LỊCH SỬ GIÁO DỤC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/45.LichSuGiaoDucVietNam.docx · Web...
Transcript of LỊCH SỬ GIÁO DỤC VIỆT NAMsaomaidata.org/library/45.LichSuGiaoDucVietNam.docx · Web...
LỊCH SỬ GIÁO DỤC VIỆT NAMLỊCH SỬ GIÁO DỤC VIỆT NAM
(Giáo trình dùng cho sinh viên các trường Đại học và Cao đẳng Sư phạm)
Tác giả: TS. BÙI MINH HIỀN
LỚI NHÀ XUẤT BẢN
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, có nhiệm vụ đào tạo thế hệ
trẻ thành những người phục vụ đắc lực cho sự phát triển của xã hội. Mỗi quốc
gia có một nền giáo dục phục vụ cho lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội của mình.
Lịch sử phát triển giáo dục gắn liền với lịch sử phát triển của quốc gia. Khi xã
hội thay đổi thì mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục cũng
thay đổi nhằm đáp ứng những yêu cầu của thực tiễn xã hội. Việc nắm vững
lịch sử giáo dục nhằm phát huy những tinh hoa của nền giáo dục dân tộc là
một đòi hỏi bức thiết đối với những người làm công tác giáo dục.
Lịch sử giáo dục Việt Nam được coi là môn học cơ bản trong cương
trình đào tạo của khoa Tâm lí – Giáo dục – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
từ lâu. Những năm gần đây, sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng sư
phạm, những người làm công tác quản lí giáo dục được học tập và nghiên
cứu bộ môn này khá nhiều. Song cho đến nay chưa có một tài liệu nào được
viết một cách đầy đủ và có hệ thống về lịch sử giáo dục Việt Nam.
Có thể nói rằng, cuốn sách mà các bạn đang có trong tay là một giáo
trình viết một cách đầy đủ và có hệ thống về lịch sử giáo dục Việt Nam.
Giáo trình này được trình bày theo quan điểm thông sử và được cấu
trúc theo tiến trình phát triển của đất nước. Giáo trình gồm 8 chương.
Chương 1: Nền giáo dục dưới chế độ phong kiến Việt Nam
Chương 2: Nền giáo dục Việt Nam trong thời kì Pháp thuộc
Chương 3: Phong trào đấu tranh chống nền giáo dục nô dịch của thực
dân Pháp.
Chương 4: Nền giáo dục Việt Nam trong năm đầu tiên sau Cách mạng
tháng Tám
Chương 5: Giáo dục trong thời kì kháng chiến chông thực dân Pháp
xâm lược (1946 – 1954)
Chương 6: Giáo dục trong thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu
tranh thống nhất đất nước
Chương 7: Giáo dục Việt Nam trong thời kì đầu xây dựng CNXH trên
phạm vi cả nước (1975 – 1986).
Chương 8: Giáo dục Việt Nam trong thời kì đổi mới
Lịch sử giáo dục Việt Nam là giáo trình dùng cho sinh viên của trường
Đại học và Cao đẳng Sư phạm. Đồng thời nó cũng hữu ích cho các nhà quản
lí giáo dục, học lên cao học, nghiên cứu sinh và những ai quan tâm đến nền
giáo dục Việt Nam. Nhà xuất bản ĐHSP xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc
đông đảo.
Mặc dù là một người thông sử, đã có hơn một phần tư thế kỉ nghiên
cứu, giảng dạy về lịch sử giáo dục Việt Nam, song khó tránh khỏi những
khiếm khuyết nhất định. Nhà xuất bản và tác giả mong nhận được những ý
kiến đóng góp của các đồng nghiệp và đọc giả đông đảo để giáo trình ngày
một hoàn thiện hơn.
Nhà xuất bản ĐHSP
Chương 1. NỀN GIÁO DỤC DƯỚI CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN VIỆT NAM
1. Quá trình phát triển và những đặc điểm của chế độ phong kiến Việt Nam1.1 Quá trình dựng nước và giữ nước
Bằng nhiều thành tựu nghiên cứu của các ngành khoa học như khảo cổ
học, nhân chủng học, ngôn ngữ học..., các nhà khoa học đã đi đến kết luận
rằng: Việt Nam là một trong những cái nôi xuất hiện con người sớm nhất ở
khu vực Đông Nam Á. Ngay từ thời sơ kì đồ đá cũ nơi đây đã có con người
tối cổ sinh sống, quần tụ, đã có nền văn hoá rất sớm. Nhà nước đầu tiên
trong lịch sử Việt Nam là nhà nước Văn Lang (hay còn gọi là thời kì Hùng
Vương). Thời đại Hùng Vương được xác định trong thời kì nền Văn hoá
Phùng Nguyên, kết thúc là nền văn hóa Đông Sơn. Thời kì này những tộc
người sống ở vùng đồng bằng Bắc Bộ nước ta đang chuyển từ thời đại đồ đá
sang thời đại kim khí (khoảng trước Thiên niên kỉ thứ 2 trước Công nguyên).
Con người sống trong thời đại Hùng Vương là những cư dân đã định
cư từ lâu đời, sống chủ yếu bằng nghề nông (nền nông nghiệp lúa nước) và
còn biết nhiều nghề thủ công khác (chăn nuôi, đánh cá đan lát, xe sợi dệt vải,
đồ gốm), biết cả về kỹ nghệ đúc đồng. Theo truyền thuyết, thời đại Hùng
Vương có 18 đời vua.
Tiếp theo thời kì Hùng Vương là thời kì Âu Lạc (vào khoảng thế kỉ III
trước Công nguyên), tương ứng với thời kì này là nền Văn hoá đồng thau
phát triển rực rỡ. Đây là thời kì trước thời thuộc Hán. Hiện nay không có thư
tịch cổ ghi chép và để lại những tài liệu thành văn về thời kì này và chỉ có một
số tư liệu ít ỏi của Trung Quốc sau đó vài thế kỉ. Tìm hiểu thời kì này chủ yếu
dựa vào các truyền thuyết, các sự tích. Thời kì này tổ chức nhà nước đã
được hình thành rõ nét, đã có sự phân hoá giai cấp. Lịch sử gọi đây là thời
đại dựng nước, hình thành ý thức dân tộc Việt và khối cộng đồng đầu tiên
trong lịch sử Việt Nam.
Hiện nay chưa có những tư liệu lịch sử xác đáng để hiểu rõ hiện trạng
giáo dục thời kì này. Thông qua các tài liệu khảo cổ học như: những công cụ
lao động, những sản phẩm lao động, đặc biệt là kĩ thuật đúc đồng điêu luyện
với những nét văn hoa tinh xảo trên mặt trống đồng chứng tỏ trình độ thẩm mĩ
và văn hoá, kiến thức nghệ thuật của người Việt cổ đã đạt được ở một trình
độ khá cao.
Giáo dục bắt nguồn từ hoạt động lao động sản xuất, từ trong đời sống
sinh hoạt văn hoá, tín ngưỡng cộng đồng cũng trở thành một hiện tượng xã
hội đặc thù của người Việt cổ. Hình thức giáo dục là sự truyền thụ và trao đổi
trực tiếp những kinh nghiệm về lao động sản xuất, phân công lao động, sáng
tạo nghệ thuật, sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng... của các thế hệ nối tiếp, của
thế hệ trước cho thế hệ sau, của người lớn cho trẻ em, của cha mẹ cho con
cái. Đó là một hình thức giáo dục mang đậm tính chất cộng đồng làng xã,
mang đậm tính dân gian, được gọi là hình thức giáo dục tự nhiên.
Từ thế kỉ thứ II trước Công nguyên đến thế kỉ X nước ta bị các thế lực
phong kiến phương Bắc đô hộ (lịch sử gọi đây là thời kì 1000 năm Bắc
thuộc). Đồng thời đây cũng là một thời kì đấu tranh bền bỉ của nhân dân ta
nhằm gìn giữ, bảo tồn nền văn hoá dân tộc, chống lại sự đồng hoá và đô hộ
của phong kiến phương Bắc. Chính trong cuộc đấu tranh này mà giai cấp
phong kiến Việt Nam dần dần hình thành.
Trong thời kì này các chính quyền thống trị phương Bắc dùng nhiều
phương sách để truyền bá văn hoá Trung Hoa và Hán hoá người Việt. Những
hình thức nhà trường đầu tiên xuất hiện cũng vào thời kì này. Các viên Thái
thú như Tích Quang, Nhâm Diên (thế kỉ I), Sĩ Nhiếp, Ngu Phiêu (thế kỉ II) đã tổ
chức các học hiệu để truyền bá đạo Nho cho người Giao chỉ. Một số lễ nghi
Nho giáo bắt đầu được du nhập, Hán văn dần được đưa vào làm văn tự
chính thức trong các nhà trường. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh nhằm bảo tồn
nền văn hoá và bản sắc dân tộc, chống lại sự Hán hoá đã luôn được duy trì
và phát triển. Chữ Nôm (là chữ viết của dân tộc) được sáng tạo tuy không giữ
được vị trí độc tôn như chữ Hán song đó là một biểu hiện, một bằng chứng về
ý thức dân tộc. Đạo Phật được truyền vào Việt Nam, gắn với tinh thần người
Việt và bản sắc văn hoá người Việt trong những năm đầu Công nguyên. Bên
cạnh đó phương thức giáo dục trong cộng đồng làng xã cổ truyền vẫn được
duy trì và phát triển trước sự Hán hoá.
1.2. Quá trình phát triển và những đặc điểm cơ bản của chế độ phong kiến Việt Nam
Chiến thắng của Ngô quyền thắng quân Nam Hán năm 938 đã chấm
dứt 1000 năm đô hộ của phong kiến phương Bắc và mở ra một giai đoạn mới
trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. Từ đây giai cấp phong kiến đã
trưởng thành, nắm giữ sứ mệnh xây dựng, củng cố quốc gia phong kiến dân
tộc độc lập. Từ thế kỉ X cho đến giữa thế kỉ XIX là thời kì tồn tại, phát triển và
suy vong của chế độ phong kiến. Có thể phân thành 3 giai đoạn:
- Giai đoạn xây dựng, phát triển đi lên của chế độ phong kiến (thế kỉ X -
thế kỉ XV).
- Giai đoạn phát triển cực thịnh của chế độ phong kiến (thế kỉ XV – XVI)
- Giai đoạn suy vong của chế độ phong kiến (thế kỉ XVII - giữa thế kỉ
XIX, trước khi Pháp xâm lược).
Những đặc điểm cơ bản của chế độ phong kiến Việt Nam:
- Đặc điểm về hình thái tổ chức nhà nước: Ngay từ khi thành lập và
trong suốt quá trình tồn tại và phát triển, nhà nước phong kiến Việt Nam thể
hiện rõ nét là nhà nước phong kiến trung ương tập quyền. Hình thái tổ chức
nhà nước chịu ảnh hưởng nhiều của tổ chức nhà nước phong kiến Trung
Quốc. Song mức độ ảnh hưởng ít hay nhiều là tuỳ thuộc vào ý thức tự tôn và
tinh thần dân tộc của giai cấp phong kiến đương thời trị vị trong từng triều đại.
Điển hình cho chế độ phong kiến trung ương tập quyền là thời kì vua Lê
Thánh Tông trị vì vào thế kỉ XVI, đó là thời kì hoàng kim của chế độ phong
kiến Việt Nam.
- Đặc điểm xã hội: Hai giai cấp cơ bản trong xã hội phong kiến là giai
cấp quý tộc địa chủ phong kiến và giai cấp nông dân phụ thuộc. Mâu thuẫn cơ
bản trong chế độ phong kiến cũng chính là mâu thuẫn giữa hai giai cấp này.
Hàng ngũ quý tộc địa chủ phong kiến được đặc biệt ưu đãi. Từ thời Lê khi
chế độ khoa cử phát triển mạnh thì tầng lớp triều thần, quan lại đều do khoa
cử lựa chọn ra.
Trong thời kì xây dựng và củng cố quốc gia phong kiến dân tộc độc lập,
dân tộc ta đã tiến hành 4 cuộc kháng chiến lớn chống giặc ngoại xâm. Đó là:
Cuộc kháng chiến chống Tống do Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt lãnh đạo (thế kỉ
Xi); Cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông do vua tôi nhà Trần lãnh đạo
(thế kỉ XIII); Cuộc kháng chiến chống quân Minh do Lê Lợi lãnh đạo giành
chiến thắng oanh liệt ở thế kỉ XV và Chiến thắng Tây Sơn đánh tan 20 vạn
quân Thanh xâm lược thế kỉ XVIII. Các cuộc kháng chiến oanh liệt này đã
khẳng định ý chí tự lập, tự cường, tinh thần anh dũng bất khuất chống ngoại
xâm của dân tộc ta.
Giai cấp phong kiến trong những bước biến cố chống ngoại xâm
thường là người đại diện cho quyền lợi của nhân dân, dân tộc đứng lên nắm
giữ sứ mệnh lãnh đạo các cuộc kháng chiến chống xâm lược. Nhưng xét về
bản chất vẫn là giai cấp thống trị, bóc lột nhân dân lao động. Vì vậy trong quá
trình tồn tại của chế độ phong kiến vẫn luôn bùng nổ các cuộc khởi nghĩa của
nông dân chống lại các triều đại phong kiến khi nó ở vào giai đoạn suy vong,
tan rã và bộc lộ tính chất phản động. Đặc điểm này cũng ảnh hưởng đến sự
tồn tại, phát triển và suy yếu của nhà nước phong kiến trong lịch sử chế độ
phong kiến.
- Đặc điểm kinh tế: Kinh tế nông nghiệp, tự cấp tự túc là mô hình kinh tế
chiếm giữ địa vị thống trị trong chế độ phong kiến. Ruộng đất nằm trong tay
giai cấp địa chủ phong kiến, sở hữu tư hữu về ruộng đất chiếm vị trí chủ đạo,
ruộng đất công bị thu hẹp dần từ thế kỉ XV, XVI. Kinh tế công thương nghiệp
bắt đầu khởi sắc vào thế kỉ XVIII, đặt những tiền đề ban đầu cho sự phát triển
kinh tế hàng hoá nhưng không thể phát triển mạnh được do kinh tế tiểu nông
chiếm giữ địa vị chi phối lại phát triển hết sức chậm chạp, do chính sách ức
thương, bế quan toả cảng của các tập đoàn phong kiến kìm hãm.
2. Tư tưởng chủ đạo của nền giáo dục phong kiến Việt Nam Nho giáo là một học thuyết bao gồm các tư tưởng chính trị, đạo đức,
triết học, giáo dục do Khổng Tử là người sáng lập trong thời cổ đại Trung
Hoa. Nho giáo do Khổng Tử sáng lập còn gọi là Khổng giáo, là Nho giáo
nguyên thuỷ, khởi nguyên, sau này được các môn đệ đời sau phát triển lên.
Nho giáo có tới 8 dòng phái khác nhau, trong đó Mạnh Tử (385 - 304 trCN) là
môn đệ gần gũi nhất của Khổng Tử, được đứng tên chung với thầy, gọi là học
thuyết Khổng Mạnh. Đến đời Tống, Hán Nho do Đồng Trọng Thư đề xướng
đã phát triển thuyết "Mệnh trời" theo hướng duy tâm cực đoan và hệ thống
hoá thành các quan hệ luân thường đạo lí: "Tam cương", "Ngũ thường" và
được coi là những phạm trù đạo đức vĩnh hằng của chế độ phong kiến.
Chữ Nho bao gồm chữ “Nhân” ghép với chữ “Nhu” chỉ một phép bảo
mà mọi người đều cần. Nho giáo không hiểu theo nghĩa là một tôn giáo mà
hiểu theo nghĩa giáo hoá, giáo dục.
Nho giáo bao gồm 4 vấn đề cơ bản: thế giới quan duy tâm, quan niệm
về lịch sử, đạo đức, trị đạo.
- Thế giới quan duy tâm: Nho giáo tin là có trời (trời theo nghĩa tiếng
Trung được là Thiên). Trời là chủ thể của cả vũ trụ, trời chi phối mọi sự việc
trên thế gian bằng ý chí của trời, ý chí này gọi là “Thiên mệnh” hay “Đế
mệnh”.
“Thiên” chỉ một cái gì to lớn, cao xa. Vua được coi là Thiên Tử (con
trời). "Đế" chỉ cái làm chủ thể của muôn vật. Mệnh trời là một lực lượng siêu
tự nhiên, siêu phàm, chi phối tất cả nhân gian, quyết định hết thảy mọi sự
việc.
Ý chí của trời thì con người không thể cưỡng lại được. Tất cả mọi
người đều bị mệnh trời chi phối: giàu nghèo, sang hèn, yểu thọ của con
người, thịnh suy, an nguy của quốc gia đều do Mệnh trời chi phối. Như vậy,
quan niệm duy tâm về số mệnh, mệnh trời của Nho giáo hình thành và bị giai
cấp thống trị lợi dụng để phổ biến, trở thành một quan niệm chính thống,
được chấp nhận trong xã hội phong kiến trước đây.
Bên cạnh trời còn có quỷ thần, quỷ thần là linh khí, là khí thiêng trong
trời đất, cũng là một lực lượng siêu tự nhiên, mắt ta không nhìn thấy, tai ta
không nghe thấy. Nhưng quỷ thần bao quát được tất cả, nó luôn ở trên đầu,
bên phải, bên trái ta.
Cả trời và quỷ thần đều hết sức anh minh và chính trực, cho nên đối với
quỷ thần thì con người phải kính cẩn và thành thực. Dần dần kính và thành
trở thành cái gốc luân lí của đạo Nho. Cái gốc luân lí này thẩm thấu vào văn
hoá tín ngưỡng dân gian, trở thành cái gốc đạo đức luân lí của người Việt
Nam.
- Quan niệm về lịch sử: Các nhà nho ở thời kì nào cũng có một kì vọng
lớn là kinh bang tế thế, "tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ", tham gia vào
việc trị nước làm cho Quốc thái dân an, giúp đỡ cho đời. Đó là trọng trách và
vận mệnh của nhà nho.
Các nhà nho luôn luôn tin vào lịch sử, bao giờ cũng dựa vào lịch sử,
vào kinh nghiệm của lịch sử để chứng minh cho đạo đức và trị đạo của mình.
Phàm là nhà nho bao giờ cũng ham mê đọc sách thánh hiền, thông
thuộc kinh sử (cái học của nhà nho là sôi kinh nấu sử), thuộc và am hiểu các
điển tích lịch sử. Khi làm văn, bình thơ, đàm đạo bao giờ cũng dùng các điển
tích lịch sử, viện dẫn lịch sử, lấy đời xưa để răn đời nay.
- Quan niệm về đạo đức: Đây là vấn đề cơ bản nhất của Nho giáo.
Người ta không coi Nho giáo là một thứ tôn giáo, và cũng không coi Nho giáo
là một học thuyết triết học, vì Nho giáo không đề cập nhiều đến các quy luật
của tự nhiên, của vạn vật (như học thuyết của Lão Tử), không bàn nhiều về
linh hồn, về việc con người sau khi từ giã cuộc đời sẽ sống như thế nào ở thế
giới bên kia (như Phật giáo tin là có kiếp luân hồi, Thiên chúa giáo tin là có
Thiên đàng, con người có thể lên cõi cực lạc). Hạt nhân cơ bản của Nho giáo
là nói về đạo đức, các quan niệm và giá trị đạo đức, các quan điểm đạo đức
này chi phối và chỉ đạo đường lối trị nước, và hình thành đạo đức của xã hội.
Nho giáo cũng không chú trọng các vấn đề tri thức, hay phát triển trí tuệ. Do
đó cái học của Nho giáo thiên về đào tạo những hiền nhân, hiền giả, còn cái
học của các nhà tư tưởng cổ đại phương Tây thiên về đào tạo các bậc trí giả
là vậy.
Thứ nhất, Nho giáo chủ trương lấy đức để trị nước. Đức ở đây là đạo
đức của nhà vua, của Thiên tử (Minh quân). Vua có đức thì dân được hạnh
phúc, vua không có đức thì dân phải chịu nhiều tai hoạ, kể cả những tai hoạ
của thiên nhiên. Nội dung của đức là phải thực hiện được 3 điều (theo Khổng
Tử) “Thứ, Phú, Giáo” (làm cho dân cư đông đúc, kinh tế phát triển, dân được
học hành).
Khổng Tử nói: "Vi chính dĩ đức, thì như Bắc thần, cư kì sở nhi, chúng
tinh củng chi". Dịch là: "Làm chính trị, trị dân một nước thì chỉ cần có đức là
vũ trụ hoà hợp, ví như sao Bắc thần cứ đứng một chỗ, còn các sao khác thì
chầu vào". Tư tưởng trị nước của nho gia trái với tư tưởng của phái pháp gia.
Pháp gia cai trị bằng pháp luật, dùng hình phạt hà khắc để trị dân.
Thứ hai, đạo đức của Nho giáo cô đọng ở 2 chữ: "Luân, thường" hay
"Cương, thường".
"Luân" là ngũ luân, bao gồm 5 mối quan hệ: Vua tôi, cha con, anh em,
vợ chồng, bè bạn. Năm mối quan hệ này là cái gốc đạo đức của Nho giáo.
Ngũ luân rút lại còn 3: Vua tôi, cha con, vợ chồng (gọi là tam cương), tức là 3
mối quan hệ rường cột của chế độ phong kiến. Nho giáo quy định rõ phép tắc
cư xử, quy định trách nhiệm, bổn phận của các mối quan hệ này.
Quan hệ vua tôi biểu hiện ở chữ Trung (trung quân, trung với vua).
Quan hệ cha con biểu hiện ở chữ Hiếu (đạo hiếu). Hiếu là trách nhiệm,
tình cảm, nghĩa vụ đạo đức của người con đối với công lao nuôi dưỡng sinh
thành của cha mẹ.
Quan hệ vợ chồng biểu hiện ở sự phụ thuộc của người vợ với người
chồng mà từ đây làm nảy sinh ra thuyết "tam tòng". Thuyết này quy định thân
phận thấp kém của người phụ nữ trong xã hội và trói buộc họ trong- khuôn
khổ chật hẹp của mối quan hệ gia đình trong suốt hàng ngàn năm dưới chế
độ phong kiến.
“Thường” tức "Ngũ thường", biểu hiện ở năm đức tính của người quân
tử “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín”. Có được năm đức tính này thì người quân tử
trở thành người hiền. Đó là con người mẫu mực của chế độ phong kiến. Theo
quan niệm của Nho giáo, hạt nhân của đạo đức là chữ Nhân, biểu hiện cụ thể
của nhân là Lễ.
- Trị đạo: Nguyên tắc trị đạo của Khổng Mạnh, của Nho giáo là "chính
danh", "lễ trị", "nặng đức", "nhẹ hình".
"Chính danh": Định rõ danh phận, chức vị và danh phận phải phù hợp
với chức năng và cương vị. Người nào có vị thế của người đó, trên ra trên,
dưới ra dưới theo trật tự phân minh "Quân quân, thần thần, phu phụ, tử tử",
(vua phải đạo vua; tôi phải đạo tôi, cha phải đạo cha, con phải đạo con). Mỗi
người phải làm theo đúng nghĩa vụ và bổn phận của mình, dưới không được
lấn trên, trên không được át dưới.
Vua phải anh minh, chính trực (Minh quân), tôi phải lương tức là phải
trung và lương thiện.
“Vua phải đạo vua, tôi phải tôi
Vua tôi ngàn thuở sánh nên đôi
Minh - Lương hai chữ vầy trên dưới
Nước trị nhà an, bốn bể vui”.
Lễ trị: Lễ là những quy phạm đạo đức quy định những phép tắc cư xử
trên dưới, và những lễ nghi cần tuân thủ trong đời sống xã hội phong kiến.
Trong mối quan hệ giữa Nhân và Lễ thì nhân là nội dung của lễ, lễ là hình
thức của nhân, nhân là chuẩn tắc để quy định lễ, lễ là phương tiện để thực
hiện nhân. Khổng Tử cho rằng trái lễ là kẻ bất nhân, vì vậy ông chủ trương
"Chớ xem điều trái lễ, chớ nghe điều trái lễ, chớ nói điều trái lễ, chớ làm điều
trái lễ".
Lễ nghi phong kiến quy định: các tục lệ thiết triều của vua, sắc phục,
quần áo của các phẩm hàm quan tước trong triều, các thủ tục ma chay cưới
xin, ăn hỏi...
3. Hệ thống tổ chức của nền giáo dục phong kiến Việt Nam Trong suốt hơn 1000 năm tồn tại của chế độ phong kiến, có hai loại hệ
thống tổ chức giáo dục song song tồn tại, đó là giáo dục của nhân dân, của
cộng đồng làng xã, với hệ thống trường học thầy đồ và tổ chức giáo dục của
nhà nước phong kiến với hệ thống các trường công được thành lập ở cấp
trung ương và một số địa phương.
3.1. Trường học thầy đồ
Trường học thầy đồ là một loại trường được lập ra ở nông thôn, ở các
làng xã. Đây là loại trường tư thục do các thầy đồ, thầy khoá lập ra để thu hút
con em nhân dân trong vùng đến học, hoặc do một người thường là giàu có,
có điều kiện đứng ra mở lớp, mời thầy về dạy cho con em mình và những trẻ
em cùng xóm, cùng làng.
Lớp học thường đặt tại nhà thầy hoặc nhà dân, thu hút trẻ em độ tuổi từ
7 tuổi trở lên, và cả những người đã trưởng thành, tạm chia làm 4 loại trình
độ:
+ Lớp vỡ lòng: Học tập đọc, tập viết chữ.
+ Lớp tiểu tập: Sáu khi học chữ, học trò đã có thể làm được câu đối
+ Lớp trung tập: Hàng ngày đến nghe giảng sách, hàng tuần có buổi
tập làm văn.
+ Lớp đại tập: Học trò phần nhiều là những người lớn tuổi, là những
người đã thi đến tam tứ trường thi mà vẫn chưa đỗ. Học trò ở các lớp có trình
độ này học để tham gia vào các kì khoa cử. Thầy dạy ở những lớp đại tập
phần nhiều là những nhà khoa bảng lớn có tên tuổi trong vùng.
Tổ chức lớp học: về số lượng học sinh không có sự quy định cụ thể,
lớp ít có thể 20 - 30 học sinh, lớp đông có thể lên tới 40 - 50 em, tuỳ vào tiếng
tăm của thầy. Nếu thầy giỏi, nổi tiếng thì có nhiều người gửi con em theo học.
Lớp học không có quy định về khai giảng, kết thúc, học sinh muốn vào lớp lúc
nào cũng được, tuỳ theo thầy có nhận vào học hay không. Thường là thầy
hoặc người mở trường chọn một ngày nào đó là ngày lành tháng tốt để mở
trường. Buổi lễ mở trường được tổ chức tương đối long trọng? Gỗ hương
hoa, xôi thịt, rượu, trầu cau làm lễ thánh. Lớp học có thể đặt tại nhà thầy hoặc
tại nhà dân, có một cái phản hoặc án thư giữa nhà, trò trải chiếu ngồi dưới
đất. Thầy ngồi trên phản (bên cạnh có một cái thước hoặc roi mây có tráp
đựng bút nghiên, sách vở của thầy).
Mỗi năm trò phải đóng 4 quan tiền và đóng góp 3 cái tết (Tết Nguyên
đán, Tết mồng 5 tháng 5, Tết mồng 10/10 là Tết cơm mới). Mức đóng góp
bao nhiêu, hình thức là tiền hay hiện vật là tuỳ tâm, do lòng thành và kính của
trò đối với thầy.
Tài liệu học tập: Thông thường là các sách kinh điển của Nho gia, các
bài văn, bài thơ của các vị Tiến sĩ đã thi đỗ trước đó. Ngoài ra còn có các loại
sách luân lí (có từ đời nhà Trần).
Ví dụ: cuốn "Bảo hoà điện dư bút" của nhóm vua quan nhà Trần ghi
chép những câu hỏi và lời giải đáp hàng ngày về những chuyện cũ dùng để
dạy cho con vua. "Tập gia huấn" viết bằng quốc âm. Nội dung gồm những
điều dạy bảo, khuyên răn thiết thực, dạy bảo cho học trò biết tu dưỡng và
tuân thủ những nguyên tắc đạo đức giáo lí của chế độ phong kiến.
Loại “Tập làm văn”: gồm các sách chuyên trình bày về cách thức làm
văn, làm thơ, làm phú ở trường cũng như lúc đi thi.
Loại sách bộ môn cơ bản: Về toán học có "Đại hành toán pháp của
Lương Thế Vinh (đỗ Trạng nguyên năm 1463). "Lập hành toán pháp", của Vũ
Hữu (đỗ Hoàng giáp năm 1463). Về Lịch sử có cuốn “Quốc sử tiểu học” của
Phạm Đình Hổ; “Tiểu học Bắc sử lược biên” của Nguyễn Thái Tích. Về Địa lí
có “Nam quốc địa dư giáo khoa thư”, của Lương Trúc Đàm.
Phương pháp dạy và học: Phương pháp thầy đọc, trò chép, học thuộc
lòng cổ sử, cổ văn, học thuộc lòng những lời nói của cổ nhân, thánh hiền
được coi là mẫu mực, khuôn vàng thước ngọc cho đối nhân xử thế. Kỉ luật
học tập chủ yếu được duy trì bằng roi vọt, đánh mắng. Hình ảnh thầy đồ ngồi
trên tấm phản, tay cầm roi mây là biểu tượng quen thuộc của các lớp học thời
phong kiến, và phương pháp này được duy trì mãi cho đến trước Cách mạng
tháng Tám ở một số nơi.
3.2. Một vài trường học nổi tiếng
- Trường của thầy Chu Văn An ở xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, ngoại
thành Hà Nội. (1292 - 1370), đời nhà Trần. Trước khi vào làm quan Tư nghiệp
Quốc tử Giám ở trong triều ông đã mở một ngôi trường làng bên bờ sông Tô
Lịch, thu hút học trò bốn phương đến học. Học trò của ông có nhiều người đỗ
đạt làm quan to trong triều như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát… Ngày nay mộ và
đền thờ Chu Văn An được xây ở Chí Linh - Hải Dương.
- Trường của thầy Trần Ích Phát (thế kỉ XV, huyện Chí Linh, Hải
Dương). Ông đã từng đỗ giải Nguyên nhưng không ra làm quan, mà mở
trường dạy học ở quê nhà. Số học trò của ông thành đạt, đỗ đạt trong các kì
khoa cử chiếm tới 1/2 số quan lại trong triều Hồng Đức.
- Trường Nghi Am của thầy Nhữ Bá Sỹ thế kỉ XIX (1788 - 1867), đã
từng làm tới đốc học tỉnh Thanh Hoá rồi cáo quan về nhà mở trường bên bờ
sông Nghi (do đó gọi là trường Nghi Am). Ông đã viết cuốn "Nghi Am học
thức" trình bày quan niệm về việc học tập và giảng dạy của thầy và trò. Ông
cho rằng "Bệnh dối trá là căn bệnh nặng hại nhất mà người đi học cần phải
tránh, do vậy cần phải trau dồi đức tính trung thực". Còn người thầy phải tự
mình trau dồi một vốn kiến thức và học vấn sâu sắc, uyên thâm và rộng mới
có thể đi dạy được người khác. Việc học này có thể qua sách vở, qua đồng
nghiệp, qua làm việc trong nghề, học để làm những việc có ích cho đời chứ
không phải chỉ là học văn chương, sách vở.
- Trường học của thầy Vũ Tòng Phan (trường Hoàn Kiếm) trong tập
“Bóng nước Hồ Gươm”
- Đặc biệt còn có một vài trường của các nữ giáo viên như trường của
bà Ngô Chi Lan (thế kỉ XV), ở Kim Hoa, Đông Anh, Hà Nội ngày nay. Bà vừa
là một nhà giáo có tài văn chương lại có tài âm nhạc, sau được vua Lê Thánh
Tông tặng danh hiệu “Phù gia học sĩ” chuyên trách dạy dỗ cung nữ trong
triều. Trường của bà Đoàn Thị Điểm (thế kỉ XVIII, người làng Hiệu Phạm,
huyện Văn Giang, mở trường ở huyện Mỹ Hào - Hải Dương), biệt hiệu là
Hồng Hà nữ sĩ. Đây là một hiện tượng đặc biệt, vì nền giáo dục phong kiến
gạt phụ nữ ra khỏi giáo dục, phụ nữ không được hưởng giáo dục, không
được đến trường.
Trường học thầy đồ tuy không phải là tổ chức giáo dục của nhà nước
nhưng lại là cơ sở của nền giáo dục phong kiến, bởi vì cơ sở tồn tại và gốc rễ
căn bản của nó là phục vụ cho tuyệt đại bộ phận tầng lớp nhân dân lao động.
3.3. Trường công
Dưới chế độ phong kiến, nhà nước không mở hệ thống trường công lập
từ trung ương đến địa phương (thôn, làng, tổng, huyện, tỉnh) dạy học cho trẻ
em. Từ thời nhà Trần trở đi, ở mỗi phủ huyện có các quan giáo thụ và huấn
học trông nom việc học nói chung, và dạy tứ thư, ngũ kinh cho các nhà nho.
Ở cấp tỉnh thì có các quan đốc học trông coi việc học hàng tỉnh (có chức năng
quản lí, coi sóc việc học hành, giáo hoá dân chúng là chính), và rèn luyện, ôn
luyện cho các sĩ tử muốn tham gia các kì thi Hội ở Kinh đô.
Tiêu biểu cho trường công dưới chế độ phong kiến là trường Quốc tử
giám. Đây được coi là trường đại học đầu tiên của Việt Nam được xây dựng
từ thế kỉ XI (năm 1076) dưới triều Lý Công Uẩn. Cả khu quần thể Văn Miếu -
Quốc tử giám được xây dựng từ thời Lý, được phát triển và bảo tồn qua các
triều đại lịch sử, sự phát triển của nó tùy thuộc vào sự hưng thịnh hay suy
vong của mỗi triều đại phong kiến. Đây là nơi biểu trưng cho trí tuệ và nền
văn hiến Việt Nam dưới chế độ phong kiến. Đến thời nhà Nguyễn, Quốc tử
giám được chuyển vào Kinh đô Huế
3.3.1. Bộ máy tổ chức quản tí nhà trường (thời Nguyễn)
Đứng đầu là các chức Tế tửu, Tư nghiệp, đây là chức quản lí cao nhất
của nhà trường, phụ trách các vấn đề học thuật và tổ chức các hoạt động
giảng dạy và giáo dục của nhà trường.
Đội ngũ quan văn làm công tác giảng dạy gồm có: học chánh, giáo thụ,
trợ giáo (tối thiểu phải đỗ cử nhân xuất thân, tức đã qua các kì thi Hội do triều
đình tổ chức).
+ Học trò: Gồm có Tôn sinh thuộc dòng tôn thất. Ấm sinh là con quan
triều đình và con quan lại đứng đầu hàng tỉnh ở các địa phương. Giám sinh là
con quan lại nhỏ ở địa phương hoặc những thanh niên tuấn tú xuất thân từ
tầng lớp thường dân đã đỗ cử nhân được lưu giữ lại học. Các tước hiệu được
phân chia như vậy để thể hiện thứ bậc, địa vị trong hàng ngũ học sinh.
+ Nhân viên: Có các chức vị điển bạ, điển tịch, nhập lưu, thư lại…*
trông coi kho sách, làm các công việc phục vụ giảng dạy, học tập của học
sinh, phục vụ cuộc sống nội trú của học sinh trong trường.
3.3.2. Chế độ học bổng, thưởng phạt
Chế độ học bổng dựa vào kết quả phân loại của các kì khảo hạch. Nhà
trường cấp học bổng bằng tiền, và hiện vật (gạo, dầu) để phục vụ học tập và
sinh hoạt cho học sinh.
Ví dụ: Thời Minh Mệnh phân theo 3 loại: ưu, bình, thứ
Loại ưu: được 4 quan tiền, 3 phương gạo, 5 kg dầu/ 1 tháng.
Loại bình: được 3 quan tiền, 2 phương gạo, 4 kg dầu
Loại thứ: được 2 quan tiền, 2 phương gạo, 3 kg dầu/1 tháng.
Chế độ học bổng thực sự có tác dụng khuyến khích học sinh học tập
tích cực và tranh đua trong các kì khoa cử để được chọn vào hàng ngũ quan
lại.
3.3.3. Tài liệu học tập
Gồm những sách kinh điển chủ yếu của Nho giáo: Tứ thư, Ngũ kinh.
- Tứ thư: gồm bốn cuốn sách kinh điển của Nho giáo: Đại học, Trung
dung, Luận ngữ, Mạnh Tử.
Sách Đại học do Tăng Tử, một nhà nho đời sau viết giải thích những lời
nói của Khổng Tử bao gồm việc tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
Sách Trung dung gồm những lời nói của Khổng Tử do Tử Tư chép lại
dạy người ta theo đạo Trung để giữ vững đạo Thường. Muốn vậy con người
phải phấn đấu, tu dưỡng để đạt được ba đức: Nhân, Trí, Dũng.
Sách Luận ngữ cũng do học trò chép những lời Khổng Tử dạy về
những vấn đề: luân lí, triết học, chính trị, học thuật, giáo dục.
Sách Mạnh Tử do học trò chép lại những lời Mạnh Tử đối đáp với các
bậc chư hầu và phê phán các học thuyết khác.
- Ngũ Kinh: gồm năm kinh: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh
Xuân Thu (thực ra là có 6 kinh, nhưng kinh Nhạc sau bị thất truyền), do
Khổng Tử chép và chỉnh lí.
Kinh Thi: Chép về những vấn đề núi sông, hang động, chim muông, cây
cỏ... Kinh Thi chép những bài ca dao được lưu truyền ở nơi thôn quê, những
bài hát dùng trong triều đình, nói về phong tục tập quán, tín ngưỡng đời xưa.
Kinh Thư: Kinh Thư bàn luận nhiều về chính trị, chép về việc làm, các
sự kiện trị nước, bang giao của các vua đời trước.
Kinh Dịch: Nói về trời đất âm dương, bốn mùa, phương pháp biến hoá
thông qua bát quái. Kinh Dịch bàn nhiều về quan hệ âm dương, dựa vào Kinh
Dịch mà người đời sau lí giải nhiều vấn đề của vũ trụ bằng thuyết âm dương
(sự cân bằng sinh thái trong tự nhiên, cân bằng sinh lí của con người, hoà
hợp trời đất...).
Kinh Lễ: Chép những lễ nghi trong triều đình, trong hương đảng ở thôn
quê, lễ nghi trong gia đình, dòng họ. Sách này bàn luận nhiều về đạo đức, lễ
nghĩa.
Kinh Xuân Thu: Do Khổng Tử viết khi gặp nạn ở đất Tần. Kinh này nói
về sự tan hợp của vạn vật. Kinh này là gốc của Lễ và Nghĩa
Quốc tử giám được coi là trường Đại học đầu tiên của Việt Nam. Đây là
nơi đào tạo trình độ cao nhất về Nho học, là nơi đã nuôi dưỡng, dạy dỗ và
giáo dục những thanh niên tuấn tú, cung cấp cho đất nước nhiều nhân tài
xuất chúng. Nhiều nhân tài của đất Việt ngàn năm văn hiến đã được đào
luyện ở đây, những tấm bia khắc tên các Tiến sĩ đã đỗ đạt, vinh hiển ngày
nay vẫn còn nguyên, thể hiện giá trị lịch sử lớn lao của nhà trường trong Lịch
sử giáo dục dân tộc.
4. Những lực lượng giáo dục ngoài nhà trường4.1. Giáo dục trong gia đình
Đây là một hình thức giáo dục nổi bật trong nền giáo dục phong kiến.
Tất cả những lễ nghĩa, quy tắc đức hạnh đều được các bậc cha mẹ chú ý dạy
cho con cái ngay từ trong gia đình. Các gia đình Việt Nam, dù là giàu có, khá
giả hay nghèo khó đều có ý thức dạy dỗ cho con em mình những quy tắc lễ
nghĩa của đạo đức phong kiến, dạy cho con cái biết cách xử thế và lập thân.
Vì thế, những người phụ nữ và các cô gái cho dù không được đến trường
nhưng vẫn được tiếp thu những quy tắc đạo đức về công, dung, ngôn, hạnh
của nền giáo dục truyền thống. Những người mẹ, người vợ thắt lưng buộc
bụng, hi sinh làm lụng vất vả để nuôi chồng con ăn học thành tài cũng đã
được tiếp thu những giá trị đạo đức tốt đẹp qua giáo dục gia đình.
Giáo dục gia đình dường như đã trở thành một nền nếp, một truyền
thống được lưu giữ từ đời này qua đời khác, từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Đây cũng là một yếu tố góp phần hình thành nên những nét phẩm cách tốt
đẹp và truyền thống hiếu học trong mỗi gia đình Việt Nam.
4.2. Sự giáo dục của đoàn thể và xã hội
- Hội đồng môn: Là tổ chức hội của những người bạn học; được lập ra
để tổ chức phân chia đóng góp giúp đỡ thầy và tỏ lòng biết ơn với gia đình
thầy. Có một người đứng đầu Hội gọi là "Trưởng Tràng". Những quy tắc của
Hội không được quy định và ghi chép thành văn nhưng được chấp hành
nghiêm túc. Những người bạn học tập hợp nhau lại vì tình vì nghĩa, tồn tại cả
lúc sinh thời thầy và lúc thầy đã quá cố. Họ có trách nhiệm giữ gìn phẩm chất
cho nhau, gìn giữ lòng biết ơn với thầy dạy để khắc sâu quan niệm đạo đức
“Quân, Sư, Phụ”, “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” của lễ giáo phong kiến.
- Hội tư văn: Là hội của các nhà nho ở cùng một địa phương, được
thành lập độc lập với nhau không theo một hệ thống tổ chức nào. Sinh hoạt
của Hội có tính chất tự phát và tự nguyện, nội dung hoạt động đơn giản,
thường là có trách nhiệm thắp hương ở các đền thờ Khổng Tử. Kỉ luật hội đặt
ra là nếu ai phạm lỗi phải đến Văn chỉ (đền thờ) thắp hương xin lỗi bạn bè,
sau đó sắp cơm mời rượu anh em. Sau này khi chế độ phong kiến đi vào giai
đoạn suy thoái, hội này bị thoái hoá trở thành hội xôi thịt, tranh nhau địa vị
"góc chiếu chốn đình chung".
5. Chế độ khoa cửGiáo sư Trần Văn Giáp trong "Lược sử khoa cử Việt Nam từ khởi thuỷ
đến Mậu Ngọ 1918" viết: "Vấn đề khoa cử là một thiên trọng yếu cần thiết
trong văn học sử cùng văn hoá sử nước nhà... tuy đem so với phương pháp
Âu - Mỹ thì thật chưa hoàn bị, nhưng thật có nhiều điều ta nên để ý suy xét,
có lẽ nhữmg phương pháp ấy thích hợp với tính tình phong tục cùng thiên
thời thuỷ thổ xứ mình chăng?"
* Nhà Lý: Lý Công Uẩn lên ngôi vua lập ra triều Lý (1009 - 1225) sự
nghiệp xây dựng đất nước bắt đầu bước vào quy mô lớn, đặt nền tảng vững
chắc và toàn diện cho sự phát triển của dân tộc và của quốc gia phong kiến
độc lập. Đó là cơ sở cho sự phát triển văn hoá và giáo dục dân tộc. Nhà Lý
bắt đầu chăm lo mở mang việc học tập và thi cử để đào tạo nhân tài và tuyển
lựa quan lại có năng lực cho bộ máy hành chính. Năm 1070, nhà Lý dùng Văn
Miếu và mở Quốc tử giám ở kinh thành, làm nơi học tập cho con em tầng lớp
quý tộc quan lại. Nền đại học Việt Nam bắt đầu hình thành từ đó. Năm 1075,
vua Lý Nhân Tôn đã mở khoa thi Minh kinh bác học, để chọn nhân tài cho đất
nước. Năm 1086, tổ chức cho những người có văn học trong nước thi để bổ
vào làm quan tại Viện hàn lâm. Năm 1185, tổ chức cho học trò trong nước từ
15 tuổi trở lên, ai thông kinh thư, kinh thi vào hầu ở ngự điện. Năm 1193, thi
lấy học trò vào hầu nơi ngự học. Năm 1195, thi tam giáo cho đỗ xuất thân.
Đời nhà Lý còn là thời kì đầu giành được độc lập, nên thể lệ thi cử cũng chưa
đi vào nền nếp quy củ. Thỉnh thoảng có chiếu của vua cử học trò trong nước
vào thi và nhà vua tự xem thi ở Điện đình. Nhưng chế độ giáo dục và thi cử
cũng đã theo kiểu chính quy và trong xã hội cũng đã xuất hiện một tầng lớp
nho giáo được đào tạo theo ý thức hệ Nho giáo. Nho sĩ là tầng lớp trí thức
mới của giai cấp phong kiến, ra đời do yêu cầu phát triển của chế độ trung
ương tập quyền, và gắn với sự truyền bá Nho giáo vào Việt Nam. Tuy nhiên
vào thời Lý, chế độ thi cử giáo dục theo tinh thần Nho giáo chỉ mới bắt đầu.
Số nho sĩ được đào tạo ra vẫn rất ít, các nhà sư vẫn giữ vai trò quan trọng
trong xã hội.
* Nhà Trần: chế độ học hành và thi cử ngày càng có quy củ và được
chính quy hoá.
Đời Trần Thái Tông, năm 1227, thi Tam giáp những người nối nghiệp
của Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo.
Năm 1232, mở khoa thi Thái học sinh cho đỗ Tam giáo (nhất giáp, nhị
giáp và tam giáp) theo các thứ bậc khác nhau.
Năm 1246, định lệ thi Tiến sĩ, cứ 7 năm thi một khoa.
Năm 1247 mở khoa thi đặt ra tam khôi (Trạng nguyên, Bảng nhãn,
Thám hoa). Kì thi này Nguyễn Hiền người Mỹ Lộc - Nam Định đỗ Trạng
nguyên khi mới 13 tuổi. Lê Văn Hưu 18 tuổi, thuộc huyện Đông Sơn - Thanh
Hoá đỗ Bảng nhãn. Đặng Ma La 14 tuổi, người huyện Mỹ Lương đỗ Thám
hoa. 48 người đỗ Thái học sinh theo các thứ bậc khác nhau. Đây là khoa thi
đầu tiên ở nước ta có danh hiệu Tam khôi.
Năm 1253, nhà Trần cho lập Quốc học viện, tô tượng Khổng Tử, Chu
Công và Á thánh, vẽ tượng 72 người hiền để thờ.
Năm 1256 mở khoa thi lấy kinh Trạng nguyên và Trại trạng nguyên, mỗi
bên một người cho đỗ xuất thân. Trước kia thi đỗ không chia kinh trại, ai đỗ
đầu thì gọi là Trạng nguyên. Đến bây giờ lấy Thanh Hoá, Nghệ An làm trại
nên mới có lệ lấy kinh Trạng nguyên và Trại trạng nguyên.
Năm 1275 mở khoa thi lấy Tam khôi và 27 người đỗ Thái học sinh cho
xuất thân theo thứ bậc khác nhau.
Năm 1304 triều Trần Anh Tông tổ chức khoa thi. Mạc Đĩnh Chi đỗ
Trạng nguyên, Nguyễn Trung Ngạn đỗ Hoàng giáp. Tên Hoàng giáp mới bắt
đầu có từ đây.
Năm 1374 đời Duệ Tôn hoàng đế, thi đình các Tiến sĩ. Đào Sư Tích đỗ
Trạng nguyên, Lê Hiến Phủ đỗ Bảng nhãn, Trần Đình Thâm đỗ Thám hoa đều
cho ăn yến và áo xấp, cho xuất thân theo thứ bậc khác nhau. Dẫn 3 người đỗ
đầu cho đi chơi phố 3 ngày.
Thái học sinh cũng như Tiến sĩ sau này, nhưng tên Tiến sĩ thì mãi đến
đời Duệ Tôn mới thấy xuất hiện.
Phép thi gồm có 4 trường:
- Trước tiên phải thi ám tả thiên y quốc.
- Thứ hai phải thi kinh thi, kinh nghĩa, 2 bài thơ và một bài phú.
- Trường thứ 3 làm chiếu chế biểu mỗi thứ một bài.
- Trường thứ tư có một bài văn sách.
Đời nhà Trần, Phật giáo và Đạo giáo còn được coi trọng. Nho giáo
chưa hoàn toàn giữ được địa vị độc tôn, nên học trò đi thi phải biết cả Phật
giáo và Đạo giáo. Phép thi cử đến cuối đời Trần cũng đã đủ 4 trường. Theo
nhà sử học Ngô Sĩ Liên thì đó là phép thi hay nhất và tốt nhất để chọn nhân
tài bằng văn học, mà các triều đại sau này vẫn còn theo. Chức học quan dần
dần đặt đến cấp lộ, phủ, châu.
* Nhà Hồ: Hồ Quý Ly là người táo bạo và có tư tưởng đổi mới. Trong
những năm giữ quyền bính của nhà Trần và từ khi lên nắm chính quyền
(1400) Hồ Quý Ly đã thực hiện một số cải cách về chính trị, quân sự, kinh tế,
xã hội, văn hoá giáo dục nhằm cứu vãn nguy cơ sụp đổ của nhà nước phong
kiến và củng cố địa vị thống trị của dòng họ thống trị mới.
Chữ Nôm được sử dụng từ cuối thế kỉ XIII, đến cuối thế kỉ XIV chữ
Nôm được sử dụng rộng rãi hơn. Hồ Quý Ly coi trọng chữ Nôm, ông làm thơ
chữ nôm và dịch kinh Thư sang chữ Nôm để dạy quan gia. Năm 1396, Quý
Ly định phép thi Hương, ai trúng tuyển cử nhân mới được thi Hội năm sau, ai
trúng thi Hội thì thi một bài văn sách nữa để định cao thấp, tức là thi Đình.
Trước kia nhà quốc học chỉ đặt ở kinh đô, còn việc học hành trong dân gian
thì để nhân dân tự tổ chức. Tháng 5 -1397, Hồ Quý Ly đặt các thụ giáo ở các
lộ phủ Sơn Nam (Nam Định), Ninh Bắc (Bắc Ninh) và Hải Đông (Hải Dương).
Tuỳ theo châu phủ lớn nhỏ mà cấp học điền là 15, 12 hay 10 mẫu. Ở mỗi lộ
thì có quan đốc học dạy sinh đồ, mỗi năm lại chọn người tuấn tú gửi về triều
đình để thi hạch. Tháng 8 - 1400, Hồ Quý Ly cho thi Thái học sinh. Nguyễn
Trãi, Lý Tử Tuấn, Vũ Mộng Nguyên đã đỗ khoa này.
Năm 1404, Hồ Hán Thương định cách thi cử nhân, cứ tháng 8 năm nay
thi Hương, ai thi đỗ thì được miễn lao dịch; tháng 8 năm sau thi ở bộ Lễ, ai đỗ
thì miễn tuyển bổ làm lính, lại năm sau nữa thi Hội, ai đỗ thì bổ Thái học sinh.
Rồi sau đó lại thi Hương như trước. Tháng 8 - 1405, đời Hồ Hán Thương, thi
cử nhân lấy 170 người đỗ. Có lẽ học vị cử nhân bắt đầu có từ đây.
Như vậy, nhà Lý và nhà Trần đã xây dựng cơ sở cho chế độ khoa cử ở
Việt Nam. Nhà Hồ có chấn chỉnh lại phép thi theo hướng tích cực hơn nên
phép thi cử ngày càng trở nên quy củ. Hồ Quý Ly còn quy định mở rộng việc
học ở các lộ vùng đồng bằng để đào tạo một đội ngũ quan lại mới cho bộ máy
hành chính. Song thực tế chưa làm được bao nhiêu thì nhà Hồ đã bị thất bại
trong cuộc xâm lược của quân Minh đến xâm lược nước ta.
* Nhà Lê: Năm 1428, sau khi chiến thắng quân Minh, khôi phục được
độc lập, Lê Thái Tổ lập trường Quốc tử giám để cho con cháu các quan và
các thường dân tuấn tú được vào học, đặt lại nhà học ở các phủ, các lộ, đặt
sư Nho để dạy bảo học trò. Năm 1429, hạ chiếu cho nhân dân các Lộ và
những người ẩn dật ở núi rừng và các quan từ tứ phẩm trở xuống, ai tinh
thông kinh sử thì đến sảnh đường để thi. Đó là khoa Minh kinh để chọn người
hiền tài. Năm 1431 nhà vua lại mở khoa thi để chọn người văn hay học rộng.
Đời Thái Tông vua xuống chiếu định phép thi chọn kẻ sĩ. Chiếu nói rằng
"Muốn có nhân tài trước hết phải chọn người có học, phép chọn người có học
thì thi cử là đầu. Nước ta từ khi trải qua binh lửa, anh tài ít như lá mùa thu,
tuấn sĩ thưa như sao buổi sớm. Thái Tổ ta mới dựng nước đã lập ngay
trường học nhưng lúc mới mở mang chưa đặt khoa thi. Ta mong theo ý tiên
đế, muốn cầu được người hiền tài để thoả lòng mong đợi. Nay định điều lệ
khoa thi, hạn đến năm Thiệu Bình thứ 5 (1438) thì thi Hương ở các đạo, đến
năm thứ 6 thì thi Hội ở sảnh đường" (Lịch triều hiến chương loại chí). Từ đó
về sau cứ 3 năm một lần lại có một khoa thi. Ai đỗ đều cho là Tiến sĩ xuất
thân theo các cấp bậc khác nhau.
Năm 1442 tổ chức kì thi Hội. Nguyễn Trực, Nguyễn Như Đỗ, Lương
Như Hộc đỗ Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa; 7 người đỗ Tiến sĩ xuất
thân và 23 người đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân. Vua ban cho ăn yến, mũ áo cân
đai và cho vinh quy về làng. Vua cũng cho soạn văn dựng bia Tiến sĩ. Bia
Tiến sĩ và thể lệ vinh quy bái tổ có từ đấy.
Từ những năm 50 của thế kỉ thứ XV trở đi, chế độ phong kiến Việt Nam
bước vào thời kì thịnh trị. Sự phát triển đã củng cố thành quả dựng nước và
giữ nước của dân tộc. Việc phát triển kinh tế, chính trị, xã hội đều đạt được
thành tựu mới. Cơ sơ vật chất và tinh thần của quốc gia được củng cố vững
vàng. Đến thời Thánh Tông (1460 - 1497) việc thi cử mới thành thường lệ, cứ
3 năm 1 kì. Năm 1462, vua Lê Thánh Tông ban hành lệ "Bảo kết thi Hương".
Chiếu rằng: "Không cứ là quân dân sắc mục, hạn đến thượng tuần tháng 8
năm nay phải đến nhà giám hay đạo sở tại khai tên và căn cước đợi thi
Hương, đỗ thì gửi danh sách lên viện lễ nghi; đến trung tuần tháng giêng năm
sau vào thi Hội. Cho quan bản quán và xã trưởng xã mình làm giấy bảo kết
rằng người ấy thực là có đức hạnh thì mới được kê vào sổ đi thi. Người nào
vào loại bài hiếu, bất mục, bất nghĩa, loạn luân, điêu toai", thì tuy có học vấn,
giỏi văn bài cũng không cho vào thi".
Phép thi như sau:
- Người được cử đi thi phải khai rõ căn cước, phủ, huyện, xã, tuổi, cùng
là chuyên trị kinh nào, căn cước của ông cha, không được gian dối giả mạo.
- Nhà phường chèo con hát và những kẻ phản nghịch, ngụy quan có
tiếng xấu, bản thân và con cháu không được đi thi, nếu mang sách hay mượn
người làm hộ thì trị tội theo luật.
- Phép thi Hương thì trước hết thi ám tả để loại bớt người nhũng tạp.
- Đề mục thi: Kì đệ nhất thi Tứ thư Ngũ kinh cộng 5 bài; kì đệ nhị thi
chiếu, chế, biểu theo lối cổ thể hay tứ lục; kì đệ tam thi thơ Đường luật cổ thể
hay ly tao, văn tuyển từ 300 chữ trở lên; kì đệ tứ thi một đạo văn sách, đầu đề
hỏi về kinh sử hay thời vụ, quy định 1.000 chữ.
- Chữ kí của quốc triều, hai chữ liền nhau không được dùng, nếu viết
rời ra chữ một thì cũng cho dùng thay chữ khác, khuyên ở bên ngoài.
Năm 1463, Thánh Tông lại quy định 3 năm thi Hội một lần để tuyển
chọn hàng ngũ trí thức cao cấp của nhà nước phong kiến. Để khuyến khích
việc học tập và thi cử, nhà Lê lại đặt lệ xướng danh, vinh quy, khắc bia Tiến sĩ
và định lệ tư cách của Tiến sĩ. Lệ tư cách của Tiến sĩ được quy định như sau:
Đệ nhất giáp, người đỗ thứ nhất cho chánh lục phẩm 8 tư, người đỗ
thứ nhì cho tòng lục phẩm 7 tư, người đỗ thứ ba cho chánh nhất phẩm 6 tư,
đều cho giữ Tiến sĩ cập đệ. Đệ nhị giáp cho tòng nhất phẩm 5 tư cho chữ
Tiến sĩ xuất thân. Đệ tam giáp cho chánh bát phẩm 8 tư, cho chữ đồng Tiến sĩ
xuất thân.
Năm 1481, vua Thánh Tông định lệ xướng danh người đỗ đạt, viết tên
người đỗ đạt, viết tên và giấy vàng đem yết ra ngoài cửa Đông hoa, đồng thời
cho dùng ngựa tốt đưa người đỗ Trạng nguyên về nhà riêng. Những người đỗ
đạt khác đều được phép vinh quy về làng. Năm 1484, Thánh Tông cho lập bia
Tiến sĩ, đồng thời cho lập lại bia các kì thi trước từ năm 1442 đến bây giờ, vì
trước đây làm còn nhiều thiếu sót. Cũng năm này, Quách Đình Bảo - thượng
thư bộ Lễ xin đổi các tên Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa làm Tiến sĩ
cập đệ (đệ nhất danh, đệ nhị danh, đệ tam danh), chính bảng được đổi thành
Tiến sĩ xuất thân (còn gọi là Hoàng giáp), phụ bảng đổi làm đồng Tiến sĩ xuất
thân.
Những chính sách khuyến khích của nhà Lê đã có tác dụng rõ rệt. Số
người thi Hương, thi Hội, thi Đình ngày càng đông đảo. Khoa thi Hội năm
1448 có 720 người, khoa thi năm 1475 có quy mô lớn nhất là 3200 người.
Nhìn chung vào giai đoạn đầu thời Lê, chế độ khoa cử phát triển toàn diện.
Nho giáo đã chiếm địa vị độc tôn và là tư tưởng chủ đạo của nền giáo dục
đương thời. Nhà vua trực tiếp quan tâm đến chế độ thi cử. Đây là thời kì thịnh
đạt nhất của chế độ giáo dục Nho giáo ở Việt Nam.
Đến đời nhà Lê – Trịnh cũng rất chú ý đến việc mở các khoa thi để
chọn nhân tài, nên việc học vẫn được phát triển. Nhân dân đi học ngày càng
nhiều và các binh sĩ cũng đua nhau đi học. Nhất là từ năm 1722, triều đình ra
lệnh cho những người ghi tên trong quân ngũ đều được dự thi như các sĩ tử
khác, người đi thi ngày càng đông và tổ chức khá đều đặn. Tuy nhiên việc
học hành thi cử càng về sau không được như trước nữa. Theo Phan Huy Chú
thì: "Từ trung Hưng, học giả chỉ chuộng nắn nót từng câu, văn chương ngày
càng kém cỏi, quê mùa". Học giả phần nhiều làm bài sẵn để bán, học trò đi thi
trước hết hỏi mua lấy các bài học thuộc lòng, hoặc dấu đem vào trường, cứ
theo thế mà viết. Quan chấm trường cứ theo văn mà lấy đỗ, trùng kiến cũng
mặc". Tình hình ngày càng phát triển, đến nỗi triều đình chấn chỉnh nhưng
không thể nào ngăn chặn được. Không những thế bọn quan lại lại đút lót gửi
gắm lẫn nhau, để lấy đỗ cho con cháu mình. Tình hình rất nghiêm trọng nên
năm 1751, Trịnh Doanh tổ chức thi lại các cống sĩ (đã đỗ) ở bãi sông, thì số
hỏng đều quá nửa. Năm 1750, do kho quỹ nhà nước hao hụt, thủ phủ Đỗ Thế
Giai đề nghị cho nhân dân được nộp 3 quan gọi là tiền thông kinh, không phải
khảo hạch mà cứ vào thi. Tình trạng này đã gây ra một thế hỗn loạn "hạng
sinh đồ 3 quan" đầy cả thiên hạ. Phan Huy Chú viết: "Vì thế, người làm ruộng,
người đi buôn cho chí người hàng thịt, người bán vặt cũng đều làm đơn nộp
tiền đi thi cả. Ngày vào thi đông đến nỗi dày xéo lẫn nhau, có người chết ở
cửa trường. Trong trường thi nào mang sách, nào hỏi chữ, nào mượn người
thi thay, công nhiên làm bậy không biết phép thi là gì. Nhưng thực tài mưa
phần không đậu một" (Lịch triều hiến chương loại chí, tập 3, tr. 13). Cũng từ
đó về sau, học trò chỉ cần học thuộc một số sách kinh thư do Bùi Huy Bích
tóm tắt để đi thi. Nền giáo dục suy đồi. Nhiều nho sĩ thức thời chán cảnh học
hành thi cử đó, chán ghét cả cảnh quan trường. Một số trong họ đã tham gia
phong trào nông dân.
* Đến đời vua Quang Trung, nền văn hoá giáo dục được chấn chỉnh,
việc học được mở rộng, chế độ thi cử được chấn chỉnh lại nhằm đào tạo một
tầng lớp quan lại mới có năng lực cho chính quyền. Quang Trung ban bố
chiếu lập học, khuyến khích các xã mở trường học. Những sinh đồ tuyển
trong các kì thi cũ phải thi lại, những kẻ dùng tiền mua bằng cấp, loại "sinh đồ
3 quan" bị thải hồi.
Để việc học được phổ biến rộng rãi trong nhân dân, Quang Trung đã
xuống chiếu cho Nguyễn Thiếp dịch các sách "tiểu học" và "tứ thư, ra chữ
Nôm là quốc âm cho dễ đọc và dễ hiểu. Đặc biệt, Quang Trung rất coi trọng
tiếng nói dân tộc, muốn đưa chữ Nôm lên địa vị chính thức của quốc gia.
Quang Trung cho lập Viện Sùng chính để dịch sách chữ Hán sang chữ Nôm.
Chữ Hán không còn giữ địa vị độc tôn nữa. Đó là một thắng lợi lớn của tiếng
nói dân tộc, một bước phát triển mới của văn hoá giáo dục nước nhà. Mặc dù
trong thời gian ngắn nhưng Quang Trung cũng mở khoa thi ở Thanh Hoá,
Nghệ An. Phép thi chỉ có hai kì, kì thứ nhất thi chế nghĩa, kì thứ hai thi văn
sách, người đỗ được gọi là Tuấn sĩ.
