HiÖn nay c níc cã 17 tæng c«ng ty 91 víi 450 thµnh viªn, 71 ... · Web viewTitle HiÖn nay...
Transcript of HiÖn nay c níc cã 17 tæng c«ng ty 91 víi 450 thµnh viªn, 71 ... · Web viewTitle HiÖn nay...
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNGKHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ
TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: SỰ CẠNH TRANH CỦA CÁC TỔ CHỨC ĐỘC QUYỀN TẠI VIỆT NAM
Giảng viên hướng dẫn: Th.S Quế AnhSinh viên thực hiện: Lê Anh TúLớp: Anh 3 – QTKD – K53Mã số sinh viên: 1412210228
1
Hà Nội, tháng 11 năm 2014
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................5CẠNH TRANH VÀ ĐỘC QUYỀN TRONG NỀN KINH TẾ...................6THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM..........................................................6
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ CẠNH TRANH........................61. Sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan....62. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường..........................73. Những điều kiện tạo nên cạnh tranh và độc quyền trong kinh doanh.....9II. THỰC TRẠNG CẠNH TRANH CỦA CÁC TỔ CHỨC ĐỘC
QUYỀN Ở VIỆT NAM............................................................111. Tình trạng cạnh tranh bất bình đẳng.......................................122. Hành vi cạnh tranh của các doanh nghiệp................................123. Độc quyền của một số tổng công ty........................................134. Độc quyền tự nhiên trong các ngành kết cấu hạ tầng:..................13III. CÁC GIẢI PHÁP DUY TRÌ CẠNH TRANH VÀ CHỐNG ĐỘC
QUYỀN................................................................................14KẾT LUẬN..............................................................................16TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................17
3
MỞ ĐẦU
Cạnh tranh là một trong những qui luật của nền kinh tế thị trường. Khi
thực hiện chuyển đổi nền kinh tế cũ sang nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa Việt Nam phải chấp nhận những qui luật của nền kinh tế thị
trường trong đó có qui luật cạnh tranh. Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu
to lớn trong quá trình phát triển kinh tế. Nhưng bên cạnh những thành tựu đó
nền kinh tế nước ta đang đối mặt với những khó khăn thách thức to lớn. Một
trong những khó khăn thách thức đó là khả năng cạnh tranh của nền kinh tế
nước ta còn yếu kém.
Độc quyền là sự chi phối thị trường của một hay nhiều công ty, hoặc
một tổ chức kinh tế nào đó về một loại sản phẩm trên một đoạn thị trường
nhất định. Nguyên nhân dẫn tới độc quyền thường do cạnh tranh không lành
mạnh đem lại. Độc quyền sẽ làm hạn chế rất nhiều đối với cạnh tranh và phát
triển kinh tế.
Để có một môi trường cạnh tranh lành mạnh và kiểm soát độc quyền có
hiệu quả đang là vấn đề quan trọng được đặt ra với thực trạng hiện nay của
nước ta.
Thực trạng cạnh tranh của các tổ chức độc quyền ở nước ta hiện nay
như thế nào? Và nước ta cần làm gì để duy trì cạnh tranh và kiểm soát độc
quyền? Chúng ta sẽ tìm hiểu cụ thể ở dưới đây.
4
CẠNH TRANH VÀ ĐỘC QUYỀN TRONG NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ CẠNH TRANH
1. Sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan
Thị trường là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hoá bao
gồm các yếu tố đầu vào và các yếu tố đầu ra của quá trình sản xuất. Trên thị
trường các nhà sản xuất, người tiêu dùng, những người hoạt động buôn bán
kinh doanh, quan hệ với nhau thông qua hoạt động mua bán trao đổi hàng
hoá. Như vậy thực chất thị trường là chỉ các hoạt động kinh tế được phản ánh
thông qua trao đổi, lưu thông hàng hoá và mối quan hệ về kinh tế giữa người
với người.
