Thư mời tham gia Hội thi tìm hiểu giá trị lịch sử văn hóa Đồng Nai
HỘI THI TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VN HÓA – LỊCH SỬ TỈNH ĐỒNG NAI … · Bài tham dự...
Transcript of HỘI THI TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VN HÓA – LỊCH SỬ TỈNH ĐỒNG NAI … · Bài tham dự...
Bài tham dự
HỘI THI TÌM HIỂU GIÁ
TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ
TỈNH ĐỒNG NAI
NĂM 2018
Biên Hòa, tháng 11 năm 2018
HỘI THI
“TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ NĂM 2018”
Những tập quán tín ngưỡng và
cuộc kháng chiến của quân và dân Biên Hòa -
Đồng Nai đã trải qua trong 320 năm hình thành
và phát triển
BIÊN HÒA, THÁNG 11 NĂM 2018
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
1
Lời nói đầu
Đồng Nai gạo trắng nước trong
Ai đi đến đó thì không muốn về.
Đồng Nai - nơi đất lành chim đậu. Chính vì thế, nơi đây đã thu hút dân cư
từ mọi miền Tổ quốc đến để an cư, lập nghiệp. Sự cộng cư nhiều thành phần dân
tộc qua quá trình phát triển đã làm cho sắc thái dân tộc về người và văn hóa
vùng này thêm đa dạng trên nhiều lĩnh vực các thế hệ cư dân đã để lại nhiều
thành tựu quan trọng trong các lĩnh vực của cuộc sống. Những tập quán tín
ngưỡng đã được hình thành,tạo ra màu sắc đặc trưng cho vùng đất này. Không
những thế, một vùng đất nghe có vẻ đầy an bình nhưng lại tràn ngập sự anh
dũng. Khai phá trời Nam, bảo vệ vùng đất thân thương trước sự xâm lăng của
ngoại quốc, đâu đâu cũng có dấu chân con người Đồng Nai. Lớp trước ngã
xuống, lớp sau lại trào lên như sóng lửa, thấm đẫm tinh thần kiên cường, bất
khuất vào trong đất thịt để bảo vệ bình yên cho nơi này. những chiến công trong
cuộc kháng chiến tự vệ của dân tộc là một trong những thành quả, kết tinh truyền
thống văn hóa của vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai trong quá trình mở đất
phương Nam của đất nước.
Chặng đường rất đỗi bi thương ấy đã thắm đượm biết bao xương máu, mồ
hôi và nước mắt của thế hệ cha ông. Sự hy sinh của họ là để đánh đổi cho hai
tiếng Đồng Nai-Biên Hòa thân thương được bình yên, hạnh phúc. sự hy sinh tuổi
trẻ, hy sinh thân mình để giành lại độc lập, tạo nên trang sử vàng của dân tộc về
hào khí Đồng Nai oai hùng, bất diệt.
Chứng kiến sự hy sinh cao đẹp ấy được tái hiện sống động qua từng trang
sử vàng, lòng tôi như thôi thúc bản thân phải làm chút gì đó để lan tỏa quá khứ
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
2
hào hùng của dân tộc thật sâu, thật rộng. Phải để cho thế hệ trẻ biết và thấu
được cái tình, cái nghĩa của con người nơi đây, phải cho họ tìm thấy được tình
yêu với nơi mình gắn bó suốt cuộc đời. Từ đó, chính họ sẽ thấm đượm tinh thần
yêu quê hương mà xây dựng, làm cho vùng đất này thêm giàu đẹp, hạnh phúc.
Hưởng ứng cuộc thi tìm hiểu về giá văn hóa – lịch sử Đồng Nai năm 2018
do Sở Khoa học và Công nghệ Đồng Nai tổ chức, tôi đã nghiên cứu nhiều tài
liệu, đến tham quan Bảo tàng và một số di tích lịch sử cách mạng trên địa bàn
tỉnh Đồng Nai. Quá trình tham quan và nghiên cứu tư liệu tại bảo tàng và di tích,
tôi thấy Đồng Nai mình có nhiều điều tuyêt vời quá, dân mình anh dũng quá và
mình phải có trách nhiệm phải tuyên truyền những giá trị quý giá đang ẩn chứa
trong mỗi di tích. Tham gia Hội thi này tôi mong muốn bản mình hiểu thêm về
tập quán tín ngưỡng, dân gian của người dân Biên Hòa – Đồng, cùng với những
chiến công tiêu biểu của quân và dân Đồng Nai trải qua 320 năm hình thành
vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai. Bên cạnh đó, tôi sẽ tuyên truyền nhưng hiểu biết
của bản thân về những giá trị văn hóa - lịch sử, nhân vật, sự kiện lịch sử, văn
hóa và con người Biên Hòa - Đồng Nai đến với mọi người, nhất là thể hệ trẻ để
góp phần trong công tác bảo tồn và phát di sản văn hóa của vùng đất Biên Hòa -
Đồng Nai.
Để hoàn thành được bài dự thi này tôi xin gởi lời chân thành cảm ơn đến
các các anh, chị thuyết minh viên đang công tác tại Bảo tàng Đồng Nai, Ban
Quản lý di tích – danh thắng tỉnh, thư viện tỉnh Đồng Nai đã cung cấp tư liệu.
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
3
Câu 1: Trong 320 năm hình thành và phát triển vùng đất Biên Hòa –
Đồng Nai, nhân dân Biên Hòa đã trải qua những cuộc kháng chiến nào?
Hãy trình bày cảm nhận của (anh), chị về truyền thống đấu tranh cách
mạng của quân Biên Hòa – Đồng Nai. Anh (chị) sẽ làm gì để phát huy truyền
thống cách mạng ấy.
I.1. Trong 320 năm hình thành và phát triển vùng đất Biên Hòa – Đồng
Nai, nhân dân Đồng Nai đã trải qua những cuộc đấu tranh sau:
I.1.1. Những cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược (1861 –
1954)
Đất nước Việt Nam là nơi mà lịch sử dân tộc gắn liền với lịch sử anh hùng
chống ngoại xâm. Ở đây mỗi tên đất, tên làng đều trở thành những địa danh gắn
liền với nhiều chiến công chói lọi, đặc biệt là hai cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Trong hai cuộc chiến đấu đó, trên mảnh đất
Biên Hòa – Đồng Nai quân và dân Biên Hòa – Đồng Nai đã cùng quân dân cả
nước cũng đã lập lên nhiều chiến công hiển hách nên đã được lưu danh trong sử
sách. Tiêu biểu như các trận đánh trong kháng chiến chống thực dân Pháp như:
Cuộc khởi nghĩa của các sĩ phu yêu nước trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp lần thứ nhất: Đoàn Văn Cự (1835 – 1905); tổ chức yêu nước của Trại Lâm
Trung (1916); Cách mạng tháng Tám 1945 ở Biên Hòa. Và kháng chiến chống
thực dân Pháp lần thứ hai gồm các trận đánh chống thực dân Pháp xâm lược như:
Trận tập kích thị xã Biên Hòa năm 1946; Trận đánh giao thông La Ngà diễn ra
vào ngày 01/8/1948; Trận đánh Tháp canh cầu Bà Kiên năm 1948; Trận tấn công
Yếu khu Trảng Bom năm 1951.
I.1.2. Cuộc khởi nghĩa sĩ phu yêu nước Đoàn Văn Cự (1835 – 1905)
Đoàn Văn Cự (1835-1905), là một thủ lĩnh kháng Pháp tại Biên Hòa (Đồng
Nai). Tuy hoạt động của ông bị đối phương nhanh chóng dập tắt, nhưng đã có
ảnh hưởng sâu rộng ở vùng miền Đông Nam Bộ trong những thập niên đầu thế
kỷ XX. Cả cuộc đời ông để bảo vệ độc lập dân tộc. Đoàn Văn Cự sinh năm Ất
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
4
Mùi (1835) tại làng Bình An, huyện Bình An, tỉnh Biên Hòa (nay là quận Thủ
Đức, thành phố Hồ Chí Minh). Ông sống tại một nơi hẻo lánh ở một ấp Vĩnh
Cửu thuộc xã Tam Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Biên Hòa xưa (nay thuộc
phường Tam Hiệp, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai) sống bằng nghề dạy học
và hốt thuốc, nên được gọi là ông thầy Cự. Nhờ vậy, ông che tai mắt thực dân
Pháp được một thời gian, để có thể bí mật tuyên truyền và chiêu tập những người
dân có cùng chí hướng. Được tin tưởng, đông đảo người dân ở các vùng Chợ
Đồn, Chợ Chiếu, Bình Đa, Cù lao Phố, Núi Nứa (nay thuộc Bà Rịa)...đã tình
nguyện đi theo và ủng hộ ông. Để chuẩn bị cho đại cuộc đánh Pháp, ông Cự chọn
vùng Bưng Kiệu (thuộc xã Tam Hiệp) làm căn cứ, tổ chức lượng theo theo lối
Thiên Địa Hội (còn gọi là Hội kín), đồng thời cho tích lũy lương thực, mua sắm
khí giới, lập lò rèn vũ khí, luyện tập nghĩa quân... Mọi việc còn đang trong giai
đoạn chuẩn bị, thì thực dân Pháp dò la được. Sáng ngày 12 tháng 4 năm 1905,
một số lính mã tà (cảnh sát thời Pháp thuộc) do một viên quan ba (đại úy) chỉ huy
kéo vào căn cứ Bưng Kiệu. Thừa lúc nghĩa quân canh phòng sơ ý, quân Pháp liền
xông thẳng vào ngôi nhà Đoàn Văn Cự đang ở. Trước bàn thờ Tổ, Đoàn Văn Cự
trong bộ trang phục uy nghi, vừa thấy viên quan ba dẫn lính vào liền vung đoản
đao chém thẳng. Viên quan ba bị thương nhưng kịp rút súng bắn chết ông (thọ 70
tuổi). Sau khi giết được thủ lĩnh Đoàn Văn Cự, viên quan ba cho lính đốt phá căn
cứ, bắn giết và truy đuổi nghĩa quân cho đến ngày hôm sau. Kết cuộc, ngoài
Đoàn Văn Cự, còn có thêm 16 nghĩa quân bị hy sinh tại trận. Sau đó, quân Pháp
bắt dân làng chôn Đoàn Văn Cự cùng với 16 nghĩa quân vào một hố lớn. Ngôi
mộ chung chôn thủ lĩnh Đoàn Văn Cự cùng 16 nghĩa quân, tọa lạc trên khu đất
cạnh dòng suối Linh Tuyền (gọi tắt là suối Linh), thuộc phường Long Bình, cách
trung tâm thành phố Biên Hòa chừng 8km. Ban đầu, chỉ là một ngôi mộ đơn sơ.
Năm 1956, được nhân dân địa phương xây đắp lại nhưng quy mô nhỏ, mãi đến
1990 ngôi mộ mới được xây dựng bề thế như hiện nay Nam kỳ, nhiều nơi đã nổi
dậy chống lại chính quyền thực dân Pháp ở Biên Hòa - Đồng Nai. Thủ lĩnh Đoàn
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
5
Văn Cự cùng 16 nghĩa quân đã đóng góp một phần công lao to lớn vào độc lập
chung của dân tộc.
I.1.3. Tổ chức yêu nước của Trại Lâm Trung (1916)
Năm 1865, quân Pháp tập trung lực lượng tấn công, căn cứ Bàu Cá và Giao
Loan bị thực dân chiếm đóng. Phong trào kháng chiến ở Biên Hòa tạm lắng lại.
Những năm đầu thế kỷ XX, phong trào đấu tranh vũ trang chống Pháp ở Biên
Hòa lại được khôi phục. Năm 1905, Đoàn Văn Cự xây dựng căn cứ ở Bưng Kiệu
(ấp Vĩnh Cửu phường Tam Hiệp, thành phố Biên Hòa) và chuẩn bị khởi nghĩa vũ
trang. Tuy nhiên việc không thành, ông và 16 nghĩa quân hi sinh trong một cuộc
đột kích của quân Pháp vào căn cứ. Ngày 25 tháng 1 năm 1916, một tổ chức yêu
nước có vũ trang ở trại Lâm Trung – Biên Hòa đã mở cuộc tấn công đồng loạt
vào các nhà làng Tân Trạch, Tân Lương, Tân Triều Tây, khám đƣờng Biên Hòa
giải thoát nhiều thanh niên bị thực dân cưởng ép đi lính, sau đó tập trung tấn
công vào dinh tham biện Biên Hòa. Cuộc nổi dậy vũ trang của trại Lâm Trung
tuy không thành nhưng gây tiếng vang lớn. Thực dân Pháp bắt và giết hại nhiều
lãnh tụ và nghĩa binh. Ngày 27/4/1916, tòa án binh của thực dân Pháp tuyên án tử
hình chín người đứng đầu trại Lâm Trung và đưa đi xử bắn tại ngã ba Dốc Sỏi.
Trước cái chết, cả chín người lãnh tụ nghĩa quân đều thể hiện tinh thần bất khuất
của nhân dân Biên Hòa. Sự thất bại của nghĩa quân trại Lâm Trung đánh dấu sự
thất bại của các lực lượng đấu tranh do các sĩ phu, người yêu nước của hệ tư
tưởng Nho giáo, phong kiến ở Biên Hòa lãnh đạo.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã đưa nhân dân Biên Hòa nói
riêng, cả dân tộc Việt Nam nói chung bước sang kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc
lập, thống nhất và tiến lên xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Cùng với nhân
dân cả nước, nhân dân Biên Hòa hồ hởi bắt tay vào công cuộc xây dựng chính
quyền cách mạng, xây dựng cuộc sống mới trong bầu không khí độc lập, tự do.
Tuy nhiên, thực dân Pháp âm mưu xâm lược nước ta một lần nữa đã ngang nhiên
chà đạp lên nguyện vọng lao động xây dựng hòa bình của nhân dân ta, tìm mọi
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
6
cách trở lại Việt Nam và Đông Dương. Ngày 23 tháng 9 năm 1945, được quân
Anh và quân Nhật giúp sức, quân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, chính thức
mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Quân dân Biên Hòa tiếp
tục cuộc kháng chiến chống Pháp lần thứ hai với những trận đánh tiêu biểu như:
I.1.4. Trận tập kích thị xã Biên Hòa năm 1946
Sau Cách mạng tháng Tám, thực dân Pháp với âm mưu xâm lược Việt Nam
lần thứ hai đã tổ chức gây hấn, đánh chiếm Sài Gòn. Lợi dụng danh nghĩa đồng
minh, tháng 8 - 1945, quân Pháp theo chân quân Anh đổ bộ vào Sài Gòn và liên
tục gây hấn. Rạng sáng ngày 24-10-1945, thực dân quân Pháp với hỗ trợ của
quân Anh nổ súng đánh chiếm tỉnh lỵ Biên Hòa, chúng đưa quân trấn chiếm các
đầu mối giao thông ở các đầu mối giao thông, chiếm thành Xăng Đá, bưu điện,
kho bạc, tòa án. Cuộc kháng chiến ở Nam bộ đa bùng nổ, ngày 25 tháng 10 năm
1945, thực dân Pháp đánh chiếm Biên Hòa và thiết lập bộ máy cai trị. Cuối tháng
12 năm 1945, Khu bộ trưởng khu 7 Nguyễn Bình quyết định mở cuộc tập kích
quân Pháp tại tỉnh lỵ Biên Hoà. Lực lượng tham gia trận tấn công vào thị xã Biên
Hoà gồm: Vệ quốc đoàn Biên Hoà, Châu Thành, Liên quân Hóc Môn – Bà Điểm,
Liên chi 2, 3 bộ đội Bình Xuyên. Đêm ngày 1 rạng ngày 2 tháng 1 năm 1946, các
đơn vị lực lượng vũ trang tổ chức đồng loạt tiến đánh các mục tiêu: thành Biên
Hoà, sở Hiến binh, Bưu điện, nhà ga Biên Hoà, nhà máy cưa BIF, các tua gác
địch ở cầu Gành.
Cả tỉnh lỵ Biên Hoà vang tiếng súng. Lực lượng vũ trang cách mạng tập
kích bất ngờ, đốt cháy chợ Biên Hoà, nhà thông tin, tấn công các công sở, đồn
bốt địch. Quân Pháp hoàn toàn lâm vào thế bị động. Nhiều nơi, quân Pháp và lính
tay sai hoảng hốt bỏ chạy. Quân kháng chiến làm chủ thị xã đến gần sáng, bắt
được nhiều tù binh. Để bảo toàn lực lượng, các đội vũ trang tham gia trận tập
kích rút về căn cứ. Dầu không làm chủ được mục tiêu lâu dài trong thị xã Biên
Hoà nhưng trận đánh đã gây nên một tiếng vang lớn thời bấy giờ. Đây là trận
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
7
đánh đầu tiên của lực lượng kháng chiến cách mạng ở miền Nam vào một trung
tâm đô thị khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược Việt Nam lần thứ hai.
I.1.5. Trận đánh giao thông La Ngà, năm 1948
La Ngà là một dòng sông, một chi lưu của sông Đồng Nai, (nay thuộc huyện
Định Quán, tỉnh Đồng Nai). Địa danh mà thực dân Pháp ghi tên vào bản đồ
Lagna, cũng là tên một địa danh đã đi vào lịch sử trong cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp xâm lược.
Trận đánh giao thông La Ngà là trận đánh giao thông lớn nhất ở miền Đông
Nam bộ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp do lực lượng vũ trang Chi đội 10
Biên Hoà phối hợp với Liên quân 17 (Khu 7) thực hiện.
Trận đánh giao thông La Ngà, năm 1948
Tại khu vực A lực lượng phục kích gồm đại đội B, quốc vệ đội và dân quân
du kích huyện Xuân Lộc, do đại đội trưởng Lê Văn Ngọc chỉ huy, có nhiệm vụ
khóa đầu đoàn xe, tiêu diệt bộ phận hộ tống mở đường và chặn đánh bọn lính từ
Định Quán xuống tiếp viện.
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
8
Tại khu vực C đại đội A của chi đội do đội trưởng Nguyễn Văn Quang chỉ
huy nhận nhiệm vụ khóa đuôi, tiêu diệt địch và đánh quân tiếp viện từ đồn La
Ngà lên. Một tổ đặc nhiệm của chi đội xây dựng trận địa nghi binh cách 4km
phía đông đường 20 nhằm đánh lạc hướng máy bay địch. Các bộ phận hậu cần
đặt ở tả ngạn sông Đồng Nai, cách sở chỉ huy khoảng 6 km. Lực lượng dân quân
du kích huyện Châu Thành cùng một trung đội thuộc đại đội C làm nhiệm vụ
quấy rối ngăn chặn nghi binh địch trên dọc quốc lộ 1 từ Hố Nai đến ngã ba Dầu
Giây, buộc địch phải giảm tốc độ hành quân, sao cho đoàn xe đến khu vực trận
địa phục kích vào khoảng từ 15 đến 16 là thời điểm trời về chiều, nhiều sương
mù, máy bay địch khó hoạt động và viện binh của chúng từ Biên Hòa không thể
lên kịp trước khi trời tối. Tin quân báo của chi đội từ Sài Gòn cho biết: đầu tháng
3 năm 1948, địch tổ chức cuộc hội nghị tại Đà Lạt thảo luận việc thành lập chính
phủ bù nhìn Bảo Đại.
