Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A
-
Upload
sach-tinh-ha -
Category
Documents
-
view
217 -
download
0
Transcript of Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A
-
8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A
1/29
Science & Technology Development, Vol 10, No.09 - 2007
Trang 36
LỊCH SỬ VĂN HÓA VẬT CHẤT THỜ I TIỀN SỬ ĐÔNG NAM Á – MỘT THẾ K Ỷ ĐIỀN DÃ VÀ LIÊN HIỆP NGHIÊN CỨ U
Phạm Đứ c Mạnh
Tr ườ ng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM
TÓM T Ắ T: Việt Nam là bộ phận lãnh thổ trung tâm “nằ m giữ a Đông Nam Á”, t ừ cổ
xư a đ ã có vị trí “tiề n đồn” (Avant-Monde) giữ a hai thế giớ i văn minh Trung Hoa và Ấ n Độ.
Tìm hiể u nhữ ng d ấ u tích hoạt động của con ng ườ i trong tr ườ ng k ỳ l ịch sử trên đấ t Việt Nam
không tách r ờ i khung cảnh khu vự c là xu hướ ng nghiên cứ u phổ cậ p trong giớ i “Việt Nam
học” ở nhiề u nướ c trên thế giớ i trong nhữ ng thậ p k ỷ g ần đ ây. C ũng trong thờ i gian này, số
l ượ ng các di tích văn hóa vật chấ t Đông Nam Á đượ c phát hiện, khai quật và công bố trong
các công trình nghiên cứ u chuyên luận và t ổ ng hợ p bằ ng nhiề u thứ tiế ng khác nhau t ăng lên
mau chóng. Đã có học giả t ừ ng báo động về tình tr ạng “bùng nổ thông tin khảo cổ học” ở
nướ c ta và trong khu vự c, gây khó khăn cho việc theo dõi tri thứ c “đ ã đượ c tích l ũ y cần thiế tcho khu vự c chuyên môn hẹ p của mình, chư a nói đế n việc tìm hiể u tình hình chung”. Bài này
cố g ắ ng giớ i thiệu khái quát l ịch sử nghiên cứ u văn hóa vật chấ t thờ i tiề n sử – sơ sử Đông
Nam Á vớ i nhữ ng chặng đườ ng tiế n triể n chính yế u t ừ hơ n thế k ỷ nay, qua đ ó khắ c họa các k ế t
quả khảo cứ u và nhận thứ c chuyên ngành và liên ngành về Đông Nam Á cổ xư a, trong đ ó có
nhữ ng đ óng góp r ấ t đ áng k ể của nề n khảo cổ học Việt Nam.
1. NHẬN THỨ C LIÊN NGÀNH VỀ
MỘT THỰ C THỂ ĐỊA – VĂN HÓA
RIÊNG BIỆT
Tr ướ c đây, vùng đất này vô danh.
Trong các cặ p mắt lữ hành của nhà thám
hiểm, linh mục truyền đạo, các nhà tự
nhiên học và quan chức “tiề n tr ạm” thực
dân Phươ ng Tây, vùng thiên nhiên mơ hồ
như “viễ n địa- viễ n đảo” này đượ c hiểu
như là vùng đất bán lục địa và hải đảo
nằm trong địa vực r ộng lớ n hơ n nhiều lần,
có khi chung cùng bán đảo Ấn, hoặc gộ p
cả Cực Đông và Cực Nam Châu Á để
mang chung danh: Viễn Đông (Extrêm-
Orient; Far East),…; có khi lại gồm thâunhiều khu vực hẹ p hơ n: Đông Dươ ng,
Nam Dươ ng …, và cùng vớ i Nam Á (đồng
bằng Ấn Hằng, bán đảo Indostan, Srilanka)
hợ p thành 1/10 miền địa lý tự nhiên (cấ p Á
lục địa) của cả liên lục địa Á-Âu. Từ cuối
thế k ỷ 19, khi đượ c các học giả Áo đặt tên
riêng “Sudost Asien”, miền đất-đảo này
phân ranh vớ i Đông Bắc Á và Tây Nam Á
như một thực thể Địa-Sinh thái riêng biệt
nằm giữa chí tuyến Bắc và xích đạo, mang
-
8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A
2/29
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 10, SỐ 09 - 2007
Trang 37
chất bán đảo và điều kiện hoàn lưu gió
mùa. Đây là bộ phận cực nam của tầng nền
Châu Á, vớ i chất nền lục địa cổ nhất
Paleozoi, từ vận động tạo sơ n Hymalaya
cuối cùng tuổi Creta thuộc kiểu Thái Bình
Dươ ng, dẫn đến sự hình thành tầng nền
Đông Dươ ng – cốt lõi của Đông Nam Á
lục địa. Hiện còn dấu vết vùng rìa ở dãy
Cardamones (Campuchia) và Nam Tr ườ ng
Sơ n, vớ i các tích tụ sa thạch dày ở cao
nguyên Khorat và các tích tụ ngoại vi miền
Tây Thái Lan. Vận động tạo sơ n tuổi
Trung Sinh hình thành thềm Sunda tồn tại
đến cuối Pleistocene muộn và bị nướ c biểnnhấn chìm tớ i 2/5 diện tích do gián băng
cuối cùng khoảng 20.000 năm tr ướ c, tách
r ờ i các đảo lớ n Borneo, Sumatra, Java và
hàng ngàn đảo nhỏ, và ngắt đứt “vành đ ai
núi l ử a” từ Pegou Yoma (Myanmar) qua
Java – Sulawesi – Philippine. Vớ i điều
kiện địa hình cơ bản gồm các sơ n khối
thành tạo Trung Sinh và Tân Sinh chi phối
các dòng chảy lớ n Mekong, Irrawadi,
Salween, Chao Phraya… hướ ng biển phía
Nam và Đông Nam, các cao nguyên và
châu thổ nội địa “mầu mỡ bậc nhấ t thế
giớ i”, cùng “cõi thiên đườ ng cuố i cùng
trên tr ần gian” vớ i nghìn đảo nhỏ. Nhiều
học giả vẫn coi biển Đông như ranh giớ i tự
nhiên phân cách 2 thế giớ i đất liền và hải
đảo Đông Nam Á; Trong đó, Đông Nam Álục địa chiếm gần nửa diện tích Khu vực
(khoảng 1.800.000km²) thườ ng đượ c các
nhà địa lý tự nhiên – nhân văn phân ranh
từ bán đảo Malacca tính từ eo Kra tr ở lên.
Đông Nam Á hải đảo là chuỗi đảo lớ n giáp
Malacca như Sumatra, Java, Borneo r ồi
vòng qua phía Đông và hướ ng Bắc tớ i
Sulawesi, quần đảo Molluca, lên
Philippines vớ i 7.000 hòn đảo như “chùm
chìa khóa mở vào Biể n Đông”[44], vớ i
đườ ng Wallace (hoặc Huxley) phân ranh 2
quần động vật Châu Á và Châu Úc, gần
như tươ ng ứng vớ i 2 vùng khí hậu nhiệt
đớ i (Đông Nam Á lục địa, Bắc và Trung
Philippines, Nam Sulawesi, Đông Java, cáctiểu đảo Sunda) và xích đạo (bán đảo
Malacca, Sumatra, Tây Java, Borneo, Bắc
Sulawesi, một phần Nam Mindanao), cùng
2 thảm r ừng nhiệt đớ i r ụng lá (deciduous
tropical forest) và r ừng mưa xích đạo
(equatorial rain forest) [3: 1985]. Đươ ng
nhiên, lãnh thổ chung r ộng 4.476.000km²
mang tầm cỡ một tiểu lục địa này chắn
ngang 2 châu lục (Á – Uc) và 2 đại dươ ng
(Ấn Độ Dươ ng – Thái Bình Dươ ng) mang
nhiều đặc điểm chung về kiến tạo (khối
trung tâm và miền uốn nế p Trung Sinh –
Tân Sinh theo Bocdanov và Pusrovsky).
Về khí hậu (“chiế c áo choàng chung ” của
miền xích đạo – Á xích đạo, hay nhiệt đớ i
nóng ẩm theo Alisov phân biệt vớ i Bắc Á
khí hậu lạnh và Nam Á khí hậu thườ ngxuyên khô, vớ i lượ ng mưa trung bình trên
-
8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A
3/29
Science & Technology Development, Vol 10, No.09 - 2007
Trang 38
1000mm/năm). Về thổ nhưỡ ng (vùng địa
hóa theo Gladovskaya), về thế giớ i động
vật – thực vật Á miền Ấn Độ – Mã Lai
thuộc miền cổ nhiệt đớ i (theo Aliukhin),
vớ i thảm r ừng phủ hơ n 60% diện tích,
chiếm phân nửa r ừng giá tr ị Châu Á
(không tính Siberia) và vượ t xa Châu Âu,
Châu Mỹ, Châu Đại Dươ ng, vớ i nhiều
ngàn giống loài (tớ i 35000 loài cây có
hoa), cùng các nguồn tài nguyên phong
phú, đặc biệt như thiếc, sắt, quặng laterite
chứa k ền, nhôm, mangan, nickel, crom,
k ẽm, chì, vàng, hồng ngọc, dầu mỏ…mà,
theo nhiều địa lý gia phươ ng Tây(J.Barren, L.Bernot, I.Caive, S.Rursles,
Delvert, G.Condominas), “không một nơ i
nào trên thế giớ i mà thiên nhiên l ại giàu có
và đ a d ạng đế n thế ” [32]. Tính thống nhất
của thực thể Địa – Văn hoá Đông Nam Á
đượ c định tính ngay từ thờ i băng hà Đệ Tứ
K ỷ, lúc các cầu lục địa r ộng lớ n thiết lậ p
trên biển Đông khi hải thoái trong thế
Pleistocène đượ c xem như là các “C ầu
nố i” tạo điều kiện giao lưu thiết yếu các
luồng di cư động vật – thực vật và cả
những bầy ngườ i nguyên thủy từ các dãy
núi và các dòng chảy chuyển theo hướ ng
Kinh tuyến – Á Kinh tuyến từ Nam Trung
Quốc – bắc Việt Nam và tây Miến Điện –
bắc Thái Lan trong diễn trình “Chinh phục
Thái Bình Dươ ng” qua Mã Lai,Philippines, xuống Sumatra, Java, Timor…
và ngượ c lại. R ồi, khi những cái “cầu
Sunda” bị đứt đi lúc biển dâng trong thế
Holocène, thì con ngườ i vẫn tiế p tục tiến
trình này nhờ tiến bộ k ỹ thuật, và họ “l ại
có thể vượ t biể n vớ i nhữ ng thuyề n bè của
mình” [25: 1985]; Và cứ thế, quan hệ giao
lưu văn hóa – tín ngưỡ ng, chuyển giao k ỹ
thuật, lan truyền những cảm hứng về nghệ
thuật lại đượ c họ tiế p tục và tăng cườ ng
suất thờ i tiền sử – sơ sử từ trình độ hàng
hải nguyên thủy đến văn minh. Theo đó,
quan hệ văn hóa từ tiền sử giớ i hạn trong
tiểu vực (theo giáo sư Mỹ W.Solheim II),
Đông Nam Á lục địa đượ c tính từ v ĩ tuyến30 phía Bắc lên tớ i dãy Tần L ĩ nh hoặc
sông Dươ ng Tử xuống đến Singapore và
Đông Nam Á hải đảo tính từ Đài Loan
thậm chí cả quần đảo Okinawa (Nhật Bản)
qua quần đảo Andaman, Nicoba. Về phía
tây, đến tận Atsam (miền Đông Ấn Độ) có
thể tính cả một bộ phận tây New Zealand.