Hình thức đầu tiên của nền kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá. Kinh
tế giờ là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó sản phẩm sản xuất ra để
trao đổi và buôn bán trên thị trường. Nền kinh tế thị trường là hình thức phát
triển cao của nền kinh tế hàng hoá, mà ở đó mọi yếu tố đầu vào và đầu ra của
quá trình sản xuất đều được quy định bởi thị trường.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp luôn muốn có
được những điều kiện thuận lợi trong quá trình sản xuất như: thuê được lao
động rẻ mà có kĩ thuật, mua được nguyên nhiên vật liệu rẻ, có thị trường các
yếu tố đầu ra tốt. Điều đó dẫn đến sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp dể
chiếm lấy, nắm giữ lấy những điều kiện thuận lợi. Sự cạnh tranh này chỉ kết
thúc khi nó được đánh dấu bởi một bên chiến thắng và một bên thất bại. Tuy
vậy cạnh tranh không bao giờ mất đi trong nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh
là sự sống còn của các doanh nghiệp. Muốn tồn tại được buộc các doanh
5
nghiệp phải nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp mình bằng cách: nâng
cao năng lực sản xuất của doanh nghiệp, giảm chi phí sản xuất để cạnh tranh
về giá cả, cải tiến khoa học kĩ thuật… Điều này sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát
triển, đồng thời cũng làm cho xã hội phát triển nhờ kinh tế phát triển, khoa
học - kĩ thuật phát triển do đòi hỏi phải nâng cao năng suất lao động của
doanh nghiệp, cải tiến khoa học - kĩ thuật.
Trong quá trình cạnh tranh các nguồn lực của xã hội sẽ được chuyển từ
nơi sản xuất kém hiệu quả đến nơi sản xuất có hiệu quả hơn. Tạo ra lợi ích xã
hội cao hơn, mọi người sẽ sử dụng những sản phẩm tốt hơn. Cạnh tranh đem
lại sự đa dạng của sản phẩm và dịch vụ. Do đó tạo ra nhiều lựa chọn hơn cho
khách hàng, cho người tiêu dùng.
Như vậy cạnh tranh là một đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường.
Cạnh tranh giúp cho sự phân bổ nguồn lực xã hội có hiệu quả, đem lại ích lợi
lớn hơn cho xã hội. Cạnh tranh có thể được xem như là quá trình tích luỹ về
lượng để từ đó thực hiện các bước nhảu thay đổi về chất. Mỗi bước nhảy thay
đổi về chất là mỗi nấc thang của xã hội, nó làm cho xã hội phát triển di lên,
tốt đẹp hơn. Vậy sự tồn tại của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là một
tất yếu khách quan.
2. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
Cạnh tranh xuất hiện cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá.
Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa những người sản xuất
kinh doanh với nhau để giành giật lấy những điều kiện có lợi về sản xuất và
tiêu thụ hàng hoá, nhằm tối đa hoá lợi nhuận của mình. Trong nền kinh tế thị
trường cạnh tranh vừa là môi trường, vừa là động lực cho sự phát triển kinh
tế. Do đó mà cạnh tranh đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường
thể hiện qua một số chức năng sau:
Thứ 1: Cạnh tranh trong nền kinh tế có 2 loại cạnh tranh: cạnh tranh
trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành với nhau.
6
Việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành là sự cạnh
tranh nhằm giành giật lấy những điều kiện có lợi cho sản xuất và tiêu thụ
hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch. Các doanh nghiệp cạnh tranh với
nhau về sản phẩm. Do đó kết quả của sự cạnh tranh này là hình thành nên giá
trị thị trường của từng loại mặt hàng.
Ngoài cạnh tranh trong nội bộ ngành còn có cạnh tranh giữa các ngành
với nhau. Là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất những mặt hàng khác
nhau. Mục đích của cạnh tranh này là tìm nơi đầu tư có lợi hơn. Các doanh
nghiệp tự do di chuyển TB của mình từ ngành này sang ngành khác. Cạnh
tranh này dẫn đến hình thành nên tỉ suất lợi nhuận bình quân, và giá trị hàng
hoá chuyển thành giá cả sản xuất.