* Nhà Nguyễn: Triều Nguyễn là vương triều cuối cùng trong lịch sử chế
độ phong kiến Việt Nam mở đầu bằng triều đại Gia Long. Năm thứ 6 đời Gia
Long (1807), đặt ra phép thi Hương từ Nghệ An ra Bắc có 6 trường thi và cứ
6 năm lại có một khoa thi. Đến năm 1825, lại theo lệ nhà Lê, cứ 3 năm tổ
chức một kì thi Hương, đổi hương cống gọi là cử nhân, đổi sinh đồ gọi là tú
tài. Phép thi có nhiều thay đổi. Bắt đầu từ năm Minh Mạng thứ 13, phép thi có
ba kì: Kì thứ nhất thi kinh nghĩa, kì thứ hai thi thơ phú, kì thứ ba thi văn sách,
kì thứ tư gọi là phúc hạch, chỉ có một bài biểu. Đến năm 1909, thì cách thi lại
thay đổi. Kì thứ nhất 5 đạo văn sách, kì thứ hai 2 bài luận chữ Hán, kì thứ ba
2 bài luận quốc văn, kì phúc hạch chỉ có một bài luận chữ nho và một bài luận
quốc văn. Khoa Mậu Ngọ 1918, là khoa thi Hương cuối cùng ở Việt Nam, và
cũng chỉ tổ chức ở Trung kì.
Ngay từ cuối thời Lê, chế độ khoa cử đã suy đồi, nạn "sinh đồ ba quan
nhan nhản khắp nơi". Sang thời nhà Nguyễn chế độ phong kiến càng mục
nát, vì thêm chốn quan trường và thi cử là nơi mua bán công khai. Địa vị
thống trị của Nho giáo không còn nữa. Hàng ngũ nho sĩ cũng bị phân hoá, số
ít người sống ẩn dật tiêu cực, hoặc tham gia cuộc đấu tranh của nông dân.
Còn đa số thì mải miết trong trường danh lợi và làm tay sai đắc lực cho thực
dân Pháp.
Ngoài phép thi văn, các triều đại phong kiến Việt Nam còn tổ chức thi
võ để tuyển lựa những người tài võ nghệ tuyển dụng vào hàng ngũ tướng
lĩnh. Ngoài ra còn có thi lại viên để tuyển chọn những người giúp việc trong
các cơ quan hành chính nhà nước.
Tóm lại, chế độ khoa cử là một đặc trưng cơ bản của nền giáo dục
phong kiến Việt Nam. Văn bia Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất năm 1442 đã ghi rõ:
“Hiền tài là nguyên khí của nhà nước, nguyên khí vững thì thế nước mạnh và
thịnh, nguyên khí kém thì thế nước yếu và suy, cho nên các đấng thánh đế
minh vương không ai không gây dựng nhân tài, bồi đắp nguyên khí”. Chế độ
khoa cử là đề chọn người hiền tài đảm nhiệm các chức vụ quan lại thực hiện
chức năng quản lí bộ máy nhà nước phong kiến. Còn đối với nhân dân, thi cử
là con đường tiến thân lập nghiệp, vì vậy được nhân dân hết sức coi trọng.
Mặc dù có những hạn chế nhất định nhưng khoa cử dưới chế độ phong kiến
thực sự là đòn bẩy thúc đẩy tinh thần học tập và truyền thống hiếu học của
nhân dân.
6. Một số nhà trí thức dân tộc tiêu biểuTrong suốt 10 thế kỉ xây dựng, củng cố và bảo vệ quốc gia phong kiến
dân tộc độc lập và thống nhất, thông qua con đường Nho học một tầng lớp trí
thức phong kiến được hình thành và đóng một vai trò to lớn trong sự phát
triển nền học thuật Việt Nam thời phong kiến. Những nhà trí thức dân tộc
hoặc lĩnh một chức vị, trách nhiệm ở triều đình, quan lại địa phương, hoặc
sống ẩn dật ở thôn quê với bài thơ, trang sách, rất ít người trong số họ xa lạ
với nghề dạy học. Dù có thể không trực tiếp giảng dạy, nhưng họ rất quan
tâm đến việc đào tạo con người hoặc truyền bá đạo lí. Những quan niệm về
giáo dục của họ có khi phù hợp với chính sách của triều đại đương thời, có
khi là những ý kiến, quan điểm riêng. Những quan điểm về giáo dục đó
thường không được trình bày riêng rẽ thành một tác phẩm mà người đời sau
có khi khai thác được ở một tờ khai này, tờ sớ nọ, ở những bản điều trần
dâng lên triều đình. Cũng có khi quan niệm của họ được lồng qua một bài
thơ, bài phú, lời tựa, lời bạt trong các cuốn sách, hoặc ngay trong hành động,
phép xử thế trong cuộc sống hàng ngày.
Trong số những trí thức phong kiến tiêu biểu có những người là nhà tư
tưởng lớn, những đại văn hào kiệt xuất như Nguyễn Trãi. Có những người là
nhà bác học uyên bác như Lê Văn Hưu, Lê Quý Đôn, Lê Hữu Trác. Lại có
những nhà văn, nhà thơ lớn như Cao Bá Quát, Trương Hán Siêu. có những
trí thức lớn chuyên tâm với sự nghiệp giáo dục như Chu Văn An, Nguyễn
Thiếp, nổi tiếng như là những người thầy tài năng đức độ trong lịch sử giáo
dục phong kiến Việt Nam.
Tất cả những danh nhân kiệt xuất đó, nói như cụ Hoa Bằng - một nhà
nghiên cứu văn hoá lớn của Việt Nam: "Họ đều đi qua cái cửa của Nho giáo,
nhưng lại đi ra phục vụ đất nước bằng các cửa của dân tộc: Dân tộc Việt
Nam". Sự kết hợp hài hoà giữa ý thức hệ phong kiến và ý thức dân tộc chính
là yếu tố cơ bản hình thành nên nhân cách và tư tưởng học thuật của họ.
6.1. Chu Văn An (1292 - 1370)
Chu Văn An người ở xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà
Nội. Ông đã làm tới chức Tư nghiệp Quốc tử giám đời nhà Trần. Trước khi
vào làm Tư nghiệp Quốc tử giám ông đã mở một ngôi trường làng bên bờ
sông Tô Lịch, thu hút nhiều học trò bốn phương đến học. Đến đời Trần Dụ
Tông, triều Trần lâm vào tình trạng suy sụp, bọn gian thần trong triều ra sức
đục khoét, tham ô vô độ, gây ra nhiều tội ác. Ông đã dâng lên nhà vua một
bản sớ, gọi là "Sớ Thất trảm" đòi chém bảy tên gian thần (là cận thần của nhà
vua), nhưng không được chấp thuận. Ông đã cáo quan lui về ở ẩn.
Hiện nay không có đầy đủ tài liệu để biết một cách cụ thề về quan niệm
học thuật và phương pháp giảng dạy của ông. Nhưng các chi tiết về tiểu sử
và thơ văn của ông đã lưu lại cho hậu thế về một tấm gương lẫm liệt, tiết tháo
thanh cao của một vị tôn sư khảng khái về uy tín cao thượng để lại cho nhiều
thế hệ học trò, được người đời mãi mãi ngợi ca. Khi ông ra phụ trách trường
Quốc tử giám, Trần Nguyên Đán đã nói về ông: "Bể học xoay triều sóng,
phong tục trở về thuần hậu, trường học lớn trong nước có vị thần như sao
Bắc Đẩu, như núi Thái Sơn ". Còn Phan Huy Chú, nhà sử học lớn Việt Nam
đã ca ngợi "Làng nho nước Việt, trước sau chỉ có một ông, các người khác
không ai so sánh được".
6.2. Hồ Quý Ly (1330 - 1407)
Ông người làng Đại La, tỉnh Thanh Hoá, làm quan đời nhà Trần và lập
ra nhà Hồ (lên ngôi năm 1400), sau bị quân Minh bắt đưa về Trung Quốc.
Hồ Quý Ly không hẳn là một nhà giáo, mặc dầu khi làm quan trong triều
Trần ông đã đảm nhiệm việc dạy các hoàng tử và người trong cung. Khi tham
gia vào công việc chính trị, ông đã có những chủ trương cải cách, thi hành
nhiều chính sách mới về kinh tế, chính trị, xã hội. Về mặt giáo dục ông cũng
đã có những ý kiến táo bạo và sắc sảo sửa đổi và đề ra một số chính sách
mới như: sửa đổi phép thi, buộc thí sinh phải thi môn Toán và Chính tả; mở
thư viện quốc gia; lập trường học ở các phủ huyện; lấy ruộng công để làm
học điền; cho sưu tầm gia phả các họ trong nước để đưa về Kinh đô.
Ông còn vạch ra những chỗ đáng nghi ngờ trong sách kinh điển, dịch
một số đoạn trong Kinh Thi ra chữ Nôm để làm tài liệu giảng dạy cho vua và
cung nữ.
Trong hoàn cảnh xã hội phong kiến lúc đó có thể thấy rằng, Hồ Quý Ly
là một trí thức phong kiến đã có nhiều tư tưởng tiến bộ và độc lập trong học
thuật cũng như trong giáo dục.
6.3. Nguyễn Trãi (1380 - 1442)
Nguyễn Trãi là một nhà văn, nhà thơ, nhà tư tưởng lớn của Việt Nam
thế kỉ XV, được coi là danh nhân văn hoá thế giới. Các tài liệu không cho biết
rõ ông có học trò không, song ông cũng đã là chủ khảo kì thi Tiến sĩ đầu đời
Lê.
Trong các tác phẩm của ông, chúng ta thấy dường như Nguyễn Trãi là
người phát ngôn của quần chúng lao động Việt Nam về nội dung giáo dục. Đó
là những nội dung rất thiết thực, lành mạnh của truyền thống Việt Nam về đạo
lí làm người và về phép ứng xử trong thực tiễn. Ông chú trọng đến đạo đức
nhân dân, nhắc nhở sự cần cù trong lao động, sự giản dị tiết kiệm, chú trọng
tình gia tộc, nghĩa đồng bào, tình cha con, vợ chồng, tình bè bạn, công ơn đối
với người lao động, coi trọng vai trò của nhân dân, coi trọng sức dân, mưu
cầu đem lại quyền lợi cho dân, trừ tham tàn, bạo ngược.
6 4. Lê Quý Đôn (1726 - 1784)
Lê Quý Đôn là nhà bác học lớn của Việt Nam thế kỉ XVIII, người làng
Diều Hạ, tỉnh Thái Bình. Ông đỗ Bảng nhãn năm 1752, đã từng làm quan đến
Công bộ Thượng thư, là tác giả của nhiều bộ sách lớn nhiều thể loại. Ông đã
từng làm quan văn, làm tướng võ, phụ trách nhiều lĩnh vực hình sự, tố tụng,
hộ khẩu, quân sự, lịch sử, văn chương, giáo dục... và đã từng là một thầy
giáo. Ông có những quan điểm giáo dục rất rõ ràng, trình bày rải rác trong các
tác phẩm, bàn đến nhiều vấn đề dạy và học.
Ông phê phán cái học đương thời trong những thế kỉ rối ren suy nhược
đã làm cho người hiền và những lời sáng suốt bị che mờ đi. Triều đình không
nghe lời can gián, người có chức vị không giữ được đức độ thanh liêm. Ông
mong muốn có một nền học thuật đúng đắn với nội dung học tập toàn diện
chứ không chỉ nhồi nhét những lí luận kinh điển xa xôi, bao gồm dạy "lục
nghệ", văn học và võ bị pháp luật, coi trọng những tác phẩm dân gian của
người lao động.
Ông nêu ý kiến tiến bộ về phương châm học tập: Học nhiều nhưng phải
biết nắm lấy cái chính; học phải có óc suy luận, không chỉ câu nệ vào sách
vở; học phải hành, học phải giúp cho con người có năng lực để làm những
việc có ích cho xã hội; phải chú ý việc tự học.
6.5. Nguyễn Thiếp (1723 - 1804)
Nguyễn Thiếp người làng Nguyệt Ao, Đức Thọ, Hà Tĩnh, đã đỗ Hương
cống đời Lê. Ông không có địa vị khoa bảng cao nhưng tiếng tăm của ông
được người đương thời biết đến và được truyền lại cho người đời sau là do
phẩm chất cao thượng và công trình tu dưỡng của ông.
Trước thời Quang Trung, ông lui về ở ẩn và sau đó có mở trường dạy
học. Học trò theo học ông rất đông và ông được tôn làm La Sơn Phu Tử. Khi
vua Quang Trung lên ngôi đã thực hiện chính sách chiêu hiền đãi sĩ và
Nguyễn Thiếp được vua vời ra giúp nước. Ông được cử giữ chức Viện
trưởng Viện Sùng chính, trông nom việc dạy học và học thuật của triều đình.
Về quan điểm giáo dục, ông chú trọng việc học tập nhằm mục đích giúp
cho dân nước thịnh cường: Học rộng rồi ước lượng cho gọn, học mười để
làm một, coi trọng cái Đạo là những lẽ thường mà người ta theo để làm
người.
6.6. Nguyễn Trường Tộ (1828 - 1871)
Sinh năm 1828 tại làng Bùi Chu, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An
trong một gia đình nho học nghèo, theo đạo Thiên Chúa. Thân sinh ông là
một thầy thuốc bắc có danh tiếng, thân mẫu là một người tần tảo thờ chồng
nuôi con và rất mộ đạo.
Làng Bùi Chu quê hương ông phía đông giáp sông, tây giáp núi. Sông
thì có đường thông tới Thành phố Vinh, là một nơi buôn bán khá đô hội; núi
thì có mỏ sắt đã từng được khai thác. Hoàn cảnh xuất thân và quê hương của
Nguyễn Trường Tộ ít nhiều có sự ảnh hưởng đến sự hình thành nên hệ thống
tư tưởng của ông sau này. Bản tính đã thông minh lại thêm học hành chăm
chỉ nên Nguyễn Trường Tộ nổi tiếng là một học trò giỏi. Tài học của ông đã
làm cho mọi người phải chú ý.
Nguyễn Trường Tộ là một nhà Nho có hiểu biết sâu rộng về các mặt.
Ông đã chứng kiến mọi sự biến động từ đầu thế kỉ XIX của chế độ phong kiến
nhà Nguyễn đang thời kì suy đồi. Ông nhận thấy một trong những nguyên
nhân làm cho nước ta rơi vào tình trạng đó là do nền phong kiến lỗi thời, lạc
hậu, bảo thủ, không đủ sinh khí thúc đẩy xã hội tiến lên. Ông phê phán mục
đích của nền học cũ là chạy theo lối khoa cử. Người đi học lúc bấy giờ chỉ say
sưa với lối tầm chương trích cú, thuộc làu kiến thức trong "Tứ thư, ngũ kinh"
để rồi thi cử cho đậu để được,làm quan với triều đình.
Ông đã khẳng định vai trò to lớn của giáo dục đối với thực tế xã hội lúc
đó như sau:
"Một nước mà học thuật không sáng tỏ thì phong tục ngày càng đồi bại,
nhân dân tiến dần đến chỗ phù hoa xảo trá. Nhân tâm đã hỏng thì tìm cho
được những kẻ nhiệt tình đối với sự nghiệp là điều cũng khó lắm vậy"
Nguyễn Trường Tộ đã suy nghĩ rất nhiều về thực trạng nền giáo dục
của nhà nước phong kiến Nguyễn. Ông đã phê phán một cách sâu sắc sự lụn
bại và lạc hậu của nền giáo dục đó và đưa ra những đề nghị cải cách rất tiến
bộ. Ông tin vào sức mạnh cải tạo của giáo dục và đặt hi vọng nhiều vào một
nền giáo dục dân tộc mới có thể giảm bớt cho mọi sự trì trệ trong xã hội. Ông
đánh giá cao vị trí của giáo dục và đề ra mục đích của học thuật:
“Giáo dục cho nhân dân biết làm ăn, biết yêu quí lao động, trừ bỏ óc
danh lợi địa vị, biết yêu nước, không nên lén lút làm tay sai cho giặc. Đối với
những kẻ gian tà bất chính, nền giáo dục mới phải có tác dụng giúp họ quay
về con đường chính nghĩa: Việt sửa kẻ tà đem họ về đường chính, đó là một
việc đại sự, còn cái học nào hơn, sao ta không học”.
Theo ông, học là một nhu cầu thiết yếu của mỗi dân tộc. Ông tin tưởng
với mục đích học đúng đắn, nền giáo dục mới có thể phát huy được phẩm
chất và năng lực tốt đẹp của con người, trả lại cho con người giá trị chính
đáng để thúc đẩy xã hội thoát khỏi sự bế tắc. Ông quan niệm việc học không
phải là từ chương khoa cử mà là học cái chưa biết để giúp cho con người biết
làm việc có ích cho thực tế nước nhà. Ông định nghĩa: "Học tức là học cái
chưa biết, biết để mà làm. Mà làm việc gì? Và làm ở đâu? Làm tức là làm
công việc thực tế trong nước hiện nay và để lại việc làm hữu dụng đó cho đời
sau nữa". (Tế cấp bát điều)
Nguyễn Trường Tộ đã nêu lên phương châm giáo dục học gắn liền với
hành, học thực dụng, học khoa học, học để phục vụ thực tế. Đây là một
phương châm học mới tiếp cận với tư tưởng giáo dục dân chủ tư sản, là tư
tưởng giáo dục tiến bộ. Ông liên hệ học với việc làm cho nước giàu dân
mạnh, đủ sức chống xâm lược.
Ông đề nghị đưa vào nội dung giáo dục những môn khoa học mới như:
Thiên văn, Toán học, Kĩ xảo, Chính trị, Lịch sử, Địa lí, Địa chất, Pháp lí, Ngoại
ngữ.
Ông nhấn mạnh khoa học kĩ thuật Tây phương có khả năng giúp cho
con người khám phá được điều kì diệu của tạo hoá (thiên nhiên), điều mà
người xưa chưa biết thì đời nay có thể biết được. Đó cũng là cơ sở làm cho
người học thoát khỏi sự mê tín. Như vậy, nội dung học theo ông lựa chọn vừa
thoát khỏi tính chất từ chương khoa cử của cái học cũ, lại gồm có những kiến
thức thiết thực như khoa học kĩ thuật phương Tây phù hợp với điều kiện thiên
nhiên nước ta. Đồng thời phát huy, kế thừa những nhân tố tốt đẹp sẵn có
trong nền lịch sử văn hoá dân tộc. Ông viết: "Nước ta trên cũng có trời che,
dưới cũng có đất chở, đó là thiên văn và địa lí. Nước ta đứng trong trời đất,
cũng là một nước đàng hoàng, không phải là thuộc địa của Trung Quốc, trong
nước cũng có công việc con người, trật tự con người, đó là những cái mà ta
phải làm cho cái hiện tại và tương lai. Nước ta cũng có tổ tiên, cũng có vua
quan lớp trước, những sự tích lưu truyền lại... Liệt tổ của Hoàng triều ta từ
sáng nghiệp đến nay có những đức trạch gì với dân với nước, đó là cái mà
quan và dân ta phải biết rõ để mà nhớ ơn và cố gắng giữ gìn. Những non
sông, bờ cõi, hình thể, biển, hồ, đồn, thành và đất đai trong nước ta xưa nay
thay đổi thế nào. Đó là những cái ta cần phải biết rõ để tránh những sai lầm
khi làm việc hành chính. Luật nước, lệ làng và những gì lợi, những gì hại,
những phương pháp giáo dục, những tục tốt, những tục xấu trong nhân dân
nước ta là cái mà ta cần phải học hỏi, tìm tòi để hiểu rõ mà thay đổi bổ cứu
lại...
Nước ta về những triều đại trước cũng có những bậc danh thần còn lưu
lại biết bao công tích, và hiện nay cũng có những việc làm đáng nêu lên, sao
không truyền tụng những cái gương tốt cho người ta bắt chước mà cứ đêm
ngày luôn miệng kêu réo Hàn Tín, Tiêu Hà của Trung Quốc là những người
đã chết từ mấy ngàn năm nay... Học như vậy mà cứ học mãi đến già thật là
một chuyện quái lạ" (Tế cấp bát điều).
Đó là những quan điểm giáo dục thể hiện tinh thần dân tộc: trong nội
dung dạy học và giáo dục, quan điểm giáo dục đó được bổ sung kết hợp với
kiến thức văn hoá thế giới: "Phải chú trọng những điều thực tiễn của nước
nhà những không có nghĩa là không học những điều hay của thiên hạ, không
học lịch sử các nước và các danh nhân thế giới... không phải bỏ hết cái cũ và
mở cầu cái mới mà phải lấy cái hay của mình có sẵn, gộp với cái hay của
thiên hạ mới sáng tạo, như thêm thì những cái hay cái mới của thiên hạ có,
mình cũng có, mà những cái mình sẵn có thì thiên hạ chưa có. Như thế thì ai
dám khinh rẻ nước mình".
Ông đề xuất việc dạy và học ngoại ngữ. Theo ông, ngoại ngữ là một
phương tiện, là cái chìa khoá mở ra kho tàng tri thức của thế giới để hiểu biết
tri thức khoa học tiên tiến của các nước trên thế giới. Ông đề nghị triều đình
đưa ngoại ngữ làm một môn học chính thức. Lúc bấy giờ ở triều đình, Tự Đức
cũng đã tổ chức cho các quan chức và các công tử trong hoàng tộc phải học
tiếng Pháp và định lệ thưởng phạt cho những người học chữ Tây để khuyến
khích việc học. Nguyễn Trường Tộ đề nghị ngoài tiếng Pháp còn học thêm
nhiều ngoại ngữ nữa: tiếng Anh, tiếng Iphanho (Tây Ban Nha), Inđônêxia,
Miên, Lào. Đó là những nước thường xuyên tiếp xúc với chúng ta. Ông đề
nghị cho dịch sách nước ngoài, thâu tóm lấy cái nào quan trọng nhất, rồi cho
in để ban hành. Ai dịch được sách nước ngoài cần được khen thưởng ưu đãi.
Nguyễn Trường Tộ còn đề nghị với triều đình Tự Đức thành lập các
trường quốc học, tỉnh học và đặc biệt là xây dựng một số trường theo kiểu
Tây phương có phòng thí nghiệm, có kí túc xá cho học sinh ăn ở, học tập mời
các giáo sư người phương Tây về dạy và lấy các môn khoa học hiện đại làm
nội dung chủ yếu cho chương trình học. Lấy thời văn làm trọng, còn cổ văn
chỉ là thứ yếu.
Bên cạnh những trường dạy các môn khoa học cơ bản phổ thông, ông
đề nghị mở một hệ thống các trường chuyên nghiệp về nông nghiệp, khai
khoáng, cơ xảo, sơn lợi (lâm nghiệp), địa chất.
+ Khoa thiên văn và khoa địa lí:
Ông quan niệm hai khoa này là gốc của mọi việc. Cần sưu tầm những
sách thiên văn địa lí cũ của ta, chọn lấy những phần thích hợp với thiên thời
địa lợi của nước ta, tước bỏ những phần duy tâm như phong thuỷ thuật số,
rồi tham khảo thêm những sách của người phương Tây để biên soạn thành
những bộ sách hoàn hảo.
+ Khoa cơ xảo: Sưu tầm trong sách nho cũ, rút ra những phần nói về
cơ xảo, rồi đối chiếu với khoa học mới chỉnh lí, bổ sung thêm. Đây là khoa
giảng dạy, phổ biến kiến thức khoa học mới, khoa học thực dụng.
+ Khoa luật học: Luật là gồm cả kỉ cương, uy quyền và chính lệnh của
quốc gia, luật là đạo đức của xã hội, người nào trái luật cũng là trái với đức.
Quan cai trị dân phải bằng luật, dân không biết luật thì sẽ ngang tàng trái
phép. Vì vậy quan và dân đều phải tinh thông luật lệ cho nên phải xây dựng
khoa luật học.
+ Khoa nông chính: Ông đề nghị thu thập và rút kinh nghiệm về phương
pháp trồng trọt và chăn nuôi ở các địa phương, sau đó đem đối chiếu so sánh
với các sách nông chính của ta và của các nước phương Tây để xây dựng
khoa nông chính thích hợp với ta.
Song song với việc đào tạo trong nước, Nguyễn Trường Tộ đề nghị
triều đình phải cử người xuất dương du học. Số người du học, ông đề nghị
chia thành 2 loại:
- Loại đi học nghề phải khéo tay, hơi lớn tuổi cũng được.
- Loại đi học văn hóa phải lấy người thông minh trẻ tuổi.
Nên sang Anh, sang Pháp du học vì đó là những nước tiên tiến nhất.
Chính Nguyễn Trường Tộ đã có lần được triều đình Tự Đức phái dẫn đoàn
học sinh đi du học.
Những đề nghị cải cách giáo dục của Nguyễn Trường Tộ còn được thể
hiện ở việc đề nghị dùng quốc âm “Theo chữ riêng của nước mình trong việc
day, việc học, làm sách và các giấy tờ”. Ông chỉ trích những điều bất tiện của
nước ta khi việc học phải phụ thuộc vào văn tự nước ngoài. Ông nhận thấy
tiếng nói và chữ viết của ta không thống nhất với nhau là do nước ta không có
văn tự riêng. Do đó người học rất vất vả và mất nhiều thì giờ vì: “Khi mới bắt
đầu học phải nhìn nét chữ bằng mắt, lại phải nhớ tiếng bằng óc. Tiếng lạ tai
ấy chỉ có người học rồi mới biết, còn người không học thì nghe cũng như
tiếng chim, tiếng quạ vậy. Thế có phải phí hơn phần nửa công phu trí óc
không?” (Tế cấp bát điều).
Nguyễn Trường Tộ phân tích rõ: "Nước ta là một nước có tên tuổi đứng
vào hàng thứ nhì ở phương Đông, lại không có thứ chữ riêng của mình.... Do
lỗi tại ta cứ lo học chữ ngoại quốc, cứ tôn trọng nó... Nếu có một thứ chữ
riêng thì việc học được dễ dàng và phổ biến được đối với tất cả mọi người, kể
cả đàn bà và trẻ em". Chữ viết dân tộc dựa trên tiếng mẹ đẻ sẽ giúp cho
người học tránh được nhiều cái bất tiện như khi học chữ Hán, và sẽ thoát
khỏi sự phụ thuộc và việc vay mượn chữ Hán của Nho giáo từ ngàn năm về
trước. Tóm lại: Nguyễn Trường Tộ là một nhà cải cách lớn của xã hội Việt
Nam vào buổi đầu thời cận đại. Do hoàn cảnh lịch sử và những hạn chế trong
quan điểm chính trị và tư tưởng của bản thân, Nguyễn Trường Tộ chưa có
đóng góp gì lớn cho xã hội đương thời. Nhưng so sánh với thời đại, ông vẫn
là người tiên tiến nhất trong tầng lớp trí thức phong kiến, đã nhận thức được
xu thế tiến lên của thời đại. Những quan điểm, những ý kiến cải cách giáo dục
của ông tuy chưa vươn tới trình độ của tư tưởng giáo dục cách mạng, nhưng
đã đánh dấu một bước phát triển mới của tư tưởng giáo dục dân tộc dân chủ
buổi đầu thời cận đại của xã hội Việt Nam.
CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu 1. Nền giáo dục phong kiến Việt Nam ra đời và tồn tại trên những
cơ sở kinh tế - xã hội nào?
Câu 2. Phân tích và làm sáng tỏ tư tưởng chủ đạo của nền giáo dục
phong kiến Việt Nam. Hãy chỉ ra những giá trị tích cực và những mặt hạn chế
của tư tưởng đó.
Câu 3. Phân tích những đặc điểm chủ yếu của trường học "thầy đồ"
dưới chế độ phong kiến. Nêu tên một số trường học “thầy đồ” tiêu biểu.
Câu 4. Phân tích những đặc điểm chủ yếu của trường Quốc tử giám -
một mô hình trường công điển hình dưới chế độ phong kiến.
Câu 5. Ngoài hệ thống trường học "thầy đồ" và trường công, dưới chế
độ phong kiến còn có những lực lượng giáo dục nào? Đánh giá tác dụng giáo
dục của các lực lượng này đối với việc hình thành những phẩm cách tốt đẹp
và truyền thống hiếu học của con người Việt Nam.
Câu 6. Tại sao nói chế độ khoa cử là một đặc trưng cơ bản của nền
giáo dục phong kiến Việt Nam?
Câu 7. Phân tích những cống hiến của các trí thức phong kiến tiêu biểu
đối với sự phát triển nền học thuật Việt Nam dưới chế độ phong kiến.
Chương 2. NỀN GIÁO DỤC VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ PHÁP THUỘC
1. Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam thời thuộc Pháp1.1. Hoàn cảnh lịch sử (1858 - 1898)
- Triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam là triều đại nhà
Nguyễn, ra đời năm 1802, là kết quả của cuộc chiến tranh phản cách mạng,
là sự phục thù đối với phong trào khởi nghĩa Tây Sơn. Các triều vua Nguyễn
(từ Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức), mặc dầu có những cống hiến
nhất định trong việc duy trì chế độ phong kiến đương triều song đều thực hiện
chính sách đối nội, đối ngoại phản động, chuyên chế, đẩy xã hội phong kiến
Việt Nam đi vào con đường suy vong, nhà Nguyễn đứng trước nguy cơ tan
rã.
- Trong hoàn cảnh đó, các thế lực tư bản phương Tây từ lâu đã chuẩn
bị dọn đường cho cuộc xâm lược thuộc địa dưới những hoạt động ráo riết của
các thương nhân và các giáo sĩ truyền đạo, đã đẩy mạnh các hoạt động xúc
tiến cho cuộc đổ bộ bằng vũ lực quân sự vào các nước Đông Dương. Ngày 1
- 9 - 1858 liên quân Pháp - Tây Ban Nha nổ súng tấn công Đà Nẵng, chính
thức mở màn cho cuộc xâm lược nước ta.
- Xuất phát từ chỗ triệt để bảo vệ quyền lợi và ngai vàng thống trị của
dòng họ, các vua triều Nguyễn tự hãm mình vào cái thế "lỗi thời, hèn yếu, bất
lực" trước sức tấn công của tư bản Pháp, từ chỗ "thủ để hoà" (chọn thế
phòng thủ, nhường thế tấn công cho Pháp), chuyển sang đầu hàng từng
bước cắt đất dâng cho giặc.
- Năm 1862, nhà Nguyễn kí hoà ước dâng cho Pháp 3 tỉnh miền Đông
Nam kì, sau đó là 3 tỉnh miền Tây (1867), năm 1873 Pháp tiến đánh Bắc kì,
năm 1884 triều đình nhà Nguyễn kí điều ước Patơnot đầu hàng hoàn toàn
thực dân Pháp.
- Trước sự đầu hàng nhục nhã của triều đình nhà Nguyễn, phe chủ
chiến trong triều, đứng đầu là Tôn Thất Thuyết đã đưa vua Hàm Nghi (vị vua
thử 4 nối ngôi Tự Đức) rời khỏi hoàng thành Huế, dựng cờ Cần Vương, kêu
gọi khởi nghĩa. Dưới ngọn cờ Cần Vương, một phong trào khởi nghĩa vũ
trang rộng lớn và quyết liệt chưa từng có đã nổ ra, kéo dài 15 năm, suốt từ
Nam chí Bắc, do các sĩ phu văn thân yêu nước lãnh đạo. Tiêu biểu là các
cuộc khởi nghĩa Ba Đình, khởi nghĩa Bãi Sậy, khởi nghĩa Hùng Lĩnh, Hương
Khê và phong trào nông dân Yên Thế.
- Mặc dù các phong trào kháng Pháp diễn ra vô cùng sôi nổi, mạnh mẽ
nhưng cuối cùng đều bị thất bại trước sự đàn áp dã man của kẻ thù. Nguyên
nhân chủ yếu là các cuộc khởi nghĩa đều chưa có một giai cấp thực sự tiên
tiến lãnh đạo, giai cấp lãnh đạo còn mang nặng ý thức hệ tư tưởng phong
kiến trong điều kiện lịch sử đã thay đổi.
- Sau khi phong trào Cần Vương thất bại, thực dân Pháp về cơ bản đã
hoàn thành công cuộc xâm lược và bình định Việt Nam bằng quân sự. Tuy
vậy chúng cũng phải mất tới 40 năm (1858 - 1898) mới hoàn thành cuộc xâm
lược và bình định Việt Nam. Từ giữa thế kỉ XIX trở về trước, Việt Nam là một
nước phong kiến dân tộc độc lập và thống nhất thì vào những năm cuối thế kỉ
đó nước ta đã mất tên trên bản đồ thế giới, trở thành một thuộc địa của Pháp.
Tính chất xã hội Việt Nam từ một quốc gia phong kiến dân tộc độc lập đã
chuyển thành một nước nửa thực dân phong kiến.
1.2. Sự thiết lập và củng cố bộ máy cai trị thuộc địa của Pháp ở Việt Nam
Sau khi hoàn thành cuộc xâm lược trên phạm vi cả nước, thực dân
Pháp đã chia nước ta thành 3 kì riêng biệt với 3 chế độ cai trị khác nhau, mỗi
kì là một bộ phận của Đông Dương thuộc Pháp, bao gồm cả Campuchia và
Lào.
- Ở Nam kì Pháp áp đặt chế độ trực trị. Lúc đầu là do bọn sĩ quan Pháp
trực tiếp nắm quyền cai trị, sau bỏ chế độ cai trị bằng sĩ quan và chuyển sang
thiết lập bộ máy cai trị bằng dân sự do một thống đốc người Pháp đứng đầu.
Bên dưới là Hội đồng quản hạt tỉnh, gồm có các Tham biện người Pháp và
một số quan lại, địa chủ tư sản người bản xứ do một viên Công sứ người
Pháp đứng đầu. Cấp phủ huyện do quan lại người bản xứ nắm quyền cai trị,
dưới hệ thống làng xã là bọn địa chủ, cường hào, ác bá nắm quyền.
Đặc điểm của chế độ cai trị thực dân Pháp áp đặt ở Nam kì là sử dụng
nguyên bộ máy quan lại cai trị thời phong kiến, chồng lên trên là hệ thống
quan lại cao cấp người Pháp. Bộ máy cai trị thể hiện sự cấu kết chặt chẽ giữa
thực dân và phong kiến.
- Ở Trung kì, áp đặt chế độ "bảo hộ". Cho phép tồn tại triều đình Huế,
vua, viện cơ mật (sau này gọi là Hội đồng thượng thư), dưới sự bảo hộ, giám
sát, chỉ đạo của Pháp. Nhưng thực dân Pháp ngày càng thủ tiêu dần quyền
hạn của triều đình, biến triều đình thành bộ máy ăn lương làm thuê cho chính
quyền bảo hộ.
- Ở Bắc kì áp đặt chế độ "nửa bảo hộ, nửa trực trị". Thực dân Pháp nới
cho triều đình ít quyền hành trên danh nghĩa, nhưng càng về sau càng thủ
tiêu dần quyền hạn của triều đình và biến dần thành một thuộc địa như Nam
kì.
Như vậy, thực dân Pháp đã chia Việt Nam thành ba kì với ba chế độ cai
trị khác nhau, chính sách "chia để trị" là chính sách thống trị của chủ nghĩa
thực dân, nhằm chia rẽ khối đoàn kết dân tộc chia rẽ sự thống nhất nhằm dễ
bề cai trị và bóc lột. Dù là "trực trị" hay "bảo hộ" thực dân Pháp đều sử dụng
bọn vua quan phong kiến, địa chủ, cường hào, ác bá làm tay sai, làm công cụ
thống trị, cấu kết chặt chẽ giữa hai thế lực phản động trong chính sách thống
trị của chủ nghĩa thực dân.
1.3. Chính sách áp bức, bóc lột về kinh tế
- Từ giữa thế kỉ XIX trở đi, chủ nghĩa tư bản phương Tây thực hiện
cuộc xâm lược thuộc địa đối với hầu hết các nước châu Á và châu Phi, với
mục đích biến thuộc địa thành thị trường độc chiếm, thành nơi cung cấp
nguyên vật liệu, nhân công, và tiêu thụ hàng hoá cho nền kinh tế chính quốc.
- Mục đích chính yếu của cuộc chiến tranh xâm lược là khai thác và bóc
lột kinh tế thuộc địa. Trong thời gian xâm lược và thống trị tại Việt Nam, thực
dân Pháp đã tiến hành hai cuộc khai thác đại quy mô mà chúng gọi là
"Chương trình khai thác Đông Dương" lần thứ nhất (từ đầu thế kỉ XX đến
trước 1914), và lần thứ hai (sau chiến tranh thế giới lần thứ I đến 1930). Đây
được coi là hai cuộc tấn công quy mô vào mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã
hội nhằm thực hiện chính sách khai thác thuộc địa, vơ vét tài nguyên thiên
nhiên, cung cấp lợi nhuận cho tư bản Pháp.
1.3.1. Tăng cường chính sách thuế khoá
- Năm 1897 khi Pôn Đume sang làm toàn quyền Đông Dương, y đã tập
trung toàn bộ quyền lực trong tay bộ máy cai trị thực dân được cải tổ lại (gọi
là Phủ Toàn quyền Đông Dương), và lập ra một chế độ thuế khoá để cung
cấp ngân sách cho hệ thống ngân sách toàn Đông Dương (gọi là Ngân sách
Đông Dương và Ngân sách hàng xứ).
Nguồn thu nhập chủ yếu của ngân sách Liên Bang là thuế gián thu,
gồm 3 nguồn: thuế muối, thuế rượu, thuế thuốc phiện. Ba thứ thuế này đem
lại 2/3 ngân sách Đông Dương, thể hiện sự bóc lột đi đôi với đầu độc, một thủ
đoạn thâm độc của chủ nghĩa thực dân.
Nguồn thu nhập chủ yếu của ngân sách Hàng xứ là thuế trực thu, bao
gồm: thuế đinh (đánh vào đầu người, mỗi đinh nam đến 18 tuổi đều phải đóng
thuế). Mỗi người nông dân (đinh nam) hàng năm phải nộp thuế đinh lao dịch
khoảng 5, 2 đồng bạc Đông Dương tương đương với đá của 2 tạ gạo loại I);
thuế điền (đánh vào ruộng đất)
Ngoài ra còn rất nhiều thứ thuế khác, gánh nặng sưu thuế đè nặng lên
vai người lao động, đếm không kể xiết. Tất cả các hạng thuế này thu vào quỹ
ngân sách nhằm nuôi một bộ máy quan lại rất đông đúc, kể cả người Pháp và
người Việt, nhất là đội ngũ quan lại người Pháp lương rất cao, và góp phần
vào cuộc khai thác phục vụ chính sách bóc lột thuộc địa.
1.3.2. Tập trung đầu tư vốn khai thác công thương nghiệp
- Để phục vụ cho mục đích khai thác thuộc địa và phục vụ quân sự, tư
bản Pháp tăng cường đầu tư vốn (tổng số 1 tỉ Phơ răng, trong đó 50% là của
chính phủ), để xây dựng các công trình giao thông vận tải: đường sắt, đường
bộ, đường thuỷ, cầu cống... Pháp đặt ra chế độ sưu dịch, huy động một lực
lượng lao động to lớn, hàng chục vạn dân bị thay nhau ném vào các công
trình làm đường sắt, đường đá, cầu cống, đào kênh, khai thác cảng biển.
Từ cuối thế kỉ XIX đến trước năm 1930 Pháp lần lượt làm xong các con
đường sắt lớn: Hà Nội - Lạng Sơn; Hà Nội - Hải Phòng; Hà Nội - Vinh; Hà Nội
- Lao Cai, Đông Hà - Đà Nẵng; Sài Gòn - Nha Trang.
Các con đường đá (gọi là đường thuộc địa) từ Bắc vào Nam, từ Việt
Nam sang Campuchia, Lào, một số cầu phà lớn được xây dựng và hoàn
thành trong thời kì này (như cầu Long Biên xây từ 1899, hoàn thành 1902 gọi
là cầu Pôn Đume).
Các cửa cảng cũng được tu bổ lại, để tàu bè ra vào được dễ dàng, như
Hải Phòng, Sài Gòn, Đà Nẵng. Đường thủy cũng được chú ý khai thác:
thuyền máy và tàu thuỷ chạy trên các sông ngòi và kênh rạch xuất hiện.
Pháp đã sử dụng số vốn tư nhân của tư bản để đầu tư khai thác mỏ và
một số ngành công thương nghiệp khác. Từ 1884 một tiểu ban về khai thác
mỏ được thành lập, đến 1911 có 32 khu vực khai thác mở rộng tới 6 vạn
hecta, chủ yếu khai thác than, kim loại (thiếc, kẽm, đồng, chì, bạc, sắt,
vàng...). Một số ngành khác như điện, tơ lụa, sợi, xi măng, thuốc lá, đường,
chè cũng được khai thác, phục vụ cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng ở thuộc
địa mà chính quốc không vận chuyển sang được.
Về thương nghiệp, từ 1892 Pháp đã thiết lập hàng rào quan thuế, giành
thị trường Đông Dương độc chiếm cho tư bản Pháp.
Về nông nghiệp: Pháp tăng cường chiếm đoạt ruộng đất của nông dân
để lập đồn điền (trồng lúa, cao su, cà phê) bóc lột theo lối phát canh thu tô
kiểu phong kiến cũ, đem lại lợi nhuận rất cao cho tư bản Pháp (lãi kiếm được
bàng 125% số vốn bỏ ra). Tính đến năm 1930 điền chủ người Pháp đã chiếm
80 vạn héc ta, bằng 1/6 diện tích đất trồng trọt của nông dân Việt Nam. Tình
trạng này đã làm cho một bộ phận lớn nông dân mất ruộng, lưu tán, phải bỏ
làng mạc đi vào làm thuê trong các đồn điền. Những bài ca dao trong văn học
đã nói lên số phận nghèo khổ, cùng đường của những người phu đồn điền:
"Bán thân đổi mấy đồng xu, thịt xương vùi gốc cao su mấy tầng". "Cao su đi
dễ khó về, khi đi trai tráng khi về bủng beo".
Ngoài hai cuộc khai thác đại quy mô về kinh tế như trên, trong thời gian
chiến tranh thế giới thứ nhất, thực dân Pháp đã thi hành ở Đông Dương chính
sách tổng động viên nhằm vơ vét nhân tài vật lực phục vụ cho cuộc chiến
tranh đế quốc mà Pháp là một bên tham chiến.
Cuộc chiến tranh đế quốc nhằm giải quyết việc phân chia lại thị trường
thế giới giữa hai khối đế quốc Anh - Pháp - Nga và Đức - Áo – Ý. Cuộc chiến
tranh này đã lôi cuốn hầu hết các nước châu Âu, Á, Mỹ vào vòng chiến. Các
nước thuộc địa đã trở thành hậu phương, cung cấp sức người, sức của cho
các nước đế quốc chính quốc đang tham chiến. Xứ Đông Dương cũng bị rơi
vào vòng khói lửa đó. Trong "Bản án chế độ thực dân Pháp" Nguyễn Ái Quốc
đã tố cáo chính sách tổng động viên phục vụ chiến tranh đó là một thứ “thuế
máu đối với người bản xứ”.
- Tất cả những chính sách áp bức bóc lột về kinh tế nông nghiệp, công
thương nghiệp, thuế khoá qua hai cuộc khai thác đại quy mô trên đã tạo nên
một sự chuyển hoá sâu sắc trong nền tảng kinh tế phong kiến và trong xã hội
Việt Nam lúc đó. Tác giả Trần Văn Giàu mô tả: "Có thể tưởng tượng được sự
rộn rịp của con buôn, thầu khoán, đầu cơ, cai xếp làm cho xã hội Việt nam
trước kia tĩnh tại bao nhiêu thì bây giờ lại xáo trộn lên bấy nhiêu, bị lay động
đến tận nền tảng của nó. Thực vậy, xã hội Việt Nam vốn là một xã hội phong
kiến phương Đông đóng cửa, lạc hậu, nhưng lại là một nước độc lập thống
nhất, từ nay trở thành một nước bị đô hộ, chia cắt, một xã hội thuộc địa và
nửa phong kiến, nhưng không phải thực sự tiến bộ và khai phóng, ngược lại
lại đi sâu vào ngõ phụ thuộc cho đế quốc Pháp".
13.3. Sự phân hoá xã hội và ý thức giai cấp xã hội
Qua hai cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp trước và sau
Chiến tranh thế giới thứ I, một quan hệ sản xuất một hình thành ở Việt nam
đó là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, nhưng là tư bản chủ nghĩa dưới
hình thức thuộc địa. Trong khi đó vẫn còn tồn tại quan hệ sản xuất phong
kiến, gia trưởng, nhất là ở nông thôn, gốc rễ nó rất sâu, làm thành một tình
trạng kinh tế xã hội khá phức tạp. Trên cơ sở kinh tế ấy, một sự phân hoá giai
cấp xã hội mới diễn ra, tạo ra những giai tầng mới trong xã hội Việt Nam thời
Pháp thuộc.
- Xã hội phong kiến Việt Nam trước khi Pháp xâm lược chỉ có hai giai
cấp cơ bản: giai cấp địa chủ phong kiến và giai cấp nông dân phụ thuộc.
Bước sang xã hội thuộc địa nửa phong kiến, triều đình Huế vẫn còn tồn tại
với tất cả bộ máy quan liêu của nó, với tất cả sự học hành thi cử cổ lỗ của nó
bên cạnh sự học hành thi cử của thực dân mới dựng lên. Giai cấp địa chủ
phong kiến vốn từ lâu đã là giai cấp thống trị trong xã hội phong kiến, nay trở
thành chỗ dựa cho chính sách xâm lược của đế quốc Pháp, thể hiện tính chất
phản động về mọi mặt. Nhưng khi nghiên cứu lịch sử tư tưởng và lịch sử giáo
dục thời kì này có một điểm cần lưu ý: Một số rất ít trong hàng ngũ giai cấp
phong kiến gồm những gia đình đã từng lãnh đạo hay tham gia kháng chiến
vẫn còn giữ được lòng yêu nước, tâm hồn dân tộc, tách mình ra khỏi giai cấp
phong kiến, động về phía nhân dân, dân tộc chống Pháp. Phan Chu Trinh,
Phan Bội Châu xuất thân từ giai cấp phong kiến lại là những lãnh tụ của
phong trào duy tân chống Pháp những năm đầu thế kỉ XX.
- Giai cấp nông dân vốn là giai cấp đông đảo nhất chiếm tuyệt đại đa số
nhân dân trong nước, là giai cấp bị áp bức bóc lột nặng nề nhất dưới ách
thống trị của thực dân phong kiến và là động lực đông đảo của cách mạng.
Giai cấp nông dân Việt Nam chịu hai tầng áp bức của cả thực dân và phong
kiến. Quan hệ sản xuất tư bản phát triển, lúa gạo trở thành món hàng xuất
cảng, ruộng đất càng tập trung trong tay các đồn điền thì sự phân hoá giai
cấp trong nông thôn ngày càng sâu sắc.
- Giai cấp tư sản Việt Nam ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt nên nó
có những đặc điểm riêng. Giai cấp tư sản Việt Nam không sinh ra và trưởng
thành trong cuộc đấu tranh chống phong kiến như ở các nước tư bản khác
mà lại do nền kinh tế thuộc địa đẻ ra (giai cấp tư sản thuộc địa). Nó ra đời
trong lúc giai cấp công nhân Việt Nam đã lớn mạnh và giữ vai trò lãnh đạo
cách mạng. Vì vậy, sinh sau, đẻ muộn, ốm yếu đó là đặc điểm của giai cấp tư
sản Việt Nam.
- Giai cấp công nhân Việt Nam hình thành và lớn mạnh cùng với quá
trình khai thác thuộc địa, hình thành trên quá trình bần cùng hoá và phá sản
của nông dân (do mất ruộng đất nên một bộ phận đi vào làm thuê trong các
đồn điền, hầm mỏ, hầm lò, làm phu phen trong các công trình xây dựng giao
thông đường sắt, đường bộ. Một bộ phận khác đi ra thành thị kiếm sống làm
những nghề tạp, hình thành tầng lớp dân nghèo thành thị...).
- Giai cấp tiểu tư sản hình thành và phát triển cùng với sự phát triển các
thành thị và việc tăng cường bộ máy quan liêu của thực dân, là giai cấp trung
gian trong xã hội. Đặc điểm là dễ dao động, ngả nghiêng, có người cho nó là
cái ao đón nhận mọi tư tưởng từ mọi nơi đến: phong kiến có, tư sản có, đế
quốc có, vô sản cũng có. Trên cơ sở sự phân hoá giai cấp mới, dẫn đến sự
xuất hiện của ý thức hệ tư tưởng mới.
- Hệ ý thức phong kiến: Tuy đến đầu thế kỉ XX đã tỏ ra lạc hậu, lỗi thời
so với ý thức hệ tư sản, nhưng trên thực tế nó vẫn đầy đủ cơ sở để tồn tại.
Đặc biệt ở nông thôn gốc rễ của nó rất sâu.
- Ý thức tư sản: Bắt đầu du nhập vào Việt Nam thông qua các sĩ phu
yêu nước tiến bộ vào đầu thế kỉ XX khi giai cấp tư sản chưa hình thành. Đến
khi giai cấp tư sản hình thành, do giai cấp tư sản sinh sau đẻ muộn cho nên ý
thức tư sản chỉ giới hạn trong phạm vi các thành thị, gia đình và tỏ ra rất yếu
ớt. Trước năm 1930 nó còn phải khuất phục ý thức phong kiến. Sau năm
1930 nó có mạnh lên nhưng xung đột với ý thức phong kiến cũng chỉ xảy ra
trong phạm vi tình cảm cá nhân, gia đình là chủ yếu. Vị trí lịch sử không cho
phép nó xung đột với ý thức phong kiến trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị như
ở các nước tư bản chủ nghĩa thời kì cách mạng tư sản.
- Ý thức vô sản: Từ những năm 20 trở đi, giai cấp công nhân ra đời,
được trang bị bằng vũ khí lí luận cánh mạng, và do đó ý thức vô sản, tiếng nói
của giai cấp công nhân dân dần là tiếng nói tiêu biểu nhất của dân tộc, tuy
rằng về phương diện nào đó trong xã hội, trước năm 1930 nó chưa có dịp chi
phối như ý thức hệ phong kiến và tư sản. Sau năm 1930, ngọn cờ cách mạng
chuyển hẳn sang tay giai cấp công nhân, ý thức vô sản đã hoàn xác lập được
vị trí trên vũ đài lịch sử.
2. Chính sách giáo dục ngu dân của thực dân Pháp ở Việt Nam 2.1. Mục đích thi hành chính sách giáo dục ngu dân
Tính đến cuối thế kỉ XIX (1898) về cơ bản thực dân Pháp đã bình định
xong đất nước ta về mặt quân sự, từng bước củng cố bộ máy cai trị thuộc địa
và bắt tay vào khai thác thuộc địa trên phạm vi cả nước. Song song với
những chính sách bóc lột cực kì tàn khốc về kinh tế, đàn áp dã man về chính
trị, thực dân Pháp đã thi hành một chính sách văn hoá giáo dục nô dịch nhằm
thực hiện một âm mưu chính trị rất thâm độc, nhằm đồng hoá lâu dài đối với
dân tộc ta.
Là một đế quốc thực dân già cỗi (Pháp đã từng xâm lược nhiều thuộc
địa trên thế giới như Angieri, Tuynidi, Ma rốc, Mađagatxca, Tây Phi, một phần
Ấn Độ, Việt Nam, Lào, Cămpuchia) và chỉ đứng thứ hai sau Đế quốc Anh
được mệnh danh là "Đế quốc thực dân" về thuộc địa. Bởi vậy, kinh nghiệm
lịch sử đã dạy cho chúng thấy rằng: Tuy đã khuất phục đối phương bằng
quân sự, nhưng đó chỉ là biện pháp tạm thời. Các dân tộc thuộc địa sẽ không
ngoan ngoãn để cho chúng yên bề thống trị nếu không tiếp tục đầu độc, làm
suy thoái tinh thần phản kháng và trỗi dậy lâu dài của dân tộc đó, nhất là đối
với một dân tộc đã có một lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm, có một nền văn
hoá lâu đời hơn nước Pháp.
Năm 1897, khi tên Pôn Đume sang làm toàn quyền Đông Dương, vừa
đến Hà Nội hắn đã mật báo về Pari một bức điện như sau:
"Nhân dân toàn xứ hầu như đã bị quật xuống dưới quyền thống trị của
chúng ta nhưng họ chưa phải đã thấm nhuần tính chất vĩnh viễn của nền đô
hộ Pháp và họ sẵn sàng lắm lấy một thời cơ thuận lợi hay một giây phút yếu
đuối của chúng ta để lật nhào cái ách nặng trên cổ".
Vì lẽ đó sau khi những tên lính viễn chinh đã làm xong nhiệm vụ xâm
lăng thì thực dân Pháp đặc biệt chú ý đến chính sách văn hoá giáo dục, xem
giáo dục như là một công cụ chắc chắn nhất để thực hiện mưu đồ "chinh
phục tâm hồn" những người dân thuộc địa.
Điều này được thể hiện rõ hơn khi chúng công khai tuyên bố ở hội nghị
thuộc địa Pari năm 1906 như sau:
"Sau khi những tên lính viễn chinh đã làm xong nhiệm vụ bình định
bằng quân sự thì đến lượt người giáo viên thực hiện sự nghiệp của họ"
Chính sách ngu dân có nghĩa là làm cho dân ngu đi để dễ bề cai trị.
Làm cho dân ngu bằng rượu, bằng thuốc phiện và bằng chính sách giáo dục
nô dịch phản động.
Song, chính sách ngu dân này được ngụy trang dưới những chiêu bài
"chấn hưng nền học" của người bản xứ, núp dưới những luận điệu lừa bịp là
đem ngọn đuốc văn minh đến khai phá cho các dân tộc còn lạc hậu.
Thực chất của chính sách ngu dân là nhằm tấn công trực diện vào nền
văn hoá dân tộc, hòng tiêu diệt ý chí độc lập, tự do, truyền thống vẻ vang bất
khuất chống xâm lược của nhân dân ta. Nhằm nô dịch hoá, ngu dốt hoá, bần
cùng hoá, gieo rắc tâm lí bệnh hoạn, tự ty, khiếp sợ uy quyền "Đại Pháp".
Làm cho các tầng lớp người Việt ngoan ngoãn, cúi đầu phục tùng sự thống trị
của thực dân Pháp, thừa nhận sự cai trị của nước mẹ bảo hộ, thực hiện mưu
đồ đồng hoá lâu dài dân tộc ta.
Mục đích này đã bị lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc công khai vạch trần trong
phiên họp Đại hội quốc tế cộng sản tháng 8/1928 như sau: "Ở Đông Dương,
người ta tìm đủ mọi cách để đầu độc chúng tôi bằng thuốc phiện và làm cho
chúng tôi ngu si bằng rượu. Mọi người đều biết rằng, trong khi xâm lược
thuộc địa, chủ nghĩa đế quốc đem theo cảnh giết người, cướp của, trộm cắp,
đem theo bệnh giang mai, rượu chè thuốc phiện. Mọi người đều biết rằng: để
đặt ách thống trị của chúng, thực dân đã phá hoại tất cả những phong tục tập
quán và tất cả nền văn minh của dân tộc bị xâm chiếm. Mọi người đều biết
rằng, muốn biến một dân tộc thành nô lệ, thì phải làm cho dân tộc đó càng ít
văn hoá chúng nào càng tốt chừng ấy".
Chính vì vậy mà thực dân Pháp tìm mọi biện pháp để ráo riết thi hành
chính sách giáo dục ngu dân.
2.2. Các chủ trương mới trong lĩnh vực trường học
Để nhanh chóng áp đặt tư tưởng nô dịch, thực dân Pháp đã nhanh
chóng nắm lấy các công cụ sắc bén đó là: trường học và các trung tâm sinh
hoạt văn hoá giáo dục, với những biện pháp sửa đổi, cải cách để hướng nhà
trường và các trung tâm sinh hoạt văn hoá phục vụ cho mục đích ngu dân.
Các biện pháp chúng sử dụng đều mang tính chất hai mặt: vừa mềm dẻo, ru
ngủ, mị dân, vừa cứng rắn và cưỡng bách, đe doạ bằng vũ lực.
* Thực dân Pháp nắm lấy nhà trường với mục đích:
- Đào tạo tay sai, đào tạo nhân viên thực hành, đào tạo đội ngũ công
nhân chuyên nghiệp, thợ lành nghề phục vụ cho yêu cầu khai thác thuộc địa.
- Thông qua nhà trường, phổ biến nền văn hoá giáo dục nô dịch phản
động, thực hiện mưu đồ đồng hoá rất lâu dài đối với dân tộc ta, đặc biệt là
việc đầu độc đồng hoá thế hệ trẻ.
Thông qua việc dạy học và giáo dục trong nhà trường, nhằm làm cho
thế hệ trẻ hiểu nền văn minh Pháp, hiểu "ngôn ngữ đẹp đẽ" của nền văn
chương và văn hoá Pháp. Chúng hi vọng rằng học sinh bản xứ sẽ dần dần
Pháp hoá, sùng bái văn chương Pháp, từ đó lãng quên hoặc coi khinh nền
văn hoá cổ truyền của dân tộc và sẽ trở thành người dân thuộc địa trung
thành với mẫu quốc.
Như vậy, ở đây ta thấy nảy sinh một mâu thuẫn: Một mặt muốn làm cho
dân ngu dễ trị phải kìm kẹp, giam hãm dân trong vùng ngu dốt tối tăm, phải
hạn chế việc mở trường. Mặt khác do nhu cầu của việc đào tạo tay sai, phổ
biến văn hoá giáo dục nô dịch phải mở trường.
Vì vậy cần thấy rõ một điều, việc mở trường không phải xuất phát từ
thiện tâm khai hoá của thực dân Pháp mà xuất phát từ âm mưu nô dịch, đồng
hoá, thi hành chính sách ngu dân và khai thác kinh tế, tài nguyên ở thuộc địa,
từ nhu cầu đào tạo bộ máy tay sai và âm mưu ru ngủ, đầu độc tinh thần của
thế hệ trẻ.
Các loại trường đào tạo tay sai cho bộ máy cai trị của chính quyền thực
dân, đào tạo viên chức nhỏ, tuỳ phái, thừa hành được mở ra cùng với quá
trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp trong thời kì này.
* Đối tượng, thành phần được học:
Toàn quyền Pôn Đume thú nhận: “Nhưng vì hiện nay, những phương
tiện giáo dục của chúng ta không cho phép với tới quảng đại quần chúng, mà
chỉ hạn chế những sự cố gắng của chúng ta cho một thiểu số, cho nên cần
phải có sự lựa chọn kỹ càng thiểu số đó. Phải coi giáo dục như một thứ của
quý không thể đem phân phát cho bất kì ai mà phải hạn chế sự ban ơn đó,
cho những người được thừa hưởng xứng đáng. Hãy chọn những học sinh
của chúng ta, trước hết trong đám con em những người cầm đầu, con em
những bậc kì hào”.
Vì vậy: trước hết thực dân Pháp dành đặc quyền đặc lợi cho con em
những kẻ giàu có, tư sản, địa chủ phong kiến và tầng lớp trên trong xã hội
được vào học những loại trường trên.
- 1862: mở trường đào tạo thông ngôn. Thành phần là lấy những tên
Việt gian hoặc ngụy quân bán nước vào học. Hiệu trưởng là một tên cố đạo.
Trong buổi đầu xâm lược, Pháp gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp xúc
tìm hiểu phong tục, lịch sử, văn hoá, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội... của
dân tộc bản xứ. Chúng còn “bất đồng ngôn ngữ”, cho nên phải nhờ các giáo
sĩ Pháp biết tiếng Việt, hoặc những người Việt biết lõm bõm tiếng La tinh làm
thông ngôn. Để đẩy mạnh tốc độ xâm lược và khai thác thuộc địa, phải nhanh
chóng mở trường đào tạo một lớp thông ngôn.
- 1871: mở trường sư phạm lấy tên là trường Giám mục Bá Đa Lộc
(một viên cố đạo có công truyền bá đạo Thiên Chúa vào Việt Nam và dọn
đường cho sự xâm lược của chủ nghĩa tư bản Pháp) nhằm đào tạo đội ngũ
giáo viên tiểu học phục vụ cho việc phổ biến nền văn hoá nô dịch của Pháp
tới các tỉnh, huyện. Năm 1874 trường này đổi thành trường trung học đầu tiên
ở Nam kì tức trường Sát -Sơ Lê Lu Ba sau này.
- 1873: Thống đốc Đuyprê cho thành lập Ban học chính, gồm những
người Pháp thông hiểu tiếng Việt, chữ nho để nghiên cứu việc tổ chức giáo
dục ở Nam kì.
- 1874 - 1878: Mở trường "Hậu Bổ" để đào tạo những thanh tra dân sự
người Pháp.
- Trường Nho sĩ: thu hút bọn nhà nho thân Pháp, "bất tài lỡ vận" đang
muốn ngoi lên kiếm chác chút ít danh vọng trong chính quyền thực dân.
- 1885: Nam kì có 6 trường đào tạo quan cai trị Pháp gọi là "Tham
biện".
- Trường "Pháp chính" trong "Đại học cục" cung cấp quan cai trị cho
chính quyền thực dân ở các địa phương.
- 1912: trước tình hình có những học sinh Việt Nam lén lút xuất dương
du học, thực dân Pháp buộc phải mở “trường đại học” nhưng tuyển chọn hết
sức khắt khe, leo lên đến bậc này chủ yếu là con em địa chủ, tư sản và học
xong phần lớn trong số họ phục vụ trung thành và đắc lực cho chính quyền
thực dân.
Trong suốt 80 năm thống trị ở Đông Dương, thực dân Pháp chỉ mở duy
nhất một trường Đại học (cho cả Việt Nam, Lào, Cămpuchia) và chỉ có 3 khoa
Luật, Y dược, Khoa học. Số sinh viên đại học năm cao nhất chỉ có 800 người.
Bên cạnh đó, chính quyền Pháp còn mở các loại trường chuyên nghiệp
đào tạo lớp công nhân và thợ tương đối lành nghề phục vụ cho chính sách
khai thác thuộc địa.
- 1898: Khi vừa hoàn thành công cuộc xâm lược, Pháp đã mở ngay hai
trường đào tạo công nghiệp mỏ ở Hà Nội, Sài Gòn.
- 1889: Mở trường đào tạo công nhân: thợ điện, thợ đúc, thợ rèn, thợ
cơ khí,.. ở Huế.
- Trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ nhất, do nhu cầu vơ vét lúa
gạo, nhân tài vật lực để phục vụ cuộc chiến tranh Pháp đã mở trường "Thực
nghiệm nông nghiệp" ở Bến Cát (Nam kì) và Tuyên Quang (Bắc kì).
- Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất: Mở trường kĩ nghệ thực hành ở
Sài Gòn, Hải Phòng, Huế, trường Kĩ thuật ở Hà Nội, Gia Định, trường cơ giới
Á Đông.
- Một số các cơ quan nghiên cứu cũng được thành lập để phục vụ cho
mục đích tăng cường khai thác thuộc địa như: sở địa chất, sở địa lí, sở kiểm
lâm, sở thú y...
- Khoa nông nghiệp trong đại học cục đào tạo kỹ sư canh nông với mục
đích tăng cường khai thác kinh tế nông nghiệp, khai thác lúa gạo xuất cảng...
Việc thi hành chính sách ngu dân còn thể hiện ở chỗ hạn chế việc mở
trường, giới hạn quyền học tập ở mức thấp nhất đối với con em nhân dân lao
động.
