LÀNG NGHỀ GỐM SỨ BÌNH DƢƠNG VÀ PHÁT TRIỂN DU...
Transcript of LÀNG NGHỀ GỐM SỨ BÌNH DƢƠNG VÀ PHÁT TRIỂN DU...
HỘI THẢO “LÀNG NGHỀ VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH”
LÀNG NGHỀ GỐM SỨ BÌNH DƢƠNG VÀ PHÁT TRIỂN DU
LỊCH Ở ĐỊA PHƢƠNG
Văn Thị Thùy Trang*
Phan Anh Tú**
1. Dẫn nhập
Bình Dương là một tỉnh ở khu vực miền Đông Nam Bộ, vùng đất xưa - nay tồn tại và
phát triển mang đậm nét văn hoá làng nghề thủ công truyền thống, vang danh cả trong nước và
ngoài nước. Nghề gốm sứ ở Bình Dương là một những nghề thủ công truyền thống lâu đời, có
vị trí quan trọng trong cuộc sống cộng đồng cư dân Bình Dương sau hơn 310 năm hình thành và
phát triển. Nghề gốm không những đóng góp vào giá trị sự tăng trưởng kinh tế, mà còn sự thể
hiện nét văn hóa, lịch sử truyền thống của vùng đất Bình Dương.
2. Khái lƣợc về dòng gốm Bình Dƣơng
Ra đời vào khoảng giữa thế kỷ XIX, gốm sứ Bình Dương là sự kết nối từ trong quá khứ
của gốm tiền – sơ sử Nam Trung bộ cùng với sự phát triển gốm thủ công truyền thống của cư dân
Việt – Hoa định cư trên vùng đất Thủ Dầu Một – Bình Dương. Được thiên nhiên ưu đãi, với
nguồn nguyên liệu phong phú tại chỗ, gốm sứ Bình Dương cùng với gốm Sài Gòn, Biên Hòa
hình thành nên một tam giác gốm sứ không chỉ nổi tiếng trong khu vực Đông Nam Bộ mà còn ở
các khu vực miền Tây, miền Trung và cả Campuchia với các loại sản phẩm như lu, khạp, hũ, vại,
đặc biệt là các loại lu. Các loại sản phẩm là gốm mỹ nghệ như chậu cảnh, đôn voi, tượng,... thị
trường tiêu thụ chủ yếu là các trung tâm tỉnh lỵ, trung tâm huyện và các thành phố.
Trong những thập niên cuối thế kỷ XX và đầu của thể kỷ XXI, gốm sứ Bình Dương
bước vào thời kỳ mới: gốm sứ công nghiệp hiện đại, đổi mới về công nghệ, kết hợp các nguyên
liệu, quy trình kỹ thuật sản xuất, mẫu mã đa dạng hơn, men màu, trang trí mỹ thuật,.. đại điện là
dòng sản phẩm gốm sứ mỹ nghệ cao cấp Minh Long I. Sản phẩm của Minh Long I có chất
lượng cao, trên 15.000 mẫu mã, chủng loại, vừa mang phong cách hiện đại, vừa mang đậm nét
truyền thống văn hóa dân tộc từ lũy tre làng, cậu bé chăn trâu,... những giá trị đạo đức, đến các
di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh Việt Nam được người tiêu dùng trong và ngoài
nước tin tưởng và đón nhận. Với công nghệ và kỹ thuật tiên tiến đã được áp dụng nhằm nâng
cao giá trị sản phẩm, đa dạng về mẫu mã. Nghề gốm sứ hôm nay không những đạt về kỹ thuật
trong sáng tạo đồ gốm sứ mà còn dùng kỹ thuật, mỹ thuật biến những vật dụng hằng ngày thành
những hiện vật có tính chất nghệ thuật mang đậm màu sắc văn hoá Việt Nam.
Hiện nay ở Bình Dương có ba trung tâm sản xuất gốm ở Chánh Nghĩa, Tân Phước
Khánh và Lái Thiêu. Theo dòng sản phẩm gốm truyền thống Bình Dương tạo nên các trường
phái chính: Quảng Đông, Phúc Kiến và Triều Châu.
- Trường phái Quảng Đông (lò Quảng): sử dụng men nhiều màu, hoa văn cách điệu, trang
nhã,… chuyên sản xuất tượng thờ và trang trí, các loại chậu, các đôn voi, siêu, nồi, hũ,
thạp, đèn, nghiêm mài mực, bình xách nước, gốm xây dựng,…
- Trường phái Triều Châu (lò Tiều): sử dụng men xanh trắng, nét vẽ đa dạng phong phú có
tính nghệ thuật gợi cảm, chuyên sản xuất đồ gốm gia dụng: chén, đĩa, tô,… và các loại
bình, gối, chậu kiểng,…
* Nhà nghiên cứu, Phó ban Quản lí Di tích và Danh thắng tỉnh Bình Dương
** TS, Giảng viên Khoa Văn Hóa Học, Trường ĐHKHXH&NV ĐHQG - TP.HCM
HỘI THẢO “LÀNG NGHỀ VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH”
- Trường phái Phúc Kiến (lò Phúc Kiến): sử dụng men màu đen, men da lươn, hoa văn
trang trí sinh động và tạo dáng đẹp, chuyên sản xuất các loại như: chóe, lu, vại, hũ, vịm,
kiệu, khạp, tỉn, cối đâm tiêu,…
Ở mỗi dòng gốm về cấu tạo hình dạng, kích thước, hoa văn trang trí, men màu,... được
thể hiện trên sản phẩm gốm đều mang một nét đặc trưng riêng, làm nên bản sắc chung của gốm
sứ Bình Dương và tạo nên nét đặc thù riêng cho gốm Bình Dương so với gốm Biên Hòa, gốm
Sài Gòn,... trong khu vực và cả nước. Đặc biệt, gốm men của Bình Dương đã tạo nên dòng gốm
men nhiều màu bình dị, dân dã, sản phẩm đa dạng, phong phú, giản dị nhưng cũng trau chuốt,
sinh động, thể hiện nét phóng khoáng của người Nam Bộ.