Nhưng tính thống nhất của khu vực
này phải đượ c đặt trong khung cảnh Châu
lục mớ i hiểu rõ chất “ Ngã Ba Đườ ng”
(Carrefour ) của các tộc ngườ i, văn minh
và nghệ thuật bản xứ [24; 34: 1961]. Về
mặt lịch sử – văn hóa đượ c minh định như
một “Chỉ nh thể trong đ a d ạng” (Unité
dans la diversité) [56: 1978], mà dù có
quan hệ lâu đờ i và sâu nặng vớ i những
“Cái nôi văn minh” cổ kính và danh giá bậc nhất nhân loại ở Thung lũng Ấn Hằng
-
8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A
4/29
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 10, SỐ 09 - 2007
Trang 39
và Trung lưu Hoàng Hà thì vẫn là một
Đông Nam Á nổi nét “ phi Ấ n – phi Hoa”.
Đó là hợ p thể văn hóa – văn minh miền
núi-trung du-đồng bằng-hải đảo “thố ng
nhấ t trong đ a d ạng ”. Vớ i giớ i hạn riêng từ
bắc (từ chân mạch Nam dải Tần L ĩ nh Nam
Tr ườ ng Giang) xuống nam (gồm cả bình
nguyên Giang Hán, Giang Hoài) và tây
(gồm cả Atsam ở bán đảo Đông An),
Đông Nam Á là cươ ng vực phân bố và
sáng tạo văn hóa của những cộng đồng
ngườ i bản địa nói các ngữ hệ lớ n nhất và
có quan hệ nguồn gốc ngữ tộc Austric vớ i
nhau như Nam Á (Austroasiatic) – Mon-Khmer, Việt Mườ ng; Tày – Thái, Lào
Mao, Tạng-Miến và Nam Đảo
(Austronesian). Đó là một Đông Nam Á
“ phi Ấ n” dù đã đón nhận và l ĩ nh hội những
làn sóng văn hóa tôn giáo Ấn Độ dội đến
từ Tây Phươ ng Thiên Trúc ưa suy luận
tr ừu tượ ng, hướ ng nội, coi tr ọng tính phổ
quát và khoa học nhân văn nặng màu sắc
tâm linh. Đó cũng là một Đông Nam Á
“ phi Hoa” từ triết lý thực dụng và phươ ng
pháp tr ực quan cụ thể đến hệ thống quan
niệm Nho giáo “tu thân, t ề gia, tr ị quố c,
bình thiên hạ” từng theo chân các đoàn
quân xâm lượ c chinh phục nhiều dân tộc
gieo r ắc hiểm họa đồng hóa về chính tr ị,
văn hóa, nghệ thuật, tôn giáo suốt trong
tr ườ ng k ỳ lịch sử [48]. Đó là hợ p thể vănhóa – văn minh miền núi – trung du, đồng
bằng và hải đảo “thố ng nhấ t trong đ a
d ạng ”, vớ i quá trình đan xen giao lưu tiế p
biến hội tụ nhiều tuyến, nhiều chiều, nhiều
phong cách của các “ Nam Quố c sơ n hà”
suốt chiều dài lịch sử từ khi con ngườ i bắt
đầu lao động đến lúc biết “nhậ p hòa và
biế n đổ i thiên nhiên”. Vớ i phát minh nông
nghiệ p, bắt đầu tr ồng tr ọt chăn nuôi, chiếm
l ĩ nh đồng bằng và hải đảo, hình thành các
dân tộc và sáng tạo văn hóa bản địa, xây
đắ p truyền thống, Đông Nam Á đã tạo
dựng bản sắc và bản l ĩ nh hội nhậ p phát
sáng của riêng mình, khác Ấn và khác
Hoa.Đó là hợ p thể các “hồn nướ c” mang
những “hằ ng số ” (constances) của riêng
mình giữa lửa (nươ ng r ẫy, hỏa thiêu) và
nướ c (ruộng nướ c, thủy lậu); giữa đất liền
(núi cao, chân núi, thung lũng trung du),
đồng bằng (châu thổ dọc sông và cửa bể)
và hải đảo; giữa thuần dưỡ ng bò trâu, voi,
ngựa làm gia súc trên thảo nguyên vớ i
đánh bắt cá từ hải thuyền trên sông biển;
giữa Cự thạch về văn hóa và tư tưở ng
(Megalithisme) cùng những tổng thể đại
công trình kiến trúc đền núi-tháp tượ ng,
trình độ vô song kiểu Angkor, Vátphu,
Pagan, Champa, Dhvaravati, Srivijaya,
Majapahit…, bên những tiểu công trình
kiểu nhà rông, đình làng, tr ống đồng…; và
các bản sắc văn hóa riêng về ẩm thực vàchốn ở , y phục và trang sức… “ phi Ấ n –
-
8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A
5/29
Science & Technology Development, Vol 10, No.09 - 2007
Trang 40
phi Hoa” (đắ p thành đất, rào lũy tre, chắn
gỗ, đi thuyền khác vớ i táng thức trong
quan tài hình thuyền, ăn tươ ng và nướ c
mắm; mặc váy áo bằng vỏ cây, tơ i lá, da
thú, lông chim khác vớ i đóng khố ở tr ần;
để r ăng tr ắng và nhuộm r ăng đen khác vớ i
tết tóc, xõa tóc hay búi tóc, mang ngọc trai,
ngọc bích hay hồng ngọc…) [56: 1978].
2.THÀNH TỰ U KHẢO CỨ U VÀ
NHẬN THỨ C CHUYÊN NGÀNH VỀ
VĂN HÓA VẬT CHẤT THỜ I TIỀN SỬ
– SƠ SỬ TRÊN ĐẤT LIỀN VÀ HẢI
ĐẢO ĐÔNG NAM Á
Lịch sử nghiên cứu văn hóa nguyên
thủy Đông Nam Á manh nha từ đầu thế k ỷ
18, khi những rìu đồng khám phá ở
Celebes, nhóm đảo Meluccas, Java và các
tr ống đồng Pedjeng, Bali tàng tr ữ ở Bảo
tàng Leiden đượ c G.E.Rumphius miêu tả
từ 1705. Nhưng các công cuộc điền dã lớ n
chỉ đượ c chú ý từ nửa cuối thế k ỷ 19 – đầu
thế k ỷ 20, khi phần lớ n Đông Nam Á thành
thuộc địa đế quốc và xuất hiện những tổ
chức khoa học Phươ ng Tây đầu tiên chỉ
đạo các chươ ng trình khảo cứu; Ví như,
Hội nghiên cứu địa chất và Phái đoàn
Khảo cổ học (KCH) Đông Dươ ng – tiền
thân của Tr ườ ng Viễn Đông bác cổ (Ecole
Francaise d’Extrême-Orient - EFEO) của
Pháp (1898-1899), Ủy ban KCH
(Oudheidkundige Commissie) thành lậ p1901 và đổi thành Sở KCH
(Oudheidkundige Dienst) năm 1913 ở
Indonesia của Hà Lan, Bảo tàng Raffles và
Ngành Mã Lai của Hội hoàng gia Châu Á
(Malayan Branch of Royal Asiatic
Society); hay Hội Siêm học (Siam Society)
ở Thái Lan.v.v… Những công bố phát hiện
di vật văn hóa tiền sử – sơ sử xuất hiện
ngày càng nhiều ở Indonesia, Mã Lai,
Miến Điện, Campuchia và Việt Nam.
Những cuộc khai quật thờ i này thườ ng ở
trình độ thấ p, thực thi đơ n lẻ ở từng nướ c,
nhưng thu hoạch lại r ất ấn tượ ng. Chẳng
hạn cuộc khai quật cồn sò Gua Kepah; các
di tích hang động vùng Perak – Ipoh ở MãLai; ở Cù Lao Rùa, các hang động Bình
Gia, Bắc Sơ n, Hòa Bình (Việt Nam); các
di chỉ thờ i đại Đồng ở Indonesia …
Những công trình hệ thống phân loại
tìm hiểu xuất xứ tr ống đồng Đông Nam Á
tàng tr ữ ở nhiều bảo tàng Âu - Á như
Berlin, Dresden, Paris, London, Roma,
Viên, Stockhom, Leiden, Kiev, Calcutta;
Negara, Đại học Mã Lai, Raffles, Kuala
Lumpur, Batavia, Jakarta… do các nhà dân
tộc học Đức, Hà Lan, Áo chuyên khảo từ
r ất sớ m như: A.B.Mayer, W.Foy (1884-
1897 ), F.Hirth (1904), J.J.M.Degroot
(1898), J.D.E.Schmeltz (1896),
G.P.Rouffaer (1917), H.Parmentier
(1918), đặc biệt là F.Heger (1902), ngườ i
đầu tiên đề xuất quê hươ ng tr ống HI ở miền Bắc Việt Nam [29].v.v… Nhiều hoạt
-
8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A
6/29
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 10, SỐ 09 - 2007
Trang 41
động sưu tầm cổ vật của các nhà thám
hiểm, truyền giáo, nhà thầu, s ĩ quan, quan
cai tr ị, bác s ĩ , địa chất gia, viên chức Châu
Âu tại Đông Dươ ng; tại đảo Palawan,
Baholi, trên quần đảo Philippine. Đặc biệt,
các khám phá bất ngờ của J.Bouchot ở
hầm mộ Cự thạch Xuân Lộc (Việt Nam),
các di tích kiến trúc tế lễ – mộ táng và
tượ ng Cự thạch k ỳ lạ của thế giớ i Nam
Đảo trên cao nguyên Pasemah (Nam
Sumatra). Các họa thạch dành cho giả thiết
về “một cuộc viễ n chinh của hoàng t ử Phù
Nam” đến Nam Dươ ng [61], về cuộc viễn
du “ Nhữ ng đứ a con của mặt tr ờ i” từ HyLạ p đến Mỹ Châu ( Perry W.J.1918-1923)
và các cuộc khảo cứu khai quật của TS
Van der Hoop [33] ở Indonesia; của Juneir
Surveyor (1895), của thạc s ĩ Dân tộc học
I.H.N.Evans, ngườ i thành lậ p Hội nghiên
cứu Khảo cổ học Mã Lai ở các thậ p k ỷ 20
– 30, H.D.Noone (1935), Mubin Sheppard
(1936), H.D.Collins (1937), R.O.Winstedt
(1941)… ở các mộ hoa cươ ng chứa di vật
đồng sắt và chuỗi hồng mã não, thủy tinh,
gốm ở Mã Lai… Cần k ể riêng về các khám
phá ban đầu của L.Pajot từ 1924-1932 ven
bờ Sông Mã vớ i 700 di vật đầu tiên về
“Thờ i đại Đồng thau ở Bắ c K ỳ và Bắ c
Trung K ỳ” [21] mở đầu cho các mùa điền
dã lớ n Đông Sơ n của nhà khảo cổ Thụy
Điển O.Jansé 1935-1939 và chuyên khảo“ Nghiên cứ u khảo cổ học ở Đông Dươ ng ”.
