GS Phan Huy Lê:Khách quan-Trung thực-Công bằng về · Web viewTrong xu...

24
GS Phan Huy Lê:Khách quan-Trung thực-Công bằng về chúa Nguyễn, triều Nguyễn 11:50' 18/10/2008 (GMT+7) - Sáng nay, 18/10, Hội thảo quốc gia về "Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX" đã diễn ra tại Thanh Hóa quy tụ hàng trăm nhà khoa học trong nước và quốc tế đến dự. > Đột phá trong nhận thức về chúa Nguyễn, triều Nguyễn Trong lời khai mạc, GS sử học Phan Huy Lê đã đề xuất các ý kiến tranh luận nên vì sự thật khách quan của khoa học và trách nhiệm của mỗi chúng ta trước hậu thế bằng một câu ngắn gọn: Khách quan, trung thực và công bằng. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu bài đề dẫn của GS Phan Huy Lê cùng độc giả. Đầu đề do chúng tôi tạm đặt: Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX: 1. Quá trình nhận thức và yêu cầu của hội thảo Nhận thức lịch sử là một quá trình tiến tới tiếp cận lịch sử một cách càng ngày càng khách quan, trung thực, gần với sự thật lịch sử nhất trong khả năng của các nhà sử học. Tôi nói gần với sự thật lịch sử nhất trong hàm ý là giữa lịch sử khách quan và lịch sử được nhận thức bao giờ cũng có một khoảng cách mà mục tiêu và ước vọng của các nhà sử học là rút ngắn khoảng cách đó. Khả năng này tùy thuộc vào rất nhiều nhân tố, trước hết năng lực của nhà sử học biểu thị ở trình độ lý thuyết và phương pháp luận, cách tập hợp và xử lý các nguồn thông tin, mặt khác là cách nhìn và động cơ của nhà sử học liên quan đến những tác động chi phối hay ảnh hưởng của bối cảnh chính trị của mỗi thời kỳ lịch sử. Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên khi chúng ta cùng nhau thảo luận để nhìn nhận, đánh giá lại một số sự kiện, nhân vật lịch sử hay cả một giai doạn, một thời kỳ lịch sử. Thời kỳ các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn từ thế kỷ XVI cho đến thế kỷ XIX là một trong những thời kỳ lịch sử đã trải qua những cách nhìn nhận và đáng giá hết sức khác nhau, có lúc gần như đảo ngược lại. Vương triều Nguyễn để lại những bộ chính sử đồ sộ của vương triều biểu là bộ Đại Nam thực lục[1]Đại Nam liệt truyện[2]. Những bộ chính sử của vương triều bao giờ cũng chép theo quan điểm chính thống của vương triều đang trị vì và nhằm tôn vinh công lao, sự nghiệp của vương triều. Trên quan điểm chính thống đó, Sử quán triều Nguyễn phê phán những thế lực đối lập như chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, các lực lượng chống đối như coi Tây Sơn là "ngụy triều"... Trong xu hướng canh tân phát triển mạnh thời Tự Đức, một số nhà trí thức cấp tiến đã dâng lên triều đình nhiều bản điều trần đầy tâm huyết. Trong số điều trần này, một số tác giả đã nêu lên trên tinh thần phê phán những mặt tiêu cực, lạc hậu của GS Phan Huy Lê

Transcript of GS Phan Huy Lê:Khách quan-Trung thực-Công bằng về · Web viewTrong xu...

Page 1: GS Phan Huy Lê:Khách quan-Trung thực-Công bằng về · Web viewTrong xu hướng canh tân phát triển mạnh thời Tự Đức, một số nhà trí thức cấp tiến

GS Phan Huy Lê:Khách quan-Trung thực-Công bằng về chúa Nguyễn, triều Nguyễn11:50' 18/10/2008 (GMT+7)

  - Sáng nay, 18/10, Hội thảo quốc gia về "Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX" đã diễn ra tại Thanh Hóa quy tụ hàng trăm nhà khoa học trong nước và quốc tế đến dự.

