lÞch sö triÕt häc

129
1 ®¹i häc th¸i nguyªn Trêng ®¹i häc sph¹m §ång V¨n Qu©n lÞch sö triÕt häc ®Ò c¬ng bμi gi¶ng (Dïng cho chuyªn ngμnh gi¸o dôc chÝnh trÞ) Th¸i Nguyªn 2010

Transcript of lÞch sö triÕt häc

Page 1: lÞch sö triÕt häc

1

®¹i häc th¸i nguyªn Tr−êng ®¹i häc s− ph¹m

§ång V¨n Qu©n

lÞch sö triÕt häc

®Ò c−¬ng bµi gi¶ng (Dïng cho chuyªn ngµnh gi¸o dôc chÝnh trÞ)

Th¸i Nguyªn 2010

Page 2: lÞch sö triÕt häc

2

CHƯƠNG I. KHÁI LƯỢC CHUNG VỀ TRIẾT HỌC VÀ

LỊCH SỬ TRIẾT HỌC

Mục đích: Làm rõ những vấn đề lý luận chung về triết học, lịch sử

triết học, làm cơ sở cho việc nghiên cứu và đánh giá các đường lối triết

học trong lịch sử.

Thời lượng: 2 tiết lý thuyết

I. KHÁI NIỆM TRIẾT HỌC VÀ ĐỐI TƯỢNG CỦA TRIẾT HỌC

1. Khái niệm triết học

Triết học ra đời cách đây trên hai nghìn năm trăm năm ở một số trung

tâm lớn như Hy Lạp - La Mã Cổ đại, Ấn Độ Cổ đại, Trung Quốc Cổ đại...

(từ khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ V trước công nguyên)

Theo tiếng Hy Lạp cổ, từ triết học (philosophia) nghĩa là yêu mến sự

thông thái; trong tiếng Trung Quốc từ Triết có nghĩa là lý trí; trong tiếng

Phạn cổ từ triết học (darshana) có nghĩa là chiêm ngưỡng, suy ngẫm để đi

đến lẽ phải. Như vậy với tính cách là một hình thái ý thức xã hội triết học

phải bao gồm hai yếu tố cơ bản là yếu tố nhận thức và yếu tố nhận định.

Khái quát lại có thể định nghĩa về triết học như sau: Triết học là một

hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí, vai

trò của con người trong thế giới ấy.

Triết học ra đời từ nhu cầu của thực tiễn và để phục vụ cho nhu cầu

sống của con người. Sự ra đời của triết học bắt nguồn từ hai nguồn gốc là

nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.

- Nguồn gốc nhận thức là sự hình thành, phát triển của năng lực tư

duy trừu tượng khái quát của con người.

Page 3: lÞch sö triÕt häc

3

- Nguồn gốc xã hội của nó là sự phát triển của phân công lao động xã

hội thành lao động chân tay và lao động trí óc trong xã hội có giai cấp. Cho

nên ngay từ khi mới ra đời triết học đã mang tính giai cấp, phục vụ cho lợi

ích của một giai cấp nhất định

2. Đối tượng của triết học

Đối tượng của triết học được hình thành, biến đổi dần dần qua các giai

đoạn lịch sử khác nhau.

Dưới thời Cổ đại, với nền triết học tự nhiên ở phương Tây, triết học

bao gồm tất cả những tri thức mà con người có được: toán học, vật lý học,

thiên văn học, siêu hình học...nên chưa có sự phân biệt đối tượng của triết

học với đối tượng của khoa học. Đây là cơ sở hình thành nên quan niệm coi

triết học là “khoa học của mọi khoa học”.

Dưới thời Trung cổ, do sự thống trị của tôn giáo, triết học tự nhiên

được thay thế bằng triết học Kinh viện nên nó phát triển một cách chậm

chạp. Thực chất đây là giai đoạn phủ định nền văn minh cổ đại. Đối tượng

của triết học Kinh viện chỉ là các vấn đề tự biện như niềm tin tôn giáo, thiên

đường, địa ngục; chúng xa rời với cuộc sống.

Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học dưới thời Phục hưng- Cận đại

làm xuất hiện một loạt các khoa học chuyên ngành, cụ thể: toán học, vật lý

học, sinh học...Vấn đề đối tượng của triết học bắt đầu được đặt ra. Chủ nghĩa

duy vật siêu hình dựa trên nền tảng tri thức học đã giải quyết tốt các vấn đề

về tự nhiên nhưng lại không giải quyết được các vấn đề xã hội. Hệ thống

triết học duy tâm của Hê ghen là hệ thống triết học cuối cùng có tham vọng

đứng trên các khoa học với tính cách là “khoa học của các khoa học”. Sau

khi hệ thống này bị phá sản đã có những quan niệm cho rằng “triết học đã

chết” hay triết học chỉ nghiên cứu vấn đề phương pháp.

Page 4: lÞch sö triÕt häc

4

Với sự ra đời của triết học Mác, đối tượng của triết học lần đầu tiên

trong lịch sử được xác lập một cách đúng đắn. Đối tượng nghiên cứu của

triết học Mác là giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức theo lập

trường duy vật triệt để, nghiên cứu những quy luật chung nhất củ tự nhiên,

xã hội và tư duy.

II. TÍNH QUY LUẬT VỀ SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA

TRIẾT HỌC

Qua trình hình thành, phát triển của triết học trong lịch sử luôn có

những tính quy luật chung như: Nó gắn với những điều kiện kinh tế-xã hội

nhất định (cơ sở kinh tế xã hội, đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa các lực

lượng xã hội…); nó gắn với sự phát triển của khoa học cụ thể; nó gắn với

cuộc đấu tranh giữa các đường lối triết học (duy vật và duy tâm, biện chứng

và siêu hình, khả tri và bất khả tri luận…).

- Trước hết, sự hình thành và phát triển của triết học luôn gắn với

những điều kiện kinh tế xã hội cụ thể, gắn với các cuộc đấu tranh giai cấp

nhất định. Các trường phái triết học trong lịch sử luôn là nền tảng thế giới

quan của các giai cấp, tầng lớp xã hội nhất định. Cghủ nghĩa duy vật là đại

diện tư tưởng cho những lực lượng tiến bộ, còn chủ nghĩa dyt tâm đại biểu

cho những lực lượng phản động (VD cụ thể).

- Sự hình thành và phát triển của triết học luôn gắn liền với sự phát

triển của khoa học tự nhiên và xã hội. Ăngghen đã khẳng định: Mỗi khi khoa

học tự nhiên phát triển nó đều đòi hỏi chủ nghĩa duy vật phải có sự thay đổi

hình thức tồn tại của mình. Triết học phải dựa trên cơ sở khái quát các tri

thức khoa học cụ thể. Khoa học luôn là một trong những tiền đề của triết

học.

Page 5: lÞch sö triÕt häc

5

- Lịch sử triết học là lịch sử hình thành và đấu tranh qua lại giữa các

đường lối, trường phái triết học như: duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu

hình, khả tri và bất khả tri luận, duy cảm và duy lí… Các trường phái triết

học không chỉ phủ định, bài trừ nhau mà chúng còn kế thừa lẫn nhau. Cuộc

đấu tranh xuyên suốt lịch sử triết học là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy

vật và chủ nghĩa duy tâm.

III. VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC, CÁC TRƯỜNG PHÁI TRIẾT HỌC

1. Vấn đề cơ bản của triết học

Theo Ăngghen: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết

học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại”.

Giải quyết vấn đề cơ bản vừa là cơ sở để giải quyết các vấn đề khác,

vừa là tiêu chuẩn để phân định lập trường, thế giới quan của các nhà triết

học và các học thuyết của họ.

Vấn đề cơ bản của triết học có hại mặt:

- Mặt thứ nhất trả lời cho câu hỏi: Giữa vật chất và ý thức thì cái nào

có trước, cái nào có sau; cái nào sinh ra cái nào; cái nào quyết định cái nào?

- Mặt thứ hai trả lời cho câu hỏi: Con người có khả năng nhận thức

được thế giới hay không?

Tuỳ thuộc vào cách trả lời cho những câu hỏi trên mà các nhà triết học

được phân ra thành những trường phái, những đường nlối khác nhau.

2. Các trường phái triết học

a. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.

- Chủ nghĩa duy vật: Trường phái này cho rằng vật chất là cái có

trước, ý thức là cái có sau; vật chất sinh ra ý thức; vật chất quyết định ý thức.

Chủ nghĩa duy vật tồn tại dưới ba hình thức cơ bản: Chủ nghĩa duy vật

chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.

Page 6: lÞch sö triÕt häc

6

+ Chủ nghĩa duy vật chất phác tồn tại trong nền triết học cổ đại; còn

mang tính trực quan, ngây thơ, ấu trĩ. Tuy còn nhiều hạn chế nhưng

CNDVCD cơ bản là đúng đắn vì nó đã lấy tự nhiên để giải thích cho tự

nhiên, không viện đến thần linh hay thượng đế.

+ Chủ nghĩa duy vật siêu hình từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18 là đỉnh cao

của chủ nghĩa duy vật trước Mác. Nó đã góp phần quan trọng vào việc

chống chủ nghĩa duy tâm tôn giáo. Tuy nhiên, do bị hạn chế bởi phương

pháp tư duy siêu hình nên duy vật chưa triệt để, duy vật về tự nhiên nhưng

lại duy tâm về xã hội.

+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng do Mác và Ăngghen sáng lập và phát

triển. Đây là đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật, là chủ nghĩa

duy vật triệt để.

- Chủ nghĩa duy tâm: trường phái này cho rằng ý thức, tinh thần mới

là cái có trước, sinh ra và quyết định vật chất. Chủ nghĩa duy tâm tồn tại

dưới hai hình thức là chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm

chủ quan.

+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng có tồn tại một lực lượng tinh

thần khách quan có trước giới tự nhiên, là nguyên nhân sinh ra giới tự nhiên và

chi phối toàn bộ thế giới (linh hồn thế giới, ý niệm tối cao, ý niệm tuyệt đối...).

+ Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng chính cảm giác cá nhân của

mỗi người đã sinh ra thế giới hiện thực xung quanh, do đó thế giới không

tồn tại khách quan mà phụ thuộc vào cảm giác của mỗi người.

- Nhị nguyên luận là một trường phái triết học không cơ bản, một

đường lối trung gian. Trường phái này cho rằng thế giới bắt nguồn từ hai

nguồn gốc khác nhau là nguồn gốc vật chất và nguồn gốc tinh thần cho nên

vật chất và ý thức – không cái nào có trước có sau, không cái nào sinh ra cái

nào, không cái nào quyết định cái nào.

Page 7: lÞch sö triÕt häc

7

b. Thuyết có thể biết và thuyết không thể biết

- Thuyết có thể biết (khả tri luận) là một đường lối cơ bản trong nhận

thức luận. Theo thuyết này thì thế giới là có thể nhận thức, con người có thể

biết được bản chất của thế giới. Đa số các nhà duy vật đi theo đường lối này,

ngoài ra còn có nhiều nhà duy tâm cũng có quan điểm khả tri.

- Thuyết không thể biết (bất khả tri luận), ngược lại cho rằng con

người không có khả năng nhận thức bản chất của thế giới, mọi tri thức đều là

chủ quan do con người tự tạo ra không có liên quan gì đến thế giới.

IV. SIÊU HÌNH VÀ BIỆN CHỨNG

1. Sự đối lập giữa phương pháp siêu hình và ph pháp biện chứng

a.Phương pháp siêu hình

Phương pháp siêu hình là phương pháp:

+ Nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời đối tượng ra khoie

các chỉnh thể khác và giữa các mặt đối lập nhau có một ranh giới tuyệt đối.

+ Nhận thức đối tượng ở trạng thái tĩnh tại; nếu có thừa nhận sự biến

đổi thì chỉ nhìn nhận là sự biến đổi về số lượng coi nguyên nhân của sự biến

đổi nằm ở ngoài đối tượng.

+ Xem xét các sự vật ở trạng thái phi mâu thuẫn

b. Phương pháp biện chứng

Phương pháp biện chứng là phương pháp:

+ Nhận thức đối tượng ở trong các mối liện hệ với nhau, ảnh hưởng

nhau, ràng buộc nhau.

+ Nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi, nằm trong

khuynh hướng chung là phát triển. Nhìn nhận phát triển là quá trình thay đổi

về chất của các sự vật hiện tượng và nguồn gốc của sự thay đổi ấy là các

mâu thuẫn nội tại của chúng.

Page 8: lÞch sö triÕt häc

8

+ Coi thế giới là sự thống nhất của các mặt đối lập.

2. Các hình thức cơ bản của phép biện chứng

Phép biện chứng đã trải qua ba giai đoạn phát triển thể hiện dưới ba

hình thức lịch sử là phép biện chứng tự phát, phép biện chứng duy tâm và

phép biện chứng duy vật

- Phép biện chứng tự phát tồn tại trong nền triết học cổ đại. Các nhà

biện chứng thời kỳ này đã thữa nhận rằng các sự vật hiện tượng trong thế

giới không ngừng sinh thành biến hoá vô tận. Đây là kết quả quan sát trực

tiếp nên còn thể hiện tính trực quan ngây thơ.

- Phép biện chứng duy tâm do Hêghen xây dựng một cách tự giác, có

hệ thống nhưng trên nền tảng của chủ nghĩa duy tâm cho nên còn mang tính

thần bí khó hiểu và chưa triệt để. Mác gọi đây là phép biện chứng “ lộn đầu

xuống đất”

- Phép biện chứng duy vật do Mác và Ăngghen sáng lập trên cơ sở kế

thừa phép biện chứng của Hêghen, tẩy rửa nó khỏi chủ nghĩa duy tâm, đặt

cho nó “ đứng bằng chân”. Đây là đỉnh cao trong sự phát triển của phương

pháp biện chứng - phép biện chứng triệt để.

V. VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI

Vai trò của triết học được thể hiện bằng chức năng của nó. Triết học

có nhiều chức năng khác nhau như chức năng nhận thức, chức năng đánh

giá, chức năng giáo dục... Nhưng quan trọng nhất là chức năng thế giới quan

và chức năng phương pháp luận.

1.Chức năng thế giới quan của triết học

Những vấn đề mà triết học đặt ra và tìm cách giải quyết trước hết là

vấn đề thế giới quan. Thế giới quan là toàn bộ những quan niệm của con

Page 9: lÞch sö triÕt häc

9

người về thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con

người trong thế giới đó.

Trong thế giới quan có sự thống nhất giữa tri thức và niềm tin. Tri

thức là cơ sở trực tiếp làm hình thành thế giới quan nhưng tri thức chỉ gia

nhập thế giới quan khi nó biến thành niềm tin.

Thế giới quan có ý nghĩa rất quan trọng đối với đời sống con người.

Nó là một “thấu kính” mà qua đó con người nhìn nhận thế giới xung quanh

và bản thân mình; là cơ sở cho các hành vi của con người trong xã hội; là

nguyên tắc cho các hoạt động của con người; là định hướng cho quá trình

hình thành thế giới quan và nhân sinh quan cá nhân.

Trong quá trình phát triển lịch sử của mình thế giới quan đã lần lượt

trải qua ba hình thức là thế giới quan huyền thoại, thế giới quan tôn giáo và

thế giới quan triết học.

- Thế giới quan huyền thoại là phương thức cảm nhận thế giới của con

người nguyên thuỷ mà ở đó có sự đan bện giữa các yếu tố trí tuệ và tình

cảm, lý trí và tín ngưỡng, hiện thực và hư ảo, cái thần và cái người...không

thể phân định.

- Trong thế giới quan tôn giáo, niềm tin tôn giáo đóng vai trò chủ đạo;

tín ngưỡng cao hơn lý trí, cái hư ảo lấn át cái thực như Téc tu liêng đã từng

tuyên bố: "Tôi tin vì điều đó là vô lý”.

- Thế giới quan triết học là trình độ tự giác và cao nhất của thế giới

quan mà trong đó triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, là lý luận về

thế giới quan. Triết học có nhiệm vụ đưa ra một quan niệm chỉnh thể về thế

giới cho nên nó có vị trí là cơ sở lý luận cho các khoa học và định hướng cho

sự hình thành thế giới quan cá nhân của mỗi người và mỗi cộng đồng.

Chức năng thế giới quan của triết học được thể hiện ở chỗ: là hạt nhân

lý luận của thế giới quan nên nó làm cho thế giới quan phát triển một cách tự

Page 10: lÞch sö triÕt häc

10

giác trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và các tri thức do các khoa

học đưa lại.

2.Chức năng phương pháp luận của triết học

Phương pháp luận là lý luận về phương pháp; là hệ thống những quan

điểm chỉ đạo việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp.

Có ba loại phương pháp luận là phương pháp luận ngành, phương pháp luận

chung và phương pháp luận chung nhất.

Triết học thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất. Mỗi

quan điểm lý luận của triết học đồng thời là một nguyên tắc trong việc xác

lập phương pháp, là lý luận về phương pháp.

3. Vai trò của triết học đối với khoa học cụ thể

Triết học bắt nguồn từ các khoa học cụ thể, là kết quả khái quát từ

những tri thức khoa học cụ thể.

Ngượpc lại chính triết học lại trở thành cơ sở lý luận và cơ sở phương

pháp luận cho các khoa học cụ thể phát triển.

-----------------------------------------------

NỘI DUNG THẢO LUẬN VÀ ÔN TẬP

1. Vấn đề cơ bản của triết học và các đường lối triết học? 2. Sự đối lập giữa hai phương pháp biện chứng và siêu hình?

Page 11: lÞch sö triÕt häc

11

CHƯƠNG II. LỊCH SỬ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI

Mục đích: Làm rõ những điều kiện, tiền đề ra đời và phát triển của

triết học Ấn Độ cổ đại; phân tích những đặc điểm cơ bản của triết học và

nội dung tư tưởng của các trường phái triết học – tôn giáo Ấn Độ cổ,

trung đại.

Thời lượng: 8 tiết lý thuyết, 2 tiết thảo luận.

I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ ĐẶC ĐIỂM TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI

1. Hoàn cảnh ra đời của triết học ấn Độ Cổ đại

a. Điều kiện tự nhiên

Ấn Độ Cổ đại là một vùng đất rộng lớn nằm ở phía nam châu Á với

địa hình phức tạp. Phía Bắc bị án ngữ bởi dãy Hymalaya hùng vĩ với trên

bốn chục ngọn núi cao trên một nghìn mét so với mặt nước biển, quanh năm

tuyết phủ. Phía Đông, Nam và Tây nam được bao bọc bởi Ấn Độ dương.

Lãnh thổ được chia cắt thành nhiều vùng: vùng đồng bằng đất đai màu mỡ,

nằm dọc theo lưu vực hai con sông lớn - sông Ấn và sông Hằng; vùng sa

mạc khô cằn; vùng núi non hiểm trở và vùng cao nguyên với hệ thống sông

ngòi chằng chịt.

b. Điều kiện kinh tế xã hội

Nền văn minh đầu tiên xuất hiện ở Ấn Độ cổ đại cách đây khoảng bốn

nghìn năm trăm năm, đó là nền văn minh Sông Ấn. Nền văn minh này tồn

tại đến khoảng thế kỷ XVII Tr.CN thì bị diệt vong mà không rõ nguyên

nhân. Từ khoảng thế kỷ XV Tr.CN người Arya từ Tây bắc tràn xuống chinh

phục Ấn Độ cổ đại, sau đó bị đồng hoá vào nền văn minh của người Dra vi

da bản sứ và trở thành chủ nhân của Ấn Độ cổ đại. Từ thế kỷ VII Tr.CN đất

nước Ấn Độ trải qua nhiều biến cố với các cuộc chiến tranh giữa các vương

Page 12: lÞch sö triÕt häc

12

triều và chiến tranh chống sự xâm lăng từ bên ngoài. Thời cổ đại của Ấn Độ

kéo dài đến thế kỷ thứ 10 sau Công nguyên.

Những đặc điểm nổi bật về kinh tế - xã hội thời kỳ cổ đại ở Ấn Độ là:

+ Sự tồn tại bền vững, dai dẳng của chế độ công xã nông thôn với sở

hữu nhà nước về đất đai.

+ Xã hội được phân hoá thành những dẳng cấp chính: tăng lữ (

Brahman), quý tộc (Ksatriya), bình dân (Vaisya) và tiện nô (Ksudra).

+ Sự thống trị của tôn giáo trên tất cấcc lĩnh vực của đời sống xã hội.

c. Điều kiện về văn hoá

Ấn Độ cổ đại có nền văn hoá, khoa học phát triển tương đối rực rỡ,

với nhiều giá trị để lại cho đời sau như: toán học, y học, kiến trúc, tâm lý

học, triết học...

Văn hoá Ấn Độ cổ, trung được chia thành ba thời kỳ: Văn minh Sông

Ấn (TK XXV Tr.CN - TK XV Tr.CN), văn minh Vêda ( TK XV Tr.CN -

TK VII Tr.CN), văn minh Hậu Vêda (từ TK VII Tr.CN).

2. Đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ đại

Triết học Ấn Độ cổ đại hình thành và phát triển chủ yếu là từ TK VII

Tr.CN Trở về sau. Ở thời kỳ này xuất hiện hai nhóm với các trường phái

khác nhau:

- Các trường phái chính thống thừa nhận quyền uy của kinh Vêda:

Samkhya, Mimansa, Vedalta, Yoga, Nyaya, Vaisesika.

- Các trường phái không chính thống phủ nhận quyền uy của kinh

Vêda: Lôkayata, Jaina, Đạo phật.

- Đặc điểm chung của triết học ấn Độ cổ, trung đại là:

+ Sự đan xen giữa triết học và tôn giáo.

+ Sự đan xen giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.

Page 13: lÞch sö triÕt häc

13

+ sự kế tục lần nhau giữa các học phái và sự kế tục các tư tưởng của

Vêda trong các học phái khác nhau.

+ Quan niệm về bản thể có tính trừu tượng cao, đặc biệt là về cái

“không”.

II. TƯ TƯỞNG THỜi KỲ VEDA

1. Tư tưởng Kinh Veda

Veda là bộ sách cổ nhất của người Ấn Độ cổ đại cũng như của nhân

loại nói chung. Nó bao gồm những câu ca dao, vịnh phú, những tập tục, nghi

lễ, những bài cúng tế, phù chú, ma thuật… được các bộ tộc người Arya sang

tác ra trong vòng hơn một nghìn năm; lúc đầu bằng con đường truyền miệng,

từ thế kỷ XI đến TK VIII trước CN được chép thành văn bản.

Kinh Veda bao gồm 4 bộ kinh sớm là: Rig-Veda, Sama-Veda, Yajur-

Veda và Atharva-Veda; sau đó được bổ sung them 2 bộ kinh trung là

Brahmana và Aranyaka; bộ kinh cuối cùng là Upanishad.

Thế giới quan trong các bộ kinh sớm và kinh trung là thế giới quan

thần luận – tôn giáo, lúc đầu là Đa thần luận, về sau phát triển thành Nhất

thần luận.

Upanishad là bộ kinh cuối cùng chứa đựng tư tưởng duy tâm khách

quan, thể hiện ở 3 nội dung chính:

Thứ nhất, thừa nhận tinh thần tuyệt đối tối cao Brahman (Phạn thiên,

Thần Ngã).

Thứ hai, thừa nhận linh hồn bất tử Atman, do Brahman sinh ra và là

biểu hiện của nó.

Thứ ba, thừa nhận luật nhân quả và thuyết luân hồi - nghiệp báo.

2. Tư tưởng của hai bộ sử thi Ramayana và Mahabharata

a. Sử thi Ramayana

Page 14: lÞch sö triÕt häc

14

Bộ sử thi này kể về việc hoàng tử Rama cùng người em cùng cha khác

mẹ, tướng khỉ Hanuman chiến đấu cứu người vợ yêu quý, sinh đẹp là nàng

Sita. Nhưng sau đó long nghi kị, ghen tuông đã giết chết nàng Sita khi đang

mang trong bụng đứa con của Rama.

Tư tưởng chủ yếu trong Ramayana là triết lí đạo đức – nhân sinh về

cái thiện, cái ác, đức hy sinh, lòng quả cảm, bổn phận tự nhiên và những

mâu thuẫn trong mỗi người giữa cái cao thượng và thấp hèn.

Bộ sử thi này còn chứa đựng những yếu tố duy vật tự phát như không

thừa nhận linh hồn bất tử, cho rằng con người ta sinh ra từ đất và khi chết đi

lại trở về với đất; tin vào cảm giác, chỉ những gì được cảm giác chứng thực

thì mới đáng tin cậy.

b. Sử thi Mahabharata

Bộ sử thi này kể về câu chuyện cuộc chiến kéo dài 18 ngày đêm giữa

5 hoàng tử dòng họ Pandava với 100 anh em dòng họ Kaurava. Họ đều là

than tộc, con cháu của Bharata, chỉ vì tranh giành đất đại mà chem. giết lẫn

nhau. Câu chuyện phản ánh quá trình hình thành các quốc gia chiếm hữu nô

lệ ở Ấn Độ cổ đại. Trong sử thi có lồng ghép những sự tích thần linh, ẩn dụ

triết học, phương châm sử thế…trong đó có phần lắp ghép triết học quan

trọng nhất là Bhagavad-Gita (Chí tôn ca).

Đây là lời khuyên của người đánh xe Krishna, hiện thân của thần

Vishnu, mach bảo cho dũng sĩ Arjuna trong đêm trước trận chiến, thuyết giải

về lẽ trời, bổn phận… Ở đó thừa nhận linh hồn là bất tử, thế giới vạn vật chỉ

là ảo ảnh phù du, Tinh thần tuyệt đối tối cao mới là bản thể đích thực, cho

nên con người phải hành động theo bổn phận (Dharma) một cách nhiệt

thành, vô tư, dốc sức chime nghiệm nội tâm mới tìm ra chân bản, có lòng tin

thờ phụng đấng tối cao mới được siêu thoát (đây là cơ sở của đạo Hinđu).

Page 15: lÞch sö triÕt häc

15

III. TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ THỜi KỲ HẬU VEDA

1. Trường phái Samkhya

Phái Samkhya sơ kỳ co khuynh hướng duy vật. Phái này cho rằng mọi

cái đều xảy ra theo nguyên nhân của mình. Nếu thế giới là vật chất thì

nguyên nhân của nó cũng là vật chất. Dạng vật chất đầu tiên là prariti. Nó là

thể thống nhất của ba yếu tố (guna): Satta(nhẹ, sáng, tươi, vui), Rajas(động,

kích thích), Tamas(nặng, khó khăn). Khi ba yếu tố trên ở trạng thái cân bằng

thì Prariti là dạng vật chất tinh tế, không thể tri giác được. Khi sự cân bằng

bị phá vỡ thì vật chất bị biểu hiện thành các sự vật, hiện tượng nhờ đó thế

giới được tạo ra.

Phái Samkhya hậu kỳ chuyển sang lập trường nhị nguyên, thừa nhận

rằng: ngoài Prariti thì cần phải có Purusa truyền sinh khí vào mới sinh ra

được vạn vật.

2. Trường phái Mimansa

kinh điển của trường phái này là Mimansa – sutra do nhà hiền triết

Jaimini viết. Phái Mimansa sơ kỳ có xu hướng vô thần, không thừa nhận

thần linh. Họ cho rằng sự tồn tại của thần là không có chứng cứ vì không thể

tri giác được thần. Không tin vào thần linh, nhưng những người thuộc

trường phái này lại tin vào sức mạnh của Vêda, họ cho rằng các nghi lễ trong

Vêda tự có sức mạnh vật chất chứ không phải do thần linh đem lại. Phái

Mimansa hậu kỳ lại chuyển sang lập trường hữu thần.

3. Trường phái Vedalta

Kinh điển của trường phái này là vedalta - sutra do Badarayana viết.

Phái này muốn hệ thống hoá lại tư tưởng của Upanishad - bộ kinh cuối cùng

trong Vêda, nên Vedalta có nghĩa là “ kết thúc của Vêda”. Phái Vedalta sơ

kỳ mang lập trường nhất nguyên duy tâm. Phái này cho rằng: Tồn tại là ý

thức thuần tuý, là sự thống nhất tuyệt đối giữa Brahman (linh hồn thế giới)

Page 16: lÞch sö triÕt häc

16

với Atman (linh hồn cá thể); thế giới vật chất là ảo giả, không thực do vô

minh sinh ra. Phái Vedalta hậu kỳ có quan điểm duy tâm khách quan, thừa

nhận sự tồn tại khách quan của cả Brahman lẫn Atman, trong đó Atman là

bộ phận của Brahman.

4. Trường phái Yoga

Tư tưởng của phái Yoga là sự kết hợp giữa tư tưởng của Samkhya với

thần, nhưng thần của họ không phải là lực lượng sáng tạo ra thế giới, mà chỉ

là sự siêu thoát của con người. Phái này đưa ra một hệ thống các phương

pháp tu luyện mà về sau được nhiều phái khác vận dụng (luyện Yoga).

5. Trường phái Nyaya - Vaisesika

Lúc đầu hai phái này độc lập nhưng có nhiều điểm tương đồng, về sau

sáp nhập làm một. Trường phái này có hai đóng góp quan trọng là nguyên tử

luận và lôgic học.

Nguyên tử luận: Theo thuyết này thì thế giới là thế giới vật chất. Thế

giới vật chất vô cùng phong phú, đa dạng, nhưng tất cả đều được tạo nên từ

bốn dạng vật chất đầu tiên là đất, nước, lửa và không khí; các dạng vật chất

này lại được tạo nên từ các nguyên tử (Anu). Nguyên tử là những hạt vật

chất bất biến, vĩnh viễn, khác nhau về khối lượng, hình dáng và tồn tại trong

không gian và thời gian. Ngoài nguyên tử còn có vô số những linh hồn cá

thể (Ya) mà đặc tính của chúng là ước vọng, ý chí, buồn vui, giận hờn...Để

điều khiển sự kết hợp giữa các nguyên tử hay giữa nguyên tử và linh hồn cần

phải có một lực lượng thứ ba là thần Isvara.

Lôgic học: Phái này thừa nhận sự tồn tại khách quan của đối tượng

nhận thức; đề cao vai trò của nhận thức kinh nghiệm; coi thức tiễn (kinh

nghiệm) là tiêu chuẩn của chân lý - “phù hợp thì thắng”. Họ đưa ra phép ngũ

đoạn luận - phép suy luận gồm năm phán đoán: luận đề, nguyên nhân, minh

hoạ, suy đoán, kết luận. Ví dụ: Đồi có lửa cháy vì đồi bốc khói mà mọi cái

Page 17: lÞch sö triÕt häc

17

có khói thì đều có lửa chẳng hạn như bếp. Đồi có khói thì không thể không

có lửa. Suy ra đồi phải có lửa cháy.

6. Trường phái Jaina

Người sáng lập ra trường phái là nhà hiền triết Vardhamana hay còn

gọi là Maharvira(600 - 527 tcn).

Trường phái này theo chủ nghĩa tương đối mà theo đó thì tồn tại vừa

bất biến, vừa biến đổi. Vật chất là cái vĩnh hằng, bất biến, trong khi các sự

vật vật chất thì thường xuyên biến đổi. Ví như đất sét thì không thay đổi,

nhưng những cái bình gốm tạo nên từ chúng thì thường xuyên thay đổi. Vật

chất được tạo nên từ các nguyên tử vô cùng nhỏ bé, không thể phân chia, tồn

tại vĩnh viễn(Atgiva). Ngoài nguyên tử còn có vô số các linh hồn bất

tử(Giva). Linh hồn là toàn năng có thể thâm nhập vào mọi cái và có thể hiểu

biết được mọi thứ, nhưng do bị hạn chế bởi thể xác nên không thể siêu thoát.

Muốn siêu thoát con người phải tu luyện theo chủ nghĩa khổ hạnh. Đạo Jaina

về sau được chia thành hai phái là phái “loã hình”- không mặc quần áo và

phái “bạch y”- mặc đồ trắng.

7. Trường phái Lokayata

Phái Lokayata không tồn tại như một trường phái độc lập, không có

kinh điển riêng, mà chỉ là một khynh hướng tư tưởng duy vật tự phát chống

đối lại Vêda và các tôn giáo, nên trong Vêda nó được coi là tư tưởng của quỷ

dữ.

Phái này cho rằng mọi cái đều được tạo nên từ bốn yếu tố vật chất đầu

tiên là đất, nước, lửa và không khí. Tính đa dạng của vạn vật là do cách thức

kết hợp khác nhau mà nên. Con người cũng được tạo nên từ bốn yếu tố trên,

nên không có linh hồn bất tử. Họ ví cơ thể tạo ra ý thức cũng giống như từ

gạo nấu ra rượu, nhưng rượu khác gạo ở chỗ nó có chất say. Từ quan điểm

duy vật trên những người thuộc phái Lokayta kêu gọi phải sống hết mình,

Page 18: lÞch sö triÕt häc

18

hưởng lac: “hãy ăn đi, hãy uống đi cho dù ngày mai sẽ chết” bởi lẽ “kẻ điên

khùng cũng như nhà hiền triết, chết đi rồi thân nát ra thành tro bụi, sẽ tan đi

hết chẳng để lại gì”.

8. Trường phái Phật giáo “Buddha”

Người sáng lập ra đạo Phật là Siddharta (Tất Đạt Đa), về sau được

gọi là Sakyamuni (Phật Thích ca mầu ni). Ông sống vào những năm (563 -

483 Tr.CN).

a. Quan niệm của Đạo Phật về thế giới

Quan niệm về thế giới của đạo Phật được thể hiện bằng bốn tư tưởng

chính là:

+ “Vô tạo giả”: Theo đạo Phật thì mọi cái xảy ra đều có nguyên nhân

của mình, cho nên không có nguyên nhân đầu tiên và cũng không có kết quả

cuối cùng. Do đó đạo Phật không thừa nhận lực lượng sáng tạo thế giới,

không thừa nhận thần thánh. Đây là một tôn giáo vô thần.

+ “Vô ngã”: Mọi cái trong thế giới đều là sự giả hợp của các yếu tố

do nhân duyên hợp nhau mà thành. Ngay cả con người cũng do “ngũ uẩn”

hợp lại mà nên. “ngũ uẩn” (sắc, thụ, tưởng, hành, thức) hội lại thì có ta, tan

ra thì không còn ta, cho nên không có cái tôi vĩnh viễn. Thế giới “vạn pháp”

và đời người chỉ là ảo giả, do vô minh mà thành ra “có”, còn bản chất của nó

là “không”.

+ “Vô thường”: Không có một cái gì là trường tồn, bất biến. Tất cả

đều biến đổi trong một vòng khâu vô tận, không ngừng, không nghỉ. Sinh

vật thì biến đổi trong vòng khâu: sinh - trụ - dị - diệt. Vật vô sinh thì biến

đổi theo chu trình: thành- trụ - hoại- không.