Thứ hai: Cạnh tranh giúp phân bổ lại nguồn lực của xã hội một cách
hiệu quả nhất. Các doanh nghiệp sản xuất cùng một loại hay một số loại hàng
hoá cạnh tranh nhau về giá bán, hình thức sản phẩm, chất lượng sản phẩm
trong quá trình cạnh tranh đó doanh nghiệp nào có điều kiện sản xuất tốt, có
năng suất lao động cao hơn thì doanh nghiệp đó sẽ có lãi. Điều đó giúp cho
việc sử dụng các nguồn nguyên vật liệu của xã hội có hiệu quả hơn, đem lại
lợi ích cho xã hội cao hơn
Thứ ba: Cạnh tranh điều tiết cung, cầu hàng hoá trên thị trường, kích
thích thúc đẩy việc ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất và
tăng vốn đầu tư vào sản xuất trên thị trường, khi cung một hàng nào đó lớn
hơn cầu hàng hoá thì làm cho giá cả của hàng hoá giảm xuống, làm cho lợi
nhuận thu được của các doanh nghiệp sẽ giảm xuống. Nếu như giá cả giảm
xuống dưới mức hoặc bằng chi phí sản xuất thì doanh nghiệp đó làm ăn
không có hiệu quả và bị phá sản. Chỉ có những doanh nghiệp nào có chi phí
sản xuất giá cả thanh toán của hàng hoá thì doanh nghiệp đó mới thu được.
Điều đó buộc các doanh nghiệp muốn tồn tại được thì phải giảm chi phí sản
xuất hàng hoá, nâng cao năng suất lao động bằng cách tích cực ứng dụng đưa
khoa học công nghệ tiên tiến vào trong quá trình sản xuất.
7
Thứ tư: Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường không chỉ có cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp sản xuất với nhau mà còn có sự cạnh tranh giữa những
người lao động với nhau, để có được một nơi làm việc tốt, công việc phù hợp.
Điều đó khiến cho mọi người trong xã hội luôn luôn phải nâng cao trình độ
tay nghề của mình. Với ý nghĩa đó cạnh tranh làm cho con người ta hoàn
thiện hơn, cạnh tranh đóng góp một phần trong việc hình thành nên con người
mới trong xã hội mới thông minh, năng động và sáng tạo.
3. Những điều kiện tạo nên cạnh tranh và độc quyền trong kinh doanh
Các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá luôn muốn tự mình quyết định đến
việc sản xuất và tiêu thụ hàng hoá - dịch vụ của mình. Nhưng cạnh tranh trên
thị trường đã không cho phép họ làm như vậy. Do đó các doanh nghiệp luôn
muốn xoá bỏ cạnh tranh và độc quyền đã ra đời để đáp ứng yêu cầu của họ.
Độc quyền trong kinh doanh là việc một hay nhiều tập đoàn kinh tế với những
điều kiện kinh tế chính trị, xã hội nhất định khống chế thị trường sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm hàng hoá dịch vụ. Độc quyền thường dẫn đến xu hướng cửa
quyền, bạo lực và trong một số trường hợp nó cản trở sự phát triển của khoa
học kĩ thuật, làm chậm thâm chí lãng phí các nguồn lực xã hội. Bởi lẽ với thế
độc quyền các doanh nghiệp sản xuất không cần quan tâm đến việc cải tiến
máy móc kĩ thuật, không cần tìm cách nâng cao năng suất lao động mà vẫn
thu được lợi nhuận cao nhờ vào độc quyền mua và độc quyền bán. Do vậy, sự
phục vụ của người tiêu dùng nói riêng và cho xã hội nói chung là kém hiệu
quả hơn so với cạnh tranh tự do. Trong nhiều trường hợp độc quyền áp đặt sự
tiêu dùng làm cho xã hội. Chính do cung cách ấy mà độc quyền thường làm
cho xã hội luôn luôn ở tình trạng khan hiếm hàng hoá, sản xuất không đáp
ứng được nhu cầu ảnh hưởng đến nhịp độ tăng trưởng kinh tế.
a) Điều kiện về các yếu tố pháp lý - thể chế đối với hoạt động kinh
doanh
8
Để có sự cạnh tranh trong nền kinh tế thì cần phải hoạt động sản xuất
kinh doanh. Ngày nay trong quá trình hội nhập ngày càng cao thì các thể chế
pháp lý không chỉ do nhà nước ban hành mà nó còn được ban hành bởi các tổ
chức quốc tế hoặc do một khu vực kinh tế gồm nhiều quốc gia ban hành. Yếu
tố pháp lý thể chế nhân tố quan trọng trong hình thành nên môi trường kinh
doanh - là đất sống của hoạt động sản xuất kinh doanh. Mõi yếu tố pháp lí -
thể chế đều tác động vào một lĩnh vực nhất định trong hoạt động sản xuất
kinh doanh, nó được dùng để điều chỉnh các hành vi hoạt động sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm. Các chủ thể kinh tế muốn tham gia vào hoạt động sản xuất
kinh doanh trong lĩnh vực nào đều phải dựa vào các thể chế - pháp lí đã được
ban hành đối với lĩnh vực nào đó để tham gia hoạt động kinh tế. Như vậy sẽ
hình thành nên một môi trường kinh doanh ổn định khoa học. Mặc dù chỉ có
định hướng trong một lĩnh vực nhất định, song trong một nền kinh tế thống
nhất để tạo nên sự hoạt động đồng bộ cho guồng máy kinh tế thì các yếu tố
thể chế.
