HIỆU QUẢ GIÁO DỤC VĂN HÓA HỌC ĐƯỜNG CHO SINH … AN DAY DU.pdf · LỜI CAM ĐOAN...

205
BGIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HC VIN CHÍNH TRQUC GIA HCHÍ MINH HC VIN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYN TRN THTÙNG LÂM HIU QUGIÁO DỤC VĂN HÓA HỌC ĐƯỜNG CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HC HÀ NI HIN NAY (QUA KHO SÁT MT STRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀO TẠO CÁC NGÀNH KTHUT) LUN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HC HÀ NI 2017

Transcript of HIỆU QUẢ GIÁO DỤC VĂN HÓA HỌC ĐƯỜNG CHO SINH … AN DAY DU.pdf · LỜI CAM ĐOAN...

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC

GIA HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

TRẦN THỊ TÙNG LÂM

HIỆU QUẢ GIÁO DỤC VĂN HÓA HỌC ĐƯỜNG

CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC

Ở HÀ NỘI HIỆN NAY

(QUA KHẢO SÁT MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀO TẠO CÁC NGÀNH KỸ THUẬT)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI 2017

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC

GIA HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

TRẦN THỊ TÙNG LÂM

HIỆU QUẢ GIÁO DỤC VĂN HÓA HỌC ĐƯỜNG

CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC

Ở HÀ NỘI HIỆN NAY

(QUA KHẢO SÁT MỘT SỐ TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀO TẠO CÁC NGÀNH KỸ THUẬT)

Chuyên ngành : Chính trị học

Mã số : 62 31 02 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

1. PGS. TS NGUYỄN VŨ TIẾN

2. TS. NGUYỄN THỊ HỒNG

HÀ NỘI 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận án

tiến sĩ “Hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên các trường

đại học ở Hà Nội hiện nay (qua khảo sát một số trường đại học đào tạo

các ngành kỹ thuật)” là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các

đề tài khác trong cùng lĩnh vực.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Tác giả luận án

Trần Thị Tùng Lâm

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1

Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ

TÀI ......................................................................................................................... 7

1.1. Các công trình nghiên cứu về văn hóa học đường và giáo dục văn hóa học

đường ...................................................................................................................... 7

1.2. Nghiên cứu về hiệu quả và hiệu quả giáo dục văn hoá học đường ............... 25

1.3. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu ...................................................... 30

Chƣơng 2. HIỆU QUẢ GIÁO DỤC VĂN HÓA HỌC ĐƢỜNG CHO SINH VIÊN

ĐẠI HỌC - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ........................................................... 35

2.1. Văn hóa học đường và giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên đại học . 35

2.2. Hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên các trường đại học ..... 48

2.3. Những yếu tố chi phối đến hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho sinh

viên ....................................................................................................................... 67

Chƣơng 3. THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ GIÁO DỤC VĂN HÓA HỌC ĐƢỜNG

CHO SINH VIÊN QUA KHẢO SÁT MỘT SỐ TRƢỜNG ĐẠI HỌC ĐÀO TẠO

CÁC NGÀNH KỸ THUẬT Ở HÀ NỘI ................................................................ 78

3.1. Thực trạng giáo dục văn hóa học đường trong các trường đại học đào tạo các

ngành kỹ thuật ở Hà Nội ...................................................................................... 78

3.2. Hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên trong các trường đại

học đào tạo các ngành kỹ thuật ở Hà Nội ............................................................ 94

3.3. Đánh giá chung về hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên và

những vấn đề đặt ra ............................................................................................ 116

Chƣơng 4. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO

DỤC VĂN HÓA HỌC ĐƢỜNG CHO SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC Ở

HÀ NỘI HIỆN NAY ........................................................................................... 128

4.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên 128

4.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên hiện

nay ...................................................................................................................... 133

KẾT LUẬN ........................................................................................................ 156

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 159

CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ ................................ 169

PHỤ LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Cán bộ nhân viên : CBNV

Chủ nghĩa xã hội : CNXH

Giảng viên : GV

Giáo dục văn hóa học đường : GDVHHĐ

Hiệu quả giáo dục văn hóa học đường : HQGDVHHĐ

Sinh viên : SV

Văn hóa học đường : VHHĐ

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 1: Cách tiếp cận khác nhau về văn hóa ......................................................... 9

Biểu đồ 3.2.1: Tỷ lệ % sắp xếp các tiêu chí mà sinh viên muốn phấn đấu đạt

được thể hiện HQGDVHHĐ từ tiêu chí tinh thần ................................................... 99

Biểu đồ 3.2.2a: Tỷ lệ % kết quả sinh viên rèn luyện (đức dục) ......................... 106

Biểu đồ 3.2.2b: Kết quả học tập của sinh viên tại trường qua hàng năm (tỷ lệ %

thể hiện HQGDVHHĐ xét từ tiêu chí thực tiễn) ............................................... 110

Biểu đồ 3.3.3: Kết quả học tập của, sinh viên của trường qua hàng năm (tỷ lệ %

thể hiện HQGDVHHĐ xét từ tiêu chí thực tiễn) ............................................... 121

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

được Đại hội Đảng XI (năm 2011) thông qua, đã định hướng phát triển văn hóa:

“Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển

toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân

chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống

xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của

phát triển…” [6; Tr.37].

Văn hóa được coi là một yếu tố quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế,

làm hài hòa, lành mạnh các quan hệ xã hội. Từ các nền văn minh sớm nhất, văn

hóa luôn luôn gắn liền với giáo dục và giáo dục cũng song hành với văn hóa.

Ngày nay, đào luyện lực lượng sinh viên phát triển toàn diện cả đức, trí, thể mỹ

là vun bồi một nguồn lực quý báu của đất nước, là kiến tạo tiền đồ, tương lai của

dân tộc. Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến nhiệm vụ này, đã phải ra 2 nghị

quyết chuyên đề chỉ đạo trong một nhiệm kỳ. Đó là Nghị quyết hội nghị Trung

ương 8 khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW) “Về đổi mới căn bản toàn diện giáo

dục và đào tạo, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập” và Nghị quyết hội

nghị Trung ương 9 khóa XI (Nghị quyết số 33-NQ/TW) “Về Xây dựng và phát

triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững đất

nước”. Hai nghị quyết này đã xác định những nội dung và giải pháp xây dựng

văn hóa con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới. Đây

là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, trụ cột của công cuộc đổi mới ở nước ta

hiện nay. Trách nhiệm đó trước hết thuộc về ngành giáo dục, nhất là giáo dục

bậc đại học. Để thực hiện tốt nhiệm vụ đó, một trong những biện pháp quan

trọng là xây dựng trường đại học thật sự trở thành môi trường văn hóa và làm

những giá trị, chuẩn mực hành vi văn hóa đó thấm sâu và chuyển hóa thành

những phẩm chất và năng lực tốt đẹp trong sinh viên, định hình nên nhân cách

sinh viên phù hợp với mục tiêu giáo dục và đào tạo và đáp ứng được yêu cầu của

xã hội, thực hiện nhiệm vụ xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam

theo Nghị quyết của Đảng.

2

Trên thực tế ở các trường đại học hiện nay, phần lớn sinh viên vẫn giữ

được những giá trị, nét đẹp văn hóa truyền thống như: tôn sư trọng đạo, tích cực,

chủ động, sáng tạo trong học tập; nêu cao ý thức trách nhiệm, rèn luyện phẩm

chất đạo đức, lối sống lành mạnh, dám đấu tranh chống lại những tiêu cực; tin

tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào tương lai của đất nước. Bên cạnh đó, trước

sự tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, sự bùng nổ thông tin qua Internet,

các mạng xã hội; sự du nhập ào ạt các trào lưu văn hóa, quan niệm sống lai căng

cùng với sự chống phá, lôi kéo từ hệ tư tưởng thù địch với những sản phẩm

mang danh văn hóa, một bộ phận thanh niên, trong đó có sinh viên trong các

trường đại học chạy theo lối sống thực dụng, xa lạ với các giá trị văn hóa truyền

thống tốt đẹp, vô tổ chức, vô kỷ luật… không có ý chí vươn lên. Tình trạng tội

phạm và tệ nạn xã hội trong sinh viên có chiều hướng gia tăng về quy mô, phức

tạp về tính chất, gây nhức nhối cho gia đình, nhà trường và xã hội. Nghị quyết

Trung ương 5 khóa VIII chỉ rõ: “Nhiều biểu hiện tiêu cực trong lĩnh vực giáo

dục, đào tạo làm cho xã hội lo lắng như sự suy thoái đạo lý trong quan hệ thầy

trò, bè bạn, môi trường sư phạm xuống cấp; lối sống thiếu lý tưởng, hoài bão, ăn

chơi, nghiện ma túy, tệ nạn xã hội…ở một bộ phận học sinh, sinh viên; việc coi

nhẹ giáo dục đạo đức, thẩm mỹ và coi nhẹ các bộ môn chính trị, khoa học xã hội

và nhân văn” [24, tr.47].

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X tại Đại hội

đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đánh giá: “Chất lượng giáo dục và đào

tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao

vẫn còn hạn chế; chưa chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu của xã hội. Chưa

giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng số lượng, quy mô với nâng cao chất lượng,

giữa dạy chữ và dạy người. Chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học lạc

hậu, đổi mới chậm; cơ cấu giáo dục không hợp lý giữa các lĩnh vực, ngành nghề

đào tạo; chất lượng giáo dục toàn diện giảm sút, chưa đáp ứng được yêu cầu của

sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quản lý nhà nước về giáo dục còn bất

cập. Xu hướng thương mại hoá và sa sút đạo đức trong giáo dục khắc phục còn

chậm, hiệu quả thấp, đang trở thành nỗi bức xúc của xã hội.”[28, tr. 167, 168]

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII đánh giá kết quả thực hiện

nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 và phương hướng, nhiệm

3

vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 – 2020 có đề cập đến vấn đề giáo dục:

“Phát triển nguồn nhân lực và ứng dụng khoa học, công nghệ còn chậm. Chất

lượng giáo dục, đào tạo, nhất là giáo dục đại học và đào tạo nghề cải thiện còn

chậm; thiếu lao động chất lượng cao. Hệ thống giáo dục còn thiếu tính liên

thông, chưa thật hợp lý và thiếu đồng bộ. Công tác phân luồng và hướng nghiệp

còn hạn chế. Đổi mới giáo dục, đào tạo có mặt còn lúng túng. Tình trạng mất cân

đối trong cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo khắc phục còn chậm, công tác

đào tạo chưa gắn chặt chẽ với nhu cầu xã hội. Cơ chế, chính sách có mặt chưa

phù hợp; xã hội hóa còn chậm và gặp nhiều khó khăn, chưa thu hút được nhiều

nguồn lực ngoài nhà nước cho phát triển giáo dục, đào tạo. Cơ sở vật chất vẫn

còn thiếu và lạc hậu. Chất lượng dạy và học ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc

thiểu số còn thấp. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý chưa đáp ứng yêu

cầu.”[32, tr.248- 249]

Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là nhiều trường chỉ tập

trung vào việc dạy tri thức, kỹ năng… mà ít chú trọng giáo dục nhân cách, đạo

đức, lối sống lành mạnh, tích cực cho sinh viên. Kết quả là môi trường học

đường nơi văn hoá đáng được coi trọng lại đang diễn ra thực trạng thiếu văn hoá.

Điều này chứng tỏ kết quả giáo dục văn học đường chưa cao, nhận thức về văn

hóa học đường chưa đúng, giáo dục văn hóa học đường trong các trường đại học

chưa thực sự đạt hiệu quả. Ở Việt Nam hiện nay, giáo dục văn hóa học đường là

một bộ phận của công tác tư tưởng. Định hướng và chuẩn mực của nó phải phù

hợp với lý tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng

Cộng sản Việt Nam, tuân thủ pháp luật của nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Nâng cao hiệu quả giáo dục văn học đường trong trường đại học là điều

kiện để thực hiện tốt mục tiêu giáo dục và đào tạo và nâng cao chất lượng, để

đào tạo ra những sinh viên có đủ đức, đủ tài đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của

sự nghiệp đổi mới và xu thế hội nhập quốc tế nhất là trong điều kiện cuộc cách

mạng công nghiệp 4.0, của thị trường lao động trong kỷ nguyên số nền sản xuất

của con người đạt đỉnh cao của sự thông minh, với các ứng dụng kỹ thuật sáng

tạo không ngừng, với nền tảng công nghệ số, với mạng lưới internet của vạn vật

và trí tuệ nhân tạo… Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn, tác giả chọn: Hiệu

quả giáo dục văn học đường cho sinh viên các trường đại học ở Hà Nội hiện nay

4

(qua khảo sát một số trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật) làm đề tài luận

án tiến sĩ của mình. Kết quả nghiên cứu thành công có thể ứng dụng ở nhiều

trường đại học đào tạo các khối ngành khác nhau, góp thêm một căn cứ lý luận

và thực tiễn vào hệ thống những giải pháp thực hiện đổi mới căn bản toàn diện

giáo dục và đào tạo ở Việt Nam.

2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án

2.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về hiệu quả giáo

dục văn hóa học đường cho sinh viên, xây dựng bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả

giáo dục văn hóa học đường, luận án đánh giá thực trạng hiệu quả giáo dục văn

hóa học đường và đề xuất hệ thống giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục

văn hóa học đường cho sinh viên các trường đại học ở Hà Nội hiện nay.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu, tác giả luận án cần hoàn thành những

nhiệm vụ:

- Tổng quan và có đánh giá, nhận định về tình hình nghiên cứu có liên quan

đến hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên các trường đại học.

- Làm rõ khái niệm, nội dung, biểu hiện đặc trưng của văn hóa học đường

và giáo dục văn hóa học đường trong trường đại học. Xây dựng tiêu chí đánh giá

hiệu quả giáo dục văn học đường cho sinh viên ở các trường đại học.

- Khảo sát thực tế, phân tích thực trạng văn hóa học đường, giáo dục văn

hóa học đường và hiệu quả giáo dục văn học đường của sinh viên các trường đại

học đào tạo các ngành kỹ thuật ở Hà Nội. Phát hiện nguyên nhân và những vấn

đề đặt ra trong giáo dục văn hóa học đường và hiệu quả giáo dục văn học đường

cho sinh viên các trường đại học ở Hà Nội.

- Xây dựng hệ thống giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục văn hóa

học đường cho sinh viên các trường đại học ở Hà Nội hiện nay.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận án tập trung nghiên cứu hiệu quả giáo dục văn học đường cho sinh

viên các trường đại học ở Hà Nội hiện nay (Khảo sát một số trường đào tạo các

kỹ thuật)

5

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận án tập trung nghiên cứu hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho

sinh viên các trường đại học ở Hà Nội qua khảo sát các trường: Đại học Công

nghiệp Hà Nội, Đại học Thành Đô, Đại học Giao thông vận tải, Đại học Xây

dựng, Đại học Kiến trúc Hà Nội. Chủ thể giáo dục VHHĐ cho sinh viên là các

trường đại học, các thiết chế văn hóa xã hội, gia đình, bạn bè… Luận án giới hạn

phạm vi chủ thể giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên là các trường đại học

đào tạo các ngành kỹ thuật. Chọn trường đại học Xây dựng Hà Nội, đại học Giao

thông vận tải là các trường tốp đầu trong đào tạo các ngành kỹ thuật (cả lý thuyết

và thực hành), trường đại học Kiến trúc Hà nội là trường đại học đào tạo kỹ thuật

liên quan đến nghệ thuật, trường đại Công nghiệp Hà nội là trường đào tạo đa

ngành, đa cấp và đào tạo các ngành kỹ thuật theo hướng ứng dụng và thực hành,

trường đại học Thành đô là trường dân lập.

Thời gian khảo sát thực trạng hiệu quả giáo dục văn hóa học đường từ 2012

đến nay.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận

Luận án được thực hiện trên cơ sở những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa

Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản

Việt Nam về phát triển văn hóa, con người trong điều kiện hiện nay, Luật Giáo

dục đại học (2012), Đề án đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng,

chủ nghĩa duy vật lịch sử và sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa

học nói chung; các phương pháp của những bộ môn liên quan như Văn hóa

học, Quản lý văn hóa - Tư tưởng, Tâm lý học, Giáo dục học và Xã hội học…

Các phương pháp chính cụ thể là:

- Phương pháp thu thập thông tin, phân tích tài liệu từ các tác phẩm kinh

điển, nghị quyết, chỉ thị, quy chế, quy định và các công trình khoa học… cập

nhật thông tin chuyên ngành từ các tạp chí chuyên ngành và các phương tiện

truyền thông khác.

- Phương pháp điều tra bằng trưng cầu ý kiến các cán bộ quản lý, các cán

bộ Đoàn thanh niên trong nhà trường, đại diện sinh viên trong các kỳ giao ban.

Điều tra xã hội học bằng bảng hỏi (anket).

6

- Phương pháp xử lý thông tin và trình bày kết quả nghiên cứu: phân loại

thông tin, hệ thống hóa thông tin, diễn giải, quy nạp, phương pháp phân tích và

tổng hợp, lôgic và lịch sử; phương pháp so sánh; chứng minh, khái quát hóa,

tổng kết kinh nghiệm và phương pháp chuyên gia…

5. Đóng góp mới của luận án

- Hệ thống hóa các tri thức về văn hóa học đường, chỉ ra rõ hơn vai trò và

nội dung của văn hóa học đường.

- Nhận diện những giá trị cốt lõi của văn hóa học đường trong trường đại

học so sánh với thực tiễn từ đó có các kết luận làm sơ sở để xây dựng phương

hướng, giải pháp để nâng cao hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho sinh

viên. Rút ra những bài học có tính lý luận về giáo dục văn hóa học đường cho

sinh viên đại học, qua đó làm sâu sắc hơn, sinh động hơn công tác tư tưởng trong

trường đại học.

- Xây dựng hệ thống giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục văn hóa học

đường cho sinh viên trong các trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật ở Hà

Nội hiện nay. Những giải pháp đó có thể mở rộng sử dụng cho các trường đại

học khác

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

- Luận án làm rõ cơ sở lý luận về vai trò của văn học đường cũng như sự

cần thiết phải nâng cao hiệu quả giáo dục văn hóa học đường, nhằm góp phần

nâng cao chất lượng đào tạo của các trường đại học, thực hiện mục tiêu giáo dục.

- Đề xuất một số phương hướng và những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao

hiệu quả giáo dục văn học đường cho sinh viên của các trường đại học.

- Luận án có thể làm tài liệu tham khảo và vận dụng trong nghiên cứu

và giảng dạy cho chuyên ngành Công tác tư tưởng nói riêng, ngành Chính trị học

nói chung và các ngành có liên quan như Triết học, CNXH khoa học, Văn hóa

học, Quản lý văn hóa, Quản lý giáo dục… ở hệ thống các học viện, các trường

đại học và cao đẳng của Việt Nam.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội

dung của luận án được kết cấu thành 4 chương 11 tiết.

7

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

Xuất phát từ vai trò của văn hóa học đường và thực trạng xây dựng văn hóa

học đường ở Việt Nam, trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu

có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến đề tài. Nâng cao hiệu quả giáo dục

VHHĐ đã thực sự trở thành vấn đề cấp thiết cả trên phương diện lý luận và thực

tiễn, nhận được sự quan tâm đặc biệt của các nhà quản lý, các nhà khoa học.

Trong phạm vi bao quát của chúng tôi, có thể khái quát một số công trình tiếp

cận đề tài theo các hướng:

1.1. Các công trình nghiên cứu về văn hóa học đường và giáo dục

văn hóa học đường

1.1.1. Những nghiên cứu về văn hoá và văn hóa học đường

Thuật ngữ “văn hóa” xuất hiện rất sớm trong ngôn ngữ loài người. Cùng

với sự phát triển của lịch sử nhân loại, nhận thức của con người về văn hóa, khái

niệm văn hóa cũng không ngừng thay đổi và luôn được bổ sung những nội dung

mới, những cách nhìn mới.

Chưa bao giờ vấn đề văn hóa lại giành được sự quan tâm như hiện nay cả

về phương diện lý luận và thực tiễn. Điều này càng chứng tỏ vai trò quan trọng

của văn hóa đối với sự phát triển của xã hội. Khái niệm “văn hóa” (Cultura) có

nguồn gốc từ phương Tây, theo tiếng Latinh có nghĩa là: cày, cấy, vun trồng, làm

ruộng, chăm bón, cải thiện, gìn giữ trong sản xuất nông nghiệp. Xét theo nguồn

gốc thuật ngữ, văn hóa là khái niệm gắn với lao động sản xuất, một hoạt động

sáng tạo mang bản chất người nhất. Về sau thuật ngữ văn hóa được bổ sung thêm

những nghĩa mới trừu tượng hơn, nói về tính có học vấn, tính có giáo dục, sự mở

mang trí tuệ của con người.

Chủ nghĩa nhân văn thời Phục hưng đã đi tìm nội dung tích cực và bổ sung

những nhận thức mới mẻ về văn hóa. Thời kỳ này được xem như thời kỳ phát

hiện lại con người. Bởi vậy, “văn hóa” được nhìn nhận như lĩnh vực tồn tại chân

chính của con người, lĩnh vực “tính người” thật sự đối lập với lĩnh vực “tính tự

8

nhiên”, “tính động vật”. Văn hóa được xem như sự phát triển của con người phù

hợp với bản chất của nó.

Từ nguyên nghĩa của văn là xăm thân, và nghĩa gốc của văn hóa là nét xăm

mình mà qua đó người khác nhìn vào để nhận ra mình Theo cách triết tự Hán

Việt (bộ Từ Hải năm 1989), văn có nghĩa là “vẻ đẹp” (= có giá trị), hóa là “trở

thành”, là “giáo dục”. Như vậy, văn hóa có nghĩa là trở thành đẹp, giáo dục đẹp,

thành có giá trị. Sau này, văn hóa thường được dùng với nghĩa: cái chứa cái đẹp,

chứa các giá trị, là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con người.

Theo quan điểm của C. Mác, văn hóa gắn liền với sức sáng tạo và năng lực

bản chất của con người. Sự sáng tạo đó bao giờ cũng bắt đầu từ lao động. Lao

động sáng tạo ra con người và xã hội loài người, làm cho con người ngày càng

trở thành thật sự người. Vì vậy, văn hóa là năng lực tạo nên sáng tạo, là sự phát

triển những năng lực bản chất của con người. V.I. Lênin khi bàn về văn hóa cho

rằng, nó là tổng thể các dạng hoạt động sáng tạo của con người và tất cả giá trị

vật chất, tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử của chính

mình. Theo đó, có thể hiểu văn hóa là “thiên nhiên thứ hai” được “nhân hóa” qua

thực tiễn của con người [36, tr.27, 90].

Văn hóa là toàn bộ những giá trị do con người sáng tạo ra trong quá trình

lịch sử bằng lao động của mình trên cả hai lĩnh vực sản xuất vật chất và sản xuất

tinh thần. Theo nghĩa này, tại “Mục đọc sách” viết xen tập “Nhật ký trong tù”

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã định nghĩa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của

cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức,

pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt

hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo

và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp mọi phương thức sinh

hoạt cùng sự biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với

những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [82, tr. 431]

F.Gonzles quan niệm văn hóa bao gồm các giá trị, quan niệm, thái độ, hành

vi và các mối quan hệ tạo nên ý nghĩa, niềm tin và sự thống nhất của một nhóm

người [138].

Tiếp cận văn hóa dưới góc độ tổ chức, Ehlers (2009) tổng hợp các tác giả

và cách tiếp cận văn hóa.

9

Tác giả Cách tiếp cận Các yếu tố văn hóa

Gerent

Hofstede

(1991)

Văn hóa là quy ước về tinh thần hỗ trợ

mọi người thực hiện thuận lợi các hoạt

động thông qua biểu hiện, nhân cách, lễ

nghi và giá trị.

Biểu hiện, hình mẫu, lễ

nghi, giá trị.

Edgar

Schein

(1992)

Văn hóa là một lại quy ước cơ bản do

một nhóm người đưa ra để giải quyết

các vấn đề thích ứng với bên ngoài và

hòa hợp với bên trong.

Giá trị, sự việc hữu hình,

quy ước.

Johannes

Rsegg

(2002)

Văn hóa có thể so sánh với các quy luật

ngữ pháp và ngữ nghĩa trong một hệ

thống quy ước của một nhóm người.

Quy tắc và giá trị, quan

điểm và thái độ, hiện

thực và huyền thoại, cách

nghĩ, thói quen, ngôn

ngữ, mong đợi của tập

thể.

Gareth

Mogan

(2002)

Văn hóa là một hiện tượng của tập thể

và xã hội liên quan đến các ý tưởng, giá

trị và ảnh hưởng đến hoạt động của

một nhóm người mà họ không nhận

thấy rõ.

Giá trị, kiến thức, niềm

tin, chuẩn mực, lễ nghi

Bảng 1. Cách tiếp cận khác nhau về văn hóa [137, tr.343-363]

Nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm xuất phát từ lý thuyết hệ thống,

trình bày mô hình văn hóa gồm ba thành tố cơ bản:

Văn hóa nhận thức: Mỗi nền văn hóa đều là tài sản của một cộng đồng

người nhất định - một chủ thể văn hóa. Trong quá trình tồn tại và phát triển, cộng

đồng người - chủ thể văn hóa đó luôn có nhu cầu tìm hiểu, tích lũy được một

lượng kinh nghiệm và tri thức phong phú về vũ trụ và bản thân con người - đó

chính là văn hóa nhận thức.

Văn hóa tổ chức: Là những giá trị văn hóa tổ chức của cộng đồng như văn

hóa tổ chức đời sống tập thể (những vấn đề liên quan đến tổ chức sản xuất trong

một quy mô rộng lớn như tổ chức nông thôn, đô thị, quốc gia) và văn hóa tổ

chức đời sống cá nhân (những vấn đề liên quan đến đời sống của mỗi con người

như tín ngưỡng, phong tục, tập quán, đạo đức, văn hóa giao tiếp, nghệ thuật...)

10

Văn hóa ứng xử (đối với tự nhiên và đối với xã hội): Cộng đồng người -

chủ thể văn hóa - tồn tại trong quan hệ với hai loại môi trường - môi trường tự

nhiên (thiên nhiên, khí hậu...v.v) và môi trường xã hội (hiểu ở đây là các xã hội,

dân tộc, quốc gia). Do đó có văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên và văn hóa

ứng xử với môi trường xã hội [107, tr.28-29].

Tổng giám đốc UNESCO Federico Mayor khái quát khái niệm văn hóa,

cho rằng: “Văn hóa là tổng số sống động các hoạt động sáng tạo trong quá khứ

và hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ

thống các giá trị, truyền thống và thị hiếu những yếu tố xác định đặc tính riêng

của mỗi dân tộc” (Tạp chí Người đưa tin UNESCO, Tháng 11-1989, tr. 5)

Tổng hợp các định nghĩa trên, cho thấy văn hóa bao gồm các nội dung sau:

- Văn hóa là hệ thống giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra.

- Văn hóa là hoạt động của con người, yếu tố quyết định sự hình thành và

phát triển của văn hóa.

- Văn hóa là sự thể hiện trình độ phát triển và đặc tính riêng của mỗi cộng

đồng người, mỗi dân tộc.

Văn hóa là sản phẩm của hoạt động người, là kết quả sáng tạo ra của nhiều

thế hệ nhằm thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần không ngừng tăng lên

của con người. Văn hóa bao gồm các giá trị văn hóa và hoạt động sáng tạo ra

những giá trị đó. Khi tạo ra thế giới văn hóa, con người không chỉ làm biến đổi

những điều kiện khách quan, mà còn làm biến đổi chính bản thân con người,

phát triển những năng lực tiềm tàng trong bản thân mình. Không chỉ có vậy, con

người còn có khả năng tự đánh giá trình độ phát triển của bản thân mình thông

qua các sản phẩm do chính mình tạo ra. Bởi vì trong quá trình hoạt động con

người đã đối tượng hóa bản thân mình vào các giá trị ấy. Mỗi giá trị văn hóa đều

hàm chứa trong bản thân nó năng lực trí tuệ, tinh thần, cảm xúc, những lực lượng

vật chất nhất định.

Văn hóa là khái niệm phức tạp, cách nhìn nhận về cấu trúc của văn hóa

cũng phong phú và đa dạng. Từ hướng tiếp cận của triết học, xem văn hóa như

cái được sinh ra từ sự tồn tại của con người trong hoạt động thực tiễn, con người

là chủ thể hoạt động và điểm khởi đầu của văn hóa, nhà triết học M.S. Kagan

[63, tr.188-208] đã mô tả cấu trúc của văn hóa như “vòng xoắn chập ba” (3 thành

11

tố) gồm có: hoạt động mang tính vật thể của con người là cơ sở của văn hóa; sự

giao tiếp của con người diễn ra ở bình diện không gian văn hóa và thời gian văn

hóa xã hội và sự sáng tạo nghệ thuật, một phương thức để nhân đôi đời sống

hiện thực của con người, tạo nên một đời sống ảo và qua “ảo” để hiểu hiện thực

sâu sắc hơn.

Cũng có thể xem xét văn hóa với cấu trúc gồm văn hóa sinh hoạt vật chất,

văn hóa sinh hoạt tinh thần. Hoặc xem xét dưới góc độ văn hóa sản xuất, văn hóa

tiêu dùng. Văn hóa nếu tiếp cận từ những lĩnh vực cụ thể, sẽ có văn hóa doanh

nghiệp, văn hóa đạo đức, văn hóa thẩm mỹ, văn hóa nghệ thuật, văn hóa công sở,

văn hóa trang phục, văn hóa học đường, văn hóa giao thông,… Dù được diễn đạt

theo cách nào nó cũng có nội dung chung: văn hóa là sự phát triển những năng

lực bản chất của con người hướng tới các giá trị nhân văn. Mỗi một hình thức

cộng đồng người, cộng đồng xã hội có một mô thức văn hóa riêng. Trường đại

học là một thiết chế xã hội, vì vậy việc hình thành văn hóa riêng để góp phần

thực hiện mục tiêu đào tạo, sứ mệnh của mình là một tất yếu khách quan.

Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn quan tâm đến vấn đề văn hóa. Điều này

thể hiện trong mỗi kỳ đại hội đều có phần xác định đường hướng phát triển văn

hóa. Thậm chí Đảng còn ra cả một Nghị quyết Trung ương về xây dựng nền văn

hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bàn sắc dân tộc. Ở đó nhấn mạnh: “Văn hóa là

nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát

triển kinh tế - xã hội” [24, tr 55]. Nghị quyết tập trung vào những lĩnh vực lớn:

tư tưởng, đạo đức, lối sống, phong tục tập quán, giáo dục, khoa học, văn học

nghệ thuật, thông tin đại chúng, giao lưu văn hóa với thế giới, các thể chế và

thiết chế văn hóa… và khái quát: “Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng nghìn

năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng

đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều

nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã

hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang

của dân tộc”.[24, tr 40].

Sau hơn 15 năm, từ năm 1998 đến năm 2014, nhận thức về văn hóa và vai

trò của văn hóa trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã phát

12

triển thêm một bước dài. Trong Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI, Đảng Cộng

sản Việt Nam đã đưa ra 5 quan điểm chỉ đạo, trong đó có 2 quan điểm phát triển,

bổ sung rất sâu sắc. Đây là bước phát triển mới trong tư duy lý luận về văn hóa:

Một là, Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây

dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là

chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ

bản: Yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết cần cù, sáng tạo và quan

điểm: xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia

đình, cộng đồng.

Hai là, Phát triển hài hòa kinh tế và văn hóa, cần chú ý đầy đủ đến yếu tố

văn hóa và con người trong phát triển kinh tế.

Khi nghiên cứu văn hóa, giới chuyên môn đã sử dụng phạm trù “môi

trường văn hóa” để thể hiện mối quan hệ giữa con người và văn hóa.

Trong cuốn “Cơ sở lý luận văn hóa Mác - Lênin” (1981, Nxb. Văn hóa,

tr.75) các tác giả quan niệm: “Môi trường văn hóa là một tổng thể ổn định

những yếu tố vật thể và nhân cách, nhờ đó các cá thể tác động lẫn nhau.

Chúng ảnh hưởng tới hoạt động khai thác và sáng tạo giá trị văn hóa, tới nhu

cầu tinh thần, hứng thú và định hướng giá trị của họ. Môi trường văn hóa

không chỉ là tổng hợp những yếu tố văn hóa vật thể mà còn có những con

người hiện diện văn hóa”.

Huỳnh Khái Vinh trong tác phẩm “Những vấn đề văn hoá Việt Nam đương

đại” nhấn mạnh: “Với tính chất là tổng thể (các hoạt động và sinh hoạt của con

người và các giá trị vật chất tinh thần cũng như điều kiện và cơ chế vận hành các

hoạt động và giá trị vật chất ấy), môi trường văn hóa luôn luôn can thiệp và quy

định các hoạt động sống, cách thức sống và cả lẽ sống của con người. Cái cốt lõi

tạo nên khuôn mẫu và chiều hướng vận động của môi trường văn hóa là chuẩn

mực giá trị xã hội” [128, tr. 382]

Từ góc nhìn giá trị học, tác giả Đỗ Huy trong “Xây dựng môi trường văn

hóa ở nước ta hiện nay - Từ góc nhìn giá trị học” nhấn mạnh vai trò của con

người khi đưa ra định nghĩa: “Môi trường văn hóa chính là sự vận động của các

quan hệ của con người trong các quá trình sáng tạo, tái tạo, đánh giá, lưu giữ và

hưởng thụ các sản phẩm vật chất và tinh thần của mình” [59, tr. 35]

13

Thủ tướng chính phủ ban hành Quyết định 129 ngày 2/8/2007 về Quy chế

văn hóa công sở tại các cơ quan nhà nước. Quyết định này có thể được xem như

căn cứ xây dựng và thực hiện VHHĐ như một loại hình văn hoá cộng đồng cần

được đặc biệt quan tâm.

Thuật ngữ VHHĐ hay văn hóa trường học bắt đầu xuất hiện tại các nước

nói tiếng Anh vào những năm 1990. Một số nước như Mỹ, Úc đã có trung tâm

nghiên cứu, khảo sát thực tiễn và đánh giá vấn đề này. Từ điển Tiếng Anh định

nghĩa văn hóa trường học : school culture can be defined as the guiding beliefs

and values evident in the way a school operates (Văn hóa trường học có thể

được định nghĩa là niềm tin hướng dẫn do những giá trị rõ ràng trong cách một

trường hoạt động) hay “school culture” can be used to encompass all the

attitudes, expected behavior and values that impact how the school operates (Văn

hóa trường học có thể được sử dụng bao gồm tất cả những thái độ, hành vi

mong đợi và những giá trị tác động đến cách hoạt động của trường). Dù có

nhiều ý kiến khác nhau nhưng đều thống nhất mỗi trường học ngoài là tấm

gương phản chiếu những giá trị văn hóa, sự phát triển chung của cộng đồng đều

có những nét văn hóa riêng độc đáo tác động đến hoạt động của nhà trường .

Nghiên cứu của GS. Peter Smith Đại học Sunderlans cho thấy VHHĐ ảnh

hưởng vô cùng to lớn đối với chất lượng và hiệu quả hoạt động của một nhà

trường. Các lý do cần phải nuôi dưỡng vun trồng VHHĐ tích cực, lành mạnh có

thể tóm tắt như sau:

-Sự phát triển của học sinh chịu ảnh hưởng rất lớn của môi trường văn hóa -

xã hội mà họ lớn lên

- Văn hóa học đường lành mạnh giảm bớt sự không hài lòng của giáo viên

và giúp giảm thiểu hành vi cử chỉ không lịch sự của học sinh

- Văn hóa học đường tạo ra môi trường thuận lợi hỗ trợ việc dạy và học,

khuyến khích GV và học sinh nỗ lực trong rèn luyện, học tập đạt thành tích

mong đợi...

Tổng hợp các quan niệm về VHHĐ của các học giả nước ngoài đã làm nổi

bật vị trí, vai trò của VHHĐ đối với sự duy trì và phát triển của trường học. Họ

đều khẳng định văn hóa là tài sản của tổ chức trường học, nó luôn chi phối trực

14

tiếp đến sự phát triển và tiến bộ của nhà trường cũng như nét đặc sắc riêng của

từng trường.

Ở Việt nam thuật ngữ VHHĐ được sử dụng chưa lâu nhưng nội dung của

VHHĐ trong các nhà trường ở Việt Nam từ xa xưa đã có và trở thành các truyền

thống quý báu của dân tộc ta như: tôn sư trọng đạo, kính thầy yêu bạn, nhất tự vi

sư bán tự vi sư, kính trên nhường dưới,... Nhiều thập kỷ qua, các nhà trường ở tất

cả các cấp học đều liên tục cố gắng phấn đấu để “thầy ra thầy, trò ra trò, trường

ra trường” với mục tiêu giáo dục nhân cách cho học sinh, sinh viên, xây dựng

trường học lành mạnh. Văn hóa học đường trở thành mối quan tâm đặc biệt của

các nhà lý luận, và tùy góc độ tiếp cận, VHHĐ được thể hiện với những nội

dung khác nhau:

Phạm Thị Kim Anh trong bài viết Văn hóa học đường – một góc nhìn từ

thực tiễn đăng trên tạp chí Dạy và học ngày nay số 10-2007 có một cách nhìn

và cách tiếp cận độc đáo về VHHĐ. Theo tác giả, VHHĐ bao gồm 4 yếu tố

cụ thể là văn hóa ứng xử, văn hóa dạy, văn hóa học, văn hóa thi cử.

Trên tạp chí Tâm lý học số 10 (10 - 2008) tác giả Đào Thị Oanh cho rằng:

VHHĐ là giá trị cần có của một nhà trường. Văn hóa học đường là một cấu trúc

gồm 3 thành tố có sự tác động ảnh hưởng lẫn nhau là:

- Hệ thống thái độ và niềm tin của những cá nhân trong nhà trường.

- Hệ thống các chuẩn mực văn hoá của nhà trường.

- Hệ thống các mối quan hệ qua lại giữa các cá nhân, thành viên bên trong

trường với nhau, giữa các cá nhân của trường với cộng đồng

Trên mục “Bàn tròn văn hóa”, báo Lao động số 117 ra ngày 26 tháng 5 năm

2008, các tác giả khẳng định “Xây dựng văn hóa học đường có ý nghĩa quyết

định chất lượng đào tạo của các trường đại học”, VHHĐ được nhìn nhận trên 2

khía cạnh là khung cảnh sư phạm bao gồm vị trí xây dựng trường học, cơ sở vật

chất… và môi trường sư phạm với nội hàm phong cách giao tiếp trong nhà

trường giữa thầy với trò, thầy với thầy, trò với trò.

Trên tạp chí Tuyên giáo tháng 11-2009, nhà nghiên cứu Phạm Minh Hạc

cho rằng VHHĐ Việt Nam cần đảm bảo 3 yếu tố: cơ sở vật chất đảm bảo, môi

trường giáo dục tốt và văn hóa ứng xử, giao tiếp chuẩn mực (TC Tuyên giáo,

tháng 11 năm 2009, tr.41). Tác giả Phạm Ngọc Trung sau khi khảo cứu các quan

15

niệm đã được xã hội hóa và đúc rút qua thực tiễn giảng dạy, định nghĩa: “Văn

hoá học đường là hệ thống những giá trị vật chất và tinh thần được hình thành và

tích luỹ trong lịch sử bao gồm những suy nghĩ, quan niệm thói quen, tập quán, tư

tưởng, luật pháp... nhằm thiết lập mối quan hệ giữa thầy, trò và các thành viên có

liên quan để việc dạy và học đạt kết quả cao” [116, tr 51].

Phạm Văn Khanh quan niệm trường học là một tổ chức, vì vậy xem văn

hóa học đường là văn hóa tổ chức - một tổ chức sau khi được hình thành, tồn tại

và phát triển thì tự khắc nó sẽ dần dần hình thành nên những nề nếp, chuẩn mực,

lễ nghi, niềm tin và giá trị. Đó là sợi dây vô hình gắn kết các thành viên trong tổ

chức lại với nhau cùng phấn đấu cho những giá trị chung của tổ chức. Đó là nghi

lễ, đồng phục, không khí học tập trật tự, sinh hoạt nề nếp, đi học đúng giờ, tôn

trọng luật giao thông…Có thể nói, văn hóa tổ chức là yếu tố cơ bản trong văn

hóa học đường, nó hiện diện trong khắp các hoạt động của nhà trường. [Bài phát

biểu tại hội thảo khoa học toàn quốc “Tâm lý học và vấn đề cải thiện môi trường

giáo dục hiện nay” tại Cần Thơ ngày 13-7-2013]

Cùng xuất phát từ góc độ tổ chức, Phạm Thị Hường đưa ra khái niệm văn

hóa nhà trường (VHHĐ): “Văn hoá nhà trường là hệ thống niềm tin, giá trị,

chuẩn mực, thói quen và truyền thống hình thành trong quá trình phát triển của

nhà trường, được các thành viên trong nhà trường thừa nhận, làm theo và được

thể hiện trong các hình thái vật chất và tinh thần, từ đó tạo nên bản sắc riêng cho

mỗi tổ chức sư phạm”.

Trịnh Ngọc Toàn quan niệm văn hóa nhà trường (VHHĐ) là một tập hợp

các giá trị, niềm tin, hiểu biết, chuẩn mực cơ bản được các thành viên trong nhà

trường cùng chia sẻ và tạo nên bản sắc của nhà trường đó. Căn cứ theo hình thức

biểu hiện thì văn hóa nhà trường gồm phần nổi có thể nhìn thấy như: không gian

cảnh quan nhà trường, lôgô, khẩu hiệu, hành vi giao tiếp... và phần chìm không

quan sát trực tiếp được như: niềm tin, cảm xúc, thái độ...

Về góc độ tổ chức, văn hóa nhà trường được coi như một mẫu thức cơ bản,

tạo ra một môi trường quản lý ổn định, giúp cho nhà trường thích nghi với môi

trường bên ngoài, tạo ra sự hoà hợp môi trường bên trong. Một tổ chức có nền

văn hóa mạnh sẽ hội tụ được cái tốt, cái đẹp cho xã hội. văn hóa nhà trường sẽ

giúp cho nhà trường thực sự trở thành một trung tâm văn hóa giáo dục, là nơi hội

16

tụ sức mạnh của trí tuệ và lòng nhân ái trong xã hội, góp phần quan trọng tạo nên

sản phẩm giáo dục toàn diện

Nhìn chung các tác giả, các nhà khoa học dù cách, góc độ tiếp cận khác

nhau nhưng đều thống nhất với nhau: thứ nhất, VHHĐ liên quan đến toàn bộ

hoạt động vật chất, tinh thần của một nhà trường; thứ hai, VHHĐ biểu hiện trước

hết trong tầm nhìn, sứ mạng, triết lý giáo dục, mục tiêu, các giá trị, phong cách

lãnh đạo, quản lý... bầu không khí tâm lý; thứ ba, nó thể hiện thành hệ thống các

chuẩn mực, các giá trị, niềm tin, quy tắc ứng xử... được xem là tốt đẹp và được

mỗi người trong nhà trường chấp nhận; thứ tư, VHHĐ có vai trò quan trọng góp

phần nâng câo chất lượng đào tạo của nhà trường, góp phần tích cực trong quá

trình hoàn thiện, phát triển nhân cách con người theo hướng Chân, Thiện, Mỹ

Nghiên cứu khái niệm VHHĐ còn có các quan niệm môi trường văn hóa

học đường, môi trường sư phạm....

Hồ Sĩ Lộc trong “Xây dựng văn hóa học đường trong một số trường đại

học ở Hà Nội hiện nay” (Đề tài cấp bộ 2011, mã số B.11-20) quan niệm: Môi

trường văn hóa học đường đại học là tổng hòa các mối quan hệ (mang tính văn

hóa) giữa các cá nhân (giảng viên, sinh viên, cán bộ, công nhân viên) và các tổ

chức thành viên (khoa, phòng, ban, viện, trung tâm, lớp học) trong nhà trường

trên cả hai phương diện vật chất và tinh thần trong một thời gian xác định thuộc

phạm vi không gian trường đại học đó nhằm hướng tới mục tiêu đào tạo được

những cá nhân có trình độ chuyên môn vững vàng, có đạo đức nghề nghiệp,

khỏe mạnh về thể chất và phong phú về đời sống tinh thần đáp ứng nhu cầu ngày

càng cao của thị trường lao động và tham gia đóng góp vào sự nghiệp đổi mới

đất nước.

Liên quan đến việc xây dựng văn hóa học đường, Bộ trưởng Bộ Giáo dục

và đào tạo đã ra chỉ thị số 40/CT-BGD&ĐT về việc phát động phong trào thi đua

“Xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực” trong các trường phổ thông

giai đoạn 2008-2013. Bộ Giáo dục và Đào tạo có Kế hoạch số 307/KH-

BGD&ĐT ngày 22/07/2008 nhằm triển khai chỉ thị nói trên. Đây là nội dung văn

hóa học đường trong các trường phổ thông, song nó là cơ sở quan trọng để tiếp

cận nội dung VHHĐ trong hệ thống giáo dục nói chung và các trường đại học

17

nói riêng. Nội dung cụ thể của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân

thiện - học sinh tích cực” gồm:

- Xây dựng trường, lớp xanh, sạch, đẹp, an toàn.

- Dạy và học có hiệu quả, phù hợp với đặc điểm lứa tuổi của học sinh giúp

các em tự tin trong học tập.

- Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh.

- Tổ chức các hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh.

- Học sinh tham gia tìm hiểu, chăm sóc và phát huy giá trị các di tích lịch

sử, văn hóa, cách mạng ở địa phương: Nhận chăm sóc và phát huy giá trị các di

tích lịch sử, văn hóa, cách mạng ở địa phương. Thực hiện lồng ghép với các môn

học để giáo dục truyền thống văn hoá dân tộc, tinh thần cách mạng một cách có

hiệu quả nhất cho tất cả học sinh.

Như vậy, dù còn nhiều ý kiến khác nhau, dù bàn về các cấp độ và phạm vi

khác nhau nhưng các nhà khoa học, các nhà quản lý giáo dục đều thống nhất:

mỗi trường học cần có VHHĐ của mình. Văn hóa học đường là các hệ thống

chuẩn mực, giá trị giúp cán bộ quản lý nhà trường, thầy cô giáo, phụ huynh, học

sinh, sinh viên có cách thức suy nghĩ, tình cảm, hành động tốt đẹp.

Các nhà khoa học không chỉ nghiên cứu về văn hóa học đường mà còn

nghiên cứu về vai trò, thực trạng của văn hóa học đường, nhận thức rõ vai trò

quan trọng của VHHĐ đối với sự phát triển của các trường đại học nói riêng,

giáo dục đào tạo nói chung. Có nhiều hội thảo khoa học, không ít các công trình

đề cập đến vai trò của VHHĐ dưới nhiều góc độ khác nhau nhưng nhìn chung

đều khẳng định vai trò của VHHĐ là yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng

giáo dục, thậm chí được coi là yếu tố quyết định chất lượng trong mục tiêu giáo

dục của nhà trường.

Viện Nghiên cứu sư phạm trong đề tài cơ sở “Văn hóa học đường- yếu tố

quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục” [125] xem VHHĐ là yếu tố quan

trọng để nâng cao chất lượng giáo dục.

Tác giả Trương Lưu trong tác phẩm “Văn hóa đạo đức và tiến bộ xã hội”,

[79] cho rằng: thông qua VHHĐ, sinh viên và thầy giáo nhận ra điểm mạnh và

điểm yếu của chính mình từ đó định hướng và hoàn thiện nhân cách, kỹ năng

cho phù hợp với yêu cầu của xã hội. Phạm Minh Hạc và Hồ Sĩ Quý trong bài

18

viết “Nghiên cứu con người, đối tượng và những hướng chủ yếu”, Niên giám

nghiên cứu số 1 (Nxb. Khoa học xã hội, 2002) cũng cho rằng: xây dựng VHHĐ

tạo điều kiện để đưa tiêu chí chân, thiện, mỹ vào trong trường đại học.

Kinh nghiệm Singapore là một nước có nền giáo dục được xem là toàn

diện và phát triển nhất Đông Nam Á. VHHĐ (văn hóa trường học) ở

Singapore được chú trọng xây dựng. Mỗi trường đều có logo, biểu tượng và

khẩu hiệu hành động rõ ràng. Các vấn đề về nghi thức, trang phục cũng được

quan tâm. Vấn đề hợp tác, xây dựng nhà trường thành tổ chức học tập là một

trong những điểm cốt lõi trong định hình VHHĐ ở quốc gia này. Bên cạnh

trang bị cho học sinh các kiến thức và kỹ năng cần thiết trong chương trình

chính khoá, các trường học của Singapore cũng có rất nhiều hình thức tổ chức

hoạt động ngoại khoá lành mạnh và bổ ích, qua đó xây dựng tinh thần đoàn kết,

hợp tác, thân thiện giữa các học sinh.

Sự thành công của hệ thống giáo dục Phần Lan được xây dựng trên ý tưởng

học ít hiểu nhiều. Các học sinh được học trong một không khí thoải mái và thân

mật. Các trường học ở đây cởi mở, không chịu sự gò ép về chính trị. Với sự kết

hợp này, người Phần Lan tin rằng không có trẻ em nào bị bỏ lại phía sau.

Từ những công trình khoa học đã phân tích dễ dàng nhận thấy có nhiều

cách tiếp cận VHHĐ nên có nhiều định nghĩa khác nhau. Tùy theo mục đích, các

nhà nghiên cứu có thể nhấn mạnh khía cạnh này hay khía cạnh khác. Có ý kiến

khẳng định VHHĐ là tập hợp các chuẩn mực, giá trị và niềm tin, các lễ nghi và

nghi thức, các biểu tượng và truyền thống tạo ra “vẻ bề ngoài” của trường học. Ý

kiến khác cho rằng: VHHĐ là một cấu trúc, một quá trình, là các giá trị và chuẩn

mực dẫn dắt giảng viên và sinh viên đến việc giảng dạy và học tập có hiệu quả.

Khuynh hướng thứ 3 tiếp cận VHHĐ đưa ra quan điểm về sự vận động, khẳng

định văn hóa nhà trường không phải là một thực thể tĩnh. Nó luôn được hình

thành và định hình thông qua các tương tác với người khác và thông qua những

hành động đáp lại trong cuộc sống nói chung. Văn hoá học đường phát triển

ngay khi các thành viên tương tác với nhau, thầy với thầy, trò với trò, nhà trường

với xã hội, cá nhân với cộng đồng. Nó trở thành chỉ dẫn cho hành vi giữa các

thành viên của nhà trường. Theo đó, VHHĐ có các chức năng biểu tượng, chức

năng xây dựng, chức năng hướng dẫn và chức năng gây cảm xúc. Nếu các chức

19

năng ấy của VHHĐ được làm tốt, mỗi thành viên trong các trường học sẽ vừa

thấm nhuần, gìn giữ các giá trị văn hóa truyền thống và những phẩm giá quý báu

của dân tộc: như tinh thần yêu nước, ý thức độc lập dân tộc, tự lực, tự cường,

đoàn kết vì đại nghĩa; tính trung thực, cần cù sáng tạo trong mọi hoạt động; sự

hiếu học và tôn sư trọng đạo…vừa đầy đặn lòng nhân ái, tình cảm vị tha và

khoan dung; tính trung thực, cần cù sáng tạo trong mọi hoạt động; có hành động

và thái độ rõ ràng đối với những hiện tượng phản văn hóa.

Trong môi trường học đường, văn hóa được chia làm 2 nội dung là văn hóa

vật chất biểu hiện qua cơ sở vật chất nhà trường, khuôn viên trường và văn hóa

tinh thần như tinh thần dân chủ, giao tiếp, ứng xử... Như vậy, có thể hiểu VHHĐ

là toàn bộ yếu tố vật chất (giảng đường, phòng thí nghiệm, xưởng thực hành,

không gian, cảnh quan) đảm bảo tính thẩm mỹ, giáo dục, góp phần tạo nên môi

trường và phương tiện giáo dục tốt nhất; nội quy, quy chế của nhà trường phù

hợp với chuẩn mực văn hóa chung của xã hội, phù hợp với nội quy, quy định của

môi trường học đường đảm bảo cho các hoạt động trong trường học diễn ra lành

mạnh, đạt mục tiêu giáo dục là đào tạo những con người toàn diện, có đủ đức,

trí, mỹ, thể, có tri thức và có hoài bão khát vọng vươn lên.

Xây dựng VHHĐ và giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên là một công việc

vô cùng quan trọng góp phần tạo nên những thành công lớn trong sự nghiệp giáo

dục cho các trường đại học. Một số nhà khoa học tuy có đề cập đến xây dựng

môi trường VHHĐ ở nhiều góc độ khác nhau nhưng nhìn chung đó là những vấn

đề mang tính tổng hợp và lý luận, chưa có nhiều công trình thực sự đi sâu vào

nghiên cứu VHHĐ trong trường đại học. Theo đó tiêu chí xây dựng VHHĐ

trong trường đại học tuy có được gợi mở nhưng lại chưa được xem xét một cách

toàn diện với tư cách là một đối tượng nghiên cứu của công trình khoa học.

1.1.2. Những nghiên cứu về giáo dục và giáo dục văn hóa học đường

Giáo dục với tư cách là một ngành khoa học không thể tách rời những

truyền thống giáo dục từng tồn tại trước đó. Trong xã hội, người đi trước, người

có kiến thức, kỹ năng giáo dục thế hệ tiếp theo, người chưa biết những kiến thức

và kỹ năng cần thiết. Mức độ sâu sắc và quảng bác của hiểu biết con người được

bảo tồn và trao truyền ngày càng gia tăng. Sự phát triển văn hóa và sự tiến hóa

của loài người, phụ thuộc vào lề lối trao truyền hiểu biết và kinh nghiệm… Khi

20

các nền văn hóa lan tỏa rộng ra, việc trao truyền kỹ năng giao tiếp, đổi chác,

kiếm ăn, thực hành tôn giáo,… theo phương thức kinh nghiệm giảm đi và việc

giáo dục có tổ chức, theo chương trình, có mục đích trở lên phổ biến. Giáo dục là

một quá trình dạy và học nhằm chuẩn bị những kiến thức và kỹ năng cần thiết

hoặc làm thay đổi hành vi có hại bằng hành vi có lợi. Giáo dục cũng là quá trình

giao tiếp hai chiều qua đó người dạy và người học cùng chia sẻ hiểu biết, kinh

nghiệm và cùng học tập lẫn nhau.

Về môi trường giáo dục, theo “Từ điển giáo dục học” (Bùi Hiển, Nguyễn

Văn Giao, Nguyễn Hữu Quỳnh, Vũ Văn Tảo (2001), Nxb Từ điển bách khoa,

HN, tr. 264) là “Tập hợp những không gian, những hoạt động xã hội và cá nhân,

những phương tiện về giao lưu, những quá trình, phối hợp lại với nhau và tạo

điều kiện thuận lợi để đạt những kết quả giáo dục có hiệu quả nhất”. Liên quan

đến khái niệm môi trường giáo dục còn có khái niệm môi trường nhà trường:

“Môi trường nhà trường, là tập hợp những con người, những cơ sở vật chất, kỹ

thuật và những phương tiện, thiết chế tổ chức quản lý, tương tác lẫn nhau một

cách thường xuyên, nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho sự thành công

của việc học ở nhà trường”. Môi trường nhà trường là nơi hoạt động giáo dục có

chủ đích, có kế hoạch của quốc gia, ảnh hưởng trực tiếp đến người học.

Trong giáo trình Giáo dục học, tập 1 [91], các tác giả đã đưa ra những vấn

đề chung về giáo dục như: làm rõ các quan niệm vai trò của giáo dục trong việc

hình thành nhân cách con người theo lứa tuổi cũng như vai trò của giáo dục đối

với sự phát triền xã hội. Kết quả của quá trình giáo dục gắn với quá trình hình

thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách của đối tượng theo mục đích của chủ

thể giáo dục và được xã hội chấp nhận.

Nhân cách là nội dung quan trọng của quá trình giáo dục đã được nhiều nhà

khoa học quan tâm như: Chủ nghĩa xã hội và nhân cách, của tập thể các nhà khoa

học Liên Xô (Nxb. Sách giáo khoa Mác - Lênin, 1983). Các tác giả đã nghiên

cứu những vấn đề có liên quan đến sự hình thành và phát triển nhân cách trong

điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản

Trong cuốn sách Giáo dục với việc hình thành và phát triển nhân cách sinh

viên, tác giả Hoàng Anh [2] đã làm rõ tầm quan trọng của hoạt động giáo dục

đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách của sinh viên.

21

Các giá trị văn hóa tinh thần là một trong những nhân tố tác động đến quá

trình hình thành và phát triển nhân cách, đạo đức trong điều kiện kinh tế thị

trường hiện nay ở Việt Nam. Vấn đề này được nhiều tác giả nghiên cứu:

- Hoàng Đức Nhuận, “Kết quả điều tra về vai trò của nhà trường trong việc hình

thành và phát triển con người Việt Nam” (Đề tài KX-08, Hà Nội, 1995)

- Nguyễn Thế Kiệt, “Quan hệ giữa kinh tế và đạo đức trong việc định

hướng các giá trị đạo đức hiện nay" (Tạp chí Triết học, số 6/1996);

- Hoàng Chí Bảo: "Văn hóa và sự phát triển nhân cách của thanh niên" (Tạp

chí Nghiên cứu lý luận số 1/1997);

- Lê Thị Thủy, "Vai trò của đạo đức đối với sự hình thành nhân cách của

con người Việt Nam trong điều kiện đổi mới hiện nay" (Luận án tiến sĩ Triết

học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2000) với thông điệp

giáo dục nghề nghiệp phải gắn liền với giáo dục văn hóa, đạo đức lối sống và

phải được thể hiện ngay trong cấu trúc, chương trình đào tạo, trong từng môn học.

- Trần Sĩ Phán, “Giáo dục đạo đức đối với việc hình thành và phát triển

nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” (Luận án tiến sĩ Triết

học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1999), v.v…

Các công trình kể trên đã đề cập nhiều đến việc giáo dục văn hóa nói

chung, văn hóa dân tộc với các khía cạnh: quá trình hình thành và phát triển; vai

trò, tác dụng của nó trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, trong công

cuộc xây dựng đất nước; những nội dung, khía cạnh cơ bản của văn hóa nói

chung và văn hóa dân tộc; những biểu hiện văn hóa trong các lĩnh vực khác nhau

của đời sống xã hội.

Nghiên cứu về văn hóa học đường và giáo dục VHHĐ là hướng đi của một

số công trình khoa học.

Ở nước ngoài, từ lâu các học giả cũng tỏ ra quan tâm đến việc xây dựng

chiến lược nhằm thúc đẩy công cuộc GDVHHĐ. Trong cuốn sách Văn hoá học

đường là gì? (Deal, T. & Peterson, K.(2009)) các tác giả đã bàn đến chiến lược

xây dựng văn hoá học đường (Mạng Google, 10-1-2009). Ở Mỹ, Úc, các trung

tâm nghiên cứu đã tổ chức khảo sát thực tiễn, đã tiến hành đánh giá vai trò của

VHHĐ (văn hóa trường học) đối với sự phát triển của giáo dục. Mặc dù tư liệu

không nhiều nhưng tất cả các tác giả đều nhất trí rằng mỗi trường cần có

văn hoá học đường của mình; thực tiễn đã chứng minh tác dụng tích cực của

22

văn hoá học đường, chống lại văn hoá độc hại, tiêu cực; mục tiêu chung nhất của

văn hoá học đường là xây dựng trường học lành mạnh tạo điều kiện thuận lợi

cho đảm bảo chất lượng đào tạo cũng như danh tiếng của các trường.

Xác định tầm quan trọng của GDVHHĐ và sự cần thiết phải xây dựng

VHHĐ, các nhà khoa học đã nghiên cứu nội dung cơ bản của VHHĐ và thực

trạng giáo dục VHHĐ trong các trường đại học Việt Nam.

- Trong chuyên khảo Xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn

hóa ở thủ đô Hà Nội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất

nước, do Nguyễn Viết Chức chủ biên [16], các tác giả cho rằng ở các trường đại

học, nội dung cơ bản của xây dựng VHHĐ là: giáo dục nếp sống văn hóa lành

mạnh cho sinh viên và xử lý đúng đắn các mối quan hệ giữa thầy với thầy, thầy

với trò, trò với trò, giữa thầy, trò với cán bộ công nhân viên.

- Viện nghiên cứu Thanh niên, Trung tâm phát triển khoa học công nghệ tài

năng trẻ trong tập chuyên luận Thế hệ trẻ Việt Nam - Nghiên cứu lý luận và thực

tiễn, [124] đã nhấn mạnh sự cần thiết phải nâng cấp, cải tạo cơ sở vật chất trong

trường đại học là để đáp ứng nhiệm vụ giáo dục và đào tạo đạt chất lượng cao.

-Phạm Minh Hạc trong tác phẩm Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế

kỷ XXI [42] nhấn mạnh giáo dục nếp sống văn hóa cho sinh viên trong học tập,

sinh hoạt, văn hóa, tiêu dùng và trong ứng xử giữ vai trò quan trọng.

“Văn hóa học đường đang bị xuống cấp” là nhận xét của đông đảo nhân

dân và các nhà khoa học. Điều này được thể hiện trong các bài viết:

- “Báo động văn hoá học đường xuống cấp”, Báo Lao động, ngày

13/12/2009;

- Hồng Đức, “Thực trạng văn hoá học đường”, Bản tin ĐHQG Hà Nội – số

174, tháng 8/2005;

- Trần Anh Quốc, “Văn hoá học đường ngày càng bị ô nhiễm”, Báo Lao

động, số 132 ngày 11/6/2007;

- Đỗ Huy (2001), Xây dựng môi trường văn hóa ở nước ta hiện nay từ góc

nhìn giá trị học, Viện văn hóa, Nxb Thông tin;

- Phạm Hồng Quang (2006), Môi trường giáo dục, Nxb Giáo dục;

- Viện Nghiên cứu sư phạm Trường Đại học sư phạm Hà Nội tổ chức Hội

thảo khoa học (9-2007) chuyên đề: Xây dựng văn hoá học đường - Giải pháp

nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường.

23

Khía cạnh ứng xử trong VHHĐ là nội dung nhận được nhiều sự quan tâm

của các nhà khoa học :

- Nguyễn Thanh Tuấn trong sách Văn hóa ứng xử Việt Nam hiện nay (Nxb.

Từ điển bách khoa và Viện Văn hóa. HN, 2008) [113] cho rằng khái niệm lối

sống hay văn hóa lối sống tương đương với văn hóa ứng xử. Lối sống là cách

ứng xử của con người với môi trường sống, gồm môi trường tự nhiên và môi

trường xã hội.

- Nguyễn Tiến Thông trong chuyên luận Một số vấn đề giao tiếp [110] cho

rằng văn hóa ứng xử là tổng hòa những dạng hoạt động sống ổn định của con

người được vận hành theo một bảng giá trị xã hội nào đó trong sự thống nhất với

các điều kiện một hình thái xã hội nhất định.

- Mạc Văn Trang trong đề tài Nghiên cứu đặc điểm lối sống sinh viên hiện

nay và những phương hướng, biện pháp giáo dục lối sống cho sinh viên - đề tài

nghiên cứu cấp Bộ, B94-38-32, Viện Nghiên cứu phát triển giáo dục, HN, 1995

đã nghiên cứu đặc điểm lối sống sinh viên. Tác giả cho rằng, con đường để nắm

bắt nội dung và phạm vi của văn hóa ứng xử là tìm hiểu các hành động xã hội và

các khuôn mẫu ứng xử.

- Quốc Việt trong bài viết “Văn hóa giao tiếp học đường: Thầy và trò chưa

là bạn của nhau” (Báo Thanh Niên ngày 15/08/2009) đã phân tích kỹ vị trí, vai

trò của văn hóa giao tiếp trong trường học. Tác giả cho rằng trong quan hệ giao

tiếp giữa thầy và trò cần phải bảo đảm chuẩn mực thầy ra thầy, trò ra trò, không

nên xóa bỏ ranh giới giữa thầy và trò.