+ “Nhân quả tương tục”: Mọi cái xảy ra đều phải có nguyên nhân,

nguyên nhân nào thì kết quả ấy “trồng dưa đắc dưa, trồng đậu đắc đậu”.

Nhân nhờ có duyên mới thành ra quả.

Page 19: lÞch sö triÕt häc

19

b. Triết lý nhân sinh của Đạo Phật

Triết lý nhân sinh của đạo Phật tập trung vào vấn đề giải thoát đời

người ra khỏi vòng luân hồi - nghiệp báo. Theo đạo Phật đời người cũng

chịu sự chi phối bởi luật nhân quả, theo đó thì tổng hợp tất cả các hành vi

của một kiếp người sẽ tạo ra nghiệp chướng quy định sự luân hồi, tức là chết

đi ở kiếp này để rồi lại phải sinh ra ở kiếp khác, do đó sẽ vĩnh viễn khổ đau.

Do đó phải tìm cách để siêu thoát về cõi Niết bàn. Toàn bộ triết lý này được

thể hiện bằng thuyết “tứ diệu đế”, tức là bốn chân lý lớn.

+ “ Khổ đế”: Đạo Phật cho rằng đời là một “bể khổ”. Khổ đế gồm

“bát khổ”- Sinh khổ, Lão khổ, Bệnh khổ, Tử khổ, Ái biệt ly khổ, Oán tăng

hội khổ, Sở cầu bất đắc khổ, Ngũ thụ uẩn khổ.

+ “Nhân đế” hay “tập đế”: Nỗi khổ của cuộc đời có nguyên nhân của

nó, gồm “Thập nhị nhân duyên”- Vô minh, Duyên hành, Duyên thức, Duyên

danh sắc, Duyên lục nhập, Duyên xúc, Duyên thụ, Duyên ái, Duyên thủ,

Duyên hữu, Duyên sinh, Duyên lão tử.

+ “Diệt đế”: Đạo Phật cho rằng có thể diệt khổ để đạt đến trạng thái

“Niết bàn”, tức là trạng thái tịch diệt, tĩnh lặng, trống rỗng, minh sáng,

không sinh, không diệt.

+ “Đạo đế”: Đạo Phật chỉ ra tám con đường diệt khổ gọi là “bát

chính đạo”, gồm: Chính kiến, Chính tư duy, Chính ngữ, Chính nghiệp,

Chính mệnh, Chính tinh tiến, Chính niệm, Chính định.

Tám con đường trên có thể tóm lại trong ba con đường gọi là “Tam

học”: Giới, Định, Tuệ; được dùng để đối lại ba nguyên nhân chính gây khổ

là “Tam độc”: Tham, Sân, Si.

Sau khi xuất hiện, đạo Phật phát triển nhanh chóng, phân chia ra thành

nhiều chi phái khác nhau. Kinh điển đạo Phật được gọi là kinh Tam tạng. Từ

thế kỷ thứ IX SCN đạo Phật bắt đầu suy tàn ở Ấn Độ và đến cuối thế kỷ thứ

Page 20: lÞch sö triÕt häc

20

XII thì hoàn toàn sụp đổ dưới sự tấn công của đạo Hồi, được du nhập từ Ả

Rập vào. Trước khi bị diệt vong ở Ấn Độ, đạo Phật đã kịp lan truyền sang

các nước khác: lên phía Bắc với phái Bắc tông ( Phật giáo Đại Thừa); xuống

phía Nam với phái Nam tông ( Phật giáo Tiểu Thừa). Ngày nay đạo Phật là

một trong ba tôn giáo lớn nhất thế giới với hàng trăm triệu tín đồ.

IV. KẾT LUẬN CHUNG VỀ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ, TRUNG ĐẠI

Ấn Độ cổ đại là một trong những nền văn minh sớm của nhân loại.

Triết học Ấn Độ cổ đại có truyền thống phát triển lâu đời với rất nhiều

trường phái triết học tôn giáo. Thông qua những trường phái này diễn ra

cuộc đấu tranh giữa các xu hướng như duy vật và duy tâm, tôn giáo và vô

thần, lạc quan và bi quan… Các trường phái này vừa cạnh tranh lẫn nhau,

vừa kế tục nhau, làm hình thành nhiều phạm trù triết học – tôn giáo có tính

đặc trưng như bản thể không, nhân quả, giải thoát…

Triết học Ấn Độ cổ đại đã đặt ra và tìm cách giải quyết nhiều vấn đề

về bản thể luận, nhận thức luận, tâm lý, đạo đức, tâm linh… Cho nên nền

triết học này có nhiều đóng gớp quan trọng về các vấn đề tâm lý học, logic

học, triết lý nhân sinh…

Triết học Ấn Độ cổ đại đã lan truyền và có những ảnh hưởng sâu sắc

trong khu vực và trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

NỘI DUNG THẢO LUẬN VÀ ÔN TẬP

1. Kinh Vêda và tư tưởng chủ yếu của Vêda?

2. Sự phân chia trường phái và khái quát về xu hướng tư tưởng của

các trường phái triết học – tôn giáo Ấn Độ cổ đại?

3. Đạo Phật và nội dung tư tưởng cơ bản của Đạo Phật?

Page 21: lÞch sö triÕt häc

21

CHƯƠNG III. TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI

Mục đích: Làm rõ những điều kiện, tiền đề ra đời và phát triển của

triết học Trung Quốc cổ đại; phân tích những đặc điểm cơ bản của triết

học và nội dung tư tưởng của các trường phái triết học – chính trị Trung

Quốc cổ, trung đại.

Thời lượng: 9 tiết lý thuyết, 2 tiết thảo luận, 1 tiết kiểm tra.

I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ ĐẶC ĐIỂM TRIẾT HỌC TRUNG

QUỐC CỔ ĐẠI

1. Hoàn cảnh ra đời triết học Trung Quốc cổ đại

Về địa lý: Trung Quốc cổ đại là một quốc gia rộng lớn nằm ở Đông-

Bắc châu Á, có hai miền khác biệt. Miền Bắc có lưu vực sông Hoàng Hà,

khí hậu lạnh lẽo, đất đai khô cằn, cây cối thưa thớt, ít sản vật; phía Nam có

lưu vực sông Dương Tử, khí hậu ôn hoà, đất đai màu mỡ, nhiều sản vật.

Về kinh tế - xã hội: Thời cổ đại ở Trung Quốc được bắt đầu từ triều

đại nhà Hạ ( TK XXI Tr.CN - TK XVII Tr.CN); kế đến là triều đại nhà

Thương hay là Ân - Thương( TK XVII - TK XI Tr.CN); cuối cùng là nhà

Chu (TK XI- TK III Tr.CN). Nhà Chu gồm hai giai đoạn là Tây Chu(TK XI

- TK VIII Tr.CN) và Đông Chu(TK VIII - TK III Tr.CN).

Thời Đông Chu, hay còn gọi là thời Xuân thu - Chiến quốc, là thời kỳ

hình thành và phát triển các trường phái triết học. Đây là thời kỳ quá độ từ

chế độ Chiếm hữu nô lệ lên chế độ Phong kiến ở Trung Quốc. Thời kỳ này

có rất nhiều biến động chính trị, chiến tranh xảy ra liên miên, các chư hầu

nổi lên tranh giành lẫn nhau và lấn át nhà Chu làm cho thể chế nhà Chu dần

dần suy tàn. Nền kinh tề nông nghiệp phát triển mạnh mẽ: đã biết dùng gia

súc để kéo cày, công cụ bằng sắt được sử dụng rộng rãi, đã biết làm thuỷ lợi

Page 22: lÞch sö triÕt häc

22

một cách hệ thống. Ở thời Chiến Quốc chế độ mua bán đất đai xuất hiện,

ruộng đất đần dần tập trung trong tay một số người, họ tiến hành phát canh

thu tô làm nảy nở quan hệ sản xuất phong kiến. Năm 221 Tr.CN nhà Tần

tiêu diệt nhà Chu để thiét lập nên một quốc gia phong kiến tập quyền ở

Trung Quốc, đất nước chuyển sang thời trung đại.

Về văn hoá, khoa học: Trung Quốc cổ đại có một nền văn hoá phát

triển rực rỡ. Thời Xuân thu – Chiến quốc được coi là thời kỳ “bách gia chư

tử” (trăm nhà trăm thầy), “bách gia minh tranh” (trăm nhà đua tiếng). Thời

kỳ này nổi lên khoảng mười trường phái triết học lớn nhỏ khác nhau đua

tranh với nhau: Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Pháp gia, Âm Dương gia, Danh

gia, Nông gia, Tạp gia, Tung hoành gia, Tiểu Thuyết gia. Các tri thức khoa

học cũng hình thành và phát triển mạnh như: Thiên văn học, Hoá học, Toán

học, Y học...

2. Đặc điểm triết học Trung Quốc cổ đại

- Triết học Trung Quốc cổ, trung đại có tính nhân văn sâu sắc, chủ yếu

xoay quanh các vấn đề về con người, đạo đức, ít quan tâm đến các vấn đề về

tự nhiên.

- Triết học gắn liền với các vấn đề chính trị, cho nên mồi trường phái

triết học thực chất là một học thuyết chính trị - xã hội - đạo đức.

- Triết học nhấn mạnh sự hài hoà, thống nhất giữa xã hội và tự nhiên,

sự hoà đồng giữa con người và thế giới.

- Tư duy triết học còn mang tình trực quan, thiếu tính lôgíc chặt chẽ,

tản mạn, chưa được luận giải và chứng minh một cách hệ thống.

Page 23: lÞch sö triÕt häc

23

II. TƯ TƯỞNG THỜi KỲ ÂN – THƯƠNG VÀ TÂY CHU

Ở thời kỳ này đã xuất hiện cuộc đấu tranh giữa hai xu hường là thế

giới quan duy tâm, tôn giáo và chủ nghĩa duy vật, vô thần chất phác.

Giới chủ nô quý tộc cầm quyền tuyên truyền thế giới quan duy tâm,

tôn giáo. Họ cho rằng mọi sự đều do cí trời và quỷ thần chi phối, chính

quyền là do trời ban, nghèo hèn hay sang giàu là do mệnh nên khuyên người

ta chấp nhận mệnh mà nghe theo bọn cầm quyền.

Đối lập với quan điểm này là những quan niệm duy vật, vô thần tiến

bộ. Họ tin rằng con người có thể tự quyết định vận mệnh của mình, họ tìm

cách lí giải các hiện tượng tự nhiên từ chính tự nhiên. Tang Văn Trọng cho

rằng chỉ cần người ta chăm làm và tiết kiệm tiền của thì sẽ đề phòng được

thiên tai, dịch bệnh. Sĩ Bá cho rằng dựa vào quỷ thần để giải thích biện hộ

cho hành vi của mình là tội ác lớn nhất. Tử Sản cho rằng đạo trời thì xa, đạo

người thì gần nên bàn về đạo trời là ba hoa, sáo rỗng. Bá Văn Dương giải

thích hiện tượng địa trấn năm 780 Tr.Cn theo quan điểm âm-dương. Tác

phẩm nổi tiếng thể hiện lập trường duy vật, vô thần và biện chứng chất phác

thời kỳ này là Kinh Dịch.

III. TRIẾT HỌC THỜi KỲ XUÂN THU - CHIẾN QUỐC

1. Âm - Dương gia

Phái Âm - Dương do Châu Diễn sáng lập vào khoảng TK III Tr.CN,

trên cơ sở thống nhất hai học thuyết: Âm - Dương và Ngũ hành với nhau.

Thuyết Âm - Dương: Dương nguyên nghĩa là ánh sáng mặt trời. Âm là

thiếu ánh sáng mặt trời. Theo nghĩa rộng thì Âm và Dương được hiểu là

những lực lượng đối lập nhau nhưng lại quy định, ràng buộc nhau, nương

tựa vào nhau, trong cái này đã có cái kia và ngược lại như: sáng và tối, trời

và đất, nóng và lạnh, đực và cái...Sự tương tác giữa hai lực Âm và Dương

Page 24: lÞch sö triÕt häc

24

sinh ra thế giới vạn vật. Trong Kinh Dịch có ghi rằng từ Thái cực (cân bằng,

thống nhất Âm và Dương) sinh Lưỡng nghi (Âm và Dương), từ Lưỡng nghi

sinh Tứ tượng(Thái Dương, Thiếu Dương, Thái Âm, Thiếu Âm), từ Tứ

tượng sinh Bát quái (Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài), từ Bát

quái sinh vạn vật. Âm và Dương mà hoà hợp, đạt đến đạo trung hoà thì vạn

vật sinh sôi, nảy nở; Âm và Dương mà xung khắc thì vạn vật biến đổi, huỷ

diệt. Như vậy thuyết Âm - Dương lấy tự nhiên để giải thích cho tự nhiên nên

nó mang màu sắc duy vật. Nhưng về sau thuyết này được dùng để giải thích

các vấn đề về xã hội, con người, vận mệnh...nên dần dần mang màu sắc duy

tâm thần bí, nhất là khi nó bị giai cấp cầm quyền lợi dụng.

Thuyết Ngũ hành: Ngũ hành được hiểu là năm hoạt động, năm tác

nhân, đó là Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ. Mỗi hành lại có đức riêng của mình:

đức của Hoả là nóng, bốc lên; đức của Thuỷ là ẩm ướt, thấm xuống; đức của

Thổ là cấy và gặt; đức của Mộc là cong và thẳng; đức của Kim là theo và

đổi. Ngũ hành không đứng bên cạnh nhau mà thường xuyên tương tác qua

lại với nhau thông qua hai con đường là Ngũ hành tương sinh ( Thổ sinh

Kim, Kim sinh Thuỷ, Thuỷ sinh Mộc, Mộc sinh Hoả, Hoả sinh Thổ) và Ngũ

hành tương khắc ( Thổ khắc Thuỷ, Thuỷ khắc Hoả, Hoả khắc Kim, Kim

Khắc Mộc, Mộc khắc Thổ). Sự tương tác giữa các hành sẽ làm cho vạn vật

sinh sôi, nảy nở, biến đổi và huỷ diệt không ngừng. Vốn là một học thuyết

duy vật, lấy tự nhiên để giải thích cho tự nhiên, nhưng về sau thuyết Ngũ

hành dần dần chuyển sang lập trường duy tâm khi nó được dùng để giải

thích cho các vấn đề chính trị, xã hội và bị giai cấp cầm quyền lợi dụng.

2. Nho gia

a. Khổng Tử (551 - 479 Tr.CN)

Trường phái Nho gia do Khổng Tử sáng lập. Kinh điển của Nho gia

thường được nói đến là Tứ Thư (Trung Dung, Đại Học, Luận Ngữ, Mạnh

Page 25: lÞch sö triÕt häc

25

Tử) và Ngũ Kinh (Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Xuân Thu). Khổng Tử tên thật là

Khâu, tự là Trọng Ni, người nước Lỗ. Ông viết Kinh Xuân thu, san định các

kinh điển cổ như Dịch, Lễ nhạc… Học trò đời sau biên tập lời Khổng Tử

dạy trước đó, chép thành cuốn Luận ngữ.

* Quan niệm về thế giới: Quan niệm về vũ trụ, về thế giới của Nho gia

chủ yếu xoay quanh ba vấn đề lớn là trời, mệnh và quỷ thần.

- Về trời: Khổng tử có quan niệm dao động về trời. Theo Ông, vạn vật

không ngừng biến đổi, sinh diệt theo đạo của mình. Đạo đó được ông gọi là

“thiên lý”, được hiểu là sự tương tác giữa hai lực âm và dương, là quy luật tự

nhiên, cho nên trời chỉ là giới tự nhiên, vận hành theo bốn mùa: “trời có nói

gì đâu mà bốn mùa vẫn cứ vận hành, trăm vật sinh ra mãi”. Nhưng đạo hay

thiên lý là cái mầu nhiệm, toàn năng, chi phối toàn thể vũ trụ mà ông không

hiểu được, cho nên ông lại ví trời như thần: “có tội với trời thì còn cầu đảo

vào đâu được nữa”.

- Về mệnh trời: Khổng Tử cho rằng vạn vật không ngừng biến hoá

theo những nguyên lý màu nhiệm, sâu kín, không ai cưỡng lại được, và ông

gọi đó là thiên mệnh “sống chết tại mệnh, giàu sang là ý của trời’. Nhưng

ông vẫn khuyên người ta không nên nhắm mắt theo mệnh mà mỗi người

phải tự nỗ lực làm việc mới mong có mệnh tốt.

- Về quỷ thần: Khổng Tử tin là có quỷ thần. Theo ông quỷ thần do khí

thiêng tạo thành, nó có ở mọi nơi và chứng kiến mọi việc con người làm.

Nhưng ông lại cho rằng quỷ thần không can thiệp vào công việc của con

người, cho nên khuyên người ta kính thần mà không nên gần gũi quỷ thần.

* Quan niệm về nhận thức: Nhận thức luận của Khổng tử chủ yếu

hướng vào lĩnh vực chính trị, đạo đức, ít quan tâm đến các vấn đề tự nhiên.

Ông đưa ra rất nhiều phạm trù đạo đức quan trọng như nhân, lễ, nghĩa, trí,

tín, dũng, cung, khoan, mẫn, huệ, trung, hiếu… Ông cho rằng năng lực nhận

Page 26: lÞch sö triÕt häc

26

thức của con người là thiên bẩm, sinh ra đã có sự phân định sẵn: có thượng

trí, có trung nhân, có hạ ngu.

Ông rất quan tâm đến vấn đề giáo dục con người. Ông cho rằng việc

học có ba mục đích: Học để hiểu biết, học để hoàn thiện nhân cách, học để

làm việc. Ông chủ trương “hữu giáo vô loại”, giáo dục không phân biệt đẳng

cấp, bất cứ ai, hễ là loại trung nhân đều có thể dạy cho. Quy trình dạy học là

“tiên học lễ, hậu học văn”. Học văn là học lục nghệ: thi, thư, xạ, ngự, dịch,

nhạc.

* Tư tưởng đạo đức - nhân sinh:

- Vấn đề con người: Triết học của Khổng Tử là nền triết ọc nhân bản,

chủ yếu xoay xung quanh các vấn đề về con người, tính người, đạo đức con

người...

+ Về tính người: Không tử nói "tính tương cận, tập tương viễn", tức là

tính của con người khi sinh ra vốn là giống nhau, gần nhau, nhưng do tập

nhiễm mà thành ra xa nha, khác nhau, kẻ hiền người ác. Từ đó ông chủ

trương giáo hoá để đưa người ta trở về bản tính gần nhau ban đầu. Như vậy

Kổnh Tử coi tính của con người vốn là thiện.

+ Về các hạng người: Trong xã hội con người có sự phân biệt về nhân

cách và địa vị thành ba hạng là quân tử, kẻ sĩ và tiểu nhân. Quân tử là những

người hoàn thiện về nhân cách (theo Khổng Tử, người quâ tử phải có 9 điều:

Khi nhìn phải nhìn cho minh bạch, khi nghe phải nghe cho rõ ràng, sắc mặt

phải ôn hoà, tướng mạo phải trang nghiêm, nói năng phải trung thực, làm

việc phải trọng sự kính nể, điều gì còn nghi hoặc phải hỏi han, khi tức giận

phải nghĩ đến hậu hoạ, khi thấy lợi phải nghĩ đến điều nghĩa). Kẻ sĩ là những

người học hành đỗ đạt để ra làm quan (Theo Mạnh Tử kẻ sĩ phải: "phú quý

bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất" - giàu sang không

Page 27: lÞch sö triÕt häc

27

quyến dũ, khéo khó khong đổi thay, uy vũ không khuất phục). Tiểu nhân là

những kẻ không biết lễ nghĩa, chỉ chạy theo điều lợi.

- Vấn đề đạo đức: Đạo được hiểu là con đường, quy luật tiến hoá của

vạn vật. Đạo người được hiểu là con đường đúng đắn phải theo để xây dựng

những mối quan hệ xã hội lành mạnh. Đức là tính chất của vạn vật, chỉ

những đức tính tốt đẹp mà con người cần phải có. Thuận theo Đạo thì mới

có Đức sáng. Tư tưởng đạo đức của Khổng Tử được khái quát trong luân

thường đạo lý. Thường gồm các đức cơ bản: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng,

cung, khoan, mẫn, huệ. Luân là các quan hệ xã hội - đạo đức cơ bản gồm:

Vua - tôi, cha - con, chồng - vợ, anh - em, bè - bạn.

+Nhân là “ái nhân”, “sở kỷ bất dục vật thi ư nhân”, “kỷ dục lập nhi

lập thân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân”. Lễ là tế lễ; là phong tục tập quán; là

chuẩn mực đạo đức; là quy phạm pháp luật. Nghĩa là làm theo lẽ phải, không

mưu lợi cho riêng mình; là việc ta phải làm, là mệnh lệnh luân lý tối cao cho

nên nghĩa đối lập với lợi. Trí là soi xét thấu đáo vạn vật, hiểu biết điều hay lẽ

phải. Tín là giữ lòng tin với mọi người...

+ Ngũ luân: Kinh lễ đã nêu 11 đức liên quan đến ngũ luân: vua nhân,

tôi trung, cha từ, con hiếu, anh lành, em đễ, chồng hoà, vợ thuận, trưởng có

ân, ấu ngoan, bằng hữu giữ đức tín.

* Tư tưởng chính trị - xã hội: Thời Xuân Thu - Chiến Quốc là thời kỳ

có nhiều biến động chính trị, danh thực tranh nhau, đạo lý lễ nghĩa bị suy đồi

cho nên Nho gia đã đề xuất nhiều chính sách mang tính chất cải lương nhằm

cải tạo xã hội đương thời.

- Chính danh: Danh không chỉ là tên gọi mà trước hết là công dụng

của vật, chức năng chức phận của mỗi người. Danh mà không chính thì lời

nói không thuận, lời nói không thuận thì việc làm không đúng, hình phạt

không trúng, lễ nghĩa bị bỏ...Cho nên cần phải chính danh. Chính danh là gọi

Page 28: lÞch sö triÕt häc

28

tên sự vật đúng tên của nó, sử dụng sự vật đúng với công dụng của nó, làm

việc đúng chức năng chức phận của mình. Chính danh là ngôn phải chính và

thân cũng phải chính, cho nên lời nói phải đi đôi với việc làm.

- Đức trị: Khổng Tử đề cao vai trò, sức mạnh của dân. Ông coi dân là

gốc nước, gốc có vững thì nước mới yên bình. Vì dân là gốc nước cho nên

nước phải lấy dân làm gốc. Vì vậy Khổng Tử chủ trương lấy lễ nghĩa thay

thế cho pháp luật, lấy giáo hoá thay cho hình phạt cho nên ông đưa ra đường

lối đức trị, nhân trị hay lễ trị. Đường lói đức trị của Khổng Tử bao gồm các

yếu tố trị nức như:

+ Giáo hoá dân, dạy cho dân biết lễ nghĩa.

+ Dưỡng dân, nuôi dân cho no đủ, thực hiện chế độ phân phối quân

bình.

+ Nêu gương đạo đức để dân tin, dân theo. Thực hện chính sách

"thượng hiền".

- Xã hội lý tưởng: Khổng Tử mong muốn xây dựng một xã hội đẳng

cấp, có tôn ti trật tự, có trên dưới rõ ràng; các đẳng cấp có trách nhiệm tương

trợ, giúp đơc lẫn nhau. Xã hội lấy gia đình làm cơ sở, trọng hiếu đễ, kính

già, yêu trẻ - một xã hội có lễ; xã hội phải no đủ, lấy nông nghiệp làm nền

tảng, coi trọng giáo hoá và công bằng xã hội; phản đối chiến tranh bạo lực

và hình phạt, dung đức trị, nhân trị, thực hiện chế độ thượng hiền.

b. Mạnh Tử (372 - 289 Tr.Cn)

Mạnh Tử tên thật là Kha, tự là Tử Dư, người nước Châu. Ông vốn là

học trò của Tử Tư – cháu nội của Khổng Tử; Tử Tư là học trò của Tăng Sâm

- một trong số các học trò cũ của Khổng Tử. Mạnh Tử đã phát triển học

thuyết của Khổng Tử theo xu hướng duy tâm.

* Bản thể luận và nhận thức luận

Page 29: lÞch sö triÕt häc

29

- Bản thể luận: Mạnh Tử kế thừa yếu tố duy tâm trong học thuyết của

Khổng Tử, loại bỏ những yếu tố duy vật tự phát của thuyết này, từ đó biến

nó thành một thuyết duy tâm thần bí.

+ Cung giống như Khổng Tử, Mạnh Tử hoàn toàn tin vào mệnh trời

và khuyên người ta phải phục tùng tuyệt đối mệnh trời. Ông cho rằng không

có gì xảy ra mà không theo mệnh, ta nên tuỳ thuận mà chấp nhận lấy cái

mệnh chính đáng ấy.

+ Mạnh Tử coi bản chất của vũ trụ là tâm linh, là vũ trụ đạo lí. Xuất

phát từ quan điểm “thiên nhân cảm ứng” Ông cho rằng đạo trời đồng nhất

với đạo lí của con người, con người là một tiểu vũ trụ bao hàm toàn bộ đại

vũ trụ, cho nên “vạn vật đều có đầy đủ trong ta”, vì thế chỉ cần hiểu được

mình là hiểu được trời.

- Nhận thức luận:

+ Nhận thức luận của Mạnh Tử mang nặng tính duy tâm tiên nghiệm.

Ông cho rằng năng lực nhận thức của con người là tiên thiên, trời phú cho

nên người ta biết được là nhờ vào tâm, đó là cái biết mà sinh ra đã biết, nên

gọi là “sinh tri” (chẳng hạn biết về lễ, nghĩa, trí tín…; tâm biết được là nhờ

vào “lương năng” - tức là không học mà biết và nhờ vào ‘lương tri” - tức là

không nghĩ mà biết. Như vậy Mạnh Tử không tin vào cảm giác kinh nghiệm

mà chỉ tin vào lí tính, tức là chỉ tin vào “tâm”, cho rằng phải nhờ “tâm” mới

biết được bản tính của mình và vạn vật.

+ Vì vạn vật đều có đầy đủ trong ta cho nên con người chỉ cần tận tâm

suy xét ở mình là có thể biết được trời đất, vạn vật “nếu biết được bản tính

của mình là biết được trời rồi đó”. Tuy nhiên không phải ai cũng có khả

năng nhận thức bằng tâm. “Chỉ những bậc chí thành trong thiên hạ mới biết

được cái tính của mình… Biết được tính của mình thì biết được tính của con

người… Biết được tính của con người thì biết được tính của vạn vật… Biết

Page 30: lÞch sö triÕt häc

30

được tính của vạn vật thì có thể giúp vào việc sinh hoá của trời đất… có thể

cung trời đất tham dự mọi việc” (Trung dung).

* Triết lý đạo đức – nhân sinh

- Về con người và đạo đức con người:

+Mạnh Tử có quan niệm duy tâm về con người. Ông cho rằng con

người gồm có hai phần là tâm và khí. Khí lưu hành trong vũ trụ, ngưnmg tụ

lại thành hình nên mới có vạn vật và con người; khí lưu hành trong cơ thể

nên con người mới có sinh trưởng. Tuy nhiên khí không tách rời tâm, tâm là

“vị nguyên soái điều khiển khí”. Như vậy tâm quyết định khí, tinh thần

quyết định vật chất.

+Tâm và khí phải thống nhất với nhau nên cùng với “tồn tâm dưỡng

tính” còn phải “dưỡng khí”. Muốn vậy phải kết hợp việc nghĩa với việc đạo;

phải hiểu đạo lý, theo đạo và tập nghĩa, làm điều thiện; phải giáo dục đạo lý

cho mọi người; phải theo chuẩn mực đạo lí của thánh hiền, theo đó người

học phải kiên trì, cầu tiến và người dạy cũng phải luôn sửa mình làm gương.

+ Mạnh Tử quan tâm đến việc xây dựng một mẫu người lí tưởng:

cương trực, cứng rắn, nhân nghĩa: “Phú quí bất năng dâm, bần tiện bất năng

di, uy vũ bất năng khuất” – Giàu sang không quyến dũ, nghèo khó chẳng đổi

thay, uy vũ không khuất phục.

- Về tính người: Mạnh Tử cho rằng bản tính của con người vốn là

thiện – “nhân chi sơ tính bản thiện”, nhưng do tập nhiễm mà thành ra khác

nhau - kẻ thiện, người ác không phải do bản tính mà do tư dục, hoàn cảnh.

Ông chỉ ra ba lí do để chứng minh cho tính thiện của con người:

+ Một là, Tính thiện được biểu hiện bằng tứ đức. Tứ đức được bắt

nguồn từ tứ đoan, đó là: Lòng trắc ẩn - biết thương sót, đó là đầu mối của

nhân; lòng từ nhượng - biết cung kính, đó là đầu mối của lễ; lòng tu ố - biết

thẹn ghét, đó là đầu mối của nghĩa; long thị phi - biết phân biệt phải trái,

Page 31: lÞch sö triÕt häc

31

đúng sai, đó là đầu mối của trí. Ai sinh ra cũng có đủ tứ đoan, nếu biết gìn

giữ, nuôi nấng nó sẽ trở nên thiện, nếu không sẽ thành ác.

+ Hai là, Người ta, ai cũng có đủ các “quan năng” để nhận biết, phân

biệt phải, trái, đúng, sai, tốt, xấu cho nên ai cũng có thể trở thành thánh

nhân.

+ Thứ ba, Tính thiện bắt nguồn từ tâm, tâm là cái trời phú, sinh ra đã

có. Nếu con người biết “tồn tâm dưỡng tính”, giữ cho tâm được trong sáng

thì nên thiện. Nếu để vật dục che lấp thì nên ác.

Như vậy, muốn gìn giữ bản tính thiện của con người thì cần phải giáo

dục đạo lí chứ không phải bằng hình phạt cưỡng bức.

* Tư tưởng chính trị - xã hội

- Tư tưởng chính trị - xã hội của Mạnh Tử mang nặng tính duy tâm,

thần bí, bảo vệ cho bọn cầm quyền phản động.

+ Ông tuyên truyền chế độ “thần quyền”, cho rằng chính quyền là do

trời trao cho các bậc anh minh để trị dân, cho nên các bậc vua chúa trị dân là

thể theo chí trời.

+ Ông cho rằng thánh nhân là người quyết định lịch sử, làm thay đổi

thời cuộc; theo chu kỳ cứ 500 năm một lần, do sự vận hành của ngũ hành,

âm dương, lại xuất hiện thánh nhân trị vì thiên hạ.

+ Ông bảo vệ chế độ phân biệt đẳng cấp trong xã hội, cho rằng theo

thiên mệnh con người ta ngay từ khi sinh ra đã có sự phân hoá thành hai loại

là lao tâm và lao lực, trong đó lao lực phải nuôi lao tâm, lao tâm thì trị lao

lực. Do đó cần có sự phân biệt trên dưới, tôn ti trật tự rõ rang.

- Mạnh Tử cũng đề xuất nhiều chính sách thể hiện rõ tinh thần trọng

dân.

+ Ông đưa ra thuyết “nhân chính” trong trị nước, phản đối chiến tranh

thôn tính, đòi hỏi bọn quý tộc phải giảm hình phạt đối với dân. Ông kêu gọi

Page 32: lÞch sö triÕt häc

32

chế độ “bảo dân”, lo cho dân được no đủ, an bình, thực hiện chính sách “tỉnh

điền” để cho dân có sản nghiệp, giảm thuế cho dân, giáo hoá dân…

+ Ông kêu gọi thực hiện chính trị trọng dân, đề cao vai trò, sức mạnh

của dân: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”, tức là dân là cái quý

nhất, sau đó mới đến xã tắc sơn hà, cuối cùng mới là ngôi vua vì rằng có dân

mới có nước, có nước mí có vua. Ông vua nào biết trọng dân, biết lo cho dân

thì mới tồn tại, bằng không sẽ bị phế truất.

Như vậy, trong trị nước Mạnh Tử chủ trương dùng nhân nghĩa, phản

đối bạo lực. Nhân nghĩa đối lập với điều lợi, vì theo ông nếu lấy lợi làm gốc

sẽ làm cho người ta tranh giành lẫn nhau vì thế xã hội sẽ loạn. Huệ vương

nước Lương hỏi Mạnh Tử: “Ngài có điều gì làm lợi cho nước Lương

chăng?”. Mạnh Tử trả lời: “Bệ hạ hà tất phải nói đến lợi. Chỉ nói đến điều

nhân nghĩa mà thôi. Nếu bậc quốc vương nói rằng: làm thế nào cho lợi nước

ta; quan đại phu nói rằng: làm thế nào cho lợi nhà ta; kẻ sĩ và thứ dân nói

rằng: làm thế nào cho lợi than ta; kẻ trên người dưới ai nấy đều tranh nhau

mối lợi ắt vận nước đã lâm nguy”.

c. Tuân Tử (315 - 230 Tr.Cn)

Tuân Tử tên thật là Huống, tự là khanh, người nước triệu. Ông phát

triển học thuyết của Khổng Tử theo hướng duy vật. Ông chủ trương kết hợp

lễ nghĩa với pháp luật trong việc trị nước. Tư tưởng này của ông về sau được

học trò Hàn Phi kế thừa, phát triển trong đường lối Pháp gia.

* Bản thể luận và nhận thức luận

- Bản thể luận: Tuân Tử phát triển quan điểm duy vật, vô thần tiến bộ

về thế giới. Ông phản đối tư tưởng về thiên mệnh và quỷ thần của Khổng,

Mạnh.

+ Tuân Tử coi trời chỉ là giới tự nhiên, nó vận hành theo quy luật tự

nhiên. Ông chia vũ trụ ra thành ba bộ phận là trời, đất và người, trong đó:

Page 33: lÞch sö triÕt häc

33

“Trời có bốn mùa, đất có sản vật, người có văn trị”, mỗi bộ phận này đều

vận hành theo quy luật của riêng mình, cho nên việc trời, việc đất và việc

người không lien quan đến nhau. “Trời vẫn làm theo lẽ thong thường, không

vì vua Nghiêu mà để cho còn, chẳng vì vua Kiệt mà làm cho mất. Lấy sự trị

mà đối phó với đạo ấy thì lành, lấy sự loạn mà đối phó với đạo ấy thì dữ”.

“Không phải vì người ta ngại giá rét mà trời bỏ mất mùa đông, chẳng phải

người ta ngại xa xôi mà đất lại rút ngắn”.

+ Tuân Tử cho rằng mọi việc lành, giữ, an, nguy của con người không

phải do mệnh, mà do chính hành vi của con người: “Chăm làm và bớt tiêu

dùng thì trời cũng không làm cho nghèo được. Cái gốc bị bỏ, sự tiêu dung

lại xa xỉ thì trời cũng không làm cho giàu được. Sự dinh dưỡng thiếu thốn,

hành động lại không kịp thời thì trời cũng không làm cho chọn vẹn được.