Cuối tháng 2 - 1948, Ban chỉ huy chi đội nhận được tin cụ thể: sáng ngày 1
tháng 3 năm 1948, đoàn xe quân sự của địch trong đó có nhiều quan chức cao
cấp Pháp sẽ xuất phát từ Sài Gòn. Ngay đêm ngày 26 - 2 để lại một lực lượng
nghi binh và bảo vệ chiến khu Đ, đại đội A và đại đội C của Chi đội 10 cùng
Liên quân 17 bí mật hành quân vượt 80 km đến Suối Cát, vị trí tạm dừng gần trận
địa phục kích. Chiều ngày 28 tháng 2 toàn bộ lực lượng chiếm lĩnh xong trận địa.
Đại đội B của Chi đội 10 cùng quốc vệ đội Xuân Lộc từ hướng đông vượt sông
La Ngà và lộ 20 đến vị trí tập kết khu vực A. Sáng ngày 01 - 3, đúng như tin tình
báo của ta, đoàn xe địch gồm 70 chiếc xuất phát sớm từ Sài Gòn. Vừa qua khỏi
thị xã Biên Hòa, đoàn xe phải dừng lại nhiều lần để khắc phục chƣớng ngại vật
do du kích bố trí hoặc để đối phó với hoạt động bắn tỉa của bộ đội và du kích trên
từng chặng. Đến khu vực La Ngà thì trời đã ngã chiều, đoàn xe vừa hành quân
vừa bắn thị uy vào hai bên đường. Gần 15 giờ, bộ phận đi đầu lần lượt đi qua trận
địa phục kích khu vực C, rồi khu vực B. Đúng 15 giờ 02 phút, chiếc thiết giáp
mở đường vào đúng chỗ gấp khúc ngoặt trái của khu vực phục kích A, ba quả địa
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
9
lôi hất tung chiếc xe thiết giáp cùng hai xe chở lính hộ tống. Viên chỉ huy đoàn
xe cùng bộ phận thông tin tan xác tại chỗ. Mất liên lạc vô tuyến, các xe phía sau
vẫn tiếp tục nối đuôi nhau tiến lên và dồn đống tại khu vực trận địa A, một số
chiếc chồng lên nhau, có chiếc rơi xuống vực. Các chiến sĩ đại đội B cùng quốc
vệ đội Xuân Lộc dùng hỏa lực diệt tiếp 44 chiếc xe chở lính hộ tống thứ ba và
đồng loạt xông ra mặt đường. Quân địch bị tê liệt hoàn toàn, tại khu vực B, các
xe địch lâm vào tình thế tiến thoài lưỡng nan, lúng túng chống đỡ. Các chiến sĩ
của ta chủ động tiến công áp đảo địch ngay từ đầu, đốt cháy 28 xe, tiêu diệt 55
tên lính hộ tống. Tại khu vực C, cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt. Sau 10 giao
tranh, các chiến sĩ đại đội A phá hủy 16 xe chở lính, vô hiệu hóa 13 xe vận tải và
diệt một số tên địch. Số còn lại dạt xuống phía đông đường 20 và chạy lui về đồn
La Ngà. Cùng lúc ấy, tốp cuối cùng có xe thiết giáp hộ tống vừa tới trận địa phục
kích, gặp sức tiến công mãnh liệt của ta, vội quay chạy trở lui về phía La Ngà.
Trận đánh kết thúc lúc 15 giờ 57 phút, quân ta đưa hơn 200 tù hàng binh cùng số
hành khách đi theo đoàn xe về phía sông Đồng Nai. 17 giờ, khi toàn bộ lực lượng
phục kích và đoàn người đang trên đường đến khu vực Suối Cát, ba máy bay địch
từ sân bay Biên Hòa mới lên ứng cứu, bắn như vãi đạn vào những đống lửa ta đốt
ở khu vực nghi binh phía đông đường 20. Tại khu vực tập kết, bộ đội tổ chức nói
chuyện về tình hình kháng chiến và chính sách cách mạng, chăm sóc vết thương
cho số tù hàng binh và hành khách. “Chủ” và “khách” cùng ăn cơm vắt, cá khô
nướng, uống nước sông.
Đêm ngày 02 - 3, các chiến sĩ liên lạc đưa số tù hàng binh được phóng thích,
cùng hành khách ra quốc lộ 20 đón xe về lại Sài Gòn. Cũng ngay trong đêm ấy,
các lực lượng tham gia trận phục kích khẩn trương trở về căn cứ. Nhằm chặn
đường hành quân trở về chiến khu Đ của Chi đội 10, phá nát căn cứ trong khi
không còn lực lượng phòng bị tại chỗ, bộ chỉ huy quân đội Pháp tại Sài Gòn tổ
chức quộc phản kích. Lúc 8 giờ ngày 5 - 3 chúng tổ chức một cánh quân có
không quân yểm trợ hành quân bịt chặn đường sông Đồng Nai, Sông Bé và quần
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
10
nát khu vực Bù Cháp, Lý Lịch, Hàn Dài. Đồng thời, 5 máy bay vận tải thay phiên
đổ quân xuống Đất Cuốc 1.000 lính bộ binh và 50 xe cơ giới chia làm hai gọng
kìm quây tròn khu vực trung tâm căn cứ ở Tân Hòa, Mỹ Lộc. Đoán trước ý đồ
của địch, Ban Chỉ huy Chi đội 10 một mặt khẩn trương hành quân về chiến khu
Đ chuẩn bị đánh địch phản kích, mặt khác tách ra một bộ phận kết hợp với lực
lượng dân quân du kích hoạt động mạnh ở các địa phương. Đại đội B về Xuân
Lộc. Liên quân 17 về Tân Ba. Các đơn vị còn lại về đến chiến khu Đ trước khi
quân Pháp triển khai lực lượng chặn đường.
Tại chiến khu, lực lượng vừa tham gia trận La Ngà cùng với phân đội ở lại
phối hợp với dân quân du kích tại chỗ phân tán ra nhiều nơi vừa đánh tiêu hao
địch, vừa để bảo toàn lực lượng. Sau một tuần lùng sục, không tìm được lực
lượng chủ lực, lại bị đánh tiêu hao ở khắp mọi nơi, cả ngày lẫn đêm, quân Pháp
buộc phải chấm dứt cuộc càn, mang theo gần 100 xác chết.
Trận La Ngà là chiến thắng quân sự lớn nhất của lực lượng bộ đội tập trung
ở miền Đông Nam Bộ tính từ đấu cuộc kháng chiến đến thời điểm đầu năm 1948.
Đoàn xe quân sự gồm gần 70 chiếc bị đánh tan, 59 chiếc bị tiêu hủy. Quân ta đã
tiêu diệt tại chỗ 150 lính lê dương hộ tống, 25 sĩ quan chỉ huy. Sự kiện La Ngà
gây chấn động sâu sắc trong dư luận ở Sài Gòn, ở trong nước, và sang cả nước
Pháp. Quốc hội Pháp chất vấn chính phủ về trận La Ngà, viên đại tá Talles chỉ
huy trưởng khu vực Đồng Nai Thượng buộc phải tự tử. Số tù hàng binh được thả
và hành khách đi theo đoàn xe, trong đó có nhiều trí thức, doanh nghiệp Pháp sau
đó đã tuyên truyền rộng rãi về cuộc kháng chiến chính nghĩa của Việt Minh.
Cùng với các trận đánh giao thông ở Bảo Chánh, Trảng Táo, Bàu Cá, Đồng
Xoài, trận La Ngà đã góp phần có hiệu quả vào nỗ lực chung của quân và dân
miền Đông Nam Bộ trong nhiệm vụ đẩy mạnh hoạt động đánh địch chia lửa với
chiến trường chính. Chiến thắng La Ngà đã đánh dấu một bước phát triển quan
trọng về chất của lực lượng vũ trang tỉnh Biên Hòa nói chung, chi đội 10 nói
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
11
riêng. Từ đánh nhỏ lẻ, chi đội đã vươn lên tổ chức trận đánh có quy mô lớn trên
một phạm vi trận địa rộng và cách xa căn cứ với trình độ tổ chức hợp đồng chính
xác, ý thức chiến thuật cao và kỷ luật chiến trường chặt chẽ.
Tượng đài chiến thắng La Ngà
(Nguồn Internet)
I.1.6. Trận đánh Tháp canh cầu Bà Kiên năm 1948
Bị thất bại ở chiến trường Việt Bắc thu đông 1947 - 1948, thực dân Pháp
buộc phải chuyển hướng chiến lược từ đánh nhanh thắng nhanh sang bình định
Nam Bộ. Âm mưu của chúng là “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người
Việt giết người Việt”. Trên chiến trường miền Đông và Biên Hòa, tướng
De Latour đã cho thực hiện chiến thuật “điểm và đường”. Địch cho xây dựng
một hệt thống đồn bót, tháp canh dọc các quốc lộ 1, 15, 20 tỉnh lộ 24, 16, 2 nhằm
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
12
bảo vệ giao thông của chúng và gây gây cho ta nhiều khó khăn cho việc đi lại của
ta. Tháp canh Pháp gồm có hai loại: tháp canh con cao từ 6 đến 8 mét, tháp canh
lớn cao từ 10 đến 12 mét do 1 tiểu đội canh giữ. Các tháp canh được xây dựng
bằng tường hoặc đá, độ dày từ 0,6 đến 0,8 mét, chia làm 3 tầng, tầng trên cùng có
nhiều lỗ châu mai, các tháp canh cách đều nhau khoảng 300 mét tùy theo địa
hình, có cái chỉ cách nhau 100, 150 mét để hỗ trợ lẫn nhau khi bị tấn công. Địa
hình xung quanh tháp đều được địch phát trống, ban đêm có đèn soi, do đó việc
đến gần tháp là rất khó.
Tính đến tháng 6 năm 1949, ở miền Đông địch đã xây dựng được hơn 200
tháp canh. Hệ thống tháp canh của Pháp gây cho ta nhiều khó khăn; việc di
chuyển qua lại trên đường của ta bị địch khống chế.
Đại tá Trần Công An - Người chỉ huy trận đánh tháp canh cầu Bà Kiên của Pháp
(Nguồn Internet)
Đêm 18 rạng ngày 19 - 3 - 1948, tổ du kích Tân Uyên do Trần Công An, Hồ
Văn Lung và Trần Văn Nguyên cải trang dung bùn non bôi lên người vượt qua
hang rào quanh tháp, áp thang vào tường và dùng lựu đạn đánh tháp canh, sử
dụng mìn FT và bê-ta đánh sập hoàn toàn tháp canh Cầu Bà Kiên lần thứ hai.
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
13
Di tích tháp canh cầu Bà Kiên
Nguồn Internet
Ngày 23 - 3 - 1950, lực lượng vũ trang Biên Hòa ra quân đồng loạt đánh 50
tháp canh dọc các quốc lộ 14, 13, tỉnh lộ 16…tháp canh thủng lỗ nhưng không
sập. Công binh xưởng tiếp tục nghiên cứu cải tiến mìn FT (phá tường), tăng
cường mìn (Bêta). Ngày 19-4-1950, tháp canh Vàm Giá (QL14) bị đánh sập hoàn
toàn bằng vũ khí FT và Bêta với kỹ thuật tiếp cận bí mật mục tiêu, đánh bất
ngờ…
Kỹ thuật đánh tháp canh được phổ biến góp phần làm thất bại chiến thuật
Delatour của Pháp ở miền Đông. Góp phần hình thành kỹ thuật, bộ đội đặc công.
Từ 19/3/1967 Bác Hồ chỉ đạo Bộ Quốc phòng hình thành Binh Chủng đặc công
đặc biệt tinh nhuệ, lấy ngày 19/3 (ngày đánh tháp canh Cầu Bà Kiên) làm ngày
truyền thống của Binh Chủng. Đây là một đóng góp tiêu biểu, xuất sắc của phong
trào du kích chiến tranh Biên Hòa nói chung và lực lượng vũ trang nói riêng cho
phong trào giải phóng dân tộc của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Từ đó kỹ thuật đánh đặc công Biên Hòa được phổ biến ra khắp Nam Bộ.
Ngày 19-3-1948 được lấy làm ngày truyền thống của binh chủng Đặc công.
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
14
Tượng đài tưởng niệm trận đánh tháp canh Cầu Bà Kiên năm 1948
Trận đánh tháp canh Cầu Bà Kiên năm 1948 có giá trị lịch sử quan trọng.
Đây là trận đầu tiên trong điều kiện chưa có vũ khí phá được tường tháp. Cách
đánh bí mật tiếp cận mục tiêu của du kích địa phương chính là cơ sở để Khu ủy
miền Đông nghiên cứu về vũ khí, về kỹ thuật, tổ chức, trang bị cho bộ đội thực
hiện nhiệm vụ đánh tháp canh, đánh bại chiến thuật Delatour.
I.1.7. Trận tấn công Yếu khu Trảng Bom năm 1951
Yếu khu Trảng Bom là căn cứ quân sự quan trọng của thực dân Pháp ở Biên
Hòa, được Pháp bố trí lực lượng quân gồm: đại đội lính Âu Phi, các đồn bót phụ
cận, ga xe lửa mỗi nơi một trung đội lính.
Tỉnh đội Thủ Biên (Biên Hòa, Thủ Dầu Một sát nhập) tổ chức trận đánh.
Lúc 17 giờ ngày 20 tháng 1 năm 1951, tiểu đoàn 303, đại đội Lam Sơn, đội biệt
động Thủ Biên được cải trang tấn công. Bộ đội từ trên xe nhanh chóng tiến vào
cổng, tiêu diệt tên lính gác, dùng bộc phá đánh phá cac lô cốt và chiếm xe thiết
giáp. Cùng lúc đó, tiểu đoàn 303 và đại đội Lam Sơn đánh chiếm các vị trí trong
khu trung tâm căn cứ quân sự địch và đồn lính tại khu vực sân banh. Bị tấn công
bất ngờ, lính địch không kịp chống trả. Một số bị tiêu diệt ngay tại chỗ, một số bị
thuơng, bỏ chạy.
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
15
Lực lượng vũ trang cách mạng làm chủ yếu khu trong vòng một tiếng đồng
hồ và sau đó rút về cứ. Kết quả trận đánh, quân cách mạng tiêu diệt 50 tên lính
Âu – Phi, bắt sống 50 tên và thu 200 vũ khí các loại, nhiều tấn đạn dược, lương
thực thực phẩm, quân trang quân dụng. Đây là trận tập kích táo bạo, bất ngờ của
lực lượng vũ trang Thủ Biên, giành thắng lợi lớn và làm cho quân Pháp bị tổn
thất nặng nề.
I.2. Những chiến công tiêu biểu của quân và dân Biên Hòa – Đồng Nai trong
kháng chiến chống đế quốc Mỹ (1954 – 1975)
Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ (1954 – 1975), quân và dân Biên Hòa
– Đồng Nai đã trải qua chặng đường 21 năm kháng chiến, quân và dân ta đã vượt
qua gian khổ mất mát, hy sinh để tiếp tục làm nên những chiến thắng quan trọng,
góp phần cùng cách mạng cả nước đi đến thắng lợi cuối cùng vào mùa xuân
1975. Trong chặn đường đầy gia khổ ấy, quân và dân Biên Hòa – Đồng Nai đã
góp công sức làm nên những chiến công vang dội như: Trận nổi dậy phá nhà lao
Tân Hiệp năm 1956; Trận đầu tiên diệt Mỹ tại Nhà Xanh, tháng 7 năm 1959;
Trận đánh vào sân bây Biên Hòa, tháng 10 năm 1964; Trận đánh vào Tổng kho
liên hợp hậu cần Long Bình, năm 1965; Tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân
năm 1968; Chiến dịch Xuân Lộc - đập tan cánh cửa thép của Mỹ ngụy năm 1975.
I.2.1. Cuộc nổi dậy phá nhà lao Tân Hiệp, năm 1956
Sau khi hiệp định Giơnevơ đươc ký kết vào ngày 20/7/1954, chính quyền
Ngô Đình Diệm đã công khai phá hoại hiệp định, đã tiến hành khủng bố, đàn áp
cách mạng miền Nam. Chính quyền Ngô Đình Diệm dựng lên 6 nhà tù lớn ở
miền Nam, trong đó có nhà tù Tân Hiệp (gọi là Trung tâm cải huấn Biên Hòa)
nhằm để giam cầm, tra tấn đày ải cán bộ, đảng viên và người yêu nước ở miền
Nam Việt Nam.
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
16
Thực dân Pháp lê máy chém khắp nơi chặt đầu những chiến sỹ yêu nước
Nhà tù Tân Hiệp là một trong 6 nhà tù lớn ở miền nam lúc bấy giờ có tên gọi
mị dân là “trung tâm huấn chính Biên Hòa. Nhà lao Tân Hiệp trước kia là bãi tha
ma chôn cất những người bạc số tử vì bệnh ở nhà thương Trí Biên Hòa. Sau khi
thực dân Pháp xâm lược chúng mở rộng và xây dựng đồn Tân Hiệp thành trại tù
binh chiến tranh. Đến năm 1955, Mỹ - Diệm cải tạo mở rộng trại tù binh chiến
tranh thành 1 trong 6 nhà tù lớn nhất ở miền Nam có tên gọi mị dân là trung tâm
huấn chính Biên Hòa nhân dân quen gọi là nhà lao Tân Hiệp. Nhằm giam giữ
phân loại và cải tạo tư tưởng những người cộng sản.
Nhà lao Tân Hiệp có 7 trại giam được gọi theo chữ cái A, B, E, D, G và trại
giam phụ nữ (trại ngoại). Trong đó, trại E, D, G và trại giam ngoại là nơi giam
giữ các chiến sĩ cách mạng, đảng viên Cộng sản trung kiên và đồng bào yêu
nước. Các trại này, kẻ thù xếp vào loại là “những trại cứng đầu” nên sự quản lý
và đối xử chặt chẽ, hà khắc hơn các trại khác.
Để bảo vệ nhà tù, Mỹ - Diệm đã xây dựng một hệ thống hàng rào hai lớp,
chín tháp canh, lô cốt được xây dựng kiên cố. Các tháp canh số 1, 3, 5, 7 được
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
17
trang bị súng trung liên, một loại vũ khí hiện đại lúc bấy giờ đễ dễ dàng trấn áp
khi có sự cố.
