I. Thị trườ ề ệ ụ ị trườ ạ ối và vàng 7 filekiến vào cuối năm nay) thì...
Transcript of I. Thị trườ ề ệ ụ ị trườ ạ ối và vàng 7 filekiến vào cuối năm nay) thì...
MỤC LỤC
A. THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ .................................................................. 2
I. Thị trường tiền tệ - tín dụng ................................................... 2
II. Thị trường ngoại hối và vàng .................................................. 7
B. THỊ TRƯỜNG VỐN ....................................................................... 12
I. Thị trường chứng khoán ....................................................... 12
II. Thị trường BĐS ...................................................................... 17
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 4/2014
2
A. THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ
I. Thị trường tiền tệ - tín dụng
Thị trường tiền tệ - tín dụng thế giới
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đã hạ mức dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới 2014 từ 3,7%
(dự báo đưa ra trong tháng 1/2014) xuống 3,6% và năm 2015 mức dự báo này cũng bị hạ từ 4%
xuống 3,9%.
Đối với nền kinh tế lớn nhất thế giới, IMF một lần nữa khẳng định dự báo tốc độ tăng
trưởng kinh tế của Mỹ sẽ tăng lên lần lượt 2,8% và 3% trong năm 2014 và 2015. Cục Dự trữ
Liên bang Mỹ (FED) khẳng định sẽ tiếp tục giữ lãi suất ở mức thấp kỉ lục ngay cả sau khi kết
thúc chương trình nới lỏng định lượng cho tới khi đạt được lạm phát mục tiêu và cải thiện được
tỷ lệ thất nghiệp. Tuy nhiên, FED lại cắt giảm gói QE3 thêm 10 tỷ USD mỗi tháng, đưa giá trị
mua trái phiếu hàng tháng về 45 tỷ USD, dù các hoạt động kinh tế trong tháng 1 bị giảm tốc
mạnh, GDP chỉ tăng trưởng 0,1% trong quý I (giảm mạnh so với mức tăng trưởng 2,6% trong
quý IV/2013). Trong thời gian gần đây, dù có nhiều chuyên gia kinh tế đánh giá thị trường lao
động Mỹ đã cải thiện đủ mạnh để FED có thể cắt giảm gói kích thích nhưng thực tế cho thấy
FED sẽ chưa sớm dừng toàn bộ chương trình này, và thậm chí sau khi chương trình kết thúc (dự
kiến vào cuối năm nay) thì FED cam kết sẽ vẫn tiếp tục hỗ trợ nền kinh tế bằng việc duy trì lãi
suất ngắn hạn ở mức siêu thấp.
NHTW châu Âu (ECB) đã cho biết có thể sẵn sàng thực hiện chính sách tiền tệ không
thông thường mới nhằm chống giảm phát trong khu vực. Mặc dù nền kinh tế khu vực đang trên
đà hồi phục dần nhưng tỷ lệ thất nghiệp cao liên tục kéo dài đã và đang kéo lạm phát xuống ngày
càng thấp. Lạm phát dự kiến trong tháng 4 là 0,9% sau khi giảm xuống 0,5% trong tháng 3 (mức
thấp nhất trong hơn bốn năm qua). Để củng cố đồng EUR đòi hỏi ECB có các biện pháp kích
thích tiền tệ hơn nữa và như vậy, có nhiều khả năng ECB sẽ cắt giảm lãi suất hơn là thực hiện
các chương trình nới lỏng định lượng. Hiện nay, ECB vẫn duy trì mức lãi suất tái cấp vốn ở mức
thấp kỉ lục 0,25%.
Hãng xếp hạng tín nhiệm S&P đã hạ mức đánh giá về khả năng thanh toán nợ của Nga từ
BBB xuống BBB- (chỉ trên một bậc so với mức không nên đầu tư) và xếp nước này ở mức triển
vọng tiêu cực, đồng thời cảnh báo còn có thể hạ nữa nếu tăng trưởng tiếp tục trì trệ ở quốc gia này,
chính sách tiền tệ kém linh hoạt thêm và khả năng thanh toán các khoản nợ nước ngoài suy giảm.
Căng thẳng chính trị với Ukraine có thể gây nên làn sóng rút vốn khỏi Nga, làm giảm triển vọng
tăng trưởng vốn đã yếu kém của nước này. Theo số liệu ước tính, trong quý I năm nay các nhà đầu
tư đã rút 63,7 tỷ USD ra khỏi Nga (bằng mức rút vốn của cả năm 2013). NHTW Nga đã nâng lãi
suất chủ chốt lần thứ hai trong hai tháng trở lại đây lên mức 7,5% (tháng 3, mức lãi suất được nâng
lên 5,5%) nhằm kiềm chế lạm phát và hạn chế sức ép lên đồng nội tệ cũng như ngăn chặn tình
trạng rút vốn khỏi nền kinh tế. NHTW Nga nhận định lạm phát sẽ đạt trên 5% vào cuối năm nay và
kì vọng việc nâng lãi suất sẽ kìm hãm đà tăng của lạm phát và khống chế lạm phát ở mức không
quá 6%.
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 4/2014
3
Trên thị trường liên ngân hàng London, lãi suất đồng USD của hầu hết các kì hạn giảm
trong khi lãi suất đồng EUR lại tăng (xem biểu đồ 1, 2). Lãi suất đồng USD tại thời điểm ngày
30/4 so với ngày 1/4 chỉ có kì hạn 1 tuần tăng nhẹ 0,0029%; các kì hạn còn lại đều giảm, trong
đó giảm mạnh nhất là các kì hạn 3 tháng, 6 tháng hay 12 tháng ( giảm 0,00460% – 0,00540%),
các kì hạn ngắn hơn giảm nhẹ hơn, từ 0,00050% – 0,00290%. Lãi suất đồng EUR tiếp tục xu
hướng tăng từ tháng trước ở tất cả các kì hạn. So sánh ngày 30/4 với ngày 1/4, kì hạn qua đêm có
mức tăng đột biến (tăng 0,21143%), các kì hạn còn lại tăng từ 0,02500% - 0,04214% .
Biểu đồ 1: Lãi suất đồng USD và EUR trên Thị trường liên ngân hàng London tháng
4/2014
USD
EUR
Nguồn: homefinance.nl
Biểu đồ 2: Lãi suất đồng USD và EUR trên Thị trường liên ngân hàng London 4 tháng đầu
năm 2014
USD
EUR
Nguồn: homefinance.nl
IMF đã hạ dự đoán tỷ lệ tăng trưởng kinh tế Nhật năm 2014 từ 1,7% xuống 1,4% và cho
rằng nước này cần nhanh chóng thực hiện cải cách như đã cam kết nhằm khôi phục nền kinh tế,
đồng thời đự đoán tỷ lệ tăng trưởng kinh tế năm 2015 đạt khoảng dưới 1%. Giữa quý I/2014
Nhật đã phải điều chỉnh giảm tỷ lệ tăng trưởng do GDP 2 tháng đầu năm đều giảm (dù GDP quý
IV/2014 tăng 0,2% so với quý trước). Điều này đã làm tăng sự nghi ngờ về tính hiệu quả và khả
thi của chính sách Abenomics trong việc hồi phục nền kinh tế, dù chính sách này đã đem lại
những kết quả tích cực trong năm 2013 như ổn định TTCK hay giải quyết các vấn đề liên quan
-
0.10000
0.20000
0.30000
0.40000
0.50000
0.60000
1/4 11/4 21/4
KH 1 tháng KH 3 thángKH 6 tháng KH 12 tháng
-
0.10000
0.20000
0.30000
0.40000
0.50000
0.60000
0.70000
1/4 11/4 21/4
KH 1 tháng KH 3 thángKH 6 tháng KH 12 tháng
-
0.10000
0.20000
0.30000
0.40000
0.50000
0.60000
0.70000
1/1 1/2 1/3 1/4 1/5
KH 1 tháng KH 3 thángKH 6 tháng KH 12 tháng
-
0.10000
0.20000
0.30000
0.40000
0.50000
0.60000
1/1 1/2 1/3 1/4 1/5
KH 1 tháng KH 3 thángKH 6 tháng KH 12 tháng
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 4/2014
4
đến giảm phát. Nguyên nhân Abenomics không tiếp tục phát huy được hiệu quả được cho là do
Nhật chậm cải cách cơ cấu và thực hiện gói kích thích kinh tế.