Trái với đạo trời, trái với tự nhiên mà làm càn, trời cũng không làm cho lành

được”. Tiến xa hơn, Tuân Tử còn cho rằng con người có thể cải tạo được

trời đất. Ông khuyên người ta tích cực làm việc, cải tạo tự nhiên để làm ra

nhiều lúa gạo cho con người.

+ Tuân Tử thể hiện lập trường vô thần tiến bộ trong quan niệm về quỷ

thần. Ông cho rằng quỷ thần không có thật, đó là do sự sợ hãi của con người

tạo nên: “Đi dạo dưới trăng, cúi đầu trông thấy bóng của mình và vạn vật,

lấy làm sợ mà cho là có quỷ thần”. Đối với các hiện tượng tự nhiên như sao

sa, nhật thực, nguyệt thực, động đất… chỉ là sự biến hoá của âm dương, trời

đất, nếu lấy làm lạ thì nên, lấy làm sợ thì không nên. Các hành vi cúng tế,

nghi lễ, phong tục, tập quán… chỉ nên coi là hiện tượng văn hoá để duy trì,

đừng nên lấy đó làm tin.

+ Tuân tử giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lí và khí, tâm và vật.

Ông cho rằng khí là cái cấu thành nên vạn vật, phân biệt sự khác biệt giữa

các vật chất vô sinh, hữu sinh và con người: nước, lửa có khí nhưng vô sinh

Page 34: lÞch sö triÕt häc

34

mệnh. Cây cỏ có sinh mệnh nhưng vô tri. Loài cầm thú có tri nhưng vô lễ

nghĩa. Con người có đủ cả khí, sinh mệnh, tri giác và lễ nghĩa nên con người

là cái quý nhất. Ở con người khí có trước và quyết định lí, vật có trước và

quyết định tâm.

- Nhận thức luận: Tuân Tử thể hiện lập trường duy vật về nhận thức,

cho rằng nhận thức là nhận thức về thế giới vạn vật, rằng con người có thể

nhận thức được các quy luật của thế giới.

+ Ông chia nhận thức ra thành 2 giai đoạn là cảm tính “thiên quan” và

lí tính “tâm”. Nhận thức cảm tính dựa vào các thiên quan chỉ đem lại cho

con người hiểu biết cái bề ngoài. Chỉ có tâm mới đem lại cho con người sự

hiểu biết đúng đắn về sự vật, nhưng hoạt động của tâm không thể thiếu hoạt

động của các quan năng mà phải bắt nguồn từ kinh nghiệm. hai giai đoạn

này còn bổ sung cho nhau: tâm phải lấy cảm giác làm cơ sở, cảm giác phải

lấy tâm để uốn nắn. Như vậy ông đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa

hai giai đoạn nhận thức.

+ Tuân tử còn giải quyết một cách đúng đắn mối quan hệ giữa khái

niệm và sự vật, giữa danh và thực, giữa cái chung và cái riêng. Khái niệm là

phản ánh của sự vật, được rút ra từ các sự vật qua phân tích, so sánh, phân

loại. Danh là để trỏ thực nên phải phù hợp với thực: “Danh là để trỏ thực,

trên là tỏ rõ sang hèn, dưới là để phân biệt cái giống nhau và cái khác nhau”.

Có danh chung để biểu thị sự giống nhau, có danh riêng để biểu thị sự dị

biệt. Danh là do con người quy ước với nhau mà thành nên để tránh loạn

danh cần có sự quy định chặt chẽ, phải dùng pháp luật, quyền thế mà định

danh, phận cho rõ ràng. Cái chung, cái toàn bộ tồn tại thông qua cái riêng,

cái cá biệt. Cái chung bao hàm đại khái cái riêng. Cái chung và cái riêng tuy

khác nhau nhưng không tách rời nhau.

* Tư tưởng chính trị - đạo đức

Page 35: lÞch sö triÕt häc

35

- Về tính người: Tuân Tử coi bản tính của con người là ác, là cá nhân,

ích kỷ, vì mình trước hết: “nhân chi sơ tính bản ác”. Nếu để cho người ta

hành động theo bản tính tự nhiên, thoả mãn những dục vọng sinh lí của mình

thì sẽ gây nên nạn trộm cướp, vô luân. Cho nên phải kết hợp giáo hoá và

hình phạt để kìm chế tính ác: “Sinh ra khuôn uốn là vì có cái cây cong queo,

bày ra dây mực là vì có sự không thẳng, lập quân thượng, sính lễ nghĩa là vì

người có tính ác”. Tính ác không phải là vính viễn mà vẫn có thể sửa được

nhờ vào giáo dục, rèn luyện và hình phạt tạo thành thoi quen làm thiện.

- Về trị nước: Tuân Tử chủ trương kết hợp đức trị với pháp trị, giáo

hoá với hình phạt trong việc trị nước. Ông cho rằng con người khác với cầm

thú vì có tổ chức xã hội và có cuộc sống tập thể. Để duy trì điều đó và kiềm

chế tính ác của con người tất yếu phải có lễ nghĩa và pháp luật, có nhà nước

đứng ra để điều hành. Ông thừa nhận chế độ phân biệt đẳng cấp trong xã hội

xuất phát từ sự khác nhau về điều kiện sống, thói quen (chứ không phải khác

nhau về quyền sở hữu tư liệu sản xuất).

3. Đạo gia

Người sáng lập ra trường phái Đạo gia là Lão Tử (TK VI Tr.CN) với

cuốn sách Đạo đức kinh. Người có công hoàn thiện tư tưởng của Đạo gia là

Trang Tử (396 - 286 Tr.CN) với cuốn Nam hoa kinh. Ngoài ra còn có

Đương Chu (395 – 335 Tr.Cn) chuyên bàn về các vấn đề nhân sinh.

a. Lão Tử (cuối thời Xuân thu)

Lão Tử tên thật là Lý Nhĩ, tự là Bá Đương hay còn gọi là Lão Đam.

Ông là người nước Sở, vốn làm quan giữ sách cho nhà Chu, về sau từ quan

về ở ẩn trong núi. Ông viết cuốn “Đạo đức kinh”.

* Bản thể luận

- Học thuyết về Đạo

Page 36: lÞch sö triÕt häc

36

+ Nền tảng của toàn bộ triết học Lão Tử là học thuyết về Đạo. Đạo là

bản thể, vừa là gốc, bản chất, vừa là quy luật chi phối vạn vật. Nó là một cái

trừu tượng, hỗn độn, không rõ ràng, không đồng nhất với những cái đang tồn

tại trong tự nhiên. “Có vật gì trong sự hỗn độn, có trước cả trời đất, vừa

trống không vừa lặng yên đứng một mình không đổi, lưu hành khắp trốn

không mỏi, có thể là mẹ của thiên hạ. Ta không biết nó tên gì nên mới đặt

tên cho là Đạo và gượng cho là lớn” (Đạo đức kinh).

+ Đạo là sự thống nhất giữa “Vô” và “Hữu”, “Vô” là thể của Đạo,

“Hữu” là dụng của Đạo. “Vô” là vô danh, vô phác, không có tên gọi, không

có hình thể do đó “Đạo khả Đạo phi thường Đạo, Danh khả Danh phi

thường Danh” (Đạo đức kinh). Đạo còn là “Hữu” vì nó sinh ra vạn vật và

tồn tại ngay trong vật, mỗi vật đều là biểu hiện của Đạo lớn. Tuy nhiên Đạo

không đồng nhất với vạn vật vì vạn vật có hình thể và có tên gọi.

+ Đạo còn là quy luật chi phối vạn vật, không gì thoát ra được nên gọi

là “Đạo pháp tự nhiên”. Trong quan niệm của Lão Tử, Đạo có bản chất vật

chất vì Đạo sinh ra vạn vật hoàn toàn theo lẽ của tự nhiên, không có tư dục,

không có mục đích.

- Tư tưởng biện chứng

+ Đạo là vĩnh viễn, bất biến nhưng nó lại là nguồn gốc cho mọi sự

biến đổi của vạn vật. Sự biến đổi của vạn vật tuân theo 2 quy luật phổ biến là

luật Quân bình và luật Phản phục. Luật Quân bình giữ cho các sự vật biến

đổi theo xu hướng trở về trạng thái cân bằng. Luật Phản phục làm cho sự

biến đổi diễn ra trong một vòng tròn khép kín, lặp đi lặp lại không ngừng.

+ Tư tưởng biện chứng của Lão Tử còn được thể hiện ở việc thừa

nhận tính mâu thuẫn của hiện thực. Mỗi sự vật đều là thể thồng nhất của các

mặt đối lập. Các mặt đối lập vừa xung khắc với nhau, vừa nương tựa vào

Page 37: lÞch sö triÕt häc

37

nhau, chuyển hoá vào nhau “Ai cũng biết đẹp là đẹp tức là còn có cái xấu...

hoạ là chỗ tựa của phúc, phúc là chỗ náu của hoạ”.

* Nhận thức luận

- Lão Tử có quan điểm bất khả tri về Đạo, cho rằng Đạo không thể

nhận thức được bằng giác quan và trí tuệ thông thường mà phải bằng trực

giác tâm linh.

- Đạo gia coi thường nhận thức cảm tính và trí tuệ thông thường vì

cho rằng chúng chỉ giúp con người nhận thức các hiện tượng, nhưng con

người hiểu càng nhiều về vật thì càng xa với Đạo: “Càng đi xa càng biết ít.

Người quân tử ngồi trong nhà không ra ngoài mà biết được việc thiên hạ,

không nhòm qua khe cửa mà biết được đạo trời”.

* Tư tưởng đạo đức – nhân sinh

- Triết lí vô vi: Nền tảng của tư tưởng chính trị đạo đức của Đạo gia là

triết lý “vô vi”. “Vô vi” có nghĩa là không làm gì trái với tự nhiên, cho nên

tất cả những gì là giả tạo, nhân tạo đều phải được bãi bỏ.

- Về đạo đức: Trong cuộc sống, Đạo vô vi đòi hỏi phải tôn trọng bản

tính tự nhiên của người, của vật, không được dùng sức mạnh để chiếm đoạt,

sống hoà đồng với tự nhiên. Các chuỷân mực đạo đức cơ bản là: cần kiệm,

từ ái, không tranh giành.

* Tư tưởng chính trị - xã hội:

- Vô vi trị:

Trong chính trị, Đạo vô vi đòi hỏi phải từ bỏ những cái trói buộc con

người, do con người tự nghĩ ra như pháp luật, lễ nghĩa, danh lợi...Đạo gia

chủ trương: “vô vi nhi trị”- Nếu trong xã hội mọi người đều không làm gì thì

xã hội tự nó thịnh trị.

- Xã hội lí tưởng: đó là một xã hội nước nhỏ, dân ít, không ai đi xa, có

ngựa xe không ngồi, có gươm đao không dùng, bỏ văn tự, người ta trở về

Page 38: lÞch sö triÕt häc

38

thuật thắt nút ghi dấu, hai nước cạnh nhau vẫn nghe thấy gà gáy, chó sủa mà

đến già chết vẫn không qua lại…

b. Đương Chu (khoảng 395 – 335 Tr.Cn).

Đương Chu, tự là Tử Cư, là người nước Vệ. Ông chủ yếu bàn đến các

vấn đề triết lí nhân sinh.

* Bản thể luận

Đương Chu mang quan niệm duy vật không triệt để về thế giới. Ông

cho rằng mọi cái đều xảy ra theo nguyên lí tất yếu, không phụ thuộc vào ý

muốn chủ quan của con người, không do lực lượng thần thánh hay ma quỷ

chi phối. Mọi cái, theo bản tính tự nhiên, có sinh ắt có diệt, có sống ắt có

chết: “Đời sống vạn vật, con người theo bản tính tự nhiên tự sinh, tự diệt;

than thể tự nó khoẻ mạnh, tự nó bạc nhược”. Tuy nhiên cái nguyên lí tất yếu

là cái mầu nhiệm, khó hiểu nên ông gọi đó là “thiên mệnh”.

* Triết lí nhân sinh

- “Tồn ngã”: Con người là sản phẩm cao quý nhất của tự nhiên, sinh

ra từ đạo tự nhiên, cho nên đã sinh ra rồi thì phải bảo tồn sự sống của mình.

Con người có thiên tính “tồn ngã”: “Con người, bản chất giống trời đất, có

đức tính của Ngũ hành, là loài tối linh trong vạn vật. Thân ta không phải của

ta, nhưng đã có chúng rồi thì không thể diệt chúng được”.

- Để tồn ngã thì phải “quí sinh” và “trọng kỉ”.

+ “Quí sinh” là quí mạng sống của mình, nhưng đồng thời phải tôn

trọng sự sống của người và vạn vật cho nên không dung bạo lực để xâm

chiếm, không can thiệp thô bạo vào bản tính tự nhiên của vạn vật và người

khác. Do đó con người phải sống hoà đồng với tự nhiên, coi ta như vật, coi

vật như ta, không phân biệt sống - chết, giàu – nghèo, quí - tiện… Như vậy

quí mạng sống nhưng cũng sãn sang đón nhận cái chết.

Page 39: lÞch sö triÕt häc

39

+ “Trọng kỉ” là phải tìm cách đáp ứng mọi nhu cầu, thị hiếu tự nhiên

của mình. Từ đó Ông đề cao quyền tự do cá nhân, kêu gọi chủ nghĩa khoái

lạc, sống hết mình, nhưng đồng thời không làm phương hại đến người khác.

- “Vị ngã”: là vì mình trước hết. Đây là cốt lõi của triết lí nhân sinh

của Đương Chu.

+ “Vị ngã” là yêu mình trước hết: “Yêu ngươì nước gần hơn người

nước xa, yêu người trong nước hơn người ngoài nước, yêu cha mẹ hơn

người ngoài, yêu mình hơn hết”.

+ “Vị ngã” là sống theo đúng bản tính tự nhiên của mình, không ham

sống, ghét chết; không luỵ vật, không bị danh vọng, tiền tài tri phối; không

bị ràng buộc bởi luân lí, lễ nghĩa cứng nhắc.

+ “Vị ngã” là sống vì mình mà không hại người, không cho ai hay lấy

của ai cái gì: “Đương Chu này, mất một sợi lông chân mà làm lợi cho thiên

hạ cũng không cho, mà có đem cả thiên hạ phụng dưỡng bản thân mình cũng

không nhận”. Cho nên vị ngã không phải là chủ nghĩa cá nhân ích kỉ.

* Tư tưởng chính trị - xã hội

Đương Chu xuất phát từ tư tưởng “vị ngã” mà phản đối mọi đường lối

đức trị, pháp trị vì chúng hạn chế tự do cá nhân, trái với đạo tự nhiên:

“Người ta dung cách thưởng phạt để khuyên ngăn, dung danh vọng và pháp

luật để cấm đoán; người ta canh cánh đua nhau để được cái hư danh một

thời, cầu cạnh hư vinh sau khi chết; cứ nhớ tới cái phải trái mà không dám

cho tai mắt được theo sở thích của mình, làm mất cái lạc thú trước mắt,

không được thoả thuê phóng túng lúc nào cả. Như vậy có khác gì gong cùm

không?”.

Ông phản đối bọn Nho, Mặc chỉ ham sống lâu, ham danh vọng, địa vị,

ham tiền tài nên không được thanh thản, luôn sợ quỉ thần, sợ kẻ có quyền…

Ông kêu gọi trị nước phải bằng đạo vô vi, vị ngã: “Nếu mọi người đều

Page 40: lÞch sö triÕt häc

40

không chịu mất một cái lông chân mình, đều không muốn làm lợi cho thiên

hạ thì thiên hạ tự trị”.

c. Trang Tử (369 – 286 Tr.Cn)

Trang Tử tên thật là Trang Chu, người nước Tống. Ông từng làm quan

Tất viên cho xứ Mông, sau đó từ quan về sống cuộc sống thanh bạch, giản

dị. Ông viết tác phẩm “Nam hoa kinh”.

* Bản thể luận và nhận thức luận

- Học thuyết về Đạo: Kế thừa học thuyết về Đạo của Lão Tử, Trang

Tử đã biến học thuyết này thành duy tâm, thần bí.

+ Nếu như Đạo của Lão Tử là sự thống nhất giữa vô và hữu thì Đạo

của Trang Tử là hư vô: “Trong cái không sinh cái có, cái có không thể lấy

cái có làm cơ sở”.

+ “Đạo sinh ra tinh thần, còn tinh khí mới sinh ra hình thể”, như vậy

đạo là tinh thần, khác với Lão Tử coi đạo là vô thức.

+ Đạo sinh ra vạn vật và tồn tại thong qua vạn vật, cho nên mỗi vật,

dù lớn hay bé, sang hay hèn… đều là biểu hiện của Đạo, nên Đạo tồn tại mọi

nơi.

+ Sinh ra từ Đạo tự nhiên nên vạn vật có bản tính tự nhiên của mình,

chúng biến đổi không ngừng, sinh diệt, sống chết theo lẽ tự nhiên.

- Nhận thức luận: Nhận thức luận của Trang Tử chịu ảnh hưởng bởi tư

tưởng của Lão Tử và Huệ Tử - người thuộc môn phái Danh gia.

+ Giống như Lão Tử, Trang Tử có quan niệm bất khả tri về Đạo. Ông

cho rằng Đạo không thể nhận thức được bằng giác quan và trí tuệ thong

thường: “Đạo chẳng có thể nghe được, nghe được không còn là Đạo. Đạo

chẳng có thể thấy được, thấy được không phải là nó nữa. Có thể nào lấy trí

để hiểu cái hình dung của cái không có hình dung được chăng? Vậy thì

không nên đặt tên cho nó”. Nên để hiểu Đạo phải bằng con đường trực giác

Page 41: lÞch sö triÕt häc

41

tâm linh, muốn vậy phải sống hòa đồng với thiên nhiên (câu chuyện “đọc

thánh nhân”).

+ Trong quan niệm về vạn vật Trang tử chịu ảnh hưởng bởi chủ nghĩa

tương đối của Huệ Thi, phát triển nó thành hoài nghi luận, xóa nhòa danh

giới giữa các vật.

Ông cho rằng sinh ra từ đạo tự nhiên nên mỗi người, mỗi vật đều có

bản tính tự nhiên của mình: Cái là lớn so với vật này lại là bé so với vật

khác, cái là tốt với người này lại là xấu với người khác… “Không gì lớn

bằng sợi long mùa thu mà núi Thái sơn lại là nhỏ. Không ai thọ bằng đứa trẻ

chết yểu mà Bành tổ lại là yểu”.

Vì vạn vật là tương đối nên nhận thức của con người về chúng cũng

chỉ là tương đối. Từ đó Trang Tử cho rằng mọi tri thức đều là chủ quan,

không có chân lí khách quan (Mao Đường và Lệ Cương là những người đẹp

nổi tiếng, nhưng nhìn thấy thì chim bay, cá lặn, thú bỏ chạy, vậy là không

đẹp). Từ đó Ông kêu gọi không nên phân biệt mà coi tất cả là “đồng nhất

thể”: “Trời đất với ta cùng sinh, vạn vật với ta là một”.

* Tư tưởng chính trị - đạo đức

- Thể theo bản tính tự nhiên con người phải sống vô vi, vô sự, không

can thiệp vào trạng thái tự nhiên của vạn vật: “Trâu ngựa có bốn chân, thế là

tự nhiên. Ràng đầu ngựa, xỏ mũi trâu, thế là người. Cho nên bảo chớ lấy

người hại trời, lấy việc hại mệnh”.

- Trong đạo trị nước Ông cũng chủ trương vô vi, vô sự, phản đối việc

dùng lễ nghĩa, pháp luật trói buộc con người như trói buộc trâu ngựa, như

thế là trái với tự nhiên.

4. Mặc gia

a. Mặc Tử (479 – 381 Tr.Cn)

Page 42: lÞch sö triÕt häc

42

Người sáng lập ra đường lối Mặc gia là Mặc Tử, tên là Địch. Tư

tưởng của Ông được thể hiện trong cuốn sách Mặc Tử gồm 53 thiên.

* Bản thể luận và nhận thức luận

- Mặc Tử phản đối thiên mệnh, cho rằng con người tự mình quyết

định vận mệnh của mình. Theo Mặc Tử, mọi sự giàu hay nghèo, sống hay

chết, hoạ hay phúc không phải do số mệnh quy định mà là do hành vi con

người gây nên, “do sức ta chưa đủ, lực ta chưa mạnh”. Ông cho rằng chỉ cần

chăm làm và tiết kiệm trong tiêu dung thì sẽ no đủ. Còn nếu tin vào mệnh

trời và chờ mệnh thì trên sẽ không lo việc chính trị mà xã hội thành ra loạn,

dưới sẽ không chịu làm việc mà thành ra nghèo đói.

- Không tin vào mệnh nhưng lại tin vào Trời và quỷ thẩn. Mặc Tử cho

rằng chí Trời là nguyên tắc tối cao cho hành vi của con người, Trời và quỷ

thần luôn công minh ban thưởng cho những người làm tốt và trừng phạt

những kẻ làm xấu: “Vua vũ, vua Văn, vua Thang làm việc, trên thì tôn Trời,

giữa thờ quỷ thần, dưới yên lòng dân cho nên ý Trời nói rằng: Người này

gồm yêu hết thảy những kẻ mà ta yêu, làm lợi hết thảy những kẻ mà ta muốn

làm lợi… Bởi vậy Trời mới khiến cho sang thì làm đến thiên tử, giàu có cả

thiên hạ, cơ nghiệp để lại cho con cháu muôn đời. Vua Kiệt, vua Trụ, vua U,

vua Lệ làm việc, trên thì chê Trời, giữa chê quỷ thần, dưới rẻ người. Cho

nên ý Trời nói rằng: Người này phân biệt những kẻ ta yêu ra để mà ghét, còn

những kẻ ghét người thì hắn cho được rộng rãi, những kẻ hại người thì hắn

cho được hậu hỹ. Bởi vậy Trời mới khiến cho không hết tuổi thọ, không

được trọn đời”.

- Nhận thức luận: Mặc Tử đề cao vai trò của nhận thức kinh nghiệm

và thực tiễn. Ông đưa ra thuyết Tam biểu, lấy đó làm tiêu chuẩn cho chân lý:

“Bản”(gốc) là dựa vào chí của trời và việc làm của thành vương đời trước;

Page 43: lÞch sö triÕt häc

43

“nguyên”(nguồn) là dựa vào tai mắt trăm họ; “dụng” là đem áp dụng vào

thực tế xem có đem lại lợi cho trăm họ hay không.

* Tư tưởng chính trị - xã hội:

- Mặc Tử đưa ra thuyết “Kiêm ái”, kêu gọi mọi người bằng tình yêu

thương lẫn nhau mà duy trì trật tự xã hội. Kiêm ái là gồm yêu tất thảy, không

phân biệt thân hay sơ, sang hay hèn, xa hay gần, ta hay người. Kiêm ái là thể

theo chí trời, là có lợi cho tất cả mọi người “kiêm tương ái, giao tương lợi”,

cho nên kiêm là đúng, biệt là sai.

- Để kiêm ái thì phải thống nhất được ý chí của mọi người từ trên

xuống dưới, phải thực hiện chính sách “Thượng đồng”, tức là dưới nhất nhất

phải nghe theo trên, “điều gì bề trên bảo là đúng thì cũng phải cho là đúng,

điều gì bề trên nói là sai thì cũng phải bảo là sai...”.

- Để thực hiện “Thượng đồng” thì phải thực hiện chính sách “Thượng

hiền”, tức là phải lựa chọn người hiền tài ra làm quan giúp nước và vua phải

là người hiền tài nhất

b. Phái hậu Mặc

Phái Hậu Mặc thời Chiến quốc gồm năm đại diện là Tường Lý, Tường

Phu, Khổ Hoạch, Đăng Lăng, Sỹ dĩ.

- Phái Hậu Mặc phát triển quan điểm duy vật về thế giới, coi vật chất

là bất diệt, thừa nhận vận động diễn ra trong không gian và trong thời gian,

coi vận động là vận động cơ học và tìm cách phân loại các hình thức vận

động máy móc. Họ cho rằng thuộc tính của sự vật là khách quan chứ không

phụ thuộc vào chủ quan con người.

- Phái Hậu Mạc phát triển quan điểm duy vật về nhận thức.

+ Họ cho rằng nhận thức phải có 2 yếu tố là hoạt động cảm nhận của

các quan năng (Ngũ lộ) và tác động của các vật thể lên chúng. Họ chia nhận

thức thành 2 giai đoạn là cảm tính (Ngũ lộ) và lý tính (Tâm), trong đó tâm

Page 44: lÞch sö triÕt häc

44

mới đem lại sự hiểu biết sâu sắc vì tâm lien kết các cảm giác thành chỉnh thể

(Một hòn đá trắng và cứng, nhờ mắt mà biết là trắng, nhờ thân mà biết là

cứng, muốn biết nó vừa trắng vừa cứng phải nhờ tâm liên kết).

+ Họ cho rằng tri thức có ba nguồn gốc: “Văn tri” nhờ người khác

truyền thụ mà co; “thân tri” do giác quan đêm lại; “thuyết tri” nhờ suy luận

mà có.

+ Có bốn loại hiểu biết là: Hiểu biết về “danh” – tên gọi, hiểu biết về

“thực” - vật, hiểu biết về “hợp” – danh tương ứng với thực, hiểu biết về

“hành động” – thông qua hành động thực tế để xem danh có tương ứng thực

hay không. Họ đi gần đến quan niệm coi thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý

với quan niệm “phù hợp thì thắng”.

+ Họ phát triển các phép suy luận lôgíc với 6 phương pháp biện luận

là: phép hoặc, phép giả, phép bắt chước, phép so sánh, phép tương tự và

phép suy.

5. Pháp gia

a. Sự hình thành tư tưởng Pháp gia

Người ta cho rằng Quản Trọng (Khoảng thế kỉ thứ 6 Tr.Cn) là người

đầu tiên bàn về đường lối Pháp trị. Quản Trọng cho rằng trị nước phải coi

trọng 4 điều là: luật, hình, lệnh và chính. Luật là để định danh phận cho mỗi

người mà dân không tranh. Lệnh là để cho dân biết việc mà làm. Hình là để

trừng phạt những kẻ làm trái luật và lệnh đã ban. Chính là sửa cho dân theo

đường ngay, lẽ phải.

Các nhà Nho phản đối dung pháp luật trong trị nước, tuy nhiên họ

cúng thừa nhận có lễ cho hang đại phu và có hình dành cho thứ dân, trong đó

“Lễ không đến thứ dân, hình không đến đại phu”.

Page 45: lÞch sö triÕt häc

45

Các đại biểu của Pháp gia thời Chiến quốc đưa ra những chủ trương

trị nước khác nhau: Thận Đáo chủ về Thế, Thân Bất Hại chủ về Pháp,

Thương Ưởng chủ về Thuật.

b. Tư tưởng Pháp gia của Hàn Phi Tử (280 – 233 Tr.Cn)

Ông là đại biểu tiêu biểu nhất của Pháp gia. Hàn Phi Tử là công tử

nước Hàn, vốn là học trò của Tuân Tử. Ông làm quan cho nước Tần, được

vua Tần trọng dụng nhưng sau đó bị tể tường Lý Tư dèm pha, bị bắt bỏ ngục

và bức uống thuốc độc mà chết. Tư tưởng của Hàn Phi được thể hiện trong

cuốn sách Hàn Phi Tử gồm 55 thiên.

- Bản thể luận của Hàn Phi:

+ Ông chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng duy vật và vô thần của Lã Tử và

Tuân Tử. Ông cho rằng Đạo là quy luật phổ biến tri phối vạn vật. Mỗi vật

đều chịu sự tri phối bởi đạo, nhưng đều có cái lý của riêng mình, trong đó

Đạo là bất biến còn lý thì luôn biến đổi, vì thế con người phải tuỳ cơ ứng

biến cho hợp với lý của vạn vật.

+ Tự nhiên không có ý chí, không do thần thánh tạo ra, tồn tại khách

quan không phụ thuộc vào ý chí của con người hay thần thánh. Con người

không thể làm thay đổi quy luật tự nhiên.

+ Tự nhiên không tri phối hoạt động của con người mà chính hành vi

con người quyết định vận mệnh của mình.

+ Không có quỷ thần thật mà quỷ thần là do những dủi do trong cuộc

sống của con người đẻ ra, do đó nếu con người không bị ốm đau bệnh tật,

chăm làm và tiết kiệm thỉ quỷ thần không thể quấy nhiễu con người.

- Quan niệm về lịch sử:

Hàn Phi coi động lực của sự phát triển lịch sử là sự phát triển dân số

và của cải nhiều hay ít. Ông cho rằng thời Nghiêu, Thuấn con người thì ít,

Page 46: lÞch sö triÕt häc

46

của cải trong tự nhiên thì nhiều nên hoà thuận. Ngày nay người thì đông, của

cải thì ít nên tranh giành, chiến tranh…

Ông chia lịch sử thành ba thời kỳ: Thời Thượng cổ con người đã biết

dung cây làm nhà, dung lửa nấu chin thức ăn. Thời Trung cổ con người đã

biết làm thuỷ lợi, khắc phục thiên tai. Thời Cận cổ xuất hiện giai cấp, chiến

tranh…

- Tư tưởng Pháp trị:

+ Hành Phi chứng minh tính tất yếu của pháp luật. Ông chỉ ra 2 lý do:

Thứ nhất, ngày xưa dân ít, của cải nhiều, không có tranh giành nên không

cần hình phạt. Ngày nay dân nhiều, của cải ít nên tranh giành, chiến tranh

nên cần hình phạt. Hơn nữa pháp luật cũng phải luôn thay đổi cho phù hợp

với cái lý của sự vật. Thứ hai, do tính của con người vốn là ác, là luôn “mưu

lợi cho riêng mình”, cho nên cần dung pháp luật để uốn nắn: “Trị nước

không cậy người tự làm thiện mà khiến người không được làm trái.Cậy

người tự làm thiện thì trong nước chẳng được mười người, khiến người

không được làm trái thì một nước có thể khiến cho yên. Nếu phải đợi gỗ

thẳng mới làm tên bắn thì trăm đời chưa có tên, nếu phải đơih cho gôc tròn

mới làm bánh xe thì trăm đời chưa có bánh xe”.

+ Hàn Phi cho rằng trị nước phải dùng cả pháp, thuật và thế.

“Pháp” là luật pháp được ghi thành văn bản bắt buộc, công khai cho

tất cả mọi người.

“Thuật” là nghệ thuật dùng người, điều hành công việc của kẻ cầm

quyền.

“Thế” là uy của kẻ cầm quyền khiến mọi người phải nể sợ mà tuân

theo.

6. Danh gia

Page 47: lÞch sö triÕt häc

47

Đây là trường phái nguỵ biện, chuyên dùng lối chơi chữ để tranh biện.

Họ thường đưa ra những mệnh đề mâu thuẫn, ngược đời để tranh luận với

người đời. Tuy vậy phái này cũng có những tư tưởng biện chứng sâu sắc.

a. Huệ Thi (Khoảng 370 – 310 Tr.Cn)

Ông là người nước Tống, từng làm tướng quốc nước Nguỵ, vốn là bạn

thân của Trang Chu.

- Cơ sở biện thuyết của Huệ Thi là chủ nghĩa tương đối. Ông cho rằng

vạn vật đều có cái giống nhau và cái khác nhau, có chứa chấp các mặt đối

lập cho nên mọi sự phân biệt lớn hay bé, cao hay thấp, dài hay ngắn… đều là

tương đối: “Cái lớn nhất không có gì ở ngoài, gọi là đại nhất; cái nhỏ nhất

không thể chứa gì bên trong; gọi là tiểu nhất”. “Cái không có độ dày thì

không thể chứa thêm được gì, nhưng độ lớn của nó là ngàn dặm”. “Trời thấp

bằng đất, núi cao bằng đầm”.

- Vạn vật luôn biến đổi cho nên không gian, thời gian cũng chỉ là

tương đối: “Mặt trời vừa đứng bóng, vừa xế tà”. “Hôm nay đi sang nước

Việt mà hôm qua đã đến”. “Ta biết chỗ giữa của thế giới – Nó ở phía Bắc

của nước Yên (nước Yên ở cực bắc) và phía Nam của nước Việt (nước Việt

ở cực Nam)”. “Phương Nam không giới hạn mà có hạn”. “Vòng liên hoàn

có thể cởi”.

- Vì tất cả đều là tương đối cho nên con người không thể nhận thức

đúng được sự vật, không có tiêu chuẩn khách quan cho chân lý, từ đó đi đến

quan điểm: “Rộng yêu muôn vật, trời đất là một thể”. “Cái giống nhau lớn

mà khác với cái giống nhau nhỏ. Vạn vật ở một phương diện đều giống

nhau, ở một phương diện đều khác nhau, đấy gọi là giống nhau và khác nhau

lớn”.

- Tư tưởng biện chứng của Huệ Thi được thể hiện ở chỗ ông thừa

nhận sự biến đổi và tính mâu thuẫn của thế giới vạn vật.

Page 48: lÞch sö triÕt häc

48

b. Công Tôn Long (khoảng 320 – 250 Tr.Cn), người nước Triệu

Cùng xuất phát từ chủ nghĩa tương đối, nhưng Huệ Thi coi trọng sự

giống nhau để đi đến kêu gọi “đồng nhất thể”, thì Công Tôn Long lại tuyệt

đối hoá mặt khác biệt giữa các sự vật hiện tượng.

- Công Tôn Long tìm cách tách rời cái chung ra khỏi cái riêng, thuộc

tính ra khỏi sự vật và nhìn nhận chúng như là những hiện tượng độc lập. Từ

đó đưa ra mệnh đề nguỵ biện “Bách mã phi mã” - ngựa trắng không phải là

ngựa.

+ Ngựa để gọi hình, trắng để gọi màu, gọi màu không phải gọi hình,

cho nên ngựa trắng (gọi màu) không phải ngựa (gọi hình).

+ Ngựa trắng là ngựa với trắng, còn ngựa chỉ là ngựa nên ngựa trắng

không phải là ngựa (khác nhau về nội hàm).

+ Gọi ngựa thì có thể đem đến ngựa trắng, ngựa đen, ngựa vàng

nhưng gọi ngựa trắng thì chỉ có thể đem đến ngựa trắng, cho nên ngựa trắng

không phải là ngựa (khác nhau về ngoại diên).

- Tương tự như vậy, khi luận bàn về trắng và cứng: “Ly kiên bạch” –

tách rời trắng và cứng. Một hòn đá trắng và cứng. Khi nhìn thì nó chỉ trắng

mà không cứng. Khi sờ thì nó chỉ cứng mà không trắng. Cho nên trắng và

cứng là hai cái khác nhau, được ghép với hòn đá là cái thứ ba.

