Huong Dan Lam Bai Luan Va 30 Bai Luan Tieng Anh Luyen Thi Thpt Quoc Gia 2015
Huong dan viet luan van nguyen ngoc
-
Upload
honbksp94 -
Category
Social Media
-
view
363 -
download
1
Transcript of Huong dan viet luan van nguyen ngoc
HƯỚNG DẪN VIẾT LUẬN VĂN,
SOẠN FILE TRÌNH CHIẾU BẰNG POWERPOINT
VÀ THUYẾT TRÌNH BẢO VỆ LUẬN VĂN
Nguyễn Ngọc Ty
Đại học Sư phạm Tp. HCM, Khoa Vật lý
Email: [email protected]
1
I VIẾT LUẬN VĂN
Việc viết luận văn đối với sinh viên coi như giai đoạn cuối của quá trình 4 năm học tập
đại học, do đó các bạn sinh viên nên cần phải chuẩn bị khâu cuối cùng này cho thật chu
đáo. Sinh viên cần chú ý rằng việc viết luận văn là một quá trình sáng tạo đánh dấu phong
cách và trình độ của từng sinh viên nhưng đồng thời luận văn cũng là một dạng “văn bản
hành chính” nên tác giả phải biết kết hợp phong cách cá nhân của mình và các quy định
về luận văn của cơ sở đào tạo để cho ra đời một bản luận văn hay, đẹp và đúng quy định.
Trong các phần sau, tôi sẽ trình bày một số vấn đề về việc viết luận văn theo kinh nghiệm
cá nhân của mình. Tuy nhiên, một điểm đặc biệt quan trọng cần nhắc trước khi bắt tay
viết luận văn là SINH VIÊN KHÔNG ĐƯỢC SAO CHÉP NGUYÊN VĂN TÀI LIỆU
KHÁC VÀ XEM NHƯ ĐÓ LÀ SẢN PHẨM DO MÌNH TẠO RA.
Tôi sẽ lần lượt trình bày qua các phần:
- Bố cục luận văn: sắp xếp, phân chia luận văn như thế nào là hợp lý.
- Nội dung luận văn: Sẽ viết gì trong các phần đã phân chia.
- Công thức, hình ảnh: công thức hình ảnh được trình bày như thế nào cho đẹp, hợp lý
trong luận văn.
- Tài liệu tham khảo: Tài liệu tham khảo có vai trò như thế nào, cần trích dẫn ra sao cho
đúng chuẩn.
- Lỗi viết lách: các dạng lỗi hay gặp ở sinh viên, đối tượng mới viết luận văn lần đầu.
I.1 Bố cục
Khi viết luận văn người viết cần chú ý việc phân chia các phần sao cho hợp lý. Sự hợp lý
của bố cục luận văn thể hiện ở tỉ lệ số trang giữa các phần với nhau. Bố cục hợp lý sẽ
giúp người đọc đánh giá sơ bộ tác giả khi đọc phần mục lục của luận văn. Thông thường,
một luận văn sẽ được trình bày theo thứ tự như sau:
- Trang mục lục
- Mở đầu
- Chương 1: Các cơ sở lý thuyết liên quan trực tiếp đế đề tài luận văn
- Chương 2: Phương pháp, cách thức cụ thể sử dụng trong luận văn
2
- Chương 3: Kết quả luận văn
- Kết luận và hướng phát triển tiếp theo
- Các phụ lục của luận văn (nếu có)
- Tài liệu tham khảo
Thông thường một luận văn đại học chỉ nên khoảng 40-50 trang là vừa đủ. Trong
đó phần mở đầu khoảng 5 đến 10 trang giúp người đọc hiểu mục tiêu luận văn. Quan
trọng nhất là chương 3, kết quả luận văn nên số trang cần chiếm một tỉ lệ lớn, khoảng 20
trang là tốt nhất. Một số sinh viên tham vì muốn làm cho luận văn dày lên nên đưa vào
chương 1 và chương 2 rất nhiều kiến thức và trình bày dài dòng. Cần nhấn mạnh trước
hết, một luận văn dày, nhiều trang không hoàn toàn đồng nghĩa là một luận văn hay. Nó
chỉ có thể nhận một tiếng thở dài của người phản biện mà thôi. Hơn nữa, khi nhận một
cuốn luận văn dày, đồng nghĩa người đọc kỳ vọng sẽ thu lượm được nhiều thông tin mới,
kết quả mới từ phía người viết. Nếu kết quả luận văn không tương xứng với sự kỳ vọng
của đọc giả thì đó chính là sự phản tác dụng. Quan trọng nhất, ở cấp độ sinh viên đại học
(thậm chí học viên cao học) thời gian làm luận văn rất hạn chế, thông thường chỉ 6 tháng
đến 1 năm, thì kết quả không thể quá nhiều như một nghiên cứu sinh làm 4 năm đến 5
năm. Do đó một cuốn luận văn hơn 100 trang chỉ làm cho người đọc suy nghĩ việc bạn
copy từ nhiều tài liệu hoặc các phần lý thuyết của bạn quá dài dòng.
Trừ “trang mục lục” và “các phụ lục” các mục khác đều có phần hướng dẫn bên dưới. Vì
vậy, trong phần này tôi chỉ giới thiệu cách trình bày trang mục lục và phần phụ lục của
luận văn.
Dưới đây là một ví dụ về trình bày trang mục lục
3
Hình 1: Ví dụ một trang mục lục
Các đường thẳng được kẻ thêm để nhắc tác giả chú ý việc định dạng các mục con cần
thẳng hàng với nhau và thẳng hàng với tên của lục lớn hơn trước đó.