NHTWW Nhật (BoJ) đã quyết định giữ nguyên chính sách tiền tệ siêu lỏng được áp dụng
từ tháng 4/2013 nhằm nỗ lực đẩy lui tình trạng giảm phát kéo dài trong thời gian qua. Theo đó,
BoJ sẽ tăng lượng tiền cơ sở 60.000 – 70.000 tỷ JPY/năm thông qua việc mua trái phiếu chính
phủ và các tài sản tài chính khác. Khả năng BoJ tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ trong nửa
cuối năm nay là hoàn toàn có thể xảy ra. Bên cạnh đó, để giải quyết vấn đề nợ công luôn thuộc
nhóm đứng đầu trong các nước phát triển, Nhật cần tăng cường thiết lập lại kế hoạch mở rộng
qui mô mua trái phiếu chính phủ, đây cũng được coi là một trong những biện pháp tốt nhất để
kích thích nền kinh tế.
GDP quý I của Trung Quốc chỉ tăng 7,4% so với cùng kì năm trước, đây là tốc độ tăng
thấp nhất trong 6 quý trở lại đây. Sau hàng loạt số liệu kinh tế không khả quan được công bố,
Chính phủ Trung Quốc đã tung ra các biện pháp nới lỏng kinh tế như giảm thuế cho các công ty
nhỏ hay đẩy mạnh xây dựng đường sắt nhưng lại không đưa chúng vào chung một gói kích thích
tăng trưởng, đồng thời tuyên bố sẽ tìm kiếm thêm những biện pháp mới cả tài khóa và tiền tệ để
bình ổn tăng trưởng. Nhiều chuyên gia kinh tế đánh giá nền kinh tế lớn thứ hai thế giới hiện vẫn
chưa tăng trưởng mạnh và chính phủ nước này cần triển khai nhiều biện pháp hơn nữa để thúc
đẩy tăng trưởng, có thể không phải là một gói kích thích kinh tế lớn mà chỉ là phân bổ nguồn tài
chính cho các dự án đang được triển khai chậm. Việc tăng kích thích hay áp dụng chính sách nới
lỏng nhằm kiềm chế rủi ro từ các ngân hàng ngầm, nợ chính quyền địa phương và đầu cơ bất
động sản.
Nhận định: Các khoản nợ khổng lồ của các quốc gia có thể là một trong những nguyên
nhân chủ yếu dẫn tới tăng trưởng kinh tế sụt giảm cũng như sẽ tác động gây suy yếu hệ thống tài
chính, vì cậy các nhà lãnh đạo của các quốc gia cần hợp tác trong việc bảo vệ toàn cầu tránh
khỏi nguy cơ tái diễn cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Sự gia tăng đầu tư mạo hiểm ở Mỹ,
lạm phát thấp ở châu Âu hay những khó khăn tại các nền kinh tế mới nổi đều có thể dễ dàng trở
thành những dấu hiệu của một đợt giảm mạnh của tăng trưởng. Tăng trưởng kinh tế toàn cầu dù
hiện vẫn được dự báo sẽ tiếp tục cải thiện trong năm 2014 và 2015 nhưng tốc độ thấp hơn nhiều
so với trước.
Thị trường tiền tệ - tín dụng trong nước
Hoạt động huy động vốn được các tổ chức tín dụng (TCTD) kì vọng sẽ tiếp tục thuận lợi
hơn trong thời gian tới với mức tăng trưởng phổ biến dưới 10% trong quý II và nằm trong
khoảng từ 10 – 20% cho cả năm 2014, trong đó huy động vốn bằng VND tiếp tục được kỳ vọng
tăng trưởng cao hơn rõ rệt so với huy động vốn bằng ngoại tệ, huy động vốn các kỳ hạn ngắn từ
6 tháng trở xuống được dự kiến tăng trưởng cao hơn các kỳ hạn dài.
Trong 4 tháng đầu năm, nhìn vào các kênh đầu tư phổ biến có thể thấy chứng khoán đang
có dấu hiệu chững lại sau một thời gian phục hồi mạnh và được dự báo không có đột biến lớn
trong thời gian tới, vàng đang có đà giảm giá mạnh, bất động sản tuy có những dấu hiệu tích cực
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 4/2014
5
nhưng vẫn chỉ mang tính cục bộ, USD dù có sự tăng giá nhẹ trên thế giới nhưng ở trong nước
được dự báo giá sẽ khó tăng; trong điều kiện lạm phát thấp và tổng cầu yếu thì gửi tiết kiệm vẫn
tiếp tục là lựa chọn an toàn và hấp dẫn đối với người dân, kể cả những khoản tiền lớn của các
nhà đầu tư nhưng hiện chưa quyết định đầu tư vào đâu thì cũng được gửi tiết kiệm ngắn hạn để
chờ cơ hội đầu tư vào các kênh khác.
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) khẳng định sẽ ổn định mức lãi suất cơ bản như hiện tại và
sẽ giảm thêm khi có điều kiện. Thanh khoản của hệ thống ngân hàng đang rất tốt và khi thị
trường cần vốn thì ngân hàng sẵn sàng cung ứng để đảm bảo không thiếu vốn. Mặc dù thanh
khoản dồi dào nhưng vẫn thiếu sự đồng đều giữa các ngân hàng. Trong khi phần lớn các ngân
hàng đều nghiêm chỉnh áp dụng trần lãi suất do NHNN qui định thì một số ngân hàng khó khăn
về vốn vẫn tiếp tục thu hút vốn bằng những mức lãi suất vượt trần và hợp thức hóa bằng các
chương trình trúng thưởng, khuyến mại,… Các khoản tiền gửi kì hạn ngắn (từ 1 – 12 tháng)
được áp mức lãi suất lên tới 9% tùy thuộc vào khối lượng tiền. Để ngăn chặn tình trạng vượt trần
lãi suất này thì ngành ngân hàng cần phải cơ cấu mạnh hơn nữa để giảm bớt các ngân hàng yếu
kém.
Theo số liệu của Vụ Chính sách tiền tệ NHNN, tính đến ngày 22/4 tín dụng toàn hệ thống
các TCTD đối với nền kinh tế tăng 0,62% so với cuối năm 2013, cơ cấu tín dụng tiếp tục dịch
chuyển theo hướng tập trung vào các ngành, lĩnh vực ưu tiên. Nguyên nhân tín dụng tăng chậm
chủ yếu do nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp những tháng đầu năm thấp, sức hấp thụ vốn
của nền kinh tế vẫn còn yếu, tình trạng nợ đọng ngân sách, nhiều doanh nghiệp không đủ điều
kiện vay vốn,… Trong bối cảnh tín dụng tăng trưởng thấp, hệ thống ngân hàng đã tăng cường
đầu tư vào trái phiếu Chính phủ (TPCP). Tính đến hết tháng 3, các TCTD đã mua khoảng 83%
lượng TPCP phát hành. Số dư TPCP do các TCTD nắm giữ tăng thêm (bằng số TPCP mua thêm
trừ số TPCP đến hạn thanh toán) trong 3 tháng đầu năm khoảng 43.000 tỷ, tương đương với
1,09% tăng trưởng tín dụng. Đây là một giải pháp rất linh hoạt, vừa tăng dự trữ thanh khoản, vừa
an toàn đồng thời cũng làm cho nguồn vốn huy động phải trả lãi hoạt động có hiệu quả. Tuy
nhiên, nếu tình trạng này tiếp tục diễn ra trong thời gian tới thì sẽ xảy ra hiện tượng trái phiếu
chèn lấn tín dụng, vốn không chảy được vào sản xuất đồng thời sẽ không giảm thêm được lãi
suất cho vay.