Các sưu tậ p này cũng là cơ sở để nhiều
chuyên gia thảo luận về thuật ngữ danh
tiếng “V ăn hóa Đông S ơ n”do R.Heine
Geldern đề xuất từ 1934. Các công trình
của học giả Pháp V.Goloubew về di tích
văn hóa, nghệ thuật tr ống cùng “C ư dân
Đông S ơ n và ng ườ i M ườ ng” [21], bên các
công trình của học giả Hà Lan Van Stein
Callenfels thảo luận về: “Tuổ i của tr ố ng
đồng cổ ” (1937 ), của học giả Nhật Bản
T.Kobayashi về: “ N ề n văn hóa cổ ở đồng
bằ ng Bắ c Bộ Đông Dươ ng” (1937 ), của
học giả Trung Quốc Tr ịnh S ư H ứ a (1937):
“Lượ c khảo về tr ố ng đồng ”, của học giả Thụy Điển Karlgren (1942) bàn về: “ Niên
đại sơ k ỳ văn hóa Đông S ơ n” và O.Jansé
bàn về “ Nguồn g ố c văn minh Việt Nam”
[34]… Có thể coi Đại hội tiền sử Viễn
Đông lần 1 họ p tại Hà Nội mùa xuân 1932,
là sự kiện khoa học quốc tế đánh dấu
chặng đườ ng đầu tiên nghiên cứu lịch sử
văn hóa vật chất tiền sử Đông Nam Á của
giớ i khoa học Phươ ng Tây, vớ i nghị quyết
quan tr ọng thừa nhận thuật ngữ “V ăn hóa
Hòa Bình” chung cho cả khu vực. Bên
cạnh Hội nghị khoa học Thái Bình Dươ ng
lần thứ 4 ở Djakarta 1929, Hội nghị quốc
tế lần thứ 18 của các nhà Đông Phươ ng
học ở Leiden 12-1932, cũng là một Đại
hội tậ p hợ p hệ thống các phát hiện đáng
giá nhất, mở đầu cho sự liên k ết khu vựccủa giớ i khảo cổ quốc tế hoạt động ở Đông
-
8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A
7/29
Science & Technology Development, Vol 10, No.09 - 2007
Trang 42
Nam Á - tiền thân của Hiệ p hội tiền sử An
Độ-Thái Bình Dươ ng (Indo-Pacific
Prehistory Association) ngày này, là khơ i
nguồn cho những chuyên khảo tổng hợ p
đầu tiên từng mảng “ Đông Dươ ng” –
“Miế n Điện” – “Philippines” –
“Indonesia” – “Mã Lai” ….của bức tranh
tiền sử Đông Nam Á, từ “ Lần hội t ụ Hòa
Bình” đến “ Lần hội t ụ Đông S ơ n” của toàn
khu vực. Các nghiên cứu này gắn liền vớ i
tên tuổi “ Nhữ ng nhà tiề n khu” của Khảo cổ
học Đông Nam Á như: H.Mansuy [40],
M.Colani [11], V. Goloubew [21], L.Finot
[18], I.H.N. Evans [17], A.N.G.van derHoop [33], P.V.Stein van Callenfels [7],
E.Patte [46], H.O.Beyer [5], P.Lévy [36],
H.L.Movius [41], M.W.F.Tweedie [56],
H.R.van Heekeren [28], O.Janse 34],
G.Coedès [10] .v.v. Đươ ng nhiên, hầu hết
các công trình nghiên cứu tổng hợ p này
thườ ng r ậ p khuôn theo mô hình giai đoạn
của Châu Âu đươ ng thờ i, mang đậm ảnh
hưở ng của lý thuyết truyền bá và thiên di
tộc ngườ i từ buổi đầu thế k ỷ và nhìn chung
đều đánh giá thấ p các thành tựu văn hóa
Đông Nam Á. Điển hình nhất cho quan
điểm chung của giớ i học thuật Phươ ng Tây
là các học thuyết “truyề n bá”
(diffussionisme) và “thiên di”
(migrationisme) do nhà bác học về dân tộc
và lịch sử nghệ thuật ngườ i Áo R.HeineGeldern xây dựng ở Vien từ 1927 và hoàn
thiện dần trong các chuyên khảo: “Quê
hươ ng đầu tiên và nhữ ng cuộc thiên di sớ m
nhấ t của ng ườ i Nam Đảo”; “Nghệ thuật
tiề n Phật Giáo Trung Quố c và Đông Nam
Á và ảnh hưở ng của nó ở Châu Đại
Dươ ng”; “V ấ n đề ng ườ i Tochara và cuộc
thiên di t ừ xứ Pont” [30].
Trong các chuyên khảo đó, R.Heine
Geldern đã tổng hợ p toàn bộ tri thức
đươ ng thờ i về khảo cổ học, dân tộc học,
ngôn ngữ học để phác dựng bức tranh toàn
cảnh Đông Nam Á, nhưng khác vớ i các
học giả chỉ quan tâm đến loại hình di vật,
k ỹ thuật và niên đại, ông đặc biệt chú tâmđến văn hóa và con ngườ i, xây dựng mô
hình theo truyền bá luận – một trào lưu phổ
cậ p trong nhân học phản ứng lại các lý
thuyết tiến hóa luận của thế k ỷ 19 [25:
1983]. Ông tậ p trung trình bày 2 cột mốc
quan tr ọng trong diễn trình văn hóa Đông
Nam Á là Đá mớ i và Kim khí. Theo ông,
trong thờ i hậu k ỳ Đá mớ i Đông Nam Á, có
3 nền văn hóa nối tiế p nhau của 3 nhóm cư
dân khác nhau: văn hóa rìu hình tr ụ
(Walzenbeilkultur) của cư dân nói tiếng
Papua, văn hóa rìu vai (Schulterbeilkultur)
của cư dân nói tiếng Nam Á và văn hóa rìu
tứ giác (Vierkantbeilkultur) của ngườ i nói
tiếng Nam Đảo. Ông đặc biệt quan tâm đến
cuộc thiên di của ngườ i Nam Đảo đến từ
Trung Quốc bằng nhiều hướ ng qua ĐôngDươ ng, Mã Lai toả ra hải phận Đông Nam
-
8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A
8/29
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 10, SỐ 09 - 2007
Trang 43
Á và Châu Đại Dươ ng. Theo ông, chủ
nhân các văn hóa trên mang những yếu tố
văn hóa vật chất và tinh thần riêng biệt. Do
vậy sự biến đổi văn hóa khu vực này chỉ
diễn ra bằng sự lan truyền và thay thế
nhau. Ở các luận văn liên hệ đến thờ i đại
kim khí, tác giả coi các cuộc thiên di
(Wanderung) như phươ ng tiện quan tr ọng
để xây dựng mô hình văn hóa Đông Nam
Á, đẩy xa hơ n quan điểm truyền bá luận
của mình. Ông đề xuất thuật ngữ “V ăn
hóa Đông S ơ n” cho toàn bộ văn hóa đồ
đồng thau ở đông nam Trung Quốc, Đông
Dươ ng và Indonesia, vớ i niên đại mở đầukhoảng thế k ỷ 7-8 BC. Ông cố gắng chứng
minh văn hóa Đông Sơ n trên toàn khu vực
ấy bắt nguồn từ các văn hóa Halstatt và
Caucase ở Phươ ng Tây, đặc biệt văn hóa
của ngườ i Kimmer. Ông cố gắng gắn
nguồn gốc văn hóa Đông Sơ n vớ i các cuộc
thiên di của tộc ngườ i Tochara, từ xứ Pont
– tên cổ của Hắc Hải, sang Phươ ng Đông
băng ngang qua Trung Quốc. Dù không
thừa nhận là “nhà truyề n bá luận” cực
đoan hay ôn hòa (1956), nhưng các quan
điểm do R.Heine Geldern khở i xướ ng
đượ c ông duy trì bồi đắ p bảo thủ suốt trong
nhiều thậ p k ỷ sau. Ví như, năm 1932,
R.Heinne Geldern không chấ p nhận quan
điểm của W.J.Perry (1918) về một cộng
đồng cư dân vớ i văn hóa khở i nguồn từ Đông Ấn có ảnh hưở ng của nền văn minh
cao hơ n k ết hợ p các đạo Bà Là Môn, Phật,
Hồi giáo di cư đến Indonesia vì nhu cầu
tìm vàng và đồ quý, mang theo nghề tr ồng
lúa và k ỹ thuật ruộng tướ i nướ c, thuật
luyện kim và chế kim hoàn, k ỹ nghệ đá và
xây dựng Cự thạch, tục thờ thần Mặt tr ờ i
và thờ Sinh thực khí…, nhưng Heine
Geldern chia xẻ vớ i W.J.Perry về mối quan
hệ giữa Cự thạch Assam và Burma vớ i
Phươ ng Tây (Châu Âu, Bắc Phi, Syria) về
một phía và vớ i Ahu và Marae của
Polynesia về phía khác. Ông tin r ằng Cự
thạch đến cùng những ngườ i Nam Đảo –
chủ nhân rìu tứ giác theo “làn sóng di cư ”từ Archipelago và Viễn Ấn, Malacca
khoảng 2000-1500 BC. Năm 1945, khi
quan niệm văn hóa Cự thạch là mắt xích
giữa sự sống và cái chết, ông phân chia Cự
thạch Nam Dươ ng thành 2 truyền thống: 1.
Truyền thống “ già hơ n” liên quan vớ i “làn
sóng văn hóa t ộc ng ườ i” (ethnic and
cultural waves) từ đất liền Châu lục đến từ
Đá mớ i khoảng 2500=1500 BC, mang theo
phong tục tạo dựng Menhir, Dolmen, thạch
tự tháp.. tạo nên phong cách nguyên thủy
và “t ĩ nh hơ n” bắt đầu từ Nam Sumatra đến
Java, Sulawesi… 2. Làn sóng Cự thạch
“tr ẻ hơ n” liên quan vớ i các nhóm cư dân
đến từ thờ i văn hóa Đông Sơ n sơ k ỳ Sắt,
mang phong cách nghệ thuật chịa ảnh
hưở ng Đông Sơ n trang trí nhiều hơ n và“động hơ n” ở Pasemah và nghệ thuật
-
8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A
9/29
Science & Technology Development, Vol 10, No.09 - 2007
Trang 44
Batak (Sumatra), Kalimantan,
Sulawesi…Văn hóa Đông Sơ n thống tr ị
Indonesia tr ướ c tiến trình Ấn Độ hóa và
tiế p tục in dấu trong các nghệ thuật Java và
Tây Melanesia. Cội nguồn văn hóa Đông
Sơ n xét tr ở lại cũng nhờ các cảm hướ ng
truyền từ Phươ ng Tây đến… Cho đến tận
lúc gần lìa đờ i, 1966, khi bàn về: “ M ột số
phong cách nghệ thuật bộ l ạc Đông Nam
Á: một thí nghiệm trong l ịch sử nghệ
thuật ” tác giả còn viết r ằng: “ Dù tôi đ úng
hay sai trong việc đư a ng ườ i Kimmer và
ng ườ i Tochara vào bứ c tranh Đông Nam Á
thì vẫ n còn l ại sự giố ng nhau rõ ràng giữ acác di vật và hoa văn Đông S ơ n vớ i
Phươ ng Tây, nghĩ a là vớ i Châu Au và
Kavkaz, mà đ iề u đ ó chỉ có thể giải thích
bằ ng một cuộc thiên di t ộc ng ườ i”. Quan
điểm truyền bá luận xuyên suất các mô
hình văn hóa và bản đồ thiên di tộc ngườ i
của R.Heine Geldern có ảnh hưở ng sâu sắc
và dài lâu đến các nhà tiền sử học đươ ng
thờ i và nhiều thế hệ học trò ông như
H.Mansuy (1925), M. Colani (1938),
E. Patte (1936), Movius (1943), H.O. Beyer
(1948), W. Tweedie (1957), H.R. Van
Heekeren (1957-1958)…Đặc biệt, nhiều
luận thuyết về thiên di văn hóa từ Tây
sang Đông đượ c nhiều học giả như
W.Samolin, O.Jansé, C.Schuster,
K.Jettmar, Per Sorensen ủng hộ và phát
trên thêm khi tham luận Hội nghị khoa học
quốc tế tại Đại học Columbia 1967 [25].
