(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện) · Cảnh giới này vốn là...

103
Truyn Phc ma bình yêu ---Lư Thắng Ngạn văn tập 044 (伏魔平妖傳---盧勝彥文集 044) Mc lc 目錄 1/Lời nói đầu 伏魔平妖傳--前言 2/ Liên Hoa đồng ttái sinh 蓮花童子再世 3/ Hpháp tôn thn La Hu La 護法尊神羅鍭羅 4/ Đạn kim cang tránh ma 避魔金剛彈 5/ Mt viết chphn có thtrma 密寫梵字可除魔 6/ Bám chấp” là đại ma「執著」是大魔 7/ Ma ý thc khó chế phc nht 意識之魔最難制 8/ Ma ý thc chính là tâm ma 意識之魔是心魔 9/ Pháp song thân dnhp ma 雙身法易入魔 10/ Mc- lp- nht- ba tôn giả” có phải là ma không?「木納日把尊者」是魔嗎 11/ Viết vbt ma 擒魔記 12/ Ma tướng trong thiền định 禪定中的魔相 13/ Thn ma tóc bc cu quy y 白髮神魔求皈依 14/ Thiên ma tâm pháp 天魔心法 15/ Chiếc nón ca Thành hoàng tôn t城隍尊神帽子 16/ Nón ngũ Phật phá ma 五佛冠破魔 17/ La thiêu cháy ma mê 火焚迷魔 18/ Các loi ma mê 迷魔之種種 19/ Thn bgiáp hthân 披甲護身手印 20/ Tam quy y và tam Hung thy 三皈依與三吽水 21/ Sc ma nhp tâm phn 1 色魔入心之一 22/ Sc ma nhp tâm phn 2 色魔入心之二 23/ Sc ma nhp tâm phn 3 色魔入心之三 24/ Sc ma nhp tâm phn 4 色魔入心之四 25/ Sc ma nhp tâm phn 5 色魔入心之五 26/ Sc ma nhp tâm phn 6 色魔入心之六 27/ Kim quang phc ma 金光伏魔 28/ Đại Bch Tán Cái strbnh ma 大白傘蓋退病魔 29/ Pháp Lục Độ mu trbnh ma 綠度母法除病魔 30/ Nam mô Mật Đa Ngôn tôn gi南摩密多言尊者 31/ Xích TQuan Âm pháp 赤子觀音法 32/ Sao Xà Yết rơi xuống 蛇蠍星的隕落 33/ Cha vchuyn thế thành con chim 岳父轉世在鳥松 34/ Chân định không syêu ma 真定不懼妖魔 35/ Duy ngã độc tôn là ma sao? 唯我獨尊是魔嗎? 36/ Linh Tiên tông tôn sùng Quan Âm kinh 靈仙宗尊崇高王經 37/ Pht pháp trbnh ma 佛法治病魔 38/ Pháp thng truyn tha ca tôi 我的法統傳承

Transcript of (Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện) · Cảnh giới này vốn là...

Truyện Phục ma bình yêu ---Lư Thắng Ngạn văn tập 044

(伏魔平妖傳---盧勝彥文集 044)

Mục lục 目錄

1/Lời nói đầu 伏魔平妖傳--前言

2/ Liên Hoa đồng tử tái sinh 蓮花童子再世

3/ Hộ pháp tôn thần La Hầu La 護法尊神羅鍭羅

4/ Đạn kim cang tránh ma 避魔金剛彈

5/ Mật viết chữ phạn có thể trừ ma 密寫梵字可除魔

6/ “Bám chấp” là đại ma「執著」是大魔

7/ Ma ý thức khó chế phục nhất 意識之魔最難制

8/ Ma ý thức chính là tâm ma 意識之魔是心魔

9/ Pháp song thân dễ nhập ma 雙身法易入魔

10/ “Mộc- lạp- nhật- ba tôn giả” có phải là ma không?「木納日把尊者」是魔嗎

11/ Viết về bắt ma 擒魔記

12/ Ma tướng trong thiền định 禪定中的魔相

13/ Thần ma tóc bạc cầu quy y 白髮神魔求皈依

14/ Thiên ma tâm pháp 天魔心法

15/ Chiếc nón của Thành hoàng tôn tử 城隍尊神帽子

16/ Nón ngũ Phật phá ma 五佛冠破魔

17/ Lửa thiêu cháy ma mê 火焚迷魔

18/ Các loại ma mê 迷魔之種種

19/ Thủ ấn bỉ giáp hộ thân 披甲護身手印

20/ Tam quy y và tam Hung thủy 三皈依與三吽水

21/ Sắc ma nhập tâm phần 1 色魔入心之一

22/ Sắc ma nhập tâm phần 2 色魔入心之二

23/ Sắc ma nhập tâm phần 3 色魔入心之三

24/ Sắc ma nhập tâm phần 4 色魔入心之四

25/ Sắc ma nhập tâm phần 5 色魔入心之五

26/ Sắc ma nhập tâm phần 6 色魔入心之六

27/ Kim quang phục ma 金光伏魔

28/ Đại Bạch Tán Cái sẽ trừ bệnh ma 大白傘蓋退病魔

29/ Pháp Lục Độ mẫu trừ bệnh ma 綠度母法除病魔

30/ Nam mô Mật Đa Ngôn tôn giả 南摩密多言尊者

31/ Xích Tử Quan Âm pháp 赤子觀音法

32/ Sao Xà Yết rơi xuống 蛇蠍星的隕落

33/ Cha vợ chuyển thế thành con chim 岳父轉世在鳥松

34/ Chân định không sợ yêu ma 真定不懼妖魔

35/ Duy ngã độc tôn là ma sao? 唯我獨尊是魔嗎?

36/ Linh Tiên tông tôn sùng Quan Âm kinh 靈仙宗尊崇高王經

37/ Phật pháp trị bệnh ma 佛法治病魔

38/ Pháp thống truyền thừa của tôi 我的法統傳承

39/ Bí mật sinh nhật của Tôn Trung Sơn 孫中山先生的生日秘密

40/ Hắc pháp phá Hắc giáo 破黑教黑法

41/ Bàn luận về “Lâm mậu thỉnh thị Đạt Lai Lạt Ma” 評「林某請示達賴喇嘛」

42/ Vài chuyện về Lâm đại sư 記林×大師二三事

43/ 22 vị Phật nói như vậy 二十二佛如是說

44/ Kỳ tích của pháp hội 「奇蹟」的法會

45/ Kính cáo các bạn đọc giả 敬告讀者諸君

(Truyện Phục ma bình yêu --- Lư Thắng Ngạn văn tập 044)

01. Lời nói đầu.

Ngày 16 tháng 6 năm 1982, tôi dẫn theo cả gia đình, rời khỏi Đài Loan, định cư ở Seattle

USA. Nguyên nhân rời khỏi Đài Loan là bởi do tôi quá nổi tiếng, đã đi đến bước không thể

nào tu tiếp, mỗi ngày hàng trăm người đến tìm gặp tôi, tuy rằng tôi đã chuyển nhà 3 lần,

nhưng cũng không tránh khỏi được việc các khách đến tìm gặp tôi bất cứ lúc nào.

Đến Seattle, mới biết rằng thư viện ở Mỹ có các sách của tôi, nhà văn nước Nhật là

Kinokuniya có viết một quyển sách tên là “Tiên nhân hiện đại của Trung Quốc”, và tiên nhân

đó chính là nói về tôi. Nhà chính trị Nhật Bản Yasuhiro Nakasone vào ngày 25 tháng 11

chính thức trở thành thủ tướng của Nhật Bản, cũng đã được tôi chiêm toán 12 năm sau ắt sẽ

trở thành thủ tướng, ông ấy là bạn của cha tôi.

Tuy rằng biết rõ những chuyện này, nhưng tôi cũng không vui mừng, cuộc sống của tôi là

50% ẩn cư. Ở nước Mỹ, chỉ cần nơi nào có người Trung Quốc, thì sẽ có sách của tôi, có rất

nhiều người biết tôi đến nước Mỹ, bèn lần lượt tìm đến nhà tôi.

Có người hỏi tôi, ở Mỹ, tại sao không chọn Los Angeles, mà lại chọn ở phía bắc Seattle của

nước Mỹ ? Câu hỏi này rất hay. Bởi vì câu trả lời của tôi là: Linh khí địa linh ở nước Mỹ mà

nói, thì vùng tây bắc Seatle có linh khí vượng nhất, có đầy đủ núi biển đảo, khí chất cao nhã,

núi rừng trùng điệp, bốn mùa rõ rệt, cũng giống như là ở cảnh tiên vậy. Seattle cũng là một

đô thị lớn của nước Mỹ, nhưng lại không bị ô nhiễm như những đô thị khác.

Từ Đài Loan đến đây, tôi chuẩn bị kế hoạch viết vài quyển sách linh học, tuy rằng con

người tôi ở Mỹ, nhưng tâm thì lại ở Đài Loan, tôi sẽ đem vinh diệu của mình, đem trở về cho

người Đài Loan, vì vậy mà tôi sẽ cố gắng không ngừng sáng tác, đem hạt giống ưu tú của

văn hóa Trung Quốc, rải khắp ở toàn bộ phương Tây, để nó nở hoa kết trái.

Từ khi tôi ra khỏi Đài Loan, tôi nói với các học trò ở Đài Loan, tôi sẽ viết một quyển sách

địa lý quý giá nhất cho các trò, để làm quà kỷ niệm cho các trò, và chính là quyển sách này

đây. Quý giá như thế nào, thì phải xem các trò có ngộ hay không.

Tôi có được cơ duyên, được Thanh Thành Sơn đạo trưởng truyền thọ cho “Kham Dư chân

cơ”, sau đó lại được học “Thông Linh pháp” của Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh, ngộ được

thiên văn địa lý, có được bí quyết của thần tiên, vì vậy mà biết được con người muốn thay

đổi vận mạng, thì một là phải có thiên đạo, hai là cần có địa đạo, ba là cần có nhân đạo, ba

đạo này hợp nhất được gọi là “tự nhiên”. Thiên đạo là pháp tu chân thành tiên, địa đạo là

thuật phú quý, nhân đạo là lý làm người xử thế.

Thật ra lý của 3 đạo này không có gì khác, ba đạo hợp nhất, tự sẽ là “Tiên Phật”, ba đạo mà

phân tích ra, thì đều có ảnh hưởng. Tôi đặc biệt nói những lời này ra với các học trò của tôi,

đừng nên chấp vào một đạo mà khinh thường hai đạo kia. Sách này chuyên nói về địa đạo

học, vốn là pháp để thu những loài vật bay trên trời, những con thú trên mặt đất.

Môn học địa đạo, vốn có huyền cơ, tuệ nhãn xem đất, trước tiên là phải xem thế của nó,

tiếp theo là hình, ba là xem minh đường, bốn là khảo sát long, năm là đối hướng núi. Sách

của tôi nói về, không phân tam hợp, lục hợp, cửu tinh, tứ đại cục, tam nguyên, đại tiểu huyền

không. Người đời nhà Tống thì chuyên nói về hình, người đời nhà Đường thì chuyên nói về

sao, còn tôi thì sao? Không cần biết là long, huyệt, sa, thủy, hướng, “Quan quỉ cầm diệu”,

“Minh đường thủy thành”, “Đối án la thành”, “Thủy khẩu ứng lưu”….. Chỉ cần có ứng

nghiệm, thì không cần biết đó là pháp gì, thì đều là “thiện”. Cho nên nếu có người hỏi tôi là

phái gì, tôi trả lời “Linh nghiệm phái”.

Ngoài ra tôi truyền pháp, không phải chỉ có loan đầu lý khí, mà còn có ý thần núi dung hợp

với cách phá giải, đây là tâm pháp thần tiên, đều thuộc văn thiên cơ. Hôm nay tôi chọn viết

sách này, tên của sách là “Địa linh tiên tích” thật đúng là nơi nào cũng là dấu chân của thần

tiên, cần chi phải cầu người khác.

Sách này tuyệt đối không nói sai sự thật, là dấu chân tiên, không phải là hoang thuật, mong

rằng người nào có được sách này, thì đừng nên khinh thường.

Địa chỉ của Kim Cang Thượng Sư Lư Thắng Ngạn :

Sheng- yen Lu

17102 NE 40th

Ct.

Redmond WA. 98052

USA.

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

02. Liên Hoa đồng tử tái sinh.

Có người nói, Lư Thắng Ngạn viết sách linh, đều là sách trời, quyển sách trời này đều là

hư ảo không thật, tuy rằng là viết ở trên sách, truyền cho người đời sau. Nhưng không thể tin

hết, nếu tin hết cũng như là không có sách.

Cũng có người nói, biến ảo của thế gian, xem ra thì không có gì kỳ lạ, nhưng suy nghĩ kỹ

lại, cũng có những chuyện trùng hợp kỳ lạ, trên thế gian này pháp giả quá nhiều, còn pháp

linh thật, thì ngược lại nhiều người không tin.

Tôi nói, tin hay không tin, không liên can gì đến tôi, miệng của chúng sinh, muốn nói sao

thì nói. Bây giờ, tôi viết sách trời thật, là nói những câu chuyện về trời, những câu chuyện

của linh giới.

Hơn 10 năm trước, khi tôi mới bắt đầu gặp kỳ duyên, nửa đêm nửa tỉnh nửa mơ, tôi du

hành ở trên trời, một vị thần chỉ vào một đồng tử sáng chói nói rằng, đây là Liên Hoa đồng

tử, là kiếp trước của ngươi. Tuy rằng nửa tỉnh nửa mơ, nhưng tôi vẫn nhớ rất rõ. Sự việc này

được tôi viết ở một quyển sách linh, nhưng chưa nói ra đạo hiệu của “Liên Hoa đồng tử”.

Sau này, tôi đích thân viết ra Hồng danh của chư Phật Bồ Tát ở trên một tờ giấy màu đỏ

hình vuông, treo lên để mà thờ phụng, ở dưới góc tận cùng của bên phải, tôi viết vào “Liên

Hoa đồng tử”, ở hai bên trái phải thì tôi viết vào Thiên La thần, Địa La thần vào đó. Rất

nhiều học trò của tôi nhìn thấy, cũng đem đi in ra để thờ phụng, cũng có người hỏi tôi, Liên

Hoa đồng tử là thần thánh ở đâu vậy? Tôi chưa từng dám nói ra, chỉ mỉm cười nói, đến lúc

thì sẽ tự biết.

Tôi không muốn nói ra, chủ yếu là tôi không cho rằng kiếp trước của tôi chính là Liên Hoa

đồng tử. Nếu như đã là người của ngũ trược ác thế, kiếp trước cho dù là Đại La Kim Tiên hạ

phàm, thì cũng đã bị ô uế mất rồi, tất cả phải tu từ đầu, tu thành chánh quả hãy nói vậy, tu

không thành chánh quả, trái lại sẽ bị người ta cười nhạo, cho dù là tiên cốt, thì cũng không

bằng xương chó, xương heo mà thôi.

Cảnh giới của Liên Hoa đồng tử là ở gần với thế giới Tây Phương Cực Lạc, được gọi là

Ma Ha Song Liên Trì, tổng cộng có 18 vị đồng tử, mỗi vị tay cầm đóa sen có màu khác nhau,

chín vị là nam, chín vị là nữ. Cảnh giới này vốn là thế giới ứng kiếp sở hóa của “Vô Tà Nhãn

Như Lai”. Cao hơn cảnh giới trời, nhưng lại thấp hơn thế giới Tây Phương Cực Lạc. Tôi,

Liên Hoa đồng tử này, đứng ở trên hoa sen, tay cầm đóa sen màu trắng, cho nên được gọi là

“Bạch Liên Hoa đồng tử”, là vị đồng tử đứng đầu trong 18 Liên Hoa đồng tử. Cảnh vật ở

cảnh giới này như núi tiên, nước tiên, hoa tiên, chim tiên, đều rất khác lạ. Ngoài trừ cảnh vật

xinh đẹp này ra, cũng có rất nhiều phi thiên tiên nữ, có người cầm phất trần, có người cầm

cây như ý, có người cầm sáo, có người cầm quạt, tất cả đều rất đẹp, tất cả họ đều có chất tiên

cao nhã.

Bây giờ, tất cả 18 vị đồng tử đều ứng kiếp hạ phàm trần, ở thế gian mênh mông này, đủ

màu đủ sắc, cố nhiên là vẫn có đạo căn, sẽ không bị mất đi. Nhưng trong phú quý, lại có mấy

người có thể hiểu được nhân của kiếp trước, quả ở đời sau, trái lại còn lại tự tham danh lợi

sắc dục, mãi mãi luân hồi không ngừng, đã làm mất đi cơ hội trở về trời, mê mất bản tính.

Ngay cả đạo căn vốn có cũng mất hết rồi. Trên thì không có siêu hình độ thế, dưới thì không

có phương pháp cứu người đời cứu người, tâm khiếu linh thông bị che lấp mất đi, tuy rằng là

có đạo duyên, nhưng nhanh chóng quên mất đi, nhưng nếu da lông không rơi rụng đi, thì trở

về trời mãi mãi rất khó khăn.

May mắn tôi được mở thiên khiếu, tận mắt nhìn thấy nhân quả kiếp trước, cảm thấy rằng

thế gian là vô thường, nếu như thế thì chi bằng tu chân để thoát khỏi sinh tử, từ đó thượng sư

đích thân chỉ dạy, còn tôi thì dốc hết sức tu đạo, thầy của tôi là “Tam Sơn Cửu Hầu Tiên

Sinh”, mỗi đêm đều đến, sau một tiếng đồng hồ thì rời khỏi, lúc đến vô hình, lúc đi cũng

không có vết tích, ngay cả cha mẹ đồng nghiệp cũng không biết. Trong lúc tu, tu dùng tánh

thức thanh tịnh. Tu được pháp nhập ngã ngã nhập, cũng giống như chiếc gương trí tròn trịa

vậy, đi vào trong tâm thượng sư của Kim Cang bộ, toàn thân phóng ra ánh sáng màu trắng,

tôi biết rằng ánh sáng màu trắng này chính là Diệu Tịnh Quang, có thể hóa sinh hoa sen, hoa

sen là trắng trong, cũng chính là bản lai diện mục của tôi, tôi dựa vào đây mà tu hành, mỗi

ngày đều tinh tiến.

Trong quá trình tu hành, cũng có ma nạn, cũng có thiên ma ganh ghét, cũng có địa ma hiếp

đáp, có nhân ma hãm hại, bị rất nhiều ma hãm hại. Còn bị thử thách của cõi địa ngục, cõi

người, cõi ngạ quỷ, cõi atula, thậm chí là cõi trời, họ đến và đi với thân trung ấm. Càng khiến

cho tôi biết rõ cái khó khăn của tu đạo, nếu như không phải là người thượng trí, thì sẽ không

có cách kiên định tâm nhẫn nhịn được, và tôi thì nhất tâm bất loạn mà nhẫn nhịn qua hết. Vì

muốn kêu gọi hết tất cả 18 vị bạn đạo của mình, trở về Ma Ha Song Liên Trì, vì muốn phổ

độ những người có thiện căn lớn ở thiên hạ, tôi viết một quyển sách linh, chủ yếu nhất là để

chỉ dẫn tâm ô nhiễm biến thành thanh tịnh, sau này tiếp tục biến thành tâm Bồ đề thanh tịnh.

Trong Phật môn rất ít người biết đến “Liên Hoa đồng tử”, trong Đạo gia cũng rất ít người

biết, chỉ có trong một quyển Phật điển có ghi lại, cảnh giới này liệt vào tứ thánh, nhưng lại

rất cao. Đương nhiên quả vị sẽ thấp hơn những ai tự xưng là một vị Phật hay một vị Bồ tát

nào đó chuyển thế.

Nhưng mà, thật sự thì tôi là người biết nhân quả kiếp trước, tôi không dám nói láo tôi là một

vị Phật nào đó chuyển thế, nhưng đích thật tôi là “Liên Hoa đồng tử” tái thế, một Liên Hoa

đồng tử nhỏ bé, không phải là Phật sống.

Cho đến có người hỏi tôi, lúc đầu anh không nói, tại sao bây giờ mới nói. Tôi cho rằng đây

là cơ duyên, bởi vì mọi thứ là do cơ duyên chưa đến, khi nói ra người ta sẽ nói tôi tự mình

nâng cao thân thế của mình lên. Bây giờ thì tôi không còn ở Đài Loan, ở Mỹ thì cũng đã một

nửa là ẩn cư, tôi không biết người ta, người ta cũng không quen biết tôi. Hôm nay có người

biết tôi, thì đã không tìm được tôi rồi, tôi không mong muốn tiếp nhận cúng dường và khen

ngợi. Chỉ hy vọng rằng, những ai đọc sách linh, không cần biết là tin hay không tin, không

cần biết là đắc hay chưa đắc, chỉ cần có duyên, phát tâm tu hành, thì là tốt rồi. Các bạn đọc

hãy nhớ kỹ: “Vô thường biến diệt như là khói, thế sự có gì là không duyên, đều là do chúng

sinh quá mê chấp, lưu lạc ở tha hương đừng chần chờ”.

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

04. Hộ pháp tôn thần La Hầu La.

Trong lúc tu trì định quán, tôi đã từng thấy một vị thần hộ pháp, vị thần này là đầu người

thân rồng, đầu rất quái dị, có 4 mặt, từ dưới lên trên tổng cộng có 5 tầng, mỗi mặt có 3 mắt,

răng nanh lộ ra ngoài, tóc đỏ mặt xanh, một tay cầm chuông đầu rồng, một tay cầm cung tên,

dáng mặt rất uy nghi, hiện lên tướng phẫn nộ.

Tôi đã từng hỏi Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh: “Vị thần đó tên gì?”

“Rahula (La Hầu La)” Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh nói: “Phẩm vị của vị thần hộ pháp này

rất cao, vốn là Linh Quang Phật chuyển thế, hộ trì Phật Bồ tát và đạo tràng, không có nơi nào

là không hiện thân, nếu sau này con muốn phụng thỉnh vị thần đó, chỉ cần “ấn Bất Động căn

bản”, phạn xướng chú ngữ Kim Cang Luân chú, thì thần đó sẽ giáng lâm”.

Tôi đã thỉnh hộ pháp thần nhiều lần, đầu tiên là nhìn thấy một đám lửa lớn phẫn nộ, tiếp

theo là hiện lên rồng trời nhe răng múa vuốt, sau đó là nhìn thấy 2 cánh tay, chuông đầu rồng

và cung tên, sau đó là hiện lên toàn thân và đầu, hai con mắt màu xanh, khiến cho người ta

vừa sợ hãi vừa kính phục, quả nhiên là lúc nào thỉnh là lúc đó đến. Ngoài ra tôi còn phát hiện,

thần hộ pháp này còn có vô số vị thần hộ pháp khác đi theo nữa, mỗi lần hiện thân, thì đầy cả

hư không.

Tôi đã từng suy nghĩ như vậy, Chúa Giêsu của đạo Kitô đã từng bị ma khảo nghiệm, đến

sau cùng, Chúa Giêsu đồng ý cho ma đi vào trong tâm của Do-đại (Juda), kết quả là trong số

12 môn đồ của Giêsu là Do-đại, phản bội bán đứng Giêsu, ngọn lửa ma cháy bùng lên, và

chúa Giêsu bị đóng trên thập tự giá.

Thích Ca Mâu Ni Phật, sau khi đại giác ngộ, Ngài đã bị ma nữ khảo nghiệm 3 lần. Từ lúc

hành đạo, lại bị hủy báng, thậm chí lại bị Đề-Bà-Đạt-Đa (Devadatta) hãm hại.

Từ đó có thể biết, “đạo tâm vừa khởi, ma tướng lập tức sinh”, thật ra bản thân Chúa Giêsu

hoặc Thích Ca Mâu Ni Phật, đều nhẫn chịu ma nạn vô cùng tận, đạo càng cao, ma càng cao,

cũng như vậy, ma càng lớn, cảnh giới càng cao, và vì thế nên các thánh nhân có nói như vậy,

lấy đau bệnh làm thuốc hay, lấy hoạn nạn làm tiêu diêu, lấy che chướng làm giải thoát, lấy

ma quân làm pháp lữ.

Có rất nhiều giáo môn, khi vừa mới bắt đầu tu đạo, thì sẽ được chỉ dạy làm thế nào để

phòng bị ma nạn, phải làm thế nào để hộ thân, phải dùng kim cang giáp như thế nào…….

Khi tôi mới tu đạo, vốn không biết là có ma, tôi phải chịu đựng rất nhiều ma nạn, tôi dùng

“thông tướng tam quán”, biết rằng thiên ma thích tôi nhất, không lúc nào không tìm kiếm tôi,

để tôi thoái đạo tâm, nó vận dụng lúc tôi tinh tiến để biến hóa pháp tướng; vận dụng lúc tôi

ngủ, khiến cho tôi không thể nhất niệm được, vận dụng lúc tôi nhận học trò, đến quấy nhiễu

đạo tràng thánh hội của tôi, những thứ này tôi đều biết, tôi cũng sẽ không thoái đạo tâm. Bởi

vì tôi có một đại hộ pháp thần La Hầu La, ngoài ra tôi cũng đã tu thành pháp “hàng phục kim

cang”. Đó là sau khi tôi tu Liên Hoa bộ, lại tiếp tục tu thêm “Kim Cang thần biến”.

Như thế, tâm của tôi là tâm Bồ-tát, tay của tôi là Kim Cang Thủ, cho nên tôi có thể “phục

ma bình yêu”.

Theo tôi được biết, Thích Ca Mâu Ni Phật là vị Phật tôn kiêm tu “Uế Tích Kim Cang”, Uế

Tích Kim Cang chính là biến hóa thân của Phật Thích Ca, cũng có nghĩa là Uế Tích Kim

Cang chính là Phật Thích Ca. Tu hành bồ đề, thì Thích Ca Phật sẽ thành tựu, còn phục ma

bình yêu sẽ do Uế Tích Kim Cang mà thành tựu.

Tuy rằng tôi là một Liên Hoa đồng tử nhỏ bé chuyển thế, nhưng tôi đã đắc chứng “hạ trung

tất địa”, có thể tự tại du hành ở cõi trời; lại đắc chứng “hạ thượng tất địa” có thể tự tại trở về

Ma Ha Song Liên Trì; lại đắc chứng “trung trung tất địa” tâm nhất định có thể du hành ở tịnh

thổ của chư Phật, hình thần tự tại mà không điên đảo.

Thực ra đạt đến cảnh giới như vậy, “Phật cùng ma đã không còn phân biệt, tiên và quỉ cũng

không còn phân tách, sống và chết là chuyện thường tình”, 3 câu nói này của tôi, nếu như có

người tu đạo thật sự thể hội được, mà còn có thể đắc chứng lời nói này, người này đã được

tâm ấn của Văn Thù Bồ Tát, đều có thể đến tất cả tịnh thổ của chư Phật, tất cả các pháp đều

có thể thành tựu.

Ở Seattle nước Mỹ, có người hỏi tôi “Đại sư có thay đổi sáng tác không ?”

“Lúc trước ở Đài Loan chuyên tu Bồ đề tâm, bây giờ ở nước ngoài trì tiến Kim Cang Thủ”.

“Hai thứ có gì không giống nhau ?”

“Đầu tiên là Bồ tát, từ bi tâm dụng sự, là nhu. Còn sau này thì là kim cang, phục ma, là

cương”.

“Cái nào cao hơn? Cái nào thấp hơn ?”

“Bồ tát là bản tánh như như của thế giới kim sắc, kim cang là hộ tánh như như của hỏa tụ

đao kiếm, tức là trí tuệ bát nhã không phân cao thấp”.

Tôi được đại hộ pháp La Hầu La thủ hộ để tu trì, trong quá trình này tôi gặp rất nhiều ma

nạn, tôi mong muốn sẽ viết lại tu trì tâm đắc của tôi, để khiến cho chúng sinh ở thiên hạ được

lợi ích lớn, đây chính là đại công đức của “Phục ma bình yêu”. Liên Sanh không biết năm

tháng, yêu thích tu đạo. Mong rằng viết ra quyển sách này, dùng lửa của nộ mục kim cang,

để đốt tất cả tà uế, những người hành tà ác, tôi đều cầm kiếm trí tuệ đâm vào, không dùng

thiên đạo để xử, không dùng địa pháp để diệt, chỉ có thể dùng kiếm trí tuệ để trừ vô hình.

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

04. Đạn kim cang tránh ma.

Tựa đề của bài viết này là “Đạn kim cang tránh ma”, đạn này không phải là “viên đạn”, mà

chính là cái búng tay (trong tiếng Hoa là cùng âm). Pháp này là “Hàng phục kim

cang“ truyền thọ cho tôi, không được ghi lại ở bất cứ một quyển kinh điển nào cả, hoàn toàn

là một bí pháp mới nhất, giá trị của nó không thể so sánh bằng tiền được. Hôm nay tôi đem

bí pháp này truyền ra, để lợi ích cho tất cả những người tu đạo.

Người tu đạo, khi nào thì dễ dàng mất đi công hạnh nhất, khi nào thì không thể nắm bắt

được, đó chính là lúc ngủ, con người khi ngủ, đi vào một cảnh giới mộng khác, lúc này tâm

không dễ bị ràng buộc, cho rằng mộng cảnh là thật, khởi tham sân si, tất cả các hành vi của

mộng đều do tác dụng của tiềm ý thức mà điên đảo mộng tưởng.

Ngoài ra, người tu hành, ma quỉ tìm lúc người tu hành đang ngủ, sẽ đến quấy nhiễu suy

tưởng, ma hoành hành ở trong tâm trong ý của con người, phá hoại chánh niệm, lúc này tu

hành tinh tiến ban ngày của người tu hành sẽ biến thành công dã tràng, không những biến

thành công dã tràng, có lúc còn tệ hơn một người phàm phu nữa, bởi vì người phàm phu thế

tục không biết tu hành, đời đời kiếp kiếp trầm luân trong ác đạo, vốn là quyến thuộc của ma;

chỉ có người tu đạo, muốn ra khỏi tam giới, tu thành tiên đạo, Phật đạo, muốn thoát khỏi

khống chế của thiên ma, thì thiên ma mới thích tìm kiếm người này để tạo phiền phức. Tôi

chính là nhân vật mà thiên ma thích nhất.

Ban đầu khi tôi mới tu, có một thiên ma, tên là “Tỳ-na-dạ-ca”, tướng của ma này có hai tai

nhọn, có 5 con mắt, đều mọc hết ở trên trán, miệng rất nhọn, lưng có hai cánh, có thể biến

hóa lớn nhỏ, quang khí trên toàn thân của ma này, đều có khí mù bao trùm, mỗi lần nhân lúc

tôi ngủ, bèn cùng với khí mù đến trước giường của tôi, dùng cái miệng nhọn, để ở gần mũi

của tôi, hít lấy khí tôi thở ra, và còn tôi thì hít vào khí dơ do ma này thở ra, và cứ tiếp diễn

như thế. Thiên ma “Tỳ na dạ ca”, là một thiên ma trộm khí, người tu hành bị nó quấy nhiễu,

nếu không bị bệnh cũng bị suy.

Lúc đầu tôi vẫn không có cảm giác, sau này bèn từ từ có cảm giác, mỗi buổi sáng thức dậy,

tay chân không có sức, chóng mặt hoa mắt, rõ ràng đã ngủ rất nhiều, nhưng càng ngủ càng

mệt mỏi, tinh thần không tập trung, toàn thân mệt mỏi, càng tệ hơn nữa, đột nhiên có cảm

giác trống trải và cảm thấy thiếu mùi vị của cuộc sống. Ban ngày trì chú tịnh tọa, nhiếp niệm

đều bị mất hết, đến đây, tôi mới giật mình, bắt đầu hoang mang.

Tôi bèn nhanh chóng niệm “chú thỉnh thần”, đốt nhang trầm, và một vị “Kim Cang thần

đạo” đã đến, lúc đầu chỉ hiện tay áo giáp, sau đó mới hiện ra hình tướng, toàn thân màu vàng

sáng chói, thần kim cang chấp tay, khi hiện thân niệm một câu chú chơn ngôn của Kim Cang

Thủ Tát Đỏa: “Um Pô Ru Lản Chơ Li”, tôi hỏi: “Hàng phục kim cang”, tại sao tôi lại bị hiện

tượng này, thần kim cang nói với tôi: “Đó chính là “Tỳ- na-dạ-ca” trộm khí, nguyên khí bị

mất đi, toàn bộ tinh hoa của người tu hành đã cho hết “Tỳ-na-dạ-ca”. Người tu đạo mỗi ngày

bị mất đi công hạnh tinh hoa, khí càng ngày càng yếu, tinh thần không thể phấn chấn, và

không thể nào tu hành được”.

Tôi hỏi: “Làm sao để tránh ?”

“Hàng Phục Kim Cang” trả lời: “Trước khi ngủ, mặc quần áo sạch sẽ, rửa tay súc miệng

sạch sẽ, đứng ở trước giường, chấp tay cung kính, niệm 7 lần Kim Cang thủ Tát đỏa chơn

ngôn: “Um Pô Ru Lản Chơ Li”, sau đó dùng ngón giữa và ngón cái của tay phải tương giao,

và hướng ngón cái vào 4 góc của giường, cách một khoảng không mà búng ra. Làm như thế

thì có thể tránh được, tên gọi của pháp này là “Tránh ma Kim Cang đạn ”

“Đơn giản như vậy sao ? ” Tôi hình như không tin.

“Pháp tuy đơn giản, nhưng người thế gian không biết ” Hàng Phục Kim Cang nói xong,

chấp tay biến mất.

Thế là, mỗi khi trước lúc đi ngủ, tôi mặc quần áo sạch sẽ, rửa tay súc miệng sạch sẽ, đứng ở

trước giường, chấp tay cung kính, niệm 7 lần Kim Cang tát đỏa chơn ngôn : “Um Pô Ru Lản

Chơ Li”, dùng tay phải búng tay ở 4 góc giường, tôi dùng mắt linh để xem, nhìn thấy nơi tôi

búng tay có một luồng ánh sáng dâng lên, 4 điểm sáng này càng ngày càng lớn, và cùng hòa

vào nhau, hình thành một mảng ánh sáng lớn như tấm bình phong, như chiếc mùng vậy, rất

sáng và thật tại.

Đêm hôm đó, tôi trốn ở trong “chiếc mùng ánh sáng” đó, dùng mắt linh để nhìn bên ngoài,

đến giờ Sửu, nhìn thấy bên ngoài có một làn khói mù, trong khói mù đó có một vật, hình

tướng giống như tôi đã kể, nhưng khi nó đụng vào ánh sáng, khói mù bèn thoái lui ra ngoài,

không có cách nào đến gần tôi, nó lại đến gần một lần nữa, thì bèn lại phải lùi ra, cứ như thế

được vài lần, nó bèn tức giận bay ra cửa sổ đi mất.

Từ đó về sau, mỗi lần trước khi đi ngủ, tôi bèn dùng pháp “Tránh ma Kim Cang đạn”, mỗi

lần tu pháp này, thì khi đi ngủ sẽ không bị ma quấy nhiễu, có một giấc ngủ thật ngon, tinh

thần sảng khoái, tinh hoa tu hành sẽ không sợ bị “thiên ma trộm khí” trộm mất đi. Tôi phát

giác rất nhiều người tu hành, bị “Tỳ-na-dạ-ca” trộm khí rất nhiều. Cho nên người tu hành,

không những tu pháp chưa thành, trái lại thân thể yếu đuối, sắc mặt thất sắc, những người

này phần lớn là gặp phải “Tỳ-na-dạ-ca” trộm khí.

Hôm nay tôi viết về “Phục ma bình yêu truyện”, và truyền pháp “Tránh ma kim cang đạn”,

đó chính là thương xót mọi người, rất nhiều người bị ma đày đọa như thế, nhưng không ai

biết để phá giải, phương pháp tuy đơn giản, nhưng người thế gian không biết. Tôi viết ra như

vậy, tin rằng “Hàng Phục Kim Cang” sẽ không trách tôi mới đúng. Và còn “Ty- na-dạ-ca” sẽ

rất giận tôi Lư Thắng Ngạn, bởi vì tôi phá hoại công việc của nó.

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

05. Mật viết chữ phạn có thể trừ ma.

Tôi còn nhớ đã xem một bộ phim của Nhật, tên của bộ phim này là “Quái đàm”. Trong đó

có một cảnh, kể rằng có một hòa thượng mù có thể đàn ra tiếng nhạc rất hay. Đột nhiên vào

một đêm, có thị vệ của một tướng quân đến, mời ông đi đàn cho tướng quân nghe, và cứ như

thế vị sư phụ mù này, mỗi đêm ở phủ tướng quân gảy đàn.

Có một ngày, sư phụ mù gặp một vị cao tăng, vị cao tăng này vừa thấy hòa thượng mù,

giật mình, bởi vì ông nhìn thấy khắp mặt của vị hòa thượng này đầy âm khí, sẽ chết trong

ngày hôm đó.

Qua bí mật dọ thám, biết được vị tướng quân đó đã chết trong một trận hải chiến, và vị thị

vệ đến mời sư phụ mù đó đến đàn cũng là một âm hồn, những đám đông đến nghe sư phụ

đàn, đều là những chiến sĩ đã chết ở trận hải chiến, vị sư phụ mù đó được dẫn đến phủ tướng

quân, vốn là một bãi biển mênh mông.

Bởi do mỗi đêm đều đi ra ngoài bãi biển để đàn cho các âm hồn nghe, nên âm khí trong

người mỗi ngày mỗi nặng thêm, sẽ không còn sống lâu.

Thế là cao tăng và thị vệ âm hồn đấu pháp, cao tăng bèn viết chi chít chữ Phạn ở trên đầu

trên mặt chân của vị sư phụ mù đó. Đến lúc đêm khuya, âm hồn thị vệ đến, thấy chữ Phạn

trên toàn thân phát ra ánh sáng nên không dám động đến, chỉ nhìn thấy hai lỗ tai là quên

không viết chữ Phạn, thế là âm hồn thị vệ lấy đao đeo bên mình, cắt hai lỗ tai rồi bỏ đi. Đấy

cũng là nhân quả của sư phụ mù và mất hai tai nữa .

Tôi cũng đã từng trải qua truyện tựa như vậy:

Lúc đó là lúc tôi ở tòa nhà Quần Lạc, tại Đài Trung, những ngày tháng đó tôi đóng cửa

không tiếp khách, không gặp bất cứ một ai. Có một giám đốc ngân hàng loại trung đ ng, họ

Chu tên Thư Thông, có một đứa cháu nhỏ, họ Chu tên Duy Lương, bà nội của bé đặc biệt

thương nó, ông bà nội thường dẫn nuôi bé, từ nhỏ dẫn bé theo cho đến khi nó vào mẫu giáo.

Đột nhiên có một ngày, Chu Duy Lương bị sốt cao, đến sau cùng, không thể nói chuyện

được, hai mắt không thể mở ra, hai chân không thể đi được, toàn thân mềm nhũn, ngoại trừ

tim còn đập ra, thì toàn bộ như đã chết. Ông bà nội cuống cuồng, đưa bé đến bệnh viện ở tỉnh

Đài Trung, bác sĩ chẩn đoán là viêm não, và đồng thời xem tình hình, bác sĩ nói rằng không

còn cách cứu chữa, và từ chối cho nhập viện để điều trị.

Bà nội tin Phật rất thành kính, cầu Thần lạy Phật khắp nơi, bệnh tình vẫn không thay đổi.

Cho đến khi có một thầy bói quẻ nói với bà rằng, tại sao không tìm Lư Thắng Ngạn.

Hai vợ chồng Chu Thư Thông, vận dụng rất nhiều quan hệ, mời luôn cả cố vấn pháp luật

của tôi là Trần Hạnh Nga. Thế là tôi mở cửa, lúc đó vừa nhìn thấy bé Chu Duy Lương, tôi

liền thấy ngay một vòng áng sáng màu xanh lá mờ nhạt ở trên trán của bé, đó chính là ma ở

cõi A tu la đến nhập xác. Loại ma này phần dưới là hình chim, phần trên là hình người, có

hai sừng, một tay cầm chĩa sắt, thích lấy mạng trẻ em. Loại ma này gọi là “An la”, quyến

thuộc của nó đều là linh trẻ con.

Lúc đó trong lòng tôi nghĩ, đứa nhỏ này mạng lớn, nếu không qua thêm một tuần sau, ánh

sáng mờ màu xanh lá sẽ tràn khắp mặt, linh hồn nhập vào cõi A tu la, mãi mãi không được

siêu sinh, trở thành quyến thuộc của cõi ma màu xanh mờ lục.

Tôi cầm hương (nhang), quán tưởng chữ Phạn, cách một khoảng không trên thân mà viết

chữ “Thất Cu Chi Đại Minh Đà La Ni ” và vẽ khắp toàn thân Chu Duy Lương. Sau khi viết

xong, tôi lại vẽ tiếp 3 lá bùa tránh ma, để sau khi trở về nhà mỗi đêm đốt một lá bùa hòa với

nước mà uống, hoặc chỉ cần nhỏ chút vào miệng là có thể được.

Bà nội của Chu Duy Lương hỏi tôi: “Có khỏi bịnh không?” bà dùng cặp mắt cuống cuồng.

Tôi trả lời: “Sẽ khỏi, 3 ngày sau sẽ tỉnh”

Bệnh viện tỉnh Đài Trung đã từ chối điều trị cho đứa trẻ, đứa trẻ toàn thân mềm nhũn, đi cầu

xin thần khắp nơi mà nó vẫn không khỏi bệnh, mà tôi lại nói 3 ngày nữa sẽ khỏi, có phải là

quá liều không. Mọi người nghe nói 3 ngày sau sẽ khỏi bệnh, vui như muốn khóc, nhưng,

trong lòng họ vẫn còn nghi ngờ.

Đến buổi sáng ngày thứ 3, bà nội của Chu Duy Lương, nghe tiếng Chu Duy Lương mở

miệng kêu “bà nội”, bà nội của Chu Duy Lương mừng đến khóc, cảm động đến nỗi đi khắp

nơi mà nói rằng cháu của bà đã sống lại. Bác sĩ Trương của bệnh viện tỉnh Đài Trung biết

được chuyện này, nhanh chóng hỏi thăm làm thế nào mà khỏi bệnh, ông liên tục lắc đầu, cho

rằng đây là một kỳ tích, tôi đã nhận Chu Duy Lương làm học trò, trên mình của bé có đeo

bùa mà tôi tự chế.

“Mật viết chữ Phạn có thể trừ ma”, điều này không có gì kỳ lạ cả, bởi vì chữ Phạn Ấn Độ,

là khi thế giới mới hình thành, Đại Phạm Thiên Chủ từ trên trời xuống, chữ mà Đại Phạm

Thiên Chủ chỉ dạy, rất giống với bùa chú của Trung Quốc, nếu như là chữ của chú ngữ, thì

sẽ có thần lực rất lớn, cho nên có lực bất khả tư nghì. Tôi tu hành nghiên cứu chân ngôn

nhiều năm, biết rằng chú là tâm ấn thành Phật, cho nên dựa vào chú có thể cảm thông. Giống

như “Thần biến kinh sớ”, “Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Tự Tại Bồ tát tu hành nghi quỹ

kinh”, “Thất Cu Chi Đại Minh Đà La Ni Kinh” “Hoa Nghiêm sớ sao”, “Hiền Thủ Bát Nhã

tâm kinh sớ”…. Các chữ Phạn ở trong đó, đều có công dụng rất lớn. Như là tức tai, tăng ích,

kính ái, hàng phục, xuất thế gian, tôi đều vận dụng để chứng thánh quả.

Rất nhiều học trò của tôi, chỉ biết tôi có “phép”, nhưng không biết tôi dùng phép gì? Bây

giờ tôi dùng thời gian sau này, để viết ra cho rõ, không dấu nữa, ý giáo hóa của tôi là muốn

cho nhiều người biết, biết rằng có pháp “pháp môn giải thoát”, khiến cho chúng sinh có thể

được tự tại, diệt trừ phiền não đau khổ.

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

06 .“Chấp” là đại ma.

Phật pháp sở dĩ vĩ đại, là bởi do Phật pháp vô lượng vô biên, cũng tức là nói, Phật pháp

là không “chấp”. Có rất nhiều pháp môn, bất luận trái phải, hay là trên dưới, toàn bộ bao

gồm. Sự vĩ đại của tôn giáo này, có quan hệ rất nhiều với “không chấp”

Lúc còn nhỏ tôi là tín đồ Ki-Tô giáo (đã rửa tội), sau đó theo Phật, lãnh ngộ được chúa Ki

Tô vốn là một vị Bích Chi Phật (có tu trì, nhưng dùng một pháp khác), và đắc thành tựu đại

thần. Cõi trời của Chúa Giê Su và thượng đế Da-Hòa-Tô là một cõi của cõi trời thứ 33, Da-

Hoa-Tô là địa vị thượng đế.

Có một khoảng thời gian tôi cũng tu Đạo giáo, phát giác ra rằng giáo pháp mà Bà la môn

dùng cũng rất giống với Đạo giáo. Đồng thời giáo pháp của “Phật giáo nguyên thủy” và giáo

pháp Kim Cang Thừa, lại rất giống với Đạo thuật của nước ta như trừ bệnh tiêu tai, trường

sinh, tăng ích, thậm chí là cầu mưa, Long Vương, sấm sét, đại nhật, thái âm…. Tôi lãnh ngộ

được chú ngữ của Đạo giáo chúng ta đang dùng, cũng giống như là chơn ngôn của Phật giáo;

Bùa mà Đạo giáo dùng, cũng giống như chữ Phạn của Ấn Độ vậy.

“Hộ-ma”<hỏa cung> mà Mật tông dùng, chính là phạn hương của Đạo giáo.

Sau khi tôi đắc chứng “xuất thần”, có một lãnh ngộ rất sâu, đó chính là “hữu pháp giai

thông”. Cho nên tôi cho rằng Phật pháp là không “chấp”, phàm là chấp, phần lớn đều không

đến ngộ cảnh. Tôi viết một bài kệ chứng rằng:

Phật đạo cơ hiển ngày hôm nay,

Nếu không <chấp trước> hiểu chân như.

Nếu thường công kích cười ngươi si,

Cỏ cây hoa lá thể tiêu diêu.

Tôi xem Phật giáo như cây, xem Đạo giáo như hoa, xem Ki Tô giáo như cỏ. Bất cứ một

tôn giáo nào đều có phương pháp tu hành của tôn giáo đó, cũng có cảnh giới của riêng họ.

Chúng ta có thể nghiên cứu cảnh giới cao thấp đó, nhưng, không nên chấp vào mà hủy báng,

đây chính là cảm ngộ thù thắng của tôi ngày hôm nay.

Trong “Sách thông linh bí pháp”, có một bài viết “Đánh quỷ không siêu sinh”, viết về một

“Phi thiên thần ma”, thần ma này vốn là một vị cao tăng đời nhà Tống, ngày thường tụng

kinh, không làm ác, nhưng do tâm tính cô độc, cho nên mọc sừng, tai nhọn do thích nghe lời

nịnh, trên lưng có cánh là do tu hành có được. Thầy của tôi nói, có rất nhiều người đều như

vậy, ngoan cố, mà lại tự cao, rất chấp, sau này đều là đại ma đầu.

Tôi hỏi: “người tu hành , sao lại thành ma ?”

Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh trả lời: “Không những có mà còn có rất nhiều. Phàm những

người có tâm chấp rất nặng, không có cách dung hội bên trong và bên ngoài, không biết

được chánh lệch, chấp một mà không biết hai, rất có thể vào ma cảnh mà tự mình không biết.

Những người này là ở trong vỏ ốc xoắn làm đạo tràng, không biết bên ngoài có trời. Phàm là

lãnh ngộ càng cao, càng biết rằng gió không thể cản được nước, mây không thể ngăn được

mặt trăng. Cho nên Đạo giáo, Ki tô giáo vốn không phải là chướng ngại của Phật giáo, không

những không là chướng ngại, trái lại sẽ là người đến tự đến, người đi tự đi”.

Bởi vì có đoạn kinh lịch và lãnh ngộ thế, tôi lại nghĩ đến: Tại Đài Trung, lão cư sĩ Lý Bỉnh

Nam giảng giải kinh, ở Phật giáo liên xã và Từ Quang thư viện. Thời ấy tôi đi nghe Kinh đã

hơn mười năm trời rồi, địa điểm là bệnh viện Bồ-đề trong phòng khách kỷ niệm Thái Hư.