Các phụ lục được thêm vào là nơi thể hiện các tính toán chi tiết của luận văn như việc
giải phương trình, đoạn code được tác giả lập trình, tính các tích phân khó…dưới đây là
một trang phụ lục ví dụ
4
Hình 2: Ví dụ trang phụ lục
Để ý thấy, phụ lục cần phải đánh số và có tên cụ thể cho từng phụ lục, để người đọc khi
cần quan tâm các tính toán chi tiết có thể tìm hiểu.
I.2 Nội dung
I.2.1 Mở đầu
Tại sao đối với một số luận văn người đọc có thể đọc từ đầu đến cuối? Nhưng
cũng người đọc đó, đối với môt số luận văn chỉ đọc qua loa với cảm giác rất ngán ngẩm.
Chính là do cách viết của tác giả, đặc biệt là phần mở đầu, giới thiệu không hấp dẫn dẫn
đến việc người đọc chỉ lướt qua các đề mục và cho luận văn vào quên lãng.
5
Phần mở luận văn đầu rất quan trọng trong bố cục một luận văn vì đây chính là
phần giúp người đọc hiểu luận văn một cách khái quát, hiểu rõ mục tiêu luận văn, nắm
được phương pháp tác giả sử dụng để giải quyết vấn đề và kết quả của luận văn ra sao.
Do đó người viết cần chú ý phải viết lời mở đầu thật kỷ lưỡng, đầy đủ thông tin để giới
thiệu luận văn một cách chính xác nhất đến người đọc. Vậy, chúng ta cần viết gì trong
phần này?
Tổng quan của ngành đang nghiên cứu để trả lời câu hỏi: vị trí quan
trọng của ngành đang tiếp cận trong bối cảnh chung của khoa học ví dụ
như vật lý nguyên tử, phân tử trong vật lý học; vật lý lò phản ứng trong
nghiên cứu hạt nhân…
Tổng quát về hướng đang thiếp cận: tầm quan trọng cũng như mức độ
quan tâm của cộng đồng đối với hướng nghiên cứu mà tác giả chọn.
Giới thiệu vấn đề cụ thể cần nghiên cứu: trong hướng tiếp cận ở trên,
cần trả lời về ý nghĩa của bài toán cụ thể này? Tại sao tác giả lại lựa
chọn vấn đề này để nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu là gì?
Giới thiệu qua các phương pháp được sử dụng khi nghiên cứu vấn đề:
đối với vấn đề này có các phương pháp hay hướng tiếp cận nào? Những
khó khăn còn tồn tại của các phương pháp và từ đó dẫn đến phương
pháp tác giả đã lựa chọn.
Đề cặp đến phương pháp mình lựa chọn: Phương pháp tác giả lựa chọn
đã được sử dụng cho các bài toán nào chưa? Kết quả ra sao?
Kết quả dự kiến: Với phương pháp tiếp cận đó, tác giả có thể dự kiến
một số kết quả mong đợi.
Môt số chú ý trong phần này: đây là phần mở đầu cho luận văn không nên đề cặp tới việc
khó khăn, hạn chế của người làm luận văn. Người viết cũng không nên dùng phần này để
chèn cảm ơn của mình vào. Tác giả không nên quá sa đà vào việc giải thích các chi tiết
(vì sẽ trình bày trong các chương) mà cần viết rõ ràng, súc tích để người đọc hiểu được
sơ lược nội dung luận văn, đặc biệt là mục tiêu của luận văn.
6
I.2.2 Chương 1: Các cơ sở lý thuyết liên quan trực tiếp đế đề tài luận văn
Trong chương đầu tiên này, tác giả cần giới thiệu với người đọc các lý thuyết liên quan
khi tiếp cận bài toán mình đã lựa chọn. Vì khi giải quyết một vấn đề, các phương pháp
đều dựa trên nền tảng lý thuyết. Do đó việc giới thiệu các nền tảng lý thuyết không chỉ
giúp người đọc mà còn giúp tác giả tìm hiểu để có một bức tranh tổng quát về đề tài
nghiên cứu.
Lưu ý: như đã trình bày phía trên, người viết nên lựa chọn, cân nhắc cần đưa kiến thức
tổng quan nào vào chương này, không nên quá tham sẽ làm luận văn dài dòng không cần
thiết.
I.2.3 Chương 2: Phương pháp, cách thức cụ thể sử dụng trong luận văn
Trong chương này, tác giả giới thiệu chi tiết phương pháp mình sử dụng. Chi tiết của
phương pháp phải được thể hiện cụ thể hóa qua phương trình, công thức tính hay phương
pháp tiến hành thực nghiệm, thu thập số liệu hay phân tích số liệu. Tuy nhiên, người viết
cũng nên chú ý rằng không nên trình bày tất cả các tính toán quá chi tiết vào phần này vì
sẽ làm người đọc bị rơi vào “biển công thức”. Để giải quyết vấn đề này, các tính toán chi
tiết như việc giải các phương trình, việc viết các đoạn code nên được đưa vào trong phụ
lục cuối luận văn.
I.2.4 Chương 3: Kết quả luận văn
Đây là chương quan trọng nhất của luận văn vì nó thể hiện rõ “tác giả làm được gì”.
Chính vì vậy, tác giả cần viết rõ ràng để giới thiệu “sản phẩm” của mình với người đọc.
Kết quả luận văn phải được thể hiện cụ thể qua sản phẩm như: thu được công thức mới
tính đại lượng vật lý nào đó, đo được giá trị phổ của chất phóng xạ A, thu được bảng
thống kê về đánh giá của học sinh về giáo viên…Để việc thể hiện kết quả được rõ ràng,
các kết quả nên được thể hiện qua hình ảnh, sơ đồ, bảng biểu.
Một điều quan trọng khác nữa trong chương này là tác giả cần phải phân tích, đánh giá
các kết quả mình thu được và lý giải trên các cơ sở kiến thức đã biết. Tác giả nên tránh
7
trường hợp viết như một bảng liệt kê “thành tích”. Điều này sẽ làm người đọc thấy luận
văn như một báo cáo chán ngắt, chỉ toàn dữ liệu được đưa ra một cách đơn điệu.