- Nguyễn Đức Minh trong Các giải pháp nâng cao chất lượng công tác

sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng Hà Nội [85] cho rằng: Để nâng cao

chất lượng công tác sinh viên cần tập trung vào giáo dục thể chất, ý thức trong

học tập, rèn luyện, quan hệ ứng xử với giảng viên, sinh viên, cán bộ công nhân

viên phải đúng mực theo đúng giá trị đạo đức.

- Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Thạc, Mạc Văn Trang trong Giá trị định

hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị (Chương trình khoa học, công nghệ

cấp Nhà nước KX-07-04, HN 1995) [122] đã đưa ra hàng loạt giá trị chuẩn mực

đạo đức trong nhà trường, coi đó là khuôn mẫu để áp dụng cho các trường đại

học khi triển khai GDVHHĐ.

24

- Phùng Hữu Phú trong Vai trò lãnh đạo của Đảng trong xây dựng môi

trường văn hóa ở các trường đại học- cao đẳng Hà Nội [96] đề cao vai trò của

các tổ chức Đảng, đoàn trong trường đại học đối với việc xây dựng VHHĐ.

- Nguyễn Phương Hồng trong chuyên khảo Thanh niên, sinh viên với sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa , [65] đã đề cao trách nhiệm của sinh viên

trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mục đích của việc xây dựng

VHHĐ là để đào tạo ra những sinh viên có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ

chuyên môn sâu rộng.

Trong những năm qua, nhiều nổi cộm về VHHĐ liên tục diễn ra: không có

ý thức góp phần xây dựng, bảo vệ cơ sở vật chất, khuôn viên trường, phá hoại tài

sản chung, lãng phí điện nước, thiếu tự tin, tự lập, ngại giao tiếp, thô lỗ, mất lịch

sự trong xưng hô, giao tiếp, ăn mặc phản cảm, sống đua đòi, ích kỉ, vô tâm, thiếu

trách nhiệm với bản thân và gia đình... Từ thực trạng đáng báo động này, các nhà

khoa học đã nhận thức sâu sắc được vấn đề cần phải GDVHHĐ cho sinh viên

bởi “Văn hóa học đường là văn hóa diễn ra trong trường học, thể hiện các chuẩn

mực đạo đức của xã hội, trong đó, quan hệ giữa thầy với thầy, giữa thầy với trò,

giữa trò với trò là quan hệ chủ đạo. Xây dựng VHHĐ có ý nghĩa quyết định tới

chất lượng giáo dục đào tạo và có ảnh hưởng rất lớn tới cộng đồng xã hội’’. Đây

là khẳng định của các tác giả Nguyễn Minh Chung [15], Nguyễn Hồng Hà [40],

trong công trình nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Sư phạm.[125].

Nói chung, văn hóa học đường chưa được nhìn nhận đúng mức đáng có

trong các trường đại học, chưa có tiêu chí khảo sát, đánh giá và chưa được

nghiên cứu xứng tầm với vai trò của nó, công tác giáo dục văn hóa học đường

chưa thực sự được chú trọng.

Hầu như chưa có một công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu và xây

dựng, đánh giá kết quả giáo dục VHHĐ trong hệ thống các trường đại học ở

Hà Nội. Có chăng chỉ là những bài báo mang tính tổng kết, đánh giá chung về

chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống hoặc nêu ra những tệ nạn xã hội trong

các trường đại học với những giải pháp xử lý mang tính tổng quát chung

chung. Có thể bắt gặp nhiều bài viết đề tài này của các nhà quản lý giáo dục,

các nhà sư phạm, nhà nghiên cứu, những người làm công tác đoàn thanh niên,

25

Hội sinh viên trên các báo, tạp chí dành cho thế hệ trẻ như Thanh niên, Tuổi

trẻ, Tuổi trẻ Thủ đô, Tiền phong, Sinh viên Việt Nam, trong một số hội thảo

chuyên đề của một trường đại học, các đề tài về nâng cao chất lượng đào tạo,

đổi mới giáo dục đào tạo… và các báo tạp chí của ngành giáo dục như Giáo

dục và Thời đại, Khuyến học và Dân trí, Tạp chí Giáo dục… cùng một số tập

san, nội san của các trường đại học trên địa bàn Hà Nội. Có thể nói rằng, cho

đến nay ở nước ta chưa có nhà quản lý, nhà nghiên cứu văn hóa, giáo dục nào

đi sâu nghiên cứu, đánh thực trạng, kết quả GDVHHĐ cho sinh viên trong các

trường đại học nói chung và các trường đại học ở Hà Nội nói riêng.

1.2. Nghiên cứu về hiệu quả và hiệu quả giáo dục văn hoá học đường

1.2.1. Nghiên cứu về hiệu quả và hiệu quả giáo dục

Theo các nhà ngôn ngữ học, khái niệm hiệu quả được hiểu là : kết quả như

yêu cầu của việc làm mang lại. Trong từ điển Le Petit Lasousse: “Hiệu quả là kết

quả đạt được trong việc thực hiện một nhiệm vụ nhất định” [144, tr 57]. Trong

ngôn ngữ Anh, effective (hiệu quả) được giải ngữ là saccessful in peodueing a

desired ar intended xesult (thành công trong việc tạo ra một kết quả được mong

đợi hoặc đạt mục đích). Trong khi đó các nhà quản lý hành chính lại cho rằng:

Hiệu quả là mục tiêu chính của khoa học hành chính, là sự so sánh giữa các chi

phí đầu tư với các giá trị đầu ra, sự tăng tối đa lợi nhuận và tối thiểu chi phí, là

mối tương quan giữa sử dụng nguồn lực và tỷ lệ đầu ra đầu vào. Như vậy, hiệu

quả là một phạm trù so sánh giữa chi phí (các nguồn lực) và kết quả thu được.

Vấn đề hiệu quả được quan tâm cả trong lĩnh vực sản xuất vật chất và sản xuất

tinh thần. Trong kinh tế học, hiệu quả là một khái niệm cơ bản và được phân

định khá rạch ròi với khái niệm kết quả và chất lượng. Kết quả là toàn bộ sản

phẩm mà quá trình sản xuất tạo ra, bao gồm cả số lượng và chất lượng, trong đó

chất lượng là những tính chất của sản phẩm mà có thể đem đến sự thoả mãn nhu

cầu của người sử dụng.

Các nhà khoa học Liên Xô dựa vào luận đề của V.I.Lênin về hiệu quả công

tác nói chung là “…có khả năng thu được kết quả nhiều nhất, vững chắc nhất

mà lại ít tốn sức nhất”[80, tr.79] để xây dựng khái niệm hiệu quả giáo dục “… là

sự tương quan giữa kết quả tác động tư tưởng đã đạt được so với những mục tiêu

26

xây dựng giác ngộ cộng sản chủ nghĩa và phẩm hạnh cộng sản chủ nghĩa của con

người” [132, tr. 299].

Nhiều nhà nghiên cứu phương Tây cũng quan tâm đến tiêu chí và phương

pháp đánh giá hiệu quả giáo dục. Trong đó, tiêu chí đánh giá chủ yếu dựa vào sự

hiểu biết, thái độ và hành vi của đối tượng. Trong một công trình nghiên cứu về

lý thuyết tuyên truyền “Propaganda”, tác giả đã chỉ ra 4 phương pháp (measure

the effects of the propaganda) để đo hiệu quả tuyên truyền, bao gồm: nghiên cứu

thực nghiệm có kiểm soát (controlled experiment), phân tích dữ liệu thống kê

(content analysis), quan sát thực tiễn (practicipant observers) và phỏng vấn nhóm

nhắc lại (panel interview – repeated interview) [139]

Trong cuốn giáo trình Quản trị kinh doanh tổng hợp trong các doanh

nghiệp, tác giả Ngô Đình Giao cho rằng: Hiệu quả là một phạm trù phản ánh

chất lượng hoạt động sản xuất, kinh doanh và được xác định bởi tỷ số giữa kết

quả đạt được với chi phí bỏ ra để đạt kết quả đó. Hiệu quả kinh tế được biểu hiện

qua phạm trù hiệu quả kinh doanh [37, tr 408]. Tác giả Nguyễn Văn Tạo, trong

bài viết “Nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp trong kinh tế thị

trường” đăng trên Tạp chí Thương mại [104, tr 25-27] cho rằng hiệu quả kinh

doanh không chỉ là sự so sánh giữa chi phí đầu vào và kết quả nhận được ở đầu

ra, mà là việc hoàn thành mục tiêu, nếu không đạt được mục tiêu, không thể có

hiệu quả và để hoàn thành mục tiêu cần phải sử dụng nguồn lực một cách hợp lý

nhất, không nhất thiết phải giảm nguồn lực nếu quy trình sản xuất đã hoàn thiện.

Nhiều nhà khoa học trong nước đã quan tâm nghiên cứu về tiêu chí đánh

giá hiệu quả công tác tư tưởng, công tác giáo dục theo các góc độ khác nhau

nhưng đều đề cập đến sự thay đổi nhận thức và hành động ở đối tượng sau khi có

tác động của giáo dục. Trong tuyển tập “Một số vấn đề về công tác tư tưởng”,

tác giả Đào Duy Tùng cho rằng: tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả công tác tư tưởng

là ở nhận thức và hành động nhưng không phải mọi hành động tích cực của con

người đều là kết quả của giáo dục. Ở bình diện xã hội đó là kết quả hình thành

đường lối chính trị, kinh tế và văn hóa tinh thần của xã hội ; mức độ quán triệt,

truyền bá đường lối; mức độ chi phối của hệ tư tưởng, bầu không khí tâm lý xã

hội lành mạnh; kết quả xây dựng con người mới XHCN. Trong mỗi nhiệm vụ

chính trị cụ thể, tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả là: nhận thức chính trị; nhiệt tình

27

cách mạng, ý thức trách nhiệm; tri thức chuyên môn; hành động cụ thể và mức

độ chất lượng hoàn thành nhiệm vụ của mỗi người. Ngoài ra, còn có thể đánh giá

tiêu chuẩn cho từng bộ phận trong công tác tư tưởng [120, tr. 133-153].

Trong cuốn Nghiệp vụ công tác tuyên giáo do Ban Tuyên giáo Trung ương

xuất bản năm 2008, các tác giả cho rằng: hiệu quả công tác tư tưởng được đánh

giá thông qua những chuyển biến về nhận thức, tư tưởng, thái độ của các giai

cấp, tầng lớp và toàn xã hội, thể hiện ở kết quả kinh tế, chính trị, xã hội, phong

trào theo các mức độ: lâu dài, trước mắt, trực tiếp [5, tr.15 ].

Bàn về hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tác giả Vũ Ngọc Am

trong cuốn “Đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ đảng viên

cơ sở” khẳng định đánh giá hiệu quả giáo dục chính trị tư tưởng là một vấn đề

rất khó, phải cân nhắc, xem xét toàn diện. Cần phân biệt kết quả và hiệu quả,

mặc dù hiệu quả của công tác giáo dục chính trị tư tưởng trước hết là kết quả,

phải lấy kết quả để tính hiệu quả, nhưng hiệu quả lại không đồng nhất với kết

quả. Hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng biểu hiện ở trình độ nhận

thức, tính tự giác cách mạng, tinh thần hăng say, tận tụy trong hành động cách

mạng của cán bộ, đảng viên và quần chúng. Trong đó, hành động và hành vi của

mỗi người trong thực tế là thước đo, là tiêu chuẩn quyết định tính hiệu quả của

công tác giáo dục chính trị tư tưởng. Khi đánh giá hiệu quả phải xem xét, căn cứ

việc áp dụng đổi mới hình thức và phương pháp thực hiện sao cho có hiệu quả

mà lại giảm chi phí, phải tính toán đến tất cả những chi phí vật chất một cách tiết

kiệm nhất. Hiệu quả tỷ lệ nghịch với các chi phí vật chất của hoạt động giáo dục

chính trị tư tưởng. Nếu kết quả đạt được mà chi phí quá lớn, không thể nói là

hiệu quả cao [ 1, tr.131-140]. Theo Trần Thị Anh Đào, cơ sở đánh giá hiệu quả

là sự thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi của đối tượng sau khi được tác động

tư tưởng [33, tr.39]. Tác giả Hà Học Hợi cho rằng, hiệu quả công tác tư tưởng

được đánh giá bằng cả sự cố gắng của chủ thể và những chuyển biến về nhận

thức, tư tưởng của đối tượng, thể hiện trong kết quả kinh tế, chính trị, xã hội và

các phong trào hành động cách mạng của quần chúng nhân dân. Tác giả đưa ra

ba tiêu chí đánh giá hiệu quả: mức độ tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận; mức

độ nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và quần chúng; sự chuyển biến của

28

nhận thức thành phong trào quần chúng qua mức độ tích cực, tự giác, số lượng

người tham gia, chất lượng hoàn thành nhiệm vụ [54, tr. 27].

Có thể nói, công trình nghiên cứu tiêu biểu nhất về hiệu quả công tác tư

tưởng, công tác giáo dục hiện nay là cuốn “Nguyên lý công tác tư tưởng”, tập 2

do Lương Khắc Hiếu chủ biên. Đây là công trình nghiên cứu hệ thống và sâu sắc

về hiệu quả công tác tư tưởng và công tác giáo dục. Tác giả đã đưa ra khái niệm

hiệu quả công tác tư tưởng là: sự tương quan giữa kết quả đạt được do tác động

tư tưởng mang lại với mục đích của công tác tư tưởng được đặt ra và với chi phí

để đạt được kết quả đó trong một điều kiện xã hội nhất định. Về phân loại, công

tác tư tưởng có hiệu quả chung (toàn xã hội) và hiệu quả cụ thể; hiệu quả lâu dài

và hiệu quả trước mắt; hiệu quả tinh thần và hiệu quả thực tiễn [47, tr. 280-281].

Ngoài đưa ra khái niệm hiệu quả tác giả Lương Khắc Hiếu còn đưa ra các

tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác tư tưởng bao gồm hai nhóm: tiêu chí tinh

thần và tiêu chí thực tiễn. Hai nhóm tiêu chí này được đánh giá ở bình diện toàn

xã hội và ở bình diện cụ thể (một nội dung, một nhiệm vụ, một hình thức, một

phương tiện, một nhóm đối tượng). Ở bình diện xã hội, tiêu chí tinh thần là tính

khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan

điểm của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước; khả năng vận dụng sáng tạo

Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách vào thực

tiễn cách mạng; mức độ truyền bá, thâm nhập, chiếm lĩnh của Chủ nghĩa Mác-

Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách, pháp luật trong đời sống

tinh thần cá nhân và xã hội; trình độ, năng lực, phương pháp tư duy lý luận của

các nhóm đối tượng và của toàn xã hội. Tiêu chí thực tiễn bao gồm: tính tích cực

lao động - sản xuất, tính tích cực hoạt động chính trị - xã hội, tham gia vào sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc; quy mô tính chất các phong trào hành động

cách mạng của quần chúng. Ở bình diện cá nhân, tiêu chí tinh thần là nhận thức

và niềm tin, tiêu chí thực tiễn là tính tích cực hành động của con người. Cũng

đồng tình với quan điểm nêu trên, trong cuốn “Công tác tư tưởng trong sự

nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, tác giả Trần Thị Anh Đào cho rằng: hiệu

quả công tác tư tưởng là sự tương quan giữa kết quả mà công tác tư tưởng đạt

được so với mục đích của công tác tư tưởng được xác định từ trước trong một

điều kiện xã hội nhất định và với một chi phí nhất định. [33, tr.38]. Hiệu quả tỷ

29

lệ nghịch với mục đích và chi phí nhưng nếu không chi phí gì hoặc xác định mục

đích quá thấp cũng không đạt được hiệu quả như mong muốn.

Lương Ngọc Vĩnh trong luận án Tiến sĩ chuyên ngành công tác tư tưởng

đưa ra định nghĩa về hiệu quả công tác giáo dục Chính trị tư tưởng : Là sự tương

quan giữa kết quả lĩnh hội tri thức chính trị, hình thành niềm tin chính trị và tính

tích cực chính trị - xã hội ở đối tượng sau tác động giáo dục của chủ thể với mục

đích đã xác định và sử dụng hợp lý các nguồn lực để đạt kết quả đó trong những

điều kiện cụ thể. [129, tr. 52]

Qua một số khái niệm về hiệu quả, nhất là khái niệm được xây dựng dưới

góc độ chuyên ngành công tác tư tưởng, đều xem hiệu quả vừa là mục tiêu, vừa

là thước đo đánh giá trình độ, năng lực của chủ thể, mức độ chuyển biến về nhận

thức, thái độ, hành vi của đối tượng và những chi phí cần thiết để đạt mục đích

đề ra. Vì vậy, khi xem xét đánh giá một hoạt động (công tác, chương trình, lĩnh

vực...) trong một thời kỳ, một giai đoạn đã qua hay xây dựng kế hoach, mục tiêu,

nhiệm vụ cho một thời kỳ, một giai đoạn mới bao giờ người ta cũng phải căn cứ

vào hiệu quả của quá trình trước đó

Ngoài ra, các nhà khoa học còn chỉ ra 6 đặc điểm của việc đánh giá hiệu

quả công tác tư tưởng và khẳng định hiệu quả công tác tư tưởng luôn nằm ở đối

tượng và chỉ có thể đánh giá ở đối tượng. Khi đánh giá hiệu quả công tác tư

tưởng cần phải quán triệt quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử - cụ thể. Để

đánh giá hiệu quả cần xác định kết quả của quá trình tác động tư tưởng. Muốn

đánh giá kết quả có thể sử dụng các phương pháp định lượng như: phỏng vấn

(câu hỏi đóng), bảng hỏi (câu hỏi đóng), điều tra, thống kê và các phương pháp

định tính như: phỏng vấn (câu hỏi mở), bảng hỏi (câu hỏi mở), thảo luận nhóm,

quan sát, phân tích nội dung.

1.2.2. Nghiên cứu về hiệu quả giáo dục văn hóa học đường

Hiệu quả GDVHHĐ là nội dung chưa được nghiên cứu nhiều, cần được

nghiên cứu một cách hệ thống, nghiêm túc. Trong quá trình triển khai nội dung

luận án, tác giả có thể không bao quát được toàn bộ tài liệu, nhưng có thể nói

những tài liệu nghiên cứu về hiệu quả giáo dục văn hóa học đường rất ít. Có thể

kể đến một vài hội thảo bàn về VHHĐ và ít nhiều đề cập đến HQGDVHHĐ như

trong tuyển tập Báo cáo Hội nghị Sinh viên nghiên cứu Khoa học lần thứ 8 Đại

30

học Đà Nẵng năm 2012. Trong số các tham luận khoa học, HQGDVHHĐ được

nhắc đến nhưng chưa được nghiên cứu kỹ, nghiên cứu một cách hệ thống. Ví dụ

tham luận Thực trạng và giải pháp nâng cao văn hóa học đường cho sinh viên

trường đại học Ngoại ngữ - đại học Đà Nẵng của nhóm tác giả Tăng Thị Hà Vân,

Đinh Thúy Vy, Lớp 10CNA 04, Khoa tiếng Anh, Trường Đại học Ngoại ngữ -

ĐHĐN. Trên tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông của Học viện Báo chí và

Tuyên truyền số tháng 3/2015 có bài viết: “Giải pháp nâng cao hiệu quả giáo

dục văn hóa học đường cho sinh viên hiện nay” của Trần Thị Tùng Lâm, trong

đó HQGDVHHĐ bước đầu được phân tích và nhận diện và đưa ra một số giải

pháp mang tính định hướng cũng như cụ thể nhằm nâng cao HQGDVHHĐ cho

sinh viên .

Trong trường đại học hiện nay, xây dựng và GDVHHĐ là mục tiêu phấn

đấu lâu dài, là nền tảng để xây dựng và phát triển thương hiệu của mỗi trường.

Mặt trái của kinh tế thị trường, tâm lý tiêu cực trong xã hội hiện nay… đang tác

động mạnh mẽ đến môi trường giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng.

Thực tế đó cũng đang là lực cản đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo nguồn

nhân lực và đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ở nước ta. Chính vì

thế, việc nghiên cứu thực trạng và đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả GDVHHĐ

là việc làm cấp bách; đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp GDVHHĐ là

một vấn đề khá phức tạp, đòi hỏi nhiều tâm huyết, trí tuệ, thời gian và công sức.

1.3. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu

1.3.1. Những vấn đề đã được nghiên cứu

Xây dựng VHHĐ và GDVHHĐ và là một vấn đề phức tạp, khó vì liên quan

đến quan niệm, tâm lý, thói quen của con người. Vấn đề này được các nhà khoa

học, các nhà quản lý giáo dục, những người trực tiếp tiến hành giáo dục, xã hội

và gia đình trong và ngoài nước ít nhiều quan tâm. Nhìn chung, các công trình

chủ yếu trực tiếp hoặc gián tiếp nghiên cứu về hiệu quả giáo dục nói chung và

hiệu quả trong giáo dục các vấn đề cụ thể trong đó có GDVHHĐ đã thống nhất

được một số vấn đề cơ bản, một số khía cạnh của vấn đề được nghiên cứu kỹ,

một số nội dung khác mới chỉ được đề cập mà chưa được giải quyết triệt để như:

- Các công trình nghiên cứu về văn hóa nói chung và văn hóa ngoại hiện

trong các lĩnh vực cụ thể về cơ bản đã làm rõ vị trí, vai trò, chức năng và nội

31

dung của văn hóa đối với sự phát triển bền vững. Đồng thời các công trình trên

cũng đã chứng minh tầm quan trọng của việc kế thừa, phát huy những giá trị văn

hóa truyền thống quý báu của dân tộc trong quá trình phát triển và hội nhập hiện

nay, với mục đích nâng cao nhận thức, hình thành niềm tin và cổ vũ hành động

xã hội tích cực phù hợp với yêu cầu của cộng đồng, sự tự giác của đối tượng.

- Dù tiếp cận với tư cách là một hoạt động hay một mặt công tác của các tổ

chức, các nhà quản lý giáo dục, quản lý xã hội, VHHĐ cũng đã bước đầu được

nhận diện và nghiên cứu. Hoạt động GDVHHĐ có mục đích là hình thành phẩm

chất, năng lực, thái độ, hành vi đúng đắn, có văn hóa phù hợp với cộng đồng xã

hội, phù hợp với xu thế phát triển chung cho đối tượng.

- Tuy cách diễn đạt có khác nhau nhưng đa số các tác giả đều thừa nhận

hiệu quả hoạt động giáo dục nói chung hay giáo dục từng lĩnh vực cụ thể như

chính trị, văn hóa, đạo đức, lối sống...cổ vũ hướng dẫn hành động phù hợp của

đối tượng là sự tương quan giữa kết quả với mục đích và chi phí. Đặc biệt

HQGDVHHĐ đã được đề cập và gợi mở hướng nghiên cứu cho tác giả trong

luận án.

- Trong các công trình nghiên cứu, các nhà khoa học bước đầu đã đề ra

cách phân loại, quan điểm và phương pháp đánh giá hiệu quả công tác giáo dục

tư tưởng nói chung và giáo dục từng vấn đề, nhiệm vụ nói riêng nhằm hay đổi

nhận thức, thái độ, hành vi ở đối tượng, đưa ra một số tiêu chí hoặc tiêu chuẩn

đánh giá hiệu quả công tác giáo dục ở nhận thức thái độ, hành vi cho đối tượng.

Đây không phải là nội dung nghiên cứu chính của luận án, nhưng kết quả nghiên

cứu của các nhà khoa học cũng giúp tác giả luận án có được hướng đi đúng,

khoa học khi triển khai nội dung đề tài nghiên cứu về HQGDVHHĐ cho sinh

viên trong các trường đại học ở Hà Nội hiện nay.

Mặc dù chưa bàn trực tiếp đến hiệu quả GDVHHĐ nhưng kết quả nghiên

cứu của các công trình nêu trên là cơ sở lý luận vững chắc để tác giả luận án tiếp

tục đi sâu nghiên cứu bản chất, giải pháp trước mắt và lâu dài nhằm nâng cao

HQGDVHHĐ cho sinh viên các trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật ở Hà

Nội hiện nay. Nhưng do tiếp cận ở các góc độ khác nhau và nghiên cứu về các

nội dung khác nhau nên kết quả nghiên cứu của các công trình, tài liệu nói trên

còn một số vấn đề chưa được làm rõ hoặc chưa thống nhất như sau:

32

Thứ nhất, do góc độ tiếp cận, mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu

khác nhau nên khái niệm VHHĐ với nội dung, cấu trúc ở mỗi tác giả, mỗi công

trình lại có quan niệm khác nhau. Nội dung, hình thức truyền bá, giáo dục chủ

yếu về văn hóa nói chung và xây dựng VHHĐ ở nhiều cấp học nói chung đã

được nghiên cứu, nhưng chưa đầy đủ, các nhà nghiên cứu chưa đưa ra được bộ

tiêu chí cho từng cấp học dẫn đến chưa gắn kết GDVHHĐ với các hoạt động

khác của giáo dục, giáo dục tư tưởng - chính trị trong nhà trường. Chưa có công

trình nào nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống về hiệu quả GDVHHĐ. Tuy

thống nhất quan niệm hiệu quả là sự tương quan giữa kết quả với mục đích và

chi phí nhưng chưa đi sâu làm rõ các yếu tố cấu thành hiệu quả cũng như vị trí,

vai trò, mối liên hệ giữa chúng... Một số công trình đánh giá hiệu quả ở chủ thể

và đối tượng, có công trình chỉ đánh giá ở đối tượng, có công trình đánh giá cả ở

nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục tư tưởng, thái độ, kỹ năng.

Thứ hai, hầu hết các công trình chưa khảo sát khía cạnh kinh tế của hoạt

động giáo dục VHHĐ một cách đầy đủ, có hệ thống. Đặc biệt, chưa bám sát khái

niệm hiệu quả là sự “so sánh”, “tương quan” giữa kết quả với mục đích và chi

phí nên không chỉ ra được sự khác biệt giữa thực trạng hiệu quả, thực trạng chất

lượng hay kết quả của hoạt động giáo dục.

Thứ ba, các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục nói chung và

giáo dục văn hóa học đường nói riêng chưa được xác định rõ, hoặc nếu có thì

chưa thực sự là giải pháp riêng cho từng đối tượng, phạm vi nghiên cứu .

Thứ tư, các công trình nghiên cứu về giáo dục trong các trường đại học

thường tách thành hai mảng riêng biệt là giáo dục chuyên môn, kỹ năng và giáo

dục tư tưởng - chính trị trong đó GDVHHĐ chỉ được xem là một chuyên đề. Đến

nay, chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện về GDVHHĐ cho sinh viên

các trường đại học nói chung và hiệu quả GDVHHĐ cho sinh viên các trường

đào tạo khối kỹ thuật ở Hà Nội hiện nay nói riêng.

1.3.2. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu

Trên cơ sở kế thừa các kết quả đã nghiên cứu, với mục đích đã xác định,

luận án tiếp tục nghiên cứu làm rõ các vấn đề sau:

- Hệ thống hoá, hoàn thiện khái niệm VHHĐ, GDVHHĐ, xác định rõ vai

trò của GDVHHĐ trong trường đại học, làm cơ sở để xây dựng khái niệm,

33

tiêu chí đánh giá hiệu quả GDVHHĐ cho sinh viên trong các trường đại học ở

Việt Nam.

- Cụ thể hoá lý luận chung về HQGDVHHĐ vào một đối tượng cụ thể là

sinh viên các trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật ở Hà Nội hiện nay. Bổ

sung, phát triển lý luận về hiệu quả hoạt động giáo dục tư tưởng, giáo dục các

lĩnh vực khác của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, pháp luật, giao thông,

giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc …; phân loại, các yếu tố tác

động, tiêu chí và những vấn đề có tính nguyên tắc trong đánh giá hiệu quả giáo

dục ở từng lĩnh vực để làm rõ thêm nội hàm khái niệm HQGDVHHĐ.

- Khảo sát, tổng kết thực tiễn GDVHHĐ và HQGDVHHĐ để khẳng định,

làm sáng tỏ những vấn đề lý luận đã nghiên cứu. Đề xuất khuyến nghị và giải

pháp có tính cần thiết và tính khả thi để nâng cao HQGDVHHĐ cho sinh viên.

Trong các vấn đề nêu trên, việc nghiên cứu thực trạng và đề xuất các giải

pháp để nâng cao hiệu quả GDVHHĐ cho sinh viên các trường đại học đào tạo

các ngành kỹ thuật ở Hà Nội hiện nay có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình thực

hiện mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đặc biệt là giáo dục đại học.

Tiểu kết chương 1

Trong chương 1, luận án tập trung vào tổng lược và đánh giá nội dung các

công trình khoa học có liên quan đến đề tài. Quá trình thu thập tổng hợp, nghiên

cứu, phân tích các tài liệu đã tham khảo cho thấy hầu như các công trình, tài liệu

đều tập trung vào nghiên cứu những vấn đề văn hóa, VHHĐ, nội dung, cấu trúc

vai trò của VHHĐ đối với sự phát triển của nhà trường, sự cần thiết phải xây

dựng và thực hiện VHHĐ, quan niệm về hiệu quả và các tiêu chí đánh giá hiệu

quả trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Nội dung, cấu trúc và vai trò của

VHHĐ trong trường đại học được đề cập và phân tích dưới nhiều góc độ khác

nhau cho thấy mối quan tâm của các nhà khoa học về những nội dung này. Đây

là cơ sở quan trọng để chúng tôi tiếp tục nghiên cứu về VHHĐ và giáo dục

VHHĐ cho sinh viên ở các trường đại học trên địa bàn thành phố Hà Nội.

Quá trình thu thập tổng hợp, nghiên cứu, phân tích các tài liệu đã tham

khảo cho thấy hầu như các công trình, tài liệu đều tập trung vào nghiên cứu

những vấn đề văn hóa, VHHĐ, vai trò của VHHĐ đối với sự phát triển của nhà

trường. VHHĐ có vai trò quan trọng trong việc củng cố và xây dựng những

phẩm chất tốt đẹp cho sinh viên, qua đó góp phần xây dựng một môi trường giáo

dục lành mạnh và đạt hiệu quả cao. Có rất ít công trình nghiên cứu bàn về vấn đề

34

giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên trong trường đại học, thực trạng và

giải pháp. Song chưa có công trình nào tổng kết đánh giá về hiệu quả giáo dục

VHHĐ cho sinh viên. Vì vậy, đánh giá HQGDVHHĐ cho sinh viên các trường

đại học ở Hà Nội hiện nay là một đề tài mới, có ý nghĩa khoa học cả về lý luận

và thực tiễn.

Với việc chỉ ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, có thể khẳng định, đề

tài luận án đã xác định được một hướng đi riêng, không trùng lặp với các công

trình khoa học đã nghiên cứu trước đây. Luận án sẽ phải xây dựng khung lý

thuyết với các nội dung: khái niệm hiệu quả và hiệu quả GDVHHĐ, tiêu chí

đánh giá hiệu quả GDVHHĐ, thực trạng hiệu quả GDVHHĐ trong các trường

đại học đào các ngành kỹ thuật ở Hà Nội. Kết quả của thực trạng sẽ giúp luận án

xác định những vấn đề cần giải quyết và là cơ sở khoa học để luận giải, đề xuất

các giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục văn hoá học đường trong các trường

đại học ở Hà Nội hiện nay.

35

Chương 2

HIỆU QUẢ GIÁO DỤC VĂN HÓA HỌC ĐƯỜNG

CHO SINH VIÊN ĐẠI HỌC- MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

2.1. Văn hóa học đường và giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên

2.1.1. Văn hóa học đường và nội dung văn hoá học đường

Văn hoá học đường là một loại hình văn hoá được hiểu theo nghĩa hẹp,

cũng như khi ta nói đến văn hoá đạo đức, văn hoá chính trị, văn hoá nghệ thuật,

văn hoá ngoại giao, văn hoá kinh tế...Văn hóa học đường là một thuật ngữ khoa

học còn mới mẻ nhưng lại đang là một vấn đề thực tiễn có tính cấp thiết, nhận

được sự quan tâm của xã hội, của những nhà quản lý giáo dục.

Văn hoá học đường có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt trong đời sống văn

hóa xã hội, trong hoạt động giáo dục nhà trường bởi vì nó tham gia trực tiếp vào

quá trình hoàn thiện nhân cách sinh viên, là nhân tố quan trọng góp phần thực

hiện sứ mạng, mục tiêu đào tạo và thương hiệu của các trường đại học. Quá trình

CNH, HĐH đất nước trong điều kiện Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào

thế giới như hiện nay đòi hỏi chất lượng nguồn lực lao động ngày càng cao hơn

trước, do đó GDVHHĐ trong các trường đại học trở thành một trong những vấn

đề thời sự được xã hội quan tâm. Văn hoá học đường là sản phẩm văn hóa tinh

thần của xã hội, của tập thể người trong mỗi trường học và được biểu hiện thông

qua nhận thức, thái độ, hành vi ứng xử văn hóa của cá nhân, tổ chức bộ máy hoạt

động của nhà trường. Tổng hợp các quan niệm, các khái niệm của các nhà khoa

học, nhà nghiên cứu trước đó ở mục 1.1.1. có thể đưa ra khái niệm: Văn hóa học

đường là hệ thống những giá trị, những chuẩn mực vật chất và tinh thần được tích

lũy qua quá trình phát triển của nhà trường. Những giá trị đó tác động trực tiếp đến

nhận thức, thái độ, hành vi của các thành viên nhằm tạo nên môi trường văn hóa

chuẩn mực, phù hợp với mục đích giáo dục và tạo nên bản sắc riêng cho mỗi tổ

chức sư phạm.

Văn hoá học đường liên quan đến toàn bộ đời sống vật chất, tinh thần

của một nhà trường. Nó biểu hiện trước hết trong sứ mạng, triết lý, chiến

lược, mục tiêu, hệ thống các giá trị, chuẩn mực cốt lõi, phong cách lãnh đạo,

quản lý... bầu không khí dân chủ, tinh thần sáng tạo. Sau đó VHHĐ được

36

biểu lộ thành hệ thống các chuẩn mực, các giá trị, niềm tin, quy tắc ứng xử...

được xem là tốt đẹp và được mỗi thành viên trong nhà trường chấp nhận. Văn

hóa học đường là một khái niệm động. Nếu những chuẩn mực, giá trị xã hội

thay đổi, văn hóa học đường cũng sẽ thay đổi theo không nhiều thì ít. Do

vậy, việc xây dựng văn hóa học đường phải được thực hiện trong thời gian

dài mới đạt được kết quả tốt đẹp, bền vững. Nội dung của VHHĐ trong

trường đại học bao gồm những yếu tố cơ bản:

Thứ nhất, là hệ giá trị (được chia làm 2 loại: một là, các giá trị đã được kết

tinh trong cả quá trình xây dựng và trưởng thành của nhà trường. Hai là, những

giá trị mới mà các thành viên mong muốn nhà trường mình có và tạo lập từng

bước nhằm đem đến sự phát triển mới phù hợp với yêu cầu của xã hội).

Thứ hai, là những thiết chế, thể chế trong trường học đảm bảo cho hệ giá trị

được hiện thực hóa (tổ chức, quản trị).

Thứ ba, là những chuẩn mực hành vi được thực hiện thông qua các mối

quan hệ giữa các thành viên trong nhà trường.

* Hệ giá trị

Giá trị thường được hiểu là những cái cần và có ích cho con người, cho xã

hội. Nó được coi như là thước đo, xác định những gì nên làm và không nên làm

trong cách hành xử chung và riêng của con người trong một tổ chức, một cộng

đồng. Tùy vào triết lý giáo dục của mình, có trường đề cao các giá trị nhân văn,

tình yêu thương giữa những thành viên. Có nhà trường đề cao tính cộng đồng

trách nhiệm và sự sáng tạo trong công việc; có nhà trường đề cao các giá trị như

sự trung thực, tính sáng tạo... có trường lại đề cao tinh thần dân chủ, khả năng

đổi mới thường xuyên để nâng cao chất lượng các hoạt động dạy học...

Hệ giá trị trong trường học có thể chia thành 2 loại. Thứ nhất, là các giá trị

mà nhà trường đã hình thành và vun đắp trong cả quá trình xây dựng và phát

triển. Thứ hai, là những giá trị mới mà cán bộ quản lý hoặc tập thể giáo viên,

người học mong muốn nhà trường mình có và tạo lập từng bước nhằm đem đến

sự phát triển mới phù hợp với yêu cầu của xã hội.

Năm 2011, Trương Yên Minh (Học viện Giáo dục NIE, Singapore) đã cho

thấy thứ tự của 8 giá trị được xếp thứ hạng cao trong hệ giá trị văn hoá trường

học là:

37

1. Sự đổi mới (nhà trường luôn luôn đặt ở vị trí đầu tiên).

2. Chấp nhận rủi ro.

3. Trao quyền lực.

4. Sự tham gia của mọi người.

5. Tập trung vào kết quả.

6. Tập trung vào con người.

7. Làm việc nhóm.

8. Sự ổn định.

Còn ở Việt Nam, hệ thống các giá trị cốt lõi của giáo dục trong lịch sử đều

nói đến sự tôn trọng người thầy với “tôn sư trọng đạo”, nhấn mạnh “tiên học lễ,

hậu học văn”... Trong quá trình phát triển và hội nhập, nhất là ở bậc giáo dục đại

học những giá trị cốt lõi còn được bổ sung như đề cao sự sáng tạo, trí tuệ, tinh

thần dân chủ, tinh thần phản biện ...

* Những thiết chế, thể chế trong trường học đảm bảo cho hệ giá trị được

hiện thực hóa

Trường học là một tổ chức nên VHHĐ là văn hóa tổ chức. Một tổ chức sau

khi được hình thành, tồn tại và phát triển thì tự nó sẽ hình thành nên những quy

chuẩn, nề nếp, chuẩn mực, lễ nghi và những giá trị cốt lõi. Đó là sợi dây vô hình

gắn kết các thành viên trong tổ chức lại với nhau cùng phấn đấu cho những giá

trị chung của tổ chức.

Những thiết chế, thể chế trong trường học có thể nhìn thấy, dễ cảm nhận

khi tiếp xúc như:

- Phong cách thiết kế kiến trúc xây dựng, nội - ngoại thất, trang thiết bị, các

vật dụng (cơ sở vật chất), lôgô, biểu trưng...

- Cơ cấu tổ chức bộ máy, cơ chế điều hành, hoạt động.

- Những thực thể vô hình như: triết lý, nguyên tắc, phương pháp, phương

châm, quy trình giải quyết vấn đề; hệ thống thủ tục, quy định...

- Các nghi thức trong các hoạt động sinh hoạt tập thể, cách thức tổ chức các

hội nghị, ngày lễ, các hoạt động văn nghệ, thể thao, câu lạc bộ...

- Ngôn ngữ, cách ăn mặc, chức danh...

- Các hình thức sử dụng ngôn ngữ như: các băng rôn, khẩu hiệu, ngôn ngữ

xưng hô, giao tiếp... các bài hát, các truyền thuyết, câu chuyện vui...

38

- Các hình thức giao tiếp và ứng xử với bên ngoài.

Có thể nói, văn hóa tổ chức, quản lý là yếu tố cơ bản trong văn hóa học

đường, nó hiện diện trong tất cả các bộ phận, các hoạt động của nhà trường:

Lãnh đạo nhà trường phải biết tổ chức, điều hành hoạt động giảng dạy, học

tập, vui chơi của giảng viên, sinh viên và hoạt động của các phòng, ban, khoa, trung

tâm một cách khoa học, có hiệu quả. Quan hệ giữa lãnh đạo nhà trường với các

thành viên khác phải được thực hiện trong không khí dân chủ, đồng thuận. Đây là

điều kiện quan trọng, môi trường phát huy có hiệu quả nhất mọi năng lực của nhà

trường vào việc thực hiện mục tiêu đào tạo của mình.

- Giảng viên phải biết tổ chức hoạt động giảng dạy, hoạt động giáo dục

một cách khoa học, hợp lý, đáp ứng tối đa mục tiêu đào tạo của nhà trường.

- Sinh viên phải có phương pháp học tập, rèn luyện phù hợp và phải biết tổ

chức cuộc sống một cách khoa học, hiệu quả

- Cán bộ viên chức các phòng, ban, trung tâm chức năng dưới sự lãnh đạo

của nhà trường phải phối hợp nhịp nhàng tạo ra sự thống nhất trong quản lý,

phục vụ tốt nhất hoạt động của nhà trường.

* Văn hóa học đường là văn hóa ứng xử trong các mối quan hệ giữa các

thành viên trong nhà trường

Văn hóa học đường được biểu hiện tập trung nhất, rõ nhất ở hành vi ứng xử

của các thành viên trong không gian trường học, tham gia vào hoạt động giáo

dục đào tạo trong nhà trường, là lối sống văn minh trong trường học thể hiện trên

mấy mặt sau:

Trong quan hệ với môi trường tự nhiên, các thành viên trong nhà trường

phải hình thành thói quen giữ gìn và bảo vệ, làm đẹp cảnh quan tự nhiên của nhà

trường. Có ý thức giữ gìn vệ sinh chung, có ý thức trách nhiệm trong việc giữ

gìn, bảo vệ của công (trang thiết bị trường học), có ý thức tiết kiệm trong sử

dụng trang thiết bị phục vụ giảng dạy học tập.

Trong quan hệ xã hội ở nhà trường, quan hệ giữa các thành viên thực sự

phải là quan hệ có văn hóa, lịch sự. Phải có sự tôn trọng lẫn nhau giữa các thành

viên (lãnh đạo quản lý, giảng viên, sinh viên và cán bộ, viên chức), tiếp đó là sự

39

đoàn kết, nhất trí trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo. Ngoài quan hệ mang tính

chất hành chính bắt buộc đó còn có quan hệ tình người

+ Ứng xử của thầy, cô giáo với sinh viên: Được thể hiện như sự quan tâm

đến học sinh, sinh viên, biết tôn trong người học, biết phát hiện ra ưu điểm,

nhược điểm người học để chỉ bảo… Thầy, cô luôn gương mẫu trước học sinh,

sinh viên.

+ Ứng xử của học sinh, sinh viên với thầy, cô giáo thể hiện bằng sự kính

trọng, yêu quí của người học với thầy, cô giáo. Trân trọng những tri thức, kỹ năng

và sự chỉ dẫn giáo dục của thầy, cô và thực hiện điều đó tự giác, có trách nhiệm.

+ Ứng xử giữa lãnh đạo, quản lý với giáo viên, nhân viên thể hiện người

lãnh đạo phải có năng lực tổ chức các hoạt động giáo dục. Người lãnh đạo có

lòng vị tha, độ lượng, tôn trọng giáo viên, nhân viên xây dựng được bầu không

khí dân chủ , tôn trọng trong tập thể nhà trường.

+ Ứng xử giữa các đồng nghiệp, học sinh, sinh viên với nhau phải thể hiện

qua cách đối xử mang tính tôn trọng, tin tưởng,thân thiện, giúp đỡ lẫn nhau.

Tất cả các ứng xử trong nhà trường là nhằm xây dựng một môi trường sống

văn minh, lịch sự trong nhà trường.

Mục tiêu chung nhất của văn hóa học đường là xây dựng trường học lành

mạnh, các mối quan hệ thân thiện và nâng cao chất lượng giáo dục, phát triển

thương hiệu của nhà trường.

Trên cơ sở mục tiêu đào tạo chung ở bậc đại học, mỗi trường học có mục

tiêu, nội dung văn hóa học đường của trường mình. Căn cứ hoàn cảnh cụ thể,

điều kiện của mình mà các trường xây dựng một hệ chuẩn mực, giá trị phù hợp

được các thành viên trong nhà trường cùng tham gia xây dựng với những biện

pháp tổ chức thực hiện. Hệ chuẩn mực, giá trị đó phải tương hợp với một mức độ

nhất định với các giá trị truyền thống và thời đại.

Hệ giá trị làm nên cốt lõi của VHHĐ sẽ là chuẩn mực để mọi thành viên

đồng thuận, là cơ sở xác định nội dung, lấy đó làm mục tiêu phấn đấu, thước đo

thành quả của bản thân, của lớp, của trường, đặc biệt về mặt đạo đức xã hội, giá

trị nhân cách… thường được gọi là dạy người bên cạnh dạy chữ, dạy nghề. Hệ

giá trị của mỗi trường là yếu tố cốt lõi của thương hiệu nhà trường, của cơ sở

giáo dục. Từ đây, từng người và tập thể phát huy sở trường, tiềm năng của mình,

40

đồng thời kế thừa và phát huy hệ giá trị của cả quốc gia - dân tộc, làm đất nước

ngày càng giàu mạnh.

2.1.2. Giáo dục văn hóa học đường và nội dung giáo dục văn hóa

học đường

2.1.2.1. Giáo dục văn hóa học đường

Đảng CSVN và Nhà nước Việt Nam rất quan tâm đến vấn đề giáo dục đào

tạo. Đảng xác định cùng với khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo là quốc

sách hàng đầu. Trong thế kỷ mới giáo dục có vị trí rất quan trọng, vấn đề con

người, vấn đề giáo dục được đặt lên hàng đầu. Đại hội XI của Đảng chỉ rõ:

“Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo

dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và

hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ

giảng viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất lượng

giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ

năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục. Thực

hiện kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các bậc học. Xây dựng môi

trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã

hội” [30, tr.130-131].

Hiện nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về giáo dục, xuất phát từ các

cách tiếp cận khác nhau. Theo Từ điển tiếng Việt: Giáo dục được sử dụng với

nghĩa là một động từ, đó “là một hoạt động tác động một cách có hệ thống đến

sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy

dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đặt ra” [117, tr.349].

Khi sử dụng giáo dục như một danh từ thì nó được hiểu “là hệ thống các biện

pháp và cơ quan giảng dạy- giáo dục của một nước”.

Giáo dục văn hóa học đường là một trong những nội dung của giáo dục. Nó

đảm nhiệm việc giáo dục hệ thống tri thức các giá trị VHHĐ cần thiết cho người

được giáo dục để biến nó thành ý thức, thái độ và hành vi cá nhân phù hợp với

chuẩn mực VHHĐ, chuẩn mực xã hội và thời đại. Từ quan niệm về giáo dục nói

chung và nội dung của VHHĐ có thể suy ra: Giáo dục văn hóa học đường là một

quá trình tác động từ phía chủ thể GDVHHĐ đến đối tượng, nhằm trang bị cho

41

họ những tri thức, kỹ năng thực hiện VHHĐ, góp phần phát triển nhân cách phù

hợp với mục tiêu đào tạo của nhà trường.

Văn hóa học đường là một trong nhiều nội dung giáo dục của trường đại

học. GDVHHĐ cũng mang những đặc trưng cơ bản của quá trình giáo dục, nó

trực tiếp góp phần tạo điều kiện, môi trường đem lại hiệu quả giáo dục ở tất cả

các khâu trong quá trình thực hiện mục tiêu đào tạo. Căn cứ vào quan niệm về

giáo dục, quan niệm về VHHĐ, có thể nêu ra những đặc trưng cơ bản của

GDVHHĐ như sau:

Một là, chủ thể GDVHHĐ cho sinh viên trước hết là cơ quan, người lãnh

đạo, quản lý, giảng viên, CBCNV, các tổ chức đoàn thể trong nhà trường, trong

đó phòng công tác sinh viên, sinh viên, tổ chức đoàn, hội sinh viên, khoa giáo

dục lý luận chính trị, cố vấn học tập giữ vai trò chủ đạo. Ngoài ra còn có các cơ

quan, tổ chức sử dụng sản phẩm đào tạo của nhà trường.

Hai là, GDVHHĐ là định hướng nhận thức, thái độ, hành vi, ứng xử trong

các mối quan hệ giữa cá nhân sinh viên với các thành viên khác trong không

gian trường học vì vậy nội dung giáo dục rất đa dạng, phong phú như giáo dục

những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc; lối sống lành mạnh, có

ích; học tập về nội quy, quy chế của nhà trường; học tập lý luận chính trị…và

các sinh hoạt tập thể giáo dục theo chuyên đề của khoa, trường, đoàn thanh niên,

các câu lạc bộ các đề án.

Ba là, GDVHHĐ được thực hiện qua các môn học. Mỗi môn học trong

chương trình giảng dạy của nhà trường đều có giá trị cung cấp làm giầu vốn tri

thức của người học đều có chức năng GDVHHĐ. Đặc biệt là qua từng bài giảng,

tấm gương trực tiếp của các thầy, cô giáo mà sinh viên tiếp nhận tri thức về

VHHĐ thêm sống động.

Bốn là, GDVHHĐ được thực hiện thông qua hoạt động của các tổ chức, đoàn

thể, hoạt động thể thao, văn hóa văn nghệ trong nhà trường. Đây là một trong những

hình thức GDVHHĐ thiết thực cho các thành viên của nhà trường.

Giáo dục văn hóa học đường cho các thành viên trong nhà trường trước tiên

là nhằm hình thành những quan niệm thống nhất về VHHĐ. Sự khác nhau về

nhận thức sẽ dẫn đến những quan niệm, hành vi ứng xử khác nhau trong trường

học. Các tiêu chí của VHHĐ rất dễ mang tính chủ quan. Trình độ tư duy càng

42

thấp, sự suy lý của con người về chân lý, lẽ phải, cái thiện, cái ác... càng nhiều

hạn chế. Do đó, không thể áp đặt cho sinh viên các chuẩn mực đạo đức mà bản

thân họ không hiểu và không thừa nhận. Vì lẽ đó, việc cung cấp, làm rõ những

nội dung của VHHĐ cho các thành viên hiểu, thừa nhận và nghiêm túc thực hiện

là một trong những yêu cầu quan trọng của GDVHHĐ. Phải tạo ra dư luận thống

nhất trước các biểu hiện văn hóa của sinh viên. Chẳng hạn, khi thấy sinh viên

mặc những bộ đồ vá víu, kỳ dị không phù hợp vào lớp học, mọi người có thể tỏ

thái độ khó chịu hoặc góp ý. Thông qua giáo dục mà những giá trị của VHHĐ

được sinh viên thừa nhận, trở thành niềm tin, thành động cơ bên trong của mỗi

người, họ có thể tự điều chỉnh thái độ, hành vi phù hợp với yêu cầu của nhà

trường và xã hội, làm cho nó trở thành những nét tính cách cần thiết.

Quá trình GDVHHĐ diễn ra dưới nhiều hình thức tuỳ thuộc môi trường và

tình huống cụ thể trong đó có hai hình thức cơ bản nhất:

Hình thức giáo dục trực tiếp: là chủ thể giáo dục trực tiếp thực hiện chức

năng giáo dục như việc lên lớp của giảng viên truyền đạt tri thức, những chuẩn

mực của VHHĐ cho đối tượng giáo dục. Như vậy, chủ thể giáo dục phải có tri

thức, kinh nghiệm, thực sự là tấm gương thực hiện VHHĐ. Hiệu quả của tác

động này phụ thuộc rất nhiều vào chủ thể giáo dục.

Hình thức giáo dục trực tiếp có tác dụng rất quan trọng nhằm nâng cao nhận

thức về VHHĐ một cách cơ bản và có hệ thống, xây dựng hoặc làm thay đổi ý thức

về VHHĐ của đối tượng giáo dục. Đây là con đường ngắn nhất nhưng chưa thể đảm

bảo được tính bền vững đối với kết quả giáo dục, vì hoạt động này mới giải quyết đ-

ược những vấn đề về nhận thức cho đối tượng giáo dục. Từ nhận thức đến hành vi

của đối tượng còn một khoảng cách dài. Từ nhận thức đối tượng có được các hiểu

biết về các chuẩn mực, biến nó thành nhu cầu bên trong thôi thúc họ thực hiện.

Những hành động đó chỉ bền vững khi nó được sinh viên lặp đi, lặp lại nhiều lần,

trở thành thói quen khó thay đổi.

Hình thức gián tiếp : là hoạt động GDVHHĐ cho sinh viên thông qua các

hoạt động thực tiễn. Hoạt động thực tiễn góp phần hình thành VHHĐ chính là

hoạt động của bản thân đối tượng giáo dục, thông qua việc tham gia vào các hoạt

động tập thể như: học tập, lao động, các phong trào thi đua, các hoạt động chính

43

trị - xã hội và các hoạt động từ thiện, các cuộc thi, chương trình hành động do

nhà trường tổ chức.

Thông qua các hoạt động này, các thành viên trong nhà trường có điều kiện

nhận thức rõ hơn về VHHĐ, về bản thân mình và mọi người xung quanh, thông

qua các thái độ, hành vi cụ thể mà chủ thể nhận thức có điều kiện so sánh, rút

kinh nghiêm và tự giác chấp hành, thực hiện vào những yêu cầu chung của tập

thể và xã hội. Giáo dục văn hoá học đường cho các thành viên trong nhà trường

là con đường có tác động rất quan trọng trong việc hình thành ý thức về hành vi

ứng xử của mỗi cá nhân. Nó giúp cho đối tượng giáo dục không thụ động tiếp

thu mà trực tiếp nhận thức, rèn luyện kỹ năng ứng xử, hình thành kinh nghiệm

thông qua trải nghiệm thực tiễn cuộc sống của chính mình và của tập thể. Thông

qua con đường này, đối tượng giáo dục còn có thể sáng tạo ra những kỹ năng

mới để ứng xử có văn hóa trong trường học.

Thực tiễn là con đường gắn chặt học với hành trong học tập và rèn luyện

những hành vi ứng xử có văn hóa. Tính bền vững trong kết quả GDVHHĐ là kết

quả của sự thống nhất biện chứng giữa 2 hình thức GDVHHĐ, đó là giáo dục

trực tiếp diễn ra trong một quá trình lâu dài và khó khăn cùng với hoạt động giáo

dục gián tiếp, nghĩa là kết hợp cả giáo dục và tự giáo dục, giáo dục trong nhà

trường và ngoài xã hội thì mới đạt HQGDVHHĐ.

2.1.2.2. Nội dung của giáo dục văn hóa học đường

Khi giáo dục VHHĐ cho sinh viên ở các trường đại học, cần xác định rõ về

các yếu tố ảnh hưởng đến VHHĐ. Trong một tổ chức nói chung và một nhà

trường nói riêng các giá trị văn hoá có những biểu hiện rõ ràng, dễ quan sát được

và dễ thay đổi nhưng cũng có những giá trị văn hoá ẩn chìm trong mỗi cá nhân.

Đó là các giá trị, niềm tin và các ý nghĩ của con người... khó quan sát được hoặc

khó thay đổi, tạo nên những sự khác biệt về văn hoá của các thành viên trong

nhà trường. Những sự khác biệt này sẽ dẫn tới sự khác biệt về nhận thức, hành

động, tác động đến kết quả của GDVHHĐ, bởi VHHĐ có ảnh hưởng vô cùng to

lớn đối với chất lượng cuộc sống và hiệu quả hoạt động của nhà trường, quyết

định nội dung GDVHHĐ.

Trước hết, GDVHHĐ là giáo dục tự giác chấp hành kỷ luật. Sinh viên thực

hiện tốt nội quy, quy chế, những cam kết của nhà trường.Thực hiện những quy

44

định, coi trọng nề nếp của nhà trường, nghiêm chỉnh chấp hành nội quy, quy

định của trường đề ra. Chẳng hạn trang phục của cả thầy lẫn trò phải gọn gàng,

lịch sự, có thể mặc đồng phục theo quy định của nhà trường. Sinh viên (và có thể

cả thầy cô giáo) cần phải đeo thẻ khi đến trường, khi thực hiện nhiệm vụ, khi

giao tiếp với các phòng, các lớp trong nhà trường.

Thứ hai, GDVHHĐ là giáo dục tinh thần trách nhiệm giữ gìn, bảo vệ và sử

dụng an toàn, tiết kiệm, có hiệu quả tài sản của nhà trường. Chấp hành đúng các

quy định về trật tự vệ sinh môi trường học đường, vứt rác đúng nơi quy định,

không vẽ, dán... lên tường, lên bàn, ghế trong nhà trường, lớp học, không chặt

phá cây cảnh, buôn bán trái phép trong nhà trường.

Thứ ba, GDVHHĐ là giáo dục sinh viên tích cực tham gia các hoạt động

phong trào của nhà trường, các phong trào thi đua, các hoạt động đoàn thể, các

hoạt động chính trị - xã hội.

Thứ tư, GDVHHĐ là giáo dục hành vi. Mỗi người phải luôn chăm chỉ,

trung thực, giản dị, hòa đồng với mọi người, không nói tục chửi bậy, khi làm

sai không bảo thủ, sẵn sàng nhận lỗi và sửa lỗi, ham học hỏi, cầu tiến, say mê

học tập để trở thành công dân có ích. Chẳng hạn là sinh viên đối với bạn bè

phải bình đẳng, chân thành, tôn trọng bạn. Yêu mến, quan tâm đến bạn, quan

hệ bạn bè trong sáng, lành mạnh, luôn vui vẻ. Đối với thầy cô giáo, cán bộ,

nhân viên nhà trường phải biết kính trọng, yêu quý, biết ơn thầy cô giáo, cán

bộ, nhân viên. Khi gặp thầy cô giáo, cán bộ, nhân viên, phải chào hỏi lễ phép,

xưng hô đúng mực, không nói xấu thầy, cô giáo, cán bộ, nhân viên nhà

trường, chăm chỉ học tập. Khi có vấn đề cần giải quyết, trình bày và đề nghị

cán bộ, giảng viên, nhân viên giải quyết công việc tại nhà trường. Nội dung

phản ánh, đề xuất, kiến nghị xuất phát từ lợi ích chung của tập thể và những

yêu cầu chính đáng của người học.

Thứ năm, GDVHHĐ là khích lệ chuyên cần trong học tập. Phải thúc đẩy ở

SV niềm say mê, thích thú học tập; đi học đầy đủ, đúng giờ; chuẩn bị đầy đủ

sách, vở, đồ dùng học tập; chăm chỉ học tập, tập trung lắng nghe giờ giảng của

thầy, cô giáo; học hỏi, hăng hái phát biểu ý kiến khi thảo luận; sáng tạo khi tham

gia làm bài tập. SV không được nói chuyện riêng, làm việc riêng trong lớp;

không quay cóp, gian lận khi kiểm tra, thi cử. SV phải giúp đỡ lẫn nhau trong

45

học tập; nhiệt tình trao đổi, thảo luận về nội dung học tập với bạn; giúp bạn khi

gặp khó khăn, vướng mắc về bài học.

2.1.3. Vai trò giáo dục văn hoá học đường cho sinh viên các trường

đại học

Văn hóa học đường là những nét đẹp trong toàn bộ môi trường sư phạm: từ

môi trường cơ sở vật chất, môi trường quan hệ, môi trường công việc. Những nét

đẹp đó được thể hiện trong hành vi của thày, của trò, của cán bộ quản lý và nhân

viên trong nhà trường.Văn hoá học đường là một môi trường rất quan trọng để

rèn luyện nhân cách và giáo dục thế hệ trẻ những con người sống có hoài bão, có

lý tưởng tốt đẹp, vấn đề xây dựng văn hoá học đường phải được coi là trọng tâm

và quan trọng nhất trong từng trường học. Nếu môi trường học đường thiếu văn

hoá thì không thể làm được chức năng truyền tải những giá trị kiến thức nhân

văn cho thế hệ trẻ. Trong bối cảnh cần phải đổi mới toàn diện giáo dục và đào

tạo, một trong những vấn đề quan trọng cần được thực hiện là phải chuyển mạnh

quá trình giáo dục từ truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục hình thành, phát

triển năng lực, phẩm chất của người học, chú trọng giáo dục nhân cách, đạo

đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân. Các trường Đại học cần

tập trung vào những giá trị cơ bản của văn hóa, truyền thống và đạo lý dân

tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, giá trị cốt lõi và nhân văn, giáo dục và đào tạo

sinh viên không chỉ có đầy đủ kiến thức, kĩ năng thực hành mà còn cần có lí

tưởng cách mạng, đạo đức tốt, lối sống trong sáng để trở thành công dân có

trách nhiệm, lao động cần cù, có sức khỏe, có tri thức và sáng tạo. Giáo dục

văn hoá học đường cho sinh viên các trường đại học có vai trò đặc biệt quan

trọng trong việc giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý

thức công dân cho sinh viên.

Giáo dục văn hóa học đường có ý nghĩa quan trọng của quá trình phát

triển nhân cách. Đây là nội dung của giáo dục - đào tạo, và cũng là mục tiêu của

giáo dục - đào tạo, chuyển vốn học vấn thành vốn văn hóa: từ tri thức, kỹ năng

sang thái độ giá trị nhân cách, điều mà ngày nay thường nói là dạy chữ, dạy

nghề, dạy người. Các trường Đaị học phải tiến hành giáo dục trước hết và cuối

cùng là nhằm phát triển con người, hình thành ở mỗi người nhân cách văn hóa,

vì thế đòi hỏi một môi trường giáo dục tương ứng mà còn gọi là văn hóa học

46

đường.Mục tiêu chung nhất của giáo dục văn hóa học đường là xây dựng trường

học lành mạnh, cơ sở quan trọng để đảm bảo chất lượng thật. Văn hóa học

đường là hệ các chuẩn mực, giá trị giúp cán bộ quản lý nhà trường, các thầy cô

giáo, phụ huynh và sinh viên có cách thức suy nghĩ, tình cảm, hành động tốt đẹp.

Giáo dục văn hóa học đường là một yếu tố bảo đảm và nâng cao chất lượng

giáo dục – đào tạo. Văn hóa học đường góp phần quan trọng chấn hưng, cải cách

nền giáo dục nước nhà. Văn hóa luôn đi liền với giáo dục, giáo dục đi liền với

văn hóa. Mỗi trường có hệ giá trị làm chuẩn mực để mọi thành viên đồng thuận,

lấy đó làm mục tiêu phấn đấu, thước đo thành quả của bản thân, của lớp, của

trường, đặc biệt về mặt đạo đức xã hội, giá trị chân cách, điều mà chúng ta gọi là

“dạy người” bên cạch “dạy chữ, dạy nghề”.Hiện nay xây dựng văn hóa học

đường là mối quan tâm thường xuyên của các ngành, các cấp mà trực tiếp là các

nhà quản lý của ngàng giáo dục, tất cả các nhà trường nhằm làm cho giáo dục

thực sự đáp ứng những đòi hỏi của công cuộc xây dựng và phát triển đất

nước.Một môi trường văn hóa học đường được tạo dựng từ sự kết hợp giữa gia

đình, nhà trường và xã hội sẽ có sức đề kháng với những mầm bệnh, loại trừ

được những biểu hiện văn hóa không lành mạnh nảy sinh từ bên trong, góp phần

xây dựng môi trường văn hóa học đường ngày càng hoàn thiện, trong sáng. văn

hóa học đường phải nhận được sự quan tâm của mỗi gia đình, nhà trường và của

toàn xã hội.

Văn hóa bao giờ cũng gắn với giáo dục và giáo dục luôn đi liền với văn

hóa. Xã hội loài người muốn tồn tại và phát triển thì phải duy trì, bảo tồn và phát

triển giáo dục và văn hóa.Người ta hay nói đến 3 loại hành vi của mỗi con người

trong cách ứng xử với người khác, với cộng đồng xã hội và với môi trường xung

quanh. Đó là hành vi đạo đức, hành vi pháp luật và hành vi văn hóa. Hành vi đạo

đức là những hành vi tự nguyện, làm theo lương tâm của cá nhân. Hành vi pháp

luật là hành vi bắt buộc cá nhân phải tuân thủ theo quy định của xã hội. Hành vi

văn hóa không phải là một hành vi riêng mà nó có thể là hành vi đạo đức hay

hành vi pháp luật nhưng được chủ thể thực hiện với một mức độ thẩm mỹ nhất

định. Đây là cơ sở để chúng ta hiểu về hành vi văn hóa nói chung và văn hóa học

đường nói riêng.

47

Văn hóa học đường lành mạnh giúp các thành viên trong nhà trường chia

sẻ với nhau những kinh nghiệm và kiến thức, phát triển khả năng hợp tác giữa

các thành viên trong mọi lĩnh vực hoạt động của nhà trường. Từ đó, tạo ra môi

trường thuận lợi, tin cậy, tôn trọng lẫn nhau, giúp mọi thành viên trong nhà

trường quan tâm đến việc nâng cao chất lượng dạy và học, tích cực hoạt động vì

sự phát triển chung của nhà trường.