Cùng vớ i việc xây dựng và phổ biến
học thuyết truyền bá luận, Khảo cổ học
điền dã Đông Nam Á trong các thậ p k ỷ
tr ướ c và sau thế chiến 2 cũng có nhiều thu
hoạch quan tr ọng trên đất liền và nhiều hải
đảo của khu vực. Lần đầu tiên ngườ i ta ghi
nhận về khả năng tồn tại các k ỹ nghệ Đá
cũ sơ k ỳ ở hơ n 20 địa điểm; Ví như,
Anyatha (Miến Điện), “V ăn hóa Patjitan”
(Indonesia), “V ăn hóa Kota Tampan” (Mã
Lai); “V ăn hóa Cabalwan” (Philippines);
cùng vết tích mớ i của ngườ i vượ n và cáchomonid hóa thạch cùng công cụ cuội ghè
thô ở Java, ở Tam Hang, Tam Paloi (Lào);
ở Stungtreng – Snoul, Loang Spean và
Phnom Loang (Campuchia), ở Thái Lan…
Ngườ i ta chú ý hơ n đến phân tích loại
hình, hệ thống thuật ngữ, tổng k ết thành
tựu thực địa, đưa tầm nhìn xa hơ n ngoài
phạm vi một nướ c. Bên cạnh các nỗ lực cá
nhân ở từng tiểu vực, như các chuyên
khảo lớ n về các loại hình di tích Đá lớ n
đặc sắc phân bố trên 2 cao nguyên Sầm
Nưa và cánh đồng Chum Đá Xiêng
Khoảng miền Bắc Lào của M.Colani [11];
Các cuộc điền dã của học giả Pháp ở Long
An, Bình Phướ c (Việt Nam), các di tồn
“văn hóa Sa Hu ỳnh” và các mùa khai quật
của học giả Thụy Điển O.Jansé ở ĐôngSơ n [34], của P.Lévy ở Mlu Prei,
-
8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A
10/29
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 10, SỐ 09 - 2007
Trang 45
Campuchia [36], của L.Malleret vớ i văn
hóa Oc Eo ở delta Mekong (1938-1944)
[39]…
Ngoài việc Hội nghị các nhà tiền sử
học Viễn Đông lần 2-4 luân phiên nhóm
họ p ở Manila (1935), Singapore (1938),
Manila (1953)…., đã xuất hiện các chuyên
khảo cố gắng vượ t qua khu vực để khảo
cứu trên bình diện Châu lục chẳng hạn
những ý tưở ng liên hệ vượ t nội vùng như
các phức hợ p gốm Philippines, Mã
Lai…vớ i truyền thống gốm Sa Huỳnh và
cả Châu Đại Dươ ng của H.Parmentier,
B.A.Peacock, các đối sánh di tích Cự thạch cùng di vật vượ t qua lục địa Đông
Nam Á đến Trung Hoa (ý kiến M.Colani
về gốc gác hạt chuỗi Xiêng Khoảng) hay
đến sơ n khối Calhar Ấn Độ cách đó
1200km (ý kiến P.Bellwood về quan hệ
thân thuộc 2 vùng này)….; Đặc biệt, công
trình: “Các văn hóa sơ k ỳ Đá cũ ở Nam và
Đông Á ” của học giả Mỹ H.L.Movius [41]
đượ c đánh giá như: “ Bản t ổ ng k ế t hay nhấ t
về thờ i đại Đá Đông Nam Á…”, dẫu r ằng
điểm sai lầm nghiên tr ọng của Movius là
sự lý giải Đông Nam Á như vùng trì tr ệ về
văn hóa của H.L.Movius chứng minh thiên
kiến nặng nề của học thuật Phươ ng Tây
trong suất hơ n nửa thế k ỷ này. Các luận
điểm về những cuộc thiên di xứ Pont sang
Đông Nam Á của Heine Geldern và mốiràng buộc nguồn gốc của văn hóa đất liền
và hải đảo ở khu vực này vớ i miền đông
nam Châu Âu [28]; Từ những phác thảo
đúng của Viện s ĩ Pháp G.Coedes ở thậ p k ỷ
40 về “V ăn minh Nam Á ” thờ i sơ sử vớ i k ỹ
thuật sử dụng trâu bò, dùng cày, làm ruộng
tướ i, tôn tr ọng phụ nữ, thờ phụng trên cao,
vạn vật hữu linh, nhị nguyên luận trong tư
duy… đến các luận thuyết sai của chính
ông trong: “Các dân t ộc Đông Dươ ng
(Lịch sử và V ăn minh)” [10] r ằng: “ Điề u
thú vị đ áng nêu là, t ừ thờ i tiề n sử , các cư
dân bản địa Đông Dươ ng d ườ ng như thiế u
thiên tài sáng t ạo và t ỏ ra ít khả năng tiế n
hóa và tiế n bộ nế u như không có đ óng gópt ừ bên ngoài”. Từ các ý kiến của học giả
Anh G.Clark trong: “ Lịch sử thế giớ i” [9]
r ằng: “ M ột trong nhữ ng lý do chủ yế u
khiế n l ục địa Đông Nam Á đ áng đượ c
nghiên cứ u là nó giố ng như một thứ ố ng
khói qua đ ó con ng ườ i đ ã t ỏa ra Indonesia,
Melanesia và các miề n xa hơ n. M ột lý do
khác là vị trí trung gian của nó giữ a hai
trung tâm văn hóa chủ yế u là Ấ n Độ và
Trung Hoa. Cho r ằ ng Đông Nam Á t ự thân
nó là cái nôi của một nề n văn minh cổ d ự a
trên nông nghiệ p tr ồng lúa là không đượ c
chứ ng thự c bằ ng tài liệu khảo cổ học”;
Đến các luận điểm của N.N.Tcheboksarov
và V.R.Kabo trong “Các dân t ộc Đông
Nam Á” [55] về: “ K ỹ thuật luyện kim và
chế tác kim loại Đông Nam Á xuấ t hiệnd ướ i ảnh hưở ng của 2 trung tâm Sông An
-
8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A
11/29
Science & Technology Development, Vol 10, No.09 - 2007
Trang 46
và Sông Hoàng. K ỹ thuật luyện kim ở trung
tâm Sông Ấ n đ ã đượ c ng ườ i Dravida và
ng ườ i Munda truyề n cho ng ườ i Môn
Khmer Đông Dươ ng, còn k ỹ thuật luyện
kim sông Hoàng Hà đượ c truyề n vào
Đông Nam Á qua các bộ l ạc Việt cổ ”; và
các ý tưở ng của F.L.Dunn [16] về k ỹ nghệ
chế tác Đá từ 1100 – 5000 BP. ở Đông
Nam Á biểu tr ưng “truyề n thố ng khu vự c
bảo thủ” (conservative areal tradition);
các cố gắng lần tìm “nguồn g ố c Trung
Quố c” của không ít thành tựu Đá mớ i –
Kim khí Đông Nam Á cụ thể như:
W.Linehan [37], W.Watson [60],P.Bellwood [3], C.F.W.Higham [31] …
Bắt đầu từ các thậ p k ỷ 60-70 tr ở lại
đây, lịch sử nghiên cứu tiền sử và sơ sử
Đông Nam Á chứng kiến sự xuất hiện
nhiều tổ chức chuyên ngành bản địa và sự
liên hiệ p điền dã và nghiên cứu quốc tế có
hệ thống và trên quy mô lớ n. Sự nghiên
cứu này ở trình độ hiện đại, vớ i sự tăng
cườ ng k ỹ thuật – công nghệ mớ i ứng dụng
từ khai đào đến xét nghiệm mẫu vật, nâng
cao chất lượ ng chuyên ngành và liên ngành
trong các công trình tổng hợ p. Sự liên hiệ p
nghiên cứu mở r ộng giữa nhiều tr ườ ng Đại
học, viện nghiên cứu của nhiều quốc gia
trong Khu vực, Châu Lục và Thế giớ i, vớ i
những mô hình hợ p tác có thể làm mẫu về
nội dung và tinh thần liên hiệ p. Nhờ thế,“ M ặc cho còn nhữ ng khoảng tr ố ng r ộng
l ớ n trong hiể u biế t chúng ta, khố i l ượ ng
của tri thứ c đ ã tích l ũ y về l ịch sử Đông
Nam Á và Châu Đại Dươ ng đ ã khá là đồ
sộ” [3]. Giờ đây đã có sự phối hợ p điền dã
bình đẳng và tốt hơ n giữa các học giả
nhiều nướ c như Indonesia, Mã Lai,
Philippines, Thái Lan, Việt Nam, Lào,
Campuchia, Singapore, Philippines…,
hoặc giữa các học giả từng nướ c vớ i nhiều
tổ chức khoa học Âu – Mỹ – Nga – Nhật
trên quần đảo Philippines, ở Mã Lai, ở
Indonesia và các chươ ng trình hợ p tác đào
tạo tiến s ĩ – khảo sát khai quật giữa
Indonesia và Philippines vớ i Úc, ĐanMạch, Hà Lan, Mỹ, Anh, Nhật, Pháp… –
Mỹ trên nhiều hải đảo…
Trên đất liền Đông Nam Á, các đoàn
khảo sát Lào – Việt, Lào – Ý, Lào – Nhật,
Lào – New Zealand thực thi nhiều mùa
điền dã hang động, bình nguyên, vùng hồ
đâp nướ c, đặc biệt khai quật quần thể đền
tháp thờ i Cổ sử Vát Phu (Nam Lào). Ở
Campuchia, các giáo viên vàsinh viên Đại
học Hoàng Gia Phnom Penh cùng các giáo
sư tiến s ĩ chuyên gia thuộc các đại học
Đức, Hawai (Mỹ), các tổ chức văn hóa
Nhật Bản khai quật cụm thành đất hình
tròn ở Kongpong Chàm, thám sát 1 trung
tâm Phù Nam ở Angkor Borey, trùng tu
quần thể Angkor, nghiên cứu Khảo cổ –
Dân tộc nghề gốm cổ truyền bản xứ, pháthiện nhiều di tích ở Biển Hồ…. Đặc biệt
-
8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A
12/29
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 10, SỐ 09 - 2007
Trang 47
sôi nổi trên đất Thái, từ các đoàn hợ p tác
Thái-Đan Mạch (1961-1962) khảo cứu Ban
Kao, Ong Bah, Thái-Anh (1965), Thái-Mỹ
(1966)…, các học giả Thái thườ ng niên
phối hợ p vớ i cá nhân hoặc tổ chức của một
hoặc nhiều nướ c trên thế giớ i (Mỹ, Nhật,
Đức, Pháp, Anh, Đan Mạch, Hà Lan, Ý,
Thụy S ĩ , New Zealand, Uc, Indonesia, Việt
Nam) nghiên cứu chuyên đề hoặc đa ngành
ngắn hạn hoặc nhiều mùa… đưa lại nhiều
bằng chứng sinh động, nhiều bài học kinh
nghiệm quý báu về sự hợ p tác nghiên cứu
hữu hiệu và mở r ộng hơ n giữa Đại học
quốc tế vớ i Thái Lan. Nhiều tổ chức vănhóa-khoa học cả trong và ngoài nướ c Thái
cùng khai quật nhiều mùa điền dã và khám
phá nhiều di tích văn hóa làm chấn động
giớ i tiền sử học thế giớ i trong nhiều thậ p
k ỷ [2; 22; 23; 52].