Ở Việt Nam, khi sử dụng giáo dục làm một chính sách ngu dân, thì thực
dân Pháp thấy rằng giáo dục có hại hơn là có lợi, kinh nghiệm đã cho chúng
biết việc truyền bá một nền học vấn đầy đủ cho người bản xứ là hết sức dại
dột. Vì vậy năm 1924 toàn quyền Méc lanh thi hành một chương trình "cải
cách giáo dục" rất nguy hại. Tên thực dân cáo già này viện lẽ rằng 9/10 học
sinh nông thôn Việt Nam không đủ sức theo học đến bậc sơ học cho nên
chính quyền thực dân chỉ cần mở những loại trường sơ học là đủ với đối
tượng này. Y đề ra một chương trình phát triển giáo dục "theo chiều nằm",
chứ không phải theo chiều đứng. Ở các vùng nông thôn chỉ cần mở loại
trường Âu học và Sơ học, còn càng lên cao càng hạn chế khắt khe, "phải coi
giáo dục như một thức của quý không thể ban phát cho tất cả mọi người"
Theo số liệu trong “Đông Dương niên giám thống kê” năm 1936-1937:
+ Bậc sơ học: (Lớp vỡ lòng, lớp 1) bình quân 3 làng, dân số 3000
người có 1 trường sơ học với số học sinh 60 người. (2% dân số)
+ Bậc tiểu học: (Lớp 2, 3, 4) bình quân 34 làng, dân số 30.000 người có
1 trường tiểu học với 115 học sinh. (0,4% dân số).
+ Bậc cao đẳng tiểu học: (có 4 lớp đệ nhất, đệ nhì, đệ tam, đệ tứ)
tương đương với bậc trung học cơ sở hiện nay. Cả Việt Nam năm học 1936 -
1937 có 16 trường cao đẳng tiểu học. Tỷ lệ học sinh cao đẳng tiểu học là 0,
02%, (trong 1 vạn dân có 2 học sinh cao đẳng tiểu học).
+ Bậc trung học: Năm 1936 - 1937 đến trước ngày Cách mạng tháng
Tám thành công, trên toàn cõi Việt Nam chỉ có 3 trường trung học công, số
học sinh là 369. Bình quân là 123 học sinh/ 1 trường và cứ một triệu dân mới
có 19 học sinh trung học. Tỉ lệ là 0,0019%.
Những con số trên là bằng chứng hùng hồn nhất chứng minh thực chất
của chiêu bài "khai hoá văn minh" mà thực dân Pháp thi hành ở Việt Nam
dưới thời Pháp thuộc.
- Hệ thống trường công do chính quyền thực dân mở ra nhìn về hình
thức có vẻ ưu thế hơn số trường công do nhà nước phong kiến mở. Nhưng
đó cũng chỉ là chuyện hình thức và số lượng. Vấn đề quan trọng hơn, quyết
định hơn là ở nội dung và tư tưởng giáo dục trong nhà trường. Thực dân
Pháp đã tiến hành những cải cách đổi mới nội dung, tư tưởng giáo dục cũ,
thay vào đó là tư tưởng giáo dục thực dân thuộc địa, đồng thời xúc tiến "cải
cách học thuật" và văn tự.
Nền văn hoá giáo dục của Việt Nam trước khi Pháp xâm lược chịu ảnh
hưởng nặng nề của văn hoá phương Bắc. Muốn áp đặt tư tưởng ngu dân
thuộc địa, phải thay đổi ảnh hưởng đó, phải làm cho người Việt Nam bắt đầu
từ thế hệ trẻ hiểu rõ nước Pháp, sùng bái, chấp nhận một cách tự nhiên sự
bảo hộ của nước Pháp.
Về mặt hình thức, thực dân Pháp dần dần thay thế hệ thống trường
Hán học bằng hệ thống trường mới gọi là trường tiểu học Pháp - Việt. Hệ
thống này được thay đổi hoàn toàn từ sau khi toàn quyền Anbe Sarô ban
hành quy chế chung về giáo dục (21/12/1917).
Về nội dung các môn học:
+ Các môn khoa học tự nhiên tuy được đưa vào chương trình khá
nhiều như: Toán, Lí, Hoá, Sinh nhưng nặng về lí thuyết, thiếu những tri thức
gắn với thực tiễn Việt Nam, thiếu phần thực hành.
+ Các môn khoa học xã hội như Văn học, Lịch sử, Địa lí, Triết học,
Công dân giáo dục đều theo như sách dùng bên Pháp hoặc biên soạn lại để
tăng cường tính chất nô dịch, phản dân tộc, phản khoa học.
Dạy về Lịch sử Việt Nam sách viết: "Tổ tiên ta là người xứ Gôlơ; xứ
Đông Dương thuộc Pháp gồm 5 xứ: Bắc kì, Nam kì, Ai Lao, Cao Miên và
không có nước Việt Nam trên bản đồ thế giới".
Dạy về văn học, lịch sử Pháp: nếu những vấn đề nào có liên quan đến
chính trị, xã hội và có thể làm cho người ta tỉnh ngộ đều bị bóp méo và xuyên
tạc đi. Có học lịch sử nước Pháp nhưng người ta không hề đả động đến cuộc
cách mạng tư sản Pháp là cuộc cách mạng điển hình ở châu Âu. Các tác
phẩm của Huygô, Rutxô và Môngteskiơ - những nhà tư tưởng tiến bộ của thời
đại lúc đó đều bị cấm dạy trong nhà trường.
Để xúc tiến việc du nhập nền văn hoá tư bản vào thuộc địa, chính phủ
Pháp ra quyết định đổi mới văn tự: thay thế chữ Hán bằng chữ Pháp, dùng
chữ Pháp làm thứ tiếng dạy và học chính thức trong nhà trường. Giờ chữ
Hán bị cắt xén, giờ học tiếng Pháp được tăng cường. Những giáo viên có uy
tín trung thành, giỏi về ngôn ngữ, lịch sử, văn học, sùng bái văn hoá Pháp
được lựa chọn vào đội ngũ giảng dạy. Vài thứ ngôn ngữ mới, trang nhã thanh
tao hơn tiếng Hán đã kích thích đồng loạt học sinh “bỏ bút lông, cầm bút sắt”.
Tiếng Việt từ các bậc sơ học đã bị coi là ngôn ngữ thứ yếu.
Việc thực dân Pháp cố tâm huỷ bỏ chữ Hán được chúng nêu ra là một
cải cách. Nhưng thực chất đây là một biện pháp rất nham hiểm nhằm nhanh
chóng đẩy mạnh tốc độ du nhập nền văn hoá giáo dục Pháp vào thuộc địa,
thực hiện âm mưu đồng hoá đối với thế hệ trẻ Việt Nam, giành giật ảnh
hưởng đối với nền văn hoá phong kiến dân tộc cũ.
Điều quan trọng nữa, thực dân Pháp thấy chữ Hán lúc đó (khoảng đầu
thế kỉ XX) đang được các sĩ phu yêu nước sử dụng để truyền bá tư tưởng
yêu nước và bài Pháp trong nhân dân, thông qua các sách dịch từ chữ Hán
để du nhập những tư tưởng tiến bộ của Cách mạng tư sản ở phương Tây vào
Việt Nam. Đây cũng là một biện pháp thâm độc nhằm ngăn chặn những tư
tưởng yêu nước tiến bộ vào Việt Nam lúc đó.
Bên cạnh các chủ trương "phát triển giáo dục theo chiều nằm", "cải
cách văn tự", "học thuật" chính quyền thực dân còn sửa đổi nốt những quy
cách cử nghiệp phong kiến.
Các khoa thi Hương, thi Hội, thi Đình lần lượt bị bãi bỏ (đến năm 1919
bãi bỏ hoàn toàn). Tính chất trường thi đã thay đổi hẳn. Cái cảnh sĩ tử nhếch
nhác lều chõng đi thi trước kia không còn nữa. Trường thi đã thay đổi để phù
hợp và đáp ứng được yêu cầu khai thác thuộc địa của chính quyền thực dân.
Phương pháp giáo dục trong nhà trường thực dân là sử đụng roi vọt
nhục hình để trừng phạt học sinh, nhằm giáo dục tư tưởng nô lệ cam chịu áp
bức, đè nén.
* Ngăn cấm học sinh Việt Nam đi du học ở nước ngoài:
Đối với việc học sinh Việt Nam đi du học nước ngoài, chính sách của
thực dân là tuyệt đối ngăn cấm, chỉ có một số ít con em địa chủ, tư sản tuyệt
đối trung thành với Pháp được tuyển đi học nhưng cũng phải chịu những thể
thức xin xỏ chui luồn hèn hạ và nhục nhã nhất.
Kinh nghiệm cho chúng thấy rằng: con đường để cho học sinh ra nước
ngoài học tập chính là con đường chống lại chính phủ Pháp, học sinh Việt
Nam sẽ tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của cách mạng tư sản thế giới và của
chính cách mạng Pháp hoặc những tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản (lúc đó
cách mạng 1905 và cách mạng 1917 đã thành công ở nước Nga), để làm
cách mạng. Anbe – Sarô tên toàn quyền thực dân đã công khai thừa nhận:
“Để cho lớp thương lưu trí thức được đào tạo ở nước ngoài thoát khỏi
vòng kiểm toả của chúng ta, chịu ảnh hưởng văn hoá và chính trị của nước
khác, thì thật là một điều nguy hiểm vô cùng. Những người trí thức đó trở về
nước sẽ đưa hết tài năng của họ để tuyên truyền vận động chống lại chúng ta
là những người bảo hộ đã ngăn cấm không cho họ học tập”. Và vì vậy: “nếu
có một người Việt Nam nào có ý định đi du học nước ngoài thì sẽ bị coi như
một người nổi loạn, một người chống Pháp, có tội lớn, người ta hãm hại người
đó và có gia đình họ”. (trích “Đây công lí của thực dân Pháp ở Đông Dương”,
trang 76)
2.3. Các chủ trương trong lĩnh vực hoạt động văn hoá xã hội
Ngoài trường học là nơi tuyên truyền tư tưởng giáo dục ngu dân có
hiệu quả nhất, bọn thực dân nhận thấy các trung tâm sinh hoạt văn hoá xã hội
cũng là nơi dễ dàng nhập cảng tư tưởng ngu dân phản động. Vì vậy chúng
triệt để sử dụng báo chí làm cơ quan ngôn luận, tuyên truyền cho chính sách
thống trị của chủ nghĩa thực dân, tuyên truyền quảng cáo các quan niệm sống
phương Tây bệnh hoạn, du nhập lối sống xa hoa trụy lạc của chủ nghĩa tư
bản vào các thành thị, tuyên truyền đề cao văn hoá Pháp, miệt thị dân tộc
tuyên truyền chủ nghĩa hợp tác Pháp - Việt; dịch thuật, giới thiệu những học
thuyết duy tâm, siêu hình của Pơ - la - Tông; Pát - scan; Béc - xông. Thực
dân Pháp cho phát hành tờ "Đông Dương tạp chí" (1913 - 1917) do Nguyễn
Văn Vĩnh làm chủ bút. Sau đó thay bằng tờ "Nam Phong" (1917 - 1934) do
Mácty (trùm mật thám Đông Dương), Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác là những
trí thức tư sản hợp tác với Pháp làm chủ báo.
Ngoài ra, thực dân Pháp còn cho ấn hành, xuất bản các loại sách triết
học, văn học phản động, thơ đồi trụy, gieo rắc tư tưởng cực đoan, uỷ mị trong
tầng lớp thanh niên; cho phép lưu hành các loại sân khấu điện ảnh giật gân
với nội dung phản động nhằm hình thành ở tầng lớp trẻ quan niệm sống,
nhân sinh quan thấp hèn.
Các sách báo phản động của bọn Việt gian bán nước cũng được thực
dân Pháp khuyến khích xuất bản, như cuốn: "Việt Nam nhân thần giám" (của
Hoàng Cao Khái); vở tuồng “Tượng Tây Nam đắc bằng”... nhằm ca ngợi tư
tưởng trung quân; tuyên truyền tư tưởng nô lệ, đầu hàng cấu kết với Pháp.
Để đẩy mạnh công tác tuyên truyền, lôi kéo tầng lớp trí thức lớp trên,
thực dân Pháp cho lập “Hội khai trí tiến đức” (1919), một mặt nhằm lôi kéo
các tầng lớp trí thức thượng lưu, một mặt để ngăn chặn sự thức tỉnh trong
tầng lớp con cái chúng.
Trong đời sống sinh hoạt xã hội, đặc biệt là ở các đô thị, chính quyền
thực dân ra sức cổ vũ cho lối sống xa hoa trụy lạc của chủ nghĩa tư bản. Cho
phép tự do nấu rượu, mở sòng bạc, lập nhà chứa, tiệm hút thuốc phiện...
nhằm gieo giác tâm lí hưởng lạc "sớm rượu sâm banh tối sữa bò" trong tầng
lớp trẻ. Với mục đích hủy hoại thuần phong mĩ tục của dân tộc, làm cho thanh
niên quên mất thực tế mất nước đau thương của dân tộc, sa vào âm mưu nô
dịch tinh thần của bọn thực dân đế quốc.
Ngoài ra, hàng năm ở các thuộc địa, thực dân Pháp thường mở hội linh
đình để tổ chức kỉ niệm cách mạng tư sản Pháp 1789, trong đó chúng bày ra
nhiều trò chơi mua vui cho những quan Tây. Chúng tổ chức các phong trào
thể dục, vui chơi để thu hút thanh niên dưới những tên gọi rất hoa mĩ như:
"thể dục Đông Dương", "vui vẻ trẻ trung"... với những trò chơi nhục nhã như:
"liếm chảo", "leo cột mỡ", "bắn pháo hoa". Đứng trước những trò mua vui đó,
những ai có ý thức dân tộc không khỏi đau lòng. Có nhà thơ đã mỉa mai chua
chát: “Khen ai khéo vẽ cho vui thế, Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu”. (Hội
Tây - Nguyễn Khuyến)
Tóm lại: Trong các lĩnh vực hoạt động văn hoá xã hội, thực dân Pháp
đã đẩy mạnh tốc độ du nhập lối sống lai căng, xa hoa trụy lạc của chủ nghĩa
tư bản. Cùng với các hình thức giáo dục nhà trường, các hoạt động văn hoá
xã hội như trên đã gieo rắc tư tưởng ngu dân thuộc địa vào trong xã hội, đang
từng ngày từng giờ gặm nhấm những tập quán cổ truyền, những thuần phong
mĩ tục của dân tộc, huỷ hoại tâm hồn thế hệ trẻ, làm cho không ít tầng lớp
thanh niên sa vào âm mưu nô dịch tinh thần của bọn thực dân đế quốc.
2.4. Dùng luật pháp để ngăn chặn ảnh hưởng và đàn áp những tư tưởng giáo dục tiến bộ trong và ngoài nước
- Thực dân Pháp ra sức ngăn chặn ảnh hưởng của những trào lưu tư
tưởng giáo dục tiến bộ trên thế giới dội vào Việt Nam, đặc biệt là những tư
tưởng tiến bộ của cách mạng tư sản phương Tây qua con đường Trung Quốc
và Nhật Bản vào đầu thế kỉ XX; ngăn chặn ảnh hưởng vang dội của Cách
mạng 1905 và Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917. Vì vậy chúng đã kí kết
với chính quyền Mãn Thanh, chính quyền Nhật Bản, nhờ tay các chính quyền
đó giải tán các tổ chức của những người Việt Nam yêu nước đang du học,
tìm con đường canh tân đất nước. Đồng thời, chúng kiểm soát chặt chẽ các
con đường giao lưu văn hoá, ngăn cấm những tài liệu tuyên truyền, sách báo
có tư tưởng tiến bộ được du nhập vào Việt Nam bằng bất kì con đường nào.
- Về đối nội: Thực dân Pháp tăng cường bộ máy cai trị, tổ chức quân
đội, mật thám, chỉ điểm theo dõi các hoạt động giáo dục tiến bộ. Chúng đưa
ra những đạo luật xử phạt nặng nề đối với giáo viên, học sinh có những tư
tưởng hoặc những hoạt động giáo dục tiến bộ; lập nhà tù nhiều hơn trường
học. Trong tác phẩm "Đây công lí của thực dân Pháp ở Đông Dương",
Nguyễn Ái Quốc nói: "trong 1000 làng có 1500 cửa hàng rượu và thuốc phiện,
nhưng cũng trong số 1000 đó chỉ vẻn vẹn có 10 trường học". Chúng còn
thẳng tay đàn áp các gia đình có con em tham gia vào các tổ chức giáo dục
cách mạng, khủng bố các phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên trong
các trường học đòi tự do dân chủ.
3. Hậu quả của chính sách giáo dục ngu dânViệc thực hiện chính sách giáo dục ngu dân thâm độc của thực dân
Pháp sau 80 năm đô hộ đã để lại những hậu quả vô cùng nghiêm trọng trong
đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân ta. Từ một dân tộc có truyền thống
hiếu học lâu đời, với quan niệm "nửa bụng chữ bằng một hũ vàng" dù nghèo
đói đến đâu ông cha cũng cố gắng cho con em đi học kiếm dăm ba chữ làm
người, thực dân Pháp đã đẩy nhân dân ta vào con đường tối tăm dốt nát,
trong đó 90% dân số (có nơi 100%) bị mù chữ.
- Chính sách giáo dục ngu dân phản động đó cũng là nguồn gốc trực
tiếp cho ra đời một lớp người Việt mất hết lương tri, phản dân hại nước. Đó
chính là một đội ngũ quan lại bản xứ, bọn Việt gian bán nước cam tâm làm
tay sai cho thực dân Pháp. Chính sách giáo dục ngu dân đó đã phục vụ cho
âm mưu chính trị thâm độc “dùng người Việt trị người Việt” - một hậu quả hết
sức đau lòng đối với một dân tộc bị xâm lược.
- Dùng chính sách giáo dục ngu dân làm công cụ nô dịch tinh thần, thực
dân Pháp đã thực hiện được mưu đồ kìm hãm sự phát triển của xã hội Việt
Nam, ngăn chặn tinh thần tự do dân chủ và những tư tưởng tiến bộ, tư đó
hòng kìm hãm bước tiến của phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân Việt
Nam đang dâng lên mạnh mẽ.
CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu 1. Nền giáo dục nô dịch và thuộc địa của thực dân Pháp được xây
dựng trên một nền tảng kinh tế, xã hội như thế nào?
Câu 2. Phân tích mục đích và các biện pháp thi hành chính sách giáo
dục ngu dân của thực dân Pháp ở Việt Nam trong thời Pháp thuộc.
Cầu 3. Phân tích những hậu quả của chính sách giáo dục ngu dân đối
với đời sống văn hóa tinh thần và sự phát triển của xã hôi Việt Nam dưới thời
Pháp thuộc.
Chương 3. PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CHỐNG NỀN GIÁO DỤC NÔ DỊCH CỦA THỰC DÂN PHÁP
1. Phong trào đấu tranh chống nền giáo dục nô dịch do các sĩ phu yêu nước lãnh đạo (đầu thế kỉ XX)
Bước sang đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp ra sức mở rộng công cuộc
khai thác thuộc địa lần thứ nhất để vơ vét nhân tài, vật lực phục vụ cho cuộc
đại chiến thế giới mà Pháp là một bên tham chiến. Sự kiện đó đã làm xuất
hiện những yếu tố mới của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa và làm ảnh hưởng
đến tình hình các giai cấp xã hội và phong trào cách mạng đang diễn ra trong
nước.
Trong tình hình Việt Nam có những biến chuyển như vậy một trào lưu
tư tưởng mới ở Âu châu tràn sang, đang phát huy mạnh mẽ ảnh hưởng ở Á
Đông và dội vào Việt Nam. Trong khi Âu châu bước vào thời kì đế quốc chủ
nghĩa, ý thức hệ tư sản bị coi như là lạc hậu, lỗi thời ở các nước tư bản tiên
tiến thì lại tỏ ra rất mới mẻ đối với các nước ở châu Á đang bị ý thức hệ
phong kiến thống trị từ lâu đời. Tiếp thu luồng tư tưởng tư sản mới đó giai cấp
phong kiến Nhật Bản đã tư sản hóa đã tiến hành cải cách và đã kịp thời
chuyển nước Nhật từ phong kiến lên tư sản. Giai cấp tư sản dân tộc cùng với
các sĩ phu cấp tiến ở Trung Quốc đã dịch khá nhiều sách âu Mỹ để tuyên
truyền và phổ biến rộng rãi tư tưởng dân chủ tư sản. Trào lưu tư tưởng mới
hấp dẫn như vậy, nhưng ở Việt Nam giai cấp tư sản dân tộc chưa hình thành
cho nên tư tưởng đó chỉ có thể thông qua một số sĩ phu tiến bộ trong giai cấp
phong kiến để bén rễ vào Việt Nam thông qua các sách dịch của Trung Quốc.
Các sĩ phu yêu nước tiến bộ thuộc phái duy tân đã phát động phong trào cứu
nước sôi nổi theo khuynh hướng dân chủ tư sản, tiêu biểu là các phong trào
Đông Du và Đông kinh nghĩa thục.
Về phương diện văn hóa giáo dục, các phong trào vận động cứu nước
trên cũng đồng thời là cuộc đấu tranh quyết liệt chống lại nền giáo dục nô dịch
phản động của thực dân Pháp. Nếu như ở thời kì trước, phong trào đấu tranh
chống nền văn hóa giáo dục nô dịch mới chỉ là những biểu hiện bất hợp pháp,
tẩy chay nhà trường của thực dân, và tiếp tục mở trường ở nông thôn để các
thầy đồ, các sĩ phu dạy dỗ con em của nhân dân thì sang đầu thế kỉ XX này,
cuộc đấu tranh đã tiến lên một bước cao hơn, đi vào tổ chức không những ở
trong nước mà lan ra cả nước ngoài. Nội dung của phong trào cũng không chỉ
dừng lại ở chỗ nhằm bảo vệ một nền giáo dục sẵn có, cổ truyền mà tiến lên
nhằm đấu tranh cho một nền giáo dục độc lập dân chủ (tư sản) và tiến bộ.
1.1. Phong trào Đông Du
Bước sang đầu thế kỉ thứ XX, trước hoàn cảnh mới của lịch sử, các sĩ
phu yêu nước tiến bộ thức thời, những con người trước đây đã được đào tại
trong nền giáo dục cổ truyền của dân tộc, những người tiêu biểu cho ý thức
và tinh thần quật khởi của dân tộc đã giương cao ngọn cờ tìm đường cứu
nước. Họ nhìn về giai đoạn lịch sử nước, rút kinh nghiệm đấu tranh của các sĩ
phu trong phong trào Cần vương, nhìn đến hiện tại của đất nước, thấy con
em của Tổ quốc đang đứng trước nguy cơ bị thực dân đồng hóa, đầu độc,
dẫn đến thảm họa diệt vong. Vì vậy, trong phong trào vận động cứu nước giải
phóng dân tộc, các sĩ phu yêu nước thấy không thể không chú ý đến việc giáo
dục cho nhân dân để "nâng cao dân trí, chấn hưng dân khí", không thể không
học tập các nước văn minh tiên tiến trong công cuộc Duy tân đất nước làm
cho dân giầu nước mạnh đủ sức chống xâm lược.
Sau chiến thắng Nga hoàng năm 1904 - 1905, Nhật Bản đã trở thành
một nước đế quốc. Sự quật cường của giai cấp phong kiến Nhật Bản tư sản
hóa đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến tầng lớp sĩ phu yêu nước Việt Nam, họ tôn
Nhật là nước "anh cả da vàng" và mong muốn nhờ Nhật giúp đỡ cho cuộc
đấu tranh giành độc lập cho Tổ quốc. Một xu hướng mới trỗi dậy là phải Duy
tân. Các sĩ phu yêu nước đã phát động phong trào Đông du, đi về phương
Đông (Nhật Bản) để học tập và tìm đường cứu nước. Người lãnh đạo phong
trào Đông Du là chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu.
Mục đích của phong trào Đông du là dùng bạo lực đánh đuổi thực dân
Pháp giành độc lập cho Tổ quốc. Để thực hiện mục đích đó, Phan Bội Châu
và những nhà lãnh đạo khác của phong trào đã vạch ra chủ trương đường lối
hành động rất rõ ràng: chủ trương chính là dựa vào sự giúp đỡ của Nhật Bản
với các nước phương Tây để đánh Pháp. Yêu cầu tối đa là sự giúp đỡ toàn
diện của Nhật Bản đối với toàn bộ phong trào cách mạng Việt Nam, yêu cầu
tối thiểu là nhờ Nhật giúp đỡ vũ khí, lương thực, nhận học sinh Việt Nam du
học. Sau khi chuẩn bị lực lượng ở bên ngoài, Phan Bội Châu trở về nước liên
kết với các lực lượng chống Pháp để chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang trong toàn
quốc. Bên cạnh đường lối bạo động, Phan Bội Châu còn chủ trương tiến
hành các biện pháp cải cách về kinh tế, văn hóa giáo dục “mở mang dân trí”,
“chấn hưng dân khí” để bồi dưỡng nâng cao tinh thần cách mạng và trình độ
văn hóa cho nhân dân. Trong niên biểu Phan Bội Châu đã thể hiện tư tưởng
đó như sau:
“Tôi say mê chuyện của Ma - di - ni về câu nói “Giáo dục và bạo động
phải song song tiến hành” cho nên một mặt tôi khuyến khích học sinh xuất
dương, một mặt tôi khuyến khích tư tưởng cũng như hành động cách mạng
của nhân dân trong nước”.
Điều đó thể hiện rất rõ tư tưởng bạo động cách mạng và sử dụng giáo
dục là một công cụ đấu tranh sắc bén cho cuộc đấu tranh giành độc lập của
Phan Bội Châu. Bên cạnh đường lối hành động như trên, Phan Bội Châu
cùng các nhà lãnh đạo khác của phong trào Đông du đã dự định xây dựng
một chế độ quân chủ lập hiến sau khi giành được độc lập, chế độ đó theo
hình ảnh của Nhật Bản mà ông được biết qua tác phẩm “Nhật Bản tam thập
duy niên sử”. Để thực hiện ý đồ đó, Phan Bội Châu đã tôn Cường Để lên làm
hội chủ và lấy danh nghĩa đứng đầu phong trào Đông du.
Năm 1905, Phan Bội Châu lên đường sang Nhật để vận động cho du
học sinh sang học. Từ năm 1905 đến 1908, phong trào phát triển rất mạnh
mẽ sôi nổi, số học sinh tăng lên rất nhanh, từ 3 thanh niên đầu tiên số học
sinh đã tăng lên đến 200 người (100 người Nam kì, 50 người Trung kì, 40
người Bắc kì)
Việc học tập của học sinh ngày càng đi vào nề nếp. Những thanh niên
được chọn đi du học đều là những người “thông minh hiếu học, chịu gian khổ,
quen khó nhọc, quyết chí bền gan, không bao giờ thay đổi”. Có những thanh
niên đã có những hành động và thể hiện phẩm chất tốt đẹp của người chiến
sĩ cách mạng như Lương Nhập Tam tự nguyện "thổi sáo ăn xin", như Đàm Kì
Sinh tự nguyện giữ việc bếp nước, rửa bát, quét nhà, giặt chiếu, để nuôi đồng
chí kiếm sống trong điều kiện học tập gặp nhiều gian khổ.
Từ nước ngoài, Phan Bội Châu đã viết các tác phẩm, tài liệu tuyên
truyền gửi về nước, tiêu biểu như: “Việt Nam vong quốc sử”, viết năm 1905,
“Hải ngoại huyết thư” (viết năm 1906) và “Tân Việt Nam” (1907) để khích lệ
lòng yêu nước, chí căm thù giặc, đề cập tới nhiều vấn đề có liên quan tới số
phận và tiền đồ của đất nước... các tài liệu đó được công khai giới thiệu với
quần chúng nhân dân trong các buổi bình văn, diễn thuyết.
Cuộc vận động cứu nước của phong trào Đông du đã tạo nên một
phong trào cách mạng sôi nổi và được nhân dân ta, nhất là nhân dân Nam kì
tích cực hưởng ứng. Nhân dân hoặc góp tiền, hoặc ra sức cổ vũ, vận động
cho con em du học. Sự lớn mạnh của phong trào đã làm cho thực dân Pháp
hết sức hoảng sợ và tìm mọi cách để trấn áp phong trào một cách hợp pháp.
Tháng 9/1908 sau khi kí hiệp ước bắt tay với Nhật, Pháp thẳng tay đàn áp
những gia đình có con em du học, Nhật giải tán du học sinh Việt Nam và trục
xuất các lãnh tụ của phong trào ra khỏi Nhật. Vì vậy, phong trào tan rã nhanh
chóng và đi đến thất bại.
Phong trào Đông du do hội Duy tân tổ chức và phát động là một phong
trào vận động giải phóng dân tộc sôi nổi nhất ở đầu thế kỉ XX. Về phương
diện văn hóa giáo dục, phong trào Đông du cũng là một biểu hiện của tinh
thần quật khởi, một biểu hiện tốt đẹp của truyền thống dân tộc trong cuộc đấu
tranh chống nền văn hóa giáo dục nô dịch của thực dân Pháp. Ý thức dân tộc,
truyền thống hiếu học sẵn có từ ngàn năm của dân tộc ta đã thúc đẩy các sĩ
phu yêu nước phải thoát khỏi vòng kiềm tỏa của thực dân để tìm đường học
tập, gắn liền việc học tập với việc cứu nước, gắn liền phong trào đấu tranh
cho một nền giáo dục tiến bộ với cuộc đấu tranh giải phóng đất nước. Phong
trào đã giáo dục và giác ngộ cho quần chúng nhân dân thấy rõ bộ mặt thật
của kẻ cướp nước ta, giáo dục lòng yêu nước, căm thù giặc, tinh thần bất
khuất vì độc lập và tự do của Tổ quốc... Phong trào Đông du đã đào tạo được
một đội ngũ chiến sĩ cách mạng có năng lực, có tác dụng thúc đẩy, lôi cuốn
các sĩ phu văn thân trong nước. Nhưng cuối cùng phong trào đã bị thực dân
Pháp đàn áp và tan rã nhanh chóng. Nguyên nhân nào đã dẫn phong trào đến
chỗ thất bại?
Phan Bội Châu với tư tưởng "đồng văn đồng chủng" đã tin tưởng dựa
vào sự giúp đỡ của Nhật Bản, gửi du học sinh sang Nhật, hi vọng rằng Nhật
sẽ giúp đỡ, cung cấp cho học sinh Việt Nam những tri thức khoa học kĩ thuật,
tri thức lí luận cách mạng (dân chủ tư sản) để có đủ khả năng trở về giải
phóng Tổ quốc. Rõ ràng ở đây những người lãnh đạo phong trào Đông du đã
không nhận thức được bản chất giai cấp giống nhau của thực dân và đế
quốc: chúng đều là kẻ đi xâm lược và bóc lột nhân dân các nước thuộc địa.
Dù là thực dân da trắng hay đế quốc da vàng, thì bản chất giai cấp bóc lột
cũng chỉ là một mà thôi. Trong hoàn cảnh lịch sử ở đầu thế kỉ XX này, khi mà
chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc thì đường lối
đó chẳng khác nào như “đưa beo của trước, rước hùm của sau”. Việc Nhật
Hoàng kí kết hiệp ước với Pháp, đàn áp phong trào đã thừa nhận địa vị thực
dân của Pháp ở Đông Dương. Việc đuổi du học sinh ra khỏi Nhật và trục xuất
các lãnh tụ của phong trào chứng minh rất rõ sự sai lầm trong đường lối giai
cấp, mà cụ thể là việc xác định bạn thù, đồng minh của cách mạng.
Mặt khác, khi lựa chọn những thanh niên đi du học, Phan Bội Châu đã
chỉ ra mười hạng người là lực lượng của cách mạng, đó là: "Các nhà hào
phú, các quan lại tại chức, các con nhà quyền quý, các giáo đồ thiên chúa
giáo, thủy lục quân, đồ đảng, hội đảng, thông ngôn, kí lục bồi bếp, giới phụ
nữ, con em nhà bị giặc tàn sát, học sinh hải ngoại". Những người được Phan
Bội Châu chọn lựa cho đi du học cũng nằm trong đối tượng trên, họ phần lớn
đều là con em gia đình giầu có, thuộc tầng lớp trên và tầng lớp trung gian.
Việc chọn lựa trên cho thấy Phan Bội Châu và những người lãnh đạo phong
trào Đông du chủ yếu dựa vào sự phân biệt về nghề nghiệp, tôn giáo, địa vị
mà không dựa trên một quan điểm giai cấp nhất định. Chính vì vậy phong trào
Đông du chưa tỏa được ảnh hưởng sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân lao
động, đó cũng là một hạn chế của phong trào.
1.2. Cuộc đấu tranh theo khuynh hướng cải lương, đại diện là Phan Chu Trinh
Cũng vào những năm đầu của thế kỉ XX, song song với khuynh hướng
bạo động của Phan Bội Châu, thì một phong trào đấu tranh chống lại nền văn
hóa giáo dục nô định của thực dân Pháp, theo khuynh hướng cải lương, do
cụ Phan Chu Trinh khởi xướng cũng được phát động. Cùng đấu tranh cho
một mục đích nhưng chủ trương đường lối của hai cụ Phan khác nhau rất xa.
Khác với chủ trương bạo động của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh
chủ trương đấu tranh theo khuynh hướng cải lương, ôn hòa. Ông kiên quyết
chống lại đường lối bạo động và cầu ngoại viện của Phan Bội Châu. Ông
thường nêu khẩu hiện "Bất bạo động, bạo động tắc tử bất vọng ngoại, vọng
ngoại giả ngu" (nghĩa là "chớ bạo động, bạo động ắt chết, chớ cầu ngoài, cầu
ngoài là ngu"). Ông chủ trương dựa vào chính quyền thực dân Pháp và
những văn thân sĩ phu có tâm huyết, tiến hành cuộc duy tân đất nước về
nhiều phương diện trong đó ông chú ý nhiều đến lĩnh vực văn hóa giáo dục.
Ông chủ trương hai điểm: dân trí và dân quyền; muốn khai thông dân trí thì
phải cải cách, muốn có dân quyền thì phải dựa vào Pháp để đánh đổ bọn vua
quan phong kiến Nam triều, mà theo ông đó là kẻ thù chính, là bọn sâu mọt
đục khoét nhân dân đưa đến tình trạng đói nghèo, lạc hậu của nước Nam lúc
đó. Về giáo dục, ông luôn luôn cổ động cho một nền tân học, thay lối học
khoa cử bằng thực học, bỏ chữ Hán, dạy chữ quốc ngữ, tuyên truyền giáo
dục trong nhân dân lòng yêu nước, lòng tự trọng và nếp sống văn minh...
Theo ông, đất nước phải giầu có, dân phải được học hành, quyền dân phải
được đề cao thì mới độc lập được
Để thực hiện chủ trương đường lối trên, Phan Chu Trinh kêu gọi đấu
tranh bằng phương pháp hòa bình, hành động cải lương ôn hòa như: kêu gọi
đồng bào để răng trắng, cắt tóc ngắn, bài trừ mê tín dị đoan, dùng đồ nội hóa
v.v.
Ông tích cực diễn thuyết để tuyên truyền chủ nghĩa cải lương của mình,
đặc biệt ông cũng rất tích cực đi vận động mở các trường kiểu mới. Riêng
Phan Chu Trinh đã đi mở tới 48 trường học kiểu mới, 3 trường lớn nhất là
Diễn phong, Phúc bình và Phúc lâm, mỗi trường có tới 70 đến 80 học sinh.
Các trường này bỏ chữ Hán, dạy chữ quốc ngữ, có trường còn dạy vẽ, dạy
hát và thể thao. Sĩ phu ở đây cũng thường xuyên tổ chức các buổi diễn
thuyết, cổ động cho nền tân học, bàn luận các vấn đề văn hóa, xã hội, thời sự
quốc tế, tuyên truyền và xây dựng nếp sống văn minh. Thói xa hoa mê tín dị
đoan, những tập tục hủ bại bị đả kích kịch liệt...
Trong lúc bọn thực dân xâm lược cố tình duy trì những thói hư tật xấu
và nền giáo dục phản động, lạc hậu của chế độ phong kiến để làm chỗ dựa
thi hành chính sách ngu dân thì những cuộc vận động mang tính chất hợp
pháp này của Phan Chu Trình là cuộc đấu tranh tấn công trực diện vào chính
sách văn hóa giáo dục nô dịch phản động của chúng. Phong trào đã có tác
dụng nâng cao tình cảm dân tộc, chí tiến thủ và tinh thần yêu nước của nhân
dân Trung kì.
Mặc dù Phan Chu Trinh cũng chỉ hạn chế phong trào trong khuôn khổ
cải lương, ôn hòa song phong trào do ông lãnh đạo cuối cùng cũng bị thực
dân Pháp trấn áp và đi tới chỗ thất bại nhanh chóng.
1.3. Phong trào Đông kinh nghĩa thục
Phong trào đấu tranh chống nền văn hóa giáo dục nô dịch do các sĩ
phu yêu nước lãnh đạo được phát động rầm rộ, sôi nổi ở khắp nơi trong
nước. Nếu như phong trào Đông Du đặc biệt phát triển mạnh mẽ ở Nam kì,
thì ở Bắc kì và Trung kì lại có một cuộc vận động mở trường dạy học rất lớn.
Để giáo dục lòng yêu nước, truyền bá tư tưởng canh tân, các sĩ phu yêu
nước tiến bộ đã lợi dụng chủ trương phổ biến chữ Pháp, chữ quốc ngữ, chủ
trương "cải cách" giáo dục của thực dân để mở một loạt trường tư thục. Lớn
nhất là trường Đông kinh nghĩa thục.
Đông kinh nghĩa thục được thành lập vào tháng 3 năm 1907 do sáng
kiến của một số sĩ phu yêu nước tiến bộ tiêu biểu như Lương Văn Can,
Nguyễn Quyền, Đào Nguyên Phổ... với phương châm cách mạng bằng văn
hóa và chịu ảnh hưởng của Khánh ưng nghĩa thục nước Nhật do Phúc Trạch
lập ra để giáo dục nhân dân. Đông kinh nghĩa thục không chỉ là một trường
học mới mà đó còn là một tổ chức cách mạng hoạt động dưới hình thức hợp
pháp công khai để hưởng ứng cuộc vận động cứu nước do Phan Bội Châu và
Duy Tân hội đang phát động lúc đó.
Đường lối chung của Đông kinh nghĩa thục là: thông qua hình thức hoạt
động công khai hợp pháp của một nhà trường, thông qua các tài liệu tuyên
truyền cổ động, dùng các hình thức báo chí, diễn thuyết, bình văn để cổ động
bồi dưỡng và nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc và chí tiến thủ cho
quần chúng, tuyên truyền nền học thuật mới, và nếp sống văn minh, phổ biết
tư tưởng dân chủ tư sản của Rút xô, Mông-teskiơ... và những tư tưởng cách
mạng của Trung Quốc như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, phổ biến các tri
thức phổ thông về khoa học, lịch sử, địa lí. Đả kích thói u mê hủ lậu của
những người còn đắm say trong văn chương cử nghiệp, trong lề thói phong
kiến lạc hậu, truyền bá và kêu gọi mọi người học tập văn minh tiến bộ (tư sản)
để lên đường cứu nước. Thực chất, đây cũng là đòn giáng mạnh vào hệ tư
tưởng nho giáo và nền giáo dục phong kiến phản động đang được thực dân
lợi dụng, duy trì để thi hành triệt để chính sách ngu dân.
Đông kinh nghĩa thục thực sự là nơi thực hành tư tưởng Duy tân, cổ
xúy cho một nền Tân học. Xuất phát từ mục đích đào tạo mẫu người cho thời
đại mới - con người của thời đại Duy tân, các nhà sáng lập Đông kinh nghĩa
thục đã thực hiện một chương trình giáo dục mới, với nội dung, phương pháp
giáo dục hoàn toàn mới theo phương châm "nhật tân, nhật tân, hưu nhật tân"
(ngày một mới, ngày thêm mới, và ngày phải mới). Những tiến bộ trong
phương pháp đào tạo của nhà trường có thể được ghi nhận ở những điểm
sau đây:
* Đề cao phương châm tự lực cánh sinh, liên hệ chặt chẽ với quần
chúng để xây dựng và củng cố nhà trường:
Đông kinh nghĩa thục là một trường tư có quy mô to lớn, kể cả khi so
sánh với những trường tư bề thế trước và sau Cách mạng tháng Tám. Trong
vòng 9 tháng, trường đã mở được hơn 40 lớp học, thu nạp hàng ngàn học
sinh các cấp. Học sinh được cấp sách vở, giấy bút, học sinh nghèo được ăn
ở ngay trong khu nội trú của trường. Từ việc xây dựng cơ sở vật chất, biên
soạn sách vở, đồ dùng dạy học, xây dựng chương trình đến các khoản kinh
phí phục vụ cho việc giảng dạy và học tập... nhà trường đều dựa vào sự nhiệt
tình của các sáng lập viên, của đông đảo quần chúng có hảo tâm với sự
nghiệp giáo dục của trường và sự đóng góp trực tiếp của các học viên. Trong
hoàn cảnh đặc biệt khó khăn và thiếu thốn đó, nhà trường đã biết phát huy
tinh thần tự lực cánh sinh, tự lực tự cường, biết dựa vào dân, phát huy truyền
thống hiếu học của nhân dân để động viên họ góp sức vào việc duy trì và
củng cố sự nghiệp giáo dục mới. Ở Hà Nội cho đến nay vẫn còn dấu vết
những đền chùa, những nhà rộng của tư nhân cho nhà trường mượn làm lớp
học. Danh sách niêm yết tên những người ủng hộ ngân quỹ cho nhà trường
trong mấy tháng đầu đã chiếm một bảng lớn vẫn còn được lưu lại trong
những trang sử viết về Đông kinh nghĩa thục.
* Chống lối dạy - học giáo điều, tầm chương trích cú, xây dựng phương
pháp dạy - học mới, phát huy óc sáng tạo trên cơ sở bảo đảm những nguyên
tắc nhân bản, tiến bộ, hiện đại.
Lối dạy học từ chương khoa cử, giáo điều, nhồi nhét kiến thức là lối dạy
- học đã thống trị trong nhà trường phong kiến hàng nghìn năm. Tệ hại đó là
một trong những nguyên nhân kìm hãm người đi học trong vòng khuôn sáo,
nệ cổ, dệt nát. Người học sinh đi học phải thuộc lòng các sách kinh điển của
Nho gia, phải kể lại được trơn tru vanh vách “Thi thiên, phú bách, văn sách
năm mươi” (một nghìn bài thơ, một trăm bài phú, năm mươi bài văn sách)
mặc dầu có thể không hiểu nhưng vẫn được coi là một sự hoàn hảo về học
vấn. Các nho sĩ thường khen nhau về trí nhớ tài tình, tôn trí nhớ máy móc lên
hàng đầu, làm mờ nhạt mọi khả năng trí tuệ khác. Khi thi cử, làm bài cũng
phải trưng dẫn, chép lại được từng đoạn dài trong sách cũ, nói theo hoặc ca
ngợi lí luận kinh điển, chứ không được có ý kiến gì bài bác, chê bai ngược lại.
Học sinh đi thi đã có sẵn một công thức làm bài “Đường, Ngu, Tam đại thì
khen. Hán, Đường trở xuống thì lèn cho đau” đó là cái nếp quen thuộc trong
trí nhớ mà học sinh cần nắm để ứng phó cho dễ dàng.
Lối dạy và học của nhà trường phong kiến đã làm cho óc sáng tạo bị
bóp nghẹt, tài năng con người bị thui chột. Lối dạy học của chính sách giáo
dục ngu dân lại làm cho con người can tâm sống trong vòng nô lệ dốt nát.
Nhận thức rõ điều đó, các nhà giáo dục của Đông kinh nghĩa thục khẳng định
rằng: phải phá bỏ lối dạy học cũ xây dựng một phương pháp dạy - học mới
nhằm khơi dậy chí tiến thủ, óc sáng tạo, kích thích bầu nhiệt huyết để giáo
dục góp phần đưa đất nước tiến lên con đường văn minh tiến bộ.
Trên tinh thần đó, các phương pháp sư phạm mới đã xuất hiện: thầy trò
không chỉ sử dụng phương pháp giảng sách bình văn mà còn tổ chức các
hình thức mới: diễn thuyết, đọc báo, đóng kịch, ngoại khoá, tổ chức những
hoạt động dạy học gắn với thực tiễn. Học trò được tổ chức thảo luận, bàn
bạc, đối đáp tự do về các vấn đề được học, nhất là các đề tài chính trị, thời
sự quốc tế, khoa học thường thức. Thầy giáo thường hướng dẫn học sinh
liên hệ bài học với thực tế cuộc sống, nhất là kỹ năng phân tích tình hình xã
hội, thời sự quốc tế. Trên cơ sở đó học sinh tiếp thu những tư tưởng khai
sáng, canh tân đất nước. Ngoài những hình thức giảng dạy nội khoá trường
còn tổ chức những buổi diễn thuyết ra ngoài nhà trường nhằm mục đích thu
hút sự ủng hộ của quần chúng đối với nền Tân học, cổ động lòng yêu nước,
xây dựng nếp sống văn minh. Phương pháp giảng dạy đó đã làm cho nhiều
buổi học của Đông kinh nghĩa thục trở thành một cuộc mít tinh, một cuộc bố
cáo:
“Buổi diễn thuyết người đông như hội
Kì bình văn khách đến như mưa”
Ngoài ra, một nét mới trong phương pháp giảng dạy của nhà trường là
đã sử dụng một số phương tiện trực quan trong dạy học (nhất là khi giảng về
địa lí, lịch sử Việt Nam). Lần đầu tiên tấm bản đồ Việt Nam được treo giữa
cổng trường dùng làm phương tiện giảng dạy, tuyên truyền về lịch sử Việt
Nam, đất nước Việt Nam. Nhân dân vô cùng cảm kích, vì đây là lần đầu tiên
được chiêm ngưỡng hình ảnh của Tổ quốc một cách công khai như vậy.
* Phương pháp giáo dục đề cao nhân bản, tôn trọng con người.
Trong nhà trường phong kiến và thực dân nếu phương pháp dạy học
đã làm óc sáng tạo của con người bị bóp nghẹt, tài năng thui chột, thì phương
pháp giáo dục lại càng biến người đi học thành những kẻ nô lệ tôi tớ, chỉ biết
cúi đầu phục tùng mù quáng. Người ta chủ yếu dùng roi vọt, sỉ vả, nhục hình
làm biện pháp trừng phạt học sinh nếu như họ không thuộc bài hay vi phạm
quy phạm đạo đức trong nhà trường.
Trước thực trạng đó, các nhà giáo dục của Đông kinh nghĩa thục nhận
định cần phải đổi mới ngay cả quan niệm phương pháp giáo dục con người.
Họ cho rằng: “Mỗi người ai cũng có một “bản vị” riêng (nói theo chúng ta bây
giờ là nhân cách), mà giáo dục chỉ đóng vai trò là động cơ thúc đẩy nhân
cách ấy. Vì vậy người thầy không thể là vị thẩm phán hay quan tòa ngồi trên
bục cao để tuyên án mà chỉ là vị cố vấn đúng đắn nhiệt tình”. Vì vậy khi vận
dụng các phương pháp giáo dục, người thầy phải biết tôn trọng tự do và
phẩm cách của trò, phải làm sao cho học trò gạt bỏ được những thành kiến
nô lệ cũ, biết nuôi dưỡng lòng tự trọng và nghĩa vụ đối với Tổ quốc. Trên tinh
thần đó nhà trường không chỉ dành riêng cho học sinh trai mà còn dành cho
cả học sinh gái. Bằng phương pháp giáo dục đề cao nhân cách con người,
các nhà giáo dục không những muốn bài trừ tư tưởng "nam tôn, nữ ti", "nhất
nam viết hữu thập nữ viết vô" của tư tưởng phong kiến, mà còn muốn cho
phụ nữ có quyền bình đẳng hưởng sự giáo dục, từ đó phát huy vai trò, sức
mạnh của mình trong công cuộc cải tạo xã hội, duy tân đất nước.
* Chú trọng giáo dục sơ đẳng gắn với giáo dục chuyên môn, nghề
nghiệp.
Mục đích đào tạo của nền giáo dục phong kiến là đào tạo những người
làm chính sự. Nội dung giáo dục chủ yếu là cung cấp những tri thức về chính
trị, đạo đức văn chương... mà không chú ý cung cấp những kiến thức về tay
nghề, sản xuất ra của cải vật chất. Con em nông dân học nghề nông một cách
tự phát qua việc tham gia công việc đồng áng, những người làm nghề thủ
công được truyền nghề bằng cách kèm cặp thông qua các tổ chức, phường
hội chứ hoàn toàn không có trong chương trình đào tạo của nhà trường.
Chính vì vậy mà phương pháp đào tạo con người nói chung của nhà trường
phong kiến là thoát ly thực tiễn, thoát li đời sống và lao động sản xuất, tách
biệt lao động trí óc với lao động chân tay. Người ta quan niệm rằng học là để
đi thi, thi đỗ để làm quan cai trị đất nước.
Lần đầu tiên trong lịch sử giáo dục Việt Nam có một nhà trường mới đã
thành công khi tách rời thi cử ra khỏi giáo dục. Theo quan niệm mới, các sĩ
phu Đông kinh nghĩa thục cho rằng, học không phải để đỗ đạt ra làm quan,
mà để làm người dân, làm người hữu dụng, cho nên trước hết phải học được
kiến thức cơ sở, từ đó chú ỷ đào tạo "cán bộ chuyên môn" cho từng ngành
nghề. Về phương diện này Đông kinh nghĩa thục chịu ảnh hưởng và mô
phỏng theo hình ảnh của "Khánh ứng nghĩa thục" nước Nhật, đã chú ý đến
một phương pháp đào tạo căn bản của nền Tân học, đó là chú ý đến hai bậc
học: cơ sở và chuyên môn. Môi người đi học phải hướng tới một nghề nhất
định. Vì vậy nhà trường đã rầm rộ cổ vũ dịch thuật các sách khoa học và
khuyến khích việc học nghề. Các giáo sư của Đông kinh nghĩa thục tích cực
cổ động không những trong nhà trường mà cả ra ngoài quần chúng, về đến
cả vùng thôn quê.
Đông kinh nghĩa thục là nhà trường đầu tiên trong lịch sử giáo dục Việt
Nam đã có công đầu trong việc xây dựng những phương pháp đào tạo con
người theo quan điểm dân tộc, khoa học và hiện đại.
Lúc đầu thực dân Pháp thấy phong trào mang tính chất cải lương, nên
chưa can thiệp ngay. Sau ảnh hưởng của phong trào càng lan rộng và có tác
động trực tiếp đến vụ đầu độc binh lính Pháp nên chúng thẳng tay đàn áp.
Đông kinh nghĩa thục bị đóng cửa, các nhà nho yêu nước - những yếu nhân
của phong trào lần lượt bị bắt bớ tù đầy. Đông kinh nghĩa thục chỉ tồn tại
trong vòng 9 tháng (từ tháng 3 đến tháng 11 - 1907) nhưng đã gieo được
những hạt giống tốt cho một nền giáo dục dân tộc, dân chủ tiến bộ trong
tương lai mà thực dân Pháp không thể phá hết được. Giáo sư Vũ Ngọc
Khánh - tác giả cuốn "Nền giáo dục Việt Nam trước năm 1945" đã đánh giá:
"Đông kinh nghĩa thục xứng đáng có vinh dự ghi những trang đầu của khoa
học giáo dục Việt Nam thời cận hiện đại".
Tuy nhiên, sự thất bại của các phong trào nói trên còn thể hiện rất rõ
hạn chế của thời đại và hạn chế giai cấp. Các sĩ phu yêu nước tiến bộ xuất
thân từ giai cấp phong kiến mới chỉ vượt qua được nhãn quan chính trị hạn
chế của giai cấp mình để tiếp cận với tư tưởng dân chủ tư sản chứ chưa thể
đi xa hơn nữa. Trong điều kiện lịch sử của xã hội Việt Nam ở đầu thế kỉ XX,
khi giai cấp vô sản chưa thành hình thì chưa có cơ sở xã hội để có thể du
nhập tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Vào những năm đầu thế kỉ XX này,
phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam nói chung và phong trào đấu tranh
chống lại nền giáo dục nô dịch nói riêng, đang đứng trước một sự khủng
hoảng sâu sắc về đường lối đấu tranh.
Vậy phải có một lí luận khoa học về cách mạng nào soi sáng? Phải đi
theo đường lối đấu tranh như thế nào thì các cuộc đấu tranh đó mới giành
được thắng lợi hoàn toàn? Những hoạt động cách mạng của lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc và cuộc đấu tranh do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Đảng ta lãnh đạo
theo đường lối của chủ nghĩa Mác - Lênin đã trả lời câu hỏi đó.
2. Phong trào đấu tranh chống nền văn hoá giáo dục nô dịch của thực dân Pháp do lãnh tụ Nguyên Ái Quốc lãnh đạo trước khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời
Vượt qua tầm nhìn hạn chế của những người yêu nước đương thời,
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam yêu nước đầu tiên sớm tìm đến
với chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa Mác -
Lênin chân chính, đem lại cho cách mạng Việt Nam một con đường giải
phóng đúng đắn nhất.
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc ra đi nước ngoài mang theo một hoài bão
không giống như các sĩ phu yêu nước tiến bộ đã từng xuất dương trước đó.
Người đi về phương Tây không phải vì bị thu hút và khuất phục bởi nước sơn
hào nhoáng của nền văn minh tư bản chủ nghiã đã từng làm cho các sĩ phu
Việt Nam yêu nước đầu thế kỉ đi chệch hướng trong việc tìm bạn đồng minh
cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Người đi về phương Tây vì mục đích cách
mạng, một sự nhạy cảm cách mạng báo cho Người rằng, chính ở đây mới có
thể phát hiện ra nguồn gốc của những thảm họa mà chủ nghĩa thực dân, dưới
danh nghĩa của nước "bảo hộ" đem văn minh đi "khai hóa", mang lại cho các
dân tộc còn lạc hậu, trong đó có Việt Nam.
Quá trình đi tìm đường cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là cả một
quá trình lao động gian khổ, bền bỉ, khổ công học tập, đấu tranh rèn luyện
trong phong trào công nhân quốc tế. Bước đường hoạt động cách mạng của
Người gắn liền với thời đại cách mạng vô sản, mở đầu bằng Cách mạng
tháng Mười Nga vĩ đại. Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga và Quốc tế
cộng sản đã sớm làm cho người nhìn thấy ánh sáng của chủ nghĩa Mác -
Lênin. Đặc biệt là "Đề cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa" của Lê
nin đã đem lại con đường giải phóng đúng đắn nhất cho dân tộc Việt Nam.
Người đã thấy rõ cách mạng giải phóng dân tộc muốn giành được thắng lợi
thì phải đi theo con đường cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc phải gắn
liền với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc không thể tách rời chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản. Người nói “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì
mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự
nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và cách mạng thế giới”. Riêng về mặt giáo
dục, Người cũng ý thức được rằng công cuộc đấu tranh cho một nền giáo dục
thực sự dân chủ và tiến bộ, phải gắn chặt với công cuộc đấu tranh cho độc
lập chính trị và xã hội. Người đã vạch ra một đường lối thực sự khoa học,
cách mạng để vạch trần chính sách ngu dân và đấu tranh chống lại nền giáo
dục nô dịch và phản động mà thực dân Pháp đang thi hành ở Việt Nam.
2.1. Nguyễn Ái Quốc tố cáo mạnh mẽ chính sách ngu dân thâm độc và xảo quyệt của thực dân Pháp
Trong điều kiện chưa giành được chính quyền, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
đã đứng vững trên lập trường của giai cấp vô sản để tố cáo lên án mạnh mẽ
chính sách ngu dân của thực dân Pháp. Qua hai tác phẩm "Bản án chế độ
thực dân Pháp" (viết năm 1921) và “Đây công lí của thực dân Pháp ở Đông
Dương” (viết năm 1021 - 1926) với một thứ vũ khí lí luận hết sức sắc bén
người đã lột trần bộ mặt giả dối và sự phản động toàn diện của chủ nghĩa
thực dân, đặc biệt là chính sách ngu dân thâm độc hòng kìm hãm dân ta trong
vòng ngu dốt tối tăm để dễ cai trị của chúng.
Người đã chỉ ra rằng, một dân tộc có truyền thống hiếu học lâu đời như
dân tộc Việt Nam, trước khi thực dân Pháp đến "Làng xã nào cũng có trường
công và trường tư" và "Người Việt Nam dù có nghèo đói đến đâu cũng cho
con cái được học hành", thế mà người Pháp đến đã làm thay đổi tất cả. Thuế
má, phu phen, tạp dịch chồng chất làm cho đời sống ngày cảng bị bần cùng
hòa cực độ. Sự bóc lột dã man về kinh tế, sự đàn áp hà khắc về chính trị
cộng với chính sách ngu dân thâm độc, ngày càng đẩy nhân dân Việt Nam
vào con đường tăm tối, số người thất học ngày càng nhiều. Các gia đình khá
giả bị sa sút, những người nghèo đói thì bị bần cùng hóa, người ta phải chống
đói trước rồi mới dám nghĩ tới chuyện học hành. Sau gần một trăm năm "khai
hóa", “truyền bá văn minh” kết quả là thực dân Pháp đã làm cho 95% thậm
chí có nơi 100% nhân dân bị nạn mù chữ, dốt nát. Nguyễn Ái Quốc đã vạch
rõ nguyên nhân của tình trạng thất học và tăm tối đó là do thực dân Pháp triệt
để thi hành chính sách ngu dân thâm độc. Người đã tố cáo trước dư luận:
"Sự ham thích của người Việt Nam đối với Tân học làm cho chính phủ
bảo hộ lo sợ. Bởi thế chính phủ đóng cửa các trưởng làng, chữa trường học
thành chuồng ngựa cho các quan nhà binh, đuổi học trò và bỏ tù thầy giáo.
Một cô giáo bản xứ bị bắt giải về tỉnh lỵ, cổ đeo gông, đầu phơi trần dưới ánh
nắng thiêu đốt".
Thật là bỉ ổi, một tên đế quốc thường rêu rao là đem ngọn đuốc văn
minh để khai hóa cho các dân tộc lạc hậu lại run sợ trước truyền thống hiếu
học lâu đời của một dân tộc “nhược tiểu”. Để dập tắt tinh thần hiếu học và sự
ham chuộng nền học vấn của nhân dân Việt Nam chúng đã không từ một thủ
đoạn dã man, tàn bạo nào. Tội ác đó đã được ngòi bút sắc sảo của Nguyễn
Ái Quốc vạch trần trước dư luận. Chúng mở ra ở khắp nơi hàng loạt quán
rượu và tiệm thuốc phiện để hòng lôi kéo thế hệ thanh niên vào cuộc sống bê
tha, trụy lạc, hòng làm tê liệt và hủy diệt tinh thần yêu chuộng học vấn của lớp
trẻ. Nguyễn Ái Quốc đã đưa ra một bằng chứng hùng hồn để tố cáo âm mưu
thâm độc đó:
"Lúc ấy trong 1000 làng thì có đến 1500 cửa hàng rượu và thuốc phiện,
nhưng cũng trong số 1000 làng đó, thì chỉ vẻn vẹn có 10 trường học".
Thực dân Pháp cố tâm hủy bỏ nền học truyền thống của dân tộc và
thay vào đó là một nền giáo dục nô dịch phản động. Chúng hạn chế đến mức
tối đa việc mở trường học nhằm triệt tiêu để thi hành chính sách ngu dân và
đẩy những người lao động và con em nhân dân vào con đường thất học, mù
chữ. Nguyễn Ái Quốc đã đưa ra một sự thật:
“Nhân dân Đông Dương đòi mở trường vì trường học thiếu thốn một
cách nghiêm trọng. Mỗi năm vào kì nhập học, nhiều phụ huynh phải đi gõ mọi
cửa, chạy chọt đủ mọi nơi thần thế, có khi chịu trả gấp đôi tiền nội trú, mà vẫn
không tìm ra chỗ cho con em học. Và hàng ngàn những trẻ em đó đành chịu
số phận ngu dốt vì thiếu trường”.
Bị chính sách ngu dân kiềm tỏa chặt chẽ như vậy, cho nên, nếu người
Việt Nam nào muốn học lên nữa thì chỉ còn cách xuất dương du học. Nhưng
việc đó dưới chính quyền thực dân đâu phải dễ dàng, đơn giản. An - be Sa -
rô tên toàn quyền thực dân đã công khai thừa nhận: “Để cho lớp thượng lưu
trí thức được đào tạo ở nước ngoài thoát khỏi vòng kiềm tỏa của chúng ta,
chịu ảnh hưởng văn hóa và chính trị của nước khác, thì thật là một điều nguy
hiểm vô cùng”.
Những người trí thức đó trở về nước, sẽ đưa hết tài năng của họ để
tuyên truyền vận động chống lại chúng ta là những người bảo hộ đã ngăn
cấm không cho họ học tập.
“Nếu có một người Việt Nam nào có ý định đi du học nước ngoài thì sẽ
bị coi như một người nổi loạn, một người chống Pháp, có tội lớn, người ta
hãm hại người đó và cả gia đình họ”.
Vì vậy, thực dân Pháp đã tìm mọi cách để ngăn chặn, hạn chế việc du
học như chúng đã bóp chết phong trào Đông du trước đó. Có một số rất ít con
em địa chủ, tư sản, những kẻ cam tâm làm tôi tớ trung thành cho thực dân đủ
điều kiện đi sang mẫu quốc học thì phải xin xỏ, chạy chọt, cúi luồn với những
thể thức rất nhục nhã và hèn hạ. Khi sang Pháp học lại được đưa vào những
trường phản động nhất do những tên thực dân cáo già đã về hưu trông nom.
Trở về nước muốn có việc làm thì họ lại phải xin vào làng Tây với những thể
thức cúi luồn không kém hèn hạ như khi đi du học.
Tất cả những điều đó đã bị lột trần dưới những lời tố cáo đanh thép của
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong chương "Chính sách ngu dân" (Tác phẩm Đây
công lí của thực dân Pháp ở Đông Dương).
Hạn chế đến mức tối đa việc mở trường học, ngăn cấm học sinh xuất
dương du học, đàn áp khủng bố giáo viên, hủy bỏ nền Hán học, ngăn cấm
việc mở các trường tư thục, đó là tất cả thủ đoạn thâm hiểm nhất để thi hành
chính sách ngu dân, giam hãm nhân dân ta trong vòng tăm tối ngu dốt của
bọn thực dân thâm độc. Nhưng nội tại của chính sách ngu dân đó lại nẩy sinh
ra mâu thuẫn, một bên là muốn bóc lột được dễ dàng thì cần thiết phải đào
tạo được một tầng lớp "trung gian, làm tay sai trong bộ máy thừa hành để
giao dịch". Cho nên mặc dầu chúng không muốn nhưng do yêu cầu khách
quan đòi hỏi, thực dân Pháp vẫn bắt buộc phải mở trường học. Việc giáo dục
ở thuộc địa không mảy may vì quyền lợi của nhân dân thuộc địa, mà như P.
Ăng ghen đã nói “Nếu giai cấp tư sản có giáo dục cho trẻ em con nhà lao
động, cũng chỉ là vì lợi ích riêng của nó mà thôi” (Tình cảnh giai cấp công
nhân Anh). Một tên giáo dục thực dân cáo già là Guyt - xta - va - đuy - mu -
chi - ê cũng đã thú nhận âm mưu dùng giáo dục làm một công cụ thực hiện
mưu đồ chính trị của chúng như sau: “Nếu chúng ta muốn áp đặt một cách
vĩnh viễn ảnh hưởng của Pháp trên phần đất này của thế giới, nếu chúng ta
muốn lôi kéo những dân tộc Đông Dương đi theo chúng ta, muốn giải phóng
họ, muốn nâng cao về mặt tinh thần cho họ, cần phải truyền bá cho những tư
tưởng của chúng ta, cần phải dạy cho họ tiếng nói của chúng ta và như vậy
phải bắt đầu bằng việc mở trường bằng việc nắm lấy trẻ em trước tiên”.