Vấn đề xây dựng văn hóa học đường phải được coi là có tính sống còn đối

với từng nhà trường, vì nếu học đường mà thiếu văn hóa thì không thể thực hiện

được chức năng chuyển tải những giá trị kiến thức và nhân văn cho thế hệ trẻ.

Văn hóa học đường là môi trường rất quan trọng để rèn luyện nhân cách và giáo

dục thế hệ trẻ trở thành những con người sống có hoài bão, có lý tưởng tốt

đẹp.Văn hóa học đường tạo niềm tin cho xã hội trong việc thực hiện các chức

năng giáo dục của mình, đặc biệt trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội.

Giáo dục văn hóa học đường là tạo ra những nét đẹp trong hành vi của

học sinh, sinh viên đối với các mối quan hệ thày trò, bạn bè và môi trường xung

quanh. Ví dụ: thày giáo thì phải mô phạm, đức độ, mẫu mực trong hành vi, đối

với đồng nghiệp phải khiêm tốn, đoàn kết, nhân ái…, đối với học trò phải hết

lòng thương yêu, chỉ bảo, đối với người khác phải giản dị, mẫu mực, đối với

công việc phải tận tụy, có kỷ luật, sáng tạo…, phải giữ gìn sự trong sạch của cả

môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Học sinh thì không được kiêu căng, tự

cao, tự đại mà phải trung thực, cầu tiến, giản dị, khiêm tốn…, đối với thày cô

giáo phải kính trọng, biết ơn…, đối với bạn cùng trường, cùng lớp phải đoàn kết,

thân ái, phải biết kính trên, nhường dưới…Môi trường giáo dục là nơi đào tạo

những lớp người có tri thức để phục vụ xã hội. Thế hệ trẻ là tương lai của đất

nước, là rường cột của nước nhà. Môi trường giáo dục lành mạnh là điều kiện

tiên quyết để đào tạo thế hệ trẻ trở thành những công dân tốt có tài năng, đạo

đức. Trường học là nơi rèn đức, luyện tài, trang bị kiến thức cho sinh viên.

Trong môi trường này, sinh viên phải có trách nhiệm và nghĩa vụ của bản thân

đối với thầy cô, bạn bè và các mối quan hệ khác.

Văn hóa học đường là môi trường rất quan trọng để rèn luyện nhân cách và

giáo dục thế hệ trẻ trở thành những con người sống có ước mơ, hoài bão, có lý

tưởng đẹp. Những năm gần đây, đời sống văn hóa có những biến đổi theo nhiều

48

chiều hướng khác nhau. Nền kinh tế, khoa học phát triển tạo điều kiện cho sinh

viên được tiếp cận với nhiều kênh thông tin, nhiều mô hình học tập tiên tiến, do

đó học sinh đạt nhiều thành tích cao trong học tập. Tuy nhiên, hiện nay biểu hiện

của văn hóa học đường đang còn nhiều vấn đề bức xúc, cần phải suy ngẫm...

Mặt trái của kinh tế thị trường đã và đang tấn công như vũ bão vào văn hóa

truyền thống tốt đẹp của chúng ta. Giáo dục văn hóa học đường là xây dựng

trường học lành mạnh, các mối quan hệ thân thiện và chất lượng giáo dục thật.

Văn hóa học đường ở mỗi nhà trường tạo niềm tin cho xã hội trong việc thực

hiện chức năng giáo dục và sứ mệnh nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi

dưỡng nhân tài góp phần đào tạo, cung ứng cho xã hội những người công dân

tốt, một nguồn nhân lực có phẩm chất, năng lực, đáp ứng yêu cầu của xã hội. Từ

đó mỗi nhà trường sẽ là tấm gương cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội, cộng

đồng noi theo.

2.2. Hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên các trường

đại học

2.2.1. Hiệu quả giáo dục văn hóa học đường

Theo Từ điển bách khoa Việt Nam và nhiều tác giả đã nhắc tới trong phần

1.2., hiệu quả được định nghĩa là đạt được kết quả mong muốn, cái sinh ra kết

quả mà con người chờ đợi hướng tới ; nó có nội dung khác nhau ở những lĩnh

vực khác nhau. Trong lao động nói chung hiệu quả lao động là năng suất lao

động, được đánh giá bằng số lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị

sản phẩm, hoặc là bằng số lượng sản phẩm được sản xuất ra trong một đơn vị

thời gian. Trong xã hội học, một hiện tượng, một sự biến cố có hiệu quả xã hội,

tức là có tác dụng tích cực đối với một lĩnh vực xã hội, đối với sự phát triển của

lĩnh vực đó. Hiệu quả của một cuộc điều tra xã hội học là kết quả tối ưu đạt được

so với mục đích của cuộc điều tra đó.

Giáo dục văn hóa học đường là một hoạt động giáo dục đặc thù. Theo lý

thuyết chuyên ngành công tác tư tưởng, hiệu quả có ba yếu tố hợp thành gồm:

mục đích, kết quả và chi phí (hữu hình và vô hình), trong đó kết quả và chi phí là

hai thông số chính. Mục đích có mặt trong cấu trúc của hiệu quả nhưng không

độc lập, vì bản thân nó đã là một thành tố của hoạt động giáo dục. Giáo dục

49

VHHĐ có nhiều mục đích khác nhau, nhưng mục đích cơ bản là phải đạt tới sự

thay đổi nhận thức, thái độ và hành vi của đối tượng theo ý định của chủ thể. Kết

quả của GDVHHĐ là hiện thực hoá của mục đích, bao gồm cả mặt số lượng và

chất lượng, trong đó chất lượng đóng vai trò quyết định.

Hành vi văn hóa, tôn trọng các quy tắc ứng xử chung một cách tự giác, tích

cực là dấu hiệu đạt kết quả cuối cùng của GDVHHĐ. Nhưng không phải cứ tôn

trọng các quy tắc ứng xử là GDVHHĐ có kết quả hoàn hảo, vì hành động của

con người được thúc đẩy bởi nhiều động cơ khác nhau. Một hành động tích cực,

tự giác nhưng chỉ xuất phát từ lợi ích cá nhân thì chưa phải là kết quả của

GDVHHĐ. Vì vậy, kết quả đầy đủ nhất của GDVHHĐ phải bao hàm cả nhận

thức, sự tin tưởng và tính tích cực hoạt động thực tiễn của đối tượng.

Thực tiễn cho thấy, bất cứ hoạt động nào, dù là hoạt động sản xuất vật chất

hay hoạt động sản xuất tinh thần cũng đều phải có chi phí. Mỗi hoạt động giáo

dục đều chiếm một thời gian nhất định và phải được trang bị các phương tiện

bảo đảm như: tài liệu, âm thanh, ánh sáng, hội trường, giáo cụ, đạo cụ, người

phục vụ. Hình thức giáo dục càng phong phú, sinh động, quy mô đối tượng càng

lớn thì những chi phí đó càng lớn. Chi phí cho phép mở rộng quy mô tác động,

sức hấp dẫn của các hình thức, chưa kể nó còn tác dụng khuyến khích vật chất

đối với chủ thể và đối tượng.

Giáo dục văn hóa học đường là hoạt động thường xuyên và ẩn vào trong

mọi hoạt động chuyên môn chính khóa cũng như ngoại khoá của trường học nên

hầu hết các chi phí đều do nhà trường cân đối và rất khó tách bạch. Vì vậy, cả

trong lý luận và thực tiễn, HQGDVHHĐ thường được đồng nhất với chất lượng

giáo dục. Tuy nhiên, là một hoạt động đặc thù GDVHHĐ tất yếu phải huy động

chi phí không nhỏ. Nếu không đề cập đến chi phí, về lý luận sẽ không làm rõ bản

chất của khái niệm hiệu quả, không phân biệt được hiệu quả với kết quả và chất

lượng. Về mặt thực tiễn, thói quen không quan tâm đến chi phí cho nên kết quả

có được nhưng chi phí quá cao nên hiệu quả thấp. Biểu hiện của nó là sự gia tăng

tình trạng phô trương, hình thức, lãng phí trong GDVHHĐ. Tuy khó hạch toán

rạch ròi đầu vào, đầu ra như sản xuất, kinh doanh nhưng cần thiết phải tính toán

chi phí để khắc phục “bệnh hình thức”, “tận dụng”, “phong trào” trong

GDVHHĐ cho đối tượng. Qua thực tế, kinh nghiệm tiến hành giáo dục các lĩnh

50

vực khác, giáo dục theo chuyên đề, GDVHHĐ ở từng quy mô, người ta có thể

ước lượng được chi phí cho từng hoạt động cụ thể.

Theo nghiên cứu của Lương Ngọc Vĩnh, thuật ngữ nguồn lực là tất cả

những gì người ta có thể sử dụng như là những yếu tố đầu vào để sản sinh những

thành quả mong muốn. Trong GDVHHĐ có thể sử dụng thuật ngữ nguồn lực để

phản ánh đầy đủ các chi phí cần thiết qua đó đánh giá hiệu quả GDVHHĐ sát

thực hơn. Nguồn lực ở đây bao gồm cả hữu hình và vô hình. Nguồn lực hữu hình

của GDVHHĐ bao gồm: nhân lực, kinh phí, phương tiện, cơ sở vật chất, thời

gian, môi trường giáo dục. Nguồn lực vô hình bao gồm kinh nghiệm, kỹ năng sử

dụng nội dung, hình thức, phương pháp của chủ thể,… Sử dụng thuật ngữ nguồn

lực sẽ khắc phục tình trạng đánh giá không đầy đủ về những chi phí cả hữu hình

và vô hình vốn còn nhiều tranh luận trong đánh giá hiệu quả nói chung và hiệu

quả GDVHHĐ trong trường đại học hiện nay [xem 129].

Từ sự phân tích trên và từ mục đích cơ bản của GDVHHĐ trong trường đại

học, có thể đi đến khái niệm:

Hiệu quả GDVHHĐ là tương quan giữa kết quả tiếp nhận tri thức về

VHHĐ từ đó thay đổi nhận thức, thái độ và tính tích cực thực hiện hành vi chuẩn

mực được biểu hiện khi tham gia các hoạt động thực tiễn ở đối tượng sau tác

động giáo dục của chủ thể với mục đích đã xác định và cách sử dụng hợp lý, tiết

kiệm các nguồn lực để đạt kết quả đó trong những điều kiện cụ thể.

Khi sử dụng thuật ngữ HQGDVHHĐ cho sinh viên, thì sinh viên ở đây

không chỉ là đối tượng mà còn là chủ thể tương tác của quá trình giáo dục. Mặt

khác, hiệu quả là một bộ phận của hoạt động GDVHHĐ nhưng được đo đạc,

đánh giá về phía sinh viên, là kết quả biểu hiện ở nhận thức, thái độ, hành vi

chuẩn mực, phù hợp có văn hóa và năng lực của sinh viên. Hiệu quả GDVHHĐ

chịu sự tác động, chi phối của môi trường xã hội nơi hoạt động giáo dục diễn ra.

Vì vậy, điều kiện kinh tế - xã hội có tác động sâu sắc đến hiệu quả GDVHHĐ.

Hoạt động cụ thể của GDVHHĐ diễn ra trong không gian, thời gian khác nhau

sẽ cho hiệu quả khác nhau. Hiệu quả được xác định ở sự thay đổi trong tư tưởng,

quan niệm, tình cảm, thói quen của đối tượng trong khi hoàn cảnh lại có tác động

mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm, thái độ, hành vi của con người. Vì thế độ bền

vững của hiệu quả GDVHHĐ phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện sống của con

51

người với tư cách là đối tượng của GDVHHĐ; điều đó có nghĩa là hiệu quả

GDVHHĐ chịu ảnh hưởng sâu sắc từ sự tác động của tình hình chính trị, kinh tế,

văn hoá, xã hội của đất nước và quốc tế. Khi đánh giá hiệu quả GDVHHĐ phải

xem xét trong điều kiện cụ thể. Không thể áp đặt hiệu quả ở trường này với

trường khác, đối tượng này với đối tượng khác, giai đoạn này với giai đoạn khác.

2.2.2. Đặc điểm và phân loại hiệu quả giáo dục văn hóa học đường

Hiện nay, đa số các nhà khoa học đều thừa nhận hoạt động giáo dục nói

chung và giáo dục từng vấn đề cụ thể nói riêng là lĩnh vực hoạt động tương

đối trừu tượng, rất khó đánh giá hiệu quả. Tuy nhiên, khi đã xác định được

các tiêu chí cụ thể, rõ ràng, kết hợp nhiều yếu tố vẫn có thể đánh giá được

hiệu quả giáo dục, cụ thể ở đây đánh giá hiệu quả GDVHHĐ cho sinh viên

trong trường đại học.

* Đặc điểm hiệu quả giáo dục văn hóa học đường

- Khác với lĩnh vực sản xuất vật chất, hiệu quả thể hiện một cách nhanh

chóng, lượng hóa được sau một chu trình, hiệu quả GDVHHĐ (tư tưởng tinh

thần) được thể hiện dần dần trong một thời gian nhất định có khi tương đối dài.

Do vậy để đánh giá sự thay đổi về nhận thức, thái độ, hành vi... cần có thời gian.

Hơn nữa, có những hành động biểu hiện hiệu quả GDVHHĐ chỉ bộc lộ ra trong

những điều kiện nhất định. Sự hiểu biết, thái độ, hành vi ứng xử có văn hóa

trong môi trường học đường chỉ bộc lộ một cách đầy đủ và mạnh mẽ nhất khi có

những tình huống, trong quá trình hoạt động thực tiễn, xử lý các mối quan hệ của

sinh viên.

- Mỗi hoạt động cụ thể của GDVHHĐ cho sinh viên không chỉ mang lại

một mà có nhiều kết quả khác nhau. Kết quả này biểu hiện ở cả trong nhận thức,

thái độ và hành vi của sinh viên, trong tất cả các hoạt động thực tiễn mà sinh

viên với tư cách là đối tượng của hoạt động GDVHHĐ. Mặt khác, sự chuyển

biến về nhận thức, thái độ và hành vi của đối tượng nhiều khi không chỉ là kết

quả của sự tác động từ hoạt động GDVHHĐ của chủ thể. Như sinh viên thi vào

trường với kết quả thi cao không có nghĩa là sinh viên đó có nhận thức cũng như

thái độ, hành xử, phát ngôn có văn hóa trong học đường, cũng tương tự điểm số

trong học tập cao. Bởi vì rất có thể thí sinh đó không tích cực, say sưa học tập

mà gian dối trong thi cử. Trở thành SV rồi thì không tham gia xây dựng phong

52

trào học tập, hoạt động của lớp, không dấn thân, không hội nhập tốt… SV như

vậy không thể coi là người có VHHĐ đạt chuẩn.

- Hiệu quả GDVHHĐ được đánh giá ở hai yếu tố là kết quả đạt được và

việc sử dụng nguồn lực hợp lý. Kết quả GDVHHĐ cao không đồng nhất với hiệu

quả cao. Vì, hiệu quả cao hay thấp phải được so với chi phí các nguồn lực ít hay

nhiều. Nếu chi phí các nguồn lực ít (chi phí thấp) nhất mà vẫn có được kết quả

như mục đích là hiệu quả cao, ngược lại kết quả đạt như mục đích nhưng chi phí

các nguồn lực cao, lãng phí không thể xem là hiệu quả cao. Vì vậy để GDVHHĐ

đạt hiệu quả cao không phải bằng mọi giá, mà phải bằng cách sử dụng những

nguồn lực, phương pháp, cách thức tác động tốt nhất, hợp lý nhất dẫn đến thay

đổi nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên trong việc thực hiện VHHĐ trong

không gian trường học tốt nhất và lâu dài. Nói cách khác, để nâng cao hiệu quả

ngoài cách giảm chi phí, sử dụng hợp lý, tiết kiệm nhất thì vấn đề là sử dụng các

nguồn lực một cách tối ưu nhất, giảm những chi phí không cần thiết, đồng thời

tăng thêm những chi phí ở những phần việc góp phần hoàn thành mục tiêu tốt

hơn. Có thể nói có hiệu quả nghĩa là cùng một kết quả đạt được nhưng chi phí

hợp lý, tiết kiệm nhất so với dự toán trong kế hoạch.

Kết quả GDVHHĐ bao gồm cả số lượng và chất lượng, do đó những chỉ số

của hiệu quả về số lượng cũng được áp dụng. Chẳng hạn số lần sinh viên được

phổ biến, được tham gia thảo luận, tham gia phát biểu ý kiến, rút kinh nghiệm từ

những tình huống có thực, hay giả định, số lần được đánh giá, được khen

thưởng, kết quả học tập, tham gia các phong trào của nhà trường và địa

phương… Tuy nhiên, những chỉ số về chất lượng mới là yếu tố quyết định hiệu

quả GDVHHĐ cho sinh viên, nhưng nó lại được đánh giá chủ yếu bằng phương

pháp định tính như: tốt, xấu, tích cực, tiêu cực, cao, thấp... Kết quả sử dụng các

nguồn lực tiêu chí đánh giá rất đa dạng, không có sự đồng nhất, vì vậy việc xác

định phương pháp đánh giá hiệu quả GDVHHĐ cần phải cụ thể, tỷ mỉ, đa dạng

và phù hợp với từng yếu tố, bao gồm cả định tính và định lượng.

*Phân loại hiệu quả giáo dục văn hóa đường

Mục đích của GDVHHĐ là góp phần xây dựng ý thức thực hiện văn hóa

trong trường học qua đó định hướng phát triển và hoàn thiện nhân cách cho sinh

viên, bởi nó trực tiếp tham gia vào quá trình đào tạo con người, hoàn thiện hệ

53

thống giá trị văn hóa xã hội, phục vụ đắc lực cho sự phát triển xã hội. Tuy nhiên,

hiệu quả trước hết là ở nhận thức, thái độ và tính tích cực hoạt động thực tiễn của

sinh viên. Vì vậy, GDVHHĐ có hiệu quả ở bình diện xã hội và hiệu quả ở bình

diện cá nhân. GDVHHĐ trong các trường đại học tác động vào mỗi sinh viên với

tư cách là cá nhân. Nhiều sinh viên cùng khoá, cùng ngành đào tạo tập hợp thành

tập thể sinh viên.

Xét về quy mô ta có hiệu quả GDVHHĐ ở bình diện cá nhân và hiệu quả ở

bình diện tập thể. Hiệu quả cá nhân là sự chuyển biến về nhận thức, thái độ và

hành vi của từng sinh viên. Hiệu quả tập thể là sự chuyển biến về nhận thức, thái

độ, hành vi của sinh viên một khoa, một khóa, một lớp sau khi nhận sự tác động

của hoạt động GDVHHĐ trong những không gian và thời gian xác định.

Xét về quá trình có hiệu quả GDVHHĐ trước mắt và hiệu quả GDVHHĐ

lâu dài: Tri thức của con người đạt được theo con đường từ chưa biết đến biết, từ

thấp đến cao theo quy luật của quá trình nhận thức. Từ kiến thức biến thành niềm

tin cần phải có một quá trình chuyển hoá lâu dài bên trong đối tượng. Từ niềm

tin trở thành hành động tự giác, tích cực, phù hợp đòi hỏi của cộng đồng xã hội

phải trải qua nhiều khâu, nhiều bước, đòi hỏi phải có những điều kiện thích hợp

và có thể mất một thời gian khá dài. Hiệu quả trước mắt của GDVHHĐ là hiệu

quả được đánh giá cho một khoảng thời gian ngắn, ngay sau khi kết thúc một

quá trình tác động của GDVHHĐ (thường là khoảng sau đợt học, tập huấn, học

kỳ, năm học…). Hiệu quả trước mắt tương ứng với mục đích trước mắt của

GDVHHĐ. Hiệu quả lâu dài là hiệu quả được đánh giá cho một khoảng thời gian

dài (thường là khoá học hoặc lâu hơn). Hiệu quả lâu dài tương ứng với mục đích

lâu dài của GDVHHĐ.

Xét về mục đích có hiệu quả GDVHHĐ về mặt tinh thần và hiệu quả

GDVHHĐ về mặt thực tiễn: Hoạt động giáo dục là tác động vào ý thức con

người. Nhận thức như thế nào, nông hay sâu, ít hay nhiều, tin tưởng hay nghi

ngờ, tích cực hay thụ động, tất cả đều nằm trong ý thức. Do mục đích của

GDVHHĐ không dừng lại ở ý thức con người mà phải được hiện thực hóa thành

hành vi, hành xử đúng đắn, phù hợp, có văn hóa trong mối quan hệ giữa các

thành viên và mang lại những kết quả nhất định. Kết quả đó cũng chính là hiệu

quả thực tiễn của GDVHHĐ.

54

Trong hiệu quả tinh thần của GDVHHĐ, kết quả tính bằng sự chuyển biến

trong lĩnh vực tinh thần (nhận thức, thái độ, niềm tin) của sinh viên được biểu

hiện một cách trực tiếp ở trình độ nhận thức, thái độ, niềm tin của đối tượng.

Trong hiệu quả thực tiễn, kết quả tính ở sự tích cực, chủ động, sáng tạo, có

văn hóa, trong thái độ, ngôn ngữ, hành xử của sinh viên được thể hiện thông qua

hành động thực tiễn trên các lĩnh vực mà đối tượng tham gia.

Xét về biểu hiện có hiệu quả GDVHHĐ trực tiếp và hiệu quả GDVHHĐ

gián tiếp: Trong hiệu quả trực tiếp của GDVHHĐ cho sinh viên các trường đại

học, kết quả đo bằng trình độ nhận thức về VHHĐ và độ vững chắc của niềm tin

và tự giác thực hiện. Trong hiệu quả gián tiếp, kết quả tính bằng kết quả học tập,

rèn luyện, tham gia các hoạt động thực tiễn, hoạt động xã hội của sinh viên trong

quá trình đào tạo và kết quả làm việc sau khi tốt nghiệp ra trường.

Tóm lại, xét về quy mô ta có hiệu quả cá nhân và hiệu quả tập thể; xét về

thời gian, GDVHHĐ có hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài; xét về cách thức

thể hiện có hiệu quả trực tiếp và hiệu quả gián tiếp; xét về phương thức tồn tại có

hiệu quả tinh thần và hiệu quả thực tiễn… Hiệu quả GDVHHĐ cho sinh viên các

trường đại học ở Hà Nội là hiệu quả được xem xét chủ yếu ở bình diện cá nhân

nhưng ở cả trước mắt và lâu dài, trực tiếp và gián tiếp, cả hiệu quả tinh thần và

hiệu quả thực tiễn. Đây là cơ sở quan trọng để xây dựng các tiêu chí đánh giá

hiệu quả của hoạt động GDVHHĐ.

2.2.3. Tiêu chí đánh giá hiệu quả giáo dục văn hóa học đường

Đánh giá hiệu quả GDVHĐ cho sinh viên liên quan đến đánh giá về mặt

tâm lý tình cảm, đời sống tinh thần của mỗi con người nên là một vấn đề rất khó

và nhạy cảm. Do vậy, khi xây dựng tiêu chí đánh giá phải dựa trên quan niệm về

hiệu quả của công tác tư tưởng, đồng thời phải dựa trên nguyên tắc phản ánh

đầy đủ, trung thực, khách quan đời sống tinh thần, nhân cách của con người; các

yếu tố chi phối và cách phân loại hiệu quả. Các tiêu chí còn phải lượng hoá, đo

đếm được trong những thời điểm xác định...Trong phạm vi luận án tác giả chủ

yếu đưa ra những tiêu chí đánh giá hiệu quả GDVHHĐ mang tính định tính

Xét về mặt cấu trức, hiệu quả GDVHHĐ là một thể thống nhất của hiệu quả

tinh thần và hiệu quả thực tiễn được thể hiện trên các mức độ từ thấp đến cao, đó

là tri thức, niềm tin, và hành động-hành vi thực tiễn. Tri thức và niềm tin thuộc

55

nhóm tiêu chí hiệu quả tinh thần và hành động, hành vi là hiệu quả thực tiễn của

GDVHHĐ. Muốn đánh giá hiệu quả phải xác định kết quả, song kết quả phải

được đặt trong sự so sánh với mục đích và chi phí các nguồn lực. Trong thực tế,

chỉ có thể so sánh kết quả với mục đích, mà không so sánh giữa kết quả và chi

phí (sử dụng) nguồn lực vì trong nguồn lực có yếu tố vô hình khó lượng hóa. Vì

vậy, khi đánh giá hiệu quả phải xem xét tương quan giữa kết quả đạt được so với

mục đích và việc sử dụng một cách hợp lý, tiết kiệm các nguồn lực.

Tính tiết kiệm trong chi phí nguồn lực thể hiện ở chỗ với một hoạt động

nhất định mọi chi phí cho nó phải ít nhất so với kết quả đạt được. Tính hợp lý

trong sử dụng các nguồn lực vào hoạt động GDVHHĐ là huy động, khai thác

một cách khoa học, tiết kiệm những điều kiện hiện có và tiềm năng để thu về kết

quả cao nhất, có ảnh hưởng tới đối tượng, tới cộng đồng, nhóm xã hội rộng lớn

nhất. Tính hợp lý trong sử dụng các nguồn lực còn thể hiện ở chỗ, các nguồn lực

được phân bổ một cách khoa học, tương xứng với khối lượng và tiến độ diễn ra

các hoạt động. GDVHHĐ đạt được mục đích đề ra khi sử dụng hợp lý, tiết kiệm

các nguồn lực thì hiệu quả cao và ngược lại.

Hiệu quả giáo dục văn hóa học đường phải xem xét trong tương quan

giữa kết quả thu được với mục đích đã xác định và việc chi phí các nguồn lực để

đạt được kết quả ấy, có thể thấy:

- Hiệu quả tỷ lệ nghịch với mục đích và chi phí nguồn lực: nếu mục đích

đặt ra cao mà kết quả đạt được thấp với cùng 1 chi phí hoặc chi phí cao thì hiệu

quả thấp và ngược lại.

- Giảm chi phí nguồn lực là giải pháp hữu hiệu để tăng hiệu quả, và chi phí

nguồn lực cũng là tiêu chí quan trọng để đánh giá hiệu quả GDVHHĐ

- Để có hiệu quả cao thì kết quả đạt được ở phía đối tượng về nhận thức,

thái độ, hành vi phải cao hơn, sâu hơn, vững chắc hơn sau khi chịu tác động so

với trước khi chịu tác động của chủ thể giáo dục

Như thế có thể đánh giá hiệu quả GDVHHĐ từ kết quả với mục đích và chi

phí sử dụng. Nếu lấy yếu tố tinh thần, ý thức của sinh viên để đánh giá hiệu quả

thì tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả từ yếu tố tinh thần gồm tri thức (sự am hiểu, sự

nhận thức, khả năng vận dụng sáng tạo vào thực tiễn, năng lực, trình độ, phương

pháp tư duy) và ý thức của sinh viên. Hiệu quả GDVHHĐ được đánh giá trong

56

sự thay đổi của đối tượng, được đo lường ở phía đối tượng ngay trong tri thức và

ý thức của đối tượng. Chỉ số đo lường mang tính chất lượng, ví dụ là sự chuyển

hoá của tri thức thành niềm tin, thành động cơ hành động... Vì vậy, phương pháp

đánh giá hiệu quả từ tiêu chí tinh thần phải được lựa chọn một cách thích hợp.

Tiêu chí thực tiễn bao gồm tính tích cực hoạt động thực tiễn và tính tích cực

chính trị - xã hội. Hoạt động thực tiễn của sinh viên mang tính đặc thù, đó là hoạt

động học (lý thuyết và thực hành, kỹ năng) để tích luỹ tri thức, là nghiên cứu

khoa học một cách tự giác, đạt mục đích đặt ra. Tính tích cực chính trị - xã hội

biểu hiện ở các hoạt động văn hoá xã hội, tham gia tích cực tự giác vào các hoạt

động chính khóa và ngoại khóa nhằm xây dựng văn hoá học đường ở trường học.

Mức độ hành động thực tiễn là trình độ cao của hiệu quả GDVHHĐ nếu ta xem

hiệu quả GDVHHĐ là một thể thống nhất của hiệu quả tinh thần và hiệu quả

thực tiễn, thể hiện từ mức độ thấp đến cao, theo con đường tri thức – niềm tin –

hành động.

Dựa vào những phân tích trên, tác giả luận án đưa ra tiêu chí xác định hiệu

quả GDVHHĐ gồm 3 nhóm, phân chia thành 8 tiêu chí cụ thể:

2.2.3.1. Nhóm tiêu chí về tinh thần trong đánh giá hiệu quả giáo dục văn

hóa học đường cho sinh viên

Mục tiêu chung nhất của giáo dục văn hóa học đường góp phần xây dựng

trường học thực sự là môi trường sáng tạo, dân chủ với các mối quan hệ thân

thiện và chất lượng giáo dục thật. Văn hóa học đường ở mỗi nhà trường tạo niềm

tin cho xã hội trong việc thực hiện chức năng giáo dục và sứ mệnh nâng cao dân

trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài góp phần đào tạo, cung ứng cho xã hội

những người công dân tốt, một nguồn nhân lực có phẩm chất, năng lực, đáp ứng

yêu cầu của xã hội. Muốn đánh giá hiệu quả phải đánh giá kết quả đạt được so

với mục tiêu GDVHHĐ đặt ra. Kết quả cao nhất so với mục tiêu đặt ra được xem

là hiệu quả nếu kết quả ấy có được tỉ lệ nghịch với chi phí nguồn lực. Có thể cụ

thể hoá hiệu quả GDVHHĐ cho sinh viên thành các tiêu chí cụ thể sau đây:

Tiêu chí 1: Về tri thức

Tri thức hay kiến thức (tiếng Anh: knowledge) bao gồm những dữ kiện,

thông tin, sự mô tả, hay kỹ năng có được nhờ trải nghiệm hay thông qua giáo

dục. Trong tiếng Việt cả “tri” lẫn “thức” đều có nghĩa là biết. Tri thức có thể chỉ

57

sự hiểu biết về đối tượng về lý thuyết hay thực hành. Nó có thể ẩn tàng, chẳng

hạn như những kỹ năng hay năng lực thực hành. Như vậy, tri thức là kết quả của

quá trình nhận thức, là sự hiểu biết về một đối tượng, lĩnh vực nào đó, do tìm

hiểu học tập mà có được. Tri thức về VHHĐ là tiêu chí đầu tiên để đánh giá về

VHHĐ của một cá nhân hay một tổ chức. Quá trình thu nhận tri thức, những

hiểu biết mới được thể hiện trong việc được cung cấp những quy định được

chuẩn hóa qua đó mà người ta hiểu và có thái độ tương ứng. Tri thức VHHĐ tạo

ra khả năng định hướng nhận thức, thái độ, hành vi. Những tiêu chí này cho phép

đánh giá VHHĐ của các thành viên trong nhà trường. Việc tiếp thu tri thức

VHHĐ chịu ảnh hưởng bởi mức độ hứng thú của sinh viên với nội dung giáo

dục. Nếu sinh viên thực sự quan tâm, tin tưởng với nội dung giáo dục thì việc

GDVHHĐ dễ dàng đạt kết quả cao và ngược lại.

Các chỉ số của tiêu chí tri thức gồm: sự am hiểu về văn hoá học đường, sự

thống nhất giữa lý luận và kinh nghiệm, hiểu rõ phương pháp luận và biết vận

dụng lý luận để phân tích các quá trình, các hiện tượng của đời sống văn hoá xã

hội là chỉ số cao nhất của tiêu chí tri thức.

Mỗi cá nhân, bộ phận trong trường đại học trước hết phải biết, hiểu sâu sắc

và đầy đủ về nội dung VHHĐ, thực hiện những nội dung VHHĐ một cách

nghiêm túc, tự giác - đó là những giá trị cốt lõi của nhà trường, những giá trị,

chuẩn mực của dân tộc, của thời đại được ngoại hiện trong những văn bản pháp

quy như luật giáo dục đại học, quy chế học sinh, sinh viên, nội quy, quy đinh,

quy chế, những cam kết ... những chuẩn mực ứng xử được quy đinh cùng những

chuẩn mực bất thành văn nhưng các thành viên trong trường vẫn tự giác thực

hiện được thực hiện, đây được xem là tri thức về VHHĐ. Căn cứ vào Quyết định

129 của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng và thực hiện văn hóa công sở, căn cứ

vào quy chế: học sinh, sinh viên các trường đại học, cao đẳng và trung cấp

chuyên nghiệp hệ chính quy (điều 4 quy định: quyền của học sinh, sinh viên;

điều 5 quy định: nghĩa vụ của học sinh, sinh viên; điều 6 quy định: các hành vi

học sinh, sinh viên không được làm) cùng phụ lục: Một số nội dung vi phạm và

khung xử lý kỷ luật đối với sinh viên, sinh viên ban hành kèm theo Quyết định

số 42/ 2007/ QĐ- BGDĐT ngày 13 tháng 8 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo

58

dục và Đào tạo (từ nội dung 1 đến 23). Hiện nay chưa có một văn bản cụ thể về

VHHĐ song xét về nội dung, tính chất các văn bản trên cũng như căn cứ vào sứ

mệnh của nhà trường mà các thành viên trong nhà trường không chỉ chấp hành

đúng, đủ các yêu cầu của các văn bản trên cùng với nội quy, quy định, truyền

thống của mỗi trường góp phần làm cho các mối quan hệ trong nhà trường đảm

bảo tính nhân văn, tính văn hóa cao, vì tất cả những lý do trên, có thể xem đó

chính là những nội dung góp phần hình thành VHHĐ trong trường đại học.

Tiêu chí 2: Về niềm tin

Trên cơ sở tri thức có căn cứ khoa học và thực tiễn, nhận thức của sinh

viên về văn hoá học đường sẽ biến thành niềm tin – là tiêu chí cao nhất của hiệu

quả cụ thể về mặt tinh thần. Nội dung của niềm tin được thể hiện ở mức độ tin

tưởng vào tính khoa học của văn hoá học đường, tin tưởng vào đường lối chính

sách của Đảng về xây dựng văn hoá, vào quy định của các trường đại học về nội

dung văn hoá học đường cần xây dựng. Niềm tin thể hiện ở khả năng đánh giá

đúng, định hướng đúng quan điểm và lập trường trước những diễn biến phức tạp

của đời sống văn hoá xã hội. Niềm tin ấy giúp sinh viên có ý chí vững vàng

trong cuộc đấu tranh chống những biểu hiện xuống cấp của văn hoá học đường,

sẵn sàng hành động phù hợp với tri thức được trang bị để xây dựng văn hoá học

đường. Niềm tin thể hiện sự thống nhất giữa lời nói với việc làm, trở thành nội

lực để sinh viên vừa là đối tượng vừa là chủ thể của giáo dục văn hoá học đường

trong các trường đại học.

Tiêu chí 3: Về thái độ

Trong Từ điển tiếng Việt, thái độ được định nghĩa là: cách nhìn nhận, hành

động của cá nhân về một hướng nào đó trước một vấn đề, một tình huống cần

phải giải quyết. Đó là tổng thể những biểu hiện ra bên ngoài của ý nghĩ, tình cảm

của cá nhân đối với con người hay một sự vật, sự việc, hiện tượng nào đó. Như

vậy, thái độ bao gồm nhận thức, cảm xúc, hành vi có thể hiểu một cách đơn giản

thái độ là sự thích hay không thích, quan tâm hay không quan tâm, tích cực hay

thờ ơ, tiêu cực trong đó niềm tin vào sự hiểu biết, kinh nghiệm của cá nhân đóng

vai trò quan trong. Sự chuyển biến thái độ của đối tượng theo mục đích của chủ

thể đặt ra là một trong những mục tiêu của quá trình GDVHHĐ. Trên cơ sở nhận

thức nội dung VHHĐ và xem nó là những giá trị tích cực góp phần hoàn thiện

59

nhân cách đối tượng thì nó trở thành động lực bên trong, tự thân thúc đẩy các

thành viên hiện thực hóa VHHĐ, biến chúng thành hành động cụ thể. Khi

VHHĐ trở thành nét tính cách của sinh viên, họ sẽ kiên định hơn trước những

diễn biến phức tạp của đời sống xã hội, có ý chí mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh

với những hiện tượng lệch chuẩn. Do vậy, niềm tin tự nó trở thành điều kiện cần

thiết để thống nhất giữa nhận thức và hành động. Vấn đề biến nhận thức, hiểu

biết kinh nghiệm của cá nhân đối tượng thành niềm tin hay định hướng thái độ

tình cảm của họ đối với việc thực hiện VHHĐ trong trường đại học chịu sự tác

động của nhiều yếu tố. Quá trình GDVHHĐ phải làm cho các thành viên hiểu và

tin tưởng rằng những nội dung của VHHĐ chính là những chuẩn mực mà mình

cần tự giác thực hiện. Chẳng hạn, như các chuẩn mực về trang phục, giao tiếp

ứng xử, về tổ chức hoạt động của nhà trường. Xây dựng được thái độ đúng đắn

đối với VHHĐ là công việc quan trọng và đòi hỏi đầu tư nhiều công sức, thời

gian mới mong có hiệu quả.

2.2.3.2. Nhóm tiêu chí về thực tiễn đánh giá hiệu quả giáo dục văn hóa học

đường thông qua hành vi, hoạt động của các thành viên trong nhà trường

Tiêu chí 4: Về Hành vi giao tiếp trong tổ chức, quản lý

Hoạt động tổ chức quản lý bắt nguồn từ sự phân công, hợp tác lao động.

Chính sự phân công, hợp tác lao động nhằm đến hiệu quả nhiều hơn, năng suất

cao hơn trong việc đòi hỏi phải có sự chỉ huy phối hợp, điều hành, kiểm tra,

chỉnh lý... phải có người đứng đầu. Đây là hoạt động để người thủ trưởng phối

hợp nỗ lực với các thành viên trong nhóm, trong cộng đồng, trong tổ chức đạt

được mục tiêu đề ra. Quản lý là sự tác động có định hướng, có chủ đích của chủ

thể quản lý trong tổ chức, nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích

của tổ chức. Hoạt động quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng

cách vận dụng các chức năng kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.

Để đánh giá HQGDVHHĐ từ tổ chức quản lý, phải chú ý các yếu tố:

- Phải có chủ thể quản lý là tác nhân tạo ra các tác động đến đối tượng bị

quản lý tiếp nhận trực tiếp các tác động của chủ thể quản lý tạo ra và các khách

thể khác chịu các tác động gián tiếp của chủ thể quản lý. Tác động có thể chỉ là

một lần mà cũng có thể là liên tục nhiều lần. Chủ thể có thể là một người, một

nhóm người, hoặc một bộ phận chức năng.

60

- Phải có mục tiêu và quỹ đạo đặt ra cho cả đối tượng và chủ thể, mục tiêu

này là căn cứ để chủ thể tạo ra các tác động.

- Các nguồn lực, môi trường và điều kiện đảm bảo các tác động quản lý.

Quản lý là sự tác động có tổ chức, có mục đích...của chủ thể quản lý lên đối

tượng quản lý bằng các quyết định, các cơ chế chính sách và phẩm chất uy tín

của cơ quan quản lý hay của người quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các

tiềm năng, các điều kiện (nhân lực, tài lực và vật lực.) và các cơ hội nhằm đạt

được các mục tiêu của tổ chức trong một môi trường luôn biến động. Như vậy,

có thể xem văn hoá tổ chức quản lý trong VHHĐ là một quá trình tác động có

mục đích, có kế hoạch dựa trên các chức năng đặc thù của chủ thể quản lý nhằm

gây ảnh hưởng đến khách thể quản lý thông qua cơ chế quản lý, nhằm đạt được

mục tiêu quản lý, từ đó nhằm thực hiện tốt nhất các mục tiêu của tổ chức, đạt

hiệu quả tốt nhất.

Trường đại học là một thiết chế chuyên biệt của xã hội, thực hiện chức

năng kiến tạo các kinh nghiệm xã hội cần thiết cho một nhóm dân cư nhất định

nhằm đạt được mục tiêu xã hội đặt ra. Trong nhà trường, Hiệu trưởng quản lý

mọi hoạt động của nhà trường theo chế độ thủ trưởng. Hiệu trưởng là người phụ

trách cao nhất nhà trường và chịu trách nhiệm về các hoạt động trong nhà

trường. Đồng thời trong nhà trường còn có các tổ chuyên môn làm việc theo chế

độ tập thể và các hội đồng làm việc theo chế độ tư vấn để góp ý kiến, tư vấn, trợ

giúp thủ trưởng xem xét, quyết định và thực thi đối với những vấn đề quản lý

nhà trường. Việc quản trị nhà trường là tổ chức, giám sát mọi hoạt động của nhà

trường, trong đó hoạt động hoạt động dạy - học là quan trọng nhất, tức là làm sao

được hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái khác để dần tiến tới mục tiêu

giáo dục. Bản chất của tổ chức quản lý trong trường đại học là quá trình tác

động có ý thức của chủ thể tới khách thể và các thành tố tham gia vào quá trình

hoạt động giá dục nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu giáo dục, thực hiện các

chức năng quản lý nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt các

mục tiêu với hiệu quả mong muốn.

Thông thường thì quản lý nhà trường được thực hiện bởi các hình thức như

tổ chức hành chính, biện pháp kinh tế, biện pháp giáo dục, biện pháp tâm lý xã

hội. Đó là những biện pháp quản lý cơ bản để chủ thể quản lý đạt được mục tiêu

61

quản lý. Tùy từng trường hợp, từng hoàn cảnh, từng đối tượng mà vận dụng các

biện pháp quản lý phù hợp, nhằm xây dựng môi trường văn hoá trong nhà

trường. Sự vận động các quan hệ của con người trong các quá trình sáng tạo, tái

tạo, đánh giá, lưu giữ và hưởng thụ các sản phẩm vật chất và tinh thần của mình,

là tổng hòa các giá trị văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần tác động đến con

người và cộng đồng trong một không gian và thời gian xác định. Xây dựng môi

trường văn hoá thực chất là xây dựng VHHĐ và phát huy tác dụng của từng hệ

thống trong cấu trúc tổng thể của nó.

Môi trường văn hoá ở trường đại học có vai trò cực kỳ quan trọng đối với

đời sống cộng đồng và quá trình xây dựng con người, trở thành nhân tố thúc đẩy

con người tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc,

phát huy tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Nội dung VHHĐ cần được tổ chức quản lý gồm:

- Các mục tiêu và chính sách, các chuẩn mực và nội quy.

- Biểu tượng, các giá trị và truyền thống văn hoá của nhà trường.

- Niềm tin, thái độ, cảm xúc và ước muốn cá nhân.

- Các mối quan hệ giữa các nhóm và các thành viên.

- Nghi thức và hành vi, trang phục.

Căn cứ vào các nội dung này , các trường xây dựng thành các quy định, nội

quy cụ thể phù hợp với đặc điểm của trường.

Tiêu chí 5: Về Hành vi thể hiện mối quan hệ giữa các thành viên trong

nhà trường

Hiệu quả GDVHHĐ cho sinh viên không chỉ được đo bằng tiêu chí nhận

thức hay thái độ tích cực đối với VHHĐ mà phải được biểu hiện thông qua tính

chủ động, tính tích cực, sáng tạo trong hoạt động thực tiễn của họ và các hoạt

động xã hội khác của sinh viên. Nó bao gồm tính tích cực trong hoạt động học

tập trang bị tri thức, chuyên môn nghề nghiệp và tính tích cực chính trị - xã hội

trong rèn luyện đạo đức, lối sống văn hóa trong hoạt động xã hội và sinh hoạt

đời thường, biểu hiện thông qua hành vi ứng xử trong các mối quan hệ xã hội đa

chiều trong nhà trường. Tiêu chí quan trọng nhất đánh giá VHHĐ của các thành

viên trong nhà trường là những hành vi văn hóa. Dù nhận thức đúng đắn về

VHHĐ, có thái độ khẳng định VHHĐ có tác động trực tiếp đến việc hình thành

62

nhân cách mà không có những hành vi tương xứng thì khó có thể nói cá nhân

hay tổ chức đó có VHHĐ. Chẳng hạn hành vi quay cóp, gian lận trong thi, kiểm

tra là hành vi là hành vi xấu vi phạm VHHĐ; bao che sai lầm của bạn là đồng

lõa; hỗn láo với thầy cô là không đúng v.v…, nhưng từ nhận thức đến hành vi là

một khoảng cách rất xa. Quy định sinh viên trang phục đến lớp phải sạch sẽ, gọn

gàng, nghiêm túc; trong giao tiếp ứng xử với thầy, cô giáo phải tôn trọng, lễ độ;

trong giao tiếp ứng xử với bạn học phải tôn trọng, thân thiện, hòa nhã. Trong học

tập SV phải tự giác tuân thủ kỷ luật, nội quy, quy chế đào tạo và rèn luyện của

nhà trường, biết sắp xếp tổ chức quá trình tự học, tổ chức cuộc sống cá nhân

khoa học và hiệu quả. SV phải tham gia tích cực, có ý thức trách nhiệm trong

đấu tranh với những hành vi, biểu hiện tiêu cực, vô văn hóa, các tệ nạn xã hội

trong lớp, trong trường và nơi sinh hoạt. Tính tích cực trong hoạt động chính trị -

xã hội của sinh viên biểu hiện ý thức, trách nhiệm cao về nghĩa vụ công dân,

mức độ thực hiện nghĩa vụ:

- Tham gia tích cực, tự giác vào các hoạt động xã hội do trường, Đoàn

thanh niên, Hội sinh viên tổ chức. Vận động các thành viên khác tham gia vào

các phong trào thi đua học tập, rèn luyện sinh viên.

- Tham gia phong trào thi đua học tập rèn đức luyện tài, sinh viên nghiên

cứu khoa học, tham gia các hội thi sinh viên sáng tạo, tham gia các câu lạc bộ

nghề nghiệp.

- Tự giác thực hiện và vận động các thành viên khác trong việc thực hiện

đường lối, pháp luật của Đảng và Nhà nước.

- Tham gia tích cực vào các phong trào hoạt động cộng đồng như sinh viên

tình nguyện, hiến máu nhân đạo…

- Tích cực đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, tệ nạn xã hội trong sinh

viên, trong trường học góp phần làm lành mạnh trường học.

Chất lượng GDVHHĐ là một thể thống nhất của tiêu chí tinh thần và tiêu

chí thực tiễn được thể hiện trên ba mức độ từ thấp đến cao, theo con đường cung

cấp tri thức, hình thành niềm tin, thái độ và sự tự điều chỉnh hành động thực tiễn.

Trong đó mức độ tích cực hành động thực tiễn phù hợp với chuẩn mực của cộng

đồng là mức độ cao nhất của công tác GDVHHĐ. Mỗi người phải có thái độ lịch

sự, nhã nhặn, tôn trọng lẫn nhau; không nói tục; không hút thuốc lá trong phòng

63

học, phòng họp; không sử dụng điện thoại di động khi lên lớp, dự họp. Quan hệ

nam nữ phải trong sáng, phù hợp với truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc;

không ngồi trong các khu vực bóng tối, vắng vẻ hoặc có những hành vi không

lành mạnh trong khuôn viên trường, không xúc phạm danh dự, nhân phẩm, thân

thể người khác. Trong giao tiếp với sinh viên và khách đến liên hệ công tác

CBNV phải nhã nhặn, lắng nghe ý kiến, giải thích, hướng dẫn rõ ràng, cụ thể các

quy định liên quan đến giải quyết công việc; không có thái độ hách dịch, nhũng

nhiễu, gây khó khăn, phiền hà khi thực hiện nhiệm vụ. Trong giao tiếp ứng xử

với đồng nghiệp CBNV phải có thái độ trung thực, thân thiện, hợp tác; khi giao

tiếp qua điện thoại phải xưng tên, đơn vị công tác; trao đổi ngắn gọn, tập trung

vào nội dung công việc; không ngắt điện thoại đột ngột. CBNV không truyền bá

tôn giáo, tiến hành các nghi thức tôn giáo trái pháp luật, không tuyên truyền

chống phá Nhà nước; không tham gia biểu tình, lập hội và các hình thức hoạt

động khác trái với quy định của pháp luật. Người có VHHĐ không tham gia tệ

nạn xã hội như ma túy, mại dâm, mê tín dị đoan; không in sao, phát tán, sử dụng

các tài liệu có nội dung phản động, bạo lực, đồi trụy; không tàng trữ, vận

chuyển, trao đổi, mua bán, sử dụng, mang vũ khí, hung khí, chất cháy, nổ, các

loại hóa chất độc hại trái phép trong khuôn viên trường. Người có VHHĐ phải

để xe đúng nơi quy định; không để xe trong văn phòng, hành lang nơi làm việc,

học tập, giữ gìn vệ sinh, cảnh quan, môi trường.

2.2.3.3. Nhóm tiêu chí đánh giá hiệu quả GDVHHĐ từ chi phí nguồn lực

phù hợp với mục đích và kết quả gíao dục văn hoá học đường

Trong GDVHHĐ, hiệu quả được xác định bởi sự tương quan giữa kết quả

với mục đích và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả ấy. Bởi vậy đánh giá

HQGDVHHĐ không thể không tính đến chi phí các nguồn lực cơ bản đầu tư cho

hoạt động GDVHHĐ bao gồm chi phí về nguồn nhân lực, chi phí về cơ sở vật

chất và chi phí về thời gian. Tổng hợp các chi phí này càng thấp, càng hợp lý

nhưng kết quả đạt được của hoạt động GDVHHĐ càng cao, thì khi đó

HQGDVHHĐ càng lớn.

Tiêu chí 6: Chi phí về nhân lực

Nhân lực là sức người, về mặt dùng trong lao động sản xuất, kinh doanh và

hoạt động xã hội [101, tr.688]. Nhân lực được hiểu là tất cả các tiềm năng của

64

con người trong một tổ chức hay xã hội (kể cả những thành viên trong ban lãnh

đạo) tức là tất cả các thành viên trong tổ chức sử dụng kiến thức, khả năng, hành

vi ứng xử và giá trị đạo đức để tổ chức hoạt động, duy trì và phát triển tổ chức,

đơn vị. Chi phí về nhân lực nghĩa là sử dụng tổng số nhân lực bao nhiêu, phân bổ

số lượng nhân lực đó một cách hợp lý cho các hoạt động cụ thể cũng như cho

tổng thể các hoạt động theo kế hoạch, sự phối hợp giữa các đơn vị, tổ chức thành

viên nhằm đảm bảo thực hiện mục tiêu chủ thể đặt ra.

Trường học được xem là một “đại gia đình” trong đó các thành viên: nhà

quản lý, thầy, trò, cán bộ công nhân viên, các đối tác trong quá trình phát triển

của nhà trường. Về cơ bản, cơ cấu tổ chức của một trường đại học (cấp trường)

bao gồm Đảng ủy (bí thư, phó bí thư, các ủy viên thường vụ và các thành viên

ban chấp hành Đảng ủy), Ban Giám hiệu (thường có 1 hiệu trưởng và 2-4 hiệu

phó). Ban giám hiệu nhà trường là yếu tố quyết định nếu lãnh đạo nhà trường

quan tâm đến sự phát triển bền vững, đến thương hiệu nhà trường, thì vấn đề

giáo dục, xây dựng và thực hiện VHHĐ của nhà trường được thể hiện, được tính

đến trong chương trình đào tạo, được xem là một trong những nhiệm vụ trọng

tâm, là điều kiện để đổi mới căn bản toàn diện của nhà trường. Các khoa (mỗi

khoa có trưởng khoa, các phó trưởng khoa, các giảng viên công tác tại khoa), các

bộ môn (có tổ trưởng, tổ phó và các giảng viên), các phòng, ban chức năng (có

trưởng phòng/ban và phó trưởng phòng/ban cùng các chuyên viên), các viện,

trung tâm trực thuộc trường đại học, các đoàn thể bao gồm Công đoàn (có chủ

tịch, phó chủ tịch và công đoàn viên là cán bộ, giảng viên, nhân viên), Đoàn

Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (có Ban chấp hành Đoàn trường gồm bí thư,

phó bí thư và các ủy viên), Hội sinh viên (có chủ tịch, phó chủ tịch và các ủy

viên)… Đây là những chủ thể GDVHHĐ cho sinh viên.

Trong trường đại học, sự bố trí một cách hợp lý, khoa học về cơ cấu tổ

chức các khoa, phòng, ban, tổ bộ môn... , cán bộ, giảng viên ở từng bộ phận với

sự phân công nhiệm vụ rõ ràng, cụ thể khoa học, hợp lý cũng là một yếu tố có

ảnh hưởng quan trọng đến hoạt động GDVHHĐ, đến môi trường VHHĐ. Giảng

viên là những người trực tiếp đứng trên bục giảng với nhiệm vụ trao truyền

những tri thức chuyên môn và kiến thức xã hội, kỹ năng sống, thái độ sống tích

cực cho sinh viên. Với vai trò, vị thế là chủ thể quá trình dạy - học, giảng viên là

65

nhân tố có vai trò quyết định hàng đầu, trực tiếp trong việc giáo dục, xây dựng

môi trường VHHĐ lành mạnh, ở các trường đại học.

Khi bàn về giáo dục nói chung và giáo dục trong từng nhà trường nói riêng

người ta thường chỉ quan tâm đến người dạy và người học mà quên rằng còn có

một bộ phận tuy không trực tiếp tham gia quá trình dạy - học nhưng có vai trò

nhất định trong các bộ phận cấu thành một đơn vị trường học, đó là cán bộ công

nhân viên trong mỗi trường học, họ là những người phục vụ, hỗ trợ đắc lực cho

quá trình đào tạo của nhà trường. Cán bộ, nhân viên có thể là những người tham

gia công tác quản lý mà không trực tiếp giảng dạy, có thể vừa giảng dạy vừa phụ

trách một mảng hoạt động, một bộ phận nhất định trong cơ cấu trường học. Nhân

viên có thể là những người làm những công việc chuyên biệt ở các khoa,

phòng, ban, trung tâm hoặc bộ phận nhân viên bảo vệ, nhân viên môi

trường... có trách nhiệm gắn với công việc được giao và họ cũng tham gia

vào quá trình giáo dục, xây dựng và thực hiện VHHĐ trong trường đại học

được thể hiện qua chất lượng, hiệu quả công việc và ý thức, thái độ trong

ứng xử với các thành viên trong trường đại học. Như vậy cán bộ, công nhân

viên cũng là một nhân tố rất quan trọng góp phần vào quá trình GDVHHĐ cho

sinh viên trong trường đại học.

Tiêu chí 7: Chi phí về cơ sở vật chất

Cơ sở vật chất của nhà trường bao gồm: nơi làm việc của cán bộ quản lý

(nhà hiệu bộ), nơi làm việc, sinh hoạt chuyên môn của giảng viên (văn phòng

khoa, ban, trung tâm), nơi học tập của sinh viên (giảng đường, xưởng thực

hành), nơi sinh hoạt của sinh viên (ký túc xá), nơi tự học (thư viện, phòng truyền

thống), nơi rèn luyện thân thể (sân vận động, nhà giáo dục thể chất), vui chơi

giải trí, sinh hoạt văn hóa văn nghệ, câu lạc bộ (nhà văn hóa)… và các thiết bị

phục vụ học tập và sinh hoạt. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất còn bao gồm quang

cảnh sinh hoạt trong trường và cách bố trí các cơ sở vật chất đó như thế nào để

có tác động giáo dục đến tính thẩm mỹ, tính khoa học, tính tổ chức kỷ luật cho

sinh viên. Tất cả không gian đó tạo nên sự thoải mái, tự tin cho sinh viên, là điều

kiện để sinh viên yêu trường, yêu lớp, yêu ngành nghề được đào tạo khi được

học tập, rèn luyện trong cơ sở đào tạo khang trang, hiện đại, có thương hiệu.

Điều này cũng tạo ra môi trường GDVHHĐ tốt cho nhà trường, nó là một trong

66

những điều kiện quan trọng để đào tạo sinh viên phát triển toàn diện. Không thể

phủ nhận, chất lượng đào tạo tương quan tỷ lệ thuận với tính hiện đại, đồng bộ

và sự hoàn thiện của cơ sở vật chất. Điều này chỉ có thể thực hiện tốt nếu đảm

bảo được cả hai mặt: xây dựng, đầu tư và quản lý, khai thác, sử dụng một cách

tối ưu hóa cơ sở vật chất. Nói cách khác, quá trình xây dựng, nâng cấp cơ sở vật

chất, trang thiết bị phục vụ đào tạo của các trường đại học phải đi đôi với việc

quản lý, khai thác hợp lý, hiệu quả cao nhất những điều kiện cơ sở vật chất có

sẵn. Trong đó, việc xây dựng được các nội quy, quy trình cụ thể về sử dụng và

bảo quản cơ sở, trang thiết bị, phương tiện dạy học là việc làm tiên quyết, bởi đó

chính là quy ước, để mọi người thực hiện, đồng thời cũng là “chế tài” để xử lý

những hành vi cố tình vi phạm làm hư hỏng, lãng phí, mất mát...

Sự tham gia thực hiện nghiêm túc của tất cả cán bộ, giảng viên, công nhân

viên, sinh viên trong quá trình sử dụng và quản lý cơ sở vật chất phương tiện,

thiết bị kỹ thuật chính là điều kiện để phát huy tinh thần làm chủ, là sự biểu hiện

văn hóa ứng xử tích cực của mọi thành viên đối với cơ sở vật chất của nhà

trường, đây cũng chính là yếu tố góp phần nâng cao hiệu quả GDVHHĐ cho

sinh viên.

Tiêu chí 8: Chi phí về thời gian

Thời gian là hình thức tồn tại của vật chất (cùng với không gian), trong

đó vật chất vận động phát triển liên tục, không ngừng. Thời gian và không

gian đều là vô tận" [95, tr.923]. Thời gian là một khái niệm để diễn tả trình tự

xảy ra của các sự kiện, biến cố và khoảng kéo dài của chúng. Thời gian được

xác định bằng số lượng các chuyển động (hoạt động) của các đối tượng có

tính lặp lại (sự lượng hoá các chuyển động lặp lại) và thường có một thời

điểm mốc gắn với một sự kiện nào đó. Con người rất coi trọng thời gian, coi

nó là một thứ vô cùng quý giá, đã đánh mất và tiêu hao đi thì không bao giờ

có lại được nữa. Trong hoạt động tự nhiên, khoa học tự nhiên thời gian là

một đại lượng quan trọng trong những công thức toán học, vật lý hay hóa

học... Trong hoạt động xã hội, khoa học xã hội, yếu tố thời gian đã trở thành

một yếu tố vô cùng quan trọng, góp phần làm lên sự thành bại hay mức độ

hiệu quả trong công việc. Do vậy, con người luôn có ý thức sử dụng thời gian

một cách tiết kiệm, hợp lý và hiệu quả nhất.

67

Xã hội ngày càng phát triển thì nhịp độ, tiết tấu cuộc sống ngày càng

nhanh, thậm chí tới mức áp lực, trong khi đó, thời gian cho mỗi con người là hữu

hạn, vì vậy để giảm áp lực về thời gian, công việc có hiệu suất cao nhất, mỗi

người, mỗi đơn vị, tập thể đều phải có kế hoạch làm việc thật khoa học, sử dụng

thời gian một cách hợp lý nhất. Việc sử dụng hợp lý thời gian chính là biểu hiện

của tính khoa học, tính văn hóa trong việc xắp xếp thời gian cho từng công việc,

từng hoạt động ở từng thời điểm, mỗi giờ, mỗi ngày, mỗi tháng, mỗi năm, cho cả

đời người hay cho nhiều thế hệ. Việc hoạch định thời gian càng chi tiết, càng

hợp lý chứng tỏ hoạt động đó, nhiệm vụ đó có tính khả thi cao, có hiệu quả cao.

2.3. Những yếu tố chi phối hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho

sinh viên

2.3.1. Điều kiện kinh tê –xã hội

Xét ở bình diện xã hội, mục đích của GDVHHĐ là nhằm kiến tạo, củng cố

ý thức xã hội mới cho sinh viên, trực tiếp là hình thành ý thức kỷ luật, ứng xử có

văn hóa trong trường học. Ý thức xã hội, xét đến cùng là sự phản ánh tồn tại xã

hội. Mặc dù ý thức xã hội nói chung và nhận thức về VHHĐ nói riêng, đôi khi

có tính vượt trước, nhưng sự hình thành ý thức cộng đồng mới không chỉ là kết

quả của các biện pháp giáo dục tư tưởng mà còn là sản phẩm của các biện pháp

kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Do đó, hiệu quả GDVHHĐ không chỉ chịu tác

động của các yếu tố nội tại của nó mà còn chịu sự chi phối của điều kiện kinh tế,

chính trị, văn hóa - xã hội trong nước và quá trình hội nhập quốc tế.

Giáo dục văn hóa học đường một hoạt động xây dựng, hoàn thiện nhân

cách sinh viên đồng thời là điều kiện cho quá trình đổi mới giáo dục theo hướng

hiện đại phù hợp với yêu cầu mới của sự phát triển, trong khi con người và môi

trường có mối quan hệ qua lại biện chứng với nhau. Con người tạo ra môi trường

của mình, đồng thời môi trường lại có ảnh hưởng quy định, chi phối đến sự tồn

tại và phát triển của con người. C.Mác và Ph. Ăng-ghen đã nhận định: “Con

người sáng tạo ra hoàn cảnh đến mức độ nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con

người đến mức ấy” [14, tr.306]. Môi trường xã hội khách quan còn tác động một

cách gián tiếp đến hiệu quả thông qua việc cung cấp các nguồn lực cho

GDVHHĐ. Kinh tế, khoa học công nghệ, truyền thông, giao lưu văn hóa phát

triển sẽ cung cấp nguồn kinh phí, phương tiện, cơ sở vật chất dồi dào cho

68

GDVHHĐ. Sự tác động của môi trường xã hội khách quan đến hiệu quả

GDVHHĐ cả ở chiều hướng tích cực và tiêu cực. Nếu môi trường xã hội khách

quan có nhiều thuận lợi sẽ góp phần nâng cao hiệu quả GDVHHĐ và ngược lại

khi môi trường xã hội khách quan biến động phức tạp, có nhiều biểu hiện tiêu

cực, lệch lạc thì hiệu quả GDVHHĐ sẽ không mang lại như mong muốn.

Môi trường bên ngoài các trường đại học bao gồm môi trường hẹp và môi

trường rộng. Môi trường hẹp là tình hình kinh tế, an ninh chính trị, trật tự an toàn

xã hội, đời sống văn hoá dân cư trên địa bàn nơi có trường đại học, tiếp đó là

mục tiêu đào tạo của bậc đại học nói chung mục tiêu của từng trường đại học nói

riêng. Môi trường rộng hơn là tình hình kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của đất

nước. Trong đó, tốc độ phát triển kinh tế, luật và các chính sách phát triển giáo

dục và đào tạo ; các quyết sách chính trị trong đối nội, đối ngoại của Đảng và

Nhà nước; các quan hệ, đời sống văn hoá tinh thần xã hội có tác động mạnh mẽ

đến hiệu quả GDVHHĐ. Tình hình kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội thế giới và

khu vực cũng tác động không nhỏ đến thái độ và niềm tin của sinh viên. Các môi

trường nêu trên tác động đến hiệu quả với cường độ khác nhau tuỳ thuộc vào

tính chất, quy mô các sự kiện và sự tiếp nhận thông tin của đối tượng.

Nghiên cứu mối liên hệ giữa môi trường xã hội khách quan với hiệu quả

GDVHHĐ cho phép rút ra vấn đề có tính nguyên tắc là, khi tiến hành đánh giá

cũng như lựa chọn các biện pháp nâng cao hiệu quả cần có quan điểm khách

quan, toàn diện, lịch sử - cụ thể, tránh các biểu hiện chủ quan, duy ý chí, tuyệt

đối hoá vai trò của GDVHHĐ, thoát ly điều kiện thực tế của từng trường.

2.3.2. Các chủ thể và mối quan hệ tương tác đa chiều giữa các chủ

thể tham gia giáo dục văn hóa học đường

Là hoạt động có mục đích, có kế hoạch nhằm cải tạo thực tế khách quan, vì

vậy chủ thể đóng vai trò quyết định trong tổ chức tiến hành GDVHHĐ. Với tư

cách lãnh đạo, quản lý, chủ thể là người vạch chủ trương, phương hướng, đề ra

mục đích, yêu cầu và phân phối các nguồn lực cho hoạt động GDVHHĐ. Chủ

thể lãnh đạo, quản lý đồng thời là người kiểm tra, đánh giá, thẩm định hiệu quả

GDVHHĐ, vì vậy nhận thức, kỹ năng đánh giá có ảnh hưởng đến độ chính xác

của hiệu quả. Với tư cách tổ chức thực hiện, chủ thể là người lựa chọn nội dung,

sử dụng hình thức, phương pháp, phương tiện, thời điểm tiến hành GDVHHĐ.