Nói thật tôi rất thích nghe cư sĩ Lý giải kinh, ngài giảng kinh rất tường tận và sâu thấu vào

nghĩa chính ý, một câu thường dùng nhiều thứ giải thích rõ rằng, công đức giảng kinh của

ngài lão cư sĩ, là vô cùng lớn. Có nhiều vị đại hòa thượng, những vị xuất gia có danh tiếng,

cũng đều khen ngợi và kính mến ngài lão cư sĩ Lý giảng kinh.

Nhưng lão cư sĩ Lý , trong những lúc giảng kinh, đối với những thần minh bên Đạo giáo

đặc biệt kì thị, ngài nói <Cửu Thiên Huyền Nữ là yểu nữ, nói: Mũ quang của Huyền Nữ,

cao tới cửu thiên, cũng không bằng Phật cao. Còn nói : <Diêu Trì Kim Mẫu chỉ là một thứ

thần thoại, ch ng là gì <Vương Mẫu Nương Nương , chỉ là ma nữ bám thân nhảy đầm thôi.

Đó là những gì tôi nghe xưa kia. Còn vị bác sĩ Trương Trinh Cơ tại đại học Bens bên Mỹ,

đã viết một sách gọi : < Phật Pháp là gì ? . Lý cư sĩ nói trước mặt tôi trách hắn rằng: Hắn là

quái gì ? Tôi còn muốn hỏi nó Phật Pháp là chi gì đây ?

Lý Bỉnh Nam lão cư sĩ không những trách chư thần trong Đạo giáo, mà vẫn trách nói

những tông trong Phật giáo, ngài tự xưng từng học qua Thiền tông tịnh tọa, rồi cố ý ngồi thế

như ếch kêu, < Qoa qoa > kêu lên hai tiếng, biểu thị Thiền tông tịnh tọa, như ếch kêu qoa

qoa không tác dụng chi đâu.

Thật sư tôi nghĩ rằng, Ngài Cửu Thiên Huyền Nữ là một trong các Pháp Chủ của Đạo

Giáo, địa vị rất sùng cao. Diêu Trì Kim Mẫu là một trưởng lão ở phía Tây phương của Đạo

Giáo, địa vị còn cao hơn Cửu Thiên Huyền Nữ nữa. Hai vị trên, không những là Thần tiên,

vả lại là Tiên Chủ lớn nhất. Chúng ta cư ngụ trong tam giới, Thượng Thiên Thành Hoàng và

Táo Thần, là trưởng quan trong giới nhân quả, ai nào không kính. Giờ nay nhiều người Phật

tử < chấp > rằng mình đều là tin lành chánh trong giới Phật giáo, tự xưng Phật là cao hơn tất

cả các thần, có thể không kính lễ các thần, những thứ pháp nghĩ và làm như thế, đều là

<Chấp . Tôi nhớ Ấn Quang Đại Sư từng nói : <Đối với thiên địa quỷ thần, Phật Bồ-tát, phải

biết kính quý . Nếu ta đối với những thần đạo cơ tầng cũng không biết kính trọng, hỏi ngươi

còn sao biết kính Phật đây ?

Lý Bỉnh Nam lão cư sĩ, cái gì cũng tốt, duy chỉ <Chấp không hay, ngài chỉ chấp vào Phật

Bồ-tát, chỉ trách thần đạo trong thiên hạ. Tuy biết Phật Bồ-tát cao bậc, thiên địa thần minh

cũng có thiên nhãn, lão cư sĩ tuy rằng công đức cao lớn, không biết pháp dung nạp hóa, tôi e

sợ tương lai ngài biến thành <Thiên ma thì tệ rồi. Cho đến thời nay, tôi vẫn nghĩ đến ngài,

muốn cứu tiếp ngài.

Tôi hy vọng Lý Bỉnh Nam lão cư sĩ, đừng nên trách thiên thần nữa. Về sau nếu ngài đạt

quả vị của Phật Bồ-tát, cũng không được dùng phương pháp này, mà trách nói thiên địa thần

minh, ngài nói đúng hay không ?

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

07. Ma ý thức khó chế phục nhất.

Tôi có một đứa học trò theo tôi học đạo, nó họ Lâm, hơn 40 tuổi. Có một đêm đột nhiên nó

đến tìm tôi, ấp úng kể cho tôi nghe một câu chuyện khiến cho tôi phải kinh ngạc, sự việc là

như thế này:

Nhà họ Lâm này, cung phụng một tượng Quán Thế Âm Bồ tát, tượng này không biết do

thợ nào khắc, khoảng 4 năm trước tượng này được thỉnh mua ở một cửa hàng, một năm trước

đây đã thỉnh người khai quang điểm nhãn, từ đó trở đi, sáng tối đốt hương. Khi anh Lâm

rảnh, cũng đốt hương (nhang) trầm, niệm Quán Thế Âm Bồ tát phẩm Phổ Môn, nó cũng có

thiện căn, quy y người xuất gia, cũng theo tôi học đạo. Nó còn độc thân, thề không cưới vợ.

Đột nhiên có một ngày, trò Lâm tụng xong Phẩm Phổ Môn, ngẩng đầu lên nhìn Bồ tát, đột

nhiên giật mình, bởi vì Bồ tát như người sống mà mỉm cười với nó. Gương mặt của Bồ tát

dường như rất tươi, áo mặc trên người như bay vậy. Còn nó cảm thấy như là bị choáng, như

bị thất thần.

Từ đó về sau, mỗi lần đốt hương (nhang), ý niệm vừa động, thì mắt của Bồ tát, long lanh

như nước nhìn về nó. Còn nó thì say mê trong mê ảo, cũng giống như nằm mộng mà không

thức giấc vậy. Mỗi lần nó ngẩng đầu nhìn Bồ tát, nó cảm thấy chân mày Bồ tát như đôi cánh,

cổ như tuyết trắng, áo thêu mặc như bay, khuôn mặt rất đẹp, ánh mắt nhìn trong veo như

nước vậy. Anh Lâm chỉ là phàm phu tục tử, nhất thời sinh ra tà niệm, như say như si.

Có một đêm, vào lúc nửa đêm, anh mơ thấy có một cô gái ẻo nẻo đi đến, ấy là ngài Quán

m Bồ-tát đến, Bồ-tát nói với nó: “Nhà ngươi nếu không chê tôi nghèo xấu, nguyện ta hãy

cùng chăn gối tối nay”. Anh Lâm không có cách cầm cự, nửa tỉnh nửa mê ngọt ngào trăng

mật với cô gái. Buổi sáng anh Lâm thức dậy, thì Bồ-tát đã mất tích, chỉ để lại nước nhầy,

chứng minh không phải là giấc mơ.

Từ đó về sau, Bồ-tát đó cách mỗi một đêm đi đến, tịnh phòng tu đạo thành tổ uyên ương.

Lúc đầu anh Lâm cảm thấy khoái lạc như thần tiên, nhưng sau cùng cảm thấy không phải.

Mỗi buổi sáng đều cảm thấy chóng mặt hoa mắt, xương cốt ê ẩm, ngáp liên tục, ngay cả ban

ngày cũng rất muốn ngủ.

Lâm cũng từng hỏi Bồ-tát : <Bồ-tát là Tây phương tam thánh, sao lại chịu phàm phu ?

Bồ-tát mỉm cười nói : <Không gì khác, chỉ duyên tiền thế mà thôi.

Đến sau cùng anh Lâm không còn chịu đựng được nữa, đến tìm tôi. Hỏi tôi chuyện này là

thế nào? Phải làm sao? Thế là, tôi nhanh chóng đến nhà nó, vừa bước vào Phật đường, tôi

nhìn bức tượng Quán Thế Âm Bồ tát, quả nhiên được điêu khắc rất đẹp. Tôi nói: “Anh đã bị

chấp vào tướng rồi, nếu chấp vào tướng sẽ chiêu ma ý thức, đây chính là anh tự tìm phiền

phức. Anh đã có tà niệm trước, ma tự đến nhập vào tượng”.

Anh Lâm rất hối hận, xấu hổ vô cùng.

Tôi dùng mắt âm, nhìn thấy cô gái đó còn ở đó.

Tôi hỏi: “Cô là ma ở nơi nào? Tại sao lại dám xưng là Quán Thế Âm Bồ tát”.

“Liên Sanh, chuyện này, ngươi đừng quản, cũng không được quản, tâm sinh thì tôi sinh,

tâm diệt thì tôi diệt, anh Lâm và tôi có duyên, tôi tự đến để chiều chuộng” ma nữ này quen

biết tôi, nhưng nó nói cũng có lý.

“Nó là học trò của tôi, tôi không quản, thì ai quản. Bây giờ tôi biết rồi, nếu như tôi phụng

thỉnh hộ pháp chư thiên, thì cô khó tránh được bị sét đánh, hôm nay cô hãy tự đi vậy! Tôi

không làm khó cô”.

“Không được” Con ma nữ dựng th ng chân mày lên: “Trừ phi anh Lâm thật sự tự tu thanh

tịnh”.

“Được thôi! Cô là ma ý thức, tôi không dành với cô, tôi sẽ hạ thủ từ anh Lâm”.

Tôi kêu anh Lâm đến nhà tôi, dạy nó pháp “Tam giải thoát môn”, đặt một chữ “Hum “ở

cửa phòng. Một chữ “Hum” khác thì để ở dưới giường, một chữ “Hum” khác thì đốt bỏ vào

trong nước và uống. Liên tiếp mấy đêm , con ma nữ đứng ở ngoài cổng mà kêu lên, ban đầu

là “dụ dỗ” sau đó là “mắng chửi”, dụ dỗ thì nhỏ nhẹ, mắng chửi thì chửi là tên phụ bạc, liên

tục 49 ngày, con ma nữ này mới biến mất dạng. Anh này lần này tự khống chế bản thân mình

đã thành công, bởi vì tôi nói với anh ấy, nếu như anh tự đi mở cổng, thì sẽ biểu hiện rằng anh

vẫn chưa quên sắc tướng, từ đó sẽ mất đi học căn cơ đạo căn. Cũng không cần phải đến cầu

tôi nữa. Và sau khi mất đi, chuyển sinh làm súc sinh, tôi cũng không có cách để giúp.

Sau đó, tôi đem tượng Quán Âm Bồ tát qua lửa sạch tịnh hóa, và khai quang điểm nhãn lại,

đem đến một chùa cúng dường. Tượng này tuy thiếu trang nghiêm, nhưng đẹp lạ quái tướng,

do tay của người thợ làm ra thôi, thợ nào thì ch ng ai biết. Mọi người không nên chấp vào

tướng, người tu đạo cũng không nên chấp vào tướng, tuy rằng thấy có tướng, cũng là vô

tướng, thân hình lộng lẫy, nếu như tâm không động, làm sao có thiên ma ?

Từ sự việc này, tôi viết một bài kệ :

Đêm khuya tịnh đài trăng sáng tròn,

Tâm động sinh ma ảo duyên đến.

Phá trừ chỉ cần điều tâm định.

Tu hành tiên đạo nước ngọt ngào.

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

08 Ma ý thức chính là tâm ma

Ma ý thức là gì vậy? Thật ra đó là ma dựa vào tâm mà sinh, chính là “tâm ma”. Phần lớn

loại mà này do tâm động niệm mà có, nếu như tâm không động, ma sẽ không có chỗ dựa vào,

tự nhiên sẽ bị trừ đi. Muốn tu đạo muốn phá tâm ma, có một bài thơ Tây Giang Nguyệt, nói

như vậy:

Phú quý ngũ căn xuân mộng,

Công danh một mảng phù vân.

Xương thịt trước mắt không phải thật,

Ân ái trái lại biến thành thù.

Đừng đem khóa vàng tròng vào cổ,

Đừng để khóa ngọc buộc vào thân.

Bốn chữ “thanh tâm quả dục” vốn là cơ sở để thành Phật tu tiên, nếu như không có cách nào

làm được, thì đừng nên làm người tu đạo, bởi vì người làm không được, sẽ làm mất mặt của

người tu đạo, tu thật không thành, sẽ trở thành người tu giả, một mảnh đất sạch sẽ, sẽ bị trở

thành ô uế. Nhưng nói qua nói lại, 4 chữ này đọc thì dễ, nhưng làm thật sự thì rất khó. Chính

bởi do rất khó, mới làm lộ ra cái đáng quý của người tu đạo, tu đạo vốn là lên trời, vốn là

một chuyện lớn đó.

Học trò của tôi đã bị ma ý thức, không chỉ có một đứa họ Lâm, mà còn có một đứa họ

Ngụy nữa, còn có một đứa họ Dư, nhưng mà đứa họ Ngụy và đứa họ Dư thì không bị nặng

như là đứa họ Lâm. Chúng nó kể với tôi như vậy, chúng nó đều rất thành kính hướng đạo,

sớm tối trì kinh chú. Có một thời gian khởi lên tạp niệm. Họ cũng thờ cúng Quan Thế Âm

Bồ tát, vô tình ngẩng đầu lên nhìn, tà niệm cảnh nhiên sinh ra, ý thức tà niệm này vừa sinh ra,

cảnh nhiên không có cách nào ngừng lại, miệng tuy niệm kinh chú, trong đầu cảnh nhiên

không suy nghĩ không được, muốn tập trung lại, nhưng không có cách nào tự khống chế.

Chúng nó cho rằng tình hình như vậy chỉ trong khoảng một ngày, nhưng sự thật không

phải như vậy, và ngày nào cũng đều như thế, không lạy Bồ tát, không niệm kinh chú, thì

không vọng tưởng. Vừa mới đốt nhang, thì lại tiếp tục niệm khởi lên, không có cách nào

khống chế, thế là họ bèn nghĩ cách khống chế tà niệm, nhưng vừa khống chế, thì lại càng tệ

hơn nữa. Sau đó không còn cách nào nữa, chỉ phải ngừng kinh chú không niệm nữa, và chỉ

có ngừng kinh chú không niệm, thì ma ý thức mới không sinh.

Chúng nó nói, ở trước mặt Bồ tát có một thứ dục niệm là không kính Bồ tát, nhưng ngừng

tu trì thì mất đi đạo tâm. Tu trì kinh chú không được, mà không tu trì thì cũng không được,

nên không biết phải làm thế nào, thế là chúng nó đến tìm tôi ?

Tôi nói chúng nó không phải vừa sinh ra là đã tu đạo, cho nên trước khi chưa tu đạo, đều sẽ

có một vào dục chướng. Chúng nó cũng không phải ở trên núi, cũng đã thấy rất nhiều đèn

màu xanh màu đỏ, cũng không thể ở trong nhà lá giữa suối rừng, cũng không thể ở trên núi,

thì khó tránh có niệm trần tục, cho nên có ý nghĩ tà, đó là chuyện bình thường, nếu như hoàn

toàn không có ý nghĩ tà, thì đã là thánh nhân, cho nên không cần phải xấu hổ, không cần phải

buồn. Quá trình “Tà niệm” là mỗi người tu đạo đều phải trải qua, đây là ma chướng, không

sai, nhưng đừng nên sợ hãi.

Tôi nói với chúng, “tà niệm” phải nên xem là “hiện tượng bình thường”, là bởi do người tu

đạo như tu thành mà có, không cần phải sợ hãi, phương pháp xử lý chỉ có 4 chữ: “mặc kệ nó

đi”, cứ thế mà tiếp tục tụng Kinh của mình, trì chú của mình, cứ để nó đi vậy. Không cần

phải xấu hổ, bởi vì đây là hiện tượng bình thường, lâu ngày, thì cái tưởng không mong muốn

này sẽ không còn mới nữa, lại không ngăn cản được tâm hướng Phật, nên từ từ sẽ phai nhạt

đi. Trì kinh chú, sinh ra tạp niệm, nếu như không khổ não, nhanh nhất là vài tháng, chậm

nhất là vài năm, từ tạp niệm sẽ từ từ phai nhạt đi, đến sau cùng tạp niệm sẽ không sinh nữa.

Kinh nghiệm của tôi là, càng muốn khống chế nó, thì sức phản kháng càng mạnh. Cứ mặc kệ

nó, niệm sẽ biến thành không niệm, cảnh giới này là “phá ma”.

Người tu đạo, chuyên tâm tu đạo, tốt nhất là nên tránh dục lợi, thì người tu đạo với tâm

không vững vàng sẽ không bị nhiễm sắc tướng, nếu trên bước đường tu, bị rơi vào trong ổ

danh lợi tửu sắc, thì vẫn bị rơi vào vòng xoáy. Việc này là không đúng. Người tu hành nếu

như bị danh lợi tửu sắc mê hoặc, thì cho dù sớm tối trì kinh cũng không tác dụng, cho nên tôi

nói với chúng nó: “thanh tịnh chính là tăng, không dục chính là thánh”.

Phương pháp của tôi chính là Lục tổ Huệ Năng nói với Tuệ Minh: “nếu như ông vì pháp

mà đến, thì có thể ngừng các duyên, đừng nên sinh một niệm, ta sẽ vì ông mà nói rõ”.

Rất lâu, Huệ Năng không nói một tiếng, Huệ Minh đại ngộ.

Huệ Năng nói: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, đó chính là bản lai diện mục của thượng

tọa”

Cho nên cứ mặc kệ tà niệm, thường giữ tâm thanh tịnh, lâu ngày, tự tánh vốn có sẽ từ từ

hiện ra.

Trong bài văn đại sám hối có nói như vậy:

“Tự tánh chúng sinh, vốn là thanh tịnh. Nhưng mà từ vô lượng đại kiếp, cho đến ngày hôm

nay, mê mất bản giác, trong đó có con, nếu như đã như thế, thường duyên của con, căn trần

hạo biên, thức âm trôi nổi, làm động tâm con, như là dòng điện xoay chuyển, thanh tịnh mắt

tai mũi lưỡi thân ý, một niệm bất giác, phiên tác lục sư, trộm pháp vương tài, cộng biên thấy

trộm, nếu đã làm trộm, phá Niết bàn thành, tàn hại pháp thân, đốt cháy tuệ mạng”.

Đây là thức tâm thanh tịnh của chúng sinh, tình hình bị ô nhiễm, khi học Phật học đạo, thì

ắt sẽ xuất hiện quấy nhiễu. Nếu như trừ đi, cứ mặc kệ nó, thì sẽ trời quang mây tạnh.

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

09 Pháp song thân nhập ma

Người tu trì Mật tông thường thích nói rằng: “Hiển pháp không hưng, thì Mật sẽ bắt đầu,

nội Mật ngoại Hiển”, còn theo tôi được biết, những người tu hành Mật tông, đã tăng lên rất

nhiều, đây chính là thời kỳ mạt pháp, là một hình thức rất mới.

Mật tông vốn có một phương pháp tu hành gọi là “pháp song thân”, cũng giống như “Càn

khôn hợp bao” của Đạo giáo vậy, cũng gần giống như một pháp tu hành của Hoàng Đế Tố

Nữ kinh vậy. Vốn là dùng gái đẹp làm tánh ma, khi hỏa thuần dương chưng thấu hết toàn

thân, luyện thành pháp tịnh tọa tham thiền không thể nào loạn và động được. Lúc này toàn

thân sảng khoái, giao thông với khí của trời đất, cảnh giống như ngộ cảnh của tham thiền vậy.

Nhưng, loại sảng khoái này, khác với phàm phu tục nữ.

Pháp song thân là ngồi đó, bất động không loạn.

Phàm phu tục nữ, vừa loạn vừa động.

“Pháp song thân” của Mật tông chính là “pháp vô thượng yoga”. Liên Hoa Sinh đại sĩ, Tổ

sư của Hồng giáo có truyền lại “tượng song thân”. Sau đó, có rất nhiều tăng lữ của Hồng

giáo tu “pháp song thân”, nhưng gần như toàn bộ đều tẩu hỏa nhập ma. Không phải là bất

động không loạn, mà là vừa loạn vừa động, bởi do tính khoái lạc của nam nữ, hình thành nên

biến tướng của yêu vọng. Thế là có vị tăng là Tôn Khách Ba của Hồng giáo, thay đổi mặc áo

cà sa vàng, tự xưng là Hoàng giáo, có 2 đệ tử đắc ý, chính là Đạt Lai Lạt Ma và Ban Thiền

Lạt Ma. Lúc này Tôn Khách Ba đổi tu “pháp song thân”, chuyển thành quán “tượng song

thân”.

Trong phái Mật tông, vốn có người cho rằng tu “pháp song thân” chính là tu pháp môn vô

thượng yoga, gọi mỹ nữ là “mẫu-đan-đặc-la” gọi tắt là “Phật mẫu”. Trong quán tưởng có thể

cùng bổn tôn hợp nhất mà tức thân thành Phật. Nhưng xưa kia nhiều Lạt ma bên Hồng Giáo,

lấy “pháp song thân” làm cớ, tạo thành tà phong hỗn loạn, sau đều nhập ma thành quái trạng

trong thời ấy.

Theo tác giả nghi biết, Bất Không Thành Tựu Như Lai, hòa ôm với Đa La Mã Cứu Độ Phật

Mẫu, Kim Cang Thử Bồ-tát với Khan Tê Mã Phật Mẫu ôm hợp, Trừ Cát Chướng Bồ-tát với

Ní Tê Mã Phật Mẫu, Bảo Sanh Như Lai với Phật Nhãn Phật Mẫu ôm nhau, A Sơ Như Lai

với Mã Mô Gi Phật Mẫu, Di Lạc Bồ-tát với Buo Be Mã Phật Mẫu ôm nhau.....các vị Phật

Bồ-tát đều có riêng biệt Phật Mẫu, đấy là “pháp song thân” của Mật Tông, chia phân thành

mỗi đôi tượng “Song thân” để quán tưởng tu hành.

Đạo gia cũng có loại phương pháp tu hành giống như vậy gọi là “lấy âm bổ dương”, may là

họ chưa đại loạn. Tạo hình của tượng Phật Mật tông, có rất nhiều “tượng song thân”, người

ngoài ngành đều gọi là “Phật hoan hỷ” hoặc là tham “hoan hỷ thiền”. Thật ra đó chính là

“Bất động không loạn” quán tưởng pháp song thân của Mật tông.

Vào thời đại mới ngày nay, vẫn kỵ nói về “pháp song thân”, pháp này vẫn không thể tu

được, bởi vì cô gái ngồi trong lòng, tay chân không loạn, từ thời cổ Trung Quốc chỉ có một

Liễu Hạ Huệ, còn toàn bộ bị ngồi trong lòng đều loạn cả, đây không phải là tôi nghe bậy,

người thế gian ngày hôm nay, căn cơ công phu không vững vàng, người đạt được công phu

thiền công không nhiều, trong hàng vạn ngàn người không tìm thấy được một người, không

có cách nào ngăn được dụ dỗ của “gái đẹp”. Không những ngồi trong lòng mà bị loạn, ngay

cả nhìn cũng bị loạn, nhất là làn sóng của bên Tây Âu thổi vào, các sách và điện ảnh tràn

khắp nơi. Đừng nói tu đạo, làm một con người bình phàm mà không loạn, đã là rất khó, bạn

không chạm vào cô gái, thì cô ấy sẽ đến chạm vào bạn, thật đúng là “bị sắc khí ép, dục

không còn đường trốn chạy”.

Người tu đạo mà tôi quen biết, có 2 vị tu “pháp song thân” nhập ma cảnh, một người ở

miền bắc, là cư sĩ, công phu tịnh tọa của người này rất thâm hậu, nhưng về già lại thất tiết,

nghe nói rằng tu “pháp song thân” đã mất đi chân dương, lưng đầu gối đau nhức, bây giờ bị

đủ thứ bệnh.

Ngoài ra có một vị ở Đài Nam, tên là sư phụ của Trần X Hoằng, cũng tu pháp song thân, tu

cùng với một cô đệ tử tương đối đẹp. Sau này cảnh nhiên có thai, thật là nực cười. Vốn là tu

pháp song thân thanh tịnh quán tưởng, là pháp yoga Đản-đặc-la pháp thanh tịnh, lại trở thành

vợ chồng, tu đạo như vậy, không những không trở thành thánh, trái lại đi vào trong núi, còn

không có cách hàng phục rồng hổ, lại bị hổ ăn thịt, bỏ mạng mất rồi! Cư sĩ Trần X Hoằng

dẫn cô gái đó đến tìm tôi, cô gái này đẹp như hoa, quả nhiên làm động người, bất cứ người

nào nhìn thấy, không ai không thần hồn điên đảo, khó trách người tu đạo bị ngồi trong lòng

mà không đại loạn.

“Sắc đẹp như miệng hổ, người tu không thể vào”.

Tôi không đồng ý “pháp song thân”, có 2 nguyên nhân :

Người bên ngoài nhìn vào, vốn không có cách hiểu được ý nghĩ sâu xa, sẽ dùng ý nghĩa thế

tục mà đoán mò “pháp song thân”, họ sẽ cho rằng vốn là thuật của tà ma ngoại đạo. Và còn

có những đệ tử với tâm bất chính, giả làm tu đạo, để hành tà dâm, đem đạo tràng vốn thanh

tịnh biến thành nơi vui chơi của dục nam nữ. Ví như tăng nhân của Hồng giáo đi đường sai

lối, mất đi chánh yếu. Vốn là pháp giới vô chướng ngại, lại toàn biến thành ma chướng.

Thiên ma dùng “sắc tướng” để dụ dỗ con người, Thích Ca Mâu Ni Phật đã ba lần bị 3 con

gái của Ma Vương dụ dỗ. Sắc tướng của thiên ma lợi hại như vậy. Những người tu hành trừ

phi có 6 căn thanh tịnh, nhưng 6 căn thanh tịnh, trong hàng vạn ngàn người khó tìm được

một người.

Tu “pháp song thân”, kết quả đều dễ nhập ma, đường này không nên đi.

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

10. Tôn giả “Mật-Lạc-Nhật-Ba” là ma sao?

Tôi có một người bạn thân học Mật tông ở Hong Kong, nó đã được quán đảnh ở Đài Loan,

làm giáo sư ở trường Hong Kong, nó tên là Cao An Dân. Nó nói về tình hình không hợp

nhau của Mật tông và Hiển tông, trong lòng rất buồn, nó viết cho tôi lá thư như sau:

Như anh nói, thượng sư của tôi phát triển rất nhanh, nên khiến cho hiển giáo bất an, điểm

này tôi đồng ý. Không những là thượng sư của tôi, những môn phái Mật tông khác cũng như

vậy. Rất ít pháp sư Hiển giáo hiểu được Mật tông. Học Hiển giáo phải trải qua 3 đại a tăng

kỳ kiếp mới thành Phật, còn Mật tông thì có thể tức thân thành Phật. Có thể pháp sư Hiển

giáo cho rằng không thể nào, làm gì mà có thể nhanh như vậy, còn Hiển giáo thì lại chậm

như vậy, thành Phật là không dễ dàng, không thể thành Phật nhanh như vậy.

Ôi! Tôi cảm thấy họ hiểu lầm rồi, Hiển giáo làm sao hiểu được, tâm ấn của Phật tổ, là chỉ

th ng tâm người, người người có thể thành Phật, chính là buông bỏ đồ đao xuống, thì lập tức

thành Phật. Mọi người đều có Phật tánh, có thể đốn ngộ, Phật tánh hiển hiện ra thì đã thành

Phật rồi, những người trong Hiển giáo có thể hiểu được đạo lý này, cũng có thể tức thân

thành Phật! Họ làm sao biết được, có một số người học Mật pháp, pháp sư luyện một đời

Mật pháp, cũng không thể “tức thân thành Phật”. Pháp của Phật tổ truyền lại, mọi pháp đều

bình đ ng, mỗi tông đều bình đ ng, không khác nhau, chỉ là con người dùng tâm phàm mà

phân biệt thôi. Vì vậy học Hiển học Mật, tu đạo học pháp, thành tựu nhanh hay chậm đều là

do tâm của con người, thành tâm và có tâm vững bền hay không mà thôi.

Lại nói tiếp, gần đây có một người vô danh, viết một quyển sách bình luận về Mật tông,

đọc một vài trang, đúng là giống như trong giới luật Bồ tát nói: “như 300 tên dao đâm tim”,

sách người này nói Mật pháp không tốt, hắn rất sùng Hiển giáo, nói rất nhiều điều không

đúng về “Mật lạc nhật ba tôn giả (Milarepa)”, nói ngài là ma, là ma đại vương ăn thịt, lại còn

uống rượu, phá giới luật của Phật. Tôi đọc xong rất đau lòng, không lẽ tác giả này không biết

ở Tây Tạng cỏ còn không thể mọc nhiều, nếu như muốn ăn chay, chỉ còn phải dành ăn cỏ với

dê bò mà thôi! Lại còn nếu như toàn bộ người Tây Tạng đều ăn cỏ, thì những con dê bò ở đó

sẽ chết đói hết sao, như thế thì có phải người Tây Tạng đã phá trọng giới thứ nhất là giới sát,

giới sát bao gồm: nguyên nhân giết, nghiệp giết, duyên giết….

Người Hiển giáo có từng nghĩ qua, rượu thịt xuyên qua bụng, Phật tổ lưu ở tâm, pháp Đại

thừa đều là như vậy. Tôi quán tưởng đều là chay, thì sẽ đều là chay, chay mặn đều là vật

ngoài thân.

Có một lần trong thư viện Phật giáo, có một bác sĩ của Hiển giáo, nói lời không đúng về

Mật giáo, ông ta nói với rất nhiều người: “Thiền tông là chánh tông, có truyền thừa chân

chính, từ Phật tổ truyền đến Bồ Đề Đạt Ma, từ Bồ Đề Đạt Ma truyền đến Lục tổ Huệ Năng,

Lục Tổ Huệ Năng truyền đến chúng ta, chúng ta mới là chánh tông”. Lại còn nói: “truyền

thừa của Mật tông là giả, là giả tạo, họ là những người nói dối, không có căn cứ gì hết”. Tiếp

theo còn nói: “Giữa hai chân mày của Phật tổ phóng hào quang, mới là chánh tông, Mật tông

mà phóng hào quang gì, không thể nào, quá khoe khoang”.

Nghe ông ấy nói, có một người trẻ tuổi cũng học mật tông, rất có tuệ nhãn, anh ta không lên

tiếng, chỉ mỉm cười. Sau này chúng tôi nói chuyện với nhau, mới biết anh ta là đệ tử truyền

thừa trực tiếp của Đại Bảo Pháp Vương. Chúng tôi cùng nhau nói với người quản lý thư viện:

“Quyển sách nói về “Mật Lạc Nhật Ba (Milarepa)” không có tên tác giả, không có nhà xuất

bản, hoàn toàn là một quyển sách nói bậy, không có ai chịu trách nhiệm, mà bất luận thế nào,

Mật pháp cũng là một trong 84 ngàn pháp môn do Phật tổ truyền lại. Phật tổ từng nói: Tất cả

chú ngữ quỷ thần đều không thể xem thường, đều là Như Lai hóa thân mà thuyết. Cho nên

hủy báng Mật pháp, cũng là hủy báng Tam Bảo, anh xem thế nào?” Người quản lý thư viện

suy nghĩ một lúc, bèn dẹp hết toàn bộ sách nói xấu về “Mật lạc nhật ba”, đúng là “A Di Đà

Phật”.

Lư sư huynh, anh là một người hiểu biết Phật pháp, đương nhiên cũng hiểu rõ tâm của sư

đệ. Đệ đồng ý với sư huynh như trong thư sư huynh gửi đến: “Mật pháp sau này, sẽ soi sáng

hết thế gian”. Cũng như Liên Hoa Sanh đại sĩ nói: “Chim sắt bay trên trời, Mật pháp sẽ thịnh

hành khắp thế gian”. Chim sắt chính là máy bay.

Thư này viết rất dài, tôi chỉ rút ngắn lại một vài chi tiết, và nói rõ thêm như sau:

Pháp tu của Mật giáo và Hiển giáo không giống nhau, nghi quỹ không giống nhau, cảnh

giới không giống nhau, nên sẽ sinh ra tranh chấp bài trừ lẫn nhau, nhưng mà, đó là hiện

tượng bình thường. Bản thân tôi chưa từng bài trừ Hiển giáo, tôi quy y với pháp sư Hiển giáo,

cũng không bài trừ Mật giáo, tôi cũng đã từng quán đảnh, cũng học Mật. Tôi, Lư Thắng

Ngạn đúng là có sở đắc, dung nạp chánh biến tri, đắc đại giác.

Tôi đọc qua “Truyện Mật lạc nhật ba”, tôn giả Mật-lạc-nhật-ba đích thật là một vị tôn giả

chứng đắc. Người chứng đắc cần phải ngộ mới chứng đắc. Như nhật sáng trí tuệ soi chiếu,

sáng khắp đại thiên, tự tánh tịnh thấu, thiện ác không nhiễm. Tôi tham ngộ chân đế, phi thiên

nhập thánh vực, cũng đã từng tham kiến tôn giả “Mật lạc nhật ba”, biết ngài đã chứng Bồ đề.

Những người phàm tục, không biết sự vĩ đại và tôn quý của Mật Pháp, nói ngài “Mật-Lạc-

Nhật-Ba” là vị ma vương. Nhưng tôi cảm thấy không sao cả, chứng đắc chính là chứng đắc,

kẻ nói bậy chính là nói Phật thành ma, Mật lạc nhật ba vẫn là một thánh nhân, sẽ không bị ba

hoa của trần tục, mà đột nhiên lại biến thành ma được.

Theo những gì tôi biết, cách tu của Hiển giáo và Mật giáo, phương pháp hình thức tuy

không giống nhau, mục đích cuối cùng đều là “thành Phật”. Nếu như mục đích đều là giống

nhau, thì nên khích lệ lẫn nhau, không phải tốt sao ? Cần gì phải lửa nước không hợp nhau.

Tôi thấy những người đó đều là con cháu của ma, “Tự cao tự đại”, cố ý bài bố trốn ở trong

tâm của người tu trì.

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

11. Viết về bắt ma.

Có một lần tịnh tọa, trước mắt hiện ra hàng vạn hào quang, nhưng trong hào quang có một

luồng khí đen xông lên trời, tôi bèn vận mắt để xem, thì ra đó là do ma “Ô-ma-lạc-già” đang

gây lên. Sau khi tôi xuất định, bấm tay để tín xem thế nào, tôi nói với vợ tôi “gần đây e rằng

có một chút phiền phức, phải thận trọng chú ý”.

2 ngày sau, vào một buổi sáng, có một bà là vợ của một họa sĩ ở Thảo Đôn, rất khẩn

trương mà gọi điện thoại cho tôi: “Thầy giáo Lư, hôm qua thầy có đến nhà tôi không?”

Tôi trả lời “Không có”.

Xin bạn đọc hãy chú ý, việc có đến nhà hay không, chính là chỉ nguyên thần (linh hồn) của

tôi, từ trước đến nay tôi đều có “pháp xuất thần”, thường hay xuất thần du hành, và vợ của

người họa sĩ đó, chính là hỏi về điều này.

Tôi tiếp tục hỏi: “Hôm qua tôi không có đi, có chuyện gì xảy ra vậy ?”

“Hôm qua, chồng của tôi nói thầy đến, nhập vào ông ấy mà viết chữ, quậy suốt đêm không

thể ngủ được, một chút thì nói đàng tây, một chút thì nói đàng đông, nếu như là thầy không

đến, vậy thì chắc chắn là ma nhập vào rồi”.

“Mau mau nhắc nhở ông ấy” tôi hồi hộp.

“Ông ấy nói là thầy giáo Lư nhập vào người ông mà viết chữ, nhưng tôi nhìn kỹ những

dòng chữ đó, không giống nét chữ của thầy, tôi nhắc nhở ông ấy, ông ấy không nghe, ông ấy

cho rằng là thầy đã đến, cũng có rất nhiều thần đến, xin thầy hãy mau đến cứu ông ấy, xin

hãy mau đến cứu ông ấy”.

Lần này, tôi thật sự nhập định, nguyên thần ở giữa hư không, rất nhanh mà bay về hướng

nam, đến Thảo Đôn, tôi vừa nhìn đã thấy ngay luồng khí đen, bay lên không trung, chính là

ma “Ô-ma-lạc-già”.

“Ô-ma-lạc-già chạy đường nào” tôi hét lên một tiếng

“Ô-ma-lạc-già” vốn là nhập vào người họa sĩ kia, vừa nghe tiếng tôi hét lên, ngẩng đầu nhìn,

nhìn thấy tôi, nhanh chóng rời khỏi thân của người họa sĩ đó, cũng bay lên không trung,

vòng về hướng bắc, lần này tôi không cho nó chạy, nguyên thần của tôi xoay một vòng ở

không trung, nhìn thấy thân thể của người họa sĩ đó mềm nhũn và từ từ tỉnh dậy, sau đó tôi

bèn đuổi theo ma nó.

“Ô-ma-lạc-già” chính là ma mặt đen, có bản lĩnh không kém gì “la sát”, là một trong

những ma ăn người, cũng chính là quỷ hút tinh khí, trong tim của mỗi con người đều có 7

giọt nước ngọt, dùng để điều dưỡng tinh thần tự tại, và “Ô-ma-lạc-già” sẽ nhập vào thân

người, hút lấy một giọt nước ngọt đó, khiến cho con người nhức đầu, nếu hút 3 giọt nước sẽ

khiến tinh thần con người rối loạn, nếu hút hết 7 giọt này thì con người sẽ chết.

“Ô-ma-lạc-già” thường ở hướng bắc, ngày thường bám vào cây cổ thụ lớn, có ma không hại

người, nhận sự cúng dường của người thế gian gọi là “ông đại thụ”.

Tôi rượt đuổi theo một khoảng, nhìn thấy có thể đã đến gần rồi.

Đột nhiên nó xoay một vòng, không nhìn thấy nữa.

Tôi quan sát kỹ xung quanh, ở bên cạnh con đường cao tốc, có một ngôi miếu nhỏ, ngôi

miếu nhỏ là một cây cổ thụ to có hình như chiếc ô (chiếc dù) lớn, như tàng lọng vậy, rất là

đẹp. Tôi cũng không lật mặt nó, bèn quay trở về.

Cách vài ngày sau, tôi kêu học trò của tôi lái xe chở tôi đến lại nơi ấy, tôi nói phải làm pháp

thế thân cho người ta, tôi đem lông tóc móng tay chân đào một cái lỗ ở dưới gốc cây và chôn

vào đó. Khi đến nơi điểm, xe quẹo quay vào, đã tìm được ngôi miếu nhỏ dưới gốc cây to kia,

học trò của tôi chỉ nhìn thấy “cây to lá xum xuê, không thấy bóng dáng hình đâu”, khi ấy tôi

cầm lấy đinh đồng, đi đến phía sau cây cổ thụ, đột nhiên đóng đinh vào “Đại thụ vương công,

ô-ma-lạc-già” kêu lên một tiếng, đột nhiên có một trận gió nổi lên, lá trên cây rơi xuống xào

xạc rất nhiều.

Học trò của tôi kêu lên: “Nhựa cây chảy ra rồi”

Đêm hôm đó, tôi mơ thấy đến một mảnh đất, gió mát rượi, mùi hương khác lạ bay vào mặt,

đang lúc thấy kỳ lạ, có một ông lão tóc trắng cầm cây gậy, đi một cách chậm rãi hướng đến

tôi, tôi đang muốn hỏi ông lão đó, nơi này là nơi nào, nhưng lại nhìn thấy ông lão đó buông

bỏ cây gậy, quỳ xuống, tôi gấp gáp, mau chóng đỡ ông ta đứng dậy, ông lão tóc bạc nói: “Ta

chính là ông thổ địa ở Hậu Lý, bởi do bị “Ô-ma-lạc-già” chiếm mất nhà, không có chỗ ở phải

lưu lạc. Hôm nay đột nhiên pháp sư đến, dùng đinh đồng đóng chết “Ô ma lạc già”, tôi mới

được trở về, nên hôm nay đến để quỳ lạy cám ơn!”

“A! Đừng nên như vậy, đó là trách nhiệm của con!”

Ông thổ địa đó, cám ơn rất nhiều lần, rồi mới từ từ biến thành một làn gió mà đi mất.

Người họa sĩ ở Thảo Đôn kia, chính là người họa sĩ, xưa đó được tổng thống Trưởng Kinh

Quốc triệu kiến, ông đã từng tặng cho tôi 2 bức tranh, thư pháp của ông cũng rất nổi tiếng.

ng đồ bói Bút-Sắt-Tử có tên là Chung XX cũng đến thăm ông ấy, nhưng, lúc đó người họa

sĩ đã tỉnh hoàn toàn, tốt rồi. Sau khi tỉnh lại người họa sĩ đó không hiểu gì cả, còn tôi thì

chưa nói gì hết.

“Ô-Ma-lạc-già” giả làm hình thân của tôi, nhập vào bói đồng hoặc là giáng linh để viết chữ,

không chỉ có một lần, theo tôi được biết, nó lấy tên giả Lư Thắng Ngạn, nhập vào để làm bói

đồng, để trộm tinh khí người ta tổng cộng đã hơn 30 lần, còn những lần tôi không biết thì

không biết đã bao nhiêu lần nữa. Những con ma mạo danh tôi, thật khiến cho tôi không thể

không đề phòng, ngoại trừ cảm thán ra, cần phải nhắc nhở những người tu đạo chú ý, đừng

nên bị lừa gạt.

Thật ra đều có thiên lý pháp lý hết, làm sao mà giả khờ giả điếc được, nếu tiên đạo tốt thì

ma đạo sẽ hư, khó tránh được thời gian để khảo nghiệm, trong vô hình thiện ác đều có báo

ứng, phải biệt rõ thật giả, chúng sanh cần phải dùng tâm phân biệt. Bói đồng nhập xác, tiên

thật thì ít, còn giả thì quá nhiều.

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

12. Ma tướng trong thiền định.

Có rất nhiều người trong khi đang tu pháp, có lúc là trong thiền định hay là trong giấc mơ,

sẽ xuất hiện ra nhiều tướng. Tôi có một đứa học trò, mỗi lần tịnh tọa, trước mắt nó xuất hiện

một mặt quỷ lồi mắt tóc đỏ nhìn chằm chằm vào nó, làm nó sợ đến nỗi toát mồ hôi lạnh, còn

có một lần nó suýt rơi từ trên ghế xuống đất.

Thân nó run lên mà chạy đến tìm tôi. Tôi nói với nó, nhìn thấy bất cứ tướng gì, không cần

là biết thiện tướng hay ác tướng, đều không nên sợ hãi, cứ tiếp tục ngồi mà trì chú, thì những

ảo tướng này sẽ biến mất. Nhưng mà đứa học trò này của tôi lại rất nhát gan, vừa nhìn thấy

mặt quỉ dữ tợn, bèn sợ hãi không dám tiếp tục nữa.

Sau cùng tôi nói với nó, hãy chuẩn bị một cây bút lông, mực và túi hút, cầm lấy cây bút

lông mà tịnh tọa, vừa nhìn thấy mặt quỉ thì hãy vẽ lên mặt của nó một nét, rồi hãy xem như

thế nào nhé. Nó làm theo, tay phải cầm lấy cây bút lông, vừa vẽ lên, thì lại vẽ lên tay trái của

mình, trên lòng bàn tay trái có 2 xx thật to.

Từ câu chuyện như vậy, tôi thỉnh thị Bồ tát.

Bồ tát trả lời rằng: “Đó là do kiếp trước tay trái tạo nghiệp ác, kiếp trước anh ta có tật ở tay

trái, vốn là tên chuyên giết mổ. Nhưng tâm lại hướng Phât, quy y pháp sư, xây chùa miếu, ấn

tống kinh sách. Vì thế kiếp này được thân cận thiện tri thức, học tập thiền định đạo công,

nhưng nghiệp sát ở tay trái chưa được trừ hết, nên vì vậy mà hiện ra mặt quỷ, để làm trở ngại

đạo tâm, đó cũng là oán nghiệp ràng buộc. Nếu như công phu trì chú đã đủ, oan nghiệp tiêu

tán, mặt quỷ sẽ tự đi”.

Tôi kể lại cho nó nghe chỉ thị của Phật Bồ tát, nó đột nhiên đại ngộ, nó nói: “Khó trách,

không chỉ nhìn thấy mặt quỷ, mà đồng thời nó còn ngửi được mùi tanh của máu, mỗi lần

trước khi nhìn thấy mặt quỷ, trước tiên nó nhìn thấy một bàn tay máu me lầm lìa, và cánh tay

đó sau cùng mới hóa thành mặt quỷ”. Sau khi nó lãnh ngộ, từ đó không còn sợ hãi nữa, nó

càng siêng năng trì chú hơn, dùng sức hết một năm, thì mặt quỷ biến mất không còn nhìn

thấy nữa.

Tình hình nhìn thấy tướng trong thiền định rất nhiều, ban đầu tôi học tịnh tọa, trông thấy

càng nhiều hơn. Mẹ tôi cũng học tịnh tọa, mỗi lần đều nhìn thấy thần khẩu (ý nghĩa là kêu

mẹ phải trì chú thật nhiều). Nếu như xuất hiện tướng dữ, thông thường là do cảm nhiễm của

nghiệp ma mà có, nên không sanh tâm nghi ngờ, không sợ hãi, thì nghiệp ma trước mắt tự

nhiên sẽ biến mất, cứ mặc kệ nó mà tiếp tục cố gắng tinh tấn, lâu ngày sẽ không nhìn thấy

tướng dữ nữa. Có người hỏi tôi, nếu như tinh tấn niệm tụng, không lười biếng, thì sao lại

xuất hiện tướng dữ? Tôi trả lời, mỗi một người thiền định, khi gần tiếp cận thành tựu, ắt sẽ

có chủng chủng chướng ma xuất hiện, chúng ta phải giữ tâm không sợ hãi, không chấp vào

tướng, thấy như chưa thấy, không bị nó quấy nhiễu, thì ma tướng sẽ tự mất.

Trong thiền định cũng có xuất hiện thiện tướng, ví dụ nhìn thấy Phật Bồ tát sáng chói trang

nghiêm, nhìn thấy thần tiên bay trên trời, nhìn thấy diệu cảnh của thế giới Tây Phương Cực

Lạc, nhìn thấy tiên nữ rải hoa, nghe diệu âm của Phật Bồ tát. Thậm chí nhìn thấy 3 đời nhân

quả của mình, cũng có cảm giác thân thể của mình trở thành to lớn, cũng giống như một

ngọn núi to đầu đội lấy trời; hoặc là lên núi tiên, ăn các loại trái cây thơm ngon, hoặc cảm

giác thân mình có thể bay qua biển, vào trong tiên cung, hoặc là ngồi ở trên hoa sen, khắp

mặt đất đều là hoa sen; hoặc nhìn thấy nhiều loại sáng chói, nuốt chủng chủng diệu quang

vào. Ngoài ra còn có người có cảm giác răng rụng tự mọc, tóc trắng thành đen, thân thể

không dơ, thân trong suốt sáng chói. Những loại hiện tượng này, đều là thiện tướng, biểu thị

rằng tội chướng từ vô thủy của bạn đã được tiêu diệt rồi.

Thiền định có tướng hung là ma nghiệp chưa trừ. Từ hiện tướng hung có thể tu đến hiện

tướng thiện, nếu như thiện tướng xuất hiện, sẽ biểu thị rằng “tội chướng vô thủy” đã được

tiêu trừ. Nhưng mà, nhìn thấy tướng thiện, thì cũng đều là hư ảo, không nên chấp vào nó,

không nên vì nhìn thấy hiện tướng tốt mà đi tịnh tọa thiền định, phải biết rằng không cần biết

là thiện tướng hay tướng dữ, thì đều là nghiệp duyên biến hóa, đừng nên chấp vào, đừng nên

khoe khoang, thì tự nhiên sẽ có cảnh giới cao hơn.

Có một số pháp sư, tu hành chưa đắc yếu quyết, chưa kinh nghiệm qua “nghiệm thành

hành tướng”, họ không nhìn thấy cái gì hết, thế là vừa nghe nói người ta nhìn thấy cái gì, họ

bèn kêu to “tẩu hỏa nhập ma”, là bị thiên ma quấy nhiễu, hò hét một trận nói người. Thật ra,

cái gì cũng không nhìn thấy là biểu thị chưa đến cảnh giới “nghiệm thành hành tướng”. Cũng

có thể pháp sư sẽ nói, cái tôi tu là “pháp vô tướng”, tất cả tướng đều là yêu dị, câu nói này

không sai, nhưng pháp vô tướng là quả của Vô Thượng Bồ Đề, cửu phẩm thành tựu là rất

khó, rất khó. Hôm nay tôi chính là từ hữu tướng tu đến vô tướng, tôi cho rằng “hữu tướng”

cũng là một pháp, xin các pháp sư đừng hủy báng “hữu tướng”.