3. Đặc điểm văn hóa của dòng gốm Bình Dƣơng
Có rất nhiều ấn phẩm khác nhau viết về các loại hình sản phẩm gốm Lái Thiêu
như trong Gốm Việt Nam từ đất nung đến sứ của Trần Khánh Chương mô tả về phong cách gốm
Lái Thiêu (Bình Dương) mặc dù nó sản xuất ở Thủ Dầu Một hay Tân Phước Khánh, với các sản
phẩm dân dụng trang trí hoa lam, trang trí vẽ trên men (nung qua lửa hai lần ở nhiệt độ thấp) với
các hoa văn trang trí theo lối “tả thực” vẽ hoa, lá, hoa điểu, hoa điệp, liên - áp phong cảnh sơn
thủy với ba màu chính: đỏ - tím (màu mã não), lam, lục, (xanh lá cây),… Tiêu biểu nhất là loại
sản phẩm gốm hoa văn con gà, cây chuối nổi tiếng. Bên cạnh các loại gốm trên, các lọ hoa chỉ
dùng màu men phủ lên các sản phẩm: xanh lam, xanh lá cây, men nâu, men “lốm đốm”, tạo dáng
giản dị, màu men tinh tế, không sử dụng hoa văn,… của gốm Lái Thiêu. Kỹ thuật gốm này được
Trường Mỹ Thuật Biên Hòa và lò Thành Lễ của vùng Lái Thiêu tìm tòi từ năm 1960, về sau rất
ưa dùng như các loại men giả cổ bóng mịn với các màu lục, nâu nhạt, xám, vàng cam, ngọc bích,
huyết dụ hay loại men thạch dụng với các màu xanh rêu, xanh, xanh chói bạc, nâu sản phẩm lò
Thành Lễ trước năm 1975. 1
Một tác phẩm khác viết về “ ốm u t o t ng t u t n p ố
Minh”, dựa vào loại hình, chức năng và đề tài trang trí của các sản phẩm đã chia các sản phẩm
gốm Lái Thiêu (Bình Dương) trưng bày tại bảo tàng thành ba nhóm: đồ gia dụng (bát, đĩa, vịm,
chân đèn, bình, chậu, chén, khay trà, ống cắm, bình trà, thố, lọ hoa,…); nhóm đồ dùng trong thờ
cúng (tượng thờ, bát nhang,…); và nhóm đồ trang trí (tượng người, tượng động vật, đôn, chân
đèn cách điệu,…). Quyển sách cũng đưa ra nhận xét gốm Lái Thiêu đa dạng về sản phẩm, đặc
sắc về đề tài trang trí thể hiện nghĩa phong phú như Long Vân, Long hàm Thọ, Phụng hàm
Thư, Lư ng Long tranh châu, Ngư Long hí thủy,… Bên cạnh đó, biểu tượng mang nghĩa tốt
lành và sức mạnh như: Ngư, Phúc, Hạc, Hổ cũng khá phổ biến. Hoa văn trang trí trên gốm Lái
Thiêu mang đậm yếu tố “tả thực” như hoa lá, hoa điểu, hoa điệp, liên áp, phong cảnh sơn thủy,
cụm hoa lá, cây chuối, con gà,… mang hơi thở của thiên nhiên Nam Bộ,…2
Từ các nguồn tài liệu khảo sát về văn hóa dân gian, tín ngư ng và lễ hội chùa Bà Bình
Dương (Thủ Dầu Một), miếu Phước n (khu 7, phường Chánh Nghĩa), chùa ng Bổn (Thị trấn
Lái Thiêu), đình Bà Lụa (Thủ Dầu Một), miếu Quan Công (Tân Phước Khánh),… trên địa bàn
tỉnh đều có ghi nhận sự tương quan mật thiết giữa nghề gốm, cộng đồng người Hoa và các tín
ngư ng thờ cúng tại những nơi này. Đồng thời tại đây, còn lưu giữ hoặc mang dấu ấn, đường
nét kiến trúc của những cổ vật gốm Bình Dương như tượng thờ, lư hương, bình chậu hoa, tượng
trang trí, hoặc chí ít cũng có những chén bát dĩa gốm Bình Dương đã và đang được dùng tại
đây.
1Trần Khánh Chương (2001, tr. 185-195).