69

Xét đến cùng, chủ thể mới là yếu tố quyết định sự tác động của nội dung, hình

thức, phương pháp, phương tiện GDVHHĐ, bởi chúng có phong phú, hiện đại

đến đâu cũng không có giá trị, nếu chủ thể không biết khai thác sử dụng hợp lý

để tác động đến đối tượng. Chủ thể là tấm gương để đối tượng học tập và làm

theo. Sinh thời, Lênin luôn nhắc nhở những nhà cộng sản Nga: “Chúng ta hãy

nhớ lại rằng Ăng-ghen đã nói là chúng ta phải tác động bằng sự nêu gương” [71,

tr.269]. Hồ Chí Minh cũng cho rằng: “Nói chung, các dân tộc phương Đông đều

giàu tình cảm, đối với họ một tấm gương sống còn giá trị hơn một trăm bài diễn

văn tuyên truyền”[81, tr.263].

Hiệu quả GDVHHĐ không phụ thuộc vào chủ thể nói chung mà chịu sự tác

động của số lượng và chất lượng chủ thể, sự kết hợp giữa các chủ thể để tạo nên

quan hệ tương tác đa chiều nhằm nâng cao trách nhiệm của các chủ thể. Số

lượng chủ thể đầy đủ sẽ bảo đảm cho GDVHHĐ hoạt động được nhịp nhàng,

thông suốt theo đúng chức trách, nhiệm vụ của từng tổ chức, từng cá nhân. Sự

thiếu hụt về số lượng dẫn đến phải kiêm nhiệm, làm thay, dẫn đến thực hiện

việc không có chiều sâu, thiếu đầy đủ, bài bản. Trong đó, yếu tố chi phối mạnh

nhất đến hiệu quả GDVHHĐ phải là phẩm chất và năng lực của chủ thể. Sự mẫu

mực về chuyên môn, đạo đức, lối sống, trình độ nhận thức, khả năng giáo dục,

thuyết phục của chủ thể có vai trò quan trọng trong GDVHHĐ. Bên cạnh đó,

chất lượng chủ thể còn biểu hiện ở nhận thức, trách nhiệm đối với hoạt động

GDVHHĐ. Khi có nhận thức đúng, chủ thể sẽ có tinh thần trách nhiệm cao, luôn

tự giác, tích cực, sáng tạo, vượt qua mọi khó khăn trong quá trình tiến hành

GDVHHĐ cho sinh viên.

Năng lực là mức độ thành thục, chuyên nghiệp hoá các kỹ năng giáo dục,

thuyết phục và thực hành các bước tiến hành GDVHHĐ của chủ thể. Năng lực

và trách nhiệm là hai phẩm chất không thể thiếu của chủ thể trong quá trình giáo

dục. Trách nhiệm cao, năng lực tốt thì hiệu quả đạt được càng cao, ngược lại, ở

đâu chủ thể thiếu mẫu mực, thiếu trách nhiệm, năng lực tiến hành GDVHHĐ

yếu kém, ở đó sự chuyển biến về nhận thức, thái độ, niềm tin và tính tích cực

hoạt động thực tiễn phù hợp của đối tượng đều hạn chế.

70

Trong các trường đại học, GDVHHĐ cho sinh viên là hệ thống phong phú,

đa dạng các chủ thể do cơ cấu tổ chức và chức năng của từng bộ phận, cá nhân

quy định. Sự tác động của từng thành phần chủ thể đến HQGDVHHĐ không

đồng đều do chức năng, nhiệm vụ khác nhau. Số lượng chủ thể đủ theo biên chế,

chất lượng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ là yếu tố quan trọng bảo đảm hiệu quả của

GDVHHĐ cho sinh viên. Vai trò quyết định của chủ thể trong tổ chức thực hiện

cho phép rút ra vấn đề có tính quy luật, đó là chăm lo xây dựng, kiện toàn chủ

thể đủ về số lượng, mạnh về chất lượng là biện pháp quan trọng hàng đầu để

nâng cao HQGDVHHĐ cho sinh viên.

2.3.3. Sinh viên với tư cách vừa là đối tượng tiếp nhận giáo dục văn

hóa học đường vừa là đối tượng chủ động thực hành xây dựng văn hóa

học đường

Giáo dục văn hóa học đường là hoạt động tác động vào thế giới tinh thần,

tư tưởng của con người. Bản chất của ý thức là sự phản ánh một cách năng động,

sáng tạo thế giới khách quan vào đầu óc con người nên việc tiếp thu nội dung

GDVHHĐ phụ thuộc vào lăng kính chủ quan của đối tượng. Cùng một hoạt

động cụ thể của GDVHHĐ nhưng đối tượng khác nhau, hiệu quả thu được khác

nhau. Trình độ nhận thức, niềm tin và tính tích cực trong hoạt động thực tiễn của

đối tượng trước hết phụ thuộc đặc điểm tâm lý- xã hội như: giai tầng xã hội xuất

thân, dân tộc, tôn giáo, vùng miền, mức sống, phong tục tập quán của đối tượng.

Hiệu quả GDVHHĐ còn phụ thuộc vào hệ thống giá trị, thái độ chính kiến,

động cơ và tính tích cực xã hội của đối tượng; phụ thuộc vào nhu cầu, lợi ích và

các đặc điểm tâm lý xã hội khác của đối tượng. Trình độ nhận thức, niềm tin và

tính tích cực hoạt động thực tiễn phù hợp của đối tượng không phải là bất biến

mà phụ thuộc vào thể chất và tâm trạng của đối tượng ở thời điểm đánh giá.

Trong các đặc điểm của đối tượng nêu trên, nhu cầu và lợi ích đóng vai trò quyết

định đến hiệu quả GDVHHĐ. Bởi sự phản ánh của ý thức con người nói chung

và việc tiếp thu, chiếm lĩnh nội dung giáo dục nói riêng suy đến cùng đều xuất

phát từ nhu cầu, lợi ích của từng cá nhân. Đi liền với nhu cầu là lợi ích bởi đối

với chủ thể hành động, sự thoả mãn nhu cầu là lợi ích, là nhu cầu được hiện thực

hoá. Thông tin đối với chủ thể dù quan trọng đến mức nào nhưng đối tượng

71

không có nhu cầu, không thấy được ích lợi của chúng, họ vẫn hờ hững, vô cảm

với chúng. “Muốn tác động giáo dục mang lại hiệu quả phải thông qua các “điều

kiện bên trong” của người được giáo dục. Đó là nhu cầu, động cơ, trình độ, khả

năng tiếp thu của người được giáo dục” [115, tr.24].

Mặt khác, quá trình biến kiến thức hiểu biết về VHHĐ thành niềm tin và

tính tích cực trong hoạt động học tập, nghiên cứu, hoạt động xã hội và ứng xử

phù hợp. có văn hóa của sinh viên là một quá trình vô cùng phức tạp, lệ thuộc

vào các quy luật lĩnh hội, ghi nhớ, tư duy của đối tượng. Trước hết, xuất phát từ

tính ích lợi của tri thức mà đối tượng nảy sinh hứng thú, có tình cảm ban đầu đối

với tri thức. Trên cơ sở đó, đối tượng xuất hiện niềm say mê lĩnh hội tri thức,

tích cực, tự giác tiến hành phân tích, so sánh, đối chiếu với các tri thức cũ để

hiểu rõ nội dung tri thức mới. Tiếp đó, đối tượng sử dụng kinh nghiệm thực tiễn,

tư duy, nghiền ngẫm để rút ra được tri thức, bài học, đối tượng tiến hành cấu tạo

lại tri thức theo cách hiểu mới của bản thân và vận dụng nó vào hoạt động thực

tiễn của mình… Khi tri thức có sự hoà quyện với tình cảm, nó trở thành niềm tin

của đối tượng. Từ đó, đối tượng bộc lộ ý chí hành động phù hợp với niềm tin của

mình và xuất hiện trạng thái sẵn sàng hành động. Khi có đủ điều kiện, từ trạng

thái tâm lý tích cực sẽ trở thành động lực bên trong điều chỉnh, thúc đẩy hoạt

động nhận thức và hoạt động thực tiễn của đối tượng một cách chuẩn mực, phù

hợp theo hướng tích cực. Đó cũng là hiệu quả cuối cùng và cao nhất của

GDVHHĐ.

Hoạt động GDVHHĐ trước hết nhằm tạo ra sự chuyển biến tích cực

trong nhận thức và thái độ, hành vi của sinh viên. Nếu sinh viên không mở

lòng, không có nhu cầu cải tạo bản thân, mọi nỗ lực của chủ thể cũng trở nên

vô ích. Chính vì vậy, sinh viên vừa là đối tượng, vừa là chủ thể của quá trình

GDVHHĐ. Muốn nâng cao hiệu quả, chủ thể không chỉ phải nắm chắc đối

tượng, mà còn phải quan tâm đáp ứng nhu cầu chính đáng, khơi dậy tính tích

cực, tự giác của đối tượng, tăng cường giáo dục đi đôi với phát huy vai trò tự

giáo dục, tự rèn luyện thông qua hành động, ứng xử trong các mối quan hệ

thực tiễn của sinh viên.

72

Trong quá trình nghiên cứu về thực trạng GDHHĐ ở trường đại học, nhất là

với 124 ý kiến bao gồm các nhà quản lý giáo dục, giáo viên, chuyên gia làm việc

trong lĩnh vực giáo dục tương đôi thống nhất về những giá trị cốt lõi của một

trường đại học. Theo thứ tự, thứ nhất là tinh thần sáng tạo - Trường đại học là

nơi trao truyền tri thức, kỹ năng, những giá trị sống vì vậy tinh thần sáng tạo

phải được đề cao. Thứ hai là tinh thần dân chủ, để thực hiện được tinh thần sang

tạo thì trường đại học phải tạo ra được môi trường dân chủ trong mọi hoạt động

của nhà trường (nghiên cứu khoa học, dạy, hoc...), tiếp đến là khả năng hội nhập

đó là tri thức, kỹ năng, những phẩm chất được đào luyện từ trường phải đáp ứng

nhu cầu của sự phát triển đất nước và hội nhập quốc tế...

Biểu đồ 2.2.3: Hệ giá trị của trường đại học (Phụ lục bảng 20 )

2.3.4. Sự phù hợp của mục đích, nội dung với hình thức, phương

pháp giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên

Mục đích là một trong những căn cứ để xác định kết quả, là yếu tố quyết

định đến tính chất, quy mô, loại hình của hiệu quả. Tuỳ theo mục đích cần đạt tới

của từng hoạt động cụ thể của GDVHHĐ mà hiệu quả là tri thức, thái độ hay

hành vi của đối tượng. Nếu mục đích lâu dài, hiệu quả có thể sẽ lâu dài, mục

đích trực tiếp, hiệu quả là trực tiếp. Mục đích có ảnh hưởng đến hiệu quả còn thể

hiện ở chỗ nếu mục đích phù hợp sẽ mang lại hiệu quả cao, mục đích đặt ra quá

cao, quá thấp hay không phù hợp với thực tiễn đều không mang lại hiệu quả như

73

mong muốn. Xác định mục đích đúng đắn có căn cứ khoa học, phù hợp với đối

tượng là điều kiện quan trọng bảo đảm hiệu quả cao cho hoạt động GDVHHĐ

cho sinh viên trong các trường đại học. Trong các trường đại học, mục đích cao

nhất của GDVHHĐ là góp phần hoàn thiện nhân cách, phẩm chất đạo đức, lối

sống lành mạnh có văn hóa cho sinh viên- dự nguồn nhân lực trình độ cao - theo

mục tiêu, yêu cầu đào tạo của từng trường. Để đạt được mục đích ấy phải thông

qua mục tiêu của từng hoạt động cụ thể, việc xác định mục tiêu của từng hoạt

động cụ thể cần phải phù hợp với năng lực của chủ thể, đặc điểm của đối tượng,

khả năng huy động nguồn lực của từng trường mới mang lại hiệu quả cao, tạo

tiền đề để đạt tới mục đích cuối cùng của GDVHHĐ cho sinh viên.

Nội dung là toàn bộ các tri thức, kinh nghiệm và cách vận dụng nó vào giải

quyết các mối quan hệ của các thành viên trong trường học với nhau và với xã

hội một cách chuẩn mực (ngôn ngữ, thái độ, phong thái, hành vi) thuộc về lĩnh

vực mà hoạt động GDVHHĐ có nhiệm vụ phải truyền đạt đến sinh viên, tạo nên

hiệu quả ở đối tượng. Nội dung được truyền tải thông qua các hình thức, phương

pháp, phương tiện sẽ chuyển hoá thành nhận thức, ý thức, chuẩn mực, kỹ năng

được vận dựng vào hoạt động thực tiễn (giao tiếp, học tập, lao động và sinh hoạt)

của đối tượng. Sự tác động của nội dung biểu hiện ở tính lôgic, thực tiễn, đặc

biệt là tính ứng dụng nó trong hoạt động cụ thể, tính thuyết phục, phù hợp với

tâm lý, trình độ nhận thức của đối tượng cụ thể, phù hợp với trình độ của đối

tượng sẽ góp phần nâng cao hiệu quả GDVHHĐ. Thực tế còn cho thấy, hiệu quả

GDVHHĐ cho sinh viên chưa cao không chỉ từ nội dung đơn điệu, khuôn cứng,

khó ứng dụng, tính thuyết phục thấp mà còn do thiếu tính thực tiễn, thiết thực,

đáp ứng nhu cầu của đối tượng.

Hình thức, phương pháp có thể coi là công cụ phi vật thể trong tiến hành

GDVHHĐ cho sinh viên. Không có công cụ đó, nội dung khó có thể xâm nhập

và chuyển hoá thành kiến thức, thái độ và hành vi của đối tượng. Sự tác động

của hình thức, phương pháp đến hiệu quả giáo dục ở chỗ nếu hình thức, phương

pháp đa dạng, phong phú sẽ tạo ra các phản ứng dây chuyền thông qua từng mối

quan hệ mà tác động nhiều tầng, nhiều lớp đến đối tượng tập trung vào mục đích

chính cần giáo dục, qua đó hiệu quả giáo dục sẽ cao. Sự phong phú, đa dạng của

74

hình thức, phương pháp, còn tác động đến lý trí, tâm lý và tình cảm của đối

tượng, sẽ kết hợp được tính tự nguyện và tính định hướng trong GDVHHĐ.

Ngoài ra, tính đa dạng, phong phú của hình thức, phương pháp còn phát huy

được sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong GDVHHĐ cho đối tượng, cho

phép thực hiện linh hoạt ở các không gian, thời gian khác nhau, tận dụng được

những thành tựu, tiến bộ của khoa học công nghệ vào công tác GDVHHĐ. Có

thể khẳng định: phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục là những nhân tố

trực tiếp tạo nên chất lượng, hiệu quả của công tác giáo dục GDVHHĐ cho sinh

viên trong trường đại học.

2.3.5. Phương pháp, hình thức đánh giá hiệu quả giáo dục văn hóa

học đường

2.3.5.1. Phương pháp đánh giá

Đánh giá hiệu quả GDVHHĐ là vấn đề phức tạp vì nó thuộc đời sống tinh

thần, tình cảm, thói quen của con người, vì vậy cần sử dụng tổng hợp nhiều

phương pháp đánh giá. Hiện nay, cùng với việc phổ cập kỹ thuật cao, hiện đại và

ứng dụng công nghệ thông tin ngày càng sâu rộng, việc đánh giá hiệu quả

GDVHHĐ cũng đã và đang được áp dụng nhiều phương pháp hiện đại. Đó là

việc sử dụng mạng internet, mạng xã hội để điều tra, sử dụng các phần mềm để

xử lý và phân tích các số liệu.

Sau đây là một số phương pháp cơ bản:

- Đánh giá điển hình: là phương pháp đánh giá dựa trên cơ sở lựa chọn một

số sinh viên có tính đại diện làm điển hình để tiến hành điều tra, nghiên cứu tỉ

mỉ, chu đáo, có hệ thống sự chuyển biến về nhận thức, thái độ và hành vi sau tác

động của GDVHHĐ. Đây là phương pháp đánh giá mang tính chất định tính, khi

đánh giá có thể lựa chọn điển hình ở các mức độ tốt, khá, trung bình, yếu để

nghiên cứu. Thông qua nghiên cứu, phân tích điển hình có thể phát hiện những

vấn đề đặt ra, xu thế chung trong nhận thức, thái độ, hành vi văn hóa của các tập

thể sinh viên.

+ Đánh giá xác suất: là phương pháp đánh giá trên cơ sở chọn ra một số đối

tượng ngẫu nhiên hoặc một số tập thể trong toàn bộ các đối tượng cần đánh giá

75

để lấy tư liệu, từ đó suy ra nhận định chung về tất cả các đối tượng cá nhân và

tập thể sinh viên cần đánh giá.

+ Đánh giá toàn bộ: là phương pháp lần lượt đánh giá tất cả các đối tượng

sinh viên. Phương pháp này thường để đánh giá hiệu quả của những hoạt động

GDVHHĐ quan trọng, kết thúc một giai đoạn, một nhiệm vụ, phù hợp cho

nghiên cứu định lượng. Có thể sử dụng phương pháp đánh giá toàn bộ một lần,

đánh giá thường xuyên hoặc đánh giá nhanh. Đánh giá toàn diện có ưu điểm là

diện tiếp xúc rộng, độ chuẩn xác cao, nhưng cần được tổ chức chu đáo, có quy

định thống nhất, rõ ràng về thời gian, phạm vi, đối tượng, tiêu chuẩn, nội dung vì

đây là một công việc lớn, phức tạp trong cả quá trình điều tra và xử lý kết quả.

2.3.5.2. Hình thức đánh giá

Hiện nay, trong trường đại học có nhiều hình thức có thể sử dụng để đánh

giá hiệu quả GDVHHĐ trong sinh viên, tiêu biểu và phổ biến là các hình thức

sau đây:

+ Chế độ giao ban, báo cáo, nắm bắt tư tưởng, đánh giá xếp loại việc thực

hiện VHHĐ của sinh viên trong tháng (hội nghị các lớp trưởng và bí thư các lớp

với giám hiệu, phòng quản lý sinh viên, cố vấn học tập): đây là các hình thức

phổ biến nhất trong các trường đại học. Việc duy trì nền nếp giao ban, báo cáo

định kỳ và đột xuất theo định kỳ và chế độ đánh giá xếp loại đức dục hàng tháng

giúp cho việc đánh giá hiệu quả GDVHHĐ diễn ra kịp thời, mang tính pháp lý

và có độ tin cậy cao.

+ Tọa đàm, diễn đàn, hội thảo: các hình thức này thường để trao đổi trực

tiếp về các vấn đề cần quan tâm, nắm bắt nhận thức và thái độ, tư tưởng, hành vi

của sinh viên. Đây là phương pháp đơn giản, dễ thực hiện và tương đối tin cậy.

+ Phỏng vấn cá biệt: tiến hành trao đổi riêng với những người có liên quan

như: người quản lý, cố vấn học tập, thủ lĩnh các đội, hội, câu lạc bộ, người thân

hoặc với đối tượng chủ nhân sự việc, hiện tượng cần quan tâm để nắm bắt tình

hình tư tưởng, thái độ, ý kiến của tập thể và cá nhân sinh viên để có những

phương pháp giáo dục, định hướng phù hợp, đúng đắn.

76

+ Nghiên cứu tài liệu: đánh giá nghiên cứu các văn bản, tài liệu, báo cáo

liên quan đến hoạt động của tập thể và cá nhân sinh viên để chắt lọc, nắm bắt

thông tin.

+ Tư vấn: trên cơ sở nắm bắt những xu thế mới, những vấn đề phức tạp nảy

sinh trong đơn vị, có thể mời chuyên gia tâm lý, các học giả có chuyên môn để

luận giải, đánh giá tình hình, tư vấn, đề xuất, kiến nghị.

+ Thống kê: tận dụng chế độ báo cáo thống nhất để thu thập một cách có tổ

chức các số liệu quan trọng phản ánh đặc trưng và quy luật của sự việc để đánh

giá. Đây là phương pháp phổ biến và quan trọng thông qua phân tích kết quả học

tập, hoạt động phong trào để đưa ra các hình thức khen thưởng, kỷ luật kịp thời.

+ Trắc nghiệm khách quan: dùng phương thức điều tra bằng phiếu hỏi,

bảng hỏi với các câu hỏi mở và câu hỏi đóng để đối tượng tự do phát biểu ý kiến

mà không bị bất kỳ một sức ép hoặc sự can thiệp nào nhằm tìm hiểu nhận thức

và thái độ, quan niệm của sinh viên một cách khách quan nhất.

+ Tổng kết thực tiễn, điều tra xã hội học bằng các phương pháp định tính và

định lượng để có kết quả khách quan, khoa học. Từ đó mà xác định hiệu quả của

GDVHHĐ.

Tiểu kết chương 2

Trong chương 2, luận án tập trung vào nghiên cứu hiệu quả GDVHHĐ

cho sinh viên đại học. Để có cơ sở xây dựng tiêu chí hiệu quả GDVHHĐ , luận

án tiếp cận nội dung VHHĐ và GDVHHĐ cho sinh viên, phân tích những yếu tố

chi phối đến GDVHHĐ cho sinh viên.

Giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên là một hoạt động quan trọng

nhằm trang bị tri thức, chuẩn mực, thái độ hành vi ứng xử có văn hóa trong

không gian trường học và cổ vũ tính tích cực hoạt động thực tiễn của sinh viên

trong học tập và sinh hoạt phù hợp với đặc điểm tâm lý lứa tuổi cũng như mục

tiêu đào tạo của bậc đại học theo hướng tích cực và yêu cầu cao về hiệu quả.

Hiệu quả GDVHHĐ là kết quả cao nhất của GDVHHĐ phù hợp với mục đích

đặt ra và sử dụng hợp lý các nguồn lực được đầu tư để thực hiện mục đích ấy.

Hiệu quả GDVHHĐ được chúng tôi đánh giá dưới 3 tiêu chí: tiêu chí tinh

thần (gồm tri thức và niềm tin, thái độ) và tiêu chí thực tiễn thể hiện qua hành

77

vi, hành động của sinh viên, tiêu chí sử dụng chi phí nguồn lực hợp lý vào

hoạt động GDVHHĐ. Khi xem xét từng nhóm tiêu chí, các tiêu chí cụ thể sẽ

được đặt trong tương quan giữa 3 yếu tố cấu thành là mục đích – kết quả - chi

phí nguồn lực.

Đánh giá hiệu quả GDVHHĐ là đánh giá đời sống tinh thần, tư tưởng, tình

cảm, ý thức của cá nhân nên có tính nhạy cảm, khó lượng hóa trong một kết luận

và nó ảnh hưởng đến việc xem xét đánh giá phẩm chất, năng lực chính trị của

con người, của tổ chức. Vì vậy khi xem xét đánh giá hiệu quả phải chú ý tới

những yếu tố chi phối đến hiệu quả của GDVHHĐ cho sinh viên: Môi trường xã

hội, các chủ thể và mối quan hệ tương tác đa chiều giữa các chủ thể tham gia

giáo dục văn hóa học đường, sinh viên với tư cách vừa là đối tượng tiếp nhận

giáo dục văn hóa học đường vừa là đối tượng chủ động thực hành xây dựng văn

hóa học đường, sự phù hợp của mục đích, nội dung với hình thức, phương pháp

giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên, phương pháp, hình thức đánh giá

hiệu quả giáo dục văn hóa học đường,…. Những yếu tố chủ quan và khách quan

cần được xem xét trong mối quan hệ tương tác biện chứng vì chúng đều có tác

động đến hiệu quả VHHĐ cho sinh viên trong các trường đại học.

78

Chương 3

THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ GIÁO DỤC VĂN HÓA HỌC ĐƢỜNG

CHO SINH VIÊN QUA KHẢO SÁT MỘT SỐ TRƢỜNG ĐẠI HỌC

ĐÀO TẠO CÁC NGÀNH KỸ THUẬT

Ở HÀ NỘI

3.1. Thực trạng giáo dục văn hóa học đường trong các trường đại

học đào tạo các ngành kỹ thuật ở Hà Nội

3.1.1. Khái quát về các trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật

trong phạm vi nghiên cứu của luận án

Thủ đô Hà Nội là nơi lực lượng sinh viên tập trung đông nhất, có nhiều

trường đại học nhất, số trường đại học có truyền thống, có “thương hiệu” nhiều

hơn cả. Hơn nữa thủ đô Hà Nội lại là trung tâm văn hóa, chính trị của cả nước

cho nên các trường đại học ở đây có sự liên hệ mật thiết với “tầng cao” của hệ

thống chính trị, với các trung tâm, các viện nghiên cứu khoa học, công nghệ,

giáo dục, văn hóa tư tưởng… ít nơi nào sánh bằng. Điều đó làm cho các hoạt

động của sinh viên Hà Nội, lối sống của sinh viên Hà Nội có sức lan tỏa và có

tầm ảnh hưởng khá mạnh mẽ đến thanh thiếu niên nhiều vùng miền trong cả

nước. Do vậy luận án chú trọng nghiên cứu hiệu quả giáo dục văn hóa học

đường cho sinh viên ở Hà Nội.

Nhưng chỉ trên địa bàn Hà Nội đã có tới 55 trường đại học và 29 học viện

cả công lập và ngoài công lập. Trong 55 trường đại học có 33 trường đào tạo các

ngành kỹ thuật với số lượng sinh viên lớn, vì vậy việc khảo sát sinh viên tất cả

các trường hoặc hầu hết các trường là không thể trong điều kiện và phạm vi của

một luận án. Chính vì lẽ đó, trong các trường đại học ở Hà nội tác giả luận án

các trường đại học đào tạo khối kỹ thuật, căn cứ vào mục tiêu, chức năng và

nhiệm vụ của các trường này là cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng

nhu cầu phát triển và bảo vệ đất nước trong cuộc cách mạng khoa công nghệ

trong kỷ nguyên số, nhất là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Trong 33 trường

đào tạo tác giả luận án chọn mẫu ở 5 trường đại học. Có trường là cơ sở đầu

79

ngành của ngành mình và có bề dày truyền thống (đại học Kiến trúc, đại học

Giao thông vận tải, đại học Xây dựng), có trường có lịch sử lâu năm, mới được

nâng cấp thành trường đại học nhưng đã “chiêu tập” và đào tạo được một lượng

sinh viên rất lớn (đại học Công nghiệp Hà Nội), có trường ngoài công lập được

thành lập vào đầu thời kỳ “bùng nổ” các trường đại học ngoài công lập (đại học

Thành Đô). Cách khảo sát như vậy có thể cho cái nhìn khá bao quát tình hình

sinh viên Hà Nội.

Luận án nghiên cứu đối tượng sinh viên các ngành kỹ thuật vì là nơi đào

đào cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công

nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Đặc trưng các trường đào tạo kỹ thuật là tính

chính xác cao, khác so với khối sư phạm là tính chuẩn mực, các trường quân đội,

công an là tính kỷ luật nghiêm minh, khối kinh tế là linh hoạt và năng động, các

trường nghệ thuật tính nghệ sĩ phá cách và bay bổng… Các trường ngành kỹ

thuật thường có tỷ lệ nam sinh viên đông hơn nhiều so với nữ sinh viên. Tỷ lệ

này làm cho nam sinh viên ít chú ý đến ngoại hình của mình hơn, trong sinh hoạt

ít phải “lên gân” trước các bạn gái, do vậy dễ bộc lộ bản tính thật của mình hơn.

Sinh viên các ngành kỹ thuật cũng “được học” ít môn lý luận. Các bộ môn quản

lý, giáo dục con người, các môn xã hội nhân văn, văn hóa nghệ thuật,… cũng

hầu như không học do đó tính chất mộc mạc chất phác ở nhóm này cũng bộc lộ

rõ rệt hơn.

Trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật theo tiếng Anh: technical

institute hay institute of technology; nghiên cứu các lĩnh vực của khoa học kỹ

thuật và công nghệ, quản lý khoa học và công nghệ, quản lý công nghiệp, kinh tế

kỹ thuật... sinh viên tốt nghiệp các trường này được gọi là kỹ sư. Theo định

nghĩa của Uỷ ban kinh tế và xã hội khu vực châu Á- Thái Bình Dương (ESCAP):

kỹ thuật là kiến thức có hệ thống về quy trình và cách thức ứng dụng để chế biến

vật liệu và thông tin. Nó bao gồm kiến thức, thiết bị, phương pháp và các hệ

thống dùng trong việc tạo ra sản phẩm và cung cấp dịch vụ. Những trường đại

học đào tạo các ngành kỹ thuật ở Việt Nam hiện nay đào tạo nguồn nhân lực

nghiên cứu các lĩnh vực của khoa học kỹ thuật và công nghệ, quản lý khoa học

80

và công nghệ, quản lý công nghiệp, kinh tế kỹ thuật, kỹ sư, kỹ thuật viên bậc cao

trong các lĩnh vực. đặc trưng của các trường này tỷ lệ nam chiếm đa số trung

bình trên 80%, thi đầu vào là các môn khoa học tự nhiên (toán, lý, hóa, sinh) và

say mê công nghệ, kỹ thuật mới.

Hiện nay không chỉ trong sản xuất kinh doanh áp dụng tổ chức quản lý theo

tiêu chuẩn ISO 9001 mà một số đơn vị hành chính sự nghiệp, dịch vụ trong đó

có một số trường đại học chủ yếu là các trường đào tạo các ngành kỹ thuật và

kinh tế đã áp dụng tổ chức, quản lý hoạt động của mình. Trong 5 trường luận án

khảo sát có 4 trường áp dụng, có những trường đạt đến cấp độ 4 của tổ chức

BVQI của Anh như trường đại học Công nghiệp Hà nội. Đây là hệ thống chuẩn

hóa, công khai hóa quy trình từng bước thực hiện các nhiệm vụ, từng vị trí, từng

bộ phận khi tham gia vào thực hiện mục tiêu chung của nhà trường. Hệ thống

tiêu chuẩn này đã góp phần tích cực giúp cho việc tổ chức, quản lý mọi hoạt

động của nhà trường hiệu quả, hiện đại và rất văn minh.Tính văn hóa trong quản

lý, tổ chức ở các trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật cũng ngoại hiện một

cách rõ nét, hướng vào mục tiêu chung là nâng cao chất lượng đào tạo, tạo cơ hội

cho sự sự sáng khởi phát, tinh thần đoàn kết tương trợ giữa các thành viên và

nâng cao uy tín của cơ sở đào tạo với xã hội.

* Trường đại học Công nghiệp Hà Nội

Ngày 28/5/1999 Quyết định số 126/ QĐ- TTg của Thủ tướng Chính phủ

thành lập Trường Cao đẳng Công nghiệp Hà Nội trên cơ sở trường Trung học

Công nghiệp I. Ngày 2/12/2005 Thủ tướng Chính phủ ký quyết định số 315/2005

QĐ/TTg thành lập Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội trên cơ sở Trường Cao

đẳng Công nghiệp Hà Nội. Trường đại học Công nghiệp Hà Nội là trường đại

học trực thuộc Bộ Công thương, đang phát triển để trở thành trường đại học đẳng

cấp quốc tế. Trường hiện có hơn 1800 cán bộ, giảng viên, nhân viên, trong đó có

1451 giảng viên cơ hữu và hợp đồng dài hạn, trong đó trên 80% trình độ trên đại

học (thạc sỹ, tiến sỹ). Trường có nhiều giảng viên dạy giỏi cấp toàn quốc; nhiều

giáo sư, phó giáo sư, tiến sỹ đang tham gia giảng dạy tại trường.

Trường có 03 cơ sở đào tạo với tổng diện tích gần 50 hecta. Tại các cơ sở,

Nhà trường đã xây dựng kiên cố hơn 300 phòng học lý thuyết, 200 phòng thực

hành, thí nghiệm với đầy đủ máy móc, thiết bị phục vụ cho đào tạo khoảng

81

40.000 học viên, học sinh, sinh viên. Trường đã xây dựng mạng lưới liên kết đào

tạo với hơn nhiều cơ sở đào tạo trên cả nước để đào tạo nhiều cấp trình độ đáp

ứng nhu cầu thị trường lao động.Trung tâm thư viện trên gần 400.000 đầu sách

và nhiều loại phòng đọc khác nhau. Gần 2.500 máy vi tính, hệ thống mạng nội

bộ toàn trường kết nối internet phục vụ công tác quản lý điều hành, giảng dạy,

học tập và nghiên cứu khoa học. Ký túc xá hiện đại với hơn 550 phòng ở cho

sinh viên, sinh viên nội trú được trang bị đầy đủ phương tiện sinh hoạt có thể

phục vụ cho gần 6.000 sinh viên, sinh viên. Các dịch vụ đáp ứng nhu cầu của

học sinh, sinh viên như: sân chơi thể thao, dịch vụ thẻ ATM, siêu thị, nhà ăn…

Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội triển khai đào tạo theo học chế tín chỉ bắt

đầu từ năm học 2008 – 2009.

Về qui mô đào tạo: Trường có trên 40.000 sinh viên, sinh viên. Các lĩnh

vực đào tạo: công nghệ, kỹ thuật, kinh tế, may, thời trang, sư phạm, du lịch. Các

loại hình đào tạo đa dạng: chính quy, vừa làm vừa học, liên thông, liên kết nước

ngoài, nâng bậc thợ, đào tạo lao động xuất khẩu, bồi dưỡng ngắn hạn và dài hạn

theo nhu cầu xã hội quan tâm. Trong những năm qua nhà trường đã xây dựng

được chương trình và triển khai đào tạo 21 chuyên ngành đại học chính quy, 18

chuyên ngành đào tạo cao đẳng chính quy, 14 chuyên ngành Trung cấp chuyên

nghiệp và nhiều chương trình đào tạo trình độ khác nhau.

Trường đại học Công nghiệp Hà Nội có lịch sử phát triển trên 117 năm

(1898), tiền thân từ 2 trường: trường chuyên nghiệp Hà Nội và trường chuyên

nghiệp Hải Phòng. Trong quá trình xây dựng và phát triển, nhà trường đã được

Đảng và Nhà nước, các Bộ, ngành trao tặng nhiều phần thưởng cao quý. Đảng

bộ nhà trường liên tục đạt danh hiệu Đảng bộ trong sạch, vững mạnh tiêu biểu.

Các tổ chức Đoàn Thanh niên và Công đoàn luôn đạt danh hiệu tiên tiến xuất

sắc. Trường đại học Công nghiệp Hà Nội có sứ mạng cung cấp dịch vụ giáo dục

đào tạo nhiều ngành, nhiều trình độ và dịch vụ khoa học chất lượng cao cho thị

trường, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội

là trường công lập đẳng cấp quốc tế, hàng đầu của Việt Nam đào tạo công nghệ

nhiều cấp trình độ, nhiều ngành, là trung tâm nghiên cứu, phát triển, chuyển giao

82

công nghệ uy tín và tin cậy. Trường đại học Công nghiệp Hà Nội là môi trường

học tập thuận lợi tạo cơ hội tiệp cận cho mọi đối tượng, đáp ứng yêu cầu công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

Trường chú trọng nâng cao chính sách chất lượng, xây dựng trường trở

thành cơ sở đào tạo mở, hướng tới người học và các bên quan tâm. Đào tạo

nguồn nhân lực chất lượng cao với nhiều trình độ phù hợp yêu cầu phát triển

kinh tế - xã hội. Thường xuyên cải tiến phương pháp giảng dạy, lấy người học

làm trung tâm; triệt để áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý, giảng dạy và

học tập; thí điểm, tiến tới tổ chức đào tạo hoàn toàn theo tín chỉ. Mở rộng liên

kết đào tạo với các trường, với các cơ sở kỹ thuật - kinh tế trong và ngoài nước.

Khuyến khích học tập, sáng tạo. Cam kết xây dựng, thực hiện, duy trì các hệ

thống quản lý tiên tiến (ISO 9000, TQM) để đạt được kiểm định chất lượng của

Việt Nam, của các tổ chức quốc tế.

* Trường đại học Thành Đô

Trường đại học Thành Đô là trường tư thục đầu tiên đào tạo ở bậc đại học

của Việt Nam, có trụ sở duy nhất tại Kim Chung, Hoài Đức, Hà Nội. Trường đào

tạo đa ngành trình độ kỹ sư, cử nhân đại học, cao đẳng chính quy và đào tạo

nghề các cấp. Được thành lập ngày 30/11/2004, tính đến nay trường đã đào tạo

và cấp bằng tốt nghiệp cho hàng ngàn sinh viên. Chương trình đào tạo linh hoạt

với hệ thống giáo trình được chọn lựa kỹ càng. Đại học Thành Đô cam kết cung

cấp một dịch vụ đào tạo chất lượng với mức chi phí trung bình, hợp lý. Đặc điểm

nổi bật của nhà trường là hệ thống dịch vụ chăm sóc người học chu đáo. Các tân

sinh viên đến trường đều được các cố vấn học tập hỗ trợ thông qua thư điện tử,

điện thoại. Nhà trường chú trọng chương trình định hướng nghề nghiệp nhằm

giúp sinh viên chọn lựa được ngành nghề phù hợp với năng lực chuyên môn, đáp

ứng nhu cầu của thị trường lao động.

Đại học Thành Đô xác định mục tiêu đào tạo những sinh viên có phẩm

chất đạo đức chính trị, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ chất lượng cao đáp

ứng nhu cầu của người học và của thị trường lao động trong thời đại mới của nền

kinh tế tri thức. Nhà trường cam kết cung cấp một môi trường học tập sáng tạo,

linh hoạt, phát huy năng lực của người học và sự chuyên nghiệp, tâm huyết của

đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý. Đại học Thành Đô có đội ngũ giảng viên khá

83

vững vàng, có người đã từng tham gia giảng dạy tại rất nhiều các trường đại học

trong nước và quốc tế.

Đại học Thành Đô đang tìm kiếm cơ hội hợp tác quốc tế, nhất là với những

trường đại học uy tín, chất lượng nhằm đẩy mạnh và nâng cao vị thế nhà trường.

Để đạt mục tiêu này cần xây dựng một kế hoạch rõ ràng phù hợp với điều kiện

phát triển Việt Nam, cụ thể là: thu hút lực lượng sinh viên ưu tú, tận dụng nguồn

lực quốc tế, cung cấp dịch vụ đào tạo đáp ứng nhu cầu, chuyên môn hóa nhằm

khai thác triệt để đội ngũ giảng viên danh giá, khuyến khích hoạt động nghiên

cứu khoa học, tăng cường hợp tác với các doanh nghiệp, tạo môi trường nghiên

cứu trong thời đại thông tin kỹ thuật số, xây dựng cơ sở vật chất đạt chuẩn quốc

tế, củng cố hoạt động tài chính hiệu quả, xây dựng hệ thống quản lý nhà trường

chất lượng, hiệu quả.

* Trường đại học Kiến trúc Hà Nội

Trường đại học Kiến trúc Hà Nội được thành lập theo Quyết định số

181/CP ngày 17 tháng 9 năm 1969 của Hội đồng Chính phủ. Trường thuộc Bộ

Xây dựng, chịu sự quản lý Nhà nước về chuyên môn của Bộ Giáo dục và Đào

tạo và sự quản lý hành chính theo lãnh thổ của Ủy ban nhân dân thành phố Hà

Nội. Trường hiện có 28 đơn vị trực thuộc, trong đó có 12 đơn vị thuộc khối đào

tạo, 8 đơn vị thuộc khối quản lý, 5 đơn vị thuộc khối khoa học công nghệ và

thông tin, 03 đơn vị thuộc khối sản xuất dịch vụ và chuyển giao công nghệ xây

dựng. Nhà trường có trên 900 cán bộ viên chức, người lao động hợp đồng, trong

đó có 418 cán bộ giảng dạy, 2 Giáo sư, 22 Phó Giáo sư, 17 Nhà giáo ưu tú, 77

tiến sỹ, 284 thạc sỹ. Hội sinh viên Trường có trên 7000 hội viên, trực thuộc Hội

sinh viên thành phố Hà Nội. Tổng số sinh viên thường xuyên là 11.000, gồm cả

hệ chính quy và hệ vừa làm vừa học. Số sinh viên cao học gần 700, số nghiên

cứu sinh là 65.

Trường đại học Kiến trúc Hà Nội xác định mục tiêu đào tạo cán bộ khoa

học kỹ thuật thuộc ngành xây dựng ở trình độ đại học và trên đại học, đặc biệt là

các chuyên ngành kiến trúc, quy hoạch, xây dựng, kỹ thuật hạ tầng đô thị và môi

trường. Trường là nơi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực xây

dựng cơ bản, cung cấp các sản phẩm và dịch vụ quản lý đô thị đáp ứng yêu cầu

xây dựng và phát triển của đất nước theo hướng hội nhập và chuẩn quốc tế. Cơ

sở đào tạo chính của trường đại học Kiến trúc tại Hà Nội và các cơ sở liên kết

84

(Xuân Hòa, Nam Định, Hải Dương, Uông Bí, Điện Biên, Huế và Thành phố

HCM). Trong hơn 40 năm qua, trường đã đào tạo được gần 30.000 kiến trúc sư,

kỹ sư , gần 100 tiến sỹ thuộc các chuyên ngành đào tạo của trường. Hiện nay

trường đang đào tạo theo học chế tín chỉ và đã ứng dụng phần mềm tin học vào

công tác quản lý đào tạo.

Giảng viên, cán bộ khoa học của nhà trường đã viết hàng trăm giáo trình,

tài liệu giảng dạy, bài giảng phục vụ đào tạo ngành xây dựng. Đội ngũ giảng

viên, cán bộ khoa học, học viên, nghiên cứu sinh, sinh viên của trường đã thực

hiện hàng ngàn đề tài nghiên cứu khoa học, trong đó có nhiều đề tài trọng điểm

của Nhà nước, của ngành Xây dựng. Phong trào nghiên cứu khoa học của sinh

viên được tổ chức triển khai từ nhiều năm nay, hàng năm có hàng trăm sinh viên

tham gia các đề tài nghiên cứu khoa học trong nước và quốc tế và đã đạt được

nhiều kết quả, đặc biệt có 20 đề tài của sinh viên đạt giải thưởng quốc tế. Trường

đã có quan hệ với hơn 70 trường đại học và tổ chức quốc tế trong lĩnh vực đào

tạo, nghiên cứu khoa học và các mặt hoạt động khác: Trường Đại học Kiến trúc

Toulouse - Pháp; Trường Đại học Melbourne - Úc; Trường Đại học Tổng hợp

Barcelona - Tây Ban Nha; Trường Đại học Mỹ thuật Milan – Italia; Trường Đại

học Hawaii - Mỹ; Trường Đại học Torino – Italia; Trường Đại học Nottingham –

Anh; Đại học Quốc gia Singapore và Đại học Kiến trúc Matxcơva - Nga. Cán

bộ khoa học, giảng viên và sinh viên của trường đã tham gia thiết kế hàng ngàn

công trình kiến trúc, quy hoạch, xây dựng lớn nhỏ trên mọi miền đất nước.

Với những thành tích trong 50 năm đào tạo kiến trúc sư và hơn 40 năm xây

dựng và phát triển Trường, Nhà trường đã được Đảng, Nhà nước, các Bộ,

Ngành, Đoàn thể tặng thưởng nhiều danh hiệu cao quý: 2 Huân chương Lao

động hạng Nhất và hạng Ba; 3 Huân chương Độc lập hạng Nhất, Nhì, Ba; Huân

chương Hồ chí Minh và nhiều phần thưởng cao quý khác.

* Trường đại học Xây dựng

Trường đại học Xây dựng được thành lập theo Quyết định số 144/CP ngày

8 tháng 8 năm 1966 của Hội đồng Chính phủ, tiền thân là khoa Xây dựng trường

đại học Bách khoa Hà Nội.Trải qua 59 năm đào tạo, 49 năm xây dựng và phát

triển, trường đại học Xây dựng đã trở thành một trường đại học đa ngành, một

trung tâm nghiên cứu và triển khai ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ. Bộ

85

máy của nhà trường hiện nay gồm 15 phòng, ban, trung tâm tương đương, 14

khoa, ban QL đào tạo, 54 bộ môn, 10 phòng thí nghiệm thuộc khoa, bộ môn và

12 viện KHCN. Tính đến hết tháng 6/2015, toàn trường có 946 viên chức, trong

đó CBGD là 700 người; cơ cấu đội ngũ giảng viên: 23 GS, 80 PGS, về học vị: 7

TSKH, 222 TS, 433 Thạc sĩ . Quy mô đào tạo hiện tại gần 30.000 sinh viên, học

viên. Trường có 9 nhà giáo được phong tặng danh hiệu NGND, 84 lượt nhà giáo

được phong tặng danh hiệu NGUT; 55 nhà giáo được phòng hàm GS, 194 lượt

nhà giáo được phong hàm PGS. Các cựu sinh viên của trường nhiều người đang

giữ trọng trách ở các cơ quan lãnh đạo Đảng, chính quyền từ Trung ương đến địa

phương, ở các công ty, tổng công ty, các tập đoàn kinh tế..., nhiều người được

phong tặng danh hiệu Anh hùng.

Trong những năm qua, trường đại học Xây dựng đã có nhiều đổi mới, trong

đó tập trung nâng cao năng lực và chất lượng đào tạo. Trường đã thay đổi cấu

trúc, nội dung chương trình đào tạo; nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ

giảng viên; đổi mới công tác quản lý, nâng cao chất lượng; tích cực trong hội

nhập quốc tế

Để nâng cao năng lực đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội, gắn đào tạo lý thuyết

với thực hành, Trường đang triển khai xây dựng cơ sở đào tạo thực nghiệm với

diện tích trên 24 ha tại Khu đô thị Đại học Nam Cao, tỉnh Hà Nam, đồng thời

thực hiện nhiều đề tài khoa học, chuyển giao công nghệ và các dự án lớn.

* Trường đại học Giao thông vận tải

Trường đại học Giao thông vận tải xác định mục tiêu đào tạo cho ngành

Giao thông vận tải và đất nước những cán bộ khoa học kỹ thuật có năng lực và

lòng yêu nghề, có khả năng sáng tạo và tính nhân văn. Hoạt động đào tạo, nghiên

cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và các hoạt động của khác của nhà trường

nhằm mang lại những lợi ích với chất lượng tốt nhất cho cộng đồng và xã hội.

Nhà trường đã đào tạo cho đất nước hàng vạn Kỹ sư, hàng ngàn thạc sỹ và tiến

sỹ. Phần lớn cán bộ lãnh đạo, quản lý của các cơ quan quản lý, doanh nghiệp

thuộc ngành giao thông vận tải đều tốt nghiệp từ nhà trường.

Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý của nhà trường hiện có 1.068 người;

trong đó có 792 giảng viên với 50 giáo sư và phó giáo sư, 139 tiến sỹ và tiến sỹ

khoa học, 356 thạc sỹ. Nhà trường hiện đang đào tạo 15 ngành với 69 chuyên

86

ngành bậc đại học, 16 chuyên ngành bậc thạc sỹ và 17 chuyên ngành bậc tiến sỹ.

Quy mô đào tạo của trường có trên 32.000 sinh viên các hệ (trong đó có gần

20.000 sinh viên hệ chính quy), trên 2.300 học viên cao học và gần 120 nghiên

cứu sinh. Hàng năm, các nhà khoa học của trường tiến hành nghiên cứu khoảng

30 đề tài cấp Nhà nước và cấp Bộ, 60 đề tài cấp cơ sở và hàng chục đề tài liên

kết với với các địa phương, doanh nghiệp trong và ngoài nước. Nhiều cán bộ của

trường là những chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực Giao thông vận tải, góp

phần thúc đẩy sự phát triển của ngành. Nhà trường cũng là một trong những đơn

vị đi đầu trong các hoạt động xã hội, tích cực hưởng ứng các cuộc vận động lớn

của Đảng, Nhà nước , đóng góp quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc.

Trường đại học Giao thông vận tải hướng tới mô hình đại học đa ngành về

kỹ thuật, công nghệ và kinh tế; trở thành đại học trọng điểm, đào tạo nguồn

nhân lực có trình độ cao đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững ngành giao thông

vận tải đất nước.; là trung tâm nghiên cứu khoa học có uy tín về giao thông vận

tải và một số lĩnh vực khác; có năng lực hội nhập khu vực và quốc tế, là địa chỉ

tin cậy của người học, nhà đầu tư và toàn xã hội. Trong xu thế hội nhập, trường

đã thực hiện nhiều dự án liên kết đào tạo, nghiên cứu khoa học với các trường

đại học và doanh nghiệp lớn trên thế giới. như trường đại học DAMSTARD,

DRESDEN (CHLB Đức), trường đại học Đường sắt Matxcơva (MIIT), đại học

Giao thông Tây Nam (Trung Quốc), đại học TOKYO (Nhật), đại học Cầu đường

Paris, công ty tư vấn xây dựng CTI (Nhật Bản), liên đoàn thép Nhật Bản, tập

đoàn xây dựng Shimizu (Nhật Bản)…

3.1.2. Thực trạng giáo dục văn hóa học đường

3.1.2.1. Nhận thức của chủ thể và đối tượng về hoạt động giáo dục văn hóa

học đường

Luận án đánh giá nhận thức của cán bộ quản lý, giảng viên, sinh viên về vai

trò, ý nghĩa, tính quan trọng của công tác GDVHHĐ, đồng thời khảo sát ý kiến

về nội dung, phương pháp của GDVHHĐ ở các trường đại học đào tạo các

ngành kỹ thuật ở Hà Nội. Phiếu trưng cầu ý kiến đối với trên 100 cán bộ quản lý,

giảng viên, và 521 sinh viên của các trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật ở

Hà Nội hiện nay.

87

Nội dung nhận thức của giảng viên, sinh viên về vai trò của GDVHHĐ

được thể hiện ở bảng 2, phần phụ lục. Qua bảng tổng hợp kết quả khảo sát thực

trạng nhận thức của cán bộ quản lý, giảng viên và sinh viên về mức độ cần thiết

và vai trò của giáo dục VHHĐ cho thấy mặc dù mức độ nhận thức không đồng

nhất nhưng đa số cán bộ quản lý, giảng viên và sinh viên đều cho rằng vai trò

của VHHĐ là rất cần và cần thiết. Tuy nhiên kết quả khảo sát cũng cho thấy các

quan niệm khác nhau về vai trò của VHHĐ trong phát triển nhân cách cho sinh

viên. Chỉ có 8 ý kiến trong số 521 ý kiến được hỏi cho rằng VHHĐ là yếu tố

quyết định nhất, chiếm 1,6%. Trong khi đó có tới 87,1% với 454 ý kiến cho rằng

nó chỉ là yếu tố góp phần phát triển nhân cách. Thậm chí có đến 27 ý kiến cho

rằng VHHĐ không có vai trò gì trong giáo dục nhân cách sinh viên. Kết quả này

cho thấy các nhà trường cần có định hướng rõ ràng trong việc lập kế hoạch

GDVHHĐ và tổ chức thực hiện kế hoạch đề ra một cách có hiệu quả, biến nhận

thức về vai trò của VHHĐ thành nội dung cụ thể trong chương trình giáo dục,

nhằm định hướng cho sinh viên có nhận thức đúng và hành động đúng trong

GDVHHĐ.

Giáo dục văn hóa học đường có ảnh hưởng lớn, trực tiếp đến mối quan hệ

giữa các thành viên trong nhà trường. Kết quả khảo sát ý kiến của giảng viên cho

rằng mối quan hệ đoàn kết, gắn bó chặt chẽ, khích lệ giảng viên, sinh viên dạy

tốt, học tốt đã thể hiện quan hệ này được quan tâm chiếm tỷ lệ 85%. Thực trạng

về mối quan hệ này rất có ý nghĩa vì nó góp phần quan trọng vào việc xây dựng

tập thể vững mạnh, tạo sự đồng bộ thống nhất cao để thực hiện nhiệm vụ cốt lõi

của nhà trường là dạy tốt, học tốt.

Người quản lý biết tôn trọng tập thể, vì tập thể mà phát huy tính dân chủ

trong các hoạt động của nhà trường. Đây cũng chính là một giá trị VHHĐ tốt đẹp

tạo nên hệ thống chuẩn mực trong VHHĐ nhà trường. Nếu người quản lý biết

tôn trọng tập thể, vì tập thể thì sẽ nhận được sự ủng hộ của các thành viên trong

nhà trường, các thành viên sẽ phát huy được tinh thần dân chủ, lòng nhiệt tình

trong các hoạt động của nhà trường. Về nội dung này, có đến gần 40% ý kiến

giảng viên cho rằng người quản lý cần phát huy hơn nữa tính dân chủ trong

VHHĐ. Kết quả khảo sát cho thấy các trường đã quan tâm đến sự đoàn kết, gắn

bó chặt chẽ, khích lệ giảng viên sinh viên dạy tốt, học tốt song người quản lý cần

88

tôn trọng tập thể, phát huy tính dân chủ trong các hoạt động của nhà trường hơn

nữa, hạn chế việc quản lý bằng mệnh lệnh hành chính khô cứng mà cần phải

tăng cường các biện pháp năng động, linh hoạt, mềm dẻo có hiệu quả, tạo bầu

không khí dân chủ cởi mở khích lệ động viên mọi người, quan tâm lắng nghe ý

kiến, nguyện vọng và tâm tư của đội ngũ giảng viên và sinh viên, tránh các việc

làm áp đặt của người quản lý với cấp dưới, với sinh viên, hạn chế tối đa sự đố kỵ

giữa các đồng nghiệp, gây mất đoàn kết nội bộ, ảnh hưởng đến VHHĐ.

Giáo dục văn hóa học đường lành mạnh hướng tới sự phát triển bền vững,

thực chất là xây dựng bầu không khí tâm lý, đạo đức, xây dựng nền nếp, kỷ

cương, dân chủ trong mọi hoạt động của nhà trường, xây dựng các mối quan hệ

tốt đẹp giữa thầy - trò, giữa thầy - thầy, giữa trò - trò (trong đó có các nhà

QLGD) theo các chuẩn mực chung của xã hội và những quy định riêng của

ngành giáo dục.

Nhận thức của sinh viên về nội dung, phương pháp GDVHHĐ là điều cần

được quan tâm. Tiến hành thăm dò ý kiến của cán bộ, giảng viên và sinh viên tại

5 trường đại học được khảo sát về nội dung GDVHHĐ bằng cách đưa ra 12 tiêu

chí đánh giá VHHĐ. Kết quả thu được thể hiện ở bảng 1 phần phụ lục. Số lượng

sinh viên được trưng cầu ý kiến là 521 người. Mức độ nhận thức về các nội dung

GDVHHĐ giữa CBQL và giảng viên, sinh viên có khác nhau, và rất khác với

mức độ nhận thức của sinh viên được phản ánh qua kết quả ở [Phụ lục, kết quả

khảo sát, bảng 1].

Trong các tiêu chí về nội dung GDVHHĐ, trang phục lịch sự, ngôn ngữ

đúng mực, nội quy, quy chế khoa học và được thực hiện đúng là 3 nội dung

giành được sự quan tâm đặc biệt của sinh viên với 99,2%, 96,8% và 97,5% ý

kiến đồng ý, cho rằng đây là nội dung rất quan trọng. Nội dung được đánh giá

thấp hơn, ít nhận được sự quan tâm của sinh viên liên quan đến ứng xử của sinh

viên trong kỷ luật học đường (ra vào lớp đúng giờ: 34,6%) và tình yêu đẹp

(32,2%). Điều này chứng tỏ sinh viên chưa thực sự có ý thức về sự cần thiết phải

xây dựng nội dung giao tiếp trong VHHĐ như một tiêu chí đánh giá chất lượng.

Trường đại học cũng là một môi trường sư phạm, việc ứng xử của từng con

người trong môi trường đó cũng phải hết sức mô phạm. Nếu cả thầy và trò đều

89

làm được như vậy thì chắc chắn nhà trường đó phát triển vững mạnh và xây

dựng được cho mình những nét đẹp VHHĐ trong nhà trường.

Thực trạng nhận thức của CBQL, giảng viên, sinh viên về các hình thức

GDVHHĐ được phân tích dựa trên cơ sở khảo sát, tổng hợp số liệu. Kết quả thu

được thể hiện ở bảng 3 cho thấy các sinh viên đánh giá cao nhất phương pháp

nêu gương, đó là giảng viên, cán bộ, viên chức nêu tấm gương tốt cho sinh viên

trong GDVHHĐ: 466/521 ý kiến, chiếm 89,5%. Hình thức GDVHHĐ nhận

được sự quan tâm ít nhất của sinh viên là hình thức thông qua nghiên cứu tài

liệu, xếp cuối cùng trong 5 hình thức sử dụng để khảo sát. Chỉ có 58 ý kiến đánh

giá cao hình thức này, chiếm 11%. Khảo sát sinh viên về các phong trào sinh

hoạt có tác động đến GDVHHĐ, kết quả thu được thể hiện ở bảng 7. Ý kiến của

sinh viên ở 5 trường đại học không giống nhau và cũng rất khác nhau trong cách

đánh giá các nội dung cụ thể trong phong trào thi đua. Điều này chứng tỏ nhận thức

không đồng nhất giữa sinh viên của các trường, đây là vấn đề các nhà quản lý cần

quan tâm khi xây dựng giải pháp nâng cao hiệu quả của GDVHHĐ. Tính đặc thù

của mỗi trường đại học là cơ sở để xây dựng nội dung VHHĐ và các phương pháp

phù hợp để GDVHHĐ cho sinh viên.

3.1.2.2. Hoạt động giáo dục văn hóa học đường trong các trường đại học

Thực trạng chung về VHHĐ hiện nay đang ngày càng trở thành vấn đề

trầm trọng, mang tính chất thời sự, thu hút sự quan tâm và tham gia của toàn xã

hội. Nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng này là do lâu nay giáo dục ở Việt

Nam hiện nay quá nặng về dạy chữ mà ít chú trọng dạy đạo đức, lối sống, cũng

như kỹ năng sống. Các trường đại học thường có lồng ghép kiến thức GDVHHĐ

vào các môn như giáo dục lý luận chính trị, sinh hoạt chính trị, hội thảo theo

chuyên đề, kỷ niệm những ngày lễ lớn của đất nước, hay những ngày truyền

thống của nhà trường..., nhưng chưa có cách làm sáng tạo, chưa có phương pháp

thu hút sinh viên [Phụ lục, kết quả khảo sát, bảng 6].

Các hoạt động ngoại khóa, giao lưu, tọa đàm, sinh hoạt chưa được tổ chức

thường xuyên, nội dung chưa phong phú, chưa mang tính thực tế và có chất

lượng, hiệu quả cao [Phụ lục, kết quả khảo sát, bảng 8,9,10]. Công tác quản lý

còn sai sót, làm việc còn qua loa, chiếu lệ, chú trọng hình thức và số lượng mà

không tập trung về chất lượng. Khảo sát cho thấy VHHĐ ở các trường còn một

90

số vấn đề cần được nghiên cứu, xem xét, quan tâm, cần đánh giá chính xác thực

trạng, phân tích nguyên nhân chủ quan, khách quan, đề xuất được giải pháp phù

hợp, hữu hiệu. Các trường đã tổ chức các hoạt động nhằm phát huy các giá trị

văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Trong điều kiện giao lưu quốc tế ngày

càng mở rộng, cùng với những tiến bộ về khoa học công nghệ, nhiều giá trị văn

hóa, nội dung, hình thức, trang thiết bị, phương tiện giáo dục mới cũng được du

nhập vào nước ta. Điều này đã được các ngành, các cấp có trách nhiệm phải “gạn

đục, khơi trong”, định hướng cho phù hợp với điều kiện cụ thể nền giáo dục, với

thuần phong mỹ tục của dân tộc. Tuy nhiên, không thể không chấp nhận tính hai

mặt của quá trình hội nhập, tiếp biến.

Trường đại học ở góc độ là một thiết chế văn hóa thì VHHĐ cũng được mở

rộng về phạm vi tiếp xúc với các nền văn hóa, giáo dục khác tất yếu sẽ dẫn đến

ra sự đa dạng hóa các chuẩn mực, giá trị tạo ra sự phong phú, sinh động hơn.

Các giá trị, chuẩn mực VHHĐ sẽ hướng đến sự chủ động của các thành viên

trong việc tự tìm kiếm, tự phát hiện, tự khẳng định mình trong cộng đồng để có

thể đứng vững, hội nhập trong các mối quan hệ và giao tiếp với các nền văn hóa,

với tự nhiên, với các thành viên trong và ngoài cộng đồng. Theo đó, chủ thể

trong bối cảnh mới sẽ phải tự đánh giá lại bản thân, rút kinh nghiệm, trau dồi các

năng lực mới, tri thức mới để sẵn sàng cho việc giao lưu, học hỏi, tiếp biến các

giá trị, chuẩn mực mới nhằm tránh rơi vào tình trạng bị động, lúng túng, tự ti vì

thiếu hụt tri thức, kỹ năng.

Thực tế khảo sát ở 5 trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật trên địa bàn

Hà Nội cho thấy, đại đa số sinh viên vẫn giữ và phát huy tốt những giá trị truyền

thống như: yêu nước, hiếu học, đoàn kết, tự tin, sáng tạo, lạc quan, dấn thân và

ủng hộ công cuộc đổi mới của đất nước. Các kết quả điều tra cũng cho thấy sinh

viên ngày càng quan tâm hơn đến mọi mặt của đời sống xã hội, đến các giá trị

mới. Đa số sinh viên sống có ước mơ, hoài bão trong sáng, sống có mục đích,

năng động, sáng tạo, nhạy bén tiếp thu cái mới, tiến bộ, có ý thức tự chủ, tự lập,

trước hết là trong học tập, rèn luyện; nỗ lực tu dưỡng, chăm chỉ học tập chuẩn bị

hành trang cho tương lai, chủ động khắc phục những khó khăn trong cuộc sống

để vươn lên học tập tốt. Nhiều sinh viên học thêm trường, thêm nghề, học thêm

ngoại ngữ, tin học... tích cực chuẩn bị hành trang cho tương lai. Phần lớn sinh

91

viên sống giản dị, tiết kiệm, phù hợp với hoàn cảnh chung của đất nước và gia

đình. sinh viên cũng rất quan tâm đến chính trị - xã hội, đến những vấn đề chung

của đất nước và nhiệt tình tham gia công tác đoàn thể. Các chiến dịch “ánh sáng

văn hoá”, “Mùa hè xanh”, các phong trào “sinh viên tình nguyện”, “Hiến máu

nhân đạo”, “Mùa hè hồng”, “Tiếp sức mùa thi”, các câu lạc bộ... đã và đang góp

phần tạo ra diện mạo mới cho các phong trào của tuổi trẻ học đường, chẳng

những đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội thiết thực mà còn nâng cao vị thế xã hội

của sinh viên trong thời kỳ mới.

Bên cạnh những mặt tích cực là chủ yếu, trong sinh viên hiện nay cũng có

những biểu hiện tiêu cực khiến cho gia đình, nhà trường và xã hội lo lắng, phê

phán. Đó là tư tưởng thực dụng, tuỳ tiện, cơ hội, thiếu văn hoá, mắc vào các tệ

nạn xã hội, như nghiện ma tuý, trộm cắp, cờ bạc, mại dâm, rượu chè, coi thường

pháp luật... Một bộ phận sinh viên thiếu ý chí vươn lên trong học tập và rèn

luyện, có hành vi gian lận trong thi cử, sống buông thả, tự do, vô kỉ luật, chạy theo

lối sống tầm thường, thờ ơ với tập thể, ít quan tâm đến hoạt động chung. Một số

khác thiếu ý thức chính trị, thiếu trách nhiệm, tôn trọng với bản thân, gia đình và tập

thể trường, lớp, với Đoàn, Hội thể hiện mờ nhạt trong sự phát triển chung của tập thể

dẫn đến các tệ nạn xã hội và hiện tượng vô văn hóa trong học đường không được

đẩy lùi. Điều này được biểu hiện trong số liệu điều tra xã hội học.