Ban đầu khi tôi mới học chú ngữ, Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh nói, chú lực có lớn có bé,

tướng hiện ra sẽ không giống nhau, thầy muốn tôi hoàn toàn lãnh ngộ hết mới độ được các

chúng sinh ở thượng phẩm, trung phẩm, hạ phẩm. Vì thế mà những gì tôi tu học đó, là có các

thần chú của quỷ thần, cũng chính là “yết ma” chú ngôn, có các chú chư thiên, có kim cang

thần chú, thậm chí là chú của các Bồ tát, chú của chư Phật. Độ các chúng sinh thượng phẩm

có chú của chư Phật Bồ tát, độ trung phẩm dùng kim cang thần chú và chú chư thiên; độ

chúng sinh hạ phẩm dùng chú quỷ thần, khiến cho tất cả đều được thành tựu. Không thiếu

sốt.

Thầy giáo của tôi, Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh là tổ sư không hình không tướng, nhưng vì

để hiển hóa, hóa thân thành núi chín ngọn, lại phân làm 3 đường ánh sáng màu xanh lam

giáng xuống, tôi bèn vẽ lại hình ảnh đó, đăng ở trong sách “Linh tiên phi hồng pháp”, đó là

một trong những hình tướng trước kia tôi cất giấu kỹ không đem ra ngoài, loại thành tựu này,

không phải là tầm thường.

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

13. Thần ma tóc bạc cầu quy y

Trong tất cả các học trò của tôi, có một học trò, là vô hình. Bởi vì vô hình, cho nên không

phải là người cũng không phải là tiên. Nếu như không phải là người cũng không phải là tiên,

vậy thì là quỷ hoặc là ma. Câu chuyện tôi kể cũng được xem như là một duyên phận.

Thì ra trong một lần cử hành pháp hội siêu độ, tôi nhìn thấy có một người già tóc bạc bay

từ hướng đông nam đến, tư thế bay của người già này rất là đẹp, không giống loài quỷ chút

nào. Lúc đó trong lòng tôi hét lên: “Ôi! Thật là quá thần kỳ, quá đẹp”. Người già tóc bạc đó,

trong tay cầm một cây kiếm Thất Tinh, khi nó bay đến gần, tôi mới nhìn thấy khuôn mặt thật

là đáng sợ, khuôn mặt xanh, lộ nanh răng ra ngoài. Nó ngừng lại ở không trung một lát, nhìn

tôi kết thủ ấn ở trong pháp hội, sau đó mới từ từ bay đến, lúc này các loài quỷ thấy nó hung

ác dữ như vậy, bèn tránh đi hết.

Tôi hỏi người già tóc bạc đó: “Ông là thần ở nơi nào? Xin mời nhận lấy sự cúng dường của

tôi”.

Người già tóc bạc nói: “Liên Sanh, tôi là ma thần tóc bạc, lúc còn sống, tôi tu thanh sĩ Mật

tông, người ta gọi là Hoa giáo, quy y Salka Ba đại sư, tu Đại Viên Thắng Tuệ pháp, nhưng

do gấp gáp, nữa đường bèn bỏ. Sau khi chết đi, được xưng là thần tự chủ, hiện mộng lên cho

một nơi thần đàn, thần đàn bèn điêu khắc kim thân tôi để thờ cúng, nhận hương hỏa cúng

dường của nhân gian”

“A! Thì ra là cao nhân tiền bối” tôi nói

“Sau đó” Người già tóc bạc lại nói: “Tôi gặp một đạo sĩ, nói rằng tôi không đủ tư cách làm

thần, bèn niệm “chú cấm” vào kim thân của tôi, và bèn bỏ bừa bãi ở một tiệm điêu khắc,

không thể nhận sự cúng dường của người đời nữa”

“Bây giờ thì như thế nào?”

“Tôi đến cầu pháp sư, tìm kim thân của tôi, giải chú cấm cho tôi, tôi nguyện quy y Liên

Sanh thượng sư”, nói xong, bèn quỳ xuống, hướng về tôi mà lạy, tôi nhanh chóng đỡ nó dậy,

liên tục nói: “Không dám nhận, không dám nhận, tôi Liên sanh không công không hạnh,

không dám nhận, tôi đồng ý là được rồi”

Sau pháp hội, tôi cứ để mãi sự việc kỳ lạ này ở trong lòng, tìm một ngày rảnh rỗi để đi đến

tiệm điêu khắc. Tôi tìm rất lâu ở trên kệ trưng bày của tiệm điêu khắc, vẫn không thấy kim

thân của “thần ma tóc trắng” ở đâu, chỉ nhìn thấy những tượng rất phổ biến như Tế Công,

Huyền Thiên thượng đế, Quan Công, Quán Thế Âm Bồ tát, Thiên Thượng thánh mẫu, Na

Tra tam thái tử. Tôi hỏi thợ điêu khắc ở trong tiệm, họ lắc đầu nói “không có”. Hỏi chủ tiệm,

ngay cả chủ tiệm cũng nói không biết tượng thần đầu tóc trắng tay cầm thất tinh kiếm là thế

nào, và thế là tôi không biết phải làm thế nào.

Đang lúc không biết phải làm thế nào, thì bà chủ từ bên ngoài chợ về đến nhà, ông chủ bèn

hỏi bà. Bà ta suy nghĩ một lát rồi nói: “A! Có, 2 năm trước, có một đạo sĩ, đem một tượng

thần đến, và nói với chúng tôi cứ tùy ý mà xử lý, tôi đem tượng này bọc vào giấy báo, bỏ ở

nhà chứa đồ vật cũ ở trên lầu”. Thế là, tôi theo ông chủ lên lầu có phòng chứa đồ vật cũ, tìm

khoảng hơn 10 phút, từ trong đống thần tượng đã gẫy chân đứt tay đó, tìm ra được tượng,

quả nhiên đó là một bức tượng với đầu tóc bạc, tướng mạo rất hung dữ, mặt xanh lộ ranh

năng ra ngoài, tay phải thì cầm kiếm thất tinh. Thế là tôi cho giá thỉnh mua pho tượng đó,

đem về nhà, và khai quang điểm nhãn lại, giải trừ chú cấm, trong lòng rất vui mừng.

Đêm hôm đó, “thần ma tóc trắng” đến, và tiếp nhận quy y một lần nữa. Và thầy giáo này của

tôi lại phải hỏi ngược lại học trò :

“Thế nào là ma ?”

“Tu lệch pháp, chưa chánh ngộ, dị hành <hành vi lạ thường nên gọi là ma”.

“Thế nào là thần ?”

“Chỉ là quỷ thiện đó mà”.

“Thế nào là quỷ ?‟

“Con người chết đi là quỷ”.

Theo cách nói của thần ma tóc trắng, nếu như các thần tượng bị niệm chú cấm, thì sẽ không

được nhận sự cúng dường của nhân gian, trong một năm chỉ có một ngày có thể tự tay mà

bay, nó từ lâu đã biết lai lịch và quá khứ của tôi, thế là nó chọn vào ngày pháp hội, đến để

cầu xin tôi giải trừ chú cấm. Năm đầu tiên, nó tìm được một vị pháp sư khá nổi tiếng, cũng là

một pháp hội lớn, nhưng vị pháp sư đó, đầu mang mũ ngũ Phật, ngồi pháp tọa, lại là một

pháp sư giả danh, “Thần ma tóc bạc” vừa đến, vị pháp sư đó ch ng nghe và chưa thấy được,

mà lại đóng giả như thật, để lừa gạt người thế gian. Đại pháp sư này còn đi giảng nói khắp

nơi trong nước, thì ra là vị tục tăng đái giường nửa đêm.

“Thần ma tóc bạc” lại chờ đến thêm một năm nữa, rất tức giận, năm sau mới tìm đến tôi.

Tôi nhận lời yêu cầu của “thần ma tóc bạc”, tìm một ngôi chùa quen biết, nói rõ cho trụ trì

biết về lai lịch của tượng, yêu cầu trụ trì thờ cúng ở một nơi vắng vẻ, không để cho tăng ni

nhìn thấy tượng thần hung dữ này, để tránh thị phi phiền phức. Tôi vốn muốn thờ cúng bức

tượng đó, nhưng ngài nói không được, trên thế gian không có đạo lý nào mà thầy giáo thờ

cúng học trò.

Ngài nói: “Liên Sanh, ta nói thật với thầy, ta là ma”

Tôi nói: “Không sợ”

“Năm xưa, tôi tu Đại Viên Thắng Tuệ Pháp, do quá gấp gáp, dùng máu của mình cúng Phật,

bởi do cắt quá sâu, nên máu chảy không ngừng mà chết. Trong tâm lòng còn oán hận, cho

nên chưa hành thiện nghiệp, chuyên ăn máu dơ. Bây giờ, tôi gửi thân nơi Phật tự, theo Địa

Tạng Vương Bồ tát, mong rằng Bồ tát chỉ dẫn, thu lấy tâm ma, chuyển ma thành Phật, nhưng

thế có thể đắc chứng”

Tôi chúc phúc ngài, sớm ngày đắc chứng.

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

14. Thiên ma tâm pháp.

Khi tôi còn ở Đài Loan, bởi do là người đầu tiên sáng lập “Linh Tiên Tâm Pháp”, từ khởi

linh đắc cảm ứng tu hành, đã bị rất nhiều tông trưởng ở Đài Loan, hiểu lầm là ngoại đạo tà

giáo, có một số tông trưởng nói tôi là “Thiên ma chuyển kiếp”, cố ý tự lập tông phái, hỗn

loạn Phật đức. Nói tôi là tên đại thiên ma vương gạt thế, theo tôi học “Linh tiên tâm pháp”,

sẽ biến thành con cháu của ma mà bị tẩu hỏa nhập ma.

Tôi rất ít bàn cãi với những lời phê bình hủy báng đó, cũng không muốn đi giải thích, chỉ

là tôi đi trên con đường của tôi, tôi đi qua cây cầu của tôi, việc tu hành tự tại ở trong tâm tôi,

chưa từng can thiệp với người khác, tôi thực sự đã có những sở đắc. Nhìn lại các tông

trưởng, những ai có đắc chứng thì tự nhiên không thể nói rồi, mà những người bề ngoài giả

trang nghiêm, trong lòng thì lại dơ không giống ai, thử hỏi, thật sự khiến cho người ta cảm

thấy muốn nôn mửa. Dù cho người ta nói tôi là “Đại Thiên Ma gạt thế”, nhưng lấy quang

minh chánh đại của tôi đi so với những ai tự nói chánh phái mà “giả phật giả đạo”, “mặt

thiện tâm ác”, thì thời gian tới, sẽ chứng nghiệm được ai là giả Phật đạo.

Theo kinh nghiệm của tôi, bất cứ một tông một môn một pháp nào, đều có thành Phật, đều

có thành ma. Hiển giáo, Mật giáo, Đạo môn, tất cả đều như vậy, mỗi tông phái đều có cảnh

giới cuối cùng, mỗi tông phái đều có cửa trái, đều có tà chánh. Lấy Mật tông mà nói, Mật

tạng phân làm 4 giáo:

Thứ nhất là Hồng giáo - còn có tên là Cổ Mật, tổ sư là Liên Hoa Sanh Đại Sĩ, cảnh giới

cao nhất là “Đại Viên Mãn Pháp”.

Thứ hai là Bạch giáo - còn có tên là Kinh tông, tổ sư là Ma-Dĩ-Ba Đại Sư, cảnh giới cao

nhất là “Đại Thủ Ấn Pháp”.

Thứ ba là Hoàng giáo - còn gọi là Tân Mật tông, tổ sư là Tôn Khách Ba Đại Sư (vốn là

tăng nhân Hồng giáo), cảnh giới cao nhất là “Đại Uy Đức Kim Cang Pháp”.

Thứ tư là Hoa giáo – còn có tên là Thanh Sĩ Mật tông, tổ sư là Tát-Già-Ba Đại Sư, cảnh

giới cao nhất là “Đại Viên Thắng Tuệ Pháp”.

Trong bài văn nghi “Thần Ma Tóc Bạc”, là tu Hoa giáo “Đại Viên Thắng Tuệ pháp”, tu

chưa thành lại thành ma đạo. Bên Tây tạng còn có “Bon giáo”, là tên khác của Hắc giáo, họ

hành tà pháp, chuyên hại người, nên không liệt vào tôn giáo chính thức. Nay có ông Lâm x

Vân, giả xưng tự là người truyền thừa này, làm ra “Phong Thủy Mật Tông”? Gây lên hình

tượng loạn cuồng, phá quái đường chánh đạo, tôi đã nói lời mời ông đính chỉnh, giáo chánh

lại, mong ông sớm nhanh biết sửa, sám hối lại, tránh đi thọ địa ngục khổ hình phạt.

Theo cách nói của 10 pháp giới, Phật giới là quang minh sáng tỏ, tâm không bao giờ bị

nhiễm, đây là cảnh giới cao nhất, còn 10 thánh vị của Bồ-tát, thì tâm cũng vẫn còn chút ít

nhiễm trần, cũng chính là vô minh trần sa nghị kiến chưa đoạn tận. Nếu như nghị kiến và thư

kiến chưa hoàn toàn trừ đi hết, thì gọi là Tam hiền vị Bồ-tát. Nếu như với tâm lượng thông

thường không có cách đạt đến cứu cánh viên mãn, cũng có thể nhập vô dư niết bàn, và được

gọi là thanh văn, duyên giác. Thanh Văn cũng được gọi là A La Hán, tự mình liễu sinh tử,

không có độ chúng sinh, tâm lượng quá nhỏ, pháp chưa toàn viên. Trên ấy là cảnh giới tứ

thánh, chính là thành tựu của tâm.

Còn chuyên tu về thiện nghiệp, do thiện nghiệp công đức tạo thành ra quang minh, cảnh

giới đó chính là lạc cảnh của chư thiên. Và cảnh giới A-Tu-La thì là thiện nghiệp quang

minh rất sáng tỏ, nhưng tâm sân chưa được trừ đi, tranh đấu không ngừng, tạo nên cảnh giới

“có phước mà không có đức”. Thế giới của con người, thiện ác gần như không cách xa nhiều,

tỉ lệ thiện ác rất gần nhau, cho nên cõi người là một nửa thiện (50%) một nửa ác, là cảnh giới

đúng sai tham tạp, tuy nói rằng người thiện không ít, nhưng thế lực ác cũng rất lớn. Cõi giới

súc sinh được tạo nên do dục niệm rất mạnh, do dục mạnh nên trí thì lại ít. Cõi ngạ quỷ là

tâm sân quá nặng, lại không có cảnh giới thiện nghiệp. Còn đối với cảnh giới địa ngục, thì

không có thiện nghiệp gì cả, toàn bộ ánh sáng đều mất, chúng tạo nhiều ác nghiệp, là cảnh

giới chịu khổ chịu nạn. Phàm là 6 cảnh giới, đều là do vọng tâm tạo thành .

Nhưng mà, tâm pháp của thiên ma, cảnh giới thiên ma là ở đâu? Thiên ma tại sao lại trở

thành thiên ma? Thật ra thiên ma cũng là những vị đại đức, pháp sư, cư sĩ người tu hành các

pháp.* (họ tâm ý hận ác và nóng tánh như quân lính, tu hành nghiêm khắt, cũng có chứng

được quả vị cao, nhưng thiếu tâm từ bi và hạnh nguyện bồ-đề) Cảnh giới tuy chưa thể so

sánh cùng với Phật Bồ tát. Nhưng cảnh giới này tôi gọi là „Lệch Phật”, “Thứ Bồ-tát” “Ma

thiên”. Cảnh giới của thiên ma có thể cao gần với Phật Bồ tát chư thiên, cũng có thành tựu

không thường.

Cách sắp xếp của đạo Ki Tô là như sau: Da-Hòa-Hoa, chúa Giê Su, Thánh thần. Địa vị của

thánh thần cũng gần với Giê Su. Cùng với các thánh linh không phân cao thấp, thậm chí là ở

trên các thánh linh nữa.

Tôi phân chia bậc của Thiên Ma như đây: <Tự cao

- Họ thành tựu Phật pháp, nhưng còn ít chấp.

- Thứ Bồ-tát thiên ma---thành tựu đạo Bồ-tát, nhưng còn ít tâm phân biệt.

- Thành tựu chư thiên, nhưng còn ít chút không bình đ ng tâm.

Tôi kể cho tất cả mọi người nghe, tu hành của thiên ma, như <Lệch Phật không khác gì

với Phật, tu hành của thiên ma thứ Bồ tát cũng không khác gì với Bồ tát, Thiên ma cũng

thành tựu cái vui thú của chư thiên. Phật và ma chỉ khác nhau một tờ giấy mà thôi. Bất cứ

một cảnh giới nào, đều có ma tồn tại, cho nên tâm pháp của ma, cũng không phải là thấp, trái

lại tự thành một cảnh giới rất mới. Ma cũng là một trong những kẻ tu hành thành tựu, hoàn

toàn không nên khinh thường. Thiên ma muốn trở thành Phật, chỉ cần buông bỏ 3 tâm là:

“chấp”, “phân biệt” và “bất bình đ ng”, thì có thể từ lệch trở thành ngay. Nhân tu thành thiên

ma cũng có nhân duyên, thu 3 tâm xem ra thì dễ dàng, nhưng thật ra không đơn giản.

Có người cho rằng, thiên ma nhất định chuyên làm việc xấu, thật ra là sai. Thiên ma chỉ là

tu hành chưa trọn vẹn, viên mãn mà thôi, thậm chí là rất nhiều thiên ma cũng khuyên làm

thiện. Hôm nay tôi đem sự thật về thiên ma kể ra, e rằng các chư tôn trưởng, sẽ kinh ngạc, lại

bài trừ thiên ma nữa rồi.

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

15. Chiếc nón của Thành Hoàng tôn thần

Các bạn đọc ở trong nước đều biết, Lư Thắng Ngạn tinh thông Chu Dịch, mà cũng rất giỏi

về thần khoa, ban đêm nhìn sao thì biết được chuyện của thiên hạ, nhìn núi sông thì biết rõ

địa lý phong thủy, ngũ hành cửu tinh đều thuộc lòng, không những biết rõ họa phúc, mà còn

có thể cứu người đang nguy cấp, hiển hiện tiên pháp, độ vô số chúng sinh.

Có người cho rằng là tôi nói dóc, được thôi, nói dóc cũng được, hãy nghe tôi kể câu

chuyện có thật này trước đã:

Năm đó, tôi đang ở khu Nghi Hân của tỉnh Đài Trung, có một người đến từ Gia Nghĩa,

muốn tôi xem vận mạng, người này mở công ty xây dựng, tên là Vương X Phân, ông ta đến

cùng với vợ của ông ta.

Tôi nói: “Vận mạng của ông tôi không xem”.

“Tại sao? Có phải là xem không chính xác cái số mạng của tôi không”

“Không phải là không chính xác, mà là bởi do quá chính xác, cho nên tôi không xem”

“Là nghĩa gì vậy, tôi từ xa xôi đến đây, sáng sớm đã khởi hành, đồng thời chúng tôi cũng đã

ghi danh 2 tháng mới đến lượt chúng tôi, anh không xem, có phải là cố ý gây hận không”

người khách có vẻ tức giận.

“Vậy thì tôi chỉ phải nói thật, xin đừng trách móc”

“Hỏi chuyện xấu không hỏi chuyện lành, hoan hỷ nói thật, tôi không trách đâu”

Tôi viết một bài kệ lên tờ giấy, và đưa cho ông ta xem:

“Ma tai đã đến ngày,

Chén (bát) vỡ chủ thương vong,

Không đến 3 ngày trời,

Người thân tận ai thương”.

Ông ấy vừa xem, mờ mịt không hiểu được ý của bài thơ, hỏi tôi: “Tai nạn gì vậy?

“Tôi không dám nói, ông nhà 3 ngày sau ắt sẽ chết”

Tôi vừa nói, mặt của 2 vợ chồng biến sắc, những người xung quanh sợ hãi. Trước đây xem

bói, chỉ phán đoán khi nào sẽ giàu có, khi nào bị mất tiền, gia đình vợ chồng có viên mãn

hay không, hôn nhân có tốt hay không, có bao nhiêu đứa con, khi nào được làm quan to, sức

khỏe như thế nào. Không có ai giống tôi, vừa mở miệng ra là phán đoán 3 ngày sau ắt sẽ chết,

mà còn nói chắc như đinh đóng cột, mà lại nói rõ ngày, chính là 3 ngày sau, không do dự.

Vương X Phân nói với những người xung quanh: “Bà mẹ nó, tôi mạnh khỏe như vậy, 3

ngày sau ắt sẽ chết, tôi không tin, Lư Thắng Ngạn là cái gì, tôi thấy là đúng là một tên điên”.

Tôi cứ mặc kệ ông ta, tôi nói với bà vợ, 3 ngày sau, nếu như thật sự nguy cấp, thì hãy gọi

điện cho tôi, tôi sẽ chỉ cách giải cứu, nếu như không có cách giải của tôi, ắt sẽ phải chết.

Vương X Phân kéo bà vợ của ông đi, ngay cả chào ra về cũng không nói, chỉ nói một câu:

“Một tháng sau, tôi sẽ đến tìm anh”.

Tại sao tôi lại phán đoán rằng 3 ngày sau Vương X Phân ắt sẽ chết, bởi vì ông đã có ma

nhập vào thân xác ông, con ma đó ở vùng cổ, qua một ngày sẽ đến vùng tim, tiếp theo một

ngày sau sẽ đến “bụng”. Tôi linh thông với ma này, ma nói: Ma đến hại người cũng thuận

theo nghiệp, không phải là tùy tiện hại người.

Đúng 3 ngày sau vào lúc đang dùng bữa sáng, con gái của Vương X Phân là Vương X

Châu, ăn cơm không cẩn thận, đánh vỡ cái chén cơm. Vương X Phân tức giận, đánh con gái

gần như đến chết. Đến ban đêm, Vương X Phân hẹn bạn bè uống rượu, chuẩn bị qua giờ Tý.

Chính là ngày thứ 4, và tôi phán đoán như thế, là có sự sai biệt rồi. Khi vừa uống xong một

chầu rượu, Vương X Phân kêu đau bụng, đau rất là dữ dội, liên tục kêu to, đột nhiên nằm lăn

ra đất, sắc mặt chuyển sang trắng, không thấy tròng đen, môi tím tái, móng tay chuyển màu

xanh. Bạn bè nhanh chóng kêu bác sĩ đến, bác sĩ lắc đầu, khám không ra nguyên nhân, nhìn

thấy mạch càng ngày càng yếu, đưa đến bệnh viện, cũng đã hôn mê, chích thuốc trợ tim, vẫn

không cử động, một người khỏe như vậy, đột nhiên đau bụng, thì tay chân không còn cử

động được nữa.

Vợ của Vương X Phân thấy chồng như thế, đang rất nguy cấp, nhanh chóng gọi điện thoại

cho tôi, tôi nói: “Không cần phải hỏi nguyên nhân, hãy mau chóng đến miếu Thành Hoàng ở

Gia Nghĩa, đưa một ít tiền cho người quản lý ở đó, nói với Thành Hoàng rằng Lư Thắng

Ngạn muốn mượn chiếc nón để dùng, và lấy nón của Thành Hoàng xuống, rồi chụp 3 lần lên

đầu của chồng bà, như thế thì sẽ cứu được”. Bà vợ nghe xong lời dặn dò của tôi, nhanh

chóng làm theo, làm cho người quản lý và bác sĩ cảm thấy lạ lùng không hiểu gì cả. Sau khi

đội nón 3 lần, Vương X Phân đánh rắm liên tục 3 lần, thật ra ma không chịu đựng nổi nữa,

nên đi ra khỏi thân thể, sắc mặt của Vương X Phân tươi trở lại, nhịp tim đập bình thường, từ

từ tỉnh lại, xem như đã thoát khỏi cái chết, cứu được rồi.

Một tháng sau, vợ chồng của Vương X Phân lại đến Đài Trung, lần này không phải đến nói

chuyện hơn thua, mà là đến để cám ơn “Chiếc nón của Thành Hoàng có thể trừ ma”, chuyện

này không có ai nghĩ ra, Thành Hoàng ở Gia Nghĩa là cha nuôi của tôi, lúc còn nhỏ tôi khó

nuôi, nên đã cho Thành Hoàng làm con nuôi. Thành Hoàng ở Đài Trung là bạn thân của tôi,

khi tôi có chuyện cầu Thành Hoàng, thì ắt sẽ có cảm ứng. Thành Hoàng có phân biệt lớn nhỏ,

Thành Hoàng ở thủ đô là cao nhất, kế đến là Thành Hoàng đô, đến Thành Hoàng phủ, sau

cùng là Thành Hoàng huyện. Các Thành Hoàng đều là thần đạo, quản thổ địa 4 hướng, là

chánh thần của linh giới, hưởng hương hỏa của nhân gian.

“Chiếc nón của Thành Hoàng” là do có linh khí tụ vào, nên khi người bệnh vừa đội, thì ma

sẽ bỏ chạy.

Tôi đặc biệt nói rõ ở đây, các bạn đọc đừng nên tưởng rằng “Chiếc nón của Thành Hoàng”

có thể trừ ma. Do đó, mọi người muốn đi lấy trộm. Nếu như không có pháp sư chỉ, Thành

Hoàng không chịu gật đầu, thì sẽ không có tác dụng. Xin hãy chú ý, không phải là cứ người

bệnh nào đội lên đầu 3 lần thì sẽ đều hết bệnh. Tôi biết rằng nếu tôi không nói rõ ở đây, thì

toàn bộ những chiếc nón của Thành Hoàng ở Đài Loan, sẽ không cánh mà bay mất. Còn tôi

thì sẽ bị đầu trâu mặt ngựa rượt đuổi, thần Thành Hoàng sẽ mắng tôi “Có lợi ích rồi còn khoe

khoang, không đáng làm bạn”.

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

16. Nón ngũ Phật phá ma

Đang viết về “Chiếc nón của Thành Hoàng”, đột nhiên mũi ngửi được một mùi hương

thơm, trong lòng thấy rất cảm động. Trước mắt, xuất hiện một hào quang, nhìn thấy có 5 đóa

hoa sen bay đến, dưới áng mây màu tím hồng, có đóa hoa sáng trắng như tuyết, nhấp nháy

chiếu sáng như quả cầu, có hoa như quả châu, đúng là tiên Phật cưỡi mây ra vào, người

phàm trần hiếm khi nhìn thấy được.

Thì ra hiện màu trắng là Đông phương Bất Động Phật, tay cầm chày kim cang. Hiện ánh

sáng màu vàng là Nam phương Bảo Sanh Phật, tay cầm châu ma ni (ngọc như ý). Hiện ánh

sáng màu đỏ là Tây phương A Di Đà (Amitabha) Phật, tay cầm hoa sen diệu sắc. Hiện ánh

sáng màu xanh lá là Bắc phương Bất Không Phật, còn có tên là Bất Không Thành Tựu Phật,

thủ luân giao nhau. Hiện ánh sáng màu xanh lam là Trung ương Tỳ Lô Giá Na Phật, hóa

thiên phúc luân thủ. 5 vị Phật mỗi vị đều ngồi trên hoa sen, hiện ở không trung, hào quang

vạn tuyến, thụy khí ngàn dây, chiếu sáng thù thắng.

Tôi nhanh chóng chấp tay cung kính lễ Phật, trong lòng thầm cầu nguyện: “Hôm nay nhìn

thấy 5 vị Phật hiện lên đầy đủ, cảm thán cho cái khổ của thiên đạo tuần hoàn. Thời gian như

tên bay, đời người ở thế gian này, có cái gì mà không dám làm. Tất cả là vì muốn tranh

quyền đoạt lợi sao? Là vì tham ăn và háo sắc? Sự khoái lạc này có vĩnh hằng được sao? Thôi

thì con niệm Phật tu tâm, thiền tịnh, học pháp phục ma, văn chương thế gian rộng lớn không

bờ bến. Những người thế gian cho rằng con mê tín ngu si, thật ra họ làm sao hiểu được con

và trời đất hợp nhất”.

Và 5 vị Phật, mỗi vị cho 4 chữ ở không trung. Tôi nhìn thấy là:

1- “Khoan dung nhẫn nhịn”,

2- “Liêm chính không tham”

3- “Động tịnh siêng tu”

4- ”Cứu tai dẹp nạn”,

5- “Oan xấu thoát trừ”

Sau khi chữ hiện ra, đột nhiên không nhìn thấy 5 vị Phật nữa, chỉ ngửi được mùi thơm.

Theo những gì tôi biết, 5 vị Phật này chính là 5 vị Phật trên nón của pháp sư đội khi làm

pháp. Mỗi lần trước khi làm pháp, thì cần phải chay giới thanh tịnh, phụng thỉnh 5 vị Phật.

Bởi do 5 vị Phật có oai thần lực rất lớn, cho nên nón ngũ Phật có lực hàng phục ma. Khi

pháp sư đội nón ngũ Phật, tượng trưng cho 5 vị Như lai đều ở đỉnh đầu, lệnh của pháp sư

thay thế cho pháp tướng và pháp lực, trang nghiêm và đầy đủ oai lực. Lúc này làm pháp, có

thể lợi cho quần sinh ở thiên hạ, diễn giáo biện tài vô ngại.

Tôi biết rằng pháp sư chân tu ngộ đạo, chỉ cần nhiếp 5 vị Phật vào nón, thì nón của ngũ

phương Phật cũng như “Chiếc nón của Thành Hoàng” vậy, có thể hàng phục ma. Nếu như là

tu giả và chưa ngộ đạo, cũng đội nón ngũ phương Phật, thì đội chiếc nón vào cũng như diễn

viên hát kịch vậy, chỉ biểu diễn kịch mà thôi. Ngũ phương Phật ở trên chiếc nón đó không có

công dụng. Không thỉnh được ngũ phương Phật, tục tăng làm pháp như diễn kịch, làm sao

trừ được ma, phá được ma. Cho nên muốn phá ma, thỉnh nón ngũ phương Phật đội lên 3 lần,

xem có linh hay không?

Phải biết rằng oai lực của ngũ phương Phật không phải là nhỏ, mỗi vị Phật đều có nhiều vị

Bồ tát làm quyến thuộc. Ví dụ như Bất Động Phật, xung quanh là Kim Cang Tát Đỏa Bồ tát,

Kim Cang Thiện Tai Bồ tát, Kim Cang Vương Bồ Tát, Kim Cang Ái Bồ tát. Xung quanh của

Bảo Sanh Phật là Kim Cang Bảo Bồ tát, Kim Cang Uy Bồ tát, Kim Cang Lọng Bồ tát, Kim

Cang Quyến Bồ tát. Xung quanh A Di Đà Phật là Kim Cang Pháp Bồ tát, Kim Cang Kiếm

Bố tát, Kim Cang Nhân Bồ tát, Kim Cang Lợi Bồ tát. Xung quanh Thành Tựu Phật là Kim

Cang Hí Bồ tát, Kim Cang Ngữ Bồ tát, Kim Cang Phụng Bồ tát, Kim Cang Dược Xoa Bồ tát.

Xung quanh Tỳ Lô Giá Na Phật là Kim Cang Ba La Mật Bồ tát, Kim Cang Bảo Ba La Mật

Bồ tát, Kim Cang Pháp Ba La Mật Bồ tát, Kim Cang Yết Ba La Mật Bồ tát.

Đương nhiên ngũ phương Phật và 20 vị Kim Cang Đại Bồ tát, vẫn còn có nhiều Bồ tát lớn

làm quyến thuộc, Tứ nhiếp Bồ tát và Bát cúng Bồ tát, càng biến trăm hình, đầy tràn hư

không, pháp lực vô biên.

Đến ngày hôm nay, tôi cũng không dám đội nón ngũ phương Phật, chủ yếu là tôi tu tại gia,

vẫn chưa xuất gia. Tuy rằng tôi đã có đất rồi, nhưng tịnh xá vẫn chưa hoàn thành, cho nên tôi

không dám đội. Linh Tiên tịnh xá của tôi sẽ xây ở Washington, địa lý của Linh Tiên tịnh xá

là do tôi chọn, trước mặt có một cái hồ to, có một ngọn núi nguy nga, có những ngọn đồi

cong cong nhô lên, là một thủy tinh long tươi sáng linh động, những lá cây trên núi xanh

mướt, và dưới ngọn núi là mặt hồ như hình mặt trăng. Cái hồ này rất đẹp, rất trong xanh. Ở

hai bên trái phải của mảnh đất này, có hộ sa ẩn hình, khi chưa xây cất tịnh xá, là những ngọn

cỏ râu rồng xanh mướt, có rất nhiều con ngựa đến đây ăn cỏ. Trên mảnh đất này, có 3 cây

tùng thật to, tương lai sẽ có ra 3 người nổi tiếng lộng danh trên thế giới.

Tôi cho rằng mảnh đất này kỳ lạ nhiều hơn với núi Thiên Đài Sơn, thần kỳ hơn núi Vũ Di

Sơn, sống động hơn núi Cửu Hoa Sơn, đẹp hơn núi Nga Mi Sơn, oai hơn núi Võ Đang Sơn,

hùng vĩ hơn núi Thái Sơn, xanh hơn núi La Phù sơn. Tôi tuy rằng chưa đến những ngọn núi

trên, nhưng thần thức của tôi đã đến được vài lần. “Lôi Môn Linh Tiên” của tôi cũng không

kém. Là cảnh mà không nơi nào có thể sánh bằng, là mảnh đất đứng đầu của nước Mỹ. Tôi

viết như thế này: “Cưỡi Hạc xưng thần phẩm, Linh Tiên đệ nhất gia”. Tất cả hàng vạn tinh

anh đều ẩn thân ở nơi này, tôi mong rằng sau khi đến mảnh đất này tu hành, thì đầu có thể

đội nón ngũ Phật kia. Ngũ phương Phật ban cho Liên Sanh đại trí quán đảnh, khiến cho đạo

tâm tôi mãi mãi kiên cố.

Ngũ phương Phật hiện ra kim thân để cho tôi nhìn thấy. Tôi cũng biết lực hàng phục ma

của Ngũ phương Phật.

Tôi viết bài kệ như sau:

Ngũ phương Phật thân hiện hào quang châu.

Mây tường đài sen pháp thù thắng;

Hàng ma nhờ vào Kim Cang lực.

Lôi môn linh tiên truyền chơn sách.

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

17. Lửa đốt ma mê

Năm đó, tôi còn ở khu nhà Lạc Quần tại Đài Trung, có một cô gái đến gặp tôi, và cả nhà cô

gái trẻ tuổi này cũng đến cùng với cô ta. Cô gái này đi th ng đến trước mặt tôi, có vẻ rất kỳ

lạ, ánh mắt nhìn có vẻ tà, tay phải đưa ra, bàn tay nắm chặt, và từ từ xoay xoay xoay, cũng

giống như là đang xay gạo vậy, trong miệng lầm bầm đọc thơ.

Tôi hỏi người nhà đi theo cô gái, chuyện gì xảy ra với cô ta vậy. Họ nói với tôi rằng, có một

lần cô gái trẻ đó đến miếu xem bói đồng, nhân lúc bói đồng nghỉ tay, nhất thời hiếu kỳ cô

cầm cây bút lên (cây bút được làm bằng gỗ cây đào), không ngờ cây bút đột nhiên cử động,

liên tục viết ra nhiều bài thơ.

Những người trong miếu đều sợ hãi, cho rằng cô gái này có tuệ căn, thế là mời cô đến miếu

để làm bói đồng. Tuần đầu tiên, không có gì khác lạ. Cho đến có một ngày, có một thần

giáng xuống, cô gái trẻ này hỏi thần: “Con phải làm sao trả ơn cho thần thánh?”. Không ngờ

thần trả lời rằng: “Muốn lấy cô làm vợ”.

Những người ngồi cạnh ghi lại, nhìn thấy mà giật mình, thần thánh “lệch lạc” như vậy, làm

cho bọn họ đều mở to mắt và đứng hết về một bên. Nhưng mà cô gái trẻ đó lại không để ý,

cho rằng thần thánh đùa giỡn với cô. Khoảng chừng 2 ngày sau, cô gái đột nhiên ngửi được

một mùi hương, và thần kinh không được rõ ràng nữa. Ban đêm, cô gái ngủ cảm thấy tự

mình xuất thần, một lúc thì lên mây, một lúc thì cưỡi mây, một lúc thì thấy có người ngủ bên

cạnh....

Mỗi lần cô ta ngửi được mùi hương, thường đưa tay phải ra, như đang lên đồng vậy, trong

miệng lầm bầm niệm một vài chú ngữ mà người ta nghe không hiểu. Người nhà kể lại với

những người trong miếu rằng “Thần thánh đang dạy bói”. Nhưng tình hình càng ngày càng

nghiêm trọng, cô gái đột nhiên không ăn không ngủ, cứ luôn nói rằng thần thánh sẽ cưới cô

ta và sẽ đi cùng với thần. Lúc này, người nhà mới biết rằng cô gái đã bị bệnh thần kinh, sắc

mặt gầy và vàng, xung quanh cặp mắt tím xanh. Họ nhanh chóng đưa cô ta đến bệnh viện

tâm thần để điều trị, nhưng càng điều trị thì bệnh càng nặng, chỉ biết đánh người. Họ cũng đi

hỏi rất nhiều thần, đều nói rằng là do nhân quả, đã uống không ít bùa, nhưng vẫn chưa hết.

Lúc này, cô gái vẫn đưa tay phải ra như đang xay gạo, mắt vẫn rất tà, miệng thì vẫn lầm

bầm. Đột nhiên, cô ta nói với tôi: “Lư đại sư, ông tác thành cho chúng tôi”.

“Ai đang đến vậy?”

“Ta không phải là người, ta là thần, ta là Tân nguyên soái, tọa tiền ở Ngọc Hoàng đại đế”

Cô gái trẻ đó nói với giọng nói của người nam.

“Nói bậy, nếu là Tân nguyên soái, thì là thần chính trực, làm gì mà lén cưới con gái phàm

trần, tôi không tin là Tân nguyên soái. Hãy rời khỏi thân người con gái này đi, thì ta sẽ bỏ

qua hết, nếu không rời khỏi cô gái này, ta sẽ dùng phép để trị”

“Ông có phép gì? Dám phá hoại chúng tôi” Cô gái đó lên giọng và cánh tay phải vẫn

không ngừng xoay.

“Hãy ngừng cánh tay ở trước mặt tôi, đừng nên giả vờ nữa” tôi hét to.

Cô gái trẻ đó quả nhiên nghe lời, ngừng tay lại, nhưng hai con mắt như nảy lửa

“Tôi dùng phép của tôi, hãy nghe kỹ, ta sẽ dùng phục ma hộ ma pháp, dùng lư hương hộ ma

của tôi và gỗ phục ma để trị”

“Ngươi dùng gỗ gì?”

“Dùng khổ mộc, dùng rễ của cây Mã Hoàng”

Tên Tân nguyên soái giả này, vừa nghe “rễ của cây Mã Hoàng” thì toàn thân run lên,

lắc lư như muốn ngã xuống, nhìn thấy cô gái đó chắp tay lạy, nói: “Hôm nay mới thấy minh

sư, ta phục rồi, giữa chúng tôi không có can thiệp gì với nhau cả, ta đi thôi”. Tên Tân nguyên

soái giả vừa đi, thì chân của cô gái đó mềm nhũn, ngủ ở trên ghế sa lon, uống nước xong,

được người nhà dìu về. Nghe nói từ đó về sau, cô gái đã khỏi h n, thật là may mắn.

Phép hộ ma này, vốn là phương pháp của Mật tông, là phương pháp dùng gỗ hộ ma để ở

trong lư hương đốt. Lửa đại biểu cho pháp lực, sáng quang minh của Phật, trí tuệ. Gỗ cây đại

biểu cho phiền não, khổ nạn, ma. Hỏa tịnh Pháp hộ ma, tác dụng không giống nhau, cho nên

gỗ được đốt cũng không giống nhau, như Tăng ích thì dùng gỗ Quả cây, Kính ái dùng gỗ

Hoa, Câu triệu dùng gỗ Gai, Hàng phục dùng gỗ Khổ mộc. Thầy của tôi khi truyền pháp cho

tôi, đã từng nói với tôi, muốn hàng phục, không thể không dùng gỗ Mã Hoàng, đốt rễ cây Mã

Hoàng ở trong lư hương, vừa trì chú, vừa đọc tên họ của đối phương, ma sẽ bị lửa pháp đốt,

trở thành cháy đen mà chết.

Tôi đã từng dùng phép này, trị 3 vị ma mê. Chúng nó đều ở trong lư hương của tôi kêu “chít

chít” không ngừng, đến sau cùng đều hóa thành tro bụi, trở thành một đống tro đen. Vì thế

khi con ma mê vừa nhập vào xác cô gái trẻ này, vừa nghe nói là “rễ cây Mã Hoàng”, hiểu

chuyện nên nhanh chóng mà bỏ đi ngay.

Tôi cảm thấy con ma mê này rất thông minh, thông thường mà nói, có rất nhiều ma cố chấp

không sợ chết, luôn luôn phải động tay để phân cao thấp, thì chúng mới biết mà rút lui.

Nhưng “rễ cây Mã Hoàng” cũng chỉ thích hợp để trị ma mê mà thôi. Nếu như ma thiên cao

hơn, vẫn không có cách trị nó.

Còn đối với Tân nguyên soái, đích thật là đại tướng ngự tiền của Ngọc Hoàng đại thiên tôn,

cùng với họ Đặng, Tân, Triệu, Trương - tất cả là 4 vị đại nguyên soái, khi phụng thỉnh thì

cần phải <bước cương đạp đẩu>, niệm chú vẽ bùa. Khi tôi còn học pháp, cũng đã từng phụng

thỉnh, tên Tân nguyên soái giả đó muốn qua pháp nhãn của tôi, thì còn quá sớm!

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

18. Chủng chủng ma mê.

Giữa trời đất, ma mê có ở mọi nơi, tôi đọc sách, được 4 bài Tây Giang Nguyệt như sau:

Bình Đế tang thân do rượu độc, bờ sông Lý Bạch mất thân mạng;

Khuyên người ngưng uống nước vô tình, say rồi làm người mê tâm ý.

Vị Sanh dưới cầu nước cuồn cuộn, Tây Thi nước Ngô thật đáng thương;

Tham luyến cành hoa đều có họa, duyên tốt lật lại là ác duyên

Có tài có thế là anh hùng, mạng khổ vô thời uổng dụng công;

Ngày xưa Thạch Sùng chết do giàu, núi đồng không giúp Đặng Thông nghèo.

Bá Vương cắt cổ tại sông Giang, Chu Du có trí mạng không dài;

Bao nhiêu hùng mãnh tướng trước trận, bởi do tranh khí thế mất mạng.

“Bình đế” là vua Bình của đời nhà Tây Hán, bởi do tham uống rượu, bị Vương Xuẩn dùng

rượu độc giết chết. Còn “Vị Sanh” truyền thuyết rằng cùng một cô gái hẹn ước gặp nhau ở

dưới cầu, khi nước lên, Vị Sanh vì không muốn mất tin hẹn, nên bị chết chìm, có một vở

kịch tên là “Hội Lam Kiều”chính là kể về câu chuyện này. Bá Vương chính là Sở Bá Vương

Hạng Vũ.

Thì ra 4 bài thơ này, là khuyên con người đừng nên mê “rượu, sắc, tài, khí”. Bốn thứ này,

vốn là vật vô tình, nếu như tâm vừa động, sẽ bị ma nhập vào, đến chết cũng không ngộ.

Tôi có 2 đứa học trò, một đứa tên là Trần x Phi, một đứa tên là Luyễn x Toàn, hai đứa này

rất mê rượu, chúng nó rất thích uống, nhưng thích uống rượu cũng đều say, mỗi lần uống say,

thì lộ ra nhiều tướng xấu xí, có lúc thì đánh quyền, có lúc thì lật cả bàn ghế, có lúc thì kêu và

hát, chửi thề chửi tục. Ngoài ra còn có một đứa họ Trương, hiện nay đang nằm viện điều

dưỡng, do bị trúng rượu độc, những người mê rượu, hãy mau chóng thức tỉnh đi.

Tôi có 2 đứa học trò, một đứa tên là Lâm x Nhân, một đứa tên là Nguyễn x Toàn, 2 đứa này

đều mê sắc, phải biết rằng tiêu khiển sắc tình, phàm tâm bất tịnh, chính là “lui thoát đạo tâm”.

Lửa dục sẽ đốt thân, sắc là dao đồng sẽ cắt thịt. Có sắc tâm rồi, ma mê sẽ đến chiều theo,

hoặc biến thành gái đẹp, hoặc nhập tâm ma, “sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp” đều đi mất lối.

Mê của ma sắc này, là khó chế phục nhất. Người tu đạo cần phải nhất tâm tu đạo tuyệt phàm

trần, thì ma tự nhiên sẽ lui, nếu như hào quang xuất hiện, chúng ma cũng không dám đến gần.

Lại nói về Thạch Sùng giàu có, bởi do có tiền nên gánh lấy họa, Đặng Thông có núi tiền,

nhưng cũng không thể cứu được cái đói mà chết. Cho nên tiền có lúc cũng vô ích. Quân tử

thích tiền, lấy cho vừa phải, lấy đúng đường đạo, mới không sai lầm. Tôi có 2 đứa học trò,

một đứa tên Lý x Lương, một đứa tên Lâm x Ngao, 2 đứa này rất mê tiền, phải biết rằng tiền

tuy tốt, nhưng cũng làm tổn thất tình cảm, nếu như dùng tiền để bố thí, thì lúc nào cũng có

công hạnh. Nếu như giàu có, mà không biết dùng đúng, thì không có ích gì cho bản thân tu

đạo.

Lại nói đến chữ “khí”, người tu đạo càng trân trọng, khi trời đất còn sơ khai, khí vận hành

ở đại tiểu chu thiên, nguyên khí thừa, thì vạn vật mới động, người có chân khí, thì mới sống

được. Người tu đạo chính là tu chánh khí chân khí, chứ không phải tức giận làm nghịch khí.

Hãy nhớ kỹ “đại tranh nhàn khí”. Tôi có 2 đứa học trò chính là như vậy, một đứa tên là

Vương x Đơn, một đứa tên là Trang x Túc, hễ một tí là muốn đánh người, tuy có anh hùng

khí khái, nhưng không phải là bản tính chân như của người tu đạo.

Tôi khuyên mọi người:

Uống rượu không say là cao nhất

Hiếu sắc không loạn là anh hào

Tiền vô nghĩa thì đừng nên lấy

Nhẫn nhịn tha người họa tự tiêu.

Tôi biết rằng, ma mê nhân lúc tâm con người loạn động sẽ nhập vào, khi bị mê nhập vào rồi,

thì vĩnh viễn không ngộ. Tuy rằng, được mọi người khuyên bảo, cũng không dễ dàng quay

đầu trở lại. Tôi khởi mắt linh, ma mê mà tôi nhìn thấy, có những con ma có cái đầu rất to, có

con ma có rất nhiều tay chân, đều mọc ở xung quanh đầu, tay chân đều có lông như cái móc,

có thể móc vào thân của con người, khiến người ta không thể bỏ chạy được. Tất cả vạn vật,

đều có “ma mê” tồn tại, không phải chỉ có “rượu, sắc, tài, khí” mới có ma, ngay cả tôn giáo

cũng có ma. Có rất nhiều người tu đạo, đi vào con đường tà đạo, bị ma mê nhập vào, thì đều

trở thành ma. Ví dụ như cô gái mà tôi viết ở bài trước. Tôi cũng đã từng nhìn thấy một tín đồ

Ki-tô rất thành kính, bởi do ngày đêm cầu nguyện bức thiết mà nhập vào ma cảnh, cứ hát

thánh ca ở trên đường, hễ cứ gặp ai trên đường là mắng chửi rằng người đó có tội, tự xưng là

chúa Giê-su mượn xác nói chuyện, chạy lên giảng đài giành lấy micro của mục sư mà kêu

hét.