- Công Tôn Long đưa ra những mệnh đề nguỵ biện, ngược đời: “Gà

có ba chân”. “Cóc có đuôi”. “Lửa không nóng”. “Bánh xe không nghiến

xuống đất”. “Mắt không thấy”. “Ngựa có trứng”. “Cái dây một thước, mỗi

ngày lấy đi một nửa mà cả đời không hết”…

IV. KẾT LUẬN CHUNG VỀ TRIẾT HỌC TRUNG HOA CỔ ĐẠI

1. Triết học Trung Quốc cổ đại có truyền thống lâu đời, chứa đựng

cuọc đấu tranh tư tưởng sâu sắc giữa thế giới quan duy tâm, tôn giáo với thế

Page 49: lÞch sö triÕt häc

49

giới quan duy vật tiến bộ. Cuộc đấu tranh này phản ánh cuộc đấu tranh giữa

các giai tầng xã hội có địa vị đối lập nhau.

2. Triết học Trung Quốc cổ đại có nhiều trường phái, học thuyết khác

nhau, bàn về hầu hết các vấn đề quan trọng như bản thể luận, nhận thức

luận, triết lí nhân sinh đạo đức, tư tưởng chính trị nên có những đóng góp

quan trọng cho kho tang tri thức của nhân loại.

3. Triết học Trung Quốc cổ đại ra đời và phát triển trong bối cảnh có

nhiều biến động chính trị cho nên nó quan tâm chủ yếu đến các vấn đề nhân

sinh – chính trị.

4. Triết học Trung Quốc không được trình bày một cách chặt chẽ logic

mà chủ yếu sử dụng các châm ngôn, ẩn dụ, ngụ ngôn triết học với ý tứ thâm

trầm, sâu sắc.

NỘI DUNG THẢO LUẬN VÀ ÔN TẬP

1. Nội dung tư tưởng của trường phái Âm – Dương?

2. Nội dung tư tưởng của Nho gia?

3. Nội dung tư tưởng của Đạo gia?

Page 50: lÞch sö triÕt häc

50

CHƯƠNG IV. LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC VIỆT NAM

Mục đích: Khái quát một số những nét chính về hoàn cảnh kinh tế -

xã hội, đặc điểm và xu hướng tư tưởng chính trong lịch sử tư tưởng Việt

Nam.

Thời lượng: 3 tiết lý thuyết.

I. HOÀN CẢNH KINH TẾ XÃ HỘi VÀ ĐẶC ĐIỂM TƯ TƯỞNG

TRIẾT HỌC VIỆT NAM

1. Hoàn cảnh kinh tế xã hội

Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam Á, thuộc vùng khí hậu Nhiệt đới

– Gió mùa, khí hậu ôn hoà, đất đai mầu mỡ. Điều đó thuận lợi cho việc phát

triển kinh tế nông nghiệp, nhất là nghề trồng lúa nước.

Từ thời Lý (1010 – 1225) trở về trước, Việt Nam mang màu sắc của

phương thức sản xuất Phương Đông: đất đai thuộc sở hữu nhà nước, chế độ

làng xã (kiểu công xã nông thôn) khá nặng nề nên trì trệ, chậm phát triển.

Từ thời Trần trở đi, nhất là sau khi bị Pháp đô hộ, chế độ sở hữu tư

nhân về ruộng đất mới dần dần được xác lập, sự phân hoá giai cấp mới diễn

ra mạnh mẽ.

Tri thức khoa học nhìn chung kém phát triển, chủ yếu là tri thức kinh

nghiệm gắn với thực tiễn sản xuất nông nghiệp. Khi có sự du nhập của văn

hoá Ấn Độ và Trung Hoa thì chủ yếu là các tri thức chính trị – tôn giáo.

Lịch sử Việt Nam là lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, điều

này tác động trực tiếp lên sự hình thành, phát triển của tư tưởng triết học,

đặc biệt là chủ nghĩa yêu nước.

2. Đặc điểm tư tưởng triết học Việt Nam

Page 51: lÞch sö triÕt häc

51

- Quá trình hình thành, phát triển tư tưởng triết học Việt Nam là sự

thống nhất giữa hai xu hướng: khẳng định tư tưởng dân tộc và tiếp nhận tư

tưởng du nhập từ bên ngoài (ẤN Độ và Trung Hoa). Những tư tưởng du

nhập từ bên ngoài được tiếp nhận và có những biến đổi cho phù hợp với tư

tưởng dân tộc (Nho, Phật, Lão).

- Tư tưởng triết học Việt Nam gắn liền với nhu cầu cố kết cộng đồng

dân cư làng xã và cộng đồng quốc gia dân tộc, nhu cầu học tập người ngoài

để bảo vệ độc lập dân tộc, cho nên trung tâm của tư tưởng triết học Việt

Nam là tư tưởng yêu nước.

- Hình thức biểu hiện của tư tưởng triết học không chỉ là các tác phẩm

lí luận, mà có nhiều hình thức phong phú khác như thực tiễn phong trào,

phong cách sống, phương pháp thực hành…

II. NỘi DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC VIỆT NAM

1. Những nội dung thể hiện lập trường duy vật và duy tâm

Cuộc đấu tranh gữa thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm

cũng là cuộc đấu tranh xuyên suốt lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam. Tuy

nhiên ở đây không có sự phân thành chiến tuyến rõ ràng mà thường có sự

đan xen vào nhau, có sự dao động về lập trường của các nhà triết học, các

trường phái triết học. Đây là cuộc đấu tranh không cân sức giữa một bên là

chủ nghĩa duy tâm kết hợp với tôn giáo tạo thành hệ thống với một bên là

những quan điểm duy vật tự phát còn mang tính tản mạn. Cuộc đấu tranh

này xoay xung quanh các vấn đề về quan hệ giữa lý và khí, giữa tâm và vật,

giữa linh hồn và thể xác...

Chủ nghĩa duy tâm ở Việt Nam thường gắn liền với “Tam giáo” và tín

ngưỡng dân gian. Các nhà duy tâm nho giáo tin vào thiên mệnh, coi trời là

nhân cách tối cao, coi hành vi con người là thuận theo thiên mệnh. Các nhà

Page 52: lÞch sö triÕt häc

52

duy tâm Phật giáo thì tin vào “nghiệp” và “kiếp”, cho rằng kiếp này là hậu

quả của kiếp trước và là nguyên nhân cho kiếp sau, nên dạy người ta phải tu

nhân, tích đức. Các nhà duy tâm Đạo giáo thì tin vào mồ mả, đất cát là gốc

của họa, phúc ở dương gian...Quan điểm duy tâm còn được thể hiện ở việc

giải thích về nguồn gốc trị, loạn của xã hội, cho rằng nếu “thiên lý” thắng thì

trị, nếu “nhân dục” thắng thì loạn từ đó kêu gọi con người phải “quả dục”

phải “tri túc”... Những quan điểm duy tâm trên được các thế lực phong kiến

phương bắc và nhà cầm quyền lợi dụng để nô dịch tinh thần nhân dân.

Bên cạnh quan điểm duy tâm là nổi trội vẫn có những quan điểm duy

vật phản kháng lại. Có người coi trời chỉ là tự nhiên, coi con người có thể

thắng cả trời “xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều”. Đối lại quan điểm

mệnh trời có người cho rằng việc thành hay bại là do “thời”. Bằng kinh

nghiệm của cuộc sống nhân dân đã đúc kết được nhiều quan niệm duy vật

tích cực như “có thực mới vực được đạo”, “hòn đất mà biết nói năng thì thầy

địa lý hàm răng chẳng còn”...

2. Những nội dung của tư tưởng yêu nước Việt Nam

Yêu nước là một truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam, gắn liền

với cuộc đấu tranh chống các thế lực thù địch từ bên ngoài để tồn tại và phát

triển. Đây không chỉ là một tình cảm, một hiện tượng tâm lý xã hội thông

thường mà nó đã được nâng lên thành lý luận, thành một tư tưởng xuyên

suốt lịch sử triết học Việt Nam. Nội dung chủ yếu của tư tưởng yêu nước

Việt Nam được thể hiện trên các phương diện là: những nhận thức về dân

tộc và dân tộc độc lập, quan niệm về nhà nước của một quốc gia độc lập

ngang hàng với phương bắc, những nhận thức về nguồn gốc và động lực của

cuộc chiến tranh giữ nước...

Những nhận thức về dân tộc và dân tộc độc lập

Page 53: lÞch sö triÕt häc

53

Trong cuộc đấu tranh để khẳng định mình từ một tộc người nhỏ bé ở

châu thổ sông hồng, người Lạc Việt, cộng đồng người Việt đã dần lớn mạnh

thành một dân tộc. Trong cuộc đấu tranh chống sự nô dịch của phong kiến

phương Bắc đã dần dần hình thành nên ý thức về độc lập dân tộc. Các nhà tư

tưởng từ xa xưa đã chỉ rõ Lạc Việt ở phía sao Dực, sao Chẩn (phía nam)

khác với Hoa Hạ ở phía sao Bắc Đẩu (phía bắc); hay tộc Việt ở phía nam

Ngũ Lĩnh...từ đó Lý Thường Kiệt đã tuyên bố “sông núi nước Nam vua Nam

ở, dành dành định phận tại sách trời”. Đặc biệt Nguyễn Trãi đã chứng minh

rằng cộng đồng người việt đã có đủ những yếu tố hình thành một dân tộc

độc lập, đó là: văn hiến, lãnh thổ, phong tục, lịch sử, nhân tài nên đã trở

thành cộng đồng người có bề dày lịch sử ngang hàng với phương bắc, không

thể phụ thuộc vào phương bắc. Đầu TK XX Hồ Chí Minh đã tìm ra con

đường cách mạng để giải phóng dân tộc Việt Nam làm cho nhận thức về dân

tộc và dân tộc độc lập có sự phát triển về chất.

Về nhà nước của một quốc gia độc lập, nganh hang với phương Bắc

Trong cuộc đấu tranh chống phong kiến phương bắc, dần dần hình

thành nên một quốc gia độc lập với một nhà nước riêng của mình, xuất hiện

ý thức về một nhà nước độc lập, ngang hàng với phương bắc. Ngay sau khi

giành độc lập, các triều đại phong kiến Việt Nam đã lập quốc hiệu riêng như

Vạn Xuân (thời Lí Bí), Đại Cồ Việt (thời nhà Đinh), Đại Việt (thời nhà

Lý)..., đổi từ Vương thành Đế, lập thủ đô riêng...để thể hiện ý chí tự cường

dân tộc của mình trước phong kiến phương bắc.

Về nguồn gốc, động lực của cuộc chiến tranh cứu nước và giữ

nước

Các nhà tư tưởng trong lịch sử Việt Nam tương đối thống nhất với

nhau ở quan điểm về nguồn gốc và động lực của chiến tranh giữ nước. Đó

trước hết là sức mạnh cộng đồng. Không một cá nhân nào có thể tự mình giữ

Page 54: lÞch sö triÕt häc

54

nước, cho nên phải có sự đồng lòng từ trên xuống dưới, trăm người như một.

Trần Quốc Tuấn đã nói “trên dưới một lòng, lòng dân không chia”, “vua tôi

đồng lòng, anh em hoà mục, nước nhà góp sức giặc tự bị bắt”. Nguyễn Trãi

nói: “thết quân rượu hoà nước, dưới trên đều một dạ cha con”. Tư tưởng này

được khái quát lại trong tư tưởng Hồ Chí Minh là “đoàn kết, đoàn kết, đại

đoàn kết - thành công, thành công, đại thành công”.

Coi trọng sức dân, coi dân là gốc của nước là một tư tưởng quan trọng

được nhiều nhà tư tưởng nói đến. Lý Thường Kiệt nói: “đạo làm chủ cốt ở

nuôi dân”, Nguyễn Trãi nói: “ chở thuyền là dân và lật thuyền cũng là dân”,

“việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”...Đây chính là cơ sở của đường lối chính trị

nhân nghĩa của nhiều nhà tư tưởng Việt Nam.

3. Những quan niệm về đạo làm người

Đạo làm người trong lịch sử tư tưởng Việt Nam được thể hiện theo ba

đường lối khác nhau: đạo Nho, đạo Phật, đạo Lão Trang. Tư tưởng nho gia

có ảnh hưởng nhiều nhất với “Tam cương”, “Ngũ thường”, “Tam tòng, Tứ

đức”. Nhiều nhà nho đã rèn luyện được chí khí thanh cao: giàu sang không

quyến rũ, uy vũ không khuất phục...Đạo nho chỉ giúp ích họ trên con đường

công danh, chính trị, còn ngoài đời họ lại cần đến đạo phật, khi thất thế họ

lại cần đến đạo Lão Trang, do đó trong thời gian dài cả ba tư tưởng trên đều

được coi trọng (Tam giáo đồng hành).

4. Tư tưởng triết học Phật giáo và Nho giáo Việt Nam

Tư tưởng triết học Phật giáo Việt Nam được truyền vào từ Ấn Độ qua

Trung Quốc nên phần nào đã bị biến dạng. Khi tương tác với tư tưởng

truyền thống dân tộc nó tiếp tục thay đổi cho phù hợp với truyền thống văn

hoá người Việt. Tiêu biểu nhất ở Việt Nam là phái Thiền tông (Trúc Lâm

Yên Tử). Về Bản thể luận, đằng sau tính đa dạng của vạn pháp, Thiền tông

cho rằng có một bản thể thống nhất, đó là “Bản thể chân như”. Để đạt được

Page 55: lÞch sö triÕt häc

55

nó thì không thể bằng nhận thức thông thường mà phải bằng con đường

“Siêu việt”, đạt đến giác ngộ. Về Triết lý nhân sinh, Thiền tông coi “Từ bi”

là phạm trù trung tâm, kêu gọi sự bao dung, hoà hợp với con người và vạn

vật; nó gắn liền với tư tưởng “Vô ngã”, phản đối cái tôi vị kỷ.

Tư tưởng triết học Nho giáo Việt Nam bao gồm “Hình thư thượng

học” và “Hình thư hạ học”, tập trung vào hai nội dung là Bản thể luận và tư

tưởng chính trị - đạo đức. “Hình thư thượng học” bàn về các vấn đề quan hệ

“lí và khí, tâm và vật, mệnh và người…” với những yếu tố duy vật, duy tâm

trộn lẫn. “Hình thư hạ học” đề cập đến quan điểm chính trị thân dân, trọng

dân, coi dân là gốc; đề cập đến các phạm trù đạo đức nhân, nghĩa, trung, thứ,

hiếu, đễ… và các quan hệ đạo đức Quân – Thần, Phụ – Tử, Phu – Phụ…

NỘI DUNG THẢO LUẬN VÀ ÔN TẬP

1. Nội dung tư tưởng yêu nước Việt Nam?

2. Khái quát tư tưởng Nho giáo Việt Nam

3. Khái quát tư tưởng Đạo giáo Việt Nam

4. Khái quát tư tưởng Phật giáo Việt Nam?

Page 56: lÞch sö triÕt häc

56

CHƯƠNG V. TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI

Mục đích: Làm rõ những điều kiện, tiền đề ra đời và phát triển của

triết học Hy Lạp cổ đại; phân tích những đặc điểm cơ bản của triết học và

nội dung tư tưởng của các trường phái triết học – tự nhiên Hy Lạp cổ đại.

Thời lượng: 7 tiết lý thuyết, 2 tiết thảo luận, 1 tiết kiểm tra.

I. HOÀN CẢNH RA ĐỜi VÀ ĐẶC ĐIỂM TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI

1.Hoàn cảnh ra đời

- Hy Lạp cổ đại là một vùng đất rộng lớn, bao gồm miền nam bán đảo

Ban Căng, nhiều hòn đảo thuộc biển Ê giê, phía đông kéo dài đến vùng Tiểu

á. Từ TK XV đến TK XT TCN chế độ cộng sản nguyên thuỷ dần dần tan rã,

chế độ chiếm hữu nô lệ ra đời thay thế, dẫn đến những biến đổi sâu sắc đến

đời sống xã hội, phân hoá xã hội thành hai giai cấp cơ bản là chủ nô và nô lệ.

- Kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương mại phát triển.

- Nhiều cuộc chiến tranh xảy ra gây nên những biến động lớn về chính

trị: Thắng lợi của Hy Lạp trong cuộc chiến chống Ba Tư TK V TCN đã tạo

nên một đế chế Hy Lạp cổ đại với liên minh của 300 thành bang; chiến tranh

giữa các thành bang làm suy yếu Hy Lạp cổ đại và cuối cùng bị La Mã chinh

phục TK II TCN.

- Khoa học tự nhiên tương đối phát triển như: toán học, vật lý học,

thiên văn học.

2. Đặc điểm triết học Hy Lạp cổ đại

- Triết học gắn liền với khoa học tự nhiên cho nên nhà triết học đồng

thời là nhà khoa học (triết học tự nhiên).

- Hình thành nên những trường phái triết học rõ nét là chủ nghĩa duy

vật và chủ nghĩa duy tâm.

Page 57: lÞch sö triÕt häc

57

- Là thế giới quan của giai cấp chủ nô, đại biểu cho lập trường của hai

phái chủ nô: phải dân chủ chủ nô với quan điểm duy vật tiến bộ và phải chủ

nô quý tộc với lập trường duy tâm phản động.

- Được đặc trưng bởi tính biện chứng sơ khai và chủ nghĩa duy vật

chất phác.

II. CÁC TRƯỜNG PHÁI TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI

1. Trường phái Milê

Milê là thành phố thương mại phát triển, là nơi sản sinh ra trường phái

triết học đầu tiên ở Hy Lạp cổ đại.

a. Talet (khoảng 624 – 547 Tr.Cn)

Ông xuất than từ gia đình thương nhân giàu có, có điều kiện đi du lịch

các nơi như Ai Cập, Babilon, kế thừa nhiều tri thức hình học, thiên văn học

và nâng chúng lên thành tri thức khoa học. Ông đã nêu các định lí về hình

học, phát hiện ra lịch pháp một năm 12 tháng với 365 ngày, giải thích đúng

hiện tượng nhật thực. Ông cho rằng trái đất mang hình cái đĩa khổng lồ trôi

nổi trên mặt nước và có 5 vùng. Ông giải thích hiện tượng động đất là do sự

va trạm giữa trái đất và song biển.

Về bản nguyên thế giới ông coi đó là nước. mọi sự vật hiện tượng đều

được sinh ra từ nước và khi tiêu tan lại trở về với nước. Nước là vĩnh viễn,

bất diệt, còn những cái được sinh ra từ nó lại luôn biến đổi.

b. Anaximandrơ (610 – 546 Tr.Cn)

Ông vốn là bạn của Talet. Ông đã sang tạo ra đồng hồ mặt trời, vẽ bản

đồ bề mặt trái đất và biển Hy Lạp, theo thuyết địa tâm coi trái đất là trung

tâm vũ trụ.

Page 58: lÞch sö triÕt häc

58

Ông giải thích nguồn gốc sự sống, cho rằng các loài sinh vật đầu tiên

sống dưới nước, sau đó thích nghi dần cuộc sống trên cạn, con người có

nguồn gốc từ một loài cá…

Ông cho rằng Ơpâyron là bản nguyên của thế giới. Đây là một dạng

vật chất đơn nhất, bất định, vô hạn và tồn tại vĩnh viễn. Ông còn cho rằng

Ơpâyron là nguồn gốc vận động của các sự vật vì nó có chứa các mặt đối lập

như nóng và lạnh, khô và ướt, sinh ra và chết đi… Khái niệm bản thể của

ông đã mang tính trừu tượng hơn.

c. Anaximen (khoảng 585 – 525 Tr.Cn)

Là học trò của Anaximanđrơ nên Anaximen theo thuyết địa tâm. Ông

cho rằng mặt trời, mặt trăng và các vì sao đều bắt nguồn từ trái đất, do nó

quay nhanh mà bắn ra xa tạo nên. Ông dự đoán trái đất có hình chiếc trống

luôn xoay quanh mình nó; mưa đá là do các tia nước trên cao đóng băng;

băng đá do không khí làm tan mà thành tuyết…

Theo Ông không khí là bản nguyên của thế giới. Ngay cả các vị thánh

cũng được sinh ra từ không khí. Không khí bằng cách loãng ra hoặc đặc lại

mà tạo nên các sự vật. Hới thơt của con người cũng là không khí, linh hồn

con người cũng dung động theo hơi thở…

Tóm lại, trường phái Mile thể hiện lập trường duy vật chất phác, ngây

thơ, chưa khoa học nhưng có vai trò to lớn trong cuộc đấu tranh chống tư

tưởng duy tâm thần luận.

2. Hêraclit (520- 460 TCN)

Bản thể luận: Hêraclit cho rằng lửa là bản nguyên của thế giới. Lửa

trao đổi với tất cả và tất cả trao đổi với lửa giống như vàng trao đổi với hàng

hoá “Cái chết của lửa là sự ra đời của không khí, từ cái chết của không khí

sinh ra lửa”. Hêraclit cho rằng thế giới không do thần thánh tạo ra mà “ đã,

đang và mãi mãi là ngọn lửa vĩnh hằng thường xuyên bùng cháy và lụi tàn

Page 59: lÞch sö triÕt häc

59

một cách có quy luật”. Như vậy Hêraclit đã thể hiện một lập trường duy vật

chất phác và vô thần tiến bộ.

Hêraclit còn phát biểu nhiều luận điểm biện chứng sâu sắc về thế giới.

Theo ông thế giới luôn luôn vận động, biến đổi không ngừng giống như một

dòng sông cho nên: “người ta không thể tắm hai lần trên một dòng sông”.

Các sự vật biến đổi không tuỳ tiện mà có quy luật, tuân thủ Logos của

chúng. Nhiệm vụ của nhà triết học là tìm ra Logos của sự vật. Hêraclit còn

thừa nhận sự thống nhất của các mặt đối lập nhưng là đối lập trong những

quan hệ khác nhau: Nước là môi trường sống của cá nhưng lại độc hại cho

con người; con khỉ đẹp nhất vẫn xấu hơn con người...

Nhận thức luận: Hêraclit cho rằng nhận thức cảm tính có vai trò rất

quan trọng vì nó đem lại cho ta sự hiểu biết xác thực và sinh động về các sự

vật đơn lẻ, tuy nhiên cảm tính không giúp con người nhận thức được logos

của sự vật. Chỉ có lý tính mới đem lại sự hiểu biết về logos, tuy nhiên không

phải ai cũng có khả năng này mà chỉ các nhà thông thái mới hiểu được

logos.

3. Liên minh Pitago

Liên minh Pitago do Pitago (khoảng 571 – 447 Tr.CN) sáng lập tại

Xamot. Phái này có nhiều đóng góp về toán học: Tổng các góc trong một

tam giác bằng 2 góc vuông; định lí Pitago: bình phương cạnh huyền bằng

tổng bình phương hai cạnh vuông…

Phái này có quan niệm duy tâm về bản thể thế giới, coi đó là các con

số, mọi cái đều là hiện thân của các con số, con số có trước vạn vật: số 1

sinh ra điểm, số 2 sinh ra đường, số 3 - diện tích, số 4 - thể tích. Linh hồn

cũng được tạo nên từ các con số nên bất tử.

4. Trường phái Êlê

a. Xênophan (khoảng 570 – 478 Tr.Cn)

Page 60: lÞch sö triÕt häc

60

Ông mang lập trường duy vật và vô thần tiến bộ. Ông coi thế giới là

một khối duy nhất không sinh và không diệt. Thế giới không phải do thần

thánh sinh ra mà chính con người tạo ra thần thánh theo khuôn mẫu của

mình: “Nếu như bò, ngựa hoặc sư tử cũng có tay và chúng cũng giống như

con người, dung tay để vẽ thì ngựa đã quan niệm thần như ngựa; bò đã hình

dung những đấng bất tử theo hình ảnh bò…”.

Tuy không thừa nhận thế giới do thần thánh sinh ra nhưng Ông lại

đồng nhất tự nhiên với thần thánh, nó đực trưng cho sự thống nhất tối cao

của thế giới.

b. Pácmenit (cuối TK VI, đầu TK V Tr.Cn)

Ông là học trò của Xênophan. Ông đưa ra khái niệm “tồn tại” có tính

chất trừu tượng. Theo ông có hai cách nhìn thế giới: Một là, cách nhìn cảm

tính cho thấy thế giới là đa dạng, nhiều vẻ, biến đổi không ngừng. Hai là,

cách nhìn lí tính khám phá bản chất đích thực của thế giới.

Bản chất của mọi sự vật là “Tồn tại”. Nó là bản chất chung của thế

giới, thể hiện sự thống nhất của các sự vật. “Tồn tại” là cái duy nhất, bất

biến,vĩnh viễn, không mất đi được. Nó được chứa trong không gian, làm đầy

không gian và chúng là hữu hạn.

“Tồn tại” chỉ nhận thức được bằng lí tính, tư duy bao giờ cũng là tư

duy về tồn tại cho nên tư duy và tồn tại đồng nhất với nhau. Như vậy tư

tưởng của Ông mang xu hướng duy tâm.

c. Dênon (khoảng 490 – 430 Tr.Cn)

Ông là học trò của Pácmenit nên tìm cách bảo vệ thuyết “Tồn tại” của

Ông. Bằng con đường phản chứng ông chứng minh rằng “Tồn tại” là duy

nhất, bất biến, hữu hạn. Ông đưa ra các nghịc lý (Apôria) để bác bỏ những

quan điểm đối lập.

Page 61: lÞch sö triÕt häc

61

Nếu “Tồn tại” là cái bội đa (không duy nhất) thì nó được tạo nên từ

các đơn vị, đơn vị lại chia nhỏ thành điểm, tức cái không có trọng lượng hay

cái hư vô. Nhưng tổng của hư vô là hư vô cho nên cái bội đa = cái hư vô.

Tức là tồn tại = không - tồn tại. Như vậy là vô lí nên “tồn tại” là duy nhất.

Nếu thế giới tồn tại vô số các sự vật thì chúng vẫn là hạn chế vì chúng

chỉ có số lượng mà chúng có. Nhưng chúnh đồng thời là không hạn chế vì

ngoài những sự vật đang tồn tại này còn những sự vật khác, ngoài những sự

vật khác ấy còn có những sự vật khác nữa… cứ mãi mãi đến vô tận. Như

vậy là vô lí nên “Tồn tại” là hữu hạn.

Dênon phủ nhận vận động vì cho rằng giác quan giúp ta nhận thức

chúng nhưng lí tính lại phủ nhận chúng. Ông nếu các mệnh đề nguỵ biện về

vận động để phủ nhận chúng như mệnh đề Asin và con rùa, mũi tên bay,

đoạn đường đi… Lập luận của Ông chứa đựng nhiều yếu tố biện chứng sâu

sắc về mối quan hệ giữa vận động và đứng im, lien tục và gián đoạn, hữu

hạn và vô hạn, thống nhất và nhiều vẻ…

d. Mêlixo (TK V Tr.Cn)

Là học trò của Pácmenit nên Mêlixo cũng cho rằng tồn tại là duy nhất

và bất biến, vĩnh viễn. Ông bổ sung them rằng tồn tại không sinh ra, không

mất đi, không biết đau đớn hay buồn phiền. Khác với Pácmenit Ông cho

rằng tồn tại là vô hạn trong không gian và trong thời gian, không có không

gian rỗng.

5. Chủ nghĩa duy vật của Empêđôcle và Anaxago

a. Empedoclo (khoảng 490 – 430 Tr.Cn)

Ông cho rằng căn nguyên của thế giới gồm 4 yếu tố là đất, nước, lửa,

không khí. Chúng tồn tại bất diệt và bất biến. Các sự vật đều là sự kết hợp

của bốn yếu tố trên. Sự sinh thành hay huỷ diệt chỉ là sự kết hợp hay tách rời

các yếu tố.

Page 62: lÞch sö triÕt häc

62

Căn nguyên vận động của vật chất là 2 lực tình yêu và căm thù. Tình

yêu làm cho các yếu tố kết hợp lại, căm thù làm cho chúng tách rời nhau.

Đây là bước thụt lùi so với Hêraclit vì ông này cho rằng nguyên nhân đó là

sự tương tác giữa các mặt đối lập.

Ông chí thế giới thành 4 thời kỳ. Thời kỳ đầu, lực tình yêu thống trị

cho nên các yếu tố trộn lẫn vào nhau, thế giới là một hình cầu bất động. Thời

kỳ thứ hai, lực căm thù thâm nhập, dồn ép tình yêu, làm phân chia các yếu tố

riêng biệt. Thời kỳ thứ ba, lực căm thù thống trị, lực tình yêu bị dồn ép ra

ngoài, thế giới lại trở về trạng thái hình cầu bất động. Thời kỳ thứ tư, hai lực

cân bằng nhau, thế giới hài hoà và nhân loại đang sống ở thời kỳ này. Cách

lí giải này còn ngây thơ, nhưng có yếu tôd vô thần.

Ông lí giải nguồn gốc sự sống, cho rằng đó là một quá trình tiến hoá,

qua 4 thời kỳ. Thời kỳ thứ nhất, xuất hiện những sinh vật đơn giản. Thời kỳ

thứ hai, xuất hiện những sinh vật nhiều thành phần. Thời kỳ thứ ba, các sinh

vật ở thời kỳ đầu phát triển. Thời kỳ thứ tư, thực vật, động vật, con người

phát triển theo hướng tách rời nhau và có sự phân loài rõ ràng. Tư tưởng này

tuy ngây thơ nhưng chưa đựng yếu tố biện chứng, thừa nhận sự tiến hoá các

loài.

Về nhận thức, Ông coi cảm giác và tư duy là đồng nhất, coi máu là

một cơ quan cảm giác đặc biệt.

b. Anaxagor (khoảng 500 – 428)

Ông là nhà triết học đầu tiên của Aten, đã giải thích đúng đắn hiện

tượng nhật thực và nguyệt thực.

Ông cho rằng sở dĩ các sự vật khác nhau về chất vì chúng có nguồn

gốc khác nhau, nguồn gốc đó là các “hạt giống”. Những “hạt giống” đó có

muôn hình, muôn vẻ, nhiều vô kể. Số lượng các loại hạt giống tương đương

với số lượng các sự vật. Chất lượng hạt giống được bảo tồn trong chất lượng

Page 63: lÞch sö triÕt häc

63

sự vật, cho nên sự vật dù chia nhỏ bao nhiêu thì chất của nó vẫn không thay

đổi – vàng, dù chia nhỏ thì vẫn là vàng.

Mọi cái đều trộn lẫn vào nhau, cho nên trong một sự vật có thể tồn tại

nhiều loại hạt giống, chất của sự vật thay đổi khi hầu hết các hạt giống của

nó bị thay thế (thừa nhận liên hệ phổ biến).

Sự vận động của các hạt giống có nguyên nhân từ bên ngoài, đó là lực

Nusơ – có nghĩa là “trí tuệ”, tức một chất tinh tế, nhẹ nhàng, thuần khiết. Đó

không phải tinh thần mà là lực lượng vật chất.

6. Nguyên tử luận

a. Lơxip (khoảng 500 – 440 Tr.Cn)

Ông là người đầu tiên ở Hy Lạp cổ đại nêu lên thuyết nguyên tử trên

cơ sở kế thừa tư tưởng của người Ấn Độ cổ đại (Ông và học trò của mình là

Đêmôcrit đã đi du lịch đến Ai Cập, Ba Bi Lon, Ấn Độ).

Tiếp thu quan điểm của Empedocle về đa khởi nguyên của thế giới,

Ông cho rằng mọi sự vật đều được cấu thành nên từ các nguyên tử. Đó là

những hạt vật chất vô cùng nhỏ bé, không thể phân chia, không thể thẩm

thấu và không có chất lượng, vô hạn về số lượng và hình thức. Các nguyên

tử chỉ khác nhau về kích thước và hình thức. Các sự vật khác nhau là do sự

khác biệt về hình thức xắp xếp.

Lơxip thừa nhận có cái không - tồn tại, đó là không gian, đây là

khoảng trống giữa các nguyên tử, nhở đó mà các nguyên tử và sự vật vận

động. Vận động được hiểu là sự di chuyển vị trí trong không gian.

Ông coi quan hệ nhân quả là mang tính phổ biến và tất yếu.

b. Đêmôcrit (460 - 370 TCN)

- Bản thể luận: Đêmôcrit là đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy vật

chất phác. Ông cho rằng Tồn tại là vĩnh viễn và bất biến, nhưng không phải

là cái duy nhất mà là đa, đó là các nguyên tử. Nguyên tử là những hạt vật

Page 64: lÞch sö triÕt häc

64

chất nhỏ bé nhất, không chứa khoảng trống nào bên trong nên không thể

phân chia, tồn tại vĩnh viễn và bất biến. Các nguyên tử giống nhau về chất,

không màu sắc, mùi vị, âm thanh, chúng chỉ khác nhau về hình dạng, trật tự

và tư thế. Các nguyên tử cùng dạng kết hợp với nhau tạo nên bốn yếu tố vật

chất là đất, nước, lửa và không khí. Các dạng nguyên tử khác nhau lại kết

hợp với nhau để tạo nên các sự vật thì các sự vật lại luôn luôn vận động.

Ngoài tồn tại còn có không tồn tại, đó là khoảng trống giữa các nguyên tử, là

điều kiện cho sự vận động của vật chất. Khoảng trống đó là không gian.

- Nhận thức luận: Linh hồn của con người cũng được tạo nên từ các

ngưyên tử, đó là các nguyên tử hình cầu có tính linh động giống như lửa,

luôn vận động để sinh ra nhiệt, nhờ đó mà đưa con người vào vận động.

Ngoài chức năng vận động, chức năng trao đổi chất với bên ngoài(hơi thở),

linh hồn còn có chức năng nhận thức. Linh hồn của con người không bất tử

Nhận thức bao gồm hai loại là cảm tính và lý tính. Nhận thức dựa vào

cơ quan cảm giác chỉ đem lại những tri thức mờ tối. Chỉ có lý tính mới đem

lại cho con người chân lý, giúp cho con người hiểu về nguyên tử, về nguồn

gốc và bản chất thế giới.

- Về chính trị: Đêmôcrit bảo vệ chế độ dân chủ chủ nô, cho rằng thà

nghèo mà dân chủ còn hơn giàu có mà chuyên chế. Ông coi nhà nức là nền

tảng xã hội nên kêu gọi phải trừng phạt nặng những kẻ xâm phạm pháp luật

hoặc đạo đức. Ông không coi nôlệ là con người nên không có dân chủ đối

với nô lệ.

c. Êpiquya (341 – 270 Tr.Cn)

Cũng như Đêmôcrit, Êpiquya cho rằng thế giới được tạo nên từ các

nguyên tử. Các nguyên tử khác nhau về hình dạng, đại lượng, khối lượng và

luôn vận động trong không gian. Chiều vận động của các nguyên tử là từ

Page 65: lÞch sö triÕt häc

65

trên xuống dưới (giống những hạt mưa). Chúng va trạm nhau khi rơi, từ đó

kết hợp hay tách rời nhau.