3.1.2.3. Sử dụng cơ sở vật chất trong giáo dục văn hóa học đường

Sử dụng cơ sở vật chất tại các trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật ở

Hà Nội phản ánh thực trạng văn hoá tổ chức quản lý của các trường. Cơ sở vật

chất trong trường đại học (thiết chế) bao gồm giảng đường, nhà văn hóa, thư

viện, phòng thí nghiệm, thực hành, căng tin, ký túc xá, nhà giáo dục thể chất, hội

trường sinh hoạt chung, cảnh quan trong trường đại học. Nhìn chung, cơ sở vật

chất của các trường đại học vẫn đang phát huy vai trò quan trọng của mình phục

vụ hoạt động dạy - học góp phần đào tạo những sinh viên có trình độ chuyên

môn nghề nghiệp và nhân cách cung ứng cho thị trường lao động trong phục vụ

cho sự nghiệp đổi mới đất nước. Nếu xét từng thiết chế cụ thể, có thể nhận thấy

lớp học, thư viện và nhà văn hóa là ba thiết chế phát huy tốt nhất vai trò của

mình. Với vai trò là “bộ não” của một trường đại học, các trung tâm thông tin

thư viện ngày càng tác động to lớn đến việc duy trì, củng cố chất lượng đào tạo.

92

Việc sinh viên đến thư viện ngày càng đông vào nhiều khoảng thời gian trong

ngày khiến nhiều thư viện trở nên quá tải là một điều rất đáng mừng trong bối

cảnh một bộ phận sinh viên lười học, ăn chơi, đua đòi, sa vào các tệ nạn xã hội.

Hội trường lớn là nơi diễn ra các hoạt động lớn của các trường như khai

giảng, bế giảng năm học, phát bằng tốt nghiệp khóa học, các đại hội, hội nghị,

hội thảo, các hội diễn văn nghệ, các diễn đàn sinh viên, các cuộc thi với các quy

mô khác nhau, các buổi giao lưu…vẫn đang đóng góp không nhỏ cho chất lượng

đào tạo chung của nhà trường và phong trào sinh viên. Cũng chính ở đây, nhiều

sinh hoạt phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức của các câu lạc bộ sinh

viên được tổ chức thu hút đông đảo thầy và trò trong trường đến tham gia, động

viên cổ vũ. Lớp học là nơi dạy và học tập của giảng viên và sinh viên. Nhìn

chung, các lớp học trong các trường đại học khang trang, sạch sẽ, có đầy đủ tiện

nghi phục vụ dạy và học. Các thiết bị như máy vi tính, đèn chiếu, micro, cùng

các thiết chế văn hóa - giáo dục khác với chức năng, nhiệm vụ riêng cũng có

những đóng góp nhất định vào hiệu quả xây dựng VHHĐ.

Phòng thực hành, phòng thí nghiệm, xưởng thực hành trong các trường đại

học đào tạo các ngành kỹ thuật là nơi sinh viên được thực hành ứng dụng những

kiến thức lý thuyết, kỹ năng được đào tạo vào hoạt động thực tiễn. Vì vậy các

trường đều có phòng thực hành, xưởng hay các trung tâm thực hành với máy

móc thiết bị cần thiết cho từng chuyên ngành được đào tạo. Nhiều trường rất

quan tâm đến thiết kế, đầu tư trang bị máy móc, thiết bị công nghệ hiện đại, bố trí

không gian hợp lý khoa học phục vụ đắc lực cho quá trình đào tạo. Như Đại học

Công nghiệp Hà Nội với hơn 200 phòng, 3 trung tâm và xưởng thực hành máy móc

hiện đại, Đại học Giao thông Vận tải, Đại học Thành đô hệ thống phòng thí nghiệm,

phòng thực hành đã phát huy tốt góp phần nầng cao chất lượng đào tạo của nhà

trường . Tuy nhiên, bên cạnh đó còn một số trường chưa quan tâm đúng mức, kinh

phí hạn hẹp, quỹ đất không đủ nên phòng thực hành, phòng thí nghiệm thiết bị cũ

lạc hậu, trang bị không đồng bộ, hỏng hóc không được thay thế sử dụng kém hiệu

quả dẫn đến tình trạng giờ thực hành bị cắt giảm, đôi khi giảng viên và sinh viên

phải liên hệ thuê phòng thí nghiệm bên ngoài.

Ký túc xá ngày càng trở thành nơi cư trú tin cậy của nhiều sinh viên với

chất lượng phòng, điều kiện điện, nước, cảnh quan xung quanh ngày càng được

nâng cấp, thoáng đãng. Căng tin cũng là nơi được nhiều sinh viên lựa chọn để

93

“nạp năng lượng” sau những giờ học tập, rèn luyện thể lực căng thẳng, mệt mỏi.

Nhà giáo dục thể chất được sinh viên, nhất là sinh viên nam coi là nơi lý tưởng

(trong điều kiện nhà trường) để rèn luyện và nâng cao sức khỏe phục vụ cho học

tập. Đặc biệt, các câu lạc bộ sinh viên được thành lập ở nhiều trường đại học như

câu lạc bộ sinh viên nghiên cứu khoa học, câu lạc bộ sinh viên yêu thơ, câu lạc

bộ tiếng Anh, câu lạc bộ tin học. Trong nhiều trường, có những câu lạc bộ có nội

san riêng ra định kỳ khá hấp dẫn. Không những thế, có câu lạc bộ còn thiết kế

website và thu hút được thêm không ít các thành viên tham gia.

Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực mà các thiết chế đã tạo lập và phát

huy, cũng cần nhận thấy những hạn chế không nhỏ của chúng. Lớp học của một

số trường đại học chưa đảm bảo môi trường sư phạm, thiếu ánh sáng, bàn ghế cũ

kỹ, không có phương tiện chuyển tải kiến thức. Một số trường đại học dân lập

thuê trường ở những nơi không phù hợp với môi trường học tập, nằm gần xưởng

sản xuất, gần chợ, ồn ào và ô nhiễm môi trường. Có trường thiếu thư viện không

đáp ứng được nhu cầu của sinh viên trong trường cả về cơ sở vật chất lẫn vốn tài

liệu. Có nhiều nhà văn hóa với những dãy ghế cũ kỹ, hệ thống âm thanh, ánh

sáng lạc hậu, diện tích hội trường quá chật hẹp. Nhiều ký túc xá được xây dựng

cách đây hàng chục năm với việc cung cấp nước, điện chưa đáp ứng được nhu

cầu của sinh viên (nhất là về mùa hè). Nhiều căng tin bị “tư nhân hóa” dẫn đến

giá cả các mặt hàng, kể cả giá khẩu phần ăn cũng tăng, nhiều khi cao hơn giá các

nhà hàng cơm bình dân. Ở nhiều trường nhà giáo dục thể chất, sân bóng, bể bơi

của sinh viên trở thành nơi để người phụ trách “kinh doanh mặt bằng” với việc

cho những người ngoài vào thuê sân bãi, dụng cụ mà nhà trường đầu tư phục vụ

cho việc rèn luyện thể lực của sinh viên...

Đánh giá chung về GDVHHĐ của 5 trường đại học được lựa chọn để khảo

sát trong luận án cho thấy điểm chung nhất là giáo dục văn hóa học đường chưa

đạt hiệu quả như mong muốn. Mỗi trường đại học có một lợi thế riêng, trên một

phương diện cụ thể nhưng khó có thể so sánh mô hình văn hóa học đường nào có

hiệu quả cao hơn. Vì thực tế các trường đại học đều chưa có đủ cơ sở vật chất

như yêu cầu để đáp ứng nội dung văn hóa học đường, nguồn lực cơ bản để giáo

dục văn hóa học đường cũng còn nhiều thiếu thốn, kết quả giáo dục văn hóa học

đường dựa trên tiêu chí tri thức, thái độ, hành vi đều chưa đạt hiệu quả.

Vấn đề đặt ra hiện nay là đồng thời với việc phát huy những mặt tích cực

của văn hóa học đường ở các trường đại học trên, cần phải khắc phục những yếu

94

kém cả về cơ sở vật chất lẫn hình thức tổ chức hoạt động và cách thức hoạt động

của chúng. Có như vậy thì các thiết chế này mới thực sự trở thành những thiết

chế văn hóa - giáo dục theo đúng nghĩa của cụm từ này. Những phác họa ở trên

cho thấy cần có những giải pháp cụ thể, mang tính khả thi để xây dựng và củng

cố môi trường VHHĐ ở các trường đại học trong tình hình hiện nay.

3.2. Hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên trong các

trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật ở Hà Nội

3.2.1. Hiệu quả giáo dục văn hoá học đường đánh giá từ tiêu chí tri

thức, niềm tin, thái độ

Trong đời sống xã hội, con người chịu ảnh hưởng bởi môi trường văn hóa

mà trong đó họ sống và hoạt động. Đối với trường học, môi trường văn hóa đó

được gọi là văn hóa học đường. Đó là những quan niệm, chuẩn mực quy định

cách xử sự giao tiếp giữa người học với nhau, giữa trò với thầy và ngược lại; là

cách học và tiếp thu kiến thức. Văn hoá còn được thể hiện qua triết lí giáo dục

của nhà trường, qua hành vi giao tiếp, cách ăn mặc, cách ứng xử với cảnh quan

môi trường...

Mục tiêu GDVHHĐ là giúp các thành viên trong nhà trường chia sẻ với

nhau những kinh nghiệm và kiến thức, phát triển khả năng hợp tác giữa các

thành viên trong mọi lĩnh vực hoạt động của nhà trường. Từ đó, tạo ra môi

trường thuận lợi, tin cậy, tôn trọng lẫn nhau, giúp mọi thành viên trong nhà

trường quan tâm đến việc nâng cao chất lượng dạy và học, tích cực hoạt động vì

sự phát triển chung của nhà trường, tạo niềm tin cho xã hội trong việc thực hiện

các chức năng giáo dục của mình, đặc biệt trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho

xã hội. Nếu học đường mà thiếu văn hóa thì không thể thực hiện được chức năng

chuyển tải những giá trị kiến thức và nhân văn cho thế hệ trẻ. Văn hóa học

đường là môi trường rất quan trọng để rèn luyện nhân cách và giáo dục thế hệ trẻ

trở thành những con người sống có hoài bão, có lý tưởng tốt đẹp. Mục tiêu xây

dựng VHHĐ là tạo môi trường với những hoạt động mang tính giáo dục để rèn

luyện, giáo dục học sinh, sinh viên trở thành những con người sống có hoài bão,

có lý tưởng tốt đẹp, xây dựng trường học lành mạnh, các mối quan hệ thân thiện

và chất lượng giáo dục thật. Thể hiện văn minh, lịch sự, tôn trọng mọi người và

tôn trọng bản thân; góp phần giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức và lối sống

95

lành mạnh; xây dựng phong cách ứng xử chuẩn mực của sinh viên, học viên

(người học) trong học tập, nghiên cứu tại trường Đại học.

Giáo dục VHHĐ là để xây dựng môi trường giáo dục an toàn, thân thiện,

hiệu quả. Môi trường giáo dục phải xây dựng thật trong lành, văn hóa. Văn hóa

thể hiện ở giảng viên, học sinh, sinh viên qua hành động, cử chỉ, ngôn ngữ giao

tiếp hàng ngày. Môi trường xung quanh học đường là ý thức của giảng viên và

học sinh, sinh viên khi bỏ rác đúng nơi quy định, không bẻ cây, khạc nhổ, vẽ bậy

lên tường, bàn học; không hút thuốc lá trong trường học, không nói tục, chửi

thề... Những việc làm tưởng chừng rất nhỏ đó chính là nền tảng hình thành chuẩn

mực đạo đức ban đầu của mỗi một con người. Giảng viên phải là tấm gương tốt

cho học sinh, sinh viên noi theo, phải xây dựng mối quan hệ tốt giữa thầy và trò

một cách đúng mực, nghiêm túc, thân mật, giản dị và chân thành. Giảng viên

phải xác định đúng vai trò, nghĩa vụ và trách nhiệm đối với việc dạy chữ và dạy

người, có ý thức trau dồi chuyên môn, làm cho học sinh, sinh viên thấy được cái

hay, cái đẹp trong kiến thức được lĩnh hội, truyền cho các em niềm say mê về

nghề nghiệp, phát huy tính tích cực, tự giác làm cho các em trân trọng, yêu quý

nghề của mình lựa chọn. Nhà trường phải phát động những phong trào thi đua,

văn hóa văn nghệ, hoạt động ngoại khóa, biến mỗi mái trường trở thành ngôi

trường thân thiện, mỗi học sinh, sinh viên trở thành người học tích cực. Bảo đảm

tính nghiêm túc và hiệu quả trong hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học

hướng tới mục tiêu giáo dục toàn diện.

Những năm qua, hoạt động GDVHHĐ cho sinh viên ở các trường đại học

đào tạo các ngành kỹ thuật đã vượt qua mọi tác động không thuận từ môi trường

xã hội khách quan cũng như điều kiện thực tế của từng trường vào tri thức, niềm

tin, thái độ, trong không gian trường học, góp phần trực tiếp vào quá trình thực

hiện mục tiêu đào tạo của từng trường cũng như góp phần hoàn thiện nhân cách

sinh viên- dự nguồn của nguồn nhân lực cao. Hiệu quả GDVHHĐ thể hiện ở

chuyển biến tích cực về nhận thức, niềm tin và thái độ của sinh viên so với mục

tiêu GDVHHĐ. Đa phần sinh viên đều được phổ biến về nội quy, quy chế của

nhà trường, của khoa cùng các chế tài khen thưởng, kỷ luật đi kèm, được học tập

đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, được tham gia các

cuộc thi tìm hiểu về lịch sử, văn hóa, các môn khoa học chuyên ngành, các cuộc

96

thi tay nghề, tham gia vào các phong trào thi đua, cuộc thi của trường, khoa,

đoàn thanh niên, hội hội sinh viên, các câu lạc bộ các hoạt động văn hóa, văn,

thể thao, hoạt động ngoại khóa do trường, khoa, đoàn thanh niện, hội sinh viên tổ

chức theo kế hoạch hay do các câu lạc bộ của sinh viên tổ chức. Đa số sinh viên

tham gia với thái độ tự giác, nghiêm túc trong học tập và thảo luận đóng góp qua

đó cũng đề xuất một số sáng kiến làm cho các hoạt động này đa dạng, hiệu quả

và phù hợp tâm đặc điểm lứa tuổi của sinh viên là chất xúc tác để sinh viên bộc

lộ tài năng, năng lực của mình. Một bộ phận sinh viên đã tích cực tham gia đấu

tranh chống các hiện tượng tiêu cực trong học đường, trong sinh hoạt thường

ngày và ngoài xã hội... Khi có ý kiến bôi nhọ lãnh tụ, xuyên tạc đường lối, quan

điểm của Đảng, các sự kiện chính trị, văn hóa nhạy cảm có tới 76,6% sinh viên

tích cực tranh luận làm rõ đúng, sai.

Thái độ và tính tích cực trong thực hiện VHHĐ của sinh viên so với mục

tiêu đào tạo của nhà trường được nâng cao rõ rệt. Đánh giá hiệu quả về nhận

thức, thái độ thực hiện VHHĐ của sinh viên trong trường đại học là một vấn đề

khá nhạy cảm và phức tạp. Bằng nhiều phương pháp tiếp cận khoa học qua điều

tra bằng phiếu hỏi, tọa đàm, phỏng vấn trực tiếp các đối tượng sinh viên, giảng

viên, cán bộ quản lý, viên chức, nhân viên phục vụ và tham khảo các tài liệu, báo

cáo, công trình nghiên cứu về VHHĐ trong thời gian gần đây, có thể đưa ra một

số nhận định sau đây:

- Kiến thức và chuẩn mực về thái độ, hành vi ứng xử trong trường học

(quy định thành văn và không thành văn) của sinh viên tương đối đầy đủ, sinh

viên có thái độ nghiêm túc, coi trọng các chuẩn mực giá trị VHHĐ, có khả năng

vận dụng thực tế. Từ trước đến nay, các trường đại học là nơi sinh viên được đào

tạo rất bài bản, được giáo dục thường xuyên với nội dung phong phú, hình thức

đa dạng, cường độ rất cao vì nó được thiết kế và thể hiện ngay trong các môn

học, chương trình học, trong suốt khoá học. Qua đó, nhận thức về VHHĐ, thái

độ và hành vi của sinh viên đã được nâng cao, nhất là sinh viên trong các trường

đào tạo các ngành kỹ thuật. Khung chương trình đào tạo các ngành kỹ thuật

không có những môn về văn hóa, khoa học xã hội & nhân văn cũng như giáo dục

kỹ năng sống, làm việc theo nhóm, lao động an toàn, tuy nhiên các hoạt động

GDVHHĐ được tiến hành đã đem lại hiệu quả rất đáng được ghi nhận.

97

Ở các nước khác, có thể những môn lý luận chính trị không thuộc phạm vi

của VHHĐ nhưng tại Việt Nam thì chúng lại là đòi hỏi “cứng” của công tác tư

tưởng trong trường đại học. Do vậy cần phải tính đến việc truyền bá và tiếp nhận

các môn học này khi xem xét về VHHĐ. Số sinh viên có kết quả thi, kiểm tra

các môn KHXH&NV (Nguyên lý của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí

Minh, Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Pháp luật đại

cương…) đạt điểm trung bình trở xuống ở các trường càng ngày càng giảm, kết

quả học tập các môn này càng ngày càng tăng dù đây là môn chính trị, học thuộc

không liên quan gì đến công việc sau này của sinh viên các trường đại học đào

tạo các ngành kỹ thuật ở Hà Nội hiện nay. Thực tế khi sinh viên ra trường, nơi

tiếp nhận chỉ kiểm tra kỹ năng nghề chứ không ở đâu kiểm tra kiến thức Tư

tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng vì nhận thức đúng về vai trò của kiến thức khoa học

xã hội nên sinh viên các trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật ở Hà Nội

hiện nay đã có ý thức học tốt các môn khoa học xã hội và nhân văn. Họ nhận

thức đúng về việc không thể có trình độ cử nhân, kỹ sư nhưng lại mù về kiến

thức xã hội, luật và thiếu khả năng hội nhập khi tham gia hoạt động trong môi

trường xã hội, không phân định được đúng sai trước những bình phẩm các sự

kiện văn hóa, chính trị, kinh tế, bởi vì thiếu hiểu biết dễ bị lôi kéo vào vi phậm

pháp luật, đi ngược lại lợi ích của cộng đồng. Các môn khoa học Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh với tư cách là môn học trang bị thế giới quan, nhân sinh

quan, phương pháp luận có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hoàn thiện nhân

cách của mỗi sinh viên. Giáo dục lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

trong trường đại học được xem là một trong hình thức quan trọng của công tác

GDVHHĐ cho sinh viên đại học nói chung và sinh viên các trường đại học đào

tạo các ngành kỹ thuật nói riêng. Trước hết cần phải xác định những tiêu chí

hướng đến của quá trình giáo dục này đó là, thế giới quan, tư tưởng chính trị, đạo

đức, năng lực thực hiện các hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn là những

yếu tố quan trọng cấu thành nên nhân cách sinh viên.

Các bộ môn giáo dục lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với mục

đích cuối cùng trang bị thế giới quan khoa học và nhân sinh quan tích cực, tiến

bộ, góp phần định hướng sinh viên trở thành những người lao động có những

phẩm chất, năng lực đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Do

vậy, giáo dục lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được xem là cơ sở

98

quan trọng để hình thành VHHĐ cho sinh viên. Tuy không trực tiếp bàn đến nội

dung VHHĐ nhưng nó đặt cơ sở nền tảng cho việc hình thành nhân cách của

sinh viên. Có tới 93,6% số sinh viên được hỏi tin tưởng vào sự thành công của

công cuộc đổi mới của Đảng và xác định đúng mục đích, ý thức học tập và rèn

luyện để ngày mai lập nghiệp [128, tr. 55], đây chính là kết quả thiết thực mà các

môn học lý luận đem lại. Tuy nhiên bên cạnh đó một bộ phận sinh viên ngại học,

chán học, thụ động, thờ ơ, thiếu niềm tin vào các môn khoa học Mác-Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh, học để cho qua. Kết quả điều tra vào tháng 5/ 2015 tại 5

trường đại học Hà Nội, có 11,2 % sinh viên được hỏi thừa nhận sẽ không chọn

các môn khoa học Mác-Lênin nếu là môn tự chọn.

- Niềm tin vào chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sự lãnh đạo

của Đảng và sức mạnh của các giá trị văn hóa truyền thống đối với sự phát triển

của đất nước ở sinh viên ngày càng vững chắc. Qua điều tra, có 96,5% sinh viên

không đồng ý với luận điểm chủ nghĩa Mác-Lênin đã lỗi thời và không phù hợp

với nước ta, điều đó cho thấy sinh viên đánh giá cao vai trò của chủ nghĩa Mác -

Lênin là kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam. Nhiều sinh viên cho rằng cuộc

vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” mang lại hiệu

quả thiết thực. Kiến thức sâu, niềm tin vững chắc dẫn đến thái độ, tính tích cực

tham gia các hoạt động xã hội, lời nói và hành vi của sinh viên trước tập thể,

trong tổ chức , trong sinh hoạt đời thường ngày càng có văn hoá cao. Qua khảo

sát có 71,5% sinh viên chọn cách không im lặng bỏ qua khi chứng kiến các hiện

tượng tiêu cực, lệch lạc, vô văn hóa của bạn học mà không chủ động đấu tranh.

Sinh viên tham gia các hoạt động chính trị - xã hội một cách tích cực, tự giác.

Tính tích cực cao trong sinh hoạt của các tổ chức, biểu hiện ở sự chủ động tham

gia học tập, thi tìm hiểu hoặc tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, pháp

luật của Nhà nước xuất phát từ tâm huyết và sự nhiệt tình của người chủ tương

lai của đất nước. Nhiều sinh viên không né tránh đấu tranh với các hiện tượng

tiêu cực trong lớp, trong trường. Đa số sinh viên có đủ dũng khí và khả năng đấu

tranh phản bác, tranh luận với hiện tượng, tư tưởng, lối sống lệch lạc, không phù

hợp với sinh viên.

99

Sinh viên hiện nay là lớp người sinh ra trong đổi mới lớn lên trong hội

nhập, khảo sát về mẫu người mà sinh viên muốn trở thành trong điều kiện hiện

nay. hơn 521 sinh viên được hỏi đã lựa chọn và sắp xếp các tiêu chí như sau:

Biểu đồ 3.2.1 Tỷ lệ % sắp xếp các tiêu chí mà sinh viên muốn phấn đấu đạt

được thể hiện HQGDVHHĐ từ tiêu chí tinh thần

Sự sắp xếp trên cho thấy, sinh viên đang hướng tới 10 tiêu chí chủ yếu là:

bản lĩnh, tự tin; có uy tín, được mọi người tôn trọng; có trình độ học vấn cao;

mềm dẻo, năng động, tháo vát, nhạy bén; hiểu biết nhiều, giàu kinh nghiệm, từng

trải; biết làm giàu; vui vẻ, cởi mở; có quan hệ trong xã hội rộng…Sự lựa chọn và

sắp xếp trên cho thấy sinh viên đang dành sự ưu tiên hơn cho phát triển những

“kỹ năng mềm” của cá nhân trong cuộc sống. Và trong đó, đáng lưu ý là tiêu chí

trở thành đảng viên đã bị xếp cuối cùng (19%) trong sự lựa chọn này của sinh

viên được hỏi. Tiếp đó về những điểm yếu của thanh niên hiện nay, 24% sinh

viên thừa nhận thanh nhiên không có ý chí phấn đầu vào Đoàn, Đảng, ít quan

tâm đến những vấn đề chính trị -xã hội, thiếu kỹ năng chung sống hài hòa với

người khác. Như vậy, chứng tỏ việc “dạy người” trong trường đại học chưa được

quan tâm đúng mức, hoặc hiệu quả chưa cao, dẫn tới chất lượng đào tạo nguồn

nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội là một

thực tế.

100

3.2.2. Hiệu quả giáo dục văn hoá học đường từ tiêu chí hoạt động

thực tiễn thông qua hành vi, hành động

Hiệu quả giáo dục văn hóa học đường xét từ hoạt động tổ chức, quản lý

của chủ thể GDVHHĐ

Việc lãnh đạo, quản lý hoạt động GDVHHĐ cho sinh viên đã đạt những

kết quả tích cực. Đảng ủy, Ban Giám hiệu, Phòng quản lý sinh viên các trường

đại học đã nhận thức được vai trò của VHHĐ và đã có quan tâm lãnh đạo, chỉ

đạo triển khai thực hiện hoạt động GDVHHĐ cho sinh viên và đưa GDVHHĐ

vào kế hoạch hoạt động của nhà trường, cử cán bộ phụ trách, từng bước đầu tư

kinh phí, nâng cấp phương tiện, cơ sở vật chất, quan tâm đến các môn khoa học

xã hội và nhân văn (KHXH&NV) và đưa vào chương trình là môn tự chọn, khắc

phục tình trạng quan niệm môn phụ, học vét. Tổ chức nghiên cứu, tham gia các

hội thảo, lựa chọn giải pháp, mô hình phù hợp để vận dụng vào thực tế của từng

trường đưa hoạt động này vào nề nếp và xem hoạt động GDVHHĐ cho sinh viên

là một yếu tố quan trọng trong quá trình đổi mới căn bản toàn diện giáo dục học

đại học .

Các tổ chức đoàn thanh niên, hội sinh viên, các câu lạc bộ, các khoa đã

hưởng ứng tích cực và đưa GDVHHĐ vào chương trình, kế hoạch hoạt động của

mình đồng thời xem đây là một trong những nhiệm vụ chính tri trọng tâm của

mình. Tổ chức các diễn đàn, phát động thi đua, tọa đàm, hội thảo, sinh hoạt

chuyên đề như: “Tuổi trẻ sống đẹp”, “Ứng xử văn hóa học đường”, “Sinh viên

phòng chống tác hại thuốc lá, sáng kiến Clich không thuốc lá”, “Sinh viên với

văn hóa giao thông”, “Kỳ thi nghiêm túc, chất lượng, công bằng”, “Học nghiêm

túc, thi trung thực”, “Ngày hội 5 S” “Nhật ký làm theo lời Bác”, “xếp hàng là

văn hóa”, “Sinh viên với lịch sử”, “Sinh viên với biển đảo”…, các lực lượng đã

phát huy tính năng động, sáng tạo, khắc phục khó khăn, từng bước nâng cao kết

quả GDVHHĐ cho sinh viên. Trên cơ sở sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của nhà

trường, các lực lượng trực tiếp chỉ đạo, tổ chức và tiến hành GDVHHĐ cho sinh

viên, phát huy tính năng động chủ quan, khắc phục những khó khăn khách quan,

luôn tích cực, sáng tạo, tìm tòi những hình thức, biện pháp phù hợp với điều kiện

cụ thể. Trong phạm vi quyền hạn, trách nhiệm được phân công, mỗi thành phần

101

chủ thể (nhà quản lý, giảng viên, cán bộ công nhân viên) đã phát huy vai trò của

mình để nâng cao hiệu quả GDVHHĐ cho sinh viên hiện nay.

Cán bộ, giảng viên cũng ý thức được và gắn trách nhiệm GDVHHĐ vào

hoạt động giảng dạy chuyên môn, nghiệp vụ; chủ động, tích cực, sáng tạo những

hình thức phù hợp với điều kiện cụ thể của từng môn học, của từng tình huống

sư phạm cụ thể. Đội ngũ giảng viên giảng dạy các môn KHXH&NV cũng ý thức

được vai trò, thế mạnh hàm chứa những giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại

của môn do mình đảm nhiệm làm tăng thêm lòng yêu nghề, sự say mê nghiên

cứu, tích cực chủ động tìm hình thức, phương pháp giáo dục có hiệu quả. Cán bộ

công nhân viên cũng ý thức trách nhiệm tạo ra môi trường văn hóa trong hoạt

động phục vụ sinh viên, sinh viên và giảng viên nhằm thực hiện mục tiêu đào tạo

chung của nhà trường. Các trường đã đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương pháp,

hình thức GDVHHĐ cho sinh viên. Một trong những biểu hiện của việc này là tổ

chức nghe ý kiến sinh viên nhiều hơn trên các “kênh thông tin”. Điều này tạo

điều kiện phối hợp nhịp nhàng giữa chủ thể và đối tượng trong GDVHHĐ.

Hiệu quả GDVHHĐ xét từ góc độ thiết lập nội dung, hình thức của nó

trong hoạt động dạy và học

Sau khi có Quyết định 129/ 2007 của Thủ tướng Chính phủ, quy chế học

sinh sinh viên các trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp hệ chính

quy; Một số quy định những hành vi vi phạm và khung xử lý kỷ luật ban hành

kèm theo quyết định 42/ 2007/ QĐ- BGDĐT ngày 13 tháng 8 của Bộ trưởng Bộ

Giáo dục và Đào tạo, căn cứ vào mục tiêu đào tạo cụ thể, vào hệ giá trị đã được

định hình trong lịch sử phát triển của của từng trường và những giá trị mới mà xã

hội đòi hỏi. Các trường đào tạo các ngành kỹ thuật đã xây dựng một số nội dung

VHHĐ trong nội quy, quy chế, quy định, quy trình, cam kết... Nó chính là những

nội dung góp phần trực tiếp vào việc hình thành VHHĐ vừa phù hợp với cái

chung vừa mang nét đặc sắc riêng của từng trường để giáo dục cho sinh viên,

góp phần vào thực hiện tốt mục tiêu đào tạo của nhà trường. Những nội dung đó

cũng tập trung vào một số vấn đề như quy định về trang phục mặc khi đến

trường (nội quy học lý thuyết và thực hành tại xưởng,...), giao tiếp ứng xử, tổ

chức hoạt động của các thành viên trong nhà trường. Nội dung GDVHHĐ cho

102

sinh viên được thẩm thấu trong nhiều nội dung hoạt động khác nhau trong nhà

trường, ở các trường đại học đào tạo khối kỹ thuật có thể thấy nó tập trung ở

những hoạt động sau: Sinh hoạt công dân sinh viên đầu khóa: trong nội dung

giảng dạy đặc biệt là các môn giáo dục lý luận Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí

Minh, các môn học nghiệp vụ. Trong sinh hoạt đoàn thể, các hoạt động phong

trào của nhà trường, của đoàn thanh niên, hội sinh viên, các câu lạc bộ của sinh

viên tổ chức.

Tuần sinh hoạt công dân sinh viên đầu khóa : Thực hiện chỉ đạo của Bộ

Giáo dục và Đào tạo về việc tổ chức tuần sinh hoạt công dân sinh viên đầu khóa

học cho sinh viên, nhà trường giới thiệu về quy mô đào tạo, ngành nghề đào tạo,

các phòng, ban, trung tâm chức năng và dự báo nhu cầu của xã hội về lao động;

phổ biến, quán triệt quy chế đào tạo (học tập, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập,

kết quả rèn luyện của sinh viên, sinh viên...); phổ biến một số quy định nội bộ

của nhà trường, quy chế khen thưởng kỷ luật đối với sinh viên, sinh viên,

phổ biến quy chế cho sinh viên nội ngoại trú; phổ biến các chính của Đảng

và Nhà nước tạo điều kiện cho sinh viên yên tâm học tập; phổ biến nội quy

về hội họp, sinh hoạt tập thể như sinh hoạt đoàn, tham gia các phong trào

của hội sinh viên, tổ chức văn nghệ, thể thao trong nhà trường, những bài hát

sinh viên truyền thống của sinh viên, sinh viên v.v.. Tuy vậy, do ban đầu còn

nhiều bỡ ngỡ, chưa thật tập trung tiếp thu những nội dung được phổ biến, có

tới 72,5% sinh viên được hỏi thừa nhận có vào lớp học song không chú ý

đến nội dung vì làm việc riêng hoặc làm quen với các bạn khác, thậm chí có

8,1% sinh viên mới còn không nhớ những nội dung của buổi học [Phụ lục, kết

quả khảo sát, bảng 4, 4b]. Hiện tượng này có ảnh hưởng không nhỏ đến chất

lượng GDVHHĐ cho sinh viên.

Giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên thông qua bộ môn giáo dục lý

luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được thực hiện nghiêm túc, đúng tiến độ

đào tạo của nhà trường nhằm thực hiện tốt mục tiêu giáo dục đại học toàn diện.

Tuân thủ nghiêm túc điều 3, Luật Giáo dục: "Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo

dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, lấy chủ nghĩa

Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng" [110, tr.65]. Các trường

103

xác định giáo dục lý luận Mác - Lênin cho sinh viên với tư cách là môn học giáo

dục niềm tin, lý tưởng, thế giới quan khoa học phải được coi là bộ phận cấu

thành quan trọng trong mục tiêu giáo dục đại học toàn diện ở nước ta. Với

chương trình thống nhất trong toàn quốc là 5 môn học chiếm thời lượng từ 8,5%-

10% tổng quỹ thời gian đào tạo của một khóa học với những bộ giáo trình chuẩn

quốc gia được biên soạn, xuất bản theo Quyết định số 255-CT ngày 13/7/1992

của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.

Văn hóa giao tiếp chỉ là một phương diện trong toàn bộ hoạt động giao tiếp

của con người, nhưng trong GDVHHĐ giao tiếp ứng xử có vai trò quan trọng.

Nhiệm vụ cơ bản của giáo dục là hình thành con người - giao tiếp, tức con người

có năng lực giao tiếp bao gồm giao tiếp với người khác và giao tiếp với chính

mình. Hình thức của giảng dạy là truyền thụ kiến thức. Đây cũng là một hoạt

động giao tiếp, đòi hỏi có mối quan hệ giữa người dạy và người học. Tính chất

giao tiếp bộc lộ rõ nhất trong hoạt động giáo dục. Giáo dục muốn thành công

phải dựa trên căn bản của nguyên lí giao tiếp, phải xem thầy giáo và học sinh

như hai chủ thể, hai cá thể, hai ý thức. Thầy giáo muốn tác động vào học sinh -

tức là muốn thực hiện hành động giáo dục thì cách tốt nhất là phải giao tiếp với

học sinh. Mục tiêu giáo dục là hình thành quan niệm về giá trị, lòng yêu ghét, vì

vậy, sự tác động chủ yếu không thông chỉ qua con đường nhận thức lí trí mà còn

thông qua tình cảm - một hình thức giao tiếp tinh vi và phong phú, phức tạp nhất

trong những hoạt động giao tiếp của con người.

Giao tiếp không chỉ là hình thức, phương tiện mà còn là nội dung quan

trọng của giáo dục. Xét về phương diện này, nhà trường có vai trò rất quan

trọng. Giáo dục văn hóa trên phương diện này cũng chính là giáo dục thẩm mĩ và

đạo đức. Biết ăn nói, cư xử có văn hóa cũng là một hành vi thẩm mĩ, góp phần

tạo nên vẻ đẹp của con người. Giáo dục văn hóa giao tiếp trong nhà trường cần

giúp sinh viên làm chủ các phương tiện giao tiếp, có được những kỹ năng giao

tiếp. Giáo dục văn hóa giao tiếp nghĩa là giúp sinh viên làm chủ các công cụ và

hình thức giao tiếp cũng như biết ứng xử một cách có văn hóa trong những tình

huống khác nhau là nhiệm vụ quan trọng của nhà trường. Trong hoạt động khảo

sát và kết quả nắm được có thể thấy rõ sự chân thành, cởi mở, không ích kỉ,

không khép kín, biết chấp nhận cái khác mình, chấp nhận đối thoại... của sinh

viên ở các trường đại học. Điều đó nói lên hiệu quả GDVHHĐ tại các trường đại

học trong phạm vi khảo sát của luận án.

104

Mối quan hệ giữa thầy với thầy, thầy với trò, trò với trò, nhà trường với

gia đình... đã có những chuyển biến tích cực, ngày càng được xây dựng tốt đẹp

hơn dựa trên cơ sở hiểu biết tôn trọng lẫn nhau. Tại những trường đại học trên

địa bàn Hà Nội được tiến hành khảo sát về hiệu quả văn hoá giao tiếp ứng xử

đã cho thấy tác động tích cực của VHHĐ trong lĩnh vực này. Sinh viên giao

tiếp với nhau ngày càng lịch sự văn minh, những biểu hiện tuỳ tiện cẩu thả

trong giao lưu tiếp xúc ngày càng bị đẩy lùi, đẩy xa ra khỏi học đường. Thói

nghi kỵ, ganh ghét giữa các thành viên trong cộng đồng VHHĐ ngày càng ít đi,

thay vào đó là sự tin tưởng, quý mến lẫn nhau, là sự giúp đỡ nhau trong học tập

và trong mọi phương diện của cuộc sống. Hiện tượng quan hệ thầy trò không

lành mạnh đã bị lên án, điều này khiến cho mối quan hệ thầy trò ngày càng lành

mạnh hơn, trong sáng hơn.

Quy định về giao tiếp và ứng xử là một trong những nội dung của hoạt

động GDVHHĐ ở các trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật ở Hà Nội. Và

hiệu quả của hoạt động này thể hiện rõ trên nhiều lĩnh vực, nhiều biểu hiện như

trong giao tiếp, trong ứng xử giữa các thành viên, giữa các tổ chức trong nhà

trường. Khi giảng viên bước vào lớp, sinh viên chủ động đứng dậy chào thầy, cô.

Hành vi này là chuẩn mực của VHHĐ và cũng là hiệu quả của GDVHHĐ. Sinh

viên đã có thái độ lễ phép, tôn trọng cán bộ, giảng viên, nhân viên của nhà

trường; thái độ lịch sự, nhã nhặn, tôn trọng lẫn nhau, không nói tục; không hút

thuốc lá trong lớp học hoặc huôn viên trường; không sử dụng điện thoại di động

khi lên lớp, dự họp. sinh viên không có những hành vi không lành mạnh, không

phù hợp với thuần phong mỹ tục trong lớp, trong khuôn viên trường và nơi công

cộng, biểu hiện ngay trong trang phục, giao tiếp bằng ngôn ngữ hoặc bằng hành

động cử chỉ. Sinh viên cũng ý thức về việc không xúc phạm danh dự, nhân

phẩm, thân thể người khác, sống thật thà, trung thực. Đây là những chuyển biến

có ý nghĩa rất tích cực trong VHHĐ của sinh viên.

So sánh kết quả với mục đích của giáo dục văn hóa học đường cho sinh

viên cho thấy :

Mục đích của GDVHHĐ là trang bị tri thức, chuẩn mực, giá trị văn hóa phù

hợp với mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho xã hội, hình thành

niềm tin vào những giá trị văn hóa biến nó trở thành động lực bên trong điều

chỉnh thái độ hành vi phù hợp và tính tích cực hoạt động thực tiễn của sinh viên.

105

Tuy nhiên, muốn đánh giá hiệu quả GDVHHĐ cho sinh viên phải gắn với mục

tiêu GDVHHĐ của các trường. Do tính đặc thù của các trường đào tạo các ngành

kỹ thuật, công nghệ mới hiện đại nên mục tiêu giáo dục về GDVHHĐ của các

trường này yêu cầu cao hơn, do đối tượng là người trực tiếp thực hiện, ứng dụng

các công nghệ mới, máy móc kỹ thuật hiện đại để tạo ra năng suất chất lượng

ngày càng cao trong nền sản xuất xã hội.

Trong những năm qua, kết quả chuyển biến về phẩm chất lối sống văn hóa

trong học đường của sinh viên các trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật cơ

bản đạt được mục tiêu đặt ra. Theo đánh giá kết quả rèn luyện (đức dục) của các

trường được khảo sát, 87,6% sinh viên có phẩm chất đạo đức, chính trị tốt, 9,3%

khá 3,1% trung bình và kém. Xét về kết quả đào tạo, các trường được khảo sát

đã hoàn thành tốt mục tiêu, sứ mạng của mình, sản phẩm đào tạo của các trường

cơ bản đáp ứng được yêu cầu trong nước và quốc tế trong điều kiện mới. Căn cứ

vào các số liệu khảo sát, có thể khẳng định, hiệu quả GDVHHD cho sinh viên

của các trường đào tạo các ngành kỹ thuật đã có bước chuyển biến theo hướng

tích cực.

Biểu đồ 3.2.2.a Tỷ lệ % kết quả sinh viên rèn luyện (đức dục)

(Nguồn: Phòng công tác học sinh, sinh viên 5 trường).

Chuyển biến tích cực từ sinh viên

106

Theo kết quả điều tra, có tới 65,3 % sinh viên thừa nhận đã từng nói bậy,

nói to trong trường; 63,7% có thái độ khó chịu với trang phục, đầu tóc không

phù hợp đến lớp; 73,3% sinh viên thừa nhận có nhận điện thoại trong giờ học;

7,3% hút thuốc lá trong lớp học; 11,3% vi phạm quy chế thi [phụ lục, kết quả

khảo sát, Bảng 14]. Các hoạt động do Đoàn trường chủ trì, tổ chức và chỉ đạo đã

tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy tinh thần say mê nghiên cứu khoa học, nâng cao

ý thức trong học tập và rèn luyện của đoàn viên thanh niên. Các cuộc thi “Cùng

tiến tới đỉnh vinh quang”, “Học sinh, sinh viên giỏi tiếng Anh” “Ánh sáng soi

đường”của đoàn thanh niên trường, hay “Sáng tạo phần mềm”, thi Olimpic các

môn học của các khoa chuyên môn….; Thi sinh viên giỏi nghề của trường, toàn

quốc, khu vực, thi Robocon… đã thu hút đông đảo sinh viên tham gia. Qua đó đã

xuất hiện nhiều tấm gương vươn lên trong học tập, say mê nghiên cứu khoa học,

nhiều sinh viên đã đoạt giải cao trong các cuộc thi, tạo nét đẹp trong VHHĐ.

Sinh viên luôn là lực lượng nòng cốt trong các phong trào thi đua, các cuộc

vận động mang tính chính trị - xã hội, các hoạt động tình nguyện, đền ơn đáp

nghĩa, giao lưu truyền thống, mít tinh, văn nghệ thể thao, tuần hành chính trị do

các trường tổ chức. Có đến 71,2 % trả lời thích và tham gia các hoạt động tình

nguyện. Các hoạt động “mùa hè xanh”, “tiếp sức mùa thi”, “hiến máu nhân đạo,

ngân hàng máu sống”, “triệu chữ ký, triệu hành động vì môi trường”… quyên

góp ủng hộ đồng bào bị thiên tai, người tàn tật… có hiệu quả cao. Khảo sát về

mức độ tham gia các hoạt động ngoại khóa của sinh viên cho thấy có 45% cán

bộ quản lý, giảng viên chủ nhiệm (cố vấn học tập) đánh giá sinh viên hăng hái,

39% cho là bình thường. Còn ý kiến của sinh viên: 58,9% đánh giá là mức độ

bình thường và 25,8% miễn cưỡng. Trong khi đó, theo một nghiên cứu thực tiễn

ở Đại học Quốc gia Hà Nội, có tới 25% sinh viên hiếm khi tham gia hoạt động

Đoàn, Hội sinh viên [119]. Kết quả học tập, rèn luyện cơ bản đáp ứng được mục

tiêu đào tạo của các trường. Theo báo cáo khảo sát việc làm của sinh viên sau

khi tốt nghiệp của một số trường đào tạo các ngành kỹ thuật, hầu hết sinh viên

tốt nghiệp đều đảm nhiệm được công việc được đào tạo cũng như tiếp thu nhanh

những kỹ năng, công nghệ mới 23,3% sinh viên các trường đào tạo khối kỹ thuật

có việc làm sau 6 tháng tốt nghiệp. Kết quả học tập hàng năm của sinh viên đào

107

tạo trung bình đạt trên 58% khá giỏi. Kết quả phân loại rèn luyện đức dục của

học viên đều đạt trên 78% khá, tốt. Ngoài nhiệm vụ học tập, sinh viên các trường

tích cực tham gia nghiên cứu khoa học, chuyển giao và ứng dụng công nghệ vào

sản xuất.

Ngoài các hoạt động trên các trường, các khoa chuyên môn kết hợp với

đoàn thanh niên, hội sinh viên nhà trường tạo điều kiện cho sinh viên tham gia

thiết kế và quản trị Website sinh viên, diễn đàn trên mạng Internet để sinh viên

giao lưu trực tuyến tạo ra môi trường cởi mở để sinh viên bầy tỏ tâm tư, nguyện

vọng của mình về học tập, tình bạn, tình yêu…, thành lập các câu lạc bộ căn cứ

vào năng lực, sở thích của từng nhóm sinh viên để đưa sinh viên vào những hoạt

động tập thể mở ra sân chơi lành mạnh và bổ ích nhằm phát huy sở trường, sức

sáng tạo tính năng động phù hợp với thế mạnh của từng sinh viên: câu lạc bộ

sáng tạo ROBOCON; câu lạc bộ học tập, nghiên cứu khoa học; câu lạc bộ những

lập trình viên trẻ; câu lạc bộ nhà doanh nghiệp tương lai, câu lạc bộ yêu thích

thời trang, câu lạc bộ “Vui để học”. Hoạt động của những câu lạc bộ này giúp

sinh viên tiếp cận tốt nhất, nhanh nhất với tri thức, kỹ năng chuyên ngành và

được hoạt động thực tiễn qua đó tích lũy được rất nhiều kinh nghiệm từ bản thân

cũng như từ các hội viên khác. Tuy nhiên, số lượng sinh viên tham gia vào các

câu lạc bộ sở thích, hoạt động văn nghệ, thể thao còn khiêm tốn so với số lượng

sinh viên đang theo học tại trường.

Song song với việc học tập, nhiều sinh viên đã tranh thủ quỹ thời gian rỗi

của mình để tích cực tham gia tập dượt nghiên cứu khoa học. Theo số liệu báo

cáo của 42 trường đại học và cao đẳng trên địa bàn Hà Nội, từ 2010 - 2014 đã có

hơn tới 11.000 đề tài nghiên cứu khoa học. Nhiều đề tài có chất lượng, được

ứng dụng và chuyển giao công nghệ được đề nghị tham gia giải thưởng cấp Bộ.

Riêng các trường đại học, cao đẳng ở Hà Nội đã có tới 209 đề tài nghiên cứu

khoa học của sinh viên đạt các giải ở cấp Bộ và gần 20.000 sinh viên tham gia

các cuộc thi Olympic, có 66 sinh viên đạt giảo thưởng “sao tháng giêng” [52].

Sự tăng lên đáng kể về mặt số lượng cũng như chất lượng trong các bài nghiên

cứu khoa học của sinh viên các trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật cho

108

thấy khả năng sáng tạo của tuổi trẻ học đường, tính chủ động, độc lập trong học

tập nghiên cứu được đông đảo sinh viên phát huy mạnh mẽ.

* Nội dung và phương pháp được sử dụng trong giáo dục văn hóa

học đường

Thứ nhất, GDVHHĐ thông qua các môn lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ

Chí Minh và các môn KHXH&NV, tuần sinh hoạt công dân đầu khóa. Điều tra

tháng 5/2015 tại 5 trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật tại Hà Nội, với câu

hỏi thái độ của sinh viên khi nghe phổ biến những nội quy, quy chế, nghe giảng

các môn lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, KHXH&NV,

pháp luật đại cương, năm bài học lý luận chính trị của đoàn thanh niên tổ chức:

29,8% số sinh viên thấy hài lòng và hứng thú; có 14,5 % sinh viên không hứng

thú [phụ luc, kết quả khảo sát, Bảng 5]. Nguyên nhân được cho là nội dung trừu

tượng, khô khan, khó nhớ và phương pháp giảng dạy đơn điệu, học ghép số

lượng sinh viên đông, giảng đường lớn dẫn đến giảng viên khó kiểm soát, khó

thực hiện được các phương pháp giảng dạy tích cực, vì vậy chưa kích thích được

hứng thú học tập của sinh viên. Điều này đặt ra cho giảng viên giảng dạy các

môn lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các môn KHXH&NV, khoa đào

tạo chuyên ngành, phòng công tác học sinh sinh viên, đoàn thanh niên, hội sinh

viên phải đổi mới phương pháp giảng dạy, tuyên truyền giáo dục.

Thứ hai, VHHĐ được giáo dục thông qua các môn chuyên ngành, nghề

nghiệp, thực hành. Ngoài việc cung cấp tri thức chuyên môn, chuyên ngành được

đào tạo cho sinh viên cũng phải rèn luyện (huấn luyện) về đạo đức nghề nghiệp,

kỹ năng làm việc theo nhóm, những yêu cầu ứng xử khi thực hiện công việc đặc

thù (nghề được đào tạo). Do vậy, thông qua việc dạy “tri thức” cho sinh viên thì

việc dạy “ làm người” cho họ cũng là một yêu cầu không kém phần quan trọng.

Thứ ba, GDVHHĐ bằng phương pháp nêu gương.GDVHHĐ cho sinh viên

bằng bằng gương người tốt, việc tốt là một quá trình xã hội hóa các giá trị đạo

đức và giá trị thẩm mỹ. Người tốt, việc tốt chính những biểu hiện sinh động của

những giá trị nhân văn trong đời sống lao động và học tập của giảng viên, sinh

viên. Nêu những tấm gương người tốt, việc tốt trong giảng viên và sinh viên, tạo

dư luận ủng hộ mạnh mẽ những gương tốt, lên án những tấm gương xấu có ảnh

109

hưởng trực tiếp đến GDVHHD cho sinh viên. Những gương người tốt, việc tốt

chỉ có tác dụng khi nó thực sự chiếm được tình cảm và niềm tin của sinh viên.

Những tấm gương đó không chỉ là của những tên tuổi lớn mà nó còn là chính từ

những tấm gương sống động của thầy, của trò trong nhà trường. Tuy nhiên

phương pháp giáo dục này tại các trường đại học còn nhiều hạn chế và thường

được lồng ghép vào khi giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin và tư tưởng

Hồ Chí Minh, các buổi sinh hoạt theo chuyên đề. Vì là một trường đào tạo các

ngành kỹ thuật cho nên các môn học xã hội nhân văn ít. Trong khi đó có một bộ

phận giảng viên quan niệm chỉ giảng dạy tốt nội dung môn học mà mình đảm

nhiệm, còn việc GDVHHĐ, định hướng thái độ, hành vi cho sinh viên để phù

hợp với môi trường sư phạm thì không liên quan, thậm chí có 6,3% giảng viên

được hỏi cho rằng những biểu hiện thái độ, hành vi, sinh hoạt của sinh viên là tự

do cá nhân.

Thứ tư, GDVHHĐ thông qua các hoạt động, sinh hoạt tập thể.

Các phong trào xã hội, các hoạt động tập thể, các cuộc thi đã giúp cho sinh

viên tiếp nhận một cách tự nhiên những nội dung của VHHĐ. Từ đó xây dựng

những tư tưởng đúng, những tình cảm đẹp làm cơ sở vững chắc cho việc hình

thành những thái độ, hành vi phù hợp, hướng tới một lý tưởng sống lành mạnh,

một lẽ sống tốt đẹp. Phong trào “Sinh viên tình nguyện”, phong trào “hiến máu

nhân đạo”, “Sinh viên chấp hành hành luật giao thông”, “cổng trường an toàn”

“Sinh viên xây dựng môi trường giáo dục thân thiện, lành mạnh” được đoàn

thanh niên, hội sinh viên nhà trường kết hợp với các khoa, phòng, ban, trung tâm

tổ chức rất bài bản đã thu hút được nhiều sinh viên tham gia. Các hoạt động trên

góp phần trực tiếp giáo dục những nét đẹp trong nhận thức và hành vi của sinh

viên – những biểu hiện của VHHĐ.

Thứ năm, GDVHHĐ cho sinh viên bằng lao động và thông qua lao động và

hoạt động thực tiễn (học tập, rèn luyện, thực hành sản xuất) là một con đường

quan trọng để hình thành VHHĐ. Giáo dục VHHĐ thông qua lao động là đưa

đối tượng được giáo dục vào các môi trường học tập, lao động trực tiếp. Qua lao

động sinh viên có thể thấy rõ năng lực, sở trường của bản thân, nhận thức được

những khiếm khuyết trong tri thức, độ chênh giữa lý thuyết và thực hành với

thiết bị và kỹ năng nghề để từ đó rút kinh nghiệm, bổ sung, điều chỉnh hoàn

110

thiện trong quá trình học tập. Qua lao động, sinh viên có cơ hội rèn luyện kỹ

năng làm việc độc lập cũng như làm việc theo nhóm. Là những trường đào tạo

về kỹ thuật (kỹ sư lý thuyết và thực hành) hàng đầu của đất nước cho nên các

trường đại học này những năm qua đã kiên trì vận dụng nguyên lý giáo dục “

Học đi đôi với hành”, gắn quá trình thực hành nghề nghiệp với sản xuất ở xưởng

thực hành, các cơ sở, đơn vị sản xuất của nhà trường và các doanh nghiệp để

nâng cao kỹ năng nghề nghiệp, khả năng làm việc theo nhóm thực tế trong sản

xuất cho sinh viên. Do vậy, chất lượng đào tạo của các trường ngày càng được

nâng cao và sát với thực tiễn cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao đảm

nhiệm được những công nghệ mới ngày càng hiện đại phục vụ cho sự nghiệp

CNH,HĐH và hội nhập quốc tế của đất nước. Điều này được chứng minh bằng

số liệu trung bình 65,7% sinh viên ra trường có việc làm ngay, có mức lương

khởi điểm từ 4,1-5,4 triệu đồng / tháng, 93 % doanh nghiệp hài lòng khi sử dụng

lao động được đào tạo tại các cơ sở đào tạo này (Số liệu điều tra theo dấu vết

sinh viên- Dự án GDKT& DN). Lao động có ý nghĩa như vậy nên sử dụng lao

động như một phương tiện GDVHHD cho sinh viên là việc làm hết sức cần thiết.

Biểu đồ 3.2.2.b.Kết quả học tập của sinh viên tại trường qua hàng năm (tỷ

lệ % thể hiện HQGDVHHĐ xét từ tiêu chí thực tiễn, tổng hợp số liệu nguồn từ

phòng Đào tạo )

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả GDVHHĐ cho sinh viên của các trường

còn những hạn chế nhất định. Khi đặt những hạn chế về nhận thức, thái độ và

111

hành vi ứng xử văn hóa của sinh viên trong sự tương quan với mục đích

GDVHHĐ sẽ thấy giữa mục đích và kết quả đạt được còn có khoảng cách. Mặc

dù trong đào tạo, sự phân hoá chất lượng thành các mức độ khác nhau là tất yếu.

Với 14,2% sinh viên khó trả lời và không quan tâm đến các hoạt động khác vì

tập thể, vì cộng đồng ngoài lợi ích của mình, 23,1% không lập kế hoạch, đích

phấn đấu cho bản thân, số sinh viên tốt nghiệp loại trung bình chiếm từ 25% đến

hơn 39%, những số liệu đó chứng tỏ, kết quả GDVHHĐ cho sinh viên còn hạn

chế, chưa đạt được mục đích đề ra. Đáng lo ngại hơn, khi tự đánh giá mức độ

thực chất về kết quả học tập của bản thân, có tới 27,9% sinh viên thừa nhận là

không thực chất và khó trả lời, chứng tỏ hiệu quả ở các trường đào tạo các ngành

kỹ thuật ở Hà Nội hiện nay chưa cao.

3.2.3. Hiệu quả giáo dục văn hóa học đường xét từ chi phí các nguồn lực

Các chi phí (nguồn lực) được huy động cho GDVHHĐ cho sinh viên các

trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật ở Hà Nội rất đa dạng, phong phú,

trong đó tập trung vào hai loại hình cơ bản là hoạt động chính khoá (thể hiện

trong mục tiêu đào tạo, trong thiết kế môn học, kế hoạch đào tạo) và giáo dục

thông qua các phong trào, hoạt động ngoại khóa của sinh viên. Kết quả huy động

nguồn nhân lực, thời gian, phương tiện, cơ sở vật chất, kinh phí cho công tác

GDVHHĐ cho sinh viên là một trong những tiêu chí quan trọng, là thước đo

hiệu quả GDVHHĐ. Các trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật trên địa bàn

Hà Nội đã huy động một số lượng thời gian nhất định để tiến hành GDVHHĐ

cho sinh viên, nhưng lại đạt được kết quả cao hơn chi phí. Chi phí thời gian cho

hoạt động GDVHHĐ cho sinh viên được tính ở 2 phương diện cơ bản đó là số

lượng thời gian giành cho hoạt động này và việc thực hiện, triển khai có đúng kế

hoạch thời gian đã định (kịp thời, thời sự).

Từ năm 2012 đến nay, các trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật thực

hiện nội dung, chương trình khung giáo dục đại học các ngành kỹ thuật theo

thông tư số 38/2009/TT-BGDĐT của BGD&ĐT ban hành ngày 22/12/2009.

Khối lượng kiến thức KHXH&NV là 15 tín chỉ trong đó có 10 tín chỉ giáo dục

lý luận chính trị (Nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin 5, TTHCM 2, Đường lối

cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam 3), 5 tín chỉ cho các môn xã hội nhân

văn (Pháp luật Việt Nam 3 tín chỉ môn bắt buộc, Môi trường & con người

112

hoặc kỹ năng giáo tiếp, hoặc tâm lý học đại cương… 2 tín chỉ nhưng bố trí

vào môn tự chọn) tổ bộ môn KHXH&NV trong hệ thống các trường đào tạo

các ngành kỹ thuật thường được bố trí ghép vào khoa kiến thức cơ bản hoặc

khoa giáo dục lý luận chính trị tùy từng trường. Theo quy định của Bộ Giáo

dục và Đào tạo, tỷ lệ các môn lý luận chính trị và KHXH&NV của các trường

đại học đào tạo kỹ thuật chỉ chiếm 7% toàn bộ chương trình đào tạo [11].

Thời gian giành cho GDVHHĐ thông qua các môn giáo dục lý luận chính trị

và KHXH&NV ở các trường đào tạo ngành kỹ thuật là eo hẹp do vậy

GDVHHĐ cho cho sinh viên phải kéo léo kết hợp với các hoạt động khác của

nhà trường, hoạt động ngoại khóa của sinh viên.

Giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên qua hoạt động sinh hoạt đoàn

thể: hàng tháng nhà trường có cuộc họp cán bộ lớp của toàn trường do phòng

công tác học sinh, sinh viên chủ trì cùng với sự tham gia của phòng đào tạo,

phòng quản lý ký túc xá, công an khu vực, trưởng ban an ninh phường, xã xung

quanh trường để nắm bắt tình hình an ninh trật tự tại địa phương từ đó có

phương án phối hợp để quản lý sinh viên nội trú và bán trú kịp thời hiệu quả. Nội

dung cuộc họp phản ánh, thông tin hai chiều về tình hình thực hiện nội quy chế

đào tạo của giảng viên và sinh viên: như tình hình dạy và học của thầy và trò:

bao gồm việc chấp hành giờ giấc ra vào lớp của sinh viên và của giảng viên,

trình độ sư phạm, chuyên môn của giảng viên, quan hệ của giảng viên và sinh

viên với nhân dân địa phương. Qua đó giúp phòng đào tạo cũng như các khoa

ban, trung tâm tìm biện pháp điều chỉnh, ngăn chặn, xử lý kịp thời. Hàng quý

nhà trường phát phiếu thăm dò để sinh viên đánh giá giảng viên. Phản ánh, đóng

góp những mặt được và chưa được trong việc quản lý phục vụ học sinh, sinh

viên của các khoa, phòng, ban, chức năng của nhà trường nhằm tạo điều kiện

thuận lợi giảng viên, sinh viên hoạt động có hiệu quả. Các buổi sinh hoạt đoàn

định kỳ của các chi đoàn, liên chi đoàn: thông qua các buổi sinh hoạt, ngoài

những chuyên đề cần phổ biến của đoàn, của hội sinh viên, các buổi sinh hoạt

thường lồng ghép những nội dung GDVHHĐ như cách ứng xử có văn hóa trong

học đường. Biểu dương những cá nhân, những sinh viên có tinh thần và trách

113

nhiệm cao trong học tập, rèn luyện. Tạo dư luận lên án những thái độ, hành vi,

biểu hiện thiếu văn hóa trong học đường.

Quan tâm đầu tư và quản lý, sử dụng phương tiện, cơ sở vật chất, kinh phí

hợp lý góp phần nâng cao hiệu quả GDVHHĐ. Ý thức được chất lượng đào tạo

tỷ lệ thuận với việc đầu tư về cơ sở vật chất, do vậy ở các trường đại học,

phương tiện phục vụ giảng dạy, thực hành, giáo trình, tài liệu, thư viện (truyền

thống và số hóa) đa dạng hệ thống đầu sách nghiên cứu về lý luận chính trị và

KHXH&NV liên tục được bổ sung. Mạng internet toàn cầu, mạng xã hội và

mạng intrannet nội bộ phục vụ nghiên cứu và học tập của giảng viên và sinh viên

ngày càng được bảo đảm đầy đủ, hiện đại và cập nhật thường xuyên hơn. Trên

cơ sở các giáo trình theo quy định, các trường đã chỉ đạo, tổ chức biên soạn

thành các chuyên đề mang tính đặc thù của từng trường, làm tài liệu nghiên cứu

tham khảo cho sinh viên. Một số trường đã đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp

phòng học chuyên dùng dành cho giảng các môn lý luận chính trị, pháp luật, các

môn KHXH&NV, các nhà văn hóa để sinh viên tổ chức các hoạt động vui chơi,

giải trí lành mạnh. Phần lớn giảng đường ở các trường đều được trang bị phương

tiện máy tính, máy chiếu để có thể ứng dụng bài giảng điện tử, các phòng thực

hành được trang bị thiết bị máy móc, công nghệ mô hình học cụ theo hướng

ngày càng hiện đại.

Nguồn kinh phí khen thưởng, hoạt động phòng truyền thống của các

trường, văn nghệ quần chúng, mua sách báo, tài liệu, tổ chức tọa đàm, hội thảo,

hội thi, tổ chức kỷ niệm các ngày lễ lớn của dân tộc, ngày truyền thống của nhà

trường đều được kiểm soát chặt chẽ, công khai, sử dụng và thanh quyết toán theo

đúng quy định tài chính. Các trường đều quan tâm xây dựng mối quan hệ đoàn

kết chặt chẽ với địa phương, các cơ quan, đối tác bằng các hoạt động phong phú

như: kết nghĩa, giao lưu văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao, đền ơn đáp nghĩa,

làm thiện nguyện... góp phần xây dựng địa bàn an toàn, ngăn chặn từ xa các tệ

nạn xã hội thâm nhập vào trường. Nhìn lại 5 năm (2010-2014), các trường đại

học đào tạo các ngành kỹ thuật ở Hà Nội đã phát huy tinh thần trách nhiệm, nỗ

lực khắc phục khó khăn, chủ động sáng tạo trong huy động các nguồn lực phục

vụ hoạt động GDVHHĐ cho sinh viên, nhất là các ưu thế về nhân lực đó là đội

ngũ giảng viên giầu kinh nghiệm, uy tín - những nhà khoa học đầu đàn về khoa

học kỹ thuật và công nghệ mới, cơ sở vật chất, phương tiện hiện đại được đầu tư

114

lớn của nhà nước. Về cơ bản, việc sử dụng và phát huy các nguồn lực cho

GDVHHĐ của các trường nhìn chung là tiết kiệm, phù hợp với khả năng thực tế

của từng trường, góp phần tạo nên sự chuyển biến tích cực về kiến thức, niềm

tin, ý thức kỷ luật và tính tích cực chủ động trong hoạt động thực tiễn của sinh

viên đáp ứng yêu cầu xã hội về chất lượng của nguồn nhân lực cao phục vụ cho

sự nghiệp CNH, HĐH đất nước trong thời kỳ mới. Điều này cho thấy các chủ thể

giáo dục đã có những bước chuyển trong nhận thức về vai trò của VHHĐ đối với

quá trình nâng cao chất lượng giáo dục đại học nói chung và sự phát triển bền

vững của từng trường đại học nói riêng. Sự tương quan giữa kết quả với mục

đích và chi phí nguồn lực cho hoạt động GDVHHĐ cho sinh viên trong các

trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật ở Hà Nội từ 2012 đến nay cho thấy rõ

hiệu quả GDVHHHĐ.