2.2. Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần tính chất giai cấp phản động của nền giáo dục nô dịch của thực dân Pháp
Cũng qua một số tác phẩm viết thời kì trước khi Đảng cộng sản Đông
Dương ra đời, Nguyễn Ái Quốc đã sử dụng luận điểm “Tính giai cấp của giáo
dục” của học thuyết giáo dục vô sản làm vũ khí đấu tranh sắc bén trong cuộc
đấu tranh chống lại nền giáo dục nô dịch của thực dân Pháp. Đó là một điểm
hoàn toàn mới so với nhận thức của các sĩ phu yêu nước cùng thời, và nó
cũng báo hiệu trước một cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt trên lĩnh vực văn
hóa giáo dục của giai cấp vô sản Việt Nam chống lại chủ nghĩa thực dân xâm
lược. Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần tính chất giai cấp phản động của nền giáo
dục thực dân, tính chất giai cấp đó được thể hiện trên các mặt sau đây:
Trước hết, là thành phần, đối tượng được học. Mục đích nền giáo dục
nô dịch của thực dân Pháp là đào tạo một tầng lớp tay sai, làm những công
việc thừa hành để phục vụ cho quyền lợi của giai cấp thống trị thực dân
phong kiến. Nhưng để lựa chọn những tên tay sai thật trung thành và tận tụy
với "nước mẹ bảo hộ" thì trước hết chúng phải chọn lựa trong số con em của
tầng lớp trên của người bản xứ. Vì vậy, trường học, (đặc biệt là các trường
Pháp - Việt) là nơi dành riêng cho con em giai cấp thống trị, học tập là đặc
quyền, đặc lợi của tầng lớp trên trong xã hội. Trong tác phẩm của mình,
Nguyễn Ái Quốc đã dẫn lời thú nhận của toàn quyền Ru - mê:
“Nhưng vì hiện nay, những phương tiện giáo dục của chúng ta không
cho phép với tới quảng đại quần chúng, mà chỉ hạn chế những sự cố gắng
của chúng ta cho một thiểu số, cho nên cần phải có sự lựa chọn kĩ càng, thiểu
số đó. Phải coi giáo dục như một thứ của quý không thể đem phân phát cho
bất kì ai mà phải hạn chế sự ban ơn đó, cho những người được thừa hưởng
xứng đáng. Hãy chọn những học sinh của chúng ta, trước hết trong đám con
em những người cầm đầu, con em những bậc kì hào”.
Thực dân Pháp hủy bỏ nền học truyền thống của dân tộc và thay vào
đó là một nền giáo dục thực dân phản động, mở ra một cách nhỏ giọt một số
loại trường vừa để đào tạo tay sai vừa là để ban ơn cho những kẻ có "công
lao" giúp Pháp trong "công cuộc khai hóa". Thủ đoạn đó là một biểu hiện rất
cụ thể của sự câu kết giữa đế quốc và phong kiến địa chủ bản xứ trong lĩnh
vực giáo dục, để bảo vệ đặc quyền, đặc lợi của giai cấp thống trị.
Tính chất giai cấp của nền giáo dục thực dân thể hiện rõ ở mục đích và
nhiệm vụ của giáo dục. Mục đích và nhiệm vụ của giáo dục bao giờ cũng xuất
phát từ cơ sở kinh tế, chính trị của chế độ xã hội và phục vụ cho quyền lợi
chính trị, kinh tế của giai cấp thống trị. Vì vậy, nhiệm vụ của nền giáo dục thực
dân là đào tạo tầng lớp tay sai trung thành phục vụ đắc lực cho việc khai thác
thuộc địa và duy trì quyền thống trị của kẻ xâm lược. Nguyễn Ái Quốc đã phê
phán âm mưu thâm độc đó:
“Ngoài mục đích giáo dục để đào tạo tùy phái, thông ngôn và viên chức
nhỏ đủ để phục vụ cho bọn xâm lược, người ta đã gieo rắc một nền giáo dục
đồi bại, xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát nữa, vì một nền giáo dục như
vậy chỉ làm hư hỏng mất tính nết của người đi học, chỉ dạy cho họ một lòng
"trung thực" giả dối, chỉ dạy cho họ biết sùng bái những kẻ mạnh hơn mình,
dạy cho thanh niên yêu một tổ quốc không phải là tổ quốc của mình, một tổ
quốc đã từng áp bức dân tộc mình”.
Nguyễn Ái Quốc đã dẫn lời của đại tá Béc - na để khẳng định những
điều người đã tố cáo chúng:
“Về phương diện tinh thần, người Pháp không tổ chức một nền giáo
dục mới thay cho nền giáo dục An Nam mà họ đã bỏ đi. Họ chỉ xây dựng
được một ít trường học để đào tạo ra những con vẹt, những người vong bản
thiếu đạo đức và thiếu cả kiến thức phổ thông”.
Tính chất giai cấp của nền giáo dục thực dân còn thể hiện trong nội
dung giáo dục, nội dung chương trình học tập của nhà trường thực dân.
Trong tác phẩm “Đây công lí của thực dân Pháp ở Đông Dương”,
Nguyễn Ái Quốc đã dẫn câu của Mác - xơ, văn sĩ thuộc địa lột tả được một
cách chính xác toàn bộ nội dung chương trình học tập và giáo dục mà thực
dân Pháp dành cho các trường học bản xứ: “Chúng ta chỉ cần dạy tiếng Pháp
cho người An Nam, dạy cho họ biết đọc, biết tính toán chút ít thôi, biết hơn
nữa chỉ là thừa, vô ích” (tr.74).
Nội dung của nền giáo dục đó là vừa nghèo nàn, vừa phản động lại vừa
lạc hậu. Lời thừa nhận của người Pháp tự nó đã đủ chứng minh cho thực
chất của việc khai hóa của thực dân Pháp ở Việt Nam là như thế nào. Nội
dung chương trình dạy học trong các trường Pháp - Việt hết sức nghèo nàn,
bị cắt xén, mang nặng tính nô dịch. “Vấn đề nào có liên quan đến chính trị, xã
hội và có thể làm cho người ta tỉnh ngộ đều bị bóp méo và xuyên tạc đi. Có
học lịch sử nước Pháp đi nữa, thì người ta không hề đả động đến chương nói
về cách mạng. Người ta cấm học sinh đọc tác phẩm của Huy Gô, Rút Xô và
Mông - tes - ski - ơ...”
Nguyễn Ái Quốc chỉ ra rất rõ rằng tính chất giai cấp phản động còn biểu
hiện ở tổ chức hệ thống giáo dục, phương pháp dạy học và phương pháp
giáo dục trong nhà trường thực dân. Nhà trường thực dân được tổ chức theo
hai hệ thống khác nhau hoàn toàn về chế độ đãi ngộ, về cơ sở vật chất, về
giáo viên giảng dạy, chương trình thi cử… Loại trường Tây dành cho con em
giai cấp địa chủ phong kiến và tư sản được hưởng những ưu tiên đặc biệt.
Loại trường dành cho con em nhân dân lao động thì tồi tệ, nghèo nàn, thấp
kém về mọi phương diện. Phương pháp dạy học nặng về giáo điều, nhồi sọ,
trừng phạt và cưỡng bức học sinh. Với những phương pháp đồi bại ấy nhà
trường thực dân chỉ có thể đào tạo nên những "con vẹt" những người vong
bản thiếu cả đạo đức và kiến thức phổ thông. Nguyễn Ái Quốc đã tố cáo
mạnh mẽ tác hại của những phương pháp giáo dục phản động đó: “Trường
học lập ra không phải để giáo dục cho thanh niên Việt Nam một nền học vấn
tốt đẹp và chân thực, mở mang trí tuệ và phát triển tư tưởng cho họ, mà trái
lại càng làm cho họ đần độn thêm... Điều gì có thể rèn luyện được cho học
sinh biết suy nghĩ, biết phân tích thì người ta không dạy ở trường. Vấn đề nào
đó liên quan đến chính trị, xã hội và có thể làm cho người ta tỉnh ngộ đều bị
bóp méo và xuyên tạc đi”.
2.3. Những yêu sách đầu tiên đòi quyền học tập cho nhân dân Việt Nam
Tại Hội nghị Véc xây (tổ chức tại Pháp) Nguyễn Ái Quốc đã đưa bản
yêu sách tám điểm đòi chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do dân
chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam, trong đó có điểm 3 và điểm 6
là yêu sách đòi quyền học tập. Về giáo dục, bản yêu sách ghi rõ:
“Điểm 3: Tự do báo chí và tự do tư tưởng.
Điểm 6: Tự do học tập và mở trường kĩ thuật và chuyên nghiệp cho
người bản xứ”.
Những yêu sách trên không được thực dân Pháp chấp thuận, nhưng đã
có tiếng vang rất lớn trong nhân dân Việt Nam, nhân dân Pháp và nhân dân
các thuộc địa Pháp. Các yêu sách đó đã khẳng định quyền tự quyết học tập
của nhân dân Việt Nam, đã tác động mạnh mẽ đến dư luận thế giới, tranh thủ
được sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân Pháp và nhân dân tiến bộ trên thế
giới ủng hộ cuộc đấu tranh xóa bỏ nền giáo dục nô dịch thuộc địa mà thực
dân Pháp đang áp đặt ở Việt Nam.
Mặt khác yêu sách xây dựng một nền giáo dục dân tộc tiến bộ cho
nhân dân Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc trong thời gian này đã thể hiện tư
tưởng giáo đục vô sản mà biểu hiện đầu tiên là giới thiệu Trường Đại học
phương Đông với nhân dân Việt Nam và nhân dân các dân tộc thuộc địa.
Trường Đại học Phương Đông - Trường Đại học "đang ôm ấp dưới mái
trường mình tất cả tương lai của các dân tộc thuộc địa" đã trở thành hình
tượng đẹp đẽ và niềm hi vọng của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh
chống lại nền giáo đục phản động của chủ nghĩa thực dân. Sau này, những
thanh niên yêu nước Việt Nam sẽ được Nguyễn Ái Quốc gửi đến đây học tập,
rèn luyện, sát cánh cùng với các dân tộc anh em chống chủ nghĩa đế quốc
xâm lược.
Tóm lại: Trước khi Đảng cộng sản Đông Dương ra đời, guyễn Ái Quốc
là người Việt Nam yêu nước đầu tiên đã sớm đến với chủ nghĩa Mác - Lê Nin.
Nguyễn Ái Quốc cũng là người đầu tiên đã kết hợp chặt chẽ việc gương cao
ngọn cờ dân tộc và ngọn cờ giai cấp trong công cuộc đấu tranh chống lại nền
giáo dục nô dịch của thực dân Pháp. Đó là một bộ phận khăng khít của cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc, được soi sáng bằng đường lối đấu tranh đúng
đắn, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê Nin.
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã đứng vững trên lập trường của giai cấp vô
sản công khai lên án tố cáo mạnh mẽ chính sách ngu dân của thực dân Pháp
ở Đông Dương. Người đã nhận rõ mối quan hệ gắn bó giữa chính trị, kinh tế
và giáo dục. Người luôn luôn ý thức được rằng: đấu tranh cho một nền giáo
dục thực sự dân chủ và tiến bộ phải gắn liền với đấu tranh giải phóng dân tộc
lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân.
Sức mạnh vô địch của đường lối đấu tranh chống nền giáo dục nô dịch
do Người khởi xướng là ở chỗ, nó bắt nguồn từ tính chất cách mạng triệt để
của đường lối cách mạng của giai cấp vô sản, phù hợp với xu thế phát triển
khách quan của sự phát triển lịch sử xã hội loài người. Vì vậy, sự thắng lợi
của nó là một tất yếu lịch sử.
3. Cuộc đấu tranh chống nền giáo dục nô dịch do Nguyễn Ái Quốc và Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo (1930 - 1945)
Bước sang thời kì từ 1930 - 1945, cuộc đấu tranh chống lại nền giáo
dục nô dịch phản động của nhân dân ta trong lĩnh vực giáo dục diễn ra dưới
hình thức mới với nội dung hoàn toàn mới. Điều đó gắn liền với sự ra đời và
lãnh đạo cách mạng của Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam.
Từ năm 1930, cách mạng Việt Nam bước sang một bước ngoặt lớn
Đảng cộng sản Đông Dương ra đời xác lập bá quyền lãnh đạo của giai cấp vô
sản. Giai cấp công nhân với Đảng tiền phong của mình, ngay từ khi mới nắm
quyền lãnh đạo cách mạng đã tiến hành đấu tranh một mất một còn chống kẻ
thù dân tộc. Đảng không chỉ lãnh đạo toàn dân chống kẻ thù chung trên các
mặt trận kinh tế, chính trị, quân sự mà còn hết sức chú trọng đến văn hóa tư
tưởng trong đó có giáo dục. Giáo dục của chế độ thực dân phong kiến là công
cụ để truyền bá tư tưởng nô dịch đầu độc nhân dân, củng cố quyền thống trị
và bóc lột của kẻ thống trị. Vì vậy, đấu tranh cho sự toàn thắng của ý thức hệ
vô sản, đè bẹp ý thức hệ tư sản, phong kiến, phản động, Đảng của giai cấp
công nhân không thể bỏ qua lĩnh vực giáo dục.
Trong luận cương chính trị năm 1930 Đảng đã vạch ra đường lối cho
cách mạng Việt Nam. Cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc dân chủ
nhân nhân (phản đế, phản phong) do giai cấp công nhân lãnh đạo, tiến lên
cách mạng xã hội chủ nghĩa không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Nhiệm vụ của nó là đánh đổ đế quốc Pháp và giai cấp địa chủ phong kiến,
làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập đem lại ruộng đất cho nông dân,
thành lập chính phủ công nông binh, thực hiện các quyền tự do dân chủ cho
nhân dân. Lực lượng chính của cách mạng là công nhân và nông dân. Nhân
tố quyết định thắng lợi là sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Như vậy, vừa mới
ra đời Đảng ta đã xác định đúng đắn những vấn đề về chiến lược, sách lược
cơ bản của cách mạng. Đường lối đó là kết quả của sự vận dụng chủ nghĩa
Mác - Lê nin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam một cách đúng đắn, tự chủ và
sáng tạo.
Xuất phát từ mục đích, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam đã được nêu
ra trong bản luận cương chính trị 1930, Đảng đã vạch ra đường lối đấu tranh
đúng đắn trên lĩnh vực giáo dục. Đường lối đó xuất phát từ đường lối chung
của cách mạng, được Đảng ta coi là một bộ phận khăng khít của cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc.
3.1. Vạch trần tính chất phản động, phản dân tộc của chính sách văn hóa giáo dục nô dịch
Trong "Chương trình hành động của Đảng cộng sản Đông Dương",
Đảng đã vạch trần thực chất của cái gọi là "khai hóa văn minh" mà thực dân
Pháp nêu thành chiêu bài để lừa bịp dân ta, tố cáo những hậu quả nghiêm
trọng của chính sách ngu dân đối với đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa tinh
thần của nhân dân Việt Nam. Đồng thời, Đảng đã vạch trần bản chất giai cấp
phản động của nền giáo dục nô dịch cho đảng viên, quần chúng nhìn thấy rõ:
"Đế quốc tự xưng là" "rọi đuốc văn minh", "cắm cờ khai hóa" ở xứ ta đó
chẳng qua là để lừa gạt ta thôi. "Khai hóa văn minh" ta nào trông thấy mà chỉ
trông thấy dân cư thống khổ, nhục nhã vô cùng. Toàn thể Đông Dương bị lầm
than vùi dập, dây xiềng đeo cổ, cái kiếp của hai mươi triệu công nông binh ta
nào có khác kiếp nô lệ".
Đảng ta nhận thấy rõ, cùng với ách áp bức bóc lột nặng nề về kinh tế,
chính trị, chính sách ngu dân của thực dân xâm lược đã đẩy thanh thiếu niên
ta vào con đường lam lũ, đói khổ, thất học. Trẻ em ở nông thôn và con em
nhân dân lao động phần lớn không được học hành, phải đi làm thuê, làm
mướn cho bọn địa chủ hoặc phải đi làm công cho các chủ tư bản. Con em
nông dân phải làm tôi mọi cho địa chủ suốt đời, con em giai cấp thợ thuyền bị
bóp nặn đến kiệt sức lao động. Thảm cảnh đau thương đó đã được Đảng
vạch rõ khi nêu lên "Nghị quyết về thanh niên vận động" ngày 28/3/1935 như
sau:
“Có nhiều chỗ trẻ con dưới 10 tuổi đã phải làm công. Chính phủ và chủ
không lo giáo dục cho công nhân thanh niên. Ở thôn quê nông dân thiếu niên
tao động chừng 6, 7 tuổi đã bắt đầu phải làm công ở nhà, đi làm mướn, bị
cầm bán cho địa chủ, phú nông, khiến cho cả đời chịu làm người nô lệ, ngu
dốt... ở thành thị và thôn quê các nhà trường bị đóng cửa rất nhiều, làm cho
những thanh niên nghèo thất học vô số”.
Bước sang thời kì này, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới tư bản trong
đó có nước Pháp đã ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình kinh tế, chính trị và
đời sống của nước ta. Về mặt giáo dục, chúng ra sức kêu gọi về cái gọi là
"khủng hoảng thừa trí thức" ở Việt Nam, trong khi đó học sinh tốt nghiệp chỉ
có một dúm không đáng kể. Vì vậy, thời kì này chúng hạn chế đến mức tối đa
việc mở trường và hạn chế cả học sinh ra trường. Thực dân Pháp đã tìm mọi
thủ đoạn để kìm hãm xã hội ta đến mức cả một dân tộc có một ít người có đôi
chút học thức cũng đã là thừa. Đảng ta đã lên án chính sách cực kì phản
động đó: "Thanh niên học sinh và trí thức không có chỗ làm, ấy cũng vì lẽ hệ
thống đế quốc áp bức thống trị mà trong xứ vô học của ta có nhiều lao tù, trại
lính hơn là trường học nhà trường và các cơ quan học thuật". Trong án nghị
quyết của Bắc kì cán bộ hội nghị (ngày 3 - 14/3/1935) cũng đã ghi: “90%
thanh niên ở Bắc kì không được đi học, người có học tập chút ít lại bị chế độ
học tập nhồi sọ làm cho thanh niên khi học xong hóa ra một đứa tôi mọi trung
thành của đế quốc Pháp, phần nhiều lại không có việc làm”.
Đảng cũng đã chỉ rõ thực chất của nền giáo dục nô dịch, nội dung giáo
dục phản động của nhà trường thực dân phong kiến và lên án âm mưu đầu
độc, lôi kéo thanh niên vào con đường làm tay sai trung thành, đắc lực cho
thực dân, đế quốc. Tầng lớp tay sai trung thành người bản xứ là cái vỏ bọc
cho thực dân cổ vũ và thực hiện chính sách hợp tác, bắt tay "Pháp - Việt đề
huề", ngăn chặn ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản đang dâng cao mạnh mẽ
trong nước:
“Đế quốc hết sức mua chuộc bọn thanh niên trong các giai cấp phong
kiến, tư sản, trong tụi đại trí thức... đế quốc quyết lấy luân lí phong kiến lấy
mê tín mà nhồi sọ thanh niên, đặng đào tạo tay chân trung thành cho chính
phủ đế quốc... Trong các trường học này chính phủ lại còn bắt buộc học sinh
đọc toàn những sách chống tư tưởng cách mạng, học ca hát phản động...”
Như vậy, trong các nghị quyết, chương trình hành động, lời kêu gọi,
thông báo, chỉ thị... từ khi ra đời đến trước cách mạng tháng Tám, Đảng ta
luôn chú trọng đúng mức đến tình hình giáo dục và đánh giá đúng bản chất
giai cấp phản động của nền giáo dục nô dịch mà thực dân Pháp đang thực
hiện ở nước ta. Chính sách giáo dục ngu dân, cùng với chính sách áp bức
nặng nề về kinh tế, đàn áp dã man về chính trị của thực dân Pháp đã đẩy
nhân dân ta vào kiếp sống nô lệ, cực khổ trăm bề. Vì vậy, không những chỉ
dừng lại ở chỗ tố cáo và vạch trần bản chất giáo dục của thực dân mà đã tiến
lên một bước cao hơn, Đảng đã xây dựng hoàn chỉnh đường lối đấu tranh
trên lĩnh vực giáo dục, mới hoàn toàn về chất so với giai đoạn trước.
3.2. Nêu tên những yêu sách cụ thể hướng dẫn quần chúng đấu tranh đòi quyền học tập, xây dựng một cương lĩnh có tính chất nguyên tắc để xây dựng nền giáo dục dân chủ nhân dân sau khi giành chính quyền về tay giai cấp vô sản
Trong "Chánh cương vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam" được
thông qua chính thức tại hội nghị hợp nhất ba Đảng ngay 3/2/1930, đã nêu
lên những phương hướng chiến lược về giáo dục như sau: “Phổ thông giáo
dục theo công nông hóa”. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, trong lời kêu gọi nhân dịp
thành lập Đảng cộng sản Đông Dương ngày 18/2/1930 đã nêu lên nhiều khẩu
hiệu trong đó có: "Thực hành giáo dục toàn dân".
Cương lĩnh đấu tranh của Đảng luôn hướng vào việc đòi nền giáo dục
phải thực sự phục vụ cho quảng đại quần chúng, xóa bỏ đặc quyền, đặc lợi
của giai cấp thống trị trong lĩnh vực giáo dục, tiến tới xây dựng những nhân tố
mới của giáo dục công nông. Những nguyên tắc cơ bản trên thể hiện rất rõ
đường lối đấu tranh trên lĩnh vực giáo dục của Đảng, xuất phát từ những tư
tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về giáo dục.
Một mặt đánh giá đúng mức tầm quan trọng của giáo dục, mặt khác
nhận thức được rằng cách mạng văn hóa giáo dục chỉ có thể hoàn toàn thắng
lợi một khi chính quyền đã thực sự về tay nhân dân, Đảng đã có chủ trương
đường lối lãnh đạo toàn dân đấu tranh từng bước cho phù hợp với hoàn cảnh
lịch sử. Đảng đã nêu rõ mục tiêu đấu tranh, những yêu cầu cụ thề nhằm vào
những điểm phản động nhất của giáo dục thực dân để lãnh đạo quần chúng
đấu tranh. Điều cấp thiết trước mắt là yêu cầu cho mọi người có chỗ học và
có điều kiện theo học, vì vậy, trong "Chương trình hành động của Đảng cộng
sản Đông Dương" đã nêu những yêu sách hết sức cụ thể đòi quyền học tập
cho con em nhân dân lao động như sau:
“Hết thảy con cái của những nhà lao động được học cho tới 10 tuổi
bằng tiếng mẹ đẻ và không phải chịu học phí, trẻ con được lĩnh không sách
vở, áo quần, giấy bút. Cấm không được mắng chửi đánh đập các em. Tổ
chức các trường học nghề, bách nghệ giáo dục do nhà nước và bọn chủ phải
chịu tổn phí”.
Đặc biệt, Đảng hết sức chú trọng việc lãnh đạo và thu hút tầng lớp
thanh niên vào tổ chức thanh niên cộng sản, đó là trường học cộng sản chủ
nghĩa của thanh niên lao động, là tổ chức giáo dục cộng sản chủ nghĩa và giai
cấp tranh đấu. Trong các khẩu hiệu hướng dẫn thanh niên đấu tranh, Đảng
đã đề ra yêu cầu rất cụ thể về giáo dục, coi đó là một trong những nhiệm vụ
cụ thể trong chương trình hành động cách mạng của thanh niên. "Chương
trình hành động của thanh niên cộng sản Đoàn" đã ghi rõ yêu cầu về quyền
học tập cho hết thảy các tầng lớp thanh niên thợ thuyền, thanh niên nông
dân, binh lính, dân nghèo thành thị... là những tầng lớp đang bị áp bức bóc lột
thậm tệ và bị chính sách ngu dân kìm hãm trong vòng tối tăm dốt nát.
“Điều 3: Thanh niên lao động được tự do học về binh bị dưới quyền
kiểm tra của các tổ chức cách mạng. Chống việc tập binh thanh niên lao động
để sau đi lính giữ quyền lợi cho đế quốc. Hết thảy thanh niên lao động đều
được khí giới”.
“Điều 4: Lập tức lấy ngân sách về binh bị và tiền quốc trái để mở trường
học và làm việc vệ sinh”.
“Điều 5: Chính phủ phải chịu học phí, quần áo, sách vở, phải nuôi
thanh niên học đến 16 tuổi, phải cho học theo tiếng mẹ đẻ, cấm dạy học về
tôn giáo, cấm các trường học thầy dòng”.
“Điều 7: Chính phủ và chủ phải chịu tiền phí tổn để mở câu lạc bộ,
phòng đọc sách, sân thể thao ở thôn quê và các nơi có thợ thuyền”.
Đối với thanh niên học sinh các trường học, Đảng cũng đã nêu lên
những khẩu hiệu đấu tranh đòi những quyền lợi sau:
"Điều 1: Dạy học theo tiếng mẹ đẻ, cấm cách "Pháp hóa" bắt học theo
tiếng Tây".
"Điều 2: Đuổi bọn giáo sư phản động ra khỏi trường, phải cho tự tổ
chức việc chỉ huy trường học. Học trò được bầu cử giáo sư, tự do lập trường
tư".
"Điều 3: Chính phủ phải chịu tiền học phí của học sinh nghèo, phải cho
việc làm sau khi đã hết học".
Những khẩu hiệu đấu tranh và yêu sách đòi quyền học tập mà Đảng đã
đề ra luôn luôn phù hợp với nhiệm vụ cách mạng của từng giai đoạn cách
mạng. Trong thời kì mặt trận dân chủ Đông Dương, Đảng đã đưa ra những
yêu sách và kêu gọi các đảng phái, các tầng lớp nhân dân đấu tranh đòi
những quyền dân chủ tự do trong học tập. Đến thời kì Mặt trận Việt Minh
(1939 - 1945), để đáp ứng nhiệm vụ trung tâm của cách mạng là tiến hành
cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng đã đề ra những chủ trương, khẩu hiệu
tranh đấu trên lĩnh vực giáo dục sát hợp với sự tiến triển của cách mạng. Nội
dung và yêu sách đấu tranh đã phát triển tới đỉnh cao, đòi xóa bỏ nền giáo
dục nô dịch, phản động của thực dân Pháp và xây dựng một cương lĩnh có
tính chất nguyên tắc để xây dựng nền giáo dục dân tộc tiến bộ sau khi giành
được chính quyền về tay giai cấp vô sản.
Trong "Chương trình Mặt trận Việt Minh", mục "Chủ trương cứu nước
của Việt Minh" có ghi:
Điều 1 - Bài trừ văn hóa phản động. Mở mang nền tân văn hóa Việt
Nam.
Điều 2 - Hủy bỏ giáo dục nô lệ và thuộc địa, gây dựng nền quốc dân
giáo dục. Mỗi dân tộc có quyền dùng tiếng mẹ đẻ dạy trong các trường học
của mình.
Điều 3 - Cưỡng bách giáo dục đến bậc sơ học.
Điều 4 - Lập các trường chuyên môn huấn luyện chính trị, quân sự và kĩ
thuật để đào tạo các hạng nhân tài.
Đặc biệt là việc giáo dục và mở mang trường học cho học sinh trở
thành một yêu cầu cấp bách và đó là hướng phát triển của nền giáo dục trong
tương lai. Cũng trong "Chương trình Việt Minh" mục "Đối với các tầng lớp
nhân dân" Điều 8 và Điều 10 có ghi rõ:
Điều 8: Đối với học sinh: Bỏ các khoản học phí, khai sinh, hạn tuổi, mở
thêm trường học, cấp học bổng rộng rãi cho học trò nghèo, kiếm thêm việc
cho học sinh tốt nghiệp.
Điều 10: Đối với trẻ em: Được Chính phủ đặc biệt chăm sóc về thể dục,
trí dục và đức dục
Đường lối đấu tranh chống nền văn hóa giáo dục nô dịch của Đảng
ngày càng được kiểm nghiệm trong thực tiễn đấu tranh và trở nên hoàn thiện,
ngày càng được thực tế chứng minh là đúng đắn và khoa học. Đặc biệt với
sự ra đời của bản "Đề cương văn hóa Việt Nam" năm 1943 đã nâng lên một
bước tính khoa học cao độ và sự hoàn chỉnh của đường lối đấu tranh theo
ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin trên lĩnh vực vãn hóa tư tưởng trong đó
có giáo dục.
"Đề cương văn hóa Việt Nam" đã nêu lên mối quan hệ khăng khít giữa
kinh tế, chính trị với văn hóa giáo dục và xác định thái độ dứt khoát của Đảng
cộng sản Đông Dương với vấn đề văn hóa giáo dục:
"Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở
đó người cộng sản phải hoạt động. Có lãnh đạo được phong trào văn hóa,
Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu
quả".
Đảng đã xác định rõ vai trò, vị trí của cách mạng văn hóa, (trong đó có
giáo dục) đối với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Dựa trên sự phân tích
cụ thể, sát thực về tình hình văn hóa xã hội Việt Nam thời thuộc Pháp, dựa
trên sự phân tích một cách khoa học về mặt giai cấp xã hội, Đảng đã đề ra ba
nguyên tắc lớn của mọi cuộc vận động cách mạng văn hóa trong giai đoạn
này là: "Dân tộc hóa, khoa học hóa, đại chúng hóa".
Nguyên tắc "Dân tộc hóa" yêu cầu phải xác lập những yếu tố dân tộc,
tinh thần dân tộc cho nền văn hóa mới, xóa bỏ nền văn hóa nô dịch phản
động và phụ thuộc vào đế quốc. Để thực hiện nguyên tắc này, Đảng đã nêu
những yêu cầu và khẩu hiệu tranh đấu đòi quyền lợi sau: “Đấu tranh về tiếng
nói, chữ viết. Thống nhất và làm giầu thêm tiếng nói, ấn định mô tả, cải cách
chữ quốc ngữ”. Tiếng nói, chữ viết ở đây là tiếng nói, chữ viết của dân tộc
Việt Nam, phản ánh tinh thần dân tộc, truyền thống văn hóa 4000 năm của
dân tộc Việt Nam. Nguyên tắc "khoa học hóa" thực chất là đấu tranh chống lại
nội dung giáo dục phản động, nô dịch của chủ nghĩa của thực dân để xây
dựng một nền giáo dục tiên tiến, khoa học. Nguyên tắc "đại chúng hóa" đã thể
hiện rất rõ đường lối "thực hành giáo dục toàn dân" mà lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc đã đề ra trong lời kêu gọi thành lập Đảng tháng 2/1930. Nguyên tắc đó
yêu cầu giáo dục phải thực sự trở thành quyền lợi của toàn thể quần chúng
nhân dân lao động, phải xuất phát từ quyền lợi của quần chúng và do quần
chúng xây dựng nên.
Với bản "Đề cương văn hóa Việt Nam" năm 1943, Đảng ta đã xây dựng
được một cách toàn diện đường lối đấu tranh trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng
(trong đó có giáo dục). "Đề cương văn hóa" thể hiện rõ ràng quan điểm giai
cấp trong cuộc đấu tranh cách mạng văn hóa tư tưởng và giáo dục. Cuộc đấu
tranh xóa bỏ nền giáo dục nô dịch thực dân phải do Đảng cộng sản của giai
cấp công nhân Việt Nam lãnh đạo. Tất cả những yêu sách, khẩu hiệu đấu
tranh đều xuất phát tử quyền lợi của quần chúng và các giai cấp bị áp bức
bóc lột, và là giai cấp tiên phong nhất của cách mạng. Và, nền giáo dục dân
tộc, tiến bộ được xây dựng sau khi giành được chính quyền sẽ thực sự là nền
giáo dục dân chủ nhân dân, vì dân, do dân mà phục vụ.
3.3. Tổ chức việc học tập cho quần chúng nhân dân lao động và tổ chức lực lượng đấu tranh bằng nhiều hình thức hơppháp và bất hợp pháp để đòi quyền học tập
Đường lối giáo dục cơ bản của Đảng là "công nông hóa". Đảng hết sức
chú trọng nâng cao trình độ tri thức phổ thông của quần chúng bằng cách lập
các lớp học cho công nhân, lớp dạy chữ ban đêm cho nông dân. Thông qua
các lớp học này, Đảng giác ngộ và giáo dục về quyền lợi chính trị cho công
nông nâng cao trình độ văn hóa cho quần chúng. Nhưng trong điều kiện chưa
nắm được chính quyền, lại dưới chế độ thống trị vô cùng khắc nghiệt của
phong kiến, đế quốc, không phải ở đâu và lúc nào Đảng của giai cấp công
nhân cũng có thể tổ chức được những hình thức giáo dục theo đường lối của
mình. Vì vậy, Đảng ta hết sức lợi dụng những hình thức đấu tranh hợp pháp
và bán hợp pháp, bất hợp pháp để tổ chức việc học tập cho quần chúng nhân
dân và cán bộ, đảng viên.
Những năm 1926: 1927 Thanh niên cách mạng đồng chí hội mở những
lớp huấn luyện chính trị ở Quảng Châu để đào tạo cán bộ cách mạng. Trước
khi tan lớp ra về, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc luôn dặn các đồng chí mình phải
chú ý học tập thêm về văn hóa để nâng cao trình độ, hiểu biết cho bản thân.
Người cũng không quên dặn phải mở những lớp để dạy chữ cho đông đảo
quần chúng. Tuân theo lời dạy của Người, nhiều lớp dạy chữ đã được rải rác
mỏ ra trong thời kì 1926 - 1929 trong các vùng Hà Bắc, Nghệ An, Hà Tĩnh.
Khẩu hiệu "biến nhà tù thành trường học" đã được thực hiện trong các
nhà tù đế quốc, từ những năm 1930 - 1931 cho đến khi Cách mạng tháng
Tám thành công. Không nơi nào là không có phong trào học tập văn hóa,
chính trị, thời sự và quân sự thường thức. Ai biết gì thì dạy nấy, ai không biết
gì thì ra sức học tập, già 50 - 60 tuổi vẫn học, trong xà lim án chém chờ ngày
lên đoạn đầu đài cũng vẫn học.
Tháng 3/1938 Nghị quyết của Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương
có nói về vấn đề chống nạn mù chữ cho nông dân và tổ chức theo các hình
thức lớp học đêm, các hội đọc sách báo... để nông dân đấu tranh chống nạn
không biết chữ. Trong thời kì Mặt trận dân chủ nhân dân Đông Dương, do
sáng kiến của Đảng và được sự tích cực hưởng ứng của một số nhân sĩ trí
thức tiến bộ, Hội truyền bá chữ Quốc ngữ được thành lập ngày 27/7/1938.
Hội truyền bá chữ Quốc ngữ hoạt động ngoài mục đích chống nạn mù chữ,
nâng cao trình độ văn hóa cho nhân dân lao động còn nhằm mục đích giữ gìn
tiếng nói, chữ viết của dân tộc. Hội có chương trình sơ đẳng dạy biết đọc, biết
viết trong 3 tháng và chương trình cao đẳng dạy thêm trong 4 tháng về lịch
sử, địa lí, toán pháp, vệ sinh cho những người đã đọc thông viết thạo. Phong
trào truyền bá chữ quốc ngữ ngày càng phát triển với sự phát triển của phong
trào cách mạng.
Kết quả là sau 7 năm hoạt động (1938 - 1944) ở Bắc kì đã thanh toán
được nạn mù chữ cho hơn 4 vạn người, còn ở Trung kì đến năm 1941 được
gần 1 vạn người. Chủ trương thành lập Hội có ý nghĩa vô cùng to lớn vì nó đã
thu hút vào phong trào đông đảo các nhà trí thức yêu nước và tiến bộ. Nhiều
thanh niên yêu nước cũng nhờ có phong trào mà đến với Đảng. Điều đáng
chú ý hơn là phong trào đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm quý báu về mặt
vận động quần chúng. Đến khi Cách mạng tháng Tám thành công thì những
kinh nghiệm nói trên được vận dụng có hiệu quả trong chiến dịch "diệt dốt" do
Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động.
Tổ chức chống nạn thất học không phải chỉ thực hiện trong khuôn khổ
của Hội truyền bá Quốc ngữ mà còn được những người cộng sản chủ trương
phát động trong cơ sở quần chúng ở các chiến khu Đặc biệt ở chiến khu Cao
Bắc Lạng. Phong trào thanh toán nạn mù chữ phát triển mạnh ở Cao Bằng, ở
Bắc Cạn, nhiều xã có trường dạy chữ Quốc ngữ, nhiều Châu mở trường cứu
quốc sơ cấp. Chợ Đồn mở trường sư phạm v.v... Ngoài ra phong trào thanh
toán nạn mù chữ, dạy bổ túc văn hóa còn được phát triển trong hàng ngũ bộ
đội cách mạng, trong hàng ngũ quốc quân.
CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu 1. Những biến chuyển mới đã tác động đến sự chuyển hướng của
phong trào đấu tranh chống nền giáo dục nô dịch của thực dân Pháp ở Việt
Nam đầu thế kỉ thứ XX là gì?
Câu 2. Đánh giá những cống hiến của phong trào Đông du, phong trào
đấu tranh theo khuynh hướng cải lương của Phan Chu Trinh và phong trào
Đông kinh nghĩa thục đối với cuộc đấu tranh chống chính sách ngu dân và xu
hướng cách tân nền học thuật ở Việt Nam trong thời Pháp thuộc.
Câu 3. Phân tích ý kiến của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc lên án chính sách
ngu dân của thực dân Pháp qua hai tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp"
và "Đây công lí của thực dân Pháp ở Đông Dương".
Câu 4. Phân tích 3 nguyên tắc lớn của cuộc vận động cách mạng văn
hóa "Dân tộc hóa, khoa học hóa, đại chúng hóa" trong đề cương văn hóa Việt
Nam năm 1943.
Chương 4. NỀN GIÁO DỤC VIỆT NAM TRONG NĂM ĐẦU TIÊN SAU CÁCH MẠNG THÁNG 8 (1945 - 1946)
1. Hoàn cảnh lịch sử1.1. Tình hình Việt Nam sau ngày Cách mạng tháng Tám thành
công
Từ sau khi Cách mạng tháng Tám thành công (19/8/1945) đến tháng
12/1946 - trước khi cuộc kháng chiến chống Pháp toàn quốc bùng nổ là một
giai đoạn lịch sử vô cùng phức tạp, khó khăn chồng chất, đầy thử thách đối
với chế độ dân chủ cộng hoà non trẻ vừa thành lập ở nước ta.
Về kinh tế: Nền kinh tế của đất nước ta vốn nghèo nàn, lạc hậu, lại bị
kiệt quệ nặng nề do chính sách vơ vét, bóc lột của Pháp - Nhật trong mấy
mươi năm thống trị của chúng. Hơn 90% dân số là nông dân bị mất ruộng,
kiệt quệ bởi chính sách sưu thuế nặng nề. Nạn đói khủng khiếp cuối 1944 đầu
năm 1945 đã giết hại gần hai triệu đồng bào miền Bắc. Vụ mùa năm 1945,
hơn 50% ruộng đất ở Bắc Bộ bị bỏ hoang do thiên tai lũ lụt, mất mùa, do đó
nạn đói vẫn tiếp tục đe doạ. Tài chính cạn kiệt, ngân quỹ nhà nước trống
rỗng. Nạn lạm phát làm cho đồng bạc sụt giá, tiền "quan kim" và "quốc tệ, của
quân Tưởng mang sang lưu hành như mớ giấy lộn, tình hình đó lại càng làm
cho giá cả thêm đắt đỏ và đời sống rối ren.
Về văn hoá xã hội: Sau khi giành được chính quyền về tay, chúng ta
đã phải thừa hưởng của chế độ cũ - một di sản mục nát tột cùng về văn hoá
xã hội, đó là nạn dốt, nạn mù chữ và các tệ nạn xã hội khác do chính sách
ngu dân để lại. Hơn 95% dân số mù chữ, bệnh tật, mê tín dị đoan, trộm cắp,
nạn nghiện rượu, nạn hút thuốc phiện, làm cho đời sống vãn hoá xã hội càng
khó khăn nghiêm trọng.
Nhưng khó khăn và nguy hiểm nhất lúc này là sự đe doạ của bọn đế
quốc và tay sai đối với nền độc lập dân tộc vừa giành được và chính quyền
nhân dân non trẻ hãy còn trong trứng nước.
Sau khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, phe phát xít (Đức, Ý,
Nhật) bại trận, các nước trong khối đồng minh gồm Anh - Mỹ - Liên Xô họp
hội nghị tại Pot - xđam bàn về việc giải giáp tàn quân phát xít. Ở nước ta,
quân đội Anh được vào giải giáp quân Nhật từ vĩ tuyến 16 (Đà Nẵng) trở vào
Nam, quân đội Tưởng Giới Thạch được vào giải giáp quân Nhật từ vĩ tuyến
16 trở ra Bắc.
Cả quân Anh và quân Tưởng tuy mang danh nghĩa đồng minh làm
nhiệm vụ giải giáp quân Nhật, những bên trong đã sẵn ý đồ hiểm độc là tìm
cách lật đổ Chính phủ Hồ Chí Minh và thủ tiêu những thành quả của Cách
mạng tháng Tám.
Tình hình lúc nào là: Chưa đầy 10 ngày sau cuộc tổng khởi nghĩa, 20
vạn quân Tưởng bắt đầu kẻo vào biên giới Việt - Trung và ngày 9 - 9 - 1945
những đơn vị đầu tiên đã kéo vào Thủ đô Hà Nội. Chúng đem theo số người
Việt sống lưu vong ở Trung Quốc gồm lực lượng Việt quốc do Nguyễn Tường
Tam, Vũ Hồng Khanh cầm đầu và Việt cách do Nguyễn Hải Thần nắm giữ, có
những hành động khiêu khích, gây sức ép về chính trị đối với Chính phủ ta.
Chúng che chở cho bọn Việt gian gây những hành động chống phá cách
mạng và gây rối loạn trật tự xã hội.
Ở Miền Nam hơn 1 vạn quân Anh đổ bộ và nhảy dù, bắt liên lạc với bọn
Việt gian và binh lính Pháp, lợi dụng tù binh Nhật để gây rối loạn tình hình.
Ngày 23 - 9 - 1945 được quân đội Anh che chở và giúp sức, thực dân Pháp
đã nổ súng đánh chiếm Sài Gòn quay trở lại xâm lược Nam Bộ.
Như vậy, chưa đầy một tháng sau khi Cách mạng tháng Tám thành
công đất nước ta lại rơi vào một tình trạng hiểm nghèo chưa từng có. Nạn
đói, nạn dốt vẫn hoành hành, nạn ngoại xâm đe doạ nghiêm trọng. Đó quả là
những thử thách vô cùng to lớn đối với Đảng ta, với chính quyền nhân dân
non trẻ vừa thành lập.
Trọng trách nặng nề đặt ra cho Đảng, Chính phủ lúc này là phải giải
quyết những khó khăn bức thiết trước mắt (như nạn đói, nạn dốt), phải bảo vệ
và giữ vững những thành quả của Cách mạng tháng Tám, củng cố và xây
dựng chính quyền cách mạng còn non trẻ vừa thành lập, tiến tới xây dựng
những nền móng ban đầu của chế độ mới. Ngày 25/11/1945 Ban Thường vụ
Trung ương Đảng và Chính phủ đã ra bản chỉ thị kháng chiến kiến quốc, xác
định nhiệm vụ chiến lược, nhiệm vụ trước mắt và những chủ trương lớn để
chỉ đạo toàn dân tiến hành cuộc đấu tranh nhằm giữ vững quyền độc lập tự
do của dân tộc, bảo vệ chế độ mới.
Nhưng bên cạnh những khó khăn chồng chất và thách thức nặng nề
đó, chúng ta cũng có những thuận lợi mới và là những thuận lợi rất căn bản
do Cách mạng tháng Tám tạo ra, giúp Đảng ta, nhân dân ta từng bước đứng
lên vượt qua mọi gian nguy trở ngại để bảo vệ nền độc lập dân tộc, và xây
dựng những nền móng đầu tiên của chế độ mới, nền giáo dục mới.
2. Ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng Tám đối với việc xây dựng nền giáo đục mới
Cách mạng tháng Tám là một biến cố vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt
Nam. Cách mạng tháng Tám đã phá tan hai tầng xiềng xích nô lệ của Pháp -
Nhật, lật đổ chế đổ phong kiến đã từng thống trị nhân dân trong hàng chục
thế kỉ, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, xây dựng chế độ mới. Đó là
một điều kiện tiên quyết về quyền làm chủ chính trị giúp cho toàn thể nhân
dân Việt Nam đứng lên giành lấy quyền làm chủ về kinh tế, văn hoá, xã hội,
học vấn và giáo dục.
Cách mạng tháng Tám thành công khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà, đồng thời mở ra một kỉ nguyên mới cho nhân dân Việt Nam tiến lên
xây dựng cuộc sống tự do, ấm no, văn minh và hạnh phúc. Chế độ mới đòi
hỏi phải xây dựng một nền giáo dục mới - nền giáo dục dân tộc, dân chủ. Đó
là một đòi hỏi tất yếu, khách quan của sự nghiệp cách mạng. Do đó việc xây
dựng một nền giáo dục dân tộc dân chủ thực sự trở thành một sự nghiệp
cách mạng to lớn, một đòi hỏi bức thiết, giáo dục cần phải trở thành một công
cụ sắc bén góp phần vào cuộc đấu tranh để củng cố, bảo vệ những thành quả
của cách mạng, xây dựng chế độ mới.
Bản "Đề cương văn hoá" của Đảng soạn thảo từ năm 1943 đã vạch ra
những nguyên tắc lớn chỉ đạo việc xây dựng một nền văn hoá, giáo dục mới.
Trong bản đề cương văn hoá này, Đảng đã khẳng định:
+ “Mặt trận văn hoá là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính tri văn hoá)
ở đó người cộng sản phải hoạt động”, xác định rõ văn hoá, giáo dục là một
mặt trận trong sự nghiệp cách mạng, văn hoá, giáo dục phải thực sự là một
công cụ sắc bén trong tay người cộng sản để thực hiện lí tưởng giải phóng
dân tộc và giải phóng giai cấp.
+ "Nền văn hoá mà cuộc cách mạng văn hoá Đông Dương phải thực
hiện sẽ là văn hoá xã hội chủ nghĩa". Như vậy, ngay từ đầu Đảng đã xác định
đúng tính chất, bản chất của một nền văn hoá, giáo dục mới sau khi giành
được độc lập, đó là một nền văn hoá, giáo dục xã hội chủ nghĩa.
+ Đảng nêu rõ ba nguyên tắc lớn của cuộc vận động văn hoá trong giai
đoạn chuẩn bị tiến tới cách mạng và sau cách mạng là: "Dân tộc hoá, khoa
học hoá, đại chúng hóa".
Dân tộc hoá: chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa của nền văn
hoá cũ, xây dựng nền văn hoá mang tính dân tộc, độc lập.
Khoa học hoá: chống những cái phản khoa học, phản tiến bộ, giáo
điều, phản động của văn hoá cũ.
Đại chúng hoá: đem lại quyền học tập, học vấn cho toàn thể nhân dân
lao động, kiên quyết chống những chủ trương hành động làm cho văn hoá xa
rời đông đảo quần chúng.
Với những thuận lợi căn bản do Cách mạng tháng Tám tạo ra, trong
tình hình khó khăn phức tạp như trên, Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch đã có
những chủ trương và quyết sách đúng đắn để lãnh đạo toàn dân Việt Nam
bắt tay vào công cuộc xây dựng nền giáo dục mới, xoá bỏ những hậu quả
trầm trọng do chính sách giáo dục ngu dân của thực dân Pháp để lại, xây
dựng những nền móng ban đầu cho nền giáo dục mới - nền giáo dục dân tộc,
dân chủ nhân dân.
3. Những chủ trương đầu tiên của Trung ương Đảng và Chính phủ về giáo dục
Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ ngày 3/9/1945 Hồ
Chủ tịch nói: "Ba vấn đề nghiêm trọng nhất là giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại
xâm". “Nạn dốt là một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân
Pháp dùng để cai trị chúng ta. Hơn 95% đồng bào ta bị mù chữ... Một dân tộc
dốt là một dân tộc yếu”.
Lê nin cũng nói: “người mù chữ là người đứng ngoài chính trị”. Một dân
tộc vốn mới thoát khỏi ách nô lệ sau 80 năm đô hộ của Pháp, vừa giành được
chính quyền về tay, phải nắm lấy chính quyền, xây dựng, tổ chức chính
quyền, xây dựng xã hội mới, làm được những điều đó đòi hỏi phải có tri thức.
Những người dân vừa mới thoát khỏi ách nô lệ, muốn trở thành những chủ
nhân của cuộc sống mới, tham gia vào đời sống và những hoạt động chính trị
sôi nổi như ứng cử, bầu cử, gia nhập các đoàn thể cứu quốc, nếu không biết
đọc biết viết thì sẽ không phát huy được quyền làm chủ về chính trị, làm chủ
xã hội. Nếu không giải quyết vấn đề xoá mù chữ, thì giặc dốt sẽ làm cho dân
tộc đó suy yếu về thế và lực, và chịu nguy cơ của thảm họa diệt vong.
Trên thực tế, khi nhân dân ta cướp được chính quyền, nhiều thôn, xã,
địa phương thiếu hẳn những người đọc thông viết thạo để nhân dân tín nhiệm
giao phó cho những nhiệm vụ quan trọng để giải quyết những công việc cấp
bách trước mắt là "Diệt giặc dốt". Đó là chưa kể về lâu dài, yêu cầu của công
cuộc xây dựng đất nước cần phải có những cán bộ cho các ngành quân sự,
kinh tế, văn hoá, khoa học, giáo dục, ngoại giao... Tình hình khẩn cấp trên
đây đặt ra cho giáo dục phải cùng một lúc tập trung sức chống nạn mù chữ và
mở các trường học để đào tạo nhân tài cho đất nước.
Ngày 25 - 11 - 1945, Trung ương Đảng đã ra một bản "Chỉ thị kháng
chiến kiến quốc", trong đó nêu rõ đường lối cụ thể của giáo dục là:
"Tổ chức bình dân học vụ, tích cực bài trừ nạn mù chữ, mở đại học và
trung học, cải cách việc học theo tinh thần mới, bài trừ cách dạy học nhồi
sọ...". Bộ Quốc gia Giáo dục đã ra tuyên bố để xác định rõ hơn một số vấn đề
về mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục, tính chất dân chủ của nền giáo
dục mới.
Tuyên bố của Bộ Quốc gia Giáo dục khẳng định:
- Về tổ chức: Nền giáo dục mới là một nền giáo dục duy nhất, chung
cho toàn thể dân chúng, không phân biệt giai cấp.
- Về mục tiêu và tính chất của nền giáo dục mới: Mục đích cao cả của
nền giáo dục mới, một nền giáo dục khác hẳn với nền giáo dục thực dân mà
bản chất của nó là mê hoặc nô lệ làm bại hoại nhân phẩm người đi học. Nền
giáo dục tương lai là nền giáo dục của một nước độc lập, tôn trọng nhân
phẩm, rèn luyện chí khí, phát triển tài năng cá nhân đến tột bậc để phụng sự
đoàn thể và góp phần vào cuộc tiến hoá chung của nhân loại.
- Về phương pháp: xoá bỏ những phương pháp nhồi sọ, lối học hình
thức của nhà trường thực dân, đề cao tinh thần khoa học nhằm trau dồi cho
học sinh một lối nhận thức có quy củ, một phương pháp tư duy khoa học,
phát triển óc phê bình, phân tích, tổng hợp, tinh thần sáng tạo và gắn liền với
thực tế.
- Đặc biệt chú ý đến bồi dưỡng chuyên môn nghề nghiệp: “phần học về
chuyên môn nghề nghiệp sẽ chiếm một địa vị quan trọng”
Để thực hiện đường lối và nhiệm vụ trên, Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ
tịch đã đề ra những chủ trương, giải pháp hết sức cụ thể trong các ngành học
để giải quyết những yêu cầu cấp bách về giáo dục.
4. Mở chiến dịch "diệt dốt" trong cả nướcTrong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ ngày 3/9/1945, Hồ
Chủ tịch đã kêu gọi mở một chiến dịch "diệt đói" và "diệt dốt".
- "Diệt đói": Hồ Chủ tịch kêu gọi đồng bào và chính Người đã làm
gương trước, mỗi tháng nhịn ăn ba bữa cơm; đồng bào còn có sáng kiến tổ
chức "ngày đồng tâm" (tất cả mọi người đều nhịn một bữa), "hũ gạo tiết kiệm"
(mỗi bữa bớt một nắm gạo bỏ vào hũ). Nhưng đó là những biện pháp tình thế
tạm thời, giải pháp căn bản và lâu dài là phát động phong trào tăng gia sản
xuất.
- "Diệt dốt": Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ ngày
3/9/1945, Hồ Chủ tịch đưa ra đề nghị: "Nạn dốt là một trong những phương
pháp độc ác mà bọn thực dân Pháp dùng để cai trị chúng ta. Hơn 95% đồng
bào chúng ta mù chữ. Nhưng chỉ còn ba tháng là đủ để học đọc, học viết
tiếng ta theo vần Quốc ngữ. Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu". Vì vậy Hồ
Chủ tịch đề nghị mở chiến dịch chống nạn mù chữ”.
Rõ ràng, Đảng, Chính phủ và Hồ Chủ tịch đã nhận thấy rõ tầm quan
trọng lớn lao của tri thức, văn hoá đối với việc xây dựng chế độ mới: “Một dân
tộc dốt là một dân tộc yếu”. Một dân tộc mà hàng triệu người dân vừa thoát
khỏi ách nô lệ, trở thành người chủ của cuộc sống mới cần phải tham gia vào
đời sống chính tri sôi nổi và trọng đại của cả nước, như bầu cử, ứng cử, gia
nhập các đoàn thể cứu quốc mà tuyệt đại bộ phận lại chưa biết đọc, biết viết.
Điều đó sẽ gây trở ngại rất lớn cho việc phát huy quyền làm chủ chính trị, làm
chủ xã hội của nhân dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Do đó, bất chấp những khó khăn trở ngại, 5 ngày sau phiên họp lịch sử
trên, Hồ Chủ tịch đưa ra ba sắc lệnh “bình dân học vụ”, ba sắc lệnh này được
kí và ban hành vào ngày 8/9/1945.
1) Sắc lệnh số 17/SL thành lập “Nha bình dân học vụ” trực thuộc Bộ
Giáo dục. Nhiệm vụ của cơ quan này là chuyên lo việc học tập cho nhân dân.
2) Sắcc lệnh số 19/SL quy định hạn trong 6 tháng, làng nào, xã nào, thị
trấn nào cũng phải mở lớp học ít nhất 30 người theo học.
3) Sắc lệnh số 20/SL cưỡng bách học chữ Quốc ngữ không mất tiền,
hạn trong một năm tất cả mọi người Việt Nam từ 8 tuổi trở lên phải biết đọc
biết viết chữ Quốc ngữ.
Ba bản sắc lệnh bổ sung cho nhau thành một đạo luật đầu tiên của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà về vấn đề chống nạn mù chữ và nạn thất
học. Đó là cơ sở pháp lí để các cấp chính quyền và toàn thể nhân dân bắt tay
vào triển khai một phong trào cách mạng trên lĩnh vực giác dục.
Tuy nhiên, khi bắt tay vào hành động thực tiễn có rất nhiều khó khăn
đặt ra cần phải giải quyết: vấn đề tài chính (để mở lớp, mua sắm giấy bút,
sách vở, bồi dưỡng cho giáo viên, xây dựng trường sở thiết bị, đồ dùng học
tập) và cán bộ (để giải quyết việc xoá nạn mù chữ cho 25 triệu đồng bào phải
cần có hàng chục ngàn giáo viên). Trên thực tế ta chỉ có thể sử dụng trong số
học sinh, viên chức, trí thức đã từng hoạt động trong Hội truyền bá chữ Quốc
ngữ trước Cách mạng tháng Tám.
Nếu chỉ bằng những biện pháp hành chính thông thường thì khó có thể
giải quyết được nhiệm vụ cấp bách về diệt dốt. Cần phải sử dụng những biện
pháp mềm dẻo, sáng tạo, kiên quyết và đặc biệt là phải động viên được tinh
thần cách mạng, truyền thống hiếu học và khí thế cách mạng đang hăng hái
của toàn dân.
Do đó, tháng 10/1945, Hồ Chủ tịch đã ra lời kêu gọi "chống nạn thất
học" chỉ rõ ý nghĩa, mục đích, đối tượng, phương pháp hoạt động chống nạn
thất học. Lời kêu gọi của Người lúc đó hết sức khẩn thiết, cấp bách, vang
vọng tới từng người dân trong từng phố nghèo, xóm vắng.
“Những người đã biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ.
Những người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho biết. Vợ chưa biết thì
chồng bảo, em chưa biết thì anh bảo, cha mẹ không biết thì con bảo, người
ăn người làm không biết thì chủ bảo, các người giàu có thì mở lớp tư gia dạy
cho những người không biết chữ”. Người đặc biệt chú trọng đến thanh niên là
những người nắm trong tay vận mệnh của nước nhà và phụ nữ là tầng lớp bị
đè nén, áp bức, bất bình đẳng với nam giới về quyền học tập, giáo dục.
Người nói: “phụ nữ lại càng cần phải học, đã lâu chị em bị kìm hãm. Đây là
lúc các chị em phải cố gắng để kịp nam giới, để xứng đáng là một phần tử
trong nước”.
Chiến dịch "diệt dốt" được mở màn bằng một đợt tuyên truyền cổ động
rầm rộ. Đây là bước khởi đầu nhưng có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi, vì
nó động viên được tinh thần, khí thế phấn khởi của hàng triệu người mù chữ
hăng hái tham gia vào sự nghiệp diệt trừ nạn dột. Ngành Bình dân học vụ đã
đưa ra những khẩu hiệu tuyên truyền, kêu gọi mạnh mẽ lòng yêu nước của
nhân dân nhất là sau khí thế sôi sục của Cách mạng tháng Tám vừa thành
công.
Đi học bình dân học vụ là yêu nước!
Dạy bình dân học vụ luyện nước!
Giúp đỡ bình dân học vụ là yêu nước!
Giặc dốt diệt, Việt Nam cường!
Chống nạn thất học cũng như chống nạn ngoại xâm!
Những hình thức tuyên truyền vận động rất phong phú và rầm rộ:
Các khẩu hiệu được viết, kẻ, dán ở từng nhà, trên các mặt tường, thân
cây, đình làng, cổng chợ, bến đò, bến xe...
Các buổi phát động, tập hợp nhân dân nghe nói chuyện, các đám rước
đuốc, diễu hành, các hình mẫu sách học, học cụ, học phẩm...
Các cơ quan chính quyền đoàn thể như: Mặt trận Việt Minh, Đoàn
thanh niên, phụ nữ, phụ lão cũng hết sức tích cực tham gia vào cuộc vận
động và tổ chức chiến dịch "diệt dốt". Công tác tuyên truyền vận động được
triển khai sâu rộng, các tuyên truyền viên đi đến từng thôn xóm, từng gia đình
để vận động quần chúng tham gia các lớp học. Vận động quần chúng nhân
dân giúp đỡ phong trào về cơ sở vật chất như: nhà cửa, bàn ghế, dầu đèn để
mở lớp. Nhiều người hảo tâm còn giúp tiền của để in sách “Vần Quốc ngữ”,
mua vở viết giấy, bút mực. Nhiều hoà thượng và linh mục sẵn sàng cho
mượn nhà chùa và nhà thờ để mở lớp.
Các buổi sinh hoạt văn nghệ, ca nhạc, tập kịch tập trung vào chủ đề
khuyến khích mọi người đi học bình dân học vụ. Những người hát xẩm được
mời đến, hát các bài hát về bình dân học vụ, và họ đi khắp các bến đò, bến
xe, cổng chợ, trên các tàu, xe chở khách ở khắp các đường phố, xóm làng
hát cổ động cho phong trào. Nhiều vở kịch, chèo, cải lương về đề tài chống
nạn mù chữ được công diễn tại các địa phương để phục vụ đồng bào. Tranh
ảnh, áp phích cổ động làm thành rừng tranh trong bầy ở những nơi đông
người qua lại; dưới những bức tranh có chú thích những câu thơ rất hóm hỉnh
nhằm lôi kéo sự chú ý quan tâm của mọi người:
“Anh về, em chẳng cho về
Em nắm vạt áo, em đề câu thơ
Vì em mới học i tờ…”
“Lấy chồng biết chữ là tiên
Lấy chồng mù chữ là duyên nợ nần”
Bên cạnh các biện pháp tuyên truyền, động viên, khuyến khích, nhiều
địa phương đã sử dụng những biện pháp có tính chất hành chính, mệnh lệnh
pháp chế để "diệt dốt" như: không xét đơn dùng điểm chỉ thay cho chữ kí; mất
khẩu phần công điền nếu đến tháng 12/1946 chưa biết đọc và biết chữ Quốc
ngữ;
Nhiều địa phương đã trích một phần quỹ của xã cho bình dân học vụ,
sử dụng hoa lợi học đến để mua học phẩm (giấy, bút mực) cho người đi học.
Nhiều địa phương còn lập danh sách những người đã biết chữ hoặc còn
chưa biết chữ trong từng đội, thông báo trong các buổi mít tinh, tổng kết, triển
lãm để biểu dương thành tích và biểu dương phong trào.
Một vấn đề hết sức quan trọng là phải xây dựng ngay nội dung và
phương pháp giảng dạy bình dân học vụ: Với đối tượng đi học rất đa dạng,
nhất là đối tượng đã quá lớn tuổi thì cần phải dạy cái gì và dạy như thế nào
để trong vòng một năm mọi người phải biết đọc và biết viết?
Ngay từ đầu Nha Bình dân học vụ đã thành lập một “Ban tu thư”, để
chuẩn bị chương trình cho những người không biết chữ, và chuẩn bị dạy tiếp
lên cho những người đã biết đọc, biết viết:
Cuốn sách đầu tiên là cuốn “Sách vần Quốc ngữ” (tức là sách học vần,
ghép vần để đọc thành tiếng).
Tiếp theo là cuốn "Tập đọc sơ cấp" trong nội dung sách này cố gắng
đưa vào những khái niệm như “tự do”, “độc lập”, “dân chủ”, “những kiến thức
phổ thông về bầu cử, ứng cử”.
Trong cuốn “Phương pháp và cách thức dạy vỡ lòng chữ Quốc ngữ”
(dành cho giáo viên) Hồ Chủ tịch đã tự tay viết vào trang đầu của cuốn sách
những lời khuyên anh chị em giáo viên bình dân học vụ hãy "cố gắng đọc kĩ
cuốn sách này, rồi tận tâm dạy bảo đồng bào thất học, làm cho nạn mù chữ
chóng hết".
Ngoài ra, Nha Bình dân học vụ còn biên soạn và cho in những loại sách
phổ thông nói về những điều thường thức về chính trị, lịch sử, địa lí, khoa
học... gộp lại trong “Tủ sách đại chúng” để phổ biến trong nhân dân những
quan niệm mới và nhận thức mới về chế độ dân chủ nhân dân.
Về nội dung giảng dạy mới tập trung vào việc làm cho người đi học biết
đọc, biết viết, hiểu biết những kiến thức phổ thông. Phương pháp giảng dạy
vẫn phải sử dụng “phương pháp i tờ”; chưa có những môn học cụ thể trong
chương trình bình dân học vụ.