Cuối cùng nhưng rất quan trọng, tác giả cần phải tuyệt đối trung thực khi trình bày kết
quả của mình. Không nên làm cho người đọc lẫn lộn giữa kết quả của tác giả luận văn và
các kết quả của người khác. Nếu cần kết quả của một tác giả khác để giải quyết trọn vẹn
một vấn đề lớn, thì người viết có thể đưa vào nhưng phải trích dẫn tài liệu tham khảo.
I.2.5 Kết luận và hướng phát triển tiếp theo của luận văn
Trong phần kết luận, tác giả nên một lần nữa khẳng định lại các vấn đề đã làm được trong
luận văn nhưng phải viết theo một cách khác chứ không nên chỉ đơn thuần “copy-paste”
lại từ phần mở đầu. Tác giả chỉ nên liệt kê lại các kết quả chính, quan trọng đã đạt được.
Ví dụ: trong luận văn này bằng cah1 áp dụng phương pháp A cho bài toán B, chúng tôi th
được các kết quả sau:
- KQ1
- KQ2
- …
Tác giả cũng có thể đưa thêm một số thông tin như kết quả luận văn đã được báo cáo ở
hội nghị nào, đăng trên tạp chí nào…
Hướng phát triển đề tài: thông thường khi đề tài trong luận văn đã được giải quyết
nhưng vẫn còn nhiều vấn đề có thể tiếp tục nghiên cứu để đề tài hoàn chỉnh hơn hoặc vấn
đề trong đề tài được mở rộng thành một đề tài có nhiều nội dung, ý nghĩa hơn. Do đó khi
viết phần này, tác giả có thể giới thiệu một số hướng nghiên cứu tiếp theo mà chính tác
giả hoặc ai quan tâm có thể tiếp tục nghiên cứu.
Các lưu ý trong phần này: luận văn tuy được chia thành các chương nhưng tác giả phải
viết để người đọc thấy được sự liên kết giữa các chương với nhau. Để làm được điều này,
cuối chương trước tác giả nên khéo léo giới thiệu, liên kết qua nội dung chương tiếp theo.
Ngoài ra khi bắt đầu một chương mới, tác giả nên viết môt đoạn giới thiệu ngắn về các
nội dung sẽ trình bày trong chương đó để người đọc hình dung trọn vẹn bố cục một
chương.
8
Dưới đây là ví dụ cho phần bắt đầu của một chương:
Hình 3: Ví dụ bắt đầu chương
I.3 Công thức, Hình ảnh
I.3.1 Công thức
Trong quá trình viết luận văn, đặc biệt là các chuyên ngành khoa học tự nhiên không
thể thiếu việc sử dụng các công thức. Khi đưa một công thức vào văn bản tác giả cần
chú ý các điểm chính sau đây:
- Tất cả các công thức đưa vào cần được đánh số để khi đề cập tới được dễ dàng,
thuận tiện.
- Việc đánh số công thức được sếp thứ tự theo chương ví dụ 1.8 là công thức thứ
8 trong chương 1, 3.5 là công thức thứ 5 trong chương 3. Theo ý kiến cá nhân,
không nên chia cấp độ nhỏ hơn khi đánh số công thức như 3.1.5 hay 4.2.7…
- Khi chèn công thức vào văn bản, cần để đủ không gian để người đọc nhìn thấy
“thoáng” xung quanh công thức. Dưới đây là một ví dụ.
9
Hình 3: Ví dụ về chèn công thức
Đường tròn khoanh quanh công thức 1.8 để cho người đọc chú ý việc đánh số công thức
trong chương. Các đường thẳng minh họa cho khoảng cách giữa các công thức và dòng
văn bản trên và dưới.
- Kích cở của công thức: khi đánh công thức cần chỉnh để “size” của công thức
đúng bằng với “size” của các dòng văn bản (thường là 13). Người viết không
nên tự ý kéo công thức cho to lên hay thu nhỏ lại. Điều này sẽ làm cho văn bản
không đồng nhất, nhìn không đẹp.
- Dấu câu trong công thức: công thức là một phần của câu nên cũng cần có dấu
chấm “.” khi hết câu hoặc dấu phẩy “,” khi chưa kết thúc.
- Một công thức không được lập lại, khi cần đề cập đến một công thức đã trình
bày thì dùng số của công thức đó. Ví dụ “như công thức 2.1, ….”
I.3.2 Hình ảnh, bảng số
Như đã nói, kết quả các ngành khoa học tự nhiên thường được thể hiện bằng con số
và hình ảnh là một cách thể hiện trực quan kết quả đó. Do đó, việc sử dụng hình ảnh
10
trong luận văn rất cần thiết để làm nổi bật kết quả nghiên cứu. Khi chèn hình vào file
văn bản cần lưu ý các điểm sau đây:
- Tất cả các hình ảnh, bảng số liệu đưa vào cần được đánh số để khi đề cập tới
được dễ dàng, thuận tiện.
- Việc đánh số hình ảnh, bảng số liệu được sếp theo chương ví dụ 1.8 là công
thức thứ 8 trong chương 1, 3.5 là công thức thứ 5 trong chương 3. Theo ý kiến
cá nhân, không nên chia cấp độ nhỏ hơn khi đánh số công thức như 3.1.5 hay
4.2.7…
- Khi chèn hình ảnh, bảng số liệu vào văn bản, cần để đủ không gian để người
đọc nhìn thấy “thoáng” xung quanh công thức. Dưới đây là một ví dụ
Hình 4: Ví dụ về chèn hình ảnh
- Một điều lưu ý khi đưa hình ảnh vào là: tất cả các hình ảnh được đưa vào cần
phải được đề cập tới (trong hình trên là có đề cập tới trong đoạn văn bản phía
11
trên). Tuyệt đối trong đưa một hình vào mà tác giả không hề nhắc tới trong
luận văn một lần nào.
