16 và 17 tháng 10. - Tr. 3

Page 68: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

68

11. Đậm đà mắm thính / Thanh Ly.- Quảng Nam cuối tuần.- 2010. - Ngày 6 và 7 tháng 11. - Tr. 3

12. Độc đáo ẩm thực tại bán đảo Sơn Trà / Đức Thịnh.- Đà Nẵng.- 2012. - Số 4617. - Ngày 12, tháng 9 .- Tr. 2

13. Hoa bí của ngày xưa / Hoà Vang.- Tài hoa trẻ.- 2011. - Số ra ngày 16 tháng 2. - Tr. 83 - 84

14. Hũ mắm đầu giàn / Lam Hà.- Đất Quảng.- 2011. - Số tháng 5. - Tr. 64 - 67

15. Hướng đi mới cho nước mắm Nam Ô / Nhật Hạ.- Đà Nẵng.- 2012 .- Số 4599. - Ngày 21, tháng 8. - Tr. 3

16. Hương vị ngày xuân: Bánh nổ giòn, thơm / Đỗ Tấn Ngọc.- Giáo dục thời đại.- 2014. - Số đặc biệt giữa tháng 2. - Tr. 17

17. Khoai chà của ngoại / Bích Liên.- Thanh niên tuần san.- 2011. - Số 288. - Ngày 2 tháng 12. - Tr. 49

18. Lạch mùa lũ / Phan Thị Thanh Ly.- Quảng Nam cuối tuần.- 2009. - Ngày 28 và 29 tháng 11. - Tr. 3

19. Mì Quảng / Tôn Thất Thọ.- Kiến thức ngày nay.- 2010. - Số ra ngày 20 tháng 10. - Tr. 83, 84

20. Mỳ Quảng được công nhận kỷ lục châu Á / T.D.- Quảng Nam cuối tuần.- 2012. - Ngày 3 và 4, tháng 11. - Tr. 5

21. Món nhộng xứ Quảng / Phú Hà.- Quảng Nam cuối tuần.- 2010. - Ngày 21 và 22 tháng 8. - Tr. 3

22. "Múa siêu đao"... / Tường Linh.- Quảng Nam.- 2008. - Số đặc san ngày 24 tháng 3. - Tr. 20

23. Nam Ô - truyền kỳ món tiến vua / Lưu Anh Rô.- Kiến thức ngày nay.- 2011. - Ngày 1 tháng 5. - Tr. 49 - 53

24. Ngon lắm cá lăng / Hòa Vang.- Hồn Việt.- 2011. - Số 50. - Tháng 9. - Tr. 64

25. Người nối nghề gia truyền / Hướng Dương.- Đà Nẵng.- 2009 . - Ngày 21, tháng 4. - Tr. 2

26. Người Quảng ăn mặn / Phạm Hữu Đăng Đạt.- Quảng Nam cuối tuần.- 2009. - Ngày 7 và 8 tháng 11. - Tr. 10

27. Nhớ hoài gỏi cá Nam Ô / Minh Tâm.- Doanh nghiệp chủ nhật.- 2008 . - Ngày 31, tháng 8 . - Tr. 15

28. Nhớ mắm rạm đồng / Hòa Vang.- Công an thành phố Đà Nẵng.- 2014 .- Ngày 30, tháng 10 .- Tr. 12 - 13

29. Nhớ mùa câu rô / Hữu Dũng.- Quảng Nam cuối tuần.- 2010. - Ngày 9 - 10 tháng 10. - Tr. 3

30. Ốc bưu Bàu Nghè / Huỳnh Lê.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2014 .- Ngày 16, tháng 11 .- Tr. 13

31. Rau lang chấm mắm cái / Phạm Hữu Đăng Đạt.- Quảng Nam cuối tuần.- 2010. - Ngày 27 và 28 tháng 11. - Tr. 3

Page 69: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

69

32. Tản mạn cá kho / Nguyễn Thị Kim Phượng.- Quảng Nam cuối tuần.- 2010. - Ngày 28 và 29 tháng 8. - Tr. 3

33. Thơm lừng vị biển / Tiểu Yến.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2013. - Ngày 28, tháng 4. - Tr. 4 - 5