b) Điều kiện trong chỉ đạo, điều hành nền kinh tế quốc dân
Các tổ chức quốc tế, các hiệp hội cũng như nhà nước khi ra các qui định
pháp lí - thể chế đều phải dựa vào điều kiện và tình hình thực tế, điều này
đảm bảo tính sát thực của các qui định. Nhà nước dựa vào các qui định để
điều hành quản lý nền kinh tế trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Vai
trò của quản lý, chỉ đạo giám sát thực hiện các qui định pháp lí là hết sức
quan trọng, nó đảm bảo cho việc các qui định pháp lí - thể chế được thực
hiện. Do vai trò hết sức quan trọng đó mà việc quản lý kinh tế của nhà nước
đòi hỏi bộ máy quản lý nhà nước phải có đủ trình độ chuyên môn, năng lực
trong quản lý kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường với môi trường cạnh tranh
gay gắt. Việc các công ty hoặc các tổ chức độc quyền hình thành là điều dễ
dàng. Do vậy để chống độc quyền và tạo nên sự cạnh tranh thì với bộ máy
quản lý kinh tế non kém thì nhà nước sẽ không thể quản lí được nền kinh tế,
các bản qui định không thể đưa vào áp dụng trong thực tế, hoặc nếu có đưa
9
vào áp dụng được thì khó lòng mà giám sát, chỉ đạo việc thực hiện. Điều này
sẽ gây ra việc làm thất thoát, lãng phí tài sản quốc gia, tình hình kinh doanh
bất ổn định, tạo điều kiện cho các tổ chức độc quyền hình thành. Thực tế ở
Việt Nam cho thấy: trong xây dựng cơ bản việc đầu tư dàn trải không có
trọng điểm gây lãng phí vốn đầu tư. Trong các dự án, công trình xây dựng
việc thất thoát vốn là rất lớn do việc câu kết thông đồng, ăn dơ với nhau giữa
các chủ đầu tư và xây dựng. Tất cả các điều trên phần lớn là do bộ máy quản
lý còn non kém.
Ngày nay quá trình hội nhập kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới
nên việc nâng cao năng lực quản lý kinh tế là điều kiện hết sức quan trọng để
tạo nên cạnh tranh và chống độc quyền.
c) Điều kiện về trình độ văn hoá, đạo đức xã hội của nhân dân và các
chủ thể kinh doanh
Các chủ thể kinh tế là đối tượng tác động của các văn bản pháp lí - thể
chế. Nhà nước ban hành và giám sát, chỉ đạo các chủ thể kinh tế thi hanh các
qui định của văn bản pháp lí - thể chế. Để các qui định được thực hiện tốt thì
ngoài vai trò quản lí tốt của Nhà nước còn có hành vi thực hiện của các chủ
kinh doanh và nhân dân. Ý thức thực hiện các qui định văn bản của các chủ
thể khi tham gia hoạt động kinh tế là điều kiện đủ để tạo nên cạnh tranh và
chống độc quyền trong kinh doanh. Năng lực của các cơ quan quản lí là có
hạn cho nên trong quá trình quản lý không thể khong mắc những sai lầm,
thiếu sót. Khi đó sẽ là điều kiện tốt cho những tình trạng cạnh tranh không
lành mạnh, độc quyền lợi dụng sai sót của cơ quan quản lý để hoạt động.