Mặt bằng lãi suất cho vay hiện đã xuống khá thấp nhờ lãi suất đầu vào giảm cùng việc
các ngân hàng sẵn sàng giảm lãi để hỗ trợ các doanh nghiệp. Lãi suất đối với các lĩnh vực ưu tiên
khoảng 8%/năm, lãi suất cho vay thông thường kỳ hạn ngắn khoảng 9 - 10,5%/năm và dài hạn
còn 11 - 12,5%/năm. Đối với một số doanh nghiệp có tình hình tài chính minh bạch, có phương
án dự án sản xuất kinh doanh hiệu quả, mức lãi suất có thể xuống tới 6-7%/năm. Các ngân hàng
cũng đồng lọat triển khai các gói tín dụng ưu đãi với lãi suất ngày càng giảm để thu hút khách
vay vốn. Do nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp vẫn thấp nên các ngân hàng cũng tăng cường
khai thác phân khúc khách hàng cá nhân, hộ kinh doanh trong các hoạt động mua nhà/đất, sửa
chữa nhà, mua xe ô tô, vay sản xuất kinh doanh trả góp hay vay bổ sung vốn lưu động,…
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 4/2014
6
NHNN đã và đang cố gắng, nỗ lực triển khai chỉ đạo của Thủ tướng về việc toàn hệ thống
giảm mức lãi suất cho vay cũ. Tính đến ngày 3/4, dư nợ cho vay bằng VND có lãi suất trên
15%/năm chiếm 5,5% tổng dư nợ cho vay VND (giảm mạnh so với tỷ trọng 65,8% trước thời
điểm 15/7/2012); dư nợ cho vay bằng VND có lãi suất trên 13%/năm chiếm 16,62% tổng dự nợ
cho vay bằng VND (giảm so với tỷ trọng 31%/năm tháng 6/2013). Đồng thời, các ngân hàng
cũng cần dàn trải tín dụng để đạt mức tăng trưởng đồng đều chứ không tập trung vào các tháng
cuối năm.
Trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất của hầu hết các kì hạn đều có xu hướng giảm nhẹ
(xem biểu đồ 3).
Biểu đồ 3: Diễn biến lãi suất trên thị trường liên ngân hàng tháng 4/2014
(Nguồn: sbv.gov.vn)
Như thường lệ, lãi suất của tất cả các kì hạn trên thị trường liên ngân hàng đều tăng vào
đầu tháng do các ngân hàng phải đáp ứng các chỉ tiêu an toàn vốn. Giao dịch chủ yếu tập trung ở
các kì hạn ngắn như qua đêm, 1 tuần; các kì hạn dài từ 6 tháng trở lên có rất ít hoặc không có
giao dịch nào. Nhu cầu nguồn ngắn hạn của một số ngân hàng tương đối cao nhưng do có nguồn
cung dồi dào nên không có những biến động mạnh về lãi suất. Từ giữa tháng, mặt bằng lãi suất
quay đầu giảm mạnh ở tất cả các kì hạn. Nguyên nhân chủ yếu của việc lãi suất giảm mạnh này
là do nhu cầu nhận nguồn của các ngân hàng ở mức thấp và không thường xuyên trong khi các
ngân hàng lớn vẫn chào nguồn đều đặn.
Thống kê giao dịch trong tháng (từ ngày 01 – 26/04) tổng doanh số giao dịch bằng VND
trên thị trường liên ngân hàng đạt 311.468 tỷ đồng, tương đương với doanh số giao dịch bình
quân 1 ngày xấp xỉ 17.304 tỷ đồng. Trong đó doanh số giao dịch của kì hạn qua đêm đạt tỷ trọng
lớn nhất 135.972 tỷ đồng (chiếm 43,66%). Tỷ lệ doanh số giao dịch các kì hạn từ 1 tháng trở
xuống đạt 293.291 tỷ đồng (chiếm 94,16%).
Trên thị trường mở, NHNN đã bơm ròng 3.400 tỷ đồng thông qua nghiệp vụ mua kì hạn
(Reverse Repo) và hút ròng 19.765 tỷ đồng thông qua nghiệp vụ bán tín phiếu (Sell Outright).
Với nghiệp vụ mua kì hạn, khối lượng trúng thầu trong tháng là 4.911 tỷ đồng, khối lượng đáo
hạn là 1.511 tỷ đồng còn đối với nghiệp vụ bán tín phiếu, NHNN đã phát hành tổng cộng 84.146
tỷ đồng tín phiếu và khối lượng tín phiếu đáo hạn là 64.381 tỷ đồng. Nhằm kiềm chế lạm phát,
NHNN đã phát hành một lượng lớn tín phiếu trong bối cảnh thanh khoản của hệ thống ngân hàng
-0.50 1.00 1.50 2.00 2.50 3.00 3.50 4.00 4.50
1/4 6/4 11/4 16/4 21/4 26/4
KH qua đêm KH 1 tuần KH 2 tuần KH 1 tháng
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 4/2014
7
đang dồi dào mà tín dụng chưa tăng trưởng mạnh và nhu cầu vay mượn vốn trên thị trường mở
bằng việc thế chấp tài sản có giá hiện đang rất thấp. Như vậy, tính cả 4 tháng đầu năm nay, qui
mô phát hành tín phiếu của NHNN đã lên tới 328.940 tỷ đồng và khối lượng tín phiếu chưa đáo
hạn tính đến cuối tháng 4 lên tới 193.596 tỷ đồng. Trong tháng 5 tới, khối lượng tín phiếu đáo
hạn là 63.571 tỷ đồng và NHNN sẽ phải tiếp tục sử dụng công cụ tín phiếu để điều hòa lượng
tiền trong lưu thông. Khi tín dụng bắt đầu có dấu hiệu tăng trưởng, nhu cầu vay tiền trên thị
trường mở của các ngân hàng sẽ tăng và khi tốc độ tăng trưởng tín dụng tiếp tục được cải thiện
trong thời gian tới thì hoạt động trên thị trường mở được kì vọng sẽ sôi động hơn.
Nhận định: Các chính sách của NHNN và Chính phủ tiếp tục được đánh giá là đã và
đang tiếp tục tạo thuận lợi hơn cho hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng (TCTD)
trong tháng 4. Tình hình thanh khoản của hầu hết các TCTD tiếp tục được cải thiện và duy trì ổn
định ở cả VND và ngoại tệ, trạng thái này được dự kiến sẽ tiếp tục duy trì trong suốt năm 2014.
Mặt bằng lãi suất đã giảm nhiều và trở lại mức của năm 2006 nên việc lãi suất giảm sâu thêm
trong thời gian tới là khó xảy ra. Tuy lãi suất đã giảm nhưng nhu cầu về vốn vẫn không tăng cho
thấy để khơi thông được dòng chảy tín dụng không chỉ giảm lãi suất mà còn phải giảm tồn kho,
tăng sức mua của nền kinh tế. Cầu của nền kinh tế đối với các sản phẩm, dịch vụ của TCTD
tăng; điều kiện kinh doanh và tài chính của khách hàng được cải thiện sẽ dẫn tới sự cạnh tranh
ngày càng gay gắt của các TCTD trong thời gian tới. Để đạt được mục tiêu tăng trưởng tín dụng
12 – 14% của cả năm 2014 bên cạnh việc tăng cường hoạt động cho vay các TCTD cũng cần
phải kiểm soát tốt chất lượng khoản vay để tránh rủi ro nợ xấu.