- Kích thước hình ảnh cũng là một điều đáng quan tâm. Không nên để hình quá
to hoặc quá nhỏ so với các dòng văn bảng. Khi viết tác giả thường có tâm lý
hình cần to lên cho rõ, nhưng để hài hòa tác giả cần “view” nguyên trang để
thấy tương quan giữa kích cỡ của hình trong toàn trang văn bản.
- Màu sắc của hình ảnh cũng là một điều cần quan tâm. Khi vẽ hình, đồ thị nếu
có nhiều đường cần phân biệt thì có thể dùng 2 cách: màu sắc hoặc các kiểu
đường khác nhau như thẳng, đứt nét, chấm tròn…Nếu tác giả muốn sử dụng
màu để phân biệt thì nên cân nhắc việc chọn phối các màu với nhau sao cho
đẹp (dĩ nhiên đẹp tùy thuộc vào style tác giả), nhìn không quá chói mắt nhưng
cũng đừng quá ảm đạm. Nếu tác giả sử dụng các kiểu đường khác nhau thì nên
lưu ý thêm độ đậm nhạt (độ dày) của đường để khi in ra người đọc có thể phân
biệt rõ nhất. Tác giả cũng có thể kết hợp hai cách trên với nhau như hình dưới
đây:
Hình 5: Đồ thị các đường có màu và kiểu đường khác nhau
12
Lưu ý khi vẽ hình, các trục phải có đơn vị. Khi chèn hình vào văn bản cần phải giải thích
ý nghĩa của các đường để phân biệt.
I.4 Tài liệu tham khảo
I.4.1 Mục đích trích dẫn
- Làm cơ sở hay bằng chứng cho một luận điểm một phát biểu trong bai 2báo
- Công nhận đóng góp của các tác giả khác
- Làm ngắn bài báo (vì không cần phải diễn tả dài dòng, người đọc quan tâm có thể đọc
trong tài liệu gốc)
Vậy, trong các trường hợp nào thì cần phải trích dẫn?
- Khi dẫn nguyên văn của một tác giả hay thậm chí của chính mình đã công bố trước đây.
- Khi đề cập đến một phát biểu hay tóm lược ý kiến của người khác làm nền tảng cho
công trình của mình.
- Những phát biểu kèm theo con số, đề cập đến dữ liệu hay phát hiện của người khác.
Lưu ý:
- Những kiến thức quá thông thường thì không cần trích dẫn. Ví dụ “Tập thể dục rất tốt
cho sức khỏe”, “ánh sáng mặt trời giúp cây quang hợp” hoặc “dòng điện là dòng chuển
dời có hướng của các hạt mang điện tích”…
- Phải trích dẫn ngay sau nội dung đề cập.
Sau đâu là một ví dụ về trích dẫn:
“Tìm hiểu cấu trúc phân tử bằng kỹ thuật chụp ảnh là một hướng nghiên cứu được
nhiều người quan tâm [4], [20], [38], [46], [49], [75], [121]. Nhờ vào sự phát triển của kỹ
thuật laser, các phương pháp chụp ảnh phân tử dựa trên các nguồn laser có xung cực ngắn
lần lượt ra đời. Trong công trình [49], các tác giả đã sử dụng phương pháp chụp ảnh cắt
lớp từ nguồn dữ liệu sóng hài bậc cao (HHG) phát ra do tương tác giữa phân tử với nguồn
laser cực mạnh và tái tạo thành công hình ảnh orbital lớp ngoài cùng (HOMO) của phân
tử khí N2. Điều đáng lưu ý trong công trình này là nguồn laser các tác giả sử dụng có độ
13
dài xung 30 fs, vì vậy hình ảnh HOMO thu được bằng phương pháp này có thể xem là
thông tin động. Chính sự thành công của nhóm nghiên cứu Canada đã mở đầu cho rất
nhiều mối quan tâm về thu nhận thông tin cấu trúc động của phân tử dựa trên mô hình
tương tác giữa các phân tử khí với nguồn laser mạnh xung cực ngắn [37], [72], [75],
[126]. Đặc biệt trong công trình [72], ngoài việc khẳng định lại kết quả chụp ảnh phân tử
N2 từ nguồn dữ liệu HHG bằng mô phỏng, các tác giả còn phân tích những hạn chế của
phương pháp chụp ảnh cắt lớp cũng như nêu hướng giải quyết nhằm nâng cao chất lượng
hình ảnh thu được. Trong [72], ngoài hình ảnh HOMO thu được bằng phương pháp chụp
ảnh cắt lớp, một thông tin cấu trúc là khoảng cách liên hạt nhân trong phân tử N2, O2
cũng được trích xuất. Ngoài ra, việc thu nhận thông tin khoảng cách liên hạt nhân trong
phân tử bằng cách phân tích các đặc tính dữ liệu HHG do tương tác với chùm laser cực
mạnh đã được các tác giả khác tiến hành [56], [57], [140]. ”
Trong ví dụ trên, chúng ta trích dẫn để chứng minh “một hướng nghiên cứu được nhiều
người quan tâm” do đó người viết phải dẫn chứng môt số công trình. Chúng ta không thể
nói đây là một đề tài nóng bỏng, đang được quang tâm mà chỉ trích dẫn đúng 1 bài báo từ
năm 1980.
I.4.2 Sắp xếp tài liệu trích dẫn
Việc sắp xếp tài liệu trích dẫn thường được quy định bởi đơn vị đào tạo. Thông thường sẽ
chia thành 2 nhóm theo ngôn ngữ: Tiếng Việt và Tiếng Anh.
Ví dụ
14
Trong ví dụ trên, tài liệu tham khảo được sếp trước đánh số [1], các tài liệu tham khảo
tiếng Anh được đánh từ số 2 và sắp xếp theo thứ tự ABC theo họ của tác giả.