So sánh kết quả với chi phí các nguồn lực vào hoạt động giáo dục văn hóa

học đường cho sinh viên các trường đại học cho thấy:

Như phần trên đã đề cập, kết quả thi, kiểm tra các môn KHXH&NV và

kiểm tra nhận thức chính trị hàng năm của sinh viên các trường đại học đào tạo

các ngành kỹ thuật đều đạt trên 63% khá giỏi. Nếu những số liệu đó phản ánh

hoàn toàn trung thực trình độ nhận thức của học viên thì rất đáng phấn khởi. Tuy

nhiên, nếu so sánh với chi phí thì kết quả đó cũng chưa cao vì các trường đều có

ưu thế rõ rệt về nguồn lực, đó là: chủ thể có số lượng đông, chất lượng cao; đối

tượng được chọn lọc chặt chẽ, có trình độ nhận thức khá cao; môi trường giáo

dục chính quy, tập trung, có bề dày truyền thống; cơ sở vật chất, phương tiện dạy

học khá hiện đại.

Trong xã hội hiện đại, khả năng ảnh hưởng của gia đình có xu hướng thu

hẹp và điều kiện xã hội sẽ tích cực tạo cơ hội tối đa để thoả mãn sự phát triển đời

sống tinh thần của sinh viên. Do vậy cuộc đấu tranh về ý thức hệ cũng sẽ diễn ra

gay go và quyết liệt hơn, khi các thế lực thù địch ở trong và ngoài nước muốn

tranh thủ một bộ phận sinh viên chậm tiến, lệch lạc trong đạo đức, lối sống bằng

cách sử dụng lối sống thực dụng, ích kỷ, phi nhân tính…tăng cường đưa những

sản phẩm văn hóa độc hại, đồi trụy, phản văn hóa…để từng bước làm biến chất

115

sinh viên theo hướng tiêu cực như sống thực dụng, thờ ơ thiếu trách nhiệm với

bản thân, gia đình và xã hội.

Qua kết quả thực hiện VHHĐ ở 5 trường được khảo sát cho thấy hiệu quả

GDVHHĐ cho sinh viên vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đạt được mục đích đề ra

trong tương quan với nguồn lực huy động. Điều này được xem là cơ sở khẳng

định hiệu quả còn ở mức độ khá khiêm tốn so với yêu cầu về phẩm chất, năng

lực, nhân cách của nguồn nhân lực có trình độ cao phục vụ yêu cầu của sự

nghiệp CNH, HĐH đất nước trong điều kiện hội nhập quốc tế ở nước ta hiện

nay. Mặt khác, trong sử dụng nguồn lực cũng còn nhiều vấn đề tồn tại. Tinh thần

trách nhiệm, sự mẫu mực nêu gương của các chủ thể còn hạn chế; số lượng và

chất lượng đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý và phục vụ sinh viên còn nhiều bất

cập; sinh viên chưa quan tâm, hứng thú, tự giác trong học tập chính trị, pháp

luật, rèn luyện đạo đức, lối sống; nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục còn

lạc hậu; cơ sở vật chất phục vụ cho GDVHHĐ chưa bảo đảm còn thiếu hoặc

chưa phát huy hết tác dụng. Kết quả hạn chế, sử dụng nguồn lực còn bất hợp lý,

chưa thực sự phát huy hết tiềm năng dẫn tới hiệu quả GDVHHĐ cho sinh viên

chưa cao. Báo cáo sơ kết công tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống

có văn hóa cho sinh viên 2 năm (2012-2014) của 5 trường được khảo sát có nhận

định: Các hình thức, phương pháp giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống

có văn hóa cho sinh viên đã có đổi mới nhưng chất lượng, hiệu quả còn thấp,

chưa thật sự phong phú, sinh động hấp dẫn, thu hút được sinh viên; việc ứng

dụng mô hình, học cụ mới, vào công tác này chưa thường xuyên, áp dụng công

nghệ thông tin, chưa sử dụng Internet, mạng xã hội và các phương tiện truyền

thông hiện đại vào phục vụ hoạt động giáo dục, định hướng chính trị, đạo đức,

lối sống có văn hoá cho sinh viên, hiệu quả chưa cao.

Từ sự so sánh kết quả với mục đích và nguồn lực có thể khẳng định, hiệu

quả GDVHHĐ cho sinh viên các trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật ở Hà

Nội hiện nay là chưa cao, chưa tương xứng với sự kỳ vọng và những “lợi thế so

sánh” về nguồn lực mà Đảng, Nhà nước, Bộ, ban ngành và xã hội đầu tư cho các

trường. Đánh giá hiệu quả GDVHHĐ cho sinh viên liên quan đến kết quả giáo

116

dục phẩm chất “người” đến tình cảm, ý chí của con người, có liên quan đến sinh

mệnh chính trị, nhân cách của từng sinh viên, nhưng lại khó đưa ra tiêu chí cụ

thể, định lượng mà chỉ định tính nên việc đánh giá thường có xu hướng phản

ánh chưa sát, đúng thực tế. Tuy nhiên việc đánh giá vẫn phải được tiến hành

thông qua kết quả tham chiếu khác như kết quả học tập, ý thức kỷ luật, chất

lượng hoàn thành phần việc được giao, tinh thần trách nhiệm trong các hoạt

động ngoại khóa và biểu hiện thông qua hành vi, ứng xử trong sinh hoạt cá nhân

và tập thể của sinh viên.

3.3. Đánh giá chung về hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho

sinh viên và những vấn đề đặt ra

3.3.1. Về mặt nhận thức

Những năm qua, phong trào xây dựng VHHĐ, môi trường sư phạm lành

mạnh trong các trường đại học đã thu được những thành tựu rất đáng ghi nhận.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, môi trường giáo dục các trường đại

học ở Hà nội nói chung và các trường đào tạo các ngành kỹ thuật vẫn còn có

những hạn chế nhất định.

Các thành viên trong trường đại học chưa nhận thức nghiêm túc, đúng về

vai trò của văn hóa học đường đối chất lượng đào tạo cũng như thương hiệu của

nhà trường, dẫn đến hiệu quả GDVHHĐ chưa cao

Do chưa có một có văn bản mang tính pháp quy, bộ tiêu chí khung quy

định những nội dung cốt lõi về xây dựng và thực hiện VHHĐ cho các trường đại

học từ cơ quan quản lý, cho nên mỗi trường có cách thức thực hiện riêng và

không có tiêu chí chuẩn đánh giá chung

Trong mỗi nhà trường, văn hóa tồn tại một cách tự nhiên, khách quan. Do

vậy, nhà trường nào cũng có văn hóa của riêng mình, nhưng nội dung nó là gì?

các giá trị của nó ra sao? Văn hóa đó được hình thành tự phát hay là kết quả của

cả một quá trình xây dựng có chủ đích rõ ràng mức độ quan tâm của lãnh đạo,

quản lý nhà trường. Hiện nay các trường đại học tuy nhận thức được vị trí, vai

trò của VHHĐ đối với sự phát triển của nhà trường. Nhưng lúng túng trong xác

định nội dung, cách thức, biện pháp thực hiện vì không có văn bản mang tính

pháp quy từ Bộ chủ quản, các ban ngành hữu quan. Do đó, mỗi trường một cách,

117

mỗi trường một nội dung tạo ra bức tranh về HQGDVHHĐ không quy củ, khó

nhận diện, khó đánh giá vì không có quy định nào, hướng dẫn nào làm căn cứ.

Điều này chứng tỏ cần phải thể chế hóa, cụ thể hóa quan điểm, đường lối

của Đảng và luật pháp của Nhà nước Bộ giáo dục và đào tạo ban hành văn bản

pháp quy, kế hoạch, đề án.. để căn cứ vào đó các trường trên cơ sở điều kiện

thực tiễn của mình mà xây dựng nội dung, biện pháp thực hiện có hiệu quả.

Thường xuyên đánh giá HQGDVHHĐ và thiết lập các chuẩn mực mới, những

giá trị mới mang tính thời đại, đặc biệt là các giá trị sáng tạo không ngừng, dân

chủ và tiếp biến những giá trị mới. Việc truyền bá các giá trị mới cho mọi thành

viên trong nhà trường cần được coi trọng song song với việc duy trì những giá

trị, chuẩn mực tốt đã xây dựng được là lọc bỏ những chuẩn mực, giá trị cũ lỗi

thời hoặc gây ra ảnh hưởng tiêu cực cho tiến trình phát triển củaVHHĐ.

3.3.2. Về biểu hiện thực tiễn

* Về phía chủ thể giáo dục văn hoá học đường

Hoạt động quan trọng nhất của nhà trường là hoạt động dạy và học của thầy

và trò, các hoạt động khác đều nhằm phục vụ cho việc nâng cao chất lượng đào

tạo của cơ sở đào tạo.Thực trạng dạy và học trong trường đại học ở những

trường đào tạo các ngành kỹ thuật trên địa bàn Hà Nội hiện nay có nhiều điểm

sáng, tích cực đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Song bên cạnh đó vẫn còn

những mảng mờ, những biểu hiện tiêu cực của GDVHHĐ trong hoạt động dạy,

học. Đây là một trong những yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng đào tạo

nguồn nhân lực chất lượng cao và tác động xấu đến niềm tin, sự kỳ vọng của xã

hội đối với đào tạo bậc đại học.

Người xưa nói “Học vô tiên hậu duy hữu đức giả vi sư” nghĩa là trong việc

học không phân biệt trước sau, duy chỉ người có đức mới xứng đáng làm thầy.

Cha mẹ sinh thân nhưng đức, trí lại nhờ thầy giáo uốn nắn, bồi đắp, nên nghề

giáo mới gọi là nghề “trồng người”, thầy được gọi là “nhà sư phạm”. Hiện nay vì

danh lợi, nhiều thầy cô giáo cố phấn đấu, thậm chí tìm mọi cách để không phải

dạy, để được làm quan giáo dục, vì làm quan vừa có quyền, vừa có lợi. Các

phòng, ban, trung tâm chức năng, các tổ chức đoàn thể trong nhà trường chủ yếu

tập trung vào nhiệm vụ được phân công, chứ chưa thật sự quan tâm, coi việc

giáo dục nói chung và GDVHHĐ cho sinh viên là việc của giảng viên, của khoa

118

chuyên ngành, của phòng công tác học sinh, sinh viên. Chính vì vậy, mà chưa

tạo ra sự đồng thuận, đồng bộ trong quan điểm và hoạt động thực tiễn, thậm chí

trong hoạt động của các bộ phận này còn chưa tạo ra môi trường văn hóa trong

phục vụ quá trình đào tạo của nhà trường. Chẳng hạn thái độ, tính khoa học

trong việc hướng dẫn sinh viên, giảng viên thực hiện thủ tục hành chính, giải

thích chế độ chính sách, thắc mắc…, dẫn đến giảm hiệu quả giáo dục.

Trong giáo dục việc đánh giá kiểm tra là khâu cực kỳ quan trọng vì nó là

chỉ báo, thước đo của kết quả và chất lượng đào tạo của trường và kết quả học

tập, rèn luyện của sinh viên. Hiện nay trong các trường đại học việc kiểm tra,

đánh giá, thi cử bị xem là khâu yếu nhất. Các trường đều nhận ra thực trạng này

nên đã có nhiều biện pháp để cải tiến, nâng cao chất lượng việc đánh giá kết quả

học tập, rèn luyện của sinh viên. Qua khảo sát tại cả 5 trường đào tạo các ngành

kỹ thuật ở Hà Nội đều thành lập các trung tâm, phòng khảo thí để đánh giá độc

lập, khách quan quá trình đào tạo, kiểm định chất lượng. Điều này thúc đẩy sinh

viên tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập, rèn luyện và thầy, cô cũng nâng

cao được trách nhiệm và huy động tối đa năng lực trong giảng dạy. Thông qua

việc đánh giá khách quan chất lượng thi cử sẽ góp phần nâng cao chất lượng đào

tạo, cũng như thực hiện được mục tiêu, sứ mạng của nhà trường, nâng cao được

hiêu quả GDVHHĐ.

Tinh thần trách nhiệm của các chủ thể, sự phối hợp và phát huy vai trò của

các tổ chức, các lực lượng vào hoạt động giáo dục văn hóa học đường còn nhiều

bất cập

Đảng ủy, Ban Giám hiệu, Phòng, Khoa, Ban, Đoàn thanh niên, Hội sinh

viên của một số trường có lúc, có nơi chưa thực sự quan tâm, bám sát thực tiễn

để lãnh đạo, chỉ đạo hướng dẫn hoạt động GDVHHĐ cho sinh viên, có hiện

tượng khoán trắng cho phòng công tác học sinh, sinh viên, khoa Giáo dục lý luận

chính trị, khoa chuyên môn, thiếu kiểm tra, kiểm soát, xây dựng, thực hiện kế

hoạch theo kiểu mùa vụ cho nên còn nhiều bất cập. Việc quản lý thời gian, nội

dung, chương trình, quân số và đánh giá kết quả giáo dục có lúc, có nơi còn

buông lỏng. Lực lượng trực tiếp được phân công đảm nhiệm GDVHHĐ cho sinh

viên ở một số trường đại học chưa phát huy đầy đủ trách nhiệm, công tác tham

119

mưu, các tổ chức quần chúng chưa có nhiều sáng, cải tiến, đề xuất trong đổi mới

nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục.

Nhìn vào thực tế hoạt động GDVHHĐ cho sinh viên ở các trường đại học

đào tạo các ngành kỹ thuật ở Hà Nội những năm qua khó chỉ ra sự thiếu trách

nhiệm của các chủ thể giáo dục. Bởi hầu hết các chỉ thị, hướng dẫn của trên, các

quy định, quy chế của BGD&ĐT và bộ chủ quản đều được tiến hành đầy đủ, bài

bản. Tuy nhiên, so với mục tiêu xây dựng nhận thức, thái độ, hành vi văn hóa

trong trường học của sinh viên chưa tới ngưỡng cần thiết. Một số trường tuy thực

hiện đầy đủ các nền nếp, quy chế, các hoạt động GDVHHĐ nhưng chỉ là để

thanh toán đầu việc, để báo cáo, để “ghi điểm” với lãnh đạo. Không ít trường có

xu hướng thay thế giáo dục tư tưởng, tình cảm bằng các biện pháp hành chính,

bố trí học thêm, tăng các tiêu chí về ngoại ngữ, tin học và đặt ra những điều cấm

đoán, các hình phạt về kinh tế làm biện pháp quản lý thay vì quan tâm đáp ứng

nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích chính đáng của sinh viên. bên cạnh đó các trường

chưa tạo được sự phối hợp khoa học, hợp lý cũng như phân định rõ góc độ tiếp

cận giữa các lực lượng trong chủ thể giáo dục dẫn đến sự trùng lặp về nội dung,

bất cập về hình thức, phương pháp giáo dục.

* Về phía sinh viên – đối tượng giáo dục văn hóa học đường

Thứ nhất, thông qua việc lựa chọn nghề đào tạo.

Qua điều tra hơn 521 sinh viên ở 5 trường đại học trên địa bàn Hà Nội: Đại

học Giao thông vận tải, Đại học Xây dựng, Đại học Công nghiệp Hà Nội, Đại

học Kiến trúc, ĐH Thành Đô cho thấy: 67,5% cho rằng chọn học các ngành kỹ

thuật để có việc làm ngay sau khi ra trường; 13,3% cho rằng đi học để thỏa mãn

đam mê, phát triển tài năng; 49,7% học do định hướng của gia đình, bạn bè; 26%

cho rằng học các ngành kỹ thuật để có thu nhập cao; 58,7% sinh viên muốn có

điều kiện học tập tốt hơn; 51,5% muốn học để tiếp cận nghề nghiệp; 50% có nhu

cầu học thêm ngoại ngữ, tin học và các môn bổ trợ khác dễ kiếm việc làm [Phụ

lục, kết quả khảo sát, bảng 19].

Thứ hai, biểu hiện ở mục đích, động cơ học tập của SV còn phân tán, thiếu

định hướng, tự phát, mới chỉ xoay quanh việc kiếm công ăn việc làm, có thu

nhập cao, có vị trí trong xã hội mà không quan tâm đến trách nhiệm của cá nhân

đối với sự phát triển bền vững của xã hội, sự giàu mạnh của đất nước. Tuy nhiên

120

khi có sự kiện liên quan đến lợi ích quốc gia thì hầu hết mọi sinh viên đều bộc lộ

sự bất bình và tinh thần muốn tham gia vào công cuộc bảo vệ chủ quyền lãnh

thổ. Phần lớn sinh viên đều có cố gắng, nỗ lực học tập. Thực tiễn cuộc sống đã

giúp họ nhận thức được tầm quan trọng và giá trị của những tri thức trên giảng

đường. sinh viên hiểu rằng trong nền kinh tế thị trường, năng lực và khả năng

thích ứng cao mới là cái quyết định đến tương lai. Họ tận dụng mọi phương tiện

cho phép và thời gian có được để trang bị một hành trang vào đời với đủ các

bằng cấp, học vị đáp ứng những đòi hỏi của xã hội. Do đó chọn nghề theo đòi

hỏi của xã hội là phổ biến, vì vậy có những trường thí sinh đua chen vào, có

những trường thừa chỉ tiêu được tuyển. Nhiều sinh viên khi ra trường vì mong

muốn làm giàu nhanh, sẵn sàng từ bỏ ước mơ để nhận một việc làm hoàn toàn

trái với chuyên môn được đào tạo và nguyện vọng của mình. Một bộ phận không

nhỏ sinh viên chỉ quan tâm đến trau dồi tri thức, nâng cao năng lực chuyên môn

không chú trọng rèn luyện những phẩm chất đạo đức, lối sống. Họ dễ bị rơi vào

guồng quay tiêu cực của xã hội, suy thoái về đạo đức, nhân cách.

Theo đánh giá của Viện Nghiên cứu và Phát triển giáo dục 2012, có khoảng

50% sinh viên thực sự ham học, có khoảng 15% học tập cầm chừng, phần còn lại

học tập một cách thụ động, đối phó. Nếu so sánh tinh thần học tập chủ động của

nhóm sinh viên ở khối kinh tế kỹ thuật thì tính tính cực của họ cao hơn so với

khối sinh viên khối văn hoá xã hội nhân văn. Nhóm sinh viên ngoại trú lại có ý

thức chủ động học tập cao hơn so với sinh viên nội trú và họ cũng có điều kiện

học thêm, tiếp xúc với cuộc sống phong phú hơn.

Nâng cao hiệu quả GDVHHĐ mục đích nhằm góp phần thực hiện tốt mục

tiêu, nâng cao chất lượng đào tạo cũng như chất lượng sinh viên ra trường được

các đơn vị sử dụng sản phẩm đào tạo của cơ sở đào tạo trong những năm qua. Do

điều kiện khách quan, luận án sử dụng số liệu thống kê 3 năm từ 2012-2015 của

một số trường đào tạo các ngành kỹ thuật ở Hà Nội.

Thứ ba, biểu hiện qua kết quả học tập của sinh viên

HQGDVHHĐ ở các trường đại học được khảo sát thể hiện qua tiêu chí thực

tiễn, biểu đạt bằng tỷ lệ sinh viên đủ điều kiện theo học tại trường tăng hàng năm

121

(so với mặt bằng của các trường Đại học), số liệu thống kê 3 năm học 2012 -

2013, 2013 – 2014, 2014 - 2015 cho thấy:

Biểu đồ 3.3.3: Kết quả học tập của, sinh viên của trường qua hàng năm (tỷ

lệ % thể hiện HQGDVHHĐ xét từ tiêu chí thực tiễn, Nguồn tổng hợp số liệu từ

phòng đào tạo)

Số liệu cho thấy số lượng sinh viên bị dừng học (không đủ điểm tích lũy),

bị buộc thôi học do vi phạm kỷ luật năm sau cao hơn năm trước. Theo thống kê

của Phòng công tác học sinh sinh viên năm 2013, có 70 sinh viên bị kỷ luật (20

cảnh cáo, 50 đình chỉ), năm 2014 có 77 sinh viên bị kỷ luật (26 cảnh cáo, 51

đình chỉ), có 81 sinh viên bị kỷ luật (39 cảnh cáo, 42 đình chỉ), mặt khác xuất

hiện hiện tượng học hộ, thi hộ, vi phạm nội quy, quy chế của nhà trường, hành

xử thiếu văn hóa trong học tập ngày càng gia tăng. Với thực trạng này, biểu hiện

hoạt động “dạy người” còn hạn chế. Nói cách khác giáo dục và thực hiện VHHĐ

trong nhà trường hiệu quả còn thấp. Bên cạnh đó, một số sinh viên tốt nghiệp ra

trường yếu cả về kiến thức, kỹ năng và khả năng hợp tác, khả năng làm việc theo

nhóm trong thực hiện công việc nên rất khóa hội nhập

Nhìn chung, bên cạnh một số sinh viên có trình độ tay nghề thì chất lượng

học tập của một bộ phận không nhỏ sinh viên chưa đáp ứng được yêu cầu của thị

trường lao động và yêu cầu phát triển nguồn nhân lực đất nước. Chính vì vậy,

bên cạnh việc phát huy tính kỷ luật tự giác của sinh viên, nhà trường và giảng

viên cần có biện pháp cụ thể để khắc phục hiện tượng trên, nếu không sẽ hình

thành trong sinh viên nếp sống lề mề, chậm chạp, không có kỷ cương và đặc biệt

122

sẽ không đào tạo được những con người có trình độ, kỹ năng, tay nghề... Đây là

những tác phong không phù hợp với yêu cầu của nhịp sống công nghiệp hiện nay

Hiện tượng học sinh, sinh viên vi phạm pháp luật diễn biến ngày càng phức

tạp, biểu hiện tăng cả về số lượng lẫn mức độ phạm càng nghiêm trọng. Mặc dù

là sinh viên nhưng một bộ phận không nhỏ nhận thức về pháp luật kém. Rất

nhiều sinh viên tham gia quan hệ pháp luật mà không biết những quy định của

pháp luật mặc dù nó rất gần gũi, phổ biến trong cuộc sống. Ví dụ như luật giao

thông đường bộ, luật giáo dục… Theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo tại

Hội nghị Tập huấn công tác học sinh, sinh viên đầu năm học 2013 – 2014, trong

năm 2013 có khoảng trên 9.000 vụ tội phạm do học sinh, sinh viên và thanh

thiếu niên gây ra, giảm 9,6% so với năm 2012 nhưng tính chất phạm lại ngày

càng nghiêm trọng. Từ số liệu khảo sát kết quả đào tạo, rèn luyện và quan niệm

của sinh viên cho thấy quá trình thực hiện mục tiêu đào tạo nói chung trong đó

có GDVHHĐ cho sinh viên trong các trường đại học đào tạo kỹ thuật ở Hà nội,

tuy đã có kết quả đáng kích lệ nhưng nhìn chung hiệu quả còn chưa cao do nhiều

nguyên nhân khách quan và chủ quan.

3.3.3. Mối quan hệ giữa nội dung và phương pháp giáo dục văn hoá

học đường

* Nội dung giáo dục văn hóa học đường chưa hấp dẫn, lôi cuốn, chưa

thuyết phục sinh viên

Văn hóa học đường với nội dung của nó vô cùng phong phú đa dạng và

biến hóa. Nhưng các trường đại học, nhất là những trường đại học đào tạo các

ngành kỹ thuật thường quan niệm GDVHHĐ đồng nhất với giáo dục lý luận

chính trị, giờ sinh hoạt lớp, dẫn đến xây dựng nội dung GDVHHĐ thường khuôn

lại ở các môn giáo dục lý luận chính trị, pháp luật, quy chế, các môn

KHXH&NV, các buổi hội nghị, sinh hoạt theo chuyên đề. Do vậy nội dung giáo

dục vẫn còn đơn điệu, nặng tính lý thuyết, định tính, tính ứng dụng không cao

và chưa đưa kết quả thực hiện VHHĐ của sinh viên là một trong những tiêu chí

đánh giá kết quả học tập và rèn luyện (đức dục) của sinh viên, chưa có hình thức

khen thưởng phù hợp, do vậy chưa tạo ra dư luận, thái độ kiên quyết trong đấu

tranh với những thái độ, hành vi vô văn hóa trong trường đại học, vì thế thái độ,

hành vi vô văn hóa trong trường đại học vẫn tồn tại và có xu hướng ngày càng

gia tăng. Tình trạng phổ biến hiện nay là giảng dạy lý luận chính trị, pháp luật,

123

KHXH&NV, các môn chuyên môn chỉ nhằm mục đích thuần túy chuyển tải nội

dung của môn học, phục vụ thi, kiểm tra, ít gắn với giải quyết, nhận thức các vấn

đề thực tiễn đang đặt ra. Tính ứng dụng của kiến thức hạn chế nên sinh viên ít

cảm nhận được lợi ích thực sự của việc học thực hiện VHHĐ cho nên hiệu quả

GDVHHĐ chưa cao.

Vấn đề nổi cộm hiện nay trong nội dung giáo dục là mâu thuẫn giữa lý

thuyết, quan niệm và thực tế. Sự thiếu công bằng trong thực thi đường lối, chính

sách của Nhà nước, những hiện tượng tiêu cực tham nhũng, nhũng nhiễu lại chủ

yếu xảy ra ở đảng viên có chức quyền. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo

nhưng để xảy ra nhiều vụ việc như: Vinashin, Agribank, ACB Bank, số 8B Lê

trực... Các dự án, công trình lớn của nhà nước lại là nơi làm thất thoát nhiều tiền

bạc của Nhà nước, của nhân dân. Văn hoá là nền tảng, là động lực phát triển

kinh tế - xã hội nhưng các tệ nạn ma túy, mại dâm, bạo lực học đường, lừa đảo,

bảo kê không ngừng gia tăng cùng các chuẩn mực đạo đức xã hội, các giá trị

truyền thống ngày càng mai một. Những hiện tượng trái ngược giữa “nói” và

“làm” khiến nhiều nội dung giáo dục trở nên xa rời cuộc sống, thiếu hấp dẫn.

* Hình thức, phương pháp giáo dục vẫn chưa đáp ứng nhu cầu của

sinh viên

Nhìn chung, ngoài việc áp dụng kỹ thuật trình chiếu thì hình thức, phương

pháp GDVHHĐ cho sinh viêncác trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật ở

Hà Nội hiện nay về cơ bản không có gì khác so với trước kia và so với các môn

lý luận chính trị, thậm chí được lồng ghép cơ học với một số chương trình, sự

kiện khác nên nhiều khi sử dụng phương pháp khong phù hợp thiên cưỡng về cơ

bản vẫn chung chung, giải thích theo quan điểm cá nhân. Sự lý giải hiện thực

chưa thuyết phục mà mang tính áp đặt. Nhiều tình huống đưa ra chưa sát đối

tượng, không phải là đại diện, dẫn đến không phát huy được tính tích cực, chủ

động, sáng tạo khi sinh viên tham gia tranh luận, tự kết luận, tự rút kinh nghiệm

cho minh.

Theo thống kê của chúng tôi, tần suất sử dụng các hình thức phát động thi

đua, thi tìm hiểu ở các trường những năm gần đây nhiều. Các ngày lễ kỷ niệm

gần như đều tổ chức, phát động thi đua… nhưng cách thức tuyên truyền, cổ động

chưa tạo được sự cuốn hút, sự chú ý, tham gia tích cực của đối tượng. Tuy chủ

124

đề có khác nhau nhưng về cơ bản nội dung, quy trình, hình thức tổ chức, ký kết

giao ước thi đua vẫn nặng về hình thức mà hiệu quả tác động thấp. Hiện nay

đang có xu hướng lạm dụng hình thức thi tìm hiểu, nhất là vào những năm có

nhiều ngày lễ lớn. Chỉ tính riêng trong năm 2013, có tới 5 cuộc thi dành cho đối

tượng sinh viên do các cơ quan, ban ngành cấp trên phát động dẫn đến tình trạng

đối phó, sao chép, gây tốn kém thời gian, tiền bạc mà không mang lại hiệu quả

như mong muốn. Hình thức sinh hoạt văn hoá, văn nghệ còn nặng về phong trào,

hình thức, nội dung nhiều khi còn chưa phù hợp chủ đề với nhu cầu thị hiếu của

tuổi trẻ.

3.3.4. Phương pháp, hình thức đánh giá hiệu quả hình thức giáo dục

văn hoá học đường còn nhiều bất cập

Đánh giá hiệu quả GDVHHĐ là vấn đề phức tạp, cần sử dụng tổng hợp

nhiều phương pháp đánh giá. Trong các trường Đại học chúng tôi khảo sát, việc

đánh giá hiệu quả GDVHHĐ đang được áp dụng nhiều phương pháp hiện đại: sử

dụng mạng internet, mạng xã hội để điều tra, sử dụng các phần mềm để xử lý và

phân tích các số liệu…

- Đánh giá điển hình: lựa chọn một số sinh viên có tính đại diện để tiến

hành điều tra, nghiên cứu sự chuyển biến về nhận thức, thái độ và hành vi sau tác

động của GDVHHĐ. Đây là phương pháp đánh giá mang tính chất định tính, khi

đánh giá có thể lựa chọn điển hình ở các mức độ tốt, khá, trung bình, yếu để

nghiên cứu. Phương pháp này được sử dụng ở trường đại học Kiến trúc, đại học

Giao thông vận tải, đại học Xây dựng. Vì chỉ được lựa chọn các trường hợp điển

hình nên tính chính xác của hiệu quả giáo dục văn hóa học đường không cao.

+ Đánh giá xác suất: chọn ra một số đối tượng ngẫu nhiên hoặc một số tập

thể trong toàn bộ các đối tượng cần đánh giá để lấy tư liệu, từ đó suy ra nhận

định chung về tất cả các đối tượng cá nhân và tập thể sinh viên cần đánh giá.

Đây là phương pháp đánh giá thường được áp dụng tại trường đại học Công

nghiệp Hà Nội. Số lượng sinh viên quá đông, vấn đề giáo dục văn hóa học

đường lại không được coi là nội dung giáo dục chính khóa, không nằm trong cấu

trúc chương trình môn học nên hiệu quả GDVHHĐ thường được đánh giá xác

suất một cách ngẫu nhiên, vì vậy không đảm bảo tính chính xác, khách quan.

+ Đánh giá toàn bộ: lần lượt đánh giá tất cả các đối tượng sinh viên.

Phương pháp này thường để đánh giá hiệu quả của những hoạt động GDVHHĐ

125

quan trọng, phù hợp cho nghiên cứu định lượng. Nó được áp dụng trong cả 5

trường đại học chúng tôi khảo sát. Nhưng nó chỉ được áp dụng có tính định kỳ

với những nghiên cứu mang tính định lượng, thiếu tính phổ quát, vì thế phương

pháp này cũng không thực sự cho kết quả chính xác về hiệu quả GDVHHĐ. Có

thể kết hợp sử dụng phương pháp đánh giá toàn bộ một lần, đánh giá thường

xuyên hoặc đánh giá nhanh. Đánh giá toàn diện có ưu điểm là diện tiếp xúc rộng,

độ chuẩn xác cao, nhưng cần được tổ chức chu đáo, có quy định thống nhất, rõ

ràng về thời gian, phạm vi, đối tượng, tiêu chuẩn, nội dung vì đây là một công

việc lớn, phức tạp trong cả quá trình điều tra và xử lý kết quả.

Hình thức đánh giá

Trong 5 trường đại học mà chúng tôi khảo sát, điểm thống nhất chung là

các hình thức đánh giá được sử dụng linh hoạt, mềm dẻo và hợp lý. Cụ thể là:

+ Thông qua chế độ giao ban, báo cáo, nắm bắt tư tưởng, đánh giá xếp loại

việc thực hiện VHHĐ của sinh viên trong tháng (hội nghị các lớp trưởng và bí

thư các lớp với giám hiệu, phòng quản lý sinh viên, cố vấn học tập): đây là các

hình thức phổ biến nhất trong các trường đại học, được cả 5 trường áp dụng.

Việc duy trì nền nếp giao ban, báo cáo định kỳ và đột xuất theo định kỳ và chế

độ đánh giá xếp loại đức dục hàng tháng giúp cho việc đánh giá hiệu quả

GDVHHĐ diễn ra kịp thời, mang tính pháp lý và có độ tin cậy cao.

+ Tọa đàm, diễn đàn, hội thảo: các hình thức này thường để trao đổi trực

tiếp về các vấn đề cần quan tâm, nắm bắt nhận thức và thái độ, tư tưởng, hành vi

của sinh viên. Đây là phương pháp đơn giản, dễ thực hiện và tương đối tin cậy.

Tuy nhiên, trong số 5 trường đại học mà chúng tôi khảo sát, hình thức này được

sử dụng không nhiều vì kinh phí và thời gian tổ chức không phù hợp với thời

gian biểu của sinh viên. Một lý do nữa khiến hình thức này ít được tổ chức vì chi

phí nguồn lực không đủ điều kiện đáp ứng.

+ Phỏng vấn cá biệt: tiến hành trao đổi riêng với những người có liên quan

như: người quản lý, cố vấn học tập, thủ lĩnh các đội, hội, câu lạc bộ, người thân

hoặc với đối tượng chủ nhân sự việc, hiện tượng cần quan tâm để nắm bắt tình

hình tư tưởng, thái độ, ý kiến của tập thể và cá nhân sinh viên để có những

phương pháp giáo dục, định hướng phù hợp, đúng đắn. Phương pháp này được

sử dụng ở cả 5 trường, thường áp dụng đối với những sinh viên chậm tiến bộ. Vì

thế nếu xét chung trong các hình thức đánh giá hiệu quả GDVHHĐ thì hình thức

này thiếu tính đại diện, thiếu tính phổ quát.

126

+ Nghiên cứu tài liệu: đánh giá nghiên cứu các văn bản, tài liệu, báo cáo

liên quan đến hoạt động của tập thể và cá nhân sinh viên để chắt lọc, nắm bắt

thông tin. Đây là phương pháp được chủ thể GDVHHĐ của các trường đại học

sử dụng, thường là phòng công tác chính trị, phòng công tác sinh viên, phòng

đào tạo, văn phòng và cố vấn học tập của các khoa.

+ Tư vấn: trên cơ sở nắm bắt những xu thế mới, những vấn đề phức tạp nảy

sinh trong đơn vị, có thể mời chuyên gia tâm lý, các học giả có chuyên môn để

luận giải, đánh giá tình hình, tư vấn, đề xuất, kiến nghị.

+ Thống kê: tận dụng chế độ báo cáo thống nhất để thu thập một cách có tổ

chức các số liệu quan trọng phản ánh đặc trưng và quy luật của sự việc để đánh

giá. Đây là phương pháp phổ biến và quan trọng thông qua phân tích kết quả học

tập, hoạt động phong trào để đưa ra các hình thức khen thưởng, kỷ luật kịp thời.

+ Trắc nghiệm khách quan: dùng phương thức điều tra bằng phiếu hỏi,

bảng hỏi với các câu hỏi mở và câu hỏi đóng để đối tượng tự do phát biểu ý kiến

mà không bị bất kỳ một sức ép hoặc sự can thiệp nào nhằm tìm hiểu nhận thức

và thái độ, quan niệm của sinh viên một cách khách quan nhất.

+ Tổng kết thực tiễn, điều tra xã hội học bằng các phương pháp định tính và

định lượng để có kết quả khách quan, khoa học. Từ đó mà xác định hiệu quả của

GDVHHĐ.

Nhìn chung các trường đại học trong phạm vi nghiên cứu của đề tài đã sử

dụng các phương pháp và hình thức đánh giá hiệu quả GDVHHĐ phù hợp với

thực tiễn của trường mình. Để hiệu quả GDVHHĐ được đánh giá một cách

khách quan và khoa học, các trường cần áp dụng các phương pháp và hình thức

trên một cách linh hoạt, biện chứng và khoa học thì hiệu quả GDVHHĐ mới

thực sự đạt được.

Về chí phí các nguồn lực (nhân lực, thời gian, cơ sở vật chất) cho hoạt động

GDVHHĐ cho sinh viên trong các trường chưa được tính toán một cách cặn kẽ,

cụ thể hóa. Nguyên nhân chính là do xem nhẹ hoạt động này với quan niệm đây

là chương trình ngoại khóa, tận dụng, kết hợp với các hoạt động khác vì vậy rất

khó tính được chi phí. Đây cũng chính là một trong những yếu tố góp phần hạn

chế HQGDVHHĐ cho sinh viên trong các trường đại học

Tiểu kết chương 3

Để có cơ sở khoa học đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả GDVHHĐ cho

sinh viên các trường đại học tại Hà Nội hiện nay, tác giả của luận án đã tiến hành

127

khảo sát thực trạng GDVHHĐ trong các trường đại học đào tạo kỹ thuật trên địa

bàn Hà Nội: đại học Kiến trúc, đại học Giao thông vận tải, đại học Xây dựng, đại

học Công nghiệp Hà Nội, đại học Thành Đô. Đây là những trường đại học có bề

dày lịch sử, có thương hiệu, có uy tín trong lĩnh vực đào tạo – giáo dục.

Nhận thức rõ vị trí, vai trò của GDVHHĐ trong việc hoàn thiện nhân cách,

là điều kiện cho quá trình thực hiện đổi mới căn bản toàn diện giáo dục bậc đại

học, thời gian qua, các trường đại học đào tác các ngành kỹ thuật ở Hà Nội đã

tận dụng tối đa điều kiện thuận lợi của môi trường xã hội khách quan, phát huy

tốt những lợi thế sẵn có như: số lượng chủ thể đông, tổ chức chặt chẽ; đối tượng

được lựa tuyển chọn qua các kỳ thi quốc gia, có ưu thế về trí tuệ; có cơ sở vật

chất kỹ thuật, công nghệ tiên tiến để nâng cao hiệu quả GDVHHĐ. Sự chuyển

biến trong nhận thức, thái độ, niềm tin và tính tích cực của sinh viên do

GDVHHĐ mang lại trong những năm qua là rất tích cực, góp phần quan trọng

vào chiến lược phát triển con người Việt Nam phục vụ sự nghiệp xây dựng và

bảo vệ đất nước trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội ngập quốc tế

ngày càng sâu rộng.

Nâng cao hiệu quả GDVHHĐ cho sinh viên là một đòi hỏi khách quan của

phát triển nguồn nhân lực cao đáp ứng yêu cầu của CNH, HĐH đất nước. Các

trường đại học phải giải quyết những vấn đề cơ bản : mâu thuẫn giữa tính mô

phạm của môi trường giáo dục với sự phức tạp, đa dạng của đời sống xã hội;

mâu thuẫn giữa yêu cầu về số lượng và chất lượng chủ thể với thực trạng phẩm

chất và năng lực của các lực lượng tham gia GDVHHĐ cho sinh viên; mâu thuẫn

giữa yêu cầu tăng cường tính khoa học, thuyết phục trong giáo dục nhận thức, cổ

vũ hành động thực tiễn đúng đắn với sự chậm đổi mới nội dung, hình thức,

phương pháp và huy động nguồn lực cho GDVHHĐ; mâu thuẫn giữa đòi hỏi

phát huy tính tích cực của đối tượng với sự thiếu hứng thú của sinh viên với hoạt

động GDVHHĐ. Các trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật ở Hà Nội hiện

nay phải nghiên cứu tìm ra các giải pháp khả thi hướng vào giải quyết kịp thời

các mâu thuẫn đó trong điều kiện thực tế của mình, mới nâng cao được

HQGDVHHĐ.

128

Chương 4

PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC

VĂN HÓA HỌC ĐƢỜNG CHO SINH VIÊN CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC

Ở HÀ NỘI HIỆN NAY

4.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả giáo dục văn hóa học đường

cho sinh viên

4.1.1. Nâng cao hiệu quả giáo dục văn hoá học đường cho sinh viên

góp phần thực hiện tốt mục tiêu giáo dục đào tạo bậc đại học ở Việt Nam

Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, mối quan hệ giữa các quốc

gia về nhiều phương diện, trong đó có giáo dục, ngày càng trở nên gắn bó. Việc

hội nhập đòi hỏi mỗi nước phải có những chính sách riêng vừa phù hợp với lợi

ích của quốc gia mình, vừa phù hợp với xu thế chung của thời đại và quốc tế. Sự

nghiệp phát triển của giáo dục - đào tạo không nằm ngoài xu hướng đó và việc

phải thay đổi phương thức đào tạo từ mục tiêu, nội dung chương trình , phương

pháp dạy và học cũng như phương pháp quản lý giáo dục là điều tất yếu. Vấn đề

cốt lõi để nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo chính là nâng cao hiệu quả giáo

dục văn hoá học đường cho học sinh sinh viên, bởi đây là chìa khoá của thành

công trong thực hiện mục tiêu giáo dục đào tạo.

Văn hoá học đường là tài sản vô hình của nhà trường, bởi tính văn hoá là

tính chất đặc thù của nhà trường hơn bất kỳ một tổ chức nào. Điều này được xác

định dựa trên những căn cứ sau:

- Nhà trường là nơi bảo tồn vào lưu truyền các giá trị văn hoá nhân loại.

- Nhà trường là nơi đào luyện những lớp người mới, chủ nhân gìn giữ và

sáng tạo văn hoá cho tương lai.

- Nhà trường là nơi con người với con người (người dạy với người học)

cùng hoạt động để chiếm lĩnh các mục tiêu văn hoá, theo những cách thức văn

hoá, dựa trên những phương tiện văn hoá.

Văn hoá học đường tạo động lực làm việc cho các thành viên. Văn hóa học

đường phù hợp, tích cực tạo ra các mối quan hệ tốt đẹp giữa các các cán bộ, giáo

viên, nhân viên trong tập thể sư phạm, giữa giáo viên và học sinh; đồng thời tạo

ra một môi trường làm việc thoải mái, vui vẻ, lành mạnh. Đó là nền tảng tinh

thần cho sự sáng tạo, được thừa nhận và tôn trọng.

129

Văn hóa học đường giúp hạn chế tiêu cực và xung đột. Nó giúp các thành

viên trong nhà trường thống nhất về cách nhận thức vấn đề, cách đánh giá, lựa

chọn, định hướng và hành động. Như là chất keo gắn kết các thành viên lại thành

một khối, tạo ra những dư luận tích cực hạn chế những biểu hiện tiêu cực trái với

quy tắc, chuẩn mực thông thường. Nó hạn chế những nguy cơ mâu thuẫn và

xung đột và khi xung đột là không thẻ tránh khỏi thì văn hóa nhà trường tạo ra

hành lang pháp lý, đạo lý phù hợp để góp phần khắc phục, giải quyết xung đột

trên nguyên tắc không để phá vỡ tính chỉnh thể của tổ chức nhà trường.

Những thành quả trong giáo dục văn hoá học đường mà các trường đại học

Việt Nam nói chung và các trường đại học trên địa bàn Hà Nội nói riêng đạt

trong những năm qua đã tạo ra một nền tảng vững chắc và tạo đà vận động cho

việc nâng cao hiệu quả giáo dục văn hoá học đường trong trường đại học trên địa

bàn Hà Nội trong thời gian tới. Vấn đề chất lượng giáo dục đào tạo nói chung và

hiệu quả giáo dục văn hoá học đường nói riêng đang đặt ra những câu hỏi lớn

cho các nhà hoạch định chính sách, các nhà quản lý giáo dục để cần có định

hướng phát triển trong tương lai, nhằm hướng tới mục đích nâng cao hiệu quả

giáo dục văn hoá học đường cho sinh viên.

4.1.2. Nâng cao hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên

là cơ sở để giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, ý thức trách

nhiệm công dân cho sinh viên

Bên cạnh việc tập trung vào nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường,

thì việc tăng cường GDVHHĐ được xác định là một trong những nhiệm vụ

chính trị của nhà trường trong điều kiện hiện nay. Quan điểm này được thể hiện

ở việc nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho sinh viên, tạo điều kiện cần thiết

cho quá trình rèn đức, luyện tài để ngày mai lập nghiệp của sinh viên. Cần phải

tạo điều kiện cho sinh viên tiếp nhận, thấm nhuần các giá trị văn hóa, thẩm thấu

nền văn hóa dân tộc một cách tự nhiên thông qua nhiều hình thức tác động, làm

cho VHHĐ là chất kết dính gắn kết với tất cả các hoạt động của sinh viên từ hoạt

động học tập đến các hoạt động xã hội khác.

Tăng cường hiệu quả GDVHHĐ cho sinh viên, cần thống nhất ở một số

điểm sau:

130

- Xác định rõ nhiệm vụ và trách nhiệm của mỗi bộ phận của nhà trường

trong việc GDVHHD cho sinh viên, nhất là giáo dục thông qua nội dung của

môn giáo dục đạo đức nghề nghiệp, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh, các môn KHXH&NV, các chuyên đề cụ thể. Nhiệm vụ của GDVHHĐ

góp phần giáo dục đạo đức, lối sống lành mạnh phù hợp với yêu cầu và đòi hỏi

của xã hội trong điều kiện mới, là phải kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức

truyền thống của dân tộc và những tinh hoa đạo đức nhân loại, coi đó làm cơ sở

để xây dựng nhân cách sinh viên thời đại mới. Đồng thời, GDVHHĐ là màng lọc

nhằm khắc phục những quan điểm đạo đức lạc hậu, chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, vô

tránh nhiệm đang nảy sinh trong một bộ phận sinh viên. Việc giáo dục đạo đức,

lối sống lành mạnh cho sinh viên là trách nhiệm của mọi người, mọi tổ chức xã

hội và của toàn xã hội. Không nên coi việc GDVHHĐ, đạo đức lối sống chỉ nằm

trong khuôn khổ giáo dục của nhà trường, của các thầy, cô giáo. Giáo dục văn

hóa, đạo đức lối sống, ý thức trách nhiệm trong trường đại học nhằm xây dựng

một nhân cách tốt đẹp cho sinh viên.

- Kết hợp chặt chẽ GDVHHĐ với giáo dục luật pháp và thực hiện nghiêm

luật pháp trong nhà trường và xã hội.

Trong một xã hội cụ thể, đạo đức, lối sống và pháp luật về cơ bản thống

nhất nhưng lại có những điểm khác nhau về hình thức biểu hiện. Giáo dục pháp

luật có một vai trò quan trọng trong việc GDVHHĐ cho sinh viên. Về bản chất,

giáo dục pháp luật là một hoạt động định hướng có tổ chức, có chủ định của chủ

thể giáo dục, nhằm tác động lên đối tượng giáo dục, hình thành ở họ những tri

thức pháp luật, tình cảm, hành vi phù hợp với đòi hỏi của hệ thống pháp luật

hiện hành. Đồng thời, giáo dục pháp luật tạo ra những khả năng thiết lập những

nguyên tắc đạo đức, củng cố tình cảm, nghĩa vụ đạo đức cho mỗi sinh viên. Nó

trang bị cho sinh viên nắm vững những chuẩn mực pháp lý. Đây không chỉ là cơ

sở cho sinh viên thực hiện nghĩa vụ pháp lý mà còn là cơ sở để họ thực hiện

những nghĩa vụ đạo đức tối thiểu của con người – nét văn hóa trong hoạt động

của sinh viên. Ngoài ra, trong GDVHHĐ cần phải giáo dục, định hướng thẩm

mỹ cho sinh viên đem đến cho mỗi sinh viên khả năng cảm nhận cái đẹp, thể

hiện và sáng tạo ra cái đẹp trong hoạt động thực tiễn của bản thân. Từ đó, hình

thành thị hiếu, lý tưởng thẩm mỹ và xu hướng vươn tới cái đẹp ở mỗi sinh viên.

131

4.1.3. Nâng cao hiệu quả giáo dục văn hoá học đường nhằm nâng

cao chất lượng đào tạo của nhà trường

Trường đại học là nơi đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự

nghiệp phát triển và bảo vệ Tổ quốc ngày càng giàu mạnh. Cùng với việc không

ngừng nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học, nhà

trường phải coi trọng GDVHHĐ cho sinh viên. Công tác GDVHHĐ phải được

thực hiện thường xuyên và lồng ghép vào nội dung giảng dạy của nhà trường.

Nội dung GDVHHĐ góp phần vào việc xây dựng thế hệ trẻ có ý thức, tình cảm

cao đẹp, có hành động tích cực, chủ động sáng tạo trong học tập và rèn luyện để

triết lý học thực, nghiệp thực trong trường đại học không là khẩu hiệu mà qua đó

thể hiện bản lĩnh Việt Nam được lan tỏa, được khẳng định trong quá trình phát

triển, hội nhập. Tránh thực hiện GDVHHD theo kiểu hình thức, không gắn kết

chặt chẽ với việc dạy nghề cho sinh viên.

Trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo vấn đề đảm bảo môi trường sống, học tập,

vui chơi, giải trí cho sinh viên văn minh, hiện đại góp phần trực tiếp vào việc

nâng cao HQGDVHHĐ của nhà trường. Xây dựng cơ sở vật chất phục vụ việc

học lý thuyết, thực hành của sinh viên; xưởng sản xuất; nơi làm việc của các

khoa, phòng, ban, trung tâm chức năng, khu thể thao, vui chơi giải trí và ký túc

xá đều phải đảm bảo tính khoa học, hợp lý đồng thời còn phải tính tới yếu tố văn

hóa, giáo dục cho sinh viên.

Cảnh quan của nhà trường phải khang trang, các khối kiến trúc phải hài

hòa, làm sao phải “trường ra trường, lớp ra lớp” đạt chuẩn quốc gia về diện tích.

Nhà trường phải là điển hình về mô hình về xanh-sạch-đẹp. Cổng trường là bộ

mặt vì vậy không thể lem nhem, mất chữ, lối ra vào phải thoáng đãng không để

hàng, quán lấn chiếm, có bóng mát, vườn hoa, cây cảnh, phòng học lý thuyết và

thực hành phải đạt chuẩn diện tích, ánh sáng phải đảm bảo. Mầu sắc trần và

tường của các phòng học cũng phải cân nhắc sao cho phù hợp với đặc trưng của

nhà trường, với điều kiện khí hậu của Việt Nam. Kích thước bàn ghế, sự bố trí

công cụ hỗ trợ giảng dạy, giáo cụ trực quan phải hợp lý, đảm bảo hiệu quả cao

cho hoạt động dạy và học. Thư viện nhà trường cần đảm bảo khoa học, hiện đại

bởi thư viện là điều kiện quan trọng để nâng cao trình độ của các thành viên

trong nhà trường, trực tiếp tác động đến quá trình hình thành VHHĐ cho sinh

viên… Được làm việc, học tập và rèn luyện trong một môi trường có cơ sở vật

132

chất khang trang, hiện đại là một trong những yếu tố làm cho giảng viên, sinh

viên và CNCNV của nhà trường thấy tự hào, gắn bó. Đây cũng là yếu tố góp

phần hạn chế thói quen tùy tiện, thiếu văn hóa làm mất mỹ quan cơ sở đào tạo.

Giáo dục văn hoá học đường phải gắn với nội dung của hoạt động của các

đoàn thể trong nhà trường. Để VHHĐ trở thành hiện thực, phải đưa nội dung

VHHĐ vào các hoạt động đoàn thể trong nhà trường. Các phong trào chính trị -

xã hội thực tiễn là nơi cho sinh viên rèn đức, luyện tài, trau dồi những kiến thức,

niềm tin, nhân sinh quan cách mạng... Để đưa sinh viên tham gia nhiệt tình và có

chất lượng các phong trào chính trị - xã hội thực tiễn, các trường đại học cần

quán triệt một số quan điểm cơ bản sau:

Thông qua các phong trào thi đua sâu rộng, nhằm khơi dậy tinh thần

trách nhiệm, lao động sáng tạo, nâng cao chất lượng đào tạo. Qua các phong

trào thi đua “Dạy tốt - Học tốt – phục vụ tốt”, “Tài năng sư phạm trẻ”, “Phụ

nữ giỏi việc trường - Đảm việc nhà”, “Phụ nữ tài năng sáng tạo”, phong trào

giảng viên dạy giỏi, tổ chức thi Olympic các chuyên ngành, thi học sinh, sinh

viên giỏi, thi nghề các cấp và quốc tế...là môi trường cho giảng viên, CBCNV

và sinh viên nâng cao trình độ, ý thức trách nhiệm, rèn luyện phẩm chất, đạo

đức lối sống.

Đoàn thanh niên và Hội sinh viên nhà trường là tổ chức chính trị- xã hội,

trực tiếp giúp cho sinh viên hình thành ý thức chính trị-xã hội. Vì vậy, đoàn

thanh niên, hội sinh viên nhà trường trong mọi hoạt động của mình phải là lực

lượng tiên phong trong thực hiện nhiệm vụ GDVHHĐ cho sinh viên qua các

hoạt động. Muốn vậy, trong chương trình hoạt động của đoàn, của hội phải đưa

nội dung GDVHHĐ là một trong những nội dung hoạt động thiết thực của sinh

viên. Nội dung GDVHHĐ phải là những nội dung càng cụ thể càng tốt, nó phải

là một trong nhiều tiêu chí để đánh giá chất lượng đoàn viên, hội viên. Mặt khác,

cán bộ lớp, cán bộ đoàn phải thực sự là những người gương mẫu trong thực hiện

VHHĐ của nhà trường.

4.1.4. Phát huy vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên, giảng viên,

viên chức trong giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên

Trước hết, phải tập trung nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, cán bộ,

công nhân viên trong nhà trường. Giáo dục đại học không chỉ giáo dục sinh viên

về mặt tri thức mà phải giáo dục toàn diện đức, trí, thể, mỹ cho họ. Trong nhà

133

trường, tấm gương của thầy, cô giáo, của CBCNV nhà trường có ảnh hưởng rất

lớn đến sinh viên. Bắt đầu từ ăn mặc phải sạch sẽ, gọn gàng, lịch sự và phù hợp.

Trong ứng xử phải “thầy ra thầy”, “trò ra trò” với thái độ nghiêm túc, dân chủ,

tôn trọng lẫn nhau, tổ chức tốt hoạt động giảng dạy khoa học, hợp lý. Thầy,

cô giáo phải là tấm gương sáng cho sinh viên noi theo trong thực hiện

VHHĐ. Cán bộ, nhân viên các phòng ban chức năng, các tổ chức quần chúng

trong nhà trường cũng như toàn bộ hệ thống quản lý, phục vụ phải thấm

nhuần và ý thức được trách nhiệm là những người trực tiếp tham gia vào quá

trình GDVHHĐ cho sinh viên thông qua hoạt động của mình. Quản lý, phục

vụ tốt là góp phần nâng cao chất lượng đào tạo chung của nhà trường, mỗi

cán bộ, công nhân viên phải là tấm gương về thái độ, hành vi và phẩm chất

đạo đức lối sống cho sinh viên học tập. Để phát huy tác dụng của mình, giảng

viên, CBCNV cần thực hiện tốt khẩu hiệu “Trong nhà trường, mỗi cán bộ,

giảng viên hãy là tấm gương sáng cho sinh viên noi theo”.

4.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho

sinh viên hiện nay

Nâng cao hiệu quả GDVHHĐ cho sinh viên là một vấn đề có liên quan đến

nhiều thành tố của một hệ thống gồm nhà trường, xã hội, gia đình và đối tượng

được giáo dục, nhưng với tư cách là chủ thể giáo dục trực tiếp, các trường đại

học ở Hà Nội hiện nay cần hướng vào phát huy tối đa những tiềm năng sẵn có

của môi trường giáo dục đặc thù. Qua đó đề ra các giải pháp mang tính chủ

động, sáng tạo, phát huy nội lực, không đòi hỏi nhiều thời gian, công sức, tiền

của và sự trợ giúp từ cấp trên nhưng nhanh chóng mang lại hiệu quả cao nhất.

Giải pháp nâng cao HQGDVHHĐ trong các trường đại học đào tạo các ngành kỹ

thuật ở Hà Nội được đề xuất dựa trên các căn cứ sau:

* Căn cứ vào yêu cầu đổi mới của giáo dục đại học và định hướng của

Đảng, của Chính phủ, của Bộ Giáo dục và Đào tạo về đưa các nội dung

GDVHHĐ vào hệ thống giáo dục giai đoạn 2011-2015.

* Căn cứ vào mục tiêu GDVHHĐ đáp ứng yêu cầu xã hội về hình thành

nhân cách cho thế hệ trẻ là sinh viên.

* Căn cứ vào cơ sở lý luận và kết quả nghiên cứu thực trạng của đề tài, căn

cứ vào: tiêu chí HQGDVHHĐ và các yếu tố chi phối đến hiệu quả GDVHHĐ,

nguyên nhân hạn chế của HQGDVHHĐ

134

* Căn cứ vào điều kiện thực tiễn của các trường đại học đào tạo các ngành

kỹ thuật ở Hà Nội hiện nay.

Các giải pháp nâng cao hiệu quả GDVHHĐ ở các trường đại học đào tạo

các ngành kỹ thuật ở Hà Nội hiện nay được đề xuất dựa trên các nguyên tắc:

- Nguyên tắc đảm bảo tính mục tiêu của quá trình giáo dục: nhận thức đúng

về nguyên tắc này đòi hỏi trong công tác GDVHHĐ, Ban Giám hiệu nhà trường

cần đảm bảo phục vụ cho thực hiện mục tiêu giá dục toàn diện những phẩm chất,

năng lực cho sinh viên, coi trọng năng lực giao tiếp, năng lực thích nghi và ứng

phó trước sự tác động và ảnh hưởng từ bên ngoài.

- Nguyên tắc đảm bảo tính hiệu quả, thiết thực, tiết kiệm. Nguyên tắc này

đảm bảo các giải pháp GDVHHĐ sử dụng kinh phí không nhiều, tiêu phí ít thời

gian, tiết kiệm nhân lực song vẫn đạt được kết quả theo mục tiêu kế hoạch đề ra.

Hiệu quả đạt được thực sự có ý nghĩa đối với sự phát triển của nhà trường, góp

phần làm cho nhà trường có sự thay đổi theo hướng tích cực, tốt hơn.

- Nguyên tắc đảm bảo hệ thống giá trị được giữ gìn và phát triển ở đối tượng

giáo dục. Nhiệm vụ GDVHHĐ phải đảm bảo tạo điều kiện tốt nhất để các giá trị

truyền thống tốt đẹp được nảy nở, sinh sôi và lan toả. Mỗi cá nhân nếu được tạo

điều kiện để phát triển các giá trị tốt đẹp sẽ tạo ra sự cộng hưởng của một môi

trường sống lành mạnh, có tác dụng tích cực đến đời sống xã hội.

- Nguyên tắc đảm bảo xây dựng và phát triển phải đi đôi với xoá bỏ, ngăn

chặn các tiêu cực ảnh hưởng đến VHHĐ. Nguyên tắc này nhằm bảo vệ quan

điểm khi giải quyết vấn đề GDVHHĐ phải đảm bảo sự biện chứng giữa xây và

chống, giữa phát triển và ngăn chặn, tăng cường khả năng kháng thể của các chủ

thể trước tác động xấu của môi trường là yếu tố quan trọng và quyết định. Có sự

kết hợp chặt chẽ giữa phát triển nhà trường với phát triển môi trường kinh tế xã

hội địa phương trong việc xây dựng một xã hội học tập, một môi trường sống

văn minh.

- Nguyên tắc đảm bảo phát huy vai trò chủ thể của giảng viên và sinh viên.

Yếu tố trung tâm trong xây dựng VHHĐ là con người. Phát huy được tính tự

giác tích cực của các chủ thể sẽ tạo động lực to lớn đối với nhiệm vụ nâng cao

HQVHHĐ.

Dựa vào những cơ sở khoa học trên, luận án đưa ra các nhóm giải pháp

nhằm nâng cao hiệu quả GDVHHĐ ở các trường đại học đào tạo các ngành kỹ

thuật ở Hà Nội hiện nay như sau:

135

4.2.1. Nhóm giải pháp nhận thức

Giải pháp 1: Tuyên truyền, giáo dục, phát huy vai trò của dư luận xã hội

trong việc nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của văn hóa học

đường trong trường đại học

Hiện nay, nhận thức chung về văn hóa nói chung và VHHĐ nói riêng của

nhà quản lý giáo dục, giảng viên, viên chức phục vụ đào tạo, sinh viên trong các

trường đại học chưa cao. Hệ quả là nhiều biểu hiện tiêu cực trong nhà trường

chưa được ngăn chặn, một số hoạt động GDVHHĐ cho sinh viên của các trường

đại học chỉ cầm chừng, nhằm hoàn thành nhiệm vụ.

Vấn đề tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của

việc xây dựng VHHĐ trong các trường đại học có ý nghĩa to lớn. Điều này rất

cần thiết vì thực chất đây là hoạt động nhằm tạo ra sự hiểu biết sâu sắc, toàn diện

về môi trường VHHĐ cho các thành viên trong nhà trường qua đó sinh viên,

thầy cô cán bộ quản lý giáo dục, nhân viên... hình thành thái độ đúng đắn đối với

những giá trị, chuẩn mực, mục tiêu phát triển của nhà trường, bồi đắp các quan

hệ giữa các thành viên trong nhà trường theo hướng tích cực. Phát huy được vai

trò tích cực của chủ thể, đối tượng trong thực hiện VHHĐ trong trường đại học,

việc làm này sẽ làm cho hiệu quả GDVHHĐ ngày càng cao và phát triển theo

chiều sâu, góp phần tích cực vào việc hoàn thành các mục tiêu đào tạo của nhà

trường cũng như khẳng định được thương hiệu của trường với xã hội. Đây là

việc làm đòi hỏi sự linh hoạt, nhuần nhuyễn thông qua các phương pháp, hình

thức GDVHHĐ phù hợp với điều kiện từng trường. Trong đó, cần lưu ý những

điểm sau:

- Tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát

triển văn hóa, đổi mới giáo dục, xây dựng môi trường văn hóa, môi trường

giáo dục... tạo điều kiện xây dựng lối sống và con người mới theo những

chuẩn mực mà xã hội yêu cầu. Nâng cao nhận thức cho giảng viên, sinh viên,

cán bộ công nhân viên nhà trường về vị thế, vai trò của VHHĐ đối với sự

phát triển của nhà trường.

- Tổ chức, vận động hình thành các phong trào sinh viên hướng tới các

nhiệm vụ xây dựng VHHĐ, tiến hành xây dựng và hoàn thiện các tiêu chí, nội

dung về VHHĐ. Trên cơ sở đó ngăn chặn có hiệu quả sự xâm nhập của các tệ

136

nạn xã hội vào nhà trường, tạo lập môi trường VHHĐ lành mạnh, an toàn, bền

vững.

- Bằng dư luận xã hội: Tạo dư luận xã hội rộng rãi nhằm ủng hộ việc xây

dựng môi trường VHHĐ lành mạnh, phê phán, đấu tranh chống lại các biểu hiện

không lành mạnh trong nhà trường, từ đó định hướng các nội dung cần đạt tới

trong nhiệm vụ xây dựng môi trường VHHĐ đại học;

- Thông qua các cơ quan báo chí, phát thanh - truyền hình, tổ chức tuyên

truyền bằng cách tăng thêm bài viết, các chuyên mục, các phóng sự ảnh mang

tính chất tuyên truyền về nếp sống văn hóa, các điển hình đấu tranh phòng chống

tệ nạn xã hội.

- Thông qua mạng Intemet: Đặc biệt coi trọng vai trò, tác dụng của website

các trường đại học trong việc cung cấp thông tin, tuyên truyền, thông báo nội

dung các hoạt động, biểu dương các cá nhân điển hình, tập thể tiên tiến…

Giải pháp 2: Ban hành quy định, xác lập các tiêu chí về văn hóa học

đường, thực hiện văn hóa học đường lành mạnh trong trường đại học

Đây là giải pháp nhằm tác động vào những điều kiện trực tiếp, quy trình cụ

thể, nội dung chi tiết của VHHĐ trong trường đại học. Về phía bộ chủ quản - Bộ

Giáo dục - Đào tạo cần có một văn bản pháp quy, quy định những nội dung về

xây dựng môi trường VHHĐ, những quy tắc, chuẩn mực cơ bản trong trường đại

học vừa mang tính định hướng, chỉ đạo, vừa gợi mở những giải pháp tổng thể

cho hoạt động này. Ở cấp trường, trên cơ sở định hướng mỗi trường phải xây

dựng kế hoạch (ngắn hạn, trung hạn, dài hạn), ban hành nội quy, quy chế, xác

lập các tiêu chí cụ thể về VHHĐ ở trường mình một cách sát thực và phát huy

được hiệu quả cao nhất.