Khác với Đêmocrit, Ông không coi các thuộc tính như mùi, vị, màu

sắc… là chủ quan mà là khách quan, bơit mỗi sự vật không phải là tổng số

giản đơn của các nguyên tử, mà là chỉnh thể có đặc tính.

Ông phát triển tư tưởng đạo đức theo hướng chủ nghĩa cá nhân, cho

rằng cá nhân là có trước và quyết định mọi quan hệ xã hội. Cho nên khác với

Arixtôt, Ông cho rằng không phải cá nhân phải phùng tùng nhà nước và xã

hội, mà ngược lại xã hội phải là phương tiện đảm bảo cho phúc lợi cá nhân.

Mục đích sống của con người là hạnh phúc – đó là sự vui thú và khoại lạc.

7. Chủ nghĩa duy tâm của Xacrat và Platon

a. Xacrat (469 – 399 Tr.Cn)

Người ta biết về Ông chủ yếu thông qua Học trò của Ông là Platon và

các triết gia khác vì Ông chỉ đàm thoại mà không viết sách. Ông bị nhà nước

Aten tử hình vì tội tuyên truyền một tôn giáo khác làm giảm hiệu lực nhà

nước và làm hư hỏng thanh niên.

Ông mang lập trường duy tâm khách quan, cho rằng tự nhiên đã được

an bài bởi thần thánh, thần thánh có ở khắp nới, có sức mạnh sang tạo thế

giới, có khả năng nghe thấy, nhìn thấy mọi thứ nhưng không thích con người

phát hiện ra mình. Từ đó ông kêu gọi không nên nhận thức tự nhiên.

Hêghen coi Ông là một bước ngoặt lịch sử vĩ đại vì Ông là người đầu

tiên hướng nhận thức triết học vào vấn đề con người với lời kêu gọi: “Con

người, hãy nhận thức chính mình”. Cho nên triết học của Ông chủ yếu bàn

về vấn đề đạo đức. Đạo đức học của Ông mang tính duy lí, coi đạo đức và tri

thức là đồng nhất: “Mỗi điều thiện đó là tri thức, mỗi điều ác đó là sự dốt

nát”.

Page 66: lÞch sö triÕt häc

66

Theo Ông các tri thức về sự vật của con người, ngoài những yếu tố

chủ quan, còn có nội dung khách quan, phổ quát mà nhiệm vụ của nhận thức

là tìm ra những tri thức khách quan và phổ quát mà ai cũng phải thừa nhận.

Muốn vậy phải sử dụng “ngôn ngữ chúng”, phải nắm bắt được khái niệm.

Phương pháp tìm ra chân lí là tranh luận, toạ đàm, luận chiến hay gọi

là “phương pháp Xacrat”. Phương pháp này gồm 4 bước:

Một là, “Mỉa mai”: Đặt ra những câu hỏi có tính chất mỉa mai để chỉ

ra mâu thuẫn của quan điểm đối lập.

Hai là, “Đỡ đẻ”: Giúp người ta tìm ra tri thức đúng, từ bỏ tri thức sai

lầm.

Ba là, “Quy nạp”: Từ cái riêng lẻ khái quát thành cái chung, từ hành

vi đạo đức cụ thể phân tích, rút ra cái thiện phổ biến.

Bốn là, “Xác định”: Chỉ ra hành vi đạo đức thuộc loại nào? Giúp

người ta biết phải làm thế nào cho đúng với cái thiện phổ biến.

b. Platôn (427 - 347 tcn)

- Bản thể luận: Platôn là đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy tâm

khách quan. Ông cho rằng tồn tại là đa, nhưng không phải là vật chất mà là

tinh thần, đó là các ý niệm. Chỉ các ý niệm mới tồn tại đích thực, còn các vật

cảm tính chỉ là cái bóng của ý niệm. ý niệm tồn tại vĩnh viễn, bất diệt, có

trước và sinh ra các sự vật cảm tính. Số lượng các ý niệm là cố định, tương

đương với số lượng lớp các sự vật giống nhau: ý niệm bàn chỉ có một nhưng

sinh ra nhiều cái bàn khác nhau. Ngoài tồn tại còn có không tồn tại, đó là vật

chất. ý niệm in dấu của mình lên vật chất nhờ đó mà tạo ra các sự vật cảm

tính, cho nên các sự vật cảm tính không tồn tại thực mà chỉ là cái bóng của ý

niệm.

- Nhận thức luận: Linh hồn con người thuộc về thế giới ý niệm cho

nên linh hồn là bất tử, nó chỉ tạm thời cư trú trong cơ thể con người. Khi linh

Page 67: lÞch sö triÕt häc

67

hồn bị giam hãm trong thể xác thì nó sẽ bị lãng quên, cho nên nhận thức là

quá trình hồi tưởng của linh hồn bất tử. Nhận thức của con người gồm hai

loại là cảm tính và lý tính, trong đó lý tính là có trước và là sự nhận thức về

ý niệm nên có khả năng đem lại chân lý, còn cảm tính có sau và chỉ đem lại

những tri thức hư ảo về cái bóng của các ý niệm.

- Tư tưởng chính trị: Platôn phê phán các kiểu nhà nước trong lịch sử

như nhà nước của vua chúa, nhà nước quân phiệt và nhà nước dân chủ. Ông

đưa ra mô hình về nhà nước lý tưởng, trong đó không còn có gia đình và sở

hữu tư nhân. Các thành viên của xã hội được phân ra thành ba đẳng cấp: Các

nhà triết học lãnh đạo nhà nước, các vệ sỹ bảo vệ nhà nước, những người tự

do làm việc để tạo ra của cải cho nhà nước, nô lệ không được coi là con

người.

8. Arixtôt (384 - 322 Tr.Cn)

- Bản thể luận: Arixtôt là bộ óc bách khoa của nền triết học Hy Lạp cổ

đại. Với quan niệm Platôn là thầy nhưng chân lý còn quý hơn, ông đã tiến

hành phê phán học thuyết ý niệm Platôn. Lênin coi đây là sự phê phán đối

với chủ nghĩa duy tâm nói chung. Theo Arixtôt thuyết ý niệm của Platôn là

vô bổ đối với việc nhận thức thế giới các sự vật vì thế giới ý niệm là thế giới

phi thực thể, đóng kín, biệt lập.

Arixtôt đưa ra quan niệm duy vật về giới tự nhiên. Tự nhiên là toàn bộ

những sự vật có bản thể vật chất luôn luôn vận động, phải thông qua vận

động thì các sự vật mới có thể tồn tại và biểu hiện được. Vận động phải gắn

liền với các vật thể tự nhiên, các vật thể đều được tạo nên từ năm yếu tố vật

chất đầu tiên là đất, nước, lửa, không khí và ête.

Khi lý giải về nguyên nhân của thế giới Arixtôt đi theo lập trường nhị

nguyên. Ông cho rằng thế giới có bốn nguyên nhân là: hình dạng, vật chất,

Page 68: lÞch sö triÕt häc

68

vận động và mục đích, trong đó vận động và mục đích thuộc về nguyên nhân

hình dạng có tính tích cực, còn vật chất là nguyên nhân thụ động.

- Nhận thức luận: Arixtôt coi thế giới khách quan là đối tượng nhận

thức, là nguồn gốc của cảm giác và kinh nghiệm, coi tự nhiên là thứ nhất còn

tri thức là thứ hai. Ông chia nhận thức ra thành hai giai đoạn là cảm tính và

lý tính, trong đó cảm tính là điểm bắt đầu của mọi tri thức (CN duy giác),

còn lý tính là sản phẩm của linh hồn hay thượng đế.

Arixtôt là người đã sáng lập ra lô gíc học, coi nó là học thuyết về

chứng minh, nghiên cứu về các hình thức tư duy, đưa ra ba quy luật của lô

gíc học, nghiên cứu về phép tam đoạn luận. Ông còn nêu những ý tưởng

biện chứng sâu sắc về sự vận động của thế giới, về tính mâu trong khả năng,

về quan hệ giữa cái chung và cái riêng...

- Tư tưởng chính trị: Arixtôt cho rằng nhà nước là hình thức giao tiếp

cao nhất của con người với con người ngoài những hình thức giao tiếp khác

như giao tiếp gia đình, kinh tế, trao đổi của cải... Về bản chất thì con người

phải phụ thuộc về nhà nước, nếu không đó không phải là con người phát

triển về đạo đức mà là động vật hoặc là thượng đế.

Về đạo đức, Arixtôt cho rằng phẩm hạnh là cái tốt dẹp nhất của con

người, là lợi ích tối cao mà mọi công dân cần phải có. Nội dung của phẩm

hạnh là biết định hướng, biết làm việc, biết tìm tòi.

NỘI DUNG THẢO LUẬN VÀ ÔN TẬP

1. Phép biện chứng của Hê-ra-clít?

2. Nguyên tử luận của Đê-mô-crít?

3. Thuyết ý niệm của Platôn?

4. Tư tưởng triết học của A-ri-xtốt?

Page 69: lÞch sö triÕt häc

69

CHƯƠNG VI. TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI TRUNG CỔ

Mục đích: Khái quát tình hình kinh tế xã hội Tây Âu thời trung cổ,

phân tích những đặc điểm và xu hướng cơ bản của triết học và giới thiệu

một số đại biểu triết học Tâu Âu trung cổ.

Thời lượng: 3 tiết lý thuyết.

I. HOÀN CẢNH RA ĐỜi VÀ ĐẶC ĐIỂM TRIẾT HỌC TÂY ÂU

TRUNG CỔ

1.Hoàn cảnh ra đời

Từ TK II đến TK V chế độ chiếm hữu nô lệ ở tây âu dần dần tan rã,

chế độ phong kiến ra đời và phát triển cho đến hết TK XIV. Về mặt lịch sử

xã hội thời kỳ này nổi lên những nét chính như sau:

- Đây là thời kỳ thống trị của phương thức sản xuất phong kiến với

nền văn minh nông nghiệp phát triển. Xã hội được phân thành hai giai cấp

chính là địa chủ và nông nô. Giai cấp địa chủ lại được chia thành hai giới là

địa chủ quý tộc cầm quyền phản động và địa chủ mới tiến bộ.

- Có sự thống trị của nhà thờ Cơ Đốc giáo trên tất cả các lĩnh vực của

đời sống xã hội làm cho khoa học, triết học bị phủ định và thay thế bằng

thần học.

- Các cuộc thập tự chinh núp dưới ngọn cờ tôn giáo làm cho chiến

tranh lan rộng, tạo điều kiện cho sự giao lưu văn hoá giữa Đông và Tây.

2. Đặc điểm triết học Tây Âu thời Trung cổ

- Triết học được đặc trưng bởi chủ nghĩa kinh viện với phương pháp

tư duy tư biện, chuyên bàn về những vấn đề viển vông, xa rời với cuộc sống.

- Vấn đề quan hệ giữa trí tuệ và niềm tin tôn giáo được đặt ra. Lúc đầu

tôn giáo đối lập với khoa học, niềm tin đối lập với trí tuệ, như Tectuliêng đã

Page 70: lÞch sö triÕt häc

70

từng nói: tôi tin vì điều đó là vô lý. Về sau xuất hiện thuyết hai chân lý nhằm

trung hoà tôn giáo với khoa học.

- Vấn đề quan hệ giữa cái chung và cái riêng cũng được đặt ra và được

giải quyết theo hai xu hướng là CN duy danh và CN duy thực. CN duy danh

cho rằng chỉ có cái riêng mới tồn tại cái thực, còn cái chung chỉ là tên gọi.

CN duy thực lại cho rằng cái chung là bản chất tinh thần độc lập tồn tại bên

ngoài cái riêng và sinh ra cái riêng. Cuộc đấu tranh giữa hai phái trên là biểu

hiện đặc thù của cuộc đấu tranh giừa CN duy vật và CN duy tâm.

II. MỘT SỐ TRIẾT GIA TIÊU BIỂU

1.Tômat Đacanh(1225 - 1274)

T. Đacanh là nhà thần học đạo thiên chúa, nhà triết học kinh viện

người Ytalia. Ông đi theo thuyết hai chân lý, thừa nhận chân lý của lý trí và

chân lý của lòng tin, nhưng cho rằng triết học chỉ là tôi tớ của thần học. T.

Đacanh đi theo đường lối duy thực ôn hoà cho rằng cái chung tồn tại trên ba

phương diện: Tồn tại trước sự vật trong trí tuệ của thượng đế; tồn tại trong

các sự vật riêng lẻ; được tạo ra sau sự vật trong trí tuệ của con người. T.

Đacanh có quan niệm duy tâm về giới tự nhiên. Ông cho rằng trật tự của tự

nhiên là do sự sáng suốt của thượng đế tạo ra. Ông tuyên bố về sự thống trị

của nhà thờ đối với xã hội công dân và chống lại sự bình đẳng xã hội.

2. Đơn Xcốt (1265 - 1308)

Ông là người Anh, theo đường lối duy danh và thuyết hai chân lý.

Ông cho rằng đối tượng của thần học là thượng đế còn đối tượng của triết

học là giới tự nhiên nhưng lại đặt trí tuệ thấp hơn lòng tin vì cho rằng trí tuệ

không thể nhận thức được thượng đế vì thượng đế là hình thức phi vật thể.

Ông cho rằng cái chung tồn tại trong cái riêng như là bản chất của nó và tồn

tại sau cái riêng như là sự khái quát của chúng.

Page 71: lÞch sö triÕt häc

71

3. Rôgiê Bêcơn (1214 - 1294)

Ông là người Anh, là người mở màn cho khoa học thực nghiệm. Theo

ông triết học là khoa học lý luận chung giải thích mối quan hệ giữa các khoa

học bộ phận và đem lại cho các khoa học đó những quan điểm cơ bản và bản

thân triết học được xây dựng trên thành quả những khoa học ấy. Ông phê

phán phương pháp kinh viện chủ nghĩa, đề cao vai trò của kinh nghiệm. Ông

cho rằng nguyên nhân cản trở chân lý là: sự sùng bái uy tín thiếu căn cứ; thói

quen lâu đời đã có; tính vô căn cứ của phán đoán số đông; sự che giấu những

điều ngu dốt của các học giả...” Không có sự nguy hiểm nào lớn hơn sự ngu

dốt”. Ông coi khoa học thực nghiệm là chúa tể của khoa học. Theo ông,

nguồn gốc của nhận thức là do uy tín, lý trí của kinh nghiệm nhưng uy tín

phải dưa vào chứng minh bằng kinh nghiêm và thưc nghiệm.Ông cũng có

nhiều tư tưởng xả hội tiến bộ như phê phán bọn phong kiến,bon thầy tu kễ cã

ngôi giáo hoàng...ngôi thiêng liêng đã trở thành chiến lợi phẩm của sự dối

lừa...

NỘI DUNG THẢO LUẬN VÀ ÔN TẬP

1. Đặc điểm triết học Tây Âu thời trung cổ?

Page 72: lÞch sö triÕt häc

72

CHƯƠNG VII. TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI KỲ PHỤC HƯNG

Mục đích: Khái quát tình hình kinh tế xã hội Tây Âu thời kỳ phục

hưng, phân tích những đặc điểm và xu hướng cơ bản của triết học và giới

thiệu một số đại biểu triết học Tâu Âu thời kỳ phục hưng.

Thời lượng: 2 tiết lý thuyết, 1 tiết thảo luận.

I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ ĐẶC ĐIỂM TRIẾT HỌC TÂY ÂU

THỜI KỲ PHỤC HƯNG

1. Hoàn cảnh ra đời

Thế ky XV-XVI được gọi là thời phục hưngvới ý nghĩa là phục hưng

nền văn hoá cỗ đại. Về mặt xã hội đây là thời kỳ quá độ từ chế đọ phong

kiến lên chế độ Tư bản chủ nghĩa. Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa bắt đầu

hình thành dưới hình thức công trường thủ công; máy móc bắt đầu xuất hiện:

máy hơi nước, máy kéo sợi, máy dệt, tàu thuỷ...

Cuộc đấu tranh của nông dân và thợ thủ công nổ ra nhằm giải phóng

khỏi sự lệ thuộc vào địa chủ và thuế khoá nặng nề. Cuộc đấu tranh này được

giai cấp tư sản mới hậu thuẫn, tuy nhiên giai cấp này vẫn còn non yếu.

Khoa học thưc nghiệm bắt đầu nảy nở và phát triển: thiên văn học,

toán học, cơ học, vật lí học, sinh học... làm phôi phục lại chủ nghĩa duy vật

đấu tranh chống lại thế giơí quan duy tâm tôn giáo.

2. Đặc điểm triết học

- Các yếu tố duy vật và duy tâm, vô thần và hữu thần đan xen vào

nhau, chủ nghĩa duy vật, vô thần biểu hiện dưới cái vỏ phiếm thần hay tự

nhiên thần luận.

- Triết học đề cao sức mạnh con người, đấu tranh cho sự giải phóng

con người, tư tưởng nhân đạo phát triển.

Page 73: lÞch sö triÕt häc

73

- Một số học thuyết triết học tìm cách khôi phục những tư tưởng biện

chứng cổ đại nhưng yếu tố siêu hình vẫn là nổi trội, nhất là giai đoạn cuối

thời phục hưng.

- Các nhà triết học tiên tiến đã bắt đầu mơ ước về một xã hội bình

đẳng - chủ nghĩa xã hội không tưởng (Tômat Morơ, Cămpanela).

II. CÁC TRIẾT GIA TIÊU BIỂU

1. Nicolai Kudan (1401 – 1464)

Ông là con một ngư dân Đức, về sau trở thành Hồng y giáo chủ của

giáo hội La Mã, người đầu tiên phê phán các giáo lí trung cổ, mở đầu cho

triết học thời kì Phục hưng.

Ông cho rằng trái đất không phải là trung tâm của vũ trụ, có nhiều

hành tinh khác giống trái đất. Ông mang tư tưởng phiếm thần luận, cho rằng

thượng đế hoà lẫn với tự nhiên, là bản chất vô hạn của thế giới. Quá trình

hoàn thiện của thế giới chính là quá trình thượng đế ngày càng biểu hiện ra

thành giới tự nhiên.

Ông nêu tư tưởng biện chứng về "sự phù hợp của các mặt đối lập"

theo tinh thần duy tâm, cho rằng thượng đế là sự thống nhất giữa các mặt đối

lập: "Thượng đế là tất cả mọi cái, nhưng đồng thời cũng không là gì cả trong

mọi cái".

Ông đề cao con người, cho rằng "con người... bao quát dưới dạng tiềm

tàng toàn bộ thượng đế và thế giới..., nội tâm và triển vọng của con người dó

là tất cả".

Ông coi nhận thức là quá trình biện chứng, trong đó con người tiếp

cận dần đến chân lí.

Page 74: lÞch sö triÕt häc

74

2. Nicôlai Côpecníc(475-1543)

Ông người Ba lan, đã đưa ra thuyết Nhật tâm chống lại truyền thuyết

thiên chúa giáo về sự sáng tạo thế giới của Chúa và chống lại thuyết địa tâm

của Ptôlêmê ( người la mã TK II).

Ông cho rằng mặt trời là trung tâm của vũ trụ, trái đất hàng ngày quay

xung quanh trục của nó và hàng năm xoay xung quanh mặt trời. Đóng góp

của ông được coi là "một cuộc cách mạng trên trời".

3. Brunô(1548-1600)

Ông là người Ialia , bảo vệ thuyết nhật tâm và bổ sung thêm là có vô

số thế giới giống như hệ mặt trời. trái đất chỉ là một hành tinh, giống như vô

số các hành tinh khác.

Ông đồng nhất thượng đế với giới tự nhiên, cho rằng nó là cái duy

nhất, bất biến. Mọi sự vật đều là biểu hiện cụ thể của cái duy nhất và chúng

luôn luôn biến đổi.

Ông chứng minh cho tính thống nhất của thế giới, cho rằng "Mọi vật

đều nằm trong vũ trụ và vũ trụ nằm trong tất thảy mọi vật. Chúng ta ở trong

vũ trụ và vũ trụ nằm trong chúng ta". Theo Ông mọi cái đều liên hệ với nhau

và đều vận động; các mặt đối lập phù hợp và chuyển hoá lẫn nhau: cái tối

thiểu và cái tối đa, cái nhỏ nhất và cái lớn nhất, cái độc hại và cái bổ dưỡng,

tình yêu và căm thù...

Ông coi nhận thức là quá trình biện chứng gồm 3 giai đoạn là cảm

tính, lí trí và trí tuệ.

Vì quan điểm duy vật và chống giáo hội mà ông đã bị kết án thiêu trên

giàn lửa.

4. Galile(1564-1642)

Ông người Italia, tiếp tục những quan niệm duy vật tiến bộ của thuyết

Nhật tâm. Ông chỉ ra rằng thế giới vật chất là vô tận, không có đầu, không

Page 75: lÞch sö triÕt häc

75

có cuối và bất diệt. Ông đi theo thuyết hai chân lí, cho rằng kinh thánh dạy

cho người ta nhiều điều hay lẽ phải nhưng khoa học mới giúp cho người ta

nắm bắt được bản chất của thế giới. Vì những quan điểm tiến bộ của mình

ông bị toà án giáo hội kết án bỏ tù đến chết.

NỘI DUNG THẢO LUẬN VÀ ÔN TẬP

1. Thuyết Nhật tâm và các đại biểu của nó?

Page 76: lÞch sö triÕt häc

76

CHƯƠNG VIII. TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI KỲ CẬN ĐẠI

Mục đích: Làm rõ hoàn cảnh ra đời, đặc điểm của triết học Tây Âu

thời cận đại; phân tích những xu hướng triết học tiêu biểu như chủ nghĩa

duy vật và chủ nghĩa duy tâm, đường lối duy cảm và đường lối duy lý; giới

thiệu các đại biểu tiêu biểu của từng đường lối triết học trên.

Thời lượng: 8 tiết lý thuyết, 2 tiết thảo luận, 1 tiết kiểm tra.

I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ ĐẶC ĐIỂM TRIẾT HỌC TÂY ÂU CẬN ĐẠI

1. Hoàn cảnh ra đời

Vào thế kỷ XVII, XVIII chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ ở Tây

Âu, cách mạng tư sản đã nổ ra và giành được thắng lợi ở nhiều nước: Hà

Lan, Anh, Italia, áo, Pháp... mà triệt để nhất là cách mạng tư sản Pháp năm

1789.

Khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ, hình thành nên các khoa học

độc lập: Cơ học, Vật lý học, Toán học, Hoá học, Sinh học... tạo tiền đề cho

sự phát triển của triết học

2. Đặc điểm triết học

- Triết học Tây Âu thời kỳ Cận đại là thế giới quan của giai cấp tư sản

mới, một giai cấp cách mạng đang đấu tranh chống lại giới quý tộc phản

động và nhà thờ Cơ đốc giáo cho nên nó được đặc trưng bởi chủ nghĩa duy

vật tiến bộ.

- Bên cạnh đó sự phản kháng của nhà thờ Cơ đốc giáo và sự dung hoà

về lợi ích của 2 giai cấp địa chủ và tư sản trong những cuộc cách mạng thiếu

triệt để ở Anh, Hà Lan làm cho chủ nghĩa duy tâm và các hình thức tự nhiên

thần luận hay phiếm thần luận tiếp tục tồn tại.

Page 77: lÞch sö triÕt häc

77

- Ngoài vấn đề bản thể luận triết học thời kỳ này đặc biệt quan tâm

đến vấn đề nhận thức luận, vấn đề phương pháp nhận thức được ưu tiên phát

triển làm xuất hiện các đường lối duy cảm và duy lý. Phương pháp siêu hình

dần dần thắng thế phương pháp tư biện duy lý thời trung cổ.

II. MỘT SỐ TRIẾT GIA TIÊU BIỂU

1. Phranxi Bêcơn (1561 - 1626)

Ông là nhà triết học người Anh, người đã đặt nền móng cho sự ra đời

của chủ nghĩa duy vật siêu hình.

a. Quan niệm về vai trò, nhiệm vụ của triết học và khoa học

Ông coi việc phát triển triết học và khoa học là nền tảng cho việc canh

tân đất nước, là cơ sở lý luận cho công cuộc xây dựng và phồn thịnh đất

nước, phát triển kinh tế, xoá bỏ bất công và tệ nạn xã hội.

Ông cho rằng triết học là tổng thể các tri thức lý luận của con người

về thượng đế, về giới tự nhiên và về bản than con người, cho nên ông chia

triết học ra thành 3 học thuyết: 1) Học thuyết về thượng đế, nghiên cứu khoa

học về thần học và tự nhiên để vạch ra những khía cạnh hợp lý của nó; 2)

Học thuyết về tự nhiên (đồng nhất với các khoa học tự nhiên); 3) Học thuyết

về con người (nhân bản học).

Ông coi nhiệm vụ của triết học là cải tạo lại toàn bộ các tri thức mà

con người đạt được trước đó; “nắm bắt trật tự của giới tự nhiên”; tái tạo lại

trong trí tuệ con người kiểu mẫu của thế giới như là nó vốn có, chứ không

phải như là cái mà tư duy tưởng tượng ra; lấy hiệu quả của sang chế thực

tiễn để kiểm nghiệm tính chân thực của triết học.

b. Bản thể luận triết học của Ph. Bêcơn

Bản thể luận triết học của Ph. Bêcơn chịu ảnh hưởng bởi quan niệm

của Anaxago về “hạt giống” (Hô-mê-ô-mê-ri), nguyên tử luận củ Đêmôcrit,

Page 78: lÞch sö triÕt häc

78

học thuyết về hình dạng của Arixtot. Ông cho rằng tồn tại của thế giới vật

chất là khách quan, khoa học không thể biết gì ngoài thế giới vật chất.

Ông cho rằng các sự vật được bắt nguồn từ 2 nguyên nhân là “hình

dạng” và “tự nhiên”, trong đó “hình dạng” là bản chất đa dạng của các sự

vật, còn “tự nhiên” là nguyên nhân vật chất thống nhất của chúng. Như vậy

vật chất là sự thống nhất giữa “hình dạng” và “tự nhiên”, nó vừa đa dạng lại

vừa thống nhất.

Ông cho rằng vật chất luôn luôn gắn liền với vận động. Nhận thức vật

chất chính là nhận thức vận động của chúng. Ông chia vận động ra thành 19

hình thức, cả 19 hình thức đó đều là vận động cơ học nhưng ông đã rất đúng

đắn khi coi đứng im là một hình thức vận động.

Ông coi linh hồn cúng giống như một vật thể như lửa hay không khí,

nó tồn tại trong đầu óc con người và vận động theo các dây thần kinh (duy

vật tầm thường).

Như vậy Ph. Bêcơn đi theo đường lối duy vật siêu hình.

c. Nhận thức luận của Ph. Bêcơn

Đường lối nhận thức của Ph. Bêcơn là chủ nghĩa duy cảm. Ông cho

rằng không có tri thức tiên nghiệm mà mọi tri thức đều phải bắt nguồn từ

kinh nghiệm, lý tính có nhiệm vụ chế biến kinh nghiệm thành hệ thống.

Là nhà khoa học thực nghiệm nên Ph. Bêcơn đặc biệt quan tâm đến

vấn đề phương pháp nhận thức. Ông đã tiến hành phê phán phương pháp tư

duy tư biện của chủ nghĩa kinh viện, chỉ ra những sai lầm thường mắc của

phương pháp này. Để đi đến chân lý con người phải kiên quyết từ bỏ các “ảo

tượng” của nhận thức. Có 4 loại “ảo tưởng” đưa người ta đến sai lầm về

nhận thức là: “ảo tượng chủng tộc”, “ảo tượng công cộng”, “ảo tượng hang

động”, “ảo tượng rạp hát”.

Page 79: lÞch sö triÕt häc

79

Ông ví phương pháp kinh nghiệm là phương pháp con kiến, tức là

lượm lặt nhỏ mọn mà không biết khái quát. Ông gọi phương pháp kinh viện

là phương pháp con nhện, chỉ vội vã chăng những cái mạng không chắc

chắn.

Ông cho rằng phương pháp khoa học phải là phương pháp con ong, từ

nhụy hoa mà chế biến ra mật ngọt. Bêcơn đề xuất phương pháp quy nạp loại

trừ với ba bước cơ bản: một là, thu thập các dữ liệu; hai là, lập bảng so sánh

các dữ liệu; ba là, quy nạp loại trừ để tìm ra quan hệ nhân quả. đường lối

nhận thức của Bêcơn là đường lối duy giáp vì vẫn mang nặng tính nghiệm.

Ông thừa nhận thuyết hai chân lý, cho rằng khoa học và thần học

không nên can thiệp vào công việc của nhau.

d. Tư tưởng chính trị - xã hội của Ph. Bêcơn

Ông ủng hộ việc xây dựng một nhà nước tập quyền hùng mạnh, bảo

vệ lợi ích phát triển của chế độ tư bản chủ nghĩa, chống đặc quyền của bon

quý tộc. Ông cho rằng phát triển công nghiệp và thương nghiệp có ý nghĩa

quan trọng nhất đối với xã hội. Ông phản đối đấu tranh của quần chúng, chủ

trương phát triển xã hội bằng giáo dục và khoa học. Ông mong muốn dân tộc

Anh thống trị các dân tộc khác.

2. Tômát Hôpxơ (1588 - 1679)

Hôpxơ là nhà triết học duy vật người Anh. Ông tiếp thu những quan

điểm duy vật của Bêcơn, gạt bỏ những yếu tố thần luận và thuyết 2 chân lý,

hệ thống hoá lại tư tưởng của ông ta, từ đó xây dựng nên một hệ thống triết

học duy vật siêu hình đầu tiên ở châu Âu.

a. Quan niệm của T. Hôpxơ về đối tượng của triết học

Hốpxơ cho rằng triết học là hoạt động trí tuệ của con người nhằm

khám phá bản chất của các vật thểm, cho nên nó là học thuyết về các vật thể.

Page 80: lÞch sö triÕt häc

80

Các khoa học cụ thể như toán học, vật lý học, đạo đực học… đều là những

lĩnh vực cụ thể của triết học mà thôi.

Ông chia triết học thành 2 học thuyết là “triết học tự nhiên” – nghiên

cứu các vật thể tự nhiên và “triết học thong thường” – nghiên cứu các vấn đề

xã hội, trong đó con người là trung tâm của triết học, là đối tượng của cả hai

học thuyết trên vì con người vừa là vật thể tự nhiên, vừa là vật thể xã hội.

b. Bản thể luận triết học của T. Hốpxơ

Theo ông, giới tự nhiên là tổng những vật thể có quảng tính, vị trí là

vận động. Chúng không do thần thánh tạo ra và không phụ thuộc vào ý thức

chủ quan của con người.

Ông không thừa nhận sự đa dạng về vật chất của các sự vật mà quy

chúng về các quan hệ số lượng toán học, coi vận động chỉ là vận động cơ

học. Ông coi con người chỉ là cỗ máy: trái tim là chiếc lò so, dây thần kinh

là những sợi chỉ, khớp xương là những bánh xe...

Ông có quan niệm duy vật về không gian, thời gian. Ông phân biệt

không gian với tính cách là hình thức tồn tại khách quan của vật thể và

không gian, thời gian với tính cách là sự phản ánh cái khách quan vào trong

nhận thức của con người. Ông cho rằng cái có quảng tính và hình dạng thì

mới tồn tại còn thượng đế không có quảng tính nên không tồn tại

c. Nhận thức luận của T. Hôpxơ

Ông coi đối tượng của nhận thức là các vật thể, các đối tượng vật chất

cùng các quan hệ về lượng và quan hệ toán học của chúng. Hôpxơ theo chủ

nghĩa duy danh, cho rằng chỉ những sự vật đơn lẻ mới tồn tại thực cón các

khái niệm chỉ là những tên gọi trống rỗng.

Ông coi kinh nghiệm cảm tính là nguồn gốc đầu tiên của nhận thức,

nhưng lại cho rằng quy nạp kinh nghiệm chỉ có giá trị đối với lĩnh vực vật

lý. Đối với hình học và lĩnh vực xã hội phải sử dụng phương pháp diễn dịch

Page 81: lÞch sö triÕt häc

81

duy lý. Như vậy ông đã đối lập quy nạp với diễn dịch, kinh nghiệm với lý

luận nên phương pháp của ông mang nặng tính siêu hình.

d. Tư tưởng chính trị xã hội của T. Hốpxơ

Ông cho rằng con người là thể thống nhất giữa tính tự nhiên và tính xã

hội. “Giới tự nhiên đã tạo ra mọi người như nhau cả về thể xác và tinh thần”,

cho nên theo bản tính này mọi người đều có tính ích kỷ vì lợi ích riêng, đó là

nguyên nhân dẫn đến tranh giành, “chiến tranh mọi người chống lại mọi

người”. “Con người là một động vật độc ác hơn cả chó sói, gấu và rắn”;

“Ngay cả một chân lý khẳng địng là tổng ba góc của một tam giác bằng hai

vuông mà mâu thuẫn của ai đó đang nắm chính quyền, thì… tất cả những

cuốn sách về hình học sẽ bị đem đốt”.

Hôpxơ giải thích duy tâm về nguồn gốc nhà nước, cho rằng nhà nước

là kết quả của sự thoả ước, quy ước của con người với nhau nhằm tránh

những cuộc chiến tranh tàn khốc.

Ông giải thích một cách vô thần về nguồn gốc của tôn giáo, cho rằng

đó là do sự sợ hãi xuất phát từ sự ngu dốt tạo nên. Ông cho rằng tôn giáo là

cần thiết vì nó khuyên răn con người thực hiện các chuẩn mực của nhà nước

và kêu gọi nhà thờ phải phục tùng nhà nước.

3. Rêne Đêcáctơ (1596 - 1650)

Ông là nhà toán học, khoa học, nhà triết học người Pháp. Tư tưởng

của ông được trình bày thành 2 phần là “vật lý học” và “siêu hình học”.

a. Quan niệm của R. Đêcáctơ về bản chất của triết học

Ông cho rằng có thể hiểu triết học theo nghĩa rộng – đó là toàn bộ tri

thức mà con người đã đạt được về nhiều lĩnh vực khác nhau, đem lại lợi ích

thiết thực và trực tiếp cho cuộc sống con người; hoặc theo nghĩa hẹp – đó là

siêu hình học, là nền tảng của thế giới quan, phục vụ gián tiếp cho con người

chủ yếu thong qua các khoa học khác.