II. Thị trường ngoại hối và vàng
1. Thị trường ngoại hối
Thị trường ngoại hối quốc tế
Chỉ số USD Index trong tháng 4/2013 biến động liên tục với xu thế chung là giảm điểm, dù
giai đoạn đầu tháng có lúc tăng mạng, đạt mức cao nhất tại 80,46 ngày 3/4 và thấp nhất tại 79,41
ngày 10/4. Trong nhóm các đồng tiền mạnh, USD giảm 0,28% so với EUR, giảm 0,11% so với
CHF, giảm 0,93% so với GBP, giảm 0,63% so với JPY và giảm 0,06% so với AUD.
Biểu đồ 4 : Diễn biến chỉ số Dollar tháng 4/2014
Nguồn: www.marketwatch.com
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 4/2014
8
USD giảm mức sâu nhất trong tháng vào ngày 10/4 khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED)
công bố biên bản cuộc họp chính sách trong tháng 3 với nhận định rằng, thị trường đã quá lạc
quan về triển vọng tăng lãi suất trong tương lai. Đồng thời, số liệu cho thấy lượng đơn xin trợ
cấp thất nghiệp của Mỹ giảm mạnh hơn so với dự báo được công bố cùng ngày đã thúc đẩy đà
giảm giá mạnh của USD trong ngày và niềm tin của giới đầu tư vào đồng tiền này cũng giảm. Ủy
ban thị trường mở liên bang (FOMC) cũng đặt ra những yếu tố gây ảnh hưởng đến lãi suất ngay
cả sau khi Fed thực hiện đợt tăng lãi suất đầu tiên và bày tỏ lo ngại rằng, thị trường sẽ phản ứng
thái quá với những thay đổi trong dự báo lãi suất ngắn hạn. Giai đoạn cuối tháng, lợi suất trái
phiếu của Mỹ giảm thấp là áp lực chính tác động giảm giá đồng USD. Giới đầu tư không bị ảnh
hưởng bởi số liệu tích cực của Mỹ vì cho rằng, các con số này sẽ không khiến FED đẩy nhanh kế
hoạch cắt giảm gói nới lỏng định lượng.
Có thời điểm đồng USD tăng giá do các nhà đầu tư chuyển hướng sang đồng tiền dự trữ an
toàn là USD khi căng thẳng tại Ukraine gia tăng cùng với dự báo cho thấy nhiều khả năng Nhật
Bản sẽ thực hiện gói kích thích kinh tế mới. Đồng thời, các số liệu mới nhất thể hiện sự phục hồi
của tăng trưởng kinh tế và tạo niềm tin cho giới đầu tư rằng, FED sẽ vẫn kết thúc chương trình mua
trái phiếu trước khi kết thúc năm 2014 cũng ảnh hưởng tích cực đến xu hướng tăng giá của đồng
USD. Việc kết thúc chương trình mua trái phiếu mua của Fed sẽ mở đường cho dự báo tăng lãi
suất ở Mỹ, tăng sức hấp dẫn của USD và tài sản định giá bằng USD đối với giới đầu tư.
EUR có xu hướng chung là tăng giá so với USD. Đồng EUR được định giá cao trong
nhiều năm qua đang tạo áp lực giảm phát cho khu vực, và Ngân hàng Trung ương châu Âu
(ECB) lo ngại việc EUR tăng giá hơn nữa sẽ khiến ECB phải thực hiện thêm các biện pháp nới
lỏng. Đồng thời ECB cho biết đã chuẩn bị các giải pháp can thiệp bao gồm hạ lãi suất và thực
hiện chương trình mua trái phiếu. Hiện ECB đang chịu sức ép phải có những biện pháp kéo
eurozone ra khỏi nguy cơ giảm phát. Sau cuộc họp chính sách ngày 3/4, ECB đã ra tín hiệu cho
biết ngân hàng này đang chuẩn bị khởi động một chính sách tiền tệ không theo quy ước trong nỗ
lực chống lạm phát thấp trong khi vẫn duy trì dự báo mức lạm phát trung hạn dưới 2%. Việc
FED vẫn tiếp tục giảm kích thích kinh tế cũng sẽ góp phần đẩy EUR tăng giá lên.
Những lo ngại về bất ổn chính trị tại khu vực châu Âu đã thúc đẩy đà tăng giá của đồng
JPY so với USD. Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BOJ) giữ nguyên chính sách tiền tệ siêu nới
lỏng được áp dụng từ tháng 4/2013 nhằm đẩy lui tình trạng giảm phát kéo dài ở nước này cũng
khiến đồng JPY tăng giá. Trong báo cáo mới nhất, Nhật Bản đã hạ thấp đánh giá về kinh tế của
nước này do suy giảm trong tiêu dùng cá nhân và xây dựng nhà, đây là hậu quả của việc tăng
thuế giá trị gia tăng lên 8%. Bên cạnh lĩnh vực tiêu dùng cá nhân và hoạt động xây nhà, xuất
khẩu và sản lượng công nghiệp cũng giảm sút.
Trong tháng, đồng CNY giảm 0,66% so với USD. Mức giảm trong tháng phản ánh mối lo
của nhà đầu tư về việc giảm tăng trưởng hơn nữa của kinh tế Trung Quốc sau khi Ngân hàng
trung ương Trung Quốc PBOC tăng gấp đôi mức khung khối lượng giao dịch cho phép hàng
ngày của đồng NDT. Theo số liệu vừa công bố của PBOC, dự trữ ngoại hối của nước này tính
đến hết quý I/2014 đạt 3,95 nghìn tỷ USD, tăng 130 tỷ USD so với cuối năm 2013. Điều này cho
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 4/2014
9
thấy PBOC đang can thiệp thị trường tiền tệ nhằm ghìm giá đồng CNY, ngăn chặn hoạt động đầu
cơ sau khi nước này nới biên độ giao dịch của đồng tiền này.
Thị trường ngoại hối trong nước
Trong tháng 4, nhìn chung tỷ giá VND/USD diễn biến theo xu hướng ổn định, giảm nhẹ
giai đoạn cuối tháng. Tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa VND với USD được NHNN giữ
nguyên ở mức 21.036 VND/USD. Tại thời điểm cuối tháng 4, tỷ giá được niêm yết tại các
NHTM ở mức 21.065-21.110 VND/USD (mua vào-bán ra). Chỉ số giá USD tháng 4/2014 giảm
0,06% so với tháng trước, tăng 0,59% so với cùng kỳ năm 2013.
Biểu đồ 5: Diễn biến thay đổi tỷ giá USD/VND trong tháng 4/2014
Nguồn: Vietcombank.com
Trong tháng 4, thị trường ngoại hối trong nước tiếp tục ghi nhận diễn biến theo xu hướng
ổn định, mức tăng hoặc giảm chỉ dao động trong biên độ hẹp. Mặc dù vào những ngày cuối tháng
nhu cầu thanh toán của một số doanh nghiệp tăng lên khiến tỷ giá tăng nhẹ song nguồn cung
ngoại hối trên thị trường lớn là yếu tố hỗ trợ cho sự ổn định trở lại của tỷ giá.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2014, Ngân hàng Nhà nước mua vào hơn 10 tỷ USD, nâng
dự trữ ngoại hối trên 35 tỷ USD. Tuy nhiên, đây là dự trữ ròng, tức là nguồn ngoại tệ có thể sử
dụng bất cứ lúc nào, còn dự trữ ngoại hối tiềm năng của Việt Nam là khoảng 45 tỷ USD. Với sự
tăng trưởng khả quan của hoạt động xuất khẩu cũng như nguồn cung ngoại tệ khá dồi dào từ các
dòng vốn FDI, FII, ODA, dự trữ ngoại hối tăng mạnh sẽ là cơ sở vững chắc để NHNN đảm bảo
cho sự ổn định của tỷ giá trong năm 2014.