II. THỰC TRẠNG CẠNH TRANH VÀ ĐỘC QUYỀN Ở VIỆT NAM
Hiện nay việc nhận thức về cạnh tranh và độc quyền kinh doanh ở nước
ta chưa nhất quán, chưa nhận thấy vai trò quan trọng của nhà nước trong nền
kinh tế, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước nên chưa có quan điểm dứt khoát
về ủng hộ cạnh tranh lành mạnh và chống độc quyền trong kinh doanh. Nhà
nước chưa có những qui định cụ thể, những cơ quan chuyên trách theo dõi
10
giám sát các hành vi liên quan đến cạnh tranh và độc quyền. Bên cạnh đó tư
tưởng chưa coi trọng khu vực kinh tế tư nhân và việc thành lập hàng loạt các
tổng công ty 90, 91 cũng ảnh hưởng không tốt đến môi trường cạnh tranh. Do
những tồn tại đấy mà thực trạng cạnh tranh và độc quyền ở Việt Nam còn
nhiều bất cập. Thể hiện:
1. Tình trạng cạnh tranh bất bình đẳng
Cạnh tranh bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà
nước với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, giữa các doanh
nghiệp trong nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh
nghiệp nhà nước được hưởng nhiều ưu đãi từ phía nhà nước như: các ưu đãi
về vốn đầu tư, thuế, vị trí địa lý, thị trường tiêu thụ,… Ngoài ra các doanh
nghiệp này còn tập trung trong tay một lượng lớn các ngành nghề quan trọng:
điện, nước, than, dầu lửa, bưu chính viễn thông, giao thông vận tải…, các
doanh nghiệp tư nhân không được coi trọng. Các doanh nghiệp nước ngoài
hoạt động theo một qui chế riêng, không được ưu đãi từ nhà nước.
2. Hành vi cạnh tranh của các doanh nghiệp
Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh luôn muốn tối đa hoá lợi nhuận
của mình mà không vấp phải những khó khăn cản trở nào. Do đó mà gây nên
những hành vi hạn chế cạnh tranh từ các doanh nghiệp. Cụ thể:
- Một số doanh nghiệp thông đồng câu kết với nhau nhằm tăng sức cạnh
tranh của các doanh nghiệp trong hội, để từ đó mà loại bỏ các doanh nghiệp
khác bằng cách ngăn cản không cho các doanh nghiệp khác tham gia hoạt
động kinh doanh, hạn chế việc mở rộng hoạt động.
Các doanh nghiệp thoả thuận với nhau để phân chia địa bàn hoạt động,
thị trường tiêu thụ hàng hoá làm cho sự lưu thông hàng hoá trên thị trường bị
gián đoạn, thị trường trong nước bị chia cắt.
- Hành vi lạm dụng ưu thế của doanh nghiệp để chi phối thị trường.
Hành vi này xuất phát từ một số tổng công ty đọc quyền hoặc các công ty lớn
11
có khả năng chi phối thị trường. Các công ty này dựa vào thế mạnh của mình
mà sử dụng các biện pháp cạnh tranh không lành mạnh để loại trừ đối thủ
cạnh tranh, thao túng thị trường.
- Sáp nhập, hợp nhất, mua lại doanh nghiệp
Việc thành lập các tổng công ty hoặc liên doanh là việc sáp nhập các
công ty thành viên lại với nhau, việc này diễn ra theo quyết định của nhà
nước. Các công ty sáp nhập hay liên doanh với nhau làm tăng mức độ tích tụ
hay tập trung của thị trường.
- Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Hiện nay nước ta chưa có khung pháp lí hoàn chỉnh cho cạnh tranh nên
việc xác định, xử phạt các hành vi cạnh tranh không lành mạnh là khó khăn.
Điều đó tạo điều kiện cho các hành vi cạnh tranh không lành mạnh ngày càng
phát triển mạnh.
3. Độc quyền của một số tổng công ty.
Việc thành lập các tổng công ty 90 - 91 được coi là có ý nghĩa quan
trọng đối với nền kinh tế trong phạm vi cả nước hoặc bộ ngành, địa phương.
Các tổng công ty này là tập hợp các doanh nghiệp Nhà nước sản xuất cùng
loại sản phẩm lại với nhau, việc làm này nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
của hàng hoá Việt Nam trên trường quốc tế.
Thực tế, cho thấy rằng việc các tổng công ty 90, 91 ra đời đã gây cản
trở cho môi trường cạnh tranh mà các tổng công ty đó hoạt động. Tạo ra sự
cạnh tranh bất bình đẳng giữa tổng công ty và các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh khác trong cùng một lĩnh vực.