Để đạt hiệu quả cao khi thực hiện giải pháp này, cần lưu ý:

- Bảo đảm tính kế hoạch của quá trình xây dựng nội dung và hoạt động

GDVHHĐ. Tổ chức thực hiện bằng nhiều biện pháp nhằm đảm bảo quá trình

GDVHHĐ được tiến hành một cách khoa học, đồng bộ. Việc đảm bảo tính kế

hoạch phải được cân nhắc ở tất cả các khâu: lập kế hoạch, tổ chức thực hiện,

kiểm tra, tổng kết, rút kinh nghiệm.

- Bảo đảm tính hiệu lực của các quy định về xây dựng VHHĐ. Đây là yêu

cầu nhằm làm cho quá trình xây dựng môi trường VHHĐ trong trường đại học từ

“khả thi” trở thành “thực thi” cao. Điều này được thể hiện ở sự hợp lý trong việc

137

sắp xếp các quy định, yêu cầu các đối tượng phải thực hiện. Sự bao quát trong

các nội dung, sự đa dạng trong các chế tài (bao gồm khen thưởng - kỷ luật, biểu

dương - phê phán, giáo dục - hành chính...) và sự cân đối trong các phần của quy

định để tạo ra sự đồng thuận, sự thống nhất, đồng bộ trong quá trình tiến giáo

dục và đánh giá hiệu quả của VHHĐ mang lại.

- Bảo đảm tính chuẩn mực của các tiêu chí về VHHĐ trong trường đại học.

Việc đưa ra các tiêu chí trong giáo dục và thực hiện VHHĐ đòi hỏi phải có sự

nghiên cứu kỹ lưỡng điều kiện thực tế của nhà trường ở nhiều khía cạnh khác

nhau. Tính chuẩn mực sẽ tạo cơ sở khoa học cho việc áp dụng thành công các

tiêu chí vào công tác đánh giá, bình xét các danh hiệu đảm bảo sự công minh,

dân chủ cho các chủ thể, đối tượng có thành tích trong quá trình xây dựng, thực

hiện VHHĐ.

- Xây dựng các nội quy, hoàn thiện nội dung VHHĐ để điều chỉnh nhận

thức của sinh viên, hình thành nên những chuẩn mực về văn hoá đạo đức phù

hợp với lứa tuổi sinh viên. Kết hợp với các nội quy, quy chế của sinh viên do Bộ

giáo dục ban hành để soạn thảo ra nội quy, quy chế cho phù hợp với điều kiện

học tập sinh hoạt và đặc thù của từng trường. Việc xây dựng và hình thành các

quy chế, quy định, chuẩn mực về văn hoá, đạo đức trong các trường đại học cần

đảm bảo những yêu cầu sau:

+ Các quy chế đó phải có tác dụng nâng cao nhận thức, điều chỉnh thái độ

hành vi của sinh viên trong mọi hoạt động. Tạo ra sự ràng buộc bởi những chế

độ khen thưởng kỷ luật để sinh viên phải tham gia.

+ Nội dung quy chế, quy định cần hướng vào đạo đức, lối sống, thái độ

hành vi ứng xử của sinh viên trong các mối quan hệ nhà trường, phải thiết thực,

phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của nhà trường và phù hợp với điều kiện phát

triển xã hội.

+ Phải phù hợp với pháp luật hiện hành, các chuẩn mực về đạo đức và văn

hoá chung của dân tộc.

+ Các quy định, quy tắc phải cụ thể rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ thực hiện.

Giải pháp 3: Phối hợp giữa nhà trường với chính quyền, gia đình và xã hội

trong giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên

Trong nền kinh tế thị trường, sinh viên đang trở thành một trong những đối

tượng được các tổ chức kinh tế, đơn vị kinh doanh hướng tới với tư cách là

138

những khách hàng của họ. Theo đó, những sản phẩm, dịch vụ đáp ứng các nhu

cầu của sinh viên ngày càng phong phú, đa dạng về chủng loại và cách thức phục

vụ. Với những chương trình khuyến mại hấp dẫn, nhiều cơ sở kinh doanh, tụ

điểm vui chơi giải trí, hàng quán đang thu hút một lượng không nhỏ những sinh

viên. Ngoài những tiện ích, mặt tích cực do các dịch vụ này mang lại, cũng có

những mặt trái rất đáng lưu tâm như tổ chức cá độ, thách đố tiền bạc, cho ghi nợ

để rồi “bắt nợ”, cầm đồ dưới hình thức cho vay nặng lãi... Đó là chưa kể những

cơ sở kinh doanh, tụ điểm vui chơi giải trí trá hình, bên trong là những hoạt động

không lành mạnh luôn sẵn sàng đón những sinh viên thiếu ý chí, đua đòi với

những trò tiêu khiển bệnh hoạn, những cuộc chơi bạc triệu thâu đêm, bỏ bê học

hành, phấn đấu trở thành người có trách nhiệm với bản thân và xã hội. Chính bởi

vậy, cùng với sự chú trọng xây dựng môi trường VHHĐ bên trong nhà trường,

cần có sự phối hợp giữa nhà trường với chính quyền sở tại, đặc biệt là công an,

đoàn thanh niên, đội trật tự của Tổ dân phố để quản lý, giám sát các cơ sở, tụ

điểm vui chơi, giải trí cũng như những hàng quán đang hoạt động xung quanh

các trường đại học.

- Trong quá trình định hướng và phát triển nhân cách sinh viên, mối quan

hệ giữa nhà trường - gia đình - xã hội là môi trường sống, môi trường giáo dục

suốt đời đối với sinh viên, nếu phối hợp tốt thì giáo dục đạo đức cho sinh viên sẽ

đạt hiệu quả tốt. Gia đình là môi trường đầu tiên vào đời của mỗi con người.

Trong gia đình, mỗi cá nhân được học những kinh nghiệm sống, những tri thức,

những cách thức ứng xử đầu tiên của mình, mỗi con người lớn lên trong tình

cảm, sự thương yêu quan tâm, chăm sóc của người thân. Họ không chỉ được học

cách ứng xử trong gia đình, mà còn được giáo dục cách ứng xử với các quan hệ

xã hội thông qua kinh nghiệm của người thân.

- Đối với tuổi trẻ đặc biệt là sinh viên thì giáo dục nhà trường là sự tiếp tục

của giáo dục gia đình. Ở đó giáo dục đạo đức được kết hợp với nhiều loại hình

giáo dục khác nhau nhằm phát triển hoàn thiện nhân cách. Giáo dục nhà trường

là giáo dục có bài bản, hệ thống nhất được chọn lọc và đạt chuẩn mực vì thế đây

được xem là con đường ngắn nhất, trực tiếp nhất để giáo dục những giá trị nhân

văn, giáo dục nhân cách, lối sống cho sinh viên phù hợp với yêu cầu của xã hội.

- Giáo dục xã hội là sự tiếp tục của giáo dục gia đình, giáo dục nhà trường,

nó sẽ củng cố và làm phong phú thêm những điều con người học được ở nhà

trường và gia đình. Giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình, giáo dục xã hội là

139

những lĩnh vực không đứng biệt lập mà là những vòng quay đồng tâm kế tiếp và

giao thoa nhau của sự nghiệp giáo dục con người phát triển toàn diện cả Đức,

Trí, Thể, Mỹ đặc biệt là cho thế hệ trẻ thanh niên, sinh viên.

- Sự kết hợp giữa gia đình và nhà trường thể hiện ở việc cùng hợp tác, cùng

trao đổi thông tin để nắm bắt được đặc điểm tâm sinh lý, hoàn cảnh gia đình, môi

trường sống của sinh viên từ đó tìm ra phương pháp tác động vào họ phù hợp

đem lại hiệu quả cao nhất. Gia đình phải thường xuyên quan tâm đến tâm tư, tình

cảm hay việc học tập, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, ứng xử trong các mối quan

hệ của con em mình, có liên hệ thường xuyên với nhà trường để kết hợp với nhà

trường uốn nắn những biểu hiện lệch chuẩn của con, em mình cũng như của

giảng viên, cán bộ công nhân viên. Đồng thời tôn trọng nội quy quy chế của các

ban ngành, của nhà trường, có thái độ đúng mực trong quan hệ với nhà trường

với giảng viên, giữ chữ tín cho thày cô, theo truyền thống tôn sư trọng đạo để

làm gương cho con em mình.

- Tăng cường phối hợp với các tổ chức xã hội, nhằm phát huy tiềm năng xã

hội hoá trong giáo dục đạo đức cho sinh viên. Vì phần lớn, thời gian của sinh

viên là học tập tại nhà và cộng đồng cư trú, nếu chỉ chú ý đến giáo dục đạo đức

tại trường thì chưa đủ ảnh hưởng tới việc hoàn thiện nhân cách cho sinh viên.

- Cần giáo dục thuần phong mỹ tục của cộng đồng cho sinh viên; tổ chức

việc đi tham quan thực tế, tìm hiểu lịch sử, phong tục tập quán tốt để tăng thêm

tình yêu quê hương đất nước.

4.2.2. Nhóm giải pháp phát huy vai trò của chủ thể giáo dục văn hoá

học đường

Giải pháp 4: Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, Ban Giám hiệu

nhà trường, phát huy vai trò của Đoàn thanh niên, Hội sinh viên và các tổ chức

trong nhà trường vào hoạt động giáo dục văn hóa học đường.

Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong nhà trường đối với

công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên trong đó có GDVHHĐ. Giải

pháp này đòi hỏi phải đưa nội dung GDVHHĐ vào nội dung hoạt động của nhà

trường. Những nội dung đó phải được cụ thể hóa thành những tiêu chuẩn, tiêu

chí để nhận xét, đánh giá khi phân tích chất lượng đảng viên, đoàn viên,

CBCNV, giảng viên, hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ của Đoàn, của chi bộ, Đảng

bộ nhà trường.

140

Xây dựng một cơ chế phù hợp để tăng cường sự quan tâm của Ban Giám

hiệu, các khoa chủ quản và các phòng, ban chức năng đến việc GDVHHD, xem

đây là nhiệm vụ chính trị của nhà trường trong giai đoạn hiện nay. Ban Giám

hiệu cần có cơ chế theo dõi thường xuyên các buổi họp cán bộ lớp trong toàn

trường để nghe phản hồi từ phía sinh viên về các mặt hoạt động của nhà trường

nhằm có những điều chỉnh, giải đáp kịp những thắc mắc của sinh viên.

Phối hợp chặt chẽ giữa khoa phụ trách giáo dục lý luận chính trị, pháp luật,

các môn KHXH&NV, phòng công tác sinh viên, Đoàn thanh niên; Hội sinh viên;

các khoa chủ quản trong việc GDVHHĐ cho sinh viên như: thành lập đội thanh

niên xung kích giám sát, nhắc nhở các đoàn viên, thanh niên của nhà trường thực

hiện nội quy, quy chế của nhà trường. Tạo cơ chế cho sinh viên được tham gia

vào việc xây dựng các tiêu chuẩn VHHĐ của nhà trường. Sinh viên có thể đánh

giá, góp ý xây dựng các mặt hoạt động của nhà trường. Các trường đại học vốn

có ưu thế về số lượng và chất lượng chủ thể, nếu biết phối hợp đồng bộ, kết hợp

với việc khơi dậy và phát huy tốt vai trò trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, giảng

viên, công nhân viên, các bộ phận, tổ chức, thì hoạt động GDVHHĐ sẽ thu được

hiệu quả cao. Hiện nay, một số trường chỉ đề cao sự phối hợp mà quên rằng để

phát huy được sức mạnh tổng hợp ấy trước hết mỗi tổ chức, cá nhân phải làm tốt

vai trò trách nhiệm của mình. Do có nhiều bộ phận, tổ chức, cá nhân cùng tham

gia GDVHHD cho sinh viên, trong khi hiệu quả lại mang tính định tính, trừu

tượng, khó đánh giá, nếu không xác định rõ chức trách, nhiệm vụ của từng chủ

thể dẫn đến tình trạng “cha chung không ai khóc”, tranh công, đổ lỗi, rất khó quy

trách nhiệm cụ thể. Phân định rõ trách nhiệm của từng chủ thể không chỉ để mỗi

bộ phận, tổ chức, cá nhân thực thi trách nhiệm của mình một cách tự giác, chủ

động, tích cực mà còn là một giải pháp có ý nghĩa về mặt kinh tế vì nó không đòi

hỏi nhiều thời gian, công sức mà nhanh chóng mang lại cho hoạt động

GDVHHĐ một động lực mới. Bởi khi đã phân định rõ “người nào, việc ấy”,

từng chủ thể sẽ biết mình phải làm gì, phối hợp với ai để tiến hành GDVHHĐ

cho sinh viên mang lại hiệu quả cao nhất. Đây thực sự là một giải pháp thích hợp

để nâng cao hiệu quả GDVHHĐ cho sinh viên các trường đại học hiện nay.

Với chức năng, nhiệm vụ của mình, tổ chức Đoàn rất phù hợp trong việc tổ

chức các hình thức giáo dục phong phú, linh hoạt, mềm dẻo như: tọa đàm, mạn

đàm, thi tìm hiểu, tổ chức các phong trào hành động cách mạng để giáo dục

chính trị - tư tưởng trong học viên. Do vậy, trách nhiệm của tổ chức Đoàn là làm

141

cho đoàn viên lĩnh hội nội dung giáo dục chính trị - tư tưởng chủ yếu thông qua

con đường tình cảm và hành động thực tiễn, qua đó hình thành niềm tin vững

chắc ở sinh viên.

- Đoàn, Hội nên tổ chức những buổi nói chuyện, những trung tâm tư vấn,

giới thiệu việc làm cho sinh viên, tạo điều kiện cho sinh viên có thông tin nghề

nghiệp, việc làm và chọn nơi dự tuyển nhằm khắc phục khó khăn cho sinh viên

khi ra trường kiếm việc làm. Việc thực hiện cầu nối giữa đào tạo và sử dụng mà

Đoàn trường đã làm được sự ủng hộ của đông đảo sinh viên và xã hội. Nó đã góp

phần giúp sinh viên hoàn thiện nhân cách của mình trước những yêu cầu, đòi hỏi

của thị trường sức lao động và quan trọng hơn giúp họ có việc làm, tránh bị xô

đẩy, bị ảnh hưởng bởi tác động tiêu cực của cơ chế thị trường.

Đoàn trường cần phải:

- Tiếp tục phát động việc thực hiện các cuộc vận động và phong trào thi đua

trong đoàn viên thanh niên. Gắn việc thực hiện các cuộc vận động và phong trào thi

đua với nội dung xây dựng VHHĐ và giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên như làm

cho trường lớp xanh sạch đẹp, đổi mới phương pháp học tập, chăm sóc các di tích

lịch sử, văn hoá, đưa tiếng hát dân ca và trò chơi dân gian vào trường học...

- Đưa nội dung xây dựng VHHĐ và giáo dục kỹ năng sống cho học sinh

vào giờ sinh hoạt dưới cờ, sinh hoạt tập thể, hoạt động ngoại khóa...

- Có nhiều hình thức trong tố chức các hoạt động tập thể gắn với nội

dung xây dựng VHHĐ và giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên. Không nhất

thiết phải quá nặng nề, tham lam lồng ghép quá nhiều nội dung trong một tiết

sinh hoạt, ngoại khóa...mà chỉ nên làm sao cho nội dung xây dựng VHHĐ và

giáo dục kỹ năng sống cho sinh viên được lồng ghép trở nên nhẹ nhàng, vừa

phải, thường xuyên.

- Tạo những sân chơi bổ ích, có sức thu hút mạnh đối với đoàn viên thanh

niên như: Tổ chức các câu lạc bộ (CLB bạn khéo tay; CLB sáng tạo khoa học;

CLB Ghi-ta...) để thông qua đó học sinh được bồi dưỡng, rèn luyện cũng như thế

hiện kỳ năng bản thân. Tạo dư luận tốt đế giúp đoàn viên thanh niên nhận thức,

tránh xa, biết tự vệ trước những việc làm xấu, thói xấu...

- Có sự động viên và khuyến khích kịp thời cá nhân và tập thể để khuyến

khích phong trào. Đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao như diễn

đàn, giao lưu văn hóa văn nghệ, thể thao, thi tìm hiểu những vấn đề chính trị,

văn hóa phù hợp đặc điểm, tâm lý của sinh viên.

142

- Tiếp tục đổi mới và phát triển phong trào "Thanh niên tình nguyện", "Mùa

hè xanh". Đưa phong trào "Thanh niên tình nguyện" thành một yêu cầu thực tế

ngoại khóa trong chương trình đào tạo đại học.

- Tăng thời gian đi tình nguyện không chỉ một tháng trong mùa hè mà có

thể rải rác các tháng trong năm học, với tất cả các sinh viên từ năm thứ hai đến

năm thứ tư. Trong những tháng đi tình nguyện như vậy để sinh viên tiếp cận với

thực tiễn chính trị - xã hội. Đồng thời, thông qua hoạt động thực tiễn, sinh viên

có cơ hội kiểm nghiệm những tri thức đã được tiếp thu trong trường đại học. Môi

trường thực tiễn chính là yếu điều kiện quan trọng để mỗi sinh viên thể hiện

nhân cách của mình.

- Thành lập các đội công tác có tính tổng hợp. Trong một đội có nhiều

thành viên ở các trường đại học hợp lại cùng giải quyết các vấn đề khó khăn tại

cơ sở đến làm tình nguyện. Như vậy sẽ tăng cường sự giao lưu giữa các trường

và đạt hiệu quả cao trong công tác này.

Trong quá trình triển khai các hoạt động chính trị - xã hội thực tiễn, Đoàn

thanh niên, Hội sinh viên các trường dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, Ban Giám

hiệu cần có liên hệ chặt chẽ với Phòng Công tác chính trị, với Khoa Giáo dục lý

luận chính trị, Khoa chủ quản để có những hoạt động phối hợp trong toàn

trường, tăng HQGDVHHĐ cho sinh viên. Đoàn thanh niên phải là nhân tố đi đầu

trong xây dựng môi trường đại học trong sạch, kiểu mẫu của những người thanh

niên có học vấn cao.

Giải pháp 5: Nâng cao vai trò của đội ngũ giáo viên, tăng cường giáo dục

chính trị, tư tưởng và đạo đức, lối sống cho sinh viên, khơi dậy ý thức tự giác

của sinh viên trong quá trình tự giáo dục và thực hiện văn hóa học đường

Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng là hoạt động có ý thức của chủ thể

giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục nhằm củng cố, phát triển, truyền bá học

thuyết Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó hình thành nên thế

giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận tiên tiến và khoa học, góp phần xây

dựng con người mới, quan hệ xã hội mới và nền văn hoá mới. Kết quả điều tra

về thực trạng đạo đức của sinh viên một số trường đại học trên địa bàn Hà Nội

cho thấy tình trạng sa sút về đạo đức trong thế hệ sinh viên là rất đáng lo ngại.

Việc rèn luyện tư tưởng đạo đức bị tách khỏi hệ thống giáo dục toàn diện

trong nhà trường, sinh viên coi trọng việc học tập chuyên môn hơn việc tu dưỡng

143

đạo đức làm cho quan hệ giữa “đức” và “tài”, “hồng” và “chuyên” có nhiều dấu

hiệu lệch lạc, thậm chí thái quá, không đúng theo tư tưởng, đường lối mà Đảng,

xã hội định hướng. Trong khi cơ chế thị trường làm cho các quan hệ của con

người có nguy cơ bị đồng tiền làm tha hoá, thì việc xây dựng lòng yêu nước, yêu

chủ nghĩa xã hội, yêu các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc là việc cấp

bách và thiết thực. Soi sáng và định hướng các giá trị nhân cách, phẩm chất đạo

đức cũng như ngăn ngừa mọi sai lệch chuẩn mực đạo đức xã hội yeu cầu do tác

động mặt trái của cơ chế thị trường gây ra là việc làm cần thiết. Để từng bước

khắc phục hiện tượng này, cần thiết phải tăng cường công tác giáo dục chính trị

tư tưởng, văn hóa. Trong đó coi trọng giáo dục đạo đức, nhân cách, lối sống

văn hóa cho mọi thành viên trong nhà trường. Coi đó là yếu tố quan trọng hàng

đầu trong việc định hướng giá trị văn hoá đạo đức cho sinh viên.

Chủ thể GDVHHĐ cần phải:

+ Xác định rõ trách nhiệm, vai trò và sự đồng thuận trong nhận thức của

mọi thành viên trong trường (cán bộ QL, giảng viên, công nhân viên…) và các tổ

chức, đoàn thể đối với việc định hướng giáo dục đạo đức cho sinh viên. Có biện

pháp lôi cuốn, tạo ra sự phối hợp ăn ý giữa các thành viên, các tổ chức cùng

tham gia công tác này.

+ Nội dung giáo dục về văn hóa học đường được quán triệt trong nhà

trường được thể hiện trong kết cấu chương trình đào tạo, trong từng môn học. Ở

mỗi môn học, đặc biệt là những môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa

Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Pháp luật đại cương và các môn

KHXH&NV trong quá trình giảng dạy, học tập giảng viên phải làm rõ bản chất

của chế độ xã hội chủ nghĩa, làm rõ bản chất đạo đức cách mạng, lý tưởng cao

đẹp và nhân văn trong đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Giúp cho sinh viên tìm thấy trong mỗi môn học nội dung làm phát triển nhân

cách cá nhân, là phương tiện để tiếp cận chân lý, là công cụ để chủ động tạo ra

những giá trị đạo đức, thái độ, hành vi ứng xử văn hóa, có ích cho bản thân và

cho xã hội. Phối hợp các hình thức hoạt động, các môn học trong nhà trường để

tạo ra một môi trường giáo dục toàn diện về “dạy người”,“dạy nghề”. Văn hoá

học đường cũng được thể hiện trong nội dung của những môn học chuyên môn

khác như thiết kế, công nghệ mới, lập trình, kỹ năng nghề. Nó cũng có thể thiết

kế thành những chuyên đề riêng được thể hiện dưới nhiều hình thức như chuyên

đề về giá trị văn hoá truyền thống, đạo đức, lối sống, phẩm chất nhân cách…

144

cũng có thể là những chuyên đề gắn liền với ngành nghề chuyên môn như đạo

đức, văn hóa kinh doanh, văn hóa trong doanh nghiệp, đạo đức, văn hóa trong

kinh doanh du lịch, đạo đức, văn hóa báo chí.. , đề cập tới những phẩm chất

chuyên biệt của từng ngành nghề. Bên cạnh đó các trường phải đẩy mạnh công

tác giáo dục lý tưởng cách mạng, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc cho

sinh viên.

- Tiếp tục đổi mới nâng cao chất lượng giảng dạy những môn khoa học về

chủ nghĩa Mác - Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và KHXH&NV… Quán triệt,

tuyên truyền và thực hiện tốt các chủ trương, chính sách pháp luật của Nhà nước,

đồng thời tự giác thực hiện nội quy, quy chế của nhà trường, của Bộ Giáo dục -

Đào tạo.

- Tiếp tục tuyên truyền quán triệt sâu rộng trong cán bộ quản lý, công nhân

viên, giảng viên và sinh viên của nhà trường nội dung các nghị quyết của Đảng

về đường lối phát triển đất nước nói chung, chiến lược phát triển giáo dục, Luật

Giáo dục. Đẩy mạnh các phong trào thi đua học tốt, dạy tốt, phục vụ tốt, thi cử

nghiêm túc, nghiên cứu khoa học vì ngày mai lập nghiệp, vì sự nghiệp dân giàu,

nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

Lãnh đạo nhà trường phải thực sự là những người tâm huyết với sự nghiệp

giáo dục, đào tạo nói chung, với mục tiêu đào tạo nghề của nhà trường nói riêng.

Đó phải là những người gần gũi, chia sẻ với CB, giảng viên và sinh viên trong

cuộc sống cũng như trong các họat động khác của nhà trường.

- Phải có đội ngũ giảng viên có trình độ chuyên môn cao, có lương tâm,

trách nhiệm, lao động hết mình để thực hiện mục tiêu đào tạo của nhà trường.

Muốn làm được điều này thì thầy, cô giáo phải là những người có bề dày kinh

nghiệm sống, kinh nghiệm giảng dạy, gương mẫu trong thực hiện nội quy, quy

chế của nhà trường và được sinh viên kính phục.

Sinh viên cần chủ động trong quá trình tự giáo dục:

+ Không ngừng nâng cao nhận thức về chính trị xã hội, xác định rõ trách

nhiệm, nghĩa vụ của sinh viên với nhà trường, Tổ quốc, gia đình và với chính

bản thân.

+ Nhận thức được kiến thức văn hoá, khoa học kỹ thuật, kỹ năng nghề

nghiệp mà họ đang được đào tạo ở trường là hết sức cần thiết, có ý nghĩa thiết

thực cho sự phát triển của cá nhân và xã hội.

145

+ Nhận thức được các phẩm chất nhân cách: tự chủ, sáng tạo, kỷ luật,

giàu lòng nhân ái, dấn thân, yêu nước, góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng

đất nước ngày càng phát triển, ổn định và hội nhập tốt, có nếp sống lành

mạnh, chuẩn mực, phù hợp…là những giá trị cao quý của con người mà xã

hội đang đòi hỏi.

+ Nhận thức được rằng nếu lĩnh hội được, rèn luyện được, những giá trị

phẩm chất nêu trên là đã tự rèn luyện năng lực phẩm chất cho mình, đóng góp tài

năng sức lực vào xây dựng xã hội văn minh, giàu đẹp.

Nhân cách của sinh viên được hình thành từ sự thống nhất biện chứng giữa

những tác động bên ngoài và sự hoạt động mỗi sinh viên. Nói cách khác, những

nội dung giáo dục của nhà trường chỉ trở thành hiện thực khi sinh viên tự giác

tham gia thực hiện. Để nâng cao tính tự giác rèn luyện, thực hiện VHHĐ của

sinh viên, cần thực hiện một số biện pháp chủ yếu như:

- Làm cho mỗi sinh viên nhận thức và nắm chắc nội dung của VHHĐ và

xem đó là điều kiện không thể thiếu khi đã là sinh viên của nhà trường. Có thể tổ

chức các buổi hội thảo cho sinh viên về VHHĐ để nâng cao nhận thức của mỗi

sinh viên.

- Cần có biện pháp mạnh, có quy định thưởng, phạt rõ ràng, nghiêm minh

cho những hành vi tích cực cũng như tiêu cực của sinh viên trong thực hiện

VHHĐ. Chẳng hạn tại chương V, từ điều 18 đến điều 22 của quy chế học sinh

sinh viên quy định về thi đua khen thưởng đối với cá nhân và tập thể lớp học

sinh sinh viên quy định rõ những nội dung khen thưởng và các danh hiệu khen

thưởng đối với học sinh sinh viên, hoặc quy định về một số nội dung vi phạm và

khung xử lý kỷ luật, ví dụ nội dung 3 quy định sinh viên có hành vi vô lễ với

thầy, cô giáo và CBCNV nhà trường, tùy theo mức độ, xử lý từ khiển trách đến

buộc thôi học; nội dung 13 quy định sinh viên tàng trữ, lưu hành, truy cập, sử

dụng sản phẩm văn hóa đồi trụy hoặc tham gia các hoạt động mê tín dị đoan,

hoạt động tôn giáo trái phép lần thứ 3 (tính trong cả khóa học) thì đình chỉ học

tập một năm, nếu nghiêm trọng giao cơ quan chức năng xử lý theo quy định của

pháp luật .

- Cần phát động phong trào thi đua giữa các lớp, các chi đoàn trong việc

thực hiện VHHĐ. Tổ chức các họat động có nội dung GDVHHĐ cho sinh viên

như thi thời trang sinh viên, thi kể chuyện, thi ứng xử, thi phòng ở kiểu mẫu.

Giáo dục văn hoá học đường cho sinh viên phải được xem là một trong những

146

tiêu chí để đánh giá sinh viên trong quá trình học tập, rèn luyện. Hoạt động này

cần được phân tích công khai, dân chủ trong sinh hoạt lớp.

4.2.3. Nhóm giải pháp về đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức,

phương tiện và huy động các nguồn lực cho hoạt động giáo dục văn hóa

học đường

Giải pháp 6: Đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục văn hóa học đường

phù hợp với mục đích giáo dục

Nội dung GDVHHĐ là những nội quy, quy định, những chuẩn mực phù

hợp với mục tiêu đào tạo của nhà trường và những giá trị tốt đẹp trong truyền

thống dân tộc, vì thế cải tiến nội dung (trong đó có tăng cường giáo dục chính trị,

tư tưởng, đạo đức, lối sống) cần chú ý:

- Nâng cao tính thiết thực của nội dung. Hiệu quả tinh thần của GDVHHĐ

là đối tượng phải được xây dựng dựa trên nguyên tắc “4 chữ H” (Học - Hỏi -

Hiểu - Hành) với ý nghĩa: Học: để biết cách học như thế nào, học để biết cách

hỏi; Hỏi: hỏi để hiểu; Hiểu: để biết cách làm (biết tập hợp, xử lý, khai thác thông

tin), hiểu đúng để thực hành đúng; Hành: hành đúng mới mang lại hiệu quả. Nói

cách khác, “Học - Hỏi - Hiểu - Hành” là nền tảng để con người thể hiện và thực

hiện trách nhiệm công dân của mình. Hình thành những phẩm chất tốt đẹp mang

tính nhân văn mà con người có được đều được bắt nguồn từ nội dung tri thức, kỹ

năng được truyền tải. Đây không chỉ là nét đẹp văn hóa, mà còn là mục tiêu, là

nội dung hoạt động của giáo dục văn hóa học đường và giáo dục của nhà trường.

Để sinh viên hiểu, tin tưởng đòi hỏi trong quá trình GDVHHĐ là phải chuyển tải

những kiến thức, những bài học kinh nghiệm thực tiễn đúng đắn đã có hiệu quả

trong thực tế, phù hợp, thuyết phục theo nguyên tắc vừa sức, gây ấn tượng và tác

động trực tiếp vào tình cảm của đối tượng.

- Nâng cao tính ứng dụng của nội dung. Nội dung giáo dục về VHHĐ cho

sinh viên có nhiều nhưng lại chung chung, hình thức, hô hào không sát thực với

đối tượng, vì vậy khó ứng dụng trong thực tế học tập, rèn luyện của sinh viên,

không mang lại thêm sự hiểu biết, thực hành để củng cố sự tin tưởng vào nội

dung được cung cấp, để thay đổi thái độ, hành vi của đối tượng cho đúng chuẩn

147

mực và phù hợp với mục tiêu giáo dục, đây là một sự lãng phí. Hiện nay, so sánh

giữa mục tiêu đề ra với hiện thực VHHĐ trong trường đại học đang có khoảng

cách. Sự khác biệt ấy chứng tỏ tính ứng dụng của nội dung được giáo dục hiệu

quả còn thấp, nội dung giáo dục chưa sát thực, chưa phù hợp.

Tính ứng dụng của nội dung (tri thức) còn biểu hiện ở chỗ nó phải là cơ sở

giúp sinh viên lý giải, đánh giá và có thái độ đúng trước các hiện tượng, hành vi

văn hóa hay vô văn hóa trong nhà trường hay trong xã hội qua đó rút kinh

nghiệm cho cá nhân, tập thể. Do đó, nội dung giáo dục cần cụ thể hoá phù hợp

với từng đối tượng, hoàn cảnh, môi trường cụ thể, tránh chung chung, không phù

hợp với hoàn cảnh, điều kiện của đối tượng, liên hệ thực tiễn và đưa ra những

tình huống và hệ quả để cùng trao đổi, bàn luận qua đó rút ra kết luận.

- Xây dựng mối quan hệ ứng xử, lối sống phù hợp với tiêu chuẩn đạo đức

mới. Qua điều tra các trường đại học ở Hà Nội cho thấy: các mối quan hệ của

sinh viên với sinh viên, sinh viên với giảng viên đã có chiều hướng xấu đi. Như

sinh viên không thường xuyên quan tâm giúp đỡ nhau, thờ ơ với thái độ, hành vi

vô văn hóa, tiêu cực diễn ra trong trường học hay đối với bạn mình. Đã có những

biểu hiện của lối sống vị kỷ, ăn chơi, cờ bạc, nghiện hút… trong đời sống sinh

viên. Đối với giảng viên họ thiếu sự tôn trọng nghề nghiệp và nhân cách người

thày, nhiều sinh viên cho là giảng viên chưa phải là tấm gương sáng về nhân

cách đạo đức. Bởi vậy cần xây dựng mối quan hệ ứng xử, lối sống cho sinh viên.

Chủ động uốn nắn các ảnh hưởng tự phát trong điều kiện kinh tế thị trường, hội

nhập văn hóa hiện nay, nghĩa là uốn nắn giáo dục đạo đức, lối sống của sinh viên

theo định hướng, chủ trương của Đảng, của xã hội vì mục tiêu xây dựng nước

Việt Nam phát triển bền vững, hội nhập tốt. Phải giáo dục cho sinh viên luôn ý

thức tự lực, tự cường, chủ động trong học tập, nghiên cứu khoa học và các hoạt

động thực tiễn.

- Chống những hành vi sùng bái đồng tiền, làm giàu bất chính, chống chủ

nghĩa cá nhân ích kỷ hẹp hòi, chỉ biết mình mà không biết người, không quan

tâm đến cộng động, đến lợi ích xã hội.

Phương pháp tác động tích cực nhất đến quá trình biến đổi thái độ, hành vi

VHHĐ ở sinh viên đó là phương pháp "nêu gương" của thầy của bạn. Phương

pháp "nêu gương" có thể được hiểu:

148

Một là, nêu những tấm gương về đạo đức lối sống trong sáng, cao thượng, tấm

gương những nhà khoa học tài ba... để sinh viên học tập và noi theo.

Hai là, tấm gương phản chiếu có tác dụng giáo dục sống động nhất đó

chính là người thầy. Thầy, cô giáo trước hết phải là một chủ thể giáo dục mẫu

mực về đạo đức và trí tuệ, mẫu mực về phong cách làm việc... Trong giảng dạy,

sinh viên học được thái độ nghiêm túc và cầu thị khoa học, học được tính dân

chủ trong đối thoại, biết lắng nghe người khác và biết bảo vệ chính kiến của

mình... Sinh viên cảm thấy không bị gò ép, tự tin khi đối thoại với thầy.

Đa dạng hoá và sáng tạo hình thức GDVHHĐ gây hứng thú đối với sinh

viên. GDVHHĐ cho sinh viên có rất nhiều hình thức, mỗi nhóm hình thức có ưu

thế hạn chế khác nhau, sử dụng kết hợp các nhóm hình thức là tăng cường hiệu

quả, phát huy ưu thế và khắc phục các hạn chế của chúng. Do vị trí, vai trò, tác

dụng của các hình thức khác nhau, vì vậy trong kết hợp phải xác định rõ hình

thức chính, phụ để đầu tư thích đáng về nội dung, phương tiện, thời gian và công

sức. Yêu cầu của sự kết hợp là phải hài hoà, nhuần nhuyễn, phát huy được điểm

mạnh của từng hình thức mà không triệt tiêu, hạn chế hiệu quả lẫn nhau, đặc biệt

phải bảo đảm sự thống nhất về mặt nội dung giáo dục.

Sử dụng kết hợp các hình thức giáo dục mang lại hiệu quả rõ rệt nhưng sự

kết hợp đó phải tuân thủ các quy luật nhận thức, kích thích sự hứng thú từ đối

tượng tiếp nhận nội dung tích cực, hiệu quả, củng cố sự tin tưởng vững chắc vào

nội dung được cung cấp. Cần tránh xu hướng sử dụng nhiều hình thức cốt để lấy

thành tích mà không lấy hiệu quả giáo dục làm tiêu chuẩn.

Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho hoạt động giảng dạy, học tập, rèn

luyện và vui chơi của giảng viên, sinh viên trong trường các trường đại học đồng

thời ứng dụng các phương pháp giáo dục hiện đại vào GDVHHD cho sinh viên.

Để sinh viên ghi nhớ được nội dung, nội dung đó phải được thường xuyên xuất

hiện, lặp đi, lặp lại nhiều lần và được vận dụng vào thực tiễn đời sống của sinh

viên. Vì vậy khi giáo dục các nội dung về VHHĐ cần tích cực áp dụng các

phương pháp như: nêu vấn đề, tham dự, tranh luận, đối thoại, đóng vai, giải

quyết tình huống VHHĐ giả định để sinh viên tự rút kinh nghiệm và thực hiện

nó theo một cách tự giác. Đánh giá hiệu quả của nội dung giáo dục thông qua

thái độ và hành vi của sinh viên khi tham gia các hoạt động thực tế của họ.

Đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp GDVHHĐ cho sinh viên là một

vấn đề không đơn giản, đòi hỏi nhiều tâm huyết, trí tuệ, thời gian và công sức.

149

Tuy nhiên, nếu chủ thể luôn bám sát mục tiêu giáo dục ở bậc đại học, đến phát

triển nhân cách, kỹ năng của nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới, sẽ luôn trăn trở tìm tòi, phát kiến

nhiều cách thức mới, cách làm hay giúp cho sinh viên lĩnh hội kiến thức không

chỉ bằng yêu cầu của lý trí mà bằng cả trái tim nhiệt huyết của họ.

Giải pháp 7: Đổi mới phương tiện giáo dục và huy động hợp lý các nguồn

lực nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục văn hóa học đường.

Tăng cường quản lý, sử dụng hợp lý các phương tiện, cơ sở vật chất, thời

gian, kinh phí cho hoạt động GDVHHĐ cho sinh viên. Ở nhiều trường đại học,

nguồn nhân lực, kinh phí dành cho các hoạt động VHHĐ còn thiếu và ít ỏi, điều

đó dẫn đến việc nhiều hoạt động VHHĐ diễn ra trong tình trạng cắt xén nội

dung, rút ngắn thời gian và hạn chế về số lượng cá nhân, tập thể tham gia. Từ đó

dẫn đến chất lượng chung của chương trình không cao, nhiều hoạt động không

thu hút được đông sinh viên tham gia (trong đó có các hoạt động thiết thực như

hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học, sinh hoạt câu lạc bộ...). Tăng cường

nguồn nhân lực cho những hoạt động VHHĐ không thể tách rời việc tăng mức

kinh phí cho các hoạt động đó. Đội ngũ cán bộ, chuyên viên có trình độ, năng

lực tổ chức các hoạt động VHHĐ với những chính sách đãi ngộ hợp lý sẽ là yếu

tố quan trọng thúc đẩy quá trình xây dựng môi trường VHHĐ đạt hiệu quả cao.

Tăng cường cơ sở vật chất cho hoạt động giáo dục văn hóa học đường

Trên cơ sở một đội ngũ cán bộ, nhân viên được bố trí hợp lý, kinh phí hoạt

động được đầu tư đúng mức cũng như từ việc thu hút các nhà tài trợ, trường đại

học sẽ có đủ điều kiện để phát huy vai trò của mình thông qua các hoạt động đa

dạng, phong phú, có chất lượng. Việc tăng cường nhân sự và kinh phí hoạt động

cho nhà văn hóa, thư viện vừa là động lực thúc đẩy quá trình xây dựng VHHĐ

vừa góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường một cách toàn diện.

Đổi mới hình thức phương pháp giáo dục hiện nay luôn gắn với quá trình

đổi mới thiết bị và phương tiện dạy học. Để khắc phục tính một chiều, đơn điệu,

trừu tượng của phương pháp thuyết trình, diễn giảng truyền thống cần phải

chuyển căn bản phương tiện phục vụ giảng dạy từ phấn bảng là chủ yếu bằng các

phương tiện nghe nhìn hiện đại trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin, đổi

mới thiết bị trường học. Sử dụng phương tiện dạy học hiện đại đã cho phép

phương pháp dạy học có sự đổi mới theo hướng chuyển trọng tâm từ truyền đạt

150

sang trọng tâm là tổ chức, điều khiển, nhờ đó kích thích mạnh mẽ tính tích cực

nhận thức của sinh viên, nâng cao chất lượng dạy học. Tuy nhiên, hiện đại hoá

phương tiện dạy học không có nghĩa là chỉ quan tâm đầu tư, mua sắm nhiều

phương tiện hiện đại, mà quan trọng nhất là quản lý, sử dụng và phát huy hiệu

quả của chúng.

- Khai thác có hiệu quả hệ thống thiết chế văn hoá nhằm đa dạng hoá hình

thức GDVHHĐ. Thiết chế văn hoá ở các trường đại học bao gồm: nhà văn hoá

sinh viên, trung tâm thể thao đa năng, hệ thống thư viện thuyền thống và thư

viện điện tử, phòng truyền thống, hệ thống panô, áp phích, truyền thanh, truyền

hình, chiếu phim, báo chí, các câu lạc bộ ... Các trường đại học cần tận dụng tối

đa các thiết chế đó để tổ chức những hình thức vui chơi, giải trí trong những giờ

nghỉ, sinh hoạt cá nhân để GDVHHĐ với những mức độ phù hợp, nhẹ nhàng

nhưng có hiệu quả.

Ở các trường đại học, hệ thống truyền thanh nội bộ là một hình thức tuyên

truyền giáo dục có hiệu quả cao trong những giờ thể thao, sinh hoạt cá nhân,

v.v... cần phải bảo đảm chất lượng phát cả về nội dung và âm thanh. Nên nghiên

cứu bố trí thời gian phát phù hợp với không gian và tính chất thời gian biểu học

tập của sinh viên. Đồng thời cần thiết kế nội dung thông tin sao cho vừa có tác

dụng giải trí, vừa mang đặc trưng riêng của từng trường, vừa đạt hiệu quả

GDVHHĐ cao. Nên có quy chế về viết tin bài, thiết kế chương trình nội dung cụ

thể theo hướng vừa phát động phong trào, vừa giao chỉ tiêu cho các bộ phận

chức năng nhằm khai thác triệt để tiềm năng các thành phần chủ thể giáo dục.

Duy trì nghiêm túc nền nếp xem chương trình thời sự trên truyền hình. Các

chương trình truyền hình trực tiếp lễ kỷ niệm, các sự kiện chính trị lớn, quan

trọng trong đời sống chính trị của đất nước, quốc tế hoặc những chương trình có

tính giáo dục truyền thống, tri thức nghề nghiệp liên quan mật thiết với sinh viên

nếu không tổ chức cho sinh viên xem trực tiếp được, có thể ghi để phát lại.

- Sử dụng tiết kiệm, hợp lý thời gian, kinh phí cho các hình thức giáo dục

ngoại khoá và công tác giáo dục chính trị tại đơn vị.

Thời gian tập trung hoạt động chính của nhà trường và sinh viên là thực

hiện chương trình, mục tiêu đào tạo nghề nghiệp và tự nghiên cứu, của giảng

viên và sinh viên đã được tính toán và bố trí căng chiếm gần như toàn bộ thời

gian. Các hoạt động giáo dục chính trị - tư tưởng, văn hóa xã hội như: nghe thời

151

sự, xem phim, biểu diễn nghệ thuật... dễ bị bỏ qua vì lý do sinh viên tập trung

thời gian cho ôn tập, thi cử. Để khắc phục tình trạng thiếu thời gian phải bắt đầu

từ quan niệm phải xem GDVHHĐ là một hoạt động chính góp phần hiệu quả

vào quá trình thực hiện mục tiêu, sứ mệnh giáo dục, đào tạo của nhà trường.

Trong đó, nhận thức của ban giám hiệu các trường, phòng đào tạo có ý nghĩa

quan trọng trong việc bố trí kế hoạch giảng dạy theo chương trình khung một

cách linh hoạt.

Các trường đại học cần sử dụng quỹ thời gian dự trữ trong kế hoạch đào

tạo hàng năm cho GDVHHĐ một cách nghiêm túc, đúng mục đích và có kế

hoạch cụ thể. Không nên cắt xén thời gian học tập chuyên môn, nghị quyết,

chuyên đề đã được quy định. Ngoài ra cần quan tâm bố trí quỹ thời gian thời

gian thoả đáng cho sinh viên viên tham gia các hoạt động ngoại khoá như: tham

quan, dã ngoại, giao lưu, văn hoá văn nghệ, hội thi, hội thao... nhằm mang lại

hiệu quả cao nhất. Các trường đại học cần quản lý chặt chẽ nguồn kinh phí phục

vụ cho hoạt động GDVHHĐ. Đặc biệt cần giám sát sử dụng nguồn kinh phí trên

đúng mục đích, tiết kiệm hiệu quả.

- Giáo dục, xây dựng môi trường văn hoá trong trường đại học, bao hàm

trong đó có các hoạt động văn hoá nhằm thực hiện nhiệm vụ giáo dục chính trị,

văn hóa, đạo đức, lối sống cho sinh viên. Trên thực tế, sinh viên các trường đều

phản ánh về tình trạng chất lượng các hoạt động văn hoá ở các trường chưa cao,

ngoài ra còn chưa được sự quan tâm của các tổ chức, đoàn thể, lãnh đạo quản lý

nhà trường. Dẫn đến tình trạng sinh viên ít tham gia thường xuyên và không

đánh giá cao về nội dung các hoạt động đó. Bởi vậy cần coi đây là nhiệm vụ giáo

dục thường xuyên của các trường, đi đôi với việc học tập chuyên môn các trường

cần tạo điều kiện để sinh viên tham gia các hoạt động văn hoá nhằm thực hiện

mục đích giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống lầm phong phú đời sống tinh

thần của sinh viên.

Cần đa dạng hoá các hình thức hoạt động văn hoá, thể thao và các phong

trào của nhà trường, thu hút mạnh mẽ sinh viên tham gia vào các hoạt động đó

bằng nội dung phong phú, phù hợp với lứa tuổi và có ích cho phát triển toàn diện

của sinh viên. Tuyên truyền phổ biến rộng rãi về các kế hoạch tổ chức cũng như

152

dùng các khẩu hiệu panô, áp phích, thông báo trên loa, trên bản tin của trường,

và có thể gửi lịch tổ chức, mục đích cũng như nội dung lên các lớp thông qua

phòng quản lý sinh viên,sinh viên, khoa đào tạo, cố vấn học tập, giảng viên chủ

nhiệm, cán bộ lớp...

- Đối với các hoạt động tổ chức của trường về khai thác sử dụng các điều

kiện cơ sở vật chất, môi trường, các phong trào, về đấu tranh ngăn chặn, bài trừ

văn hoá đồi truỵ, phản động hoặc những văn hoá có ảnh hưởng đến thuần phong

mỹ tục của người Việt Nam, thông qua các việc cụ thể: củng cố xây dựng, khai

thác và sử dụng các cơ sở vật chất, kỹ thuật, các công trình văn hoá trong nhà

trường phục vụ đời sống văn hoá tinh thần. Với quy mô đào tạo ở các trường

tăng rất nhanh trong vòng mấy năm qua, nhu cầu sinh hoạt văn hoá tinh thần của

sinh viên cũng ngày một cao thì số lượng sách, báo so với tổng sinh viên và diện

tích bình quân trên đầu người của các khu giảng đường, thư viện, khuôn viên,

vườn hoa... đều ở mức thấp. Nhiệm vụ trước mắt là phải khai thác tốt các nguồn

cơ sở vật chất mà hiện trường đang có, củng cố các cơ sở kỹ thuật phục vụ cho

nhu cầu cấp bách, tối thiểu của sinh viên. Không để xảy ra tình trạng đói văn hoá

trong sinh viên vì không có nơi tổ chức, sinh hoạt. Huy động tổng hợp nguồn lực

xã hội hóa, của nhà trường, của địa phương và nhà nước để xây dựng nâng cấp

các cơ sở văn hoá. Lập kế hoạch khai thác và sử dụng các công trình này một

cách hiệu quả nhất.

Các trường đại học cần phải:

- Tăng cường xây dựng, tu sửa, đầu tư cơ sở vật chất nhà trường như: nhà

đa năng, phòng học, khuôn viên, trang thiết bị phục vụ dạy học để tạo môi

trường văn hóa, từ đó tăng cường giáo dục học sinh biết tự hào, trân trọng, có ý

thức bảo vệ cơ sở vật chất của trường đang phục vụ cho việc học tập của mình.

- Cụ thể hóa nội dung xây dựng VHHĐ và giáo dục kỹ năng sống cho học

sinh vào trong các nội qui, qui định của trường như: vấn đề bảo vệ tài sản, xây

dựng bồn hoa cây cảnh, chăm sóc cây xanh, xây dựng môi trường: Xanh- Sạch-

Đẹp; lối sống, tác phong, trang phục, ngôn ngữ giao tiếp, ứng xử...

- Tăng cường chỉ đạo các tổ chức đoàn thể trong trường tiến hành lồng

ghép vào trong tất cả các hoạt động của trường về nội dung xây dựng VHHĐ và

giáo dục kỹ năng sống cho học sinh

- Tiếp tục đẩy mạnh các cuộc vận động và phong trào thi đua đó cũng chính

là góp phần tăng cường xây dựng VHHĐ và giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.

153

- Mỗi một cán bộ, giảng viên nhân viên của trường phải thực sự gương mẫu

trong xây dựng VHHĐ thể hiện trong hành động như: Góp phần tu sửa, bảo vệ

cảnh quan, khuôn viên môi trường nhà trường, tiết kiệm điện nước, tác phong,

lối sống, trang phục, ngôn ngữ, giao tiếp đúng chuẩn mực nhà giáo, thực sự là

tấm gương cho học sinh noi theo. Sê không thế giáo dục tốt và hiệu quả cao khi

một giảng viên là người rời khỏi phòng cuối cùng nhưng không tắt điện hay một

giảng viên đứng lớp mặc áo pull - quần Jean lại đi nhắc nhở, khiển trách học sinh

vi phạm trang phục học đường... Đồng thời mỗi cán bộ, giảng viên, nhân viên

phải là người biết giữ vệ sinh chung trong môi trường sư phạm, phải nâng cao ý

thức tự giác về việc này: Không xả rác bừa bãi trong phòng đợi, giữ gìn vệ sinh

chung... Những việc làm tuy đơn giản nhưng đòi hỏi phải có một ý thức thực sự.

- Giảng viên chủ nhiệm cần phải tăng cường giáo dục học sinh nâng cao ý

thức xây dựng VHHĐ, giáo dục kỹ năng sống trong hoạt động của công tác chủ

nhiệm như ý thức bảo vệ môi trường, tài sản, chăm sóc cây xanh, tu sửa bồn hoa

cây cảnh; xây dựng môi trường, lối sống lành mạnh, tác phong nghiêm túc, giao

tiếp lịch sự, lễ phép...giáo dục các kỹ năng như: Tự khám phá bản thân, tính

năng động, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng phản hồi tích cực, kỹ năng trình

bày trước đám đông, kỹ năng đương đầu với cảm xúc, kỳ năng ứng xử. Tạo điều

kiện cho học sinh tự rèn luyện, coi trọng việc rèn luyện của học sinh, khuyến

khích và đặc biệt quan tâm đến học sinh thuộc diện đặc biệt như khó khăn về

kinh tế, khó khăn trong rèn luyện, khó khăn trong học tập. Phối hợp chặt chẽ với

gia đình học sinh, làm cho họ nhận thức được tầm quan trọng của việc xây dựng

VHHĐ và giáo dục kỹ năng sống cho học sinh để cùng giảng viên, cùng nhà

trường nâng cao hiệu quả giáo dục học sinh.

- Giảng viên bộ môn cần phải tích hợp giáo dục kỹ năng sống cũng như xây

dựng VHHĐ cho học sinh trong quá trình giảng dạy bộ môn tùy theo đặc trưng

của từng môn học như: Tiết kiệm điện, nước; bảo vệ môi trường.. .kỹ năng tự

giải quyết vấn đề, kỹ năng hoạt động nhóm, kỹ năng hợp tác ứng xử, kỹ năng

phản hồi và đánh giá tích cực...

Một số giải pháp phối hợp, huy động nhiều chủ thể hỗ trợ hoạt động

GDVHHĐ và định hướng giá trị văn hoá, đạo đức, lối sống mới cho sinh viên

các trường đại học nhằm tạo nên những chuyển biến tích cực về nhận thức, thái

độ, hành vi của cả chủ thể và đối tượng, xuất phát từ thực trạng và những yêu

cầu bức xúc cần giải quyết trong định hướng giá trị văn hoá, đạo đức, nhân cách

cho sinh viên các trường đại học hiện nay.

154

Giải pháp 8: Đổi mới hình thức đánh giá, biểu dương, khen thưởng kịp

thời đối với những gương tốt về thực hiện văn hóa học đường, xử lý nghiêm

khắc những thành viên có hành vi sai phạm về văn hóa, đạo đức, lối sống

- Đây là một việc làm hết sức có ý nghĩa đối với công việc định hướng giá

trị văn hoá trong trường học cho sinh viên. Hơn lúc nào hết cần nắm được và

ngăn chặn ngay tình trạng xuống cấp về văn hóa, đạo đức lối sống của các thành

viên trong nhà trường. Nhà trường bằng những việc làm cụ thể, thiết thực như:

lập hòm thư góp ý, số điện thoại nóng để sinh viên cũng như giảng viên cùng

tham gia tố giác những sai phạm mà mình biết được.

- Giáo dục mọi thành viên trong nhà trường, luôn ý thức tôn vinh không chỉ

với tài năng mà còn cả những tấm gương về ý thức, thái độ, hành vi văn hóa,

những ứng xử đẹp, như những tấm gương nhân ái, những tấm lòng từ thiện,

những tấm gương thực hiện tốt các nội quy nhà trường. Giữ nghiêm kỷ cương,

kỷ luật là cơ sở để đấu tranh chống các tệ nạn xã hội.

- Việc khen thưởng, kỷ luật phải được kịp thời, công khai, công minh, và

phải thường xuyên. Những việc tưởng chừng như đơn giản này lại có tác dụng to

lớn cho sinh viên. Nó làm cho sinh viên tin tưởng hơn vào nhà trường, tin vào

những việc làm đúng pháp luật, nội quy nhà trường. Sinh viên cần thấy được

những người làm sai sẽ bị trừng trị. Ngoài ra để làm tốt công tác này cần có phối

hợp với các ban ngành địa phương, nhân dân và chính quyền để kịp thời phát

hiện xử lý.

- Đây thực chất là giải pháp xã hội hoá công tác giáo dục đạo đức cho sinh

viên để mọi lúc, mọi nơi sinh viên đều có nghĩa vụ, và quyền lợi làm tốt trách

nhiệm của mình.

Tiểu kết chương 4

Trên cơ sở phân tích thực trạng hiệu quả GDVHHĐ cho sinh viên qua khảo

sát một số trường đại học đào tạo về ngành kỹ thuật của Hà Nội, luận án xác

định phương hướng và đề xuất các giải pháp có tính khả thi để nâng cao HQ

GDVHHĐ cho sinh viên các trường đại học ở Hà Nội hiện nay. Nâng cao HQ

GDVHHĐ góp phần thực hiện tốt mục tiêu giáo dục đào tạo bậc đại học, là cơ sở

để giáo dục phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, ý thức trách nhiệm công dân

cho sinh viên nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường.

Nhóm giải pháp luận án đề xuất căn cứ vào yêu cầu đổi mới của giáo dục

đại học và định hướng của Đảng, của Chính phủ, của Bộ Giáo dục và Đào tạo về

155

đưa các nội dung GDVHHĐ vào hệ thống giáo dục giai đoạn 2011-2015, căn

cứ vào mục tiêu GDVHHĐ, căn cứ vào cơ sở lý luận và kết quả nghiên cứu

thực trạng của đề tài, căn cứ vào: tiêu chí HQGDVHHĐ và các yếu tố chi

phối đến hiệu quả GDVHHĐ, nguyên nhân hạn chế của HQGDVHHĐ, căn cứ

vào điều kiện thực tiễn của các trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật ở

Hà Nội hiện nay. Các giải pháp nâng cao hiệu quả GDVHHĐ được đề xuất

dựa trên các nguyên tắc: đảm bảo tính mục tiêu của quá trình giáo dục, tính

hiệu quả, thiết thực, tiết kiệm; đảm bảo hệ thống giá trị được giữ gìn và phát

triển ở đối tượng giáo dục, xây dựng và phát triển phải đi đôi với xoá bỏ, ngăn

chặn các tiêu cực ảnh hưởng đến VHHĐ, đảm bảo phát huy vai trò chủ thể của

giảng viên và sinh viên.

Luận án đề xuất 3 nhóm giải pháp cơ bản: nhóm giải pháp xây dựng môi

trường xã hội phù hợp, nhóm giải pháp phát huy vai trò của chủ thể và đối tượng

giáo dục văn hoá học đường, nhóm giải pháp về sự kết hợp giữa mục đích, nội

dung, phương pháp, hình thức, phương tiện và huy động các nguồn lực cho hoạt

động giáo dục văn hóa học đường. Nội dung 3 nhóm giải pháp được cụ thể hóa

trong 10 giải pháp nâng cao nhận thức của chủ thể và đối tượng giáo dục, đổi

mới nội dung và phương pháp GDVHHĐ, sử dụng hợp lý nguồn nhân lực,…

nhằm hướng tới nâng cao hiệu quả GDVHHĐ trong các trường đại học ở Hà Nội

hiện nay. Các giải pháp này phải được kết hợp đồng bộ thì mới phát huy tính

hiệu quả.

156

KẾT LUẬN

1. GDVHHĐ là một vấn đề cấp thiết trong các trường đại học nhằm tạo ra

môi trường thân thiện, an toàn để thực hiện mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực

chất lượng cao phục vụ cho sự phát triển, hội nhập bền vững của đất nước. Hiện

nay, tuy đã có một số công trình nghiên cứu, hội thảo về vấn đề VHHĐ, xây

dựng VHHĐ trong hệ thống giáo dục quốc dân nhưng sự đồng thuận về mặt

lý luận còn chưa cao và cũng chưa có nghiên cứu nào nghiên cứu về hiệu quả

GDVHHĐ trong trường đại học. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của đề án đổi

mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo đặc biệt là đào tạo bậc đại học

trong giai đoạn hiện nay, vấn đề GDVHHĐ đòi hỏi phải được đi sâu nghiên

cứu, luận giải sâu sắc, toàn diện, tạo cơ sở khoa học để thống nhất nhận thức

và hành động nhằm nâng cao hiệu quả GDVHHĐ, góp phần thực hiện thành

công NQTW8, NQTW9 khóa XI của Đảng và mục tiêu đào tạo nguồn nhân

lực cao phục vụ nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế

trong điều kiện hiện nay.

2. Hiệu quả GDVHHĐ là kết quả cao nhất trong tiếp nhận tri thức về

VHHĐ từ đó thay đổi nhận thức, thái độ và tính tích cực thực hiện hành vi chuẩn

mực được biểu hiện khi tham gia các hoạt động thực tiễn ở đối tượng sau tác

động giáo dục của chủ thể với mục đích đã xác định và cách sử dụng hợp lý, tiết

kiệm các nguồn lực để đạt kết quả đó trong những điều kiện cụ thể. Hiệu quả

GDVHHĐ được thể hiện ở nhiều mặt, chịu sự chi phối của các yếu tố, từ môi

trường giáo dục bên trong và bên ngoài nhà trường. Hiệu quả GDVHHĐ là một

thể thống nhất của hiệu quả tinh thần và hiệu quả thực tiễn được thể hiện trên các

mức độ từ thấp đến cao, đó là tri thức, niềm tin, và hành động - hành vi thực tiễn.

Tri thức và niềm tin thuộc nhóm tiêu chí hiệu quả tinh thần và hành động, hành

vi là hiệu quả thực tiễn của GDVHHĐ. Muốn đánh giá hiệu quả phải có quan

điểm, phương pháp, hình thức phù hợp và khoa học.

3. Thực trạng GDVHHĐ tại các trường đại học đào tạo các ngành kỹ thuật

tại Hà Nội hiện nay đã đạt được những thành công nhất định. Tuy nhiên, nếu so

sánh với các tiêu chí xác định hiệu quả GDVHHĐ thì chưa đạt hiệu quả. Bởi

mục tiêu của GDVHHĐ là cung cấp tri thức, niềm tin ở mức tối đa và hiệu quả

thực tiễn phải đạt ở mức cao nhất, chi phí các nguồn lực ở mức tối thiểu. Trong

thực tế, các trường đại học mà luận án tiến hành khảo sát mới chỉ đạt kết quả ở

157

mức khá chứ chưa thật sự đạt mức hài lòng tuyệt đối, nghĩa là chưa đạt hiệu quả

mong muốn. Hoặc là hiệu quả tinh thần chưa cao, hoặc là hiệu quả thực tiễn

chưa đạt, hoặc là chi phí nguồn lực chưa hợp lý. Thực trạng này đặt ra những

vấn đề cần giải quyết nếu muốn nâng cao hiệu quả GDVHHĐ cho sinh viên

trong các trường đại học ở Hà Nội hiện nay.

Từ năm 2012 đến nay, GDVHHĐ cho sinh viên các trường đại học đào tạo

các ngành kỹ thuật tại Hà Nội diễn ra trong bối cảnh có nhiều thuận lợi, song

cũng có không ít khó khăn do những tác động từ các yếu tố khách quan và chủ

quan. Trong điều kiện ấy, GDVHHĐ cho sinh viên thu được nhiều kết quả đáng

ghi nhận, tạo nền tảng vững chắc góp phần quan trọng vào mục tiêu đào tạo

nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho xây dựng và bảo vệ đất nước trong

điều kiện hiện nay. Tuy nhiên, đem so những kết quả đạt được với mục tiêu đào

tạo và sự đầu tư, huy động nguồn lực, cùng những ưu thế của các trường đào tạo

các ngành kỹ thuật ở Hà Nội hiện nay cho thấy, hiệu quả GDVHHĐ cho sinh

viên vẫn còn thấp. Nâng cao hiệu quả GDVHHĐ cho sinh viên đang gặp phải 4

vấn đề cần giải quyết. Đó là, mâu thuẫn giữa mục đích, yêu cầu của GDVHHĐ

trong quá trình thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện gióa dục, đào tạo và phát

triển văn hóa, con người mới Việt Nam với những hạn chế về nguồn nhân lực;

với những bất cập của nội dung, hình thức, phương pháp; với sự biến đổi phức

tạp, khó lường và những lệch lạc trong xu hướng nhân cách của sinh viên; với

những khó khăn về phương tiện, cơ sở vật chất; với những tác động tiêu cực từ

môi trường giáo dục bên trong và bên ngoài các trường đại học.

4. Để nâng cao hiệu quả GDVHHĐ phải tiến hành đồng bộ các giải pháp,

trong đó giải pháp đột phá, khả thi và mang lại hiệu quả cao nhất đó là nguồn lực

con người với khả năng sáng tạo, chủ động của chủ thể. Đó là sự mẫu mực, tâm

huyết, trách nhiệm của người đi giáo dục; đổi mới mạnh mẽ nội dung, hình thức,

phương pháp không phải chỉ nhằm trang bị thật nhiều kiến thức mà theo hướng

khi trao truyền một kiến thức thì kiến thức đó phải được trao truyền cả tình cảm,

tâm huyết để kiến thức biến thành niềm tin, trở thành động lực bên trong điều

chỉnh thái độ, hành vi của đối tượng được giáo dục; phải khơi dậy nhu cầu, lợi

ích hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn - xã hội, làm cho việc học, hiểu

và hành xuất phát từ bên trong của mỗi sinh viên; xây dựng các trường đại học

trở thành mô hình, thiết chế mẫu mực về văn hóa, cũng với cơ quan, ban ngành,

địa phương tham gia xây dựng địa bàn an toàn, góp phần đấu tranh ngăn chặn,

158

đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực, phản văn hóa, phản tiến bộ thâm nhập vào nhà

trường vào thế hệ trẻ.

5. Đổi mới đất nước, hội nhập, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa đòi hỏi sinh viên Việt Nam phải có đủ năng lực chuyên môn và

phẩm chất đạo đức đáp ứng yêu cầu mới. Sự thay đổi của điều kiện lịch sử là một

trong những yếu tố cơ bản quyết định đến vấn đề GDVHHĐ. GDVHHĐ là một

yếu tố bảo đảm và nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo. Nó góp phần quan

trọng trong việc cải cách nền giáo dục nước nhà. Văn hóa luôn đi liền với giáo

dục, giáo dục đi liền với văn hóa. Cả hai đều là sản phẩm đặc thù của loài người.