Sau luật 10/59 số tù nhân ở các nhà tù, nhà lao đã tăng lên đột ngột. Ở nhà
lao Tân Hiệp - Biên Hòa. Mỗi trại giam có diện tích 198 m2 đã giam giữ từ 250
đến 300 người. Mỹ - Diệm bắt anh em tù xây dựng thêm dãy xà lim còn gọi là
“trại giam tập thể” về phía đông nhà lao, bên cạnh trại giam phụ nữ. Khu trại
giam tập thể có diện tích 9.840 m2 (120 m x 82 m) toàn bộ nhà lao có kiến trúc
theo lối hình hộp vĩnh cửu, xây kiểu đúc liền. Mái bằng đổ bê tông. Mỗi phòng
có diện tích 113,46 m2 chia thành từng phòng nhỏ riêng biệt. Toàn bộ dãy xà lim
được bao bọc 2 lớp rào kẽm gai và xây thêm 2 tháp canh kiên cố về hướng Bắc
và Nam. Năm 1973, Mỹ - Diệm chuyển hết tù chính trị trung kiên sang biệt giam
ở dãy xà lim, các trại A, B, D, G, E... chúng giam thường phạm.
Đối với tù chính trị, tra tấn tù nhân để lấy lời khai là mục tiêu hàng đầu của
địch. Để lấy lời khai và để cải huấn những người tù trung kiên cai ngục đã sử
dụng nhiều hình thức tra tấn hết dã man hòng khuất phục ý chí kiên trung của các
chiến sĩ cách mạng.
Thế nhưng, trong lao tù khắc nghiệt, tàn bạo ấy, những chiến sĩ cách mạng
vẫn một lòng trung kiên với cách mạng, chấp nhận hy sinh để bảo toàn khí tiết
cộng sản, luôn thể hiện ý chí khát vọng sống mãnh liệt luôn hiệu hữu trong trái
tim những người yêu nước, từng ngày vẫn luôn hướng về Tổ quốc thân yêu, tiếp
tục đấu tranh vì quê hương.
Bằng nhiều hình thức và biện pháp đấu tranh, những chiến sĩ yêu nước đã
biến nơi này thành trường học để rèn luyện, thử thách bản lĩnh của người chiến
sĩ Cộng sản. Trong nhà tù, đã hình thành tổ chức Đảng để chỉ đạo, lãnh đạo
phong trào đấu tranh. Đặc biệt, tổ chức Đảng trong nhà tù đã lên kế hoạch cho
một cuộc nổi dậy phá khám để trở về với cách mạng.
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
18
Chiều chủ nhật ngày 02/12/1956, tại Nhà lao Tân Hiệp, dưới mắt địch, mọi
sinh hoạt vẫn diễn ra bình thường như mọi ngày. Thế nhưng, một đợt sóng trào
đang bắt đầu chực chở nổi lên khi có hiệu lệnh, thời cơ.
Bao khó khăn gian khổ thậm chí cả hy sinh đang trước mặt nhưng trong
lòng họ với niềm tin sẽ tự nổi dậy, phá khám cướp súng địch, trở về với Đảng,
với nhân dân trở thành niềm tin cho thắng lợi. Đúng 17 giờ 45 phút, đồng chí
Phạm Văn Còn – được phân công xé chiếc áo trắng trương lên làm ám hiệu, lập
tức tiếng hô “xung phong” vang dậy khắp trại. Các tổ theo kế hoạch mà tổ chức
Đảng đã phân công cùng nhất loạt thực hiện để phá khám, vượt ngục.
Cuộc nổi dậy phá khám Tân Hiệp của chính trị phạm diễn trong vòng 40
phút. Ta đã giải thoát được ta đã giải thoát được 462 cán bộ, đảng viên về với
cách mạng, thu được hơn 40 khẩu súng các loại là nguồn nhân lực và vật lực quí
báu bổ sung cho phong trào cách mạng miền Nam ở miền Đông Nam bộ sau này.
Di tích Nhà lao Tân Hiệp nơi diễn ra cuộc nổi dậy phá nhà lao năm 1956
I.2.2. Trận đầu diệt Mỹ tại nhà Xanh, năm 1959
Di tích Nhà Xanh hiện nay nằm trong khuôn viên trường Cao đẳng nghề ở
phường Thống Nhất, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Nơi đây đã diễn ra trận
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
19
diệt Mỹ đầu tiên. Di tích Nhà Xanh đã được bộ Văn hóa thông tin xếp hạng Di
tích lịch sử cách mạng cấp Quốc gia theo QĐ số 235/VH- QĐ ngày 12/12/1986.
Di tích lịch sử nhà xanh hiện nay là điểm sinh hoạt truyền thống, về nguồn đồng
thời còn là nơi sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao trong những ngày lễ
lớn của đất nước.
Trận đầu diệt Mỹ là trận đánh vào phái đoàn cố vấn quân sự Mỹ MAAG (
Mission Army American Group) tại Biên Hòa. Tháng 7 năm 1956 Mỹ Diệm
khủng bố phong trào Cách mạng miền Nam rất ác liệt. Đặc biệt tháng 5/1959
Diệm ban hành luật 10/1959 khủng bố trắng phong trào cách mạng. Cả miền
Nam rên xiết dưới ách kiềm kẹp của Mỹ Diệm. Trước tình hình đó liên tỉnh Ủy
miền Đông quyết định tổ chức trận tập kích vào bọn cố vấn Mỹ, mục tiêu được
chọn tấn công là Nhà Xanh. Thực hiện trận đánh là phân đội đặc công C250 do
đồng chí Nguyễn Văn Hoa chỉ huy cùng 05 đồng chí nữa là Huề, Phú, Bé, Sắc,
Hưng. Địa điểm ém quân tại Gò Me cách khu cư xá hơn 200 mét, Ngày 7/7/1959
đực là ngày tấn công và cũng chính là ngày chính quyền Diệm tổ chức kỷ niệm 5
năm chấp chính.
Di tích nhà Xanh – nơi diễn ra trận đầu diệt Mỹ năm 1959
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
20
Vào lúc 19 giờ ngày 7/7/1959, phân độc C250 hóa trang lính đi tuần từ
Gò Me tiến về khu cư xá. Sau khi diệt tên gác cổng, phân đội C250 chia làm 3
mũi tấn công ( mỗi mũi 02 người), mũi thứ nhất ém quân sau cánh cửa sổ tầng
trệt chĩa súng bắn vào; mũi thứ hai núp sau cửa sổ chân cầu thang dùng súng máy
tấn công; mũi thứ ba gồm đô Huề, Sắc dùng mìn điện đưa vào bên trong phòng
giữa lúc bọn Mỹ đang xem phim, 06 cố vấn Mỹ đang say sưa theo dõi bộ phim
“cái áo rách”. Cuốn phim thứ nhất vừa hết, đèn bật sáng, đ/c Huề và Sắc chưa
kịp đặt mìn thì tên bồi bếp xuất hiện. Đồng chí Nguyễn Văn Hoa cho lệnh nổ
súng vào bọn cố vấn, đồng chí Nguyễn Văn Huề chấp nhận hy sinh ôm quả mìn
lao vào trong hô to: “Chấm điện” để đồng chí Sắc chấm điện cho nổ.
Trận đánh diễn ra chớp nhoáng trong vòng chưa tới 15 phút, kết quả diệt
được hai cố vấn Mỹ là thiếu tá Mỹ Bael Buis và trung sĩ Chester overmad chết tại
chỗ và đại úy Howard B.boston bị thương. Trận đánh vào Nhà Xanh đã gây tiếng
vang lớn trong và ngoài nước, báo chí Sài Gòn và phương tây đưa tin “Cố vấn
Mỹ Buis và Ovmand là hai người lính Mỹ đầu tiến chết trận trong kỷ nguyên
Việt Nam”.
Nhà Xanh là nơi ghi dấu ấn đậm nét sự can dự của Mỹ vào miền Nam Việt
Nam, đồng thời nơi đây còn thể hiện tinh thần ý chí cách mạng của quân dân
Biên Hòa- Đồng Nai trong cuộc káng chiến chốing kẻ thù xâm lược.
Ngày nay, tại thủ đô nước Mỹ Washington trên bức đá ghi tên những
quân nhân Mỹ chết trận tại Việt Nam theo thứ tự thời gian thì Buis và Ovmand
là hai lính Mỹ đầu tiên trong danh sách.
I.2.3. Trận tấn công vào sân bay Biên Hòa, năm 1964
Sân bay Biên Hòa là sân bay quân sự của chính quyền Sài Gòn. Diện tích
sân bay rộng khoảng 49 km2 với 2 đường băng dài 3.600m, 1000m. Hệ thống
phòng thủ sân bay nhiều tầng lớp rào, canh gác cẩn mật và có hệ thống ra đa, chỉ
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
21
huy liên lạc hiện đại, cách Sài Gòn 30km thường xuyên có từ 170 đến 190 máy
bay cùng đậu và Sân bay được bố trí phòng ngự rất nghiêm. Đây là căn cứ xuất
phát của các loại máy bay Mỹ đi đánh phá các lực lượng cách mạng ở miền Đông
Nam Bộ.
Trận tấn công vào sân bay Biên Hòa
( Nguồn Internet)
Chiều 31/10/1964, từ Chiến khu Đ các đơn vị bộ đội ta xuất phát hành quân
về Biên Hòa. Được các đội trinh sát biệt động thị xã Biên Hòa, bộ đội du kích
huyện Vĩnh Cửu và cơ sở mật phục vụ, hướng dẫn, các đơn vị pháo cối của ta đã
bí mật hành quân đến vị trí tập kết, bố trí 128 trận địa tại Hóc Bà Thức (Tân
Phong) cách sân bay Biên Hòa 1 km về phía đông bắc. Lúc 23 giờ 30 đêm 31
tháng 10 năm 1964 pháo cối ta bắt đầu cấp tập bắn và sân bay. Từng cụm lửa bốc
cháy sáng rực cả một góc trời. Cả thị xã Biên Hòa và các vùng phụ cận rung lên
vì những tiếng nổ long trời lở đất. Chỉ trong vòng 15 phút, 130 quả đạn cối rơi
gọn và chính xác xuống các mục tiêu, phá hủy 59 máy bay, trong đó có 21 máy
bay B57, loại máy bay tối tân của Mỹ lúc bấy giờ mới đưa từ Philippin sang,
chuẩn bị gây tội ác ở miền Bắc, 11 máy bay AD6, một máy bay do thám U2, diệt
và làm bị thương 293 tên địch, tiêu hủy và làm nổ tung hai kho bom đạn lớn, một
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
22
kho xăng, một đài quan sát và 18 trại lính. Địch không kịp phản kích, lực lượng
ta rút về căn cứ an toàn. Đây là một trận đánh táo bạo bất ngờ. Lần đầu tiên pháo
binh Miền đã tận dụng yếu tố bí mật, kết hợp với lực lượng địa phương và phong
trào cách mạng của quần chúng nhân dân luồn sâu vào lòng địch, dùng một lực
lượng nhỏ đánh một mục tiêu lớn và quan trọng, đồng thời khắc phục có hiệu quả
những hạn chế, nhược điểm của vũ khí đạn dược, cơ động nhanh chóng, bám sát
mục tiêu, bắn tập trung đạt hiệu suất cao, mở đầu cho những trận pháo kích, tập
kích vào các vị trí mục tiêu chiến lƣợc quan trọng của Mỹ, ngụy sau này. Chiến
thắng sân bay Biên Hòa làm nức lòng quân dân cả nước và bạn bè khắp năm
châu. Lực lượng pháo binh Miền được tặng thưởng Huân chương Quân công
hạng nhất, loại huân chương cao nhất lần đầu tiên được tặng thưởng ở miền Nam
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Bác Hồ kính yêu đã viết thơ ca ngợi
chiến thắng sân bay Biên Hòa:
“Uy danh lừng lẫy khắp năm châu
Đạn cối tuôn cho Mỹ bể đầu
Thành đồng trống thắng lay lầu trắng.
Điện Biên, Mỹ chẳng phải chờ lâu”
Chiến công to lớn này có phần đóng góp không nhỏ của Đảng bộ, quân và
dân Biên Hòa, trực tiếp là lực lượng vũ trang huyện Vĩnh Cửu và thị xã Biên
Hòa. Những thắng lợi to lớn dồn dập của quân và dân ta khắp nơi đặc biệt là
chiến thắng sân bay Biên Hòa đã cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào đấu tranh cách
mạng của quân và dân trong toàn tỉnh. Chiến thắng sân bay Biên Hòa có ý nghĩa
quan trọng, góp phần đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ.
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
23
I.2.3. Trận đánh vào Tổng kho liên hợp hậu cần Long Bình, năm 1966
Năm 1965 quân viễn chimh Mỹ và đồng minh của chúng trực tiếp đổ quân
xâm lược miền Nam. Nhiều căn cứ, quân sự kho tàng được mỹ xây dựng ở Biên
Hòa, trong đó là tổng kho Long Bình với 02 khu quan trọng là khu kho đồi 50 và
53. Kho liên hợp hậu cần Long Bình rộng 24 km2, cách thành phố Biên Hòa
khoảng 7 km2 và Sài Gòn 30 km2. Bao quanh khu kho Long Bình có từ 7 đến 9
lớp rào kẽm gai các loại, có gài mìn, lựu đạn, bên trong có nhiều đường để cơ
giới tuần tra .
Ngày 22/6/1966, 6 chiến sĩ đặc công gồm: Nguyễn Tấn vàng, Nguyễn Văn
Thái, Bùi Văn Hòa, Trịnh Văn thoàn, Phạm Văn Rô tiến vào mục tiêu, theo kế
hoạch, từ 1 đến 2 kho đặt một quả mìn hẹn giờ, khi các chuến sĩ đã đặt mìn hẹn
giờ xong và rút khỏi mục tiêu, khu kho đồi 53 nổ tung, tiếng nổ làm chấn động cả
Biên Hòa và Sài Gòn, tiếng nỏ liên tục cho đến ngày hôm sau; 40.000 quả đạn
đại bác ở khu kho đồi 53 bị phá hủy.
Những chiến thắng lớn ở sân bay Biên Hòa, Tổng kho Long Bình, Thành
Tuy Hạ, kho xăng Nhà Bè mãi mãi ghi truyền trong sử sách, nhằm giáo dục
truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau.
Hình ảnh trận đánh vào Tổng kho Long Bình ( Nguồn Internet)
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
24
I.2.4. Cuộc nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968
Đến cuối năm 1967, trên toàn chiến trường miền Nam, quân và dân ta đã
giành được thắng lợi to lớn… Đặc biệt, ta đã làm thất bại hai đợt phản công chiến
lược mùa khô 1965 – 1966 và 1966 – 1967 của địch. Tháng 12 năm 1967 hội
nghị Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định: “Động viên
những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân cả hai miền đưa cuộc
cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất bằng phương pháp tổng công kích
tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định”. Căn cứ nghị quyết của Bộ Chính
trị, Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền đã đề ra kế hoạch tổng công
kích, tổng khởi nghĩa ở miền Nam. Trọng điểm của chiến trường B2 (Nam Bộ) là
Sài Gòn – Gia Định và miền Đông Nam Bộ. Mục tiêu là đánh chiếm các thành
phố, thị xã, làm tan rã đại bộ phận quân ngụy, diệt một bộ phận quân viễn chinh
Mỹ và chư hầu, đánh đổ ngụy quyền các cấp, làm chuyển biến cục diện chiến
trường, tiến lên giành thắng lợi quyết định.
Thị xã Biên Hòa được Trung ương Cục xác định là trọng điểm của cuộc
Tổng công kích – Tổng khởi nghĩa ở miền Đông. Sau khi quán triệt ý nghĩa mục
đích, yêu cầu quan trọng của chiến dịch, đồng chí Lê Đức Anh nêu rõ các mục
tiêu tiến công cụ thể ở thị xã Biên Hòa là: sân bay bộ tư lệnh quân đoàn 3 ngụy,
khu kho liên hợp Long Bình, bộ tư lệnh dã chiến 2 Mỹ, tòa hành chính tỉnh, ty
cảnh sát ngụy, chi khu Công Thanh, chi khu Đức Tu, chi khu Trảng Bom. Ở địa
bàn các xã phường, lực lượng biệt động, du kích, tự vệ mật tiến công các đồn bót,
trụ sở tế ngụy, diệt ác phá kềm, phát động quần chúng nổi dậy giành quyền làm
chủ.
Ở thời điểm này lực lượng địch đóng quân trên địa bàn Biên Hòa, Long
Khánh gồm có: ba lữ đoàn quân Mỹ (lữ đoàn dù 173, hai lữ đoàn bộ binh 199 và
314), trung đoàn 11 thiết giáp đóng ở Suối Râm – Long Khánh, bộ tư lệnh dã
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
25
chiến 2 Mỹ đóng ở Long Bình, các cụm pháo ở Gia Ray, Sông Thao, Trảng Bom,
Suối Đĩa…
Hình ảnh cuộc nổi dậy xuân Mậu Thân 1968( Nguồn Internet)
Giờ G ngày N thống nhất toàn Miền theo quy định mật của Bộ Chỉ huy
Miền vào đêm 30 Tết Mậu Thân 1968. Đúng 0 giờ đêm 30 Tết (31 tháng 1 năm
1968) pháo tên lửa của Trung đoàn 724 ĐKB từ trận địa bắc sông Đồng Nai bắn
liên tục vào sân bay Biên Hòa 110 quả đạn ĐKB gây thiệt hại nặng cho sân bay,
máy bay không cất cánh được. Tên lửa bắn sâu vào sân bay cũng là hiệu lệnh tiến
công ở mặt trận Biên Hòa.
Cũng trong đêm 1 rạng 2 Tết Mậu Thân (31 tháng 1 năm 1968), một đại đội
của Tiểu đoàn 2 đặc công U1 do đồng chí Nguyễn Văn Thái (chỉ huy đột nhập
vào kho Long Bình ở cao điểm 53 đánh phá hủy 127 kho chứa bom đạn Mỹ.
Tiếng nổ và lửa bốc cháy kéo dài suốt mấy ngày liền làm chấn động cả thị xã
Biên Hòa và các vùng phụ cận.
Bên trong thị xã Biên Hòa, lực lượng du kích, tự vệ mật cũng tổ chức tiến
công một số đồn bót của bọn tế ngụy, quần chúng cơ sở treo cờ, biểu ngữ rải
truyền đơn khắp các xã, ấp. Sau một ngày đêm tiến công quyết liệt ở mặt trận
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
26
Biên Hòa, các lực lượng vũ trang giải phóng đã loại khỏi vùng chiến đấu trên
5.000 tên Mỹ, ngụy, phá hủy và làm hư hỏng 120 máy bay các loại, 127 kho bom
đạn và nhiều phương tiện chiến tranh của Mỹ, ngụy.