Đối với tài liệu tham khảo là bài báo, cần viết trích dẫn theo trình tự sau: họ và tên tác giả
(năm), “tên bài báo”, tên tạp chí tập, pp. trang đầu-trang cuối.
Đối với tài liệu tham khảo là sách, cần viết trích dẫn theo trình tự sau: họ và tên tác giả
(năm), tên sách, tập, lần tái bản (nếu có), nhà xuất bản, nơi xuất bản.
Ví dụ: Vũ Văn Hùng (2004), Cơ học lượng tử, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
I.4.3 Các lỗi thường gặp
- Thiếu thông tin về tài liệu trích dẫn: thiếu tên công trình, thiếu tên tạp chí, thiếu số
trang…điều này sẽ gây ra khó khăn nếu đọc giả muốn tìm bản gốc của tài liệu.
- trích dẫn không đúng nội dung: Tác giả đang đề cập đến vấn đề A nhưng lại trích dẫn
một tài liệu không liên quan. Điều này có thể trong quá trình viết và sắp xếp lại tài liệu
tham khảo theo quy định, tác giả đã bị nhầm lẫn thứ tự các công trình với nhau.
- Định dạng không thống nhất: Các tài liệu tham khảo ghi theo các định dạng khác nhau
ví dụ:
15
1. Frolov M. V., Manakov N. L., Pronin E. A., and Starace A. F. (2003), “Strong
field detachment of a negative ion with non-zero angular momentum: application
to F−”, J. Phys. B 36, pp. L419-L426.
2. Ghafur Omair, et al., “Impulsive orientation and alignment of quantum-state-
selected NO molecules”, Nature Physics 5, pp. 289-293, (2009).
3. Gibson G. N. and Biegert J. (2008), “Influence of orbital symmetry on high-order-
harmonic generation and quantum tomography”, Phys. Rev. A 78, pp. 033423-10.
4. Haessler S., et al. (2010), Nature Physics 6, pp. 200-206. (không có tên bài báo)
I.5 Lỗi viết lách
Khi viết luận văn, người viết nên khai triển các ý tưởng bằng cách chia một phần thành
các đoạn văn nhỏ. Một điều đặc biệt quan trọng là mỗi đoạn văn nhỏ phải chứa đựng một
ý hoàn chỉnh. Người viết nên lùi đầu dòng để bắt đầu một đoạn mới và để phân biệt các
đoạn với nhau.
Khi viết, vì luận văn là một báo cáo khoa học, nên mỗi câu viết ra chỉ có một nghĩa duy
nhất (đơn nghĩa). Do đó, người viết phải trình bày văn bản, từng câu một cách mạch lạc,
rõ ràng để giúp người đọc hiểu rõ vấn đề mình đang muốn đề cập.
Khi viết luận văn, người viết thường vô tình mắc những lỗi về viết lách. Điều này nếu
không chỉnh sửa kịp thời sẽ để lại một hình ảnh không hay cho đọc giả về người viết.
Việc hạn chế các lỗi viết lách này thể hiện sự đầu tư và sự tỉ mỉ của người viết. Các lỗi
viết lách có thể chia ra làm các dạng sau:
- Lỗi hành văn: các câu văn lủng cũng, tối nghĩa và không liên kết với nhau. Điều này có
thể do người viết đọc và dịch từ các tài liệu khác nhau và khi tổng hợp chưa có sự nhất
quán.
- Lỗi thuật ngữ: mỗi đại lượng vật lý, hóa học, sinh học chỉ có một tên do đó khi viết tác
giả phải nhất quán thuật ngữ khi đề cập cùng một đối tượng. Ví dụ “cường độ” và “độ
mạnh”, “thừa số chắn” và “hệ số màn chắn”…
- Lỗi viết tắt: thông thường khi một thuật ngữ, cụm từ được sử dụng nhiều lần trong luận
văn, tác giả có thể thay bằng dạng viết tắt. Ví dụ “LTNL” thay cho “lý thuyết nhiễu
16
loạn”, “HHG” thay cho “High harmonic generation”…Để sử dụng các dạng viết tắt này,
khi viết lần đầu tiên tác giả phải viết dạng đầy đủ của thuật ngữ và theo sau là dạng viết
tắt. Cụ thể, ta có thể viết “việc sử dụng lý thuyết nhiễu loạn (LTNL) đã giúp các nhà
khoa học…” hoặc “quá trình phát xạ sóng điều hòa (High harmonic generation, viết tắt
HHG) được nghiên cứu…”. Sau khi đã viết tắt, tác giả sẽ sử dụng dạng viết tắt của các
cụm từ đó và phải nhất quán, không nên có chương, phần sử dụng dạng đầy đủ trong khi
đó các phần khác lại viết tắt. Tuy nhiên, một khuyến cáo nhỏ cần đưa ra là không nên
lạm dụng viết tắt vì sẽ làm văn bản giống như một “mật mã” bí ẩn mà mỗi người hiểu
một kiểu.
- Lỗi chính tả: thông thường khi viết rất dễ mắc phải những lỗi chính tả do đánh máy
nhanh hoặc do thói quen.
- Lỗi ngữ pháp câu: viết chưa hết một câu đầy đủ đã chấm “.” hết câu, cấu không có chủ
ngữ... Ví dụ “Trong tất cả các điều kiện được trình bày ở trên. ”
Để khắc phục các lỗi vừa đề cập trên, tác giả cần phải tự đọc cẩn thận luận văn của mình,
khi nào thấy không còn lỗi thì thực hiện bước tiếp theo: nhờ người khác đọc. Vì khi viết,
khi đọc tác giả rất dễ không nhận ra các lỗi viết của mình do tâm lý bị mặc định. Ví dụ
văn bản viết ra là “một trong nhưng vấn đề cần nghiên cứu là…”nhưng khi đọc, trong trí
nhớ tác giả sẽ gợi ra câu “một trong những vấn đề cần nghiên cứu là…”. Do đó, chính
người viết tự đọc lại sản phẩm của mỉnh khi đã hoàn chỉnh thì quá trình đó đã được cộng
thêm, hỗ trợ đắc lực của trí nhớ điều này dễ bỏ qua các lỗi viết lách.