34. Tô mì xứ Quảng / Hà Đăng.- Quân đội nhân dân cuối tuần.- 2009.- Ngày 19 tháng 7. - Tr. 14

35. "Tuý Loan trăm thứ đều ngon" / Hoàng Nhung.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2011. - Ngày 20 tháng 2. - Tr. 4

C. PHONG TỤC, TẬP QUÁN

1. Bài chòi "made in Danang" / Viên Phúc Quân.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2007. - Ngày 25 tháng 2. - Tr. 4

2. Con thuyền trong đời sống tín ngưỡng / Tiểu Yến.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2014 .- Ngày 9, tháng 11 .- Tr. 6

3. Độc đáo tượng nhà mồ người Cơ - tu / Nguyễn Cường.- Quảng Nam cuối tuần.- 2010. - Ngày 7 và 8 tháng 8. - Tr. 10

4. Đưa tín ngưỡng thờ mẫu vào khuôn khổ / Ngọc Hà.- Đà Nẵng.- 2014 .- Ngày 6, tháng 10 ,- Tr. 5

5. Hát chèo đưa linh trong lễ tang của dân biển Đà Nẵng / Nguyễn Xuân Hương.- Văn hóa du lịch Đà Nẵng.- 2013. - Số ra ngày 2,tháng 9. - Tr. 30 - 33, 41

6. Kể chuyện tâm linh / Tiểu Yến.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2014 .- Ngày 20, tháng 4 .- Tr. 6

7. Khai sơn chùa tại Ngũ Hành Sơn / Nguyễn Công Thuần.- Kiến thức ngày nay.- 2011. - Số ra ngày 10 tháng 12. - Tr. 10 - 13, 128

8. Lễ tạ ơn thần lúa của người C'tu / Quốc Phong.- Người cao tuổi.- 2008 . - Ngày 31, tháng 10 . - Tr. 8

9. Miếu cổ giữa làng chài / Đặng Dùng.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2014 .- Ngày 20, tháng 4 .- Tr. 7

10. Quy định về hôn nhân và gia đình trong Hương lệ làng Thái Lai / Đinh Thị Toan.- Văn hóa du lịch Đà Nẵng.- 2013. - Số đặc biệt ngày 21, tháng 6. - Tr. 26 - 27

11. Sự tích lăng Nhơn Thần làng Tân Lưu / Minh Đạt.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2009. - Ngày 16 tháng 8. - Tr. 7

12. Tập tục hôn nhân kỳ lạ của người Cơ Tu / Mai Thành Dũng.- Giáo dục thời đại.- 2013. - Ngày 1, tháng 5. - Tr. 34

13. Tết xưa, chơi bài xạo / Viên Phúc Quân.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2009 . - Ngày 8, tháng 2 . - Tr. 7

14. Tục "Cà răng - căng tai" của người Cơtu / Quốc Lễ.- Kiến thức ngày nay.- 2010. - Số ra ngày 1 tháng 6. - Tr. 58 - 60

15. Tục cắn mâm đồng trong lễ cưới người Cơ Tu / Tiên Sa.- Tài hoa trẻ.- 2012. - Ngày 29, tháng 11. - Tr. 66 - 68

16. Tục lệ cúng đất tại Đà Nẵng / Võ Văn Hòe.- Non nước.- 2014 .- Số tháng 6 .- Tr. 82 - 88

17. Tục "lướt zướng" giữa ngàn Cơ - tu / Nguyễn Vinh Minh.- Giáo dục thời đại.- 2013 . - Số đặc biệt cuối tháng 7 . - Tr. 32

Page 70: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

70

18. Tục thờ Cô hồn ở làng biển xứ Quảng (Quảng Nam - Đà Nẵng) / Nguyễn Xuân Hương.- Văn hóa du lịch Đà Nẵng.- 2013. - Số tháng 4 . - Tr. 19 - 22

19. Về tín ngưỡng bà Đại Càn - Tứ vị Thánh Nương ở Quảng Nam - Đà Nẵng / Nguyễn Xuân Hương, Trần Quang Thanh.- Văn hoá du lịch Đà Nẵng.- 2009. - Số đặc biệt ngày 2 tháng 9. - Tr. 42 - 45

20. Xoá "giặc mùa" / Võ Văn Trường.- Quảng Nam.- 2012. - Số đặc biệt chào mừng 15 năm tái lập tỉnh. - Tr. 22

D. LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG

1. "Cây cầu từ Na Uy đến Việt Nam" / Hồ Hải Học.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2006. - Ngày 13, tháng 8. - Tr. 1, 3,11.