Tôi cho rằng phàm bất cứ việc gì, đều phải giữ lấy đầu óc tỉnh táo, dùng lý trí để phân biệt

Phật và ma. Chánh tà do tâm mà phân biệt, chớ thể cứ bị mê. Cũng giống như chơi đánh bài

mạt chược vậy, phải cố gắng nghiên cứu, nhưng phải có lực phân tích rõ ràng, chứ không

phải mê mà không thể ngộ.

Khó có được những người không mê “rượu, sắc, tài, khí”. Và ma càng lợi dụng 4 chữ này,

để làm mê đảo chúng sinh. Cái lợi hại của ma, cho dù bạn dùng hết tất cả các sức lực, cũng

không thể bật dậy nổi, có người tuy thích tu đạo, nhưng 4 thứ ma này chưa trừ, thì tu đạo mãi

mãi không thành tựu.

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

19 Thủ ấn bỉ giáp hộ thân

Trong quyển “Sách thông linh bí pháp” và quyển “Kim Cang bảo kiếm hàng phục ma

xử”chỉ ra các pháp hàng phục ma như sau:

Dùng 2 tay kết 2 thủ ấn “lôi đình”, tay phải ấn đình, ngón cái bẻ vào đè lên ngón áp út, và

ngón trỏ, ngón giữa, ngón áp út và ngón út thì bẻ lên và đè lên ngón cái, nắm quyền làm thức

hàng ma.

Tay trái ấn lôi, dùng ngón cái của tay trái, đè lên ngón vân tay của ngón áp út. Ngón trỏ,

ngón giữa và ngón út đều ấn lên ngón cái, nắm quyền làm thức hàng phục.

Trước tiên để lên giữa 2 chân mày, tiếp xúc với tai, hai bên vai, hai bên cánh tay, cho đến

ngực, hai bên hông, hai bên thận, hai bên đùi, hai bên đầu gối. Sau đó tay trái ấn đình, từ bên

miệng hổ của tay phải mà quét lên đến vai, và tiếp theo dùng ấn đình của tay phải, từ vai

quét đến hông. Nam trái nữ phải, chân đạp đất, niệm chú: “Kim Cang bảo kiếm hàng ma xử,

lôi đình vạn quân thế như thiên, thiên ma tinh tà giai tuẩn khứ, tâm có quang minh bất điên

đảo. Cấp cấp phụng hộ pháp long thiên luật lệch”.

Đây chính là “mặc giáp hộ thân pháp” của Đạo gia, cũng chính là một trong “ngũ lôi thiên

tâm chánh pháp”. Công hiệu rất lớn.

Các tín đồ Thiên Chúa giáo khi đi vào nhà thờ, quỳ một chân xuống, lấy nước thánh rửa tay,

làm thánh thập giá ở hai vai và ngực, đây chính là biểu thị “mặc giáp hộ thân”. Nói ra cũng

kỳ lạ, khi vẽ thập tự giá, tác pháp cũng giống như Mật tông của Phật môn vậy.

Hành pháp của Mật tông “Mặc giáp hộ thân” như sau:

Tay kết ấn kim cang quyền, hoặc chấp tay kim cang, niệm Kim Cang Thủ Tát Đỏa chân

ngôn.

Kim Cang Thủ Tát Đỏa chân ngôn 7 biến: “Om bo nhử lam zo lia”

Trước tiên để ấn lên đỉnh đầu (giữa 2 chân mày), tiếp đến là để ấn ở cổ họng, và tiếp theo là

ở tim, tiếp theo là vai bên trái, tiếp theo là vai bên phải, tổng cộng là 5 vị trí, 5 vị trí này rất

quan trọng. Cách ấn pháp của tôi khác với các ấn pháp thông thường về sự trước và sau,

nhưng hiệu quả thì hoàn toàn như nhau. Thiên Chúa giáo vẽ thập tự giá, là giống với tôi.

Mật tông Phật giáo thì có “Ngũ ấn mặc giáp hộ thân” phức tạp hơn, được sử dụng khi pháp

sư khi tác pháp, thứ tự như sau:

Ấn thứ nhất, hai tay chấp lại, tức “thủ ấn hoa sen chưa nở”. Chú ngôn “Tịnh tam nghiệp” là:

tịnh khẩu, tịnh thân, tịnh ý.

Ấn thứ 2, Thủ ấn là “ấn Phật đỉnh”, chú ngôn là: “chú thỉnh Phật”, dùng chú Nhất Kim

Cang Luân là được.

Ấn thứ 3, là “thủ ấn hoa sen nở”, chú ngôn là “chú thỉnh Bồ tát”, dùng chú Thiện thiên nữ là

được.

Ấn thứ 4 là thủ ấn “Tam cổ kim cang ấn”, chú ngôn là “thỉnh Kim cang chú”, dùng kim

cang tâm chú là được.

Ấn thứ 5, ấn thủ là “nội tam cổ kim cang thủ ấn”, chú ngôn là “Kim cang hỏa chú”, dùng

Đại Phạm Thiên chú là được.

Năm loại ấn này, 5 chú ngôn này, cũng ấn ở 5 nơi (thiên tâm, cổ họng, tim, vai trái, vai

phải), ấn xong niệm 3 tiếng “Hum, Hum, Hum”

Tại sao phải tu “Mặc giáp hộ thân?”

Bởi vì trong quá trình tu hành, đều có ma nạn, ma thích quấy nhiễu người tu hành, và “mặc

giáp hộ thân” cũng giống các chiến sĩ thời cổ xưa ra chiến trận vậy, trên mình khoác áo giáp,

bảo hộ cho mình không bị đao kiếm gây thương hại. Cũng tức là nói trước khi tu pháp, trước

tiên hãy tu “mặc giáp hộ thân”, nhờ Phật lực thủ hộ, khiến cho ma không thể thừa cơ nhập

vào, và như thế tu đạo mới thành công.

Lần đầu tiên tôi tu “Mặc giáp hộ thân”, nhìn thấy một vòng ánh sáng sắc vàng, từ trên trời

chụp xuống, bao vây lấy tôi, mỗi lần tu “Mặc giáp hộ thân”, ánh sáng sắc vàng càng ngày

càng sáng, đẹp đẽ khác thường, như là vòng lưới vậy. Nếu như gặp ma đến, thì ma ở bên

ngoài vòng lưới, còn tôi thì ngồi ở trong vòng lưới sáng, cho dù bên ngoài vòng lưới gió âm

lạnh người, nhưng vẫn không có cách vào trong vòng lưới để quấy nhiễu.

Sau đó tôi tu “Mặc giáp hộ thân”, cộng thêm gia trì “Kim Cang hỏa chú”, nhìn thấy ánh

sáng sắc vàng đó sáng lên như lửa. Lửa này không phải lửa bình thường, có thể đốt các ma,

có thiên ma dùng tay chạm vào thì tay bị cháy đen, tiếng nổ như sấm, không có cách nào

chạm đến tôi. Như thế, tôi mới không bị tẩu hỏa nhập ma.

Tôi cảm thấy tôi có rất nhiều ma nạn, sống chết chỉ cách nhau một sợi dây, không những

thiên ma ganh ghét, địa ma (âm ma) cũng hại tôi nữa. Thậm chí là ma nhập vào, cũng đến

hại tôi, tôi nhẫn chịu nhiều ma nạn, khổ không thể nói hết. Nhưng sau khi có ma nạn, thì

càng ngày tôi càng kiên cường, sống chết bỏ qua một bên, danh lợi đều không cần, con cháu

cũng không lo, đạo tâm như đá, vừa lạnh vừa cứng.

Tôi biết rằng thiên ma biết có một người, là không sợ chết, người này chính là Lư Thắng

Ngạn, cho dù kiếp này đày đọa ông ta cho đến chết, thì kiếp sau, ông ta sẽ sống lại, vẫn tiếp

tục tu đạo. Ông ta vẫn liên tục tu hành đến mấy kiếp, đến nhiều kiếp cho đến công đức viên

mãn. Ông ta chính là Liên Hoa đồng tử chuyển kiếp, là tôn giả tay cầm hoa sen màu trắng.

Từ trên trời xuống đến nhân gian, ngồi ở trên hoa sen trắng, quang minh huy hoàng trong vũ

trụ, Phật đạo thông suốt hành sâu. Tích tu nhiều kiếp, chăm tu trang bị, đã thông đạt hết thiên

kinh địa vĩ, hàng ngàn pháp môn, cứu khổ bạt nạn, trừ ma trừ yêu, đây là chức trách một đời

của tôi.

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

20. Tam quy và nước Tam Hum

Khi tôi còn ở Đài Loan, rất nhiều học trò quy y theo tôi, dùng pháp tôi dạy tu hành. Đồng

thời, tôi cũng nói như vậy, nếu như học trò của tôi cho rằng pháp của thầy khác giỏi hơn, thì

cũng có thể quy y với người thầy khác, tôi không hạn chế các học trò của tôi không nên quy

y với các thầy khác. Tôi mong mọi người hãy cố gắng để tìm kiếm pháp, nhận định pháp có

duyên với mình, Sư Phụ có duyên với mình, tu hành như thế, mới có kết quả tốt, theo thầy

nào, dựa vào pháp nào, đều là duyên phận.

Sở dĩ tam quy y, chính là quy y “Nam Mô Put Tà Dề (Buddha Ye)”, quy y tôn kính thập

phương nhất thiết Phật. Cũng chính là “ Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sinh, thể giải

đại đạo, phát vô thượng tâm”.

“Nam Mô Tạ Mô Dề (Dharma Ye)”, chính là quy y tôn kính thập phương nhất thiết Pháp,

cũng chính là “Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sinh, thâm nhập kinh tạng, trí tuệ như

hải”

“Nam Mô Sinh Kha Dề (Sangkha Ye)”, chính là quy y tôn kính thập phương Tăng lữ tu

hành theo Phật, (nghĩa thật là những vị Hiền Thánh Tăng, có đức hạnh và đạo quả, các Tổ

sư...) cũng chính là “Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, nhất

thiết vô ngại”.

Sau khi tôi ban thọ tam quy y cho các học trò xong, sẽ dùng tay phải bắt khuyết kiếm, tay

trái bắt tam sơn khuyết, cầm tịnh bình, dùng kiếm khuyết viết lên 3 chữ “Hum, Hum, Hum”

ở trên tịnh thủy. Như thế tịnh thủy sẽ biến thành “nước tam Hum”, tôi dùng nước Tam Hum,

rưới trên đầu của đệ tử quy y, tôi đọc như vậy: “Thầy dùng nước, cho con quy y Phật, quy y

Pháp, quy y Tăng, quy y Liên Trì Hải Hội Phật Bồ-tát”. Nước Tam Hum này của tôi, thật ra

chính là “quán đảnh bí mật”, gọi là kết duyên tam giải thoát pháp.

Nước Tam Hum gọi là tam tầng giải thoát pháp. Tầng thứ nhất là cúng dường thiên thần,

thiên thần thọ quy y, có được nước Tam Hum, cũng có thể giải thoát thành Phật. Tầng thứ 2

cúng dường người, có thể bởi do kết duyên quán đảnh, từng bước tu hành, mà được thành

Phật. Tầng thứ 3 cúng dường chúng quỷ, nước Tam Hum có thể giải thoát chúng quỷ khỏi

nơi khổ, chuyển sinh cõi người, rồi tu thành Phật. Vì vậy, nước Tam Hum này được gọi là

Tam tầng giải thoát pháp.

Tôi quy y cho các học trò xong, rồi dùng nước Tam Hum quán đảnh, vậy thì các học trò sẽ

có 36 vị thiện thần, thay phiên nhau thủ hộ, nếu mở mắt linh ra sẽ thấy, bởi do có thiện thần

thủ hộ, nên không loạn bản tâm. Nhưng nếu thọ tam quy y rồi, có nước Tam Hum rồi, mà

không tu hành cho tốt, không có ráng sức tu mà lại đi làm ác, vậy thì xem như uổng phí tam

quy y và nước Tam Hum, 36 vị thiện thần sẽ rời khỏi, và như thế ch ng khác nào với phàm

phu. Những đệ tử làm ác, cho dù thọ quán đảnh nước Tam Hum, thì cũng sẽ bị nhập ma.

Hôm nay, tôi ở nước Mỹ, có rất nhiều người hỏi tôi, sau này làm sao quy y tôi. Tôi nói nếu

như các bạn muốn quy y Linh Tiên Chân Phật tông, có thể chọn ngày mùng 1 hoặc 15 âm

lịch, vào đúng 7 giờ sáng, hướng về hướng mặt trời mọc, súc miệng tắm gội, chấp tay cung

kính lạy 3 lạy, miệng đọc 3 lần: “Nam Mô Cu Lu Pây , Nam Mô Put Tà Dề, Nam mô Tạ Mô

Dề, Nam Mô Sinh Kha Dề. Liên Sanh Hoạt Phật chỉ dẫn, Quy Y Chân Phật”. Chấp tay cung

kính lạy 3 lạy. Sau đó viết tên họ, địa chỉ, tuổi của bạn, kèm phụ thêm phí hồi tem (hay cúng

dường tùy tâm), gửi cho địa chỉ thông tin vĩnh viễn này:

Sheng- yen Lu

17102NE 40thCt.

Redmond, WA98052, USA.

Sau khi nhận được, tôi sẽ tự mình lên Phật đường, đốt sớ bẩm cáo cho bạn, và cũng như

vậy tôi niệm tam quy y, rưới nước Tam Hum ở hư không, các bạn thành tâm thì sẽ linh. Việc

này chính là tiện cho các chúng sinh ở trong nước cầu quy y. Xong việc, tôi sẽ gửi giấy

chứng quy y cho bạn, dùng phương pháp như thế nó cũng có hiệu nghiệm, thật là bất khả tư

nghì.

Đệ tử thọ nhận quy y, phải biết rõ, bản thân mình là phàm phu sinh tử, tội chướng rất nặng,

luân hồi lục đạo, khổ không thể nói hết. Hôm nay gặp được thiện duyên này, nên cố gắng

học Phật pháp, có duyên với Hiển giáo, hãy mau chóng nhiếp tâm niệm Phật, cầu được vãng

sinh, nên thường niệm Nam mô A Di Đà Phật, Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát, Nam mô Đại

Thế Chí Bồ-tát, Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ-tát. Mong rằng bản thân của mình

lúc lâm chung không có chướng ngại, A Di Đà Phật đến đón, Quán Âm Bồ-tát rưới nước

Cam Lồ lên đầu của mình, bản thân ta ở dưới chân của Đại Thế Chí, trong một sát na rời

khỏi ngũ trược, đến hồ hoa sen nơi Phật quốc.

Nếu như có duyên tu Mật tông, thì sẽ theo thượng sư của Mật tạng: Hồng, Hoàng, Bạch,

Hoa các phái để tu pháp, hoặc theo Đông Mật hoặc là Đài Mật đều được, không cần biết là

pháp Chuẩn Đề, pháp Kim Cang Tát Đỏa, pháp Lục Độ mẫu, và nhiều pháp Quán m, Đại

Mạn Đà pháp, đều có thể theo nghi thức mà tu hành.

Phương pháp tu hành của “Linh Tiên Chân Phật tông”, Hiển giáo Mật giáo linh pháp,

không ngoài thượng trung hạ tam tất địa, tất cả đều có thể tu trì, không nên có tâm phân biệt,

phải có tâm bình đ ng, tất cả theo duyên phận mà tu. Nếu như gặp người phê bình Linh Tiên

Chân Phật Tông hoặc hủy báng Lư Thắng Ngạn, xin các đệ tử hãy lắng nghe, hãy nở nụ cười,

đừng nên phản kháng tranh biện, cần phải nhớ rằng pháp môn ”Linh Tiên Chân Phật tông” là

phương tiện cảm ứng, do người đó không biết nên mới hủy báng, đó chính là “tiêu nghiệp

thay cho tôi”, cứ mặc kệ anh mắng chửi và hủy báng. Nhưng anh theo pháp sư học pháp,

nhất định phải học được “chân pháp” của người đó, đừng nên phóng dật hoặc là xem thường,

chỉ học cái tốt của người thầy đó chứ đừng nên học cái xấu.

Tam quy y và nước Tam Hum của tôi, xem ra thì rất đơn giản, có thể thật sự khiến cho 36

thiên thần cảm ứng mà hộ trì chăng? Tôi biết rằng “Tam tầng giải thoát pháp” xem ra đơn

giản, nhưng pháp này là dựa vào sự hộ trì của “thiên long hộ pháp”, không những bản thân

mình được thành tựu, cha mẹ sư trưởng và oan gia nhiều đời cầu sanh tịnh thổ cũng được

thành tựu. Các đệ tử không biết, chỉ đơn giản với pháp “nước tam Hum”, tôi đã tu hơn 10

năm.

Chữ Hum vừa ra, cổng trời mở ra

Chữ Hum vừa ra, người được giác ngộ

Chữ Hum vừa ra, phá cổng địa ngục

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

21. Sắc ma nhập tâm phần 1

Thời cổ xưa, có một vị cao tăng, tên là Ngọc Thông, tu hành 50 năm, nhưng đắc tội với

một quan địa phương, vị quan đó âm mưu bí mật phá giới hạnh ông ta, kêu một cô kỹ nữ

xinh đẹp ở thanh lâu, giả dạng là vợ của quan, đến chùa của Ngọc Thông dâng hương.

Ban đêm ở tại chùa, cô gái đó giả đau bụng sắp chết, cần phải dùng phương pháp bí truyền

đặc biệt để điều trị mới khỏi bệnh, là phải dùng lỗ rốn của đàn ông va sát với lỗ rốn của cô ta

mới có thể điều trị. Ngọc Thông là người đàn ông duy nhất ở trên núi, vì với lòng từ bi, nên

chỉ còn có cái làm lộ lỗ rốn để cứu. Nhưng cô gái ở thanh lâu đó lộ ra nanh vuốt, tội nghiệp

cho Ngọc Thông, nhất thời không thể khống chế, ma sắc nhập tâm, cảnh nhiên đã phá giới

hạnh.

Quan địa phương viết một bài kệ cho Ngọc Thông, sau cùng có 2 câu là :

“Đáng tiếc nhiều năm xá lợi tử

Chảy vào trong nhiều cánh của hoa Hà”

Ngọc Thông vốn là một cao tăng, nhưng bởi do ma sắc nhập tâm, nhất thời không cẩn thận,

đã nhập vào ma đạo, đến sau cùng cảnh nhiên treo cổ tự sát.

Đây là một câu truyện thời cổ truyền lại, các đọc giả hãy nghĩ xem, Ngọc Thông vốn là

người tu hành, nhưng vẫn không thể nào chống chế, tuy có tâm tu đạo, nhưng khi ma sắc

nhập tâm, thì đành chịu thua. Cho nên tu làm sao mà bỏ mất đi “sắc tâm”, là việc quan trọng

nhất của người tu hành, biết rõ ràng là khó, nhưng nếu không phá “ma sắc” này, thì không

thể nào ra khỏi cảnh trời Dục giới.

Tôi có một câu chuyện như sau:

Có một người trung niên khoảng hơn 40 tuổi, là người tu Đạo gia “Chánh nhất pháp môn”,

nhà ở của ông ta có một đàn thờ Đạo, hiệu là Thanh Vân đạo trưởng, có lúc vẽ bùa niệm chú

cho người ta, tụng kinh lạy sám. Đạo trưởng này rất trắng trẻo, học hành cũng không ít.

Có một phụ nữ, được người ta giới thiệu đến cầu Đạo trưởng tiêu tai, sau khi đến được vài

lần, đã quá quen nhau. Chồng của bà này họ Du, ở Đài Trung, ng Du khoảng 50 tuổi, còn

bà Du mới 30 tuổi, chồng già vợ trẻ.

Lại nói người phụ nữ này dáng vẻ cũng không ác, có một bài thơ miêu tả về bà như sau:

“chân mày như núi mùa xuân, hai mắt đen như nước mùa thu, mặt vừa sầu lẫn oán, như ruột

của trái dưa hấu; như muốn khóc như muốn than, dịu dàng như Dương phi cắt tóc. Tiếng tỳ

bà không vang, là một minh phi chưa ra khỏi trại. Trời sanh cho một dáng vẻ phong lưu, thật

đẹp như tranh vẽ!”

Lại nói: “Chân mày như mặt trăng, má đào; da trắng mỏng và sáng, vẻ thướt tha nói không

hết, tranh vẻ cũng không thể sánh bằng!”

Thanh Vân đạo trưởng là một Đạo nhân tu hành, giới hạnh cũng rất tốt, nhưng trong lòng

thầm khen vẻ đẹp của người phụ nữ này.

Có một ngày, người phụ nữ đó lại đến, nói với Đạo trưởng, cô có chuyện riêng nói với ông,

cần phải đóng cửa phòng lại, không cho người khác nghe. Thế là Thanh Vân đạo trưởng

đóng cửa phòng, cũng đóng cổng lớn ở bên ngoài, và cũng đốt hương ở Đạo đường, sau đó tỉ

mỉ nghe người phụ nữ này kể chuyện. Người phụ nữ đó vừa thấy đóng cửa phòng, bèn lộ ra

tư thế thướt tha.

“Mỗi đêm em đều không thể ngủ được”

“Vậy thì khám bác sĩ đi”

“Không, chính là em đến đây rồi, mới không thể nào ngủ được” Người phụ nữ đó õng ẹo

chạy đến.

Lúc này trong lòng Thanh Vân đạo trưởng âm thầm sợ hãi, toát mồ hôi lạnh, đưa hai mắt

nhìn lên bàn thờ Thái Thượng Lão Quân, không dám nhìn mặt người phụ nữ. Người phụ nữ

đó ôm chặt Thanh Vân đạo trưởng, tay chân của Thanh Vân đạo trưởng không biết để đâu,

tinh thần hoảng hốt, mũi thì chỉ ngửi được mùi nước hoa.

“Du phu nhân, tôi là người tu đạo” Thanh Vân đạo trưởng nói được một câu.

“Vậy xin hỏi tại sao chúng ta có duyên?” cô ta nở nụ cười thật tươi nói. Tay chân của cô ta

dẻo như rắn, thân thể thì ép sát trên mình của Đạo trưởng, một cánh tay thì lúc lỏng lúc chặt

mà sờ vào lưng của đạo trưởng. Lúc này ma sắc đã nhập tâm Thanh Vân đạo trưởng, không

còn cách khống chế, ông xoay mặt lại, miệng kề với miệng. Lúc này lửa dục dâng lên, tất cả

mọi thứ tu đạo, giữ giới, giữ pháp, chánh niệm, thanh tịnh hoàn toàn bỏ lên 9 tầng mây. Ở

trước bàn thờ Thái Thượng Lão Quân, mùi hương nồng nồng, hai người ôm nhau thành uyên

ương. Sau sự việc này, trong lòng Thanh Vân đạo trưởng rất đau buồn, nhưng người phụ nữ

đó lại thường hay đến, ông lại không có cách nào khống chế được, và cứ như thế mà sống

trong mâu thuẫn. Có một ngày, ông ta đọc sách của tôi, chạy đến tìm tôi. Tôi dạy ông ta hãy

mau chóng thu dọn bàn thờ, nhanh chóng dọn nhà, dọn đến một nơi mà mọi người hoàn toàn

không biết, bắt đầu tu đạo và giữ giới an phận lại.

“Tôi còn có thể tu đạo sao? Tôi đã phá giới rồi, tôi phải vào địa ngục” ng ta đau đớn

khóc, lộ vẻ chân tình.

“Người tu đạo nếu như bị sắc ma nhập tâm, đích thật là thiêu thân bay vào lửa. Cho nên

đừng nên bị như vậy, ngay lúc cấp thiết nhất phải biết giữ lấy mình. Nhưng người đạo dù sao

cũng là người phàm phu có máu thịt, nhất thời phạm lỗi là vẫn có, nhưng có thể hối hận tỉnh

ngộ biểu thị là có đạo căn. Tại sao ông không tu pháp “Hàng phục kim cang”, để tiêu bỏ tội

án ma sắc. Phải biết rằng tội có 4 nghịch tội nặng nhất, chính là giết Phật Đà, làm Phật chảy

máu, giết cha mẹ, giết thánh tăng hoặc thánh nhân. Ông tuy rằng ma sắc nhập tâm, nhưng

nếu sám hối thật lòng, chuyển tu “Hàng phục pháp”, vẫn còn có thể cứu được. Bốn nghịch

tội đều có thể tiêu, huống hồ chi là tội sắc”

Thanh Vân đạo trưởng sau khi nghe lời nói của tôi, thu dọn bàn thờ, sau đó đi đâu không

biết.

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

22. Sắc ma nhập tâm phần 2

Ở Đài Nam, có một đạo trưởng họ Hình, ông này ở phái Ngũ Liễu tiên là một chi nhánh

của phái Long môn, tu tập các pháp như “Kim Tiên chánh luân”, “Tiên Phật tổng hợp”,

“Linh Tiên chánh lý….” Ông ta tu cũng rất khá, sắc mặt hồng hào, tự nói rằng mình đã đắc

đạo pháp Tam muội, đã đắc Bất lộ đơn, có thể thỉnh thần triệu tướng bất cứ lúc nào.

Sau đó vô tình ông ta có được một sách bí pháp, đó chính là quyển sách “Tiểu thiên tinh

pháp”, sách này nói rằng lấy một quả trứng gà đầu tiên của con gà mái đẻ trứng lần đầu, và

đem quả trứng này lăn ở trên mình của người bị bệnh hoặc bị ma nhập, tay vừa lăn miệng

phải vừa niệm chú, thì có thể thu phục sát ma của người bệnh vào trong lòng đỏ của quả

trứng, sau đó chọn một mảnh đất tốt và chôn quả trứng vào đó, như thế thì người bị bệnh

hoặc người bị ma nhập sẽ khỏi bệnh.

Đạo trưởng Hình tu pháp Ngũ Liễu tiên đã rất cao, và ông lại tu tiếp “Tiểu thiên tinh

pháp”, ông cũng chữa khỏi bệnh cho nhiều người. Và thế là từ đó ông dùng Tiểu thiên tinh

phục ma pháp đi khắp nơi chữa bệnh cho người ta và ông đã cứu được vô số người. Người bị

bệnh nằm ở trên giường, trên mình chỉ mặc mỗi một cái áo mỏng, và quả trứng gà thì lại ở

trong tay đạo trưởng cứ thế mà lăn qua lăn lại. Đạo trưởng nhắm mắt, miệng niệm chú, quả

nhiên rất nhiều người khỏi bệnh.

Nếu như chỉ đơn thuần là cứu người, thì công đức của đạo trưởng Hình rất to lớn. Nhưng

đạo trưởng Hình lại gặp phải “ma sắc nhập tâm”, ông đã làm mất đi đạo tâm trong một lần

động lòng, từ đó công hạnh tu hành nhiều năm đã bỏ hết xuống biển, Tiểu thiên tinh phục ma

pháp, vốn là hàng phục ma, sau này lại bị ma hàng phục, có phải là thật đáng tiếc sao!

Sự tình là như vậy:

Có một ông nhà giàu, có một bà vợ lớn và hai bà vợ bé, những bà này đều ở riêng cả, và bà

vợ bé thứ hai này có chứng bệnh đau đầu, bà nghe được tiếng tăm của ông đạo trưởng, nên

mời ông đến nhà để trị bệnh. Không ngờ đạo trưởng Hình vừa nhìn thấy bà vợ bé của ông

nhà giàu này rất xinh đẹp, thân thể tỏa ra một mùi hương, cặp chân mày vẽ cong như hai

ngọn núi màu xanh vậy, cặp mắt thì long lanh, môi đỏ như trái đào. Trong phút trông ông đã

gặp phải oan gia đối đầu mà bản thân ông lại không biết, còn tưởng rằng ông có đủ định lực,

không còn ham muốn sắc đẹp nữa.

Bởi do suốt cả một đời của đạo trưởng Hình giữ giới luật rất nghiêm, có thể nói là chưa

gặp phải những cô gái đẹp, lần đầu tiên gặp cô gái đẹp như vậy, tim ông đập rất mạnh, giống

như những chàng trai trẻ phong lưu vậy. Lại nói, bà vợ bé này chỉ mặc một chiếc áo thật

mỏng, nằm ở trên giường. Khi đạo trưởng Hình làm phép, vốn là nhắm mắt lại, nhưng ông

lại không, tay thì run run không chịu nghe lời, ngay cả quả trứng cũng không cầm nổi.

Bà vợ đẹp này đương nhiên là có cảm nhận, liếc mắt đưa tình. Bốn mắt gặp nhau, đại

trưởng Hình đã bị ma sắc nhập vào, chân cất bước không nổi. Bà vợ bé xinh đẹp này lại

dùng lời nói dụ dỗ, và lại dùng tay để kéo lại. Sau đó cản nhiên họ ồm chầm vào nhau.

Sự việc diễn biến đến sau cùng, càng thật khiến cho người ta đáng tiếc, đạo trưởng Hình

không tu nữa, và bà vợ bé xinh đẹp đó đã đem theo rất nhiều tiền cùng ông đạo trưởng trốn

mất.

Tôi viết bài kệ như vậy :

Không biết tu đạo đừng nói láo (nói dóc);

Chỉ một chữ sắc (đẹp) thôi đã uổng mất công.

Nếu như có thể ngộ thấu chữ tình,

Nói rằng ta phục ma mới không xấu hổ.

Theo những gì tôi biết, sư phụ của đạo trưởng Hình của phái Long môn là chánh phái, tu

hành rất cao, đạo trưởng Hình là một trong những đệ tử đắc ý của ông, ít nhất cũng đã tu

hành 20 năm, nhưng lực của “ma sắc nhập tâm” thật là lợi hại, “Kim tiên chánh luận”, “Tiên

Phật hợp tông” “Linh tiên chánh lý” cảnh nhiên không địch nổi một chữ “sắc”, thật là đáng

buồn!

Nếu như đạo trưởng Hình tu Ngũ Liễu tiên phái, không tiếp xúc với “Tiểu thiên tinh phục

ma pháp”, thì một đời tu hành của ông sẽ không có vấn đề, nhưng mà ông lại học “Tiểu thiên

tinh phục ma pháp”, ngược lại tạo ra nghiệp duyên, “Tiểu thiên phục ma pháp” này cản

nhiên đã làm sụp đổ đạo nghiệp của ông ta.

Suốt cả một đời của tôi đã từng gặp rất nhiều người, tôi biết rằng có một số giang hồ thuật

sĩ, cũng biết “Tiểu thiên tinh phục ma pháp”, nhưng tâm của những ông này không tốt, lợi

dụng chánh pháp của Đạo gia mà làm những chuyện xấu xa, dụ dỗ con gái nhà lành, lừa tiền

lừa sắc. Cho nên tôi nhắc nhở các phụ nữ, đừng nên nhẹ dạ mà thử pháp này, bởi vì đó có thể

là cạm bẫy của những kẻ xấu xa.

Tôi cũng khuyên tất cả những người tu đạo, đừng gần nữ sắc, đừng nên dễ dàng tin vào

định lực của mình, nhất thời không cẩn thận, thì ôm hận suốt dời. Chúng ta phải học đầu đội

trời chân đạp đất của Đạo gia, chánh trực không tà. Nếu như tâm tà không mất, thì đừng nên

tu đạo, trước tiên hãy tu đoạn tâm tà trước, để tránh phóng túng dục mà thất lễ làm nhục

danh tiếng của Đạo gia.

Còn nhớ Khổng Tử đã từng nói: “ăn, sắc, tánh người” đương nhiên những thứ này là dục

lớn nhất của con người, nhưng người tu đạo chính là tu cho tâm dục mất đi, như thế mới có

thể hóa dục lạc của mình thành khí thuần dương. Nhưng thiên ma rất lợi hại vốn là bám vào

tâm của con người, nó dùng dục lạc của con người để dụ dỗ bạn, nếu như bạn qua được cửa

ải này, mới chính là một hảo hán, đi th ng trên con đường Đạo.

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

23. Ma sắc nhập tâm phần 3

Người xưa hình dung dáng vẻ của phụ nữ luôn luôn dùng: “mắt long lanh như nước thu,

chân mày như gió xuân, tóc như mây, chân như tim sen, hai má như trái đào, eo như cành

liễu”

Phải biết rằng vẻ đẹp có thể làm nghiêng nước nghiêng thành, ví như vua Cao Tổ yêu say

đắm Thích Cơ, Đường Thái Tông dâm loạn với em dâu, Võ Tắc thiên của nhà Đường đã

kém chút là mất hết giang sơn. Triệu Phi Yến và Dương Ngọc Hoàn đã làm cho Cung Vĩ

loạn cả lên, những người này tuy là làm vua, nhưng vẫn mê muội không thể thoát ra khỏi cho

đến lúc chết.

“Sắc” vốn là rất đẹp, rất ngọt, rất yểu điệu. Những người ở trong thiên hạ khó có ai qua

vượt qua được. Và người tu đạo phá “ma sắc”, chính là cắt yêu ma tình dục, chém ma sắc

nhập tâm, như thế mới có thể giữ vẫn đạo tâm, không theo làn sóng phàm trần của chúng

sinh.

Năm xưa, tôi đến vân du ở Gia Nghĩa, có một cô gái thướt tha đến gặp tôi, cô ta rất e thẹn

mà đối đáp với tôi: “Thầy giáo Lư, không biết em có nói ra được với thầy không?”

“Cô cứ việc nói đi”

“ Em đến một ngôi miếu hỏi thần, hỏi khi nào thì em có tình duyên?” Cô gái này khoảng

28 tuổi, tình duyên không được thuận lợi, rất nóng ruột nên đi đến miếu để hỏi thần.

“Nếu muốn có tình duyên tốt, thì trước tiên phải có thần duyên” Bói đồng nói với cô ta như

vậy.

“Thần duyên là cái gì?” Cô gái này nghe không hiểu.

“Ban đêm cô một mình đến đây, thần sẽ nhập vào tôi, bạn sẽ có duyên với thần trước. Sau

đó bởi do bạn đã có duyên với thần, thì bạn sẽ có một tình duyên rất nhanh đến với bạn,

chính là phương pháp này”

Cuối cùng cô gái này cũng nghe lời, bói đồng đó bảo cô gái đến tầng hầm của ngôi miếu

để chờ đợi thần linh giáng xuống. Cô gái này sau khi về nhà kể lại cho người bạn dẫn cô đi

cùng, không ngờ rằng người bạn này, vốn đã từng gặp phải trường hợp như cô ta, người bạn

này còn khích lệ cô ta phải tiếp nhận phương pháp này, người bạn đó nói với cô gái, đó là

cùng thần minh “thề non hẹn biển”, không phải là tùy tiện, người có duyên với thần mới có

tình duyên tốt.

Cô gái rất kinh ngạc hỏi tôi rằng, ch ng lẽ thần và người có duyên với nhau sao? Cô ta

ngây thơ đến nỗi muốn tôi làm chủ thay cho cô ta, nếu như tôi nói có thể, thì cô ta sẽ đi, nếu

như tôi nói không nên, thì cô ta sẽ không đi. Trong lòng cô ta rất sợ, nhưng vì muốn có một

mối tình tốt, nên chỉ phải kết duyên với thần thánh thôi.

Tôi nghe xong, sắc mặt liền thay đổi, vỗ tay thật mạnh vào bàn, chiếc ly trên bàn cũng bị

rơi xuống đất. Do quá bất ngờ như thế nên cô gái này cũng giật nảy mình.

“Mẹ nó, những thằng bói đồng bậy bạ, tức chết thôi, thật đúng là tức chết” Tôi cắn răng nói:

“Thật đúng là vô pháp vô thiên, mẹ nó, thiên lý ở đâu rồi? Cảnh nhiên để những con ma sắc

này ở nhân gian làm tàn rụi những mầm non này, thật đúng là những thứ đồi bại!”.

Đã rất lâu tôi không còn mắng chửi thần mắng chửi người, nhưng khi vừa nghe nhắc đến

những tên đồi bại này, thì không còn nhịn được nữa. Giả như rằng thần thánh thực sự ác như

vậy, thì không cần biết là thần gì, tôi cũng mở miệng ra mà mắng chửi, nhổ nước bọt vào

mặt.

Tôi nghĩ, nhất định không phải là ý của thần, mà chính là sắc ma nhập tâm, bói đồng đó nếu

không phải là ý của nó thì chính là bị ma sắc nhập tâm. Ngày thường tôi đã không có ấn

tượng tốt với bói đồng, rất nhiều bói đồng sau này bị biến chất, phần lớn là giả thần đến kiếm

tiền và lừa gạt phụ nữ. Tôi nói với cô gái đó, trên đời không có chuyện này, đây chính là

những tên lừa đảo giở trò, trừ phi cô tự mình điên đảo, nếu không thì không có việc này. Đó

chính là ban đêm bói đồng không có ai bầu bạn, nên mới tìm những cô gái mà không phải

tốn tiền.

“Vậy thì em không đi” Cô gái nói với vẻ thật tội nghiệp.

“Đương nhiên là không nên đi, nếu đi thì như đã đi vào miệng hổ”

Sự việc này, bác sĩ Lâm x Nam ở khoa nhi của tỉnh Gia Nghĩa cũng biết rất rõ. Muốn bắt

những tên bói đồng hại người, thì phải mời nữ cảnh sát ra tay (nữ cảnh sát phải rất xinh đẹp),

để bài bố cạm bẫy, nữ cảnh sát càng xinh đẹp thì những tên bói đồng càng mau chóng hiện

hình, xem trên thế gian này có ai còn dám hại người không.

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

24. Ma sắc nhập tâm phần 4.

Có một tay họ Quách là chánh bói đồng ở Loan đường, người này rất trẻ tuổi, chỉ mới

khoảng chừng 28 tuổi thôi, Loan đường chính là nơi thánh đường để thần tiên nhập vào bói

đồng mà viết chữ. Chánh bói đồng chính là chỉ người cầm bút loan mà viết, khi thần giáng

xuống, thì cây bút gỗ tự động nhảy ra chữ, hoặc là viết thơ hoặc là viết chữ hoặc là viết văn

chương, hiện nay ở Đài Loan đang có rất nhiều.

Anh Quách trải qua huấn luyện, chính thức trở thành bói đồng, phụng chỉ viết ra không ít

sách, phần lớn là sách khuyên người làm thiện, sách được phát hành rộng rãi, tiếng tăm cũng

khá tốt, bản thân anh ta cũng rất thành kính lạy Phật tin Thần, một lòng một dạ phục vụ tiên

Phật, mỗi khi gặp ngày của bói đồng, anh ta đều chay giới tắm gội sạch sẽ, mới đến bên cạnh

thau cát, chờ đến khi thỉnh thần nhập vào, mỗi khi thần giáng xuống, đều khích lệ anh ta.

Bên cạnh thau cát, ngoại trừ chánh bói ra, thì cũng có xướng chữ, cũng có ghi lại, người

phụ trách ghi lại được gọi là bút sinh. Có một ngày có một người phụ trách ghi mới đến, là

một cô gái rất trẻ, mặc áo màu xanh lam, mái tóc bồng bềnh, ăn mặc rất gọn gàng, khuôn mặt

dễ mến, hai con mắt như muốn hút hồn người.

Anh Quách vừa nhìn thấy cô gái này, đã bị vẻ đẹp của cô gái hút mất hồn, hồn phách bay

bổng. Lại còn nghe âm thanh ngọt ngào khi cô ta xướng chữ, anh ta kém chút nữa không

cầm vững cây bút gỗ.

Vài ngày sau đó, ở trên thau cát, anh Quách tay cầm bút viết ra vài dòng như vậy: “Chánh

bói đồng Quách tiên sinh, có tiên duyên không sảng, cần phải nhập thất một lần nữa. Còn cô

tên là x Phấn bút sinh kia, cũng có duyên với huyền môn, cũng cần phải tọa cấm” cô bút sinh

chính là cô gái xinh đẹp có tên là Vương x Phấn

Có một ông lão lên hỏi rằng: “Anh Quách là càn, còn cô gái họ Vương kia là thuộc khôn,

có cần phải tách riêng phòng tọa cấm không?”

Và nhìn thấy cây bút viết nhanh như bay:

“Tiên cảnh thanh hư tuyệt dục trần, phàm tâm làm sao biết lòng thánh chánh trực, trong

này tự có huyền cơ, hai người tọa cấm tự thị trân”

Những người trong miếu đương nhiên biết hai người là càn khôn khác nhau, làm sao có thể

tọa cấm chung một phòng được. Nhưng thần tiên chỉ thị rằng là có huyền cơ, nên không thể

có ý nghĩ lẫn lộn phàm tục và thánh, thế là y lệnh mà làm việc, và đốt nhang (hương) trầm ở

trong phòng tọa cấm, thời gian tọa cấm là 7 ngày, 3 bữa đều có người trong miếu đưa cơm.

Cô Vương x Phấn, là một cô gái có tính ngây thơ lãng mạn, thần tiên chỉ thị như vậy, cảm

thấy rất là cao hứng, cho rằng là kỳ ngộ, tự cho rằng đó là tiên duyên bất phàm.

Ngày đầu tiên của tọa cấm, anh Quách nói với cô gái: “Thời cổ có một vị tướng quân, gặp

được một tiên nữ, cô tiên muốn gả cho tướng quân kia làm vợ, nhưng tướng quân kia tức

giận, cho rằng cô tiên kia tại sao phải làm như vậy. Cho đến khi có một ngày tướng quân kia

bị bệnh, đi cầu cứu cô tiên nữ. Cô tiên nữ nói với tướng quân, ban đầu tôi muốn lấy ông, là

muốn dùng khí của nhà tiên để bồi đắp cho ông, tướng quân cho rằng là dâm dục, không chịu,

bây giờ duyên phận đã qua, không thể cứu được nữa. Tướng quân kia hối hận thì đã muộn,

không cứu được nên đành phải chết”

Tọa cấm đến ngày thứ 3, anh Quách nói với cô gái họ Vương: “Thần tiên có rất nhiều

phương pháp để cứu người, người thế gian thì không hiểu được. Tôi đã có chánh khí của tiên,

cô và tôi ở cùng nhau 7 ngày, thì nhất định cô sẽ có được khí của thần, khí này hơn cả 5 năm

khổ luyện tu hành của cô, thần định khí nhàn, trí nhớ rất tốt”

Cô gái hỏi: “Làm thế nào để có được như vậy?”

“Cần phải có bắp thịt gần nhau, thì tiên khí của tôi mới có thể đi vào trong cơ thể của cô”

Cô gái họ Vương kia cho là thật, thế là anh Quách kia ôm cô gái vào trong lòng, cởi áo cho

cô ta, mùi hương trầm phảng phất trong phòng, cô gái họ Vương đã mất đi trinh tiết.

Anh Quách nói với cô gái họ Vương: “Tiên cơ không thể tiết lộ”, lại còn nói: “Đây chính là

tụ hội của thần tiên, chúng ta là bạn của thần tiên, nên phải làm như vậy, ta là đến để độ hóa

cô” Và cô gái kia bàng hoàng, vì muốn có tiên khí này, liên tục 6 ngày tình như mật ngọt, cô

gái kia vốn không có cách phân biệt thật hay là giả.

Cho đến khi bụng của cô gái kia sau khi có được tiên khí từ từ to lên, người thân dò hỏi

nguyên do, thì ra là tên bói đồng giả lời nói thần tiên kia mà giở trò bậy bạ. Sau khi bị bắt,

anh Quách khẩn thiết cầu xin, đền rất nhiều tiền để tiếng xấu đừng đồn ra ngoài. Và anh ta đã

bị chủ Loan đường đuổi ra ngoài.

Sách ngày xưa do anh ta viết, thật hay là giả cũng không thể thu hồi lại được, tóm lại thì

người ta cũng không biết. Những quyển sách này vẫn khuyên làm một con người tốt, thôi thì

hãy để nó lưu hành vậy! Nói thật, giống như những tên đồi bại này, là cần phải đem ra ánh

sáng, để cho các cô gái mê tín không còn bị lừa nữa. Phải tin rằng, cần phải tin những gì hợp

lý, những gì không hợp tình hợp lý thì phải phân biệt cẩn thận.

Theo những gì tôi biết, lực lượng của ma sắc, được gọi là thiên ma đệ nhất, nếu gặp phải

“ma sắc nhập tâm”, thì đều bị điên đảo, anh Quách còn trẻ tuổi như vậy, vừa gặp phải cô gái

họ Vương kia, đương nhiên sẽ không trụ vững, không tu đạo nữa, không làm bói đồng nữa,

tâm thanh tịnh của thần tiên, đều bị những người này phá đến dơ bẩn hết cả.

Tôi nói với những người tu đạo rằng:

Hình thần dao loạn, đều không có ngày yên bình.

Tâm chí bay bổng, thì sẽ mất đạo

Phật nói: “Sắc tức thị không”

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

25. Ma sắc nhập tâm phần 5

Một ngày, có một lão tỳ kheo ni dẫn theo một tiểu tỳ kheo ni đến nhà tôi, tôi vừa trông thấy

tiểu tỳ kheo ni kia, ở trên mũi có một luồng khí đen, hai con mắt tuy rất đẹp, nhưng bên cạnh

tròng đen có sát khí màu đen.

Tôi nói với lão ni, tiểu tỳ kheo ni này chính là bị “ma sắc nhập tâm”

Lão ni nói: “Đại sư đoán không sai, nhưng phải cứu thế nào đây?”

Sự tình vốn là như vậy, khi tiểu tỳ kheo ni này khoảng 20 tuổi, bởi do thất tình mà xuất gia,

quy y với lão tỳ kheo ni, trải qua thời gian 3 năm, tất cả mọi chuyện đều rất yên bình. Đầu

năm nay, họ đến nhà của một chàng thanh niên bị tai nạn xe qua đời để làm Phật sự, sau khi

trở về chùa, thì phát hiện ra tiểu tỳ kheo ni không được bình thường, hồn phách điên đảo

khác thường. Nhất là vào ban đêm, thường hay không ngủ, tự mình lẩm bẩm nói, càng ngày

càng gầy.

Hỏi nguyên nhân, tiểu tỳ kheo ni lúc đầu kiên quyết không chịu nói, sau đó mới chịu nói ra,

khi cô ta ở trước bàn linh tụng kinh một mình, nhìn thấy ảnh của chàng thanh niên chết vì tai

nạn giao thông rất đẹp trai, trong lòng bèn nghĩ, người thanh niên này đẹp như vậy, nếu như

không chết, nếu mình chưa xuất gia, như vậy thì sẽ là một mối duyên thật tốt. Và thế là cô cứ

suy nghĩ suy nghĩ, mặt cũng nóng và đỏ bừng, Kinh cũng không biết niệm đến nơi nào nữa.

Không ngờ rằng cô chỉ suy nghĩ như vậy, ma sắc bèn nhập vào tâm.

Sau khi trở về chùa, ban đêm khi ngủ, người thanh niên đẹp trai đó bèn đi vào trong giấc

mộng, tiểu tỳ kheo ni quên mất mình là người tu hành, chỉ còn biết rằng mình là một cô thiếu

nữ đa tình, tuy rằng là ở trong mộng. Từ đó về sau, người thanh niên đó mỗi đêm đều đến.

Tiểu tỳ kheo ni cũng biết như thế là không hay rồi, nên kiên tâm niệm Phật đều vô hiệu,

trong lòng rất mâu thuẫn, ban ngày thì cảm thấy có lỗi với thanh quy của Phật môn, thề

nguyện sám hối, ban đêm, lại mê luyến sắc tình, không bỏ được người thanh niên đẹp trai đó.

Đến khi càng lúc càng lợi hại, không những đến trong giấc mơ, mà ngay cả ban ngày, tiểu tỳ

kheo ni này có cảm giác như là có người ở trong phòng, cửa không có gió mà tự nhiên mở,

đồ đạc từ trên không tự nhiên rơi xuống, rất nhiều chuyện kỳ lạ xảy ra, nói cũng không hết.

Lão tỳ kheo ni, cũng nhìn thấy sự khác thường, nhìn thấy đệ tử của mình, hồn phách không

biết bay bổng nơi nào, không màng đến chuyện ăn uống, tinh thần không tỉnh táo, đi khám

bác sĩ, thì không tìm ra bệnh, người thanh niên kia, hàng đêm vẫn đến. Lão tỳ kheo ni xưa

kia có đọc qua sách của tôi, nên dẫn theo tỳ kheo ni đến nhà của tôi, muốn cầu hóa giải.

