HÀNG TRỐNG “PHẬT BÀ QUAN ÂM” -...
Transcript of HÀNG TRỐNG “PHẬT BÀ QUAN ÂM” -...
1
PHÂN TÍCH TRANH DÂN GIAN – HÀNG TRỐNG
“PHẬT BÀ QUAN ÂM”
Nguyễn Thanh Tùng
Khoa Sư phạm Mỹ thuật
Trường Đại học Nghệ thuật - Đại học Huế
Phật Bà Quan Âm
Tranh dân gian – Hàng Trống
[Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/]
Cũng như tranh dân gian Đông Hồ, tranh dân gian Hàng Trống ra đời khoảng thế
kỷ 16. Tranh Hàng Trống là kết quả của sự giao thoa tinh hoa giữa Phật giáo, Nho
giáo, đặc biệt là Đạo Mẫu. Khác với tranh Đông Hồ, chuyên chú trọng đến những đề
tài dân dã, tranh Hàng Trống chịu ảnh hưởng rõ rệt các luồng tư tưởng, văn hóa, tôn
giáo, của nhiều vùng miền, dân tộc khác nhau, kể cả các điển tích Trung Hoa. Tuy
2
nhiên, trong tranh Hàng Trống nhiều tác phẩm là hoàn toàn xuất phát từ văn hóa của
người Việt, như tranh Ngũ Hổ, tranh Thánh Mẫu....
Tranh Hàng Trống được sản xuất và bày bán chủ yếu tại các phố Hàng Trống,
Hàng Nón, Hàng Hòm và Hàng Quạt thuộc tổng Tiêu Túc (sau đổi là Thuận Mỹ),
huyện Thọ Xương (nay là quận Hoàn Kiếm, Hà Nội). Nhiều nhất vẫn tập trung ở phố
Hàng Trống, nên người ta lấy tên phố đặt cho tên của dòng tranh.
Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 là thời phát triển hoàng kim của tranh Hàng Trống.
Qua những thăng trầm của lich sử và văn hóa, sau năm 1975 dòng tranh này bắt đầu
mai một, nhiều làng nghề sản xuất, các nhà làm tranh Hàng Trống đã bỏ nghề quay
sang làm các nghề khác. Hiện nay ở Hà Nội, còn lại duy nhất nhà nghệ nhân Lê Đình
Nghiên (1950) còn vẽ và in tranh. Gia đình nhà ông Nghiên hiện nay còn giữ được
khoảng hơn 50 ván tranh khắc cổ của Hàng Trống xưa.
Tranh Hàng Trống có kỹ thuật và phong cách khác biệt Tranh Đông Hồ. Nếu như
ở Tranh Đông Hồ, in nét và in màu đều dùng bản khắc gỗ thì ở tranh Hàng Trống chỉ
khắc in một bản nét đen, còn lại toàn bộ màu sắc đều tô bằng tay, dùng phép vờn đậm
nhạt của màu phẩm nước tươi tắn với những nhấn bút lông mềm mại lượn theo đường
nét in sẵn.
Tranh Hàng Trống có hai loại chủ yếu: tranh thờ và tranh Tết. Tranh Tết có các
loại: Chúc phúc, Tứ quí, Tố Nữ, tranh Công, tranh Cá … Tranh thờ có tranh Phật, Tam
Toà Thánh Mẫu, Tứ phủ, Ngũ Hổ… gắn liền với Đạo Mẫu của người Việt. Thông
thường, các bức tranh thờ thường dựa trên các sự tích, truyền thuyết về các vị Thần,
Phật, Thánh Mẫu. Những bức vẽ Thánh Mẫu như: Tam Toà Thánh Mẫu, hay Thánh
Mẫu Địa, Bà Chúa Thượng ngàn.... không chỉ thể hiện ra sự kính ngưỡng với những vị
Mẫu nghi thiên hạ của dân gian, mà còn thể hiện ra những sự tinh tế, tao nhã và đặc sắc
trong đời sống văn hóa người Việt.
3
Bức tranh “Phật Bà Quan Âm” là một trong những bức tranh thờ mang tính chuẩn
mực của dòng tranh này. “Bồ tát Quán Thế Âm” là hình ảnh thân thiết gần gũi đối với
mọi tầng lớp quần chúng, ảnh hưởng sâu rộng trong văn hóa tâm linh của người Á
Đông. Mặc dù có sự khác nhau về hình thái tôn thờ, nhưng hầu hết những tôn
tượng “Phật Bà Quan Âm” đều toát ra một điểm chung nhất là: tâm từ bi, hạnh kiên
nhẫn, khả năng lắng nghe, trái tim đồng cảm, đức hiếu sinh và hoài bảo ban vui cứu
khổ, cứu nạn cho nhân loại. Điều này đã ngẫu nhiên rất khế hợp với tâm tư nguyện
vọng cũng như thuần phong mỹ tục của người Việt Nam, vốn ưa chuộng cái thiện, ghét
cái ác, làm lành, lánh dữ, mong muốn một cuộc sống thanh bình, ấm yên, hạnh phúc và
luôn uớc ao mọi người cùng đến với nhau bằng sự cảm thông, tha thứ, tâm được kết
nối trong tình nhân ái.