2. Cheo leo nghề cạo mứt / Hàng Vang.- Đà Nẵng.- 2007. - Ngày 15 tháng 1. - Tr. 3 3. Chuyện ghi ở xóm bún Giáng Nam / Phạm Hữu Đăng Đạt.- Phát triển kinh tế

xã hội Đà Nẵng.- 2012. - Số 26. - Tr. 49 - 51 4. Chuyện ở một làng nghề / Tiểu Yến.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2010. - Ngày 12

tháng 9. - Tr. 5 5. Chuyện Tổ nghề pháo Nam Ô / Đặng Dùng.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2014, -

Ngày 9, tháng 2. - Tr. 6 - 7 6. Dưới chân núi Ngũ Hành / Nguyễn Thị Anh Đào.- Nhân dân.- 2009. - Ngày

17 tháng 5. - Tr. 1, 4 7. Đá mỹ nghệ Non Nước: Nét văn hoá đặc sắc / Thiếu Danh.- Kinh tế hợp tác

Việt Nam.- 2004. - Ngày 1, tháng 7. - Tr. 5 8. Đầu tư gần 6 tỷ đồng xây dựng khu tái định cư làng đá mỹ nghệ Non Nước

/ PV.- Đà Nẵng.- 2004. - Ngày 19 tháng 3.- Tr.1 9. Gian nan làng nghề xuất khẩu / Hằng Vang.- Đà Nẵng.- 2007. - Ngày 29

tháng 1. - Tr. 3 10. Giữ lại hương vị nước mắm Nam Ô / Đinh Thị Trang.- Làng Việt.- 2013. -

Số 35 . - Tháng 6. - Tr. 22 - 23 11. Hỗ trợ phát triển nghề / Đức Thịnh.- Đà Nẵng.- 2011. - Ngày 15 tháng 11. -

Tr. 2 12. Hoà Khương có gốm 2 da! / Minh Tuấn.- Đà Nẵng.- 2006. - Ngày 24, tháng

7. - Tr. 3 13. Khôi phục các làng nghề truyền thống / Minh Tuấn.- Đà Nẵng.- 2007. -

Ngày 13 tháng 8. - Tr. 7 14. Khôi phục làng chiếu Cẩm Nê / Vĩnh Khang.- Đà Nẵng.- 2010. - Ngày 31

tháng 5. - Tr. 7 15. Làng chẻ đá / Sơn Hải.- Nhà báo công luận.- 2013 , - Số 14 . - Ngày 29 tháng

3 đến 4 tháng 4 . - Tr. 8 16. Làng chiếu " Phan Cửu Phẩm" / Hải Tiến.- Công an Đà Nẵng nguyệt san.-

2002. - Số tháng 4. - Tr. 18,25 17. Làng đá chẻ / Văn Thành Lê.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2011. - Ngày 20 tháng 2. - Tr. 5 18. Làng đá dưới chân núi Ngũ Hành / Hoàng Văn.- Đầu tư.- 2003. - Ngày 1

tháng 10 19. Làng đá mỹ nghệ Ngũ Hành Sơn / Tùng Quân.- Công nghiệp.- 2004. - Số

tháng 3. - Tr. 40-41 20. Làng guốc Xuân Dương / Hồ Tấn Tuấn.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2011. - Ngày

25 tháng 12. - Tr. 6 - 7

Page 71: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

71

21. Làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước / Lê Gia Lộc.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2014 .- Ngày 29, tháng 6 .- Tr. 2, 15