Không ngờ rằng tôi vừa nhìn là biết ngay, chính là “ma sắc nhập tâm”.

Tôi nói với lão tỳ kheo ni, tôi chiêm toán biết được, người thanh niên trai này mượn khí của

tiểu tỳ kheo ni, có thể luyện “thuật thái âm luyện hình”, lâu ngày có thể thành hình mà hại

người. Nếu như tôi không trừ, thì sẽ xấu hổ với chức trách, thế là tôi vẽ 5 lá “Thanh minh

ngũ lôi bùa”, dán ở cửa sổ và của ra vào, và vẽ tiếp một lá “Chánh nhất trảm tà bùa” để ở

trên đầu giường.

Khoảng một tuần sau, lão tỳ kheo ni dẫn theo tiểu tỳ kheo ni đến để cám ơn, theo như

những gì họ nói, đêm hôm đó, chỉ nghe tiếng bước chân bên ngoài cửa phòng, nhưng nó

không thể vào được, ngủ cũng không còn nằm mộng. Đêm thứ hai, bên ngoài cửa sổ chấn

động, cửa cứ kêu ken két, nhưng ngủ vẫn không nằm mộng. Đêm thứ 3, từ “Chánh nhất trảm

tà bùa” phóng ra một đường ánh sáng màu trắng, chiếu th ng ra ngoài cửa sổ, từ đó, đã qua

một tuần, tất cả đều yên bình.

Tôi nói: “Thanh minh ngũ lôi bùa này là do tổ sư của tôi là Thái Huyền chân nhân truyền

lại, Thái Huyền chân nhân đắc đạo chân tiên, Thanh minh ngũ lôi bùa này, không giống như

một số Ngũ lôi bùa thông thường. Còn Chánh nhất trảm tà bùa là do Thanh Chân đạo trưởng

truyền lại, rất là huyền diệu, xưa nay vốn là thần kiếm rơi xuống đất, thì bùa pháp thăng lên,

người âm sẽ chạy mất, không dám đến gần.

Tôi cũng đến một căn phòng khác, nói với lão tỳ kheo ni: “Nói thật, hãy để cô ta hoàn tục

đi”

“Đại sư đã biết sao?”

“Không sai, cô ta có ý nghĩa hoàn tục đã lâu, cô ta cũng đã từng yêu cầu với bà, nếu như

có Phật duyên, vốn sẽ không nhiễm trần, một con người thế tục, tuy có một niệm là xuất gia,

nhưng lại nghĩ đến chuyện vui vẻ của thế tục, đó chính là duyên ở thế tục, thôi thì hãy để cho

cô ta đi vậy!”

“Được thôi, vậy thì theo lời của đại sư”

Cuối cùng, tôi nghe nói rằng tiểu tỳ kheo ni quả nhiên hoàn tục.

Theo những gì tôi được biết, học Phật cũng cần phải có Phật duyên, học Đạo cũng cần phải

có Đạo duyên, có rất nhiều người theo tôi học Phật học Đạo đếm không hết, những người

này đương nhiên là thành tâm thành ý, theo cầu đạo pháp, nhưng thật sự có thể hiển hiện oai

linh, không bị ma sắc bắt hồn, thì trong hàng vạn người chỉ có một hai người mà thôi.

Pháp Hải thiền sư có một câu kệ :

Khuyên người thế gian ngừng yêu “sắc”

Người yêu “sắc” sẽ bị “sắc“ làm mê muội

Tâm chánh thì tà sẽ không quấy nhiễu.

Thân đoan chánh thì ác làm sao có thể hiếp đáp?

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

26. Ma sắc nhập tâm phần 6.

Phải biết rằng sự lợi hại của thiên ma, là dùng sắc tình để hại người tu đạo, không ít người

đã bị thi ngã đổ. Không nên xem nhẹ hai chữ “sắc tình” này, trước tiên là “nhìn thấy sắc”, và

thế là “tình sinh ra ở trong lòng”, tình và sắc là tương sinh, tâm và mắt tương sinh lẫn nhau.

Từ xưa đến nay, nhiều người quân tử đều bị “sắc” lật ngã, dùng một câu Phật ngữ nói như

vậy: “như hằng hà sa số”. Lại càng có nhiều người phong lưu, người tự cho rằng mình là

nhân vật phong lưu tài tử, nhưng thật ra đều là một đống phàm phu tục tử. Tuệ Viễn pháp sư

thường nói như vậy: “Sắc và tình giống như sắt và cục nam châm, nó nằm ở trong tim của

con người, nếu gặp sắt thì nó hút chặt vào, không thể tách rời được, sắt và nam châm vốn là

đồ vật vô tình mà còn như vậy, huống hồ chi là chúng sinh hữu tình”.

Tôi nghiên cứu Phật đạo, đạo Phật là do Thích Ca Mâu Ni Phật sáng lập, phóng đại trí

quang minh, nói pháp 49 năm, Phật quang phổ chiếu 10 phương thế giới, là Thầy của Trời

Người, độ hóa chúng sinh. Phật tổ thành đạo ở dưới cây bồ đề, ma vương Ba Tuần sai 3 nữ

ma đến dùng sắc tướng dụ dỗ Ngài, kết quả là Đức Phật vẫn bất động, vì phá được ma sắc rồi,

và trở thành Phật, giáo chủ của cõi Ta Bà.

Đạo gia, nguyên khí là tổ khi thiên địa còn mới sơ khởi, thiên địa vốn là do nguyên khí hóa

ra, cho nên được gọi là Thiết Sư Nguyên Dương thượng đế, tức là Thái Thượng Lão Quân.

Thái Thượng Lão Quân hóa thân khắp trần sa, không thể tính đếm hết được. Vào năm thứ 48

của đời vua Thương Thang, chuyển Nhật Tinh chân khí, hóa thành viên đạn, đi vào trong

miệng của một cô gái trẻ, và ở trong bụng thai của cô gái ngọc trinh kia 81 năm, cho đến

năm thứ 9 của đời Vũ Đinh mới ra đời, sinh ra ở dưới một gốc cây Lý, nên lấy tên cây làm

họ của mình, mà khi vừa sinh ra thì râu tóc đã bạc trắng, nên người ta gọi là Lão Tử, Lão Tử

tên Nhĩ, tự là Bác Dương. Sau đó cưỡi con trâu ra khỏi Hàm Cốc Quan, để lại Đạo Đức Kinh

với 5000 lời dạy, cho nên cũng được gọi là Đạo Đức Chân Quân. 5000 câu của Đạo Đức

Kinh, là “Thái Thanh Tu Tiên”chân ngôn, trong đó chỉ th ng vào “phá sắc tướng”, phá sắc

tướng ở đây chính là phá sắc ma.

Chúng ta người tu đạo, dựa theo Phật Đạo mà tu trì, trong đó có Phật pháp và Đạo phẩm để

tu. Nhưng trên thế gian này vẫn có những người đi lệch theo tà pháp, pháp này gọi là pháp

linh hồn, dùng linh hồn của quỷ để làm mê hoặc nhiều người. Nếu như hành vi ngay th ng,

thì quỷ thiện sẽ đến nhập vào, thì còn có thể gọi là thiện, nếu như ác quỷ đến nhập vào, thì

hành vi sai lệch, vô pháp vô thiên, pháp linh hồn quỷ mà tôi nói chính là bói đồng, bói đồng

là công cụ để linh hồn quỷ nhập vào, phần nhiều những bói đồng sau cùng đều đi vào con

đường sai lệch.

Tôi có một câu chuyện thật như sau:

Có một quả phụ họ Hồng, chồng của bà chết đã 25 năm rồi, nhưng bà này rất đẹp, khuôn

mặt như hai trái đào, mặt như hoa phù dung, eo như cành liễu. Đáng quý nhất là, tâm tính

trong trắng như ngọc vậy, bà cứ lập chí thủ tiết như thế, bà ta cũng quy y với tôi, sớm tối trì

chú niệm kinh.

Có một lần, bạn bè dẫn bà đến một ngôi miếu Cửu Thánh dâng hương, nhân lúc có bói

đồng hỏi thần. Bà ta cũng hiếu kỳ mà hỏi một số chuyện.

“Hồng nữ sẽ sắp có mối tình mới” Thần nói

“Thế nào là mối tình mới?”

“Bà thủ tiết thờ chồng, thần rất khâm phục, nên vì thế mà thần ban cho một người chồng

tốt cho bà, không nên trái ý thần”

“Xin hỏi là khi nào?”

“ Ba ngày sau, dưới biển báo của trạm xe công cộng, vào giờ trưa có người đi đến hỏi bà thì

chính là người đó” .

Sau khi bói đồng nói lung tung một hồi, thì toàn thân run lên, thần đã “thoái lui”.

Sau khi bà Hồng về nhà, không tin có việc này, bà ta vốn thủ tiết thờ chồng, nuôi dạy 2 đứa

con. Tuy rằng thần nói như vậy, nhưng bà cũng không xem trọng nó. Đến ngày thứ 3, bà ta

lại sinh ra tâm hiếu kỳ, bà muốn biết thật sự là có chuyện này không, và “người chồng như

ý” này là ai?

Vào giờ trưa của 3 ngày sau, bà ta đứng dưới biển báo của trạm xe công cộng, bà nhìn thấy

một thanh niên đi xe gắn máy từ xa chạy đến, người đàn ông này đeo mắt kính đen, người

đàn ông này gật đầu chào bà, gỡ mắt kính đen xuống, và tất cả đều đã rõ, người này chính là

bói đồng ở miếu Cửu Thánh, bói đồng đưa tay kéo bà Hồng lên xe, bà Hồng sợ hãi, hai

người cứ thế níu kéo qua lại ở trạm xe, cho đến khi bà Hồng kêu to lên mới dừng lại. Trước

khi đi bói đồng còn nói tục: “Mẹ nó, nếu như bà không nghe theo, thì tôi sẽ bỏ bùa bà, để

cho con trai bà bị chết “

Bà Hồng sợ hãi tìm đến tôi. Đương nhiên vẫn là tôi Lư Thắng Ngạn “giải” nguy cho bà.

Tên bói đồng đó mặt mũi như thế nào, thật đúng là tên đồi bại của cung miếu, là con sâu của

nhân gian, người này kiếp sau sẽ chuyển kiếp là con sâu mọt trong nhà cầu ở thôn quê.

Những bài văn viết về “Ma sắc nhập tâm” không phải là nói cho vui, mà là trực tiếp nói về

sự đáng sợ của ma sắc làm não loạn tâm người tu hành. Làm một người tu hành cần phải

không mê sắc, tâm vững chắc như đá. Như thế thì, cho dù bất cứ sự dụ dỗ nào, cũng không

mất đi đạo tâm, tức là:

Chưa rời lòng tình thì đừng hỏi đạo

Vẫn còn trong biển dục thì đừng tham thiền.

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

27. Kim quang phục ma.

Tôi có một tấm ảnh, chính là tấm ảnh của giáo sư Hạ Vĩnh Hàn ở New York khi đến Đài

Loan tham gia hội Kiến Quốc. Giáo sư Hạ viết thư về nước tìm tôi, người nhà của tôi nói với

tôi, tôi đang ở Seattle-Mỹ. Thế là vào mùa đông năm 1982, ông và người vợ mang quốc tịch

Nhật cùng với đứa con trai nhỏ, đáp máy bay đến Seattle tìm tôi.

Ông ta chụp cho tôi một tấm ảnh, không ngờ rằng khi tấm ảnh chụp ra thì có một đường

ánh sáng phóng ra từ trán của tôi, khiến cho giáo sư Hạ cảm thấy rất kinh ngạc. Lần đầu tiên

giáo sư Hạ đến nhà của tôi, tôi nói với ông ta: “Giáo sư Hạ, viện Bắc Cực Kim Điện Bát Nhã

của ông thờ tổng cộng là 21 vị Phật Bồ tát”

Giáo sư Hạ vốn là người sáng lập hội liên hiệp Đạo giáo và Phật giáo ở nước Mỹ, bản thân

ông ta cũng không biết mình thờ cúng bao nhiêu tượng, thế là lấy tấm ảnh chụp ở đại điện ra

xem, và đếm từng bức tượng một, và đúng là 21 tượng không hơn không kém. Giáo sư Hạ và

vợ kinh ngạc đến mở to mắt.

Và việc khiến ông ta cảm thấy lạ lùng hơn là ở trán của tôi phóng ra một đường ánh sáng

màu vàng kim. Thật ra không có gì lạ cả, người tu đạo đắc chứng rồi, thì trên trán sẽ có 3

đường ánh sáng: một đường ánh sáng màu đỏ là đường ánh sáng đức của thiện pháp tụ lại,

đường ánh sáng thứ 2 màu trắng là đường ánh sáng pháp lực tu hành, đường ánh sáng thứ 3

màu vàng kim là ánh sáng đắc chứng liên hoa. Sáng hào quang thành đường khí sáng, từ đầu

trán phóng ra, bay th ng hướng Tây Phương Cực Lạc Thế Giới.

Đường ánh sáng màu vàng kim này, không nên xem thường, nó không phải là thép cũng

không phải là sắt, nhưng ánh sáng này có thể hóa thành bảo kiếm, lẫm liệt như thần vậy,

đường ánh sáng bảo kiếm này không cần phải rèn, không cần phải bỏ vào trong lò rèn, nhưng

vẫn có ánh khí thần uy hiện rõ ra ngoài, ánh sáng là màu kim sắc hòa lẫn thêm màu đỏ, ai

nhìn thấy sẽ khen ngợi luôn miệng, trong ánh sáng này vẫn nổi lên những đóa sen nhỏ, nhấp

nháy, trùng trùng điệp điệp. Thăng treo trên hà sa vũ trụ, như bay vào Tây Phương Cực Lạc

thế giới.

Đã từng có một lần, có một thiên ma đến.

Thiên ma này toàn thân đều là như vảy cá, có 2 cái đầu, mắt lồi, lưỡi rất dài, đứng ở trong

không khí, miệng nói tiếng người rằng: “Ta đến đây hỏi lấy bí pháp Thái Ất Kim Liên, nếu

như ngươi hiến cho ta, thì tất cả mọi chuyện không cần phải lo, nếu ngươi không đưa ra, thì

ta sẽ nhả lửa tam muội, thiêu sống ngươi”

“Thái Ất Kim Liên bí pháp, là của Thiên Hoàng Thượng Nhân trao thọ, không được truyền

bậy, làm sao cho ông?”

“Lư Thắng Ngạn, ngươi đừng nên ỷ vào thế của Tam Sơn Cửu Hầu tiên sinh, ta xem ngươi

như là đứa trẻ 3 tuổi”

“Tôi không thể đưa”

“Thật không thể đưa?‟

“Đương nhiên”

Và thiên ma đó quả nhiên nhả lửa tam muội, từ miệng phóng lửa cháy th ng qua tôi, thế là

miệng tôi niệm thầm:

“Tập tâm một nơi là thánh hùng, thần thông hội thượng đệ nhất thông,

Quang sáng một đạo chiếu tứ tượng, chăm tu vạn niên như thiên long.

Trán đầu khai mở mù mịt tan, nâng cao đài lên cấp như phong,

Một đạo kim tiễn tung phóng xuất, Tây Phương Tu Di khắp xoay vòng”

Trán của tôi vừa mở ra, thì phóng ra một đường ánh sáng màu vàng kim, bay vòng trong

đám lửa, và đám lửa liền rút đầu cụp đuôi chạy mất.

Thiên ma vừa nhìn thấy đường ánh sáng màu vàng kim, thì rất sợ hãi, biết được đây chính

là Liên Hoa Quang, nhanh chóng chạy mất, nó chạy mãi cho đến một nơi hẻm núi sâu và

trốn vào trong đó, không dám ra nữa.

Thiên ma này sau đó gặp rất nhiều thiên ma bạn nói: “Lư Thắng Ngạn đã tu được Liên Hoa

Quang, không thể xem thường, không thể xem thường”, nhưng mà có rất nhiều thiên ma

không tin, bởi Liên Hoa Quang ở Phật giới mà nói, chỉ có Phật Bồ tát mới có. Ở Đạo giới mà

nói, chỉ có Thiên Tiên, Kim Tiên mới có. Những thiên ma đó đến thử sức với tôi, cố ý muốn

tôi hiển lộ ra Kim Quang thần thông một lần nữa, nhưng tôi không bị chúng dụ. Đấy là

Huyền Nguyên mở ra khẩu quan bậc nhất, không phải làm trò chơi ảo thuật, sao biểu hiện

xem thường được.

Có người hỏi tôi, làm sao tu được “Ánh Sáng Liên Hoa” ?

Tôi trả lời rằng: “Niệm Cao Vương Quan m chân kinh 10.000 lần. Niệm thần chú Phật

Mẫu Chuẩn Đề 70.000 lần. Đây chính là pháp trừ nghiệp chướng đời trước đã, sau đó tiếp

tục khảo nghiệm đạo tâm của đệ tử xem có kiên cố không, trước tiên là ma sắc thử qua trước,

nếu như không bị ma sắc làm cho ngã đổ, thì mới có thể học”.

Trong các đệ tử của tôi, có một đứa đệ tử cũng có đạo duyên, nhưng đáng tiếc là không

vượt qua khỏi quán ma sắc. Cầu đạo cầu pháp, khí tượng vạn thiên. Nhưng đức hạnh khó

thành, thì làm sao mà đắc đạo, tôi xem hắn, rất là siêng năng, nhưng đáng tiếc không trừ

được sắc trong tâm của hắn, đã bị ma làm ô nhiễm rồi, tôi khuyên hắn, kiếp sau tiếp tục đi

thôi!

“Tuần hoàn của thiên địa là nhanh chóng lắm, ta không thể ở lâu mãi trên thế gian này,

tranh danh đấu lợi, cuối cùng cũng chỉ còn ngôi mộ, yêu thích sắc tình, cũng không lâu dài.

Thôi thì hãy tu chân dưỡng tánh, thể giải đại đạo đi thôi”. Người thế gian cười tôi ngu si, tôi

có phải ngu si thật không, mở lòng tươi cười, thuận gió mà đi.

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

28. Đại Bạch Tán Cái thoái bệnh ma.

Trước khi bắt đầu bài viết này, tôi tiết lộ lá thư của một đệ tử nữ gửi đến như sau:

Kính gửi Thầy!

Thời gian trôi qua thật nhanh, Thầy đi nước ngoài định cư đã 8 tháng rồi. Khoảng thời gian

này không ngắn cũng không dài, cuộc sống, sức khỏe, hoàn cảnh của Thầy có được như ý

muốn không? Thật sự là khiến cho các học trò lo lắng. Thầy cũng biết rõ tính của học trò xưa

nay rất nóng tính, xưa nay đều cho rằng điện thoại hỏi thăm Thầy thì tốt hơn là viết thư, cho

nên không viết thư hỏi thăm Thầy, xin Thầy hãy tha lỗi!

Nghĩ về một năm trước đây, bởi do con bị bệnh phải nằm ở trên giường mãi, sinh mạng

đang bị nguy hiểm, may mắn là có sự giúp đỡ của Tiên Phật và Thầy ra sức phù hộ, khiến

cho sinh mạng của học trò được chuyển nguy cấp thành bình an, sự tái sinh này, khiến cho

học trò nhớ mãi không quên.

Nhớ lại, mỗi lần học trò gặp khó khăn, đều đến cầu xin Thầy giải giúp sự khó khăn này,

nhưng bây giờ thì Thầy đã ở một phương trời xa xôi, khiến cho học trò không thể còn như

ngày xưa nữa rồi, ở bên cạnh của thầy mà nghe thầy chỉ dạy, mỗi lần nhớ đến đây, con đều

rất đau lòng, thật là hận mình không thể ở bên Thầy, để cho việc tu hành của con ngày ngày

càng tiến bộ hơn.

Thầy giáo, xưa nay thì đều rất từ bi, phổ độ quần sanh. Bây giờ thầy ở nước Mỹ, càng vì

Phật pháp mà hoằng dương, đang rất bận rộn, nhân đây học trò chúc cho Thầy, hóa đạo được

thành tựu, thiên hạ quần sanh đều quy y, khiến vạn nhà sinh Phật, chúng sinh được nhờ.

Học trò La Ngọc Cầm kính gửi

Ngày 20 tháng 1 năm 1983

Đây lá thư gửi từ Đài Loan, lá thư này khiến cho tôi nhớ đến lúc còn ở Đài Loan đã cứu cô

này thoát chết, ở phía sau ngôi nhà của cô ta ở, vốn có một “con ma chết chìm” đến nhập vào,

“con ma chết chìm” này tự xưng là ma nước, con ma chết chìm này ở con sông phía sau ngôi

nhà.

Khi vừa mới bắt đầu, cô ta vô duyên vô cớ bị bệnh, nóng sốt mãi không hết, ban đầu thì

không để ý, nhưng sau đó rất nghiêm trọng, tìm bác sĩ khám bệnh, bác sĩ cũng không tìm

được nguyên nhân, lúc thì nói cao huyết áp, lúc thì nói bệnh tiểu đường, lúc thì nói bị chứng

bệnh thiếu nước, tóm lại đã đi rất nhiều bác sĩ, nhưng bệnh vẫn không hết, bệnh kéo dài đến

nửa năm, thì mặt cô ta biến thành đen, mắt lõm xuống, hồn phách đã đến cõi âm, lúc thì nói

nhìn thấy thần, lúc thì nói nhìn thấy ma.

Sau cùng, cô ta được người thân dìu đến nhà tôi, khẩn thiết cầu xin tôi cứu, cô ta không thể

quỳ được nữa nhưng vẫn quỳ xuống, lúc đó cô ta yêu cầu, mau chóng hãy để cô ta chết, đừng

nên đày đọa cô ta nữa. Lúc này bác sĩ ở Thảo Đôn cũng cho rằng cô ta 9 phần chết chỉ còn

một phần sống mà thôi, không thể cứu được nữa (Bác sĩ này là chuyên trị bệnh tiểu đường).

Và chính do quỳ xuống như vậy, trong lòng tôi phát đại từ bi. Thì ra thọ mạng của La

Ngọc Cầm đã hết, điều này chính là do tôi bấm ngón tay mà biết, nhưng mà, cô ta quỳ như

vậy, tôi nói với chư Phật, người này nếu không chữa trị, thì chứng minh rằng Lư Thắng

Ngạn vô năng, tôi cần phải chứng minh “phá vận mạng”.

Lúc đó tôi đến nhà cô ta, tôi dùng ngón tay viết lên ở phía trước và phía sau ngôi nhà “Đại

Bạch Tán Cái chú luân”, chú luân này được dịch như sau:

“Um, Sa O Qua, Ta Tha Cha To, A Ni Kha, Xua Ta, Ta Ba Chơ, Hum Pi, Hum, Ma Ma,

Hum Ni So Ha”(dịch âm)

(Phạn ngữ tham khảo: Om Sarva Tathagato Anika Sitatapatra Hum Pei! Hum Mama Hum Ni

Svaha!)

Tôi biết rằng tôi làm như vậy, thì con ma nước sẽ không còn cách nào để đi vào nhà nữa,

và cũng không còn cách nào để nhập vào người của La Ngọc Cầm nữa, từ khi La Ngọc Cầm

được người nhà dìu đến, và khi cô ta quỳ xuống, tôi thề rằng sẽ cứu cô ta, bệnh cô ta sẽ từ từ

khỏi h n.

Bác sĩ ở Thảo Đôn cho rằng là kỳ tích, bác sĩ này cũng có đến qua nhà của tôi, đây là sự

thật trăm phần trăm.

Nói thật, tôi dùng Đại Bạch Tán Cái thoái ma pháp, đây chính là “đại pháp tiểu dụng”, bởi

vì Đại Bạch Tán Cái Phật Mẫu, là Kim Cang Đỉnh Kế Đại Hồi Che Mẫu, có ngàn tay ngàn

mắt, chủ tể của tất cả chúng sinh trong tam giới. Oai lực của tâm chú Đại Bạch Tán Cái, có

thể khiến cho tất cả các oán địch tự động thoái lui, thiên ma tà ma thoái lui, có thể phá trừ tất

cả các bùa ngải, có thể được Phật A Di Đà tăng thêm thọ mạng, phá 3 loại ma: thiên ma, địa

ma và thủy ma, có thể phá tất cả nguy hiểm, đêm nằm ác mộng, quỷ mị hiện hình.

Pháp tu trì Đại Bạch Tán Cái Phật Mẫu, có thể có được mặt trời, mặt trăng, sao đẩu hộ trì

giáng phước cát tường, nếu tu trì, tụng chú, cúng dường, đeo trên mình thì càng có nhiều

công đức, khi thọ mạng hết sẽ sinh vào cõi Phật, không đọa vào lục đạo.

Gần đây có tin tức truyền đến rằng, Tây Tạng phái Cát-Mã Đại Thiết Rinpoche sẽ cử hành

quán đảnh Đại Bạch Tán Cái Phật Mẫu ở Hong Kong, tin rằng khi cử hành đại pháp hội Đại

Bạch Tán Cái, sẽ có mây cát tường hiện, Phật quang phổ chiếu, chúng sinh được nương nhờ

lợi ích này.

Nhân đây tôi sẽ ghi lại pháp tu trì Đại Bạch Tán Cái Phật mẫu (dùng vải màu vàng ghi chú

luân Đại Bạch Tán Cái để cúng dường).

Quy y Liên Sanh thượng sư, Quy y Phật Đà da, Quy y Đạt Ma da, Quy y Tăng già da.

Nguyện chúng sinh vãng sinh Phật quốc.

Nguyện chúng sinh thoát ly khổ ách.

Nguyện chúng sinh tinh tấn đắc pháp.

Nguyện chúng sinh oán ma thoái tan.

Tán bài tụng:

Nhất thiết pháp không bất trụ tướng. Bạch Tán Cái Mẫu thân bạch sắc.

Một đầu, hai tay, mặt 3 mắt. Thân mặc thiên y đội bảo quán.

Thủ túc chưởng tâm cách nhất mục. Trái trì tán cái, phải ban nguyện.

Kim Cang kiết già tọa nguyệt liên. “ m . Bei Cha Sa Ma Da.” (Phạn ngữ: Om Benza

Samaya)

“Trạ, Hum, Ban, Ho” (Dza Hum Bam Ho) hợp nhất thể.

Từ trong chữ “Hum” phóng bạch quang.

Um A Hum, So Ha. (niệm 3 lần)

Cúng dường (hiến bát cúng)

Niệm tâm chú Đại Bạch Tán Cái Phật Mẫu: “Um, Sa O Qua, Ta Tha Cha To, A Ni Kha, Xua

Ta, Ta Ba Chơ, Hum Pi, Hum, Ma Ma, Hum Ni So Ha”

(Phạn ngữ tham khảo: Om Sarva Tathagato Anika Sitatapatra Hum Pei! Hum Mama Hum Ni

Svaha!)

Tiếp theo là niệm hồi hướng:

Nhất thiết Như Lai vô thượng đỉnh, hóa thân vi diệu hiện thiên vân,

Oai đức tự tại Bạch Tán Cái, nhất nhất xuất hiện ngã kính lễ.

Nguyện dĩ sở tu Bạch Tán Cái, tốc thành pháp quang vô địch quang,

Hộ trợ chúng sinh hàng thiên ma, thảy đều phi hướng chư Phật địa.

Theo tôi được biết, khi tôi còn trẻ, đã từng đến Cơ Long chùa Thập Phương Đại Giác, và

được một vị tăng ban cho bùa vải Đại Bạch Tán Cái, bên trong thì có tâm chú và kiên giáp

chú, chỉ biết là một trong những thần chú hàng ma. Sau khi tu tập tâm pháp Đại Bạch Tán

Cái Phật Mẫu, thì dùng để đuổi ma. Tâm ấn chữ Um của Đại Bạch Tán Cái phóng ra ánh

sáng màu trắng, ánh sáng quang minh bất khả tư nghì, tôi cầu thỉnh Phật Mẫu từ bi, hộ trì tất

cả chúng sinh, cũng hộ trì cho tất cả các học trò của tôi, để tâm pháp của Đại Bạch Tán Cái,

hiển hiện oai lực, hàng phục yêu ma.

Tôi ước mong tất cả chúng sinh đều tu trì pháp này, sẽ được lợi ích lớn.

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

29. Pháp Lục Độ Mẫu trừ bệnh ma.

Tôi lại tiết lộ một lá thư như sau:

Thầy giáo Lư:

Kính chào Thầy! Trước tiên kính chúc Thầy năm mới vui vẻ, vạn sự như ý!

Con là một đứa đệ tử mà Thầy sẽ cho là lạ mặt nhất, từ khi mùa hè năm ngoái được Thầy từ

bi thu nhận quy y quán đảnh ở tịnh xá Thái Bình, pháp lực đã vào trong thân, nhưng đến nay

vẫn chưa có cảm nhận, đến khi bước vào mùa thu, mới có hiện tượng nội công, thân thể sinh

ra hiện tượng linh động. Từ đan điền, hội âm đều có một năng lượng làm chấn động, và chấn

động cho đến tay chân trăm xương, có lúc mạnh đến 10 phút và gần như là bay lên không

vậy.

Khoảng một tháng sau, có một cư sĩ lớn tuổi tập thiền nhiều năm, nhìn thấy con khi tịnh tọa

thì diễn kết thủ ấn, không hiểu là gì, nên thử bắt mạch cho con, phát hiện rằng trong thân của

đệ tử có một luồng điện rất mạnh, và điện lại được truyền từ ngón tay bắt mạch của ông vào

trong thân ông ta, khiến ông ta vô cùng kinh ngạc.

Sau này, đệ tử nhẹ nhàng đặt tay lên lòng bàn tay của người khác, dùng ý niệm đem năng

lực của linh thông qua ngón giữa, ngón trỏ để truyền vào lòng bàn tay, mỗi một người đều có

một vài phản ứng (nóng, mát, tê như bị điện giật), thậm chí có một số người cảm thấy từ nơi

hội âm bị chấn động lắc lư, nhưng lại có một số người cảm thấy cánh tay bị tê, thậm chí là

toàn thân không còn sức.

Đệ tử cũng mời một số người có cảm ứng, tịnh tọa ở trước mặt đệ tử, nhưng cách khoảng 3

mét, đệ tử kết thủ ấn (thủ ấn này là bất giác tự mà kết, hai ngón tay trỏ hướng vào bên trong

bẻ cong lại, đặt ở trên ngón cái, hai ngón tay út, ngón áp út, ngón giữa thì đều hướng vào

nhau, hướng ra ngoài tạo thành hình tam giác và tạo thành hình tam giác trùng điệp. Ngón út

ở tầng phía dưới, ngón áp út ở tầng chính giữa, ngón giữa ở tầng trên, 2 ngón cái thì đầu

ngón tay chạm vào nhau), phần đầu nhọn của thủ ấn thì hướng về đối phương, và dùng niệm

lực khiến cho năng lực truyền đến đối phương, đối phương sẽ cảm thấy toàn thân như bị điện

giật vậy và nhìn thấy ánh sáng trắng, hoặc như có luồng điện chạy khắp mình, khiến cho

người cảm ứng làm cho thân thể lắc lư, thậm chí có người trong ánh sáng nhìn thấy pháp

tướng của “Lục Độ Mẫu”.

Nếu như là người bị bệnh, thì vùng bị đau đó sẽ phản ứng rất mạnh, sẽ có tác dụng trị liệu,

có người thì một lần là khỏi h n, có người thì bệnh tình giảm nhẹ.

Những hiện tượng trên mà đệ tử báo cáo cho Thầy, không biết có bình thường không, xin

Thầy chỉ dạy. Đệ tử ăn chay đã gần một năm, là không bao lâu khi đệ tử quy y quán đảnh ở

nơi Thầy, bởi do vấn đề công việc bị điều đến Đài Bắc. Trong một cơ hội vô tình, nhìn thấy

hành giả yoga Ấn Độ (Anandamarga) học tập pháp yoga (Matra), nhưng khi con vừa ngồi,

thì xuất hiện linh động thủ ấn, ngay cả hành giả yoga cũng cảm thấy kỳ lạ không hiểu.

Thầy đang ở nước Mỹ xa xôi, đệ tử đã hỏi nhiều người, nhưng không ai biết hết, con là đệ tử

quán đảnh chính thức của Thầy, tu hành chính pháp của Linh Tiên Chân Phật Tông, khi biết

được địa chỉ của Thầy ở Mỹ, nên gửi thư đến xin chỉ dạy, cũng gửi kèm theo chi phiếu mua

tem, cầu mong được Thầy chỉ dẫn.

Pháp hiệu của đệ tử là Liên Âm, Tưởng Truyền Chấn. Ngày 11 tháng 2 năm 1983.

Tôi nói với Tưởng Truyền Chấn rằng, cho đến hiện nay, thì anh ấy là vẫn bình thường, linh

năng có thể trị bệnh, đó là sự thật ngàn năm. Tôi nói với anh ấy, có người nhìn thấy pháp

tướng của “Lục Độ Mẫu”, Lục Độ Mẫu là công chúa Văn Thành đời nhà Đường, tay phải bắt

ấn từ bi, và còn có một vị nữa là “Bạch Độ Mẫu”, chính là công chúa Từ Trân, tay phải bắt

ấn tam xoa, Lục Độ Mẫu và Bạch Độ Mẫu đều tượng trưng cho trí tuệ vô song.

Ấn của anh ta chính là một trong những thủ ấn của “Lục Độ Mẫu”, anh ta dùng ấn của Lục

Độ Mẫu trị bệnh cho người ta, đương nhiên là có công hiệu rất lớn.

Có rất nhiều người không hiểu về Linh tiên tâm pháp, khởi linh chỉ là sơ cơ, là phương tiện

dẫn nhập Phật môn, bởi do có cảm ứng, mới có thể khiến cho tâm chí của người ta không

thoái lui, mà vì thế nên kiên định tu hành. Còn tôi dẫn người quy y Phật, tiếp theo là dùng

“nước Tam Hum” quán đảnh, khiến mọi người đều có tam giải thoát môn.

Nhiều người không hiểu tôi, xem tôi là “ma”, tôi là “ma” cũng được, “Phật” cũng được,

thật ra ma cũng là chúng sinh, những con ma sau này cũng thành quyến thuộc của Phật, Phật

vẫn cần phải độ hóa ma, cho nên, tôi vẫn không sợ hãi khi người ta xem tôi là ma, nếu con

ma này là tôi, có thể dẫn người khác thành Phật, đó mới là công siêu tông phái, công đức phủ

thập phương.

Tưởng Truyền Chấn quy y với tôi, tiếp nhận quán đảnh “Tam Hum thủy”, kết thủ ấn Lục

Độ Mẫu, vậy thì tôi có trách nhiệm nói cho anh ta biết phương pháp tu trì, bổn tôn của anh là

“Lục Độ Phật Mẫu”, sau này anh sẽ theo pháp bổn tôn mà tu trì, và sẽ tiếp tục tu trì nhất định

sẽ có cảm ứng bất khả tư nghì, có thể giải cứu đau khổ cho rất nhiều người.

Pháp tu trì Lục Độ Mẫu như sau:

Pháp tu trì Lục Độ Mẫu, trước tiên có thể đến các chùa Mật tông để thỉnh tượng “Lục Độ

Mẫu” về tôn thờ, thông thường thì các chùa của Mật tông đều có tượng Lục Độ Mẫu.

Trước tiên là tịnh tọa quán tưởng Lục Độ Mẫu rất trang nghiêm, ngồi ở trên hoa sen, trên

đầu đội mũ Ngũ Phật nhỏ, bên cạnh mũ Ngũ Phật có cắm rất nhiều đóa hoa nhỏ xinh đẹp, tay

trái ngài cầm hoa sen đang nở, tay phải bắt ấn từ bi, thân màu xanh lục sáng chói. Bổn tôn

ngồi trên hoa sen có cành, cành này phải quán tưởng nó ở trên đỉnh đầu của mình, cành sen

này phóng ra ánh sáng chiếu th ng đến tâm của mình, tất cả bệnh tật tội nghiệp đều tiêu tan

mất hết, tất cả ma nạn chướng ngại đều tiêu tan hết.

Toàn thân của mình, cũng giống như bổn tôn vậy, biến thành màu xanh lục, trí tuệ thần

thông, pháp lực thù thắng, phước thọ phú quý, tất cả đều được thành tựu.

Cách quán tưởng này, có thể làm trước khi tu pháp, cũng có thể làm sau khi tu pháp.

Trước khi tu pháp niệm tứ quy y:

“Nam Mô Cu Lu Pây, quy y Liên Sanh Thượng Sư

Nam Mô Put Tà Dề, Nam Mô Tạ Mô Dề, Nam Mô Sinh Kha Dề.

Tiếp theo là niệm kệ sám hối:

“Quy y Tam Bảo với sám hối, Tất cả tội nghiệp được tiêu trừ

Thánh phàm thắng hạnh đều tùy hỷ, Bồ đề đại tâm hằng hộ trì.”

Kết thủ ấn Lục Độ Phật Mẫu, niệm tiếp:

“ Nguyện tất cả chúng sinh cụ túc lạc cập lạc nhân,

Nguyện tất cả chúng sinh thoát ly khổ cập khổ nhân.

Nguyện tất cả chúng sinh vĩnh trụ vô khổ an lạc.

Nguyện tất cả chúng sinh chứng oán thân bình đ ng giác.

Đây gọi là tứ vô lượng tâm, cũng chính là Đại Bồ đề tâm nguyện.

Tán như vậy:

“Quy y Phật Mẫu Lục độ tôn, an ngồi trên đỉnh Tọa Bảo Liên.

Lục quang chiếu thấu thân tâm ta, tu trì pháp lực giai như ý”

Trì tâm chú Lục Độ Mẫu : “Um Ta Le, Tu Ta Le, Tu Le, Soha”, (Om Tare Tut Tare Ture

Svaha), tụng chú này 108 lần, sau đó quán tưởng ánh sáng màu xanh lục, toàn thân trong

suốt.

Theo những gì tôi biết, Lục Cứu Độ Mẫu, bởi do toàn thân của Lục Độ Phật Mẫu là màu

xanh lục trong suốt, người tu trì vì muốn toàn thân trong suốt thì không được hút thuốc, kỵ

ăn ngũ tân (hành, hẹ, tỏi, nén, kiệu), nếu không sẽ bởi do sự chướng ngại của thuốc lá và ngũ

tân, nhất là ngũ tân sẽ làm cho ta tăng dục niệm, nên phải cấm kỵ.

Không phải chỉ tu trì pháp này mà cấm kỵ, tất cả các pháp tu, tốt nhất nên cấm thuốc lá và

ngũ tân.

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

30. Nam mô Mật Đa Ngôn tôn giả

Tôi có một đệ tử tên là Giang Dũ Quần, trong giấc mơ hắn liên tục thấy một vị thần rất to

lớn, sau khi thức dậy, vẽ hình ra và gửi cho tôi xem.

Vị thần này rất to, trên đầu đội mặt trời mặt trăng, phía trên có một thiên long vòng quanh,

tóc nhuyễn bay phất phơ, mắt phẫn nộ, tai nhọn, răng năng to lớn, tất cả có 6 cánh tay, một

tay cầm hàng ma xử, một tay cầm cung, một tay cầm mũi tên, một tay cầm rìu, một tay cầm

giáo, một tay cầm kim quả búa, một chân thì hướng lên trước, một chân thì nửa quỳ và giẫm

trên một con quỷ.

Tôi vừa nhìn, thì biết ngay đó là “Nam Mô Mật Đa Ngôn tôn giả”, là một trong những vị

thần hộ pháp của Mật tông, thì ra vị thần này đang là hộ pháp thần của Giang Dũ Quần.

Theo kinh điển của Mật tông, Mật tông hành giả hoặc người có duyên với Mật tông, đều có

kim cang thần thủ hộ, khi gặp ma nạn thì kim cang thần sẽ bảo hộ, đồng thời phần lớn kim

cang thần đều theo Mật chú, bởi vì Mật chú có thể giải rời oán ma, đều chính là bởi do có

Kim Cang thần thủ hộ. Nói thật, những Bồ-tát thành tựu thập địa, vẫn cần phải dùng các thần

chú để hộ vệ bản thân, huống chi là các chúng sinh nho nhỏ như ta.

Chúng ta không cần biết là Hiển giáo, Mật giáo, tu đạo, một lòng một dạ mà học pháp, một

là sợ tâm ma bên trong, hai là sợ ngoại ma bên ngoài, nhưng mà những loại ma này đến, nhất

định phải có cách để phá trừ. Một số đại đức thượng sư thường nói, không kể ma hay là

không phải là ma, ma đến thì cứ mặc kệ nó, Phật đến thì cũng không cần biết, lâu ngày, thì tự

nhiên sẽ không có chuyện ma nữa, nếu như bạn sợ hãi, thì ma sẽ khiến cho sự sợ hãi của bạn

ngày càng tăng lên, cho nên nhất niệm không sinh, chính là bí quyết hàng ma.

Ngoài ra còn có một cách nói, khi Phật Thích Ca thành Phật, ma vương (vua của Tha hóa tự

tại), tâm lòng đố kỵ, sai 3 con gái của ma vương và một đám ma nữ toàn thân lõa thể đến để

dụ dỗ đức Phật, lúc đó Phật Thích Ca niệm Kim Cang Hàng Ma Chú, tay trái kết Kỳ Khắc ấn,

tay phải búng ngón tay, tất cả ma nữ đều ngã xuống đất không thể đứng lên nổi. Cho nên

hàng ma là ấn và chú ngôn cùng thi hành, nhưng, Kim Cang Hàng Ma Chú, oai lực rất mạnh,

bình thường là không nên sử dùng thì tốt hơn (Nhân quả).

“Nam Mô Đa Mật Đa Ngôn tôn giả” là một trong những kim cang hộ pháp. Phàm những

người có Phật duyên rất sâu nặng ra đời, đạo công càng cao, thì ma chướng càng nặng, đó

bởi chính là đạo cao một thước thì ma cao một trượng, đứa đệ tử Giang Dũ Quần này, nếu

như đã có Mật tông kim cang hộ pháp, thì như đã có duyên với Mật tông rồi. Nếu như anh

gặp ma, thì có thể trì tụng thần bổn tôn hộ pháp của mình, như thế thì “Nam mô Đa Mật

Ngôn tôn giả” sẽ đến hộ trì.

Nhưng, tôi phải nói với những người tu trì, ma cũng là một chúng sinh, tuy rằng có cách

hàng ma, nhưng không nên tiêu diệt, bởi vì nếu tiêu diệt ma, thì cũng xem như mất đi bồ đề

tâm.

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

31. Xích Tử Quán Âm pháp

Bài văn trước nói về “Nam mô Mạt Đa Ngôn tôn giả”, bởi vì tôn giả này xưa nay là hộ trì

“Xích Tử Quán m”, đương nhiên là có nhân duyên, bây giờ trước tiên tôi tiết lộ lá thư của

ông Giang Đông Dần là cha Giang Dũ Quần như sau:

Thầy giáo Lư:

Tôi gửi kèm theo lá thư này là bức hình Dũ Quần đã vẽ ra mà nó đã nhìn thấy trong giấc

mơ, đệ tử không biết đây là vị thần nào, vì thế phải nhờ đến Thầy. Vị thần này liên tục hiện

lên trong giấc mơ khi Dũ Quần bị bệnh, khi nó khỏi bệnh thì nó vẽ ra, không biết có đúng

không nữa? (Vị thần này chính là Đa Mật Ngôn tôn giả).

Ngoài ra còn có một chuyện, vào lúc 11giờ đêm, ngày 14 tháng 11 (âm lịch), tôi dẫn theo

Dũ Quần đi ra ngoài và nhìn thấy ở trên trời có một tượng Quán Thế Âm Bồ tát rất trang

nghiêm, tay cầm hoa sen, khuôn mặt của vị Bồ tát rất đặc thù, sau khi về nhà con cũng vẽ lại,

nhưng cũng không để ý. Nhưng có một ngày đứa cháu gái của con đến Cao Hùng vô tình

phát hiện ra một tượng Quán Âm giống y như Dũ Quần vẽ vậy, nhưng giá cả của tượng này

rất đắt, đệ tử không đủ tiền, sau này người anh trai của con mua về tặng lại cho Dũ Quần,

bây giờ đã được khai quang điểm nhãn và thờ ở trong nhà.

Đây là một việc kỳ diệu trùng hợp, xin Thầy hãy cho biết là thế nào.

Học trò Giang Đông Dần kính gửi

Ngày 15 tháng 1 năm 1983

Hộ pháp của Giang Dũ Quần là hộ pháp thần “Nam mô Mật Đa Ngôn tôn giả”, và thờ

“Quán Thế Âm Bồ tát”, bây giờ, tôi cũng biết được bổn tôn của Giang Dũ Quần là Quán Thế

Âm Bồ tát, và tôi sẽ dạy cho anh “Xích Tử Quán m pháp”, pháp này anh có thể tu ngày

một lần, sau này thành tựu chính là nhất đ ng Mật tông Kim Cang thượng sư, pháp hiệu vị

lai của anh sẽ là “Bát Diệp Liên Hoa Tạng Kim Cang thượng sư”

Cách tu trì của “Xích tử Quán Âm pháp “như sau:

Quy y Liên Sanh thượng sư

Nam Mô Put Tà Dề,

Nam Mô Tạ Mô Dề,

Nam Mô Sinh Kha Dề

Trước tiên hãy dập tắt vọng niệm, nghĩ rằng tâm Phật sáng như gương, tự tâm cũng thanh

tịnh, dùng trí tuệ mà quán chiếu tự tánh, thì vọng niệm sẽ không sinh khởi.

Anh ngồi ở trước mặt Quán Âm, hai tay chấp lại như hoa sen, quán tưởng bản thân mình

ngồi ở trên 8 lá hoa sen nguyệt luân, như đứa trẻ sơ sinh vậy, khuôn mặt mỉm cười rất hồn

nhiên, trước tiên hãy khôi phục tâm trẻ sơ sinh trước đã, hai tay bạn chấp lại chính là “ấn hoa

sen chưa nở”, trước tiên là từ tâm như đứa trẻ sơ sinh, từ đó sinh ra “chân tâm”, tiếp theo là

sinh ra “chánh tâm”, tiếp theo là sinh ra “bình đ ng tâm”, tiếp theo là sinh ra “bồ đề tâm”.

Hãy nhớ kỹ trong quán tưởng có 8 con công bay xung quanh, tượng trưng cho sự vui mừng

“Xích Tử Quán Âm” xuất thế, và phía sau “Xích Tử Quán m” có tôn giả “Nam mô Mật Đa

Ngôn tôn giả”, không sợ thiên ma đến hại, những điều này đều phải quán tưởng ra hết.

Sau đó, trong quán tưởng nếu nhìn thấy giữa tim của Quán Âm Bồ tát có chữ “Um”, phóng

ra ánh sáng màu trắng, thì bạn có thể hít vào một hơi, hít ánh sáng màu trắng vào bên trong,

lâu ngày ánh sáng màu trắng càng ngày càng nhiều, thân sáng trông thông suốt như trân châu.

Thời gian quán tưởng từ 10 đến 20 phút là được.

Sau đó tụng 108 lần: “Um. Ma Ni Pê Mi. Hum“. Đây là tâm chú của Quán Thế Âm Bồ tát,

tay có thể đếm chuỗi. Tụng chân ngôn xong, tiếp tục niệm:

“Nguyện lấy Xích tử tâm phát nguyện, đắc thành tự tại Quán Âm tôn,

Phổ độ chúng sinh tận vô số, tất cả an trụ Phật địa đây”

Cách tu này rất đơn giản, nhưng công hiệu rất lớn, không nên xem thường pháp này, đây

chính là cứu cánh thành tựu “Bát Diệp Liên Hoa Tạng kim cang thượng sư”.

Tôi biết, mật thừa được truyền từ Tây Tạng gọi là Tạng Mật, từ Tây Tạng truyền đến Nhật

Bản, và từ Nhật Bản truyền lại thì gọi là Đông Mật, còn ở Đài thì tự phát triển, còn gọi là Đài

Mật (chỉ Trung Quốc Ngũ Đài Sơn Mật tông cũng gọi là Đài Mật). Tuy rằng nhiều người

theo Mật tông, nhưng ít có người hoàn toàn hiểu hết nguyên lý Mật tông, có người chạy cầu

theo bên ngoài, không hiểu được sự quan trọng của thật tu nội chứng.