Hình ảnh bộ đội tham gia cuộc nổi dậy xuân Mậu Thân
Qua một năm liên tiếp tấn công và nổi dậy, quân và dân Biên Hòa, Long
Khánh phối hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực đã đồng loạt đánh vào hậu cứ, bộ chỉ
huy, sân bay, kho tàng, các chi khu, yếu khu, tiêu diệt, tiêu hao nhiều sinh lực
địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh hiện đại của Mỹ, ngụy góp phần vào
chiến thắng chung của quân và dân toàn miền Nam, làm cho ý chí xâm lược của
đế quốc Mỹ lung lay, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh, chấm dứt ném
bom phá hoại miền Bắc, ngồi vào đàm phán với ta ở Pari.
I.2.5. Chiến dịch Xuân Lộc đập tan cánh cửa thép cho đại quân ta tiến
về Sài Gòn giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước
Những tháng đầu năm 1975, trước tình hình miền Nam trên đà nguy
cấp do sức tấn công của quân giải phóng, ngày 28 tháng 3, tướng Uây-oen (Tham
mưu trưởng lục quân Mỹ) cùng phái đoàn quân sự Nhà Trắng vội vã đến Sài Gòn
để bàn việc cứu nguy cho việc chống giữ. Địch quyết định chọn Xuân Lộc –Long
Khánh làm “tuyến phòng thủ thép” để giữ Sài Gòn.
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
27
Ngày 9/4/1975 chiến dịch Xuân Lộc mở màn, sau đó các đợt pháo bắt
vào các mục tiêu trong thị xã, chỉ sau 2 giờ đồng hồ quân ta đã chiếm lĩnh được
Ty cảnh sát, Dinh Tỉnh trưởng, Khu cố vấn Mỹ, Trụ sở tình báo CIA và một số
cơ sở trong nội ô thị xã Long Khánh.
Ngày 12/4 Lữ đoàn dù số 1 con át chủ bài của ngụy đã được tung vào
Xuân Lộc. Với ý chí quyết tâm tiêu diệt quân địch tại Xuân Lộc chúng ta đã mở
rộng giải phóng các vùng phụ cận lần lượt là chi khu Kiệm Tân, Suối Tre, An
Lộc đều được giải phóng. ngày 15 tháng 4, ta tiêu diệt chiến đoàn 32 ( Sư 18),
tại ngã ba Dầu Giây.
Trong cơn tuyệt vọng địch điên cuồng chúng tăng cường viện binh,
đánh trả và sử dụng những vũ khí sát hại nguy hiểm. Địch đã dung bom CBU
(loại bom hơi ngạt, đốt cháy ôxy) thả xuống chiến trường và gây tổn thất lớn cho
quân và dân thường vô tội.
Đúng 8 giờ sáng ngày 21/4/1975 Xuân Lộc tuyến phòng thủ cuối cùng của
địch hoàn toàn bị phá sản. Báo chí phương Tây lên tiếng bình luận rằng: Số phận
của Thành Phố Sài Gòn đang được định đọat ở Xuân Lộc, một thị trấn có 10 vạn
dân, cách Thành Phố Sài Gòn 78km về phía đông bắc. Đó là chiếc xoáy ốc cuối
cùng.” Giải phóng xuân lộc là một ý nghĩa chiến lược của chiến dịch Hồ Chí
Minh. Và đúng như dự tính, quân giải phóng sau khi đã phá vỡ tuyến phòng thủ
thép Xuân Lộc đã nhanh chóng tiến vào giải phóng Sài Gòn, giải phóng hoàn
toàn miền Nam. Lịch sử dân tộc ta bước sang trang sử mới.
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
28
Bắt tướng chỉ huy địch ở tiểu khu Long Khánh năm 1975
(Nguồn Bảo tàng Đồng Nai)
Đêm 29 tháng 4, Uỷ ban khởi nghĩa Bình Trước đã vận động quần chúng, tự
vệ mật phá nhà lao tỉnh Biên Hoà, giải thoát hàng trăm tù nhân. 6 giờ sáng 30
tháng 4, đảng viên mật của chi bộ chợ Biên Hoà là Trương Thị Sáu được cơ sở
mật là nội tuyến của ta trong biệt động quân bảo vệ đã hạ cờ ba que, kéo cờ Mặt
trận ở cột cờ dinh tỉnh trưởng Biên Hoà. Cùng thời gian, các cơ sở mật bên trong
đã thượng cờ Mặt trận ở dinh tư lệnh quân đoàn 3 (nay là Nhà thiếu nhi tỉnh), chi
khu Đức Tu, giải phóng hoàn toàn khu kỹ nghệ Biên Hoà. 10 giờ 30 phút, Ủy
ban khởi nghĩa tỉnh Biên Hoà cùng Trung đoàn 5 – Sư đoàn 6 tiến vào toà hành
chánh Biên Hoà trước rừng người và cờ hoa chào đón hai bên đường Trịnh Hoài
Đức (nay là đường 30 tháng 4). Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử toàn thắng, miền
Nam nói chung và tỉnh Biên Hoà hoàn toàn giải phóng. Cuộc kháng chiến cứu
nước của dân tộc ta kết thúc thắng lợi vẻ vang.
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
29
I.3. Cảm nhận của bản thân về truyền thống đấu tranh cách mạng của
nhân dân Biên Hòa – Đồng Nai . Những việc làm thiết thực của bản thân để
phát huy truyền thống cách mạng ấy.
Tuổi trẻ với rất hoài bão và khát vọng đã thôi thúc tôi đi đến vùng đất mới
.18 tuổi, chân ướt chân ráo, tôi từ vùng quê xa xôi đến Biên Hòa lập nghiệp.
Ngày qua ngày, khi tình cảm đã chín muồi, tôi nhận ra Biên Hòa như quê hương
thứ hai của mình. Mình yêu nơi đây tự bao giờ. Mỗi ngày trôi, tôi cảm nhận được
Biên Hòa lại khoác thêm màu áo mới, trẻ trung, năng động hơn nhưng vẫn giữ
được những nét đẹp truyền thống vốn có đó là truyền thống đấu tranh cách mạng.
Từ thuở các Vua Hùng dựng nước cho đến khi cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng
lợi, dân tộc Việt Nam đã viết nên bao trang sử hào hùng. Thế kỷ XX khép lại
bằng biết bao cuộc chiến thắng oanh liệt của dân tộc Việt Nam. Một cuộc chiến
đấu và chiến thắng kỳ diệu, góp phần đánh tan âm mưu xâm lược của địch. Trong
cuộc kháng chiến đó trên mảnh đất Biên Hòa – Đồng Nai đã gắn liền với những
chiến công oanh liệt.
Qua quá trình tìm hiểu về lịch sử vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai đã trải qua
320 năm hình thành và phát triển, tôi được biết Biên Hòa trong kháng chiến
chống Mỹ, từng là trung tâm thành phố lớn thuộc miền Đông nam bộ, là trung
tâm văn hóa, kinh tế chính trị, là lá chắn phía Đông nam của Sài Gòn. Chính vì
vậy trong quá trình xâm lược nước ta thực dân Pháp đã tập trung bộ máy quân sự,
tăng cường lực lượng xây dựng nhà tù, đồn bót củng cố chính quyền tay sai để
thực hiện âm mưu xâm chiếm nước ta. Để đạt được mục đích địch đã dùng đủ
mọi cách, gây biết bao tội ác với quân và dân ta. Hiện tại tôi là một giáo viên
đang công tác tại trường phổ thông cơ sở Trần Hưng Đạo, thành phố Biên Hòa,
ngày qua ngày khi đứng trên bục giảng ngoài kiến thức văn hóa theo chương
trình Bộ Giáo dục – Đào tạo đưa ra, tôi còn với mong muốn truyền đạt những
kiến thức bổ ích, nhất là những kiến thức về giá trị văn hóa – lịch sử. Vì vậy,
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
30
trong những giờ học tôi luôn lồng ghép bài giảng qua những câu chuyện lịch sử
sinh động giúp các em có hiểu biết hơn về lịch sử tỉnh nhà, đặc biệt là truyền
thống yêu nước, đoàn kết đánh đuổi giặc ngoại xâm bảo vệ đất nước. Tôi muốn
mình như người trồng cây, gieo vào lòng các em tình yêu nước, để hạt giống đó
nảy mầm và cùng các em trưởng thành. Tình cảm đó sẽ là sự diều kì nuôi dưỡng
tâm hồn con người ta suốt cuộc đời.
Để tìm hiểu rõ về lịch sử kháng chiến của vùng đất Biên Hòa – Đồng nai
qua 320 năm hình thành, tôi đã đến tham quan các di tích lịch sử cách mạng như:
Di tích Đền thờ Đoàn Văn Cự và 16 nghĩa quân đã hy sinh trong những ngày đầu
chống thực dân Pháp, Di tích Nhà lao Tân Hiệp – nơi diễn ra cuộc vượt ngục đưa
được 462 chiến sĩ về với Đảng với nhân dân để tiếp tục chiến đấu chống đế quốc
Mỹ, di tích Nhà Xanh nơi diễn ra trận diệt Mỹ đầu tiên năm 1959, đến thắp
hương tại tượng đài Chiến thắng sân bay Biên Hòa và tham quan Bảo tàng
tỉnh…Trong các nội dung trưng bày tại các di tích, bảo tàng tôi đặc biệt ấn tướng
mô hình và hiện vật trưng bày nội dung giới thiệu về di tích nhà lao Tân Hiệp.
Bằng những hiện vật, hình ảnh, mô hình trưng bày đã thể hiện sinh động những
gian khổ, hy sinh mất mát của thế hệ đi trước bị giam cầm trong nhà lao Tân
Hiệp. Tôi cảm thấy như có một luồng điện chay qua người, những hiện vật, hình
ánh đó làm tôi hình dung được phần nào những cực hình mà họ phải trải qua, sự
mất mát , lòng dũng cảm, gan dạ và sự thông minh của thế hệ trước đã phải chịu
đựng mà vươn lên. Những chiến sĩ cách mạng ấy, dù phải chịu nhiều hình thức
tra tấn hết sức dã man, tàn bạo nhưng trong gian khó tình yêu nước của họ là bất
khuất con người Việt Nam vẫn cố gắng đoàn kết vươn lên cùng nhau hành động
và đã làm nên điều diệu kì, đã làm trọn sứ mệnh dân tộc giao phó. Bao cam go,
ác liệt, thậm chí cả hy sinh đang trước mặt nhưng trong lòng họ với niềm tin sẽ tự
nổi dậy, phá khám cướp súng địch, trở về với cách mạng, với nhân dân trở thành
niềm tin cho thắng lợi.
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
31
Qua hội thi là dịp để tôi hiểu biết hơn về giá trị lịch sử - văn hóa của tỉnh
nhà, trân trọng truyền thống đấu tranh cách mạng vẻ vang, những chiến công
oanh liệt của quân và nhân dân Biên Hòa – Đồng Nai qua hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Hội thi còn giúp tôi càng thêm yêu, thêm
gắn bó với mảnh đất Đồng Nai thân thương. Tôi sẽ tham gia tích cực hơn nữa
trong công tác tuyên truyền những giá trị văn hóa lịch sử kháng chiến bằng
những bài giảng thiết thực sinh động, liên kết giữa trường học và Ban quản lý di
tích, bảo tàng tỉnh bằng những kế hoạch cụ thể để đưa học sinh đến tham quan
học tập tìm hiểu lịch sử tại các di tích, bảo tàng tỉnh. Sau những buổi tham quan
các em sẽ làm bài và thuyết trình trước lớp. Với mong muốn mỏi học sinh sẽ là
một thuyết minh viên có thể giới thiệu về giá trị lịch sử - văn hóa về di tích,
những sự kiện lịch sử cách mạng đến gia đình người thân, bạn bè…Để người
dân, thế hệ học sinh, sinh viên hiểu biết thêm về sự hy sinh gian khổ của thế hệ
ông, cha đi trước đã không tiếc máu xương, tuổi thanh xuân để chúng ta được
sống và làm việc ở một đất nước tự do, hạnh phúc như ngày hôm nay. Đồng thời,
giúp các em biết quí trọng nền hòa bình độc lập, ra sức học tập thi đua, bảo vệ
thành quả cách mạng và xây dựng đất nước ta ngày càng phát triển.
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
32
Câu 2: Hãy cho biết và nêu cảm nhận về những tập quán, tín ngưỡng dân
gian của người dân Biên Hòa – Đồng Nai; từ đó giới thiệu một hoạt động tập
quán, tín ngưỡng dân gian gắn với cộng đồng xã hội mà anh (chị) từng biết
hoặc tham gia? Để phát huy và bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc trong giai
đoạn hiện nay anh (chị) sẽ làm gì?
II.1. Trình bày và nêu cảm nhận về những tập quán, tín ngưỡng dân
gian của người dân Biên Hòa – Đồng Nai; từ đó giới thiệu một hoạt động tập
quán, tín ngưỡng dân gian gắn với cộng đồng.
II.1.1. Tập quán và lễ thức trong một vòng đời người
II.1.1.1. Hôn nhân
Quan niệm về hôn nhân không khe khắt, chỉ những nhà gia thế mới tính
chuyện môn đăng hộ đối, còn lại số đông trong dân dã vốn ít phân biệt giàu -
nghèo, chủ - tớ, sang - hèn, chuyện hôn nhân thường chọn lựa theo tiêu chuẩn
"vừa đôi phải lứa", không cùng trực hệ và "được tuổi". Trường hợp chênh lệch
tuổi giữa trai gái, người ta dễ dàng chấp nhận sự "lệch chuẩn: Gái hơn hai, trai
hơn một".
Trai gái tìm hiểu khi thuận lòng nhau, về thưa với ba má để gia đình nhà trai
"bước tới". Một đám cưới bình thường của cư dân Việt thường được chú trọng
các lễ: Lễ hỏi, lễ biếu (xêu), lễ xuất giá (cô gái khấn cáo ông bà, cha mẹ sáng mai
về nhà chồng), lễ rước dâu, lễ lại mặt. Gần đây, lễ thức còn đơn giản hơn, chủ
yếu là lễ hỏi và lễ cưới. Có nơi thêm lễ thăm nhà, còn gọi là lễ chạm ngõ trước lễ
hỏi. Trước ngày cưới 8 ngày, có nơi còn làm lễ khai bát nhật (lập hôn ước, khai
tên tuổi, sức khỏe của trai gái). Lễ này xuất hiện từ khi thực dân Pháp cầm
quyền.
Sau lễ hỏi, trai gái được xem là vợ chồng chưa cưới. Trường hợp có đại
tang, việc cưới xin vẫn có thể được tiếp tục nếu đã được tang chủ cho phép xả
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
33
tang ngay khi sắp cử hành lễ động quan. Hoặc sớm hơn thì có thể chuyển ngày
cưới trước khi có đại tang gọi là cưới chạy tang.
Lễ cưới được họ hàng, làng xóm cùng chăm lo. Trai gái lo việc dựng cổng,
trang trí bàn ghế; gái lo việc làm bánh, bếp núc. Chăm lo phụ giúp cho lễ cưới là
niềm vui và trách nhiệm của cộng đồng. Đôi vợ chồng mới cưới được chăm lo
cảm thấy hãnh diện, ấm cúng và có trách nhiệm với nhau hơn trong cuộc sống.
Đàng trai đến nhà gái được tiếp đón bằng tràng pháo giòn giã và có người
đón tận ngõ, khi vào nhà có người "rước dù", "rước quả". Nhà gái đã bố trí sẵn,
thành phần chính gồm: Ông (bà) mai, cha mẹ, đại diện họ hàng được mời vào nơi
bàn chính đối diện với bàn thờ tổ tiên. Đàng trai được ngồi vào vị trí, dấu hiệu là
chiếc bình bông trên bàn thờ. Bình bông thường đặt theo hướng "đông bình, tây
quả". Đông theo cách của thợ mộc là hướng của cây đòn đông trên nóc nhà, tức
bên trái, hay nói cách khác:"Nam tả nữ hữu". Lễ vật bày ra, ông (bà) mai tuyên
bố lý do, nêu lễ vật. Lời nói khéo léo thường dẫn dắt lễ vật đi liền với ý nghĩa
luân lý, mỹ tục. Nhà gái nhận lễ (có lại quả như ở lễ hỏi). Chủ gia thắp ba cây
nhang khấn vái ông bà báo việc hôm nay gả con gái lấy chồng. Cô dâu được mời
ra trong trang phục cổ truyền có dâu phụ đi kèm. Lễ lên đèn được thực hiện trang
trọng; ông (hoặc bà) mai cầm đôi đèn từ lễ vật của nhà trai đốt cho cháy cùng
một lúc, khấn vái:
Đoàn người rước dâu gồm đại diện họ hàng, cơ cấu cũng đi lẻ về chẵn.
Người mẹ không đưa dâu, thường cài vào áo cưới của con gái một chiếc kim
băng hoặc một cái lông nhím hay móc tai, gọi là để trừ tà, nhưng lời dặn thực là
để sử dụng trong lúc bất trắc đêm tân hôn.
II.1.1.2. Tang ma
Khi gia đình có người vừa trút hơi thở cuối cùng, việc đầu tiên là phải "hú
vía", đến khi không còn hi vọng, mới tắm rửa cho xác chết gọi là "mộc dục". Sau
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
34
đó, người chết được đặt trong buồng hoặc nhà dưới, bỏ vào miệng ba hột gạo (có
nơi bỏ thêm một đồng tiền xu) gọi là phạn hàm, rồi đắp mặt, đốt nhang trên đầu
nằm. Trường hợp chết bệnh, thường đặt trên bụng một nải chuối sứ gọi là để hút
tà khí.
Khi báo tang xong, gia chủ nhờ người coi tuổi, coi ngày giờ để phân xếp
việc tang lễ. Giờ tẩm liệm được chọn là giờ tốt, có tính đến thời gian hội đủ mặt
người thân thích. Trước khi chưa tẩm liệm, chó, mèo trong nhà được nhốt lại, có
người luôn canh xác để không con vật gì có thể vượt ngang qua. Tục này gắn với
hàng loạt truyện quỉ nhập tràng lưu truyền ở địa phương. Những gương kiếng
tranh tượng phật trong nhà phải che (dán) lại bằng vải (giấy) đỏ có dấu vôi trắng,
nhiều nơi còn quay mặt tượng Phật về bên phải.
Giờ tẩm liệm, hội đủ mặt những người thân không kị tuổi. Hòm được đặt
giữa nhà (nếu nhà có người cao niên hơn còn sống thì chiếc hòm đặt lệch sang
một bên để tỏ ý khiêm nhường), kê quay đầu ra ngoài với ý nghĩa luôn nhớ về
nhà, phân biệt với cách của người Hoa: Quay đầu vào trong để một đi không trở
lại.
Lễ thành phục được xem là lễ chính thức của việc tang. Trong lễ thành phục,
người thân quì trước quan tài nghe thầy cúng đọc kinh và phát khăn tang. Sau lễ
thành phục là lễ phúng điếu của họ hàng, xóm làng.
Đến ngày giờ tốt đã định, bắt đầu lễ động quan. Việc động quan do đạo tì
đảm nhiệm. Đạo tì gồm những thanh niên, trai tráng trong làng mặc đồng phục
thao tác theo lệnh của người chỉ huy.