Có thể nói, hình ảnh “Phật Bà Quan Âm” là biểu tượng linh thiêng cao cả, nói lên
đức tin tôn giáo, sự khát vọng hướng thiện cũng như quan điểm đạo đức của người
dân Việt Nam.
Bố cục bức tranh được vẽ đối xứng (Thể thức đăng đối 1) theo trục dọc (còn gọi là
đối xứng tương đối). Cấu trúc tổng thể là một hình tam giác cân, thể hiện sự vững chãi,
ổn định và vĩnh hằng... Dạng bố cục này thường được sử dụng để phản ánh các nội
dung thuộc đề tài sinh hoạt, lịch sử, tôn giáo tín ngưỡng....
1 Trong một số sách giáo khoa, sách chuyên ngành, tự điển mỹ thuật, giáo trình, giáo án giảng dạy trang trí
tại các cơ sơ đào tạo Mỹ thuật... thường hay dùng các thuật ngữ đối xứng hay đăng đối, để chỉ các dạng bố cục (hay các quy tắc bố cục) sử dụng trong trang trí. Hai thuật ngữ này đều được dịch từ tiếng Anh: symmetry, tiếng pháp: symétrie.
Quan điểm sử dụng thuật ngữ đối xứng thì nội hàm khái niệm là:
Đối xứng: Là dạng bố cục có quy luật lặp lại nghiêm ngặt của các yêu tố tạo hình; các quan hệ tạo hình...Qua một trục hoặc một tâm cấu trúc của một không gian tạo hình bất kỳ
Quan điểm sử dụng thuật ngữ đăng đối thì nội hàm khái niệm là:
Đăng đối: Là dạng bố cục dựa trên nguyên tắc của đối xứng, song đã tỏ ra linh động hơn. Trên cơ sở những thành phần của đối xứng, các yếu tố hay quan hệ tạo hình được lập lại qua trục hay qua tâm cấu trúc đã có sự biến đổi ít nhiều.
4
Trọng tâm là hình tượng “Phật Bà Quan Âm” ngự trên toà sen, trên đầu toả hào
quang rực rỡ, dáng điệu mềm mại, khuôn mặt hiền từ, phúc hậu. Màu đỏ- vàng được
bố trí chủ đạo trên trang phục, tòa sen, điểm xuyết các họa tiết sắc lục - xanh, tạo sự
tương phản và nhấn mạnh. Đứng chầu hai bên là hình tượng Kim Đồng và Ngọc Nữ
trên lá sen, dáng điệu trang trọng, thành kính. Có thể nhận ra phía sau những đồ vật tế
tự, mang ý nghĩa tâm linh riêng biệt như: cây liễu, lư hương, hay những vòng mây cách
điệu. Bố cục trong tranh có xu hướng lấp kín các khoảng không gian trống, chú trọng
đến chính phụ, trọng tâm, thu hút thị giác người xem.
Hình ảnh “Bồ-tát Quán Thế Âm tay trái cầm bình cam lồ, tay phải cầm cành
dương liễu. mang ngụ ý là bình thanh tịnh đựng nước cam lồ, nhờ cành dương liễu rưới
khắp nơi, làm cho tâm người được mát mẻ. Đây là ý nghĩa biểu trưng cho hạnh nguyện
của Bồ-tát”.
5
Tính chất thăng bằng, cân đối được chú trọng trong tác phẩm. Đây cũng là thủ
pháp và cảm quan về góc nhìn của nghệ nhân Việt trong tranh dân gian về tín ngưỡng.
Vị thế các nhân vật trong tranh thể hiện rõ ngôi vị và vai trò của mình. Nhân vật trung
tâm/ quan trọng bao giờ cũng được thể hiện kỹ càng nhất, các vị Thần, Phật được vẽ to
ở giữa, các nhân vật phụ nhỏ hơn và ở 2 bên, ngưòi thường dân và sinh vật lại nhỏ hơn
nữa và ở dưới. Theo nhà nghiên cứu Mỹ thuật Nguyễn Quân: “ ...đây là dạng viễn cận
tâm linh hay ý niệm. Với quan niệm cái gì quan trọng hơn thì to hơn, cái gì cao quí hơn
thì ở trên cao hơn, cái gì xấu xa, thấp kém thì nhỏ hơn, ở phia dưới. Phần trung tâm nền
luôn dành cho cho nhân vật trung tâm....” (Nguyễn Quân (2004), Con mắt nhìn cái đẹp,
NXB Mỹ thuật, Tr 52.)