II. Soạn file trình chiếu và thuyết trình
Trong phần này tôi xin giới thiệu nguyên văn bài viết của GS. Nguyễn Văn Tuấn.
http://nguyenvantuan.net/otherskills/1611-nhung-loi-pho-bien-trong-trinh-bay-bang-
powerpoint
17
Đã dự rất nhiều hội nghị khoa học lớn và nhỏ ở nhiều nơi, kể cả ở Việt Nam, tôi thấy một
số sai lầm phổ biến trong cách trình bày bằng powerpoint (PPT). Những sai lầm này
thường liên quan đến cách soạn slide, nội dung, và cách trình bày. Thật ra, ngày xưa, lúc
mới bước vào học, tôi cũng từng phạm phải những sai lầm như thế, nhưng nhờ có thầy
chỉnh sửa và hướng dẫn, nên đã tránh được những sai lầm đó và học hỏi thêm nhiều kinh
nghiệm. Nay đã đến lúc tôi có thể chia sẻ những kinh nghiệm cá nhân cùng các bạn.
Mục tiêu của bất cứ bài nói chuyện nào cũng là chuyển giao thông tin. Chuyển thông tin
từ một cái đầu sang nhiều cái đầu. Không chỉ chuyển giao, mà còn phải chuyển giao một
cách có hiệu quả. Để đạt được hiệu quả, diễn giả cần phải có nội dung tốt, một bộ slide
hoàn chỉnh, và một phong cách trình bày chuyên nghiệp. Chỉ khi nào một bài thuyết trình
hội đủ 3 nhu cầu trên thì mới có thể xem là thành công.
Nhưng trong thực tế, tôi đã thấy rất nhiều bài nói chuyện trong các hội nghị trở thành
nhạt nhẻo, và khán giả chẳng học hỏi được gì từ bài nói chuyện. Chúng ta có câu Chiếc
áo không làm nên thầy tu. Tương tự, nếu diễn giả có một nhúm slide, chưa chắc diễn giả
đó đã có một bài thuyết trình. Một nhúm slide khác với một bài thuyết trình. Đã từng
tham dự nhiều hội nghị và hội thảo ở Việt Nam, tôi rút ra một số kinh nghiệm, hay nói
đúng hơn là một số sai lầm phổ biến dưới đây.
II.1 Những sai lầm khi soạn slide
II.1.1. Vấn đề chọn màu. Một trong những sai lầm phổ biến nhất là cách chọn màu cho
slide. Có hai màu diễn giả cần phải chọn: màu nền (background color) và màu chữ (text
color). Nhiều diễn giả không chú ý nên chọn màu không thích hợp. Chẳng hạn như nền
màu xanh đậm mà chữ màu đỏ hay màu đen, hoặc nền màu trắng nhưng chữ màu vàng,
18
v.v. là không thích hợp. Không thích hợp vì rất khó đọc. Nhiều người Việt có thói quen
chọn màu đỏ chói làm màu nền, và đó là một cách chọn không thích hợp, vì màu đỏ là
màu “high energy” làm cho người đọc rất khó chú ý.
Nếu hội trường rộng, nên chọn màu chữ sáng (màu vàng, trắng) trên nền tối (màu xanh
đậm). Nếu hội trường nhỏ hay trung bình, nên chọn chữ màu đậm (xanh đậm hay đen)
trên nền sáng (màu trắng).
Một ví dụ về chọn màu nền (mây) và màu chữ không thích hợp
19
20
II.1.2. Vấn đề chọn kiểu chữ (font). Kiểu chữ có ảnh hưởng đến khả năng tiếp thu và
tốc độ đọc. Nhiều diễn giả không chú ý đến font chữ khi soạn slide, nên gây khó khăn
cho khán giả. Có hai loại kiểu chữ chính: kiểu chữ có chân và kiểu chữ không có chân
(sans serif). Kiểu chữ có chân tiêu biểu là Time, Times New Roman, Cambria. Kiểu chữ
21
không có chân là Arial, Verdata, Calibri. Nhiều người Việt thích chọn kiểu chữ có chân
vì họ nghĩ đó là kiểu chữ đẹp. Đẹp thì đúng, nhưng là một sai lầm trong PPT, vì có nhiều
nghiên cứu chỉ ra rằng kiểu chữ có chân làm người ta tốn thì giờ đọc hơn là kiểu chữ
không có chân. Đó cũng chính là lí do tại sao các “đại gia” internet như Yahoo! và
Google dùng chữ không có chân trên các trang web của họ.
Có diễn giả thích “trang trí” chữ bằng cách làm bóng (shadow) cho chữ. Đây là một kĩ
thuật chẳng những mất thì giờ, mà còn phản tác dụng, vì rất khó đọc và nhức mắt. Tuyệt
đối không “trang trí” chữ bằng bóng!
II.1.3. Khổ chữ. Không gì khó chịu hơn khi diễn giả trình bày slide mà khán giả không
đọc được vì khổ chữ quá nhỏ. Nhưng trong thực tế thì vấn đề này xảy ra rất nhiều lần, mà
diễn giả thì có vẻ rất vô tư, không quan tâm đến khán giả. Kinh nghiệm của tôi cho thấy
nên chọn cỡ chữ từ 18 đến 30. Nếu chọn kiểu chữ Arial thì khổ chữ 18 hay 20 là hợp lí;
nếu chọn kiểu chữ Calibri thì kích thước phải cỡ 25 hay 30 mới dễ đọc. Mỗi slide nên có
tựa đề, và tựa đề nên có kích thước 35 đến 45. Nếu có ghi chú (footnote) thì có thể dùng
kích thước 12.