Những kết quả bước đầu của chiến dịch "diệt dốt"
Nhờ có công tác vận động và tuyên truyền sâu rộng, những chiến sĩ đi
tiên phong trong phong trào đã khơi dậy được nhiệt tình cách mạng, khí thế
hào hứng, truyền thống hiếu học của đồng bào cho nên chỉ trong một thời
gian ngắn phong trào chống nạn mù chữ đã lan rộng khắp cả nước. Các làng,
xã đều đã mở lớp bình dân học vụ ở đâu có người cần học là ở đó có lớp
học, học viên gồm đủ các lứa tuổi, các giới đồng bào, có cả những cụ già 60 -
70 tuổi cùng ngồi một lớp với các cháu 8, 9 tuổi... ở các vùng dân tộc, nhiều
thanh niên mang cơm gạo đi xa làng 30, 40 km đến lớp học "chữ Cụ Hồ" và
lại trở về dạy cho đồng bào. Lực lượng thanh niên học sinh trí thức yêu nước
cũng tỏ rõ nhiệt tình cách mạng trong chiến dịch. Riêng một năm đầu số
người đăng kí xung phong giảng dạy các lớp bình dân học vụ không có thù
lao đã lên đến 10 vạn người. Nhiều nhà sư ở các chùa, nhiều linh mục ở các
địa phận cũng tham gia công tác vận động và tổ chức bình dân học vụ. Nhiều
bức thư của các học viên già, trẻ, gái, trai viết với những dòng chữ nắn nót
gửi lên chúc sức khỏe Hồ Chủ tịch bày tỏ lòng biết ơn Đảng, Bác và cách
mạng với một tấm lòng biết ơn sâu sắc, nhờ phong trào vận động diệt dốt mà
đã giúp cho họ thoát khỏi cảnh tăm tối.
Trong suốt thời gian tiến hành chiến dịch “diệt dốt”, Hồ Chủ tịch là
người thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ theo dõi sát sao các bước đi
của phong trào. Mặc dù bận trăm công ngàn việc lớn trong thời kì đấu tranh
chính trị, quân sự và ngoại giao cực kì phức tạp này, Người vẫn dành thời giờ
đọc các thư của các học viên bình dân học vụ gửi tới, dự các cuộc mít tinh,
xuống tận các cơ sở thăm các lớp bình dân học vụ, viết thư trả lời, động viên,
hoặc có những lời huấn thị quý báu cho cán bộ bình dân học vụ, và Hồ Chủ
tịch đã tặng cho anh chị em giáo viên bình dân học vụ danh hiệu "vô danh
anh hùng".
Do vậy, đến tháng 9 - 1946 trong cả nước đã có hai triệu người thoát
nạn mù chữ. Đó là một kết quả đáng phấn khởi. Mặc dù những mục đích của
chiến dịch "diệt dốt" dặt ra chưa đạt được những sự mong muốn do những
nguyên nhân khách quan, nhưng đã để lại bài học kinh nghiệm quý (như việc
chuẩn bị chương trình, sách vở...) và đã tạo ra những điều kiện và tiền đề cần
thiết cho phong trào bình dân học vụ trong thời kì chống thực dân Pháp xâm
lược.
5. Giáo dục phổ thôngSau cách mạng, chúng ta đã tiếp quản một hệ thống giáo dục vô cùng
phản động và què quặt do thực dân Pháp để lại. Cả nước Việt Nam chỉ có
6491 trường học các cấp kể cả trường công và tư với 478. 778 học sinh. Bình
quân một trường hơn 70 học sinh. Trong đó có:
- 92% là trường học sơ học (tương đương lớp 1 và 2),
- 7,6% là trường sơ học tiểu học (tương đương lớp 3 và 4),
- 0,3% là trường cao đẳng tiểu học (tương đương bậc phổ thông cơ
sở),
- 0,6% là trường trung học (tương đương trung học phổ thông).
Một nền giáo dục què quặt, nhỏ giọt, sản phẩm của chính sách ngu dân
như trên không thể tồn tại dưới chế độ mới - chế độ dân chủ cộng hoà của
một đất nước đã giành được độc lập. Cần phải cải tổ lại toàn bộ hề thống
giáo dục, mà thực chất là phải cải tổ lại cả một ý thức hệ tư tưởng nô dịch
phản động đã từng giữ địa vị thống trị trong một thời gian dài. Việc cải tổ
không thể vội vàng, nôn nóng. Phải triển khai từng bước có kế hoạch. Trước
tiên, phải ổn định lại tình hình, bình thường hóa việc giảng dạy trong các
trường đã có sẵn. Đồng thời phải tạo điều kiện để các địa phương mở thêm
trường lớp, chuyển dần nội dung và phương pháp giảng dạy cho phù hợp với
tinh thần mới.
* Cải tổ và xây dựng bước đầu giáo dục trung tiểu học; khai giảng năm
học đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà:
Tháng 9/1945 tất cả các trường tiểu học và trung học đã khai giảng
năm học mới trong một không khí tưng bừng phấn khởi. Nhân dịp khai trường
đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hồ Chủ tịch đã gửi thư cho
các em học sinh trong cả nước. Trong thư, Người đã chỉ rõ sự khác nhau về
bản chất, về mục đích giữa nền giáo dục mới của nước Việt Nam độc lập và
nền giáo dục nô lệ dưới chế độ thuộc địa của Pháp trước kia. Người cũng gửi
tới các cháu thanh, thiếu niên nhi đồng, thế hệ trẻ cả nước lời khuyên bảo ân
cần tha thiết và gợi cho các em thấy trách nhiệm đối với non sông tiền đồ của
đất nước Việt Nam. "Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân
tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm
châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các
em".
Song song với việc khai giảng những trường đã có sẵn, Bộ Quốc gia
Giáo dục còn gấp rút tháo gỡ mọi khó khăn để mở thêm những trường lớp
mới, nhất là ở các tỉnh Bắc Bộ và Trung Bộ. Còn ở Nam Bộ do tình hình chiến
sự nên chưa mở được những trường lớp mới. Khó khăn lớn nhất trong việc
mở thêm trường lớp mới là thiếu giáo viên, nhất là giáo viên dạy ở bậc trung
học và đại học. Khắc phục khó khăn đó, các cấp chính quyền đã vận dụng
chính sách trí thức của Đảng, tuyển dụng hầu hết các giáo sư và giáo viên cũ.
Nhiều địa phương tự lập trường và tự tìm thầy dạy, các sinh viên đại học và
học sinh trung học cũng được tuyển vào đội ngũ giáo viên mới, các giáo viên
tiểu học đã giảng dạy lâu năm có kinh nghiệm được đưa lên giảng dạy ở lớp
trên. Nhờ những biện pháp mạnh dạn đó, số trường lớp cũ đã khôi phục lại
hoạt động bình thường, số trường lớp mới được mở ra cũng đi vào hoạt động
và bảo đảm được kế hoạch dạy theo chương trình.
Theo thống kê lưu trữ của Bộ Giáo dục, năm học đầu tiên sau ngày
Cách mạng tháng Tám thành công, trên cả nước đã mở được 5654 trường
tiểu học, sơ học với số học sinh 280. 798 và 8720 giáo viên. Bậc trung học có
29 trường (Bắc Bộ: 9, Trung Bộ; 10 trường bán công, 6 trường công; Nam
Bộ: 4, với số học sinh 2378).
* Cải tiến một bước chương trình giáo dục trung tiểu học chuẩn bị cho
cải cách giáo dục:
Việc xây dựng một nền giáo dục mới phải bắt đầu từ việc cải tổ lại toàn
bộ hệ tư tưởng giáo dục cũ, xây dựng nội dung chương trình, phương pháp,
sách giáo khoa mới. Song ngay trong năm đầu tiên chúng ta chưa có đủ điều
kiện để cải tổ toàn bộ hệ thống giáo dục, do vậy phải tiến hành từng bước.
Đồng thời với việc khôi phục lại các trường đã có trước đây và mở thêm
trường mới, điều quan trọng là phải chuyển hoá dần nội dung chương trình,
phương pháp giảng dạy phù hợp với bản chất, mục đích của nền giáo dục
mới. Tiếng Việt, chữ Quốc ngữ được coi là tiếng nói, chữ viết chính thức
trong nhà trường từ phổ thông đến đại học, thể hiện nguyên tắc, “tính dân tộc”
trong nền giáo dục mới.
Việc sử dụng tiếng Việt làm ngôn ngữ chính thức lúc này cũng vấp phải
một số khó khăn trước mắt: một số giáo chức và học sinh được đào tạo trong
nền giáo dục thuộc địa cũ quen dùng tiếng Pháp, họ diễn đạt những khái
niệm, thuật ngữ về những vấn đề khoa học, triết học, xã hội học bằng tiếng
mẹ đẻ thậm chí còn gặp nhiều khó khăn so với việc dùng tiếng Pháp. Mặc
dầu vậy, việc đưa tiếng mẹ đẻ vào giảng dạy trong các trường là một quyết
tâm cải tổ hết sức mạnh dạn và chủ trương đúng đắn của Đảng ta. Chỉ trong
một thời gian ngắn, với sự quyết tâm của đội ngũ giáo chức và học sinh, cùng
với phong trào bình dân học vụ dạy chữ quốc ngữ, tiếng Việt đã trở nên quen
thuộc với đồng bào khi diễn đạt những khái niệm mới về khoa học, kĩ thuật,
chính trị, quân sự, đã trở thành một phương tiện chính thức để giao lưu tư
tưởng, học thuật trong nền giáo dục mới.
* Sửa đổi lại chương trình, biên soạn lại sách giáo khoa theo nguyên
tắc "dân tộc, khoa học, đại chúng".
Theo Sắc lệnh 44SL ngày 10/10/1945, một "Hội đồng cố vấn học chính"
được thành lập để giúp Bộ Quốc gia Giáo dục triển khai công tác này. Hội
đồng bao gồm các giáo chức giàu kinh nghiệm, các nhà hoạt động xã hội nổi
tiếng có tinh thần yêu nước và tinh thần dân tộc, có nhiệm vụ giúp Bộ trưởng
nghiên cứu một chương trình cải cách, theo dõi sự thực hiện chương trình và
đề xuất các ý kiến tư vấn về các vấn đề thuộc khoa học giáo dục.
“Hội đồng cố vấn học chính” đã lập một tiểu ban phụ trách việc nghiên
cứu chương trình giáo dục chuyển tiếp bậc tiểu học, dự định:
+ Thống nhất bậc tiểu học từ nay còn 4 lớp (gọi là lớp tư, lớp ba, lớp
nhì, lớp nhất). So với bậc học cũ thời gian học được rút ngắn lại từ 1 - 2 năm.
+ Tạm thời áp dụng chương trình cũ ở một số môn khoa học tự nhiên
(chương trình Hoàng Xuân Hãn ban hành dưới thời chính phủ Trần Trọng
Kim), nhưng xoá bỏ những phần trái với chính thể dân chủ cộng hòa, hoặc
những kiến thức có tính chất nhồi nhét vô bổ. Bỏ hẳn chương trình môn học
luân lí cũ, thay vào đó là chương trình mới về "Công dân giáo dục và Đạo
đức". Môn học này cung cấp cho học sinh những khái niệm đạo đức mới như
lòng yêu nước, nghĩa hợp quần, công lí, bác ái, những bổn phận của con
người trong gia đình và của người công dân trong xã hội, những điều thường
thức về chính trị như bầu cử, ứng cử, quốc hội, nhà nước chính thể dân chủ
cộng hoà...
Bộ Giáo dục cũng xuất bản hai tờ báo lấy tên là "Giáo dục tân san", một
dành cho bậc tiểu học, một dành cho bậc trung học. Đó là tập san hàng tháng
truyền đạt các chỉ thị, phổ biến đường lối, quan điểm lí luận giáo dục mới,
hướng dẫn nội dung và phương pháp giảng dạy một số môn học, đăng các
nội dung của một số môn học mới chưa có sách giáo khoa hướng dẫn như
Công dân giáo dục, Lịch sử, Văn học Việt Nam.
6. Chuẩn bị cơ cấu khung của hệ thống giáo dục mới Ngày 10/6/1946 theo đề nghị của Bộ Quốc gia Giáo dục, Chính phủ đã
kí hai sắc lệnh quan trọng:
+ Sắc lệnh số 146/SL khẳng định ba nguyên tắc căn bản của nền giáo
dục mới: đại chúng hoá, dân tộc hoá và khoa học hoá. Quy định hệ thống
giáo dục mới gồm ba cấp học: bậc học cơ bản (tiểu học) 4 năm và từ năm
1950 sẽ là bậc học cưỡng bách; bậc học tổng quát (gồm trung học phổ thông
và trung học chuyên khoa) 3+4=7 năm, bên cạnh đó có bậc chuyên nghiệp
tương đương và bậc đại học.
+ Sắc lệnh số 147/SL quy định rõ bậc học cơ bản là bậc học cưỡng
bách đối với tất cả mọi người (dự kiến từ năm 1950), miễn phí và dạy bằng
tiếng mẹ đẻ.
Từng bước cải tổ lại các cơ quan quản lí giáo dục, đặt ra các cơ quan
Thanh tra học khu và Thanh tra tiểu học tại các tỉnh Trung Bộ và Nam Bộ,
thay thế cho các uỷ viên giáo dục do các Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm
thời lập ra.
7. Xây dựng và củng cố đội ngũ giáo viên, thành lập các đoàn thể quần chúng của giáo viên và học sinh
Bộ Quốc gia Giáo dục đã mở những lớp huấn luyện ngắn ngày, dưới
các hình thức như cắm trại, hội nghị... để bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên
quan điểm, nội dung, phương pháp giáo dục mới. Riêng đối với bậc trung
học, ưu tiên tổ chức bồi dưỡng cho giáo viên các môn Văn học ở Hà Nội và
Huế, và đào tạo một lớp cấp tốc giáo viên dạy tiếng Anh.
Đặc biệt là việc triệu tập Đại hội giáo giới toàn quốc trong 3 ngày (25,
26, 27 tháng 8/1946) tại nhà hát lớn Hà Nội là một sự kiện lịch sử quan trọng
của Ngành giáo dục trong năm đầu tiên sau 1 ngày Cách mạng tháng Tám
thành công. Đây là cuộc họp mặt đầu tiên gồm đủ các đại biểu giáo giới các
cấp học ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam. Đại hội là diễn đàn đầu tiên để các
giáo chức trao đổi, thống nhất các vấn đề về quan điểm, lí luận giáo dục mới,
thống nhất tổ chức, chương trình hoạt động của giáo chức ở các địa phương,
bầu ra Ban chấp hành Liên đoàn giáo giới.
Bên cạnh việc thành lập các đoàn thể giáo chức, tổ chức "Học sinh
đoàn Việt Nam" cũng được thành lập. Ngay từ những ngày đầu tiên sau Cách
mạng tháng Tám, một số học sinh sinh viên đã tham gia các tổ chức Việt
Minh bí mật, đứng trong hàng ngũ Đoàn thanh niên cứu quốc, họ là những
thanh niên tiên tiến đi đầu trong phong trào vận động thành lập Học sinh đoàn
ở các trường trung học. Ở nội thành Hà Nội, các tổ chức Học sinh đoàn được
thành lập khá sớm (trước 1 /1946), dần dần ở nhiều nơi "Học sinh đoàn"
được thành lập và bước đầu gây được ảnh hưởng lớn trong các cuộc vận
động chính trị ở các địa phương. Sự ra đời và những hoạt động của Tổ chức
Học sinh đoàn trong năm đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám là những bước
chuẩn bị cho việc dân chủ hoá trường học, xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp
giữa giáo viên - học sinh, giữa các lớp học sinh trong nhà trường.
Ở bậc tiểu học chưa có tổ chức đoàn thể riêng, nhưng ở các địa
phương đều có Đội Nhi đồng Cứu quốc và Đội Thiếu niên Tiền phong để thu
hút đông đảo học sinh ở lứa tuổi này tham gia các hoạt động.
8. Giáo dục cao đẳng và đại học chuyên nghiệpSau khi Cách mạng tháng Tám thành công, nền giáo dục cao đẳng và
đại học do thực dân Pháp để lại vô vùng nghèo nàn và lạc hậu. Cả Đông
Dương chỉ có một trường đại học với số sinh viên năm cao nhất là 800 người,
và một số trường cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp phục vụ cho công
cuộc khai thác thuộc địa.
Việc đào tạo cán bộ chuyên môn có trình độ giáo dục bậc cao cho các
ngành lúc đó gặp rất nhiều khó khăn. Đảng, Chính phủ đã chủ trương tự lực
xây dựng giáo dục đại học chuyên nghiệp. Trong năm đầu tiên sau Cách
mạng tháng Tám, các khoa Y, Dược trong trường đại học, một số trường như
Cao đẳng công chính, Cao đẳng kĩ thuật, Cao đẳng canh nông, Thú y đã
được mở lại, tiếp tục hoạt động đào tạo và tổ chức thi cuối năm, đồng thời
chuẩn bị những điều kiện cải tổ lại các trường hiện có và mở thêm những
trường mới. Các môn học trong nhà trường đều được giảng dạy bằng tiếng
mẹ đẻ. Tuy nhiên do hoàn cảnh gấp rút, và phải chuẩn bị đối phó với tình hình
chiến sự sắp nổ ra, nên chúng ta cũng chưa xúc tiến được những hoạt động
cụ thể để tạo ra những biến chuyển của bậc giáo dục đại học trong thời kì
này.
Những thành quả của một năm thực hiện chiến dịch diệt dốt, thanh toán
nạn mù chữ, phát triển bước đầu giáo dục phổ thông đã đặt cơ sở nền tảng,
tạo dựng sức mạnh to lớn cho công cuộc xây dựng và phát triển giáo dục,
phục vụ sự nghiệp kháng chiến kiến quốc của nhân dân ta thời kì sau này.
CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu 1. Phân tích ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng Tám đối với việc
xây dựng nền giáo dục dân tộc, dân chủ mới.
Câu 2. Thành tựu lớn nhất của giáo dục Việt Nam trong năm đầu tiên
sau Cách mạng tháng Tám là gì? Tại sao nói đó là thành tựu lớn nhất?
Câu 3. Nêu những biến chuyển quan trọng của giáo dục phổ thông
trong năm học đầu tiên sau Cách mạng tháng 8.
Chương 5. GIÁO DỤC TRONG THỜI KÌ KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1946 - 1954)
1. Hoàn cảnh lịch sửNgay sau khi Nhật đầu hàng, chính phủ Đơ gôn đã quyết định đưa một
đội quân viễn chinh sang Đông Dương. Ở miền Nam chúng bắt tay với quân
đội Anh (lúc đó vào giải giáp quân Nhật ở miền Nam) chiếm đóng lại một số
địa điểm quan trọng ở Sài Gòn - Chợ Lớn, dần đánh chiếm các tỉnh Nam Bộ
và Nam Trung Bộ và mở rộng chiếm đóng nhiều tỉnh ở miền Nam và có âm
mưu mở rộng chiến tranh ra miền Bắc. Ở miền Bắc, Pháp thoả hiệp với
Tưởng Giới Thạch kí kết bản Hiệp ước Hoa - Pháp, thay quân Tưởng làm
nhiệm vụ giải giáp quân Nhật.
Nhân dân Việt Nam vốn rất thiết tha với hòa bình và và cần có hoà bình
để củng cố nền độc lập vừa giành được và để xây dựng đất nước. Vì vậy,
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã tỏ rõ thiện chí, sẵn sàng thương
lượng để đạt được những giải pháp hoà bình trong mối quan hệ với chính
phủ Pháp. Chính phủ ta đã phải nhân nhượng kí Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 và
Tạm ước 14/9/1946 với chính phủ Pháp nhằm mục đích làm hoà dịu tình
hình, kéo dài thời gian để có điều kiện chuẩn bị lực lượng kháng chiến. Kết
quả của hai bản hiệp định này là ta đã đập tan âm mưu của Đế quốc Pháp
trong việc cấu kết với Tưởng và đã đẩy được 20 vạn quân Tưởng rút về
nước.
Mặc dù chúng ta đã thực hiện nghiêm chỉnh các điều khoản đã kí kết
và hết sức nhân nhượng, nhưng với bản chất phản động và ý đồ giành lại
quyền thống trị ở Việt Nam và trên cả bán đảo Đông Dương, thực dân Pháp
ngày càng lấn tới. Chúng đã gây ra những vụ khiêu khích, xung đột vũ trang,
hành binh càn quét, khủng bố, tăng thêm quân viện binh để chuẩn bị gây
chiến tranh một lần nữa. Ngày 17/12/1946 chúng cho quân bắn đại bác và
súng cối vào khu phố Hàng Bún, chiếm trụ sở tài chính và một số cơ quan
của ta. Vào ngày 18/12/1946 tên Mooc - li - ê đã gửi tối hậu thư cho Chính
phủ ta đòi giải giáp quân đội quốc gia Việt Nam, đòi quyền giữ trật tự trong
thành phố, có nghĩa là buộc chúng ta phải hạ vũ khí đầu hàng.
Tình thế khẩn cấp đòi hỏi Đảng, Chính phủ ta phải kịp thời có một sự
lựa chọn lịch sử, phải kịp thời có một quyết định chiến lược để xoay chuyển
vận nước đang lâm nguy. Dựa trên Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà được Quốc hội thông qua ngày 19/11/1946, Hồ Chủ tịch đã báo cáo với
Hội đồng Chính phủ và Thường trực Quốc hội để ra quyết định phát động
cuộc kháng chiến trong toàn quốc. Đêm 19/12/1946 Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được truyền đi trong cả nước, kêu
gọi toàn dân đứng lên cầm súng kháng chiến cứu nước. "Chúng ta muốn hoà
bình, chúng ta phải nhân nhượng, nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực
dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết cướp nước ta một lần nữa. Không! Hỡi
đồng bào! Chung ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ".
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch là tiếng gọi của non
sông đất nước, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí quật cường của
mọi người Việt Nam yêu nước cầm súng đứng lên với ý chí kiên định "thà hi
sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô
lệ".
Từ năm 1946 đến năm 1954 là một giai đoạn lịch sử oanh liệt của
nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược. Cuộc kháng chiến chống Pháp
trường kì, lâu dài, gian khổ, tự lực cánh sinh kéo dài suốt chín năm và đã kết
thúc thắng lợi bằng chiến dịch Điên Biên Phủ vĩ đại ngày 7/5/1954, ghi một
trang sử vàng chói sáng vào lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc.
Trong suốt chín năm trường kì gian khổ chống thực dân Pháp xâm
lược, Đảng đã lãnh đạo nhân dân tiến hành nhiệm vụ của cuộc Cách mạng
dân tộc dân chủ, chống đế quốc và chống phong kiến, vừa kháng chiến vừa
kiến quốc. Nhiệm vụ giáo dục trong thời kì này tập trung hướng vào phục vụ
hai nhiệm vụ chiến lược đó.
2. Giáo dục phục vụ kháng chiến kiến quốc (1946 - 1954) 2.1. Những chủ trương của Trung ương Đảng để chuyển hướng
giáo dục phục vụ kháng chiến kiến quốc
Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, đất nước ta từ hoàn cảnh hoà
bình chuyến sang chiến tranh. Vì vậy, ngành giáo dục phải có những chuyển
hướng hoạt động cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử mới, để sử dụng giáo
dục làm một công cụ sắc bén góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kháng
chiến kiến quốc chống thực dân Pháp xâm lược.
Trước hết, cần phải nâng cao nhận thức và niềm tin của nhân dân đối
với cuộc kháng chiến trường kì, gian khổ nhưng nhất định thắng lợi. Phải
động viên các giải trí thức, văn hoá, văn nghệ, các nhà chuyên môn, tham gia
vào các mặt trận công tác như quân giới, quân y, giáo dục, tuyên truyền
kháng chiến. Tiếp tục xúc tiến công tác bình dân học vụ, mở mang giáo dục
kháng chiến, làm cho giáo dục thực sự phát huy cao độ vai trò tác dụng trong
công cuộc kháng chiến kiến quốc. Vì vậy, Đảng đã chỉ rõ nhiệm vụ quan trọng
nhất của giáo dục trong thời kì này là: "Phải tìm mọi biện pháp khôi phục lại
các hoạt động giảng dạy và học tập của các loại trường cho phù hợp với hoàn
cảnh mới và đáp ứng tốt những yêu cầu mới của sự nghiệp kháng chiến kiến
quốc". Nghị quyết Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ 4 (tháng 4/1947) đã
vạch ra những phương hướng chính cho giáo dục: "Chương trình học phải
thiết thực nhằm đào tạo nhân tài cho kháng chiến ở tất cả các lĩnh vực: học
sinh phải vừa học vừa sản xuất tự.túc một phần; tiếp tục phát triển bình dân
học vụ; chú ý mở trường ở vùng quốc dân thiểu số"
Mặt khác, đối với đội ngũ giáo chức cũ, họ còn nhiều bỡ ngỡ khi bước
vào cuộc kháng chiến đầy thử thách và gian khổ. Vì vậy, cần phải tập hợp lực
lượng, xây dựng giáo giới thành một khối thống nhất, xây dựng ý thức phụng
sự Tổ quốc và phục vụ sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là một yêu cầu cần
thiết. Vì vậy, Nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng mở
rộng (tháng 1/1948), đã nhấn mạnh yêu cầu này và đề ra những biện pháp
cần thiết để Ngành giáo dục có thể đáp ứng tốt các mục tiêu và phương
hướng đã nêu trên: "Họp hội nghị giáo giới, chấn chỉnh và mở mang việc học
trong thời chiến; định chương trình học cho các cấp, soạn sách giáo khoa
mới; định cách dạy theo lối mới, vừa tránh được nạn nhồi sọ của thời kì Pháp
thuộc, vừa thích hợp với tinh thần kháng chiến và dân chủ; mở thêm trường
mới theo kế hoạch và gửi học sinh đi học ở nước ngoài".
Những nghị quyết trên hết sức quan trọng, được ban hành kịp thời và
đã đề cập đến nhiều vấn đề phát triển giáo dục phù hợp với điều kiện kháng
chiến. Dưới ánh sáng của các nghị quyết của Trung ương Đảng, mặc dù
trong hoàn cảnh thiếu thốn, gian khổ của cuộc kháng chiến, các ngành học
binh dân học vụ, tiểu học, trung học, đại học đều có những biến chuyển rõ rệt
làm thay đổi tình trạng giáo dục thấp kém do chế độ thực dân cũ để lại.
2.2. Ngành bình dân học vụ
* Tiếp tục chiến dịch "diệt dốt" sau Cách mạng tháng Tám:
Phong trào "diệt dốt" sau Cách mạng tháng Tám đang có khí thế mạnh
mẽ và thu được nhiều kết quả thì cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Công
tác tổ chức thực hiện các nhiệm vụ giáo dục lại rơi vào hoàn cảnh khó khăn
mới. Các lớp bình dân học vụ ở các địa phương, kể cả những vùng còn xa
nơi chiến sự đều tự động giải tán hoặc đình giảng. Quan niệm sai lầm phổ
biến lúc này là "việc học không cấp bách bằng việc đánh giặc cứu nước", hay
"kháng chiến thành công rồi học cũng chưa muộn". Nhưng chỉ ba, bốn tháng
sau, Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ 4 (tháng 4/1947) đã xác định nhiệm
vụ cấp thiết của Ngành giáo dục là “phải phát triển bình dân học vụ”, nhấn
mạnh “bình dân học vụ là một công tác kháng chiến quan trọng”. Những tư
tưởng sai lầm trên được kịp thời uốn nắn lại, và bình dân học vụ là ngành học
đầu tiên trở lại hoạt động có khí thế và phát triển nhanh, mạnh nhất.
Mặc dù bận trăm công ngàn việc trên các mặt trận đấu tranh chính trị,
quân sự, ngoại giao, nhưng Hồ Chủ tịch đã rất quan tâm đến giáo dục và
công tác bình dân học vụ. Trong thư gửi ông Giám đốc và toàn thể giáo viên
bình dân học vụ Khu III, ngày 4/11/1947, Người đã chỉ rõ: "Các lớp bình dân
học vụ chẳng những dạy cho đồng bào biết chữ, làm tính, mà còn dạy thêm
về cóng cuộc kháng chiến cứu nước, tăng gia sản xuất, giúp mùa đông binh
sĩ, giúp đồng bào tản cư, học khoa học thường thức". Một năm sau, trong thư
gửi ông Trưởng ty Bình dân học vụ Hà Tĩnh, Người lại nhấn mạnh thêm: "Các
lớp bình dân học vụ nên kiêm thêm trách nhiệm tuyên truyền cổ động cho
công việc kháng chiến như giúp đỡ bộ đội thi đua tăng gia sản xuất".
Như vậy, mục đích của công tác bình dân học vụ không chỉ dừng lại ở
việc dạy cho học viên biết đọc, biết viết, biết làm tính, biết khoa học thường
thức mà còn nhằm tuyên truyền, giáo dục ý thức kháng chiến cứu nước cho
mỗi người công dân, động viên cổ vũ tinh thần cách mạng của đại bộ phận
quần chúng tham gia vào sự nghiệp kháng chiến. Các khẩu hiệu vận động
cho phong trào bình dân học vụ thời kì này là “Tiền tuyến diệt xâm lăng, hậu
phương trừ giặc dốt"; "Đi học là kháng chiến"; "Mỗi lớp bình dân là một ổ
tuyên truyền kháng chiến"; "Mỗi giáo viên bình dân học vụ là một đội viên
tuyên truyền kháng chiến"; "Có học thì kháng chiến mới thắng lợi"...
* Về nội dung giảng dạy: Các tài liệu giáo khoa đều bám sát các chủ
điểm kháng chiến, những từ ngữ, thuật ngữ, khái niệm, chủ đề kháng chiến
được đưa vào các bài đánh vần, tập đọc. Những nội dung về tăng gia sản
xuất, thi đua yêu nước, công phiếu kháng chiến, hũ gạo nuôi quân, mùa đông
binh sĩ..., được các giáo viên khéo léo đưa vào trong nội dung các bài giảng.
Trước khi bắt đầu bài giảng, giáo viên thường phổ biến các bản tin chiến sự
và thành tích ở các địa phương để cổ vũ tinh thần thi đua yêu nước của
người đi học.
Ví dụ: Bài học vần kiến thức đơn giản, nhưng lồng vào đó là nội dung
kháng chiến: "Nghe gõ kẻng, dân quân đồn Vàng hăng hái tải đạn" (bài học
các vần ang, ăng, eng); "Dù cho hạn hán khô khan, nhân dân cán bộ khó
khăn sợ vì" (Bài học các vần an, ăn, ân); "Dù ai nói đông nói tây, lòng ta vẫn
vững như cây giữa rừng" (bài học các vần ong, ông, ung, ưng).
* Về đối tương đi học bình dân học vụ: Các lớp bình dân học vụ thu hút
tất cả quần chúng đồng bào ở mọi lứa tuổi (trừ trẻ em có đủ điều kiện vào học
trường phổ thông), mọi thành phần giai cấp, không phân biệt tín ngưỡng, dân
tộc, thành phần xuất thân... nhưng đặc biệt chú trọng khuyến khích những
cán bộ đang nắm giữ trách nhiệm chính yếu trong sản xuất và chiến đấu,
đoàn viên, hội viên các hội cứu quốc, thanh niên, phụ nữ. Những người thuộc
thành phần bần cố nông được đặc biệt chú ý trong các đối tượng vận động đi
học.
* Phương thức tổ chức dạy học: Trong tình hình kháng chiến, phong
trào bình dân học vụ sẽ không duy trì được nếu không biết tổ chức các hình
thức tổ chức dạy học linh động, phát huy vai trò tích cực chủ động của quần
chúng, phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn. Các lớp bình dân học và được mở ở
khắp nơi: trong vùng tự do, vùng tạm chiếm, vùng căn cứ du kích với hình
thức hết sức đa dạng và phong phú, linh hoạt. Có những lớp học tập trung, có
những lớp di động, có lớp phục vụ chiến dịch đi theo những đoàn dân công
hỏa tuyến, có những lớp cá biệt dành cho những người tiếp thu chậm. Trong
lòng địch lại có những lớp trá hình, nghi trang, bề ngoài làm những công việc
như đan lưới, kéo sợi nhưng bên trong và sau đó là học chữ... Trong điều
kiện khó khăn ở những vùng bị bao vây tứ phía, học phẩm, học cụ thiếu
nghiêm trọng thì nhân dân đã sáng tạo ra những vật phẩm để thay thế, giáo
viên phải chép tay tài liệu, có nơi tài liệu phải in đất, in đá, in thạch...
* Về đội ngũ giáo viên: Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ 4 (tháng
5/1948) đã đề ra những biện pháp để chấn chỉnh và tăng cường đội ngũ giáo
viên bằng cách: trả những giáo viên, cán bộ của ngành bình dân học vụ về
cho ngành bình dân học vụ, tuyển thêm giáo viên mới, mở các lớp huấn luyện
chuyên môn nghiệp vụ, trích quỹ địa phương trả thù lao một phần nào cho
giáo viên bình dân học vụ nhưng không công chức hoá giáo viên bình dân
học vụ.
Từ sau chiến thắng Việt Bắc thu đông năm 1947, chúng ta ngày càng
giành được những thắng lợi vang dội trên khắp các mặt trận. Trên đà thắng
lợi đó, Trung ương Đảng đã ra chỉ thị về thi đua ái quốc, ngày 19/5/1948 Hồ
Chủ tịch ra lời kêu gọi thi đua ái quốc.
Trong khí thế thi đua yêu nước của đồng bào cả nước, Nha Bình dân
học vụ đã phát động một chiến dịch "diệt dốt". Sau đó phong trào được triển
khai mạnh, nhất là ở các tỉnh đồng bằng và trung du. Tinh thần thi đua yêu
nước của các giới đồng bào được thể hiện rất cụ thể ở các khẩu hiệu thi đua
diệt dốt, lời hứa hẹn, quyết tâm thư. Đến tháng 6/1950, số người được xoá
nạn mù chữ đã lên tới 10 triệu. Một số đông được tiếp tục học qua lớp dự bị
để biết đọc, biết viết một cách vững chắc hơn. Tổng số đơn vị đã được công
nhận thoát nạn mù chữ là 10 tỉnh, 80 huyện, 1424 xã và 7248 thôn. Tiêu biểu
nhất là các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Phúc Yên, Thái Bình, Hà Nam, Hoà
Bình, Hưng Yên, Phú Yên, Bình Định, Quảng Nam. Cùng với các đơn vị hành
chính kháng chiến, các đơn vị lực lượng vũ trang (bộ đội chủ lực, dân quân
du kích) cũng phát động phong trào và tiến hành các hoạt động thi đua diệt
dốt.
2.3. Xây dựng cơ sở Ngành học bổ túc văn hoá
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II năm 1951, Ngành bình dân học
vụ đã chuyển sang một thời kì phát triển mới. Phong trào thanh toán nạn mù
chữ được đẩy mạnh và đặt ra vấn đề phải bổ túc văn hoá cho những người
thoát nạn mù chữ tiếp tục học lên. Trong các bức thư của Hồ Chủ tịch gửi các
đơn vị mừng công xoá nạn mù chữ bao giờ Người cũng dành những dòng
cuối khuyên nhủ đồng bào cố gắng học thêm, cán bộ giáo viên cố gắng dạy
thêm. Nghị quyết Hội nghị cán bộ Trung ương VI ngày 20/5/1948 và Hội nghị
dân vận tháng 2/1949 cũng xác định rõ phải tiếp tục phát triển bổ túc văn hoá,
phổ biến giáo dục công dân, gây dựng nền móng giáo dục bình dân.
Thực hiện chủ trương trên, Nha Bình dân học vụ đã có những bộ phận
chuyên trách nghiên cứu các bậc học bổ túc văn hoá với những chương trình
tương ứng, phù hợp với hoàn cảnh kháng chiến. Bộ Quốc gia Giáo dục đã
công bố chương trình bổ túc văn hoá, bước đầu chia làm các cấp như sau:
+ Sơ cấp bình dân: mãn khoá bảo đảm trình độ biết đọc, biết viết.
+ Dự bị bình dân: mãn khoá bảo đảm trình độ tương đương với lớp 2
phổ thông.
+ Bổ túc bình dân cấp I: mãn khoá bảo đảm trình độ lớp 4 phổ thông.
+ Bổ túc bình dân cấp II: mãn khoá bảo đảm trình độ cấp II phổ thông.
Thời gian học cho mỗi cấp từ 4 đến 6 tháng.
Bắt đầu từ năm 1952, Chính phủ ban hành chính sách bổ túc văn hoá,
coi công tác bổ túc văn hoá cho công nông binh là công tác giáo dục quan
trọng bậc nhất trong lúc này, có những quy định rõ về mục đích yêu cầu,
phương châm xây dựng ngành bổ túc văn hoá. Phương châm biên soạn
chương trình phải "thống nhất giữa lí luận và thực tiễn, tranh thủ thời gian
phục vụ kháng chiến". Nội dung chương trình phải sát với thực tiễn chiến đấu,
sản xuất và công tác, tinh giản nội dung kiến thức, tăng cường ứng dụng như
học làm tính, nói chuyện, viết báo cáo, tăng cường những hiểu biết về lịch sử,
địa lí, chính trị, công dân giáo dục.
Đầu năm 1952, Chính phủ chủ trương mở cuộc Đại vận động sản xuất,
tiết kiệm trong cả nước. Vì vậy các lớp bình dân học vụ ở các địa phương đều
lấy vấn đề sản xuất và tiết kiệm làm nội dung học tập và giảng dạy. Mỗi lớp
bình dân học vụ là một nơi phổ biến chủ trương, mỗi học viên, giáo viên là
một người tuyên truyền và thực hiện sản xuất, tiết kiệm.
Ví dụ: Bài tập chép:
"Đồng bào xóm Cọc
Vừa học vừa làm
Giờ học thì ham
Giờ làm gắng sức
Cùng nhau thách thức
Vượt mức thi đua
Cấy lúa trồng ngô
Cũng là kháng chiến"
Trong tập bài "Dự bị bổ túc" ấn hành năm 1955 có bài Tập làm văn
Điền vào chỗ trống để làm câu đủ nghĩa:
1. Giặc Pháp bị thua to tìm cách phá hoại....... (mùa màng, kinh tế của
ta)
2. Để chống âm mưu của địch có thể gây ra nạn đói, nhân dân đã
………… (tích cực tăng gia sản xuất và tiết kiệm)
3. Hoa màu năm nay tăng nhiều nhờ nhân dân đã triệt để thi hành...........
(chính sách sản xuất và tiết kiệm của Chính phủ).
Trong thời kì phát động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất,
chương trình bổ túc văn hoá được bổ sung và chỉnh lí nhằm làm cho học viên
nhận thức đúng đắn vai trò của nông dân, thấy rõ bản chất bóc lột của địa
chủ, nâng cao lập trường giai cấp. Trong bài số 21, Vần Quốc ngữ có đoạn
"Bị bóc lột tô tức, nông dân khổ cực, căm thù sôi sục, nông dân vùng đứng
lên".
Để thực hiện chính sách bổ túc văn hoá của Chính phủ, bên cạnh các
trường phổ thông lao động được thành lập ở trung ương, các Liên khu và các
tỉnh, có rất nhiều lớp được mở ra tại các công trường, cơ quan, xí nghiệp.
Các lớp bổ túc văn hoá được mở ra không chỉ ở vùng tự do, vùng giải phóng,
mà cả trong vùng địch hậu, vùng chiến khu căn cứ địa cách mạng. Bên cạnh
các lớp bổ túc văn hoá tập trung, có những lớp học lưu động đi theo các đoàn
dân công tiếp vận, dân công hoả tuyến, có những lớp mở theo tuyến giao liên
suốt tuyến đường qua Bình Trị Thiên, Liên khu 5 vào Nam Bộ. Các chiến sĩ
học trên đường hành quân, học khi tạm dừng chân giữa rừng, bên suối, học
tranh thủ ban ngày để đêm đến đốt đuốc lên đường.
Có những lớp học đậm nghĩa tình quân dân nơi chiến khu kháng chiến,
trong một cái lán nhỏ dưới rừng già, bên bếp lửa nhà sàn, đêm đêm quân dân
kề vai học chữ "Nhớ sao lớp học i tờ, đêm khuya đuốc sáng những giờ liên
hoan ".
Nhờ những chủ trương và quyết định đúng đắn của Đảng và Chính
phủ, cùng với sự quyết tâm to lớn của toàn thể đồng bào và cán bộ chiến sĩ,
công tác bổ túc văn hoá đã thu được những kết quả đáng ghi nhận. Một số
lượng lớn cán bộ cốt cán đã được nâng cao trình độ, và đã nhanh chóng
trưởng thành trong công tác lãnh đạo sản xuất chiến đấu. Tính đến năm 1954
số trường phổ thông lao động trong cả nước đã lên tời 25 trường. Trong 6
năm từ 1948 đến 1954, ở vùng giải phóng có chừng 300. 000 - 400. 000
người theo học các lớp tiểu học và trung học bình dân. Phần lớn trong số họ
là những công nhân trong các công binh xưởng, nông dân và cán bộ trẻ trong
các cơ quan của Chính phủ kháng chiến hoặc các đoàn thể.
2.4. Giáo dục phổ thông
* Chuyển hướng nhà trường từ hoà bình sang kháng chiến:
Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ làm thay đổi tình hình hoạt động
của nhà trường phổ thông. Các trường ở thành phố phải tạm ngừng hoạt
động dạy học để tản cư về các vùng nông thôn và các khu an toàn, sau một
thời gian chấn chỉnh lại bắt tay vào hoạt động trở lại (Như Trường trung học
kháng chiến Việt Bắc tập hợp những học sinh và giáo sư của 2 trường trung
học Chu Văn An và Nguyễn Trãi từ Thủ đô đến). Các trường tiểu học ở nông
thôn và các trường trung học đã thành lập ở các tỉnh, huyện chưa có chiến sự
vẫn tiếp tục duy trì hoạt động, vẫn tổ chức thi cuối năm để hoàn thành năm
học cũ và chuẩn bị cho năm học mới.
Bên cạnh việc chuyển hướng hoạt động của các trường hiện có cho
phù hợp với tình hình kháng chiến, Ngành giáo dục chủ trương mở rộng
mạng lưới các trường trung tiểu học để phục vụ cho yêu cầu học tập của con
em các tầng lớp nhân dân, đồng thời phục vụ cho yêu cầu kháng chiến. Loại
hình trường nội trú là loại hình nhà trường mới rất phù hợp với tình hình thời
chiến được mở ra trong thời kì này để thu hút con em các gia đình tản cư, các
gia đình cán bộ, chiến sĩ chưa có chỗ học, con em đồng bào dân tộc ở những
vùng chưa có trường. Học trong trường nội trú, học sinh được đài thọ quần
áo, giấy bút, sách vở. Một số trường nội trú được mở ra trong thời kì kháng
chiến như: Trường phổ thông trung học Việt Bắc (1948) dành cho con em các
dân tộc miền núi phía Bắc; Trường phổ thông trung học Bình Trị Thiên (1948)
ở Hà Tĩnh; Trường Nguyễn Chí Điểu (1949) ở chiến khu Thừa Thiên; Trường
trung học bình dân ở Liên khu V; Trường Huỳnh Phan Hộ ở Nam Bộ.
Ngoài ra, một số loại hình nhà trường khác như trường bán công và
trường tư thục cũng được khuyến khích thành lập. Trường bán công do chính
quyền hoặc ủy ban Liên Việt địa phương đỡ đầu thành lập. Trường tư thục do
tư nhân và đoàn thể quần chúng đứng ra tổ chức thành lập.
Mạng lưới trường tiểu học tiếp tục được mở rộng, mạnh nhất là từ năm
1952 trở đi, hầu hết các xã miền xuôi đều có trường, ít nhất là có những lớp
đầu cấp. Chỉ tính riêng sau hơn một năm kháng chiến (đến tháng 6/1948), số
học sinh tiểu học ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ đã lên tới 147. 000 học sinh,
tăng 47% so với trước tháng 12/1946. Số học sinh trung học ở các tỉnh Liên
khu 4 lên tới 4870, tăng gấp 7 lần so với thời điểm trước kháng chiến.
* Đổi mới nội dung chương trình dạy học trung tiểu học
Sau khi đã ổn định tổ chức các trường học kháng chiến, Bộ Quốc gia
Giáo dục chủ trương cải tiến nội dung chương trình và phương pháp dạy học
theo hướng nhà trường gắn với đời sống xã hội, với công cuộc kháng chiến
của toàn dân, để học sinh sau khi ra trường có thể làm tốt nghĩa vụ của người
công dân đối với Tổ quốc.
Tháng 2/1948 Bộ Quốc gia Giáo dục triệu tập một Hội nghị cán bộ lãnh
đạo của Ngành tại Cao Xá, Phú Thọ, Hội nghị đã quyết định một số vấn đề
sau:
- Về chương trình dạy học:
+ Ở bậc tiểu học: thêm một số chủ điểm kháng chiến trong môn Giáo
dục đạo đức và Công dân giáo dục.
+ Ở bậc trung học: Bỏ ban Hán tự, lược bỏ bớt phần văn học phong
kiến, tăng thêm văn học dân gian, đưa các nội dung về kháng chiến, hiến
pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và thường thức pháp luật, các chính
thể dân chủ, chế độ nhà nước dân chủ nhân dân... vào trong nội dung môn
Văn học.
+ Ở bậc trung học chuyên khoa: bỏ ban Sinh hoá, Hán tự, lập ban Văn
học.
- Về xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên: Để xây dựng đội ngũ giáo
viên đủ về số lượng đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục trung tiểu học thời kì
kháng chiến, Bộ Quốc gia Giáo dục chủ trương mở những lớp sư phạm ngắn
ngày đào tạo giáo viên cơ bản, lấy học sinh đệ tam vào học ghép với đệ tứ
phổ thông. Chương trình đào tạo có bổ sung khối kiến thức nghiệp vụ sư
phạm và thực hành sư phạm. Ngoài ra, Bộ còn khuyến khích giáo viên tự học,
tự bồi dưỡng, tổ chức những kì thi chuyển ngạch, chế độ lương, ngạch bậc
của đội ngũ giáo viên cũng được quy định theo chế độ ổn định. Tháng 7/1948,
Đại hội giáo dục toàn quốc lần thứ II được triệu tập. Hồ Chủ tịch đã gửi thư
chỉ ra những phương hướng lớn cho Hội nghị. Đây là đại hội đầu tiên của
Ngành giáo dục trong thời kì kháng chiến thu hút đầy đủ các đại biểu Liên khu
và các trường học từ Khu 4 trở ra. Đại hội nhằm mục đích thống nhất các lực
lượng giáo giới kháng chiến, trao đổi kinh nghiệm về tổ chức chuyển hướng
giáo dục trong thời chiến, thông qua chương trình cải tổ các môn học và bàn
các biện pháp thực hiện những quyết định mà Hội nghị Cao Xá đề ra. Cụ thể
là: môn Giáo dục chính trị và Đạo đức công dân được đưa vào chương trình
các lớp cuối bậc trung học, rút bớt phần văn sử cổ kim đông tây để dạy về
Lịch sử cách mạng Việt Nam và Văn học cách mạng và kháng chiến. Do thiếu
giáo viên nên ban Sinh - Hoá tạm thời bị cắt đi, mở thêm ban Văn học ở bậc
trung học chuyên khoa. Học sinh trung học dành mỗi tuần một buổi để tham
gia lao động sản xuất và hoạt động xã hội.
2.5. Xây dựng các tổ chức đoàn thể quần chúng trong nhà trường
Công tác xây dựng các đoàn thể quần chúng trong nhà trường cũng
được đẩy mạnh. Ở các trường trung học phổ thông và trung học chuyên khoa
thành lập tổ chức "Học sinh đoàn" (Hiệu đoàn học sinh). Trong các trường
vùng kháng chiến thành lập các "Chi đoàn thanh niên cứu quốc", "Hội nhi
đồng cứu quốc", "Đội Thiếu niên tiền phong và Nhi đồng tháng Tám" thu hút
học sinh nhỏ tuổi tham gia công tác Trần Quốc Toản. Học sinh lớn tuổi trong
các trường trung học và đại học được thu hút vào tổ chức "Học sinh quân",
một tổ chức bán quân sự chuẩn bị cho thanh niên sinh viên sẵn sàng tòng
quân gia nhập quân ngũ. Đối với giáo viên, nhiều hình thức tổ chức đoàn thể
được thành lập như phân hội và nhóm nghiên cứu chủ nghĩa Mác, đoàn thể
giáo giới cứu quốc trong mặt trận Việt Minh. Đặc biệt năm 1950, Công đoàn
giáo dục Việt Nam ra đời đã phát huy được tác dụng tích cực đối với đội ngũ
giáo viên trong các cuộc vận động học tập cải cách giáo dục, chỉnh huấn phát
động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất.
Để tập hợp các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường, Bộ Quốc gia Giáo
dục đã ban hành nghị định cho thành lập các "Hội bảo trợ học đường", thu hút
lực lượng phụ huynh học sinh, các nhân sĩ trí thức, quần chúng cách mạng ở
địa phương tích cực tham gia vào các hoạt động ủng hộ nhà trường, xây
dựng và phát triển giáo dục.
3. Cuộc cải cách giáo dục năm 19503.1. Những lí do tiến hành cải cách giáo dục
Sau chiến thắng Việt Bắc thu đông năm 1947, cuộc kháng chiến của
nhân dân ta có những bước trưởng thành mọi mặt. Đầu năm 1950, nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước xã hội chủ
nghĩa anh em. Những tiến bộ mới về kinh tế, tài chính, ngoại giao đã tăng
thêm sức mạnh của chiến tranh nhân dân. Cả dân tộc Việt Nam bước vào
một thời kì mới của cuộc kháng chiến, đòi hỏi mọi ngành phải có những biến
chuyển mạnh mẽ.
Trước đà tiến chung đó, Ngành giáo dục trong mấy năm từ sau Cách
mạng tháng Tám tuy đã có những chuyển hướng song chưa đủ mạnh để tạo
ra những thay đổi cơ bản về hệ thống tổ chức, cơ cấu tổ chức quản lí, nội
dung và phương pháp giáo dục cho phù hợp với yêu cầu của cách mạng và
kháng chiến. Trong báo cáo đọc tại Hội nghị cán bộ Trung ương 6 (tháng
1/1949), đồng chí Trường Chinh đã chỉ rõ: “Kháng chiến mà chưa có giáo dục
quốc phòng, giáo dục kháng chiến. Nước nhà đang xây dựng chế độ dân chủ
mới trong kháng chiến, mà nền giáo dục của ta chưa có tinh thần dân chủ mới
chương trình giáo dục và cách dạy học còn có tính chất nhồi sọ nhiều”. Mặt
khác, trình độ lí luận giáo dục của ta còn thấp kém, nến giáo dục mới đòi hỏi
phải có lí luận giáo dục mới, phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu, đúc rút lí
luận để chỉ đạo thực tiễn giáo dục.
Vì những lí do trên, Trung ương Đảng và Chính phủ đã quyết định tiến
hành cuộc cải cách giáo dục năm 1950.
3.2. Nội dung cuộc cải cách giáo dục năm 1950
Tháng 2/1950, Bộ Giáo dục đã triệu tập hội nghị trù bị chuẩn bị đề án
cải cách giáo dục. Tháng 7/1950, Hội đồng Chính phủ họp, chính thức thông
qua đề án cải cách giáo dục và quyết định thực hiện cuộc cải cách này một
cách khẩn trương.
Mục tiêu giáo dục: Theo đề án cải cách giáo dục năm 1950, nền giáo
dục của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được chính thức tuyên bố là nền
giáo dục của dân, do dân, vì dân; được xây dựng theo nguyên tắc: dân tộc,
khoa học, đại chúng. Mục tiêu đào tạo là "giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ trở
thành những công dân lao động tương lai, trung thành với chế độ dân chủ
nhân dân, có đủ phẩm chất và năng lực phục vụ kháng chiến, phục vụ nhân
dân". Đề án cải cách cũng đã khẳng định tính chất giai cấp của giáo dục,
không có giáo dục trung lập đứng ngoài chính trị. Nhân dân Việt Nam sau khi
giành được quyền làm chủ về chính trị, nhất thiết phải xây dựng một nền giáo
dục dân chủ nhân dân, phù hợp với lợi ích cơ bản của mình. Phải huỷ bỏ triệt
để nền giáo dục nô lệ cùng với những tàn dư của nó để xây dựng một cơ sở
tư tưởng mới, nhận thức mới về nền giáo dục dân chủ nhân dân với những
thiết chế giáo dục và hệ thống tổ chức giáo dục tương ứng.
Phương châm giáo dục: Học đi đôi với hành, lí luận gắn liền với thực
tiễn.
Nội dung giáo dục: Nhấn mạnh đến việc bồi dưỡng tinh thần dân tộc,
lòng yêu nước, chí căm thù giặc, tinh thần yêu chuộng lao động, tôn trọng của
công, tinh thần tập thể, phương pháp suy luận và thói quen làm việc khoa
học.
Hệ thống tổ chức giáo dục: Để phù hợp với hoàn cảnh kháng chiến, số
năm học trong nhà trường phổ thông được rút ngắn lại và xác định mối quan
hệ giữa các bậc học trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Cơ cấu trường phổ thông 9 năm bao gồm 3 cấp:
Cấp I: 4 năm (lớp 1 - 4), thay thế cho bậc tiểu học cũ 6 năm.
Cấp II: 3 năm (lớp 5 - 7) thay cho bậc trung học đệ nhất 4 năm.
Cấp III: 2 năm (là 8, 9) thay cho bậc trung học chuyên khoa (hay trung
học đệ nhị cấp 3 năm).
Bên cạnh hệ thống giáo dục phổ thông còn có hệ thống giáo dục bình
dân, giáo dục chuyên nghiệp và giáo dục cao đẳng, đại học.
* Giáo dục bình dân (bổ túc văn hoá) bao gồm:
- Sơ cấp bình dân: học 4 tháng, xoá mù chữ.
- Dự bị bình dân: học 4 tháng, đạt trình độ ngang lớp 3 phổ thông.
- Bổ túc bình dân: học 8 tháng, đạt trình độ lớp 5 phổ thông.
- Trung cấp bình dân (còn gọi là trung học bình dân), học 18 tháng, đạt
trình độ lớp 8 phổ thông hoặc cao hơn một ít.
Hệ thống giáo dục chuyên nghiệp gồm: (1) Sơ cấp chuyên nghiệp lấy
học sinh đã tốt nghiệp hoặc bổ túc bình dân vào học nghề từ 1 đến 2 năm. (2)
Trung cấp chuyên nghiệp lấy học sinh đã học xong lớp 7 hoặc trung cấp bình
dân vào học từ 2 đến 4 năm, ra thành cán bộ trung cấp kĩ thuật.
Hệ thống giáo dục đại học lúc đó có Đại học Y khoa, Sư phạm cao cấp,
Cao đẳng công chính, lấy học sinh tốt nghiệp cấp III (lớp 9) hoặc lớp 9+2 năm
dự bị đại học vào học.
* Tổ chức bộ máy quản lí giáo dục của nhà trường:
Đề án cải cách giáo dục nhấn mạnh nguyên tắc lãnh đạo tập thể và tập
trung dân chủ. Bên cạnh Hội đồng chuyên môn và Hội đồng kỉ luật đã có từ
trước, thành lập thêm Hội đồng quản trị, thành phần gồm đại biểu giáo viên,
đại biểu phụ huynh và đại biểu Hiệu đoàn học sinh. Các hội đồng trên đều do
hiệu trưởng làm chủ tịch. Các thành viên của hội đồng đều có quyền thảo
luận, biểu quyết ngang nhau. Việc thành lập các hội đồng là một biện pháp tổ
chức nhằm thực hiện dân chủ hoá các hoạt động quản lí tư tưởng, chính trị
và chuyên môn của nhà trường.
* Xây dựng chương trình và biên soạn sách giáo khoa:
- Về xây dựng chương trình: Đối với trường phổ thông 9 năm tạm gác
một số môn chưa thật cần thiết hoặc chưa có điều kiện giảng dạy như: ngoại
ngữ, nhạc, vẽ, nữ công gia chánh. Bỏ một số phần chưa thật cần thiết trong
một số môn như lịch sử cổ đại, văn học cổ, địa lí thế giới để có thời giờ học
thêm về văn hoá cách mạng và kháng chiến, lịch sử cách mạng Việt Nam, địa
lí Việt Nam. Ngoài ra đưa thêm một số môn học và một số hoạt động mới
như: thời sự chính sách, giáo dục công dân, tăng gia sản xuất ở tất cả các
lớp (mỗi tuần 3 giờ).
Tinh giảm các môn khoa học tự nhiên bằng cách chọn lọc những kiến
thức cơ bản thuộc các phần quan trọng của các môn học, chú trọng phần vận
dụng để tăng cường phương châm "học đi đôi với hành". Ví dụ: Giới thiệu cho
học sinh biết về những phát minh sáng chế về kĩ thuật cơ khí, hoá chất của
các công binh xưởng, những sáng kiến về trồng trọt, chăn nuôi của các địa
phương trong phong trào tăng gia sản xuất...
- Về biên soạn sách giáo khoa: Tháng 8/1950 Bộ Giáo dục đã mở một
trại tu thư tập hợp các giáo viên giỏi ở các cấp học để viết sách giáo khoa. Do
tình hình chiến sự nên trại không tổ chức được hoạt động liên tục, nhưng đến
năm 1952 đã hoàn thành việc biên soạn toàn bộ sách giáo khoa cấp I theo
chương trình mới. Còn ở cấp II và cấp III mới chỉ biên soạn được một số tài
liệu giảng dạy các môn lịch sử, chính trị, công dân giáo dục. Các môn khác
vẫn tạm sử dụng những bài mẫu in trong tờ "Giáo dục tập san".
* Công tác bồi dưỡng cán bộ, giáo viên được tiến hành theo ba bước:
- Cuộc vận động "rèn cán chỉnh cơ" năm 1950 là bước đầu chuẩn bị
cho việc học tập lí luận và đường lối cải cách giáo dục, với yêu cầu xác định
rõ vai trò người giáo viên dưới chế độ dân chủ mới, phê phán quan điểm giáo
dục trung lập, chuyên môn nghiệp vụ đơn thuần, xây dựng mối quan hệ tốt
giữa nhà trường với địa phương, giữa thầy và trò.
- Học tập cải cách giáo dục năm 1951 với yêu cầu xác định tính chất
giai cấp của nhà trường dân chủ mới, phê phán mạnh mẽ tư tưởng giáo dục
trung lập, đề cao tư tưởng dạy học phục vụ nhân dân. Đợt học tập này triển
khai cho tất cả giáo viên từ cấp I trở lên.
- Chỉnh huấn toàn Ngành được đẩy mạnh từ năm 1953 trở đi, đây là
công tác quan trọng bậc nhất, nhằm chuẩn bị cho cán bộ tham gia phong trào
phát động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất, và tiếp tục củng cố lập
trường giai cấp, phục vụ công nông.
Ngoài ra các khu, các tỉnh còn mở thêm những lớp bồi dưỡng chuyên
môn nghiệp vụ cho giáo viên. Đặc biệt trong thời gian này Bộ đã quyết định
mở một loạt trường sư phạm ở Trung ương và các Liên khu để đào tạo giáo
viên. Tháng 11/1951, Bộ đã cừ một loạt cán bộ, sinh viên sang học tập tại
Khu học xá Nam Ninh (Trung Quốc), đã có hơn 2000 cán bộ giáo viên được
đào tạo trở về nước công tác, đại bộ phận trong số họ trở thành cán bộ cốt
cán của Ngành giáo dục sau này.
3.3. Những biến chuyển mới sau cải cách giáo dục năm 1950
Một yêu cầu cấp bách của cải cách giáo dục là chống tái mù chữ ở
những vùng giải phóng, mở rộng mạng lưới các trường phổ thông. Cụ thể là:
mỗi xã ở đồng bằng có một trường cấp I hoàn chỉnh, mỗi xã ở miền trung du
và vùng đông dân ở miền núi có những lớp đầu cấp I, mỗi huyện có một
trường phổ thông cấp II, các tỉnh ở miền núi nhất thiết phải mở trường cấp II
ở thị xã.
Thực hiện chủ trương phát triển trường học, các địa phương đã có
nhiều cố gắng tận dụng mọi khả năng về cán bộ và tài chính có thể có trong
nhân dân để xây dựng phát triển trường học đáp ứng nhu cầu học tập của
con em mình. Tuy nhiên việc mở rộng mạng lưới trường phổ thông cấp 1 về
tận xã gặp một khó khăn lớn là ngân sách của Nhà nước rất eo hẹp không đủ
để trả lương cho giáo viên. Nhiều địa phương đã có sáng kiến đề cử giáo viên
để cấp trên xét duyệt và chủ động lo nguồn kinh phí đài thọ cho số giáo viên
đó. Sáng kiến này xuất hiện lần đầu tiên ở Liên khu III, nơi chiến tranh du kích
phát triển. Hội nghị giáo dục toàn quốc tháng 3/1954 đã đánh giá cao ý nghĩa
của sáng kiến này, và nhất trí thông qua chủ trương của Bộ Giáo dục chuyển
đại bộ phận giáo viên cấp I sang chế độ giáo viên dân lập, do nhân dân đài
thọ. Nhờ chủ trương đó mà số trường phổ thông cấp I và số lượng học sinh
phổ thông cấp I ở các tỉnh tăng lên nhanh chóng, từ 416. 546 (năm 1950) lên
633. 718 (năm 1954). Mạng lưới các trường phổ thông cấp II ở các huyện
vùng tự do và mới giải phóng cũng được mở rộng một cách đáng kể, từ 71
trường năm 1950 lên tới 269 trường năm 1954, số học sinh (không tính ở
Nam Bộ) tăng tương ứng trong thời điểm đó từ 21. 849 lên 63. 209. Nhiều
tỉnh ở miền núi phía Bắc như Cao Bằng, Bắc Cạn, Quảng Yên đã mở được
trường cấp II ở các tỉnh lị, đến năm 1954 đã có đủ các lớp cấp II hoàn chỉnh.
4. Bước đầu xây dựng và phát triển giáo dục mầm non Trước Cách mạng tháng Tám, giáo dục trẻ em trước tuổi học không
được coi là trách nhiệm của Nhà nước bảo hộ. Chỉ có một vài trại trẻ, một đôi
lớp mẫu giáo dành riêng cho con cái những nhà giàu và con cái những sĩ
quan và quan chức dân sự người Pháp.
Sau Cách mạng tháng Tám, cùng với các bậc học khác, Giáo dục mầm
non đã được Nhà nước ta quan tâm chú ý xây dựng. Ngày 27/3/1946, theo
Sắc lệnh số 36 do Hồ Chủ tịch kí, Bộ Cứu tế - xã hội đã thành lập Nha Cứu tế
Trung ương có chức năng tổ chức và chỉ đạo các ấu trĩ viên, Nhà dục anh. Bộ
Giáo dục cũng đã thành lập Phòng giáo dục ấu trĩ có chức năng chuyên trách
xây dựng ngành học mẫu giáo. Hiến pháp năm 1946 của nước ta cũng đã ghi
rõ "Nhà nước bảo vệ quyền lợi của những bà mẹ và của trẻ em, bảo đảm
phát triển các nhà đỡ đẻ, các nhà trẻ và vườn trẻ". Như vậy lần đầu tiên ở
nước ta giáo dục mầm non được coi là trách nhiệm của nhà nước quản lí.