4. Độc quyền tự nhiên trong các ngành kết cấu hạ tầng:
Độc quyền tự nhiên tồn tại trong những ngành kết cấu hạ tầng đòi hỏi
vốn đầu tư lớn mà lợi nhuận đem lại chậm và không đáng kể. Ngoài ra độc
quyền tự nhiên còn tồn tại trong những ngành kinh tế quan trọng, ảnh hưởng
mạnh mẽ đến chiến lược phát triển kinh tế của đất nước như: Điện, nước, dầu
12
khí, đặc biệt này chỉ có một hoặc một vài doanh nghiệp Nhà nước được phép
hoạt động. Các doanh nghiệp này kinh doanh theo mô hình khép kín theo
chiều dọc vừa thực hiện các khâu đầu vừa thực hiện các khâu cuối. Do hình
thức hoạt động như vậy nên hạn chế cạnh tranh hay dường như không có đối
thủ cạnh tranh trên thị trường.
Thí dụ: giá điện ở Việt Nam là 0,07USD/kwh so với Thái Lan là 0,04
USD, phí vận hành, cảng đối với 1 vạn tấn ở cảng Sài Gòn là 40.000USD,
cảng Bangkok là 20.000USD, cước viễn thông từ Hà Nội gọi đến Tokyo hết
7,92USD/3phút, từ Bangkok hết 2,48USD.
Kết quả của độc quyền tự nhiên là năng suất lao động thấp, giá cả tăng
cao một cách bất hợp lý, buộc toàn bộ nền kinh tế phải chịu mức giá đầu vào
cao, làm tăng chi phí cho các doanh nghiệp kinh doạnh khác trong nền kinh tế
quốc dân.
III. CÁC GIẢI PHÁP DUY TRÌ CẠNH TRANH VÀ CHỐNG ĐỘC
QUYỀN.
Trong thời gian tới trước yêu cầu duy trì phát triển kinh tế với nhịp độ
cao và của quá trình hội nhập thì việc cải thiện môi trường cạnh tranh là yêu
cầu cấp bách để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh
tranh của mình, thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều
kiện tự do hoá thương mại và hội nhập kinh tế thế giới. Để duy trì cạnh tranh
lành mạnh và kiểm soát độc quyền chúng ta cần phải thực hiện một số biện
pháp sau:
Thứ nhất: tiếp tục đổi mới nhận thức về cạnh tranh, phải thống nhất
quan điểm đánh giá vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế. Phải coi cạnh
tranh trong nền kinh tế pháp luật hợp thức là động lực của sự phát triển và
nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Xác định một cách rõ
ràng và hợp lý vai trò của Nhà nước cũng như vai trò chủ đạo của các doanh
nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế, hạn chế bớt những doanh nghiệp Nhà
13
nước độc quyền kinh doanh. Thúc đẩy nhanh quá trình cải cách doanh nghiệp
Nhà nước, đẩy nhanh quá trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước. Độc quyền
của các doanh nghiệp Nhà nước cần phải được giảm dần, các rào cản đối với
các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế cần được tháo gỡ dần nhằm
giảm giá thành sản xuất, tăng năng lực cạnh tranh chung của toàn bộ nền kinh
tế, tăng tính hấp dẫn đối với đầu tư nước ngoài, đồng thời giảm gánh nặng
cho ngân sách quốc gia.
Việc đổi mới nhận thức cần được thể hiện trong toàn bộ hệ thống quản
lý Nhà nước, trong các chương trình và chiến lược cải cách hành chính, trong
tổ chức, phong cách làm việc hành vi ứng xử của các cơ quan công quyền.
Thứ hai: cải tổ pháp luật về cạnh tranh để cho cơ chế cạnh tranh được
vận hành một cách trôi chảy, hạn chế những hành vi cạnh tranh không lành
mạnh trên thị trường. Nới lỏng các điều kiện ra nhập và rút lui khỏi thị trường
để khuyến khích các nhà đầu tư tham gia sản xuất kinh doanh. Như vậy việc
hình thành nên khung pháp lý chung cho các loại hình kinh doanh thuộc các
khu vực kinh tế khác nhau là điều cần thiết. Việc cải tổ pháp luật về cạnh
tranh cần phải sửa đổi từ quy trình ban hành pháp luật:
Thứ ba: xây dựng một cơ quan chuyên trách theo dõi, giám sát các hành
vi liên quan đến cạnh tranh và độc quyền. Rà soát lại và hạn chế bớt số lượng
các lĩnh vực độc quyền, kiểm soát giám sát độc quyền chặt chẽ hơn.