Ở Việt Nam, nhiều Viện nghiên cứu,
bảo tàng và các Đại học ở Hà Nội, Huế, TP
Hồ Chí Minh đã chủ động đẩy mạnh công
tác tuyên truyền đối ngoại, tăng cườ ng phổ
biến các giá tr ị riêng của truyền thống văn
hóa dân tộc, “mở cử a” đón nhận sự góp ý,
thảo luận học thuật và sự giúp đỡ đồng
nghiệ p nướ c ngoài, tổ chức hội nghị quốc
tế, xây dựng các chươ ng trình hợ p tác lớ n,
lâu niên, vớ i nhận thức chung để mở r ộng
tầm hiểu biết quá khứ cả Đông Nam Á –
Châu lục – Thế giớ i để hiểu sâu sắc hơ n ditích của chính mình và bổ sung kho tàng
phươ ng pháp nghiên cứu khoa học bằng
những thành tựu k ỹ thuật – công nghệ tiên
tiến. Đó là khuynh hướ ng không thể đảo
ngượ c của nền Khảo cổ học dân tộc hiện
đại. Ngoài việc tham gia tích cực trong
nhiều tổ chức khoa học Quốc tế lớ n, giớ i
khoa học Việt Nam còn chủ động tổ chức
các Hội nghị Quốc tế “Việt Nam học l ần I -
II ”; “60 năm phát hiện – công bố văn hóa
Hòa Bình”; “T ươ ng lai học” và “ Phát triể n
đ ô thị bề n vữ ng, vai trò của nghiên cứ u và
giáo d ục”; “ Đô thị cổ H ội An” và “V ăn
hóa Sa Hu ỳnh ở H ội An” và “ M ột thế k ỷ
KCH Việt Nam”… ở Hà Nội, TP.Hồ ChíMinh, Hội An…, thu hút hàng tr ăm học giả
từ nhiều nướ c trên Thế giớ i đến tham
luận. Từ buổi đầu xây dựng đội ngũ trong
các tổ chức hạt nhân đầu tiên (Bộ môn
Khảo cổ học – Khoa Sử, Tr ườ ng Đại học
Tổng hợ p Hà Nội, Đội Khảo cổ – Bộ Văn
hóa) đến nay, chúng ta đã chủ động mờ i
nhiều học giả uyên bác ngoại quốc đến
cùng thảo luận và xây dựng các chươ ng
trình hợ p tác song phươ ng – đa phươ ng
trên nhiều l ĩ nh vực nghiên cứu – đào tạo
của các khoa học Nhân văn như: vớ i các
học giả đến từ Trung Quốc (GS. Ngô Nhữ
Khang), Hunggari (TS Kiszely Istvan), Ấn
Độ (GS.Banarjee), Nga (Viện s ĩ Rybacov,
GSTS P.I.Boriscovsky, GS.TS
V.M.Masson, GS. TS Deopik, GSTSY.A.Dzadnheprovsky, TS S.N.Murabev,
-
8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A
13/29
Science & Technology Development, Vol 10, No.09 - 2007
Trang 48
TS A.N.Matiukin, TS N.K.Anhixiutkin, TS
V.I.Timopheev, TS S.S.Minhaev, GS
Dakharuk, TS Ranov, TS Kontrin, TS
Machukkin, TS Ranov, TS Minhaiev, TS
Muraviov, TS Anhixiutkin, TS Timofeev),
Mỹ (GSTS W.G.Solheim, TS Chester
Groman, GSTS Rush Ciochon), Anh (TS
I.Glover, Ruth Prior), Đức (Viện s ĩ Herma,
TS Hans Quitta, TS Kolh, TS W.Lobo; TS
Albrecht, TS Haidle, TS A.Reinecke), Úc
(GS.TS Helmut Loofs-Wissowa, GS.TS
P.Bellwood), Đan Mạch (TS Per
Sorensen), Pháp (GS. G.Condominas, TS.
P.Y.Manguin, M.Vallerin, E.Bourdonneau,B.Ravez), Nhật (GS.TS Hakari, GS.TS.
Gakuji Hasebe, GS Yoji Aoygi, GS.TS Eiji
Nitta, GS.TS Keiji Imamura, GS Ueno
Kunikazu, GS Sakurai, TS Mariko
Yamagata, Th.S Nishimura Masanari, TS
Yasushi Kojo, Asako Morimoto, Hiroki
Nishida, Hidejumi Ogawa, Nishitani
Masaru, Shinzato Takayuki, Katsuko
Tanaka, Kazuchiko Tanaka, Takenori
Tsuda, Hirano Yuko, Kato Toki), New
Zealand (GS. C.Higham, TS B.Vincent),
Đài Loan (Chen Weichun, Tsang Cheng
Hwa, Chen Kwang Tzuu, Chen Yumei,
Chang Kuang Jen, Kuo Su Chiu),
Hongkong (GS.TS Tang Chung), Miến
Điện (TS Min Aung Thwe), Thái Lan (GS
hoàng thân Thái Subahadris Diskul),Bungaria (Nicolae Siracov, Syoboda
Sirarova, Srephanea Ivanoka, Vasil Popov,
Gosrodin Radov Gorpodinov) và các nhà
nghiên cứu Việt kiều ở Bắc Mỹ như Linh
mục Tr ần Tam Tỉnh, GS Lươ ng Văn Hy,
Nguyễn Bá Khoách…).
Các chươ ng trình hợ p tác điền dã lâu
niên đượ c thực thi cùng nhiều phươ ng
pháp khai đào, lấy mẫu, giám định ở trình
độ hiện đại của Thế giớ i. Chẳng hạn các
cuộc khai quật – nghiên cứu ở Hang Hùm
(Lạng Sơ n), Luy Lâu (Bắc Ninh), hang
Làng Tráng, Mái Đá Điều (Thanh Hóa),
Làng Vạc, Đồng Mỏm (Nghệ An), K ỳ Anh
(Hà T ĩ nh), Cồn Nền (Quảng Bình), CồnRàng (Huế), Gò Sành (Bình Định), Sa
Huỳnh (Quảng Ngãi), Quần thể Cự thạch
Hàng Gòn (Đồng Nai), Gò Ô Chùa và An
Sơ n (Long An), Đa Cai (Bình Thuận),
V ĩ nh Hưng (Cần Thơ ), Đại Làng, Cát Tiên
(Lâm Đồng), Oc Eo – Ba Thê (An Giang)
.v.v… Đặc biệt, nhiều đoàn công tác đa
quốc gia đượ c thiết lậ p giữa Việt Nam và
Nhật Bản, Úc, Mỹ, Anh, Đức, New
Zealand, Thái Lan, Campuchia…, để khai
quật Trà Kiệu, Hội An, các “Thánh địa”
thươ ng cảng xưa; các lò gốm Hợ p Lễ, Gò
Sành, Chu Đậu hoặc hợ p tác “ Khảo cổ học
d ướ i nướ c” tr ục vớ t tàu đắm dướ i đáy biển
Việt Nam để nghiên cứu gốm cổ Việt Nam
trong mối quan hệ thươ ng mại Đông Nam
Á và Châu Á, các chươ ng trình trùng tutháp Champa vớ i chuyên gia Balan, nghiên
-
8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A
14/29
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 10, SỐ 09 - 2007
Trang 49
cứu bảo tồn “ Di sản văn hóa Thế giớ i” ở
Huế và Hội An… Chính xu thế tất yếu mở
r ộng tầm nhìn ra Đông Nam Á và thế giớ i;
vị trí và thành tựu nghiên cứu chuyên
ngành – liên ngành Việt Nam học là cơ sở
để “mở cử a” đối ngoại, đón nhận cơ hội
hợ p tác nghiên cứu chuyên sâu hữu hiệu
hơ n, chứng tỏ uy tín học thuật Việt Nam
trên tr ườ ng Quốc tế , học hỏi đúc rút kinh
nghiệm liên hiệ p nghiên cứu – hợ p tác
chuyên ngành – đa ngành từ nửa thế k ỷ
qua và khơ i mở những chân tr ờ i mớ i cho
chính các khoa học xã hội và nhân văn của
dân tộc. Sự liên hiệ p nghiên cứu làmnguồn liệu vật chất liên quan đến thờ i tiền
sử – sơ sử Đông Nam Á tăng thêm mau
chóng, vớ i nhiều chuyên khảo tổng k ết về
những chươ ng trình điền dã nghiên cứu lớ n
như: “Tiề n sử Mã Lai” [56], “Tiề n sử
Borneo” [27]; “Các hang Tabon” trên đảo
Palawan [19]; “ H ậu k ỳ thờ i đại Đá ở miề n
Đông Indonesia” [20].
Đặc biệt, là các thành quả hợ p lực
nghiên cứu của những phái đoàn điều tra
tổng hợ p quy tụ chuyên gia Đại học nhiều
nướ c Thái, Anh, Mỹ, New Zealand, Nhật
Bản, Indonesia trong các hang động, làng
mạc, ngh ĩ a địa nổi danh trên đất Thái, vớ i
những khám phá gây chấn động thế giớ i
học thuật trong nhiều thậ p k ỷ, khở i sự từ
cao nguyên Cò R ạt (Thái Lan). Những phát hiện Thái Lan đượ c coi là “bấ t ng ờ
nhấ t Châu l ục” đầu tiên là k ết quả khai
quật Hang Ma (Spirit Cave) vớ i các chứng
cứ về sự xuất hiện sớ m nhất Thế giớ i của
nông nghiệ p nguyên thủy Đông Nam Á
của C.F.Gorman ở Khoa Nhân học Tr ườ ng
Đại học California [22]; cho đến vết tích
Ban Chiang – Nonnok Tha về cuộc “Cách
mạng luyện kim” Đông Nam Á sớ m hơ n cả
Lưỡ ng Hà, An Hằng [23]. Những khám
phá bất ngờ đến từ Thái Lan và các tiểu
vực đượ c ví như thứ “ Ánh sáng mớ i d ọi
vào quá khứ bị lãng quên”[52], đã khiến
cho bức tranh văn hóa tiền sử – sơ sử Đông
Nam Á tr ở thành “ M ột bứ c khảm nhữ ng ấ nt ượ ng” (A Mosaic of Impressions), gây nên
không khí tranh luận học thuật nóng bỏng
chưa từng thấy, từ ngọn nguồn cuộc sống
đến các phát minh khoa học có tính cách
mạnh trong diễn trình tiến hóa qua
“ Ng ưỡ ng cử a” của Văn minh đầu tiên.