Để xây dựng văn hóa học đường phải làm nhiều việc, bằng nhiều cách. Vạn sự

khởi đầu nan, phải bắt đầu từ các cấp quản lý ngành, lãnh đạo các trường có chủ

trương, có kế hoạch triển khai, có kiểm tra, nhắc nhỡ, đánh giá, đó là điều kiện

tiên quyết. Tiếp đến, đội ngũ nhà giáo phải chú ý giáo dục văn hóa, đây là nhân

tố rất quan trọng. Và tất nhiên, phải toàn trường, đến từng người học, ai cũng

phải chú trọng đến hình thành và phát triển nhân cách văn hóa, đây là yếu tố giữ

vai trò quyết định. Mỗi cấp học, bậc học có yêu cầu riêng, nội dung riêng, biện

pháp đặc thù. Trong các biện pháp, một biện pháp mà các trường đều cần thực

hiện là mỗi trường có hệ giá trị làm chuẩn mực để mọi thành viên đồng thuận,

lấy đó làm mục tiêu phấn đấu, thước đo thành quả của bản thân, của lớp, của

trường, đặc biệt về mặt đạo đức xã hội, giá trị chân cách, điều mà chúng ta gọi là

“dạy người” bên cạch “dạy chữ, dạy nghề”.

Vì vậy, GDVHHĐ cho các thế hệ sinh viên là trực tiếp góp phần đáp ứng đòi

hỏi trên ở các trường đại học. Để GDVHHĐ có hiệu quả đòi hỏi sự quan tầm đồng

bộ của các cấp, các ngành, của toàn xã hội, nhưng trước hết thuộc về công tác giáo

dục trong các trường đại học.

159

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Vũ Ngọc Am (2003), Đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho

cán bộ đảng viên cơ sở, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

2. Hoàng Anh (2012), Giáo dục với hình thành và phát triển nhân cách sinh

viên, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội..

3. Vũ Thị Phương Anh, Đảm bảo chất lượng giáo dục đại học Viêt Nam với

nhu cầu hội nhập, http://ud.edu.vn/bcns/view/274/151.

4. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2004), Xây dựng môi trường văn

hóa - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

5. Ban Tuyên giáo Trung ương (2008), Nghiệp vụ tuyên giáo, Nxb. Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

6. Ban Tuyên giáo Trung ương (2011), Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Đại

hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà

Nội.

7. Báo Nhân dân, số 19353 (15/8 / 2008), Nghị quyết Trung ương VII,

Khóa X, Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên.

8. Hoàng Chí Bảo (2011), Vấn đề văn hóa và con người trong cương lĩnh

(bổ sung, phát triển 2011) của Đảng.Tạp chí tuyên giáo, số 7, tr 36-41.

9. Nguyễn Trần Bạt (2006), Văn hóa và con người, Nxb. Thông tin, Hà Nội.

10. Đào Văn Bình (2010), Văn hóa trong quản lý điều hành doanh nghiệp

thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội..

11. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2002), Giáo dục đại học Việt Nam, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

12. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2002), Chương trình hành động thực hiện

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về

nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng lý luận trong tình hình mới, số

6547/CTCT ngày 29/7.

13. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2002), Quy chế công tác học sinh , sinh viên

trong các trường đào tạo, Tài liệu lưu hành nội bộ, Hà Nội.

160

14. C. Mác và Ăng-ghen (2002), Toàn tập, tập 9, Nxb.Chính trị Quốc gia,

Hà Nội..

15. Nguyễn Minh Chung (2006), Văn hóa lớp học và mô hình lớp học văn

hóa trong nhà trường đại học hiện nay, (Đề tài nghiên cứu khoa học cơ bản

Đại học Sư phạm Hà Nội).

16. Nguyễn Viết Chức (chủ biên) (2001), Xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối

sống và đời sống văn hóa ở thủ đô Hà Nội trong thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

17. Nguyễn Văn Dần (2009), Kinh tế học vi mô, Nxb. Tài chính, Hà Nội.

18. John Dewey (2008), Dân chủ và giáo dục, Nxb. Tri thức, Hà Nội.

19. Trương Minh Dục (2011). Quan điểm của Đảng ta về xây dựng văn hóa,

lối sống thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Tạp chí lý luận chính trị &

Truyền thông, số 12, tr 3-6

20. Phạm Vũ Dũng (1996), Văn hóa giao tiếp, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

21. Nguyễn Bá Dương (2002), Mấy suy nghĩ về nâng cao chất lượng hiệu

quả công tác tư tưởng hiện nay, Tạp chí Cộng sản, (số 32)

22. Hồ Ngọc Đại (2012), Giải pháp đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo

dục Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

24. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị Trung ương 5 Ban

chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện

cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội,

Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XI, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

161

29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư, Ban

Chấp hành Trung ương khoá XI, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội..

30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Văn kiện Hội nghị lần thứ tám, Ban

Chấp hành Trung ương khoá XI, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín, Ban

Chấp hành Trung ương khoá XI, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XII, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

33. Trần Thị Anh Đào (2009), Công tác tư tưởng trong sự nghiệp công

nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

34. Trần Thị Anh Đào (2010), Công tác giáo dục lý luận chính trị cho sinh

viên Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

35. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh - Ban Thanh niên các trường

đại học và chuyên nghiệp (1996), Xây dựng môi trường giáo dục xã hội chủ

nghĩa trong các trường dạy nghề. , Nxb Thanh niên, Hà Nội.

36. Phạm Duy Đức (2008), Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về văn

hóa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

37. Ngô Đình Giao (1984). Những vấn đề cơ bản về hiệu quả kinh tế và

hiệu quả kinh doanh. Nxb ĐH kinh tế quốc dân, Hà Nội.

38. Trần Văn Giầu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt

Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội..

39. Jacqnes Hallak (1990), Đầu tư vào tương lai (bản dịch) IIEF, Paris,

UNESCO.

40. Nguyễn Hồng Hà (2005), Môi trường văn hóa với việc xây dựng lối

sống và con người Việt Nam, Nxb. Văn hóa – Thông tin, Viện Văn hóa, Hà

Nội.

41. Phạm Minh Hạc - Nguyễn Khoa Điềm (2003), Phát triển văn hóa và xây

dựng con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

42. Phạm Minh Hạc (1999), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ

XXI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

162

43. Phạm Minh Hạc (2001), Phát triển toàn diện con người thời kỳ công

nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội..

44. Lưu Đức Hạnh (2011) Khổ học thành tài, Nxb. Dân trí, Hà Nội.

45. Lương Khắc Hiếu (1996), Về tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả tuyên truyền

chính trị, Tạp chí Tư tưởng văn hoá, (số 8).

46. Lương Khắc Hiếu (chủ biên) (2008), Nguyên lý công tác tư tưởng, tập

1, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

47. Lương Khắc Hiếu (chủ biên) (2008), Nguyên lý công tác tư tưởng, tập

2, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

48. Bùi Hiện, Nguyễn Văn Giao, Nguyễn Hữu Quỳnh, Vũ Văn Tảo (2001).

Từ điển giáo dục học, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

49. Nguyễn Văn Hộ - Hà Thị Đức (2002), Giáo dục học đại cương, Nxb

Giáo dục.

50. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2009), Giáo

dục lý luận chính trị cho sinh viên Việt Nam hiện nay, Báo cáo tổng hợp kết

quả nghiên cứu đề tài khoa học cấp bộ, lưu thư viện Học viện Báo chí và

Tuyên truyền

51. Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam, Tổng quan tình hình thanh niên và

phong trào thanh niên nhiệm kỳ 2005-2010.

52. Hội sinh viên Việt Nam (2013), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ IX nhiệm kỳ 2013-2018.

53. Hội sinh viên Việt Nam thành phố Hà Nội (2013), Văn kiện đại hội đại

biểu toàn quốc lần thứ VI nhiệm kỳ 2013-2018.

54. Hà Học Hợi (chủ biên), (2002), Đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu

quả công tác tư tưởng, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội

55. Nguyễn Phương Hồng (1997), Thanh niên, học sinh, sinh viên với sự

nghiệp CNH, HĐH đất nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

56. Lương Vị Hùng, Khổng Khang Hoa (Bùi Đức Thiệp dịch), (2008), Triết

học giáo dục hiện đại, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

57. Thế Hùng (2011), Văn hóa ứng xử – kỹ năng giao tiếp thành công,

Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội.

163

58. Đỗ Huy, Trường Lưu (1993), Sự chuyển đổi các giá trị trong văn hóa

Việt Nam. H., Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

59. Đỗ Huy (2001), Xây dựng môi trường văn hóa ở nước ta hiện nay - Từ

góc nhìn giá trị học, Nxb. Văn hóa thông tin

60. Vũ Việt Hưng (2010), “Xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam trong

thời kỳ đổi mới”, www.cpv.org.vn, ngày 7/5/2010

61. Ác - môn - đốp A. I (chủ biên) (1981), Cơ sở lý luận văn hóa Mác –

Lênin, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

62. Phạm Kiêm Ích (2001), Văn hóa học và văn hóa thế kỷ XX, Viện thông

tin khoa học và Xã hội, Hà Nội.

63. M.S. Kagan, Văn hóa học, (1974), Nxb. Maxcơva

64. Nguyễn Công Khanh và các cộng sự (2009), Văn hóa trong nhà trường,

Nxb. Đại học sư phạm, Hà Nội.

65. Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo, Nguyễn Thị Thu Hà (2003), Từ

điển Văn hóa - giáo dục Việt Nam, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

66. Trịnh Đình Khôi (2012). Văn hóa sức mạnh nội sinh để phát triển, Tạp

chí tuyên giáo, số 1 tr 52-55

67. Gustave Lebon (2009), Tâm lý học đám đông cùng tâm lý đám đông và

phân tích cái tôi của S.Freud, Nxb.Tri thức, Hà Nội.

68. Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang (1995), Con người và nguồn lực con

người trong phát triển. Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội..

69. Phan Huy Lê (chủ biên) (1996), Các giá trị truyền thống và con người

Việt Nam hiện nay. (Chương trình KX - 07)

70. Thanh Lê (2000), Văn hóa và lối sống, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

71. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 37, Nxb.Tiến bộ Mat-xcơ-va

72. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 41, Nxb.Tiến bộ Mat-xcơ-va

73. V.I.Lênin (1979), Toàn tập, tập 12, Nxb.Tiến bộ Mat-xcơ-va

74. V.I.Lênin (1979), Toàn tập, tập 39, Nxb.Tiến bộ Mat-xcơ-va

75. Vũ Khắc Liên (Chủ biên) (1993), Nhân cách văn hóa trong bảng giá trị

Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

164

76. Phạm Bá Linh, Phạm Thị Minh Nguyệt (2012). Gắn phát triển văn hóa

và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc với phát triển con người Việt Nam toàn

diện vì mục tiêu phát triển bền vững, Tạp chí Triết học, số 7 (254), tr 9-16

77. Trịnh Thị Minh Loan (2005), Một số khái niệm về văn hóa, Viện nghiên

cứu sư phạm, ĐH sư phạm, Hà Nội.

78. Nguyễn Đăng Lục (2005), Vai trò của pháp luật trong quá trình hình

thành nhân cách, Nxb. Tư pháp.

79. Trương Lưu (1998), Văn hóa đạo đức và tiến bộ xã hội, Nxb. Văn hóa

thông tin, Hà Nội.

80. C.Mác - Ph.Ăngghen - V.I.Lênin - Xtalin (1976), Bàn về giáo dục, Nxb.

Sự thật, Hà Nội.

81. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 1, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội..

82. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 3, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội..

83. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội..

84. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

85. Nguyễn Đức Minh (2003): Các giải pháp nâng cao chất lượng công tác

sinh viên trong các trường Đại học, cao đẳng Hà Nội, Nxb. Thanh niên, Hà

Nội.

86. Lưu Xuân Mới (2000). Lý luận dạy học đại học, Nxb. Giáo dục, Hà

Nội.

87. Phạm Văn Năng (chủ biên), (2002), Công tác tư tưởng và giảng dạy lý

luận trong trường đại học và cao đẳng hiện nay, Nxb.Thành phố Hồ Chí

Minh.

88. Phạm Thanh Nghị (2003), Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nguồn

nhân lực giáo dục đào tạo, Tạp chí Phát triển giáo dục.

89. Phạm Đình Nghiệp (2000), Giáo dục tư tưởng cách mạng cho giới trẻ

Việt Nam trong tình hình mới, Nxb. Thanh niên, Hà Nội..

90. Vũ Hữu Ngoạn (2008), Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư

tưởng trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị, (số 12)

91. Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt (đồng chủ biên), (1997), Giáo dục học, tập

1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

165

92. Đoàn Thị Minh Oanh, (chủ nhiệm) (2008), Xây dựng ý thức tự giáo dục

cho sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội hiện nay, đề tài cấp Đại học Quốc gia,

Hà Nội.

93. Diane E. Oliver, Nguyễn Kim Dung (2009): Giáo dục đại học Việt nam

giao điểm giữa chất lượng và thương mại. Thông tin những vấn đề chính trị-

xã hội, số 48, Tr 13-26

94. Hà Văn Phan (2000), Tìm hiểu thực trạng, phương pháp và những giải

pháp giáo dục nhân cách sinh viên ở các trường đại học, cao đẳng, Đề tài

Nghiên cứu khoa học cấp bộ, Mã số: B98-36-42, Trường Đại học Mỏ - Địa

chất.

95. Hoàng Phê (chủ biên), (1997), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, trung

tâm Từ Điển Học.

96. Phùng Hữu Phú (2001), Vai trò lãnh đạo của Đảng trong xây dựng môi trường

văn hóa ở các trường Đại học, cao đẳng Hà Nội, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.

97. Phạm Hồng Quang (2012), Xây dựng và hoàn thiện môi trường giáo

dục đại học, Tạp chí giáo dục 2012, số 278, tr2-4

98. Quốc hội, Luật giáo dục đại học, 2005

99. Đào Duy Quát (chủ biên) (2010), Công tác tư tưởng, Nxb. Chính trị

Quốc gia, Hà Nội..

100. Đặng Đức Siêu, Hành trình văn hóa Việt Nam (2002), Nxb. Lao động,

Hà Nội.

101. Băng Sơn (1999), Giao tiếp đời thường. Nxb Thanh niên, Hà Nội.

102. Nguyễn Hồng Sơn, (2010); Biện chứng giữa văn hóa và sự phát triển xã

hội trong quá trình định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb. Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

103. Phan Thanh Tá (2002), Về khái niệm đời sống văn hóa ở nông thôn,

Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 4/2002.

104. Nguyễn Văn Tạo (2004), Nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh

nghiệp trong nền kinh tế thị trường, Tạp chí Thương mại, số 10.

105. Nguyễn Văn Tham, Nguyễn Năng Nam (2012). Bản lĩnh văn hóa Việt

Nam trước đòi hỏi của dân tộc và thời đại, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số

334, tr 3-6

166

106. Văn Đức Thanh (2001), Về xây dựng môi trường văn hóa cơ sở. Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

107. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. TP

Hồ Chí Minh.

108. Phùng Văn Thiết (2006), Biến động cơ cấu xã hội - giai cấp và vấn đề

giáo dục chính trị cho thanh niên ở nước ta, Nxb.Quân đội nhân dân, Hà Nội.

109. Hữu Thọ - Đào Duy Quát (1999), Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất

lượng và hiệu quả công tác tư tưởng - văn hoá trong tình hình mới, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

110. Nguyễn Tiến Thông (2000), Một số vấn đề giao tiếp. Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

111. Võ Văn Thưởng (2008), Phát huy vai trò của tuổi trẻ trong sự nghiệp

đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước, Tạp chí Cộng sản điện tử số 6

112. Lê Văn Toan (2011), Phát triển văn hóa với việc tăng cường sức mạnh

tổng hợp của đất nước, Tạp chí Lý luận chính trị & Truyền thông, sô 5, tr7-11

113. Nguyễn Thanh Tuấn (2008), Văn hóa ứng xử Việt Nam hiện nay, Nxb.

Từ điển bách khoa và Viện văn hóa, Hà Nội.

114. Trần Ngọc Tuệ (1996), Nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng trong

QĐND Việt Nam hiện nay, Luận án Phó Tiến sĩ, Thư viện Học viện Chính trị

115. Cao Xuân Trung (2002), Những điều kiện tâm lý sư phạm nâng cao hiệu

quả giáo dục chính trị tư tưởng cho quân nhân ở các đơn vị cơ sở hiện nay,

Luận án Tiến sĩ Tâm lý học, Học viện Chính trị Quân sự.

116. Phạm Ngọc Trung (2011), Văn hóa và phát triển từ lý luận đến thực

tiễn, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

117. Trung tâm Biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), Từ điển

bách khoa Việt Nam, tập 1, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

118. Trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh (2011), Đoàn

Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh 80 năm xây dựng cống hiến và trưởng

thành, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.

119. Trung ương Hội sinh viên Việt Nam (2010), Tổng quan tình hình sinh

viên, công tác hội và phong trào sinh viên nhiệm kỳ V (2005- 2010), Nxb

Thanh niên, Hà Nội.

167

120. Đào Duy Tùng (1999), Một số vấn đề về công tác tư tưởng, Nxb.Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

121. Hoàng Thanh Tỳ, Xây dựng môi trường học tập tích cực cho sinh viên

sư phạm, Tạp chí Giáo dục, kỳ 1-4/2008, tr22-25.

122. Nguyễn Quang Uẩn (1995). Giá trị, định hướng giá trị nhân cách và

giáo dục giá trị, (Chương trình KX - 07-04).

123. Nguyễn Khắc Viện (chủ biên), (1994) Từ điển xã hội học, Nxb. Thế

giới, Hà Nội.

124. Viện nghiên cứu Thanh niên, Trung tâm phát triển khoa học công nghệ

và tài năng trẻ (2001), Thế hệ trẻ Việt Nam - Nghiên cứu lý luận và thực tiễn,

Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội.

125. Viện nghiên cứu sư phạm (2008): Văn hóa học đường - yếu tố quan

trọng để nâng cao chất lượng giáo dục. Đề tài cấp cơ sở.

126. Phạm Thái Việt và Đào Ngọc Tuấn (2004), Đại cương về văn hóa Việt

Nam, Nxb. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

127. Hoàng Vinh (1999), Một số vấn đề lý luận văn hóa thời kỳ đổi mới, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

128. Huỳnh Khái Vinh (2000), Những vấn đề văn hoá Việt Nam đương đại,

Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

129. Lương Ngọc Vĩnh (2012), Hiệu quả công tác giáo dục Chính trị-Tư

tưởng trong học viên các học viện Quân sự ở nước ta hiện nay, Luận án tiến

sĩ Khoa học Chính trị, Học viện Báo chí & Tuyên truyền.

130. Phạm Viết Vượng (2007), Giáo dục học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội

131. Văn bản pháp luật về quản lý học sinh, sinh viên (2001). Nxb. Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

132. X.I. Xrơnitrencô (chủ biên),(1982), Hoạt động tư tưởng của Đảng Cộng

sản Liên Xô, Nxb.Thông tin Lý luận.

133. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa

- Thông tin, Hà Nội.

134. Dương Trung Ý (2007), Ý thức chính trị của sinh viên các trường đại

học và cao đẳng trên địa bàn Hà Nội, đề tài Học viện Chính trị Quốc gia Hồ

Chí Minh

168

II.Tiếng Anh

135. Erenest C.T. Chew& Edwin Lee (1991), A history of Singapore, Oxford

Univesity Press,.

136. EUA (European University Association)(2006), Quality Culture in

European Universities: A Bottom- up Approach, Report on the three rounds of

the quality culture project 2002-2006.

137. U.D. Ehlers (2006), Understanding quality culture. Quality in Higher

Education, (17), PP.343-363.

138. F. Gonzles (1978), Lce barg Graphic Organizer. University of Texas at

Austin.

139. http//www.uv.es/EBRIT/macro/macro_5005_29.html, Propaganda

140. Dewey, John (1916/1944). Democracy and Education. The Free Press

141. Sergiovanni, Thomas J. (2006), Ch. 7. Nurturing School Culture and

Collaborative Curriculum as Campus Leader.

142. Rick Allen. Building School Culture in an Age of Accountability .

Building School Culture, November 2003 | Volume 45 | Number 7.

143. Kent D. Peterson and Terrence E. Deal, (2006), How Leaders Influence

the Culture of Schools.

144. Từ điển Lepetit Lasousse, 1999, Paris, Tr57

145. 11. Yenming Zhang NIE Nanyang, (2008). Shaping School Culture.

Technological University Objectives.

169

CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ

1. "Những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình hoàn thiện nhân cách của sinh viên

đại học- Nguồn nhân lực cao của xã hội", Khoa học và công nghệ, (12), tr.86-

89.

2. "Lý luận và thực tiễn về xây dựng và giáo dục văn hóa học đường cho sinh

viên trong trường đại học", Giáo dục lý luận, (219), tr.111-114.

3. "Giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên hiện

nay”, Lý luận chính trị và truyền thông, (3/ 2015), tr.64-67.

4. "Thực trạng văn hóa học đường trong trường đại học đào tạo các ngành kỹ

thuật ở Hà Nội hiên nay”, Giáo dục & xã hội, (4/2015), tr.41-43.

5. "Nâng cao hiệu quả giáo dục văn hóa học đường cho sinh viên các ngành kỹ

thuật ở Hà Nội hiện nay ”, Giáo dục & xã hội, (11/2015), tr.55-59.

6. “Sự chuyển đổi tất yếu một số quan niệm đạo đức trong giai đoạn hiện nay”,

Kinh tế Châu Á- Thái bình dương (7/2017), tr 75- 77

PHỤ LỤC

PHIẾU ĐIỀU TRA Ý KIẾN

Để giúp chúng tôi làm tốt hơn nữa công tác GDVHHĐ cho sinh viên trong trường

đại học. Xin bạn vui lòng cho biết ý kiến về một số vấn đề sau. (Phương án nào phù

hợp với ý kiến của bạn xin đánh dấu v vào ô trống bên cạnh).

Câu 1: Xin bạn vui lòng cho biết một số thông tin về cá nhân ?

Tuổi :..............

Giới tính : Nam Nữ

Dân tộc :

Là Giảng viên CBCNV - sinh viên năm thứ

Là cán bộ lớp - Là cán bộ đoàn

Hiện nay bạn đạng ở KTX: Có - Không

Câu 2: Theo bạn những tiêu chí nào dưới đây là tiêu chí của VHHĐ ?

- Trang phục sạch sẽ, kín đáo, lịch sự, của giảng viên:

Có Không

- Trang phục sạch sẽ, kín đáo, lịch sự, phù hợp của giảng viên, sinh viên,

Có Không

- Trang phục sạch sẽ, kín đáo, lịch sự, phù hợp của giảng viên, sinh viên, CBCNV

Có Không

- Ngôn ngữ có văn hóa, đúng mực của giảng viên

Có Không

- Ngôn ngữ có văn hóa, đúng mực của giảng viên, sinh viên, CBCNV

Có Không

- Giao tiếp có văn hóa, đúng mực của giảng viên

Có Không

- Giao tiếp có văn hóa, đúng mực của giảng viên, sinh viên, CBCNV

Có Không

- Ra, vào lớp đúng giờ của giảng viên, sinh viên

Có Không

- Không khí dân chủ trong trường học

Có Không

- Giữ vệ sinh chung, bảo vệ của công

Có Không

- Thực hiện đúng nội quy, quy chế của nhà trường

Có Không

- Có tình yêu đẹp

Có Không

Câu 3: Theo bạn văn hóa học đường có vai trò như thế nào trong quá trình hoàn thiện

nhân cách ở sinh viên?

- Là yếu tố quyết định nhất

- Là yếu tố quyết định

- Là yếu tố góp phần

- Là yếu tố không có ảnh hưởng gì

Câu 4: Xin bạn vui lòng cho biết việc GDVHHĐ cho sinh viên ở Trường bạn đang theo học

thường được tiến hành chủ yếu thông qua hình thức nào dưới đây?

- Đưa vào nội dung học chính trị đầu khóa

- Thông qua giảng dạy, bồi dưỡng tập trung theo lớp.

- giảng viên, CBCNV nêu gương tốt cho sinh viên

- Thông qua nghiên cứu tài liệu.

- Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.

Câu 5: Bạn đánh giá gì về hiệu quả của tuần lễ sinh hoạt chính trị đầu khóa?

- Rất tốt - Tốt - Bình thường

Bạn có nhớ nội dung được học trong tuần sinh hoạt chính trị đầu khóa?

- Rất nhớ

- Nhớ 50%

- Không nhớ

- Ý kiến khác:..............................................................................

Câu 6: Bạn có hứng thú học tập, nghiên cứu các môn lý luận chính trị, KHXHNV, nội

quy, quy chế của trường ĐH

Có hứng thú Bình thường Không hứng thú

Câu 7: Bạn có thích tham gia các buổi sinh hoạt chi đoàn ?

- Rất thích

- Thích

- Bình thường

- Không thích

Ý kiến khác: .......... ............... ................ .......................... .............

Câu 8: Theo bạn, các phong trào sau đây có mức độ quan trọng như thế nào?

A. Rất quan trọng B. Quan trọng C. Không quan trọn

- Phong trào thi đua học tập rèn luyện

- Phong trào xây dựng nếp sống văn hóa học đường

- Phong trào xây dựng các nội quy, quy định

- Phong trào đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn

- Phong trào thanh niên, sinh viên tự quản

- Phong trào văn nghệ, TDTT

- Tham gia các câu lạc bộ

Câu 9: Bạn cho biết sự quan tâm của các tổ chức nhà trường đối với hoạt động

ngoại khóa.

A. Thường xuyên B. Thỉnh thoảng Không bao giờ

- Đảng bộ, chi bộ

- Lãnh đạo nhà trường

- Đoàn thanh niên

- Hội sinh viên

- Bộ phận quản lý sinh viên

- Khoa (bộ môn)

Câu 10: Bạn có tham gia hoạt động phong trào, sinh hoạt ngoại khóa do trường, đoàn

thanh niên, hội sinh viên tổ chức?

- Rất tích cực

- Bình thường

- Không thích

- Ý kiến khác..............................................................................................

Câu 11: Trong thời gian học tập tại trường đại học, bạn đã tham gia vào hoạt động

ngoại khóa nào? Đánh giá mức độ tham gia

A. Thường xuyên B. Thỉnh thoảng C: Không bao giờ

- Hội diễn văn nghệ

- Đọc sách báo tại thư viện

- Tham quan du lịch

- Sinh hoạt hội viên các câu lạc bộ

- Xem ti vi, nghe nhạc (nếu ở KTX)

Câu 12: Theo bạn quản lý sinh viên ở trường bạn đang học xếp vào mức độ nào?

A. Gò bó B. Đúng mực C. Lỏng lẻo

- Sinh viên nội trú

- Sinh viên ngoại trú

Câu 13: Theo bạn quan hệ giữa sinh viên với sinh viên ở trường bạn đang học như thế

nào?

A. Đúng B. Không đúng

- Đoàn kết thương yêu nhau

- Giúp đỡ nhau trong học tập

- Trung thực thẳng thắn

- Vui vẻ, cởi mở

- Không quan tâm đến nhau

Câu 14: Những nội dung nêu ra dưới đây theo bạn đúng hay là không đúng?

A. Đúng B. Không đúng

- Thầy cô luôn là tấm gương sáng về nhân cách, đạo đức

Thầy cô luôn là tấm gương sáng về kiến thức chuyên môn

Giữa thầy cô và sinh viên luôn là mối quan hệ trong sáng

Bạn luôn kính trọng lễ phép với giảng viên

Thầy cô chưa phải là tấm gương về nhân cách đạo đức

- Ý kiến khác: ........... ............... ................. ............ .............. ..........

Câu 15: Trong quá trình học tập tại trường, bạn có:

- Nhận điện thoại trong giờ học

- Hút thuốc lá trong lớp học

- Khó chịu khi nhìn thấy bạn khác mặc quần, áo hở hang lên lớp

- Nói bậy, chửi thề

- Bỏ tiết học

- Vi phạm quy chế thi

Câu 16: Dưới sự tác động của VHHĐ, theo bạn những hiện tượng nào dưới đây được

khắc phục nhiều trong thời gian qua?

- Tự do, vô kỷ luật trong học tập, nghiên cứu khoa học của sinh viên.

- Thái độ vô lễ với thầy, cô giáo

- Nói tục, chửi thề trong giao tiếp với bạn

- Lên giảng đường, đi thực hành xưởng với trang phục không phù hợp

- Chây lười trong sinh hoạt và học tập.

- Gây rối, mất trật tự trong trường học.

- Thờ ơ với các hoạt động phong trào của khoa, trường.

- Những hành vi lệch chuẩn khác

- Ý kiến khác:.............................................................................................

Câu 17: Theo bạn, nhà trường đã thực hiện những biện pháp nào để phối hợp với gia

đình sinh viên?

Đánh dấu chéo vào ô vuông để phù hợp với ý kiến của bạn

- Thông báo kết quả học tập hàng năm của sinh viên cho gia đình

- Thông báo kết quả rèn luyện tu dưỡng hàng năm của sinh viên cho gia đình

- Thông báo nội quy, quy định cho gia đình

- Thông báo về các khoản chi phí bắt buộc của sinh viên cho gia đình

- Thông báo cho gia đình biết những sinh viên được khen thưởng và bị kỷ luật

- Thông báo cho gia đình biết lịch học, lịch đi thực tế, thực tập, qui định, nghỉ tết, nghỉ

hè của sinh viên

Câu 18: Bạn đánh giá thế nào về tình hình suy thoái VHHĐ của một bộ phận sinh viên

hiện nay ?

- Rất nghiêm trọng

- Nghiêm trọng

- Bình thường

- Không nghiêm trọng

- Ý kiến khác: ........ ........ ........... ............ ............. ............. .............

Câu 19: Bạn cảm thấy thế nào khi tiếp xúc với thanh niên địa phương?

- Rất tốt

- Tốt

- Bình thường

- Ngại tiếp xúc

- Khó chịu

Câu 20: Theo bạn, ý thức tự giáo dục VHHĐ của sinh viên hiện nay ở mức độ nào?

- Rất cao

- Cao

- Chưa cao

- Ý kiến khác:...............................................................................

Xin chân hành cảm ơn sự hợp tác, giúp đỡ của các bạn

Chúc các bạn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành đạt!

KẾT QUẢ THĂM DÒ Ý KIẾN

Bảng 1 : Tiêu chí đánh giá VHHĐ (Kết quả trả lời của 521 phiếu điều tra tại 5 trường đại học được khảo sát)

TT Ý kiến của sinh viên

Tiêu chí đánh giá VHHĐ Số ý kiến Tỷ lệ% Xếp thứ

1 Trang phục sạch sẽ, kín đáo, lịch sự, phù hợp của giảng viên 421

84,6 6

2 Trang phục sạch sẽ, kín đáo, lịch sự, phù hợp của giảng viên, sinh viên 481

92,3 5

3 Trang phục sạch sẽ, kín đáo, lịch sự, phù hợp của giảng viên, sinh viên, CBCNV 517

99,2 1

4 Ngôn ngữ có văn hóa, đúng mực của giảng viên 353

67,8 9

5 Ngôn ngữ có văn hóa, đúng mực của giảng viên, sinh viên, CBCNV 504

96,8 3

6 Giao tiếp có văn hóa, đúng mực của giảng viên 359

69 8

7 Giao tiếp có VH, đúng mực của giảng viên, sinh viên, CBCNV 485

93,2 4

8 Ra, vào lớp đúng giờ của giảng viên, sinh viên 180

34,6 11

9 Không khí dân chủ trong trường học 302

58 10

10 Giữ vệ sinh chung, bảo vệ của công 374

71,8 7

11 Thực hiện đúng nội quy, quy chế của trường 508

97,5 2

12 Có tình yêu đẹp 168 32,2 12

Bảng 2 : Ý kiến về vai trò của VHHĐ trong việc phát triển nhân cách cho sinh viên

TT Kết quả

Các quan niệm khác nhau

Kết quả trả lời (521)

Số ý kiến Tỷ lệ %

1 Là yếu tố quyết định nhất 8 1,6

2 Là yếu tố quyết định 17 3,3

3 Là yếu tố góp phần 454 87,1

4 Không có vai trò gì 27 5

5 Không trả lời 15 3

Bảng 3 : Phương pháp sử dụng chủ yếu trong giáo dục VHHĐ tại trường các trường ĐH đào tạo kỹ thuật ở Hà Nội

TT Kết quả

Các phương pháp

Nhiều nhất

(%) Không trả lời (%) Ít sử dụng (%)

Xếp

thứ

1 Đưa vào nội dung học chính trị đầu khóa 341

65,5%

157

30,1%

23

4,4% 2

2 Thông qua giảng dạy, bồi dưỡng tập trung theo lớp 227

43,6%

105

20,2%

189

36,2%

5

3 giảng viên, CBCNV nêu gương tốt cho sinh viên 466

89,5%

13

2,4%

42

8,06% 1

4 Thông qua nghiên cứu tài liệu 58

11,1%

123

23,6%

340

65,3% 6

5 Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng 277

53,2%

112

21,5%

132

25,3% 4

Bảng 4a: Hiệu quả giáo dục VHHĐ của tuần lễ sinh hoạt chính trị đầu khóa

TT Kết quả

Đánh giá của sinh viên

Kết quả trả lời (521)

Số ý kiến Tỷ lệ %

1 Rất tốt 14 2,7

2 Tốt 282 54

3 Bình thường 59 11,3

4 Không trả lời 166 32

Bảng 4b: Hiệu quả giáo dục VHHĐ của tuần lễ sinh hoạt chính trị đầu khóa

TT Kết quả

Mức độ tập trung học tập

Kết quả trả lời (521)

Số ý kiến Tỷ lệ %

1 Rất nhớ nội dung 8 1,6

2 Nhớ 50% nội dung 430 82,5

3 Không nhớ 42 8,1

4 Không trả lời 41 7,8

Bảng 5: Mức độ hứng thú của sinh viên khi học các môn lý luận chính trị, KHXHNV, nội quy, quy chế của trường ĐH

TT Kết quả

Mức độ hứng thú

Kết quả trả lời (521)

Số ý kiến Tỷ lệ %

1 Có hứng thú 155 29,8

2 Bình thường 286 54,9

3 Không hứng thú 76 14,5

4 Không trả lời 4 0,8

Bảng 6: Sự hấp dẫn của các buổi sinh hoạt chi đoàn

TT Kết quả

Ý kiến khác nhau

Kết quả trả lời (521)

Số ý kiến Tỷ lệ %

1 Rất thích 25 4,8

2 Thích 51 9,8

3 Bình thường 331 63,6

4 Không thích 91 17,6

5 Không trả lời 21 4,1

Bảng 7: Theo bạn các phong trào sau đây ở mức quan trọng như thế nào? (Mức độ: A : Rất quan trọng; B: Quan trọng; C: Không quan trọng)

Tên trường

Nội dung

ĐH Thành Đô80 ĐHCNHN150 ĐH GTVT120 ĐH Kiến trúc80 ĐHXD91 Tổng

SP % SP % SP % SP % SP % SP %

Phong trào thi đua

học tập rèn luyện

A 66 82.7 107 71.4 91 75.8 62 77,5 60 65.8 386 74.1

B 11 13.7 43 28.6 28 23.3 18 22,5 29 31.7 129 24,7

C 3 3.6 0 0 1 0.8 0 0 2 2.5 6 1.2

Phong trào xây dựng

nếp sống văn hóa

học đường

A 57 71.4 83 55.4 67 55.6 34 42,5 38 42 279 53.5

B 23 28.6 66 43.9 52 43.5 43 54.1 48 52,7 232 44.5

C 0 0 1 0.7 1 0.9 3 3.4 5 5,3 10 2

Phong trào xây dựng

các nội quy, quy định

A 26 32.8 51 34 40 33.3 22 27,5 23 24.8 162 31,1

B 50 62.8 94 62.6 76 63.4 54 67.5 59 65.2 333 63,9

C 4 4.4 5 3.4 4 3.3 4 5 9 10 26 5

Phong trào đền ơn

đáp nghĩa, uống

nước nhớ nguồn

A 14 17,5 44 29.3 31 25,9 18 22.5 23 25.2 130 25

B 66 82,5 98 65.4 85 70,8 56 70 59 64.8 364 69.8

C 0 0 8 5,3 4 3,3 6 7.5 9 10 27 5.2

Phong trào thanh

niên, sinh viên tự

quản

A 24 30 44 29,4 26 21.3 30 37.5 26 28.3 150 28.8

B 53 66,2 95 63.3 86 72 47 58,7 57 63.2 338 64.9

C 3 3.8 11 7.3 8 6.7 3 3.8 8 8.5 33 6.3

Phong trào văn nghệ,

TDTT

A 17 21.3 34 22.7 27 22.2 17 21.3 21 23 116 22,3

B 61 76.2 106 70.6 82 68.4 62 77,5 58 63.8 369 70.8

C 2 2.5 10 6.7 11 9.4 1 1,2 12 13.2 36 6.9

Phong trào các

câu lạc bộ

A 16 20 39 26 23 19.1 12 15 16 17.6 106 20,3

B 61 76.2 90 60 77 64,2 38 47.5 51 56 317 60.8

C 3 3.8 21 14 20 16.7 30 37.5 24 26.4 98 18,8

Bảng 8: Bạn cho biết sự quan tâm của các tổ chức nhà trường đối với hoạt động ngoại khóa? (Mức độ: A :Thường xuyên; B: thỉnh thoảng; C: Không bao giờ

Tên trường

Nội dung

ĐH Thành Đô ĐHCNHN ĐH GTVT ĐH Kiến trúc ĐHXD Tổng

SP % SP % SP % SP % SP % SP %

Đảng bộ,

chi bộ

A 27 33,7 51 34 35 29,2 26 32,5 36 39,6 175 33,6

B 43 53.8 79 52,7 66 55 40 50 49 53,8 277 53,2

C 10 12,5 20 13,3 19 15,8 14 17,5 6 6,6 69 13,2

Lãnh đạo

nhà trường

A 31 38,7 56 37,3 50 41,6 35 43,7 40 44 212 40,7

B 48 60 78 52 62 51,7 42 52,5 48 52,7 278 53,3

C 1 1,3 16 10,7 8 6,7 3 3,8 3 3,3 31 6

Đoàn

thanh niên

A 51 63,7 83 55,3 61 50,8 53 66,3 60 65,3 308 59,1

B 27 33,8 66 44 55 45,8 22 27,5 28 30,5 198 38

C 2 2,5 1 0,7 4 3,4 5 6,2 3 3,2 15 2,9

Hội sinh

viên

A 39 48,8 75 50 48 40 38 47,5 52 57,1 252 48,4

B 31 38,8 65 43,3 59 49,2 30 37.5 35 38,5 220 42,2

C 10 12,6 10 6,7 13 10,8 12 15 4 4,4 49 9,4

Bộ phận

quản lý

sinh viên

A 16 20 44 29,3 52 43,4 42 52,5 39 42,9 193 37

B 45 56,2 66 44 55 45,8 29 36,2 45 49,4 240 46,1

C 19 23,8 40 26,7 13 10,8 9 11,3 7 7,7 88 16,9

Khoa (bộ

môn)

A 17 21,3 56 37,3 44 36,7 46 57,6 49 53,9 212 46,7

B 51 63,7 81 54 66 55 29 36,2 39 42,8 266 51,1

C 12 15 13 8,7 10 8,3 5 6,2 3 3,3 43 8,2

Bảng 9: Sự tích cực tham gia các hoạt động phong trào, ngoại khóa do trường, đoàn thanh niên, hội sinh viên nhà trường

tổ chức cho sinh viên

TT Kết quả

Ý kiến khác nhau

Kết quả trả lời (521)

Số ý kiến Tỷ lệ %

1 Rất tích cực 59 11,3

2 Bình thường 307 58,9

3 Không thích 134 25,8

4 Không trả lời 21 4

Bảng 10: Trong quá trình học tập tại trường đại học, bạn đã tham gia vào hoạt động ngoại khóa nào? (Mức độ: A :Thường xuyên; B: thỉnh thoảng; C: Không bao giờ

Tên trường

Nội dung

ĐH Thành Đô ĐHCNHN ĐH GTVT ĐH Kiến trúc ĐHXD Tổng

SP % SP % SP % SP % SP % SP %

Hội diễn văn

nghệ

A 17 21.25 17 11.3 10 8.3 11 13.75 17 18.7 72 13.8

B 42 52.5 81 54 63 52.5 50 62.5 51 56 287 55

C 21 26.25 52 34.7 47 40 19 23.75 23 25.3 162 31.1

Đọc sách báo

tại thư viện

A 35 43.75 86 57.3 45 37.5 25 31.25 39 42.9 230 44.1

B 45 56.25 52 34.7 66 55 42 52.5 44 48.3 249 47.8

C 0 0 12 8 9 7.5 13 16.25 8 8.8 42 8.1

Tham quan du

lịch

A 4 5 6 4 8 6.7 16 20 7 7.7 41 7,9

B 35 43.75 66 44 57 47.5 58 72.5 61 67 277 53.1

C 41 51.25 78 52 55 45.8 6 7.5 23 25.3 203 39

Sinh hoạt hội

viên các câu lạc

bộ

A 9 11.25 20 13.4 5 4.2 9 11.25 8 8,8 51 9.8

B 34 42.5 50 33.3 77 64.1 18 22.5 38 41.75 217 41.6

C 37 46.25 80 53.3 38 31.7 53 66.25 45 49.5 253 48.6

Xem ti vi, nghe

nhạc (Nếu ở

KTX)

A 16 20 68 45.3 22 18.4 6 7.5 4 4.4 116 22.3

B 54 67.5 63 42 82 68.3 48 60 61 67 308 59.1

C 10 12.5 19 12.7 16 13.3 26 32.5 26 28.6 97 18.6

Bảng 11a: Theo bạn, quản lý sinh viên ở trường bạn đang học xếp vào mức độ nào?

(Mức độ: A : Gò bó; B: Đúng mực; C: Lỏng lẻo)

Tên trường

Nội dung

ĐH Thành Đô ĐHCNHN ĐH GTVT ĐH Kiến trúc ĐHXD Tổng

SP % SP % SP % SP % SP % SP %

Sinh viên nội

trú

A 7 8,8 90 60 23 19.2 10 12.5 21 23,1 151 26

B 49 61,2 54 36 84 70 57 71.2 59 64.9 303 62

C 24 30 6 4 13 10.8 13 16.3 11 12 67 12

Sinh viên

ngoại trú

A 0 0 14 9.3 4 3.4 1 1.3 3 3.3 22 4,2

B 27 33.7 46 30.7 62 51.6 30 37.5 56 61.5 221 42.4

C 53 66.3 90 60 54 45 49 61.2 32 35.2 278 53,4

Bảng 12: Theo bạn quan hệ giữa sinh viên với sinh viên ở trường bạn đang học như thế nào?

(Mức độ: A : Đúng; B: Không đúng)

Tên trường

Nội dung

ĐH Thành Đô ĐHCNHN ĐH GTVT ĐH Kiến trúc ĐHXD Tổng

SP % SP % SP % SP % SP % SP %

Đoàn kết thương

yêu nhau

A 69 86.25 119 79,3 103 85.8 71 88,75 71 78.2 433 83,1

B 11 13.75 31 20,6 17 14.2 9 11 20 21.9 88 16,9

Giúp đỡ nhau trong

học tập

A 74 92.5 123 82 104 86,6 58 72.5 76 83.5 435 83.5

B 6 7.5 27 18 16 13,4 22 27.5 15 16.5 86 16.5

Trung thực thẳng

thắn

A 70 87.5 130 86.6 109 90.8 61 76.2 76 83.5 446 85.6

B 10 12.5 20 13.3 25 9 19 23.8 15 16.5 75 14.4

Vui vẻ, cởi mở A 79 98.75 131 87.3 114 95 66 82.5 80 88 470 90.2

B 1 1.25 19 12.7 6 5 14 17.5 11 12 51 9.8

ít quan tâm đến

nhau

A 21 26.2 35 23.3 60 50 12 15 40 44 168 32.25

B 59 73.8 115 76.7 60 50 68 85 51 56 353 67.75

Bảng 13: Những nội dung nếu ra dưới đây theo bạn đúng hay không đúng?

(Mức độ: A :Đúng; B: Không đúng) R

Tên trường

Nội dung

ĐH Thành Đô ĐHCNHN ĐH GTVT ĐH Kiến trúc ĐHXD Tổng

SP % SP % SP % SP % SP % SP %

Thầy cô luôn là tấm

gương sáng về nhân

cách, đạo đức

A 64 80 101 66.3 94 78,3 74 92,5 69 76 402 77.1

B 16 20 49 32.7 26 21.7 6 7.5 22 24 119 22,8

Thầy cô luôn là tấm

gương sáng về kiến

thức chuyên môn

A 74 92.5 129 86 108 90 71 88.75 82 90,1 464 89

B 6 7.5 21 14 12 10 9 11.25 9 9,9 57 10.9

Giữa thầy cô và sinh

viên luôn là mối quan

hệ trong sáng

A 73 91.25 104 69.3 106 88.3 74 92.5 79 86.8 436 83.7

B 7 9.75 46 30.7 14 11.7 6 7,5 12 13.2 85 16.3

Bạn luôn kính trọng lễ

phép với giảng viên

A 75 93.75 137 91.3 119 99.2 76 95 87 95.6 494 94.8

B 5 6.25 13 8.7 1 0.8 4 5 4 4.4 27 5.2

Bảng 14 : Trong quá trình học tập tại trường ban có :

TT Kết quả

Ý kiến khác nhau Có (%)

Không

trả lời (%)

Không

(%) Xếp thứ

1 Nhận điện thoại trong giờ học 382

73,3%

38

7,2%

101

19,4%

1

2 Hút thuốc lá trong lớp học 38

7,3%

105

20,2%

378

72,5%

6

3 Có khó chịu khi nhìn thấy bạn khác ăn mặc hở hang, quái dị

lên lớp học

332

63,7%

92

17,7%

97

18,6%

4

4 Nói bậy, chửi thề 340

65,3%

118

22,6%

63

12,1%

3

5 Bỏ tiết học 244

46,8%

143

27,4%

134

25,8%

5

6 Vi phạm quy chế thi 365

70%

96

18,4%

60

11,6%

2

Bảng 15: Tác động của VHHĐ trong việc khắc phục các hiện tượng tiêu cực trong trường học

TT Kết quả

Ý kiến khác nhau không đồng tình (%) Đồng tình (%) Xếp thứ

1 Tự do, vô kỷ luật trong học tập, nghiên cứu khoa học của sinh viên 4

0,8%

517

99,2% 1

2 Thái độ vô lễ với thầy, cô giáo 42

8

479

92% 5

3 Nói tục, chửi thề trong giao tiếp với bạn 78

15%

443

85% 6

4 Lên giảng đường, đi thực hành xưởng với trang phục không phù hợp 13

2,5%

508

97,5% 2

5 Chây lười trong sinh hoạt và học tập 21

4%

500

96% 3

6 Gây rối, mất trật tự trong trường học 168

32,3%

353

67,7% 8

7 Thờ ơ với các hoạt động phong trào của khoa, trường 38

7,3%

483

92,7% 4

8 Những hành vi lệch chuẩn khác 147

28,3%

374

71,7% 7

Bảng 16: Theo bạn, nhà trường đã thực hiện những biện pháp nào để phối hợp với gia đình của sinh viên? Đánh dấu X vào ô phù hợp với ý kiến của bạn.

Tên trường

Nội dung

ĐH Thành Đô 80 ĐHCNHN150 ĐH GTVT120 ĐH Kiến trúc80 ĐHXD91 Tổng

SP % SP % SP % SP % SP % SP %

Thông báo kết quả học

tập hàng năm của sinh

viên cho gia đình

Có 76 95.3 104 69.3 48 40.2 62 77.8 31 34.3 321 61,6

Không 4 4.7 46 30.7 72 59.8 18 22.2 60 65.7

200 38,4

Thông báo kết quả rèn

luyện tu dưỡng hàng

năm cho gia đình

Có 55 68.5 101 67.3 36 30 66 82 37 41 295 49

Không 25 31.5 49 32.7 84 70 14 18 54 59 226 51

Thông báo nội quy của

nhà trường và những

quy định về quản lý sinh

viên cho gia đình

Có 18 22.8 32 21.3 43 35,6 55 68.4 23 25.4 171 32.8

Không 62 77.2 118 78.7 77 64.4 25 31.6 68 74.6 350 67.2

Thông báo về các khoản

chi phí đóng góp bắt

buộc của sinh viên cho

gia đình

Có 32 40 84 56 110 92 68 85.5 60 65.6 354 67,9

Không 48 60 66 44 10 8 12 14.5 31 34.4 167 32,1

Thông báo cho gia đình

những sinh viên được

khen thưởng và bị kỷ

luật

Có 31 38.5 63 42 58 48.3 63 78.3 46 50.8 261 50

Không 49 61.5 87 58 62 51.7 17 21.7 45 49.2 260 50

Thông báo cho gia đình

biết lịch học, lịch đi thực

tập, thực tế, quy định,

nghỉ tết, nghỉ hè

Có 11 14.3 50 33.3 44 36.6 40 50 21 23.4 166 31,9

Không 69 85.7 100 66.7 76 63.4 40 50 70 76.6 355 68,1

Bảng 17: Đánh giá về hiệu quả GDVHHĐ cho sinh viên ở trường bạn hiện nay

TT Kết quả

Ý kiến khác nhau

Kết quả trả lời (521)

Số ý kiến Tỷ lệ %

1 Rất cao 34 6,5

2 Cao 64 12,3

3 Bình thường 382 73,3

4 Không trả lời 41 7,9

Bảng 18: Ý thức tự giáo dục VHHĐ của sinh viên hiện nay

TT Kết quả

Ý kiến khác nhau

Kết quả trả lời (521)

Số ý kiến Tỷ lệ %

1 Rất cao 4 0,8

2 Cao 51 9,8

3 Chưa cao 441 84,6

4 Không trả lời 25 4,8

Bảng 19 : Mục đích, động cơ bạn chọn học ngành kỹ thuật?

TT

Ý kiến của sinh viên

Mục đích, động cơ học các ngành kỹ thuật (521)

Số ý kiến Tỷ lệ% Xếp

thứ

1 Để thỏa mãn đam mê 69 13,2 7

2 Để có việc làm ngay sau khi ra trường 352 67,5 1

3 Do định hướng của gia đình 259 49,7 5

4 Học ngành kỹ thuật để có thu nhập cao 135 26 6

5 Có điều kiện học tập tốt hơn 306 58,7 2

6 Để tiếp cận công nghệ, kỹ thuật mới 368 51,5 4

7 Có nhu cầu học thêm ngoại ngữ, tin học 292 56 3

Bảng 20: Hệ giá trị của trường đại học (124)

TT Kết quả

Nội dung Có (%) Không trả lời (%) Không (%)

Xếp

thứ

1 Sáng tạo 91

73,3%

9

7,2%

24

19,4% 1

2 Khuôn mẫu 9

7,3%

25

20,2%

90

2,5% 5

3 Hội nhập 79

63,7%

22

17,7%

23

18,5% 3

4 Tinh thần dân chủ 81

65,3%

28

22,6%

15

12% 2

5 Kỷ cương, trách nhiệm 58

46,7%

34

27,4%

32

25,8% 4

6 Tình thương 14

11,3%

23

18,5%

87

70,2% 6

DANH SÁCH CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ HỌC VIỆN

TẠI HÀ NỘI

Các trường đại học tại Hà Nội

STT Tên

chính thức Chuyên ngành

Năm thành

lập

Số

sinh

viên

Địa bàn Loại

hình

1

Trường Đại học

Bách khoa Hà

Nội

Kỹ thuật 1956

Quận Hai

Bà Trưng

Công

lập

2 Trường Đại học

Công đoàn

Đa ngành, quản

trị - kinh tế -

dịch vụ

15/5/1946

Quận

Đống Đa

Công

lập

3

Trường Đại học

Công nghệ, Đại

học Quốc gia Hà

Nội

Công nghệ, kỹ

thuật 1995

Quận Cầu

Giấy

Công

lập

4

Trường Đại học

Công nghệ Giao

thông Vận tải

Đa ngành,Giao

thông vận tải 29/11/1945

Quận

Thanh

Xuân

Công

lập

5

Trường Đại học

Công nghệ Dệt

may Hà Nội

Dệt may 04/06/2015

Huyện

Gia Lâm

Công

lập

6

Trường Đại học

Công nghệ và

Quản lý Hữu

nghị

Đa ngành

Quận

Đống Đa

thục

7

Trường Đại học

Công nghiệp Hà

Nội

Đa ngành, Kỹ

thuật 10/8/1898

[7]

Quận Bắc

Từ

Liêm[8]

Công

lập[7]

8

Trường Đại học

Công nghiệp

Việt Hung

Kỹ thuật và

dạy nghề 25/11/1977

Thị xã

Sơn Tây

Công

lập

9 Trường Đại học

Dược Hà Nội

Dược 1902

Quận

Hoàn

Kiếm

Công

lập

10 Trường Đại học

Đại Nam

Đa ngành 2007

Quận Hà

Đông

thục

11 Trường Đại học

Điện lực

Kỹ thuật điện 10/8/1898

Quận Bắc

Từ Liêm

Công

lập

STT Tên

chính thức Chuyên ngành

Năm thành

lập

Số

sinh

viên

Địa bàn Loại

hình

12 Trường Đại học

Đông Đô

Đa ngành 1994

Quận Cầu

Giấy

thục

13 Trường Đại học

FPT

Đa

ngành, QTKD

và tài

chínhngân hàng

2006

Quận Cầu

Giấy

thục

14

Trường Đại học

Giao thông Vận

tải

Giao thông

15/11/1945[1

5]

Quận

Đống

Đa[14]

Công

lập[14]

15

Trường Đại học

Giáo dục, Đại

học Quốc gia Hà

Nội

Giáo dục 2009

Quận Cầu

Giấy

Công

lập

16 Trường Đại học

Hà Nội

Đa ngành[16]

1959[17]

Quận

Thanh

Xuân[18]

Công

lập[19]

17 Trường Đại học

Hòa Bình

Đa ngành[20]

2008[21]

Quận

Nam Từ

Liêm[22]

thục[23]

18

Trường Đại học

Khoa học Tự

nhiên, Đại học

Quốc gia Hà Nội

Khoa học tự

nhiên[24]

1993

Quận

Thanh

Xuân[25]

Công

lập[26]

19

Trường Đại học

Khoa học và

Công nghệ Hà

Nội

Khoa học, công

nghệ 2009

Quận Cầu

Giấy

Công

lập

20

Trường Đại học

Khoa học Xã hội

và Nhân văn,

Đại học Quốc

gia Hà Nội

Khoa học xã

hội[27]

1995[27]

Quận

Thanh

Xuân[28]

Công

lập[27]

STT Tên

chính thức Chuyên ngành

Năm thành

lập

Số

sinh

viên

Địa bàn Loại

hình

21

Trường Đại học

Kiến trúc Hà

Nội

Kiến trúc[29]

17/9/1969[29]

Quận

Thanh

Xuân[29]

Công

lập[29]

22

Trường Đại học

Kinh doanh và

Công nghệ Hà

Nội

Kinh

doanh, công

nghệ[29]

1996[30]

Quận Hai

Trưng[31]

thục[32]

23

Trường Đại học

Kinh tế, Đại học

Quốc gia Hà Nội

Kinh tế, kinh

doanh, quản

trị[33]

1974[33]

Quận Cầu

Giấy[33]

Công

lập[33]

24

Trường Đại học

Kinh tế - Kỹ

thuật Công

nghiệp

Kinh tế - Kỹ

thuật[34]

1956

[35]

Quận Hai

Bà Trưng

Công

lập[35]

25

Trường Đại học

Kinh tế Quốc

dân

Kinh tế 25/1/1956[36]

Quận Hai

Trưng[36]

Công

lập[36]

26

Trường Đại học

Kỹ thuật Lê Quý

Đôn

Kỹ thuật 1966

Quận Cầu

Giấy

Quân

sự

27

Trường Đại học

Lao động - Xã

hội

Kinh tế, lao

động, xã hội 2005

Quận Cầu

Giấy[37]

Công

lập

28

Trường Đại học

Lâm nghiệp Việt

Nam

Đa ngành[38]

1964[39]

Huyện

Chương

Mỹ[39]

Công

lập[39]

29 Trường Đại học

Luật Hà Nội

Pháp luật 1979

Quận

Đống Đa

Công

lập

30 Trường Đại học

Mỏ - Địa chất

Đa ngành 1966[42]

Quận Bắc

Từ

Liêm[43]

Công

lập[42]

31

Trường Đại học

Mỹ thuật Công

nghiệp Hà Nội

Mỹ thuật

Quận

Đống Đa

Công

lập

STT Tên

chính thức Chuyên ngành

Năm thành

lập

Số

sinh

viên

Địa bàn Loại

hình

32

Trường Đại học

Mỹ thuật Việt

Nam

Mỹ thuật 27/10/1924

Quận Hai

Bà Trưng

Công

lập

33

Trường Đại học

Ngoại ngữ, Đại

học Quốc gia Hà

Nội

Ngoại ngữ 1955

Quận Cầu

Giấy

Công

lập

34 Trường Đại học

Ngoại thương

Kinh tế, thương

mại 15/10/1960

Quận

Đống Đa

Công

lập

35 Trường Đại học

Nguyễn Trãi

Đa ngành 05/02/2008

Quận Ba

Đình

thục

36 Trường Đại học

Nội vụ Hà Nội

Nội vụ 2011

Quận Tây

Hồ

Công

lập

37 Trường Đại học

Phương Đông

Đa ngành 1994

Quận Cầu

Giấy

thục

38 Trường Đại học

Quốc tế Bắc Hà

Kinh tế, xây

dựng, kĩ thuật 2007

Quận

Thanh

Xuân

thục

39 Trường Đại học

Răng Hàm Mặt

Y khoa răng

hàm mặt 15/10/2002

Quận

Hoàn

Kiếm

Công

lập

40

Trường Đại học

Sân khấu - Điện

ảnh Hà Nội

Nghệ thuật 17/12/1980

Quận Cầu

Giấy

Công

lập

41 Trường Đại học

Sư phạm Hà Nội

Sư phạm 11/10/1951

Quận Cầu

Giấy

Công

lập

42

Trường Đại học

Sư phạm Nghệ

thuật Trung

ương

Nghệ thuật 1970

Quận

Thanh

Xuân

Công

lập

43

Trường Đại học

Sư phạm Thể dục

Thể thao Hà Nội

Thể dục thể

thao 8/1961

Huyện

Chương

Mỹ

Công

lập

STT Tên

chính thức Chuyên ngành

Năm thành

lập

Số

sinh

viên

Địa bàn Loại

hình

44

Trường Đại học

Tài chính Ngân

hàng Hà Nội

Tài chính, ngân

hàng 21/12/2010

Quận Bắc

Từ Liêm

thục

45

Trường Đại học

Tài nguyên và

Môi trường Hà

Nội

Tài

nguyên, môi

trường

23/3/2010

Quận Bắc

Từ Liêm

Công

lập

46 Trường Đại học

Thành Đô

Đa ngành 27/5/2009

Huyện

Hoài Đức

thục

47 Trường Đại học

Thành Tây

Đa ngành 10/10/2007

Quận Hà

Đông

thục

48 Trường Đại học

Thăng Long

Đa ngành[44]

1988[45]

Quận

Hoàng

Mai[45]

thục[45]

49 Trường Đại học

Thủ đô Hà Nội

Đa ngành 6/1/1959

Quận Cầu

Giấy

Công

lập

50 Trường Đại học

Thủy lợi

Kỹ thuật,Thủy

lợi 1959

Quận

Đống Đa

Công

lập

51 Trường Đại học

Thương mại

Thương mại 1960

Quận Cầu

Giấy

Công

lập

52 Trường Đại học

Văn hóa Hà Nội

Văn hóa 26/3/1959

Quận

Đống Đa

Công

lập

53 Trường Đại học

Xây dựng

Đa ngành ,Xây

dựng 1966

Quận Hai

Bà Trưng

Công

lập

54 Trường Đại học

Y Hà Nội

Y khoa 1902

Quận

Đống Đa

Công

lập

55 Trường Đại học

Y tế Công cộng

Y khoa 26/4/2001

Quận Ba

Đình

Cơ sở mới

hoạt động

từ 2016:

Quận Bắc

Từ Liêm

Công

lập

Các học viện tại Hà Nội

STT Tên chính

thức Chuyên ngành

Năm

thành lập Địa bàn Loại hình

1

Học viện

Âm nhạc

Quốc gia

Việt Nam

Âm nhạc 1956 Quận Đống Đa Công lập

2

Học viện

Thiết kế và

Thời trang

London

Mỹ thuật ứng dụng 2004 Quận Tây Hồ Tư thục

3

Học viện

Báo chí và

Tuyên

truyền

Văn hoá, báo

chí và truyền thông 16/1/1962

Quận Cầu

Giấy Công lập

4 Học viện

Biên phòng

Biên phòng 20/5/1963 Thị xã Sơn

Tây

Đại học

Quân sự

5

Học viện

Công nghệ

Thông tin

Bách Khoa

CNTT 2004 Quận Hai Bà

Trưng

Học

việnCNTT

6

Học viện

Công nghệ

Bưu chính

Viễn thông

Kĩ thuật, công nghệ 1997 Quận Hà Đông Công lập

7 Học viện

Chính trị

Chính trị 25/10/1951 Quận Hà Đông Công lập

STT Tên chính

thức Chuyên ngành

Năm

thành lập Địa bàn Loại hình

8

Học viện

Chính trị -

Hành chính

Quốc gia

Hồ Chí

Minh

Chính trị - Hành

chính 1945

Quận Cầu

Giấy Công lập

9 Học viện

Hành chính

Khoa học hành

chính 29/5/1959 Quận Đống Đa Công lập

10

Học viện

Kỹ thuật

Mật mã

Mật mã 17/02/1995 Huyện Thanh

Trì Công lập

11 Học viện

Ngân hàng

Kinh tế ngân hàng 1961 Quận Đống Đa Công lập

12 Học viện

Ngoại giao

Quan hệ quốc

tế, luật QT, kinh

tế QT, ngoại

ngữ QHQT

17/6/1959 Quận Đống Đa Công lập

13

Học viện

Nông

nghiệp Việt

Nam

Đa ngành 1956 Huyện Gia

Lâm Công lập

14

Học viện

Phụ nữ

Việt Nam

Đa ngành 1960 Quận Đống Đa Công lập

15

Học viện

Quản lý

Giáo dục

Quản lý giáo dục 2006 Quận Thanh

Xuân Công lập

16

Học viện

Tư pháp

Việt Nam

Tư pháp 2004 Quận Cầu

Giấy Công lập

17 Học viện

Tài chính

Tài chính 1963 Quận Hoàn

Kiếm (trụ sở)

và quận Bắc

Công lập

STT Tên chính

thức Chuyên ngành

Năm

thành lập Địa bàn Loại hình

Từ Liêm (Cơ

sở đào tạo

chính quy)

18 Học viện

Quân y

Y khoa 1949 Quận Hà Đông Đại học

quân sự

19

Học viện Y

dược học

cổ truyền

Việt Nam

Y khoa 02/02/2005 Quận Hà Đông Công lập

20

Học viện

Chính sách

và Phát

triển

Chính sách, kế

hoạch, đầu tư 04/01/2008

Quận Cầu

Giấy Công lập

21

Học viện

Thanh thiếu

niên Việt

Nam

Thanh thiếu

niên, đoàn 1995 Quận Đống Đa Công lập

22

Viện Đại

học Mở Hà

Nội

Đa ngành 1993 Quận Hai Bà

trưng Công lập

23

Học viện

An ninh

Nhân dân

An ninh 25/6/1946 Quận Hà Đông Đại học

Công an

24 Học viện

Cảnh sát Cảnh sát 15/5/1968

Quận Bắc Từ

Liêm

Đại học

Công an

STT Tên chính

thức Chuyên ngành

Năm

thành lập Địa bàn Loại hình

Nhân dân

25

Học viện

Phòng

không -

Không

quân

Không quân 16/07/1964 Thị xã Sơn

Tây

Đại học

Quân sự

26

Trường Sĩ

quan Đặc

công

Đặc công 20/7/1967 Huyện Chương

Mỹ

Đại học

Quân sự

27

Trường Sĩ

quan Pháo

binh

Pháo binh 18/2/1957 Thị xã Sơn

Tây

Đại học

Quân sự

28

Trường Sĩ

quan Phòng

hóa

Phòng hóa 21/9/1976 Thị xã Sơn

Tây

Đại học

Quân sự

29

Trường Sĩ

quan Lục

quân 1

Lục quân 15/4/1945 Thị xã Sơn

Tây

Đại học

Quân sự