Quan tài vừa chuyển động, người nhà đập tan siêu hoặc niêu đất cho tiếng
kêu to để đánh thức và xua ma quỉ. Đám tang giàu có theo lối xưa, còn có tục
đánh động phá quàng diễn tích thầy trò Tam Tạng mở đường đi thỉnh kinh ở
chùa, cầu siêu hoặc mở đường đưa vong hồn người chết về Tây phương cực lạc.
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
35
Lễ mở cửa mả được thực hiện trong buổi sáng ngày thứ ba tính từ ngày an
táng. Lễ vật gồm: 3 ống tre đựng gạo, nước, muối bịt đầu bằng vải trắng cắm
trước mộ, đó là thức ăn, món uống của người chết. Một cái thang bằng tàu chuối
(nam 9 nấc, nữ 7 nấc) đặt trước mộ để vong linh người chết leo lên "cõi trời".
Một con gà con được cột chân vào ngọn cây mía.
Nếu gia đình sùng đạo Phật, sau lễ mở cửa mả là các lễ cúng thất, còn gọi là
làm tuần, mỗi thất cách nhau 7 ngày. Lễ cúng tại nhà hoặc tại chùa.. Sau lễ chung
thất, gia chủ vẫn phải cúng cơm ngày hai bữa cho đến lễ 100 ngày, gọi là lễ tốt
khốc; đúng một năm sau cúng giỗ đầu gọi là tiểu tường; lần giỗ thứ hai gọi là đại
tường, còn gọi là lễ xả tang, vì trong ngày này, đồ tang được đem đốt, có khi còn
đốt với đồ mã. Sau lễ đại tường, coi như là xong việc tang. Từ đó, người nhà
cúng giỗ hàng năm.
II.2.1. Phong tục thờ cùng trong nhà
II.2.1.1. Thờ cúng ông bà, tổ tiên
Đối với người Việt bao đời nay, tập quán thờ cúng ông bà tổ tiên là một
nghi thức tâm linh, thắm đượm tính nhân văn và đạo lý.
Ngoài thờ cúng ông bà trong ngôi nhà của mình thì người Việt còn có tục
xây nhà thờ họ, nhà Từ đường cho mỗi dòng họ; phổ biến là bàn thờ họ trong nhà
từ đường thường do con trai lớn hoặc con trai út dòng trưởng đảm nhiệm. Những
gia đình không phải là nhà từ đường cũng thường có bàn thờ ông bà (thờ vọng
hoặc thờ tượng trưng) ở bàn thờ giữa gian chính. Bàn thờ cha mẹ bên trái, thờ
ông bà nội (ngoại) bên phải. Những người khuất mặt khác như anh, chị, em, con
được thờ một góc trong nhà. Người mới chết (dù là cha mẹ, ông bà) được thờ
riêng cho đến khi xả tang mới được thỉnh lư hương, di ảnh, vào bàn thờ chung.
Cúng giỗ gắn với thờ phụng, việc thờ càng trang nghiêm, việc cúng càng
trang trọng. Hai hình thức cúng chủ yếu: Cúng hàng ngày và cúng giỗ
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
36
Trong nhiều thức cúng, một số gia đình còn giữ tục “luôn phải cúng một
món gì đó” gắn với sở thích hoặc đặc điểm của ông bà, gọi là cúng lề. Có gia
đình cúng khoai mì, rau chạy, cháo cá ám, ốc luộc... vì các món này vốn được
ông bà ưa thích hoặc nhờ nó mà vượt khó khăn.
II.2.1.2. Tục thờ thần độ mạng
Trong gia đình cư dân Việt ở Đồng Nai, ngoài việc thờ cúng ông bà để nhớ
nguồn cội, còn thờ thần độ mạng để được phù trợ, che chở. Thần độ mạng cho
đàn ông phổ biến là Quan Công (Quan Thánh Đế quân), độ mạng cho đàn bà phổ
biến là các mẫu còn gọi là mẹ sanh, mẹ độ.
Thờ Bà (thờ mẫu): Tục thờ Bà độ mạng phản ảnh tín ngưỡng thờ nữ thần
của Nam bộ; trong đó đan xen, tích hợp nhiều lớp văn hóa, có sự dung hợp các
nữ thần gốc Hoa, gốc Chăm, Việt trong niềm tin rộng mở của người địa phương.
II.2.1.3. Thờ cúng các thần bản gia
Thờ cúng Ông Địa - Thổ Công: một dạng thần Đất (tức Thổ Công), thường
được thờ ở khám thờ dưới đất phía bên trái bàn thờ chính, vật thờ gồm nhang,
đèn, nước, và cốt tượng với nét mặt vui tính, bụng phệ, vú to thể hiện sự sung
mãn, tính nữ. Đó là biểu tượng của sự thịnh vượng và sinh sản. Ông Địa giúp cả
việc dẫn vía trẻ nhỏ, chứng thực lễ thôi nôi, đầy tháng, tá thổ; mỗi khi cần tìm vật
gì người ta thường vái “ông bà, Ông Địa”. Ông Địa hòa nhập với mọi giới được
thờ cúng rộng rãi; thờ trong nhà, thờ cả trên ghe xuồng, trong chòi rẫy; một số hộ
người công giáo cũng bắt đầu hiện tượng thờ Ông Địa - Thần Tài.
Ngày vía của Ông Địa chưa được giải thích đầy đủ, cư dân Việt ở Đồng Nai
giữ lệ cúng Ông Địa vào ngày mồng mười của 5 tháng đầu năm từ tháng giêng
đến tháng năm âm lịch. Những ngày này Ông Địa - Thổ Công - Thần Tài được
cúng hoa, chuối, chè xôi và các thứ bánh ngọt khác.
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
37
Táo quân: Là vị thần bảo trợ việc bếp núc, có danh hiệu là Đông trù tư mệnh
Táo phủ thần quân, Định phúc Táo quân, còn được gọi là Ông Đầu Rau hoặc Vua
Bếp, có chuyện kể về Vua Bếp giải thích hiện tượng hai ông một bà; ba người
vẫn là một, được thờ ở kệ thờ (hoặc khánh) trong bếp hoặc ở gian chính thờ ở
bếp gọi là Táo Bếp, thuần gốc dân dã. Táo thờ ở gian chính gọi là Táo Phật.
Người xưa quan niệm chỉ có Táo Phật mới về trời trong ngày 23 tháng chạp.Canh
ba, giờ Tý ngày 23 tháng chạp, ông Táo được đưa về trời “cờ bay ngựa chạy”.
II.2.1.4. Tục thờ Thông Thiên: Thờ Thông Thiên (Bàn Trời) là một tín
ngưỡng thờ Trời phổ biến ở miền Nam nước ta. Theo tín ngưỡng dân gian, Trời
được xếp trước Phật trong các đối tượng được thờ, theo thứ tự "Trời - Phật -
Thánh - Thần", nên việc thờ Trời là việc đầu tiên của mỗi người, mỗi nhà. Là
hình thức thờ cúng phổ biến, được dựng ở sân nhà, bằng cây hoặc xây gạch cao
ngang tầm người, không có mái che, thường gồm 2 tầng: tầng trên thờ Thiên
Hoàng, tầng dưới thờ Thổ Kỳ; đó là một kiểu thờ cân đối hài hòa trời - đất, trong
- ngoài, trên - dưới của người địa phương. Có người lại giải thích đó là tàn tích
“cây vũ trụ” của người bản địa nhằm nối liền cõi người với cõi trời.
Vào những ngày quan trọng như mồng một, ngày rằm, cúng giổ thì có thêm
hai chén đựng gạo, muối và mấy dĩa hoa quả. Hằng ngày, vào lúc chập tối, chủ
nhà đốt một nén nhang, chắp tay đứng trước bàn thờ khấn vái, cầu Trời ban
phước lành, sức khỏe, bình an… hy vọng qua làn khói nhang tỏa lên Trời mang
theo những lời cầu khẩn của gia chủ, để nguyện vọng được "thông" đến Trời
(thông thiên), để Trời phù hộ cho người thân và gia đình mình.
II.3.1. Tập quán tín ngưỡng trong cộng đồng
II.3.1.1. Đình và lễ hội cúng đình
Đình, miễu, chợ, chùa là trung tâm văn hóa của người địa phương cho nên
thường được xây dựng gần nhau ở khu đông dân cư, nơi cao ráo, có phong cảnh
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
38
đẹp, có chòm cổ thụ vừa mát vừa oai linh. Phần lớn đình cổ gần sông và quay
hướng ra sông, đình trẻ hơn lập ở gần lộ và quay hướng ra lộ; hướng đình không
lệ thuộc theo hướng Nam và kiêng hướng Bắc.
Kiến trúc đình ở Đồng Nai thường theo kiểu nhà rường tứ trụ bằng vật liệu
tốt khai thác từ địa phương và bàn tay thợ đá, thợ gỗ, thợ gốm của Biên Hòa xưa,
tạo cho đình vẻ đẹp mang sắc thái địa phương. Đình Tân Lân ở Biên Hòa, đình
An Hòa ở Long Thành, đình Phú Mỹ ở Nhơn Trạch được xem là những đình sắc
nét của Đồng Nai. Việc bố trí trong đình cũng như các đình khác ở Nam bộ,
chánh điện có khám thờ Thành Hoàng bổn cảnh, hai bên là Tả ban, Hữu ban;
phía trước là hai dãy các bàn thờ các chư vị phối tự như: Bạch mã Thái giám,
Nhạc sư, Tiên sư... Trước mặt bàn thờ Thành Hoàng là bàn La liệt để bày lễ vật
cúng; tiếp đó là bàn Hội đồng. Tiếp theo bàn Hội đồng là bàn Chánh bái, hai bên
bàn Chánh bái là Tả hữu bồi tế. Đối diện với chánh điện là Võ ca có mái che nối
hoặc không nối với gian chính; nếu không Võ ca thì cũng là khoảng sân rộng để
có thể dựng rạp hát. Bên trái, bên phải mặt trước đình thường có bàn thờ thần
Nông, thần Hổ, Rái Cá...
Nhà hậu (sau đình) có gian thờ: Tiên sư, Tiền hiền, Hậu hiền, Tiền đại
hương chức, Hậu đại hương chức... Liền mái với nhà hậu là nhà khói dùng làm
nơi nấu nướng chuẩn bị cỗ cúng. Bố cục trong đình cơ bản là giống nhau nhưng
tùy theo các đối tượng thờ cúng trong đình mà các bàn cúng thờ vị này hay vị
kia.
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
39
Chánh điện nơi thờ Thần Hoàng Bổn cảnh và thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh ở
Đình Phú Mỹ, xã Phú Hội, Nhơn Trạch
* Những vị thần được phụng thờ
Cũng như đặc điểm chung của Nam bộ, đình ở Biên Hòa - Đồng Nai “thờ
hàng chục, có khi đến ba bốn chục vị thần, gồm có Thành Hoàng, Phúc Thần,
Thần linh và những danh nhân sanh tiền có công xây dựng, kiến thiết địa
phương... rất phức tạp”. Việc kê danh sách cho đầy đủ các vị thần đã được thờ
trong đình ở Đồng Nai đã khó, việc phân loại càng khó.
+ Nhóm 1: Thành Hoàng và Phúc thần do những người đi khai hoang đem
từ quê hương cũ vào thờ.
+ Nhóm 2: Những vị thần linh theo tín ngưỡng dân gian.
Đáng lưu ý ở Đồng Nai là tục thờ vọng Quốc tổ và các anh hùng dân tộc.
Đền Hùng Vương ở Biên Hòa (xây dựng năm 1960), do giáo dân Công giáo lập
và phụng thờ, trong điện thờ tượng Hùng Vương thứ 18, có bàn thờ Bác Hồ như
vị Hùng Vương thứ 19. Ngày lễ hội 10 - 3 âm lịch rất đông người trong và ngoài
tỉnh đến dự tưởng niệm. Trước bàn thờ Quốc tổ Hùng Vương có đủ thành phần
già trẻ, gái trai, giáo dân, phật tử, cán bộ cách mạng. Đây là biểu hiện vừa cổ
truyền vừa hiện đại của truyền thống đại đoàn kết toàn dân và nghĩa đồng bào ở
người Việt Nam. Đền thờ Hùng Vương ở Tân Phú, Long Khánh cũng có ý nghĩa
tương tự. Lạc Long Quân - Âu Cơ cũng được thờ như Quốc tổ ở nhiều nơi, cách
thờ cúng đơn giản nhưng đầy ý nghĩa; điện thờ ở Dầu Giây huyện Thống Nhất
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
40
thờ 100 chiếc đũa và văn cúng bằng thơ song thất lục bát có ý nghĩa như một lời
tự giáo huấn.
Các anh hùng dân tộc: Trần Hưng Đạo, Nguyễn Tri Phương; các danh nhân
có công với vùng đất Đồng Nai: Nguyễn Hữu Cảnh, Trần Thượng Xuyên, Võ
Tánh, Nguyễn Huỳnh Đức, Chu Văn Tiếp... và những nghĩa sĩ chống Pháp:
Trương Định, Nguyễn Đức Ứng, Đoàn Văn Cự... cũng được phụng thờ như
Thành Hoàng của làng.
* Lễ hội cúng đình: Lễ hội cúng đình thể hiện phần hồn của đình. ở Nam
bộ phần lễ trội hơn phần hội. Do phối tự thờ nhiều vị thần trong đình, cho nên
lịch lễ dày đặc lễ cúng quanh năm, có thể chia thành hai loại: Tạp tế và cúng kỳ
yên.
Nghi lễ rước Sắc thần đình An Hòa thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
II.4.1.2. Miễu và lễ hội cúng Bà
Miễu Bà ở Đồng Nai, Bà được thờ là một tập hợp các nữ thần có nguồn gốc
và “lý lịch” khác nhau, được thờ cúng ở miếu tùy theo tâm niệm của mỗi nơi:
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
41
Bà Âu Cơ lễ cúng chính vào ngày 10 - 3 âm lịch.
Bà Ngũ Hành: Được thờ phổ biến nhất, đó là 5 vị nữ thần ứng với: Kim
Đức Thánh phi, Mộc Đức thánh phi, Thủy Đức thánh phi, Hỏa Đức thánh phi,
Thổ Đức thánh phi. Năm bà Ngũ Hành chỉ là ý niệm chung về các vị nữ thần có
thiên chức phù trợ cho việc sản sinh và phát triển; không có thần tích cụ thể;
ngày vía chính là 5 - 5 âm lịch. Ở những vùng nhiều hỏa hoạn, đông người Hoa,
nhiều khi Bà Hỏa (Hỏa Đức thánh phi) được thờ riêng một miễu.
Liễu Hạnh Công chúa được cúng vía vào ngày rằm tháng 3 âm lịch.
Bà Chúa Thượng ngàn: Bà được phối hưởng trong lễ cúng đình, không còn
cúng ngày vía riêng.
Chúa Ngọc nương nương, Chúa Tiên nương nương Lệ cúng vào ngày 3
tháng 3 (âm lịch) và các ngày rằm lớn.
Chúa Xứ nương nương, Linh sơn Thánh mẫu: Cũng cùng một gốc với Chúa
Ngọc, Chúa Tiên nhưng có trú sở, lai lịch và thần tích riêng. Chúa Xứ được giải
thích có nguồn gốc ở Châu Đốc, điện thờ chính ở Núi Sam (Châu Đốc, An
Giang). Linh Sơn Thánh mẫu cũng vậy, tục gọi là Bà Đen, điện thờ chính ở núi
Bà Đen (Tây Ninh).
Thiên Hậu Thánh mẫu : Vía Bà Thiên hậu ngày 23 - 3 âm lịch.
Cửu Thiên Huyền Nữ: Bà được thờ trong miễu khắp nơi, vía Bà ngày 9 - 9
trùng với ngày Cửu Trùng của người Hoa.
Mẹ Thai sanh: Nguồn gốc là Kim Hoa Thánh mẫu của người Hoa, vị thần
trông nom về việc sinh nở. Người Đồng Nai thờ Mẹ Thai sanh với quan niệm là
“mười hai Mụ Bà và ba Đức Thầy”.
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
42
Thủy Long Thần nữ: Gốc là một thần giếng, dần dần được quan niệm là
một thần cai quản sông nước, gọi chung là bà Thủy. Trong quan niệm dân gian
hiện nay, bà Thủy bao hàm cả chức phận của Hà Bá và có thể cũng là Thủy Đức
Thánh phi trong bộ Ngũ Hành, cho nên ngày vía cũng là ngày 5 - 5 âm lịch.
Quan Âm Bồ tát: Vừa là Phật bà vừa là thần nữ. Người địa phương quan
niệm Quan Âm có họ hàng với các nữ thần, cùng chức năng cứu khổ, cứu nạn
nhất là cứu nạn trên biển. Cho nên, Quan Âm được kéo ra khỏi chùa, gắn với các
miễu, nhiều khi cũng được cúng đồ mặn như các nữ thần khác hoặc phối tự ở các
miễu lẻ.
Các nữ thần bổn địa: Vừa dung nạp những vị nữ thần nhập cư, người Biên
Hòa - Đồng Nai vừa có xu hướng gởi gấm niềm tin của mình ở những nữ thần
tuy không giàu thần tích nhưng gắn bó với mảnh đất mình đang sinh sống. Việc
bài trí điện thờ hết sức đơn giản, gồm bát nhang, bình bông, chén nước, chân đèn;
những ngày cúng thì: Nước trong, bông tươi, nhang thơm, đèn sáng; lễ vật cúng
có thêm bánh, trái, xôi, chè, thịt, thường là thịt vịt hoặc heo thu gọn thành thủ vĩ.
Nhiều nơi vật thờ còn có thêm: gương, lược, trâm cài, quạt và một vài món trang
sức khác của nữ giới.
Lễ hội cúng Bà ở mỗi miễu một khác, tùy vào ngày vía của mỗi Bà. Miễu
thuộc hệ dân dã nên nghi thức cúng Bà không đóng khung theo khuôn phép điển
lệ; cởi mở, sinh động hơn cúng đình. Tuy nhiên, nhiều địa phương vẫn áp dụng
nghi thức cúng đình trong cúng miễu.
Lễ vật cúng đơn giản không nhất thiết phải heo sống, heo đen, xôi tinh khiết,
cũng không nhiều kiêng kỵ như cúng đình.
II.5.1 Tập quán, tín ngưỡng của các cư dân bản địa ở Đồng Nai
II. 5.1.1 Người Chơ Ro
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
43
Người Chơ Ro chủ yếu làm rẫy, canh tác theo lối phát đốt rồi chọc lỗ tra
hạt. Cách phân bố các loại cây trồng trên rẫy khá độc đáo. Vòng ngoài cùng của
rẫy thì trồng một số loại cây dây leo như: bầu, bí, mướp, đậu ván... vòng trong
trồng sắn. Toàn bộ diện tích còn lại phía trong là trồng lúa có xen canh vừng.