Tuy nhiên, sự phát triển của giáo dục trước tuổi học còn nhỏ bé, sơ khai.
Về giáo dục nhà trẻ: Năm 1951, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã
thành lập một nhà trẻ trung ương do Hội trực tiếp quản lí, chỉ đạo. Trại trẻ Khe
Khao (Bắc Cạn) ra đời vào tháng 3/1951 trên một khu đồi cao ráo, ven rừng,
khí hậu tốt, nhận 30 cháu tuổi nhà trẻ và mẫu giáo vào tổ chức nuôi dạy. Tiếp
theo là một trại trẻ của quân đội được thành lập ở Khăm Dưa, Định Hoá, Thái
Nguyên, sau ngày hoà bình lập lại, trại trẻ này được đưa về Hà Nội.
Về giáo dục mẫu giáo: Năm đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám, một
số lớp mẫu giáo đã được mở thí điểm ở ngoại thành Hà Nội. Bước vào kháng
chiến, nhiều địa phương đã tổ chức lớp ấu trĩ theo kiểu dân lập, thu nhận trẻ
6 - 7 tuổi vào học chữ, nhưng chưa có một chương trình và nội dung thống
nhất cho các lớp học này.
Tháng 7/1950 Bộ Giáo dục đã kí nghị định thành lập Ban mẫu giáo
Trung ương thay cho phòng giáo dục ấu trĩ, trực thuộc Bộ Giáo dục để nghiên
cứu xây dựng chương trình, phương pháp giáo dục, đào tạo cán bộ và tổ
chức xây dựng phong trào. Tính đến năm 1952, sau gần 2 năm thành lập,
Ban mẫu giáo Trung ương đã đào tạo được 220 người, bồi dưỡng 2 khoá cho
192 người. Ở Trung Bộ khu cũng mở được 4 khoá đào tạo cho 105 học viên,
5 khoá do tỉnh và huyện mở cho 159 học viên và một khoá cấp tỉnh cho 31
học viên.
Từ năm 1952 những lớp mẫu giáo lớn đã được chuyển thành lớp vỡ
lòng, để chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1 trường phổ thông. Phong trào xây dựng
các lớp vỡ lòng ở các địa phương vào cuối năm 1952 có những kết quả nhảy
vọt: Từ năm 1952 với 1627 lớp, 17010 học sinh, 845 giáo viên, đến năm 1954
đã tăng lên 11.777 lớp, 357.831 học sinh và 11.598 giáo viên. Việc đào tạo
giáo viên mẫu giáo cũng được Bộ tổ chức qua các khoá đào tạo cấp tốc 2
tháng ở các khu Việt Bắc, Tây Bắc Liên khu IV, Tả ngạn và Liên khu V. Các
giáo viên được đào tạo từ các lớp này khi ra trường đã tỏ rõ nhiệt tình, vượt
qua mọi khó khăn gian khổ, đóng vai trò nòng cốt liên tục công tác để xây
dựng và phát triển bậc học mẫu giáo ở các địa phương.
5. Giáo dục đại học5.1. Khôi phục và cải tổ tại các trường đại học dưới chế độ cũ
Cách mạng tháng Tám thành công, trong hoàn cảnh đất nước còn
muôn vàn những khó khăn, nhưng chính quyền cách mạng vẫn chủ trương
khôi phục ngay lại các trường đại học và cao đẳng. Và chỉ sau một thời gian
rất ngắn, hầu hết các trường đại học và cao đẳng do chế độ cũ để lại lần lượt
được khôi phục và hoạt động với một đội ngũ cán bộ giảng dạy hoàn toàn
người Việt (các giáo sư người Pháp lúc đó đã bỏ đi hết). Đó là các trường Đại
học Y dược, Cao đẳng khoa học, Cao đẳng mĩ thuật. Cao đẳng công chính,
Cao đẳng canh nông, Cao đẳng chuyên môn thú y, chỉ có trường Đại học
Luật là chưa có chủ trương mở lại.
Để xây dựng nền giáo dục mới, việc cải tổ nền giáo dục cũ là một yêu
cầu tất yếu. Căn cứ vào hoàn cảnh nước ta lúc đó và dựa vào chỉ thị "Kháng
chiến kiến quốc" của Trung ương Đảng ngày 25/11/1945, Bộ quốc gia Giáo
dục đã chỉ đạo công cuộc cải tổ bước đầu các trường đại học và cao đẳng.
Cải tổ trường Đại học Luật khoa và thành lập trường Đại học Văn khoa, hình
thành đội ngũ cán bộ giảng dạy mới. Việc hình thành đội ngũ cán bộ dạy đại
học lúc này cũng gặp những khó khăn lớn, vì đội ngũ này trước kia hầu hết là
người Pháp, họ đã bỏ đi từ trước ngày Tổng khởi nghĩa. Chính quyền cách
mạng đã cố gắng tập hợp bước đầu một số trí thức cách mạng (như các ông
Tạ Quang Bửu, Hồ Đắc Di, Tôn Thất Tùng, Ngụy Như Kon Tum...) làm lực
lượng nòng cốt, đồng thời sử dụng những người Việt đã làm trợ giáo, trợ lí,
hướng dẫn viên trong các trường đại học thời Pháp và tuyển chọn thêm một
số sinh viên mới tốt nghiệp giữ lại làm cán bộ giảng dạy. Cho đến năm 1950
tiếng Việt hoàn toàn được sử dụng để dạy tất cả các môn ở bậc đại học. Việc
đưa tiếng Việt trở thành một ngôn ngữ chính thức trong nền giáo dục đại học
đánh dấu một bước trưởng thành của nền giáo dục đại học nước ta trên con
đường xây dựng nền giáo dục đại học dân tộc và dân chủ.
Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, các trường đại học đã rời khỏi
Hà Nội chuyển về nông thôn, lên vùng rừng núi, chuyển hướng hoạt động đào
tạo phù hợp với tình hình mới để phục vụ kháng chiến và kiến quốc. Đây là
một giai đoạn thử thách và đầy khó khăn mới đối với các trường đại học. Giáo
sư, bác sĩ Hồ Đắc Di kể lại nỗi băn khoăn đó: "Trường Đại học Y sẽ hoạt
động ra sao ở vùng nông thôn, xa thành phố, không điện, không nước? Làm
sao để có được một phòng mổ vô trùng? Trường đại học làm sao tiếp tục hoạt
động được, nếu không tìm cho được những phòng thí nghiệm, những thiết bị
y học, những sách giáo khoa cần thiết?".
Hội nghị cán bộ Trung ương mở rộng tháng 4/1947 đã chỉ ra những
phương hướng chính cho việc chuyển hướng giáo dục. Đối với giáo dục đại
học phải: "Căn cứ vào nhu cầu của kháng chiến và điều kiện thực tế mà mở
trường. Phải sinh động về cấu tạo chương trình và quy định thời gian học,
hình thức học,... học đi đôi với hành. Sinh viên phát huy tinh thần tự lực cánh
sinh, xây dựng lấy trường sở, lớp học, sắm dụng cụ và tham gia công tác
kháng chiến, hoạt động xã hội. Thiết thực là chính, nhưng phải đề cao chất
lượng. Rèn luyện cho sinh viên tinh thần sẵn sàng phục vụ tiền tuyến sẵn
sàng chiến đấu”.
Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến, tình hình hoạt động của
các trường đại học diễn ra hết sức khó khăn, nhưng cán bộ giáo viên, học
sinh đã phát huy tinh thần tự lực tự cường cao độ, dựa vào dân để xây dựng
nhà trường và tự tạo ra các điều kiện phục vụ dạy và học. Ví dụ: trường Đại
học Y khoa đã sơ tán về Vân Đình chưa được bao lâu thì lại chuyển lên Việt
Bắc (đóng tại huyện Chiêm Hoá, Tuyên Quang), thầy trò vừa ở nhà dân vừa
vào rừng tìm tranh tre nứa lá để dựng nhà ở, phòng học, phòng thí nghiệm.
Sau hơn 4 tháng vật lộn, trường đã khai giảng (10/1947) trọng thể với sự có
mặt của Bộ trưởng Quốc phòng Võ Nguyên Giáp, đại diện Chính phủ tới dự.
Nhưng chỉ được mấy ngày sau đó, Pháp lại tấn công vào khu vực gần
trường, một lần nữa, trường lại phải sơ tán vào tận rừng sâu. Sống trong lòng
dân và được sự đùm bọc của dân, nhà trường đã vượt qua rất nhiều khó
khăn, vừa phòng tránh địch, vừa đào tạo, vừa phục vụ kháng chiến theo
phương thức: Học - đi chiến dịch - về tổng kết lại đi chiến dịch. Đây là một
phương thức đào tạo phù hợp với tình hình kháng chiến, với thời gian toàn
khoá là 6 năm.
Năm 1950, trên đà thắng lợi trên các mặt trận quân sự và ngoại giao,
các ngành phải có những biến chuyển mạnh mẽ để đáp ứng yêu cầu của
cách mạng trong thời kì mới. Do đó ngành đại học đã có những điều chỉnh
quan trọng để phát triển nhanh hơn về số lượng và chất lượng, hình thành ba
cụm trường đại học ở Liên khu 4, Khu học xá Trung ương và Việt Bắc. Cụm
trường ở Liên khu 4 với các trường dự bị đại học (mở năm 1952) và Sư phạm
cao cấp (năm 1953) tại Thanh Hoá; Khu học xá Trung ương được thành lập
năm 1951 trên đất Quảng Tây (Trung Quốc) theo sự thoả thuận của chính
phủ ta và Chính phủ Trung Quốc, gồm có các trường Khoa học cơ bản và Sư
phạm cao cấp để đào tạo cán bộ khoa học và giáo viên. Trung tâm ở Việt Bắc
có các trường Đại học Y khoa và Ban quân dược (tại đây các trường Cao
đẳng Công chính, Cao đẳng Mỹ thuật đã chuyển sang đào tạo cán bộ trung
cấp).
Từ ba trung tâm đào tạo đại học trong thời kì kháng chiến này, ta đã tập
hợp được một đội ngũ trí thức yêu nước có năng lực chuyên môn trên nhiều
lĩnh vực khoa học, đây là cái vốn quý ban đầu để sản sinh ra nhiều lớp cán bộ
nhân tài chuyên môn do chính nền giáo dục đại học của chúng ta đào tạo ra
từ đó về sau.
Cũng từ đầu những năm 1950, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến
việc gửi người đi đào tạo ở nước ngoài. Năm 1951, đoàn lưu học sinh đầu
tiên của nước ta đã được gửi sang học tập ở Liên Xô cũ Cuộc kháng chiến
càng gần đến ngày thắng lợi thì nhu cầu đào tạo cán bộ chuyên môn các
ngành để khôi phục và xây dựng đất nước sau chiến tranh càng trở nên quan
trọng và cấp thiết. Vì vậy, từ năm học 1953 - 1954 ta đã gửi nhiều đoàn học
sinh đi học ở nhiều nước khác nhau trong khối các nước XHCN cũ (Liên Xô,
Trung Quốc, CHDC Đức, Bungari...), chuẩn bị đào tạo đội ngũ cán bộ cho
công cuộc xây dựng đất nước lâu dài.
Tính đến tháng 7 năm 1954 đã có 600 sinh viên đại học và 1520 học
sinh trung cấp tốt nghiệp ra trường; phục vụ kháng chiến và kiến quốc.
Chín năm xây dựng và phát triển giáo dục đại học đã cho ta những bài
học lớn về tự lực cánh sinh, khắc phục mọi khó khăn gian khổ, vươn lên bằng
chính sức lực của mình, biết dựa vào dân, đoàn kết và tập hợp lực lượng,
nhất là lực lượng trí thức yêu nước để xây dựng nền giáo dục đại học của
chế độ mới.
6. Cuộc đấu tranh của nhân dân chống nền giáo dục nô dịch trong vùng địch hậu
Sau cuộc tấn công Việt Bắc thất bại (1947), thực dân Pháp tăng cường
chính sách lấy "chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt trị người Việt",
tiếp tục đẩy mạnh cuộc chiến tranh xâm lược. Chúng vẫn tiếp tục sử dụng
giáo dục làm một công cụ tuyên truyền chống phá cách mạng, nói xấu Mặt
trận Việt Minh và những người kháng chiến, tuyên truyền chủ nghĩa quốc gia
giả hiệu, sử dụng nhà trường làm nơi bắt lính bổ sung cho quân đội bù nhìn,
truyền tin và thu lượm tin tức phục vụ cho kế hoạch quân sự của chúng. Âm
mưu đó đã vấp phải sự đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân ta trong vùng bị
tạm chiếm. Cuộc đấu tranh của học sinh, sinh viên, giáo chức cũng được phát
động và ngày càng quyết liệt. Trước hết là hoạt động của những giáo viên
bình dân học vụ trong lòng địch mà thực dân Pháp đã coi họ là những cán bộ
nằm vùng lợi hại. Họ vừa là những chiến sĩ diệt dốt, dạy chữ cho nhân dân
vừa là những chiến sĩ tuyên truyền kháng chiến, hoạt động bám dân để giữ
vững cơ sở cách mạng trong vùng địch tạm chiếm.
Cuộc đấu tranh của học sinh, giáo viên trong các trường học cũng
được dấy lên mạnh mẽ từ năm 1949 chống chính phủ bù nhìn Bảo Đại, đoàn
học sinh Sài Gòn - Chợ Lớn đã tổ chức biểu tình phản đối việc Bảo Đại đến
thăm hai trường Pêtrus Ký và Gia Long. Học sinh Hà Nội tẩy chay cuộc đón
tiếp Bảo Đại được tổ chức tại Nhà hát lớn Hà Nội ngày 14/7/1949.
Đỉnh cao của cuộc đấu tranh là cuộc biểu tình ngày 9/1/1950 của học
sinh Sài Gòn - Chợ Lớn chống sự khủng bố của giặc, đòi trả tự do cho các
học sinh, sinh viên bị bắt trong các đợt đấu tranh trước Quân đội cảnh sát
Pháp đã ra lệnh xả súng vào đoàn người tay không, giết chết 36 học sinh
trong đó có anh Trần Văn Ơn, Chủ tịch Hội sinh viên Sài Gòn - Chợ Lớn. Cái
chết của anh Trần Văn Ơn và các học sinh đã làm sôi dậy một làn sóng phẫn
nộ chưa từng thấy. Đám tang anh Trần Văn Ơn tổ chức ngày 12/1/1950 có
hơn 5 vạn người đi dự, cùng 10 vạn người đứng trên các hè phố đã trở thành
cuộc biểu tình thị uy to lớn của đồng bào toàn thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn.
Ngày 19/3/1950 đồng bào Sài Gòn cùng với hàng ngàn học sinh, sinh
viên tổng bãi khoá, bãi thị, bãi công tổ chức mít tinh tuần hành chống hai
chiến hạm diệt ngư lôi Mỹ cập bến Sài gòn - Gia Định thao diễn để biểu
dương lực lượng. Trước khí thế đấu tranh của quần chúng, ngày 20/5/1953
hai chiến hạm này phải nhổ neo rút chạy.
Ngày 9/1/1951 học sinh, sinh viên Sài Gòn - Chợ lớn tổ chức tưởng
nhớ ngày 9/1/1950 đẫm máu. Cuộc biểu tình lại bị khủng bố nhưng một lần
nữa lại biểu thị ý chí kiên cường bất khuất của thanh niên, sinh viên. Từ đó,
Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh đã lấy ngày 9/1 hàng
năm làm "Ngày học sinh, sinh viên toàn quốc".
Ngoài ra ở các tỉnh Thuận Hoá, Hà Nội còn nổ ra nhiều cuộc đấu tranh
chống bắt lính, chống luyện tập quân sự trong trường học. Có những cuộc
biểu tình chống bắt lính thu hút cả nữ sinh cùng tham gia (như nữ sinh trường
Trưng Vương, Hà Nội). Nhiều tổ chức bí mật của thanh niên học sinh được
thành lập làm nòng cốt cho phong trào đấu tranh.
Như vậy, trong suốt 9 năm kháng chiến gian khổ chống thực dân Pháp
xâm lược, sự nghiệp giáo dục của chúng ta đã có một sự biến đổi về chất và
không ngừng phát triển, đã đạt được những thành tựu to lớn góp phần xứng
đáng vào công cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc.
Vượt qua mọi thử thách khốc liệt của chiến tranh, nhân dân ta đã từng
bước khắc phục những hậu quả của chế độ giáo dục thực dân phong kiến,
xây dựng một cơ sở nền tảng vững chắc cho nền giáo dục cách mạng. Đó là
nền giáo dục dân chủ nhân dân xây dựng trên nền tảng của tư tưởng chủ
nghĩa Mác - Lênin, được coi như một bộ phận của sự nghiệp cách mạng
chung, một công cụ của chế độ mới để đào tạo, giáo dục người công dân lao
động mới và đấu tranh chống đế quốc, giành độc lập tự do cho dân tộc.
Cuộc cải cách giáo dục năm 1950 về cơ bản đã thể hiện rõ tính ưu việt
của nền giáo dục cách mạng qua mục tiêu đào tạo, chương trình giảng dạy và
hệ thống tổ chức nhà trường mới. Bằng các biện pháp, tư tưởng sáng tạo và
phù hợp, Ngành giáo dục kháng chiến đã giành được thắng lợi cơ bản trong
việc khắc phục những tàn dư tư tưởng giáo dục trung lập, quan điểm chuyên
môn đơn thuần và bước đầu gắn nhà trường với thực tế xã hội.
Qua 9 năm xây dựng nền giáo dục dân chủ nhân dân, chúng ta đã thu
được nhiều kinh nghiệm quý như: xây dựng các bậc học phổ thông trong
hoàn cảnh kháng chiến, kinh nghiệm chống nạn mù chữ và phát triển giáo
dục bổ túc văn hoá ở một nước nông nghiệp lạc hậu, kinh nghiệm phát huy
những truyền thống tốt đẹp của dân tộc kết hợp với việc khai thác những khả
năng của quần chúng cách mạng để không ngừng mở rộng mạng lưới giáo
dục và nâng cao chất lượng giáo dục.
CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu 1. Trung ương Đảng và Chính phủ đã có những chủ trương quan
trọng nào để chuyển hướng giáo dục phục vụ kháng chiến kiến quốc?
Câu 2. Các biện pháp để triển khai công tác bình dân học vụ trong hoàn
cảnh cuộc kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954)?
Câu 3. Tình hình giáo dục phổ thông trong giai đoạn kháng chiến kiến
quốc 1946 - 1954?
Câu 4. Phân tích lí do tiến hành, nội dung của cuộc cải cách giáo dục
năm 1950.
Câu 5. Những chuyển biến của giáo dục đại học để phục vụ cuộc
kháng chiến kiến quốc?
Câu 6. Phân tích cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống nền giáo dục
nô dịch trong những vùng bị tạm chiếm.
Chương 6. GIÁO DỤC TRONG THỜI KỲ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở MIỀN BẮC VÀ ĐẤU TRANH THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (1954 - 1975)
1. Hoàn cảnh lịch sử Chiến thắng vĩ đại của chiến dịch Điện Biện Phủ đã kết thúc chín năm
kháng chiến trường kì gian khổ của dân tộc ta. Miền Bắc được hoàn toàn giải
phóng, nhưng cách mạng nước ta lại đứng trước một thời kì mới, đất nước ta
lại bị tạm chia làm hai miền. Miền Bắc đã cơ bản hoàn thành cuộc Cách mạng
Dân tộc Dân chủ và chuyển sang làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, miền Nam
lại rơi vào ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, nhân dân ta còn phải
tiếp tục hoàn thành cuộc Cách mạng Dân chủ Nhân dân, đấu tranh giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước. Nhiệm vụ chiến lược đó của cách mạng đã
được xác định và hoàn chỉnh tại Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ III của
Đảng, tháng 9/1960.
Từ năm 1954 đến năm 1975 miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong
một hoàn cảnh đặc biệt:
Thứ nhất, xuất phát từ một nền sản xuất nhỏ, phân tán, lạc hậu, công
nghiệp, nhất là công nghiệp nặng hầu như chưa có, bỏ qua con đường TBCN
tiến thẳng lên XHCN. Đây là một khó khăn và là một đặc điểm lớn nhất ảnh
hưởng đến tiến trình cách mạng XHCN ở nước ta.
Thứ hai, đất nước bị chia cắt làm 2 miền, miền Bắc trở thành hậu
phương lớn của miền Nam, trở thành căn cứ địa cách mạng của cả nước.
Thứ ba, miền Bắc xây dựng CNXH trong điều kiện có hệ thống XHCN
vững mạnh, kinh tế phát triển và ủng hộ sự nghiệp xây dựng CNXH và đấu
tranh thống nhất đất nước của chúng ta, đó là một thuận lợi hết sức to lớn.
1954 - 1960 là giai đoạn thực hiện kế hoạch 3 năm, lấy cải tạo XHCN
làm trọng tâm, đồng thời bước đầu phát triển kinh tế, văn hoá. Cải tạo XHCN
bao gồm cải tạo nông nghiệp (đưa nông dân vào hợp tác xã), cải tạo công
thương nghiệp tư bản tư doanh, thợ thủ công, tiểu thương (quốc hữu hoá các
xí nghiệp tư doanh, xây dựng hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp). Thắng lợi
quyết định của 3 năm cải tạo XHCN là xác lập được quan hệ sản xuất XHCN
ở miền Bắc. Từ một nền kinh tế nhiều thành phần, quan hệ sản xuất phân
tán, lạc hậu nay đã trở nên thuần nhất XHCN.
Từ sau Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 3 (9/1960), công cuộc
xây dựng CNXH ở miền Bắc đang phát triển thắng lợi thì đế quốc Mỹ bắt đầu
thực hiện cuộc chiến tranh leo thang ném bom phá hoại miền Bắc (8/1964)
lần thứ nhất. Miền Bắc phải chuyển hướng xây dựng từ hoà bình sang thời
chiến, vừa chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, vừa xây dựng CNXH, vừa chi
viện cho miền Nam. Trong thời kì này, miền Bắc đã có những bước tiến dài
chưa từng có trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội, con người đều đổi mới.
Miền Bắc đã trở thành căn cứ địa vững chắc cho cách mạng miền Nam với
chế độ chính trị ưu việt, với lực lượng kinh tế và quốc phòng vững mạnh.
Từ đầu năm 1972, phong trào cách mạng ở miền Nam dâng lên mạnh
mẽ, ta đã mở cuộc tiến công chiến lược trên toàn miền Bắc, phá sập nhiều
phòng tuyến của Mỹ - Ngụy ở miền Nam, đặc biệt là phòng tuyến Quảng Trị.
Để đối phó với tình hình, Mỹ đã ném bom trở lại miền Bắc, tiến hành cuộc
chiến tranh phá hoại lần thứ hai với quy mô, mức độ ác liệt và thủ đoạn hết
sức tàn bạo (1972). Mỹ đã thả thuỷ lôi phong toả các hải cảng, bến sông, bờ
biển, ném bom huỷ diệt. Đặc biệt là cuộc tập kích bằng máy bay B52 rải thảm
bom hàng loạt nhằm huỷ diệt các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng.
Cuộc chiến đấu 12 ngày đêm cuối năm 1972 của quân dân ta, tiêu biểu
là quân dân Hà Nội được coi là “trận Điện Biên Phủ trên không” đã đập tan uy
thế của không lực Hoa Kỳ, buộc Mỹ phải ngồi vào bàn hội nghị ngoại giao tại
Pari, dẫn đến việc kí kết Hiệp định Pari tháng 1/1973 chấm dứt chiến tranh,
lập lại hoà bình ở Việt Nam.
Sau Hiệp định Pari Mỹ phải rút hết quân đội ra khỏi lãnh thổ nước ta,
song chính quyền bù nhìn quân đội Sài Gòn vẫn còn tồn tại. Con đường cách
mạng miền Nam vẫn phải tiếp tục con đường cách mạng bạo lực. Nhân dân
cả nước vẫn tiếp tục ra sức chuẩn bị lực lượng mọi mặt để tiến tới giải phóng
hoàn toàn miền Nam.
Cuối năm 1974 đầu 1975 Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương họp
đề ra kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam. Tháng 3/1975 cuộc tổng tiến
công và nổi dậy vĩ đại đã diễn ra với ba chiến dịch lớn (chiến dịch Tây
Nguyên, Chiến dịch Trị Thiên – Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng) và đỉnh cao là
chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (trong 55 ngày đêm) đã kết thúc hoàn toàn
cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước kéo dài hơn 20 năm của dân tộc ta đã hoàn toàn thắng lợi, hoàn thành
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ trên phạm vi cả nước, đưa cách mạng Việt
Nam bước vào một thời kỳ mới: Thời kỳ xây dựng CNXH trong phạm vi cả
nước Việt Nam thống nhất.
2. Cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai (1956)Lí do tiến hành cải cách giáo dục
Ngay sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, chúng ta đã khẩn
trương tiếp quản hệ thống giáo dục cũ trong vùng tạm chiếm do thực dân
Pháp để lại. Lúc đó, ở miền Bắc có hai hệ thống giáo dục phổ thông song
song tồn tại: hệ thống giáo dục 9 năm và hệ thống giáo dục 12 năm. Việc gấp
rút thống nhất hai hệ thống giáo dục là một đòi hỏi khách quan cấp thiết. Hội
nghị lần thứ VII của Trung ương Đảng khoá II (3/1955) đã nêu rõ nhiệm vụ
phải nhanh chóng “chấn chỉnh và củng cố giáo dục phổ thông, thống nhất hai
hệ thống giáo dục của vùng tự do cũ và các vùng mới giải phóng”.
Tháng 3/1956 Chính phủ thông qua Đề án cải cách giáo dục lần thứ hai
và giao cho Bộ Giáo dục tổ chức thực hiện. Tháng 8/1956, Chính sách giáo
dục phổ thông của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được chính thức ban
hành.
Mục tiêu cải cách giáo dục: Mục tiêu của cuộc cải cách giáo dục lần này
được xác định rõ: "đào tạo, bồi dưỡng thế hệ thanh niên và thiếu nhi trở thành
những người phát triển về mọi mặt, những công dân tốt, trung thành với Tổ
quốc, những người lao động tốt, cán bộ tốt của nước nhà, có tài có đức để
phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên xây dựng CNXH ở nước ta..."
Phương châm giáo dục là lí luận liên hệ với thực tiễn, gắn chặt nhà
trường với đời sống xã hội.
Nội dung giáo dục có tính chất toàn điện gồm bốn mặt: đức, trí, thể, mĩ,
trong đó coi trí dục là cơ sở, đồng thời tăng cường giáo dục tư tưởng và giáo
dục đạo đức trên cơ sở coi trọng giảng dạy tri thức có hệ thống.
Hệ thống tổ chức giáo dục: hai hệ thống giáo dục cũ được sáp nhập
thành một hệ thống giáo dục mới 10 năm, gồm ba cấp: cấp I:4 năm; cấp II: 3
năm; cấp III: 3 năm.
Cuối cấp I học sinh sẽ thi hết cấp và cuối cấp II thi tốt nghiệp phổ thông.
Trẻ em phải học qua lớp vỡ lòng để biết đọc, biết viết, đếm được từ 1 đến 10
mới được vào lớp I.
Năm học bao gồm 9 tháng học trong nhà trường và 3 tháng nghỉ hè. Số
tuần thực học từ 33 đến 35 tuần. Số tiết học ở cấp II và III là 29 - 30 tiết/ tuần.
Việc biên soạn sách giáo khoa được tiến hành khẩn trương. Chưa đầy
một năm, Nhà xuất bản Giáo dục đã phát hành tới 116 loại sách. Riêng sách
giáo khoa đã in tới 1.747.614 bản, và được thường xuyên chỉnh lí và bổ sung
kiến thức mới những năm tiếp sau đó.
Cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai là một bước đi cơ bản ban đầu quan
trọng trong quá trình xây dựng nền giáo dục XHCN. Hệ thống giáo dục đã
được cải tạo và xây dựng theo mô hình của các nước XHCN, mà chủ yếu là
của Liên Xô trước đây.
3. Cuộc vận động xây dựng nhà trường XHCN bắt đầu từ năm 1958Từ năm 1958 cuộc vận động xây dựng nhà trường XHCN được phát
động. Từ cuộc vận động này, công tác giáo dục, đào tạo ở nước ta nói chung
đã được chuyển mạnh vào quỹ đạo của nền giáo dục XHCN. Nhà trường
XHCN được đặc trưng bởi bốn yếu tố sau:
+ Tư tưởng của giai cấp công nhân, tức chủ nghĩa Mác - Lê nin phải
chiếm địa vị chủ đạo và duy nhất trong nhà trường.
+ Lao động sản xuất phải trở thành yếu tố cơ bản trong mục đích,
phương châm, phương pháp giáo dục của nhà trường.
+ Thầy giáo có giác ngộ XHCN mới xây dựng thành công nhà trường
XHCN.
+ Đảm bảo sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
nhà trường.
Để xây dựng nhà trường XHCN theo các yêu cầu trên, từ năm học
1958 - 1959, các trường tổ chức cho học sinh tham gia lao động sản xuất
trong dịp hè. Học sinh sôi nổi toả về các nhà máy, xí nghiệp, hợp tác xã, đi về
các bản làng, thôn xóm, tham gia lao động trong các công trường, các công
trình thuỷ lợi, cầu đường...
Công tác giáo dục tư tưởng chính trị cũng rất được chú trọng, Đoàn
thanh niên và đội ngũ giáo viên chủ nhiệm đóng vai trò quan trọng trong hoạt
động này. Công tác xây dựng chi bộ Đảng trong nhà trường cũng được quan
tâm đúng mức, các ban tuyên huấn của tỉnh trực tiếp đi sát lãnh đạo các
trường cấp III, tuyên huấn huyện uỷ đi sát các trường cấp II.
Đại hội Đảng lần thứ III (9/1960) đã chỉ rõ nhiệm vụ của giáo dục trong
thời kì này là: "Công tác giáo dục văn hoá phải được phát triển theo quy mô
lớn và phải phục vụ đường lối và nhiệm vụ cách mạng của Đảng. Sự nghiệp
giáo dục của chúng ta phải nhằm bồi dưỡng thế hệ trẻ trở thành những người
làm chủ đất nước, có giác ngộ XHCN, có văn hoá và kĩ thuật, có sức khoẻ,
những người phát triển toàn diện để xây dựng xã hội mới, đồng thời phải
phục vụ đắc lực cho việc đào tạo cán bộ xây dựng kinh tế và văn hoá XHCN
và việc nâng cao không ngừng trình độ văn hoá của nhân dân lao động".
Trong phong trào xây dựng nhà trường xã hội chủ nghĩa đã xuất hiện
những điển hình tiên tiến, tiêu biểu là lá cờ đầu Bắc Lý với phong trào thi đua
hai tốt.
Từ sau Đại hội Đảng lần thứ III, cùng với toàn dân phấn đấu thực hiện
kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, phong trào thi đua "hai tốt" (dạy thật tốt, học
thật tốt) đã được phát động trong Ngành giáo dục và đã được hưởng ứng
rộng rãi trong toàn Ngành ở các tỉnh miền Bắc, mà ngọn cờ đầu là trường phổ
thông cấp II Bắc Lý. Trường phổ thông cấp 11 Bắc Lý ở xã Chung Lý, huyện
Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Bằng nhiều biện pháp chủ động, sáng tạo đã nâng cao
chất lượng giáo dục toàn diện. Nhà trường đã chú trọng lấy giáo dục tư tưởng
chính trị đạo đức làm gốc, bồi dưỡng lòng yêu quê hương đất nước, tăng
cường chất lượng dạy học các môn văn hoá, khoa học, kỹ thuật, kết hợp dạy
học với thực tế sản xuất và hoạt động xã hội, xây dựng nhà trường trở thành
một trung tâm văn hoá giáo dục của địa phương, góp phần đắc lực vào công
cuộc xây dựng quê hương mới. Học sinh trường Bắc Lý ra trường ở lại địa
phương công tác hoặc tiếp tục học lên cao vẫn luôn luôn phát huy truyền
thống tốt đẹp của nhà trường. Hội nghị phát động phong trào thi đua hai tốt do
Bộ Giáo dục và Công đoàn Giáo dục Việt Nam, tháng 10/1961 đã công nhận
Bắc Lý là lá cờ đầu của toàn Ngành giáo dục lúc đó.
Bốn bài học lớn đã được rút ra từ thực tiễn xây dựng và phát triển giáo
dục của Bắc Lý là:
+ Trường học phải có tính Đảng cao, luôn luôn có ý thức đảm bảo sự
lãnh đạo của Đảng trong việc xây dựng nhà trường, đảm bảo thực hiện tốt
đường lối giáo dục của Đảng.
+ Giáo viên phải đoàn kết nhất trí thành một khối vững chắc, giác ngộ
XHCN, yêu nghề, yêu trẻ, làm chủ nhà trường.
+ Trường học phải luôn có ý thức dựa vào quần chúng xây dựng nhà
trường đi đúng đường lối quần chúng của Đảng, biết kết hợp trí thức với công
nông, nhà trường với cơ sở sản xuất.
+ Trường học phải luôn luôn nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, dám
nghĩ, dám làm, phấn đấu khắc phục mọi khó khăn, phát huy sáng tạo để xây
dựng nhà trường.
Qua phong trào thi đua hai tốt, học tập và làm theo Bắc Lý, nhiều đơn vị
tiên tiến mới xuất hiện: Trường cấp I Hải Nhân (Thanh Hoá), trường cấp 111
Phủ Lý (Hà Nam), cấp 111 Chu văn An (Hà Nội), trường miền Nam số 8, số
24, trường Đoàn Kết (Hải Phòng), cấp III Ngô Sĩ Liên (Hà Bắc), cấp III Vinh,
cấp II Dịch Vọng, Nguyễn Huệ (Hà Nội).... Thành tích của các điển hình mới
này đã làm phong phú thêm những bài học của Bắc Lý. Phong trào thi đua
"hai tốt" đã làm cho chất lượng giáo dục phổ thông được nâng lên từng bước.
Trong giai đoạn này, bên cạnh trường công lập giữ vị trí chủ đạo, nhiều
loại hình nhà trường như dân lập, trường phổ thông nông nghiệp, trường phổ
thông công nghiệp, trường thanh niên dân tộc ở miền núi... ra đời góp phần
mở rộng quy mô giáo dục phổ thông các cấp. Điển hình cho trường thanh
niên dân tộc vừa học vừa làm là Trường Thanh niên lao động XHCN thị xã
Hòa Bình, thành lập vào tháng 4/1958. Trường đã cung cấp cho các hợp tác
xã, các cơ quan huyện, tỉnh hàng ngàn cán bộ có trình độ văn hoá cấp II, hiểu
biết ít nhiều về kỹ thuật. Thành tích giáo dục của nhà trường đã có tiếng vang
xa rộng trong Ngành giáo dục và trở thành mô hình cho việc nhân rộng điển
hình ở nhiều địa phương khác.
Từ năm học 1960 - 1961, Ngành giáo dục bắt đầu vận động nhân dân
đóng học phí từ cấp I đến cấp III. Số tiền thu được từ học phí của học sinh đã
đóng góp một phần vào quỹ chi trả lương cho giáo viên, và góp phần vào tu
bổ trường sở, mua sắm thiết bị phục vụ giảng dạy và học tập cho giáo viên và
học sinh. Các gia đình có đông con đi học, các gia đình thương binh, liệt sĩ có
chính sách miễn giảm học phí. Các học sinh nghèo, con liệt sĩ, học sinh đồng
bào dân tộc vùng cao được hưởng chính sách học bổng của Nhà nước. Nhờ
các chủ trương dựa vào dân để phát triển giáo đục, giáo dục phổ thông ở cả
ba cấp đều có sự tăng trưởng nhanh chóng về số lượng học sinh đến lớp.
Năm học 1960 - 1961 số học sinh phổ thông ở cả ba cấp mới có 1.900.000,
đến năm học 1965 - 1966 đã tăng lên 2.934.000. Trung bình 100 người dân,
đã có 14, 15 học sinh phổ thông.
4. Chuyển hướng giáo dục phổ thông trong thời kì chống chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc (1965 - 1975)
Từ tháng 8/1964 đế quốc Mỹ gây chiến tranh leo thang phá hoại miền
Bắc, chúng ném bom xuống các tỉnh Quảng Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh
Hoá, Quảng Ninh, mở đầu thời kì đưa không lực, hải quân ồ ạt đánh phá
miền Bắc. Ngày 5/8/1965, Phủ Thủ tướng ra Chỉ thị 88/TTg về việc chuyển
hướng công tác giáo dục trong điều kiện cả nước có chiến tranh, phương
hướng chính là tiếp tục phát triển giáo dục, chuyển hướng để giáo dục phục
vụ nhiệm vụ chống Mỹ cứu nước, phù hợp với tình hình thời chiến, bảo đảm
an toàn cho học sinh trong học tập, gắn chặt hơn nữa hoạt động của nhà
trường với sản xuất, chiến đấu với "quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ trên mặt
trận giáo dục", Ngành giáo dục đã có những chủ trương, có các biện pháp tổ
chức kịp thời để chuyển hướng giáo dục.
Thứ nhất, tổ chức công tác phòng không, đảm bảo an toàn tuyệt đối
cho thầy và trò.
Các trường ở các thành phố lớn, thị xã, thị trấn, những đầu mối giao
thông, những điểm tập trung dân cư lớn đã khẩn trương thực hiện việc sơ tán
về các vùng nông thôn, xa thành phố, tiếp tục duy trì việc dạy và học ở tất cả
các cấp học, bậc học, ngành học... Công việc sơ tán, phân tán hàng ngàn lớp
học, hàng triệu học sinh được tiến hành cấp tốc, nhanh chóng với sự đóng
góp rất to lớn của thầy trò, phụ huynh học sinh, và nhân dân địa phương. Tổ
chức tốt việc đào hầm hào quanh trường, quanh lớp học, ngụy trang lớp học,
thực hiện khẩu hiệu "chưa có hầm hào tốt chưa khai giảng", “thà tốn công sức
hơn là tốn xương máu”. Học sinh đi học phải có các vật dụng chống bom như
mũ rơm, mũ cối...
Nhờ làm tốt công tác phòng không, đảm bảo an toàn cho thầy và trò
như trên nên mặc dù trong điều kiện chiến tranh thiếu thốn, gian khổ và hết
sức ác liệt, quy mô giáo dục vẫn tiếp tục được mở rộng. Nhiều người trong
đội ngũ các thầy cô giáo đã trực tiếp tham gia chiến đấu hoặc phục vụ chiến
đấu. Mặc dù việc mở rộng quy mô giáo dục trong chiến tranh đã có hạn chế
đến chất lượng giáo dục toàn diện, nhưng những thành tích duy trì và phát
triển giáo dục trong hoàn cảnh thời chiến mà chúng ta đạt được trong thời kì
này là rất đáng khâm phục.
Thứ hai, cải tiến nội dung, phương pháp giảng dạy và học tập phù hợp
với tình hình thời chiến và yêu cầu bảo đảm chất lượng.
Trên thực tế miền Bắc lúc đó có ba vùng tình hình chiến sự khác nhau:
vùng phòng thủ bình thường, vùng trực tiếp bị uy hiếp và vùng trực tiếp chiến
đấu. Vì vậy, Bộ Giáo dục đã quy định hai chương trình A và B để áp dụng cho
các vùng. Chương trình được tinh giản bớt nhằm bảo đảm học những kiến
thức cơ bản nhất. Giáo viên tăng cường các hoạt động hướng dẫn tỉ mỉ để
học sinh tự học một số vấn đề trong chương trình. Các lớp học có khi được tổ
chức phân tán, tận dụng các thời điểm an toàn như buổi trưa, buổi tối hoặc tổ
chức học ba ca...
Thứ ba, tăng cường công tác giáo dục tư tưởng chính trị và đạo đức
trong nhà trường.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước càng ác liệt, thì càng cần thiết
phải nâng cao ý thức giác ngộ, niềm tin và lòng quyết tâm cống hiến của thế
hệ trẻ cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng của dân tộc đến ngày toàn thắng.
Vì vậy, ngày 03/7/1965 Ban Bí thư Trung ương ra Chỉ thị số 1 02 - CT/TW về
việc "Tăng cường giáo dục tư tưởng chính trị đạo đức trong giáo viên và học
sinh".
Công tác giáo dục tư tưởng chính trị đạo đức đã được tăng cường
thông qua việc dạy và học các môn chính trị, đạo đức, tăng cường giáo dục
chủ nghĩa Mác - Lê nin, lí tưởng và đạo đức cộng sản chủ nghĩa, đường lối
chính sách và nhiệm vụ cách mạng, giáo dục truyền thống yêu nước, đoàn
kết, tự lực tự cường, giáo dục chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho học sinh.
Trong chương trình văn học, bổ sung nhiều tác phẩm mới phản ánh thực tiễn
đấu tranh anh dũng của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, như “Người mẹ cầm súng”, “Sống như anh”, “Em Ngọc”. Nhà trường đã
tổ chức cho học sinh tham gia nhiều hoạt động thực tiễn như truyền tin chiến
thắng, mít tinh lên án tội ác của giặc Mỹ gây ra trên cả hai miền Nam Bắc, lao
động trên các công trường, đồng ruộng hợp tác xã, thăm hỏi các chiến sĩ ở
trận địa pháo binh... Những hoạt động như vậy rất có tác dụng trong việc
nâng cao ý thức tư tưởng chính trị và đạo đức cách mạng của học sinh.
Trong nhà trường xuất hiện nhiều tấm gương vừa học tập tốt, lao động tốt và
phục vụ chiến đấu giỏi. Tấm gương em Nguyễn Bá Ngọc ở Quảng Xương
(Thanh Hoá) hi sinh thân mình cứu em nhỏ, đã trở biểu tượng sáng chói của
thiếu niên Việt Nam anh hùng chiến tranh chống Mỹ. Nhiều học sau khi ra
trường hoặc có khi còn đang học dở dang đã tự nguyện đi nghĩa vụ, lên
đường nhập ngũ để bảo vệ Tổ quốc. Tuổi trẻ anh hùng xuất hiện ở khắp nơi
với những điển hình tiêu biểu như Trịnh Tố Tâm, Nguyễn Viết Xuân, Lê Mã
Lương...
Thứ tư, đẩy mạnh phong trào thi đua xây dựng trường tiên tiến chống
Mỹ cứu nước.
Phong trào thi đua "hai tốt" được phát động từ năm 1961 đã được đẩy
mạnh lên một bước nhằm xây dựng nhà trường thực sự là một đơn vị chống
Mỹ cứu nước. Tháng 12/1966, Hội nghị liên hoan các chiến sĩ thi đua toàn
ngành được tổ chức. Hội nghị đã trao cờ thi đua cho 21 đơn vị tiên tiến xuất
sắc tiêu biểu và tuyên dương thành tích của 135 đơn vị tiên tiến thuộc 28 địa
phương trên miền Bắc XHCN. Ngành giáo dục có đồng chí Nguyễn Văn Huê,
hiệu trưởng Trường cấp I Hải Nhân (Thanh Hoá) được Chính phủ tặng danh
hiệu Anh hùng lao động và có 9 giáo viên khác là Chiến sĩ thi đua toàn quốc.
Hàng trăm đơn vị được tuyên dương và số tổ lao động XHCN mỗi năm một
tăng nhiều hơn: năm học 1964 - 1965 có 276 tổ, đến năm học 1967 - 1968 đã
tăng lên 616 tổ lao động XHCN.
Thứ năm, giáo dục năng khiếu được chú trọng để đào tạo và chuẩn bị
nhân tài cho đất nước.
Công tác giáo dục và bồi dưỡng học sinh giỏi đã được Ngành giáo dục
quan tâm ngay từ khi phát động phong trào thi đua hai tốt. Từ năm 1966,
công tác này được đẩy mạnh hơn ở tất cả các cấp học, ngoài hai môn văn,
toán, còn chú ý bồi dưỡng học sinh giỏi ở các môn sinh, sử, địa, vật lí. Riêng
việc bồi dưỡng học sinh giỏi hai môn văn và toán đã trở thành một hoạt động
mạnh ở các cấp cơ sở. Theo Quyết định số 198/CP ngày 14/9/1965 của
Chính phủ, tại các trường Đại học Tổng hợp, Đại học Sư phạm Hà Nội, Vinh
và một số tỉnh mở một s lớp năng khiếu về văn và toán ở cấp III. Trường Đại
học Ngoại ngữ mở lớp năng khiếu về ngoại ngữ. Học sinh được tuyển chọn
qua các kì thi học sinh giỏi hàng năm, và được hưởng chế độ học bổng ưu
đãi của Nhà nước. Trong 3 năm (1965 - 1968), riêng môn toán đã mở được
50 lớp với 2000 học sinh theo học. Hàng năm Bộ Giáo dục tổ chức các kì thi
học sinh giỏi toàn miền Bắc về các môn văn, toán và đã có nhiều giải học sinh
giỏi xuất sắc được lựa chọn qua các kì thi quốc gia này.
Nhờ những biện pháp chuyển hướng đúng và kịp thời như trên, giáo
dục phổ thông tiếp tục được phát triển, quy mô được mở rộng, mặc dù trong
hoàn cảnh chiến tranh hết sức ác liệt. Mạng lưới giáo dục phổ thông bám rễ
sâu tới từng thôn, xã. Tính đến trước khi cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc
lần thứ hai (1971) ở miền xuôi, xã nào cũng có 1, 2 trường cấp I, trung bình
cứ 5 xã thì 4 xã có trường cấp II, huyện nào cũng có trường cấp III, có huyện
có đến 2 trường (Nghệ An, Thái Bình).
Bên cạnh việc phát triển số lượng các trường học ở các cấp, việc đảm
bảo và nâng cao chất lượng giáo dục cũng được hết sức coi trọng. Ngày
14/2/1968, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị 169 CT/ TW về
vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục với phương hướng chung là “Trên cơ
sở nâng cao chất lượng, ra sức phấn đấu nhằm đáp ứng những yêu cầu học
tập cấp bách của nhân dân ta và yêu cầu đào tạo lực lượng cán bộ và lao
động có kĩ thuật, đồng thời tích cực chuẩn bị lực lương để đưa sự nghiệp giáo
dục trong cả nước tiến mạnh mẽ và có chất lượng tốt hơn nữa trong những
năm sau".
Để đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục, nhiệm vụ trung tâm
của giáo dục trong 3 năm (1968 - 1970) được xác định là "đào tạo bồi dưỡng
giáo viên và cán bộ quản lí", đông thời tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua
dạy tốt, học tốt trong toàn Ngành, điều chỉnh lại vấn đề giáo dục lao động sản
xuất trong nhà trường. Lao động sản xuất trong nhà trường là nhằm mục đích
đảm bảo tốt các yêu cầu giáo dục và góp phần làm tăng thêm của cải vật chất
cho xã hội. Trong Hội nghị tổng kết những bài học mới của các điển hình tiên
tiến do Ban khoa giáo Trung ương, Bộ Giáo đục và Trung ương Đoàn Thanh
niên Lao động Hồ Chí Minh tổ chức tháng 6/1971, nhiều kinh nghiệm của các
trường được giới thiệu, tiêu biểu là ba điển hình tiên tiến xuất sắc được tuyên
dương trong toàn Ngành đó là: Trường phổ thông cấp II Bắc Lý, Trường
thanh niên lao động XHCN thị xã Hoà Bình, phong trào giáo dục ở xã Cẩm
Bình.
Tháng 4/1972 đế quốc Mỹ leo thang gây chiến tranh phá hoại miền Bắc
lần thứ hai, trường học trở thành một trong những mục tiêu đánh phá hủy diệt
của chúng. Chỉ trong vòng 3 tháng sau khi gây chiến tranh, 150 ngôi trường
trên miền Bắc đã bị ném bom, riêng năm học 1972 - 1973 bom Mỹ đã phá huỷ
130 ngôi trường, hàng ngàn phòng học, hàng trăm phòng thí nghiệm. Một lần
nữa các trường phải cấp tốc sơ tán, phân tán để đảm bảo an toàn và duy trì,
giữ vững hoạt động dạy học trong điều kiện chiến tranh ngày càng khốc liệt
hơn.
Tháng 1/1973 Hiệp định Phụ được kí kết, hoà bình lập lại trên miền
Bắc. Giáo dục Việt Nam bước vào xây dựng hoà bình ở miền Bắc. Hàng chục
vạn trường lớp, hàng triệu học sinh từ nơi sơ tán trở lại thành phố, thị xã, khu
tập trung. Công việc tổ chức lại hoạt động của các trường gặp vô vàn khó
khăn, có nhiều trường phải xây dựng lại từ đầu cơ sở vật chất, trường sở, lớp
học, bàn ghế, đồ dùng dạy học, nhiều học sinh đã bỏ học trong chiến tranh
nay quay trở lại học tiếp tục. Nhu cầu học tập của con em các tầng lớp nhân
dân sau chiến tranh tăng lên nhanh chóng, trong khi cơ sở vật chất nhà
trường chưa kịp phục hồi và xây dựng mới. Chỉ sau 2 năm học, số học sinh
phổ thông ở ba cấp ở miền Bắc đã tăng từ 4.675.727 (năm học 1972 - 1973)
lên tới 5.248.055 (năm học 1974 - 1975). Có nhiều trường đã phải tổ chức
những lớp học 3 ca, có nơi tới 4 ca một ngày, bình quân mỗi lớp lên tới 60
học sinh. Thực tế đó đòi hỏi phải có những biện pháp giải quyết cấp bách để
đáp ứng nhu cầu học tập của con em nhân dân tăng lên sau chiến tranh.
Chính phủ đã ra quyết định huy động mọi khả năng của nhân dân, huy động
lực lượng bộ đội, cán bộ các cơ quan tham gia vào tu bổ, xây dựng trường
sở, tạo đồ dùng dạy học, khôi phục lại các nền nếp dạy học, quản lí nhà
trường. Phong trào thi đua làm theo các trường tiên tiến lại tiếp tục được dấy
lên sôi nổi. Tuy vậy, việc hàn gắn vết thương chiến tranh không thể một sớm
một chiều, việc khắc phục những hậu quả khắc nghiệt do chiến tranh để lại
đòi hỏi thờ gian nhất định và sự nỗ lực vượt bậc của toàn dân, đặc biệt là sự
nỗ lực to lớn của đội ngũ giáo viên và học sinh ở tất cả các cấp học.
5. Miền Bắc tích cực chi viện cho sự nghiệp giáo dục giải phóng ở miền NamNgay từ những năm đầu tiên sau khi kháng chiến chống Pháp thắng
lợi, Đảng và Chính phủ đã chỉ thị cho Ngành giáo dục phải quan tâm tổ chức
tốt việc đào tạo con em miền Nam tập kết ra Bắc. Nhiều trường học sinh miền
Nam đã được thành lập ở một số tỉnh thành miền Bắc. Trong suốt thời kì
chống Mỹ cứu nước, Ngành giáo dục miền Bắc đã không ngừng chi viện cho
miền Nam về nhiều mặt: tăng cường chi viện cán bộ quản lí giáo dục, đội ngũ
giáo viên, tài liệu, sách giáo khoa, đồ dùng dạy học. Hàng ngàn cán bộ, giáo
viên được cử vào Nam công tác, hơn 2. 000 tấn sách và tài liệu được gửi vào
Nam bằng các con đường để hỗ trợ xây dựng giáo dục ở những vùng giải
phóng miền Nam.
Tháng 10/ 1962 Tiểu ban giáo dục miền Nam trực thuộc Ban Tuyên
huấn Trung ương cục được thành lập. Ngày 20/11/1963 Hội nhà giáo yêu
nước miền Nam Việt Nam ra đời. Tháng 4/1964 Đại hội giáo dục toàn miền
Nam lần thứ I khai mạc để thống nhất đường lối giáo dục, phương hướng,
biện pháp xây dựng giáo dục trong kháng chiến chống Mỹ.
Trung ương cục và Tiểu ban giáo dục miền Nam đã có những chỉ thị về
nhiệm vụ và phương hướng công tác giáo dục, nội dung tập trung vào những
điểm sau:
+ Ra sức xây dựng, phát triển mạnh mẽ một nền giáo dục cách mạng
ở vùng giải phóng, gồm đầy đủ các ngành học: mẫu giáo, phổ thông và bổ túc
văn hóa để đáp ứng nhu cầu học tập của con em, của cán bộ, chiến sĩ và
nhân dân.
+ Ra sức tuyên truyền vận động, giáo dục, tập hợp giáo chức trong
vùng tạm chiến, xây dựng cơ sở cách mạng, đặc biệt là học sinh, sinh viên,
hình thành một mặt trận đấu tranh chống nền giáo dục nô dịch của địch góp
phần vào cuộc đấu tranh cách mạng chung của nhân dân vùng tạm chiếm.
6. Giáo dục đại học6.1. Ổn định và củng cố một bước các trường đại học (1954 - 1955)
Nhiệm vụ đầu tiên của ngành giáo dục đại học sau giải phóng là tiếp
quản các trường đại học, cao đẳng ở Hà Nội do Pháp xây dựng trong thời kì
Hà Nội bị tạm chiếm. Đó là các trường Y dược, Luật khoa, Khoa học, Văn
khoa, Sư phạm.
Khi rút khỏi miền Bắc, Pháp đã di chuyển vào Nam hầu hết hồ sơ tài
liệu trang thiết bị tốt của các trường và lôi kéo nhiều giáo sư, sinh viên và
nhân viên cùng di cư vào Nam. Cơ sở vật chất các trường đại học trống rỗng,
đội ngũ giáo chức thiếu, những trí thức giỏi bị Pháp lôi kéo di cư vào Nam.
Chúng ta đã nhanh chóng tiếp quản những phần còn lại của các trường nói
trên và nhanh chóng ổn định hoạt động giáo dục của nhà trường, góp phần
ổn định nhanh chóng tình hình Thủ đô mới giải phóng. Mặt khác thực hiện
việc di chuyển các trường đại học ở các vùng kháng chiến về Thủ đô và
chuẩn bị khai giảng năm học mới. Năm học 1954 - 1955, năm học đầu tiên
sau ngày giải phóng, chúng ta có các trường: Đại học Y dược Việt Bắc; Dự bị
đại học; Trường Sư phạm cao cấp ở Khu 4 cũ; Trường Sư phạm cao cấp ở
Khu học xá Trung ương. Thực hiện chủ trương củng cố các trường, Bộ Giáo
dục đã cho sắp xếp lại các trường đại học hiện có. Năm học 1955 - 1956 chỉ
còn ba trường: Đại học Y dược; Đại học Sư phạm văn khoa; Đại học Sư
phạm khoa học.
6.2. Xây dựng những trường đại học đầu tiên theo mô hình mới
Đầu năm 1956 với sự giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô, Bộ Giáo dục
đã nghiên cứu và xây dựng kế hoạch phát triển giáo dục đại học và chuyên
nghiệp để trình Chính phủ. Trên cơ sở các trường đại học hiện có sắp xếp lại
để xây dựng các trường đại học theo mô hình mới và xây dựng thêm một số
trường đại học.
Kết quả là, đến tháng 10/1956 có 5 trường đại học được xây dựng theo
mô hình mới của các nước XHCN ra đời:
+ Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (được xây dựng trên cơ sở của hai
trường ĐHSP Văn khoa và ĐHSP Khoa học).
+ Trường ĐHSP Hà Nội (cũng được xây dựng trên trên cơ sở của hai
trường trên).
+ Trường Bách khoa (có 9 khoa với khoảng 30 - 40 ngành học).
+ Trường Đại học Nông - Lâm (đào tạo kĩ sư cho các ngành nông
nghiệp và lâm nghiệp với khoảng 9 - 10 ngành học).
+ Trường Đại học Y dược (củng cố và cải tiến lại).
6.3. Phát triển quy mô giáo dục đại học, tăng cường xây dựng đội ngũ giáo viên và cơ sở vật chất. Xác lập quan điểm giáo dục XHCN trong các trường đại học (1958 - 1965)
Từ kinh nghiệm xây dựng 5 trường đại học đầu tiên, qua ba năm xây
dựng nhà trường XHCN, sự nghiệp giáo dục đại học của nước ta đã có bước
phát triển đáng kể về số lượng và chất lượng. Đến năm học 1959 - 1960 đã
có 9 trường đại học với 46 ngành học (thêm trường Đại học Giao thông vận
tải; Cao đẳng Mỹ thuật; Kinh tế tài chính Trung ương; Đại học Sư phạm Vinh;
Học viện Thủy lợi).
Đặc biệt trong thời kì 1958 - 1960 (giai đoạn cải tạo XHCN ở miền Bắc
và xây dựng nhà trường XHCN), trong các trường đại học đã diễn ra cuộc
đấu tranh gay gắt chống lại nhóm "Nhân văn giai phẩm" để bảo đảm sự đoàn
kết trong nhà trường, ngăn chặn những âm mưu chống lại đường lối lãnh đạo
của Đảng của những phần tử quá khích và khẳng định vai trò lãnh đạo của
Đảng trong trường đại học.
Vào thời gian này tình hình thế giới và trong nước có những diễn biến
phức tạp. Sự kiện Hunggari và lộn xộn ở Ba Lan, những sai lầm trong cải
cách ruộng đất và chấn chỉnh tổ chức đã tác động đến tư tưởng của giáo
chức và sinh viên. Trong bối cảnh đó một nhóm văn nghệ sĩ và trí thức ở Hà
Nội đã cho ra hai tờ báo "Nhân văn" và "Gia phẩm" có những nội dung mang
tính đả kích sự lãnh đạo của Đảng, gây hoang mang trong dư luận. Cũng lúc
đó trong các trường đại học sinh viên gặp những khó khăn về ăn, ở, sinh hoạt
và đời sống. Trong tình hình đó có một số người, chủ yếu thuộc khoa Văn
trường Đại học Tổng hợp và Đại học Sư phạm Hà Nội đã ra tờ “Nội san”, “Đất
mới” để hưởng ứng hai tờ “Nhân Văn” và “Giai Phẩm”. Nội san đã đăng
những bài báo thể hiện khuynh hướng đối lập với sự lãnh đạo của tổ chức
Đảng, coi nhẹ vai trò của công tác Đoàn, gây mất đoàn kết trong sinh viên. Tổ
chức Đảng các trường đại học phối hợp với các tổ chức của Đoàn viên thanh
niên, Hội liên hiệp sinh viên đã phối hợp lãnh đạo và chỉ đạo cuộc đấu tranh
tập thể để ngăn chặn những hoạt động quá khích, bảo vệ sự lãnh đạo của
Đảng trong các trường đại học.
+ Trong kế hoạch 5 năm lần thứ I (1961 - 1965), do yêu cầu tăng
cường đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật có trình độ cao đẳng, đại học, giáo
dục đại học tiếp tục phải mở rộng quy mô đào tạo, mở thêm trường lớp, tăng
số lượng tuyển sinh hàng năm, phát triển các ngành học, mở rộng các hình
thức đào tạo tại chức, chuyên tu. Cho đến năm học 1964 - 1965 số trường đại
học đã tăng lên 17 trường, số ngành học đã tăng lên 97 ngành. Ngoài ra các
ngành đã xúc tiến nhanh việc cử cán bộ đi đào tạo và bồi dưỡng nghiên cứu
sinh, thực tập sinh ở các nước XHCN, nhất là ở Liên Xô. Đến năm 1965 đã
cử trên 500 cán bộ giảng dạy ra nước ngoài học tập (trong đó gần 50% là
nghiên cứu sinh). Phong trào thi đua "hai tốt" cũng được phát động trong các
trường đại học, có nhiều điển hình tốt đã được Nhà nước tặng Huân chương
Lao động và phong danh hiệu "Đơn vị tiên tiến xuất sắc (như Đại học Sư
phạm, Đại học Tổng hợp, Đại học Bách khoa, Học viện Nông lâm, Đại học
Kinh tế - tài chính, Cao đẳng Mỹ thuật)
6.4. Chuyển hướng giáo dục đại học trong thời kì cả nước có chiến tranh (1965 - 1975)
Trong giai đoạn này đế quốc Mỹ đã hai lần mở rộng chiến tranh phá
hoại ra miền Bắc, đặt cả nước vào trong tình trạng có chiến tranh. Sự nghiệp
xây dựng XHCN ở miền Bắc bị đảo lộn, ngành đại học Việt Nam bước vào
giai đoạn thử thách mới và phải chuyển hướng để phù hợp với tình hình mới.
Từ những năm 1964 - 1965 đế quốc Mỹ đã đưa vào miền Nam một lực
lượng quân viễn chinh lớn và mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc.
Trong tình hình khó khăn và phức tạp, công tác tư tưởng chính trị phải
đi trước một bước. Ngày 3/7/1965 Ban bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị
số 102/CT - TU về tăng cường công tác tư tưởng chính trị đối với cán bộ, học
sinh, sinh viên. Ngày 5/8/1965 Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị số 88 TTg - VG
về chuyển hướng công tác giáo dục trước tình hình và nhiệm vụ mới.
- Các trường đại học các thành phố tổ chức tốt việc phòng không, sơ
tán về các vùng nông thôn hoặc vùng trung du, miền núi đề tiếp tục sự nghiệp
đào tạo. Có nhiều trường, tập thể giáo viên và học sinh đã tận dụng mọi
phương tiện có được để vận chuyển hàng trăm tấn thiết bị, máy móc, dụng cụ
thí nghiệm, đồ dùng giảng dạy, thư viện, bàn ghế, giường, tủ về nơi sơ tán.
Bằng bàn tay lao động và được sự giúp đỡ của nhân dân địa phương, thầy và
trò đã xây dựng lấy nơi ăn, chốn ở, lớp học, phòng thí nghiệm, xưởng thực
tập thực hành... Vì vậy, chỉ sau một vài tháng, các trường đại học lại bắt đầu
công việc giảng dạy, học tập, không để gián đoạn một học kì nào.
- Trong điều kiện chiến tranh, chúng ta vẫn chủ trương mở thêm một
số trường mới. Từ các khoa tách ra xây dựng thêm một số trường, tăng quy
mô đào tạo, tăng thêm chỉ tiêu tuyển sinh, cải tiến cách thi tuyển sinh đại học.
Lúc này không tổ chức thi tuyển mà thành lập các ban tuyển sinh để chọn và
giới thiệu học sinh ở các tỉnh. Hình thức này tuy có hạn chế về chất lượng
tuyển sinh đầu vào nhưng phù hợp với hoàn cảnh thời chiến lúc đó. Tăng
cường công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ bằng hình thức tại chức (Chỉ thị
số 49/TTg - VG của Thủ tướng chính phủ chỉ rõ: cần phấn đấu đưa chỉ tiêu
tuyển sinh tại chức vào các trường đại học và trung học chuyên nghiệp ngang
bằng hoặc xấp xỉ bằng chỉ tiêu tuyển sinh vào các lớp tập trung). Đưa các đề
tài khoa học của các trường đại học vào phục vụ sản xuất công, nông nghiệp,
phục vụ sức khỏe của nhân dân và đi đôi cải tiến kĩ thuật phục vụ quốc
phòng, giao thông vận tải, kết hợp giảng dạy học tập với phục vụ sản xuất,
chiến đấu và đời sống. Tăng cường cán bộ giảng dạy và các phương tiện kĩ
thuật cho đào tạo. Cho đến năm 1968 số lượng cán bộ giảng dạy đại học và
trung học chuyên nghiệp đã tăng gấp 60 lần so với năm 1958. Tuy vậy, đội
ngũ cán bộ giảng dạy so với nhu cầu vẫn còn yếu và thiếu nghiêm trọng, nhất
là các môn khoa học cơ bản, kỹ thuật cơ sở, kĩ thuật chuyên môn hiện đại và
các môn ngoại ngữ, chính trị, thể dục thể thao. Về trang thiết bị, tăng thêm
thiết bị thí nghiệm, sách báo tư liệu, cung cấp vật tư kỹ thuật, trang bị mới và
bổ sung cho các phòng thí nghiệm, xưởng thực tập. Các phương tiện in ấn
chủ yếu sản xuất ở trong nước là chính, và một phần nhập của nước ngoài.