Page 82: lÞch sö triÕt häc

82

Ông cho rằng trình độ của tư duy triết học là thước đo quan trọng nhất

đánh giá sự thông thái của con người và sự ưu việt của dân tộc này so với

dân tộc khác. Theo Ông, nhiệm vụ của triết học là xây dựng những nguyên

tắc phương pháp luận cơ bản làm cơ sở cho sự phát triển của các khoa học,

giúp con người làm chủ giới tự nhiên.

b. Bản thể luận triết học của R. Đêcáctơ

- Trong “Vật lý học” ông thể hiện lập trường duy vật, cho rằng tự

nhiên là một khối thống nhất được tạo nên từ các hạt nhỏ có quảng tính và

luôn vận động. Về nguyên tắc vật chất có thể phân chia vô tận.

Ông cho rằng không có không gian và thời gian rỗng, đó chỉ là thuộc

tính gắng liền với vật chất. Vận động là bất diệt, nhưng ông mới chỉ biết về

vận động cơ học.

Ông đưa ra giả thuyết “lốc xoáy” để lý giải về sự hình thành vũ trụ,

theo đó vật chất lúc đầu tồn tại ở trạng thái đồng loại và chuyển động không

ngừng theo chiều xoáy như những cơn lốc, nhờ đó các vật hạt nặng tụ lại

thành đất, đá; các hạt nhẹ tản ra thành lửa, không khí…

- Trong “Siêu hình học” ông thể hiện lập trường nhị nguyên, thừa

nhận hai thực thể độc lập là vật chất và tinh thần. Đặc trưng của thực thể vật

chất là quảng tính; đặc trưng của thực thể tinh thần là có tư duy. Nhưng Ông

lại cho rằng cả hai đều chịu sự chi phối bởi thượng đế (duy tâm).

c. Nhận thức luận của R. Đêcáctơ

Về nhận thức luận, Đêcáctơ theo đường lối duy lý, đấu tranh chống

CN kinh viện. Cơ sở xuất phát của nhận thức là nguyên tắc “nghi ngờ”. Ông

cho rằng cần phải nghi ngờ tính đúng đắn của mọi tri thức có trước, nhưng

không thể nghi ngờ rằng mình đang nghi ngờ, mà nghi ngờ là suy nghĩ, từ đó

ông nêu luận đề duy lý: “tôi suy nghĩ vậy tôi tồn tại”.

Page 83: lÞch sö triÕt häc

83

Theo ông, tri thức của con người bắt nguồn từ ba nguồn gốc: có

những tri thức có nguồn gốc khách quan (tri thức về khối lượng); có tri thức

mang nguồn gốc chủ quan (tri thức về cái đẹp); có những tri thức bẩm sinh

(tiên đề toán học).

Ông đề xuất phương pháp nhận thức duy lý gồm 4 nguyên tắc: 1) Chỉ

thừa nhận là chân lý những gì là hiển nhiên, rõ ràng, rành mạch, không gợi

nghi ngờ; 2) Phân chia sự vật ra thành bộ phận để xem xét từng bộ phận; 3)

Nhận thức phải đi từ những cái đơn giản đến những cái phức tạp; 4) Xem xét

tất cả các mặt, các bộ phận không bỏ sót cái nào.

4. Barút Xpinôda (1632 - 1677)

a. Bản thể luận của B. Xpinôda

Ông là nhà triết học người Hà Lan mang lập trường duy vật, vô thần

tiến bộ. Ông cho rằng chỉ có một Thực thể duy nhất là giới tự nhiên. Tự

nhiên tồn tại khách quan, độc lập và tự nó sản sinh ra nó.

Giới tự nhiên có vô số thuộc tính nhưng năng lực nhận thức hạn chế

chỉ giúp con người phân biệt được hai thuộc tính là quảng tính và tư duy.

Thực thể là nguồn gốc và bản chất của mọi sự vật cho nên mọi sự vật đều có

linh hồn (ông rơi vào quan điểm vật hoạn luận).

Các sự vật đơn lẻ (được gọi là dạng thức) được sinh ra từ thực thể

nhưng không còn giống với thực thể vì thực thể bất động còn dạng thức luôn

vận động theo quy luật nhân quả. Ông cho rằng cái tất yếu là cái có nguyên

nhân còn cái ngẫu nhiên là cái không có nguyên nhân, từ đó đi đến phủ nhận

cái ngẫu nhiên vì mọi cái đều phải có nguyên nhân (quyết định luận máy

móc).

Ông coi con người chỉ là dạng thức của tự nhiên, mang trong mình 2

thuộc tính là quảng tính và tư duy, cho nên tư duy không thể tồn tại bên

ngoài cơ thể.

Page 84: lÞch sö triÕt häc

84

Ông có quan niệm vô thần về tôn giáo, kêu gọi phải nghiên cứu kinh

thánh như một văn bản thông thường. Tuy nhiên Ông vẫn cho rằng tôn giáo

là cần thiết cho nhân dân kém hiểu biết.

b. Nhận thức luận của B. Xpinôda

Ông thừa nhận khả năng nhận thức của con người là vô hạn, cho rằng

trật tự và liên hệ của tư tưởng về cơ bản giống với trật tự và liên hệ của giới

tự nhiên.

Nhận thức luận của Xpinôda theo đường lối duy lý. Ông chia nhận

thức thành ba yếu tố là cảm tính, giác tính và trực giác, trong đó lý tính (giác

tính và trực giác) là nguồn gốc duy nhất của chân lý, còn cảm tính không thể

đem lại chân lý. Ông cũng đề cao vai trò của trực giác (linh cảm), coi nó là

một nguồn gốc của tri thức đúng đắn.

Ông không thừa nhận tư tưởng bẩm sinh, cho rằng nhiệm vụ của nhận

thức là phải tìm ra nguyên nhân của các dạng thức (sự vật đơn nhất).

Xpinôda giải quyết một cách duy vật quan hệ giữa tự do và tất

yếu, cho rằng tự do và tất yếu không loại trừ nhau mà phụ thuộc vào nhau.

Tự do là nhận thức và hành động theo cái tất yếu.

5. Giôn Lôccơ (1632 - 1704)

Ông là nhà triết học duy vật người Anh, theo đường lối duy giác. Ông

phê phán quan niệm của Đêcactơ về tư tưởng bẩm sinh, cho rằng những đứa

trẻ và những người lớn vô học không có được những ý niệm giản đơn nhất

về toán học và những dân tộc khác nhau thường có những quan niệm khác

nhau về thẩm mỹ, đạo đức...thì không thể nói đến tư tưởng bẩm sinh được.

Lôccơ cho rằng mọi tri thức đều có được bằng con đường nhận thức.

Ông đưa ra nguyên tắc tabula rasa (tấm bảng sạch), theo đó linh hồn khi mới

sinh ra đều trong sáng như một tờ giấy trắng, không có ký hiệu hay ý niệm

nào. Theo ông, mọi tri thức đều bắt nguồn từ kinh nghiệm và kinh nghiệm

Page 85: lÞch sö triÕt häc

85

thì bắt nguồn từ cảm giác. Lý tính cũng chỉ là một loại kinh nghiệm (kinh

nghiệm bên trong).

Lập trường duy vật của ông tỏ ra không kiên định khi ông bàn về

“chất có trước” và “chất có sau”. Theo ông, “chất có trước” là những đặc

tính khách quan của sự vật như khối lượng, quảng tính mà khi ta phân chia

nó dù nhỏ đến đâu thì cũng không thể biến mất. “chất có sau” là những

thuộc tính phụ thuộc vào cảm giác con người như âm thanh, mùi vị, màu

sắc...Đây chính là điểm dao động của Lôccơ mà Beccli đã khai thác để xây

dựng chủ nghĩa duy tâm chủ quan của mình.

6. Gophrit Vinhem Lépnít (1646 – 1716)

Ông là nhà toán học, nhà vật lý học, nhà triết học lỗi lạc người Đức.

Chịu ảnh hưởng bởi các tư tưởng của Arixtot, Đêcactơ, Xpinôda Ông

cho rằng Siêu hình học phải đóng vai trò là cơ sở, nền tảng cho các khoa học

khác, giống như bộ dễ cây vậy. Ông là người đầu tiên phân chia Siêu hình

học ra làm 2 đường lối và gọi tên chúng là “chủ nghĩa duy vật” và “chủ

nghĩa duy tâm”.

a. Bản thể luận

Ông chia triết học ra thành 2 bộ phận là “vật lí học” và “Siêu hình

học”. Nhiệm vụ của “Vật lí học” là nghiên cứu về các vật thể tự nhiên. Tuy

có quan niệm duy tâm về vấn đề này nhưng Lépnit đã thể hiện lập trường

biện chứng về tự nhiên như: Coi đó là sản phẩm cao nhất của thượng đế và

luôn nằm trong quá trình hoàn thiện không ngừng; coi đó là một thế giới

thống nhất, luôn có sự liên hệ phổ biến với nhau; coi không gian và thời gian

là thống nhất và gắn liền với các vật thể tự nhiên.

Trong “Siêu hình học” Ông thể hiện lập trường duy tâm. Ông cho

rằng “Siêu hình học” không chỉ là học thuyết về bản chất của các vật thể, mà

còn là học thuyết về Thượng đế.

Page 86: lÞch sö triÕt häc

86

Ông phê phán Đêcáctơ vì đã tách rời vật chất và ý thức; phê phán

Xpinôda vì không thấy được tính đa dạng của thế giới và tính năng động của

các sự vật. Ông cho rằng thực thể là sự thống nhất giữa “Đơn tử” - tức bản

chất tinh thần, và vật chất - tức biểu hiện của nó. Cho nên thế giới là thống

nhất về bản chất nhưng đa dạng về biểu hiện.

Đơn tử là phần tử đơn giản nhất của thực thể, chúng không có bộ

phận, không sinh ra, không mất đi, khép kín, không them vào và không bớt

đi. Đây là những lực lượng tinh thần sống động trong mỗi sự vật hiện tượng.

Các đơn tử không chỉ sống động mà còn có khả năng tự nhận thức chính bản

than mình. Tuỳ vào khả năng nhận thức của chúng mà có thể phân chúng ra

thành 3 loại: “Các đơn tử trần truồng” - tạo ra các vật vô cơ, trong đó tiềm

ẩn “các linh hồn chết”; các đơn tử có khả năng cảm giác và trực quan, tạo

nên thực vật và động vật; các đơn tử phát triển hoàn thiện nhất tạo nên con

người. Các đơn tử này vừa độc lập, vừa liên hệ với nhau thành khối thống

nhất dưới sự chỉ huy của thượng đế và chúng phát triển theo nguyên tắc “hài

hoà tiền định”.

Ông chứng minh cho sự tồn tại đích thực của Thượng đế từ 4 lí do:

Thứ nhất, vì đó là một tồn tại tất yếu; thứ hai, trong thế giới mọi cái đều là

ngẫu nhiên, nhờ Thượng đế mà chúng trở thành tất yếu; thứ ba, vì Thượng

đế là linh hồn bất diệt, là cơ sở của “chân lý vĩnh viễn”; thứ tư, vì Thượng đế

là cơ sở cho “sự hài hoà tiền định” của sự phát triển.

b. Nhận thức luận

Ông coi con người là sự thong nhất giữa linh hồn và thể xác, trong đó

linh hồn là bản chất, còn thể xác là hiện tượng. Ông theo chủ nghĩa duy lý

của Đêcáctơ, thừa nhận tư tưởng bẩm sinh và phê phán nguyên tắc “tấm

bảng sạch của G. Lốccơ.

Lépnit xây dựng phương pháp luận nhận thức với 11 nguyên tắc:

Page 87: lÞch sö triÕt häc

87

1) Nguyên tắc khác nhau phổ biến: không có hai sự vật

hoàn toàn giống nhau.

2) Nguyên tắc đồng nhất: nếu có 2 sự vật hoàn toàn giống

nhau về tính chất thì chúng là cùng một sự vật.

3) Nguyên tắc liên tục: Sự phát triển luôn có tính kế thừa

“Cái hiện tại là kết quả của quá khứ đồng thề là tiền đề của tương lại,

và mọi trạng thái hiẹn tại chỉ có thể được giải thích thong qua trạng

thái trực tiếp trước đó…”.

4) Nguyên tắc gián đoạn: thừa nhận sự phân chia tương đối

giữa các sự vật.

5) Nguyên tắc đầy đủ: Thế giới chứa đựng trong mình trọn

vẹn và đầy đủ các sự vật và tính chất của chúng nên con người phải

hướng nhận thức đến sự trọn vẹn đó.

6) Nguyên tắc hoàn thiện: thừa nhận thế giới không ngừng

tự hoàn thiện mình.

7) Nguyên tắc liên hệ giữa thế giới khả năng (tinh thần) và

thế giới hiện thực (vật thể).

8) Nguyên tắc thừa nhận vai trò của Tam đoạn luận và ba

quy luật của logic hình thức.

9) Nguyên tắc lý do đầy đủ (quy luật thứ tư của logic học):

Đối với chân lý của lý tính chỉ cần 3 quy luật đầu tiên là đủ; đối với

“chân lý của sự thật” (tức đối với các vật thể và cảm tính) cần tuân

thủ quy luật lý do đầy đủ.

10) Nguyên tắc khẳng định mối liên hệ phổ biến giữa các sự

vật và các tư tưởng, ý niệm…

11) Nguyên tắc cực đại và cực tiểu: Cái cực tiểu (đơn tử) sinh

ra cái cực đại (thế giới vật thể) – duy tâm.

Page 88: lÞch sö triÕt häc

88

7. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan

a. Gioocgiơ Beccli (1685 - 1753)

Ông là một linh mục người Anh, một nhà duy tâm chủ quan. Theo

đường lối duy danh, ông cho rằng khái niệm vật chất chỉ là một tên gọi trống

rỗng, chỉ có những sự vật đơn lẻ mới tồn tại thực. Nhưng sự vật không tồn

tại khách quan mà chỉ là phức tạp các cảm giác, từ đó ông tuyên bố: tồn tại

tức là được tôi cảm giác. Để tránh lập trường duy ngã phi lý (tôi mở mắt ra

là thế giới xuất hiện, tôi nhắm mắt lại thì thế giới tan biến) ông đã thừa nhận

sự tồn tại của nhiều chủ thể cảm giác và chúa là nguồn gốc cho cảm giác của

tất cả các chủ thể.

Ông phủ nhận chân lí khách quan. Ông cho rằng chân lí không phải ở

sự phù hợp của tri thức với các sự vật bên ngoài, mà ở tính rõ ràng của các

tri giác cảm tính; ở sự giống nhau của ý kiến nhiều người; ở sự đơn giản và

rễ hiểu của các quan niệm; ở sự tuân theo ý Chúa…

b. Đavit Hium (1711 – 1776)

Ông là nhà triết học người Anh, là bậc tiền bối của triết học Cantơ.

Ông theo Hoài nghi luận, nghi ngờ vào sự tồn tại đích thực của thế giới.

Ông phát triển chủ nghĩa duy tâm chủ quan trong lĩnh vực nhận thức

luận, cho rằng con người chẳng thể biết gì về thế giới, mà chỉ biết về chính

cảm giác của mình. Ông cho rằng cảm giác là xuất phát điểm và là dạng cơ

bản của nhận thức con người. Ông không coi cảm giác là nguồn gốc sản sinh

ra thế giới như Béccơli, mà chỉ coi cảm giác là nguồn gốc duy nhất của nhận

thức, không cần đến sự tác động của thế giới bên ngoài.

Như vậy, con người nhận thức chính quá trình tâm lí xảy ra trong con

người, đó là những xúc cảm, ấn tượng. Còn ý niệm là sản phẩm của nhận

thức lí tính, là sự sao chép của ấn tượng nên kém sinh động hơn.

Page 89: lÞch sö triÕt häc

89

8. Chủ nghĩa duy vật Pháp TK XVIII

CN duy vật Pháp là sự chuẩn bị về tư tưởng cho cách mạng tư sản

Pháp (1789 - 1794). Triết học thời kỳ này được gọi là triết học Khai sáng.

a. Sáclơ Đờ Môngtexkiơ (1689 – 1775)

Thế giới quan của Ông chủ yếu được thể hiện ở lĩnh vực xã hội. Ông

đấu tranh chống các quan điểm duy tâm về xã hội, cho rằng trật tự xã hội

không phải do thần thánh an bài mà tuân thủ các quy luật nội tại của nó. Ông

đã chỉ ra vai trò của sản xuất vật chất đối với đời sống xã hội. Theo Ông có 2

loại quy luật chi phối đời sống xã hội là các quy luật tự nhiên và các quy luật

thuần tuý xã hội. Nhưng do quá nhấn mạnh quy luật tự nhiên mà Ông đã

không thấy được tính đặc thù của quy luật xã hội. Tuy thừa nhận vai trò của

kinh tế nhưng ông lại cho rằng hoàn cảnh địa lý quyết định sự khác nhau

giữa các dân tộc về chủng tộc, lối sống, văn hoá, thể chế chính trị…

Ông khẳng định sự cần thiết của pháp luật vì theo ông cùng với sự ra

đời của xã hội là sự xuất hiện của các cuộc chiến tranh, làm cho quan hệ xã

hhội ngày càng phức tạp nên “đòi hỏi phải thiết lập luật pháp giữa người với

người”, vì thế nhà nước xuất hiện. Ông phủ nhận sự bình đẳng hoàn toàn

trong xã hội vì như thế sẽ không có cạnh tranh để phát triển, nhưng ông phản

đối sự bất công xã hội, kêu gọi “nhà nước phải nghĩa vụ bảo đảm cho mọi

thành viên các phương tiện sinh tồn, thức ăn, quần áo…”; kêu gọi các dân

tộc hướng tới hoà bình, công lý. Ông nêu ý tưởng về nhà nước Tam quyền

phân lập.

b. Phrăngxoa Mari Vônte (1694 – 1778)

Ông là nhà triết học, nhà văn, nhà soạn kịch nổi tiếng. Thế giới quan

của ông mang lập trường tự nhiên thần luận. Ở thời kỳ đầu (những năm 30 –

40 TK XVIII) ông bảo vệ quan điểm duy vật và duy cảm của Lốccơ, cho

rằng nhận thức bắt nguồn từ cảm tính, không có tư tưởng bẩm sinh. Để lý

Page 90: lÞch sö triÕt häc

90

giải nguồn gốc vận động ông thừa nhận phải có “bàn tay” của Thượng đế. Ở

thời kỳ sau những năm 40 Ông lại cho rằng vận động là đặc tính của vật chất

chứ không phải được đưa từ bên ngoài vào, nhưng vẫn cho rằng con người

cần đến Thượng đế - đó vừa là dây cương, vừa là niềm an ủi đối với con

người. Nếu không có Thượng đế thì con người phải tạo ra nó.

c. Gian Giắc Rútxô (1712 – 1778)

Thế giới quan của ông cũng chủ yếu được thể hiện ở lĩnh vực xã hội.

Tuy là nhà tự nhiên thần luận nhưng Rútxô cho rằng trật tự xã hội không

phải do Thượng đế an bài mà do bàn tay con người. Ông cho rằng bản tính

của con người là tự do nhưng con người luôn bị kìm hãm và mất tự do.

Nguyên nhân của sự mất tự do, bất bình đẳng xã hội không chỉ có ở những

xung đột về chính trị, pháp luật mà còn ở sự phát triển kinh tế và các hình

thái sở hữu.

Ông chia lịch sử ra thành 3 thời kỳ:

1) “Trạng thái tự nhiên”: Tương ứng với thời nguyên thuỷ, đây được

coi là thời kỳ bình an, lâu dài và hạnh phúc nhất của nhân loại.

2) “Trạng thái công dân”: Sự phát triển của trí tuệ và sở hừu tư nhân

tạo ra trạng thái này “Người đầu tiên rào rậu một mảnh đất nhỏ lại và tuyên

bố: Đây là của tôi. Và tìm được những người chất phác, hồn nhiên để tin vào

điều đó, thì người đó thức sự là người sang lập ra xã hội công dân”. Ở thồ kỳ

này xuất hiện bất bình đẳng xã hội, tệ nạn, chiến tranh… cho nên nhà nước

ra đời trên cơ sở khế ước xã hội do nhân dân lập ra một cách thầm lặng. Tuy

nhiên “nhà nước khế ước” lại dần dần bị tha hoá, trở thành phương tiện bảo

vệ sở hữu tư nhân và bất công xã hội.

3) Trạng thái thứ ba là thông qua cách mạng xã hội để khôi phục lại

“trạng thái tự nhiên”, nhưng trên một nền tảng cao hơn. Nhân dân xây dựng

Page 91: lÞch sö triÕt häc

91

một “khế ước” mới đảm bảo chủ quyền của mình – đó là chế độ dân chủ

cộng hoà; sở hữu tư nhân vẫn được duy trì ở mức độ nhất định.

d. Giulen Ôphrơ La Metri (1709 - 1751)

Ông là nhà duy vật, cùng với các nhà bách khoa toàn thư khác chuẩn

bị về tư tưởng cho cách mạng tư sản Pháp. Theo ông, thực thể vật chất là sự

thống nhất giữa ba hình thức vô cơ, thực vật và động vật (bao gồm cả con

người). Đặc tính cơ bản của vật chất là quảng tính, vận động và cảm thụ.

Ông cho rằng ba hình thức trên không khác nhau về chất mà chỉ khác nhau

về lượng. Con người chỉ có tính cảm thụ cao hơn và trí tuệ hơn động vật. Về

nhận thức ông đi theo đường lối duy giác, cho rằng giác quan là kẻ đáng tin

cậy. Là nhà siêu hình nên ông coi con người chỉ là cỗ máy.

đ. Đêni Điđrô (1713 - 1784)

Ông là đại biểu phái khai sáng Pháp, là người tổ chức và biên tập bộ

bách khoa toàn thư Pháp TK XVIII.

Điđrô cho rằng vật chất là thực thể của toàn bộ thế giới kể cả con

người. Vật chất bao gồm toàn bộ các vật thể có quảng tính, được cấu thành

nên từ các phân tử và luôn vận động.Ông đã có những tư tưởng biện chứng

sâu sắc, cho rằng vật chất luôn vận động. Vận động không phải là sự dịch

chuyển mà là những thay đổi bên trong cho nên những sự vật đứng im vẫn

đang vận động. Nguyên nhân của vận động nằm ngay trong lòng các sự vật,

đó là lực nội tâm được gây nên bởi sự xô đẩy của các yếu tố tạo nên. Ông

cho rằng giới tự nhiên là một quá trình tiến hoá không ngừng, nhất là giới

sinh vật (tiền thân của thuyết tiến hoá).

Điđrô có quan niệm duy vật về nhận thức, cho rằng cơ thể con người

là khí quan vật chất của tư duy, vật chất là nguồn gốc khách quan cho cảm

giác. Ông đề cao vai trò của cảm giác đối với nhận thức.

Page 92: lÞch sö triÕt häc

92

Trong quan điểm xã hội, ông đấu tranh chống nhà thờ thiên chúa giáo,

chỉ ra nguồn gốc tâm lý của nó là nỗi sợ hãi của con người “ Hãy xoá bỏ nỗi

sợ hãi của ngời theo đạo Cơ Đốc đối với địa ngục thĩ sẽ xoá bỏ được tín

ngưỡng của anh ta”. Ông theo quan điểm “Khế ước xã hội “, kêu gọi thực

hiện chế độ dân chủ.

e. Pôn Hăngri Hônbách (1729 - 1789)

Ông là một trong những người sáng lập ra CN duy vật Pháp, tham gia

biên soạn bộ bách khoa toàn thư do Điđrô chủ biên.

Là một nhà duy vật, ông khẳng định bản chất vật chất của vũ trụ. Ông

cho rằng vật chất là khách quan, tồn tại vĩnh viễn và luôn vận động. Nhờ vận

động mà vật chất mới biểu hiện và con người mới nhận thức được nó. Tuy

nhiên vận động chỉ là vận động cơ giới.

Nhận thức luận của ông mang xu hướng duy giác luận duy vật, đề cao

vai trò của cảm giác, coi vật chất là nguồn gốc khách quan của tri thức.

Ông có quan điểm duy tâm về xã hội, coi ý thức của các vĩ nhân có

vai trò quyết định đối với lịch sử. Ông phê phán tôn giáo nhưng không làm

rõ được nguồn gốc xã hội của nó mà chỉ coi đó là sự dốt nát của con người.

NỘI DUNG THẢO LUẬN VÀ ÔN TẬP

1. Triết học của Ph. Bê-cơn? 2. Triết học của R.Đê-cac-tơ? 3. Chủ nghĩa duy tâm chủ quan của Béc-cơ-ly? 4. Chủ nghĩa duy vật Pháp TK XVIII?

Page 93: lÞch sö triÕt häc

93

CHƯƠNG IX. TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC

Mục đích: Làm rõ hoàn cảnh kinh tế - xã hội của sự ra đời, phát

triển của triết học cổ điển Đức; phân tích cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa

duy vật và chủ nghĩa duy tâm, phương pháp biện chứng và phương pháp

siêu hình qua các đại diện tiêu biểu của nó.

Thời lượng: 7 tiết lý thuyết, 2 tiết thảo luận, 1 tiết kiểm tra.

I. HOÀN CẢNH KINH TẾ XÃ HỘi VÀ ĐẶC ĐIỂM TRIẾT HỌC

CỔ ĐIỂN ĐỨC

1. Hoàn cảnh ra đời triết học cổ điển Đức

Châu Âu đã tiến lên chủ nghĩa tư bản với nền sản xuất công nghiệp

phát triển, trong khi Nước Đức thời kỳ này vẫn là một nước phong kiến lạc

hậu với một chế độ quân chủ phản động, giai cấp tư sản Đức tuy đã hình

thành nhưng tỏ ra non yếu và nửa vời.

Có nền văn hoá phát triển rực rỡ như: văn học, âm nhạc, hội hoạ, triết

học.

Dựa trên nền tảng khoa học tự nhiên phát triển.

2. Đặc điểm triết học cổ điển Đức

- Là thế giới quan của giai cấp tư sản Đức cho nên phản ánh tính chất

nửa vời của giai cấp này, từ đó dẫn đến những dao động trong lập trường

giữa duy vật và duy tâm, có đủ đại biểu của cả hai đường lối trên.

- Khôi phục phép biện chứng, chống lại phương pháp tư duy siêu

hình.

- Có tính nhân bản, đề cao vai trò của lý tính con người.

Page 94: lÞch sö triÕt häc

94

- Là sự hệ thống hoá toàn bộ tri thức của nhân loại, tạo ra những hệ

thống lớn, nhất là hệ thống triết học Hêghen..

II. MỘT SỐ TRIẾT GIA TIÊU BIỂU

1. Cantơ (1724 - 1804)

Ông là một nhà khoa học, một nhà triết học theo đường lối nhị

nguyên, người đặt nền móng cho sự ra đời của phép biện chứng. Sự hình

thành tư tưởng của ông bao gồm hai thời kỳ: tiền phê phán (trước năm 1770)

và phê phán (từ năm 1770). Các tác phẩm chủ yếu: “Phê phán lí tính thuần

tuý” (1781), “Phê phán lí tính thực tiễn” (1788), “Phê phán khả năng suy

diễn” (1790).

a. Về đối tượng của triết học

Ông cho rằng triết học cần phải tập trung nghiên cứu vấn đề con

người, trả lời 3 câu hỏi lớn: 1) Tôi có thể biết được cái gi? 2) Tôi cần phải

làm gi? 3) Tôi có thể hy vọng cái gì? Ba câu hỏi trên gắn với ba khía cạnh cơ

bản nhất của mối quan hệ giữa con người và thế giới, đó là: nhận thức, thực

tiễn và giá trị. Vấn đề thứ nhất mang tính lý luận, được nghiên cứu trong

Triết học lý luận; vấn đề thứ hai mang tính thực tiễn (chủ yếu là hoạt động

đạo đức, chính trị, pháp quyền, chứ chưa nói đến sản xuất vật chất), được

nghiên cứu trong Triết học thực tiễn; vấn đề thứ ba vừ mang tính lý luận,

vừa mang tính thực tiễn, được nghiên cứu trong Thẩm mỹ học.

b. Triết học lý luận của I. Cantơ

- Bản thể luận của I. Cantơ

Ở thời kỳ tiền phê phán Ông thể hiện một lập trường duy vật về thế

giới tự nhiên và nêu nhiều tư tưởng biện chứng về tự nhiên.Luận điểm nổi

tiếng của ông là:”Hãy cho tôi vật chất, tôi sẽ xây dựng thế giới vật chất từ

nó, nghĩa là, hãy cho tôi vật chất, tôi sẽ chỉ ra cho các bạn thấy, thế giới phải

Page 95: lÞch sö triÕt häc

95

ra đời từ vật chất như thế nào”. Ông cho rằng thế giới là thế giới vật chất

luôn luôn vận động và phát triển, các sự vật luôn tác động qua lại, liên hệ

với nhau thông qua lực hút và lực đẩy. Ông nêu ra thuyết tinh vân để lý giải

về sự hình thành vũ trụ, ông dự đoán về ảnh hưởng của mặt trăng đối với

hiện tượng thuỷ triều...

Thời kỳ phê phán được bắt đầu từ khi Cantơ viết tác phẩm “Phê phán

lý tính thuần tuý (1770). Ở thời kỳ này ông thể hiện lập trường pha trộn giữa

duy vật và duy tâm chủ quan. Ông cho rằng có tồn tại một thế giới “vật tự

nó”. “vật tự nó” tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người (Lênin

đánh giá rất cao quan điểm duy vật này). Ông hiểu “vật tự nó” dưới ba khía

cạnh sau: Thứ nhất, nó là sự thể hiện của những gì thuộc về lĩnh vực các

hiện tượng (Phenomen) mà chúng ta chưa nhận thức được; thứ hai, đó là bản

chất của mọi sự vật khách quan, tồn tại bên ngoài chúng ta, thuộc lĩnh vực

siêu nghiệm mà chúng ta không thể nhận thức; thứ ba, đó là những lí tưởng,

chuẩn mực của mọi sự hoàn hảo tuyệt đối mà con người không đạt tới được,

nhưng nhân loại hằng mơ ước như Chúa, tự do, sự bất diệt của linh hồn.

“vật tự nó” tác động lên các giác quan để gây nên cảm giác từ đó sinh

ra thế giới hiện tượng, tức là “Vật cho ta”. Như vậy “vật cho ta” do cảm giác

đẻ ra và phụ thuộc vào cảm giác (duy tâm chủ quan). Không gian, thời gian,

quan hệ nhân quả...theo ông, cũng chỉ là những hình thức tiên nghiệm của

giác tính mà không khách quan.

- Nhận thức luận của I. Cantơ

I.Cantơ theo đường lối bất khả tri, cho rằng con người không thể nhận

thức được”vật tự nó”. Ông cho rằng nhận thức và tri thức của con người là

tiên nghiệm, đó không phải là phản ánh của hiện thực khách quan. Nếu cho

rằng tri thức là phản ánh của hiện thực khách quan thì phải thừa nhận rằng

mọi tri thức đều là ngẫu nhiên, đơn lẻ bới vì thế giới chỉ tồn tại thông qua

Page 96: lÞch sö triÕt häc

96

các sự vật đơn lẻ. Còn nếu thừa nhận tri thức của con người có tính phổ quát

và tất yếu thì chúng không phải là kết quả phản ánh hiện thực khách quan

mà mang tính tiên nghiệm. Đứng trước hai sự lựa chọn trên I.Cantơ đã đi

theo con đường thứ hai: “Từ trước tới giờ người ta cho rằng, mọi tri thức của

chúng ta đều phải phù hợp với các sự vật. Tuy nhiên, ở đây mọi ý đồ thông

qua khái niệm xác lập một cái gì đó tiên nghiệm về các sự vật, cái mà có thể

mở rộng tri thức của chúng ta về chúng; kết cục đều thất bại. Vì thế …

chúng ta sẽ giải quyết những nhiệm vụ của Siêu hình học một cách có hiệu

quả hơn nếu ta xuất phát từ luận điểm cho rằng, các sự vật phải phù hợp với

nhận thức của chúng ta…”.

Ông chia nhận thức ra thành ba giai đoạn tách biệt nhau là cảm tính,

giác tính và lý tính.

+ Nhận thức cảm tính: Theo Cantơ cảm tính chỉ giúp ta nhận thức về

sự vật những gì mà nó biểu hiện cho ta, tức là những hình ảnh, những quan

niệm của con người về chúng. Ông gọi đó là “Vật cho ta”. Đó không phải là

bản chất của các sự vật mà chỉ là biểu hiện của chúng thong qua cảm giác

của con người, chúng xuất hiện khi “Vật tự nó” tác động lên các giác quan

của con người. Như vậy cảm tính chỉ đem lại những kinh nghiệm ngẫu

nhiên, đơn lẻ và chúng thuộc lĩnh vực hiện tượng luận, chỉ phản ánh hiện

tượng chứ không phản ánh bản chất. Các kinh nghiệm này được xắp xếp

theo trình tự không gian, thời gian nhất định. Cho nên không gian và thời

gian chỉ là những hình thức chủ quan của cảm tính, nhờ chúng mà các kinh

nghiệm mới được xắp xếp.

+ Giác tính: là một trong hai trình độ của tư duy trừu tượng, được

nghiên cứu bởi bộ phận Phân tích tiên nghiệm của Lôgíc học. Hoạt động của

phân tích nghiệm nhằm hệ thống hoá, phân loại, sắp xếp các phạm trù tiên

nghiệm của giác tích có sự liên hệ, dàng bộc với nhau. Mặc dù Cantơ không

Page 97: lÞch sö triÕt häc

97

tạo ra các phạm trù , nhưng ông đã sắp xếp chúng theo những trình tự nhất

định và xem xét chúng một cách biện chứng. ông phân các phạm trù ra làm 4

nhóm , mỗi nhóm gồm 3 phạm trù (chính đề - phản đề - hợp đề), trong đó có

hai phạm trù đối lập nhau, phạm trù thứ ba có liên hệ với cả hai phạm trù

đầu, là sự kết hợp của chúng tạo nên:

Lượng: Thống nhất- Nhiều vẻ- Chỉnh thể.

Chất: Hiện thực- Phủ định- hạn chế.

Quan hệ: Phụ thuộc và độc lập – nguyên nhân và kết quả - tác động

lẫn nhau.

Hình thái: Khả năng và không khả năng – tồn tại và không tồn tại- tất

nhiên và ngẫu nhiên.

Theo Cantơ đây mới chỉ là hệ thống những phạm trù cơ bản mà từ đó

có thể đi đến những phạm trù khác. Những phạm trù này chỉ là hình thức

trống rỗng của tư duy, chưa có nội dung cụ thể. Cho nên cần đưa chúng trở

về lĩnh vực kinh nghiệm để xắp xếp lại kinh nghiệm, nhờ đó mà phạm trù có

nội dung và kinh nghiệm có tính hệ thống.