Hiện nay, ngoài lúa rẫy, một số nơi đã làm ruộng nước có trâu cày. Việc săn bắn,
hái lượm thường tập trung vào thời gian nông nhàn (khoảng tháng 6, 7 âm lịch).
Nghề làm vườn, chăn nuôi trong gia đình và thủ công nghiệp chưa phát triển. Chỉ
có nghề đan lát bằng tre, mây nứa là phổ biến.
Người Chơ Ro ăn cơm tẻ là chính, hút thuốc lá sợi bằng tẩu. Thức uống
có rượu cần. Nam nữ đều ưa thích ăn trầu cau. Đàn ông đóng khố, đàn bà quấn
váy tấm. Nhưng ngày nay, đại đa số người Chơ Ro đã ăn mặc theo lối của người
Việt cùng địa phương. Ðiều mà khách qua đường có thể nhận biết được người
Chơ Ro là họ thường cõng trên lưng một cái gùi. Ðàn bà thường đeo ở cổ những
chuỗi hạt cườm ngũ sắc hoặc vòng đồng, vòng bạc hay nhôm. Thiếu nữ thường
mang kiềng, dây chuyền và đeo vòng tai rộng vành.
Xã hội truyền thống Chơ Ro chưa có chữ viết. Việc học hành truyền bá kiến
thức cho thế hệ sau theo lối truyền khẩu.
Hôn nhân
Ngày trước nam thanh nữ tú người Chơ Ro yêu nhau có một tục lệ khá thú
vị. Theo đó, chàng trai sẽ đến nhà cô gái, mang theo một cây đòn và một roi mây
(hoặc cành lồ ô). Trong đêm tối, chàng trai dùng cây đòn gõ nhẹ vào sàn, chỗ
buồng nằm của người yêu, đồng thời đưa roi mây qua khe báo hiệu cho cô gái.
Nếu đồng ý, cô gái sẽ nắm roi mây rung và báo hiệu cha mẹ và những người
trong nhà đã đi ngủ. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc chàng trai sẽ được phép
leo lên phòng cô gái. Khi lên, chàng trai sẽ dùng chiếc đòn mang theo, đặt xuống
sàn nhà và đi trên chiếc đòn này. Đây là cách để tránh làm động các thành viên
khác trong nhà cô gái đang chìm trong giấc ngủ".
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
44
Trước khi tìm đến nhà và nhận được sự đồng ý của cô gái thì cả hai đã có
quá trình tìm hiểu, hẹn hò với nhau. Sau khi hai bên tìm hiểu kỹ và có ý muốn kết
thành vợ chồng thì chàng trai mới tìm đến nhà cô gái. Đây là bước quan trọng để
đi đến việc dạm hỏi và làm đám cưới. Khi chàng trai đến, nếu cả nhà cô gái chưa
ngủ thì cô gái sẽ không rung roi mây. Chàng trai kiên nhẫn đợi cho tới khi cô gái
rung roi. Khi ấy, cô gái sẽ mở cửa ra và chàng trai sẽ được lên phòng ngủ với cô
gái. Tuy nhiên, chàng trai không được phép ngủ đến sáng mà phải ra về trước khi
mọi người trong nhà thức giấc. Cứ thế, chàng trai sẽ đến và ngủ với cô gái trong
ba đêm liền. Người Chơ Ro không coi trong trinh tiết. Sau đó, chàng trai phải
tính đến hỏi chuyện cưới cô gái. Nếu muốn cưới, chàng trai phải để lại một vật gì
đó để làm tin. Có thể là áo, vòng hay vật dụng thân thiết nào đó và được cô gái
chấp nhận.
Trước đây, theo chế độ mẫu hệ, nhà gái thường chủ động sang nhà trai
hỏi cưới và bắt rể. Tùy vào hoàn cảnh gia đình mà bố trí lễ vật được mang theo
nhưng thông thường vẫn là trâu, heo, ché rượu cần, mỗi thứ một đôi. Theo quan
niệm của người Chơ Ro thì như thế mới có đôi, có cặp và vợ chồng sẽ hạnh phúc
viên mãn.
Đám cưới của người Chơ Ro thường có nhiều nghi lễ. Trong suốt đám
cưới, sau khi cúng tổ tiên, ông bà, thần linh, cô dâu và chú rể phải quỳ dâng rượu
những người đến mừng đám cưới mình. Nếu đám cưới có nhiều người đến mừng
thì cặp uyên ương đó phải quỳ cả ngày. Ngày nay, người Chơ Ro ở Đồng Nai và
các địa phương khác đã có nhiều thay đổi trong việc tổ chức cưới hỏi và nhiều
tục lệ khác. Theo đó, việc cưới hỏi cũng tùy theo hoàn cảnh, điều kiện của mỗi
gia đình và không còn bắt buộc theo tục bắt rể. Sau đám cưới, vợ chồng có thể về
nhà trai sống hoặc có thể ra ở riêng.
Tang ma: Người Chơ Ro theo tập quán thổ táng. Mộ phần được đắp cao lên
theo hình bán cầu. Trong 3 ngày đầu, người ra gọi hồn người chết về ăn cơm; sau
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
45
đó là lễ "mở cửa mả" với 100 ngày cúng cơm. Tập quán dùng vàng mã đã xuất
hiện trong tang lễ của người Chơ Ro và hàng năm cứ vào ngày 23 tháng Chạp âm
lịch, người ta đi tảo mộ như người Việt ở địa phương.
Nhà của người Chơ Ro
(Nguồn Internet)
Lễ hội của cộng đồng người Chơ ro
Lễ hội mừng lúa mới là lễ hội lớn nhất trong năm của ngườ Chơ Ro. Người
Chơ Ro gọi lễ hội này là SaYangva..,có nơi gọi là Op Yangva có nghĩa là cúng
Thần lúa hay mừng lúa, mới cầu mong thần linh phù hộ cho mùa màng tươi tốt,
cây lắm trái, lúa nhiều hạt, người Chơ Ro đem lễ vật ra kho lúa. Tại đây diễn ra
những nghi tế và khấn riêng cho thần lúa.Sau nghi lễ cúng , người Chơ Ro vui
chơi, nhảy múa, uống rượu cần. Nhạc cụ đáng lưu ý đến là bộ chiêng đồng 7
chiếc gồm 4 chiếc nhỏ và 3 chiếc lớn Xưa kia, lễ hội này kéo dài nhiều ngày đêm
thu hút cả cộng đồng tham gia. Ngày nay, người Chơ ro vẫn duy trì lễ hội mừng
lúa mới nhưng không còn kéo dài như xưa do tác động nhiều mặt của xã hội.
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
46
II. 6.1.2 Người Mạ
Người Mạ sống thành từng bon (làng), mỗi bon có từ 5 đến 10 nhà sàn dài
(nhà dài là nơi ở của các thế hệ có chung huyết thống). Đứng đầu bon là quăng
bon (ông già trưởng làng). Từ xa xưa, họ đã làm nương rẫy trồng lúa và các loại
cây khác. Người Mạ coi cây lúa là nguồn lương thực chính nuôi sống gia đình,
ngoài ra còn cây lương thực phụ trợ như sắn, ngô. Công cụ sản xuất thô sơ, có
các loại dao xà gạc, cuốc xà bách, rìu, gậy chọc lỗ tra hạt.
Phụ nữ Mạ nổi tiếng về nghề dệt vải truyền thống với những hoa văn tinh vi
hình hoa lá, chim thú với nhiều màu sắc. Nghề rèn sắt cũng từng nổi tiếng ở
nhiều bon làng. Họ tự luyện quặng lấy sắt để rèn các công cụ sản xuất và vũ khí
như dao xà gạc lưỡi cong, lao… Ở những vùng ven sông Đồng Nai, người Mạ
làm thuyền độc mộc để đi lại, vận chuyển và đánh cá trên sông. Phụ nữ Mạ
thường mặc váy quấn, dài quá bắp chân, nam giới thì đóng khố. Mùa làm nông,
nhiều người ở trần, mùa rét choàng tấm mền.
Phong tục làm đẹp của người Mạ xưa là “cà răng, căng tai”, đeo nhiều vòng
trang sức. Cà răng thì đàn ông làm, căng tai thì dành đàn bà, phụ nữ.. Thế nhưng
đến nay thì tục lệ đó đã không còn nữa, do điều kiện sống và quan niệm đã thay
đổi. Còn tục căng tai thì chỉ còn dấu tích trên những đôi tai dài thỏng của người
già. Hôn nhân của người Mạ ở Đồng Nai theo chế độ phụ hệ, một vợ một chồng
và tuyệt nhiên không có quan niệm trọng nam khinh nữ. Đặc biệt, khi con cái
trong nhà đến tuổi trưởng thành, khoảng 15 - 17 tuổi được thoải mái tự do tìm
hiểu. Nhà trai chủ động trong hôn nhân, nhưng sau lễ cưới chú rễ phải sang ở nhà
vợ, đến khi nộp đủ đồ sính lễ cho nhà gái mới được đưa vợ về ở hẳn nhà mình.
Người Mạ tin có rất nhiều thần: Yang (trời) là thần tối cao, ngoài ra có
thần sông, thần núi, thần lửa… Cũng như các dân tộc khác thuộc nhóm ngôn
ngữ Môn-Khơmer, người Mạ thường tổ chức lễ đâm trâu vào dịp tết cổ truyền
(sau tết Nguyên đán khoảng 1 tháng và mùa lễ hội đâm trâu kéo dài tới 1-2
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
47
tháng) khi mùa màng thu hoạch xong.Lễ đâm trâu thường được tiến hành vào
buổi xế chiều. Lễ hội đã kéo người dân trong các buôn gần lại với nhau hơn
trong mối gắn kết cộng đồng
Ngày nay, đời sống phát triển hơn, với nhiều nguyên nhân chủ quan hoặc
khách quan, một số phong tục tập quán, văn hóa của người Mạ đã có những phần
bị mai một. Nhưng vẫn còn đó những bon, làng người Mạ, sống giữa núi rừng.
Do vậy, hiện tại các cơ quan chức năng đã và đang thực hiện việc bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hóa dân tộc Mạ nhằm giữ gìn nét đẹp, nét hay của dân tộc bản
địa tại Đồng Nai.
Người Stiêng, Châu Ro có tập quán, tín ngưỡng tương tự như người Mạ,
khác nhau ở tiểu tiết, tiếng nói, giống nhau ở quan niệm cổ truyền của cư dân.
II.7.1 Tập quán, tín ngưỡng dân gian của người Hoa
Trước đây, ở Đồng nai cũng như toàn miền Nam, người Hoa được gọi bằng
nhiều tên khác nhau: Người Hoa, người Việt gốc Hoa, người Hán, người Hoa
Nùng, người Khách, người Minh hương, Hoa kiều. Người Hoa đến làm ăn sinh
sống lâu đời ở Đồng Nai cư trú khắp nơi: thị trấn, thị tứ, nông thôn. Họ làm đủ
mọi nghề khác nhau. Gia đình người hoa mang tính chất phụ hệ gia trưởng sâu
sắc. Gia đình người Hoa xưa kia là gia đình lớn, có khi mấy thế hệ cùng chung
sống. Nếu năm thế hệ cùng chung sống dưới một mái nhà( ngũ đại đừơng) thì gia
đình đó được coi là đại phúc.Trong nhà, người cha hoặc người chồng làm chủ,
quyết định mọi việc lớn, nhỏ. Ảnh hưởng lễ giáo Khổng Mạnh tuy đã mờ nhạt
nhưng vai trò của người cha, người chông, người con trai cả vẫn khá rõ nét. Khi
chia gia tài cho con thì người con cả thường được nhiều hơn vì anh ta phải cúng
giỗ tổ tiên.
Theo phong tục tập quán cũ, trai gái cùng họ không được lấy nhau vì người
Hoa cho là cùng tổ, là anh em một nhà. Người thuộc hai họ kết nghĩa cũng không
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
48
được lấy nhau. Chuyện quạt ước trâm thề giữa đôi bên cha mẹ hẹn gả cho nhau
từ lúc còn nhỏ hoặc chưa sinh đã đi vào dĩ vãng .
Ngày nay, tục tảo hôn đã biến mất. Nam nữ người Hoa cưới xin ở độ tuổi
trưởng thành. Chế độ một vợ, một chồng là phổ biến, bến chặt. Cưới hỏi là kết
quả tự do tìm hiểu của đôi trai gái, song ít nhiều vẫn chịu ảnh hưởng môn đăng
hộ đối, nhất là về tài sản.
Việc ma chay của người Hoa ở Đồng Nai dần có nhiều nét tương đồng với
người Việt ở Đồng Nai ở địa phương. Họ quan niêm người ta sống gửi, chết về
( để sang thế giới bên kia hoặc lên cõi nát bàn, hoặc bị sa địa nguc. Một đám tang
có nhiều bước: báo tang, phát tang, khâm niệm,phúng điếu, đưa đám, chôn cất, lễ
mở cửa mả...Người Hoa di cư ( năm 1954) ở vùng nông thôn báo tang bằng cách
cho thổi tù và sừng trâu hoặc phèng la theo tiết tấu nhất định.
Trong đời sống tâm linh, người Hoa coi trong việc thờ cúng tổ tiên.Bna2
thờ tổ tiên được đặt nơi trang trọng nhất trong nhà với lư hương, cặp chân nến và
một số bài vị. Mỗi nhà – nhất là người buôn bán đều thờ thổ địa, thần tai2o73
cùng một trang thờ đặt sát đất. Họ cũng có những trang thờ: Cửu Thiên huyền
nữ, Quan Thánh đế quân, Tiền hậu địa, chủ tài thần, thờ Bát quái ...Các nhà buôn
luôn có miếng giấy dán vào cửa ra vào thờ thổ công, hàng tháng cúng cô hồn hai
lần vào ngày mùng hai và ngày 16 âm lịch.
Mỗi năm người Hoa có một số lễ trọng vào ngày 14 tháng giêng âm lịch( lễ
Thượng Nguyên), ngày 28 tháng hai( lễ Thanh Minh), ngày 5 tháng năm( tưởng
nhớ Khuất Nguyên), rằm tháng bảy( lễ Vu lan) rằm tháng tám (Trung thu), ngày
9 tháng chín( Trùng cửu), rằm tháng mười( Hạ nguyên)
Cộng đồng người Hoa kiến tạo một số công trình phục vụ: đền chùa, trường
học, nhà thương. Ở Đồng Nai họ dựng chùa Ông thờ Quan công ở Cù Lao Phố.
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
49
. Chùa này cúng Quan công ngày 24 tháng sáu âm lịch, cúng Kim Hoa
nương nương ngày 17 tháng tư và cúng bà Thiên Hậu ngày 23 tháng ba Quan
công tượng trưng cho trung cang nghĩa khí, trung nghĩa thiên thu. Là khuôn vàng
thước ngọc thước của tình bạn, tình anh em kết nghĩa. Do đó nhiều gia đình
người Hoa cũng thờ tranh Quan công trong nhà, trang thờ được đặt ở nơi trang
trọng.Chùa Bà thờ Bà Thiên Hậu ở Bửu Long, hằng năm lễ cúng thường được tổ
chức vào ngày 13 tháng ba âm lịch. Người ta đến đây cầu mong làm ăn phát tài,
đi đường gặp nhiều may mắn; nếu ai được như lời cầu họ làm lễ tạ ơn rất hậu.
Đình Tân Lân ( gần chợ Biên Hòa) thờ Trần Thượng Xuyên cúng ngày 26 tháng
mười. Phụng Sơn tự ở thành phố Biên Hòa thờ Quảng Trạchtôn vương, hàng năm
cúng lễ hai lần vào các ngày 22 tháng hai và 22 tháng tám. Mỗi khi cúng người
Hoa đều có dàn nhạc lễ phụ họa các nghi thức. Tục bán đấu giá đèn lồng ở các
đền chùa người Hoa rất đặc sắc: vài năm mỗi đền chùa tổ chức bán một lồng đèn,
ai trả giá cao nhất sẽ thắng, số tiền ấy dùng vào việc cúng tế hoặc việc công ích
và được quản lí chặt chẽ. Người mua là nhà giàu mong muốn được các thần phù
hộ cho gia đình mình thêm phúc, lộc, thọ, khang, ninh.
Để giữ gìn tiếng nói và chữ viết là bản sắc văn hóa dân tộc, người Hoa
thường mở các trường dạy chữ tiếng Hoa. Ở thành phố Biên Hòa trước kia có
trường Dục Đức( nay đổi thành trường Hùng Vương)
II.7.1 Tập quán, tín ngưỡng dân gian của các dân tộc thiểu số
II.7.1.1. Tập quán, tín ngưỡng dân gian Người Tày, Nùng ở Đồng Nai.
Người Tày là một trong 54 dân tộc ở Việt Nam. Trước năm 1975, đa số
người Tày sống ở địa bàn trung du và miền núi phía Bắc của đất nước. Từ năm
1954, một bộ phận người Tày di cư đến miền Đông Nam bộ. Ở Đồng Nai, người
Tày có mặt hầu hết ở các huyện, thị, thành phố Biên Hòa.
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
50
Người Nùng là một dân tộc ít người phân bố chủ yếu ở vùng Việt
Bắc: Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, và
cũng có ở Bắc Giang, Quảng Ninh. Người Nùng sử dụng ngôn ngữ Tày - Thái
thuộc dòng Nam Á.
Người Nùng tới đất Đồng Nai cư trú từ sau hiệp định Genève 1954 trong
đó một bộ phận là lính sư đoàn 5 của Voòng A Sáng. Họ thuộc nhiều nhóm
khác nhau. Mới đầu sư đoàn 5 Nùng đóng ở vùng Bình Thuận, sau mới chuyển
về Đồng Nai. ở vùng đất mới, họ không còn phân biệt các nhóm địa phương
(như ở quê cũ) mà đã cố kết, hòa vào nhau, giữ được những điểm chủ yếu đồng
nhất, còn khác biệt ít bộc lộ rõ.
Theo số liệu của Cục thống kê Đồng Nai năm 1996, cả tỉnh có 1 2279
nhân khẩu Nùng (trong đó có 5827 nữ) xếp thứ nhì trong tổng số hơn 40 dân tộc
ít người (sau người Hoa). Địa phương nào trong tỉnh cũng có người Nùng song
họ có số lượng đông nhất ở huyện Xuân Lộc 4540 người (2222 nữ), huyện
Thống Nhất ít hơn một chút 4486 người (2088 nữ)... và ít nhất là huyện Nhơn
Trạch: 10 người (7 nữ). Ấp Ngô Quyền, xã Bàu Hàm 2, huyện Thống Nhất tập
trung 331 hộ với 1068 nhân khẩu là nơi người Nùng sống đông đảo nhất.