Có rất nhiều người tưởng rằng đi quy y Mật tông, hôm nay đến pháp hội để cầu quán đảnh,

ngày mai lại đến nơi khác để cầu quán đảnh, hôm nay là pháp bổn tôn này, ngày mai là pháp

bổn tôn kia, tuy học nhiều, nhưng sở chướng ngại càng nhiều, như thế sẽ không tốt, vậy thì

hãy thật tu một loại, sau khi thông một loại rồi, thì tất nhiên sẽ thông hết trăm loại, chỉ cần

thật tu thật chứng một loại, ấn chứng sau ắt nhiên sẽ hiện ra.

Tôi khuyên mọi người, quán đảnh cần phải tìm một thượng sư tốt để quán đỉnh, nếu tìm

thầy không tốt, thì giống như là quán đỉnh ngũ trược ác khí vào cho chúng sinh, vậy thì trái

lại không thể được thanh tịnh, mà sẽ trở thành tội cấu chưa trừ, càng tăng ô uế.

Nói đi nói lại, không kẻ như thế nào, tu Mật tông, phải dụng công phu tâm siêng chăm sức

vững bền, nội chứng ngoại chứng đều phải đắc, ấy chính là một Kim Cang thượng sư không

bị giảm điểm.

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

32. Sao Xà Yết rơi xuống.

Trong quyển sách “Con mắt thế giới thứ 3”, tôi có viết một bài về “tránh khỏi Sao Xà yết”,

trong bài văn nói về một cặp vợ chồng lạy tôi làm thầy, tôi biết rõ người vợ này, tánh như là

con rắn, nhưng tôi vẫn thu nhận bà ta làm đệ tử, dùng tâm từ bi Bồ tát từ bi chúng sinh để

cảm hóa bà ta. Sau này, quả nhiên tôi bị hủy báng, đó chính là ý của bài văn “Tránh khỏi Sao

Xà yết”. Trong bài văn đó tôi có nói đến “Động Huyền Pháp”, Sao Xà yết này, cũng không

sáng được bao lâu, nhưng bây giờ lại ứng nghiệm.

Tôi tiết lộ một lá thư của đứa học trò gửi đến như sau:

Thầy giáo Lư :

Năm mới Thầy khỏe không ?

Hôm nay là ngày mùng một tết, vốn là một ngày khiến cho con người tràn đầy hy vọng,

nhưng chúng ta sẽ sắp đối mặt với cực diện thê thảm. Ăn Tết trong ý thức lo âu và bất an.

Chính là thầy nói về “Nữ xà yết“ trong bài “Con mắt thế giới thứ 3”, bây giờ đã ấn chứng

rồi, chúng con rất hối hận không cảnh thức với lời cảnh tỉnh của thầy. Vào ngày 6 tháng 2,

vợ chồng họ Lâm đó, họ lấy lý do làm lễ cưới cho con gái ở nước ngoài, đã trốn ở nước

ngoài rồi. Cách 2 ngày trước, thoái phiếu liên tục bùng nổ, hãng xưởng cũng đóng cửa, cha

của con đã bị liên lụy, ôm nợ không thể trả, có thể bị phạm vào phiếu cứ pháp, thân làm con

của cha mình, con chỉ biết chảy nước mắt, tâm trạng của con không thể dùng giấy viết mà tả

được.

Nhân lúc tết đến, vốn là cả nhà vui mừng, nhưng mà, những gia đình có liên quan đến vợ

chồng họ Lâm kia, đều ôm một khoản nợ, nhân vật đã từng hô mưa gọi gió, bây giờ đang

trốn ở nước ngoài, còn tiền lương của công nhân hãng xưởng cũng phải do tổng cục huyện

phủ chi trả.

Xưa kia họ đều dùng danh từ nhà thiện, người học Phật, bây giờ lại làm ra chuyện thần

người đều tức giận, kiếp nạn của cha con là khó tránh khỏi “ngục tù”. Chúng con rất không

cam tâm, thậm chí muốn báo phục, thầy giáo! Xin hãy tha thứ cho cách nghĩ này của chúng

con, nhưng sự tức giận này là khó có thể tiêu trừ, sau này chúng con phải làm như thế nào,

xin thầy hãy chỉ dạy, gửi lời thăm sư mẫu và các em.

Chúc năm mới vui vẻ

Học trò Tri Danh. Ngày 13 tháng 2 năm 1983

(Gửi kèm theo bài viết của một tờ báo)

Nhận được lá thư như thế và một bài văn cắt từ tờ báo, tôi thật sự buồn vài ngày. Khiến

cho tôi nhớ đến câu chuyện của 7 năm về trước, năm đó vợ chồng họ đến tìm tôi, cũng đã ở

gần đến mức phá sản rồi, tôi nhất thời thương xót họ, lại thấy họ một ngày 3 lần tìm đến tôi,

thành kính như vậy, thế là tôi vận dụng 2 pháp để giúp cho họ trở nên thịnh vượng. Một là

Hồ Nhật Nguyệt Quang Minh pháp, pháp thứ hai là Liên Hoa Quan Khóa pháp, và còn nói rõ

rằng 7 tháng sau sẽ hưng vượng. Sau khi thí hai pháp này xong, lúc đó tự nhiên có 2 ngày

đích thân có người đem tiền đến cho họ mượn để qua khỏi cửa ải khó khăn, và 7 tháng sau,

quả nhiên việc kinh doanh từ 3 triệu mỗi tháng trở thành 15 triệu mỗi tháng, trong một thời

gian rất ngắn (khoảng một năm), đã kiếm được hơn 60 triệu, thật đúng là hô mưa gọi gió,

không ai ngăn cản được.

Đương nhiên, sau khi có tiền rồi, lời nói cử chỉ khác với ban đầu, càng không phải một

ngày 3 lần đến nhà của tôi, đối với tôi họ vẫn kính trọng, nhưng đã khác với lúc trước, vốn là

một ngày 3 lần thì đến sau cùng là một năm một lần đến nhà tôi. Bản thân tôi cũng tự hiểu rõ,

người ta có tiền, có xe đời mới, ngay cả con cái cũng đi xe mới, còn người thầy giáo này, qua

cầu rút ván, không còn dùng được nữa.

Lúc đó tôi có khuyên 3 câu như vậy:

Thứ nhất, đừng nên đem những đồng tiền kiếm được tốn hao vào xây nhà xưởng, nợ nần

nên trả thì phải trả, tiền còn dư thì hãy để dành, để dự phòng khi cần. Câu nói này tôi nhấn

mạnh nhiều lần.

Thứ hai, mau chóng tu Phật đạo từ bi, làm công đức bố thí, công đức in Kinh, để bồi đắp

cho Đức chưa đủ, để cầu phú quý không bị gián đoạn, thiện nguyện đã hứa phải mỗi một trả

hoằng nguyện đúng lời.

Thứ ba, đừng ỷ vào thế lực, đừng tạo khẩu nghiệp, thân nghiệp, phải biết đủ là thường lạc.

Mỗi ngày đừng quên công phu thành tâm lạy Phật, thì sẽ có thiện báo. Nếu không sau này

hãng xưởng sẽ rơi vào tay người khác.

Sau đó, họ dùng những đồng tiền kiếm được, xây xưởng và mở rộng xưởng, lại còn xây nhà

ở nhưng lại không hợp với địa lý, còn dời đổi mộ của cha họ, cũng không biết là họ thỉnh

thầy địa lý nào nữa? Tóm lại, thầy giáo này của tôi đã bị đá đi rất xa rồi, sở dĩ tôi biết được là

do học trò như Trần Chánh Hùng kể lại.

Khi hai vợ chồng đang lúc làm ăn khá giả, sao Xà Yết này bởi do có tiền có thế, đã trở

thành một phụ nữ mô phạm, và làm hội trưởng của một hội nào đó, khi hội được thành lập

thì phó tổng thống Tạ cũng đích thân đến dự, rất là hân hạnh. Và còn người thầy này của tôi,

tuy rằng đang ở một nước khác, nhưng ngay cả một tờ giấy thông báo cũng không có, họ đã

hoàn toàn quên mất.

Chồng của bà ta, ăn no mặc ấm sinh ra dâm dục, đã có vợ bé ở bên ngoài.

Kết cục sau cùng thì càng lạ lùng, khi bị phát hiện, thì bèn đổ trách nhiệm vào tôi, trời ơi,

một năm gặp mặt không được một lần, ăn ốc lại bắt tôi đổ vỏ, thế giới gì đây, ch ng lẽ không

còn thiên lý pháp luật sao? Thầy giáo như tôi không phải là một thầy giáo để mọi người thích

đánh mắng thì đánh mắng.

Sao Xà yết không phân biệt trắng đen thế nào, công nhiên hủy báng ân nhân cứu mạng họ,

khiến cho tôi thật đau lòng, lặng lẽ rời khỏi Đài Loan. Tôi thỉnh thị Bồ tát, Phật. Bồ tát nói :

“Rời khỏi chúng sinh phương nam, một bước lên cõi trời tây thiên, từ đó ban đêm nằm mộng

không vì nước nhà, sẽ không còn bị phong trần nhiễm”. Bài thơ này là Phật Bồ tát cho tôi khi

tôi rời khỏi, các ngài muốn tôi tránh né Sao Xà yết, và còn nói rằng bà ta sẽ bị báo ứng, cuối

đời của bà ta sẽ là “da bụng ma sát với mặt đất, răng sắt bén, trong miệng ngậm độc như là

con rắn, chính là một con rắn hoa đốm dài thật dài”.

Thật ra tôi học nhiều loại pháp của Phật đạo, thiên văn địa lý không có gì là không biết, bản

thân ấn chứng ngoại thành bát pháp và nội thành bát pháp, từ lâu đã hiểu lòng mình, tự tại

giải thoát. Tôi không những biết quá khứ vị lai, sự thành bại vợ chồng họ Lâm từ lâu đã nằm

trong tay của tôi, muốn cứu họ, tôi đã biết trước vị lai, chỉ là do nhất thời lòng tôi không nỡ

mà thôi, đây chính là : “Một lòng từ bi thiện niệm, hóa thành hoa rơi nước chảy, nỗi khổ tâm

của thánh hiền, người ngu làm sao có thể đo lường”

Hai vợ chồng họ Lâm, thiếu nợ trả nợ, đừng nên cho rằng có thể trốn tránh được nhất thời,

thì có thể trốn được mãi mãi, tôi khuyên anh chị nên mau chóng tu “Kim Cang Tát Đỏa”

chân ngôn:

“Um. Pê Cha Sa Tô Sa Ma Gia. Ma Nu Pa La Gia. Pê Cha Sa Tô Tê Nu Pa Tê Tra. Trư Chô

Mi Pa Oa.Sút Tô Kha Dư Mi Pa Oa. Sút Pu Kha Dư Mi Pa Oa. An Nu La Tơ Mi Pa Oa. Sa

Ờ Oa. Sít Ti Mi Pu Lai Dê Tra.Sa Ờ Oa. Ca Ờ Má. Sút Tra Mi. Tri Tà Mô. Sít Ti Dân. Cu Lu

Hum. Ha Ha. Ha Ha Hớ. Pác Ca Uân. Sa Ờ Oa. Đát Ta Cát Tà. Pê Tra Ma Mi Mân Tra. Pê

Tra Pa Oa. Ma Ha Sa Ma Gia. Sa Tô A. Hum. Pây.”

< (tiếng Anh ngữ) (“Om Bendza Sato Samaya, Manupalaya. Bendza Sato Tenopa. Titra

Drido Mebawa. Sutokayo Mebawa. Supokayo Mebawa.Anurakto Mebawa. Sawra Sidhi

Metrayetsa Sarwa Krama Sutsame Tsitam Shreya Kuru Hung. Ha Ha Ha ha Ho. Bagawen

Sharwa Tathagatha Bendza Mamemumtsa Bendzi Bawa Maha Samaya Sato Ah Hum Pây”)

Khi đọc chú này, có các công đức sau: Có thể tiêu diệt các tội đã tạo từ vô thủy kiếp đến

nay, có thể ngừng các ác niệm, và không làm các ác niệm tăng trưởng, có thể phá trừ các

phiền não, có thể tăng trưởng phước vô lượng vô biên, có thể sinh chủng chủng công đức,

sau khi tu pháp xong, nếu gia trì, thì cho dù thiếu sót hay bị lỗi lầm, cũng có thể bù đắp, có

thể cầu được như ý. Tôi dạy anh chị trì tụng Bách Tự Minh Chú này, một là cứu ông Lâm có

thể ngừng các ác niệm, hai là có thể cứu bà Lâm không bị báo ứng Xà yết. Tuy rằng hai

người hại tôi, nhưng tôi vì cứu anh chị, cũng chỉ có thể truyền pháp cho anh chị, ai bảo tôi

thu nhận anh chị làm học trò, nếu như thành tâm sám hối, thì có thể đến tìm tôi, tôi sẽ truyền

pháp cho anh chị.

Tôi muốn anh chị sám hối trước, anh chị hủy báng Phật hủy báng Thầy, xin hãy thường

niệm như vậy: “Xưa kia con gây bao ác nghiệp, đều do vô khởi tham sân si, từ thân khẩu ý

phát sinh ra, từng phạm thập ác ngũ vô gián, tam muội gia giới các tội nghiệp, vô lượng vô

biên chư trọng tội, tất cả con nay xin sám hối, chư Phật ái mẫn thường nhiếp thọ, xin đừng

xa lìa đến khi con thành Phật”. Niệm chú sám hối: “Om Benza Samaya Sato Ya”

Hãy mau chóng chuẩn bị hai pháp này, nếu không, anh chị sẽ bị báo ứng. Hãy mau chóng

nghe lời của thượng sư, nếu không sẽ rơi lệ đó, hãy nhớ kỹ! Nhân quả báo ứng, như hình với

bóng, đi đôi không lìa.

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

33. Cha vợ chuyển thế thành con chim.

Cha vợ của tôi là Lư Kim Thủy, năm 77 tuổi thì ông mất, ông mất ở thôn Thái Bình, Đài

Loan. Và tính thời gian bên Mỹ ở Seattle là 1h trưa ngày 19 tháng 2 năm 1983. Vào lúc 12h

khuya ngày 18 tháng 2, lúc tôi đi ngủ, thì nhìn thấy “Địa Tạng Vương Bồ tát” và cha vợ đến

trước giường của tôi.

Cha vợ nói với tôi, ông đã nhận được “lệnh triệu tập”, đương nhiên tôi lập tức hiểu ngay là

chuyện gì đang xảy ra.

Tôi hỏi: “Cha chuyển kiếp ở đâu?”

“Bồ tát nói cha suốt đời thích rong chơi, sẽ chuyển kiếp làm con chim” Cha vợ nói với tôi.

“Con chim? Chim là loài biết bay, làm sao lại như thế!”

Tôi hỏi Địa Tạng Vương Bồ tát, Bồ tát là bổn tôn tu pháp của tôi, là vị Bồ tát bổn tôn thành

tựu vị lai của tôi.

“Ông Kim Thủy là cha vợ của ngươi, suốt đời của ông không phạm lỗi lầm lớn, nhưng cũng

không có tu hành, tuy rằng tin thần, nhưng chỉ vái lạy mà thôi, ông là một con người không

thiện không ác, chỉ thích rong chơi khắp nơi, và theo luật nhân quả, tự nhiên sẽ chuyển kiếp

thành con chim, không có miễn cưỡng, chỉ là dựa vào tánh mà chuyển thế” Bồ tát nói

“Nhưng mà, Lư Kim Thủy là cha vợ con, Bồ tát không thể để cha vợ của con chuyển kiếp

làm con chim! Con sẽ tu một pháp để trợ giúp ông ta”

“Người đã vào âm, hồn phi phách tán, tất cả đã muộn”

“Thật sự không có cách vãng sinh?”

“Thật sự” Bồ tát nói: “Trừ phi ngươi đem một số công đức tu hành của mình cho ông ta,

thì ông ta có thể chuyển kiếp làm người”

“Được, con đồng ý” Tôi nói

“Nếu như Ngài đồng ý, vậy thì chuyển kiếp làm người”

“Ở nơi nào?”

“Liễu Tùng, thôn Liễu Tùng ở Cao Hùng. Bởi vì mạng số ông ta phải chuyển kiếp làm

chim, nhưng bởi do ngươi trợ giúp ông, thì chỉ còn phải cho ông làm người ở thôn Liễu Tùng,

để hợp với chữ “Liễu (chim)”

Sau khi nói với tôi những lời này xong, Bồ tát và cha vợ đều biến mất.

Sáng ngày 19, tôi nói chuyện này với vợ Lư Lệ Hương, còn có người bạn thân là Trần

Tước Viên, Trần Tâm Hà, Trần Tâm Long, và ông Vương Thạch Lân cũng biết chuyện này,

bởi vì ông Vương vừa từ Đài Loan đến Mỹ du lịch.

Buổi chiều ngày 19, ở Đài Loan là 5h sáng ngày 19, cha vợ của tôi mất. Người nhà từ Đài

Loan điện thoại đến, thật ra không những tôi đã biết trước, thậm chí tôi còn biết sớm hơn họ

một ngày, nhất là tôi còn biết ông sẽ chuyển kiếp ở thôn Liễu Tùng, Cao Hùng. Vào buổi tối

ngày 19, tôi đến siêu thị mua rất nhiều trái cây bánh trái, ở tại Phật đường của mình cùng với

Lệ Hương, Phật Thanh, Phật Kỳ cùng nhau niệm kinh siêu độ, cầu Phật Bồ tát phù hộ, để cha

vợ chuyển kiếp vào một gia đình tốt, gặp được Phật duyên, tu hành sớm, sau này vãng sinh

Tây Phương Cực Lạc, tránh được đau khổ của lục đạo luân hồi, đó chính là mong muốn của

tôi.

Đối với cha vợ của tôi, tôi có một chút hối tiếc, bởi vì tôi là một người biết đại pháp, lẽ ra là

có thể đem đại pháp này khiến cho người thân có thể vãng sinh, không còn chịu sự đau khổ

của trần thế. Nhưng mà con người tôi là một con người có cá tính, xưa nay tôi đều “tùy

duyên”, không miễn cưỡng người khác, nếu như bạn không đến cầu, thì tôi sẽ không nói, bất

cứ ai cũng đều như vậy, tu hành học Phật, tôi không miễn cưỡng cho dù đó là người thân

nhất của tôi, họ không cầu tôi, tôi vẫn không nói, đây chính là duyên phận, tất cả nhân quả

đều chỉ là duyên phận mà thôi.

Có nhân quả báo ứng không? Có luân hồi không?

Làm sao mà không có.

Tôi cười những người “ăn cơm khoa học” mà còn mê tín khoa học, đợi đến khi họ chết đi,

thì sẽ hiểu tất cả, lúc này tất cả đều đã trễ, Tôi nói thật với tất cả mọi người, thật sự là có linh

hồn, thật sự là có nhân quả, thật sự là có luân hồi, mọi người hãy mau chóng cầu minh sư,

mau chóng tu hành, không nên đợi đến khi gần chết rồi, lại không giác ngộ, ch ng trách Lư

Thắng Ngạn tôi viết nhiều sách cảnh tỉnh như vậy, đến lúc đó đừng than trời trách người.

Tôi có một phương tiện diệu pháp, bất cứ ai đều có thể thích hợp tu hành, pháp này gọi là

“Tọa Liên Vãng Sinh pháp”:

Trước tiên hãy tìm người làm một đóa hoa sen thật xinh đẹp màu sắc vàng, màu đỏ, màu

trắng đều được, và đem thờ ở trước tượng Phật và Bồ tát, mỗi ngày tu theo pháp này một lần:

Trước tiên hãy niệm: “Nam mô Liên Sanh Thượng Sư, Nam mô Put Ta dề, Nam mô Tạ

Mô dề, Nam mô Sinh kha dề”. Lúc này có thể chấp tay. Tiếp theo là tay kết ấn Kim Cang

tam muội và niệm Tứ vô lượng tâm:

“Nguyện tất cả chúng sinh cụ túc lạc cập lạc nhân,

Nguyện tất cả chúng sinh thoát ly khổ cập khổ nhân

Nguyện tất cả chúng sinh vĩnh trụ vô khổ an lạc

Nguyện tất cả chúng sinh chứng oán thân bình đ ng giác.”

Phát tâm : “Đệ tử….. , từ đây tu học tọa liên vãng sinh pháp, nhận Liên Sanh pháp sư làm

thượng sư, từ đây thân cận Tam bảo, phát Đại Bồ Đề Tâm, thề nguyện cùng chúng sinh cùng

chứng Bồ Đề”

Niệm chú: “Um, Pô Ti Chư Ta, Pê Tra, Sa Ma Gia, Hum”

Niệm tiếp : “Um, A Me lia ti he, Hum Pây”

Niệm 3 lần: “Um, Xoa ba qua, Xu đa, sa qua, Ta ma, Xoa ba qua, Xu đa han”

Lúc này người tu trì tịnh tọa quán tưởng, ở trước mắt mình xuất hiện một vị Tây Phương

Cực Lạc Thế Giới A Di Đà Phật, toàn thân màu đỏ, tướng mạo trang nghiêm, tay phải thả

xuống, tay trái cầm một đóa hoa sen, hoa sen này chính là hoa sen mà bạn đang thờ, tất cả

đều là do quán tưởng mà ra. Và tiếp theo là quán A Di Đà Phật đem hoa sen này bỏ vào

người của bạn, và bạn thì thành tâm mà ngồi vào hoa sen, trong một sát na, bay về thế giới

Tây Phương Cực Lạc, bay nhanh như là tia chớp vậy, và thế là hoa khai kiến Phật, khuôn

mặt A Di Đà Phật mỉm cười.

Lúc này người quán tưởng có thể chấp tay niệm 108 lần “chú tọa liên hoa vãng sinh”

Chú như thế này: “Um, Pi Ma Ta Le. Hum”

Niệm xong rồi hồi hướng: “Nguyện con lúc mạng sắp lâm chung, trừ hết tất cả các trói buộc,

hoa sen mau chóng hiện trước mặt, trong sát na vãng sinh Phật quốc” Và cứ như thế mỗi

ngày một lần, sau này nhất định sẽ viên mãn cát tường.

Hãy nhớ điểm quan trọng nhất, hoa sen này có thể đựng ở trong hộp làm bằng giấy kiếng

hoặc là hộp thủy tinh, thờ ở trước Phật Bồ tát, ngày thường dùng vải sạch lau lớp bụi bám ở

bên ngoài , để duy trì hoa sen sáng và sạch, đợi đến lúc lâm chung, thì hãy kêu con cháu đốt

đi, để tiện ngồi trên hoa sen mà vãng sinh.

Tôi biết ở Gia Nghĩa, có một pháp sư, lợi dụng pháp này, dùng giấy bìa cứng làm thành

một đóa hoa sen, sau đó cho tín đồ ngồi, pháp sư niệm chú, dùng tay kiếm chỉ vào và kêu lên

“Chia”. Sau đó tín đồ đi xuống, và ngay lập tức đem đóa hoa sen này đốt đi, và như thế chính

là biểu thị rằng người này đã có một đóa hoa sen rồi. Mỗi lần ngồi vào, thu phí là trên chục

triệu đồng, pháp sư này dùng cách này kiếm tiền, kết quả là giàu to.

Nhưng mà tọa liên hoa vãng sinh pháp, không phải là thỉnh pháp sư thí pháp, mà là bản

thân mình phải có hằng tâm tu trì, công phu lâu ngày rồi, hoa sen giống y như hoa sen mà

ngày thường chúng ta quán tưởng, hoa nở sẽ thấy Phật đến, rất là nhanh chóng mà đi, điều

này là có ấn chứng, không phải vọng ngôn.

Vị pháp sư ở Gia Nghĩa, phương pháp này tuy là hay, nhưng tín đồ thiếu công phu tu trì,

tốn một số tiền lớn, trong tâm không có hoa sen, thì đều là hư ảo và không đáng tin, thôi thì

bản thân hãy tu trì thì thật dụng hơn, cũng chắc chắn hơn, pháp sư kiếm tiền, dùng phương

pháp đốt hoa sen. Còn tôi thì dạy mọi người tu “Tọa liên vãng sinh pháp”, tôi dám bảo đảm,

chỉ cần có lòng kiên trì mà làm, tôi nguyện bảo chứng, nếu không thành Phật, tôi Lư Thắng

Ngạn thề không thành Phật.

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

34. Chân định không sợ yêu ma.

Một người tu đạo, trong lúc thật sự nhập định thì không bao giờ sợ yêu ma đến quấy nhiễu.

Những người mà bị ma quấy nhiễu chính là những người chưa thật sự nhập định. Bởi vì hiện

tượng “chân định”, còn được gọi là “trang nghiêm bí mật”, nhất định có 36 thiên thần thủ hộ,

lỗ chân lông của người nhập định sẽ phóng ra ánh sáng sắc vàng, mỗi một đường ánh sáng

đều có một vị tôn hóa Phật. Như thế thì vinh diệu biết bao, ma sẽ sợ hãi, không dám đến hiếp

đáp nữa, trừ khi không có công phu nhập định, thì mới bị tẩu hỏa nhập ma, thần hồn điên đảo.

Khí của người nhập định, hình thành nên một ngọn núi cao lớn, cứng như đá kim cương

vậy, yêu ma thông thường không thể đi thông qua, tất cả các yêu ma đều ở xa xa không thể

đi vào.

Trình tự nhập định của tôi như sau (Kim Cang tam muội đại định):

Thứ nhất, tôi tắm gội sạch sẽ thân thể, đốt hương lễ lạy ở trước Phật, trước khi lễ Phật, mặc

áo cà sa đeo chuỗi, đắp y, đội mũ hồng quán, tay phải cầm kim cang xử, tay trái cầm chuông

kim cang. Sau đó hiến cúng, rưới nước tịnh thủy để cho pháp tòa của mình thanh tịnh, sau đó

lên ngồi ở pháp tòa.

Thứ hai, quán tưởng bản thân mình thành bổn tôn, Địa Tạng Vương Bồ tát thân màu hồng,

đầu đội nón ngũ Phật, “đại minh lục tự chân ngôn” trên vai phóng ra ánh sáng 6 màu, Địa

Tạng Vương Bồ tát tướng mạo trang nghiêm với đôi mắt hiền từ, thân đắp cà sa màu đỏ, với

các trang sức trang nghiêm, tay phải cầm “xích trượng” phá cổng địa ngục, tay trái cầm

“Thất Bảo Quang Minh Châu”, ngồi trên hoa sen có nguyệt luân, an trụ ở trước mặt mình, ở

trán ngài phóng ra một luồng kim sáng gia trì cho mình. Thế rồi tôi tụng thánh hiệu Địa Tạng

Vương Bồ tát và câu chú chân ngôn của bổn tôn.

Thứ ba, lúc này Địa Tạng vương Bồ tát hóa thành hồng quán (mũ Phật màu đỏ), và hồng

quán phóng ra ánh sáng, từ trong hồng quán chảy ra nước cam lồ, nước cam lồ từ trên đầu

chảy xuống đến chân, khiến cho trong tâm, lòng của tôi thật cảm động, trước tiên là rửa sạch

tội nghiệp từ vô thủy đến nay, tất cả các nghiệp của tôi như đau bệnh, ma chướng, tất cả đều

biến mất. Bây giờ tôi là thánh nhân, tất cả giải thoát tam muội đều có được trong một sát na.

Thứ tư, lúc này Địa Tạng vương Bồ tát, thu nhỏ thành một điểm rất sáng như hạt gạo, và từ

điểm sáng này đi vào từ trên đỉnh đầu của tôi, ngồi ở trên tòa sen ở tâm thanh tịnh của tôi.

Thế là tôi tụng thánh hiệu Địa Tạng Vương Bồ tát và chân ngôn, tụng niệm lúc này là kim

cang niệm.

Thứ năm, lúc này Địa Tạng Vương Bồ tát từ từ to lên, cho đến khi thân ngài Địa Tạng to

như thân của tôi vậy, Địa Tạng Vương Bồ tát chính là tôi, tôi chính là Địa Tạng Vương Bồ

tát, Địa Tạng Vương Bồ tát và tôi không có gì khác nhau cả, tất cả “Trang nghiêm bí mật” đã

thành tựu, tôi có thể toàn thân phóng quang, to lớn như hư không, hòa hợp với thiên địa,

luồng khí lớn như núi Tu Di, đưa thân đến Tây Phương Cực Lạc thế giới, đi khắp mười

phương pháp giới, bất cứ Phật quốc nào cũng đều có thể đi, đồng thời có thể vào trong địa

phủ, xuống đến địa ngục vô gián. Tôi chính là Địa Tạng Vương Bồ tát, Địa Tạng Vương Bồ

tát chính là tôi, thành tựu tất cả trang nghiêm Phật sự, độ tất cả chúng sinh.

Nếu như có ma quái đến, khi họ nhìn thấy hình tướng trên, thì họ sẽ hoảng sợ. Nếu như ma

quái có căn tánh xấu yếu chướng nặng, thì sẽ mau chóng tránh lui đi. Nếu họ có thiện căn, thì

biết chấp tay cung kính, muốn đến quy y. Quy y “Vô Thượng Hồng Quán Kim Cang Bảo

Mão Tôn Giả Liên Sanh Thượng Sư, quy y U Minh Giáo Chủ Địa Tạng Vương Từ Bi Bổn

Tôn, Quy y Linh Tiên Chư Đại Thánh Chánh Giác Tu Hành, quy y Bí Mật Trang Nghiêm

Ngũ Tạng Thập Nhị Bộ Đại Mật Pháp”, không những yêu ma không dám tổn hại, đồng thời

yêu ma cũng đồng ý làm hộ pháp, giáo hóa tất cả yêu ma đều đến tu chánh pháp.

Tu “chân định”, phải chú ý đến những điểm sau:

Thứ nhất, người mới tu, chú ý không được động tâm, nhiếp tâm vào một nơi, không động

không loạn, nếu như xuất hiện vọng tưởng, phải biết rõ mà không theo, cũng không nên đi áp

chế, như thế lâu ngày mới có thể khống chế được tâm. Phải quán tưởng tất cả tướng như

mộng huyễn bào ảnh, dập tắt tất cả mộng huyễn bào ảnh, thì lục căn sẽ tự thanh tịnh.

Các học giả phải cần biết, trong tâm không có cảnh, trong cảnh không có tâm.

Thứ hai, người mới học, chú ý không nên khởi vọng niệm, vọng niệm chính là như hạt

giống dẫn đến ma, có vọng thì ắt có phân biệt thọ xả ghét thương chấp. Phải biết rằng tất cả

pháp đều là không, tâm quá khứ, hiện tại, vị lai đều bất khả đắc. Nếu không khởi vọng niệm,

mới có thể đắc.

Thứ ba, “nhập định” chính là đi vào cổng giải thoát, “Xuất định” chính là đi ra khỏi con

đường Bồ Đề

Đây là một quan niệm quan trọng nhất, nhập định là gom sáu họp thành một tinh minh, là

pháp môn vô thượng trong tu hành, dùng tánh thanh tịnh vô cấu của mình hợp nhất với pháp

giới để đến con đường giải thoát.

“Xuất định” là con đường Bồ đề, không phải là phàm phu, mà là tam quán nhất tâm, từ tu

đến thể hiện, thực hành trong cuộc sống hàng ngày, từ từ không trụ sinh tử và niết bàn, ngày

thường nghĩ tự thân quang minh, cho đến khi chứng vô thượng chánh đ ng chánh giác viên

chứng Bồ đề, như thế mới là viên giác nhất tâm.

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

35. Duy ngã độc tôn có phải là ma không ?

Hoàng Bá thiền sư sau khi đắc chứng nói: “Trong nước Đại Đường không có thiền sư”

Còn tôi, sau khi tôi đắc chứng cũng muốn nói: “Trong nước Trung Hoa không có thiền sư”

Nếu như câu nói này truyền ra ngoài, vậy thì không những sẽ bị ngàn người mắng, mà có

cả hàng vạn người mắng, tất cả các thiền sư trong nước và ngoài nước nhất định sẽ chỉ vào

mũi tôi mà mắng. Tôi vốn bị chỉ trích là “ma”. Bây giờ lại nói như vậy, quét bỏ hết tất cả các

pháp sư trong nước, hãy thử nghĩ xem, tôi còn có thể sống được nữa không?

Nói thật, Thích Ca Mâu Ni Phật khi mới xuống nhân gian, chân đạp hoa sen, một tay chỉ

trời, một tay chỉ đất, cất miệng nói; “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”. Nếu thời ấy

có pháp sư, nghe được khẩu khí lớn như vậy, chắc giận lửa lên, sanh ác ngay ra, lấy cây sẽ

đánh chết ngài Thích Ca Mâu Ni Phật; nếu vậy Phật Giáo ngày nay, sẽ không biết do ai

truyền ra? Đại Pháp sẽ do ai mà diễn dạy cho đời ?

“Duy ngã độc tôn là ma sao” tôi có thể nói rõ với các bạn đọc, có một số pháp sư không có

“đắc chứng”, chỉ thuyết pháp lý luận một đống, nói thì rất hay. Nhưng, thật sự thì không có

gì cả, cho dù xây chùa đến thiên hạ đệ nhất, đệ tử nhiều nhất, thuyết pháp giải Phật một ngày

một lần, địa vị danh phận thiên hạ đệ nhất, mỗi lần có hội nghị Phật giáo, đều là nhất...... Tập

hợp những cái đúng nhất, nhưng đích thật không có “chứng đắc”, vậy thì pháp sư “duy ngã

độc tôn” này, chính là ma, pháp sư không có chứng đắc, mà chỉ có những cái đúng nhất, tôi

dám chỉ vào mũi, người này không phải là Phật, cũng không phải là pháp sư, mà là “ma”.

Ngược lại, mỗi một pháp sư “chứng đắc”, nhất định phải dựa vào “thật tu ấn chứng”, khi tự

tâm hiểu rõ, thì sẽ sinh ra cách nghĩ “duy ngã độc tôn”, tự nhận là đã đắc thật chứng, vượt ra

ngoài tam giới, thì đương nhiên sẽ là “duy ngã độc tôn”, cho nên Hoàng Bá thiền sư nói:

“Trong nước Đại Đường không có thiền sư”, câu nói này không phải là trong mắt không có

ai cả, mà là lời cảm nhận khi đã “đắc chứng”.

Bản thân tôi cũng có một cảm nhận: “Trong nước Trung Hoa không có thiền sư”, bởi vì tôi

có thể nói như vậy, hôm nay tôi cũng “đắc chứng”, phàm là những người đắc chứng đều có

thể nói như vậy, “Ta là thiền sư chân chính‟. những ai mà dùng “tư duy” và “nghiên cứu” để

viết ra cảm tưởng, không phải là “thật tu thật chứng” và tôi nghĩ rằng những lý luận này mãi

mãi không có cách nào so sánh với “thật tu thật chứng‟.

Hoàng Bá thiền sư nói câu nói trên, không phải là mắng chửi, cũng không phải là sỉ nhục

người khác, cũng không phải là trong mắt không có ai, mà là cảm ngộ tự tâm của chính mình,

đã đắc được đại chứng ngộ, ngay cả Phật Thích Ca cũng nói như vậy: “Thiên thượng thiên

hạ, duy ngã độc tôn”. Hôm nay, tôi mong mọi người đều có thể nói ra câu nói này; biểu thị

chính là tự tâm của chính mình đã hiểu, đã là người đắc chứng, chứ không phải là bắt chước

theo người ta nói, phải như thế nào thế nào..., nếu như bản thân mình thật chưa “đắc chứng”,

tất cả đều là giả, không được vọng ngữ.

Nhưng cũng có một số người, chưa từng “đắc chứng”, mà tự nói rằng đã “đắc chứng”, tự

cho rằng bản thân là Phật, phủ định những “đắc chứng” của người khác, tầng nhìn như thế

chính là “ma”, đã phạm vào trong mắt không xem người khác ra gì, chữ “kiêu ngạo” này,

vốn là hóa thân của ma. Chưa thành Phật, thì đã thành ma trước, giữa Phật và ma, sự biệt này

rất nhỏ, vốn chỉ là một sợi dây mà thôi, thật là không thể nói, thật là không thể nói!

Tôi nói như vậy, có lẽ sẽ khiến đọc giả mơ hồ, bây giờ, tôi sẽ giải thích kỹ như sau:

Thật tu thật chứng - - thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn. Tự tâm hiểu rõ có thể thành

Phật, chứng được tánh không, nhìn thấy rõ tất cả, hoàn toàn có được thiên thượng thiên hạ,

có được trí tuệ của thập pháp giới, lúc này đã lãnh ngộ được thiền môn vô sư, vô sư là thiền,

cho nên làm sao có “Thiền Sư” ? Bảo đảm người nói câu nói này, mới được xem là người

thật sự chứng đắc. Chính là Phật, không phải là ma.

Lời nói của người chưa chứng đắc - cũng thường hay nói câu nói là “thiên hạ Đệ Nhất”.

Nhưng họ không có cách nào chứng minh họ nhất định thành Phật, duy biết cứ bắt hình bóng

của tất cả vọng niệm ảo tưởng, vọng đoán về cảnh giới của Phật Bồ tát, dựa vào đầu óc mà

nghĩ ra tất cả các vấn đề, tự cho rằng là mình đúng, phủ định tất cả của người khác, vẫn chưa

chứng nhập tánh không (không biết thật tu), không có hiện tượng thực tế của đắc chứng, tự

xưng là có linh cảm mơ hồ, thường hay hoài nghi lung tung, cho dù đó là hư danh, địa vị rất

cao, dù được mọi người xưng là đại sư, thì vẫn là “yêu ma”

Tôi khuyên tất cả các đệ tử, tu hành Phật pháp, thật tu là đứng đầu, một ngày không tu, thì

ngày đó chính là “quỷ”, tinh tấn tu hành, không phải là bảo bạn không nên đi làm những việc

khác, mà là mỗi ngày phải có công phu thời khóa nhất định, nhất định không nên bỏ sót.

Cũng không phải chỉ nên nói suông, tu kia tu nọ lung tung, không có công phu thời khóa tu

hành chân chánh, đến sau cùng sẽ uổng công, không có hiệu quả, vậy thì thật là đáng thương.

Tôi xem thường loại người này nhất, đó là loại người khi vừa mới phát tâm, thì mỗi ngày

đều rất siêng năng, cách một khoảng thời gian, thì không còn sức lực nữa, hồi về lại bản tánh

của phàm phu, loại người này, khó mà tu thành Phật.

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

36. Linh Tiên Chân Phật Tông tôn sùng Cao Vương Kinh.

Tôi khuyên người tu đạo phải trì một Kinh một Chú, suốt đời mỗi ngày đều không gián

đoạn, phải có tâm vững bền, thì sẽ linh ứng. Có người hỏi tôi, kinh nào tốt nhất, chú nào có

công đức nhất, tôi trả lời rằng: “Chỉ cần có duyên chính là thượng phẩm, kinh chú không

phân biệt cao thấp, có thể niệm đến chuyển pháp luân chính là thành công”. Cho nên tôi cho

rằng, kinh điển đại thừa và kinh điển tiểu thừa đều có công đức, đại chú tiểu chú đều có pháp

lực, chỉ cần xem ta có “tín thành sâu rộng” thì ắt nhiên “đá sẽ nở hoa”

Công đức niệm kinh niệm chú là bất khả tư nghì, chư Phật Bồ tát y vào kinh chú mà nhiếp

thọ tất cả các chúng sinh, còn phàm phu thì nương vào kinh chú được Phật Bồ tát phù hộ.

Tôi biết rằng, phàm là kinh chú, khi thuộc lòng đến lúc mà tâm khẩu ý hợp nhất, thì ngữ

âm của kinh chú sẽ hóa thành bạch quang xoay chuyển, bạch quang từ trong miệng hiện ra,

từ đầu đến đỉnh, từ trong lỗ chân lông hiện ra, trở thành ánh sáng chói chang, ánh sáng này

và ánh sáng kinh chú của Phật kết hợp lại, thì Phật Bồ tát có thể cảm thông được kinh chú

của người tu đạo, ánh sáng xoay chuyển cũng chính là pháp luân chuyển động, một số người

niệm đến pháp luân chuyển động, có thể nói là đã thoát khỏi vỏ của phàm phu, sau này đến

thế giới Tây Phương Cực Lạc, hoa sen hóa sinh, mãi mãi không còn chịu khổ báo của luân

hồi nữa, thành Phật thành Thánh.

Niệm kinh niệm chú phải chú ý điều duy nhất, đó là kinh thật chú cũng là thật, không phải

là chú giả kinh giả, được Phật tổ truyền lại hoặc được Tiên Phật truyền lại thì đều được xem

như là kinh chú thật, còn kinh giả tạo mà phàm phu tục tử ngụy tạo thì đều không thể niệm.

Nếu thật sự là Tiên Phật truyền trao, thì đều có thể tôn kính mà tụng, nếu như là thế tục giả

tạo thì niệm cũng vô ích, điểm này rất quan trọng, đừng nên uổng phí thời gian, uổng phí

tinh thần ở kinh chú giả.

Còn “Cao Vương Quán Thế m chân kinh” là quyển kinh mà Linh Tiên Chân Phật Tông

tôn sùng, không phải là do Thích Ca Mâu Ni Phật truyền lại, mà là một quyển “kinh truyền

trong mộng”, chính là các cao tăng đại đức chỉ điểm mà viết ra quyển kinh. Quyển kinh này

qua linh thị của tôi, thật sự là rất linh, huống hồ chi là đó là chân ngôn của các cao tăng đã

ngộ đạo. Tôi cảm thấy rằng nếu người người đều niệm “Cao Vương Quán Thế Âm chân

kinh”, thì rất nhanh sẽ có được linh ứng, mà có lợi ích rất lớn đối với việc ngộ đạo, sau này

cũng có thể đi trên con đường vãng sanh, vì thế mà tôi mong những người tu tập Linh Tiên

Chân Phật Tông, tất cả mọi người đều trì tụng “Cao Vương Quán Thế m chân kinh”.

Hiện nay những tu sĩ ở Phật môn đều phê bình về các kinh điển ngoại đạo, xưa nay đều tôn

kính kinh điển do Thích Ca Mâu Ni Phật truyền lại, còn đối với kinh truyền trong mộng,

hoặc là tự viết phần lớn đều không tin. Nhưng mà đối với quyển “Cao Vương Quán Thế Âm

chân kinh” họ chưa từng bài xích, đối với các Phật danh hiệu trong quyển kinh này, họ còn

cho rằng rất linh ứng và cảm thấy kỳ diệu. Tôi cảm thấy rất vui mừng, cho rằng không nên

xem thường công đức lớn như vậy, cho nên tôi đã in ra hơn hàng vạn quyển, không những

các đệ tử của Linh Tiên Chân Phật Tông trì tụng, thậm chí đây là quyển sổ tay của các phàm

phu tục tử, sau này hóa thành thế giới cực lạc, thành tựu quang minh tịnh thổ.

Vì để quảng bá lưu truyền, tôi sẽ ghi lại nội dung quyển kinh như sau:

“Cao Vương Qu n Thế Âm chân kinh”

Thởi xưa đời Năm Thế, có một quốc vương tên Cao Vương, có một vị quận chủ ở Tương

Châu, thích giết người. Nhân gặp lúc có một vị quan tên là Tôn Kính Đức bị hiểu lầm là

phạm pháp nặng tội (sau khi trải qua điều tra, là do đứa em trai phạm pháp, nên Tôn Kính

Đức bị vạ lây), đang ngồi tù chờ chết, chuyên trì tụng Quán Thế Âm Bồ Tát Phẩm Phổ Môn,

ngày đêm trì tụng không nghỉ, đột nhiên vào một đêm nằm mộng thấy một cao tăng, nói rằng:

Ngươi niệm kinh này, không miễn được chết. Khuyên ông trì tụng Cao Vương Quán Thế

Âm kinh 1000 biến, thì sẽ thoát tội danh. Kính Đức nói rằng, hiện nay đang ở trong tù, làm

sao có được kinh. Vị Tăng kia nói, ta sẽ truyền miệng cho ngươi. Sau đó ông ta trì tụng 900

biến. Vụ án đã lập văn bản và đã trình lên đóng dấu, nhà vua ra lệnh đưa vào thành thị giữa

chợ để chém đầu. Kính Đức sợ hãi, hỏi người gác ngục đến thành thị là xa hay gần. Tên gác

ngục hỏi ông hỏi để làm chi. Kính Đức nói ban đêm ông nằm mộng thấy một vị tăng, khuyên

ông phải tụng 1000 biến Quán Thế Âm kinh, thì sẽ được miễn tội chết, ông còn thiếu 100

biến, xin hãy đi đường chậm lại, để ông tụng đủ 100 biến. Khi đến giữa chợ, vừa niệm đủ số,

người gác ngục vẫn tuân lệnh hành chém, nhưng Kính Đức không bị tổn thương, thân đầu

không sao, nhưng dao đứt 3 đoạn. Sự việc được báo lên vua, vua kinh ngạc hỏi ông ta dùng

phép thuật nào mà được như vậy. Kính Đức nói, ta thật sự không có phép thuật nào cả, bởi

do ở trong tù sợ chết nên trì Quán Thế Âm Bồ Tát phẩm phổ môn, đột nhiên vào một đêm

nằm mộng thấy một cao tăng dạy tụng Cao Vương Quán Thế Âm kinh 1000 biến, được

phước như thế. Nhà vua nói với Kính Đức, ông còn hơn cả ta, không khác gì Phật. Vua sai

người viết ra quyển kinh để những người sắp bị xử tử tụng 1000 biến sau đó đem ra chém để

thử nghiệm và linh ứng ngay. Nhà vua ban hạ lệnh, phổ biến cho dân chúng tụng, và được

gọi là Cao Vương Quán Thế n chân kinh”. Bởi do cảm ứng linh thiên chân thực, chứng

nghiệm từ lâu xưa đến nay, vẫn không ngừng diễn, cho người biết chai tâm hướng thiện,

chứng kiến duyên khởi của kinh này.

Nguyên văn của Cao Vương Quán Thế m chân kinh như sau:

Nam mô Quan Thế Âm Bồ tát. Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng. Phật quốc hữu

duyên. Phật pháp tương nhân.Thường lạc ngã tịnh, hữu duyên Phật pháp, Nam mô ma ha bát

nhã ba la mật. Thị đại thần chú. Nam mô ma ha bát nhã ba la mật, thị đại minh chú. Nam mô

ma ha bát nhã ba la mật, thị vô thượng chú. Nam mô ma ha bát nhã ba la mật, thị vô đ ng

đ ng chú.

Nam mô Tịnh Quang Bí Mật Phật, Pháp Tạng Phật, Sư Tử Hống Thần Túc U Vương Phật.

Phật Cáo Tu Di Đăng Vương Phật. Pháp Hộ Phật. Kim Cang Tạng Sư Tử Du Hí Phật. Bảo

Thắng Phật. Thần Thông Phật. Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật. Phổ Quang Công Đức

Sơn Vương Phật. Thiện Trụ Công Đức Bảo Vương Phật. Quá Khứ Thất Phật. Vị Lai Hiền

Kiếp Phật. Thiên Ngũ Bá phật. Vạn Ngũ Thiên Phật. Ngũ Bá Hoa Thắng Phật. Bá Ức Kim

Cang Tạng Phật. Định Quang Phật

Lục Phương Lục Phật Danh Hiệu. Đông Phương Bảo Quang Nguyệt Điện Nguyệt Diệu

Tôn m Vương Phật. Nam Phuơng Thọ Căn Hoa Vương Phật. Tây Phương Tạo Vương

Thần Thông Diễm Hoa Vương Phật. Bắc Phương Nguyệt Điện Thanh Tịnh Phật. Thượng

Phương Vô Số Tinh Tiến Bảo Thủ Phật. Hạ Phương Thiện Tịch Nguyệt Âm Vương Phật. Vô

Lượng Chư Phật. Đa Bảo Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật. Di Lặc Phật. A Sơ Phật. Di Đà Phật.