Đã xuất hiện khá nhiều luận thuyết
mớ i, những mô hình mớ i phục dựng khác
truyền thống bức tranh văn hóa từng tiểu
vực và hy vọng khái quát toàn cảnh Đông
Nam Á, từ mô hình 4 thờ i k ỳ nảy mầm
(Germinal), thành hình (Formative), Chớ m
nở (Incipient), Xuất hiện (Emergent) mà
F.Landa Jocano xây dựng cho Philippines
(1967); Mô hình 2 truyền thống khu vực
bảo thủ và cách tân (Conservative and
Innovation Areal Traditions) ở Đông NamÁ của F.Dunn [16]; Mô hình của
-
8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A
15/29
Science & Technology Development, Vol 10, No.09 - 2007
Trang 50
B.Peacock (1971) ứng dụng cho Mã Lai;
Mô hình mà P.Bellwood [3] về 4 giai đoạn
tr ướ c gốm (Preceramic), Đá mớ i
(Neolithic), Sơ k ỳ và Hâu k ỳ Kim khí
(Early and Late Metal) hình dung ở hải đảo
Đông Nam Á từ 1 vạn năm tr ở lại; Các mô
hình về: “Con đườ ng phát triể n thờ i đại
Đá cũ” và “2 con d ườ ng Đá mớ i hóa ở
Đông Nam Á ” dành riêng cho vùng đất liền
và miền hải đảo; Mô hình “Gỗ ” (Lignic)
và “Tre-Karst” (Bamboo-Karst ) của Hà
Văn Tấn [25], G.G.Poppe (1983), cùng các
lý thuyết “Phản mô hình” vớ i Kael
L.Hutterer (Đại học Michigan) là đại biểuchống các luận điểm về sự phát triển văn
hóa đồng nhất và nhấn mạnh sự phát triển
không đồng đều trong từng tiểu vực Đông
Nam Á.
Ngườ i đượ c mệnh danh là “Ông già
Đông Nam Á ”, vị chủ tịch tổ chức quốc tế
nghiên cứu tiền sử Châu Á – Thái Bình
Dươ ng là GSTS Wilheim Solheim ở Đại
học Hawai, đánh giá r ất cao phát hiện mớ i
và yêu cầu phải có “Cái nhìn mớ i về Tiề n
sử Đông Nam Á ”. Ông chính là tác giả đề
xuất nhiều luận điểm táo bạo đến mức:
Nếu thất bại của Mỹ ở Đông Dươ ng mở
mắt cho nhiều ngườ i Phươ ng Tây về Đông
Nam Á, thì phát hiện khoa học mớ i cũng
có tác dụng lớ n lao chẳng kém, bở i r ằng
những bướ c tiến đến văn minh có thể xuất phát từ Đông Nam Á. Ngay từ 1967, ông
trình bày sự ra đờ i sớ m của nhiều thành
tựu văn hóa cổ Đông Nam Á như nghề
tr ồng tr ọt, thuật luyện kim, nghề làm gốm
và k ỹ nghệ đóng thuyền… Vớ i niên biểu
nông nghiệ p tớ i 15.000 năm, ông cho r ằng
Đông Nam Á từng chứng thực những
ngườ i nông dân nguyên thủy Hòa Bình làm
một cuộc “Cách mạng Nông nghiệ p”
(Agricultural Revolution) sớ m nhất hành
tinh; chủ nhân văn hóa Hòa Bình là cư dân
tr ồng tr ọt sớ m nhất trên thế giớ i và là
ngườ i thợ gốm văn thừng từ 1 vạn năm về
tr ướ c; Các văn hóa Ngưỡ ng Thiều – Long
Sơ n bắt nguồn từ một “tiể u văn hóa”(Subculture) Hòa Bình và di động từ Nam
lên Bắc. Từ nhiều ngàn năm BC., ngườ i
Đông Nam Á bằng thuyền bè của họ đã
cậ p bến Đài Loan, Nhật Bản, mang đến
quần đảo Nhật nghề tr ồng Taro và nhiều
giống cây tr ồng khác. Khoảng 4000 năm
BC. Đông Nam Á sáng chế nghề luyện
kim đồng…. Khác tất cả những ngườ i đi
tr ướ c, ông lần tìm cội nguồn đầu tiên của
ngườ i Nam Đảo “ Nusantao” trong khối cư
dân chủ nhân k ỹ nghệ công cụ vỏ sò ở hải
đảo (Nam Philippines – Đông Indonesia)
mà từ đó họ lan tỏa khắ p hải phận Đông
Nam Á, những phân khu của Châu Đại
Dươ ng và thâm nhậ p sâu vào nội địa Đông
Nam Á, chứ không phải là ngượ c lại [52].
W.G.Solheim chống lại toàn bộ luậnđiểm của học giả Ao Heine Geldern, từ
-
8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A
16/29
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 10, SỐ 09 - 2007
Trang 51
những cuộc thiên di của ngườ i Nam Đảo
và ngườ i Tokhara từ Hắc Hải, đến các cội
nguồn Halstatt, Caucase, Kimmer phươ ng
Tây của văn hóa Đông Sơ n. Đoạn tuyệt các
mô hình giai đoạn cũ mô phỏng Châu Âu,
từ 1969, ông chủ tr ươ ng “ Làm l ại tiề n sử
Đông Nam Á ”, vớ i mô hình hoàn toàn mớ i
về chất trên khung sườ n các bậc thang tiến
hóa gọi là: Đá (Lithic); Gỗ (Lignic); K ết
tinh (Crystallitic); Mở r ộng
(Extensionistic) và Đế quốc xung đột
(Conflicting Empires). Sự hăng hái của
ông trong nhiều ý tưở ng bị không ít ngườ i
phê bình là thiếu thận tr ọng. Nhưng, vớ iviệc nhấn mạnh sự phát triển r ực r ỡ và
sáng tạo của văn hóa – văn minh Đông
Nam Á, thẳng thừng đoạn tuyệt vớ i quá
khứ miệt thị văn hóa Khu vực này, ông tr ở
thành đại biểu cho khuynh hướ ng “ phản
truyề n bá luận” trong lịch sử khảo cứu
văn hóa vật chất ở khu vực này [25], mà
động cơ lành mạnh đượ c ông phát biểu
ngay khi “ Làm l ại tiề n sử Đông Nam Á ”,
r ằng: “S ự khác biệt rõ ràng nhấ t giữ a sự
phục d ự ng của tôi và sự phục d ự ng truyề n
thố ng d ự a vào Heine Geldern là trong
phục d ự ng của tôi, cư dân Đông Nam Á là
nhữ ng ng ườ i cách tân, đ óng góp nhiề u cho
văn hóa Bắ c Trung Quố c và sự phát triể n
về sau của văn hóa đ ó; Đố i l ậ p vớ i việc coi
Đông Nam Á là một “ngõ cụt” (cut de sac)
mà nhữ ng đổ i mớ i và tiế n bộ đề u là t ừ
ngoài t ớ i”.
Cùng vớ i các luận thuyết, quan điểm
và không khí thảo luận, hợ p tác điền dã –
giám định, trao đổi k ết quả khảo cứu và
học thuật mớ i, Khảo cổ học hiện đại của
khu vực cũng chứng nhận sự xuất hiện
nhiều tổng k ết tiểu vực lớ n và chuyên khảo
vớ i những phươ ng pháp tiế p cận chuyên
ngành ở trình độ hiện đại và liên ngành
truyền thống khác như:
- Tiế p cận kinh tế học, khảo cứu các
chất lượ ng kiếm sống, mô thức sống của
cư dân tiền sử, sự chuyển tiế p từ nền kinh
tế khai thác tướ c đoạt của thiên nhiên sang
nền kinh tế sàn xuất, các mô hình kinh tế
tiền sử, tiêu chí về nội hàm của cách mạng
Đá mớ i – cách mạng nông nghiệ p ở Đông
Nam Á…; tiế p cận Sinh thái học, lý giải
đặc điểm văn hóa tiến sử Đông Nam Á
thông qua mối quan hệ giữa con ngườ i và
môi tr ườ ng sống, phân tích ảnh hưở ng của
các hệ sinh thái vớ i mô thức sống;
- Tiế p cận xã hội học, khảo sát vấn đề
dân số học tiền sử, phân tích xã hội học
qua tài liệu mộ táng, nghiên cứu các phân
tầng xã hội, tìm hiểu thành lũy và vấn đề
đô thị hóa… [25].
Là một chuyên ngành trong các khoa
học xã hội – Nhân văn kiếm tìm lý giải dấu
tích văn hóa vật chất cổ xưa trên lãnh thổ
và lãnh hải “mặt tiề n” bán đảo Đông
-
8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A
17/29
Science & Technology Development, Vol 10, No.09 - 2007
Trang 52
Dươ ng ở trung tâm Đông Nam Á nơ i vị
thế “C ử a ngõ” (Gateway) của giao lưu
văn hóa địa vực nằm bên và khác biệt Ấn –
Hoa [49] – nơ i “ Ngã ba đườ ng của các nề n
nghệ thuật” (Le Carrefour des Arts – [24] )
hoặc “ Ngã ba đườ ng của các t ộc ng ườ i và
văn minh” (Carrefour de peuple et de
civilisation – [34]), nền Khảo cổ học khai
sinh cùng đất nướ c Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa, thực thi nhiều công trình
chuyên khảo và tổng hợ p, góp phần tích
cực trong sự hình thành phát triển lịch sử
Văn hóa – Văn minh Khu vực, góp nhiều
thành tựu cho bức tranh tiền sử – sơ sử Đông Nam Á, đượ c nhiều học giả uyên bác
trên thế giớ i thừa nhận [3; 22; 31; 38; 51;
52]; vớ i nhiều công trình chuyên khảo và
tổng hợ p về Lịch sử sáng tạo văn hóa, hun
đúc văn minh, trau dồi bản l ĩ nh Việt Nam
[26; 57; 58; 35; 50…], minh định từ hàng
tr ăm công trình TS Sử học, Nhân học,
Khảo cổ học, Văn hóa học và các chuyên
khảo về các văn hóa Phùng nguyên, Đồng
Đậu, Gò Mun, Đông Sơ n, Xóm Cồn,
Quảng Nam – Đà Nẵng, Sa Huỳnh, Dốc
Chùa, Bưng Bạc, Đồng Nai, Óc Eo,
Champa, Bàu Tró, Quỳnh Văn, Hòa Bình,
Bắc Sơ n, Núi Đọ , Thần Sa, Châu Can,
Việt Khê, Lũng Hòa, Cổ Loa, Trà Kiệu.
Khảo cổ học thờ i đại Đá và thờ i đại Kim
khí, chuyên khảo về nghề chế tác trang sứcđá, đồ thủy tinh, đồ sơ n, tr ống đồng Đông
Sơ n ở Việt Nam và Đông Nam Á, đàn đá
Bình Đa, Lộc Hòa, 3 thậ p k ỷ Tạ p chí
chuyên ngành, 38 tậ p k ỷ yếu thườ ng niên
đồng thờ i cũng là ngành khoa học duy nhất
ở Việt Nam duy trì thườ ng niên sinh hoạt
khoa học toàn quốc.