Sinh hoạt vật chất
Phần lớn người Nùng ở Đồng Nai làm nghề nông là chính, số làm nghề buôn
bán dịch vụ thủ công không nhiều. Xưa kia ở quê cũ họ phân bố ở những thung
lung nhỏ hẹp vùng đồi núi thấp, ít ruộng nên làm nương rẫy là chính. Từ ngày
giải phóng , nhiều hộ người Nùng ở các huyện Thống Nhất, Long Khánh, Xuân
Lộc , Định Quán,… đầu tư vốn, mở vườn trồng cà phê, tiêu điều nên có thu nhập
hơn hẳn các hộ chỉ trồng lúa hoặc hoa màu.
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
51
Ở những nơi tương đối bằng phẳng, bà con khai phá thành ruộng lúa và
trồng hoa màu. Nơi nào có sẵn nguồn nước thị họ trồng hai vụ lúa, nơi không có
suối chỉ làm một vụ lúa nhờ mưa.
Người Nùng chăn nuôi nhiều loại gia súc: trâu, heo, gà, vịt. Xua kia người
Nùng chăn nuôi theo lối thả rong, ngày nay bà con biết làm chuồng xây cất cẩn
thận và dọn rửa thường xuyên. Người Nùng vốn có một số ngành nghề truyền
thống khá nổi tiếng: dệt, rèn. Nhưng ở Đồng Nai các ngành nghề này của đống
bào đã bị mai một từ khi họ tới định cư
Nhà cửa của người Nùng có nét khác biệt so với nhà của người Việt và anh
em khác sinh sống xen kẽ. Ở khu vực Bàu Xéo ( xã song Trầu, huyện thống
Nhất) nhà của đống bào Nùng ở san sát nhau như hình ống, không có vườn, vách
nhà này liền vách nhà kế bên. Đại thể căn nhà hình chữ nhật, có hai mái xuôi về
phía trước và sau,. Từ hai đầu đòn dông có kèo,vì, nhà khá giả thì vách lợp tôn,
nhà nghè vách phên hoặc trát đất lợp tranh. Mái sau thường dài hơn mái trước;
bếp có thể làm liền hoặc lui về phía sau một chút tùy từng gia đình.Khi làm nhà,
đồng bào thường nhờ đến thầy mo ( thầy cúng )xem giúp ngày giờ xây cất nhất là
khi dựng cây đòn dông.
Phần lớn người Nùng ở Đồng Nai làm nghề nông là chính, số làm nghề
buôn bán dịch vụ, tiểu thủ công không nhiều. Vào nửa cuối thập niên 50, đến
vùng đất mới Đồng Nai - lúc đó thuộc hai tỉnh Biên Hòa, Long Khánh còn
nhiều đất đai hoang hóa, họ ra sức khai phá rừng và đất rừng. Thoạt tiên họ áp
dụng lối đao canh hỏa chủng nguyên thủy làm nương rẫy nên cũng du canh khi
đất trồng bạc màu. Nhưng dân cư ngày càng đông, đất trồng trở nên hiếm hoi
dần, từng bước họ buộc phải thâm canh nương rẫy để trồng các loại hoa màu:
bắp, khoai lang, khoai mì, đậu... và các cây công nghiệp ngắn ngày: đậu tương,
thuốc lá... Từ sau ngày giải phóng, nhiều hộ người Nùng ở các huyện Thống
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
52
Nhất, Long Khánh, Xuân Lộc, Định Quán... đầu tư vốn, mở vườn trồng cà phê,
tiêu, điều... nên có thu nhập hơn hẳn các hộ chỉ trồng lúa hoặc hoa màu.
Người Nùng chăn nuôi nhiều loại gia súc: trâu để lấy sức kéo và
phân bón, heo lấy thịt và phân, gà vịt... Chăn nuôi hiện nay vẫn còn ở qui
mô nhỏ gia đình, chưa trở thành ngành sản xuất riêng, vẫn là ngành phụ của
trồng trọt.
Người Nùng vốn có một số ngành nghề truyền thống khá nổi tiếng: dệt,
rèn.
Nhà cửa của người Nùng có nét khác biệt so với nhà của người Việt
hoặc dân tộc anh em khác sống xen kẽ, nhà của đồng bào Nùng san sát nhau
như hình ống, không có vườn, vách nhà này liền vách nhà kế bên. Đại thể căn
nhà hình chữ nhật, có hai mái xuôi về hai phía trước và sau. Từ hai đầu đòn
dông có kèo, nhà khá giả thì vách lợp tôn, nhà nghèo thì vách phên hoặc trát đất
lợp tranh. Mái sau thường dài hơn mái trước, bếp có thể làm liền hoặc lui về
phía sau một ít tùy từng gia đình.
Tập quán tín ngưỡng người Nùng
Phần đông người Nùng ở Đồng Nai hiện nay thờ cúng tổ tiên làchính. Số
người theo tôn giáo khác không nhiều, các ông bà già thường đi vào chùa lễ phật
vào ngày mùng một hoặc ngày rằm âm lịch.
Hằng năm, người Nùng ở Đồng Nai còn giữ một số ngày cúng lễ:
Cúng Tết cổ truyền, rằm tháng riêng, thanh minh, mùng năm tháng năm âm lịch,
cúng ruộng ngày mùng 6 tháng 6 âm lịch làm ngay ở ruộng, cúng rằm tháng
bảy, trung thư, tất niên.
Người Nùng có một số cấm kị: Phụ nữ không tham dự các lễ cúng ở nơi
công cộng; Tháng giêng người ta không ăn, không cúng thịt vịt và trứng các
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
53
loại; Ngoài hai ngày 29, 30 tháng chạp và mùng 3 tháng ba người Nùng không
dãy cỏ ở mả. Làm nhà, sửa nhà, chuyển bàn thờ phải mời thầy mo chứ không tự
ý làm. Họ rất sợ ma gà- loại ma quấy phá làm hại người và gia súc
Phần đông người Nùng ở Đồng Nai hiện nay vẫn thờ cúng tổ tiên là
chính. Số người theo các tôn giáo khác không nhiều. Các ông bà già thường
đi chùa lễ Phật vào ngày mùng một hoặc ngày rằm âm lịch.
Trong mỗi gia đình, nơi trang trọng nhất, dễ thấy nhất (vì ở giữa nhà) có
bàn thờ tổ tiên tương tự như bàn thờ của người Việt hoặc người Hoa. Bàn thờ
này có thể được bày cỗ mặn vào các dịp cúng kiếng.
Vào dịp Tết, người Nùng mua giấy lì xì màu đỏ in trang kim dán trước
cửa ra vào mong được hên trong mọi việc làm ăn. Việc dán giấy lì xì có thể là
do họ chịu ảnh hưởng của người Hoa. Ở gian bếp, người Nùng cũng thờ ông
Táo nhưng không có lệ cúng ông Táo chầu Trời ngày 23 tháng chạp. Người ta
cấm kị việc nấu thịt chó, mèo, trâu ở bếp vì sợ xui. Các món thức ăn để cúng
nhất thiết không được dùng thịt các loại gia súc nói trên.
Đám Cưới
Trai gái Nùng ngày nay hoàn toàn tự do tìm hiểu nhau để tiến tới hôn
nhân. Nếu đúng tuổi kết hôn do pháp luật qui định. Tảo hôn hầu như không thấy
có ở Đồng Nai.Người Nùng rất coi trọng chữ trinh. Khi đôi thanh niên đã ưng
nhau, họ báo cáo với cha mẹ đôi bên. Người ta cũng đi coi bói, so tuổi... và
phần lớn các cặp nam nữ đều tiến tới cưới xin, ít có trường hợp phải chia tay vì
khắc tuổi.
Tang ma
Khi gia đình có người qua đời, một người đến nhà thày mo để xem ngày giờ tẩm
liệm, động quan, di quan, chôn cất...Để báo tin buồn cho cộng đồng, người ta
đánh cồng (chiêng có núm) theo một điệu bi ai.
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
54
Trong nhà có người qua đời thì mọi vật dụng trên bàn thờ tổ tiên đều bỏ
đi hết (vì tể tiên không giữ được cho người đó thì không cúng). Chôn cất xong,
người ta lại mua các vật dụng khác để tiếp tục cúng kiếng (thí dụ: bát nhang, lô
chén nước, chân nến...).
Tập quán tín ngưỡng người Tày
Tín ngưỡng của đồng bào Tày bắt nguồn tù thuyết vạn vật có linh hồn,
chủ nghĩa đa thần nguyên thủy, tục thờ thần dòng họ, tục tin ở nhiều thứ ma kết
hợp với một số yếu tố Đạo giáo, Phật giáo, Khổng giáo do những người làm
nghề cúng bái đem truyền bá cho dân gian. Người Tày cho rằng những người
“có ma” trông thấy người ốm có thể làm cho ốm nặng thêm, hoặc chết. Xuất
phát từ tín ngưỡng cho rằng tất cả những bệnh tật, tai họa xảy ra trong đời sống
đều do ma quỉ gây nên. Vì vậy, nhiệm vụ chính của các Thầy Cúng, Bà Then là
phải chống ma quỉ tức là diệt trừ được tận gốc mọi tai họa, cho nên các Thầy
Cúng Bà Then phải tranh thủ được sự hỗ trợ của các vị thầy có uy quyền lớn, có
phép mầu nhiệm, nắm được nhiều thiên binh, thiên tướng để giúp mình trừ tà
ma. Vì vậy, khi gia đình có người ốm, người nhà của họ sẽ tìm đến Thầy Then
để xin quẻ (xin keo) chữa bệnh.
Tập quán tín ngưỡng người Mường
Người Mường từ miền Bắc di cư vào Đồng Nai sau hiệp định Giơnevơ
tháng 7 năm 1954, chủ yếu định cư tại ấp Tân Lập, xã Phú Túc, huyện Định
Quán. Quê hương của người Mường xưa kia ở tỉnh Hòa Bình và tỉnh Phú Thọ.
Khi di cư đến Đồng Nai, cùng chung sống cộng cư trên vùng đất mới họ mang
theo hành trang văn hóa vốn có của mình, nhiều nét văn hóa độc đáo của họ vẫn
được gìn giữ và bảo lưu cho đến ngày nay.
Từ mấy đời nay những người đàn ông cũng như người phụ nữ Mường vẫn
giữ gìn những tập tục ban sơ trong văn hóa của dân tộc họ. Nếu có dịp đi vòng
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
55
quanh làng, sẽ bắt gặp một nét văn hóa khá lạ của người Mường. Trong nhà
cũng như ngoài ngõ đâu đâu ta cũng dễ dàng thấy hình ảnh những người phụ nữ
Mường hút thuốc lào, đó là nét chấm phá sinh động trong văn hóa truyền thống
của người Mường. Đối với những người phụ nữ Mường lớn tuổi, hút thuốc lào
như một thói quen thấm sâu vào trong nếp sống, nếp sinh hoạt hàng ngày của
họ. Mặc dù biết điều đó có thể làm cho sức khỏe, răng bị ố vàng, đen xạm, đôi
khi còn làm ảnh hưởng đến những người xung quanh, đặc biệt là trẻ nhỏ, thế
nhưng họ vẫn không sao từ bỏ được. Có lẽ tục hút thuốc lào là một trong nhiều
nhân tố giúp những người phụ nữ xích lại gần nhau hơn gắn kết tình cộng đồng,
khi cùng nhau ngồi hút thuốc họ có dịp kể nhau nghe những câu chuyện vui
buồn, khó khăn đang diễn ra trong đời sống hàng ngày, để từ đó họ thông cảm,
giúp nhau cùng vượt qua khó khăn, hướng đến xây dựng một cuộc sống tốt đẹp
hơn.
Người Mường theo chế độ phụ hệ từ lâu. Thường thường họ sống theo gia
đình nhỏ, nhưng cũng có nhá có tới hai, ba thế hệ chung sống thuận hòa. Người
cha, người chồng, người con trai có vai trò quan trọng trong gia đình. Khi cha
mất, người trai cả được thừa hưởng toàn bộ gia sản nhưng cũng có trách nhiệm
dựng vợ, gả chồng cho các em và lo việc cúng giỗ tổ tiên, ông bà, cha mẹ..
Tang ma của người Mường tương tự người Việt, con trai, con gái người
chết đội mũ rơm, mặc áo dài xô không viền gấu, các anh chị em hay cháu chắt
chít khăn tang màu trắng. Con, cháu ruột nằm lót đường ở cửa để quan tài
khiêng qua bên trên. Con trai thì cầm dao đi rừng, con gái thì cầm quạt ống nước
bằng bương, vẫn theo sau là thầy mo và quan tài ra nghĩa địa.Chôn cất được vài
ngày, tang chủ làm lễ mở cửa mả, một trăm ngày sau làm lễ trăm ngày. Đủ ba
năm, chín tháng mười ngày, gia đình làm lễ đoạn tang, những bộ quần áo tang
đem đốt bỏ. Người Mường có tục cải táng như người Việt ở miền Bắc. Sau một
số năm chôn cất, khi có điều kiện, gia đình bốc mộ người chết lấy hài cốt
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
56
chuyển sang tiểu sành và đem chôn ở địa điểm khác. Nấm mồ cải táng mới là
ngôi mộ vĩnh viễn
Người Mường phần lớn chỉ thờ cúng tổ tiên- các bậc sinh thành. Hằng
năm, mỗi gia đình đều cúng giỗ người đã khuất với thái độ tôn kính. Người con
trai cả phải đảm đương nhiệm vụ nặng nề này. Mỗi gia đình đều có bàn thờ tổ
tiên ở vị trí trang trọng. Nhiều nhà bàn thờ thổ địa ở một nơi cao, phía tay phải
là bàn thờ gia tiên.
Một năm, người Mường có bốn lễ liên quan đến nông nghiệp:
- Lễ khai hạ( hạ nêu) vào ngày bảy tháng giêng âm lịch, chấm dứt Tết cổ
truyền.
- Lễ hạ điền vào tháng ba âm lịch, khi trời sắp mưa, bà con chuẩn bị
bước vào vụ cày cấy trong năm.
- Lễ thượng điền vào tháng bảy âm lịch, sau khi bà con làm cỏ xong
xuôi, cầu mong cho Trời phù hộ làm cho lúa tốt, mùa màng bội thu.
- Lễ cơm mới tháng mười âm lịch khi lúa chín được gặt
Ba lễ: hạ điền, thượng điền, cơm mới tổ chức tại miếu ở các xóm. Mỗi lễ
cúng này thường chỉ làm một buổi, kéo dài chừng hai, ba giờ và kết thúc bằng
bữa tiệc tập thể. Xét theo mặt nào đó, các lễ cúng nói trên có tác dụng đoàn kết,
gắn bó cộng đồng vào những dịp họp mặt đông đủ này.
II.8. Giới thiệu một hoạt động tập quán, tín ngưỡng dân gian gắn với
cộng đồng xã hội mà bản thân và những việc cần làm của bản thân nhằm
phát huy và bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc trong giai đoạn hiện nay.
II.8.1. Giới thiệu một hoạt động tập quán, tín ngưỡng dân gian gắn với
cộng đồng đó là lễ hội Kỳ Yên đình Tân Lân, thành phố Biên Hòa.
Lễ Kì yên ( Cầu an) là một trong những lễ hội chính ở các đình của Đồng
Nai. Ngoài đối tượng thờ chính là thấn Thành hoàng bổn cảnh có tính chất minh
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
57
định danh chung, một số đình làng ở Đống Nai tôn thờ với những con người có
công với làng, với xã được tôn lên hàng phúc thần như: đình Bình kính thờ Lễ
thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, đình Tân Lân thờ Đức ông Trần Thượng Xuyên,
đình Mĩ Khánh thờ Danh tướng Nguyễn Tri Phương, đình Tam Hiệp thờ anh
hùng chống Pháp Đoàn Văn Cự…
Lễ hội Kỳ yên ( Cầu an)- tên người dân thường gọi lễ cúng tế chính của
đình. Đây là một lễ quan trọng, lễ lớn mỗi năm của đình làng ở Biên Hòa. Thời
gian của lễ Kỳ yên của mỗi đình ở Biên Hòa khác nhau nhưng phổ biến nhất là lễ
diễn ra vào mùa xuân và mùa thu. Đáo lệ ba năm và còn tùy thuộc vào kinh phí
của làng xã có đình mà tổ chức lễ Kỳ yên lớn – Đại Lễ Kỳ yên. Đại lễ Kì yên
thường kéo dài trong ba ngày và đình làng tổ chức đầy đủ các nghi tiết, có tổ chức
hát bội, hát chầu cúng thần và cho người dân thưởng ngoạn.
Mục đích của Lễ Kỳ yên là Cầu an- những điều an lành, tốt đẹp cho làng xã
cho con người địa phương và cho đất nước. Những nghi thức quá trình diễn lễ cho
thấy, người dân địa phương có lòng thành tôn thờ , tổ chức lễ Kỳ yên nhằm tạ ơn
vị phúc thần đã ban ơn, bảo vệ người dân địa phương qua một năm trên nhiều khía
cạnh của cuộc sống và họ mong muốn vị thần tiếp tục ban cho có hoặc hơn những
điều tốt đẹp như thế.
Môi trường sống ngày nay của làng xã Biên Hòa trước đây có nhiều thay
đổi. Tính chất nông thôn ở một số địa bàn đã dần thay đổi hoặc thay đổi chuyển
biến mạnh mẽ qua tính chất của đô thị. Thế nhưng , thiết chế tín ngưỡng đình vẫn
tồn tại và là một nhu cầu lớn trong đời sống tâm linh của con người. Lễ hội Kỳ yên
của làng xã có tính chất lễ nghi nông nghiệp cổ xưa vẫn hài hòa và thích ứng trong
môi trường đô thị với sự phát triển của nhiều ngành nghề trong xã hội. Lễ hội Kỳ
yên ở Biên Hòa có tính chất cầu an cho làng xã và cho đất nước thái bình, muôn
người dân bình yên sinh sống điều này thể hiên tính cá nhân, gia đình, tự trị của
làng xã hài hòa trong tính cộng đồng lớn của người Việt.
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
58
Ở Biên Hòa Lễ Kỳ yên ở đình Tân Lân đã thu hút được đông đảo người dân
tham dự. Đây là ngôi đình thờ Đô đốc tướng quân Trần Thượng Xuyên. Để ghi
nhớ công lao của ông trong công cuộc khai phá mở mang thương mại vùng Đồng
Nai.
Có thể nói, kiến trúc đình Tân Lân đã thể hiện
được sự hoành tráng mà tinh xảo, tôn nghiêm
mà trữ tình. Tất cả các yếu tố văn hóa được
tuyền tải hòa quyện trong ngôi đình là kết quả
quá trình nhập cư của người Hoa vào vùng đất
phương Nam để sinh sống cùng người Việt
nhiều thế kỷ qua.