+ Lý tính thuần tuý: là trình độ thứ hai của tư duy trừu tượng, được

nghiên cứu bởi bộ phận Biện chứng tiên nghiệm của Lôgíc học. Biện chứng

tiên nghiệm hoạt động trong lý tính thuần tuý đưa con người đến các mâu

thuẫn ( antinômia). Những mâu thuẫn trên, theo Cantơ xuất hiện một cách

tất yếu, gắn liền với bản chất của lý tính. Ở đây Cantơ đã dự đoán về bản

chất biện chứng của tư duy con người. Ông chỉ ra 4 cặp antinôia, mỗi cặp có

hai vế đối lập mà người ta có thể chứng minh như nhau cả 2 vế đó:

Thế giới là hữu hạn – thế giới vô hạn trong không gian và thời gian.

Các vật phức tạp được tạo nên từ cái đơn giản- không có gì là đơn

giản.

Có tự do bên ngoài tất yếu – không có tự do.

Page 98: lÞch sö triÕt häc

98

Có thực thể tuyệt đối tất nhiên( Thượng đế)- không có một thực thể

tuyệt đối tất nhiên nào cả (không có Thượng đế) .

Tuy nhiên do không hiểu được bản chất của mâu thuẫn là khách quan

nên Cantơ cho rằng mâu thuẫn xuất hiện là do lý tính của con người muốn

vươn tới nhận thức “ Vật tự nó” là cái không thể nhận thức được.

Khi giải quyết các mâu thuẫn này, Cantơ cho rằng cả hai vế của chúng

hoặc là cùng đúng, hoặc là cùng sai. Hai Antinomia đầu tiên được gọi là

Antinomia toán học. Cả hai vế của chúng đều sai vì chúng bàn về các “Vật

tự nó” – đó là cái không thể nhận thức, nên lí tính tất yếu mâu thuẫn với hiện

thực. Hai Antinomia sau được gọi là Antinomia động lực học. Cả hai vế của

chúng đều đúng trong những quan hệ khác nhau: Vế thứ nhất đúng trong

quan hệ với “Vật tự nó”; vế thứ hai đúng trong khuôn khổ hiện tượng luận.

Như vậy có thể thấy quan niệm về mâu thuẫn của Cantơ có nhiều hạn

chế: Thứ nhất, chỉ thừa nhận mâu thuẫn trong tư tưởng; thứ hai, Antinomia

chưa thực sự là mâu thuẫn biện chứng vì các của chúng chưa lien hệ và

chuyển hoá lẫn nhau; thứ ba, phương pháp giải quyết mâu thuẫn không đúng

đắn; thứ tư, số lượng Antinomia còn rất hạn chế. Tuy nhiên công lao của

Cantơ là ở chỗ Ông đã đặt vấn đề về tính biện chứng của lí tính, từ đó tạo

tiền đề cho sự ra đời phép biện chứng của Hêghen.

c. Triết học thực tiễn của I. Cantơ

Nếu như triết học lí luận có nhiệm vụ làm rõ khả năng nhận thức của

con người, trả lời câu hỏi “Tôi có thể biết được cái gì” thì triết học thực tiễn

lại nghiên cứu các nguyên lí hoạt động thực tiễn của con người (đạo đức,

chính trị, pháp quyền), trả lời câu hỏi “tôi cần phải làm gì?”. Triết học thực

tiễn của Cantơ được thể hiện ở hai lĩnh vực là Đạo đức học và Triết học lịch

sử, pháp quyền.

- Đạo đức học

Page 99: lÞch sö triÕt häc

99

Đạo đức học của Cantơ theo lập trường duy lí, cho rằng lí tính là

nguồn gốc duy nhất sinh ra các nguyên lí và chuẩn mực đạo đức: “Các

nguyên lí cảm tính nói chung không thích hợp để có thể xây dựng các quy

luật đạo đức vào chúng”.

Cantơ đưa ra nguyên lí cơ bản của đạo đức là “mệnh lệnh tuyệt đối”,

theo đó tất cả mọi người, không phân biệt lứa tuổi, giới tính, đẳng cấp… đều

phải tuân thủ nó, tức là sống phù hợp với tự nhiên, tôn trọng mình và tôn

trọng người, tôn trọng sự thật và sống theo lẽ phải; sống bình đẳng trong

cộng đồng. “Mệnh lệnh tuyệt đối” bao gồm ba nguyên tắc cơ bản là: Thứ

nhất, mọi người đều bình đẳng như nhau về các quyền của mình; thứ hai,

mọi người đều bình đẳng về những điều kiện để thực hiện các quyền ấy; thứ

ba, mọi người đều bình đẳng trong việc ngăn chặn người khác hành động

trái với “mệnh lệnh tuyệt đối”, trái với chuẩn mực đạo đức.

Phạm trù trung tâm của Đạo đức học là Tự do: “Ý chí tự do và ý chí

tuân theo các quy luật của đạo đức là như nhau”. Tự do được hiểu theo các

khía cạnh sau: Thứ nhất, tự do là khả năng tiên nghiệm cho phép giác tính

hoạt động độc lập với tính tất yếu trong lĩnh vực hiện tượng luận; thứ hai, tự

do tồn tại một cách tương đối trong lĩnh vực hiện tượng luận, nơi mà mọi cái

đều mang tính tất yếu; thứ ba, tự do thuộc lĩnh vực “vật tự nó”. Nếu như

trong “hiện tượng luận” tự do chỉ là tương đối, chỉ đặc trưng cho giác tính

thì lĩnh vực “vật tự nó” chính là vương quốc của tự do. Tự do, sự bất diệt

của linh hồn và Chúa là nhưng lí tưởng thể hiện sự hoàn hảo tuyệt đối của

thế gian mà con người mơ ước.

Tư tưởng đạo đức của Cantơ còn mang tính không tưởng vì nó phi

lịch sử, phi giai cấp và thiếu cơ sở thực hiện nhưng nó chứa đựng những yếu

tố nhân đạo sâu sắc, chống chủ nghĩa cá nhân, ích kỉ, mong muốn xây dựng

một xã hội tự do, hạnh phúc cho con người.

Page 100: lÞch sö triÕt häc

100

- Triết học lịch sử và pháp quyền

Đây là đạo đức học ứng dụng của Cantơ. Ông coi lịch sử là quá trình

tiến hoá không ngừng, trong đó Cách mạng tư sản Pháp được coi là sự kiện

điển hình, nhằm tiêu diệt chế độ chuyên chế, mở đường cho sự phát triển xã

hội.

Ông coi mâu thuẫn xã hội giữa các đẳng cấp, tầng lớp xã hội là động

lực phát triển xã hội nhưng Ông lại kêu gọi xây dựng một thế giới hoà bình,

hữu nghị, một “liên bang” trong đó các dân tộc được quyền tự do, độc lập về

chính trị.

Ông phản đối các cuộc chiến tranh phi nghĩa vì nó phá vỡ các chuẩn

mực đạo đức xã hội, nhưng cho rằng nếu cuộc chiến tranh “được tiến hành

một cách đúng đắn dưới sự giám sát chặt chẽ các quyền công dân” thì nó lại

là động lực phát triển xã hội.

Theo quan điểm khế ước xã hội, Ông cho rằng nhà nước là sự liên kết

của mọi công dân trong khuôn khổ pháp luật nhằm giám sát và đảm bảo sự

bình đẳng của mọi người. Ông ủng hộ hình thức nhà nước cộng hoà

d. Thẩm mĩ học của I. Cantơ

Thẩm mĩ học của Cantơ nhằm trả lời câu hỏi “Tôi có thể hi vọng cái

gì?”. Thẩm mĩ học của Ông cũng mang xu hướng duy lí. Ông cho rằng khả

năng hưởng thụ và đánh giá thẩm mĩ đối với các vật tự nhiên của con người

là tiên nghiệm; còn các vật tự nhiên là “vật tự nó”. Phạm trù thẩm mĩ trung

tâm là phạm trù cái đẹp. Bản thân quan niệm về cái đẹp cũng mang tính mâu

thuẫn: Một mặt, cái đẹp là phạm trù mang tính phổ quát và tất yếu; mặt khác,

cái đẹp mang tính cá biệt bởi vì nó là kết quả thưởng thức của từng cá nhân.

Tuy con người không nhận thức được vật tự nó nhưng lại có thể cảm nhận

và thưởng thức được cái đẹp và đánh giá được nó.

Page 101: lÞch sö triÕt häc

101

2. Hêghen (1770 - 1831)

Ông là một nhà duy tâm khách quan, là người đã xây dựng một phép

biện chứng tự giác, có hệ thống. Ông là con một gia đình công chức cao cấp,

được sinh ra ở Stutgat. Sau khi tốt nghiệp đại học Tubingue ông làm giáo sư

tư thục, sau đó làm hiệu trưởng trường trung học Nuremberg, là giáo sư

trường đại học Heldelberg và cuối cùng là giáo sư đại học Beclin. Các tác

phẩm chính là: “Hiện tượng học tinh thần” (1807), “Khoa học logic” (ba tập,

từ năm 1812 đến 1816), “Bách khoa toàn thư các khoa học triết học” (1817).

a. Hệ thống triết học duy tâm của Hêghen

* Chủ nghĩa duy tâm khách quan

Theo Hêghen, cơ sở cho sự tồn tại của thế giới không phải là vật chất

mà là “ý niệm tuyệt đối” hay là “tinh thần tuyệt đối”. Đó là một thực thể tinh

thần có trước giới tự nhiên, nó tự thiết định bản thân nó và tự phân biệt với

bản thân. Ý niệm tuyệt đối được hiểu như một đấng sang tạo tôi cao sản sinh

ra toàn bộ giới tự nhiên và con người; tất cả các sự vật, hiện tượng, từ những

sự vật tự nhiên cho đến các sản phẩm hoạt động của con người, đều được coi

là hiện thân của Ý niệm tuyệt đối.

Ý niệm tuyệt đối là một thực thể biện chứng, luôn luôn vận động và

phát triển tự thân. Hêghen là người đầu tiên nhìn nhận toàn bộ giới tự nhiên,

xã hội và tư duy là một quá trình phát triển thống nhất, nhưng theo tinh thần

duy tâm – coi sự phát triển của ý niệm là nền tảng cho sự phát triển của tự

nhiên và con người. Sự phát triển của “ý niệm tuyệt đối” được diễn đạt theo

mô hình Tam đoạn thức là: chính đề - phản đề - hợp đề (theo quy luật phủ

định của phủ định), trong đó các yếu tố có mối liên hệ hữu cơ và chuyển hoá

lẫn nhau. Sự phát triển của ý niệm tuyệt đối được coi là hiện thân của quá

trình phát triển lịch sử của nhân loại (chủ yếu là phát triển của đời sống tinh

thần mà biểu hiện cao nhất là tư tưởng), tuy được Hêghen phân ra thành tám

Page 102: lÞch sö triÕt häc

102

phần khác nhau nhưng theo C. Mác nó chỉ bao gồm qua ba giai đoạn chính

là: tinh thần thuần tuý (tư duy), tinh thần khách quan (tự nhiên và xã hội),

tinh thần tuyệt đối (Hoạt đông nhận thức và cải tạo thế giới của con người).

+ Tinh thần thuần tuý là giai đoạn ý niệm tuyệt đối tồn tại và phát

triển trong mình. Theo Hêghen, trong sự vận động biện chứng ý niệm tuyệt

đối đã đạt tới sự phát triển đầy đủ từ trước khi giới tự nhiên xuất hiện. Nó

mang trong mình đầy đủ những tính quy định sau này, giống như cái mầm

cây mang sẵn trong mình toàn bộ bản chất của cái cây như mùi, vị, hình

dáng quả… Sự phát triển của tinh thần thần tuý là phi không gian và phi thời

gian.

+ Sự phát triển của tinh thần thuần tuý, khi đạt đến đầy đủ thì “tha

hoá” ra thành giới tự nhiên - tức “tinh thần khách quan”. Như vậy guới tự

nhiên chỉ là một giai đoạn trong quá trình phát triển của ý niệm tuyệt đối, là

sự “tha hoá” của ý niệm, là “hình thức tồn tại khác” của ý niệm. Hêghen giải

thích: sở dĩ ý niệm tuyệt đối tha hoá thành giới tự nhiên vì nó là một thực thể

tinh thần, bản tính của nó là ham hiểu biết, để hiểu biết về mình thì nó phải

tha hoá ra thành một cái khác mình nhưng vẫn là chính mình.

+ Con người được coi là sản phẩm, là giai đoạn phát triển cao nhất

của ý niệm tuyệt đối. Thông qua hoạt động nhận thức và thực tiễn cải tạo thế

giới của con người để ý niệm tuyệt đối tự nhận thức chính mình. Như vậy

quá trình nhận thức của con người chẳng qua chỉ là quá trình tự nhận thức

mình của ý niệm tuyệt đối. Theo Hêghen, nhận thức khái niệm là dạng nhận

thức cao nhất của con người. Khái niệm được coi là bản chất tinh thần, là

linh hồn của các sự vật: “Nếu như gọi tri thức là khái niệm, còn bản chất hay

chân lý – là tồn tại, tức sự vật, thì vấn đề là xác định liệu khái niệm có phù

hợp với sự vật hay không (giải thích: khái niệm với tính cách là kết quả nhận

thức?). Nếu chúng ta gọi bản chất [hay tồn tại - tự nó] của sự vật là khái

Page 103: lÞch sö triÕt häc

103

niệm và … sự vật là khái niệm như một sự vật (giải thich: khái niệm có

trước sự vật với tính cách là bản chất của sự vật) … thì vấn đề là xác định

liệu sự vật có phù hợp với khái niệm của mình không.. Hiển nhiên là hai

cách hiểu trên đây là như nhau”. Khi nào con người nhận thức đầy đủ giới tự

nhiên thì khi đó ý niệm tuyệt đối sẽ quay trở về với chính nó, đó chính tà

tinh thần tuyệt đối. Như vậy, điểm khởi đầu của sự phát triển là tinh thần,

nhưng đó là “tinh thần thế giới” (phi cá nhân) và điểm kết thúc của sự phát

triển cũng là tinh thần, nhưng đó là “tinh thần tuyệt đối” tồn tại ở mỗi các

nhân con người. Nó biểu hiện dưới các hình thức nhận thức tôn giáo, nghệ

thuật và triết học của con người, trong đó triết học là hình thức cao nhất.

Như vậy hệ thống triết học của Hêghen là duy tâm khách quan và siêu

hình. Duy tâm khách quan ở chỗ nó thừa nhận tinh thần là có trước và quyết

định; siêu hình ở chỗ nó thừa nhận sự kết thúc của quá trình phát triển, cho

rằng khi con người nhận thức hết về giới tự nhiên thì nó không vận động,

phát triển về thời gian mà chỉ vận động trong không gian.

Tương ứng với ba giai đoạn phát triển của ý niệm tuyệt đối hệ thống

triết học của Hêghen được phân ra thành ba học thuyết: Khoa học logic -

triết học tự nhiên - triết học tinh thần.

* Quan niệm về bản chất của triết học và lịch sử triết học

Coi tinh thần tuyệt đối là thực thể và bản chất của toàn bộ thế giới,

trong đó con người và xã hội là giai đoạn phát triển cao nhất, Hêghen cho

rằng có ba hình thức thể hiện nó, đó là: nghệ thuật, tôn giáo và triết học.

Trong đó triết học là hình thức biểu hiện cao nhất của tinh thần tuyệt đối.

Theo Ông, triết học là học thuyết về tinh thần tuyệt đối mà lịch sử

nhân loại (chủ yếu là lịch sử tư tưởng) là giai đoạn cao nhất của nó. Cho nên

mỗi học thuyết triết học là một giai đoạn phát triển của lịch sử tư tưởng nhân

loại, thể hiện tinh hoa tinh thần của thời đại, là thời đại thể hiện dưới dạng tư

Page 104: lÞch sö triÕt häc

104

tưởng. Ông coi triết học là “khoa học của mọi khoa học”, cho nên nó đóng

vai trò là nền tảng của toàn bộ thế giới quan con người.

Lịch sử triết học cho chúng ta một bức tranh khái quát về toàn bộ tiến

trình phát triển của tư tưởng nhân loại. Đó không phải là sự sưu tầm các học

thuyết triết học, mà là là lịch sử phát triển của bản thân triết học theo những

quy luật tất yếu: “Lịch sử triết học chỉ ra, thứ nhất, tất cả các học thuyết triết

học tưởng như khác nhau đều thực chất chỉ là một triết học trên các giai

đoạn phát triển khác nhau của nó; thứ hai, những nguyên lý đặc thù, mà mỗi

chúng là nền tảng của một hệ thống nào đó, thực chất chỉ là những chi nhánh

của cùng một chỉnh thể. Học thuyết triết học cuối cùng, và do vậy cần phải

chứa đựng các nguyên lý của tất cả chúng, cho nên nó là học thuyết triết học

phát triển nhất, cụ thể nhất”. Như vậy, đối tượng của lịch sử triết học cũng

chính là đối tượng của bản thân triết học; sự thống nhất giữa chúng là sự

thống nhất giữa lịch sử và logic.

b. Phép biện chứng duy tâm của Hêghen (Khoa học Lôgíc)

Hêghen là người đầu tiên xây dựng nên một phép biện chứng tự giác,

có hệ thống và tương đối toàn diện mà cốt lõi của nó là học thuyết về sự phát

triển. Tuy nhiên phép biện chứng của Hêghen là phép biện chứng duy tâm,

là phép biện chứng “lộn đầu xuống đất”. Các tư tưởng biện chứng được

Hêghen trình bày trong cả ba phần, nhưng tập trung nhất là trong “Khoa học

logic”.

* Đối tượng và nhiệm vụ của khoa học lôgíc

Nghiên cứu các học thuyết lôgíc học trước đó Hêghen chỉ ra hạn chế

của chúng là: Thứ nhất, Tư duy với tính cách là đối tượng của lôgíc học, mới

chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp, đó là tư duy chủ quan trong phạm vi ý thức cá

nhân. Thứ hai, Việc xác định ranh giới giữa logic học với các khoa học khác

về tư duy như tâm lý học, nhân bản học là chưa rõ rang. Thứ ba, logic học

Page 105: lÞch sö triÕt häc

105

trước đây chỉ dựa trên những phạm trù bất động, không có sự lien hệ và

chuyển hoá với nhau.

Hêghen cho rằng phải xây dựng một logic học mới. Tuy vẫn xác định

logic học là khoa học về tư duy, nhưng cần phải hiểu một cách biện chứng

về tư duy. Tư duy ở đây không phải là ý thức cá nhân, mà là tinh thần thuần

tuý (dưới khía cạnh tôn giáo thì đó là Chúa). Như vậy, Hêghen phân biệt hai

loại tư duy là: Thứ nhất, tư duy tự nó - tức ý niệm tuyệt đối, là nền tảng và

bản chất của mọi tồn tại; và tư duy cho nó - tức tư duy cá nhân con người.

Tư duy con người là giai đoạn cao nhất, trong đó ý niệm tuyệt đối có thể tự ý

thức về mình, nên tư duy con người phải hoạt động theo những quy luật

khách quan chung của tư duy.

Giới tự nhiên cũng chỉ là hình thức biểu hiện khác của tư duy, là tư

duy khách quan vô thức. Chúng đồng nhất về nội dung, chỉ khác nhau về

hình thức. Như vậy, đối tượng của logic học là tư duy logic, nó là sự thống

nhất giữa tư tưởng và hiện thực, giữa tinh thần và vật chất, giữa chủ quan

và khách quan. Cho nên, “Lôgíc học vì vậy đồng nhất với siêu hình học –

khoa học về các sự vật được thể hiện trong tư tưởng”.

* Cái gì hợp lý, thì hiện thực và cái gì hiện thực, thì hợp lý

Đây là nguyên lý xuất phát của khoa học lôgíc. Luận điểm này không

chỉ nhằm bảo vệ cho nhà nước quân chủ Phổ, mà chủ yếu là khẳng định rằng

không phải mọi cái đang tồn tại đều là hiện thực; cái hiện thực phải là cái

tồn tại tất yếu: “Tính hiện thực, trong sự phát triển của nó, tự biểu lộ ra là

tính tất yếu”.

Ăngghen chỉ ra thực chất của luận điểm này là trong quá trình phát

triển, những gì trước đây là hiện thực thì nay trở thành không hiện thực, mất

đi tính tất yếu, mất quyền tồn tại và bị tiêu vong; những gì là hợp lý trong tư

duy con người, dù có mâu thuẫn với hiện thực bề ngoài cũng được quy định

Page 106: lÞch sö triÕt häc

106

trở thành hiện thực. Cho nên mệnh đề trên trở thành một mệnh đề khác: “Cái

gì đang tồn tại đều đáng tiêu vong”.

Theo nguyên lý trên của Hêghen, cần phải hiểu là: Thứ nhất, các

phạm trù tư duy không phải là hình thức trống rỗng, chủ quan của tư duy mà

còn là bản chất của sự vật khách quan. Lênin nhận xét: “Lôgíc không phải là

những hình thức bên ngoài của tư duy, mà là học thuyết về những quy luật

phát triển của “tất thảy mọi sự vật vật chất, tự nhiên và tinh thần”, … tức là

sự tổng kết, tổng số, kết luận của lịch sử nhận thức thế giới”. Thứ hai, nó

khẳng định sự thống nhất giữa tư duy và tồn tại, tư tưởng và hiện thực như

một quá trình phát triển biện chứng. Cho nên, để thể hiện bản chất của tư

duy các phạm trù, quy luật logic cũng phải không ngừng vận động, phát

triển, liê n hệ và chuyển hoá lẫn nhau. Nhiệm vụ của khoa học logic là phải

đào thải những hình thức tư tưởng không thể hiện đúng bản chất của tư duy

sống động, trang bị phương pháp tư duy biện chứng để khám phá chân lý.

* Ba yếu tố của tư duy

Hêghen coi tư duy là một quá trình phát triển biện chứng, bao gồm ba

yếu tố cơ bản là: Giác tính, biện chứng và tư biện.

- Giác tính: là yếu tố phù hợp với tư duy thong thường của mọi người.

Tư duy này còn mang nặng tính trực quan, nên xem xét sự vật trong trạng

thái cứng đờ, tách rời các mặt đối lập với nhau, không thấy được sự thống

nhất giữa chúng. Trình độ này của tư duy tương ứng với giai đoạn trước

I.Cantơ.

- Yếu tố biện chứng: Hêghen hiểu phép biện chứng không phải là

nghệ thuật tranh luận, mà là học thuyết về sự phát triển của các khái niệm

với tính cách là bản chất tinh thần của mọi sự vật. Cho nên mọi sự vật vật

chất và tinh thần đều phát triển theo các quy luật biện chứng. Đó là quá trình

thống nhất giữa chất và lượng; là quá trình nảy sinh và giải quyết mâu thuẫn

Page 107: lÞch sö triÕt häc

107

và là sự phủ định của phủ định. Như vậy, theo tinh thần phép biện chứng

không có gì là đứng vững nổi, không có gì là cố định, vĩnh viễn… Yếu tố

này tương ứng với giai đoạn I.Cantơ.

- Yếu tố tư biện: Là sự thống nhất của hai yếu tố trên, đồng thời là kết

quả phát triển của chúng. Chỉ ở đây phép biện chứng mới đạt đến trạng thái

chín muồi, khi mà bản chất đích thực của mọi cái đều được biểu hiện ra là sự

thống nhất và sự đấu tranh giữa các mặt đối lập. Yếu tố này tương ứng với

triết học của Hêghen.

Theo Hêghen, sự phân chia các yếu tố như trên chỉ mang tính chất

tương đối về không gian và thời gian. Trong thực tế chúng liên hệ mật thiết

với nhau trong từng giai đoạn phát triển của sự vật và khái niệm. Mối khái

niệm, phạm trù logic học và toàn bộ triết học nói chung đều chứa đựng đầy

đủ cả ba yếu tố trên. Mỗi phạm trù logic học thể hiện một khía cạnh hay một

giai đoạn nào đó trong quá trình phát triển của tư duy.

* Những nguyên lý cơ bản xác định điểm khởi đầu của khoa học lôgíc

Quá trình nhận thức phải đi từ hiện tượng đến bản chất, từ cảm tính

đến lý tính, cuuoí cùng mới đi đến khái niệm. Tương ứng với quá trình này

Hêghen chia khoa học Lôgíc ra thành ba học thuyết: Học thuyết về tồn tại,

học thuyết về bản chất, học thuyết về khái niệm. Để xây dựng khoa học

Lôgíc cần xác định điểm khởi đầu của nó. Hêghen đã chỉ ra những nguyên lý

cơ bản xác định điểm khởi đầu của khoa học Lôgíc, đồng thời cũng là điểm

khởi đầu của nhận thức lý luận nói chung.

- Một là, Tính khách quan là nguyên lý hàng đầu, đòi hỏi các nhà

nghiên cứu phải xuất phát từ bản thân sự vật khách quan, phù hợp với từng

sự vật chứ không được tuỳ tiện, chủ quan.

Page 108: lÞch sö triÕt häc

108

- Hai là, nguyên lý đơn giản và trừu tượng. Điểm khởi đầu phải là cái

đơn giản nhất, chưa hoàn thiện nhất, trừu tượng nhất. Như vậy Hêghen là

người đầu tiên đề xuất nguyên tắc đi từ trừu tượng đến cụ thể.

- Ba là, Nó phải chứa đựng mâu thuẫn cơ bản của toàn bộ hệ thống –

đó là mâu thuẫn giữa tinh thần và vật chất. Mâu thuẫn được coi là nguồn gốc

của sự phát triển, có mặt ở mọi sự vật vật chất và tinh thần. Hêghen đã chỉ ra

cơ chế phát triển của mâu thuẫn thông qua phạm trù bản chất. Phạm trù bản

chất được hiểu như sau:

Giai đoạn 1) Đồng nhất, nhưng đồng thời cũng là sự khác nhau

Giai đoạn 2) Khác nhau bề ngoài

Giai đoạn 3) khác nhau cơ bản

Giai đoạn 4) Sự đối lập

Giai đoạn 5) Mâu thuẫn

Giai đoạn 6) Cơ sở hay sự đồng nhất, nhưng ở trình độ cao hơn với

tính cách là sự phủ định của phủ định.

- Bốn là, Sự thống nhất giữa lịch sử và lôgíc. Hêghen hiểu lôgíc

không phải là sự khái quát lịch sử, mà ngược lại lịch sử chính là hiện thân

của lôgíc. Cho nên lôgíc là có trước và quyết định đối với lịch sử (duy tâm).

Tóm lại, biện chứng của khái niệm nói riêng, của toàn bộ hiện thực

vật chất và tinh thần nói chung được hiểu là:

Thứ nhất, các khái niệm không chỉ khác nhau, mà còn làm trung giới

cho nhau, có liên hệ mật thiết với nhau.

Thứ hai: Mỗi khái niệm đều nằm trong quá trình phát triển, được thực

hiện theo ba quy luật phổ biến là lượng - chất, mâu thuẫn và phủ định của

phủ định.

Page 109: lÞch sö triÕt häc

109

c. Triết học tự nhiên

Triết học tự nhiên là sự nghiên cứu lý luận về giới tự nhiên. Giới tự

nhiên được Hêghen hiểu là một hình thức tồn tại khác của ý niệm tuyệt đối,

nó nằm trong quá trình phát triển thống nhất của ý niệm tuyệt đối cho nên

không ngừng vận động và phát triển.

Tiếp thu những thành tựu khoa học tự nhiên Ông khẳng định sự tồn tại

nhiều cấp độ khác nhau của vật chất như cơ học, vật lý, hoá học, sự sống…

với những đặc điểm khác nhau về bản chất và vận động. Tuy triết học tự

nhiên là điểm yếu nhất trong hệ thống của Hêghen, nhưng Ông cũng đã nêu

được nhiều tư tưởng biện chứng sâu sắc về nó, thấy được sự thống nhất giữa

vật chất với vận động, không gian với thời gian…

d. Quan điểm về xã hội của Hêghen

Tuy coi lịch sử nhân loại là lịch sử phát triển của đời sống tinh thần, là

hiện than của ý niệm tuyệt đối theo tinh thần duy tâm, nhưng Hêghen đã nêu

những tư tưởng biện chứng sâu sắc về sự phát triển xã hội.

Hêghen giải thích nguồn gốc nhà nước không phải từ khế ước xã hội,

mà từ mâu thuẫn xã hội. Ông không cho rằng con người sinh ra vốn đã bình

đẳng, mà ngược lại là bất bình đẳng. Do đó trong xã hội luôn có sự khác biệt

về đẳng cấp, của cải… vì vậy cần có nhà nước để điều hoà mâu thuẫn. Ông

cho rằng nhà nước tồn tại vĩnh viễn, ở mọi thời kỳ lịch sử. Nó là hiện thân

của ý niệm tuyệt đối, nhờ nó mà gia đình và xã hội công dân mới tồn tại

được. xét về bản chất, nhà nước không chỉ là cơ quan hành pháp, mà còn bao

gồm tổng thể các quy chế, kỷ cương, chuẩn mực và mọi lĩnh vực đạo đức,

pháp quyền, chính trị, văn hoá… Ông coi Nhà nước Quân chủ Phổ là đỉnh

cao của sự phát triển xã hội, là “Nhà nước quân chủ chân chính”, trong đó

tất cả mọi người đều được tự do.

Page 110: lÞch sö triÕt häc

110

Ông đề cao vai trò của chiến tranh, cho rằng nó tồn tại vĩnh viễn mà

nhờ nó các dân tộc mới “tránh khỏi sự thối nát”. Ông theo chủ nghĩa sô-

vanh, đề cao dân tộc Đức.

Hêghen coi lịch sử là sự thống nhất giữa tính khách quan và tính chủ

quan. Một mặt, lịch sử là quá trình tất yếu, vận động theo quy luật khách

quan, theo xu thế thời đại. Nhưng mặt khác, lịch sử phải do các cá nhân, các

dân tộc thực hiện. Tuy nhiên, hoạt động của con người phải tuân thủ tính tất

yếu, phải phù hợp với xu thế của thời đại; vĩ nhân phải suy nghĩ và hành

động theo những gì là hợp thời.

Ông coi phát triển tự do của con người là chuẩn mực, ưu việt của thời

đại này so với thời đại khác, tuy nhiên lại hiểu tự do một cách duy tâm. Ông

coi “tự do là hiểu và làm theo ý Chúa”; “lịch sử toàn thế giới là lịch sử tiến

bộ trong ý thức tự do”; “ Tự do là cái tất yếu đã được nhânu thức”…

3. Lútvích Phoiơbắc (1804 - 1872)

Ông sinh ra trong một gia đình luật sư nổi tiếng ở Đức, học ở đại học

tổng hợp Béclin. Khi còn trẻ Ông tham gia phải Hêghen trẻ, sau đó tách khỏi

phái này để phát triển chủ nghĩa duy vật. Các tác phẩm tiêu biểu là: “Những

nguyên lý của triết học tương lai” (1843), “Bản chất đạo Cơ đốc” (1845)…

a. Chủ nghĩa duy vật nhân bản

Ông là một nhà duy vật siêu hình. Cn duy vật của ông xuất phát từ

vấn đề con người nên được gọi là CN duy vật nhân bản.

Ông có công lớn trong việc phê phán CN duy tâm của Hêghen với

tuyên bố “Triết học của Hêghen là chỗ dựa cuối cùng, chỗ ẩn náu cuối cùng

của thần học”. Tuy nhiên Ông phê phán triết học của Hêghen theo xu hướng

phủ định sạch trơn, theo như cách nói của Ăngghen thì Phoiơbắc đã vứt bỏ

triết học của Hêghen, giống như người ta hất bỏ đi chậu nước bẩn, nhưng đã

quên mất việc giữ lại đứa trẻ đang tắm trong đó.

Page 111: lÞch sö triÕt häc

111

Phoiơbắc phê phán quan niệm duy tâm và trừu tượng của Hêghen về

con người, coi con người chỉ là hiện thân của ý niệm tuyệt đối, là con người

chung chung. Ông chỉ ra rằng con người là sản phẩm tiến hoá cao nhất của

tự nhiên; nhận thức con người là chiếc chìa khoá để nhận thức thế giới.

Con người là những thực thể sống động, có cảm giác, khả năng, khát

vọng, nhu cầu và cả khả năng tưởng tượng. Mối quan hệ giữa tồn tại và tư

duy, giữa cơ thể và trí tuệ đó là: tồn tại (cơ thể) - chủ thể; tư duy - thuộc tính.

Ông cho rằng toàn bộ suy nghĩ của con người phụ thuộc vào cơ thể và hoàn

cảnh sống của họ. Theo Ông, con người ta khi sống trong lâu đài thì suy

nghĩ khác so với khi sống trong túp lều tranh, bởi vì một khi vì đói nghèo mà

trong cơ thể anh không có chất cho tiêu hoá thì trong đầu óc anh cũng không

có chất cho đạo đức…

Tuy có quan niệm duy vật về con người nhưng quan niệm về con

người của Ông vẫn mang tính trừu tượng, chung chung, phi lịch sử, phi giai

cấp, phi dân tộc. Ông đã không thấy được bản chất xã hội của con người.

b. Quan niệm duy vật triệt để về tự nhiên

Ông khẳng định rằng giới tự nhiên là vật chất, tồn tại khách quan,

không do ai sáng tạo ra; ý thức của con người được sinh ra từ bộ não nhưng

khác với vật chất vì nó không có tính vật chất (chống lại quan điểm duy vật

tầm thường). Vật chất không phải là một cái gì thuần nhất mà tồn tại dưới

nhiều chất khác nhau và được cảm giác con người nhận biết.

Ông thừa nhận tính khách quan của không gian và thời gian, không có

vật chất ở bên ngoài chúng. Ông thừa nhận tính khách quan của các quy luật

tự nhiên, của các mối quan hệ nhân quả; thừa nhận sự vận động và phát triển

của tự nhiên, trong đó sinh vật và con người là sản phẩm của quá trình này.

Page 112: lÞch sö triÕt häc

112

c. Nhận thức luận

Phoiơbắc coi tự nhiên và con người là đối tượng của nhận thức. Ông

kêu gọi: “Hày quan sát giới tự nhiên đi, hãy quan sát con người đi! Bạn sẽ

thấy ở đấy, trước mắt bạn, những bí mật của triết học”. Ông thừa nhận khả

năng nhận thức thế giới của con người, cho rằng một người thì không thể

nhận thức hết được thế giới, nhưng toàn bộ loài người thông qua các thế hệ

thì có thể nhận thức được.