Tuy nhiên, chính sách tỷ giá ổn định kéo dài quá lâu, đồng VND được cho là bị định giá
cao cũng có thể gây cản trở cho phát triển kinh tế, và gây thiệt hại cho người sản xuất sản phẩm
xuất khẩu, doanh nghiệp trong nước. Vì thế, NHNN cần nghiên cứu điều chỉnh phù hợp, cho sát
với thị trường, từ đó có động lực để thúc đẩy ngành xuất khẩu hơn.
Nhận định: Trong tháng 4, tỷ giá bình quân liên ngân hàng vẫn tiếp tục duy trì ở mức ổn
định. Tỷ giá giao dịch trên thị trường liên ngân hàng, tỷ giá trên thị trường tự do và tỷ giá của
NHTM trong tháng 4 tiếp tục có xu hướng giảm và ổn định trong biên độ +/-1% theo quy định
của NHNN. Dự báo trong các tháng tới thị trường này vẫn tiếp tục duy trì sự ổn định như hiện
nay và không có biến động mạnh.
21,090
21,100
21,110
21,120
21,130
21,140
1/4 5/4 9/4 13/4 17/4 21/4 25/4 29/4
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 4/2014
10
2. Thị trường vàng
Thị trường vàng thế giới trong tháng 4/2014 diễn biến với xu hướng tăng giá giai đoạn đầu
tháng sau đó giảm vào nửa cuối tháng. Trong tháng, giá vàng (giao ngay tại thị trường NewYork)
lên cao nhất tại mức 1.326,6 USD/oz vào ngày 14/4 và thấp nhất là 1.283,7 USD/oz ngày 23/4.
Tính chung cả tháng, giá vàng đã tăng 0,9%.
Biểu đồ 6: Diễn biến giá vàng thế giới tháng 4/2014
Nguồn: kitco.com
Giai đoạn nửa đầu tháng tư, giá vàng thế giới tăng mạnh xuất phát từ những thông tin
kinh tế của nền kinh tế lớn là Mỹ và Trung Quốc, cùng với những lo ngại về sự bất ổn chính trị
tại Ukraine, sự căng thẳng giữa Nga và các nước phương Tây về việc Nga can thiệp quân sự vào
Ukraine. Theo số liệu mới đây của Ủy ban Giao dịch Hàng hóa Kỳ hạn Mỹ, các quỹ dự phòng và
những nhà quản lý tiền tệ đã tăng cường thực hiện các hợp đồng kỳ hạn và chọn mua/bán đối với
vàng và bạc trong bối cảnh căng thẳng chính trị làm tăng sự hấp dẫn của vàng như một kênh đầu
tư an toàn. Trong khi đó, giá vàng tại Ấn Độ, nước tiêu thụ vàng lớn thứ hai thế giới sau Trung
Quốc, tăng lên mức cao nhất trong hơn hai tháng qua do nguồn cung thu hẹp và nhu cầu ổn định
trước giai đoạn diễn ra kỳ lễ hội có sức mua vàng lớn thứ hai trong năm.
Giai đoạn nửa sau của tháng, dù bất ổn chính trị tại khu vực châu Âu vẫn tiếp diễn, nhưng
giá vàng thế giới lại biến động với xu hướng sụt giảm mạnh, khi các thông tin kinh tế khả quan
của Mỹ được công bố. Đồng thời, giá vàng chịu sức ép giảm giá khi các quỹ lớn liên tục bán
ròng trong khi lực mua vàng vật chất tại khu vực châu Á yếu. Thị trường chứng khoán toàn cầu
tăng điểm cũng là yếu tố giảm nhu cầu nắm giữ vàng của nhà đầu tư.
Trong nước
Giá vàng trong nước tháng 4/2014 biến động với xu hướng tăng mạnh trong nửa đầu tháng
sau đó giảm dần vào cuối tháng. Giá vàng trong tháng lên cao nhất tại mức 35,96 triệu đồng/lượng
ngày 14/4, thấp nhất tại 35,36 triệu đồng/lượng ngày 23/4. Tính chung cả tháng, chỉ số giá vàng
giảm 1,04% so với tháng trước và giảm 16,69% so với cùng kỳ năm trước. Chênh lệch giữa giá
vàng trong nước và giá vàng thế giới hiện khoảng 2,5 triệu đồng/lượng.
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 4/2014
11
Biểu đồ 7: Diễn biến giá vàng trong nước tháng 4/2014
Nguồn: sjc.com.vn
Diễn biến giá vàng thế giới đang là nhân tố chi phối chính sự tăng, giảm của giá vàng
trong nước, tuy nhiên, mức tăng của vàng trong nước chậm hơn so với thế giới và thời điểm giá
tăng, giao dịch chủ yếu để bán vàng, không mua vào như trước.
Mặc dù từ đầu năm 2014 tới nay, NHNN tạm dừng đấu thầu bán vàng miếng ra thị
trường nhưng do lực cầu vàng miếng ở mức thấp nên sức ép nguồn cung khiến vàng tăng giá hầu
như là không có. Hiện các NHTM cũng đã hoàn tất việc đóng trạng thái vàng, đồng thời NHNN
đang đề nghị các NHTM đàm phán với khách hàng để chuyển đổi dư nợ vàng sang tiền đồng. Lý
do là trong đà sụt giảm của giá vàng, việc chuyển đổi dư nợ từ vàng sang tiền đồng cũng có
nhiều thuận lợi hơn. Ngoài ra, xu hướng ổn định của tỷ giá USD cũng là một nhân tố tích cực tác
động đến sự ổn định của giá vàng trong nước.
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 4/2014
12
B. THỊ TRƯỜNG VỐN
I. Thị trường chứng khoán
1. Thị trường chứng khoán thế giới
Biểu đồ 8: Biến động các chỉ số Dow Jones công nghiệp (▬), Nasdaq tổng hợp (▬) và
S&P500 (▬) trong tháng 4/2014
Nguồn: Yahoofinance
Thị trường chứng khoán Mỹ diễn biến theo xu hướng sụt giảm mạnh trong giai đoạn nửa
đầu tháng 4 và đảo chiều tăng điểm trong giai đoạn nửa sau của tháng.
Trong giai đoạn đầu, chứng khoán Mỹ giảm điểm do làn sóng bán tháo cổ phiếu công
nghệ, làm lu mờ lạc quan về chính sách kích thích tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ. Giá các
cổ phiếu công nghệ giảm là do các nhà đầu tư bán tháo lượng nắm giữ tại các công ty trên thị
trường với lo ngại rằng số cổ phiếu này được định giá quá cao. Việc bán cổ phiếu công nghệ nằm
trong chỉ số Nasdaq 100 đã đẩy mối lo lắng của giới đầu tư lên mức cao nhất kể từ sự sụp đổ
chớp nhoáng 4 năm trước. Báo cáo doanh thu đáng thất vọng của Amazon.com đã kích thích
hoạt động bán tháo cổ phiếu công nghệ trên thị trường. Tần suất của hoạt động này ngày càng
tăng ngay cả khi các hãng công nghệ trong chỉ số S&P 500 dự báo tăng trưởng doanh thu của
quý II sẽ nhanh hơn và nhiều công ty trong chỉ số Nasdaq 100 có doanh thu vượt mức dự báo
trong mùa báo cáo này.