Chính đặc điểm coi tr ọng nghiên cứu
truyền thống dân tộc, khơ i dậy những giá
tr ị văn hóa vật chất, tinh thần cao đẹ p cổ
xưa để thấu hiểu cuộc sống con ngườ i hôm
nay và nhận thức thờ i cuộc Việt Nam trong
tr ườ ng k ỳ lịch sử trong quan hệ Đông Nam
Á, đã cho phép khảo cổ học Việt Nam tìm
hiểu “tính Đông Nam Á ” trong các văn hóatiền sử – sơ sử Việt Nam trong bối cảnh
đại đồng về nhân chủng, ngôn ngữ tộc
ngườ i và trình độ sáng tạo văn hóa từ cuộc
sống mông muội thờ i đại Đá, đến các sự
nghiệ p phát minh v ĩ đại ra cây tr ồng, vật
nuôi, thuật chế luyện kim khí và “Cách
mạng ” cuộc sống nguyên thủy, vững bướ c
đến văn minh sớ m. Qua các lần “ H ội t ụ”
tầm cỡ Hoà Bình và Đông Sơ n trên toàn
khu vực ấy, vận mệnh từng Nhà nướ c và
Dân tộc đầu tiên không tách r ờ i các tiểu
vực láng giềng. Nhà nghiên cứu Dân tộc
học sáng lậ p Trung tâmKhoa học Pháp
nghiên cứu Đông Nam Á Georges
Condominas đã biểu dươ ng quan điểm tìm
về nguồn gốc, thấm sâu, khai thác truyền
thống của chúng ta như “có giá tr ị thứ ct ỉ nh” giớ i nghiên cứu Âu Mỹ đang xa r ờ i
-
8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A
18/29
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 10, SỐ 09 - 2007
Trang 53
phươ ng châm cơ bản của Triết học Hy
Lạ p, cội nguồn của tư tưở ng Nhân văn
Phươ ng Tây: “ Hãy t ự mình biế t mình”. Nữ
tiến s ĩ Mỹ Jane Werner “đ ánh giá nhận
thứ c cần nghiên cứ u Việt Nam trong quan
hệ mật thiế t vớ i Đông Nam Á như một phát
hiện xuấ t sắ c và một đ óng góp quý giá cho
khoa học của Khoa học Xã hội Việt Nam”
[50].
Những nhận thức đáng giá khác mà
Khảo cổ học Việt Nam và Đông Nam Á
thu nhận đượ c trong giai đoạn phát triển ở
trình độ hiện đại tựu trung là:
1.
Những bằng chứng vật chất minh
định Đông Nam Á là một trong những cái
nôi đầu tiên có tuổi vào loại xưa nhất trong
lịch sử nhân hóa từ vượ n ngườ i Homo
Erectus đến loài ngườ i Homo Sapiens, là
một trung tâm thực hiện bướ c nhảy vọt
Sapiens hóa trong tuổi thơ Nhân loại, khi
bắt đầu biết chế tác công cụ Đá thô và lao
động đến phát minh nông nghiệ p “Cách
mạng ” cuộc sống nguyên thủy, ở những
chặng đườ ng lớ n từ Lampang, Núi Đọ,
Xuân Lộc, Biển Hồ, Anyath, Kota
Tampan, Patijitan …, qua “ Lần hội t ụ” đầu
tiên Sơ n Vi – Hòa Bình, đến các “V ườ n
ươ m” thành tựu văn minh kim khí từ hậu
Đá [25]. Từ các nhân cốt của ngườ i vượ n
Java đầu tiên ở hải đảo, các Homo
Soloensis và ngườ i Mã Bá Quảng Đôngmang các đặc điểm Neandertal ở Đông
Nam Á có thêm các chứng cớ mớ i ở New
Gwe(1993), Modjokerto (1971-1994),
mảnh tướ c đi kèm cốt sọ Sambungmachan
(Jacob 1975), Ngebung (Semah 1992);
Những vết tích hóa thạch vượ n nhân hình
Ramapithecus niên đại Miocene đầu tiên ở
Đông Nam Á tớ i khoảng 8 triệu năm, liên
quan vớ i cốt sọ Lufengpithecus khám phá
ở Lộc Phong, Nguyên Mưu (Vân Nam) gọi
là Driopithecus và Ramapithecus phát hiện
trong địa tầng sét nâu Cánh tân sớ m, cùng
3 công cụ thạch anh – hoạt động chế tác
cách nay cả triệu năm; đã gợ i mở hướ ng
tìm các linh tr ưở ng gần ngườ i các vùngthan nâu (lignite) Việt Nam. Sự hợ p tác mở
ra triển vọng kiếm tìm các phươ ng pháp
giải mã thông tin mớ i, để nghiên cứu tốt
hơ n và nhận thức đáng tin hơ n các nẻo
đườ ng nhân hóa chính những nguồn liệu
vật chất vốn có trong quá khứ khai đào
Đông Nam Á.
Văn hóa hậu k ỳ Đá cũ Sơ n Vi bổ
khuyết tri thức về cội nguồn văn hóa Hòa
Bình và việc xác lậ p k ỹ nghệ Ngườ m là
thành tựu lớ n cho nhận thức tiền sử cả
Đông Nam Á. Văn hóa Hòa Bình hiện
đượ c ghi nhận từ góc độ Địa – văn hóa là
cái nôi của Cách mạnh Đá mớ i ở Việt Nam
và Đông Nam Á, là bàn đạ p cho nền văn
minh nông nghiệ p đồng bằng châu thổ thờ i
Kim khí [56] cùng nhiều thành tựu chuyênkhảo – tổng hợ p nhận thức thờ i đại Đá Việt
-
8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A
19/29
Science & Technology Development, Vol 10, No.09 - 2007
Trang 54
Nam cống hiến cho khu vực và thế giớ i về
nhiều văn hóa Đá mớ i sau Hòa Bình (Bản
Môn (Sơ n La, Lai Châu; Soi Nhụ (Hạ
Long – Quảng Ninh); Cái Bèo ở đảo Cát
Bà; Hoa Lộc (Đa Bút – Thanh Hóa);
Quỳnh Văn ven biển Nghệ T ĩ nh; Bàu Tró
(Quảng Bình); Bàu Dũ (ven biển Quảng
Đà); Biển Hồ (Lung Leng, Tây Nguyên)
.v.v…, xứng đáng điểm danh bên cạnh các
khám phá khu vực như: Hang Ma (Thái
Lan), Hà Mẫu Đậu và Bành Đầu Sơ n (Nam
Trung Hoa) .v.v…
2. Đây cũng là một nơ i hiếm có trên
thế giớ i phát minh ra, cùng vớ i nôngnghiệ p, luyện kim, cuộc sống văn minh –
“ Lần hội t ụ Đông S ơ n” và định hình
“ Phong cách Đông S ơ n” (Dongsonian
Style) của toàn khu vực. Vớ i “S ự ra đờ i
của Việt Nam” [54] và nhiều quốc gia sơ
khở i trên tầng nền “ Môn cổ ” và văn hóa
các tộc ngườ i bản địa chung sắc màu của
một “V ăn minh thự c vật – V ăn minh nông
nghiệ p” khác Ấn – khác Hoa. Ngoài chuỗi
khám phá giàu tính “Cách tân” các lối ngh ĩ
hướ ng về lục địa già phía Tây của hành
tinh, một trong những thành tựu gây nhiều
“hư ng phấ n trí tuệ” Âu – Mỹ chính là nhận
thức của nền Khảo cổ học Việt Nam qua
nhiều thậ p k ỷ khám phá khảo cứu về 3
trung tâm k ết tinh Văn hóa – Văn minh
thờ i Kim khí: ĐÔNG SƠ N – SA HUỲ NH – ĐỒ NG NAI. Các phức hệ giá tr ị văn hóa
tiểu vực khẳng định từng trình độ sáng tạo
đặc sắc riêng, tạo thành nghệ thuật độc đáo
riêng, nhưng thống nhất trong bình diện
khu vực của “ phong cách Đông S ơ n” và
đều cách mạng nhờ các nỗ lực nội sinh
gắng sức đan hòa giữa các sự nghiệ p bảo
lưu giá tr ị truyền thống và đón nhận giá tr ị
ngoại sinh trong giao lưu hỗn dung đa
hướ ng để đổi mớ i và tiến bộ.
Trong nền Văn minh Sông Hồng,
những thành tựu ghi nhận sự phát triển của
nền nông nghiệ p dùng cày và sức kéo trâu
bò, tr ồng lúa nướ c quảng canh, cấu trúc hội
nguyên văn hóa đa tộc ngườ i giàu tínhnhân văn, sự hình thành sớ m giai cấ p và
nhà nướ c vớ i ý thức dân tộc giàu cá tính và
bản l ĩ nh mãnh liệt đã xây đắ p và gìn giữ
“nghiệ p xư a họ Hùng ”. Thờ i k ỳ này đượ c
minh định ở nhiều hệ thống tư liệu từ hàng
ngàn di tích của các văn hóa tiền Đông Sơ n
như Phùng Nguyên – Đồng Đậu – Gò
Mun đến “ Đỉ nh đ iể m Đông S ơ n” – “Bướ c
hội t ụ V ăn hóa” Đông Sơ n vớ i 275 di tích.
Thành tựu này đượ c nhiều học giả nướ c
ngoài kinh ngạc và quan tâm sâu sắc khi
tìm hiểu văn minh Việt cổ trong bình diện
giao tiế p văn hóa của Ban Chiang, Non
Nok Tha (Thái Lan), Đông Nam Á hải đảo,
văn minh Điền thờ i Hán (Vân Nam –
Trung Quốc), vớ i khu vực chế tác kim loại
Bắc Việt Nam bên cạnh khu vực sôngMékong. Thờ i k ỳ hình thành Nhà nướ c
-
8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A
20/29
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 10, SỐ 09 - 2007
Trang 55
Văn Lang của Vua Hùng, “S ự hình thành
Dân t ộc Việt” và “S ự ra đờ i của Việt
Nam” [2; 3; 12-15; 31; 38; 43; 45; 51-53;
54]. Về phức hệ di tích Sa Huỳnh, 90 năm
phát hiện và nghiên cứu di sản vật chất
vùng duyên hải Nam Trung Bộ (Việt Nam)
đã đưa lại nhiều nhận thức cơ yếu và thú vị
về các tộc ngườ i bản địa cư trú và sáng tạo
văn hóa hòa điệu vớ i khung cảnh thiên
nhiên hẹ p cả núi r ừng – trung du – đồng
bằng – hải đảo trên cơ tầng nông nghiệ p
duyên hải, nghề r ừng, nghề biển và phát
triển hàng hải trong quỹ đạo chung của
“một nề n V ăn minh biể n” (Prsylusky).Điều này đượ c minh định chính từ các văn
hóa tiền thân: Xóm Cồn, Long Thạnh,
Bình Châu, đến Sa Huỳnh, vớ i “ Không
gian giao l ư u văn hóa” ở tầm mức khu vực
và châu lục như: gốm tô mầu, khuyên tai
đá ngọc Nephrite có 3 mấu kiểu “ Lingling-
O” và có 2 đầu thú trong vòng lan tỏa của
“Truyề n thố ng táng t ục mộ chum” ở Việt
Nam, Đông Nam Á và Đông Á… [25; 49;
56]. Phức hệ Văn hóa Kim khí Đồng Nai
hình thành và phát triển trên cơ tầng kinh
tế sản xuất nông nghiệ p phát đốt nươ ng r ẫy
tr ồng lúa cạn và rau đậu, cây có quả, củ
cho bột, kinh tế khai thác lâm hải sản và sự
mở r ộng của lao động thủ công chế tác
công cụ, vũ khí, trang sức bằng đá và kim
loại, vật dụng gốm thô, kiến tạo các làngnội vùng, các trung tâm quần cư kinh tế,
chính tr ị hạt nhân đủ sức điều hành các
“Tiề n cảng thị” nơ i duyên hải khai triển
thông thươ ng và hoạt động giao lưu văn
hóa k ỹ thuật ngoại vùng. Vớ i các tr ống
đồng kiểu Đông Sơ n ở Nam Bộ, đàn đá
Bình Đa- Lộc Hòa, Qua Long Giao, mộ Cự
thạch Hang Gòn - những “ Hiện t ượ ng
Đồng Nai” trong lịch sử thăng tr ầm của
văn hóa và văm minh Đông Nam Á [49].