Trung ương nhất thiết chúng sinh, tại Phật thế giới trung giả. Hành trụ ở địa thượng, cập tại

hư không trung, thương lo tất cả chúng sinh, các linh an ổn nghỉ ngơi, ngày đêm tu trì. Tâm

thường cầu tụng thử kinh. Năng diệt sinh tử khổ, tiêu trừ chư độc hại, Nam Mô Đại Minh

Quán Thế Âm, Quán Minh Quán Thế Âm. Cao Minh Quán Thế Âm. Khai Minh Quán Thế

m. Dược Vương Bồ tát, Dược Thượng Bồ tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Phổ Hiền Bồ tát, Hư

Không Tạng Bồ tát, Địa Tạng Vương Bồ tát, Thanh Lương Bảo Sơn Ức Vạn Bồ tát, Phổ

Quang Vương Như Lai Hóa Thắng Bồ tát, niệm niệm tụng thử kinh, thất Phật Thế Tôn, tức

thuyết chú viết :

“Li Pô Li Pô Tê. Khìu Hố Khìu Hố Tê. Thổ Lổ Ni Tê. Nỉ Hố Lả Tê. Pê Lê Nê Tê.

Mô Hô Tre Tê. Chân Lỉnh Trẻn Tê. Sôha (7 lần)”.

Thập phương Quán Thế Âm, nhất thiết chư Bồ tát,

Thệ nguyện cứu chúng sanh, xưng danh tức giải thoát,

Nhược hữu trí tuệ giả, ân cần vi giải thuyết,

Nếu là có nhân duyên, đọc tụng khẩu bất triệt,

Tụng kinh vạn thiên biến, niệm niệm tâm bất tuyệt,

Hỏa diệm bất năng thương, đao binh sẽ gẫy đứt,

Sân nộ sinh hoan hỷ, kẻ chết biến sống lại,

Đừng nói đây là vọng, chư Phật bất vọng thuyết,

Cao Vương Quán Thế m, năng cứu chư khổ ách,

Lâm nguy cấp nạn trung, kẻ chết biến thành sống,

Chư Phật ngữ bất hư. Thế nên kính đảnh lễ,

Trì tụng mãn thiên biến, trọng tội đều tiêu diệt.

Người hữu phước kiên tin, chuyên công thọ trì kinh.

Niệm Bát đại Bồ tát danh hiệu:

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát ma ha tát. Nam mô Di Lặc Bồ tát ma ha tát

Nam mô Hư Không Tạng Bồ tát ma ha tát. Nam mô Phổ Hiền Bồ tát ma ha tát

Nam mô Kim Cang Thủ Bồ tát ma ha tát. Nam mô Diệu Cát Tường Bồ tát ma ha tát

Nam mô Trừ Cái Chướng Bồ tát ma ha tát. Nam mô Địa Tạng Vương Bồ tát ma ha tát

Nam mô chư tôn Bồ tát ma ha tát.

Nguyện dĩ thử công đức, phổ cập ư nhất thiết,

Tụng mãn nhất thiên biến, trọng tội giai tiêu diệt. (Cao Vương Quán Thế Âm chân kinh hết)

Nếu muốn niệm Cao Vương Quán Thế m chân kinh, trước tiên hãy tắm gội sạch sẽ, bài

mở đầu không cần niệm, chỉ cần niệm nguyên văn là được, thông thường nơi niệm kinh phải

là Phật đàn thì tốt nhất, không có Phật đàn thì ở trong phòng đọc sách, nếu không có phòng

đọc sách, thì chọn một nơi sạch sẽ trong phòng ngủ, (đừng nên ở nơi dơ bẩn, mất tâm cung

kính), đốt một nén hương, hoặc đốt nhang trầm, nếu nhất tất cả những việc này đều không

tiện, thì chấp tay cung kính niệm cũng có hiệu nghiệm, đứng chấp tay mà niệm, ngồi chấp

tay mà niệm, quỳ chấp tay mà niệm, dùng pháp khí hoặc không dùng pháp khí, tùy ý mà

niệm, không có quy định nhất định.

Quan trọng nhất là, tâm phải thành kính, miệng niệm ra tiếng cũng được, không niệm ra

tiếng cũng được, không nên suy nghĩ lung tung, nếu người có nguyện lớn mà trì tụng Cao

Vương Quán Thế Âm chân kinh, thì mỗi ngày phải tụng 10 biến, sớm tối 5 biến, thậm chí

càng nhiều càng tốt. Người có nguyện nhỏ, ngày tụng 2 biến, sớm tối một biến. Nếu gặp

chuyện gấp, thì phải thỉnh Bồ tát đại lực hộ giúp, mỗi ngày 100 biến, 10 ngày thì 1000 biến,

phải kiên trì vững bền như vậy, tôi tin tưởng sẽ có cảm ứng, có cầu có ứng, người càng có

lòng tin, thì càng có thể thành công, đây là đạo lý nhất định.

Năm xưa tôi ở một ngôi miếu nhỏ nhìn thấy “Cao Vương Quán Thế m chân kinh”, lúc đó

tôi thỉnh một quyển với vị trụ trì, vị trụ trì tên là Thích Huệ Linh, thường hay qua lại với cha

mẹ của tôi. Sau khi thỉnh về nhà, đêm hôm đó lập tức nằm mộng, nằm mộng thấy Quán Thế

Âm Bồ tát ngồi trên hoa sen thuyết pháp, pháp tướng rất trang nghiêm khiến cho người ta

phải cung kính. Sau đó tôi tỉ mỉ đọc “Cao Vương Quán Thế Âm chân kinh”, đột nhiên có

một mùi thơm bay đến. Lúc đó tôi vẫn chưa biết tu đạo và khởi linh, sau đó mới biết có căn

duyên tiền kiếp, thì ắt có hiện tượng như vậy.

Năm xưa khi tôi học trắc lượng, thường hay đi vao rừng sâu, ở tạm nhà dân hay là miếu,

trước khi đi ra ngoài trắc lượng, hay sau khi trắc lượng trở về, mỗi ngày tôi đều tụng một

biến Cao Vương Quán Thế m chân kinh, đã hơn 10 năm rồi, không bỏ sót một ngày nào.

Sau đó tôi đi du lịch nước ngoài, ở khách sạn, sáng sớm tôi hướng ra ngoài cửa sổ mà

niệm ”Cao Vương Quán Thế m chân kinh”, đây chính là công phu mỗi ngày của tôi, khi tôi

đi du lịch, tôi cho rằng làm như thế, sẽ thâm nhập sâu vào trong lòng của tôi, Quán Thế Âm

Bồ tát nhất định phù hộ cho tôi, bởi vì tôi tin rằng, chư Phật không nói dối.

Nhất là sau khi tôi đắc chứng, sơ chuyển pháp luân, biết rằng “Cao Vương Quán Thế Âm

chân kinh” có vô lượng vô biên công đức bất khả tư nghì, chính là Đại Sĩ vì phương tiện độ

chúng sinh, thị hiển quyển kinh này, có thể đầy đủ tất cả pháp tướng, phổ độ nhất thiết chúng

sinh hữu tình, hiển mật viên thông, thành tựu kim cang thân bất hoại.

Người nào niệm “Cao Vương Quán Thế m chân kinh”, được gia trì thêm 108 biến Lục

Tự Đại Minh Chú “Um Ma Ni Pê Mi Hum”, càng có thể tu quán tưởng “Tứ thủ Quán Âm

pháp”, sẽ có 36 thiên thần ngày đêm hộ trì, tất cả quỷ thần, đều cung kính nghe lệnh, thật

đúng là công đức vô biên.

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

Dược Sư Phật trị bệnh ma

Tôi học mật pháp, có được pháp “Dược Sư Phật trị bệnh ma”, nên công bố ra, mong các

đồng tu trân trọng, cứu nhân độ thế, công đức vô lượng.

Dược Sư Phật đầy đủ 32 tướng, là giáo chủ của thế giới Đông Phương Lưu Ly Quang,

thông thường thì thợ điêu khắc làm tượng thì là thân đắp cà sa, tướng mạo giống như đức

Phật Thích Ca, nhưng thân thì màu xanh lam, tay trái kết ấn cầm bát, trong bát đựng đầy cam

lồ trị bệnh, tay phải cầm thanh quả trị tam độc, đặt trên đầu gối. Thợ điêu khắc tượng Dược

Sư ở Đài Loan, thì thường khắc tượng với tay cầm bảo tháp.

Đức Phật Dược Sư phát 12 đại nguyện:

Nguyện lớn thứ nhất: Tôi nguyện đời sau, khi đắc đạo Vô Thượng Chánh Ð ng

Chánh Giác, hào quang thân tôi chói sáng rực rỡ vô lượng vô số vô biên thế giới. Dùng ba

mươi hai tướng tốt của bậc trượng phu, tám mươi vẻ đẹp để trang nghiêm thân, và khiến cho

tất cả các loài hữu tình cũng được như tôi.

Nguyện lớn thứ hai: Tôi nguyện đời sau, khi đắc đạo bồ đề, thân tôi như ngọc lưu ly

sáng suốt trong ngoài, thanh tịnh không vết nhơ, ánh sáng rộng lớn, công đức vô lượng, thân

yên ở trong lưới sáng trang nghiêm tuyệt đẹp, sáng hơn mặt trời mặt trăng, chúng sinh ở chỗ

tối tăm đều được nhờ ánh sáng, tuỳ ý muốn làm các sự nghiệp.

Nguyện lớn thứ ba: Tôi nguyện đời sau, khi đắc đạo bồ đề, dùng vô lượng vô biên trí

huệ phương tiện, làm cho các loài hữu tình đều được vô tận những vật thọ dụng, ch ng khiến

cho chúng sinh thiếu thốn.

Nguyện lớn thứ tư: Tôi nguyện đời sau, khi đắc đạo bồ đề, đối với các hữu tình, nếu

ai theo đạo tà, tôi khiến cho họ an trụ trong đạo bồ đề. Nếu ai hành theo đạo Thanh Văn, Ðộc

Giác, thì tôi sẽ dùng đạo đại thừa mà an lập cho họ.

Nguyện lớn thứ năm: Tôi nguyện đời sau, khi đắc đạo bồ đề, nếu có vô lượng vô

biên hữu tình tu theo Phạm hạnh, ở trong giáo pháp tôi, tôi sẽ khiến cho tất cả đều được

không thiếu giới, đầy đủ ba tụ giới thanh tịnh. Nếu lỡ vi phạm, nghe tên tôi rồi, lại được

thanh tịnh, ch ng bị đoạ vào đường ác.

Nguyện lớn thứ sáu: Tôi nguyện đời sau, khi đắc đạo bồ đề, nếu loài hữu tình nào

thân thể hèn kém, các căn không đủ, xấu xa, ngu si, mù điếc, câm ngọng, co quắp, còng

gù, phát hủi, điên dại, nhiều bệnh khổ. Nếu được nghe tên tôi rồi, thì tất cả đều được đoan

chính, thông minh sáng suốt, các căn đầy đủ, hết mọi bệnh khổ.

Nguyện lớn thứ bảy: Tôi nguyện đời sau, khi đắc đạo bồ đề. Nếu những loài hữu tình

bị các thứ bệnh bức bách não hại, không người cứu chữa, không chỗ nương nhờ, không thầy

không thuốc, không người thân quen, không nhà không cửa, nghèo cùng khốn khổ. Nếu danh

hiệu tôi được lọt vào tai họ, thì mọi thứ bệnh đều tiêu trừ, thân tâm an lạc, gia quyến vật

dùng sẽ được đầy đủ, cho đến chứng được đạo vô thượng bồ đề.

Nguyện lớn thứ tám: Tôi nguyện đời sau, khi đắc đạo bồ đề. Nếu có người nữ nào bị

trăm nỗi xấu của thân phận người nữ, bức bách não hại, chán ngán vô cùng, muốn bỏ thân nữ.

Nếu được nghe danh hiệu tôi rồi, tất cả đều được đổi thân nữ thành thân nam, đủ tướng

trượng phu, cho đến chứng đạo vô thượng bồ đề.

Nguyện lớn thứ chín: Tôi nguyện đời sau, khi đắc đạo bồ đề. Tôi sẽ khiến cho các

loài hữu tình, ra khỏi lưới ma, thoát khỏi tất cả những ràng buộc của ngoại đạo, hoặc bị sa

vào rừng rậm ác kiến. Tôi đều dẫn dắt và đặt họ vào chánh kiến, dần dần khiến cho họ tu tập

các hạnh Bồ Tát, sớm chứng được đạo vô thượng bồ đề.

Ðiều nguyện lớn thứ mười: Tôi nguyện đời sau, khi đắc đạo bồ đề. Nếu các loài hữu

tình mắc phải pháp luật nhà vua, bị trói buộc đánh đập, giam cầm trong lao ngục, hoặc sẽ bị

tử hình, hay vô lượng tai nạn khác, lấn hiếp nhục nhã, sầu thương thê thảm, nung đốt thân

tâm, chịu nhiều đau khổ. Nếu được nghe danh hiệu tôi rồi, nhờ sức oai thần và phước đức

của tôi, đều được giải thoát tất cả ưu sầu đau khổ.

Ðiều nguyện lớn thứ mười một: Tôi nguyện đời sau, khi đắc đạo bồ đề. Nếu các loài

hữu tình bị sự đói khát bức bách não hại, vì việc tìm cầu thức ăn mà tạo nhiều nghiệp ác.

Nếu được nghe danh hiệu tôi rồi, chuyên tâm thọ trì tụng niệm. Trước hết tôi sẽ đem các

món ăn ngon, làm cho thân họ no đủ, sau đem pháp vị an vui rốt ráo kiến lập cho họ được an

trụ.

Ðiều nguyện lớn thứ mười hai: Tôi nguyện đời sau, khi đắc đạo bồ đề. Nếu các loài

hữu tình nghèo, không có quần áo, bị muỗi mòng lạnh nóng, ngày đêm bức bách não hại.

Nếu được nghe danh hiệu tôi mà chuyên tâm tụng niệm thọ trì, thì theo chỗ mong muốn, sẽ

được quần áo tốt đẹp, cũng được tất cả đồ vật trang nghiêm quý giá, tràng hoa, hương xoa,

âm nhạc, các thứ tuỳ sở thích đều được toại nguyện.

Bởi do 12 đại nguyện, nếu như muốn trị bệnh, thì hãy lấy dược phẩm hoặc là nước sạch

hoặc là trái cà na, trái cây, táo đỏ, trà gạp… cúng ở trước tượng đức Phật Dược Sư, thành

tâm niệm tâm chú Dược sư 108 biến, quán tưởng đức Phật Dược Sư quang lâm đạo tràng, từ

tâm phóng ra ánh sáng gia trì các dược phẩm, uống vào sẽ khỏi bệnh.

Nếu như trị các bệnh nặng, cho đến các bệnh câm điếc…. thì cần phải lấy thuốc đựng vào

trong tịnh bình, viết vào giấy chữ Phạn “Hum”, xếp thành hình vuông, gói trong khăn tay

bằng gấm màu đỏ, dùng sợi tơ đỏ xanh cột lại, bỏ lên trên dược phẩm, và một ít tơ thì để ở

bên ngoài bình, miệng bình dùng vải gấm vàng đỏ đậy lại, dùng dây đỏ xanh cột lại, và đem

bình này để ở tịnh thất, hay là trong đàn đốt hương lễ Phật, tay phải đặt lên trên sợi dây bên

ngoài bình, thành tâm tụng tâm chú Dược Sư, quán tưởng đức Phật Dược Sư giáng lâm đàn

tràng, trước tiên là chữ “Hum” ở trong bình phóng ra ánh sáng, tiếp theo là chữ “Hum” từ

tâm Dược Sư Phật phóng ra ánh sáng, thập phương chư Phật đều phóng ánh sáng tương ưng,

rất nhiều ánh sáng hợp nhất lại.

Lúc này, thập phương chư Phật đều biến thành Dược Sư Phật, thập phương lục đạo chúng

sinh và người cầu nguyện, khi gặp được ánh sáng công đức này, thì tất cả tội nghiệp đều tiêu

trừ, bệnh tật đều tự khỏi.

Tu Pháp này nếu có thể tuyệt cách ngoại duyên, dốc lòng thành tâm trì tụng tâm chú Dược

Sư Phật, phát đại bồ đề tâm cứu độ tất cả chúng sinh có bệnh khổ, mỗi lần trì tụng là 1080

biến trong vòng một tháng, tu pháp 3 đàn, lâu ngày công lực tu trì sẽ càng sâu, thì có thể cứu

được rất nhiều, rất nhiều người.

Người tu pháp này, do có cam lồ rưới khắp toàn thân, đầy khắp cả tay chân, khiến cho tất cả

người mang bệnh tật, trong sát na đều được tiêu trừ, thân tâm thanh tịnh tự tại, tự biến thành

hóa thân của “Dược Sư Phật”.

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

38. “Ph p Thống Truyền Thừa” của tôi.

Đến ngày hôm nay, tôi đã là một người đại giác đại ngộ. Tôi lãnh ngộ được 2 điểm, thứ

nhất, tôi đã nhiều đời chuyển thế thường là người tu hành, thứ hai, tôi là pháp sư đã kinh lịch

qua ba tôn giáo (Cơ Đốc <Giê Su , Đạo Giáo, Phật). Mỗi một kiếp của tôi, đều rất cực khổ,

mỗi một kiếp đếu gặp được kỳ duyên, mỗi một kiếp đều có thần thông, mỗi một kiếp đều

sáng lập tông phái tu pháp, mỗi một kiếp đều độ hóa một số người, đời đời kiếp kiếp của tôi,

đều liên quan đến phát tâm bồ đề và đại nguyện của tôi.

Còn kiếp này, trước tiên là tôi tiếp xúc với Cơ Đốc giáo, khi còn học trung học, mỗi một

tuần tôi đều đến nhà thờ, lúc tôi 16 tuổi, tôi tu tập ở trường Thánh Kinh Vạn Quốc, và trường

Thánh kinh Thời Thiệu. Mùa hè năm tôi 16 tuổi, được sự ấn chứng của mục sư Khưu Dĩ

Chính, dưới sự chủ trì của mục sư Tô Thiên Minh ở giáo hội Cao Hùng tôi chính thức làm lễ

“Rửa Tội”.

Bởi do tôi tốt nghiệp lớp sư phạm ở trường sư phạm Chủ Nhật này, lại chính thức học

trong giáo hội đó, nên tôi đã trở thành thầy giáo của trường, hiệu trưởng thời đó là Ngô Đức

Tân.

Dưới sự tín ngưỡng của Cơ Đốc, tôi là thầy giáo của lớp tra kinh, chương tiết của Thánh

kinh tôi đều thuộc lòng. Trong sự tín ngưỡng này tôi đã từng nhìn thấy thần quang của Chúa

Giê Su, tôi tin vào Chúa và Thượng Đế, người phương Tây đều được ngài cứu độ.

Lần thứ hai tôi tiếp xúc là Đạo giáo, lúc đó tôi khoảng 25 tuổi, đột nhiên gặp kỳ duyên,

trong một sát na hiểu được nhân quả kiếp trước. Thế nên siêng tâm tu đạo, sau lạy Thanh

Chân Đạo Trưởng của phái Thanh Thành làm thầy, ở Đài Trung Nam Tầu núi lớn “Tập Tập”.

Học “Thông Linh Pháp”, học “Địa Linh Pháp”, học “Đơn Đỉnh Bùa Lục”, lễ lạy Diêu Trì

Kim Mẫu Thiên Tôn, được sự nâng đỡ của Thanh Chân Đạo Trưởng, tôi chính thức “Qua

Công Đức” trở thành đạo trưởng.

Trong tu trình của Đạo gia, tôi đã học được thiên địa nhân tam bộ “Long Môn Tuần Giáp

Thiên Thư”, “Địa Linh Cửu Tinh Đại Pháp”, “Thanh Thành Phái Bùa Lục”, “Ngũ Lôi Thiên

Tâm Chính Pháp”, “Kim Hoa Chính Tông”….

Đáng lẽ nói là trong 3 năm này, tôi từ “Thông Linh Pháp”, được thượng sư vô hình là Tam

Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh, đã dạy cho tôi 3 năm Mật pháp, mỗi đêm 1 tiếng đồng hồ, bởi do

Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh là thượng sư vô hình, rất nhiều Mật pháp của tôi đều là ngài

truyền thọ, sự việc này là có thật, cho nên Tam Sơn Cửu Hầu Tiên Sinh là thượng sư truyền

pháp mà tôi tôn kính nhất trong một đời của tôi.

Lần thứ ba, tôi tiếp xúc với Hiển giáo của Phật môn, lúc đó tôi khoảng 27 tuổi, tôi quy y với

Ấn Thuận đại sư ở Đài Trung Liên Xã Phật giáo, đây là vị sư phụ Hiển Giáo đầu tiên của tôi.

Sau này có duyên, tôi đã là hàng xóm với Ấn Thuận đại sư. Mỗi tháng tôi gặp đại sư một lần,

đó là lúc tôi còn ở Đài Loan. Lần đầu tiên quy y, mẹ tôi cũng đi quy y cùng. Vị sư phụ thứ 2

của tôi là pháp sư Dược Quả, pháp sư này đến từ Hong Kong, thầy làm trụ trì ở Phổ Lý Phật

Quang tự, đang giảng kinh Kim Cang ở Sa Trần, tôi được sự giới thiệu của Khương Cát Bồ ở

Đài Loan, chính thức quy y với pháp sư Dược Quả ở Sa Trần. Tôi đã qua đêm ở Phật Quang

tự, thọ sự giáo hối, lạy Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát, tượng của vị Bồ Tát

này là ở Đài Loan, trên thế giới không có tượng thứ 2.

Bởi do nhân duyên này, phương hướng của đại điện chùa Phổ Lý, là do tôi dùng địa linh

pháp, chỉ dẫn đặt hướng chùa. Trụ trì hiện nay là sư Đạo Trung là sư huynh của tôi. Tượng

Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ tát là tượng Mật tông, nhưng Phật Quang Tự vẫn là

truyền thừa Hiển giáo, có duyên rất sâu với Từ Thiện Tự ở Đài Trung.

Vị sư phụ quy y thứ 3 của tôi là Đạo An pháp sư, địa điểm quy y là ở Huyền Trang Tự,

pháp sư giảng tam quy y, lục độ Ba la mật. Đêm hôm đó cúng chay là ở lầu Hàm Bích. Ban

đầu lúc mới quy y, Đạo An pháp sư không biết, sau này nghe nói tôi đến quy y, liên tục nói:

“Thật tốt quá, tốt quá, người này tôi đã biết lâu rồi, rất nổi tiếng”. Tôi và pháp sư bắt tay

nhau trong tiếng cười.

Năm Dân quốc 61 (năm 1972) chùa Bích Sơn làm lễ kỷ niệm thành lập chùa 220 năm (do

vua Càn Long năm thứ 17 khởi dựng) trụ trì chùa Bích Sơn Nham Tự là pháp sư Như Học

truyền thọ giới Hộ Quốc Thiên Phật, đó là ngày 17 tháng 4, tôi được sự giới thiệu của pháp

sư Thiền Danh, đến thọ “Bồ tát giới‟. Đắc giới Hòa thượng là Huệ Tam lão pháp sư, tôi còn

nhớ rõ ngài nói; “Bồ tát lấy lợi tha làm tôn chỉ”

Yết ma hòa thượng là Hiền Đốn pháp sư, tôi còn nhớ rõ ngài nói rằng: “Tu hành trước tiên

phải sám hối tất cả nghiệp chướng, phải biến thập ác thành thập thiện, học tập giới pháp, cho

đến khi thành Phật”.

Giáo thọ hòa thượng là Giác Quang lão pháp sư, tôi còn nhớ rõ ngài nói: “Giáo thọ oai

nghi, 3000 oai nghi, 8 vạn tế hạnh, không ngoài đi, đứng, nằm, ngồi”

Trên tay trái của tôi có 3 vết thẹo giới, được xếp rất ngay ngắn, đó chính là khi tôi thọ Bồ

tát giới lúc tôi 28 tuổi, vết thẹo màu đỏ trên tay tôi, như đang in trong lòng của tôi mãi mãi

không thể nào quên.

Năm tôi 32 tuổi tiếp xúc với Mật tông, trước đó tôi quy y với Tiêu Xương Minh phu tử

của Thiên Đức Thánh giáo, địa điểm là ở Bích Hồ Tân Đốn, do Vương Đức Bác làm phụ

trách. Chính vào năm 32 tuổi, do một cơ duyên tình cờ, được một lần gặp gỡ Đại Bảo Pháp

Vương thượng sư, lại được thượng sư Đai Thiết-Đỗ-Ba quán đảnh. Tôi được gặp mặt Đại

Bảo Pháp Vương là một sự kiện lớn trong cuộc đời của tôi, bởi vì trong lần gặp mặt này, Đại

Bảo Pháp Vương đã nói ra nhân quả của tôi, chỉ th ng pháp thống truyền thừa của tôi, mở

sáng ra mặt ẩn để thấy trời xanh bao la.

Đắc tâm pháp Mật pháp, tôi trực tiếp do Thích Ca Mâu Ni Phật thọ ký quán đảnh, trong

quyển “Sách thông linh bí pháp” chính là ghi lại sự kiện kỳ lạ này. Đồng thời lúc trong thiền

định, Địa Tạng Vương Bồ tát cũng hóa thành một điểm sáng, ngồi trên tâm hoa sen của tôi.

Tôi đã thọ không biết bao nhiều lần quy y và quán đảnh, tôi đã thọ quán đảnh Đại Bạch Tán

Cái Phật Mẫu, thọ quán đảnh Hắc Thần Tài, thọ quán đảnh Ngũ Phương Phật, thọ quán đảnh

Địa Tạng Vương Bồ tát. Thọ quán đảnh của Tuo Kiết Ni Tôn Giả. Tâm pháp Mật tông mà

tôi học được, tôi đều là được chúng sinh ứng thỉnh mà thí dụng, hiệu nghiệm phi thường.

Tiếp theo, Liên Hoa Sanh Đại Sĩ lại giáng lâm Mật đàn của tôi, chỉ dạy tôi vận dụng Đại

Viên Mãn Thủ Ấn. Tôi biết Liên Hoa Sanh Đại Sĩ là thân khẩu ý tam mật kim cang ứng hóa

thân của A Di Đà Phật, Quán Thế Âm Bồ tát và Thích Ca Mâu Ni Phật, hiện kim cang lục

đạo, xuất hiện ở đời. Tôi đắc “Tam Giác Kà”, Bí Mật Chủ Kim Cang Thủ, Kim Cang Phật

Mẫu, A-Đạt-Dĩ-Ma Phật, thọ Vô Thuợng Mật Ngũ Bộ Tâm Truyền đại Pháp, đắc tất cả pháp

yếu của nội ngoại mật, chứng Ngũ Phật Trí.

Liên Hoa Sanh Đại Sĩ từ Ấn Độ vào Tây Tạng truyền pháp, là Tổ Sư đời thứ nhất của Tạng

Mật, còn nhớ ngài Liên Hoa Sanh Đại Sĩ đã từng nói: “Ta không đến không đi, chỉ có những

người tin ta, thì ta lập tức hiện ở trước mặt thuyết pháp cho người”. Bây giờ, Liên Hoa Sanh

Đại Sĩ cảnh nhiên hiện ở trước mặt tôi, có phải là khiến cho tôi vui mừng phải nhảy cẫng lên

không. Đồng thời Ngài đã ban cho tôi đội hồng quán trong lúc tôi nhập định, ban cho tôi

“Hồng Quán Kim Cang Bảo Miễn Mật Hạnh Tôn Giả”, tôi tu pháp càng ngày càng tinh tiến,

ngoại bát thành, nội bát thành tôi đều chứng hết, đây chính là “pháp thống truyền thừa” ở

nửa cuộc đời trước của tôi.

Tôi đang sống ở thời kỳ Mạt pháp, cho dù trong lòng hiểu rõ, biết được việc của kiếp trước,

cũng biết được việc của kiếp sau, quá khứ vị lai đều biết rõ, nhưng giáo nghĩa chân thật của

tu đạo đại pháp, đã không có người biết. Chủ yếu căn bản tinh thần của bất cứ tôn giáo nào,

đã toàn mất hết rồi, chúng sinh muốn cầu đạo, thì có rất nhiều nẻo lối, có tà có chính, rất là

phức tạp. Tôi đã trải qua hơn 3 đạo rồi, đều có nghiên cứu rất kỹ, tôi không có phân biệt, yêu

ghét, bỏ lấy, duy chỉ là cứu cánh (mục tiêu cuối cùng) và không có cứu cánh mà thôi, tôi có

các đệ tử, từ cảnh giới phàm phu mà hãy ráng từ từ tu đến chứng Phật quả.

“Linh Tiên Chân Phật Tông” là tông phái tôi sáng lập, tôi đem sự cảm ứng sơ cơ của pháp

khởi linh, để kêu gọi tâm người phải có tín ngưỡng, tiếp theo là truyền vô thượng viên mãn

tâm pháp của thời kỳ mạt pháp, khiến cho chánh pháp khởi tân trụ thế, phổ độ chúng sinh,

tôi là người đốt đèn, từng quyển sách linh chính là sách pháp trình rõ, trong đó có bí pháp,

phải biết nắm bắt cơ duyên đi thành Phật, nhất tâm thành tín, thì sẽ được thành tựu.

Bài văn này là nói về “pháp thống truyền thừa” của tôi. Ngày 23 tháng 2 năm 1983

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

39. Ngày sinh nhật bí mật của Tôn Trung Sơn.

Bác sĩ Hạ Vĩnh Hán soạn.

Trời phù hộ cho nhân dân ta, đã cho ra đời Quốc Phụ ông Tôn Trung Sơn, lãnh đạo đất

nước, sáng lập Dân Quốc, người đầu tiên đề xướng “Chủ Nghĩa Tam Dân”, kế thừa tư tưởng

văn hóa truyền thống Trung Hoa. Từ xưa đến nay, trong nước và ngoài nước đều có rất nhiều

vị anh hùng triết gia hào kiệt, không chỉ ngàn vạn, nhưng nếu muốn so với, thì không thấy có

ai nhiều hơn đâu.

Một đời của Tôn Trung Sơn, có vui có buồn, có máu có nước mắt, có đại nghiệp cách

mạng nghiêm chỉnh, nhưng cũng có một mặt thần bí, bài viết này chỉ nói về ngày sinh nhật

thần bí và sự tín ngưỡng ban đầu, để cho mọi người được hiểu rõ hơn về con người vĩ đại

này.

Nhiều người đều biết rằng, Tôn Trung Sơn sau khi trưởng thành, thì tin thờ Cơ Đốc Ki tô,

nhưng rất nhiều người không biết, ông nội của Tôn Trung Sơn là tin theo Phật và Đạo giáo.

Khi Tôn Trung Sơn còn nhỏ, ông đã từng lạy Huyền Thiên Thượng Đế và làm con nuôi của

ngài, và ở trước mặt của Huyền Thiên Thượng Đế thề rằng sẽ mãi mãi giữ bí mật ngày sinh

của mình cho đến khi trưởng thành. Tôi tin rằng, vì do tin mà có linh ứng, sau khi Tôn Trung

Sơn trưởng thành, làm cách mạng dựng nước, thần vô hình đã phù hộ ông rất nhiều.

Khi Tôn Trung Sơn còn sống, nơi sinh ra của ông vốn là một câu đố, và ngày tháng năm

sinh cũng là một câu đố, những sự kiện này là có nguyên nhân để cho chúng ta nghiên cứu.

Bởi do khi Tôn Trung Sơn còn sống, các đồng chí cách mạng, ít có người biết được ngày

sinh của ông. Vào năm Dân quốc thứ 14, sau khi Tôn Trung Sơn qua đời, tôi đã đem câu hỏi

này hỏi một đồng chí đã theo Tôn Trung Sơn nhiều năm.

Ông Đới Quì Đào nói: vào khoảng năm Dân Quốc thứ 5 hay thứ 6, Tôn Trung Sơn còn ở

Thượng Hải, vào một đêm, tại nhà của ông có 2 bàn tiệc, có rất ít đồng chí đến tham gia, khi

bắt đầu nhập tiệc, các đồng chí hỏi nguyên nhân mời khách, ông Tôn chỉ cười, lúc đó vợ của

ông mới nói đây chính là ngày sinh của Tôn Trung Sơn. Thế là mọi người đều nâng ly chúc

mừng Quốc Phụ sinh nhật.

ng Đới nói thêm: Đây chính là lần sinh nhật đầu tiên lúc ông ta còn sống. Đến ngày hôm

nay nghĩ lại đúng là một câu đố không dễ dàng giải đáp.

Chúng ta cần phải biết rõ nguyên nhân ở đâu? Sau khi Tôn Trung Sơn qua đời, ở Quảng

Châu có người tên là Liêu Trọng Khải đã có vài báo cáo về sự kiện của Tôn Trung Sơn, đáng

để cho chúng ta tham khảo. Khi Liêu Trọng Khải nhắc về sinh nhật của Tôn Trung Sơn đã

từng nói: Nguyên nhân Tôn Trung Sơn không nhắc đến sinh nhật của mình đó là do khi ông

sinh ra, cha của ông là ông Đạt Thành, đã từng tìm đến thầy xem tướng, thầy nói “Đứa con

này là người phi phàm, đại phú đại quý, sẽ làm vua, và ngày sinh cần phải giữ bí mật”. Thế

là ông Đạt Thành dùng tên “Đế Tượng” để gọi ông, có ý nghĩa là có hiện tượng đế vương.

Sau đó nội tâm của ông Đạt Thành bị bất an và khủng bố cực đoan, đó chính là nếu như

trong nhà đã sinh ra một người sẽ làm vua, nếu như tổ tiên không có phước đức sâu dày, e

rằng sẽ xung khắc, nếu như ngày giờ sinh bị triều đình nhà Thanh biết, thì cũng không hay.

Cho nên khi Tôn Trung Sơn được 7 tuổi, cụ dẫn ông đến một ngôi miếu ở thôn Thúy Hanh,

cầu xin Bắc Cực Huyền Thiên Thượng Đế phù hộ cho ông Tôn, nhận Bắc Cực Huyền Thiên

Thượng Đế làm cha nuôi, vì tương lai của ông Tôn, cụ bắt ông phải thề trước thần là từ đây

về sau, không được nói ngày giờ sinh của mình cho người khác biết. Lúc đó ông Tôn không

cần suy nghĩ mà thề ngay và đồng thời giữ đúng lời thề của mình. Cho nên các đồng chí cách

mạng rất ít người biết về ngày sinh nhật của ông.

Cho đến khi triều đình nhà Thanh bị lật đổ, thành lập Dân Quốc, ông Tôn được bầu làm

tổng thống lâm thời, vì thế ông không cần phải giấu ngày sinh của mình nữa. Nhưng đến vào

khoảng năm Dân Quốc thứ 5 thứ 6, vẫn còn rất ít người biết về ngày sinh của ông, đủ để thấy

ông là con người rất thận trọng, giữ đúng lời hứa, giữ đúng lời thề. Có thể thấy rằng nếu

chúng ta tin có thần linh, thì thần nhất định sẽ phù hộ, công đức của Bắc Cực Huyền Thiên

Thượng Đế cũng rất cao và đáng để tôn quý.

Tiến sĩ Hạ Vĩnh Hàn người viết bài này là người sống ở New York, đã từng về nước tham

gia quốc kiến hội, ở New York ông xây dựng đạo tràng Bắc Cực Kim Điện. Ông ta biết tôi ở

Seatte, nên cố tình đến tìm tôi, và đem bài viết này giao cho tôi, hy vọng tôi có thể phát biểu,

ông chú thích về Bắc Cực Huyền Thiên Thượng Đế như sau:

Huyền Thiên Thượng Đế Đại Thiên Tôn là phân linh của Vô Cực Hỗn Nguyên Giáo Chủ,

và Hỗn Nguyên Giáo Chủ là tổ sư của tam giáo (Nho Đạo Thích), hiệu Tam Nguyên Đô

Thống Quảng. Còn Huyền Thiên Thượng Đế có hiệu là Cửu Thiên Du Dịch Sứ, Trái Thiên

Cương, Phải Hằng Đại Tướng Quân, Trấn Thiên Trợ Thuận, Chân Võ Linh Ứng, Phúc Đức

Viên Khánh, Nhân Từ Chánh Liệt, Hiệp Vận Chân Quân, Trị Thế Phúc Thần.

Huyền Thiên Thượng Đế hiệu Trị Thế Phúc Thần, Trấn Bắc Đại Tướng Quân, du tuần ở

cõi trời và mặt đất, nắm càn khôn của thế gian, phụ trợ mạt thế đại đạo, hộ quốc hộ giáo,

không nhẫn tâm thấy chúng sinh chịu khổ muôn phần, nên theo Ngọc Đế giáng trần, thống

lĩnh thiên chân vạn thánh, giám sát chúng sinh ở hạ giới, đại từ đại bi, đại thánh đại nguyện,

tâm từ cứu thế, ban phúc ban thọ, là độ thế xá tội đại thiên tôn.

Huyền Thiên Thượng Đế là Hỗn Nguyên hóa thân, là phân linh chí tôn, cũng giống như

Thần Nông Đại Đế vậy, vì ngũ cốc và thuốc trị bệnh làm vị tổ đầu tiên; hóa thân thì giống

như ngài thánh minh đức cao vĩ đại quận chủ đời Đường Nhiêu, vì khai lập nhân loại quốc

gia mà có chế độ dân chủ; cũng giống như quận chủ của đời ngũ đại hậu Đường Tịnh Lạc

Quốc Vương hoàng thái tử, yêu đạo thích học, không thích làm vua, lập phái Võ Đang ở tỉnh

Hồ Bắc, lạy Diệu Lạc Thiên Tôn làm thầy, tu đạo 42 năm, ngộ chân thành đạo, thành Đại

Giác Kim Tiên vô thượng chánh đ ng chánh giác quả vị, ban ngày bay th ng lên trời. Ngọc

Đế khen ngợi quả vị công đức ban cho Trấn Bắc Thiên du tuần ở cõi trời và mặt đất, và

phong làm Ngọc Hư Sư Tướng Huyền Thiên Đại Đế Chân Vũ Thang Ma Đại Thiên Tôn, còn

có tên là Tế Thế Chân Nhân.

Gần đây, đời nhà Minh Thành Tổ, khi chưa lập quốc đời nhà Minh cũng đã cầu xin Huyền

Thiên Thượng Đế trợ giúp, cầu xin ngài phù hộ cho ông được làm vua, dời đô đến Nam Kinh,

hiệu Thánh Đức Hoàng Đế, văn trị võ công, thiên hạ thái bình, công tích rất huy hoàng. Sau

đó nhà vua đời nhà Minh này lại được Huyền Thiên Thượng Đế linh thị vì để hoằng dương

văn hóa của dân tộc, nên Trịnh Hòa (Thái giám Tam Bảo) đã vâng lệnh làm hàng ngàn chiếc

thuyền, 7 lần ra biển đi Nhật Bản, Đông Nam Á, Bắc Phi Châu, Hồng Hà, Bosinia, A

Rạt….và trở thành vị hàng hải chuyên gia sớm nhất ở trên thế giới. Mới có người Hoa từ xưa

đi khắp nơi trên thế giới.

Đó đều là đời nhà Minh Thành Tổ, Trịnh Hòa Tam Bảo thái giám, mỗi chiếc thuyền đều

thờ cúng Huyền Thiên Thượng Đế, ở trên tàu để cầu xin phù hộ. Bởi vì Huyền Thiên

Thượng Đế cai quản Bắc Thiên Thất Tinh, công đức đặc thù của ngài, ảnh huởng ngay đến

hiện thời những người thủy thủ đều nhìn sao Bắc Cực để mà biết hướng đi, và tạo nên đường

dây 7 biển hàng hải đối nhau, phát hiện đất đảo mới, các chủng tộc nhân loại được di dân các

châu, tạo thành trí thức hàng sử của loài người càng thêm phát đạt và thành tựu.

Từ đời Minh, Thanh đến Trung Hoa Dân Quốc, dân gian thờ tín ngài Huyền Thiên

Thượng Đế, quốc nội cũng như hải ngoại, đều cung phụng ngài rất thành kính và phổ biến.

Vì ngài chưởng quản bắc thiên 7 sao, những người đi biển được nhờ công đức của ngài thật

không thể đo đường tận. Càn khôn vũ trụ và việc cứu thế có thể phối hợp cùng nhau, như

ánh sáng của mặt trăng mặt trời, chiếu khắp đại thiên thế giới. Công tích quy đại, sáng soi

cứu thế ngàn đời, như cầu vồng hiện trên bầu trời sáng rực rỡ.

Ghi chú của Lư Thắng Ngạn: Bắc cực Huyền Thiên Thượng Đế ở trong nước ta có nhiều

miếu thờ ngài, là thần tiên của Đạo giáo, tay phải cầm kiếm, đó là “Thất Tinh Kiếm”, tay trái

chỉ một ngón tay đó chính là: “Thông Thiên Chỉ”, đầu đội nón quan võ, có râu, còn gọi là

Lão Đế Già, ở Gia Nghĩa có thờ một tượng nhưng không có râu, một chân đạp trên con rắn,

một chân đạp trên con rùa, con rắn và rùa này đều là hộ pháp của tướng quân, thông thường

các bức tượng được điêu khắc là có mặt màu đen, cũng có khuôn mặt màu đỏ, nhưng đều rất

uy dũng.

Ở Thọ Thiên Cung Nam Đầu nơi thờ Bắc Cực Huyền Thiên Thượng Đế, là đông người đến

dâng hương nhất, phân đường ở khắp các tỉnh, giáng linh thường hay dùng “thần kiệu” hoặc

“bói đồng”. Bởi do trấn thủ Bắc cực, nên cờ ở đây là màu đen, trên cờ có viết “Bắc Đẩu Thất

Tinh”, là một trong những pháp bảo hàng ma.

Bắc Cực Huyền Thiên Đại Đế thành đạo ở núi Võ Đang Sơn, có rất nhiều quyển kinh để

lại truyền thế, trong đó có 3 quyển nổi tiếng:

1/ Bắc Cực Huyền Thiên Thượng Đế Chân Vũ Kinh

2/ Huyền Thiên Thượng Đế (Toàn Khoa Ngọc Luật) Chân Kinh

3/ Huyền Thiên Thượng Đế Cứu Thế Chân Kinh.

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

40. Phá hắc giáo hắc pháp.

Lúc tôi còn làm việc cho tạp chí, khi nhìn thấy 2 chữ “Hắc giáo”, đích thật là kinh ngạc,

bởi vì khắp thiên hạ, người nhận thức tâm pháp của Mật tông không nhiều (chân tri chân

kiến), và người có thể biết rõ tường tận gốc gác của “Hắc giáo” càng ít hơn nữa. Bản thân tôi

bởi do là người tu trì Mật tông có “Hồng Quán Kim Cang Bảo Mão”, đối với “Hắc giáo” từ

lâu đã nhận biết sâu sắc. Còn đối với người lợi dụng tên của Hắc giáo, tự xưng rằng là truyền

nhân duy nhất của Hắc giáo, còn có những người vô tri, cứ cầm cờ mà theo la hét, cảm thấy

buồn cho những kẻ vô tri đó mà phụ họa theo Hắc giáo, nói về người đưa ra Hắc giáo kia,

thật đúng là kẻ dùng tâm đi giết hại người.

Mật thừa phân làm 3 bộ phận: Mật Tông, Mật Hạnh, Mật Giáo. Mật Tông là bí mật truyền

thừa Phật với Phật, là thầy trò tương truyền (không qua 6 nhĩ), bởi do tâm tâm tương truyền,

cho nên được nói rằng là truyền thừa mật ý, đó chính là Mật Tông.

Mật Hạnh là truyền thừa của Phật đối với Bồ tát.

Mật Giáo mới là truyền thừa của Tổ Sư đối với phàm phu, chỉ dẫn con người (có duyên) đi

vào con đường của Phật, vào trong đất Phật.

Mật thừa được ngài Long Thọ Bồ tát sáng lập đầu tiên, hoàn thành ở Long Trí Bồ tát. Khi

Thích Ca Mâu Ni Phật còn tại thế thì Mật thừa chưa sáng lập khai tông. Sau khi Phật diệt

tịch, ngài Long Thọ Bồ tát theo ý chỉ của Đức Phật thuyết pháp, bắt đầu nói về pháp Mật

thừa của Phật pháp, ngài ngộ sâu về Kinh Lăng Nghiêm và nội chứng pháp môn viên thông.

Còn về ngài Liên Hoa Sinh Đại Sĩ, là vào ngày mùng 10 tháng 7 âm lịch, ở miền tây Ấn Độ,

tại Ta La Cai Siêu Hải, trong tòa sen lớn ngũ sắc hóa sinh đứa bé ra, nhà vua n Chương Bo

Tê của nước tây Ấn Độ này, từ trong biển liên hoa bồng ngài đem về nuôi và lập làm thái tử.

Sau này xuất gia, ngài phụng sự A Nan Tôn Giả làm thầy, chứng Ngũ Phật Trí. Sau đó, nhận

lời mời của nhà vua Xích Tùng Đức Chân ở Tây Tạng, từ Ấn Độ sang Tây Tạng, trở thành

Tổ Sư đầu tiên của Mật Tạng. Liên Hoa Sinh Đại Sĩ từ Ấn Độ sang Tây Tạng vào đời nhà

Đường, tôn thừa pháp của Long Thọ Bồ tát, sáng lập ra Hồng giáo mà giáo hóa những người

ở Tây Tạng, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật, sau này các phái như Hoàng giáo, Hoa

giáo, Bạch giáo đều từ phái này mà ra, có rất nhiều nghi quỹ, nhưng các phái đều có pháp

thống truyền thừa, tuy rằng có nhiều nhưng không loạn xạ. Và cho đến ngày nay vẫn còn rất

hưng vượng.

Nhưng còn về Hắc giáo, Hắc giáo vốn là một chi nhánh giáo phái nguyên khởi của Bà La

Môn giáo ở Ấn Độ. Ban đầu cũng được truyền đến Tây Tạng, không liên quan với Mật thừa

của Phật giáo. Bà La Môn giáo vốn là thần giáo, mê tín rất nặng, thấy mặt trời lạy mặt trời,

thấy mặt trăng lạy mặt trăng, thấy núi lạy núi, thấy lửa lạy lửa, thấy cây lạy cây, thấy tảng đá

lạy tảng đá, thậm chí lạy cả động vật súc sinh nữa. Một trong những nhánh phái của Hắc giáo,

chuyên môn lạy “Thần Trâu”, trong nhà của các pháp sư trong Hắc giáo đều có thờ “Thần

Trâu”, “Thần Trâu” là giáo chủ của Hắc giáo, là tà môn hơn mọi tà đạo. Hắc giáo vốn là một

tôn giáo thờ “Thần Trâu.”

Vậy làm sao lại có quan hệ với Mật thừa đây? Có rất nhiều người không biết, bây giờ tôi sẽ

nói ra hết, để phá cái tà.

Liên Hoa Sinh Đại Sĩ thương xót đám người mê tín “Thần Trâu” đó, vì muốn cứu độ đám

chúng sinh ngoan cố kia. Đại Sĩ hiển hóa thần thông nhập Văn Thù Bồ-tát tam ma địa. Sau

đó hiện ra một tôn kim cang thần, chính là “Đại Uy Đức Kim Cang”, kêu những tín đồ mê

tín “Thần Trâu” đó hãy lễ lạy “Đại Uy Đức Kim Cang”, dùng “Đại Uy Đức Kim Cang” để

cứu độ những người mê tín “Thần Trâu”.

Tướng mạo của “Đại Uy Đức Kim Cang” phía trên đỉnh là ngài Văn Thù Bồ tát, chính giữa

là kim cang thần nộ mục, phía dưới là “Thần Trâu”. Tổng cộng có 3 mặt, “Thần Trâu” có 2

sừng, có mũi trâu, mắt trâu, miệng trâu lớn, mọc ra nhiều tay, trên đầu trâu và ở thân trâu có

treo rất nhiều đầu lâu. Đại Uy Đức Kim Cang thật ra không phải là “Thần Trâu”, mà là Liên

Hoa Sinh Đại Sĩ cố ý hóa hiện để chuyển đổi và cứu độ những chúng sinh mê mờ của “Hắc

giáo”. Từ đây có thể biết rằng Hắc giáo rất thấp kém, là vô tri và mê tín.