2 Khánh Hồng, 2007, tr.73-75
HỘI THẢO “LÀNG NGHỀ VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH”
Hiện nay, nghề gốm Bình Dương trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế. Trên địa bàn tỉnh Bình Dương có trên 284 lò gốm sứ, công nghệ hiện đại nung ga,
nung điện được sử dụng, các cơ sở sản xuất chuyển đổi công nghệ, nâng cao năng suất, chất
lượng và thẩm mỹ sản phẩm đáp ứng cho thị trường xuất khẩu. Bình Dương tiến hành công
nghiệp hóa, hiện đại hóa các ngành nghề, trong đó đặt biệt là các lò gốm. Từ đó sản phẩm gốm
sứ Bình Dương đã đảm bảo thỏa mãn nhu cầu sử dụng trong nước từ hàng gia dụng bình dân cho
đến hàng sứ men cao cấp. Hệ thống các chợ, siêu thị, đại l phân phối gốm sứ Bình Dương đáp
ứng các nhu cầu tiêu dùng của người dân trong cả nước. Thương hiệu gốm Bình Dương gốm Lái
Thiêu có mặt hầu hết ở các tỉnh thành. Một số thương hiệu lớn như Minh Long I, Cường Phát với
sản phẩm đồ ăn, tách trà, đồ mỹ nghệ,… dùng trong gia đình, nhà hàng, hay gốm bán sứ mỹ
nghệ trang trí sân vườn như Phước Dũ Long, Kiến Hồng, Kiến Xương,… nổi tiếng cả trong và
ngoài nước. Riêng gốm sứ xây dựng Việt Nam, theo số liệu gần đây, hàng năm trên 80 sản
phẩm gạch ốp lát và sứ vệ sinh được tiêu thụ ở thị trường nội địa và đã đem đến sự hài lòng cho
nhu cầu lựa chọn của người tiêu dùng, bởi vì chất lượng và mẫu mã đã khá cạnh tranh với sản
phẩm nhập ngoại cùng loại 3.
4. Giải pháp bảo tồn và phát huy di sản gốm sứ Bình Dƣơng
Hiện nay, toàn tỉnh Bình Dương có 284 lò doanh nghiệp cở sở sản xuất gốm sứ tập trung
ở Thuận An, Tân Uyên và Thủ Dầu Một. Đây cũng là ba cái nôi ra đời của ngành gốm sứ Bình
Dương (gồm Chánh Nghĩa, Tân Phước Khánh và Lái Thiêu). Đó cũng chính là l do đưa đến
việc tỉnh Bình Dương chiếm trên 70 trong tổng kim ngạch xuất khẩu gốm sứ trong cả nước 4.
Ngành gốm sứ sử dụng nguồn lao động đáng kể, hiện có 11.000 lao động hoạt động trong
lĩnh vực này. Các thành phần kinh tế chính bao gồm: kinh doanh chiếm 95 ; doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài chiếm 5 . Sản phẩm gốm sứ xuất khẩu chiếm 80 ở các thị trường xuất
khẩu chính là c, New Zealand, Hoa kỳ và Mexico; 20 tiêu thụ ở thị trường nội địa5.
Bảo tồn phát huy ngành gốm sứ Bình Dương cần được xúc tiến kèm theo các chính sách
phù hợp của tỉnh, cụ thể như sau:
- n l p rung tâm đ o t o ng n cứu v ứng dụng p ục vụ ng n gốm sứ tỉn ìn
Dương.
Do tỉnh Bình Dương có nguồn lực nghệ nhân dồi dào, đa dạng, UBND tỉnh cần quy
hoạch các nghệ nhân lão thành trong nghề, có kinh nghiệm nhằm đạo tạo công nhân có tay nghề
cung cấp cho các cơ sở trong tỉnh. Bên cạnh đó, Trường này có bộ phận nghiên cứu bảo tồn,
sáng tạo các mẫu mã gốm sứ mang đặc trưng riêng. Chiêu mộ bộ phận kỹ sư chuyên nghiên cứu
về men màu và các kỹ thuật ứng dụng trong nghề gốm. Trường đào tạo này góp phần nâng cao
chất lượng sản phẩm gốm sứ trong tỉnh. Các chủ cơ sở Doanh nghiệp có môi trường, cơ hội học
tập, nâng cao chất lượng sản phẩm. Nòng cốt của Trường này là các nghệ nhân lão thành, các kỹ
sư hóa chất, men màu,… nhằm bảo tồn và phát triển bền vững ngành gốm sứ.
- o t n c c lò gốm cổ:
Trên địa bàn tỉnh, theo kết quả nghiên cứu cho thấy Chánh Nghĩa là nơi có nghề gốm xưa
nhất so với các nơi khác trong tỉnh. Hầu hết những lò gốm xưa ở Bình Dương hiện nay đều sản
xuất những sản phẩm bình dân như lu, vại, chén đá hoặc chén ông tiên,… Về mặt thu nhập kinh
tế sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc tiêu thụ do cơ chế tiêu dùng của thị trường. Tuy nhiên, việc
3 Gốm sứ xây dựng Việt Nam phát triển và hội nhập.
http://www.langnghevietjsc.com/index/gom%20su/tin%20tuc/thamluan4.html 4 Trích phỏng vấn ông L Ngọc Minh, ngày 16.11.2010.
5 Trích tài liệu g băng Hội thảo Festival gốm sứ Bình Dương.
HỘI THẢO “LÀNG NGHỀ VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH”
bảo tồn và duy trì loại hình gốm dân dụng (bình dân) cũng cần được sản xuất và bảo lưu. Do đó,
tỉnh cần có những quyết sách hợp l để dòng gốm bình dân của Bình Dương vẫn được sản xuất.
Đề nghị UBND tỉnh quy hoạch bảo tồn ba lò gốm kiểu lò ống có tuổi thọ xưa trên ở ba
trung tâm sản xuất gốm của Bình Dương có kết cấu nguyên vẹn nhất (Tân Phước Khánh, Chánh
Nghĩa, Lái Thiêu). Các cơ quan hữu quan cần tạo điều kiện cho ba cơ sở này tiếp tục sản xuất kết
hợp làm điểm tham quan du lịch làng nghề. Đồng thời, UBND tỉnh cần có những chính sách hỗ
trợ về vốn và hoạch định chiến lược sản xuất cho các lò gốm. Cụ thể chọn lò nào thì cần có sự
phối hợp thẩm định của các chuyên gia nghiên cứu lò nung, gốm sứ các ban ngành như: Sở Công
Thương, sở Văn hóa, thể thao và Du lịch, Hiệp hội gốm sứ của tỉnh, Ban quản l di tích, Bảo
tàng tỉnh,.. để đưa ra sự chọn lựa tối ưu nhất.