3. Trong diễn trình thăng tr ầm từ
“V ăn minh Thự c vật”, “V ăn minh nông
nghiệ p tr ồng rau-củ” đế n “V ăn minh lúa
g ạo”, đã hình thành từ r ất sớ m “tính Đông
Nam Á ” cho từng tiểu vực và cộng đồngtộc ngườ i để nhìn từ góc độ lịch sử văn hóa
vật chất là “ Phi Ấ n phi Hoa”. Đặc biệt thú
vị khi quan sát toàn thể “ Bứ c tranh khu
vự c”, hay ở từng phần tạm tách “đấ t liề n”
(Mainland) và “hải đảo” (Islands) [3; 31].
Hoặc giả chỉ riêng tr ườ ng hợ p Việt Nam
[25] vớ i tính cách thăng tr ầm riêng của
một “ Hiện t ượ ng Lịch sử ” (Historical
Phenomenon) trong diễn trình 2 thiên k ỷ
tr ướ c Công lịch. Từ các văn hóa nông
nghiệ p dùng cày và sử dụng sức kéo trâu
bò, sự phân hóa xã hội, trình độ sử dụng
địa hình, nhận thức sinh thái, văn hóa và
nghệ thuật, phong tục tậ p quán, tín ngưỡ ng
tôn giáo, tậ p tục ma chay, cách ăn mặc ở
pha tr ộn sắc tộc như búi tóc (Malayo), cắt
tóc ngắn (Môn Khmer), tết tóc (Mèo –Dao, Tạng – Miến), các giả định chủ nhân
-
8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A
21/29
Science & Technology Development, Vol 10, No.09 - 2007
Trang 56
và vòng hợ p nhất tộc ngườ i từ “tiề n Đông
S ơ n” (Phùng nguyên Tày cổ, Gò Con Lợ n
Nam Á cổ, Hạ Long Malayo), qua vòng
vận động Đồng Đậu - Gò Mun tr ội dần lên
yếu tố Tày – Thái cổ đến đỉnh cao k ết tinh
văn hóa Đông Sơ n, hình thành dân tộc Việt
cổ, vớ i Nướ c Văn Lang – Âu Lạc của Vua
Hùng và Vua Thục An Dươ ng Vươ ng thờ i
Đông Sơ n mang hình hài Nhà Nướ c sơ
khai đa tộc ngườ i [25; 48-50; 56]. Các biểu
tượ ng tuyệt vờ i của trí tuệ Việt cổ cô đúc
trong tr ống thạ p của Văn hóa Đông Sơ n –
nền văn hóa triển nở dọc các dòng chảy
lớ n như Hồng Hà, Sông Mã, Sông Lam từ ngọn nguồn đến cuối bể có ít nhiều dị biệt
nhưng mang giá tr ị “hồn nướ c” chung, hội
tụ các “ H ồn thiêng núi sông ” ngay từ buổi
bình minh của lịch sử dân tộc. Tính “ Đông
Nam Á ” của tiểu vực này trong không gian
và thờ i gian lan tỏa của tr ống Đông Sơ n
đượ c coi như là đỉnh cao hội tụ mớ i của
nhiều tộc ngườ i trên đất liền và toàn hải
đảo, từ những ý tưở ng đồng nhất thực thể
văn hóa có tr ống nơ i đây vớ i toàn bộ văn
hóa đồ đồng Đông Nam Á của Heine
Geldern [30] đến các cách hiểu về ảnh
hưở ng tầm khu vực của Đông Sơ n giớ i hạn
trong phong cách chế luyện Đồng khác Ấn
– Hoa [3], hoặc coi sự có mặt của tr ống
Đông Sơ n ở đó đây Đông Nam Á không
chỉ đơ n giản là vật phẩm thông thươ ng màcòn có thể như thứ “Quyề n tr ượ ng ” hoặc
“ Nghi tr ượ ng ” ban phong đi từ “Thủ đ ô
Phong Châu” của các Vua Hùng [38]. Từ
các văn hóa nông nghiệ p không dùng cày
hay phát đốt nươ ng r ẫy ở duyên hải Trung
Bộ – Sa Huỳnh “tiề n Chăm” và Nam Bộ –
Đồng Nai “tiề n Phù Nam”, các cư dân tiểu
vực đượ c hình dung về nhân học như loại
hình hỗn chủng pha màu Môn-Khmer,
Nam Á và Nam Đảo, cũng là các chủ nhân
ông xã hội có giai cấ p đầu tiên ngang thờ i
vớ i Văn Lang – Âu Lạc ở cực Nam Trung
Bộ và Nam Bộ Việt Nam. Hình hài các
Nhà nướ c sơ khở i ấy gắn liền vớ i các
“Chiefdams” hoặc các “ Kurung ” tiểu vực,theo các mạng lướ i phân quyền riêng cổ sơ
hơ n mô hình “V ươ ng ” và “ Lạc t ướ ng” –
“Lạc hầu”. Ở Nam Trung Bộ, theo dõi
trong bia ký, dân gian, nghệ thuật tạo hình
Chàm cổ, có thể đó là hình hài Nhà nướ c
đầu tiên cuả thủ l ĩ nh tối thượ ng của các thủ
l ĩ nh bộ lạc Dừa (Nari Kela Vamsa) và Cau
(Kramuka Vamsa) từ Quảng Nam – Bình
Định đến Khánh Hòa – Bình Thuận. Nhà
nướ c manh nha của quốc gia Lâm Ấ p Khu
Liên trong Thủy Kinh Chú, quốc gia Sri
Mara trong bia chữ Phạn sớ m nhất Đông
Nam Á Võ Cạnh vào cuối thế k ỷ 2 AD vớ i
đô thành Sư tử Sinhapara [25; 56]. Ở
Nam Bộ, đó là các chứng tích vật chất thờ i
Sơ sử liên quan đến “Văn hóa Oc Eo”, góp
phần minh giải cuộc chiến của các“ Kurung ” Nam Bộ cùng cuộc tình duyên
-
8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A
22/29
TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 10, SỐ 09 - 2007
Trang 57
Hỗn Điền vớ i nữ chúa Phù Nam Liễu Diệ p
ở đồng bằng châu thổ Mekong trong ảnh
hưở ng của văn hóa nghệ thuật tín ngưỡ ng
Tây Phươ ng Thiên Trúc theo chân các đạo
s ĩ Ấn Độ Giáo Bà La Môn tràn vào thế
giớ i hải đảo Đông Nam Á [49]. Trong bình
diện giao lưu lan tỏa “ Phong cách Đông
S ơ n” ở khu vực, ảnh hưở ng Văn minh đúc
tr ống đồng Việt cổ có vai trò quan tr ọng là
sự thật lịch sử hiển minh, đượ c nhiều
chuyên khảo lớ n phân giải như “tính Đông
Nam Á ” chung cho nhiều tiểu vực. Nhưng
sự phát triển độc lậ p có vai trò quyết định,
làm nên tính độc đáo của diện mạo, bảnsắc tiểu vực, có khuynh hướ ng phát triển
riêng, vớ i các “ Hào khí Đồng Nai – Sa
Hu ỳnh – Đông S ơ n” riêng cũng như bản
l ĩ nh khắc phục số phận lịch sử riêng của
từng cộng đồng dân tộc trong toàn Khu
vực.
4.
Qua đó, hình thành bản l ĩ nh
“chố ng đồng hóa”, để tr ườ ng tồn, phát
triển và tiế p tục sáng tạo văn hóa, xây đắ p
các “hồn nướ c” và bản l ĩ nh giữ gìn “hồn
nướ c”, tạo dựng khu vực thành “ Bứ c
khảm” giàu ấn tượ ng “Thố ng nhấ t trong đ a
d ạng” [48], phát sáng độc lậ p tr ướ c sức ép
của “2 khố i cư dân và văn minh khổ ng l ồ”
của nhân loại trên bình diện châu lục, mà
qua nhiều hiểm họa của tr ườ ng k ỳ lịch sử
lớ n có khi khôn lườ ng có khi đến khó tinkiểu cả “Thiên niên thuộc Bắ c”, kiểu họa
bành tr ướ ng quốc tế từng chiếm quá nủa
liên Châu lục Âu Á kiểu Nguyên Mông,
hay chịu cả thế k ỷ “Thuộc địa” thực dân
phát xít và đế quốc, “Ta” vẫ n là “Ta”.
5. Khảo cổ học Việt Nam và Khu vực
tr ướ c thềm Thiên k ỷ mớ i vớ i nhiều thử
thách mớ i và nhiều vận hội đổi mớ i, ứng
dụng nhiều thủ pháp điền dã, khảo cứu,
quan sát, lý thuyết và quan điểm triết học
chuyên ngành mớ i. Nhưng những giá tr ị
hữu ái của truyền thống giao lưu mật thiết
tự xa xưa vẫn còn nguyên và còn nguyên
hy vọng vẫn là quỹ đạo chung tr ướ c các
thách thức “Toàn cầu hóa”. Những đốitượ ng nghiên cứu nền tảng vẫn không hề
thay đổi – di tích lịch sử văn hóa vật chất –
là “trí nhớ ” của các dân tộc trong tr ườ ng
k ỳ lịch sử. Mục tiêu tối thượ ng của ngành
khoa học này vẫn không hề đổi: vẫn là
khoa học “mang đồng mang đ á tr ả l ại cho
cuộc số ng xư a”, vẫn là một chuyên ngành
của Sử học “nhắ c nhở chúng ta lao động là
nguồn g ố c của t ấ t cả , lao động d ũng cảm
và thông minh, lao động sản sinh ra mọi
đạo đứ c của con ng ườ i, mọi phẩ m giá của
dân t ộc” [50], vẫn thẫm đẫm chất nhân
văn khi khám phá quá khứ, hiểu biết văn
hóa – văn minh xưa để thêm nể kính tiền
nhân, tự hào quá khư, góp phần giáo
dưỡ ng lòng yêu nướ c và tình yêu lao động,
đào tạo thế hệ tr ẻ sáng tạo và gìn giữ “hồn
-
8/20/2019 Lich Su Van Hoa Vat Chat Thoi Tien Su Dong Nam A
23/29
Science & Technology Development, Vol 10, No.09 - 2007
Trang 58
nướ c” và đất nướ c “có hồn” hiện tại cho tươ ng lai.
THE PREHISTORIC MATERIAL CULTURES IN SOUTHEAST ASIA,A CENTURY OF THE COUNTRYSIDE & RESEARCH CONJUGATION
Pham Duc Manh
University of Social Sciences & Humanities, VNU-HCM
ABSTRACT : In the Prehistoric Time, Vietnam–a part of The Southeast Asian Central
Territory had a position named “Avant-Monde” among 2 “Civilization Cradles”: China and
India. In some recently decades, the study of activity traces of human in Vietnam closely
connecting the Southeast Asian Context is being the spread research tendency of “Vietnamese
Studies” scholars in the Universe. In this period, the quatity of discovered – excavated –
published monuments of material cultures in Southeast Asia rapidly increa