Trong giai đoạn nửa sau tháng 4, chứng khoán Mỹ đảo chiều tăng điểm. Niềm tin của
giới đầu tư quay trở lại nhờ báo cáo doanh thu cùng với dấu hiệu tích cực của các thương vụ
trong lĩnh vực y tế đã giúp thị trường tăng điểm. S&P 500 giao dịch gần mức kỷ lục nhờ giá cổ
phiếu của các công ty công nghệ tăng. Trong số các công ty thuộc chỉ số S&P 500 đã công bố
doanh thu thì phần lớn có báo cáo lợi nhuận vượt ước tính. Chỉ số chứng khoán của Mỹ kéo dài
đà tăng trong nhiều phiên liên tiếp nhờ doanh thu của các công ty đều vượt ước tính và chủ tịch
Cục Dự trữ Liên bang Mỹ Janet Yellen nhấn mạnh cam kết hỗ trợ phục hồi kinh tế của ngân
hàng. Năng lượng là nhóm ngành hiệu quả nhất trong chỉ số S&P 500 trong giai đoạn phục hồi
này. Xu hướng xoáy vào giá trị của các lĩnh vực đã hạn chế hoạt động bán tháo trên thị trường và
xu hướng này vẫn còn tiếp tục. Các quỹ đầu tư vào lĩnh vực năng lượng đã thu hút dòng vốn
trong nhiều tuần qua.
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 4/2014
13
Chứng khoán Mỹ còn được hỗ trợ bởi thông tin kinh tế vĩ mô khá tích cực. Số liệu kinh
tế cũng cho thấy, hoạt động sản xuất tăng giúp Mỹ vượt qua thời kỳ ảm đạm của mùa đông. Số
đơn đặt hàng với các nhà máy của Mỹ trong tháng 3 tăng mạnh, giúp phục hồi hoạt động sản
xuất trong quý II. Số đơn đặt mua hàng hóa bền lâu (thời gian sử dụng ít nhất là 3 năm) tăng
2,6%, mức tăng lớn nhất kể từ tháng 11/2013. Con số này cao hơn so với mức tăng của tháng 2
là 2,1%. Chỉ số của Viện Quản lý nguồn cung tháng 3 tăng lên 53,7% so với mức tăng của tháng
2 là 53,2%. Sản lượng công nghiệp trong tháng 3 tăng mạnh hơn so với dự báo trong khi đó, tốc
độ xây nhà mới trong tháng 3 tại Mỹ đã phục hồi. Hợp đồng mua nhà cũ của Mỹ tăng lên mức
cao nhất trong gần 3 năm vào tháng 3, phản ánh thị trường bất động sản nhà dân đang bắt đầu ổn
định trở lại. Chỉ số doanh số bán nhà sắp tới tăng 3,4%, đánh dấu lần đầu tiên tăng trong 9 tháng.
Về mặt chính sách, chính phủ Mỹ cũng phát đi thông tin khá tích cực khi cho rằng, lạm phát thấp
và tỷ lệ thất nghiệp cao sẽ là những tín hiệu để Ủy ban thị trường mở Liên bang (FOMC) đưa ra
quyết định về tỷ lệ chính sách. Bên cạnh đó, Fed tiếp tục cam kết hỗ trợ phục hồi kinh tế.
Biểu đồ 9: Biến động các chỉ số FTSE 100 (▬), DAX (▬),
và CAC 40 (▬) trong tháng 4/2014
Nguồn: Yahoofinance
Thị trường chứng khoán châu Âu diễn biến khá tương đồng với thị trường chứng khoán
Mỹ.
Trong nửa đầu tháng 4, các chỉ số chứng khoán chính của khu vực đều đồng loạt sụt
giảm. Phiên giao dịch ngày 7/4, thị trường chứng khoán châu Âu quay đầu giảm, thoái lui khỏi
mức đỉnh 6 năm sau khi cổ phiếu công nghệ giảm mạnh theo đà bán tháo mạnh tại Mỹ. Giá cổ
phiếu của các công ty lớn như Iliad SA và hãng Nokia Oyj đều sụt giảm khá mạnh. Bên cạnh đó,
chỉ số chứng khoán khu vực giảm mạnh do các nhà đầu tư lo ngại rằng cổ phiếu đã được định giá
vượt quá triển vọng lợi nhuận có thể đạt được.
Trong giai đoạn nửa sau tháng 4, thị trường chứng khoán châu Âu đảo chiều tăng mạnh
trong bối cảnh hoạt động mua bán – sáp nhập gia tăng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe. Cổ
phiếu các công ty như AstraZeneca Plc và Bayer AG bật tăng mạnh do hoạt động sáp nhập mua
lại. Cụ thể, cổ phiếu của công ty AstraZeneca Plc khởi sắc chạm mức đỉnh từ trước tới nay sau
khi Pfizer Inc. xác nhận hoạt động mua lại nhà sản xuất thuốc của Anh. Cổ phiếu của hãng Bayer
AG cũng có phiên tăng mạnh nhất kể từ tháng 7/2013 khi doanh thu quý I đạt được cao hơn ước
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 4/2014
14
tính. Một loạt các công ty niêm yết từ Heineken NV tới Dassault Systemes đều công bố doanh số
bán hàng tăng vượt ước tính. cổ phiếu của hãng Tesco Plc hào hứng đón nhận đà tăng mạnh nhất
kể từ năm 2012, sau khi ban điều hành công bố lợi nhuận giao dịch vượt xa kì vọng. Cổ phiếu
của công ty Syngenta AG cũng tăng giá sau khi công bố doanh thu quý I vừa qua tăng cao hơn so
với dự kiến và chính thức xác định doanh số bán hàng mục tiêu của cả năm nay. Một nguyên
nhân khác củng cố cho đà tăng của chứng khoán châu Âu chính là các số liệu kinh tế Mỹ khả
quan thúc đẩy niềm tin của giới đầu tư về sự hồi phục của nền kinh tế lớn nhất toàn cầu. Các nhà
đầu tư dành thái độ lạc quan đối với báo cáo thị trường nhà ở Mỹ cũng như hoạt động sản xuất
công nghiệp nước này.
Biểu đồ 10: Biến động các chỉ số Nikkei 225 (▬),Shanghai Composite (▬), Hang Seng (▬),
và Kospi Composite (▬) trong tháng 4/2014
Nguồn: Yahoofinance
Tại khu vực châu Á, diễn biến giữa các thị trường chứng khoán lớn của khu vực tỏ ra
không tương đồng. Trong khi chứng khoán Nhật Bản giảm mạnh thì tại Trung Quốc, các chỉ số
chứng khoán chính của nước này lại diễn biến tăng nhẹ trong nửa đầu tháng 4 và đảo chiều giảm
sâu trong suốt thời gian còn lại. Nhìn chung, chứng khoán châu Á tháng 4 vừa qua biến động tiêu
cực.
Đồng Yen tăng giá đẩy thị trường chứng khoán Nhật Bản đối diện đà giảm mạnh nhất kể
từ thời điểm động đất năm 2011. Cổ phiếu nhóm các công ty tài chính và các hãng dịch vụ chăm
sóc sức khỏe giảm giá mạnh. Có thể kể đến như cổ phiếu của công ty Fast Retailing Co., chiếm
10% định giá tại chỉ số Nikkei 225 của Nhật Bản. Cổ phiếu của nhà sản xuất ô tô lớn thứ ba Nhật
Bản – công ty Honda Motor Co. giảm giá mạnh sau khi đưa ra dự báo lợi nhuận cả năm kém lạc
quan. Cổ phiếu của công ty Japan Display Inc. cũng giảm sâu sau khi đơn vị cung ứng màn hình
cho sản phẩm iPhone của hãng Apple Inc. thông báo lợi nhuận kinh doanh và doanh số bán hàng
giảm ít hơn dự tính.