Ngoài ra, dọc theo hạ lưu sông Đồng Nai còn lưu giữ về nghề gốm tiền sử qua các di chỉ
khảo cổ học như di tích Cù Lao Rùa, Dốc Chùa đã được xếp hạng di tích cấp quốc gia. Và những
lò gốm đầu tiên hình thành vào những năm 80 của thế kỷ XIX bên bờ sông và kinh rạch Lái
Thiêu (rạch Tân Thới), rạch Bà Lụa và rạch Ông Tía (Thủ Dầu Một),… các sản phẩm gốm còn
lưu lại trên các công trình văn hóa, kiến trúc nghệ thuật như đình, chùa, miếu, nhà cổ. Ban quản
lý Di tích và Danh thắng Bình Dương có nhiệm vụ tiến hành khảo sát, lập hồ sơ khoa học trình
xếp hạng di tích cấp Quốc gia và cấp Tỉnh.
- Quy o c l ng ng ề s n xuất gốm sứ
Bình Dương có vị trí thuận lợi về tự nhiên, khí hậu và sông nước, các vườn cây ăn trái
thuộc khu vực đồng bằng ven sông Sài Gòn, sông Đồng Nai đến các dãy núi như Núi Cậu, núi
Châu Thới,… đây sẽ là tiền đề quan trong cho việc phát triển các loại hình du lịch tham quan, du
lịch sinh thái, nghỉ dư ng, du lịch thể thao,…có hệ thống di tích lịch sử, văn hóa tương đối đa
dạng từ các di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật, khảo cổ, danh lam thắng cảnh, đây là điều kiện
thuận lợi trong việc khai thác các loại hình du lịch văn hóa.
Trước tình hình di dời và ổn định sản xuất tại các khu vực như hiện nay tạo ra nhiều thay
đổi đáng kể trong bức tranh làng nghề gốm đã được định hình từ xưa đến nay. Theo kiến của
nhiều nhà nghiên cứu và các nhà quản l và các doanh nghiệp, mong muốn xúc tiến quy hoạch
khu vực bảo tồn ngành gốm sứ của tỉnh. Hưng Định được xem là khu vực còn số lượng cơ sở sản
xuất lâu đời và mang tính tập trung, do đó nhà nước cần có chính sách kịp thời cần khoanh vùng
bảo tồn đối với ngành gốm của tỉnh. Theo nhận định của giới chuyên môn, theo tốc độ sản xuất
hiện nay, khoảng 10 năm nữa Bình Dương dễ bị mai một ngành nghề thủ công gốm sứ6. Do vậy
việc quy hoạch làng nghề gốm sứ của tỉnh là rất cần thiết và cấp bách.
Du lịch làng nghề gốm: Bình Dương được xem là một trong những trung tâm phát triển
nghề gốm nổi tiếng khu vực Đông Nam Bộ, với các thương hiệu gốm nổi tiếng trong và ngoài
nước như: Minh Long, Cường Phát, Nam Việt, Đại Hồng Phát,…Từ những thương hiệu đó, Bình
Dương đang khai thác làng nghề gốm để phục vụ khách đến tham quan tìm hiểu về gốm sứ với
các điểm tham quan như: Trung tâm thương mại Minh Sáng Plaza, Lò lu Đại Hưng – một di tích
cấp tỉnh, làng gốm Tân Phước Khánh,…
Hiện nay trên địa bàn tỉnh Bình Dương còn 284 lò cơ sở kinh doanh và sản xuất đồ gốm
sứ. ngoài ra dọc theo Đại lộ Bình Dương (quốc lộ 13 đi ngang tỉnh), có hàng chục cửa hàng,
công ty, shwroom trưng bày và bán sản phẩm gốm sứ đa dang chuẩn loại, phong phú màu sắc,…
các thương hiệu như gốm sứ cao cấp Minh Long I, Cường Phát, Minh Long II, Kim Phát, Minh
Phương, Thuận Phát, Minh Cường, Gốm 1 5,…đã mang sản phẩm gốm sứ Bình Dương tiếp cận
thị trường trong nước và trên thế giới.
6 Theo ông L Ngọc Minh, trích phỏng vấn ngày 16.11.2010.
HỘI THẢO “LÀNG NGHỀ VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH”
- Thành l p B o tàng gốm sứ ìn Dương:
Song song với quy hoạch làng nghề, việc thành lập bảo tàng gốm sứ tại Bình Dương cũng
cần được triển khai, nhằm sưu tầm, trưng bày, giới thiệu những sản phẩm tiêu biểu của các dòng
gốm sứ Bình Dương qua các thời kỳ, giới thiệu được những nét độc đáo của từng dòng gốm sứ.
Đồng thời công tác tổ chức các cuộc trình diễn, hội thảo chuyên đề, tổ chức lễ hội, và các khu
tham quan du lịch làng nghề cũng cần được tính đến.
5. Kết luận
Hơn 154 năm (1860 - 2014) hình thành và phát triển, nghề gốm Bình Dương tuy có lúc
thăng trầm nhưng liên tục phát triển, góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của
Bình Dương. Trong suốt chiều dài lịch sử 154 năm ấy, lưu dân người Việt, Hoa và các cộng
đồng cư dân bản địa, đã chung lưng đấu cật, khai dựng cuộc sống cùng với sự giao thoa văn hóa
nhiều miền để kết tinh thành bản sắc văn hóa đặc trưng của người Bình Dương, mà điển hình là
các ngành nghề truyền thống. Nét đẹp, văn hóa, trình độ cảm thụ mỹ thuật và khả năng tạo dựng
cuộc sống của người dân Bình Dương được thể hiện rõ trên các họa tiết của ngành thủ công
truyền thống gốm sứ, đã chinh phục trái tim và trí tuệ của nhiều người thuộc nhiều miền khác
nhau trong nước và trên thế giới.