22. Làng nghề đá mỹ nghệ Non Nước quá trình hình thành và phát triển / Trần Quang Thanh, Nguyễn Xuân Hương, Hồ Tấn Tuấn.- Văn hoá Đà Nẵng.- 2003. - Số 5. - Tháng 5. - Tr.24 - 28

23. Làng nghề guốc mộc Xuân Dương / Hồ Tấn Tuấn.- Văn hoá Đà Nẵng.- 2007. - Số đặc biệt xuân Đinh Hợi. - Tr. 38-39

24. Làng nghề nước mắm Nam Ô hồi sinh / Thanh Hà.- Đà Nẵng.- 2006. - Ngày 14 tháng 11. - Tr. 5

25. Làng nghề thời hội nhập / Duyên Anh.- Đà Nẵng.- 2010. - Ngày 28 tháng 5. - Tr. 5

26. Làng nghề trên con đường di sản / Kim Phượng.- Thế giới di sản.- 2010. - Số 6. - Tr. 24 - 25

27. Lồng chim làng vạc / Ngọc Huyền.- Đà Nẵng.- 2008 . - Ngày 8, tháng 9 . - Tr. 2

28. Mai một làng chiếu Cẩm Nê / Trọng Huy.- Đà Nẵng.- 2012.- Số 4511.- Ngày 10 tháng 5.- Tr.3

29. Mùi vị của mắm / Tiểu Yến.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2014. - Ngày 12, tháng 1. - Tr. 4

30. Nghề "ăn" mứt Nam Ô / Đặng Phương Trứ.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2013. - Ngày 3, tháng 11. - TR. 7, 15

31. Nghề chẻ đá ở Hoà Sơn: Có thu nhập nhưng nặng nhọc và nguy hiểm / Đoàn Lương, Tiểu Yến.- Đà Nẵng.- 2010. - Ngày 12 tháng 4. - Tr. 5

32. Nghề đan thúng chai / Thu Hà.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2006. - Ngày 19 tháng 11. - Tr. 5

33. Nghề săn bắt truyền thống của người Cơ - tu / Nguyễn Văn Sơn.- Quảng Nam.- 2010. - Ngày 8 tháng 9. - Tr. 7

34. Nguy cơ xoá sổ một làng nghề / Phan Chung.- Đà Nẵng.- 2011. - Ngày 24 tháng 2. - Tr. 3

35. Nhà điêu khắc người Na Uy: Đào tạo thợ làng đá Non Nước / Viết Nam.- Công an nhân dân.- 2010. - Ngày 12 tháng 4. - Tr. 6

36. Nước mắm đi Tây / Tiên Sa.- Giáo dục thời đại chủ nhật.- 2014 .- Ngày 13, tháng 7 .- Tr. 40, 41

37. Thao thức Nam Ô / Hà Nguyên.- Giáo dục thời đại.- 2014. - Ngày 30, tháng 10 .- Tr. 1, 8

38. Thương hiệu đá mỹ nghệ Non Nước trước thềm hội nhập WTO / Trần Hoàng Anh.- Đại đoàn kết cuối tuần.- 2006. - Ngày 3, tháng 9. - Tr. 4

39. Tìm hướng "cứu" làng nghề truyền thống / Ngọc Hà.- Đà Nẵng.- 2014 .- Ngày 10, tháng12 .- Tr. 5

40. Ước vọng một làng nghề / Như Hạnh.- Đà Nẵng.- 2002. - Ngày 23 tháng 3 41. Văn hoá làng biển - những gam màu sáng tối : Bài 2: Nghề truyền thống

làng biển / Hà Giang.- Công an thành phố Đà Nẵng.- 2013, - Ngày 28, tháng 11. - Tr. 6

42. Xóm... mứt góa / Hà Linh.- Đà Nẵng ngày nay.- 2009 . - Số đặc biệt Xuân Kỷ Sửu . - Tr. 48 - 49

Page 72: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

72

E. LỄ HỘI

1. Chùa Bà và lễ Thiên Hậu ở Đà Nẵng / Nguyễn Xuân Hương.- Văn hóa du lịch Đà Nẵng.- 2012. - Số ra ngày 21 tháng 6. - Tr. 35 - 37, 41