Một nguyên nhân khác cho sự sụt giảm của chứng khoán châu Á trong thời gian qua
chính là báo cáo hoạt động sản xuất công nghiệp Trung Quốc tiếp tục cho thấy tăng trưởng chậm
lại tại nền kinh tế lớn thứ hai toàn cầu. Lo lắng về tăng trưởng kinh tế Trung Quốc hiện đang lớn
hơn bao giờ hết. Tại Trung Quốc, tăng trưởng tín dụng mới giảm 19% so với năm trước cho thấy
nguy cơ trì trệ khi chính phủ Trung Quốc thắt chặt kiểm soát các rủi ro tài chính. Cung tiền tăng
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 4/2014
15
chậm nhất trong 3 năm, lượng đơn cho vay giảm 19% so với năm trước cho thấy nguy cơ trì trệ
trước tình hình chính phủ Trung Quốc thắt chặt kiểm soát các rủi ro tài chính. Ngoài ra, lý giải
cho đà giảm mạnh và bán tháo trên thị trường, nguyên nhân cũng có thể do các cổ phiếu đã được
định giá quá cao trong giai đoạn trước đây.
2. TTCK trong nước
Thị trường chứng khoán niêm yết:
Thị trường chứng khoán Việt Nam trong tháng 4 diễn biến theo chiều hướng tiêu cực.
Cùng với sự giảm mạnh của cả hai chỉ số niêm yết VN-Index và HNX-Index, tính thanh khoản
của thị trường cũng giảm sút đáng kể so với tháng trước.
Biểu đồ 11: Diễn biến hai chỉ số VN-Index và HNX-Index tháng 4/2014
Nguồn số liệu: HOSE, HNX
Trong tháng 4, tâm lý lo ngại thị trường điều chỉnh sâu khiến cho áp lực bán chốt lời hoặc
cắt lỗ tăng lên. Khi các cổ phiếu có chỉ số P/E khá cao và sau một thời gian dài tăng giá đã mang
lại cho nhà đầu tư một mức lợi nhuận lớn thì họ có xu hướng bán chốt lời và chờ đợi thị trường
điều chỉnh giảm. Sau đợt giảm giá mạnh trong nửa đầu tháng 4, P/E của khá nhiều cổ phiếu trên
sàn đã được điều chỉnh giảm về mức hợp lý để đầu tư trung và dài hạn. Mặc dù các chỉ số đầu tư
đã trở nên hấp dẫn nhưng vẫn không thu hút được thêm dòng tiền đầu tư bởi nguy cơ thua lỗ vẫn
cao khi mà các chính sách mới đối với thị trường chứng khoán không như kỳ vọng của nhà đầu tư.
Trong nửa cuối của tháng, sự nghi ngờ và thận trọng vẫn bao trùm thị trường khi xu
hướng của các chỉ số hoàn toàn chưa rõ ràng. Điều này biểu hiện thông qua thanh khoản cô đọng
và giảm dần. Kỳ vọng của nhà đầu tư về sự cải thiện của kết quả kinh doanh quý I/2014 của các
doanh nghiệp cũng không cao bởi quý I thường là quý tăng trưởng chậm của các ngành, do ảnh
hưởng của kỳ nghỉ Tết kéo dài làm hoạt động kinh doanh gián đoạn.
Về mặt vĩ mô, thị trường cũng thiếu vắng những thông tin hỗ trợ tích cực. Trong 3 tháng
đầu năm, tăng trưởng tín dụng chỉ dừng lại ở mức 0,01% cho thấy nỗ lực đẩy mạnh hoạt động
cho vay của các tổ chức tín dụng chưa mang lại hiệu quả. CPI tháng 4 của cả nước chỉ tăng
0,08% so với tháng trước, tương đương mức tăng 4,45% so với cùng kỳ năm ngoái, và 0,88%
tính từ đầu năm nay. Mức tăng thấp kỷ lục trong vòng 13 năm trở lại đây của chỉ số CPI cho thấy
0
20
40
60
80
100
120
140
160
180
200
530
540
550
560
570
580
590
600
610
1/4 16/4
KLGD (triệu cp) VN-Index
0
20
40
60
80
100
120
140
74
76
78
80
82
84
86
88
90
1/4 16/4
KLGD (triệu cp) HNX-Index
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 4/2014
16
sức cầu quá yếu. Điều này làm gia tăng lo ngại về việc tổng cầu phục hồi yếu và nguy cơ giảm
phát của nền kinh tế. Vấn đề giải quyết nợ xấu tuy có tiến triển nhưng vẫn khá chậm và chưa có
nhiều đột phá so với thời điểm cuối năm 2013 khi mà tỷ lệ nợ xấu vẫn vào khoảng 7%. Tính đến
hết quý I, VAMC chỉ mua được 3.929 tỷ đồng nợ gốc từ các tổ chức tín dụng, một con số khá
thấp so với kế hoạch mua 10.000 tỷ đồng trong quý I và từ 70.000 – 100.000 tỷ đồng nợ xấu
trong năm 2014.
Một yếu tố khác tác động tiêu cực đến thị trường trong tháng 4 vừa qua chính là động
thái tiếp tục bán ròng của nhà đầu tư nước ngoài. Hoạt động bán tháo mạnh mẽ của khối tự
doanh các công ty chứng khoán trong nhiều phiên liên tiếp cũng góp phần khiến thị trường giảm
sâu trong thời gian qua.
Nhận định: Như vậy, sau một thời gian tăng trưởng nóng, thị trường chứng khoán Việt
Nam đã đảo chiều giảm sâu trong tháng 4. Thanh khoản cô đọng và giảm dần cho thấy dòng tiền
vào thị trường đang trở nên yếu đi. Tuy nhiên, dòng tiền chỉ tạm thời nghỉ ngơi chờ cơ hội mới vì
các kênh đầu tư khác không có cơ hội nhiều hơn so với thị trường chứng khoán. Có thể thấy, lãi
suất tiền gửi hiện quá thấp, không phải là kênh sinh lời cao. Bất động sản vẫn trầm lắng và tiềm
ẩn nhiều rủi ro. Thị trường vàng và ngoại tệ bộc lộ nhiều hạn chế và không được khuyến khích,
không còn hấp dẫn. Về triển vọng thị trường chứng khoán trong trung và dài hạn vẫn tích cực.
Với triển vọng vĩ mô tốt dần lên và khả năng khai thông dòng vốn tín dụng, thị trường trong thời
gian tới có thể sẽ khởi sắc hơn.
Thị trường UPCoM và OTC:
Trong tháng 4 vừa qua, thị trường UPCoM diễn biến theo chiều hướng tiêu cực. Chỉ số
UPCoM-Index đóng cửa phiên cuối tháng ở mức 49,49 điểm; giảm 2,54% so với cuối tháng
trước. KLGD bình quân mỗi phiên trong tháng đạt 1,76 triệu cổ phiếu. GTGD bình quân ở mức
18,42 tỷ đồng.
Biểu đồ 12: Diễn biến chỉ số UPCoM-Index tháng 4/2014
Nguồn: HNX
0
1,000,000
2,000,000
3,000,000
4,000,000
5,000,000
6,000,000
45
46
47
48
49
50
51
52
53
1/4 8/4 15/4 22/4 29/4
KLGD (đơn vị) UPCoM - Index (điểm)
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 4/2014
17
Thị trường sơ cấp:
Đối với hoạt động huy động vốn thông qua đấu giá cổ phần, trong tháng 4, tổng lượng vốn
huy động được từ hai sàn đạt mức 308,6 tỷ đồng. Con số này chỉ xấp xỉ 1/3 so với lượng vốn huy
động được trong tháng trước, như vậy hoạt động huy động vốn có xu hướng giảm sút.
Đối với thị trường trái phiếu, trong tháng 4 diễn ra 13 phiên đấu giá trái phiếu chính phủ
cho các kỳ hạn 2 năm, 3 năm, 5 năm và 10 năm. Tổng lượng tiền huy động được là 12,49 nghìn tỷ
đồng. Lượng vốn huy động được trong tháng 4 giảm 63% so với tháng trước. Lãi suất trúng thầu ít
biến động so với tháng trước.