Đặc biệt là nghề truyền thống gốm sứ Bình Dương với điều kiện thiên nhiên ưu đãi về vị
trí, địa hình, nguyên liệu, con người cần cù lao động đã đưa nghề gốm từ lúc hình thành, đã
không ngừng phát triển trở thành một trung tâm gốm sứ nổi tiếng của vùng đất Nam kỳ Lục tỉnh.
Hiện nay ngoài các sản phẩm gốm truyền thống đa dạng như gốm dân dụng, gốm mỹ thuật, các
lò gốm Bình Dương còn được bổ sung thêm bằng các sản phẩm phục vụ ngành công nghiệp như
sứ cách điện,… Tuy nhiên, kỹ thuật sản xuất nhìn chung vẫn còn bảo lưu những đặc điểm truyền
thống kết hợp với một số công đoạn sử dụng máy móc như: mô tơ quay, máy bơm phun, một số
công đoạn đã tự động hóa, nhưng sức người và đôi bàn tay khéo léo vẫn là chính.
Ngày nay Bình Dương là một trong các tỉnh thành nằm trong vùng trọng điểm phát triển
kinh tế phía Nam. Trong giai đoạn hiện nay, để có thể hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế
giới cùng với cả nước, Bình Dương đã và đang tiến hành thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong tất cả các ngành nghề, trong đó đặc biệt là nghề gốm sứ. Cùng với nông nghiệp, ngành
gốm đã đóng vai trò quan trọng trong đời sống của cư dân, vùng đất này ngay từ khi mới được
hình thành. Đến nay, vị trí của ngành gốm Bình Dương không những không mất đi mà còn tăng
thêm giá trị văn hóa tinh thần và có nghĩa quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc
dân tộc qua những sản phẩm nghề thủ công truyền thống.
Tài liệu tham khảo 1. Ban chấp hành Đảng Bộ Tỉnh Bình Dương (2003), Lịch sử Đ ng Bộ Tỉn ìn Dương
(1930-1975), Nxb Chính Trị Quốc Gia - Hà Nội.
2. Bùi Chí Hoàng (2007), " ìn Dương v n ững vấn đề kh o cổ học tiền sử", Thông tin
Khoa học Lịch sử số 9 Hội Khoa học Lịch sử Bình Dương.
3. Diệp Minh Cường (2003). Gốm men nhiều màu Lái Thiêu. Nam Bộ Đất và người, tập 2.
Hội KHLS TP.HCM, NXB Trẻ, tr.411-415.
4. Diệp Minh Cường (2005). Tranh gà trên gốm Lái Thiêu. Nam Bộ Đất và người, tập 3. Hội
KHLS TP.HCM, NXB Trẻ, tr.549-554.
5. Đặng Văn Thắng (1998). Bàn thêm về gốm Sài Gòn. Sài Gòn TPHCM thế kỷ XX. Kỷ yếu
hội thảo.
6. Huỳnh ngọc Trảng, Nguyễn Đại Phúc (1997), ượng gốm Đ ng Nai - a Định.
HỘI THẢO “LÀNG NGHỀ VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH”
7. Hùynh Ngọc Trảng, Nguyễn Đại Phúc. Gốm ây a S òn xưa. NXb Trẻ, 66tr.
8. Huỳnh Ngọc Trảng, Trương Ngọc Tường, Nguyễn Đại Phúc. ốm u o t ng
u t c ương . a t c v p ố l ệu.
9. Khánh Hồng (2007), ốm u t o t ng t u t n p ố n . In
trong: Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh 20 năm hình thành và phát triển (1987-
2007), tr.73-75.
10. Ngô Thị Phương Lan (2005). S n xuất gốm sứ ở Lái Thiêu: s n xuất hộ g a đìn trong bối
c nh kinh tế thị trường. Nam Bộ Đất và người, tập 3. Hội KHLS TP.HCM, NXB Trẻ,
tr.411-415.
11. Ngô Thị Phương Lan(2002), Household production and maket economy: a perspective
from pottery production in Lai Thieu, South Vietnam. M.A thesis, Department of
Anthropology University of Toronto, 79p.
12. Nguyễn n Dương, Trường K , Lưu Ngọc Vang (1992). Gốm Sứ S ng . NXB Tổng
Hợp Sông Bé, 102tr.
13. Nguyễn Đức Thạch (1998), Đất sét, Nxb Đồng Nai.
14. Nguyễn Minh Giao (2001). Sự phát triển của ngành tiểu thủ công nghiệp gốm sứ tỉnh Bình
Dương trong t ời kỳ 1986 – 2000. Luận Văn Thạc Sĩ KHLS, TP.HCM, 120tr.
15. Nguyễn Sơn Dũng (1997). Làng nghề gốm Lái Thiêu, huyện Thu n An ìn Dương. Luận
văn Thạc sĩ văn hóa.
16. Nguyễn Thị Hoài Hương. Lò gốm ìn Đức (Sông Bé). NPHMVKCH, 1995.
17. Nguyễn Thị Nguyệt (1997), "Gốm m nghệ Biên Hòa thành tựu của văn óa Đ ng Nai"
Văn hóa nghệ thuật (số 5/1997), trang 42- 44.