2. Đà Nẵng vào múa lế hội / Ngọc Hà.- Đà Nẵng.- 2015 .- Ngày 26, tháng 2 .- Tr. 3

3. Đà Nẵng: Lễ tế nghĩa sĩ và hội làng Khuê Trung / Linh Thy.- Doanh nghiệp chủ nhật.- 2010. - Ngày 2 tháng 5. - Tr. 15

4. Đi tìm người lưu giữ tục đâm trâu / Thanh Tình.- Đà Nẵng.- 2014. - Ngày 6, tháng 1. - Tr. 7 - 394.269 597 51/ Đ300T

5. Độc đáo lễ hội tôn vinh trẻ chăn trâu / H.Nguyên.- Đời sống và Pháp luật.- 2010. - Ngày 3 tháng 8. - Tr. 4

6. Hoàng Sa trời nước mênh mông... / Viên Phúc Quân.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2014. - Ngày 16, tháng 2. - Tr. 7

7. Hội làng Đà Sơn / Viên Phúc Quân.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2012. - Ngày 1 tháng 4. - Tr. 7, 15

8. Hội làng trong phố thị / Nguyễn Hữu.- Thanh niên.- 2013 . - Ngày 5, tháng 4 . - Tr. 14 - 15

9. Hội làng Trung Nghĩa / Văn Thành Lê.- Đà Nẵng.- 2002. - Ngày 6 tháng 5

10. Hương sắc hội làng / Viên Phúc Quân.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2011. Ngày 13 tháng 2 - Tr. 4

11. Khao lề thế lính Hoàng Sa-Khúc bi ca bất diệt / Đặng Trung Hội.- Quân đội nhân dân.- 2009. - Ngày 7 tháng 6. - Tr. 3

12. Khôi phục lễ hội đâm trâu / Ngọc Hân.- Đà Nẵng.- 2008 . - Ngày 25, tháng 8 . - Tr. 7

13. Khôi phục lễ hội mục đồng / Ngọc Hân.- Đà Nẵng.- 2007. - Ngày 16 tháng 7. - Tr. 7

14. Làng cá Nam Ô vào hội... / Như Hạnh.- Đà Nẵng.- 2002. - Ngày 23 tháng 4

15. Lễ cúng thế lính Hoàng Sa, Trường Sa / Lê Trọng.- Người cao tuổi.- 2013 . - Ngày 1, tháng 2 . - Tr. 1, 9

16. Lễ hội cầu ngư của các làng biển Quảng Nam - Đà Nẵng / Nguyễn Xuân Hương.- Văn hóa du lịch Đà Nẵng.- 2011. - Số Xuân Nhâm Thìn. - Tr. 28 - 29, 35

17. Lễ hội cầu ngư miền biển / Nguyễn Phước Tiến.- Thế giới di sản.- 2010. - Số 6. - Tr. 18 - 19

18. Lễ hội đâm trâu của người Cơ Tu / Đỗ Trường.- Tin tức cuối tuần.- 2014 .- Ngày 10 đến ngày 16, tháng 4 .- Tr. 17

19. Lễ hội đình làng giữa lòng thành phố / Văn Nở.- Thanh Tra.- 2009. - Số Tết Kỷ sửu. - Tr. 30

20. Lễ hội đình làng Trung Nghĩa / V.T.L.- Đà Nẵng.- 2003. - Ngày 14 tháng 4

Page 73: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

73

21. Lễ hội đương đại - sức bật của một thành phố trẻ / Nguyễn Thị Hồng Thắm.- Tạp chí xây dựng đời sống văn hóa.- 2012 . - Số ra ngày 20 tháng 11 . - Tr. 35 - 36

22. Lễ hội mục đồng làng Phong Lệ / Lê Thành.- Văn hiến Việt Nam.- 2006. - Số 12. - Tr. 34 - 35

23. Lễ hội mục đồng làng Phong Lệ / Lê Gia Lộc.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2014 .- Ngày 15, tháng 6 .- Tr. 2, 15

24. Lễ hội mừng lúa mới của người Cơtu / Nguyễn Tri Hùng.- Quảng Nam.- 2009. - Ngày 30, tháng 1. - Tr. 8

25. Lễ hội Quán Thế Âm / Lê Gia Lộc.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2014 .- Ngày 16, tháng 3 .- Tr. 2, 15