Nhận định: Trong tháng 4, do ảnh hưởng tiêu cực từ thị trường niêm yết, hoạt động giao
dịch trên thị trường UPCoM khá ảm đạm. Có sự giảm mạnh cả về chỉ số giá lẫn thanh khoản
trên thị trường. Trên thị trường sơ cấp, hoạt động huy động vốn có xu hướng sụt giảm mạnh.
II. Thị trường BĐS
Ngày 8/4/2014, Thông tư số 03/2014/TT-BXD ngày 20/02/2014 của Bộ Xây dựng về
cách tính diện tích căn hộ bắt đầu có hiệu lực. Theo đó, chỉ có duy nhất một phương thức tính
diện tích căn hộ sẽ được sử dụng thay vì hai cách tính như trước kia. Theo như thông tư này, diện
tích căn hộ sẽ bao gồm tường chia phòng trong căn hộ, ban công và lô gia gắn liền với căn hộ và
không bao gồm tường bao quanh căn hộ và/ hoặc tường chia các căn hộ, các cột và hộp kỹ thuật
bên trong căn hộ. Việc thực hiện thông tư này sẽ khiến thị trường trở nên minh bạch hơn.
Ngày 24/4/2014, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã có công văn “hỏa tốc” gửi 8 ngân
hàng thương mại về việc triển khai sản phẩm tín dụng liên kết 4 nhà nhằm hỗ trợ cho lĩnh vực
bất động sản, giao thông và năng lượng. NHNN đề nghị các ngân hàng có ý kiến chính thức bằng
văn bản về thỏa thuận hợp tác do BIDV hoàn thiện, trên cơ sở các ý kiến đã thống nhất tại cuộc
họp. Trên cở sở ý kiến của các ngân hàng trên, BIDV báo cáo về thỏa thuận hợp tác cuối cùng đã
được các bên thống nhất cho NHNN, và chậm nhất là ngày 26/4. Ngoài ra, NHNN còn yêu cầu 3
ngân hàng BIDV, VietinBank và SHB lựa chọn tối thiểu 1 dự án tiêu biểu có từ 2 ngân hàng tài
trợ trở lên trong 3 lĩnh vực: bất động sản, giao thông và năng lượng báo cáo NHNN. Đồng thời,
các ngân hàng cũng chuẩn bị các thủ tục cần thiết để ký kết hợp đồng liên kết với các chủ thể tại
buổi lễ ký kết Thỏa thuận hợp tác. Tám ngân hàng này gồm Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
(BIDV), Ngân hàng Công thương (VietinBank), Ngân hàng Ngoại thương (Vietcombank), Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Agribank), Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông
Cửu Long, Ngân hàng Xây dựng (VNCB), Ngân hàng Bưu điện Liên Việt, Ngân hàng Sài Gòn -
Hà Nội (SHB).
Tính đến ngày 15/4/2014, về gói hỗ trợ tín dụng 30.000 tỷ đồng, tổng số tiền 5 Ngân
hàng đã cam kết là 3.365,9 tỷ đồng, tổng dư nợ là 1.699,4 tỷ đồng. Trong đó, giải ngân cho 3.941
hộ dân (chiếm 99,5%) so với số hộ đã được cam kết, số tiền là 975,7 tỷ đồng (chiếm 65%) so với
số tiền đã được cam kết; giải ngân cho 17 dự án, với số tiền là 723,8 tỷ đồng.
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 4/2014
18
Tin thị trường
Niềm tin của khách hàng đối với thị trường đang dần được hồi phục. Phân khúc nhà ở xã
hội và những căn hộ nhà ở thương mại có diện tích nhỏ được người dân quan tâm và đã có nhiều
giao dịch thành công hơn trước. Tính đến hết tháng 4/2014, Hà Nội có khoảng 2.300 giao dịch
thành công , tp. Hồ Chí Minh có khoảng 1.300 giao dịch thành công. Giao dịch tăng cao tại những
dự án nhà ở thương mại có giá bán phù hợp, diện tích nhỏ và vừa, giao thông thuận lợi, đã bàn
giao hoặc đang hoàn thiện.
Phân khúc căn hộ cao cấp, tại Hà Nội có lượng giao dịch khá chậm. Hiện trên thị trường,
một số dự án căn hộ cao cấp đang và sắp bàn giao nhà, có cơ sở hạ tầng đồng bộ, vị trí đẹp như
Royal City, Times City, Mandarin Garden, Golden Palace thu hút sự quan tâm của nhiều người
mua. Tuy nhiên, dù lượng quan tâm lớn nhưng số lượng giao dịch không nhiều, do mức giá chỉ
phù hợp với lớp đối tượng có khả năng tài chính khá, mà lớp đối tượng này chỉ chiếm một phần
nhỏ trong tổng số nhu cầu về nhà ở hiện nay. Còn tại tp. Hồ Chi Minh, giao dịch chủ yếu cũng
tập trung ở một vài dự án có ưu thế về vị trí, chất lượng đảm bảo và có ưu đãi hấp hẫn từ chủ đầu
tư như Tân Phước (quận 11) được chào bán ở mức 23-25 triệu đồng/m2, Him Lam Riverside
(quận 7).
Phân khúc thị trường căn hộ, lượng giao dịch của phân khúc căn hộ hạng B và C hiện vẫn
đang dẫn dắt thị trường. Theo thống kê của Savills, kể từ năm 2011 đến tháng 4/2014, phân khúc
căn hộ hạng C và hạng B chiếm trên 90% tổng số lượng căn hộ đã giao dịch tại thị trường sơ cấp.
Dự báo xu hướng này sẽ vẫn tiếp tục duy trì trong những tháng tới. Tại tp. Hồ Chí Minh, các dự
án căn hộ giá rẻ, có diện tích nhỏ tiếp tục thu hút sự quan tâm của người mua. Điển hình như các
dự án First Home với mức giá 386-600 triệu đồng/căn, dự án nhà ở xã hội HQC Plaza (Bình
Chánh) giá trung bình từ 600-800 triệu/căn. Bên cạnh đó, những dự án căn hộ có diện tích nhỏ,
đáp ứng điều kiện được vay trong gói 30 nghìn tỷ đồng như Khang Gia Tân Hương, Căn hộ 8X
Đầm Sen, Linh Trung cũng có thanh khoản tốt, hầu hết các căn hộ tại đây cũng đã có chủ sở hữu.
Nhận định: Trong vài tháng qua, thị trường BĐS có dấu hiệu phục hồi, nhưng mang tính
cục bộ trên từng phân khúc và khu vực khác nhau. Tuy vẫn còn nhiều vấn đề khó khăn và thử
thách, với các chính sách hỗ trợ thị trường bắt đầu có hiệu lực, các gói hỗ trợ ra đời và lãi suất
giảm gần đây sẽ hỗ trợ thị trường dần phục hồi trong những tháng tới.
Báo cáo tóm lược TTTC tháng 4/2014
19
Ghi chú
Xin vui lòng tham khảo thêm các “Báo cáo thị trường chứng khoán” định kỳ hàng quý và
các “Báo cáo chuyên đề” của phòng Phân tích dự báo thị trường để có thêm thông tin và phân
tích đầy đủ.
Liên hệ
Phòng Phân tích & Dự báo Thị trường,
Trung tâm NCKH-ĐTCK (UBCKNN)
Số 234 Lương Thế Vinh, Từ Liêm, Hà Nội
Điện thoại: 04-35430667; Fax: 04-35535869
Email: [email protected]
Nhóm nghiên cứu
Ông. Phạm Quang Huy (TP)
Ths. Tô Thị Thiên Nga
Cn. Phạm Thanh Phương
Cn. Lê Thị Trang