18. Nguyễn Trọng Pháp (2001), "Gốm Biên Hòa vớ đề tài Ph t Giáo". Nguyệt San Giác Ngộ
(số 68) Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, trang 36- 43.
19. Phan An (1999) "Về các nghề thủ công ở ìn Dương" Thủ Dầu Một - Đất lành chim đậu,
Nxb Văn Nghệ Thành Phố Hồ Chí Minh.
20. Phan Đình Dũng, Nguyễn Văn Thông, Nguyễn Yên Tri (2004) ốm n òa Nxb Tổng
Hợp Đồng Nai.
21. Phí Ngọc Tuyến (2005), Nghề gốm ở Thành phố H Chí Minh từ thế kỷ XVIII đến nay.
Luận án tiến sĩ Khoa học Lịch sử, Trường Đại Học Khoa Học Xã hội và Nhân văn thành
phố Hồ Chí Minh.
22. Sở Văn hóa – Thông tin tỉnh Bình Dương, Sơ k o về t n ngưỡng, lễ hội dân gian và
truyền thống tỉn ìn Dương (1 8), Xí nghiệp in Tỉnh Bình Dương.
23. Thư Viện tỉnh Bình Dương, 2010. ư mục gốm – sứ ìn Dương.344tr.
24. Trần Khánh Chương (2001), ốm V ệt Nam từ đất nung đến sứ, Nxb Mỹ Thuật, Hà Nội.
25. Trần Nhất Tâm (chủ biên) (1998), M thu t ìn Dương xưa v nay, Hội văn học Nghệ
thuật Bình Dương.
26. Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Trang trí Đồng Nai (1992), Giáo trình gốm Đ ng Nai (dùng
để giảng dạy trong trường Mỹ Thuật Trang Trí).
27. UBND tỉnh Bình Dương Quyết địn số QĐ- ND ng y 1 1 8 v v p duyệt
đ ều c ỉn bổ sung quy o c t ăm dò k a t c k o ng s n tỉn ìn Dương đến năm
2010.
28. Võ Công Nguyên (1993), "Gốm m nghệ trong gốm Đ ng Nam ộ - sắc thái
29. văn óa v ý ng ĩa k n tế", Tạp chí Khoa học Xã hội (số 17/1993), trang 82- 85.
HỘI THẢO “LÀNG NGHỀ VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH”
1
Choé men vàng (da
bò) 6 quai trang trí
nổi rồng đuổi trái cầu
lửa
01 1930-
1940
Cao: 86 cm
Đkm: 32
cm
Đkđ: 28 cm
Cổ nứt, bụng
nứt
Choé men xanh trắng
vẽ lân
01 1940-
1950
Cao: 18cm
Ñkm: 8cm
Ñkñ: 10cm
Núm nắp bị
bể, nắp nứt
dán lại
Choé men nhiều màu,
vai có 4 quai. Thân
trang trí nổi rồng mặt
nạ, bên trên có ghi
dòng chữ Việt màu
xanh dương “lò
Quảng Hiệp Hưng”
01 ~
1950
Cao: 48cm
Ñkm: 19cm
Ñkñ: 19cm
Nguyên vẹn
Choé men nhiều màu,
4 quai, miệng đứng
có gờ, vẽ rồng 5
móng và quả địa cầu,
gần đáy trang trí cách
điệu hình cánh sen
01 1950-
1960
Cao: 56cm
Ñkm: 22cm
Ñkñ: 21cm
Gần đáy có
gắn 1 cái vòi
đồng có khoá
Choé men nhiều màu,
vai có 6 quai. Thân
trang trí nổi “tam
hùng” rồng – cọp –
chim đại bàng
01 ~
1960
Cao: 52cm
Ñkm: 21cm
Ñkñ: 18cm
Nguyên vẹn
Hũ men xanh trắng,
sát miệng vẽ hồi văn
chữ “công”, thân vẽ
hoa cúc.
01 ~
1920
Cao: 22cm
Ñkm: 12cm
Ñkñ: 14cm
Nguyên vẹn
HỘI THẢO “LÀNG NGHỀ VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH”
Hũ hình tháp men
nhiều màu vẽ phong
cảnh sơn thủy (có
nắp)
01 1960-
1965
Cao: 21 cm
Đkm: 10
cm
Đkđ: 9 cm
Nguyên vẹn
Bình nước (củ tỏ )
men xanh trắng vẽ
hoa mẫu đơn và chim
bạch đầu
Dĩa lót men xanh
trắng vẽ dây lá
01
01
1940-
1950
Cao:
26,5cm
Ñkm:
4,8cm
Ñkñ: 10cm
Cao: 3cm
Ñkm:
18,8cm
Ñkñ:
14,5cm
Nguyên vẹn
Bình (có vòi, quai),
men xanh trắng, mặt
sau có nhiều chữ Hán
viết tháu, vẽ cổ đồ
đáy có 2 chữ Hán
“Như Hợp”
01 ~
1940
Cao:
12,5cm
Ñkm: 8cm
Ñkñ: 7,5cm
Nguyên vẹn
Ấm tr (có vòi, quai),
men nhiều màu, vẽ
cây tùng, con chim và
4 chữ Hán “Trung
Quốc xuất phẩm”.