Ban đầu Liên Hoa Sinh đại sĩ muốn độ hóa “Hắc giáo”, tín đồ của Hắc giáo cũng phản

kháng. Liên Hoa Sinh đại sĩ vừa nhìn là biết ngay chỉ có dùng phương thức khuyên nhủ chỉ

dẫn, nên hóa sinh ngài Đại Uy Đức Kim Cang để giáo hóa “Hắc giáo”. Hắc giáo vận dụng

chủng chủng cấm giới, chủng chủng thề nguyện để khống chế các tín đồ của họ, ràng buộc

các tín đồ không dám phản bội, đây là cách làm của một số tà giáo, và thề nguyện của Hắc

giáo chính là nếu có ai không tin phục thì nhất định sẽ bị trâu húc chết, những người đến quy

y với Hắc giáo đều phải thề như vậy.

Hắc giáo ngoại trừ lạy thần trâu ra, điểm đặc trưng của họ là pháp sư đều học những tà chú

thuật để hại người. Cho nên, chú thuật bùa phép của Hắc giáo là tà pháp, phàm làm một lần

ác pháp, người thỉnh cầu nhất định phải đưa tiền cho pháp sư, pháp sư dựa vào tiền nhiều hay

ít mà thí pháp thuật, các pháp đó đều là hại người., Hãy thử suy nghĩ xem, ngay cả pháp sư

cũng hại người, tự trói buộc mình, tâm vô tri càng nặng, xem trọng ác pháp, mãi mãi không

thấy được ánh sáng của Đức Phật, mê tín của Hắc giáo thật tội nghiệp, khiến cho người ta

phải than trách. Pháp sư không hiểu tự tánh, lại cộng thêm tín đồ ngũ trược, đó chính là bản

lai diện mục của Hắc giáo, thật là tội lỗi, tội lỗi!

Pháp sư của Hắc giáo vốn “rất thô tục”, càng có những tục lệ này, nếu có tín đồ là phụ nữ,

thì trước tiên phải do pháp sư phá chảo, và trong miếu thần trâu của Hắc giáo, cũng nuôi một

đám kĩ nữ, chuyên để các pháp sư Hắc giáo hưởng lạc. Trong miếu nuôi kĩ nữ vốn đã là có

trong Bà La Môn giáo, vì nước Ấn Độ quá nóng, nam nữ đều sớm phát dục, và sắc dục rất

nặng, các miếu của Bà La Môn giáo đều có kĩ nữ, bởi vì Hắc giáo còn tà hơn, vì thế trong

miếu cũng có kĩ nữ, thậm chí đêm đầu tiên của các cô gái cũng đều thuộc quyền của các

pháp sư, thật đúng là tà môn!

Tôi nghe nói rằng trong nội cung Ung Hòa ở Bắc Kinh, có Tứ Hoan Hỷ Phật, những người

đến tham quan chỉ cần nhét tiền cho người trong miếu, thì họ sẽ dẫn bạn đi xem, một bức

tượng thân người đầu trâu, hai chân đạp lên một mỹ nữ, tay thì ôm một mỹ nữ khác. Quái vật

đầu trâu này, chính là sản vật của Hắc giáo, nếu không phải là giáo chủ của Hắc giáo thì còn

ai nữa đây?

Có lẽ có người sẽ nói, Mật tông cũng có pháp song thân, thật ra “pháp song thân” cũng là

ngoại đạo Hắc giáo mới có, tổ sư Phật giáo vì muốn độ hóa Bà La Môn giáo và Hắc giáo chỉ

có nhẫn nhịn. Quyển Duy Ma đại sĩ dựa trên ý chỉ này mà lập “không đoạn dâm dục si, diệc

bất dữ cụ”, để cho hưởng dục trước, sau đó mới khiến cho lãnh ngộ sự vô ích của dục mà

chấm dứt sự thăng hoa của nó, dùng trí tuệ để đoạn dâm dục, chuyển thức thành trí.

Hắc giáo, Hắc pháp bị chánh pháp quét sạch thành trống rỗng, đó là một nhân duyên sơ cơ

của Mật tông, đi cứu độ và chuyển hóa mê tín của Tây Tạng ban đầu, Đại Uy Đức Kim Cang

vốn là hóa thân của tổ sư bên Phật giáo.

Hắc pháp tà môn đó, có thể quy nạp thành 3 thành phần:

1/ Mê tín lạy “thần trâu”.

2/ Hành ác pháp hại người.

3/ Nặng về dục vọng.

Tôi cảm thấy con người ngày nay, căn cơ nông cạn, không hiểu gì về Mật thừa, có người

tự cho mình là truyền nhân duy nhất của Mật tông Hắc giáo, còn giới truyền thông cũng chưa

phân biệt được thật và giả, chánh và tà, không có pháp thống chánh thức, kết quả lấy không

thanh tịnh của Hắc giáo này, lại nói rằng là Mật tông, người thế gian không điều tra kĩ, bị mê

hoặc và không biết rõ, vì thế nên tôi viết bài về “Phá Hắc giáo Hắc pháp” để sửa sai.

Phải biết rằng “Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, bách niên vạn kiếp nan tao ngộ”.

Tương lai của Mật tông là sẽ phát dương quảng đại, là phải lên đến đỉnh cao, là Phật quang

phổ chiếu, phổ nguyện pháp giới hữu tình, đồng chứng viên giác. Khi tôi còn ở năm 32 tuổi,

quy y Mật tông, thọ mật hạnh quán đảnh, do thượng sư truyền pháp, chưa từng nói ra bộ mặt

thật tu hành bí mật của mình, tôi chỉ là nói “Đạo và Phật” kiên tu mà thôi. Hắc giáo hắc pháp,

toàn bộ tôi đều được thượng sư truyền thọ qua, tất cả hắc pháp tôi đều nghiên cứu và biết rõ,

những gì tôi đã học qua là rất nhiều, vì tương lai của “Hồng Quán Kim Cang Bảo Mão Pháp

Sư”, bất cứ pháp nào tôi cũng học.

Hôm nay có người phụ họa “Hắc giáo”, tôi có trách nhiệm ra mặt để chỉ rõ, xin các chúng

sinh, nhận biết rõ chánh tà. Chớ đừng điên đảo pháp luân chuyển vận thì là may mắn rồi.

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

41. Nói về ông Lâm thỉnh thị Đạt Lai Đạt Ma.

Ông Lâm đại sư gặp Đạt Lai Đạt Ma ở Hawaii, ông thỉnh giáo Đạt Lai Đạt Ma một vấn đề,

Đạt Lai Đạt Ma không nghe rõ ông Lâm nói cái gì, sau này, có người ở bên cạnh phiên dịch,

Đạt Lai Đạt Ma xem như hiểu ra, ông Lâm hỏi ngài: “Có thể đồng thời tu trì tam mật

không ?”

Đạt Lai Đạt Ma trầm ngâm một hồi mới trả lời: “Một số người là không thể đồng thời tu trì

tam mật, cần phải tu từng bước một”. Ông Lâm chen lên trước muốn hỏi thêm, nhưng lại có

người khác chen ngang, ông ta bèn đứng đó, có một cảm giác đau khổ bị cô lập.

Đối với vấn đề mà ông Lâm đại sư hỏi Đạt Lai Đạt Ma, người khác không thể phát giác ra

bí mật, nhưng tôi vừa nhìn thì biết có rất nhiều vấn đề, cần phải tỉ mỉ mà suy đoán, thì mới

có thể hiểu rõ hết.

Thứ nhất, “có thể đồng thời tu trì tam mật không ?” Câu nói này nói từ miệng của Lâm,

khiến cho người ta cảm thấy kỳ lạ, bởi vì câu hỏi này, ở toàn bộ Mật thừa mà nói, phàm là

người học qua Mật thừa đều có thể trả lời. Nhưng bây giờ lại nói ra từ miệng của truyền

nhân duy nhất Hắc giáo Lâm đại sư, tôi cảm thấy Lâm đại sư làm gì giống Mật tông đại sư,

mà lại giống đứa bé học mẫu giáo hỏi thầy giáo, “Thầy ơi! Con phải đi wc”, trình độ của đứa

bé học mẫu giáo này, không có tư cách của lớp lớn, e rằng là học sinh vừa mới vào học đó,

ngay cả đi wc cũng cần phải thầy giúp đỡ.

Thứ hai, tôi cảm thấy, Lâm đại sư nếu hỏi câu hỏi ấu trĩ này, vậy thì hiển thị rằng Lâm đại

sư đích thật không hiểu gì về Mật tông cả, nhưng mà cũng khó trách, bởi vì ở giới học thuật

chưa từng có người tu trì mật thừa chân chính, giới diễn viên cũng chưa từng có người tu trì

mật thừa chân chính. Một người chỉ đọc qua vài quyển sách, chưa hiểu rõ hết về Mật thừa,

tự xưng là Mật tông đại sư mà nói, thì cũng giống như là người ngoài hành tinh vậy, mọi

người hiếu kỳ mà ôm lấy ông ta, mà không cảm thấy xấu hổ. Có một hành giả Mật tông tu trì

10 năm, là đệ tử truyền thừa của Tây-Khang Nhược-Hô-Đồ-Khắc, ông nói Lâm vốn không

phải là Mật tông, nhưng Lâm hễ cứ mở miệng là nói Mật tông. Mật tông thật sự là hoàn toàn

không nói ra. Tôi nói với ông ta, Mật tông thật sự là không nói chuyện.

Thứ ba “có thể đồng thời tu trì tam mật không?” Tôi cảm thấy đem câu hỏi này thỉnh thị

Đạt Lai Đạt Ma là có ý xem thường ngài hoặc là sỉ nhục ngài, Đạt Lai Đạt Ma vốn là trưởng

môn của Hoàng giáo Tây Tạng, chúng ta có thể tưởng tượng, Đạt Lai Đạt Ma nhất định cho

rằng Lâm hỏi câu hỏi ấu trĩ này, thật khiến cho người ta cảm thấy khó xử, cũng giống như

một đứa học trò hỏi một giáo sư tràn đầy kiến thức rằng: “Một con người có thể đồng thời

mở miệng nói 3 thứ tiếng không?”. Vị giáo sư đó sẽ trả lời: “Người thông thường thì không

thể đồng thời nói 3 thứ tiếng nói, phải nói xong thứ tiếng này, rồi nói tiếng thứ 2, sau đó nói

tiếng thứ 3”.

Hôm nay, tôi đặc biệt chỉ dạy Lâm đại sư như sau:

Tam mật, thân khẩu ý là “hữu hình” có khác biệt với “vô hình”.

Thân bí mật, là công đức báo thân, người tu trì cần phải bảo trì không phạm thân nghiệp.

Tu ngũ trí pháp, cho đến huyết mạch của toàn thân, ngũ tạng lục phủ, và tất cả nhân quả da

thịt của đời trước, giết, trộm, dâm đều toàn bộ được rửa sạch, hành giả thật sự bảo trì thân

thanh tịnh, mới chính là hóa thân công đức của thân mật vô hình.

Khẩu bí mật, là công đức báo thân, người tu trì cần phải bảo trì không phạm khẩu nghiệp.

Tu pháp lưỡi thanh tịnh, cho đến không ác khẩu, hai lưỡi, nói dối, nói lời thêu dệt, cho đến

sau cùng biến thành ngữ ngôn, khí cung, khí của toàn thân đều được thanh tịnh, như thế thì

mãi mãi bảo trì công đức báo thân khẩu mật vô hình. Lâm đại sư thích nói khí nhất, thật ra

khí là khẩu mật vô hình, ông phải thể hội cho tốt.

Ý bí mật, là công đức pháp thân, người tu hành phải bảo trì không phạm ý nghiệp. Tu pháp

quán tưởng chân tuệ, khiến cho tam độc tham sân si đều được trừ đi, tâm ý khẩu toàn thân

đều hiển hiện quang minh, như thế mới được xem như là bảo trì “ý bí mật” của pháp thân

công đức.

Tam mật trên là “vô hình”, là cứu cánh nhất.

Còn về Lâm đại sư hỏi Đạt Lai Đạt Ma, tôi đương nhiên biết đó là “hữu hình”, đây là cách

hỏi của người ngoài hành tinh.

“Thân bí mật”, tay bắt ấn tướng, đi đứng nằm ngồi tất cả sự việc đều phải khế hợp với ấn.

“Khẩu bí mật”, miệng niệm chân ngôn, tất cả hành sự đều là chân ngôn.

“Ý bí mật” tâm quán tưởng bổn tôn, tất cả hành vi đều lấy bổn tôn làm chủ.

Câu trả lời của Đạt Lai Đạt Ma là rất có đạo lý, một con người chưa thành đạo, tu trì tam

mật là phải từ từ, từng bước một, khẩu trước rồi đến thân, sau đó mới đến ý niệm, cho đến

khi tam mật thực sự hợp nhất, cũng tức là “thành đạo”, tôi cười Lâm vốn không hiểu gì về

Mật thừa cả, bởi vì tam mật nếu có thể đồng thời tu trì, cũng tức là “thành đạo”. Phàm phu là

không có cách nào làm được, Lâm đại sư hỏi như vậy, thật sự là không có câu hỏi nào để hỏi.

Có lẽ Lâm đại sư cho rằng, trong miệng niệm chú, tay kết ấn, trong đầu quán tưởng về một

bổn tôn Phật, như thế chính là pháp tu “tam mật hợp nhất”. Thật ra đó là “hữu chấp ngã

kiến”, phải “tam mật hợp nhất”, cần phải như thế mới được xem như là “vô hình chân đắc”.

Thân bí mật - thân tâm hai bộ, pháp nhiên bất động

Khẩu bí mật - chư Phật cảm ứng, đại chuyển pháp luân

Ý bí mật - gia trì nội chứng, tự hiểu Phật tướng

Như thế mới chính là chân tu trì của “tam mật hợp nhất”. Chứ không phải là miệng niệm

chú, tay bắt ấn, tâm quán tưởng, nhưng thế gọi là “tam mật hợp nhất”. Phải biết rằng, đắc

chứng của thân bí mật là “Lý Cụ Thành Phật”, đắc chứng của khẩu bí mật là “Gia Trì Thành

Phật”, đắc chứng của ý bí mật là “Hiển Hiện thành Phật”. Cần phải thực hiện từng bước một,

đến cảnh giới cao nhất thì tự nhiên sẽ là “Tam Mật Hợp Nhất”.

Tôi phải khuyến cáo Lâm đại sư, xin đừng nhắc đến lúc ông 6 tuổi ở cung Ung Hòa, lúc 6

tuổi học pháp nữa, bởi vì tu trì mật tông, nhất định cần phải có “thầy truyền thừa pháp

thống”, cũng chính là cần phải quy y với thượng sư, nhập đàn quán đảnh thọ pháp, mới được

xem như là đệ tử chính thức của Mật tông. Không phải chỉ là đọc thêm vài quyển sách, xem

vài quyển sách thủ ấn, xem thêm một số sách phong thủy, kinh Dịch, sách Đạo, và tiếp theo

là phụ hội Hắc giáo hắc pháp, thì muốn tự xưng là truyền nhân duy nhất của Hắc giáo, không

muốn nói ra thượng sư của mình là ai. Mật tông không phải là tự ban cho bản thân có thể tự

tu, mà là phải quy y thượng sư, do thượng sư truyền pháp mới có thể tu được. Nên quy y Mật

tông có thêm một thứ quy y (Tứ quy y), đó chính là quy y thượng sư. Bạch giáo có phái Các-

Ma-Gia-Châu, Hồng giáo có phái Nymabaco, đều là có thầy truyền thừa pháp thống, chứ

không thể tự tu tự học được, tu mù vong liện, bất luận bạn tu pháp nào, nhất định cần phải

có ”thầy truyền thừa pháp thống”, hãy mau chóng quy y chánh pháp.

Nhất là người tu trì mật thừa chân chính, xưa nay xem Ấn Độ giáo (Bà La Môn) giáo,

Tạng giáo (trước Phật giáo vào Tạng), Hắc giáo là tà ma, cho rằng là tiểu thừa ngoại đạo.

Ông cần gì phải tự mình đọa lạc hùa theo Hắc giáo hắc pháp. Tôi chính là có lòng từ bi mới

khuyên ông rồi lại khuyên nữa, hy vọng ông cùng quy bồ đề đạo.

Hiện nay ông nên tu quảng đại cúng dường, cúng dường thượng sư, Tam Bảo, Kim Cang,

Hộ Pháp. Biết rõ lạc thú của ông là quy y thượng sư, lấy quy y làm chính, lấy cúng dường

làm sám hối, như thế mới có thể rửa hết vọng nghiệp đã tạo lúc xưa, từ đây dừng bước không

vào đường tà, không nói bậy nữa.

6 tuổi học pháp, xin đừng nhắc nữa, để tránh sỉ nhục Mật thừa sư môn.

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

42. Vài chuyện về Lâm đại sư.

Có ông Tạ Trực Thoại ở Dương Mai, Bổ Tâm thôn Tứ Vi Tân, Đài Loan; có gửi đến một lá

thư như sau:

Lư đại sư pháp an :

Tôi có thể đọc được sách tay viết của một vị tôn sư thật đúng là may mắn, sự vinh hạnh ở

trong lòng của tôi cũng giống như năm xưa tôi đã từng được triệu kiến tổng thống Trưởng

Công vậy.

Tôi đã thử khởi linh, theo hướng dẫn tôi đã không ăn một ngày, và tiếp tục cầu nguyện :

1/ Lúc mới bắt đầu 2 chân của tôi run động không ngừng. (không phải yếu đối)

2/ Tiếp là hai tay của tôi đang chấp lại lắc lư lên xuống rất mạnh

3/ Trong vô tri vô giác tôi đứng bật dậy thế là hai tay tách ra và hai tay của tôi rung động lên

không ngừng.

4/ Sự rung động này là đến từ trong thân thể của tôi, hình như càng rung động thì tôi càng có

tinh thần, nhưng người tôi là hoàn toàn tỉnh thức thì những hiện tượng này, nay xin thỉnh

giáo với Thầy, mong được chỉ dẫn thêm.

Hôm nay tôi đọc được một tờ thời báo, tôi thấy có một phóng viên viết về Lâm đại sư, sau

khi đọc xong tôi cảm thấy trong lòng rất không vui, trong lòng có rất nhiều câu hỏi, bởi vì

hắn ta chỉ là một tên trộm danh ở thế gian, vậy mà trong vô hình hắn đã trở thành một đại sư,

nên khi đọc xong tôi cảm thấy không vui, lời nói thừa thãi của tôi lại cứ nhắc hoài.

Kính chúc Thầy an khanh. Tạ Trực Thoại kính gửi.

Ông Tạ Trực Thoại cắt một mảnh báo gửi kèm cho tôi, phóng viên viết bài này là Vương x

Chí, tiêu đề của bài báo này là “Thử hé mở về mặt cách làm người của Lâm đại sư”. Sau khi

tôi đọc xong, cảm thấy rất mắc cười, bây giờ tôi chỉ cần cầm bút lên, viết một vài chuyện thú

vị về Lâm đại sư, để xem mặt khác của ông ta như thế nào.

Câu chuyện thứ nhất :

Con trai của Hồ Liên tướng quân đến tìm tôi, vị này là ủy viên thiết kế của Quang Phục

Đại Lục, anh ta hỏi về bệnh của mẹ anh (bà Hồ Liên đã bị liệt nữa người) ?

Tôi bấm tay một lát rồi nói: “Đã có người cầu nguyện đi giúp rồi, người này dùng tà pháp,

đã không thể chữa trị, xin hỏi người giúp này là ai ?”.

Con trai của Hồ Liên trả lời là : “Lâm đại sư”.

“Ông ta nói có thể trị bệnh sao ?” tôi hỏi lại.

“Có thể được” cách nói rất chắc chắn.

“Còn bây giờ thì sao ?”.

“Trị rất lâu rồi, cũng không hết bệnh”.

“Tại sao không đến tìm ông ta nữa”.

“Ông ta thấy trị không hết bệnh, đã cụp đuôi chạy mất”.

Tôi nói với con trai của tướng quân Hồ Liên, tuổi thọ của bà Hồ Liên đã hết, không thể nào

cứu được nữa. Con trai của bà Hồ Liên, tay kết thủ ấn mà Lâm đại sư đã dạy cho anh ta, và

hỏi tôi thủ ấn này có thể cứu được mẹ của anh không, tôi cười nói với anh ta, đây là thủ ấn

dùng để kiếm cơm của ông Lâm đại sư, ngay cả con kiến cũng không cứu được.

Câu chuyện thứ hai :

Ở Golden Gate nước Mỹ bị mưa lớn và núi lở, có giáo sư Hứa Giới Dục bị chôn vùi trong

đất, tôi đã từng bói cho ông ta, chữ họ “Hứa”, trong ngũ hành nập âm là thuộc về thủy, giáo

sư Hứa Giới Dục lại ngự ở sau núi, thổ thì khắc thủy, nhất định sẽ chết.

Khi núi lỡ, Hứa Giới Dục bị mất tích

Có con gái của Trần tướng quân, mau chóng đến thỉnh giáo Lâm đại sư.

“Hứa giáo sư là tướng trường thọ, sẽ không chết” Lâm đại sư nói chắc như đinh đóng cột.

Cách 2 ngày sau, giáo sư Hứa Giới Dục vẫn chưa xuất hiện, điều này đã chứng minh ông đã

bị chôn vùi trong đất

Con gái của Trần tướng quân lại đi hỏi Lâm.

“Việc này, việc này là tai nạn do tự nhiên, không thể nào bói ra” Lâm lầm bầm.

“Vậy cuối cùng là chết hay là sống ?”.

“Chết,… nhất định chết….”.

Câu chuyện hôi thúi này của Lâm đại sư đã truyền khắp trường đại học ở Wasington, rất

nhiều giáo sư cho rằng, tên tiểu tử này là lừa gạt, da mặt dày, vậy mà lại có người dễ dàng tin

hắn, người nghe chỉ lắc đầu, cho rằng “thuật lừa gạt” của hắn rất cao.

Con gái của Trần tướng quân nói: “Cách xem bói như vậy, trẻ con 3 tuổi cũng biết bói”.

Câu chuyện thứ 3 :

Cũng là phu nhân của một vị tướng quân đến tìm tôi.

Bà nói: “Lâm đại sư nói với tôi, nơi nào cần phải có một cái gương, nơi nào cần phải treo

cái chuông đồng, kết quả là bệnh ch ng những không hết mà lại còn nặng thêm, chúng tôi

không còn nghĩ ra cách nào nữa, chỉ có thể tìm đến Lư đại sư xin ngài từ bi cứu giúp, toàn

thân nay đau đến chết. Khi treo gương lên rồi, treo chuông lên rồi, thì càng đau hơn, Lâm ấy

đích thật là có vấn đề”

Tôi dùng “Dụng Thần Chế Sát” pháp, và dùng “Linh Tiên Phi Hồng Pháp”, lá bùa thứ 6 để

chữa đau cho bà, quả nhiên khỏi h n, phu nhân tướng quân cảm kích vô cùng.

Những câu chuyện vui thú này của Lâm đại sư thật sự là nhiều như sao trên trời, nếu tôi cứ

tiếp tục viết tiếp, thì có thể viết hàng trăm câu chuyện, tôi cảm thấy kỳ lạ là rất nhiều giáo sư,

diễn viên, phóng viên những người này không biết có phải là bị tà thuật che mắt không, tại

sao không nhận biết rõ ràng, hay là tất cả đều là người ngoài hành tinh, đều hùa theo ông ta.

Điều vui nhất là, phong thủy tổ sư của Lâm đại sư cũng có vấn đề, bởi vì các anh chị em

của Lâm, cả nhà ai ai cũng kết hôn rất trễ hay độc thân, bản thân ông Lâm cũng không kết

hôn, và hình như toàn bộ anh em điều như vậy. Lâm đại sư suốt ngày từ sáng đến đêm đều

nói “phong thủy mật tông”, nhưng phong thủy gia tiên của ông có vấn đề, tự ông Lâm cảnh

nhiên lại không làm được, không dám sửa đổi. Tôi xin hỏi Lâm đại sư, “phong thủy mật

tông” của ông là như thế nào? Nếu như ông vẫn không có cách, tôi khuyên ông mua một

quyển sách thứ 43 “Linh Tiên Địa Tung” để đọc, trước tiên hãy hiểu rõ về phong thủy tổ tiên

của mình, sau đó cầm lấy quyển sách của tôi mà xem như là giảng nghĩa; mới đi ra ngoài nói

phong thủy mật tông của mình.

Tôi xem xét đến ngày hôm nay Lâm đại sư vẫn tự xưng là truyền nhân duy nhất của Mật

tông hắc giáo. Bản thân tôi cũng được xem như là người trong ngành lại nhìn không ra Hắc

giáo Hắc pháp của ông ở đâu? Giống như “khí”, “linh tử thuyết”, “đa nguyên duyên sinh

luận”, “nhập thế giải”, “xuất thế giải”, “tam mật giai trì”, “lục đại chân ngôn”.... đều là tiểu

luận của Mật tông, và vẫn còn tham tạp lý luận của Đạo gia, những thứ này ở người tu hành

Mật tông mà nói, đều là trò đùa, thuật nhỏ chỉ gạt người ngoài ngành, không lừa gạt được

người trong ngành, xin hỏi Hắc giáo, Hắc pháp ở đâu? ng có biết là Hắc giáo, Hắc pháp là

tà giáo lạy “Thần Trâu” không ?

Tôi muốn viết một quyển sách, tên của quyển sách này là “Hắc giáo hắc pháp”, để ông

hiểu rõ hơn. Lư Thắng Ngạn không mờ mịt với Hắc giáo, khi tôi còn ở 32 tuổi, tôi đã nghiên

cứu về Hắc giáo hắc pháp, điểm này khiến cho ông ta cảm thấy ngạc nhiên. Bởi vì ông ta cho

rằng Hắc giáo hắc pháp chỉ có một mình ông biết, thật ra ông sai rồi, tôi nghiên cứu Hắc giáo

(Bon) và đắc được, biết nhiều hơn cả ông, sau này ông đọc sách rồi, ắt sẽ tin vào lời nói của

tôi. Xin lỗi, “truyền nhân duy nhất” của ông có thể sửa thành “truyền nhân thứ nhì” rồi.

Nhưng Hắc giáo hắc pháp, ác pháp rất nhiều, nên giấu đi một số, không thể nói ra được.

Tôi nói với ông rằng, tôi là đội “Hồng Sắc Kim Cang Bảo Mão” người tu hành Mật tông

chân chính. “Chánh Biến Chi” thiên hạ đại pháp.

Tôi sửa đổi ông, đối với ông và tôi đều có công đức, đó là tôi âm thầm trợ giúp ông, hãy

nhớ kỹ! Nhớ kỹ nhé !

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

43. Hai mươi Hai vị Phật nói như vậy.

Lúc 3 giờ chiều ngày 4 tháng 2 năm 1983, tôi đang ngồi tham thiền ở Linh Tiên Gác của

mình, xưa kia khi tôi tham thiền, thì tôi đều đóng cửa, không ai có thể vào được, tôi che hết

rèm ở cửa sổ, trong phòng rất tối. Đột nhiên, trong phòng như là bật sáng bóng đèn, ánh sáng

kỳ lạ này như sợi tơ, tôi nhìn thấy hoa sen phóng ra ánh sáng, di động lên xuống, tôi đếm

được 22 đóa hoa sen, ánh sáng của những hoa sen này chiếu sáng phòng tôi như ban ngày

vậy.

Thì ra những đóa hoa sen này là các vị Phật Bồ-tát, từ Đài Loan đến “Linh Tiên Tịnh Xá”

của nước Mỹ, để thọ cúng dường trong pháp hội. Các ngài đến trước pháp hội 1 ngày, đều

hiện diện sáng trên tòa sen.

Tôi tán thán rằng: “Hùng vĩ quá, thần kỳ quá, thần thông vĩ đại quá!”

Phật Bồ tát đều có những câu kệ để lại:

Phật quang sáng soi Linh Tiên Gác, Kha-Ma pháp hội hiện hùng quân; trì chú bắt ấn đều

có lực, giác ngộ tọa liên đi Phật kinh.

Linh Tiên Gác hóa khói mong manh, ngày đêm tu đạo thiên địa minh; một xuất một nhập

cảnh hóa già, hay biết năm tới nối mây thiên.

Linh Tiên Gác đây kỳ trong kỳ, huyền diệu trong ấy ít người hay; nhạc tiên phiêu phiêu vũ

hóa nhật, biết là Liên Sanh cưỡi hạc bay.

Linh Tiên Gác đây sen tự trôi, ngao du tí tắc đông rồi tây; độ hóa nhân gian ba ngàn lần,

lịch tận thế đạo chín trăm thu.

Linh Tiên Gác đây thất bảo thụ, đời ta chỉ siêng chăm pháp vụ; trừ yêu phục ma trần giới

tịnh, Trai giới lễ Phật đương trì chú.

Linh Tiên Gác đây nhàn quá nhàn, mây nước tuyệt thắng tự ngâm du; sao nguyệt đều tịnh

tận Bích Lạc, Ngự vân lướt qua thất đại châu.

Linh Tiên Gác đây sáng khói đầy, sách viết câu thơ trần tục phai; xuân về đại địa hoa hiến

Phật, từ nay tục làng ch ng đảo điên.

Linh Tiên Gác đây tinh thần sảng, nhân gian cũng hiện cảnh giới thiên; gác này tự thông

tam thiên giới, không để tục khách cầm kỳ xiết.

Lúc đó tôi đang chấp tay lạy bái Phật, trong lòng cảm động và rất vui mừng, vội mau

chóng thỉnh thị :

Một vị Phật nói: “Bốn câu bách phi bất trược khẩu”.

Một vị Phật nói: “Ngoại đạo thiên ma đều trảm thủ”.

Một vị Phật nói: “Mê ngộ hai quan chỉ một đầu”.

Một vị Phật nói: “Tam tạng huyền cơ không bắt chước”.

Một vị Phật khác nói với tôi : “Liên Sanh, văn tự của ngươi có khi thì từ bi như Bồ-tát nhìn

xuống; nhưng đôi lúc là nộ mục như uy mẫn kim cang, tựa như sư hổ oai liệt, nanh móng

đưa ra, ma đạo toàn bị bắt sống cầm giữ, không ai chạy thoát khỏi tánh mạng. Ngươi như

Đại Uy Đức Kim Cang, tay cầm bảo kiếm „Dĩ Thiên‟, oai phong mãnh liệt, bắt tất cả ma đạo

đều còng ra thị chúng”.

“Tôi có làm sai không ?” tôi chấp tay kính hỏi.

“Tất cả đều họp chánh đạo, nhưng có tí vi trần”.

“Tại sao thế ?”

“Ngươi chỉ trách ông lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam chửi rủa thần tiên, không có sai; chỉ trách ông

lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam cố chấp, cũng không có sai. Nhưng, Lý Bỉnh Nam bản thân giảng nói

Phật kinh nhiều năm, tiếp dẫn chúng sanh quy y Phật, công quả ngài không ít, cũng chính là

một phần tử trong Liên Trì Hải Hội. Công này lớn hơn lỗi lầm. Lý Bỉnh Nam cũng là người

có được quả vị, ngươi chỉ trách ngài, ấy là sân trong Tu Di, nên có một tí gọi là vi trần”.

“Vậy thì tôi không nói thôi”.

“Nếu như Lý Bỉnh Nam không đạt có quả vị, nhưng, học sinh của ngài nhiều người sẽ có

quả vị, học sinh này vì ngươi phê bình thầy giáo họ, nên đều sanh tâm sân trong Tu Di, tại

một góc độ khác đều phát thành lửa sân hận cháy lên, ấy có phải là tự tạo hình bóng mê, làm

cho vỡ nát tâm hướng đạo thành Phật của họ không?”

“ Ngài nói đúng lý, tôi nay phải làm thế nào ?”

“Bổ khuyết một trang này <Hai Mươi Hai Vị Phật nói như thế thì được.”

“Còn ông Châu X thì sao?”

“Người ấy vì danh lợi thôi, vợ thì có tu chính đáng. Hắn chỉ tu danh, không nghỉ ngơi, còn

chưa ngộ đạo”.

Nói thật, bởi do tôi gặp cơ duyên, đắc “thiên nhãn thiên nhĩ”, ban đầu cảm thấy hoang

mang. Trước tiên tìm đến ông Châu Bồi để giải đáp, ông Châu Bồi cho rằng là tâm ma thị

hiện, không có kết quả. Tuy rằng nói tôi là ma, nhưng không nói ra là ma nào, lại không có

cách giải cứu, trong lòng tôi cảm thấy rất nặng nề.

Sau này tôi dựa vào “tự tu” cũng quy y Phật đạo tôn sư, ngộ được nhân quả kiếp trước,

đích thân đến Phật quốc nghe kinh và khai thị, thọ quán đảnh ở Bạch giáo, ngài Đại-Triết-

Đỗ-Ba Thượng Sư, trở thành đệ tử đích thân thọ Mật truyền, tôi thọ “truyền pháp quán đảnh”.

Sau được Hồng Giáo Liên-Hoa-Sanh Đại Sĩ, ngài Giáng lâm truyền thụ “Đại Viên Mãn

Pháp”. Tôi tu cả Mật giáo và Hiển giáo, kiêm tu luôn cả Phật giáo; Đạo giáo và Cơ Đốc giáo,

viết sách linh truyền bá cho chúng sinh, mong rằng đem hương vị của Thiền và các phái, phổ

biến khắp thế gian.

Lý Bỉnh Nam lão cư sĩ, tôi không có giận ngài đâu, tôi vẫn còn tôn kính ngài; vì do lúc đó

ngài chưa hiểu rõ tình trạng của tôi.

Như tôi, thật sự là mỗi ngày có tiến triển, càng chăm siêng tu lên.

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

44. Kỳ tích của pháp hội.

Viết về pháp hội tổ chức lần đầu ở Linh Tiên Tịnh Xá nước Mỹ “Tukwilla”.

Ngày 5 tháng 2 năm 1983, ở Seattle “Tukwilla” có một thời tiết rất đẹp, mặt trời rất sáng,

cái lạnh buốt bị quét sạch. Lúc 10h sáng, ở hội trường pháp hội của Linh Tiên Tịnh Xá,

người đông đúc ở khắp nơi đổ về, ở Wasinghton mà nói đây là việc rất hiếm, pháp hội lần

đầu tiên ở Linh Tiên Tịnh Xá, đối với mọi người còn rất mới mẻ.

Những đồ vật để cầu phúc đều được vận chuyển từ Đài Loan, do hàng không Taiwan

airline vận chuyển qua, có ông Giang Đông Dần, có ông Trịnh Dũ Tín, có ông Vưu Ngân

Thọ đến tham dự. Bà Thái Lâm Mỹ Liên từ LosAngles, ông Huỳnh Ngọc Đường, ông Giang

Từ Vinh, ông Trương Tam Chi từ Houston, ông Lai Văn Ngạn đến từ Canada. Ông Triệu

Chiêu Minh đến từ Golden Gate. Tóm lại, đại chúng tham gia pháp hội, tổng cộng hơn trăm

người, chen chúc nhau. Bởi do lần đầu tiên tổ chức có thành tích như vậy, trong lòng cảm

thấy Bồ-tát rất từ bi, linh ứng thập phương, thời cơ phổ độ ở nước phương Tây đã đến!

Ở hiện trường pháp hội, cung thờ Tây phương Cực Lạc thế giới A Di Đà Phật, Nam Mô

Quan Thế Âm Bồ-tát, Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ-tát, Nam Mô Diêu Trì Kim Mẫu Đại

Thiên Tôn, Nam Mô Vi Đà Tôn Giả, Nam Mô Già Lam Tôn Giả. Ngoài ra vào buổi chiều

mùng 4 tháng 2, khi tôi đang tọa thiền, có rất nhiều cao linh từ không trung giáng xuống, thì

ra là 22 vị tôn thiên Phật ở Đài Loan đến pháp hội trợ linh cảm ở Linh Tiên Tịnh Xá, tiên

Phật từ phương xa đến, khiến cho người ta cảm động đến rơi nước mắt.

Pháp hội do tôi làm “trung tôn” Trần Tước Viên ở bên phải, Trần Tâm Hà ở bên trái, đốt

sớ, cầu nguyện, bố thí, cúng dường, thủ ấn, đều theo nghi thức mà thực hành.

Kinh chú mà chúng tôi niệm như sau:

1/ Phẩm Phổ Môn Quán Thế Âm Bồ-tát.

2/ Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Tâm Đà La Ni.

3/ Cao Vương Quan Thế Âm Chân Kinh.

4/ Quán Thế Âm Bồ Tát Đại Cứu Khổ Chân Kinh.

5/ Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh.

Trong âm thanh niệm Phật, tôi dùng đại thủ ấn của Bạch giáo, phái Kha-Ma-Ca-Châu, trong

diễn từng thức đại thủ ấn của tôi, tôi nhìn thấy đức Phật Di Lặc từ cung trời Đâu Suất giáng

xuống. Ngài ban cho tôi một Hồng mão có Ngũ Phật, đội lên đầu tôi. Tôi nhìn thấy thất đại

nguyện vương dùng diệu pháp thủ, cùng nhau biến hóa cúng phẩm. Đem cung phẩm phổ

cúng dường đến các thiên cung. Tôi thay thế chúng sinh chân thành sám hối tội nghiệp ác đã

tạo lúc xưa, cầu nguyện chư Phật Bồ-tát đại chuyển pháp luân, chỉ giáo chánh pháp, cầu xin

ban phước cho chúng sinh tiêu tai giải nạn, cầu xin Phật Bồ-tát thường trụ ở thế gian lợi ích

chúng sinh, cầu xin Phật Bồ-tát từ mẫn chúng sanh, nhiếp thọ chúng sinh, độ tất cả mê muội,

lấy Phật pháp phổ độ cho những chúng sanh tại phương Tây.

Trong âm thanh niệm Phật, tôi dùng đại thủ ấn, đi vào trong tâm của các vị Phật, đốn ngộ

cảnh giới thành Phật, phóng ra linh lực từ bi của đức Phật cho thập phương thế giới. Trong

một sát na, kỳ tích đều hiện ra, đại thủ ấn vô thượng tâm pháp trong thiền định của tôi, khiến

cho chúng sinh cầu phúc, đều trực tiếp lãnh ngộ quang minh của Phật pháp

Lãnh ngộ trực giác bản tâm của Trần Tước Viên là “Thanh Trừ Tai Kim Cang”, toàn thân

hóa thành màu xanh, tay kết ấn Thanh Trừ Tai Kim Cang, dùng linh lực vào trong tâm của

chúng sinh cầu phúc, khiến họ có được giác ngộ khởi linh, dùng lực tinh thần khiến chúng

sinh đắc diệu trí tuệ đi ngộ đạo.

Bà Lý Hạnh Châu ở ngay tại pháp hội, cảm nhận được Phật lực gia trì, khiến bà cung kính

chấp tay, tự động cúi mình lạy Phật 8 lạy, suốt cuộc đời của bà chưa từng cúi mình làm lễ.

Nhưng linh lực Bồ tát giáng xuống thân thể của bà, khiến bà tự động cúi mình, muốn ngẩng

đầu lên, cũng không ngẩng đầu lên được, từng động tác chậm rãi, bà chính thức lễ bái chư

Bồ-tát, sau sự việc này bà ta nói với chúng tôi rằng, đó chính là do linh lực của Phật Bồ-tát

giáng xuống thân thể bà, bà ta hoàn toàn đều bị động, bà ta rất vui mừng, cho rằng là kỳ tích.

Bà Dư Mãn Muội ở ngay tại pháp hội, cảm nhận linh lực của Phật Bồ-tát vào trong tâm,

hai tay của bà tự động lạy Phật không ngừng, toàn thân bởi do linh lực rất mạnh mà tự động

lắc lư không ngừng, những người nhìn thấy đều khen là kỳ tích. Có rất nhiều người chấp tay

âm thầm cầu nguyện, Phật Bồ-tát lập tức đi vào trong tâm, trong một sát na, mọi người đều

linh động, mọi người đều cảm ứng, pháp hội này thật đúng là pháp hội có cầu ắt ứng, thật là

một pháp hội đại nhân duyên.

Tôi rải nước chú Đại Bi ở trên mỗi cái áo, có tai tiêu tai, có nạn tiêu nạn, ban phúc ban cát

tường, diên thọ tăng ích, lúc này chư Phật và Bồ-tát phóng quang biến thành một biển ánh

sáng, quán đảnh ở trên mỗi một người tham gia và các bộ áo quần tượng trưng cho người

tham gia (đăng ký vì không đi qua được Mỹ). Nguyện mà chúng sinh cầu đều được chư Phật

gia trì thành hiện thực, tất cả các chứng đau bệnh đều khỏi h n ngay hôm sau.

Lần đầu tiên tổ chức pháp hội ở Linh Tiên Tịnh Xá “Tukwilla”, thật đúng là kỳ tích, Phật

Bồ-tát hiển hiện linh quang, khiến cho tôi càng có lòng tin độ sinh hơn, pháp hội khiến ai ai

cũng có cảm ứng kỳ tích. Đây chính là sự khởi đầu một sự thật cứu độ cho xã hội phương

Tây.

(Lư Thắng Ngạn văn tập 044 Phục ma bình yêu truyện)

45. Kính c o đọc giả.

Trước tiên, tôi xin cảm ơn các đọc giả đã ái mộ tôi và sửa những lỗi sai của tôi, trong việc

sáng tác của tôi bởi do được các bạn đọc khích lệ và sửa sai, nên trình độ của tôi càng hoàn

mỹ hơn. Phương thức sáng tác của tôi, không giống như sáng tác văn học thông thường, mà

phương thức của tôi là hình thức độc lập, mang tính mới mẻ về mặt tôn giáo và tư tưởng, có

một sự đổi mới rất lớn.

Bởi do có nhiều đọc giả hoan nghênh, vì thế có một vài chi tiết, xin các bạn đọc hãy chú ý,

trước tiên là tôi xin nói lời cảm ơn trước.

Có rất nhiều bạn đọc từ Đài Loan điện thoại đến Mỹ cho tôi, mỗi ngày bình quân là 3 cuộc

điện thoại, nó liên quan đến vấn đề múi giờ (khắc giờ), có lúc chuông điện thoại reo vào lúc

2 và 3h đêm tôi giật mình thức giấc. Nếu như là một hai đêm thì không sao, nhưng có lúc

liên tục một tuần lễ đều là như vậy, như thế thì, cái khổ của tôi không thể nói ra. Các bạn đọc,

tôi đã khan cả tiếng không biết phải như thế nào nữa đây?

Múi giờ (khắc giờ) ở Đài Loan và múi giờ ở Seattle nước Mỹ là cách nhau khoảng 16

tiếng đồng hồ, nếu tính đơn giản ở Đài Loan là 11h đêm ngày 1 tháng 1, thì ở nước Mỹ

Seattle là 8 giờ sáng ngày 1 tháng 1. Muốn gọi điện thoại quốc tế cho tôi, thì tôi cũng rất

hoan nghênh, nhưng xin quý vị hãy gọi lúc 12 giờ đêm, lúc này ở chỗ tôi là 8h sáng, tôi vẫn

chưa đi ra khỏi nhà, và cũng đã thức dậy lâu rồi, đây là lúc hợp thời nhất.

Gọi điện thoại lúc nửa đêm, tôi không trách, nhưng trong lòng rất sợ, luôn luôn giật mình

thức giấc, trước sau thì tinh thần của tôi cũng bị suy sụp.

Ngoài ra, các bạn gửi thư đến, tôi cũng cảm ơn nhiều, nhất đã những lá thư mang tính góp

ý thì tôi càng hoan nghênh. Khi còn ở Đài Loan, thư của các bạn đọc gửi lên như tuyết rơi,

đã từng có một ngày có trên 500 lá thư. Hiện nay tôi ở Seattle, mỗi ngày tôi nhận được bình

quân 20 lá thư, chưa từng có ngày nào gián đoạn.

Có một ngày, có một người bạn ở Gold Gate đến thăm tôi, ông ta tên là Triệu Lệnh Dân tốt

nghiệp hệ cơ khí ở Đài Loan, tôi mở kho cho ông ta xem, ông ta vừa nhìn thấy, giật mình lùi

bước. Ông ngạc nhiên hỏi tôi: “Mỗi lá thư ông đều trả lời sao?” Tôi đáp: “Ban đầu thì như

vậy, nhưng sau này thì chịu không nổi nữa”

Tôi nói, dựa vào năng lực trả lời thư của tôi, mỗi ngày từ sáng đến tối thì tôi có thể trả lời

10 lá thư, tôi ngồi ở trước bàn làm việc cứ viết thục mạng như vậy, những lá thư này không

phải trả lời một cách đơn giản vì những lá thư này đều có câu hỏi cho tôi, có một số muốn tôi

bói toán, có một số muốn tôi giải đáp tỉ mỉ, tôi mệt đến nỗi tay chân tê liệt, 5 ngón tay không

thể duỗi th ng ra. Tình hình này, khiến cho tôi rất khủng hoảng, không biết phải làm thế nào?

Vì đống thư này mà đầu tôi như muốn to ra.

Mà trong ngày tôi phải trả lời thư thì tôi không thể đi làm, không thể sáng tác, không thể

làm bất cứ việc gì, Trời ơi! Tôi trở thành cái máy ngày ngày trả lời thư, không thể làm việc

khác được.

Lại nói, những người gửi thư đến phần nhiều không gửi kèm theo tem để tôi dán vào mà

hồi lại, thư gửi ra nước ngoài rất đắt tiền, (năm1983) mỗi lá thư là 40 hào USD, nếu 20 lá thư

thì mỗi ngày tôi mất 8 USD, một tháng tôi mất tổng cộng 240 USD. Gia đình tôi sống ở Mỹ

rất tiết kiệm, tiền chợ khoảng 300 USD, mà tiền mua tem thư đã là gần một tháng tiền chợ

của tôi, tôi làm sao mà chịu đựng nỗi.

Trả lời thư, vô hình đã làm tăng thêm chi phí trong gia đình tôi, không trả lời thư thì trong

lòng tôi cảm thấy có gánh nặng, phải làm sao đây? Phải làm sao đây? Tôi không sợ trả tiền,

tôi cứ trả lời thư, không làm việc gì cả, bao gồm cả sáng tác, như thế có được không? Thời

gian của tôi vốn không đủ.

Ông Triệu Lệnh Dân viết một bài thơ tặng cho tôi:

“Mỗi ngày 20 lá thư

Có người hỏi đằng đông, có người hỏi đằng tây

Nếu như mỗi năm ngày ngày đều như vậy

Trước sau gì ngồi ăn núi vàng cũng sạt lở”

Tôi đương nhiên rất cảm ơn sự khích lệ của các bạn đọc, và rất nhiều ý kiến góp ý cho tôi.

Nhưng tôi xin các bạn hãy thông cảm, nếu cần tôi phải trả lời thư thì xin hãy gửi kèm 10

USD. Chỉ cần gửi đủ tiền tem, thì ban đêm tôi ngủ cũng sẽ trả lời thư cho bạn. Còn đối với

thư không gửi kèm tiền tem, thì tôi cũng xem tình hình thế nào mà hồi thư.

Có rất nhiều người cho rằng, Lư Thắng Ngạn đi nước Mỹ, sẽ rất ít người viết thư hoặc gọi

điện thoại cho anh ta. Nhưng, lần này ngay cả tôi cũng nghĩ sai rồi. Điện thoại mỗi ngày trên

3 cuộc, thư thì 20 lá, có thể cho tôi thấy rằng cho dù tôi đi đến chân trời góc biển, thì vẫn

không thể trốn được các bạn đọc. Người đưa thư ở Mỹ rất kinh ngạc nhìn tôi khi tôi mở cổng

ra và anh ta nói: “Ông có rất nhiều, rất nhiều thư!”.

Quyển sách này là quyển thứ 44 của tôi, trong sách nói về cách hàng ma, hàng yêu như thế

nào, là quyển sách cho người tu hành, tu đạo hiếm thấy, cũng là đích thân tôi đã kinh nghiệm

và thể hội. Tôi đem tư tưởng của mình, dung nhập vào trong nhân quả (luật báo ứng), dùng

cách thuyết pháp đi diễn giải giáo lý của Đại thừa, cũng dựa cơ duyên ứng thời mà nói

khuyên lời độ thế giúp người. Không những có các ngôn ngữ cảnh thế, còn có những trang

cần đọc về tu Tiên Phật đi đến thành tựu. Không phải chỉ là những lời nói diễn giải mà thôi,

lý sự dung nhập thế đời, những lời nói thật mang diệu vị của “xuất thế”.

Tháng 5 năm 1983 Linh Tiên Cát Seattle USA