Ông đề cao vai trò của cảm giác, coi nó là khởi điểm của nhận thức và

tiền đề của lý luận: “Bí quyết của sự hiểu biết trực tiếp tập trung trong tính

cảm giác”. Ông cũng khẳng định vai trò của lý tính, vì nó giúp con người

hiểu biết được bản chất sự vật. Tuy nhiên nhận thức luận của Ông mang

nặng tính siêu hình và không thấy được vai trò của thực tiễn (coi thực tiễn là

trò con buôn bẩn thỉu).

d. Quan điểm về xã hội và tôn giáo

Ông phê phán quan điểm chính thống của Thiên chúa giáo, cho rằng

không phải chúa tạo ra con người, mà ngược lại chính con người đã tạo ra

chúa. Theo ông, thượng đế chỉ là kết quả của sự tha hoá bản chất con người,

bản chất con người muốn hướng tới cái chân, thiện, mỹ nhưng người ta

không đạt được nó trong cuộc sống nên gửi gắm những ước vọng của mình

vào hình tượng thượng đế.

Phoiơbắc có quan niệm duy tâm về xã hội. Ông coi tôn giáo là nền

tảng của đời sống xã hội và việc thay đổi các hình thức tôn giáo là cơ sở cho

sự thay thế các thời đại lịch sử. Cho nên, Phê phán đạo Cơ Đốc - một tôn

giáo hữu thần, nhưng đồng thời ông lại kêu gọi phải xây dựng một tôn giáo

mới – tôn giáo vô thần, tôn giáo của tình yêu.

Tóm lại, triết học của Phoiơbắc còn có nhiều hạn chế. Phê phán triết

học của Hêghen, nhưng ông không biết giữ lại hạt nhân tích cực của nó là

Page 113: lÞch sö triÕt häc

113

phép biện chứng, nên ông đã rơi vào quan điểm siêu hình. Ông xem xét con

người một cách chung chung, trừu tượng, con người phi lịch sử, phi giai cấp,

phi dân tộc. Ông đòi xoá bỏ thiên chúa giáo nhưng lại kêu gọi xây dựng một

tôn giáo mới, tôn giáo tình yêu. Ông có quan niệm duy tâm về xã hội.

NỘI DUNG THẢO LUẬN VÀ ÔN TẬP

1. Nhận thức luận của I.Can-tơ?

2. Phép biện chứng duy tâm của Hê-ghen?

3. Chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoi-ơ-bắc?

Page 114: lÞch sö triÕt häc

114

CHƯƠNG X. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA

TRIẾT HỌC MÁC

Mục đích: Phân tích những điều kiện, tiền đề ra đời của triết học

Mác, làm rõ quá trình C.Mác và Ph. Ăngghen sáng tạo ra chủ nghĩa duy

vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịc sử và những dấu mốc quan trọng

của quá trình này.

Thời lượng: 3 tiết lý thuyết, 2 tiết thảo luận.

I.NHỮNG ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ CỦA SỰ RA ĐỜI TRIẾT HỌC MÁC

1. Điều kiện kinh tế xã hội

- Triết học Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX. Vào thời

điểm này cách mạng công nghiệp đã hoàn thành ở các nước như Anh, Pháp,

phần nào đó ở Đức, làm cho sức sản xuất tăng lên đáng kể. Theo Mác, ăng

ghen trong vòng chưa đầy một thế kỷ mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra được

một sức sản xuất bằng toàn bộ lịch sử trước đó cộng lại. Tuy nhiên sự phát

triển này không làm giảm đi những bất công xã hội mà còn làm cho nó gia

tăng thêm, những mâu thuẫn xã hội càng trở nên sâu sắc hơn.

- Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản làm cho giai cấp vô sản dần dần

trở nên lớn mạnh, trở thành một lức lượng chính trị độc lập, đối lập với giai

cấp tư sản. Trước sự lớn mạnh của giai cấp vô sản, giai cấp tư sản trở thành

một giai cấp phản động. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản bắt đầu nổ ra:

khởi nghĩa của công nhân dệt Xilêdi Đức, phong trào hiến chương của công

nhân Anh...Giai cấp công nhân đã bước lên vũ đài chính trị như một lực

lượng đấu tranh vì dân chủ và tiến bộ xã hội.

Page 115: lÞch sö triÕt häc

115

- Phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản làm xuất hiện nhu cầu về

một hệ tư tửơng mới, nhằm soi sáng cho mục đích chính trị của giai cấp ấy,

làm cho cuộc đấu tranh ấy mang tính tự giác. Nhu cầu đó đã đẻ ra triết học

mác nói riêng và chủ nghĩa Mác nói chung.

2.Nguồn gốc lý luận và những tiền đề khoa học tự nhiên

a. Nguồn gốc lý luận

Sự ra đời của triết học Mác có nguồn gốc lý luận từ Kinh tế chính trị

học của Anh, Chủ nghĩa xã hội không tưởng của Pháp và trực tiếp nhất là

triết học cổ điển Đức.

Trong triết học cổ điển đức Mác đã kế thừa Phép biện chứng của

Hêghen, tẩy rửa nó khỏi chủ nghĩa duy tâm thần bí, xây dựng lại trên cơ sở

của chủ nghĩa duy vật, tạo ra phép biện chứng duy vật của mình. Mác đồng

thời kế thừa chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc, loại bỏ phương pháp tư duy

siêu hình, xây dựng lại trên nền tảng phép biện chứng để tạo ra chủ nghĩa

duy vật biện chứng. Triết học Mác không phải là sự kết hợp cơ học phép

biện chứng của Hêghen với chủ nghĩa duyvật của Phoiơbắc, mà đây là một

sự sáng tạo mới làm cho chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất

với nhau, nhờ đó mà cả hai đều đạt đến tính triệt để nhất,sâu sắc nhất.

b. Tiền đề khoa học tự nhiên

Sự ra đời triết học Mác còn là kết quả khái quát những thành tựu mới

nhất trong lĩnh vực khoa học tự nhiên. Những phát minh mới nhất trong

khoa học tự nhiên đầu TK XI đã làm cho phương pháp tư duy siêu hình của

TK XVII - XVIII bị hạn chế, kjonng không phù hợp và trở thành một lực

cản cho sự phát triển của khoa học. Những phát minh mới này đã tạo tiền đề

cho sự phát triển của tư duy biện chứng. ăngghen đã nêu bật vai trò “ba phát

minh vĩ đại”: định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng, học thuyết về tế

bào, học thuyết tiến hoá, những phát minh này đã nêu rõ sự liên hệ, chuyển

Page 116: lÞch sö triÕt häc

116

hoá lẫn nhau giữa các hình thức tồn tại của vật chất, giữa các hình thức vận

động, làm rõ tính biện chứng của quá trình vận động, phát triển của thế giới

vật chất. ăngghen viết “ Quan niệm mới về giới tự nhiên đã được hoàn thành

trên những nét cơ bản: tất cả những gì cứng nhắc đều bị tan ra, tất cả cái gì

là cố định đều bị biến thành mây khói và tất cả những gì đặc biệt mà người

ta cho là tồn tại vĩnh cửu thì đã trở thành nhất thời; và người ta đã chứng

minh rằng toàn bộ giới tự nhiên đều vận động theo một dòng và một tuần

hoàn vĩnh cửu”[ Mác ăngghen toàn tập, T20, Tr471].

Như vậy, sự ra đời của triết học Mác vào những năm 40 TK Xĩ là một

tất yếu vì đã có những đầy đủ điều kiện, tiền đề cần thiết cho nó.

II. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TRIẾT HỌC MÁC

1.Quá trình chuyển biến tư tưởng của Mác và Ăngghen từ chủ

nghĩa duy tâm và dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và cộng

sản chủ nghĩa (Giai đoạn trước 1844)

Các Mác (5/5/1818 - 14/3/1883) sinh ra ở thành phố Tơrevơ tỉnh Ranh

nước Đức, cha là luật sư, là tín đồ Kitô giáo. Sau khi tốt nghiệp phổ thông

trung học năm 1835, ông theo học luật ở đại học Bon (1835 - 1836) và đại

học tổng hợp Béclin (1836 - 1841). Tháng 4/1841 ông nhận bằng tiến sĩ triết

học với đề tài: Sự khác nhau giừa triết học tự nhiên của Đêmôcrit và triết

học tự nhiên của Êpiquya. Trong tác phẩm này Ông còn đứng trên lập

trường duy tâm của Hêghen, coi sự phát triển tự ý thức của con người là

động lực phát triển của lịch sử.

Sự chuyển biến lập trường của Mác bắt đầu từ khi ông làm việc ở Báo

Sông Ranh. Tháng 5/1842 ông là cộng tác viên của tờ báo này, tháng 10

năm đó ông trở thành biên tập viên của tờ báo và là linh hồn của nó, làm cho

nó trở thành cơ quan ngôn luận của phái Dân chủ cách mạng. Chủ đề cơ bản

Page 117: lÞch sö triÕt häc

117

của các bài báo của Ông là bảo vệ lợi ích của những người lao động. Những

bài báo của C. Mác về chế độ kiểm duyệt, về chế độ đại diện phân chia đẳng

cấp, về sự ức hiếp nông dân nghèo, về tình trạng bần cùng của nông dân, về

tệ quan liêu của các công chức… đã làm cho chính quyền theo dõi, tờ báo bị

kết tội tuyên truyền cách mạng và bị đóng cửa.

1/4/1843 tờ báo bị đóng cửa, Mác chuyển sang sống ở Croixơnắc.

Thời gian ở đây Mác bắt đầu phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, phê

phán chủ nghĩa duy tâm của ông ta và tiếp nhận một cách nồng nhiệt chủ

nghĩa duy vật của Phoiơbắc, nhưng ông cũng đã nhận ra những hạn chế siêu

hình của nó. Cuối tháng 10/1843 Mác chuyển sang sống ở Pari và tại đó ông

đã chuyển biến dứt khoát sang lập trường duy vật chủ nghĩa và cộng sản chủ

nghĩa. Điều đó được thể hiện rõ trong các bài báo in trên tạp chí Niên giám

Pháp - Đức: “Bàn về vấn đề Do Thái”, “Góp phần phê phán triết học pháp

quyền của Hêghen, lời nói đầu”. Ở đó C. Mác đã hoàn toàn đoạn tuyệt với

chủ nghĩa duy tâm, đấu tranh chống lại lãnh tụ của phái Hêghen trẻ Bruno

Baue. Ông đã khẳng định vai trò quyết định của sản xuất vật chất, phát hiện

ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xoá bỏ tư hữu, làm cách mạng

XHCN; Ông khẳng định sự gắn kết giữa triết học và giai cấp vô sản…

Phriđrích ăngghen (28/11/1820 - 5/8/1895) sinh ra ở thành phố

Bácmen tỉnh Ranh, con một chủ xưởng dệt. Năm 1841 ông làm nghĩa vụ

quân sự ở Béclin và bắt đầu tham gia dự thính các bài giảng triết học, làm

quen với tác phẩm “Bản chất đạo Cơ đốc” của Phoiơbắc. Mùa thu năm 1842

ông sang làm ăn ở thành phố Manchextơ nước Anh. Trong gần hai năm đó

ông đã có những chuyển biến căn bản về lập trường. Ông đã gửi đăng nhiều

bài báo trên Niên giám Pháp - Đức như: “Bản thảo góp phần phê phán kinh

tế - chính trị học”, “Tômát Cáclây”, “Quá khứ và hiện tại”... Ở đó Ph.

Ăngghen đã đứmg trên lập trường CNXH phê phán sở hữu tư nhân, kết luận

Page 118: lÞch sö triÕt häc

118

về vai trò lịch sử của giai cấp vô sản (độc lập với Mác). Tư tưởng này của

Ông rất được Mác trân trọng, và theo Lênin đó là nguồn cổ vũ lớn lao cho

Mác trong việc sáng tạo ra bộ Tư bản luận.

2.Giai đoạn đề xuất những nguyên lý triết học duy vật biện chứng

và duy vật lịch sử (1844 - 1848)

Trong một loạt những tác phẩm được viết vào thời gian này Mác và

Ăngghen đã đề xuất những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác với ba bộ

phận hợp thành là Triết học (Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa

duy vật lịch sử), Kinh tế chính trị học và Chủ nghĩa cộng sản khoa học.

Trong tác phẩm “Bản thảo kinh tế - triết học 1844", Mác đã trình bày

những nguyên lý xuất phát của CNDVBC và CNDVLS, áp dụng chúng vào

việc nghiên cứu kinh tế - chính trị học, qua đó luận chứng cho thế giới quan

cộng sản chủ nghĩa. Tư tưởng chủ đạo của tác phẩm là thừa nhận vai trò

quyết định của sản xuất VC; cắt nghĩa vấn đề tha hoá bản chất con người

thông qua lao động bị tha hoá và tìm con đường để khắc phục nó.

Tác phẩm “Tình cảnh của giai cấp lao động ở Anh” (1845) của Ph.

Ăngghen đã nghiên cứu về sự phát sinh, phát triển của giai cấp vô sản, tình

cảnh của họ trong chủ nghĩa tư bản, vai trò của họ trong việc thủ tiêu chủ

nghĩa tư bản, từ đó kêu gọi phải đoàn kết họ thành một giai cấp thống nhất.

Tác phẩm “Gia đình thần thánh” do Mác và ăngghen cùng viết tháng

2/1845 đã phê phán quan điểm duy tâm về lịch sử của anh em nhà Bauơ, chỉ

ra tính vô căn cứ về lý luận của chủ nghĩa duy tâm nói chung. Trong tác

phẩm này hai ông đã đề xuất một số nguyên lý của triết học và chủ nghĩa

cộng sản khoa học. Đồng thời với tác phẩm này, Mác đã viết “Những luận

cương về Phoiơbắc”, trong đó Ông chỉ rõ những hạn chế của chủ nghĩa duy

vật trước đó về vấn đề con người, thực tiễn, chân lý, phép siêu hình qua đó

đề xuất nguyên tắc thực tiễn trong triết học.

Page 119: lÞch sö triÕt häc

119

Tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” được Mác và ăngghen viết cuối năm

1845 đã thể hiện rõ một thế giới quan mới. Lần đầu tiên các ông khẳng định

học thuyết của mình là Chủ nghĩa XH khoa học; trình bày tất cả các vấn đề

của thế giới quan mới với ba bộ phận hợp thành; khẳng định sự đối lập hệ tư

tưởng vô sản với hệ tư tưởng tư sản và tiểu tư sản.

Một trong những nguyên nhân dẫn đến thành công của Mác và

Ăngghen về lý luận là sự tham gia tích cực của hai ông vào thực tiễn cách

mạng của phong trào công nhân và thành lập các tổ chức cộng sản. Trong

quá trình đó hai ông đã viết những tác phẩm quan trọng nhừm luận chứng

cho thế giới quan mới của mình, đấu tranh chống những tư tưởng đối lập,

truyền bá tư tưởng cách mạng trong phong trào công nhân. Tác phẩm “Sự

khốn cùng của triết học” (1847) của Mác, được viết nhằm trả lời cuốn

“Triết học về sự khốn cùng” của Pruđông - kẻ theo lập trường vô chính phủ

phản động. Lênin coi đây là tác phẩm đầu tiên chín muồi về chủ nghĩa

XHKH. Mác đã chỉ ra tính không tưởng về kinh tế, tính siêu hình về phương

pháp của Pruđông, qua đó phát triển những nguyên lý của ba bộ phận hợp

thành chủ nghĩa Mác.

“Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” (1848) được C. Mác và Ph.

Ăngghen viết theo yêu cầu của tổ chức Đồng minh những người cộng sản.

Đây là tác phẩm có tính chất cương lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa Mác, trong

đó chủ nghĩa Mác đã được trình bày dưới dạng cô đọng với cả ba bộ phận

hợp thành.

3. Giai đoạn Mác và Ăngghen bổ sung, phát triển lý luận triết học

Các tác phẩm của Mác: “Cách mạng và phản cách mạng ở Đức”,

“Đấu tranh giai cấp ở Pháp 1848-1850”, “Ngày 18 tháng sương mù của Lui

Bônapactơ”, ...đã tổng kết kinh nghiệm thực tiễn để bổ sung cho lý luận của

Page 120: lÞch sö triÕt häc

120

chủ nghĩa Mác, chủ yếu là các vấn đề về CNXHKH, vấn đề chuyên chính vô

sản và cách mạng.

Bộ Tư bản của Mác vừa là một tác phẩm kinh tế chính trị học, vừa

chứa đựng những nội dung triết học quan trọng, đặc biệt là các vấn đề

phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.

Công xã Pari đánh dấu một giai đoạn mới của lịch sử thế giới và

phong trào công nhân thế giới. Chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế

quốc chủ nghĩa; phong trào công nhân chuyển sang giai đoạn cách mạng

XHCN, giành chính quyền về tay giai cấp công nhân.

Tác phẩm “Nội chiến ở Pháp” (1971) của Mác đã tổng kết kinh

nghiệm Công xã Pari, đi đến kết luận về một nhà nước kiểu mới – Nhà nước

chuyên chính vô sản.

“Phê phán cương lĩnh Gôtha” được Mác viết năm 1875 là tác phẩm lý

luận quan trọng thứ hai sau “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”. Trong tác

phẩm này Mác đã làm sâu sắc học thuyết hình thái kinh tế xã hội, phát triển

lý luận về nhà nước và cách mạng xã hội, lần đầu tiên trình bày về hai giai

đoạn của chủ nghĩa cộng sản.

Bằng việc khái quát những thành tựu mới nhất trong khoa học tự

nhiên, Ăngghen đã góp được phát triển, hoàn thiện triết học Mác. “Chống

Duyrinh” hay (Ông Duyrinh làm đảo lộn khoa học) được ăngghen viết năm

1876 - 1878 là tác phẩm quan trọng nhất, trong đó ăngghen đã trình bày

thành ba bộ phận cơ bản: triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa cộng sản

khoa học, ở đó lần đầu tiên thế giới quan mác xít được trình bày một cách

hoàn chỉnh.

Tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên” bao gồm những bài viết chưa

hoàn chỉnh được ăngghen viết từ 1873 đến 1883 nhằm khái quát những

thành tựu của khoa học tự nhiên để bổ sung cho phép biện chứng duy vật

Page 121: lÞch sö triÕt häc

121

Sau khi Mác qua đời 1883, ăngghen đã bỏ nhiều công sức chuẩn bị

cho sự ra đời tập II và III bộ “Tư bản” của Mác, mà như Lênin đã đánh giá

là ăngghen muốn xây dựng cho bạn mình một bức tượng đài, trên đó ông

không ngờ là đã khắc luôn cả tên tuổi của mình. Ăngghen tiếp tục viết các

tác phẩm để tổng kết, hoàn thiện triết học Mác, trong đó quan trọng nhất là

các tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước”

(1884), bàn về sự phát triển của xã hội loài người ở những giai đoạn sớm của

nó; “Lutvíc Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức” (1886)

làm rõ quá trình phát sinh, phát triển của thế giới quan macxit. Tác phẩm đề

cập đến các vấn đề như: Vấn đề cơ bản của triết học, đánh giá triết học cổ

điển Đức, phương pháp biện chứng, thực chất cuộc cách mạng trong lịch sử

triết học…

4. Thực chất và ý nghĩa của cuộc cách mạng trong triết học do

Mác và Ăngghen thực hiện

a. Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng

Triết họcMác đã khắc phục được sự tách rời phép biện chứng với chủ

nghĩa duy vật,giải quyết được vấn đề mâu thuẫn giữa hệ thống và phương

pháp trong triết học cổ điển Đức, đem lại sự thống nhất giữa phép biện

chứng và chủ nghĩa duy vật. Phép biện chứng của Mác không chỉ khác biệt

cơ bản với phép biện chứng của Hêghen, mà theo Mác, nó còn đối lập với

phép biẹn chứng ấy, vì đây là phép biện chứng duy vật, phép biện chứng

triệt để. Chủ nghiac duy vật của Mác đã khắc phục được hạn chế siêu hình

của chủ nghĩa duy vật Phoiơbắc, là chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa

duy vật triệt để.

Page 122: lÞch sö triÕt häc

122

b. Sự sang tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử

Đây là thành tựu vĩ đại nhất trong triết học mà Mác đã đạt được, nhờ

đó mà chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để nhất, duy vật không chỉ trong quan

niệm về tự nhiên, mà còn duy vật về xã hội.

c. Sự thống nhất giữa lý luận với thực tiễn

Mác đã đem lại cho triết học quan điểm thực tiễn, làm thay đổi một

cách cơ bản vai trò cơ bản xã hội của triết học: triết học không chỉ có nhiệm

vụ lý giải về thế giới, mà còn có nhiệm vụ cải tạo thế giới.

d. Thống nhất tính khoa học với tính cách mạng

Triết học Mác là thế giới quan của giai cấp vô sản, một giai cấp tiến

bộ nhất, cách mạng nhất, là trung tâm của thời đại mà lợi ích của nó phù hợp

với lợi ích của nhân dân lao động nói chung, phù hợp với xu hướng phát

triển của lịch sử. Sự kết hợp của chủ nghĩa mác với phong trào công nhân đã

làm thay đổi về chất phong trào này, chuyển từ tự phát sang tự giác.

e. Xác định đúng đắn mối quan hệ giữa triết học và khoa học

Sự ra đời của triết học Mác đã làm chấm dứt tham vọng coi triết học

là “khoa học của khoa học”. Triết học Mác là kết quả khái quát những thành

tựu của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, sự phát triển của nó phải gắn

liền với sự phát triển của khoa học. Ngược lại, triết học Mác lại đóng vai trò

là cơ sở lý luận và cơ sở phương pháp luận cho các khoa học phát triển.

NỘI DUNG THẢO LUẬN VÀ ÔN TẬP

1. Những điều kiện, tiền đề ra đời triết học Mác?

2. Những giai đoạn cơ bản của sự hình thành triết học Mác?

3. Thực chất và ý nghĩa của bước ngoặt cách mạng trong triết học do

C.Mác và Ph.Ăng-ghen thực hiện?

Page 123: lÞch sö triÕt häc

123

CHƯƠNG XI. GIAI ĐOẠN LÊNIN TRONG SỰ PHÁT TRIỂN

TRIẾT HỌC MÁC

Mục đích: Phân tích những biến đổi về kinh tế - xã hội, khoa học và

tư tưởng ở giai đoạn Lênin, làm rõ những đóng góp của V.I.Lênin trong

việc bảo vệ, phát triển triết học Mác ở giai đoạn cuối thế kỷ thứ XIX, đầu

thế kỷ thứ XX.

Thời lượng: 3 tiết lý thuyết, 2 tiết thảo luận, 1 tiết kiểm tra.

I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ GIAI ĐOẠN LÊNIN

1. Hoàn cảnh kinh tế - xã hội

Vlađimia Ilich Lênin (1870 - 1924) sinh ra ở thành phố Ulianôpxc

thuộc nước Nga:

- Đây là thời kỳ có nhiều biến đổi lớn lao trên thế giới và ở nước Nga.

Chủ nghĩa tư bản đã phát triển đến giai đoạn cao nhất và tột cùng là chủ

nghĩa Đế Quốc.

- Cách mạng tháng mười năm 1917 ở Nga đã mở ra kỷ nguyên mới

cho nhân loại - kỷ nguyên cách mạng XHCN và quá độ lên CNXH.

2. Tiền đề khoa học tự nhiên

Cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên đã mở ra nhiều phát minh

mới có tính bước ngoặt: tìm ra tia Rơn ghen, tìm ra hiện tượng phóng xạ, tìm

ra điện tử...

3. Tiền đề lý luận

Sự “khủng hoảng trong vật lý học” đã làm khôi phục lại chủ nghĩa

duy tâm và thuyết bất khả tri chống lại chủ nghĩa Mác...Trước bối cảnh đó

Page 124: lÞch sö triÕt häc

124

Lênin đã phải đứng ra bảo vệ và phát triển triết học Mác nói riêng, chủ nghĩa

Mác nói chung, đã đưa nó lên một tầm cao mới.

II. QUÁ TRÌNH LÊNIN BẢO VỆ, PHÁT TRIỂN TRIẾT HỌC MÁC

1. Giai đoạn 1893 - 1907

Từ những năm 80 thế kỷ XIX chủ nghĩa Mác đã được truyền vào

nước Nga. Nhóm “Giải phóng lao động” do Plekhanốp lãnh đạo đã dịch

nhiều tác phẩm của Mác và Ăngghen ra tiênga Nga như: Sự khốn cùng của

triết học; Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản; Lutvích Phoiơbắc và sự cáo

chung của triết học cổ điển Đức… Ở thời kỳ này, phái Dân tuý - một trào

lưu tư tưởng dân chủ nông dân tiểu tư sản, chủ trương kết hợp tư tưởng dân

chủ nông dân với chủ nghĩa xã hội không tưởng nông dân hy vọng bỏ qua

chủ nghĩa tư bản, đang thịnh hành ở Nga. Plekhnốp đã viết nhiều tác phẩm

chống phái Dân tuý phản động, tuy nhiên Ông lại xa rời lập trường vô sản

cách mạng, coi giai cấp tư sản tự do là giai cấp cách mạng, từ đó chuyển

sang lập trường của nhóm cơ hội Mensêvích. Trước bối cảnh đó Lênin đã

viết nhiều tác phẩm đấu tranh chống phái Dân tuý, bảo vệ và phát triển chủ

nghĩa Mác.

Trong các tác phẩm “những người bạn dân là thế nào và họ đấu tranh

chống những người dân chủ - xã hội ra sao?” (1894) và “Nội dung kinh tế

của chủ nghĩa dân tuý và sự phê phán trong cuốn sách của ông Xtơruvê về

nội dung đó” (1894) Lênin đã vạch trần bản chất phản động của những kẻ

giả danh “bạn dân” đầu những năm 90 TK XIX, chỉ rõ bản chất duy tâm chủ

quan và phương pháp siêu hình trong lập trường triết học của phái này, qua

đó làm phong phú thêm những nội dung của học thuyết hình thái kinh tế - xã

hội như: Sự tác động của các quy luật khách quan trong lịch sử; vai trò lịch

sử của giai cấp vô sản và liên minh công – nông trong cách mạng XHCN,

Page 125: lÞch sö triÕt häc

125

vai trò của nhân tố chủ quan trong cách mạng, vai trò của quần chúng nhân

dân và cá nhân trong lịch sử... Ông khẳng định sự thống nhất giữa tính khoa

học và tính Đảng của chủ nghĩa Mác, qua đó kêu gọi: “Người ta không thể

có một lý luận cách mạng nào ngoài chủ nghĩa Mác cả…”.

Trong tác phẩm “Làm gì?” (1902) Lênin đã làm rõ tính quy luật của

cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản trước khi giành chính quyền với các hình

thức đấu tran kinh tế, chính trị, tư tưởng trong đó đấu tranh chính trị có ý

nghĩa quyết định để lật đổ giai cấp thống trị, giành chính quyền về tay giai

cấp vô sản. Ông cũng khẳng định vai trò to lớn của lý luận cách mạng, chỉ ra

rằng chủ nghĩa Mác không hình thành tự phát trong long giai cấp vô sản mà

được truyền bá tự giác trong phong trào đó. Cho nên tuyên truyền lý luận đó

cho quần chúng là một cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt.

Tác phẩm “Hai sách lược của đảng dânh chủ - xã hội trong cách

mạng dân chủ” (1905) của Lênin là một kiểu mẫu về việc giải quyết những

nội dung của cách mạng tư sản trong thời đại đế quốc chủ nghĩa. Cuộc cách

mạng đó phải do giai cấp vô sản lãnh đạo trong mối liên minh với giai cấp

nông dân, cho nên nó là tiền đề đi đến cách mạng XHCN. Tác phẩm cũng

khẳng định vai trò củaquần chúng nhân dân, của nhân tố chủ quan, của các

đảng chính trị trong đấu tranh cách mạng.

2. Giai đoạn 1907 - 1917

Đây là thời kỳ sau thất bại của cuộc cách mạng dân chủ tư sản Nga

(1905 – 1907), chính phủ Sa hoàng thiết lập một chế độ khủng bố tàn khốc.

Một tinh thần phản động, phản khoa học ngự trị trên toàn bộ đời sống tinh

thần Nga như chủ nghĩa duy tâm, thần bí, tôn giáo, xu hướng “tạo thần” và

“tìm thần” trong giới trí thức Nga, sự du nhập của chủ nghĩa Makhơ…

Trong bối cảnh đó Lênin đã viết nhiều tác phẩm đấu tranh chống các trào

lưu tư tưởng phản động, phản khoa học và bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác.

Page 126: lÞch sö triÕt häc

126

Tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”

của Lênin được xuất bản năm 1909 đã góp phần đấu tranh chống chủ nghĩa

duy tâm và thuyết bất khả tri của những người theo chủ nghĩa Makhơ ở Nga.

Trong tác phẩm này Lênin đã phân tích cuộc cách mạng trong khoa học tự

nhiên, khái quát những thành tựu mới nhất của nó, qua đó góp phần để phát

triển chủ nghĩa duy vật biện chứng và lý luận nhận thức mác xít. Lênin đã

nêu định nghĩa kinh điển về vật chất, ông đã xây dựng lý thuyết phản ánh

với tính cách là hạt nhân của lý luận nhận thức...

Tác phẩm “Ba nguồn gốc và ba bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác”

được Lênin viết năm 1913, đã chỉ rõ sự ra đời của chủ nghĩa Mác là sự kế

thừa tinh hoa của Kinh tế chính trị học Anh, chủ nghĩa xã hội không tưởng

Pháp và triết học cổ điển Đức. Ông khẳng định tính thống nhất, không thể

tách rời của ba bộ phận hợp thành chủ nghĩa Mác và coi đó là một thế giới

quan hoàn bị nhất.

Tác phẩm “Bút ký triết học” bao gồm những ghi chép và nhận xét của

Lênin khi ông đọc các tác phẩm của các triết gia, phần lớn được viết vào

những năm 1914 - 1915, góp phần quan trọng vào việc phát triển phép biện

chứng duy vật, quan trọng nhất là lý luận về sự thống nhất giữa các mặt đối

lập. Trong tác phẩm Lênin đã phát triển toàn bộ các nội dung của phép biện

chứng duy vật với các nguyên lý, quy luật và các cặp phạm trù của nó.

Ngoài ra Lênin còn phát triển lý luận nhận thức như con đường biện chứng

của sự nhân thức chân lý, vai trò thực tiễn đối với nhận thức; đề xuất nguyên

tắc thống nhất phép biện chứng, lôgíc học và lý luận nhận thức…

Tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” được Lênin viết vào tháng 8,

tháng 9 năm 1917, xuất bản tháng 5 năm 1918. Ông chỉ rõ nguồn gốc nhà

nước là do mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà; bản chất nhà nước là

công cụ thống trị của giai cấp bóc lột; muốn giành chính quyền thì phải bằng

Page 127: lÞch sö triÕt häc

127

con đường bạo lực; khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với

nhà nước vô sản. Lênin cũng chỉ ra hai giai đoạn của chủ nghĩa cộng sản.

3. Giai đoạn sau 1917

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng vô sản ở Nga, trên cơ sở khái

quát những kinh nghiệm của thực tiễn cách mạng Lênin đã góp phần phát

triển chủ nghĩa duy vật lịch sử như: vấn đề gai cấp và đấu tranh giai cấp,

cách mạng bạo lực, chuyên chính vô sản, nhà nước, học thuyết hình thái

kinh tế - xã hội ...

Tác phẩm “Sáng kiến vĩ đại” được Lênin viết năm 1919. Qua việc

phân tích ý nghĩa của những ngày Thứ bẩy cộng sản, Lênin đã chỉ rõ vai trò

của năng xuất lao động đối với sự thắng lợi của xã hội mới; hai nhiệm vụ

của giai cấp vô sản trong thời kỳ mới là đánh đổ giai cấp tư sản và xây dựng

xã hội mới, trong đó nhiệm vụ thứ hai là khó khăn nhưng cơ bản nhất; Ông

đưa ra định nghĩa kinh điển về giai cấp.

Tác phẩm “Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào cộng sản”

(1920) tuyên truyền kinh nghiệm cho các Đảng Cộng sản trẻ tuổi trong

phong trào cộng sản, nhằm giúp các đảng này tránh khỏi những sai lầm cơ

hội “tả khuynh”, vô chính phủ, bè phái, giáo điều. Qua đó Ông khẳng định

vai trò quyết định của chính đảng cộng sản trong thời kỳ chuyên chính VS.

Năm 1921 Lênin viết nhiều tác phẩm bàn về chính sách kinh tế mới,

nhằm đề xuất những giải pháp, chính sách phát triển kinh tế trong thời kỳ

quá độ lên CNXH.

Năm 1922 Lênin viết bài báo “Về tác dụng của chủ nghĩa duy vật

chiến đấu”. Lêni đã khẳng định vai trò của khối lien minh giữa triết học và

khoa học tự nhiên trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm và tôn

giáo, vạch ra vai trò của công tác tuyên truyền triết học vô thần, coi đó là

nhiệm vụ quan trọng của Đảng Cộng sản trong thời kỳ mới.

Page 128: lÞch sö triÕt häc

128

Như vây, V. I. Lênin là người đã đứng ra để bảo vệ, phát triển triết

học Mác nói riêng, chủ nghĩa Mác nói chung ở giai đoạn đế quốc chủ nghĩa,

góp phần làm hoàn thiện nó, đưa nó lên một tầm cao mới đáp ứng được yêu

cầu về lý luận của phong trào công nhân trong thời kỳ mới.

Ngày nay việc nghiên cứu và bổ sung cho triết học Mác là một yêu

cầu bức xúc vì những biến đổi của thời đại ngày nay đang đặt ra nhiều vấn

đề mới cần được khái quát: sự khủng hoảng của CNXH, sự tương tác giữa

CMXH và CM khoa học - công nghệ, các vấn đề toàn cầu...

NỘI DUNG THẢO LUẬN VÀ ÔN TẬP

1. Những điều kiện, tiền đề của giai đoạn Lênin trong triết học Mác?

2. Sự phát triển của V.I.Lênin đối với triết học Mác?

------------------------------------------------------------------

Page 129: lÞch sö triÕt häc

129

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Hữu Vui, Lịch sử triết học. Nxb Chính trị quốc gia, 1998. 2. Bùi Thanh Quất - Vũ Tình, Lịch sử triết học, Nxb Giáo dục, 2000. 3. Vũ Ngọc Pha - Tuệ Nhã, Đại cương lịch sử triết học, Trường đại học

Kinh tế quốc dân, 1990. 4. Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập I, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993. 5. Lịch sử triết học phương Đông (5 tập). Tác giả Nguyễn Đăng Thục,

Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2000 6. C.Mác và Ph.Ăng-ghen (1994-1995), Toàn tập, tập 1, 3, 19, 20, 21,

26. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 7. V.I.Lênin, Toàn tập - tập1, 13, 18, 23, 19, 33, 39, 40, 41, 42. Nxb

Tiến bộ, Mátxcơva.