Trên nắp có 4 chữ
Hán “Nhất phiến
băng tâm”
01 ~
1940
Cao:
12,5cm
Ñkm: 7cm
Ñkñ: 6cm
Nứt quai
Bình tích men nhiều
màu, vẽ chim hút mật
và hoa hồng. Có dòng
chữ Hán “Nam Phong
từ xưởng tạo” (Xưởng
lò Nam Phong chế
t o Nam)
01 1930-
1940
Cao: 13cm
Ñkm:
6,7cm
Ñkñ: 11cm
Nguyên vẹn
Bình tích men xanh
nhiều màu vẽ hoa
thảo côn trùng, 4 chữ
Hán “Quảng Phước
Thành xuất phẩm”
01 1940-
1950
Cao:
23,5cm
Ñkm:
15,5cm
Ñkñ: 21 cm
Vòi gãy gắn
lại
HỘI THẢO “LÀNG NGHỀ VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH”
Ấm tr (có vòi, quai
đ ng) men xanh
trắng, vẽ phong cảnh
sơn thuỷ, trúc, dơi,
núm nắm cách điệu
hìng trái đào. Đáy có
2 chữ Hán “N ư
Hợp”
01 ~
1950
Cao: 9,5cm
Ñkm:
5,5cm
Ñkñ: 7,5cm
Nguyên vẹn
Thố men xanh trắng
(nắp không núm) vẽ
đề tài “b t bửu”
01 ~
1940
Cao: 15cm
Ñkm:
15,7cm
Ñkñ:
11,5cm
Nguyên vẹn
Thố (có quai cầm,
kiểu p ương tây) men
nhiều màu, vẽ kết
hợp phun màu đề tài
“hoa điểu”
01 ~
1940
Cao: 18cm
Ñkm: 19cm
Ñkñ:
12,5cm
Nắp bể dán
lại
Thố (có quai cầm,
kiểu p ương tây) men
nhiều màu, vẽ đề tài
“cúc phượng”
01 ~
1940
Cao: 20cm
Ñkm:
19,5cm
Ñkñ:
13,3cm
Nguyên vẹn
Thố (có quai cầm)
men nhiều màu, vẽ đề
tài “ngư tảo”
01 ~
1940
Cao:
14,5cm
Ñkm: 17cm
Ñkñ: 12cm
Mẻ nắp
Thố (có quai cầm)
men nhiều màu, vẽ
hoa mẫu đơn và chim
bạch đầu. Thân và
nắp có đề chữ Hán
“Duyệt An xuất phẩm
– c t tường thọ lão”
01 ~
1950
Cao:
23,5cm
Ñkm: 21cm
Ñkñ: 14cm
Nứt miệng
Thố tròn men nhiều
màu, vẽ đề tài “hoa
điểu”, thân có 4 chữ
Hán “Trường mệnh
phú quí”, nắp có 4
chữ Hán “Thiên tử
vạn tôn”
02 ~
1950
Cao:
18,5cm
Ñkm:
16,5cm
Ñkñ: 10cm
Nứt 1 đường
ở miệng
HỘI THẢO “LÀNG NGHỀ VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH”
Thố tròn (dáng trái
táo) men xanh trắng
vẽ hoa mai và bàn
chiền (trong bát bảo)
02 ~
1950
Cao: 9,5cm
Ñkm:
8,3cm
Ñkñ: 5cm
Nguyên vẹn
Thố (dáng trái táo)
men nhiều màu vẽ
“tiêu kê”, 4 chữ Hán
“Phước Hiệp Hưng
tác”
01 ~1950 Cao: 21cm
Đkm: 20cm
Đkđ: 15cm
Thân thố bị
thẩm thấu
Thoá troøn (daùng
traùi taùo) men
nhieàu maøu, veõ ñeà
taøi “sen le”
01 ~
1950
Cao:
19,5cm
Ñkm:
18,7cm
Ñkñ: 13cm
Nứt nắp nhỏ
Thố (dáng trái táo)
men nhiều màu vẽ
“tiêu kê”, 2 chữ Hán
“cát tường”
01 ~1960 Cao: 19cm
Đkm: 18cm
Đkđ:
12,5cm
Thẩm thấu
ỐNG NHỔ
Ống nhổ men xanh
trắng vẽ “tiêu kê”
01 ~
1950
Cao: 19 cm
Đkm: 21
cm
Đkđ:
15,5cm
Nguyên vẹn
Ống cắm đũa men
nhiều màu vẽ hoa
mẫu đơn – bướm
01 ~
1950
19,2x10x7c
m
Nguyên vẹn
Ống cắm đũa men
nhiều màu vẽ ngư
tảo, 4 chữ Hán màu
đen bên hông “thiên
tử ? ?” và 2 chữ Hán
“bình an”
01 ~
1950
18,5x8,5x6
cm
Nguyên vẹn
BÌNH LỌC NƯỚC
HỘI THẢO “LÀNG NGHỀ VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH”
Bình lọc nước men
xanh trắng vẽ “tứ
tiên” trong nhóm bát
tiên, phía trên có 7
chữ Hán, 3 chữ giữa
“vương lão cát”, 4
chữ còn lại “đính tịnh
– lương trà”
01 ~
1940
Cao:
36,6cm
Ñkm:
19,5cm
Ñkñ: 18cm
Không nắp,
không vòi
GỐI
Gối men nhiều màu
vẽ đề tài “ngư tảo”. 2
cạnh bên có đề chữ
Hán “ âm Đ o
Xương t c”
01 ~
1940
17x13x7,5c
m
Mẻ cạnh nhỏ
Gối men nhiều màu
vẽ hoa, bướm, trúc
01 ~
1940
16x14x7cm Mẻ cạnh nhỏ
VỊM
Chậu (thau) men
nhiều màu, vẽ hoa
hồng, hoa chanh
01 ~
1940
Cao: 15cm
Ñkm: 39cm
Ñkñ:
22,5cm
Nứt lò ở lòng
chậu
Vịm ngoài men vàng
(da lươn) trong men
nhiều màu vẽ “ngư
tảo”
01 ~1950 Cao: 8cm
Đkm: 23cm
Đkđ: 14cm
Nguyên vẹn
CHÉN –BÁT-DĨ
CÁC LOẠI
Tượng men xanh
trắng, bên trong lòng
tô có dấu ve lòng.