Thứ tư: cải thiện môi trường thông tin và pháp luật theo hướng minh
bạch và kịp thời hơn, đồng thời nhanh chóng cải cách thủ tục hành chính
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh. Cụ
thể:
- Việc thành lập doanh nghiệp mới: việc quyết định thành lập các doanh
nghiệp Nhà nước cần được chuyển sang cho các cơ quan quyền lực đại biểu
của nhân dân. Việc tăng cường kiểm tra giám sát từ các cơ quan này sẽ thúc
đẩy các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động tích cực và có hiệu quả hơn, tiết
kiệm được các nguồn lực của Nhà nước .
14
Thành lập, bổ sung đầy đủ, chi tiết và cập nhật hàng năm những ngành
nghề mà doanh nghiệp dân doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoải
không được đăng ký kinh doanh. Ngoài các mục này các doanh nghiệp được
thành lập theo chế độ đăng ký với một cơ quan đăng ký thống nhất trong quốc
gia.
KẾT LUẬN
Cạnh tranh là một quy luật, là một phần của nền kinh tế thị trường.
Canh tranh cũng có mặt trái của nó, cạnh tranh thường dẫn đến độc quyền, và
nó được đánh dấu bằng sự phá sản của một bên tham gia cạnh tranh, gây ra
thất nghiệp, tạo gánh nặng cho xã hội. Tuy nhiên xát trong một quá trình lâu
dài và dựa vào toàn bộ lợi ích của xã hội thì cạnh tranh là động lực cho sự
phát triển kinh tế xã hội. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, các tổ chức kinh
tế với nhau sẽ làm nguồn lực của xã hội được phân bố và sử dụng có hiệu quả
hơn. Những mặt trái do cạnh tranh đem lại là điều không đáng ngại nếu như
chúng ta có một chính sách cạnh tranh và chống độc quyền hợp lý.
Nhiều nước trên thế giới đã áp dụng tốt chính sách cạnh tranh trong
phát triển kinh tế và đem lại hiệu quả cao. Một trong những nước sử dụng
rộng rãi và thành công yếu tố cạnh tranh để phát triển kinh tế là Mỹ, Mỹ đã
ban hành rất sớm luật cạnh tranh.
Đối với Việt Nam, thực trạng hiện nay cho thấy môi trường cạnh tranh
và chống độc quyền ở nước ta còn nhiều hạn chế còn nhiều tồn tại cần tháo
gỡ. Đối với chúng ta còn nhiều việc phải làm để có một môi trường cạnh
tranh lành mạnh, nhưng trước mắt việc phải làm là Việt Nam cần có một
chính sách cạnh tranh hợp lý, cần phải có pháp luật về cạnh tranh hướng dẫn
các doanh nghiệp khi tham gia cạnh tranh, để cho cạnh tranh đúng với ý nghĩa
của nó là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
Tóm lại, cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là một con dao hai lưỡi,
nó có là động lực cho sự phát triển kinh tế hay không còn tuỳ thuộc vào sự
vận dụng quy luật này ở mỗi nước. Nếu có chính sách cạnh tranh hợp lý thì
15
nước đó sẽ được lợi to do cạnh tranh đem lại, nhược bằng không thì nó sẽ là
một cỗ máy nghiền nát nền kinh tế. Việt Nam cũng sẽ không tránh khỏi thất
bại nếu không biết vận dụng quy luật cạnh tranh. Là nước áp dụng quy luật
cạnh tranh muộn nên Việt Nam sẽ có được nhiều kinh nghiệm của những
nước đi trước, từ đó chúng ta hy vọng Việt Nam sẽ chứng minh rằng: Việt
Nam chính là mảnh đất mầu mỡcho cạnh tranh phát huy hết ưu điểm của nó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. "Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách cạnh tranh và kiểm soát
độc quyền kinh doanh" của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương.
2. Tạp chí kinh tế và phát triển.
3. Nghiên cứu kinh tế số 254 - tháng 7/1999.
4. Tạp chí thương mại 17/2001
16