Tại đây, Đình Tân Lân không chỉ là nơi
thờ phụng Thành hoàng, vị thần của làng mà
còn là trung tâm sinh hoạt văn hoá gắn bó với một cộng đồng cư dân và mang đặc
trưng văn minh lúa nước Việt Nam. Hàng năm, vào ngày 23 tháng 10 âm lịch, đình
tổ chức lễ hội Kỳ yên, cũng là ngày lễ trọng thu hút đông đảo người dân không kể
Hoa, Việt qui tụ về dâng hương cầu an, cầu phước. Lễ hội được diễn ra trong hai
ngày với các hoạt động cơ bản như: lễ nhập đoàn, lễ cung thỉnh sắc ông, lễ thỉnh
sanh, lễ cúng tiên yết, lễ xây chầu đại hội, lễ hạ đàn. Trong những ngày này, dân
chúng khắp nơi thường tụ tập về đây trẩy hội, thắp nhang, đưa đức ông đi chu du
trong thành, xem hát bội, hát tuồng. Những người trong ban tổ chức trước khi tham
gia các hoạt động làm lễ phải thực hiện tẩy uế bản thân bằng rượu trắng. Trước khi
rước đức ông đi chu du trong thành, phải làm lễ khai sắc ông: đưa đức ông ra tắm
rửa bằng rượu, mặc áo bào… Ngoài ra, trong lễ hội còn có nghi thức cúng tiên yết,
là hoạt động cầu nguyện cho quốc thái dân an. Tất cả các nghi thức trong lễ Kỳ
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
59
Yên đều được Ban tế tự, học trò lễ,… thực hiện có bài bản, trang nghiêm theo quy
định từ xa xưa và cũng thể hiện sự tôn kính với thần linh.
Lễ hội Kỳ Yên ở đình Tân Lân thu hút đông đảo nhân dân tham gia không
chỉ bởi phần lễ long trọng mà còn bởi có phần hội đó là hát bội. Hoạt động lễ hội
đã đem lại cho dân làng sự vui vẻ quên hết những lo âu, nhọc nhằn đời thường, hòa
vào không khí linh thiêng, màu nhiệm của lễ hội nhưng cũng rất gần gũi với cuộc
sống, hoài niệm về tổ tiên - những người có công đức khai nghiệp cho làng xã,
đồng thời thể hiện sự gắn kết cộng đồng trong mối giao cảm với nhau.
Trải qua thời gian lâu dài, nhưng những nội dung quan trọng trong lễ hội Kỳ
yên vẫn giữ nguyên bản sắc như ngày đầu sơ khai. Cùng với đình Tân Lân, lễ hội
góp phần bảo tồn những giá trị văn hóa của dân tộc, nhất là của vùng đất Đồng
Nai.
II.9. Những việc cần làm của bản thân nhằm phát huy và bảo tồn bản sắc
văn hóa dân tộc trong giai đoạn hiện nay
Bản sắc văn hóa dân tộc là giá trị cốt lõi nhất của nền văn hóa, thể hiện tâm
hồn, cốt cách, tình cảm, lý trí, sức mạnh của dân tộc, tạo nên chất keo kết nối các
cộng đồng người gắn bó, đoàn kết với nhau để cùng tồn tại và phát triển. Những giá
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
60
trị của bản sắc văn hóa dân tộc là một trong những động lực to lớn đảm bảo sự ổn
định và phát triển bền vững của quốc gia dân tộc. Cũng chính nhờ bản sắc dân tộc
mà nước ta trên cuộc gặp gỡ Năm châu luôn mang trên mình màu sắc đặc trưng và
ấn tượng.
Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam được hình thành, phát triển gắn liền với lịch
sử dựng nước, giữ nước và quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mỗi phong tục tập
quán của 54 dân tộc anh em hoàn trộn lại với nhau tạo thành bản sắc chung của Việt
Nam, đa dạng nhưng vẫn hòa quyện chặt chẽ Trong bối cảnh đất nước ta đang đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hội nhập quốc tế mạnh mẽ, vấn đề giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc trên nền tảng kế thừa di sản văn hóa của cha ông, kết hợp học hỏi
những tinh hoa văn hóa nhân loại cần được đặc biệt chú trọng. Tuy nhiên, bên cạnh
những mặt tích cực còn có mặt tiêu cực của nó đó là nguy cơ xói mòn, phai nhạt và
biến dạng hệ thống giá trị trong bản sắc văn hóa dân tộc, sự du nhập của lối sống của
các nước đã làm suy giảm thuần phong mỹ tục, sự chống phá của chủ nghĩa đế quốc
và các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Chúng ta tiếp thu cái mới,
không có nghĩa là gạt bỏ hoàn toàn cái cũ. Bởi cái cũ, giá trị của nó là tạo nên nền
tảng của con người, giúp ta có chỗ dựa vững chắc để tiếp thu tinh hoa của nhân loại
một cách chọn lọc và phù hợp nhất. Vì vậy theo tôi vai trò của việc sáng tạo và gìn
giữ văn hóa dân tộc, tránh bị ngoại lai là việc làm cần thiết có vai trò quan trọng to
lớn trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Hơn ai hết mỗi người dân Việt Nam
sẽ tự ý thức bảo vệ, giữ gìn, bổ sung, phát triển và quảng bá những giá trị văn hóa dân
tộc. Vì vậy, để phát huy vai trò của người dân Việt Nam với việc giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay theo tôi chúng ta trước hết phải
bảo tồn giá trị di sản văn hóa của mỗi địa phương, vùng miền cụ thể bằng một số việc
làm thiết thực như sau:
Biên Hòa - Đồng Nai là vùng đất đã trải qua 320 năm hình thành và phát triển,
là người dân Đồng Nai bản thân tôi tự hào vì đã được sinh ra và lớn lên trên mảnh
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
61
đất anh hùng này, nơi gắn liền với hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ, nơi có nhiều di tích lịch sử văn hóa được xếp hạng cấp quốc gia và cấp
tỉnh, nhiều công trình văn hóa được xây dựng, nhiều phong tục tập quán, tín ngưỡng
dân gian có giá trị. Vì vậy, tôi thiết nghĩ để bảo tồn di sản văn hóa của địa phương
và phát huy giá trị di sản văn hóa đó một cách hiệu quả cần phải có sự chung tay
của cả cộng động, chính quyền ban ngành các cấp. với nhiều nguồn kinh phí (nhà
nước đầu tư, người dân đóng góp, xã hội hóa… và các tổ chức hoạt động văn hóa
nước ngoài hỗ trợ). Nên tiếp tục nghiên cứu, phát hiện các giá trị văn hóa, lành nghề
truyền thống ở Đồng Nai. kịp thời trùng tu tôn tạo các di tích đã xuống cấp. Bên
cạnh đó đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, giới thiệu các di tích, các làng nghề
truyền thống của tỉnh nhà. Đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác bảo tồn
di sản văn hóa, nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ thuyết minh viên tại các
di tích, bảo tàng tỉnh phục vụ tốt việc đón tiếp các đoàn khách trong và ngoài nước,
quảng đại quần chúng nhân dân, các đối tượng học sinh, sinh viên… đến nghiên
cứu, tham quan, học tập. Chương trình bảo tồn văn hóa phi vật thể góp phần sưu
tầm, bảo lưu, phục dựng những loại hình lễ hội của cộng đồng các dân tộc vốn đã bị
mai một. Tôi thiết nghĩ nếu làm tốt các công việc nêu trên sẽ góp phần bảo tồn
những giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam nói chung và Biên Hòa - Đồng Nai nói
riêng. Những giá trị văn hóa ấy đã góp phần tô đậm thêm cho di sản văn hóa, ghi
dấu công lao của bao thế hệ tiền nhân được gìn giữ cho đến hôm nay.
Về phương diện cá nhân, là một giáo viên Tiểu học, tôi sẽ tiếp tục tìm tòi nghiên
cứu những giá trị ẩn chứa bên trong mỗi di sản văn hóa, di tích lịch sử của tỉnh nhà,
tham gia tích cực hơn nữa trong công tác tuyên truyền những di tích lịch sử cách mạng
bằng những bài giảng thiết thực sinh động. Tôi biết, muốn duy trì điều gì đó hãy duy
trì nó từ trong ý thức của những học sinh, mầm non của đất nước. Bởi chính các em sẽ
là chủ nhân của nơi này, mọi việc các em làm sẽ ảnh hưởng tới tương lai của Tổ quốc.
Để giúp các em hiểu và tự hào về những trang sử hào hùng của dân tộc là vô cùng
quan trọng. Giáo viên phải giúp các em yêu thích môn lịch sử, khích thích được sự tìm
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
62
tòi của các em về lịch sử của dân tộc thông qua những bài học . Chính vì vậy bản thân
mỗi người giáo viên phải thay đổi, lựa chon phương pháp dạy học tích cực, lồng ghép
những đoạn phim về những sự kiện lịch sử, hoặc những trò chơi vào trong tiết học làm
cho các em bớt nhàm chán và thích thú học. Giáo viên làm cho tiết học lịch sử nhẹ
nhàng, sinh động. Lập kế hoạch liên kết giữa trường học và Ban quản lý di tích, bảo
tàng tỉnh để đưa bảo tàng đến với học đường bằng các đợt trưng bày tại trường, lên
lịch trình đưa học sinh đến tham quan học tập tìm hiểu lịch sử tại các di tích, bảo tàng
tỉnh. Sau những buổi tham quan các em sẽ làm bài và thuyết trình trước lớp. Với mong
muốn mỏi học sinh sẽ là một tuyên truyền viên, có thể giới thiệu về giá trị lịch sử -
văn hóa về các di tích, về những nội dung trưng bày tại bảo tàng, qua những sự kiện
lịch sử cách mạng cụ thể đến gia đình người thân, bạn bè…Qua những buổi tham quan
học tập ngoại khóa như thế sẽ giúp các em biết quí trọng nền hòa bình độc lập, cuộc
sống ấm no hạnh phúc, để các em ra sức học tập thi đua, bảo vệ thành quả cách mạng
của thế hệ cha ông đi trước và xây dựng đất nước ta ngày càng giàu đẹp văn minh
sánh vai với các nước năm châu như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời đã từng
dạy.
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
63
Kết luận
Tôi tự hào vì đã lập nghiệp trên vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai, nơi có
nhiều di tích lịch sử văn hóa được xếp hạng cấp quốc gia và cấp tỉnh, nhiều công
trình văn hóa được xây dựng, nhiều phong tục tập quán, tín ngưỡng dân gian
được bảo tồn và phát huy. Những giá trị văn hóa ấy là hành trang cho mỗi cá
nhân con người, đã và đang góp phần tô đậm thêm cho di sản văn hóa, ghi dấu
công lao của bao thế hệ tiền nhân được gìn giữ cho đến hôm nay.
Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa cùng các di tích cách mạng ghi dấu
những chiến công của quân và dân Biên Hòa – Đồng Nai qua 320 năm hình
thành và phát triển trong thời kỳ hiện nay là một vấn đề không hề đơn giản.
Thậm chí, trong tình hình hội nhập phát triển, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện
đại hóa và xu thế đô thị hóa mạnh mẽ hiện nay, những giá trị văn hóa truyền
thống, trong đó có loại hình di tích đã, đang và sẽ đứng trước những thách thức,
nguy cơ tác động, ảnh hưởng đến sự tồn tại. Đồng thời, quá trình này cũng tạo
nên những cơ hội cho sự phát huy di tích nêu biết vận dụng một cách khoa học,
đúng đắn. Để bảo tồn và phát huy di tích di sản văn hóa một cách hiệu quả nhất,
đòi hỏi ý thức, trách nhiệm và sự nỗ lực lớn của các cấp chính quyền, các cơ
quan hữu trách và ý thức của mỗi người, đặc biệt với thế hệ trẻ hôm nay./.
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
64
Tài liệu tham khảo
1. Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai (Nhiều tác giả) (1998). Biên
Hòa - Đồng Nai 300 năm hình thành và phát triển. NXB tổng hợp Đồng Nai.
2. Ban điều tra hậu quả chiến tranh tỉnh Đồng Nai. Tội ác thực dân Pháp –
Đế quốc Mỹ trên địa bàn thành phố Biên Hòa. Nhà xuất bản tổng hợp Đồng Nai
– năm 2000.
3. Th.s Trần Quang Toại (chủ biên). Đồng Nai di tích lịch sử văn hóa. Nhà
xuất bản tổng hợp Đồng Nai - năm 2004.
4. Trịnh Hoài Đức (2005), Gia định thành thông chí (Lý Việt Dũng, Huỳnh
Văn Tới chú giải, hiệu đính), NXB Tổng hợp Đồng Nai.
5. Phan Đình Dũng – Nguyên Thanh Lợi (2010), Hỏi đáp về Biên Hòa Đồng
Nai, Nxb Đồng Nai.
6. Phan Đình Dũng (2009), Cơ sở tín ngưỡng và lễ hội truyền thống ở Biên
Hòa, Trung tâm Văn Miếu Trấn Biên.
7. Huỳnh Văn Tới - Phan Đình Dũng, (2013), Đồng Nai những góc nhìn văn
hóa, Nxb Đồng Nai.
8. https://www.dongnai.gov.vn.
9. https://vi.wikipedia.org/wiki
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
65
PHẦN PHỤ LỤC HÌNH ẢNH
Đình Mỹ Khánh - Đền thờ Nguyễn Tri Phương
Đền thờ Đoàn Văn Cự và 16 nghĩa binh
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
66
Tượng đài chiến thắng Sân bay Biên Hòa
Tác giả tại di tích tượng đài chiến thắng sân bay Biên Hòa
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
67
Tác giả tại di tích Nhà lao Tân Hiệp
Tác giả tại di tích Nhà lao Tân Hiệp
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
68
Tác giả tại di tích Nhà lao Tân Hiệp
Tác giả tại di tích Nhà lao Tân Hiệp
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
69
Một số dụng cụ tra tấn tù nhân ở Nhà lao Tân Hiệp
Một số dụng cụ tra tấn tù nhân ở Nhà lao Tân Hiệp
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
70
Tác giả tại Nhà lao Tân Hiệp
Tác giả tại Bảo tàng Đồng Nai
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
71
Di tích lịch sử Nhà Xanh
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
72
MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu….…………………………………………………………........1
Câu 1: Trong 320 năm hình thành và phát phát triển vùng đất Biên Hòa –
Đồng Nai đã trải qua những cuộc kháng chiến nào? Hãy trình bày cảm nhận của
(anh), chị về truyền thống đấu tranh cách mạng của quân Biên Hòa – Đồng Nai.
Anh (chị) sẽ làm gì để phát huy truyền thống cách mạng ấy.
I.1. Trong 320 năm hình thành và phát triển vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai,
nhân dân Đồng Nai đã trải qua những cuộc đấu tranh sau
I.1.1. Những cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược (1861 – 1954)
I.1.1.1. Cuộc khởi nghĩa của sĩ phu yêu nước …………………………....3
I.1.1.2. Tổ chức yêu nước Trại Lâm Trung (1916)…………………………5
I.1.1.3. Trận tập kích thị xã Biên Hòa năm 1946……………………………7
I.1.1.4. Trận đánh giao thông La Ngà diễn ra vào ngày 01/3/1948………..6
I.1.5. Trận đánh Tháp canh cầu Bà Kiên năm 1948.................................11
I.1.6. Trận tấn công Yếu khu Trảng Bom năm 1951................................14
I.1.2. Những chiến công của quân dân Biên Hòa - Đồng Nai trong kháng
chiến chống Mỹ 1954 - 1975
I.1.2.1. Cuộc nổi dậy phá nhà Lao Tân Hiệp, ngày 02/12/1956………..15
I.1.2.2. Trận đầu diệt Mỹ tại Nhà Xanh năm 1959……………………...18
I.1.2.3. Trận tấn công vào sân bay Biên Hòa, năm 1964…………….....20
I.1.2.4. Trận tấn công vào tổng kho Long Bình 1966…………………....23
I.2.5. Cuộc nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968......................................24
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
73
I.2.6. Chiến dịch Xuân Lộc đập tan cánh cửa thép cho đại quân ta tiến về Sài
Gòn giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước.............................26
I.2. Cảm nhận của bản thân về truyền thống đấu tranh cách mạng của quân
Biên Hòa – Đồng Nai. Những việc làm của bản thân để phát huy truyền thống cách
mạng ấy…………………………………………………………….....................29
Câu 2: Hãy cho biết và nêu cảm nhận về những tập quán, tín ngưỡng dân
gian của người dân Biên Hòa – Đồng Nai; từ đó giới thiệu một hoạt động tập
quán, tín ngưỡng dân gian gắn với cộng đồng xã hội mà anh (chị) từng biết hoặc
tham gia? Để phát huy và bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc trong giai đoạn hiện
nay anh (chị) sẽ làm gì?
II.1. Hãy cho biết và nêu cảm nhận về những tập quán, tín ngưỡng dân gian
của người dân Biên Hòa – Đồng Nai; từ đó giới thiệu một hoạt động tập quán, tín
ngưỡng dân gian gắn với cộng đồng xã hội mà anh (chị) từng biết hoặc tham gia
II.1.1. Tập quán và lễ thức trong một vòng đời người
II.1.1.1 Hôn nhân.....................................................................................32
II.1.1.3. Tang ma.......................................................................................33
II.2.1. Phong tục thờ cùng trong nhà
II.2.1.1. Thờ cúng ông bà, tổ tiên..............................................................34
II.2.1.2. Thờ thần độ mạng........................................................................36
II.2.1.3. Thờ cúng các thần bản gia..........................................................36
II.2.1.4. Thờ thờ Thông Thiên...................................................................37
II.4.1. Tập quán tín ngưỡng trong cộng đồng
II.4.1.1.Đình và lễ hội cúng đình.............................................................37
II.4.1.2. Miễu và lễ hội cúng Bà................................................................40
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
74
II.4.1 Tập quán, tín ngưỡng của các cư dân bản địa ở Đồng Nai .........42
II. 4.1.1 Người Chơ Ro......................................................................42
II. 5.1.2 Người Mạ.............................................................................46
II.6.1 Tập quán, tín ngưỡng dân gian của người Hoa....................... ....47
II.7.1.2. Tập quán, tín ngưỡng dân gian Người Tày, Nùng ở Đồng Nai..49
II.5. Giới thiệu một hoạt động tập quán, tín ngưỡng dân gian gắn với cộng
đồng xã hội mà bản thân và những việc cần làm của bản thân nhằm phát huy và
bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc trong giai đoạn hiện nay.............................56
II.5.1. Giới thiệu một hoạt động tập quán, tín ngưỡng dân gian gắn với cộng
đồng đó là lễ hội Kỳ Yên đình Tân Lân thành phố Biên Hòa.........................57.
II.5.2 Những việc cần làm của bản thân nhằm phát huy và bảo tồn bản sắc
văn hóa dân tộc trong giai đoạn hiện nay…………………………....................59
Kết luận……..…………………………………………………...............63
Phụ lục hình ảnh
- Tài liệu tham khảo
- Mục lục
TÌM HIỂU GIÁ TRỊ VĂN HÓA – LỊCH SỬ ĐỒNG NAI
75
Tươ
T
Trận đánh La NgàT