Bên ngoài vẽ hoa cúc
và chữ Thọ.
01 ~
1920
Cao: 9,5cm
Ñkm: 25cm
Ñkñ: 12cm
Nứt 3 đường
Dĩa men xanh trắng
miệng bịt đồng vẽ
dây lá
01 ~
1920
Cao: 3cm
Ñkm:
13,2cm
Ñkñ: 7,5cm
Nguyên vẹn
HỘI THẢO “LÀNG NGHỀ VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH”
Dĩa quả tử men xanh
trắng vẽ hoa lá, chữ
Phước
01 1920-
1930
Cao: 3 cm
Đkm: 33,5
cm
Đkđ: 15,5
cm
Nguyên vẹn
Chén men trắng rạn,
chữ S.C.I
01 ~
1930
Cao: 6cm
Ñkm:
12,5cm
Ñkñ: 6cm
Nguyênvẹn
Dĩa men nhiều màu
vẽ “tiêu kê”
04 ~
1940
Cao: 4cm
Ñkm: 17cm
Ñkñ: 8cm
Khờn miệng
Dĩa quả tử men xanh
trắng vẽ phong cảnh
sơn thuỷ hữu tình
01 ~
1940
Cao: 6cm
Ñkm: 32cm
Ñkñ: 15cm
Nguyên vẹn
Dĩa men xanh trắng
in đề tài “trúc lâm
thất hiền”
05 1940-
1950
Cao: 2,8cm
Ñkm:
8,2cm
Ñkñ: 4,2cm
Nguyên vẹn
Dĩa men xanh trắng
miệng bịt đồng vẽ
hoa hồng
01 1940-
1950
Cao: 2,2cm
Ñkm: 10cm
Ñkñ: 5,8cm
Nguyên vẹn
Cối giả thuốc men
xanh trắng vẽ đường
viền ở miệng
01 ~
1950
Cao: 12,5
cm
Đkm: 10,5
cm
Đkđ: 8 cm
Nguyên vẹn
Chén đựng mủ cao su
men trắng ngà miệng
hình phiểu, bên ngoài
không phủ men
Chén đựng mủ cao su
men trắng ngà miệng
hình phiểu, bên ngoài
05
03
1950-
1960
1950-
1960
Cao: 6 cm
Đkm: 12
cm
Cao: 7 cm
Đkm: 14
cm
Nguyên vẹn
Nguyên vẹn
HỘI THẢO “LÀNG NGHỀ VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH”
không phủ men
Dĩa quả tử men xanh
trắng vẽ mẫu đơn
phượng
01 ~
1960
Cao: 5cm
Ñkm: 31cm
Ñkñ: 17cm
Nguyên vẹn
Dĩa quả tử men xanh
trắng vẽ cúc dây
01 1955-
1960
Cao: 5cm
Ñkm: 38cm
Ñkñ: 24cm
Nứt 1 đường
từ miệng
xuống thân
Dĩa quả tử men nhiều
màu, vẽ dây lá, lòng
da có dấu ve lòng
01 1960-
1970
Cao: 6 cm
Ñkm:
31,5cm
Ñkñ: 16cm
Nguyên vẹn
Tượng hổ men vàng
(da lươn)
01 ~
1970
21,5x9x14,
5cm
Nguyên vẹn
Tượng mục đồng cởi
trâu men nhiều màu
(vàng, xanh lục,
h ng)
01 ~
1970
18x8x10cm Nguyên vẹn
Tượng phật Di Lặc
men nhiều màu, hai
chân để trước bụng
01 1950-
1960
12x11x9cm Nguyênvẹn
Tượng ông Địa men
nhiều màu, đầu vấn
khăn, tay trái tựa đầu
hổ, chân trái giắt
ngang trước bụng
01 ~1960 12,5x12,5x
10cm
Nguyênvẹn
HỘI THẢO “LÀNG NGHỀ VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH”
Bình hoa men nhiều
màu, vẽ mẫu đơn trĩ,
đáy có 2 chữ Hán
“ n ợp”
01 ~
1950
Cao:
38,5cm
Ñkm: 5cm
Ñkñ:
10,5cm
Nguyeân
veïn
Bình hoa men xanh
traéng, veõ töù thôøi
“mai lan cuùc truùc”.
01 ~
1950
Cao: 49cm
Ñkm: 20cm
Ñkñ: 14cm
Nguyeân
veïn
Đôn voi nhiều màu
(xanh ve chai nâu,
trắng xan dương),
đế có hiệu lò bằng
chữ Hán “Hưng Luân
Thái tạo”
01 1940-
1950
Dài: 60cm
Rộng:
25cm
Cao: 56cm
Mẻ đầu vòi
Đôn trống lục giác
men nhiều màu, chạm
thủng hoa sen, lan,
cúc, trúc, mai
01 ~
1960
Cao: 44 cm
Đkm: 23
cm
Đkđ: 23 cm
Nguyên vẹn
Chậu hoa men nhiều
màu (xanh ve chai,
nâu xan dương) 4 ô
đắp nổi “lựu – cúc –
phật thủ - sen”
01 1930-
1940
Cao: 36cm
Đkm: 56cm
Đkđ: 36cm
Nguyên vẹn
Chậu hoa treo tường
men nhiều màu, trang
trí hình chim và trái
vải
01 ~
1940
15x14x10c
m
Nguyên vẹn