- Tổ chức huấn luyện quân sự trong các trường đại học, củng cố các
đội tự vệ, sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu (như tham gia công tác
cứu thương, cứu sập hầm, bắt sống giặc lái, bắn máy bay Mỹ...), tích cực
tham gia chống lũ lụt và khắc phục hậu quả lũ lụt năm 1971. Trong cuộc
chống chiến tranh phá hoại của Mỹ lần thứ hai, tỉ lệ giáo viên, sinh viên các
trường đại học tham gia phục vụ sản xuất chiến đấu lên tới 50 - 60%, có
trường lên tới 95 - 100%. Trường Đại học Giao thông, đầu tháng 5/1972 đã
huy động hơn 70% cán bộ, sinh viên đi làm nhiệm vụ bảo đảm giao thông vận
tải tại 60 địa điểm thuộc 8 tỉnh từ Ninh Bình đến Lạng Sơn, từ Hải Hưng đến
Bắc Thái. Trường Đại học Hàng hải, khi đế quốc Mỹ phong tỏa cảng Hải
Phòng và bờ biển (tháng 5/1972) đã nhận hai tàu cùng với các tàu khác của
công ty vận tải biển vượt qua hàng rào thủy lôi của Mỹ để mở đường, chuyển
hàng, lương thực, vũ khí vào Bến Thủy, sông Gianh, Cửa Việt chi viện cho
tiền tuyến...
- Sau Hiệp định Pari lập lại hòa bình ở Việt Nam (tháng 1/1973) các
trường đại học từ phân tán chuyển về tập trung, bắt tay vào khôi phục và xây
dựng cơ sở vật như: xây dựng, sửa chữa nhà ở, phòng học, phòng thí
nghiệm. Lúc đó trong các trường đại học chủ yếu là nhà tre, nhà lá và nửa
kiên cố. Trong tổng số diện tích đã xây dựng thì 50% là tranh tre nứa lá, 30%
nửa kiên cố, chỉ có 20% là kiên cố:
- Mở rộng đào tạo tại chức. Đến năm học 1974 - 1975 đã có 31 trường
đại học có đào tạo tại chức. Việc tuyển chọn cán bộ, học sinh đi đào tạo ở
nước ngoài cũng được đẩy mạnh hơn. Tính đến năm 1975 quy mô giáo dục
đại học được mở rộng hơn một bước, số trường đại học đã lên tới 41 trường,
với số sinh viên là 55701 và số cán bộ giảng dạy là 8658. So với năm học
1964 - 1965 chỉ có 17 trường, 29337 sinh viên, 2447 cán bộ giảng dạy.
7. Giáo dục bổ túc văn hóa Do nhiều nguyên nhân khách quan, phong trào bình dân học vụ có
chiều hướng suy giảm trong những năm đầu sau ngày hòa bình lập lại. Từ
năm 1956, Bộ Giáo dục đã thực hiện một kế hoạch 3 năm thanh toán nạn mù
chữ (1956 - 1958), thành lập Ban lãnh đạo Trung ương thanh toán nạn mù
chữ, phát động cuộc Đại vận động thi đua diệt dốt (lấy tên là Chiến dịch Điện
Biên Phủ diệt dốt). Kết quả đến cuối năm 1958, vùng đồng bằng và trung du
miền Bắc đã căn bản xóa xong nạn mù chữ, 93,4% số người trong độ tuổi từ
12 - 50 tuổi đã biết đọc, biết viết. Đó là một thắng lợi rất lớn của công tác bình
dân học vụ trong giai đoạn này.
Phong trào bổ túc văn hóa cũng phát triển mạnh mẽ: các trường bổ túc
văn hóa tại chức, trường bổ túc văn hóa tập trung, bán tập trung, trường vừa
học vừa làm... được mở ra ở khắp các địa phương và trung ương. Trường bổ
túc không những có nhiệm vụ nâng cao trình độ văn hóa, phổ cập giáo dục
cho nhân dân mà còn bổ túc văn hóa cho thanh niên công nông có thể thi vào
đại học và trung học chuyên nghiệp.
Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, phong trào thi đua tiên tiến
được phát động rộng khắp ở các tỉnh và đã xuất hiện nhiều đơn vị xuất sắc
điển hình là phong trào giáo dục ở xã Cẩm Bình (Cẩm Xuyên - Hà Tĩnh). Đó
là một hình mẫu phát triển giáo dục ở nông thôn trong điều kiện kinh tế thấp,
đưa giáo dục bổ túc văn hóa đi trước một bước, tạo môi trường thuận lợi cho
phát triển giáo dục mẫu giáo và giáo dục phổ thông, gắn giáo dục bổ túc văn
hóa với sự nghiệp xây dựng kinh tế, văn hóa của địa phương, nâng cao trình
độ văn hóa cho nhân dân lao động. Cẩm Bình là xã đầu tiên được nhận giải
thưởng Krup - xkaia của Liên hợp quốc năm 1978.
8. Đào tạo và bồi dưỡng giáo viênPhát triển giáo dục phục vụ cho sự nghiệp khôi phục và phát triển kinh
tế - văn hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh thống nhất
nước nhà, đặt ra yêu cầu phải nhanh chóng xây dựng và phát triển đội ngũ
giáo viên cả về số lượng và chất lượng. Trong hơn 20 năm từ sau giải phóng
miền Bắc đến năm 1975, sự nghiệp đào tạo và xây dựng đội ngũ giáo viên
Việt Nam đã được đầy mạnh, đạt được nhiều thành tựu to lớn.
Sau khi miền Bắc được giải phóng, một bộ phận giáo viên làm việc ở
các thành phố và thị xã đã di cư vào Nam. Số trường Sư phạm của chính
quyền thực dân Pháp để lại rất ít, với quy mô nhỏ. Các trường Sư phạm được
thành lập ở vùng kháng chiến nay trở về thành phố, thị xã cần được xây dựng
lại, từ cơ sở vật chất đến đội ngũ giáo viên. Việc đào tạo giáo viên trong thời
kì kháng chiến rất khó khăn, chưa chuẩn bị đáp ứng được nhu cầu phát triển
giáo dục phục vụ khôi phục và phát triển kinh tế - văn hóa sau chiến tranh.
Tình trạng thiếu hụt giáo viên là rất to lớn. Các biện pháp phát triển giáo dục
Sư phạm trong giai đoạn này được tập trung vào một số vấn đề sau:
- Các lớp Sư phạm cấp tốc được mở ra nhằm trang bị những nội dung
kiến thức cơ bản, thiết thực, trang bị những kĩ năng nghiệp vụ sư phạm tối
thiểu và cần thiết để giáo viên có thể triển khai được hoạt động dạy học mà
họ đảm nhiệm.
- Thành lập Trường Đại học Sư phạm Hà Nội trên cơ sở trường Sư
phạm cao cấp từ Khu Học xá Trung ương chuyển về và cơ sở Cao đẳng Sư
phạm thuộc các trường Đại học Văn khoa và Khoa học cũ.
- Khôi phục lại hoạt động và mở rộng quy mô đào tạo của các trường
Sư phạm trung cấp Trung ương, Sư phạm sơ cấp Trung ương và các trường
Sư phạm vẫn có ở các Liên khu và các tỉnh. Vào cuối những năm 59, 60, do
nhu cầu phát triển cấp 1 và cấp 2 phổ thông, một loạt các trường Sư phạm ở
các tỉnh được mở thêm.
- Đồng thời với việc đào tạo giáo viên với quy mô ngày càng mở rộng,
việc bồi dưỡng giáo viên được coi trọng. Cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai
(1956) đã triển khai nhiều hoạt động bồi dưỡng thường xuyên về những vấn
đề cơ bản của đường lối cách mạng và nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, tổ
chức các lớp tập huấn, các đợt học tập chính trị, trang bị cho đội ngũ giáo
viên sự hiểu biết đúng đắn về vấn đề giáo dục phục vụ cách mạng và nhiệm
vụ chính trị, về giáo dục kết hợp với lao động sản suất, về học đi đôi với hành,
về trách nhiệm của người giáo viên trong chế độ mới.
Đến năm 1960 số giáo viên đã lên tới trên 40 nghìn người, tăng gấp 3
lần so với năm 1954. Đặc biệt số lượng giáo viên cấp 3 tăng nhanh; đội ngũ
giáo viên mẫu giáo bắt đầu được hình thành.
Từ sau Đại hội Đảng lần thứ 3 cho đến khi đế quốc phát động chiến
tranh phá hoại ở miền Bắc (1960 - 1965), công tác đào tạo và bồi dưỡng giáo
viên được đẩy mạnh hơn một bước, bên cạnh việc tăng cường bồi dưỡng về
chính trị và tư tưởng, còn rất coi trọng nâng cao nghiệp vụ sư phạm và trình
độ đào tạo. Chuẩn đào tạo Sư phạm đã được nâng lên, hệ sư phạm đào tạo
giáo viên cấp II từ 2 năm lên 3 năm, nâng dần trình độ giáo viên cấp 1 bằng
cách hình thành hệ đào tạo 3 năm trên cơ sở tuyển thanh niên đã tốt nghiệp
cấp 2 phổ thông. Trường Sư phạm Mẫu giáo Trung ương đã được thành lập
để đào tạo giáo viên cho ngành học mầm non. Một số phân hiệu đại học
(phân hiệu Đại học Sư phạm Vinh), trường Lí luận nghiệp vụ, tiền thân của
Trường Cán bộ quản lí giáo dục Trung ương cũng đã ra đời trong thời kì này.
Nhiều hình thức bồi dưỡng đã được thực hiện, như tổ chức giờ dạy
mẫu, nghiên cứu chuyên đề về phương pháp dạy học và giáo dục, thi chọn
giáo viên khá và giỏi, được các địa phương coi trọng và tổ chức một cách
thường xuyên.
Đến năm 1965, tổng số giáo viên phổ thông đã lên tới 8 vạn, tăng gấp 9
lần so với năm 1940 - năm phát triển giáo dục cao nhất thời Pháp thuộc, gấp
6 lần so với năm 1954; riêng giáo viên cấp 2 tăng hơn 50 lần và giáo viên cấp
3 tăng gần 60 lần so với năm 1940. Đây là một thành tích to lớn trong việc
xây dựng đội ngũ giáo viên.
Cũng trong thời gian đó, ở miền Nam, dưới sự lãnh đạo của Mặt trận
dân tộc giải phóng miền Nam, ở nhiều vùng giải phóng, việc chăm lo đào tạo
giáo viên bằng nhiều hình thức khác nhau, thu hút giáo viên yêu nước vốn
được đào tạo ở các trường Sư phạm vùng Mĩ - Ngụy. Trường Sư phạm đào
tạo giáo viên cấp 1 và giáo viên cấp 2 đã được mở tại khu căn cứ; Khóa Sư
phạm đầu tiên với tên gọi là "Khóa Tháng Tám" khai giảng nhân dịp kỉ niệm
18 năm Cách mạng tháng Tám. Nhờ đó cho đến năm 1965 đã có đủ giáo viên
cho hơn một triệu học sinh ở các vùng giải phóng.
Từ khi đế quốc Mĩ phát động cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc đến
khi giải phóng miền Nam (1965 - 1975), nhiệm vụ xây dựng đội ngũ giáo viên
không chỉ thể hiện quyết tâm đánh thắng giặc Mĩ trên mặt trận giáo dục, thực
hiện nhiệm vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn, mà còn để chuẩn bị
lực lượng giáo viên cho miền Nam sẽ được giải phóng và cho miền Bắc sau
chiến tranh.
Do phải tiến hành đào tạo đội ngũ giáo viên gấp rút nên đội ngũ giáo
viên cũng bộc lộ nhiều bất cập về trình độ. Số giáo viên được đào tạo cấp tốc
chiếm 30% (năm 1965), số giáo viên có trình độ đầu vào thấp (cấp II) tại các
trường Sư phạm chiếm hơn 85%. Do đó vấn đề bồi dưỡng nhằm nâng cao
trình độ nghề nghiệp cho giáo viên trở thành một vấn đề bức thiết. Cơ quan
bồi dưỡng giáo viên của Bộ Giáo dục được hình thành vào năm 1968.
Trong 10 năm từ 1965 đến 1975, việc bồi dưỡng giáo viên được tiến
hành liên tục. Nội dung bồi dưỡng tập trung vào công tác giáo dục chính trị và
tư tưởng, sinh hoạt chính trị, nâng cao ý chí chiến đấu, tinh thần trách nhiệm
trong dạy học của giáo viên, học tập các vấn đề cơ bản về đường lối của
Đảng một cách có hệ thống. Công tác bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ
được coi trọng. Các sở giáo dục, các trường đã kiên trì thực hiện công thức:
dạy học 8 tháng, nghỉ 1 tháng, tham gia bồi dưỡng 3 tháng trong 1 năm. Hàng
tuần 1 buổi, hàng năm 1 đợt trong hè, giáo viên lần lượt được tham gia học
tập thêm về các vấn đề hiện đại của khoa học, về phương pháp dạy học.
Để nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, đáp ứng những yêu cầu
xây dựng một đội ngũ giáo viên hoàn chỉnh về trình độ, đồng bộ về cơ cấu,
Ngành giáo dục đã tăng cường chỉ tiêu tuyển sinh vào các trường Sư phạm,
số lượng sinh viên hai trường ĐHSP Hà Nội lên tới 8. 500 người vào năm học
1969 - 1970, số sinh viên Sư phạm trong cả nước lên tới 85.000 người, hơn
năm trước 23.000 người. Tiêu chuẩn trình độ đầu vào của học sinh các
trường Sư phạm đã nâng lên. Từ năm học 1971 - 1972, các trường Sư phạm
đào tạo giáo viên cấp 1 ở các thành phố, tỉnh đồng bằng bắt đầu đào tạo giáo
viên bằng cách tuyển thanh niên đã tốt nghiệp cấp 3 vào học trong 2 năm.
Thời gian đào tạo giáo viên cấp 2 và cấp 3 cũng được tăng lên từ 2 - 3 năm
lên 3, 4 - 5 năm. Trường Sư phạm Cô nuôi dạy trẻ ở Trung ương, trường Sư
phạm Nhạc - Họa - Thể dục Trung ương, các trường Sư phạm Mẫu giáo,
trường Đào tạo giáo viên dạy nghề ở các tỉnh cũng lần lượt được hình thành
và củng cố trong thời kì này.
Có thể nói, giai đoạn 10 năm 1965 - 1975 là một thời kì phát triển mạnh
mẽ của giáo dục Sư phạm đào tạo, bồi dưỡng xây dựng đội ngũ giáo viên.
Các phương thức, các loại hình đào tạo và bồi dưỡng đa dạng, phong phú
hơn và những điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo bồi dưỡng được nâng
lên rõ rệt. Hệ thống các trường Đại học Sư phạm được hình thành, (năm
trường: ĐHSP Hà Nội 1, ĐHSP Hà Nội 2, ĐHSP Ngoại ngữ, ĐHSP Vinh và
ĐHSP Việt Bắc), trở thành các cơ sở đào tạo giáo viên có trình độ cao cho
các bậc học; hệ thống trường Sư phạm đào tạo giáo viên mẫu giáo, cấp 1 và
cấp 2 có đầy đủ ở các tỉnh; một số trường đào tạo giáo viên dạy nghề được
hình thành. Hệ thống giáo dục Sư phạm này đã đáp ứng yêu cầu đào tạo giáo
viên các loại hình, các bậc học ở miền Bắc mà còn chuẩn bị cung cấp nguồn
giáo viên cho miền Nam sau khi hoàn thành cuộc đấu tranh thống nhất đất
nước.
CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu 1. Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam trong thời kì xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước đã ảnh
hưởng như thế nào đến tình hình giáo dục thời kì này?
Câu 2. Nêu lí do và phân tích nội dung của cuộc cải cách giáo dục năm
1956.
Câu 3. Cuộc vận động xây dựng nhà trường xã hội chủ nghĩa đã được
triển khai và thu được kết quả như thế nào?
Câu 4. Phân tích sự chuyển hướng của giáo dục phổ thông trong thời
kì chống chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc.
Câu 5. Những chuyển biến của giáo dục đại học trong thời kì 1954 -
1975?
Câu 6. Phân tích sự phát triển của giáo dục Sư phạm phục vụ sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước
nhà giai đoạn 1954 - 1975.
Chương 7. GIÁO DỤC VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐẦU XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRÊN PHẠM VI CẢ NƯỚC (1975 - 1986)
1. Hoàn cảnh lịch sử Chiến thắng lịch sử mùa xuân năm 1975 đã kết thúc thắng lớn cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại, mở ra một kỉ nguyên mới của dân tộc
Việt Nam - Kỉ nguyên độc lập, thống nhất dưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã
hội. Nhưng những năm đầu sau giải phóng, chúng ta phải nỗ lực rất nhiều để
khắc phục hậu quả của 20 năm chiến tranh, ổn định và khôi phục kinh tế, văn
hoá, xây dựng chính quyền nhà nước thống nhất.
Tháng 9/1975, Hội nghị lần thứ 24 Ban chấp hành Trung ương Đảng
khoá 3 họp để quyết định những nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn
mới, nhằm "hoàn thành thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến nhanh, tiến
mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội".
Điểm nhấn mạnh trong việc vận dụng đường lối chung của thời kì quá
độ lên chủ nghĩa xã hội là: miền Bắc "trong giai đoạn mới phải có những cố
gắng rất lớn đề khắc phục mọi khó khăn, đồng thời phát huy tác dụng tích cực
của miền Bắc đối với sự nghiệp phát triển cách mạng cả nước", miền Nam
"kết hợp chặt chẽ cải tạo và xây dựng trong quá trình cách mạng và trên các
mặt: chính trị, kinh tế, kĩ thuật, văn hoá, tư tưởng trên phạm vi toàn xã hội".
Trên cơ sở đó, Hội nghị đã đề ra nhiệm vụ mới của Ngành giáo dục:
"Miền Bắc có nhiệm vụ đẩy mạnh phong trào thi đua “hai tốt” nâng cao giáo
dục toàn diện, tích cực ủng hộ giáo dục miền Nam. Miền Nam cần mau chóng
xoá bỏ tàn dư của nền giáo dục cũ, xây dựng nền giáo dục mới, nâng cao
giác ngộ chính trị cho giáo viên và học sinh, xây dựng tổ chức quản lí Ngành".
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, họp từ ngày 14 đến
20/12/1976 đã xác định tầm quan trọng và tính tất yếu của việc đưa cả nước
đi lên chủ nghĩa xã hội và đề ra đường lối chung của cách mạng xã hội chủ
nghĩa và đường lối xây dựng kinh tế ở nước ta trong thời kì quá độ. Đại hội
đã phân tích sâu sắc những đặc điểm lớn của tình hình đất nước và thế giới
trong giai đoạn cách mạng mới. Nhất là đặc điểm nước ta "từ một xã hội mà
nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nho tiến thẳng lên CNXH, bỏ qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa", đã quy định cuộc cánh mạng XHCN ở
nước ta là quá trình biến đổi cách mạng toàn diện, sâu sắc và triệt để, đồng
thời cũng quy định tính chất lâu dài, khó khăn và phức tạp.
Đại hội vạch rạ đường lối chung của cuộc cách mạng XHCN ở nước ta
trong giai đoạn mới là "Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm
chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng:
cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng
tư tưởng văn hoá, trong đó cách mạng khoa học kĩ thuật là then chốt, đẩy
mạnh công nghiệp hoá XHCN là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kì quá độ lên
CNXH, xây dựng chế độ làm chu tập thể XHCN, xây dựng nền sản xuất lớn
XHCN, xây dựng nền văn hoá mới, xây dựng con người mới XHCN".
Đường lối xây dựng nền kinh tế XHCN ở nước ta trong giai đoạn mới
là: "Đẩy mạnh công nghiệp hoá XHCN, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của
CNXH, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN. Ưu
tiên phát triền công nghiệp nặng một cách hợp lí trên cơ sở phát triển nông
nghiệp và công nghiệp nhẹ kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả
nước thành một cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp... kết hợp phát triển lực
lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mỗi; kết hợp kinh
tế với quốc phòng; tăng cường quan hệ hợp tác, tương trợ với các nước
XHCN... Đồng thời, phát triển quan hệ kinh tế với các nước khác trên cơ sở
giữ vững độc lập, chủ quyền và các bên cùng có lợi; làm cho nước Việt Nam
trở thành một nước XHCN có kinh tế công - nông nghiệp hiện đại, văn hoá và
khoa học kĩ thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, có đời sống văn minh
hạnh phúc".
Trên cơ sở đường lối chung và đường lối kinh tế đã xác định ở trên,
Đại hội quyết định phương hướng nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của kế
hoạch Nhà nước 5 năm (1976 - 1980).
Từ ngày 27 đến ngày 31 - 3 - 1981, Đại hội đại biểu toàn quốc lan thứ V
của Đảng đã khẳng định tiếp tục đường lối chung của cách mạng XHCN và
đường lối xây dựng kinh tế XHCN trong thời kì quá độ do Đại hội IV đề ra.
Tuy nhiên, đến Đại hội V, đường lối xây dựng CNXH trong thời kì quá độ của
Đảng bắt đầu có sự điều chỉnh, bổ sung và phát triển, cụ thể hoá cho từng
giai đoạn phù hợp với những điều kiện lịch sử cụ thể. Giai đoạn trước mắt
gồm 5 năm đầu (1981 - 1985) và những năm cuối cùng của thập niên 80,
cách mạng nước ta phải thực hiện những nhiệm vụ tổng quát: "Tiếp tục xây
dựng CNXH và cải tạo XHCN, tăng cường hơn nữa sự nhất trí về chính trị và
tinh thần của nhân dân, giảm bớt và khắc phục khó khăn, ổn định và cải thiện
đời sống nhân dân, chặn đứng và loại trừ những biểu hiện tiêu cực, đạt được
những tiến bộ quan trọng trong mọi lĩnh vực, tạo ra thế cân đối mới của nền
kinh tế, đồng thời chuẩn bị cho những bước tiến vững chắc và mạnh mẽ hơn
trong những chặng đường tiếp theo”.
Những nhiệm vụ và mục tiêu kinh tế - xã hội của giai đoạn này đã được
Đại hội cụ thể hoá, đề ra nhiệm vụ, mục tiêu kế hoạch Nhà nước 5 năm (1981
- 1985). Trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ và mục tiêu của kế hoạch
này, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta đạt được nhiều thành tựu tiến bộ quan
trọng trong công cuộc xây dựng CNXH. Tuy nhiên, một số chỉ tiêu quan trọng
của kế hoạch 5 năm như sản xuất lương thực, than, xi măng, gỗ, vải, hàng
xuất khẩu chưa đạt, đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh tế và
đời sống của nhân dân lao động. Hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp, lưu thông
chưa thông suốt, vật giá tăng nhanh, có sự mất cân đối lớn trong nền kinh tế
giữa cung và cầu, đời sống của nhân dân, nhất là công nhân viên chức gặp
nhiều khó khăn. Thực trạng này đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
(12 - 1986) của Đảng phân tích một cách khách quan và thẳng thắn là: "Trong
5 năm 1981 - 1985 đã không nghiêm chỉnh thực hiện những kết luận đúng
đắn của Đại hội lần thứ V của Đảng về cụ thể hoá đường lối kinh tế trong
chặng đường đầu tiên, chưa kiên quyết khắc phục chủ quan nóng vội và bảo
thủ trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh tế, cải tạo XHCN và quản lí kinh tế, lại phạm
những sai lầm mới, nghiêm trọng trong lĩnh vực phân phối, lưu thông, đã
buông lỏng chuyên chính vô sản trong quản lí kinh tế, xã hội, trong đấu tranh
tư tưởng, văn hoá...”
2. Giáo dục phổ thông2.1. Năm học đầu tiên sau ngày giải phóng miền Nam
Năm học 1975 - 1976, cả nước đã tiến hành khai giảng trong không khí
tưng bừng, phấn khởi trước thắng lợi vĩ đại của dân tộc và trong niềm vui kỉ
niệm 30 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Ngày 19/10/1975 các trường phổ thông khắp các tỉnh miền Nam đã
tưng bừng khai giảng năm học mới, thu hút hơn 4 hiệu học sinh phổ thông,
mẫu giáo và gần 10 vạn giáo viên tham gia.
Bộ Giáo dục đã kịp thời ban hành chương trình mới, biên soạn và in 20
triệu bản sách giáo khoa phổ thông các cấp gửi vào miền Nam thay cho sách
cũ.
Đội ngũ giáo viên hầu hết các giáo viên cũ được tuyển dụng lại và
được tổ chức tham dự các lớp học chính trị, nghiệp vụ để hiểu rõ tình hình,
nhiệm vụ cách mạng, để nhận thức rõ tính chất của nền giáo dục mới và
nghiên cứu về chương trình, nội dung giảng dạy mới. Miền Bắc đã cấp tốc cừ
một đội ngũ cán bộ quản lí giáo dục và giáo viên vào Nam để bổ sung những
nơi thiếu hụt, đồng thời chính quyền mới tổ chức đào tạo cấp tốc một số giáo
viên mới để cung cấp cho các nơi còn thiếu giáo viên. Nhiều sinh viên tốt
nghiệp các trường Đại học Sư phạm ở miền Bắc năm học sau ngày giải
phóng đã tình nguyện vào công tác tại nhiều tỉnh phía Nam.
+ Mạng lưới các trường phổ thông ở miền Nam đã phân bố đều hơn.
Hệ thống trường lớp ở các vùng đông dân lao động, ở nông thôn, vùng dân
tộc ít người, các khu kinh tế mới vùng giải phóng cũng được củng cố và mở
rộng. Con em các gịa đình cách mạng, gia đình liệt sĩ, con em nông dân được
thu hút đến trường.
Dưới chế độ cũ, miền Nam có khoảng 2500 trường tư thục, một nửa là
trường tôn giáo. Sau giải phóng, Nhà nước đã công lập hoá các trường tư
thục, tách nhà trường ra khỏi ảnh hưởng của tôn giáo và chủ trương đưa dần
toàn bộ trường tư vào sự quản lí của Nhà nước. Đồng thời thực hiện việc
miễn học phí trong các trường phổ thông các cấp.
2.2. Cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba
Trước ngày miền Nam giải phóng, nước ta có hai hệ thống giáo dục
khác nhau. Ở miền Bắc, giáo dục được tố chức chủ yếu theo mô hình của
Liên Xô cũ (hệ thống giáo dục 10 năm). Ở miền Nam, giáo dục được tổ chức
theo mô hình phương Tây (chủ yếu theo mô hình của Pháp và một phần
được cải tiến theo mô hình của Mỹ). Nhiệm vụ cấp bách đề ra cho giáo dục
lúc đó là phải xây dựng một hệ thống giáo dục thống nhất theo định hướng
XHCN trong cả nước.
Tháng 12/1976 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã vạch
ra con đường đi lên xây dựng CNXH trong phạm vi cả nước và xác định “giáo
dục là nền tảng văn hoá của một nước, là sức mạnh tương lai của một dân
tộc, nó đặt những cơ sở ban đầu rất quan trọng cho sự phát triển toàn diện
con người Việt Nam XHCN”.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IV của Đảng, ngày 11/1/1976 Bộ
Chính trị Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết số 14 - NQ/TW về cuộc cải cách
giáo dục lần thứ ba.
Mục tiêu cơ bản của cuộc cải cách giáo dục lần này là:
- Coi giáo dục là một bộ phận quan trọng của cách mạng tư tưởng văn
hoá, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hoá, khoa học kĩ
thuật.
- Làm tốt việc chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ ngay từ tuổi ấu thơ cho
đến lúc trưởng thành nhằm tạo ra cơ sở ban đầu rất quan trọng của con
người Việt Nam, con người làm chủ tập thể và phát triển toàn diện:
- Thực hiện phổ cập giáo dục trong toàn dân. Phấn đấu cho thế hệ trẻ
đến tuổi trưởng thành được học đẩy đủ đến bậc phổ thông trung học.
- Thực hiện tốt hơn nữa nguyên lí giáo dục: Học đi đôi với hành, giáo
dục kết hợp với lao động sản xuất gắn với đào tạo nghề và nghiên cứu, thực
nghiệm khoa học.
- Cải cách cả cơ cấu hệ thống giáo dục, nội dung và phương pháp giáo
dục.
Cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba được triển khai từ năm 1979 và thu
được một số kết quả bước đầu:
+ Đã xác định được một hệ thống giáo dục tương đối hoàn chỉnh, thống
nhất trong cả nước từ mầm non đến sau đại học.
+ Xây dựng hệ thống giáo dục phố thông 12 năm thống nhất trong toàn
quốc.
+ Biên soạn các bộ sách giáo khoa mới theo tinh thần cải cách, theo
phương châm “cuốn chiếu” bắt đầu từ năm 1981 - 1982 và hoàn thành cho cả
hệ thống 12 năm vào năm học 1992 - 1993.
+ Từ sau năm 1976, hệ thống đào tạo sau đại học được xây dựng và
phát triển mạnh mẽ.
Từ năm 1979 đến 1982, sau chiến tranh biên giới phía Tây Nam và
phía Bắc, những khó khăn về kinh tế xã hội đã tác động trực tiếp tới nền giáo
dục của nước ta, dẫn đến sự xuống cấp của hệ thống nhà trường. Quy mô
giáo dục giảm sút, số học sinh đến trường chứng lại hoặc giảm đi, tỉ lệ học
sinh lưu ban, bỏ học nhiều, chất lượng giáo dục bị giảm sút rõ rệt. Đời sống
giáo viên hết sức khó khăn, thiếu thốn.
Hiện tượng học sinh lưu ban, bỏ học ở cấp 2 là cao nhất và có xu
hướng tăng lên. Tỉ lệ lưu ban: 1979 - 1980 là 6,4%; 1980 - 1981 là 6,8%;
1983 - 1984 là 6,42%; 1984 - 1985 là 5,79%. Tỉ lệ bỏ học tương ứng ở các
năm học trên là 15%; 16%, 17%, 14, 35 %.
Hàng năm trung bình có 20 vạn học sinh tốt nghiệp phổ thông trung
học, nhưng chỉ có 10% được vào đại học, chuyên nghiệp, đại bộ phận làm
nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, lao động có trình độ văn hoá cao chiếm tỉ
lệ thấp.
Tình hình xuống cấp trên buộc Ngành giáo dục không thể không đổi
mới cùng với sự đổi mới của đất nước nhằm đáp ứng những yêu cầu mở của
sự phát triển. Cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba cũng được đổi mới theo quá
trình này.
3. Giáo dục đại họcXây dựng hệ thống các trường đại học thống nhất trong cả nước theo
mô hình nhà trường XHCN.
Sau giải phóng miền Nam 1975, Trung ương Đảng đã tổ chức một
đoàn cán bộ giáo dục miền Bắc gồm những chuyên gia giáo dục vào giúp
Trung ương miền Nam và Bộ Giáo dục Chính phủ Lâm thời cộng hoà miền
Nam tổ chức việc tiếp quản các trường đại học ở miền Nam.
Trước ngày giải phóng, miền Nam có 18 viện đại học (trong đó có 7
viện đại học công, 11 viện đại học tư) với tổng số sinh viên là 166. 475 người
(8 viện đại học và trường công chiếm tới 80%). Tiêu biểu là: Viện Đại học Sài
Gòn (là lớn nhất) gồm 8 trường đại học; Viện đại học Huế; Viện Đại học Cần
Thơ; Đại học Bách Khoa Thủ Đức; Viện Đại học Vạn Hạnh; Viện Đại học Đà
Lạt, mỗi viện có 5 trường, các viện khác nhỏ hơn có 2 - 3 trường với khoảng
500 sinh viên.
Phần lớn các trường đại học miền Nam được thành lập trong những
năm cuối thập kỉ 60 đầu thập kỉ 70 của thế kỉ XX. Tổ chức nhà trường, quy
trình đào tạo, giảng dạy, học tập, hệ thống văn bằng... theo mô hình các
trường đại học, cao đẳng của Pháp. Những năm đầu thập kỉ 70, một số
trường đã sửa đổi mô hình đào tạo theo mô hình đại học của Mỹ (như đào tạo
theo tín chỉ ở Viện Đại học Cần Thơ, Viện Đại học Huế...).
Chế độ tuyển sinh vào các trường đại học và cao đẳng ở miền Nam
cũng theo cách làm như các nước phương Tây. Có trường tổ chức thi tuyển,
có trường, có ngành học tiếp nhận sinh viên theo chế độ ghi danh. Khi ta tiếp
quản, các trường đại học, cao đẳng có số sinh viên ghi danh rất lớn, có
khoảng 130. 000 sinh viên, trong đó nhiều nhất là sinh viên khoa Luật và Văn
học.
Sau khi tiếp quản, chính quyền cách mạng đã tiến hành giải thể các
trường đại học tư thục và đại học cộng đồng, tổ chức lại các trường đại học
theo mô hình nhà trường XHCN. Hệ thống các trường đại học miền Nam cũ
được tổ chức lại thành 15 trường đại học đó là:
- Đại học Sư phạm Thành Phố HCM
- Đại học Bách khoa Thành Phố HCM
- Đại học Kinh Tế Thành phố HCM
- Đại học Kĩ Thuật Thành phố HCM
- Đại học Tổng Hợp Huế
- Đại học Bách Khoa Đà Nẵng
- Đại học Cần Thơ
- Đại học Đà Lạt
- Đại học Nông Nghiệp Thành phố HCM
- Đại học Kiến Trúc Thành Phố HCM
- Đại học Sư phạm Huế
- Đại học Y Huế
- Đại học Y - Dược Thành Phố HCM
- Đại học Thuỷ sản Nha Trang
- Đại học Tây Nguyên
Các trường đại học miền Nam trong những năm đầu sau giải phóng
nhận được sự chi viện lớn và có hiệu quả của các trường đại học miền Bắc.
Miền Bắc đã kịp thời cử các cán bộ quản lí và bổ sung đội ngũ giáo viên, tổ
chức chuyển giáo trình, sách giáo khoa, tài liệu học tập vào miền Nam.
Tính đến năm 1977 - 1978 cả nước ta có 50 trường đại học và 20
trường cao đẳng.
Từ 1976 - 1986 các trường đại học được xác định có vai trò quan trọng
trong ba cuộc cách mạng (cách mạng quan hệ sản xuất, khoa học kỹ thuật,
thông tin văn hoá) nhất là cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật.
Mô hình quản lí giáo dục đại học theo mô hình quản lí tập trung cao ở
Chính phủ (trung ương) và Bộ Giáo dục. Quy mô đào tạo của các trường theo
chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước phân giao. Tổ chức quá trình đào tạo (kế hoạch
học tập, tuyển sinh, chế độ học bổng, phân công tác) đều theo kế hoạch của
Nhà nước. Mục tiêu đào tạo chủ yếu là cung cấp cán bộ cho biên chế Nhà
nước và cho biên chế của hai thành phần kinh tế chủ yếu là: kinh tế quốc
doanh và kinh tế tập thể.
Việc tổ chức thi tuyển sinh cũng được tiến hành theo kế hoạch thống
nhất: Ngày thi được quy định chung trong toàn quốc, mỗi học sinh được thi
một trường đại học và có ba khối thi (A, B, C) để học sinh lựu chọn. Bộ Giáo
dục quản lí thống nhất các khâu: ra đề thi, chỉ đạo chấm thi, thông báo kết
quả.
Đẩy mạnh việc tổ chức các trường, khoa, lớp dự bị đại học. Sau công
cuộc trường kì kháng chiến chống Mỹ, số người thuộc diện chính sách tăng
rất nhiều (thương binh, con liệt sĩ, con em gia đình có công với cách mạng,
những người có thành tích trong chiến đấu sản xuất...) cần được ưu tiên đào
tạo có trình độ đại học. Do đó các trường đại học đều mở các khoa, lớp dự bị
đại học, nhằm ưu tiên đào tạo cán bộ đối với những người thuộc diện chính
sách để thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước.
Hình thức đào tạo tại chức vẫn được duy trì và tiếp tục phát triển. Xây
dựng riêng hai trường đại học tại chức ở Hà Nội và Hải Phòng, có 35 trường
đại học mở các khoa tại chức và nhiều tỉnh có trạm đại học tại chức.
Trước nhu cầu học tập của một bộ phận đông đảo cán bộ, công nhân
không có điều kiện theo học các trường lớp chính quy tập trung thì việc mở
rộng đào tạo tại chức ở các địa phương là một phương thức linh hoạt và sáng
tạo, nhằm bảo đảm cho cán bộ công nhân viên có thể học lên trình độ đại học
mà vẫn bảo đảm công tác.
Hình thành và chủ trương phát triển đào tạo sau đại học:
Trước yêu cầu nâng cao trình độ đào tạo cán bộ, Thủ tướng Chính phủ
đã ra quyết định số 224/TTg ngày 24/5/1976 để giải quyết một cách chủ động
việc đào tạo một đội ngũ cán bộ khoa học - kĩ thuật có trình độ sau đại học,
tiến tới hình thành hệ thống đào tạo sau đại học trong nước. Năm 1976, lần
đầu tiên một Luận án Phó tiến sĩ đã được bảo vệ thành công trong nước,
đánh dấu một sự phát triển mới về chất của giáo dục đại học Việt Nam. Hệ
đào tạo sau đại học, đào tạo Phó tiến sĩ theo mô hình của Liên Xô cũ chính
thức được hình thành trong hệ thống giáo dục quốc dân từ đó. Đã có 8
trường đại học đầu tiên được giao nhiệm vụ đào tạo sau đại học, đó là: Đại
học Bách khoa; Đại học Mỏ địa chất; Đại học Xây dựng; Đại học Y khoa Hà
Nội; Đại học Nông nghiệp I, Đại học Tổng hợp; Đại học Kinh tế - Kế hoạch;
Đại học Sư phạm Hà Nội 1.
Đến tháng 12/1980 nước ta đã có 42 trường đại học và viện nghiên
cứu khoa học được quy định là cơ sở đào tạo sau đại học (đào tạo nghiên
cứu sinh lấy văn bằng Phó tiến sĩ). Cũng từ năm 1976, Nhà nước ra quyết
định phong học hàm Giáo sư, Phó giáo sư cho các nhà khoa học công tác ở
các trường đại học và các viện nghiên cứu. Đợt phong học hàm đầu tiên
được thực hiện vào năm 1980.
4. Giáo dục Sư phạmĐại thắng mùa Xuân năm 1975 giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước đã đặt ra cho sự nghiệp giáo dục nói chung, cho công việc xây dựng đội
ngũ giáo viên nói riêng những nhiệm vụ mới, nặng nề hơn nhưng đầy triển
vọng. Tuy nhiên việc xây dựng đội ngũ giáo viên được tiến hành trong bối
cảnh đất nước đang có nhiều khó khăn trong việc hàn gắn những vết thương
của cuộc chiến tranh kéo dài 30 năm, lại phải đương đầu với các cuộc chiến
tranh ngắn hạn ở biên giới phía Bắc và Tây Nam. Mặt khác nghị quyết về cải
cách giáo dục của Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam năm
1979 cũng đã chỉ ra những nhiệm vụ to lớn của việc xây dựng đội ngũ giáo
viên và tạo ra những thuận lợi mới. Ở miền Bắc, việc đào tạo và xây dựng đội
ngũ giáo viên trong những năm trước vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu về số
lượng. Ở các thành phố, thị xã và vùng đồng bằng và đặc biệt là ở các tỉnh
miền núi tình trạng giáo viên vẫn thiếu một cách nghiêm trọng.
Ngay sau khi giải phóng miền Nam, hàng vạn giáo viên do chế độ cũ để
lại đã bày tỏ nguyện vọng tiếp tục được dạy học. Những giáo viên này được
tham gia các lớp học chính trị, học tập, nghiên cứu về bản chất chế độ mới,
về mục đích và nội dung giáo dục, về chương trình và sách giáo khoa mới.
Yêu cầu đào tạo mới đội ngũ giáo viên là một vấn đề quan trọng bậc nhất của
giáo dục Sư phạm ở miền Nam sau giải phóng. Nhưng hệ thống trường Sư
phạm do chế độ cũ để lại còn mỏng không đáp ứng được nhu cầu phát triển
giáo dục theo quy mô lớn, nhất là đối với giáo viên tiểu học. Vì vậy cần phải
có những giải pháp giải quyết tình trạng thiếu giáo viên trước mắt và đảm bảo
xây dựng đội ngũ cho các kế hoạch phát triển dài hạn. Việc gấp rút củng cố
các trường Sư phạm (ĐHSP Sài Gòn, ĐHSP Huế và Khoa Sư phạm trong Đại
học Cần Thơ) được nhanh chóng triển khai. Đồng thời xây dựng thêm một số
trường Đại học Sư phạm mới (ĐHSP Quy Nhơn, khoa ĐHSP Buôn Mê Thuật,
Khoa Sư phạm ĐH Đà Lạt). Hệ thống các trường Cao đẳng Sư phạm ở miền
Nam đã được mở ra ở hầu hết các tỉnh, ban đầu là các cơ sở CĐSP và sau
một số năm đã nhanh chóng được Chính phủ công nhận là trường CĐSP.
Tiếp nối truyền thống được hình thành trong những năm chống Mĩ cứu
nước (miền Bắc chi viện cho miền Nam), các trường Sư phạm miền Bắc đã
chia sẻ lực lượng giáo viên, cán bộ giảng dạy cho các tỉnh phía Nam, đồng
thời thực hiện chế độ thỉnh giảng, nhất là đối với Đại học Sư phạm. Chỉ sau
hơn nửa năm miền Nam được giải phóng, hầu hết các tỉnh phía Nam đã có
các trường Sư phạm đào tạo giáo viên, hoạt động với nhiều hình thức và góp
phần đáng kể tạo nên bộ mặt mới của giáo dục miền Nam.
Cho đến trước 1986, cả nước có 6 trường Đại học Sư phạm và 40
trường CĐSP trực thuộc Bộ và của địa phương.
Bên cạnh yêu cầu phát triển đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, thì việc
nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên và cán bộ quản lí giáo dục là một
nhiệm vụ quan trọng phải giải quyết. Nghị quyết 14 của Bộ Chính trị về cải
cách giáo dục đã đặt ra những yêu cầu cao về phẩm chất và năng lực sư
phạm của người giáo viên. Ban nghiên cứu cải cách Sư phạm Bộ Giáo dục
được hình thành vào năm 1980 đã tổ chức thống nhất việc nghiên cứu chỉnh
lí chương trình đào tạo giáo viên cấp 1 phổ thông theo hệ 10+2 được ban
hành vào năm 1971. Chương trình được điều chỉnh theo các phương hướng
quán triệt đặc điểm lao động sư phạm, phục vụ việc triển khai cải cách giáo
dục cấp 1 được tiến hành vào năm 1981. Đây là chương trình đào tạo giáo
viên đầu tiên được xây dựng theo quy định khoa học, có tiến hành thí điểm,
được 5 trường Sư phạm thực hiện trước (THSP Hà Nội, Hà Bắc, Hải Hưng,
Thành phố Hồ Chi Minh và Long An). Bên cạnh đó, chương trình hệ Cao
đẳng Sư phạm đào tạo giáo viên phổ thông cơ sở cấp 2 để thay thế chương
trình theo hệ 10+3 được ban hành vào năm 1971 cũng được xây dựng. Đối
với việc đào tạo giáo viên cấp III, thực hiện chuyển hẳn từ niên chế 3 năm
sang 4 - 5 năm. Tiến hành thí điểm hình thức đào tạo giáo viên cấp 3 theo
kiểu tự học có hướng dẫn kết hợp với thực tập nghề nghiệp dài hạn ở trường
phổ thông. Hình thức này được thí điểm tại 6 tỉnh (Hải Phòng, Hải Hưng, Hà
Sơn Bình, Hà Nam Ninh, Thanh Hóa, Quảng Ninh). Do nhiều nguyên nhân
chủ quan và khách quan, hệ này đã không được duy trì nhưng đã để lại nhiều
kinh nghiệm tốt được nghiên cứu áp dụng cho các hệ đào tạo giáo viên khác.
Mô hình đào tạo giáo viên kết hợp giữa hình thức tập trung với hình
thức tại chức vẫn tiếp tục được áp dụng. Mô hình này đã tỏ ra có hiệu quả, và
được vận dụng để đào tạo tiếp tục cho những giáo viên chưa đạt trình độ
chuẩn về đào tạo sư phạm.
Sang đầu những năm 80, chức năng của các trường Sư phạm được
xác định rõ hơn. Ngoài nhiệm vụ đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, trường Sư
phạm còn có nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, nhất là nghiên cứu khoa học
giáo dục, gắn nhà trường với thực tiễn cải cách giáo dục phổ thông.
Do điều kiện thiếu giáo viên, nên một số giáo viên được đưa vào kế
hoạch bồi dưỡng để dạy một số môn kiêm nhiệm như giáo dục công dân, kỹ
thuật nông nghiệp, kĩ thuật công nghiệp. Việc bồi dưỡng dạy thêm môn đã tạo
điều kiện để các trường học có thể thực hiện đầy đủ kế hoạch và chương
trình đào tạo ở phổ thông, nhất là trong điều kiện quy mô của nhiều trường ở
nông thôn còn nhỏ bé.
Việc bồi dưỡng nâng cao trình độ quản lí giáo dục của cán bộ quản lí
giáo dục cấp tỉnh, cấp huyện, các hiệu trưởng phổ thông trung học, phổ thông
cơ sở và tiểu học cũng được quan tâm thực hiện. Trường Cán bộ quản lí giáo
dục Trung ương ở Thành phố Hồ Chí Minh đã kết hợp chặt chẽ với trường
Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, đào tạo lên trình độ chuyên tu đại
học cho không ít cán bộ giáo dục ở các tỉnh phía nam.
Đội ngũ giáo viên trong các trường Sư phạm thông qua các khoá đào
tạo cao học và nghiên cứu sinh trong nước đã nâng tỉ lệ giảng viên có trình độ
cao cho các trường Sư phạm. Việc đào tạo cao học không chỉ giới hạn cho
giáo viên đại học và các trường sư phạm mà còn mở rộng đến giáo dục trung
học, tiểu học và mầm non.
Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn về điều kiện hoạt động và kinh phí,
những công tác nghiên cứu khoa học được quan tâm và đẩy mạnh trong các
trường Sư phạm, nhất là từ năm 1980 trở đi. Các đề tài nghiên cứu của các
trường Sư phạm bao quát nhiều lĩnh vực từ nghiên cứu vè giáo dục phổ
thông, đào tạo bồi dưỡng giáo viên, cho đến nghiên cứu các lĩnh vực về khoa
học nhân văn, khoa học xã hội, khoa học tự nhiên. Các trường Sư phạm, nhất
là ĐHSP, đã tham gia và chủ trì nhiều đề tài nghiên cứu của các địa phương,
phối hợp với nhiều ngành khác như công an, quân đội, các viện… trong
nghiên cứu.
Đến năm 1986, trước khi bước vào thời kì đổi mới, chúng ta đã đạt
được một số thành tựu quan trọng trong xây dựng và phát triển đội ngũ giáo
viên. Số lượng giáo viên các cấp học, các ngành học tăng lên đáng kể. Số
giáo viên cấp 2 đã lên tới 17 vạn vào năm 1986, số giáo viên mầm non gần
20 vạn người, số giáo viên tiểu học 24 vạn người, số giáo viên dạy nghề 7000
người, số cán bộ giảng dạy đại học và cao đẳng 19. 000 người: Tình hình
căng thẳng về số lượng giáo viên đã giảm bớt, trừ đối với vùng khó khăn,
chậm phát triển về giáo dục (Đồng bằng sông Cửu Long, miền núi). Tỷ lệ giáo
viên đạt trình độ chuẩn về đào tạo được nâng lên một bước: giáo viên tiểu
học đạt gần 30%; giáo viên cấp 2 trên 50%; giáo viên cấp 3 gần 80%; giáo
viên mầm non gần 15%.
Tuy nhiên, trong bối cảnh đời sống gặp nhiều khó khăn, nhiều giáo viên
đã không thể bảo đảm mức sống với đồng lương quá thấp. Tình hình này
buộc giáo viên phải làm thêm các công việc khác ngoài việc dạy học ở
trường, do đó họ đã không thể toàn tâm toàn ý để làm tròn nhiệm vụ của
mình, nảy sinh một số hiện tượng tiêu cực và bỏ nghề trong đội ngũ giáo viên
đương nhiệm thời kì này.
CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu 1. Ý nghĩa lịch sử của Chiến thắng mùa xuân 1975 đối với việc xây
đựng nền giáo dục của nước Việt Nam thống nhất?
Câu 2. Phân tích lí do và các mục tiêu cơ bản của cuộc cải cách giáo
dục lần thứ ba.
Câu 3. Phân tích tình hình giáo dục Việt Nam (giáo dục phổ thông, giáo
dục đại học và giáo dục Sư phạm) trong thời kì đầu xây dựng chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi cả nước (1975 - 1986).
Chương 8. GIÁO DỤC VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI (từ 1986 đến nay)
1. Những chủ trương lớn của Đảng về đổi mới giáo dục- Tháng 12/1986 Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã mở đầu
công cuộc đổi mới ở nước ta với sự chuyển đổi nền kinh tế đất nước từ cơ
chế bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng XHCN, có sự quản lí
của Nhà nước.
- Tháng 6/1991, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 7 của Đảng Cộng
sản Việt Nam đã đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu cho 5
năm (1991 - 1995) và thông qua cương lĩnh về thời kì quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta, thông qua chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội
đến năm 2000.
Trên cơ sở đánh chung thực trạng giáo dục từ sau Đại hội VI đến nay,
Đại hội VII đã đề ra mục tiêu giáo dục đào tạo như sau: "Mục tiêu giáo dục
đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình
thành đội ngũ lao động có tri thức và có tay nghề, có đạo đức cách mạng, tinh
thần yêu nước, yêu CNXH. Nhà trường đào tạo thế hệ trẻ theo hướng toàn
diện và có năng lực chuyên môn sâu, có ý thức và khả năng tự tạo việc làm
trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần".
Nhiệm vụ của giáo dục 5 năm tới (1991 - 1995) là: "Tiếp tục đổi mới, ổn
định phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Coi trọng chất
lượng giáo dục chính trị, đạo đức cho học sinh và sinh viên; hiện đại hoá một
bước nội dung, phương pháp giáo dục; dân chủ hoá nhà trường và quản lí
giáo dục; đa dạng hoá loại hình đào tạo và loại hình trường lớp, từng bước
hình thành những trường bán công, dân lập, tư thục (dạy nghề), phát triển
loại hình vừa học vừa làm. Mở rộng đào tạo nghề, bồi dưỡng nhiều người giỏi
về khoa học, công nghệ, kinh doanh, về quản lí kinh tế, xã hội và nhiều công
nhân lành nghề"
Về giáo dục phổ thông: "Tập trung thực hiện chương trình phổ cập giáo
dục cấp 1 và chống mù chữ, phát triển cấp 2, cấp 3 phù hợp với yêu cầu của
nền kinh tế. Củng cố và phát triển trường phổ thông trẻ em có tật... Tăng
cường đầu tư cho giáo đục ở miền núi và vừng dân tộc thiểu số, mở rộng các
trường nội trú, quy hoạch đào tạo cán bộ và tri thức người dân tộc".
- Tháng 1/1993 Hội nghị lần thứ 4 của Ban Chấp hành Trung ương
(khoá 7) ra Nghị quyết về "Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục đào tạo". Đây
là Nghị quyết chuyên đề đầu tiên của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về
giáo dục và đào tạo. Nghị quyết Trung ương 4 đã nêu lên 4 quan điểm chỉ
đạo sự phát triển giáo dục đào tạo là:
+ Giáo dục đào tạo cùng với khoa học và công nghệ được xem là quốc
sách hàng đầu, phải coi đầu tư cho giáo dục và đào tạo là một trong những
hướng chính của đầu tư phát triển; huy động toàn xã hội góp sức xây dựng
giáo dục.
+ Giáo dục phải nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, hình thành những con người có chất lượng mới, những con người
lao động tự chủ, năng động, sáng tạo. Phải mở rộng quy mô, đồng thời nâng
cao chất lượng, hiệu quả giáo dục.
+ Giáo dục phải gắn chặt với yêu cầu phát triển đất nước, phù hợp với
xu thế tiến bộ của thời đại, phải được tổ chức để mọi người đều được học và
học thường xuyên suốt đời.
+ Đa dạng hoá hình thức giáo dục đào tạo, đảm bảo công bằng xã hội
trong giáo dục; người đi học nói chung phải đóng học phí, người sử đụng lao
động qua đào tạo phải đóng góp chi phí cho đào tạo; Nhà nước có chính sách
bảo đảm cho người nghèo và các đối tượng chính sách đều được đi học.
- Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII
(1997) đã phân tích sâu sắc thực trạng giáo dục và đào tạo, trên cơ sở đó đề
ra những định hướng chiến lược phát triển giáo dục đào tạo trong thời kì công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Những tư tưởng chỉ đạo phát triển giáo
dục - đào tạo là:
+ "Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng những
con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc; công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; giữ gìn và phát huy các giá trị
văn hóa của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phát
huy tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và
phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ
hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kĩ năng thực hành giỏi; có tác phong công
nghiệp, có tính tổ chức và kỉ luật; có sức khỏe.
+ Giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong nội dung, phương pháp
giáo dục - đào tạo, trong các chính sách, nhất là chính sách công bằng xã hội.
+ Thực sự coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu.
+ Giáo dục - đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của
toàn dân. Mọi người đi học, học thường xuyên, học suốt đời
+ Phát triển giáo dục -đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội,
những tiến bộ khoa học - công nghệ và củng cố quốc phòng, an ninh. Coi
trọng cả ba mặt; mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả.
Thực hiện giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nghiên cứu khoa học lí
luận gắn với thực tế, học đi đôi với hành, nhà trường gắn liền với gia đình và
xã hội.
+ Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục - đào tạo. Tạo điều kiện
để ai cũng được học hành. Người nghèo được Nhà nước và cộng đồng giúp
đỡ để học tập. Bảo đảm điều kiện cho những học sinh giỏi phát triển tài năng.
+ Giữ vai trò nòng cốt của các trường công lập đi đôi với đa dạng hóa
các loại hình giáo dục - đào tạo. Phát triển các trường bán công, dân lập ở
những nơi có điều kiện, từng bước mở các trường tư thục, ở một số trưởng
tư thục ở một số bậc học như: mầm non, phổ thông trung học, trung học
chuyên nghiệp, dạy nghề, đại học. Mở rộng các hình thức đào tạo không tập
trung, đào tạo từ xa; từng bước hiện đại hóa hình thức giáo dục.
Nghị quyết Trung ương II đã đề ra mục tiêu phát triển giáo dục đào tạo
đến năm 2000 như sau:
Mục tiêu chủ yếu là thực hiện giáo dục toàn diện: đức dục, trí dục, thể
dục, mĩ dục ở tất cả các bậc học. Hết sức coi trọng giáo dục chính trị, tư
tưởng, nhân cách, khả năng tư duy sáng tạo và năng lực thực hành.
Cụ thể là:
+ Phát triển bậc học mầm non phù hợp với điều kiện và yêu cầu của
từng nơi. Bảo đảm hầu hết trẻ 5 tuổi được học chương trình mẫu giáo lớn,
chuẩn bị vào lớp 1.
+ Phổ cập giáo dục tiểu học trong cả nước, phần lớn học sinh tiểu học
được học đủ 9 môn theo chương trình quy định. Phổ cập trung học cơ sở ở
các thành phố, đô thị, các vùng kinh tế trọng điểm và những nơi có điều kiện.
Tính chung cả nước có khoảng 60% trẻ em độ tuổi 11 - 15 học phổ
thông trung học cơ sở. Mở rộng và nâng cao chất lượng dạy kỹ thuật tổng
hợp - hướng nghiệp, ngoại ngữ, tin học ở trường trung học.
Thanh toán nạn mù chữ chợ những người trong độ tuổi 15 - 35, thu hẹp
diện mù chữ ở các độ tuổi khác, đặc biệt chú ý vùng cao, vùng sâu, vùng xa,
vùng khó khăn, để tất cả các tỉnh đều đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và
phổ cập tiểu học trước khi bước sang thế kỉ XXI.
+ Tăng quy mô học nghề bằng mọi hình thức để đạt 22 - 25% đội ngũ
lao động được qua đào tạo vào năm 2000. Kế hoạch đào tạo nghề phải theo
sát chương trình kinh tế - xã hội của từng vùng, phục vụ cho sự chuyển đổi
cơ cấu lao động, cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông
thôn. Tăng cường đầu tư, củng cố và phát triển các trường dạy nghề, xây
dựng một số trường trọng điểm. Đào tạo đủ công nhân lành nghề cho các khu
công nghiệp, khu chế xuất, có tính đến nhu cầu xuất khẩu lao động.
+ Nâng quy mô giáo dục đại học, cao đẳng lên 1, 5 lần so với năm 1995
với cơ cấu đào tạo hợp lí, theo sát nhu cầu của sự phát triển. Tiếp tục sắp
xếp lại các trường đại học. Xây dựng một số trường đại học trọng điểm. Xây
dựng một số trường cao đẳng cộng đồng ở các địa phương để đào tạo nhân
lực tại chỗ.
+ Mở rộng các hình thức học tập thường xuyên, đặc biệt là hình thức
học từ xa. Tăng cường đào tạo và bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lí
các cấp các ngành.
Đối với miền núi, vùng sâu, vùng khó khăn, xóa "điểm trắng" về giáo
dục ở ấp, bản. Mở thêm các trường dân tộc nội trú và các trường bán trú ở
cụm xã, các huyện, tạo nguồn cho các trường chuyên nghiệp và đại học để
đào tạo cán bộ cho các dân tộc, trước hết là giáo viên, cán bộ y tế, cán bộ
lãnh đạo và quản lí.
Nghị quyết 2 đã đề ra những giải pháp chủ yếu để thực hiện mục tiêu
trên, bao gồm:
+ Giải pháp tăng cường các nguồn nhân lực cho giáo dục - đào tạo.
Ngân sách Nhà nước giữ vai trò chủ yếu trong tổng nguồn lực cho giáo
dục - đào tạo và phải được sử dụng tập trung, ưu tiên cho việc đào tạo, bồi
dưỡng giáo viên, đào tạo cán bộ cho một số ngành trọng điểm, bồi dưỡng
nhân tài, trợ giúp cho giáo dục ở những vùng khó khăn và diện chính sách.
Tăng dần tỷ trọng chi ngân sách cho giáo dục năm 2000.
Tích cực huy động các nguồn lực ngoài ngân sách như học phí....
Khuyến khích các đoàn thể, các tổ chức kinh tế, xã hội xây dựng quỹ khuyến
học. Lập quỹ giáo dục quốc gia.
Cho phép các trường dạy nghề, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng,
đại học và các viện nghiên cứu lập cơ sở sản xuất và dịch vụ khoa học đúng
với ngành nghề đào tạo.
Xây dựng và công bố công khai quy định về học phí và các khoản đóng
góp theo nguyên tắc không thu bình quân, miễn giảm cho người nghèo và
người thuộc diện chính sách. Không thu học phí ở bậc tiểu học trong các
trường công lập.
Có chính sách ưu tiên, ưu đãi đối với việc xuất bản sách giáo khoa, tài
liệu dạy học, sản xuất và cung ứng máy móc, đồ dùng dạy học, nhập khẩu
sách, báo, tài liệu, thiết bị dạy học mà trong nước chưa sản xuất được để
phục vụ cho việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học của nhà trường.
Các ngân hàng lập quỹ tín dụng đào tạo cho con em các gia đình có thu
nhập thấp, trước hết ở nông nghiệp và các vùng khó khăn, cho vay với lãi
suất ưu đãi, để có điều kiện học tập ở các trường đại học, cao đẳng, trung
học chuyên nghiệp và dạy nghề.
Nhà nước quy định cơ chế cho các doanh nghiệp đầu tư vào công tác
đào tạo và đào tại lại. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các cá nhân,
các tổ chức, các tổ chức trong và ngoài nước giúp đỡ phát triển giáo dục -
đào tạo Việt Nam
Dành ngân sách Nhà nước thỏa đáng để cử những người giỏi và có
phẩm chất tốt đi đào tạo và bồi dưỡng về những ngành nghề và lĩnh vực then
chốt ở những nước có nền khoa học, công nghệ phát triển.
Khuyến khích để học nước ngoài bằng con đường tự túc, hướng vào
những ngành mà đất nước đang cần, theo quy định của Nhà nước.
Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam ở nước
ngoài có khả năng về nước tham gia giảng dạy và đào tạo, mở trường học,
hoặc hợp tác với các cơ sờ đào tạo trong nước; các tổ chức và cá nhân nước
ngoài có thể vào Việt Nam mở các trung tâm đào tạo quốc tế, tham gia giảng
dạy, nghiên cứu khoa học, trao đổi kinh nghiệm, giúp đỡ tài chính theo quy
định của Nhà nước.
Sử dụng một phần vốn vay và viện trợ của nước ngoài để xây dựng cơ
sở vật chất cho giáo dục - đào tạo.
Tiếp tục phát triển các trường dân lập ở tất cả các bậc học.
Từng bước phát triển vững chắc các trường lớp tư thục ở giáo dục
mầm non, phổ thông trung học, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề và đại
học. Nhà nước hỗ trợ, hướng dẫn và quản lí thống nhất chương trình, nội
dung, chất lượng giảng dạy và học tập ở các trường dân lập và tư thục.
Khung học phí của các trường dân lập, tư thục do Nhà nước quy định.
+ Xây dựng đội ngũ giáo viên, tạo động lực cho người dạy, người học
Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng của giáo dục và được xã hội
tôn vinh. Củng cố và đầu tư nâng cấp các trường sư phạm. Xây dựng một số
trường đại học Sư phạm trọng điểm để vừa đào tạo giáo viên có chất lượng
cao vừa nghiên cứu khoa học giáo dục đạt trình độ tiên tiến.
Không thu học phí và thực hiện chế độ học bổng ưu đãi đối với học
sinh, sinh viên ngành Sư phạm. Có chính sách thu hút học sinh tốt khá, giỏi
vào ngành Sư phạm.
Đào tạo giáo viên gắn với địa chỉ và có chính sách sử dụng hợp lí để
khắc phục nhanh chóng tình trạng thiếu giáo viên hiện nay.
Thực hiện chương trình bồi dưỡng thường xuyên, bồi dưỡng chuẩn
hóa, nâng cao phẩm chất và năng lực cho đội ngũ giáo viên để đến năm 2000
có ít nhất 50% giáo viên phổ thông và 30% giáo viên đại học đạt tiêu chuẩn
quy định.
Lương giáo viên được xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương
hành chính sự nghiệp và có kèm theo chế độ phụ cấp tùy theo tính chất công
việc, theo vùng do Chính phủ quy định.
Có chính sách sử dụng và đãi ngộ đúng giá trị nguồn nhân lực đào tạo.
Trọng dụng người tài. Khuyến khích mọi người, nhất là thanh niên, say mê
học tập và tự tu dưỡng vì tiền đồ của bản thân và tương lai đất nước.
+ Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục đào tạo và tăng
cường cơ sở vật chất các trường học
Rà soát lại và đổi mới một bước sách giáo khoa, loại bỏ những nội
dung không thiết thực, bổ sung những nội dung cần thiết theo hướng bảo
đảm kiến thức cơ bản, cập nhật với tiến bộ của khoa học, công nghệ, tăng nội
dung khoa học, công nghệ ứng dụng, tăng cường giáo dục kĩ thuật tổng hợp
và năng lực thực hành ở bậc học phổ thông, kĩ năng hành nghề ở khối đào
tạo. Trên cơ sở một bước đổi mới và cải tiến ấy, bảo đảm sự ổn định tương
đối về nội dung, chương trình, sách giáo khoa ở các cấp học cho đến năm
2000.
Tăng cường giáo dục công dân, giáo dục tư tưởng - đạo đức, lòng yêu
nước, chủ nghĩa Mác - Lênin, đưa việc giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh vào
nhà trường phù hợp với lứa tuổi và với từng bậc học.
Tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động xã hội, văn hóa - thể thao
phù hợp với lứa tuổi và với yêu cầu giáo dục toàn diện.
Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối
truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học.
Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và hiện đại vào quá trình dạy -
học, bảo đảm điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, nhất
là sinh viên đại học. Phát triển mạnh phong trào tự học, tự đào tạo thường
xuyên và rộng khắp trong toàn dân, nhất là thanh niên.
Chấm dứt tình trạng lớp học ba ca. Bảo đảm diện tích đất đai sân chơi,
bãi tập cho các trường theo đúng quy định của Nhà Nước. Ban hành chuẩn
quốc gia về trường học. Tất cả các trường phổ thông đều phải có tủ sách, thư
viện và các trang bị tối thiểu để thực hiện các thí nghiệm trong chương trình.
Sớm chấm dứt tình trạng "dạy chạy".
Thay thế, bổ sung cơ sở vật chất và thiết bị cho các trường dạy nghề,
trung học chuyên nghiệp và đại học. Xây dựng thêm, quản lí tốt các kí túc xá
của học sinh, sinh viên. Xây dựng một số phòng thí nghiệm trọng điểm và
trạm sản xuất thử ở trình độ hiện đại phục vụ công tác đào tạo, nghiên cứu
khoa học và chuyển giao công nghệ, tham gia sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
Bổ sung thường xuyên sách và tạp chí chuyên ngành để các trường đại học
có điều kiện tiếp cận những thành tựu mới của khoa học và công nghệ.
Tổ chức các hội đồng bộ môn gồm các nhà giáo dục và khoa học đầu
ngành có uy tín nhằm nghiên cứu, biên soạn, thử nghiệm nội dung, chương
trình, sách giáo khoa, tài liệu, phương pháp giảng dạy, các danh mục thiết bị
đồ dùng dạy học các môn học, các mặt hoạt động trong nhà trường cửa tất cả
các bậc học sẽ áp dụng sau năm 2000.
+ Đổi mới công tác quản lí giáo dục
Tăng cường công tác dự báo và kế hoạch hóa sự phát triển giáo dục.
Đưa giáo dục vào quy hoạch tổng thể phát triền kinh tế - xã hội của cả nước
và từng địa phương. Có chính sách điều tiết quy mô và cơ cấu đào tạo cho
phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, khắc phục tình trạng mất cân
đối hiện nay. Gắn đào tạo với sử dụng. Đối với miền núi và các vừng khó
khăn, các lĩnh vực và ngành nghề, cần tiếp tục thực hiện chính sách cử tuyển
để đào tạo theo địa chỉ. Xây dựng quan hệ chặt chẽ giữa cơ quan quản lí nhà
nước và giáo dục - đào tạo với các cơ quan quản lí nhân lực và việc làm.
Khuyến khích thành lập các tổ chức thông tin tư vấn, hướng nghiệp cho học
sinh chốn ngành nghề và tiến việc làm sau khi ít nghiệp. Ban hành chế độ
nghĩa vụ công tác sau khi tốt nghiệp các trường.
Quy định các chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lí giáo dục -
đào tạo theo hướng tập trung làm tốt chức năng quản lí Nhà nước, xây dựng,
hoàn thiện các chính sách, cơ chế về giáo dục - đào tạo, kiểm soát chặt chẽ
việc thực hiện chương trình và chất lượng. Sớm ban hành Luật Giáo dục và
các văn bản dưới luật (điều lệ các loại trường, trách nhiệm, quyền hạn của
các cấp quản lí giáo dục - đào tạo, quy định hệ thống chuẩn kiến thức...).
Nhanh chóng cải tiến các hình thức thi và đánh giá. Sớm có kết luận về
một số chủ trương như phân ban ở bậc phổ thông trung học, đào tạo 2 giai
đoạn ở bậc đại học... Trong lúc chưa có kết luận, không mở rộng các chủ
trương đó. Không tổ chức lớp chọn ở các cấp học. Không tổ chức trường
chuyên ở tiểu học và trung học cơ sở trừ các trường năng khiếu về nghệ
thuật và thể thao.
Xử lí nghiêm các hiện tượng tiêu cực trong Ngành giáo dục. Trong năm
1997 tập trung giải quyết dứt điểm tình trạng tiêu cực trong thi, tuyển sinh,
bảo vệ luận án, cấp bằng. Có biện pháp sớm chấm dứt tình trạng thu tiền của
học sinh không chính thức, không công khai và tình trạng dạy thêm tràn lan.
Đổi cơ chế quản lí, bồi dưỡng cán bộ, sắp xếp, chấn chỉnh và nâng cao
năng lực của bộ máy quản lí giáo dục - đào tạo. Hoàn thiện hệ thống thanh tra
giáo dục, tăng cường cán bộ thanh tra tập trung vào thanh tra chuyên môn.
Tiếp tục sắp xếp lại mạng lưới các trường đại học, cao đẳng và các
viện nghiên cứu để gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học, tận dụng tối ưu
năng lực của đội ngũ và sở vật chất hiện có. Rút kinh nghiệm việc tổ chức các
đại học quốc gia và đại học khu vực, làm tốt việc xây dựng một số trường đại
học quốc gia lớn, một số trung tâm đào tạo kĩ thuật có chất lượng và uy tín
cao. Các trường đại học phải là các trung tâm nghiên cứu khoa học, công
nghệ, chuyển giao và ứng dụng công nghệ vào sản xuất đời sống. Hết sức
quan tâm quản lí tốt nội dung và chất lượng đào tạo của các đại học mở, đại
học dân lập vả các loại hình không chính quy.
Thành lập Hội đồng quốc gia giáo dục với nhiệm vụ cấp bách trước mắt
là giúp Chính phủ tổng kết công cuộc đổi mới về giáo dục và soạn thảo Chiến
lược giáo dục - đào tạo.
Phân cấp cho ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
quản lí toàn diện giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, trung học chuyên
nghiệp và dạy nghề, có thể cả một số trường cao đẳng. Phát triển các trường
lớp đào tạo cán bộ và công nhân chuyên ngành ở các tổng công ty, các
doanh nghiệp. Tổ chức thí điểm mô hình gắn đào tạo với nghiên cứu triển
khai trong một số doanh nghiệp lớn. Định rõ trách nhiệm, tăng thêm quyền
chủ động cho các cơ sờ đào tạo, nhất là các trường đại học.
Tiếp tục đổi mới và mở rộng quan hệ trao đổi và hợp tác giáo dục - đào
tạo với nước ngoài.
2. Tình hình giáo dục trong những năm đầu thời kì đổi mới2.1. Giáo dục phổ thông
- Vào những năm đầu khi tiến hành công cuộc đồi mới, Ngành giáo dục
nước ta nói chung vẫn ở trong tình trạng yếu kém về nhiều mặt. Biểu hiện ở
chỗ:
Quy mô giáo dục phổ thông bị giảm sút, nhất là ở cấp 2, cấp 3, tỉ lệ học
sinh lưu ban, bỏ học cao. Năm học 1988 - 1989 tỉ lệ lưu ban: Cấp I: 11,07%;
cấp II: 6,74%; Cấp III: 4,57%. Tỉ lệ bỏ học: Cấp I: 12,29%; Cấp II: 23,45%;
Cấp III: 21,55%. Chất lượng giáo dục, trừ những rường chuyên lớp chọn,
trường tiên tiến, trọng điểm, các nơi khác còn yếu kém. Sự khác biệt về chất
lượng giữa học sinh rường chuyên lớp chọn với các trường bình thường,
giữa nông thôn và thành thị, miền núi và miền xuôi khá lớn. Đời sống cửa
giáo viên hết sức khó khăn. Hiện tượng giáo viên phổ thông bỏ nghề ngày
càng tăng (nhất là giáo viên cấp I). Sự phân hoá, phân cực trong học sinh
ngày càng trầm trọng. Việc đánh giá học sinh chủ yếu căn cứ vào trình độ văn
hoá và chế độ thi cử, học sinh lao vào học các lớp phụ đạo, luyện thi rất đông
ở các thành phố. Do đó việc học tư, dạy tư, luyện thi phát triển đến mức
không kiểm soát được.
- Sau một năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, từ ngày 27 đến
ngày 30/6/1994, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức Hội nghị Giám đốc các
Sở Giáo dục - Đào tạo các tỉnh thành trong cả nước. Hội nghị đã đánh giá
tình hình trong một năm thực hiện Nghị quyết Trung ương và nhận định khái
quát là: So với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nền giáo dục của nước ta
vẫn còn chậm phát triển và ở trong tình trạng yếu kém. Song đã có những
chuyển biến tích cực và rõ nét ở những mặt cơ bản trong tất cả các ngành
học, bậc học, đặc biệt là một số nhân tố mới sau:
+ Xã hội và các ngành các cấp đã nhận rõ hơn tầm quan trọng của sự
nghiệp giáo dục, nhờ đó mà nhận được sự quan tâm nhiều hơn của xã hội
đối với giáo dục.
+ Quy mô giáo dục phổ thông bắt đầu phát triển. Tỉ lệ học sinh bỏ học
giảm đi đáng kể ở tất cả các cấp học là dấu hiệu chấm dứt sự suy thoái và
chuyển sang trạng thái phát triển mới. (Năm 1991 - 1992 tỉ lệ bỏ học ở trung
học cơ sở là 16,1%, trung học phổ thông 14,4%. Năm 1993 - 1994 tỉ lệ bỏ học
ở trung học cơ sở giảm xuống 2,52%, trung học phổ thông giảm còn 4, 41%.).
+ Cơ cấu mới của hệ thống giáo dục quốc dân được thể chế hoá. Cụ
thể là:
Các trường tiểu học tách ra khỏi phổ thông cơ sở, tạo thành bậc tiểu
học để thực hiện phổ cập tiểu học có chất lượng.
Mở rộng thí điểm trung học chuyên ban ở một số tỉnh và theo hướng
mở rộng dần.
Hệ thống trường, lớp dạy nghề, nhất là dạy nghề ngắn hạn phát triển
mạnh.
Các hình thức giáo dục bổ túc và tại chức đã được đa dạng hoá thành
các hình thức giáo dục thường xuyên.
Các trường phổ thông dân tội nội trú được cải cách và phát triển mạnh.
Bộ phận giáo dục chất lượng cao đang được tiếp tục chuẩn bị hình
thành.
+ Cuộc vận động xã hội hoá giáo dục được thực hiện rộng rãi và mạnh
mẽ ở khắp các địa phương với những hình thức đa dạng, thích hợp, đặc biệt
là việc tổ chức "Đại hội giáo dục cấp cơ sở" đã huy động được nhiều tiềm lực
xã hội đóng góp cho giáo dục.
Thực hiện chủ trương xã hội hóa giáo dục, thu hút sự tham gia của xã
hội vào sự nghiệp giáo dục, nhiều loại hình trường bán công, dân lập trong
bậc phổ thông trung học được mở ra. Đây là một chủ trương đúng đắn, vừa
đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng gia tăng của con em nhân dân ở mọi
tầng lớp, vừa huy động được nguồn lực tổng hợp của cộng đồng và toàn xã
hội, đồng thời có tác dụng kích thích, khuyến khích nâng cao chất lượng giáo
dục và đào tạo của các trường công lập. Chủ trương đã được các tỉnh, thành
triển khai nhanh chóng. Quy mô của các trường bán công, dân lập ngày càng
lớn. Đến năm học 2000 - 2001 trường trung học phổ thông ngoài công lập
chiếm 27, 7% tổng số trường trung học phổ thông trong cả nước.
- Vấn đề bồi dưỡng năng khiếu ở bậc phổ thông tiếp tục được chú
trọng thực hiện. Trong những năm đầu thực hiện đổi mới, các địa phương đã
tiếp tục hình thành và củng cố mạng lưới trường chuyên, lớp chọn. Hầu như
tỉnh nào cũng có trường chuyên của tỉnh, huyện nào cũng có trường chuyên
hoặc lớp chuyên. Một số trường đại học như Đại học Quốc gia Hà Nội, TP Hồ
Chí Minh, Đại học Huế... đã lập trường hoặc lớp chuyên. Hình thành hệ thống
trường chuyên, lớp chọn có ý nghiã trực tiếp nâng cao chất lượng nguồn
tuyển sinh của các trường đại học.
2.2. Giáo dục đại học
- Giữa những năm 80, những khó khăn và sự khủng hoảng về kinh tế -
xã hội đã tác động trực tiếp vào các trường đại học làm trầm trọng thêm
những yếu kém của nhà trường và toàn hệ thống các trường đại học. Quy mô
đào tạo của các trường giảm liên tục và thu hẹp lại; chất lượng đào tạo thấp
và giảm sút (có những trường không tuyển sinh); đời sống của cán bộ và sinh
viên rất khó khăn; cơ sở vật chất kĩ thuật của các trường nghèo nàn và lạc
hậu; công tác quản lí trì trệ; giáo dục đại học đứng trước mâu thuẫn lớn giữa
một bên là yêu cầu cao về mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng với một bên
là khả năng rất hạn chế của Nhà nước về bảo đảm các điều kiện để đáp ứng
những yêu cầu trên. Nhiều trường đã phải cố gắng để không bị tan rã trong
hoàn cảnh khó khăn lúc đó.
Đường lối đổi mới toàn diện nền kinh tế - xã hội của Đại hội Đảng lần
thứ VI đã làm xuất hiện những tiên đề đổi mới giáo dục đại học Việt Nam. Bốn
tiên đề đó là:
+ Giáo dục đại học không chỉ đáp những nhu cầu của biên chế Nhà
nước và kinh tế quốc doanh mà còn phải đáp ứng nhu cầu của các thành
phần kinh tế khác và đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân.
+ Giáo dục đại học không chỉ dựa vào ngân sách Nhà nước mà còn
dựa vào các nguồn lực kinh phí khác có thể huy động được. Các nguồn lực
đó có thể là: Sự đóng góp của các cơ sở sản xuất kinh doanh, các tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội, sự đóng góp của người học (học phí), các nguồn vốn
do trường làm ra từ nghiên cứu khoa học, lao động sản xuất, hoạt động dịch
vụ và nguồn vốn do quan hệ quốc tế mang lại.
+ Giáo dục đại học không chỉ theo kế hoạch tập trung như một bộ phận
của kế hoạch Nhà nước mà còn phải làm theo những đơn đặt hàng, những
xu thế dự báo, những yêu cầu học tập từ nhiều phía trong xã hội.
+ Giáo dục đại học không cần phải gắn chặt với việc phân công công
tác cho người tốt nghiệp theo cơ chế hành chính bao cấp. Người tốt nghiệp
có trách nhiệm tự lo việc làm, tự tạo ra việc làm trong mọi thành phần kinh tế.
Những nơi sử dụng lao động được đào tạo sẽ tuyển dụng theo cơ chế chọn
lọc.
- Thực hiện đường lối đổi mới, Ngành giáo dục đại học đã đề ra ba
chương trình hành động 1987 - 1990 nhằm tạo bước chuyển khởi đầu cho sự
nghiệp đổi mới toàn diện nền giáo dục đại học Việt Nam. Ba chương trình đó
là:
+ Chương trình 1: chương trình đào tạo, thực hiện những đổi mới ban
đầu về cơ cấu hệ thống, mục tiêu, nội dung, phương pháp và quy trình đào
tạo, tạo điều kiện để mở rộng quy mô, ổn định và nâng cao chất lượng, hiệu
quả đào tạo, phù hợp với những yêu cầu kinh tế - xã hội.
+ Chương trình 2: đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, lao động sản xuất,
cải thiện điều kiện vật chất - kĩ thuật của đào tạo nhằm mở rộng liên kết giáo
giữa giáo dục - đào tạo với khoa học - kĩ thuật và sản xuất - kinh doanh; phát
huy tính tích cực của nhà trường, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật - công
nghệ vào thực tiễn, để tạo vốn tự có cho trường, cải thiện những điều kiện
của đào tạo và cải thiện một phần đời sống của giáo viên và sinh viên.
+ Chương trình 3: đổi mới tổ chức và quản lí, xây dựng đội ngũ cán bộ
giảng dạy, cán bộ quản lí, thực hiện dân chủ hoá nhà trường.
Ba chương trình hành động trên được thực hiện trong 3 năm (1987 -
1988, 1988 - 1989, 1989 - 1990), và được cụ thể hoá bằng những cải cách,
đổi mới sau:
+ Cải cách, đổi mới công tác tuyển sinh. Bộ Đại học, Trung học chuyên
nghiệp đã giao quyền chủ động tuyển sinh cho các trường đại học trong bốn
khâu: ra đề thi, tổ chức thi, chấm thi và xét tuyển; một thí sinh có điều kiện dự
thi có thể thi vào nhiều trường đại học khác nhau (trước đây chỉ dự thi vào
một trường), khi công bố kết quả được tự do chọn trường. Chủ trương này
được xã hội và phụ huynh học sinh rất hoan nghênh.
+ Thực hiện chính sách mới về đóng học phí. Chủ trương này được
thực hiện lần đầu tiên vào năm 1987-1988 với hệ đào tạo không chính quy
(tuyển sinh ngoài chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao). Năm học 1988 - 1989 có
30 trường thu học phí của hệ mở rộng.
+ Tổ chức lại quy trình đào tạo, thực hiện quy trình đào tạo hai giai
đoạn đáp ứng với mục tiêu đào tạo theo diện rộng (mở rộng kiến thức cơ bản
của bậc đại học). Quy trình đào tạo hai giai đoạn với chế độ học phí mềm dẻo
theo nguyên tắc người học tích luỹ kiến thức, tăng tính chủ động và phát huy
sở trường cá nhân. Hệ thống tài liệu giảng dạy cũng được biên soạn lại theo
quy trình đào tạo hai giai đoạn.
+ Đẩy mạnh cuộc vận động dân chủ, lựa chọn cán bộ quản lí các
trường đại học. Việc lựa chọn hiệu trưởng được tiến hành theo ba bước: bầu
cử, thăm dò ý kiến đông đảo cán bộ giảng dạy rồi bổ nhiệm, trực tiếp bổ
nhiệm. Trong 3 năm 1987 - 1990 đã có 26 trường đại học tiến hành bầu hiệu
trưởng.
+ Chức danh cán bộ giảng dạy các trường đại học được sắp xếp lại
theo các chức đanh: giáo sư, phó giáo sư, giảng viên chính, giảng viên, trợ
giảng.
+ Công tác nghiên cứu khoa học và lao động sản xuất đã có bước biến
chuyển, có hơn 80 trung tâm nghiên cứu khoa học - lao động sản xuất thuộc
các trường đại học, cao đẳng với nhiều chương trình và đề tài nghiên cứu
khoa học, dự án sản xuất và hàng ngàn hợp đồng khoa học công nghệ đem
lại hiệu quả cao phục vụ sản xuất, đời sống xã hội và tạo ra nguồn vốn tự có
cho trường. Nguồn vốn tự có của các trường đã đảm bảo từ 30 - 50% kinh
phí hoạt động của nhà trường. Đây là đóng góp đáng kể trong khi đầu tư
ngân sách của Nhà nước còn hạn hẹp.
- Từ đầu những năm 90 của thế kỉ XX, giáo dục đại học Việt Nam đã có
những bước chuyển biến rất căn bản.
Tháng 4/1990 Chính phủ quyết định thành lập Bộ Giáo dục - Đào tạo để
quản lí thống nhất hệ giáo dục từ mầm non đến giáo dục đại học và sau đại
học. Chính phủ ban hành Nghị định 90/CP về cơ cấu mới của hệ thống giáo
dục quốc dân và hệ thống văn bằng, chứng chỉ. Bậc giáo dục đại học có 4
cấp: Cao đẳng, đại học, cao học và nghiên cứu sinh.
Trong kế hoạch 5 năm (1991 - 1994) Ngành đại học thực hiện 5
chương trình mục tiêu:
+ Chương trình 1: cung cấp mục tiêu, nội dung và phương pháp đào
tạo.
+ Chương trình 2: đẩy mạnh nghiên cứu khoa học - lao động sản xuất
gắn nhà trường với xã hội.
+ Chương trình 3: đổi mới công tác tổ chức và quản lí giáo dục đại học.
+ Chương trình 4: xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ giảng dạy và
cán bộ quản lí giáo dục đại học.
+ Chương trình 5: đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ cho một số
ngành mũi nhọn.
Cả 5 chương trình nhằm mục đích nâng cao chất lượng đào tạo đại học
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá và hiện đại hoá, trên cơ sở đảm bảo chất
lượng, quy mô đào tạo tiếp tục được mở rộng.
- Mạng lưới các trường đại học, cao đẳng công lập được sắp xếp lại với
việc hình thành hai đại học quốc gia và ba đại học khu vực (đại học đa
ngành).
+ Các trường đại học bao gồm: đại học đa ngành, đại học chuyên
ngành và đại học cộng đồng.
+ Chính phủ quyết định cho thành lập một số trường dân lập: ba trường
đại học dân lập ở Hà Nội (Thăng Long, Phương Đông, Đông Đô), một ở Đà
Nẵng (Duy Tân), hai ở thành phố HCM (Văn Lang, Ngoại ngữ - Tin học) và
Sông Bé, một trường ở Bình Dương.
+ Các trường đại học thực hiện triệt để quy trình đào tạo hai giai đoạn
và theo chế độ học phần.
2.3. Giáo dục Sau đại học
Từ năm 1976 Chính phủ đã có chủ trương đào tạo Nghiên cứu sinh
trong nước theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 224/TTg ngày
24/5/1976.
Từ khi Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu tan rã, chúng ta phải tự
phấn đấu đào tạo Sau đại học trong nước là chính. Nghị quyết IV của Bộ
Chính trị ngày 14/1/1993 đã quyết định chủ trương dần dần đưa việc đào tạo
Sau đại học trong nước trở thành chủ yếu, tiến tới hình thành hệ thống đào
tạo Sau đại học tương đối hoàn chỉnh, có thể đảm nhiệm được đào tạo cán
bộ có trình độ sau đại học theo một kế hoạch chủ động về ngành nghề và
đảm bảo về chất lượng.
Về hình thức tổ chức đào tạo, Quyết định 224/TTg quy định có hai chế
độ đào tạo: chính quy (tập trung và tại chức) và ngắn hạn. Tuy nhiên, xuất
phát từ tình hình thực tiễn đào tạo Sau đại học, Bộ trưởng Bộ Đại học và
Trung học chuyên nghiệp đã ra văn bản số 02/SĐH - QĐ, ngày 01/8/1983 về
chế độ đào tạo Nghiên cứu sinh trong nước, trong đó quy định tất cả Nghiên
cứu sinh ngắn hạn phải hoàn thành và bảo vệ luận án. Với quy định này, chất
lượng đào tạo Nghiên cứu sinh ngắn hạn tăng lên, mặt khác giảm bớt được
sự khác biệt về yêu cầu đối với Nghiên cứu sinh các hình thức đào tạo khác
nhau.
Ngày 9/3/1991, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã kí
Quyết định 55/HĐBT về việc mở hệ đào tạo Cao học trong hệ thống giáo dục
quốc dân. Nghị định 90/CP của Thủ tướng Chính phủ ngày 24/11/1993 quy
định đào tạo Sau đại học gồm hai cấp là đào tạo Cao học và đào tạo Tiến sĩ.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành quy chế đào tạo và bồi dưỡng Sau đại
học theo Quyết định số 647/GD - ĐT ngày 14/2/1996. Quy chế mới về đào tạo
bồi dưỡng Sau đại học ra đời là tiền đề tốt cho việc nâng cao chất lượng đào
tạo, bồi dưỡng Sau đại học và sự liên thông giữa hai cấp đào tao Sau đai
học.
Ngày 24/11/1993 Chính phủ đã ban hành Nghị định 90/CP trong đó
khẳng định thay thế đào tạo hai bậc Phó tiến sĩ và Tiến sĩ bằng đào tạo một
bậc Tiến sĩ. Chủ trương này đã được thể chế hóa bằng Quyết định số
647/GD - ĐT ngày 14/2/1996 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về quy
chế đào tạo và bồi dưỡng Sau đại học.
Từ năm 2000, theo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Giáo
dục và Đào tạo đã ban hành Quyết định số 14/2000/QĐ - BGD&ĐT về việc
thống nhất tên gọi học vị “Tiến sĩ” và “Phó tiến sĩ”.
Về quan hệ quốc tế, sau khi Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu tan
vỡ, quan hệ quốc tế trong đào tạo đại học những năm đầu bị thu hẹp lại.
Song với tinh thần “Việt Nam là bạn của tất cả các nước, thực hiện đường lối
đa phương hoá” đến nay, ta vẫn tiếp tục duy trì ở mức độ cần thiết với các
nước Đông âu và các nước thuộc Liên Xô cũ, tiếp tục quan hệ tốt với Lào, mở
rộng quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực Đông Nam Á và châu Á -
Thái Bình Dương, Tranh thủ sự giúp đỡ của các nước đang phát triển và phát
triển như Pháp, Hà Lan, Thụy Điển, Anh, Nhật, Úc, Ấn Độ.... Chúng ta cũng
đã có quan hệ với hàng chục tổ chức quốc tế và tổ chức phi chính phủ, với
nhiều nước để vay vốn và tranh thủ sự giúp đỡ và hợp tác nhiều mặt: đào
tạo, nghiên cứu khoa học, trao đổi chuyên gia, cán bộ giảng dạy, trao đổi kinh
nghiệm, thiết bị kỹ thuật.
2.4. Giáo dục Sư phạm
- Trong những năm đầu tiên của sự đổi mới, việc xây dựng đội ngũ giáo
viên đã phải đương đầu với những khó khăn sau đây:
+ Sự bỏ nghề hàng loạt của nhiều giáo viên, sự giảm nhanh của học
sinh mầm non, học sinh cấp 2 và cấp 3 phổ thông đã làm cho đội ngũ giáo
viên suy giảm về số lượng. So với năm 1986 số giáo viên cấp 2 vào năm
1992 đã giảm bớt gần 5 vạn, số giáo viên cấp 3 giảm gần 10. 600 người, số
giáo viên mẫu giáo - 16. 000 người, số giáo viên nhà trẻ - hơn 55. 000 người.
Sự suy giảm về số lượng này đã khiến cho số đào tạo thêm không bù nổi số
bỏ nghề và thôi nghề. Đây là một hiện tượng đáng lo ngại của những năm
đầu của thời kì mới. Tuy nhiên, đây chỉ là hiện tượng tạm thời, bắt đầu từ
năm học 1993 - 1994, số giáo viên các cấp đều tăng dần.
+ Kinh phí cho việc đào tạo bồi dưỡng giáo viên quá hạn hẹp. Kinh phí
đào tạo chỉ đủ cho trả lương và học bổng, tỉ lệ dành cho chỉ tiêu về học tập chỉ
chiếm từ 3 - 5% tổng chi phí; vì vậy chất lượng đào tạo bị giảm sút một cách
rõ rệt.
Những khó khăn, thử thách của những năm đầu tiên thực hiện sự
nghiệp đổi mới đặt ra những yêu cầu phải nhận thức lại một cách đúng đắn
sự nghiệp phát triển giáo dục Sư phạm, xây dựng đội ngũ giáo viên. Mặt
khác, những thành tựu của sự nghiệp đổi mới lại có tác động rõ rệt, có tính
chất quyết định đối với việc xây dựng đội ngũ. Giáo dục Sư phạm đã có
những chuyển biến mạnh trong thời kì này:
+ Mạng lưới các cơ sở đào tạo giáo viên được sắp xếp lại. Các tỉnh đã
tiến hành nhập các trường Sư phạm thành một trung tâm chịu trách nhiệm
toàn bộ công việc đào tạo và bồi dưỡng giáo viên mầm non, cấp I và cấp II,
hình thành trường Cao đẳng Sư phạm.
+ Từng bước khắc phục hiện tượng khép kín trong việc đào tạo và bồi
dưỡng giáo viên: khép kín trong lòng hệ thống Sư phạm, khép kín trong hệ
thống các trường đại học và trung học chuyên nghiệp.
+ Đa dạng hóa các hình thức đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, lấy đào
tạo theo địa chỉ, theo nhu cầu của cơ sở làm căn cứ để quy định chỉ tiêu
tuyển sinh, lựa chọn người đi học.
+ Thực hiện chương trình bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên theo
chu kì ba năm một lần.
Kết quả là, đến giữa những năm 1990, sự giảm sút số lượng đội ngũ
giáo viên đã chấm dứt. Số lượng giáo viên tính đến đầu năm học 94 - 95 đã
tăng lên một cách rõ rệt và vững chắc. Các trường Sư phạm bước đầu được
củng cố. Một số trường Sư phạm đã có điều kiện thực hiện những biện pháp
nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho giáo viên.
3. Những thành tựu cơ bản và hạn chế của giáo dục trong thời kì đổi mớiTheo đánh giá trong "Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010" được
Thủ tướng Chính phủ nước CHHCN Việt Nam phê duyệt ngày 28 tháng 12
năm 2001, trong 15 năm đổi mới vừa qua, nước ta đã đạt được những thành
tựu to lớn và vẫn còn những tồn tại chủ yếu sau đây:
3.1. Những thành tựu cơ bản
3.1.1. Một hệ thống giáo dục quốc dân tương đối hoàn chỉnh, thống nhất
đã được hình thành và đang được đa dạng hóa
Sau 15 năm đổi mới, giáo dục Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu
quan trọng, đã hình thành được một hệ thống giáo dục quốc dân tương đối
hoàn chỉnh, thống nhất và đa dạng hóa với đầy đủ các cấp học và trình độ
đào tạo từ mầm non đến sau đại học. Mạng lưới các trường phổ thông được
xây dựng rộng khắp trên toàn quốc.
Năm học 2001 – 2002, trong toàn quốc có 9. 530 trường mầm non, 25.
221 trường phổ thông các cấp từ tiểu học, trung học, trung học cơ sở đến
trung học phổ thông. Các tỉnh và nhiều huyện miền núi có trường nội trú và
bán trú cho con em các dân tộc ít người. Đến nay toàn quốc đã thành lập 243
trường phổ thông dân tộc nội trú (gồm 10 trường Trung ương, 43 trường cấp
tỉnh và 190 trường cấp huyện) và 519 trường bán trú cụm xã. Ở 22 tỉnh, 81
huyện miền núi đã có 352 trường nội trú dân nuôi cấp xã. Các trường, lớp,
trung tâm dạy nghề phát triển dưới nhiều hình thức, các lớp dạy ngắn hạn
phát triển mạnh. Các trường đại học vả cao đẳng được thành lập ở hầu hết
các khu dân cư lớn của cả nước, các vùng, các địa phương. Cả nước có 114
trường cao đẳng (108 trường công lập và 6 trường dân lập) và 77 trường đại
học, trong đó có 2 đại học quốc gia (Hà Nội và TP. HCM), 3 đại học vùng (Đại
học Thái Nguyên, Đại học Huế, và Đại học Đà Nẵng), 55 trường đại học, học
viện và 17 trường đại học dân lập.
Cơ sở vật chất kỹ thuật của các trường được nâng cấp, cải thiện. Số
trường lớp được xây dựng một theo chuẩn quốc gia ngày càng tăng. Đào tạo
sau đại học được hình thành và phát triển vững chắc, đang dần dần đảm
đương trách nhiệm đào tạo cán bộ khoa học trình độ cao ở trong nước.
Hệ thống giáo dục đã bước đầu được đa dạng hóa về loại hình,
phương thức và nguồn lực, từng bước hòa nhập với xu thế chung của giáo
dục thế giới. Từ một hệ thống giáo dục chỉ có các trường công lập và chủ yếu
là loại hình chính quy đến nay đã có các trường ngoài công lập, có nhiều loại
hình không chính quy, có các trường mở, có phương thức đào tạo từ xa,
phương thức liên kết đào tạo với nước ngoài. Thực hiện chế độ thu học phí
với hầu hết các cấp học và trình độ đào tạo sau phổ cập.
Năm học 2001 - 2001, tỉ lệ các trường ngoài công lập là: nhà trẻ 34,3%;
mẫu giáo 50,2%; tiểu học 0,6%; trung học cơ sở 12%; trung học phổ thông
28, 6%; cao đẳng 5,3% và đại học 22, 1 %. Tỉ lệ học sinh, sinh viên ngoài
công lập trong tổng số học sinh, sinh viên ngày càng tăng: chiếm 74,4% trẻ
em các nhà trẻ; 59,9% học sinh mẫu giáo; 0,3% học sinh tiểu học; 2,7% học
sinh trung học cơ sở; 33,5% học sinh trung học phổ thông và 11,2% sinh viên
đại học.
Tính đến năm 2000 đã đạt được mục tiêu về chống mù chữ và phổ cập
giáo dục tiểu học. Tỉ lệ người lớn biết chữ ở nước ta tăng từ 86,1% năm 1990
lên 94,2% năm 1999.
Đến cuối tháng 6 năm 2000 cả nước đã có 61 tỉnh, thành với 597 quận,
huyện (trong tổng số 609 quận, huyện), 10.339 xã, phường (trong tổng số
10.994 xã, phường) tức là 100% số tỉnh, thành và 98% số quận, huyện,
98,53% số xã, phường đã được công nhận đạt chuẩn quốc gia về chống mù
chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Bảo đảm tỉ lệ 90% trẻ em 14 tuổi tốt nghiệp
tiểu học.
Hiện nay cả nước đang tiến hành củng cố vững chắc và nâng cao chất
lượng kết quả xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Công cuộc phổ cập
giáo dục trung học cơ sở bắt đầu được đẩy mạnh. Đến tháng 12/2002 đã có
12 tỉnh, thành phố được công nhận đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục
trung học cơ sở (Hà Nội, Đà Nẵng, Hải Phòng, Hà Tây, Nam Định, Hải
Dương, Tuyên Quang, Hưng Yên, Thái Bình, Hà Nam, TP. Hồ Chí Minh, Bắc
Ninh), cả nước phấn đấu tiến tới phổ cập trung học cơ sở vào năm 2010. Các
tỉnh đã phổ cập giáo dục trung học cơ sở đang thực hiện phổ cập bậc trung
học phổ thông theo Chỉ thị 61 - CT/TW ngày 28/12/2000 của Bộ Chính trị.
3.1.2. Quy mô giáo dục tăng nhanh, bước đầu đáp ứng nhu cầu học tập
của xã hội
Trong năm học 2001 - 2002 cả nước có 2.487.744 học sinh mầm non
bao gồm cả nhà trẻ và mẫu giáo; 17.897.604 học sinh trung học cơ sở và
2.333.069 học sinh trung học phổ thông, 285.000 học sinh trung học chuyên
nghiệp, số lượng sinh viên cao đẳng - đại học tất cả các loại hình là 974.119
người, riêng sinh viên đại học là 763.256 người. Số học sinh trong toàn bộ hệ
thống không ngừng được tăng lên, đặc biệt, số lượng học sinh trong các
trường ngoài công lập tăng nhanh: Trẻ nhà trẻ tăng bình quân 7% năm, mẫu
giáo tăng bình quân 5,2% năm. Riêng ở cấp trung học phổ thông, quy mô học
sinh ngoài công lập năm học 2000 - 2001 tăng 291 lần so với năm học 1995 -
1996 và ở đại học tăng 6,74 lần. Quy mô đào tạo nghề từ năm 1997 đến năm
2000 tăng 1,86 lần.
3.1.3. Công bằng xã hội trong giáo dục cơ sở về cơ bản được đảm bảo
Thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong
việc giải quyết vấn đề công bằng xã hội trong giáo dục nói chung, cho những
người nghèo và đối tượng chính sách nói riêng, quyền và cơ hội học tập cho
đại đa số nhân dân lao động, hệ thống giáo dục đã tạo điêu kiện cho đại bộ
phận nhân dân trong độ tuổi đi học đạt trình độ xóa mù chữ và phổ cập giáo
dục tiểu học, tiến tới phổ cập trung học cơ sở. Tạo cơ hội và những điều kiện
cơ bản để một bộ phận nhân dân được học ở các cấp bậc học cao hơn theo
nhu cầu và khả năng, chú ý các khu vực đặc biệt khó khăn (vùng cao, vùng
sâu, vùng xa), đối tượng là người dân tộc thiểu số, người nghèo và đối tượng
chính sách xã hội.
Cả nước đã hoàn thành công tác xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu
học và đang thực hiện phổ cập trung học cơ sở. Gần 94% dân cư từ 15 tuổi
trở lên biết chữ; số năm đi học trung bình đạt 7,3. Về cơ bản nước ta đã đạt
được sự bình đẳng nam nữ trong giáo dục cơ sở.
Giáo dục ở các vùng dân tộc thiểu số đã có những chuyển biến tích
cực nhờ các chính sách giáo dục cho người dân tộc được ban hành và thực
thi có hiệu quả. Ngành giáo dục đã thực hiện nhiều giải pháp có tính đồng bộ
và có hiệu quả thiết thực như đã thành lập gần 250 trường dân tộc nội trú và
hơn 100 trường bán trú, tổ chức lớp ghép, dạy học bằng tiếng dân tộc, tổ
chức các trường bán trú dân nuôi, trường dự bị đại học, thực hiện chế độ cử
tuyển nhằm tạo nguồn đào tạo cán bộ phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội
của các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Từ chỗ chỉ có 79
trường dân tộc nội trú với 10.370 học sinh năm học 1989 - 1990, đến năm
học 1999 - 2000, đã có 346 trường phổ thông dân tộc nội trú, trong đó có 10
trường trung ương, 43 trường tỉnh, 190 trường huyện, 104 trường cụm xã với
tổng quy mô gần 60.000 học sinh thuộc 45/53 dân tộc thiểu số.
3.1.4. Công tác xã hội hóa giáo dục đã đem lại kết quả bước đầu
Công tác xã hội hóa giáo dục hóa trong những năm gần đây đã đem lại
kết quả bước đầu. Các lực lượng xã hội tham gia ngày càng tích cực vào việc
huy động trẻ đến trường, xây dựng cơ sở vật chất của trường học, đóng góp
kinh phí cho giáo dục dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhận thức của nhân
dân về sự nghiệp giáo dục có những chuyển biến tích cực. Các cấp ủy Đảng,
chính quyền, đoàn thể đã quan tâm hơn đến sự nghiệp giáo dục, có biện
pháp huy động các lực lượng xã hội tham gia phát triển giáo dục - đào tạo.
Nhận thức về ý nghĩa của việc kết hợp giáo dục giữa gia đình, nhà trường và
xã hội không ngừng được nâng cao.
Các loại hình trường lớp đã đa dạng hóa, đã có thêm các loại hình
trường lớp dân lập, bán công, tư thục. Các chương trình giáo dục từ xa qua
các phương tiện thông tin đại chúng từng bước được tăng cường. Đối với các
trường công, Nhà nước đã ban hành và từng bước hoàn thiện chế độ thu học
phí và các khoản đóng góp khác tạo thêm nguồn lực tài chính cho các trường
này. Hệ thống trường lớp ngoài công lập tiếp tục mở rộng, đã tạo điều kiện
giảm bớt sức ép đối với các trường công lập và tạo cơ hội cho các lực lượng
xã hội cùng với Nhà nước tham gia vào sự nghiệp giáo dục. Các loại hình
trường ngoài công lập phát triển, học sinh ngoài công lập chiếm tỉ lệ đáng kể.
3.1.5. Các điều kiện đảm bảo phát triển giáo dục được cải thiện
- Trong 5 năm qua, kết hợp nhiều nguồn vốn, Ngành giáo dục và các
địa phương đã cố gắng tăng cường cơ sở vật chất kĩ thuật nhà trường, tạo
điều kiện để bảo đảm chất lượng dạy và học.
Đến đầu năm học 2000 - 2001 cả nước đã có 436.281 phòng học, tăng
18.451 phòng, với 363. 417 phòng học cấp 4 và kiên cố, tăng 27.625 phòng
so với năm học 1995 - 1996; tỉ lệ số phòng học kiên cố ở các cấp, bậc học
phổ thông đạt khoảng 50% so với tổng số phòng học. Số phòng phải học ba
ca là 1.072 phòng, giảm 381 phòng so với năm học trước. Những vùng còn
nhiều phòng học ba ca là Đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ, Tây
Nguyên. Trong khuôn khổ của các dự án vay vốn của Ngân hàng Thế giới
(WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) và Quỹ viện trợ ODA của Nhật
Bản, trong 2 năm 2000 và 2001, các địa phương đã đưa vào sử dụng 2.603
phòng học mới, phần lớn được xây dựng tại các địa bàn kinh tế - xã hội khó
khăn (duyên hải, miền núi, Đồng bằng sông Cửu Long). Các địa phương cỏ
nhiều cố gắng lớn trong việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất.
Việc xây dựng trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia đã có tác dụng thiết
thực trong việc tăng cường các điều kiện dạy và học, nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện của bậc học. Tính đến tháng 3/2002, có 1.687 trường tiểu
học đạt chuẩn quốc gia, bằng 12,14% tổng số trường tiểu học trên cả nước.
Những địa phương có nhiều trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia là Nam Định:
66,7%, Bắc Ninh: 58,2%, Ninh Bình: 36,6%, Đà Nẵng: 29,3%, Hải Phòng:
23,5%, Hà Nam 22,2%, bên cạnh đó vẫn còn 4 tỉnh chưa có trường tiểu học
đạt chuẩn quốc gia là An Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Ninh Thuận.
- Trong những năm gần đây, điều kiện giáo dục và đời sống giáo viên
được cải thiện, những đổi mới trong chính sách đối với giáo sinh đã thu hút
ngày càng nhiều học sinh giỏi vào các trường Sư phạm, mức sống vật chất
tinh thần của nhân dân được nâng lên là những yếu tố tác động tích cực đến
chất lượng đội ngũ nhà giáo. So với năm học 1995 - 1996, tổng số giáo viên,
giảng viên toàn Ngành năm học 2001 - 2002 là 871.585 người, trong đó, số
giáo viên mầm non và phổ thông là 823.091, tăng 4,45%; số giáo viên trung
học chuyên nghiệp là 10.189, tăng 6,13%; số giảng viên đại học, cao đẳng là
32.205, tăng 6,3%; số giáo viên trong các trường dạy nghề là 6.100 người,
tăng 2,58%. Đến đầu năm học 2000 - 2001 đã có 42,25% giáo viên mầm non,
78,5% giáo viên tiểu học, 85,62% giáo viên trung học cơ sở, 95,87% giáo viên
trung học phổ thông, 83% giáo viên trung học chuyên nghiệp đạt trình độ
chuẩn về văn bằng theo quy định của Luật Giáo dục. Tuy nhiên, đội ngũ giáo
viên còn yếu về ngoại ngữ và tin học. Chất lượng đội ngũ giáo viên các cấp,
bậc học ở địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và vùng dân tộc còn yếu
và không đồng đều.
- Ngân sách cho giáo dục đã được tăng dần, từ gần 11% năm 1996 lên
15% vào năm 2000, đạt chỉ tiêu mà Nghị quyết TW 2 đặt ra. Tuy đã tăng,
ngân sách Nhà nước cũng chỉ mới đáp ứng khoảng 70% nhu cầu tối thiểu
của giáo dục. Nhiều địa phương, bên cạnh ngân sách Trung ương, còn có
thêm từ ngân sách địa phương đầu tư cho giáo dục và đã có nhiều cố gắng
cải tiến việc phân bổ, điều hành ngân sách; đồng thời huy động nguồn lực
của nhân dân để tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật nhà trường, bảo đảm
chất lượng dạy và học. Đóng góp của nhân dân cho giáo dục là một khoản
đầu tư đáng kể, đáp ứng khoảng 30% chi phí hàng năm của Ngành giáo dục.
Nhờ sự đóng góp của dân mà hàng nghìn ngôi trường mới, các trường Sư
phạm và các trường dân tộc nội trú... đã được xây dựng khá hoàn chỉnh; cơ
sở vật chất, thiết bị dạy học của các nhà trường nhờ đó đã được tăng cường
hơn từ khi có Nghị quyết TW2.
Ngân sách cho dạy nghề giảm dần từ 7,3% năm 1991 xuống còn 3,9%
năm 1996; từ năm 1998 có tăng nhưng không đáng kể, đến năm 2000 mới
đạt 4,7% ngân sách giáo dục, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển dạy nghề
phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Một phần nguồn lực khác cho giáo dục là các nguồn vay và hợp tác
quốc tế được Nhà nước ưu tiên dành cho giáo dục thông qua các dự án của
Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng phát triển châu Á và các tổ chức quốc tế, các
tổ chức chính phủ, phi chính phủ nước ngoài. Các dự án về giáo dục tiểu học,
trung học cơ sở, đại học, dạy nghề, đào tạo giáo viên trị giá hàng trăm triệu
đô la Mỹ đã và đang được thực hiện mang lại nguồn lực tài chính lớn cho
giáo dục.
Đầu tư cho giáo dục từ ngân sách Nhà nước và từ các nguồn khác
tăng lên. Ngân sách Nhà nước dành cho giáo dục tăng từ 8% năm 1990 lên
tới 15% năm 2000. Nhiều chương trình, đề án lớn đã huy động nguồn lực đa
dạng để phát triển giáo dục đặc biệt là cho giáo dục phổ thông.
3.2. Những hạn chế
Mặc dầu đã đạt được những thành tựu nêu trên, nhưng nhìn chung,
giáo dục nước ta còn yếu về chất lượng, mất cân đối về cơ cấu; hiệu quả
giáo dục chưa cao; giáo dục chưa gắn bó chặt chẽ với thực tiễn; đào tạo
chưa gắn với sử dụng; đội ngũ giáo viên còn yếu, cơ sở vật chất còn thiếu;
chương trình, giáo trình, phương pháp giáo dục và công tác quản lí chậm đổi
mới; một số hiện tượng tiêu cực, thiếu kỉ cương chậm được khắc phục.
- Chất lượng giáo dục nói chung còn thấp
Giáo dục nước ta một mặt chưa tiếp cận được với trình độ tiên tiến
trong khu vực và trên thế giới, mặt khác chưa đáp ứng với các ngành nghề
trong xã hội. Học sinh, sinh viên khi tốt nghiệp còn hạn chế về năng lực tư
duy sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng thích ứng với nghề nghiệp; kỉ luật
lao động, tinh thần hợp tác và cạnh tranh lành mạnh chưa cao; khả năng tự
lập nghiệp còn hạn chế.
Trình độ kiến thức, kỹ năng thực hành, trình độ ngoại ngữ, phương
pháp tư duy khoa học của đa số học sinh, sinh viên còn yếu. Năng lực vận
dụng kiến thức học ở trường vào đời sống và sản xuất còn hạn chế. Đa số
sinh viên tốt nghiệp chưa thích ứng với việc làm.
- Hiệu quả giáo dục thấp
Số học sinh lưu ban, bỏ học hàng năm ở các cấp, bậc học tuy đã giảm,
nhưng vẫn còn cao và không đồng đều giữa các vùng miền.
Ở cấp THCS, mặc dù tỷ lệ lưu ban, bỏ học giảm dần từ 2, 37% và 9,
42% xuống 1, 48% và 7, 30%, nhưng tỉ lệ này vẫn còn cao và lí do chủ yếu là
do thu nhập thấp và một phần nào do học phí tăng. Thực tế cho thấy từ năm
học 1996 - 1997, tỉ lệ bỏ học ở cấp THCS luôn cao hơn cấp THPT và có sự
khác biệt khá lớn giữa các vùng.
- Quy mô giáo dục chưa tương xứng với yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội
Mặc dù năm 2000 chúng ta đã đạt phổ cập giáo dục tiểu học, nhưng
trình độ giáo dục phổ cập vẫn còn thấp. Số học sinh đi học tăng dần, số học
sinh lưu ban và bỏ học giảm dần, nhưng vẫn còn một tỉ lệ đáng kể, số học
sinh ngoài độ tuổi (hơn 11 tuổi) còn học ở tiểu học (theo quy định của Luật
Phổ cập Giáo dục Tiểu học, trẻ em có thể học tiểu học đến 14 tuổi), nên tỉ lệ
tổng số học sinh đang học trong trường tiểu học so với số trẻ em ở độ tuổi (6
- 11 tuổi) thường cao hơn 100%, có khi tới 103 - 104%. Số học sinh động viên
vào lớp 1 trong những năm gần đây tăng lên rõ rệt, có tỉnh và thành phố đạt
98 - 99%, nhưng cũng có tỉnh mới chỉ đạt được khoảng 70%. Trung bình cả
nước tỉ lệ tổng số học sinh trên tổng số trẻ em trong độ tuổi đi học đạt khoảng
80%.
- Công bằng xã hội trong giáo dục chưa được thực hiện đầy đủ
Còn tồn tại sự chênh lệch khá lớn giữa các vùng địa lí về tỉ lệ đi học
đúng tuổi ở cấp tiểu học, đặc biệt ở các vùng Tây Nguyên, Đồng bằng sông
Cửu Long và ven biển miền Trung. Theo kết quả Điều tra mức sống dân cư
1998 và điều tra dân số năm 1999 cho thấy tỉ lệ này ở các vùng miền núi phía
Bắc là 89%, Tây Nguyên 89%, Đồng bằng sông Cửu Long 87% và đều thấp
hơn tỉ lệ đi học đúng tuổi ở cấp tiểu học trung bình trên toàn quốc 91 %.
- Thực trạng về nội dung giáo dục ở các cấp học từ mầm non đến sau
đại học có nhiều bất cập. Học sinh càng học lên cao hơn, thi cử càng gắt gao
hơn, việc học thêm, luyện thi để đối phó càng căng thẳng, nặng nề.
Chương trình giáo dục phổ thông còn nặng nề, chưa bám sát yêu cầu
của cuộc sống năng động. Nhiều phần trong chương trình đào tạo đại học và
chuyên nghiệp đã lạc hậu. Phương tiện giảng dạy, thí nghiệm, thực tập,
nghiên cứu quá thiếu thốn và cũ kỹ.
- Phương pháp giảng dạy chưa được cải tiến, phổ biến vẫn là lối thầy
truyền đạt, trò tiếp thu thụ động. Điều đó diễn ra không chỉ ở giáo dục phổ
thông mà ngay ở đại học và sau đại học.
- Đội ngũ giáo viên yếu, thiếu và không đồng bộ
Theo số liệu thống kê của Trung tâm Thông tin Quản lí Giáo dục (Bộ
GĐ & ĐT), năm học 2001 - 2002, số giáo viên cả nước như sau: tổng số giáo
viên mầm non là 146.247, trong đó giáo viên nhà trẻ là 41.116, giáo viên mẫu
giáo là 103.083 người; giáo viên tiểu học là 360.216 (trong đó giáo viên đạt
chuẩn chiếm tỉ lệ 75.33%, giáo viên trên chuẩn chiếm 12,39%); trung học cơ
sở: 252.657 (tỉ lệ đạt chuẩn 76,80%; giáo viên trên chuẩn chiếm 14,73%);
trung học phổ thông 84.889 (tỉ lệ đạt chuẩn 93,26% giáo viên trên chuẩn
chiếm 1,99%). Theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, định biên giáo
viên/lớp ở cấp tiểu học: 1,15; trung học cơ sở 1,85 và trung học phổ thông:
2,1.
Mặc dù định biên này đã quá lạc hậu, nhưng trên thực tế số giáo
viên/lớp vẫn không đạt được theo quy định. Ở cấp tiểu học, chỉ có 1,06 giáo
viên/lớp; trung học cơ 1,5 và trung học phổ thông; 1,63. Nếu căn cứ vào số
tập ở từng bậc học để quy định ra định mức giáo viên (tính một cách lí
thuyết), thì hiện nay cả nước thiếu 29.000 giáo viên tiểu học, trung học cơ sở
thiếu 49.000 giáo viên và trung học phổ thông thiếu 1 8.800 giáo viên.
- Cơ sở vật chất trường lớp còn gặp nhiều khó khăn
Mặc dù có nhiều cố gắng và đã tạo ra những chuyển biến đáng kể về
trường sở, thiết bị và đồ dùng dạy học, song nhìn chung, cơ sở vật chất của
Ngành giáo dục vẫn ở trong tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Trang thiết bị,
phòng thí nghiệm phục vụ giảng dạy và học tập mới đáp ứng khoảng 20%
yêu cầu, tình trạng dạy chay còn phổ biến. Số lượng máy tính còn quá ít, ở
các vùng khó khăn, nhiều học sinh không có đủ sách giáo khoa. Nhìn chung
điều kiện phục vụ việc dạy và học của các trường học còn kém.
CÂU HỎI ÔN TẬP
Câu 1. Phân tích những chủ trương lớn của Đảng về đổi mới giáo dục
ở Việt Nam từ 1986 đến nay.
Câu 2. Những giải pháp phát triển giáo dục được xác định trong Nghị
Quyết Trung ương II là gì?
Câu 3. Nêu những đặc điểm cơ bản của tình hình giáo dục Việt Nam
trong những năm đầu của thời kì đổi mới.
Câu 4. Phân tích những thành tựu và những tồn tại của giáo dục Việt
Nam trong những năm đầu của thời kì đổi mới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh: Việt Nam văn hoá sử cương, NXB Văn hoá Thông tin, H.
2002
2. Đặng Quốc Bảo: Giáo dục Việt Nam hướng tới tương lai- Vấn đề và giải
pháp, NXB Chính trị Quốc gia, 2004.
3. Phan Trọng Báu: Giáo dục Việt Nam thời cận đại, NXB Khoa học xã
hội, H. 1994
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo: 50 năm sự nghiệp giáo dục Việt Nam, NXB
Giáo dục, H. 1995.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo dục đại học Việt Nam, NXB Giáo dục,
2004
6. Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010, NXB Giáo dục, 2002
7. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí. Tập III. Phần Khoa mục
chí, NXB Khoa học xã hội. 1992
8. CD-ROM: Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia. 2001
9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, NXB Chính trị Quốc gia. 1996
10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ 2 Ban Chấp hành
Trung ương khoá VIII, NXB Chính trị Quốc gia. 1997
11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành
Trung ương khoá VIII, NXB Chính trị quốc gia. 1998
12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng lần thứ 2, khoá VIII, NXB Chính trị Quốc gia. 1998
13. Đặng Bá Lãm: Giáo dục Việt Nam những thập niên đầu thế kỉ XXI -
Chiến lược phát triển. NXB Giáo dục, 2003
14. Phạm Minh Hạc: Mười năm đổi mới giáo dục, NXB Giáo dục. 1996
15. Phạm Minh Hạc: Sơ thảo giáo dục Việt Nam (1945- 1990), NXB Giáo
dục. 1992.
16. Lê Văn Giạng: Lịch sử Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Viện
Nghiên cứu Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H. 1985.
17. Trần Văn Giáp: Lược khảo khoa cử Việt Nam (từ khởi thuỷ đến khoa
Mậu Ngọ 1918), Khai trí tiến đức tập san, H. 1941
18. Trần Văn Giàu: Hệ tưởng phong kiến và sự thất bại của nó trước các
nhiệm vụ lịch sử, NXB Khoa học xã hội. 1973.
19. Trân Văn Giàu: Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam, Tập I, II, NXB
Khoa học xã hội. 1973.
20. Vũ Ngọc Khánh: Tìm hiểu nền giáo dục Việt Nam trước 1945, NXB
Giáo dục. 1985.
21. Đoàn Duy Lục: Giáo dục đại học Việt Nam, NXB Giáo dục. 2004
22. Hoàng Như Mai: Hồi ức và suy nghĩ về văn hoá, giáo dục, NXB Giáo
dục. 1988.
23. Nguyễn Quang Ngọc: Tiến trình lịch sử Việt Nam, NXB Giáo dục. 2000.
24. Nguyễn Q. Thắng: Khoa cử và giáo dục Việt Nam, NXB Văn hoá Thông
tin, H. 1994.
25. Nguyễn Văn Kiệm: Lịch sử Việt Nam. NXB Giáo dục, 1 982.
26. Tài liệu tham khảo lịch sử cách mạng cận đại Việt Nam, NXB Giáo dục,
1980.
27. Ngô Tất Tố: Lều chõng.
28. Vũ Văn Thái, Vũ Thị Huê: Giáo trình Lịch sử giáo dục Việt Nam, ĐHSP
Hà Nội, 1981.
29. Vũ Văn Thái: Bước đầu tìm hiểu một số ý kiến của Hồ Chủ tịch đối với
nền giáo dục thực dân. Báo cáo khoa học,
30. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục (tập 12, 20, 32). Bản
dịch của Viện sử học - Hà Nội, NXB Khoa học xã hội. 1970.
31. Nguyễn Ái Quốc: Đây "công lí" của thực dân Pháp ở Đông Dương, NXB
Sự thật. 1962.
32. Đào Trinh Nhất: Đông kinh nghĩa thục, Mai Lĩnh, H. 1937.
33. Chương Thâu: Đông kinh nghĩa thục và phong trào cải cách văn hoá
đầu thế kỉ XX. NXB Hà Nội. 1982.
34. Văn Kiện Đảng (1930-1943), H. 1977
35. Dương Trung Quốc: Việt Nam những sự kiện lịch sử- Tập III (1919-
1935), Tập IV (1936-1945), NXB Khoa học xã hội. 1987.
36. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Chủ tịch Hồ Chí Minh- Tiểu
sử và sự nghiệp (In lần thứ 6), NXB Sự thật. 1986.
37. Nguyễn Lân: Lịch sử giáo dục thế giới, NXB Giáo dục 1958
38. Chu Văn An
39. Chu Thiên: Bút nghiên.
40. Đặng Huy Vận, Chương Thâu: Những đề nghị cải cách của Nguyễn
Trường Tộ cuối thế kỉ XIX, H. 1 96 1.
MỤC LỤCLời Nhà xuất bản
Chương 1. NỀN GIÁO DỤC DƯỚI CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN VIỆT NAM
1. Quá trình phát triển và những đặc điểm của chế độ phong kiến Việt
Nam
2. Tư tưởng chủ đạo của nền giáo dục phong kiến Việt Nam
3. Hệ thống tổ chức của nền giáo dục phong kiến Việt Nam
4. Những lực lượng giáo dục ngoài nhà trường
5. Chế độ khoa cử.
6. Một số nhà trí thức dân tộc tiêu biểu
Câu hỏi ôn tập
Chương 2. NỀN GIÁO DỤC VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ PHÁP THUỘC
1. Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam thời thuộc Pháp
2. Chính sách giáo dục ngu dân của thực dân Pháp ở Việt Nam
3. Hậu quả của chính sách giáo dục ngu dân
Câu hỏi ôn tập
Chương 3. PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CHỐNG NỀN GIÁO DỤC NÔ DỊCH CỦA THỰC DÂN PHÁP
1. Phong trào đấu tranh chống nền giáo dục nô dịch do các sĩ phu yêu
nước lãnh đạo (đầu thế kỉ XX)
2. Phong trào đấu tranh chống nền văn hoá giáo dục nô dịch của thực
dân Pháp do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc lãnh đạo trước khi Đảng Cộng sản
Đông Dương ra đời
3. Cuộc đấu tranh chống nền giáo dục nô dịch do Nguyễn Ái Quốc và
Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo (1930 - 1945)
Câu hỏi ôn tập
Chương 4. NỀN GIÁO DỤC VIỆT NAM TRONG NĂM ĐẦU TIÊN SAU CÁCH MẠNG THÁNG 8 (1945 - 1946)
1. Hoàn cảnh lịch sử
2. Ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng Tám đối với việc xây dựng nền
giáo dục mới
3. Những chủ trương đầu tiên của Trung ương Đảng và Chính phủ về
giáo dục
4. Mở chiến dịch "diệt dốt" trong cả nước
5. Giáo dục phổ thông
6. Chuẩn bị cơ cấu khung của hệ thống giáo dục mới
7. Xây dựng và củng cố đội ngũ giáo viên, thành lập các đoàn thể quần
chúng của giáo viên và học sinh
8. Giáo dục cao đẳng và đại học chuyên nghiệp
Câu hỏi ôn tập
Chương 5. GIÁO DỤC TRONG THỜI KÌ KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1946-1954)
1. Hoàn cảnh lịch sử
2. Giáo dục phục vụ kháng chiến kiến quốc (1946 - 1954)
3. Cuộc cải cách giáo dục năm 1950
4. Bước đầu xây dựng và phát triển giáo dục mầm non
5. Giáo dục đại học
6. Cuộc đấu tranh của nhân dân chống nền giáo dục nô dịch trong vùng
địch hậu
Câu hỏi ôn tập
Chương 6. GIÁO DỤC TRONG THỜI KÌ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở MIỀN BẮC VÀ ĐẤU TRANH THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (1954 -1975)
1. Hoàn cảnh lịch sử
2. Cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai (1956)
3. Cuộc vận động xây dựng nhà trường XHCN bắt đầu từ năm 1958
4. Chuyển hướng giáo dục phổ thông trong thời kì chống chiến tranh
phá hoại của Mỹ ở miền Bắc (1965 - 1975)
5. Miền Bắc tích cực chi viện cho sự nghiệp giáo dục giải phóng ở miền
Nam
6. Giáo dục đại học
7. Giáo dục bổ túc văn hóa
8. Đào tạo và bồi dưỡng giáo viên
Câu hỏi ôn tập
Chương 7. GIÁO DỤC VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐẦU XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRÊN PHẠM VI CẢ NƯỚC (1975 – 1986)
1. Hoàn cảnh lịch sử
2. Giáo dục phổ thông
3. Giáo dục đại học
4. Giáo dục Sư phạm
Câu hỏi ôn tập
Chương 8. GIÁO DỤC VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ ĐỔI MỚI (từ 1986 đến nay)
1. Những chủ trương lớn của Đảng về đổi mới giáo dục
2. Tình hình giáo dục trong những năm đầu thời kì đổi mới
3. Những thành tựu cơ bản và hạn chế của giáo dục trong thời kì đổi
mới
Câu hỏi ôn tập
TÀI LIỆU THAM KHẢO
---//---
LỊCH SỬ GIÁO DỤC VIỆT NAM
(Giáo trình dùng cho sinh viên các trường Đại học và Cao đẳng Sư phạm)
Tác giả: TS. BÙI MINH HIỀN
NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Giám đốc ĐINH NGỌC BẢO
Tổng biên tập LÊ A
Hội đồng thẩm định:
PGS.TS. NGÔ HIỆU - Chủ nhiệm Hội đồng
PGS. TS. ĐÀO THANH ÂM - Nhận xét 1
PGS.TS. PHẠM KHẮC CHƯƠNG - Nhận xét 2
Biên tập nội dung: ĐINH VĂN VANG
Kĩ thuật vi tính: ĐÀO THỊ DUYÊN
Trình bày bìa: PHẠM VIỆT QUANG
In 1000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm tại Công ti cổ phần in Phúc Yên. Đăng kí
KHXB số: 35 - 2008/CXB/419 - 70/ĐHSP ngày 27/12/07. In xong nộp lưu
chiểu tháng 7 năm 2008.