Trong mỹ thuật phương Tây cũng thế, để nói lên vị thế, chức tước hoặc tầm quan
trọng của các nhân vật tôn giáo, chính trị hay xã hội người ta cũng thể hiện nhân vật có
kính thước lớn, phù hợp với cương vị của họ. Tác phẩm”Thánh Mẫu từ bi” của Piero
della Francesca- 1445- 55- dưới đây, đã tăng lớn hình tượng Thánh Mẫu nhằm đưa
6
Thánh Mẫu lên thành một chủ thể cao quý. Thánh mẫu dang tay dùng chiếc áo choàng
của ngài che chở cho những tín đồ nhỏ bé.
Tác phẩm”Thánh Mẫu từ bi” - Piero della Francesca (1445- 55)
Sơn dầu trên gỗ
Với đặc trưng riêng, nét trong tranh được in trước rồi mới tô màu lên sau. Bức
tranh cho thấy đường nét đôi chỗ nhòe mờ hoặc mất đi do quá trình tô màu, hầu hết
đường nét trên hình tượng “Phật bà Quan Âm” đều nhẹ nhàng, nhường chỗ cho các
mảng màu trong trẻo nổi bật trong không gian. Đường nét trong tranh mảnh nhỏ, khá
tinh tế, nhiều khi chen lẫn trong màu sắc của y phục nhân vật. Nét đậm và rõ nhất trên
các họa tiết hoa lá cách điệu, các áng mây tròn, phối hợp với cách tô vờn màu tạo hiệu
quả rung và sự nhấn mạnh cần thiết. Bức tranh đem lại cảm giác gần giống với thưởng
thức nghệ thuật điêu khắc dân gian, trên mặt phẳng người ta thấy có chiều sâu, uyển
chuyển và mềm mại.
Bức tranh có gam màu nóng làm chủ đạo, trên nền không gian sáng, hình tượng
nhân vật đậm đà, nổi bật mạnh mẽ, trọng tâm được chú trọng, tôn nghiêm. Trong tranh
sử dụng các màu tươi nguyên của phẩm nhuộm, màu đen của nét, màu trắng hồng của
7
da, màu vàng của không gian và họa tiết trên trang phục. Sự tượng trưng, ước lệ về
cách phối màu, dùng màu, thoát li bản chất của cấu trúc tự nhiên sự vật, hình tượng
“Phật bà Quan Âm” với cặp màu tương phản đỏ- lục điểm xuyết sắc xanh đen thu hút
thị giác. Tranh vẽ trên giấy, tô màu theo lối “Cản màu”2 truyền thống đã tạo được
chiều sâu bởi sự tinh tế của các độ đậm nhạt. Cùng là một màu sắc, nhưng sắc độ
chuyển dần từ đậm sang nhạt sau đó nhẹ nhàng tan vào trong nền giấy, khiến những
khối hình trong tranh Hàng Trống mang thêm tính chuyển động, có sáng có tối, chuyển
đổi ý nhị...
Trên tinh thần của gam màu ngũ sắc, thể hiện tính tượng trưng của triết lý phương
Đông cùng với sự kết hợp giữa kỹ thuật vẽ và in trong tranh Hàng Trống, sự nhất quán
giữa hình và màu, giữa nội dung và hình thức diễn tả, đã tạo ra bức tranh màu sắc hài
2 Kỹ thuật “cản màu” (hay “vờn màu”) là tinh hoa của tranh Hàng Trống. Nghệ nhân sử dụng bút lông mềm rộng bản, một nửa ngọn bút chấm màu, còn nửa ngọn bút kia chấm nước, viền dọc theo đường in sẵn, khiến cho nét bút ngay từ lúc đặt xuống tới lúc lướt trên mặt giấy đều có hai sắc độ đậm nhạt khác nhau, tạo thêm chiều sâu cho bức tranh.
8
hòa và uyển chuyển, những sắc độ tươi sáng, tác động lẫn nhau, tạo sự hòa trộn màu
trong thị giác và gây ấn tượng mạnh.
Bức tranh thờ “Phật Bà Quan Âm” thể hiện văn hóa tâm linh, tín ngưỡng dân
gian, phản ánh sự khát khao hướng thiện cũng như quan điểm đạo đức của người Việt.
Tranh Hàng Trống nói chung đã góp phần rất lớn tạo nên nét độc đáo, về sự đa dạng,
phong phú, vẻ đẹp rực rỡ của các dòng tranh dân gian Việt Nam. Mặc dù có những hạn
chế nhất định – do hoàn cảnh lịch sử, môi trường địa lý và đặc điểm tâm lý thị dân,
nhưng dòng tranh Hàng Trống luôn chiếm vị thế quan trọng trong kho tàng văn hóa
nghệ thuật dân tộc.
.