II.1.4. Quá nhiều chữ trong slide. Một trong những sai lầm phổ biến nhất là diễn giả
trình bày quá nhiều chữ trong một slide. Có nhiều slide, tôi không phân biệt được là một
đoạn văn hay là một power point. Thật vậy, có nhiều người vì lí do nào đó (có thể là lười
biếng) nên cắt từ Word và dán vào slide. Cũng có người có thể do sợ không thuộc bài,
nên viết hết những câu văn trên slide như là một văn bản. Đây là một sai lầm tai hại, vì
khán giả sẽ không theo dõi được. Nghiên cứu tâm lí chỉ ra rằng, một người bình thường
chỉ có thể lĩnh hội nội dung slide trong vòng 20-30 giây; nếu qua thời gian đó mà không
lĩnh hội được thì họ sẽ bỏ, và diễn giả đã thất bại trong việc truyền đạt thông tin.
Để khắc phục vấn đề này, cần phải biết “qui ước n x n”. Theo qui ước này, nếu slide có n
dòng, thì mỗi dòng chỉ nên có n chữ. Chẳng hạn như nếu slide có 5 dòng thì mỗi dòng
nên có 5 chữ. Một slide có 6 dòng trở nên là quá nhiều. Số dòng lí tưởng là 3-5.
22
II.1.5. Viết slide như viết văn bản. Người thiếu kinh nghiệm thường soạn slide như họ
viết văn bản, tức là câu cú có chủ từ, động từ, theo đúng văn phạm. Dĩ nhiên, không có gì
sai trong cách làm như thế, nhưng đó là cách làm thiếu tính chuyên nghiệp. Người có
kinh nghiệm soạn slide theo công thức telegraphic, tức viết giống như viết điện tín ngày
xưa, hay như cách phóng viên viết tiêu đề bài báo. Cách viết telegraphic có hiệu quả giảm
số chữ trong mỗi slide, và giúp diễn giả tập trung vào cách diễn giải vấn đề hơn là đọc.
Một cách phân biệt cách viết theo kiểu văn bản và telegraphic như sau:
Văn bản: Loãng xương là một bệnh với đặc điểm mật độ xương suy giảm dẫn đến
gia tăng nguy cơ gãy xương.
Telegraphic: Loãng xương – mật độ xương giảm à nguy cơ gãy xương tăng.
Tất cả slide, ngoại trừ những trích dẫn nguyên văn, nên được viết theo kiểu điện tín.
23
Những vấn đề liên quan đến nội dung
II.1.6. Không có thông điệp chính. Có nhiều hội nghị mà chúng ta khi nghe xong một
bài thuyết trình nhưng chẳng biết diễn giả muốn nói gì, hay mình đã tiếp thu thông tin gì.
Vấn đề ở đây là diễn giả đã thất bại cung cấp một thông điệp chính. Mỗi một bài thuyết
trình phải có một thông điệp chính. Thông điệp chính cần phải trình bày trong một slide
mà tiếng Anh gọi là money slide, hiểu nôm na là một “slide ăn tiền”. Nếu thông điệp
chính không có trong bài thuyết trình thì khán giả cảm thấy mất thì giờ đến nghe vì chẳng
có tiếp thu được thông tin gì xứng đáng. Do đó, trước khi soạn bài nói chuyện, diễn giả
cần phải suy nghĩ cẩn thận cái money slide là gì, trước khi soạn những slide khác.
II.1.7. Chất lượng thông tin nghèo nàn. Nhiều bài thuyết trình mà trong đó diễn giả
trình bày những thông tin nghèo nàn, thiếu tính liên đới đến chủ đề chính, và hệ quả là
khán giả không nắm lấy vấn đề một cách logic. Làm một bài thuyết trình bằng
powerpoint không phải là một thử nghiệm về kĩ năng viết, mà là kĩ năng chọn thông tin
và thể hiện thông tin. Thông tin phải chính xác, đáng tin cậy, và được thể hiện một cách
thích hợp. Chẳng hạn như trong khoa học, những cách thể hiện dữ liệu bằng biểu đồ bánh
(pie chart) là vô dụng nhất, thiếu tính chuyên nghiệp nhất, và nhàm chán nhất.
24
II.1.8. Dùng hoạt hình quá nhiều. Nhiều người thích dùng hoạt hình (animation) trong
bài thuyết trình. Đây là một sai lầm nghiêm trọng. Giới khoa học nói chung tương đối
bảo thủ, hiểu theo nghĩa không thích đùa như trẻ con. Hoạt hình được xem là một hình
thức khoe kĩ thuật của trẻ con. Hoạt hình còn làm cho khán giả phân tâm, thay vì tập
trung vào thông tin thì họ lại chú ý đến những hình ảnh hay những con chữ nhảy nhót
một cách … vô duyên. Cần tránh hoạt hình trong các báo cáo khoa học.
II.1.9. Dùng clipart quá nhiều. Ngoài hoạt hình, một số diễn giả có xu hướng dùng
clipart một cách thái quá. Có thể dùng để minh hoạ cho một vài ý tưởng qua clipart,
nhưng nếu dùng quá nhiều thì sẽ gây phản tác dụng, vì sẽ giảm sự tập trung của khán giả.
II.2 Những vấn đề liên quan đến phong cách trình bày
II.2.1. Đọc slide. Có quá nhiều diễn giả trong các hội nghị ở Việt Nam đọc slide, và đó là
một “đại kị”. Khi diễn giả đọc slide, khán giả sẽ nghĩ diễn giả chỉ là một cái máy nói,
không am hiểu vấn đề, và thụ động. Đọc slide làm cho diễn giả quay lưng lại với khán
giả, trong khi “nhiệm vụ” của diễn giả là nói chuyện với khán giả chứ không phải nói với
… slide. Đọc slide còn gây một ấn tượng phản cảm, vì khán giả nghĩ rằng diễn giả chỉ nói
những gì ai đó đã soạn cho để nói (trong thực tế cũng có vấn đề này).