26. Lễ hội Quán Thế Âm - Ngũ Hành Sơn giá trị văn hoá cần giữ gìn và phát triển / Đinh Đức Hiển.- Thế giới di sản.- 2012. - Số 3. - Tr. 38 - 39

27. Lễ hội Quán Thế Âm ở Đà Nẵng trong không gian lễ hôị Phật giáo Việt Nam / Trần Hồng Liên, Võ Văn Hoàng.- Phát triển kinh tế xã hội Đà Nẵng.- 2009. - Số tháng 10. - Tr. 26 - 32

28. Lễ "kết nghĩa anh em" của người Cơ Tu / Tiên Sa.- Gíao dục thời đại.- 2014. - Số 257 .- Ngày 27, tháng 10 .- Tr. 17

29. Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa và giao lưu văn hóa Việt - Chăm / Phạm Tấn Thiên.- Xưa nay.- 2012 . - Số 417 . - Tháng 12 . - Tr. 16 - 19

30. Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa: Tri ân những hùng binh Hoàng Sa kiêm Bắc Hải / Trí Dũng.- Công an thành phố Đà Nẵng.- 2013 . - Ngày 29, tháng 4 . - Tr. 3

31. Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa / Lê Hùng.- Công an thành phố Đà Nẵng.- 2010. - Ngày 30 tháng 4. - Tr. 1, 4

32. Lễ Mục đồng làng Phong Lệ / Hoàng Hải.- Nhân dân cuối tuần.- 2011. - Ngày 16 tháng 1. - Tr. 8

33. Lễ rước mục đồng / Hải Yến.- Thời báo ngân hàng.- 2011. - Ngày 7 tháng 1. - Tr. 10

34. Lễ rước mục đồng làng Phong Lệ / Dương Thanh Tùng.- Thanh Tra.- 2009. - Số Tết Kỷ sửu. - Tr. 30

35. Lễ Tống Ôn - Lễ thức cầu an của cộng đồng cư dân ven biển Đà Nẵng / Nguyễn Xuân Hương.- Văn hóa du lịch Đà Nẵng.- 2011. - Số đặc biệt ngày 2 tháng 9. - Tr. 18 - 19, 27

36. Linh thiêng Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa / Nguyễn Đăng Vũ.- Làng Việt.- 2013. - Số 39. - Tháng 10. - Tr. 12 - 13

37. Năm đầu tiên lễ hội đình làng Thạc Gián / Tân Tân.- Đà Nẵng.- 2011. - Ngày 4 tháng 4. - Tr. 3

38. Nâng tầm lễ hội để tôn vinh những người lính Hoàng Sa / Nguyễn Long.- Đại đoàn kết.- 2010. - Ngày 27 tháng 1. - Tr. 9

Page 74: LỜI GIỚI THIỆU · 2016. 3. 29. · Bài 1. Nghề ăn “mứt” Nam Ô ... Xưa, Đa Phước là làng có nền nếp, quy củ. ... Phước quyết định làm giấy

74

39. Nhớ ngày cúng thế lính Hoàng Sa, Trường Sa / Lê Trọng.- Sự kiện và nhân chứng.- 2013 . - Số Tết Quý Tỵ . - Tr. 16

40. Rộn ràng hội làng giữa phố / Ngọc Hà.- Đà Nẵng.- 2015 .- Ngày 3, tháng 3 .- Tr. 5

41. Thần nông tái xuất / Thanh Hải.- Lao động.- 2011. - Số Xuân Tân Mão. - Tr. 46

42. Trên trời có ông sao Thần... / Văn Thành Lê.- Đà Nẵng cuối tuần.- 2014 .- Ngày 15, tháng 6 .- Tr. 4, 5

43. Tưởng vọng Hoàng Sa / Trần Đăng.- Lao động.- 2010. - Ngày 30 tháng 4. - Tr. 8

44. Về Phong Lệ xem lễ rước mục đồng / Tiên Sa.- Lao động xã hội.- 2011. - Ngày 20 tháng 2. - Tr.8