25
II.2.2. Nói chuyện không dính dáng gì đến slide. Ngược lại với đọc slide là những diễn
giả nói chuyện chẳng liên quan gì đến slide đang trình chiếu. Dĩ nhiên, đây là một tín
26
hiệu cho thấy diễn giả đang lạc đề hoặc không có tập dượt trước, nhưng cũng có thể là
dấu hiệu cho thấy diễn giả không nắm vững vấn đề. Vì không nắm vững vấn đề bắt đầu
… lan man. Tình trạng này xảy ra rất nhiều khi diễn giả không phải là người soạn slide
(mà ai đó soạn cho).
Nên nhớ rằng khi thuyết trình khoa học, diễn giả cần phải có tạo niềm tin bằng cách trình
bày những nghiên cứu hay tác phẩm của mình. Nếu trong một bài nói chuyện mà diễn giả
chẳng có cái gì của mình, toàn là dữ liệu của người khác, hoặc do người khác soạn, thì
khán giả sẽ nghĩ rằng diễn giả chỉ là một cái "máy nói", một con rối.
II.2.3. Không dùng laser pointer. Một trong những “bệnh” khá phổ biến ở các diễn giả
Việt Nam là không dùng laser pointer. Một bài thuyết trình khoa học có nội dung không
phải dễ theo dõi, nhất là có những giản đồ phức tạp minh hoạ cho một qui trình khoa học,
do đó diễn giả cần phải dẫn dắt khán giả bằng cách dùng laser pointer để chỉ đến những
chỗ đang nói. Không có laser pointer, khán giả sẽ rất khó theo dõi, và họ sẽ bỏ cuộc nếu
sau 30 giây mà không hiểu diễn giả muốn nói gì.
Nhưng cũng nên sử dụng pointer thích hợp. Một thói quen ngược lại không dùng pointer
là dùng tuỳ tiện, quơ pointer ở những vị trí chẳng liên quan gì đến slide. Có người do vô
ý hay hồi hộp cứ quơ laser pointer trên trần nhà làm khán giả cứ theo dõi và buổi trình
bày trở nên hài hước.
II.2.4. Nói quá giờ. Một “bệnh” cực kì phổ biến ở các diễn giả Việt Nam là nói quá giờ.
Nói quá giờ cho phép là một sự bất lịch sự đối với diễn gỉa kế tiếp (có người nói nặng nề
hơn là “ăn cắp” thì giờ). Nói quá giờ còn gây rối loạn đến chương trình và gây khó khăn
cho ban tổ chức. Cố gắng nói đúng giờ cho phép. Một ước tính quan trọng là mỗi slide
trung bình tốn 1 phút. Do đó, nếu bài báo cáo 15 phút thì diễn giả chỉ nên có 15 slides,
hay tối đa là 20 slides (kể cả tựa đề, phần cảm tạ, và conflict of interest).
II.2.5. Điệu bộ khi trình bày. Tuy không phổ biến lắm, nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn thấy
những diễn giả có những điệu bộ không thân thiện với khán giả. Những điệu bộ này có
thể kể đến như bỏ tay vào túi quần, dùng ngón tay trỏ chỉ vào khán giả, khoanh tay ngang
ngực, v.v. Những động thái như thế gây ấn tượng hống hách, xem thường khán giả, nên
27
rất phản cảm. Cần phải tuyệt đối tránh!
II.2.6. Làm chủ toạ theo kiểu dạy đời. Ngoài những “bệnh” trên, còn có một bệnh khác
tôi hay thấy trong các hội nghị ở Việt Nam là vai trò của chủ toạ. Rất thường xuyên tôi
thấy chủ toạ đóng vai trò tóm lược và phê bình báo cáo của diễn giả. Có chủ toạ còn lên
lớp cho diễn giả. Đó là một việc làm hết sức mất lịch sự, vô lễ, vô văn hoá khoa học,
và phản cảm. Có nhiều trường hợp sự việc xảy ra một cách hài hước, vì người chủ toạ nói
sai (do không có cùng chuyên môn, hay chuyên môn chưa vững). Trong thực tế, chủ toạ
các phiên họp khoa học có nhiệm vụ giới thiệu bài nói chuyện, điều khiển buổi họp sao
cho đúng giờ, và nếu không có ai đặt câu hỏi thì chủ toạ đóng vai trò “khơi mào” câu hỏi
cho diễn giả. Nên nhớ rằng người chủ toạ không có chức năng tóm lược và phê bình bài
báo của diễn giả.
***
Trên đây là một số vấn đề (nhưng cũng có thể xem là “sai lầm”) trong báo cáo khoa học
bằng powerpoint. Những sai lầm này đặc biệt phổ biến trong các hội nghị ở Việt Nam mà
người viết bài này từng trải nghiệm trong thời gian trên dưới 10 năm qua. Sai lầm không
phải là vấn đề (vì ai cũng phạm phải); vấn đề là học hỏi từ sai lầm. Học hỏi từ người đi
trước là có hiệu quả nhất và nhanh nhất. Trong bài này, tôi đã trình bày một số lời khuyên
để khắc phục cho mỗi sai lầm. Tôi đã từng học hỏi từ những sai lầm như thế này. Nhiều
đồng nghiệp và nghiên cứu sinh của tôi đã học từ những lời khuyên này và họ đã thành
công. Do đó, tôi hi vọng rằng những lời khuyên trong bài này sẽ giúp ích cho các bạn
thành công trong lần báo cáo sắp tới.