 > Đột phá trong nhận thức về chúa Nguyễn, triều Nguyễn

Trong lời khai mạc, GS sử học Phan Huy Lê đã đề xuất các ý kiến tranh luận nên vì sự thật khách quan của khoa học và trách nhiệm của mỗi chúng ta trước hậu thế bằng một câu ngắn gọn: Khách quan, trung thực và công bằng. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu bài đề dẫn của GS Phan Huy Lê cùng độc giả. Đầu đề do chúng tôi tạm đặt:

 Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX:

1. Quá trình nhận thức và yêu cầu của hội thảo

Nhận thức lịch sử là một quá trình tiến tới tiếp cận lịch sử một cách càng ngày càng khách quan, trung thực, gần với sự thật lịch sử nhất trong khả năng của các nhà sử học. Tôi nói gần với sự thật lịch sử nhất trong hàm ý là giữa lịch sử khách quan và lịch sử được nhận thức bao giờ cũng có một khoảng cách mà mục tiêu và ước vọng của các nhà sử học là rút ngắn khoảng cách đó.

Khả năng này tùy thuộc vào rất nhiều nhân tố, trước hết năng lực của nhà sử học biểu thị ở trình độ lý thuyết và phương pháp luận, cách tập hợp và xử lý các nguồn thông tin, mặt khác là cách nhìn và động cơ của nhà sử học liên quan đến những tác động chi phối hay ảnh hưởng của bối cảnh chính trị của mỗi thời kỳ lịch sử. Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên khi chúng ta cùng nhau thảo luận để nhìn nhận, đánh giá lại một số sự kiện, nhân vật lịch sử hay cả một giai doạn, một thời kỳ lịch sử. 

Thời kỳ các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn từ thế kỷ XVI cho đến thế kỷ XIX là một trong những thời kỳ lịch sử đã trải qua những cách nhìn nhận và đáng giá hết sức khác nhau, có lúc gần như đảo ngược lại.

Vương triều Nguyễn để lại những bộ chính sử đồ sộ của vương triều biểu là bộ Đại Nam thực lục[1]và Đại Nam liệt truyện[2]. Những bộ chính sử của vương triều bao giờ cũng chép theo quan điểm chính thống của vương triều đang trị vì và nhằm tôn vinh công lao, sự nghiệp của vương triều. Trên quan điểm chính thống đó, Sử quán triều Nguyễn phê phán những thế lực đối lập như chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, các lực lượng chống đối như coi Tây Sơn là "ngụy triều"...

Trong xu hướng canh tân phát triển mạnh thời Tự Đức, một số nhà trí thức cấp tiến đã dâng lên triều đình nhiều bản điều trần đầy tâm huyết. Trong số điều trần này, một số tác giả đã nêu lên trên tinh thần phê phán những mặt tiêu cực, lạc hậu của đất nước thời Nguyễn, nhất là về kinh tế, quốc phòng và giáo dục. Tiêu biểu nhất là Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Đặng Huy Trứ.    

Như vậy là trong thời kỳ các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn, bên cạnh quan điểm chính thống tôn vinh vương triều, cũng đã có những góc nhìn khác từ những đề nghị canh tân của những trí thức cấp tiến.

Trong thời Pháp thuộc, xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu của người Việt Nam, người Pháp, phần lớn theo xu hướng vận dụng phương pháp luận hiện đại của phương Tây. Các công trình nghiên cứu tập trung nhiều nhất vào việc khảo tả các di tích lịch sử, văn hóa, các nghi lễ, các công trình nghệ thuật và các nhân vật lịch sử cùng quan hệ giao thương với nước ngoài, các thương cảng, đô thị, nhất là kinh thành Huế. Những kết quả nghiên cứu này, ngoài những ấn phẩm in thành sách, thường là các luận văn đăng tải nhiều nhất trên Bulletin des Amis du Vieux Hue (BAVH), Bulletin de l’ Ecole française d’ Extrême-Orient (BEFEO) và trên tạp chí tiếng Việt như tạp

GS Phan Huy Lê

Page 2: GS Phan Huy Lê:Khách quan-Trung thực-Công bằng về · Web viewTrong xu hướng canh tân phát triển mạnh thời Tự Đức, một số nhà trí thức cấp tiến

chí Tri tân, Nam phong, Trung Bắc chủ nhật"[3]....Một số bộ sử An Nam của người Pháp như Histoire moderne du pays d’ Annam của Charles Maybon[4], Lecture sur l’ histoirre d’ Annam của Ch. Maybon và H. Russier[5] cũng nhấn mạnh công thống nhất đất nước và những thành tựu của triều Nguyễn, đồng thời có xu hướng nêu cao vai trò trợ giúp của một số sĩ quan và kỹ thuật Pháp.Trong những nghiên cứu cụ thể về từng phương diện như vây tuy không đưa những nhận xét đánh giá chung về các chúa Nguyễn hay vương triều Nguyễn, nhưng tạo ra cơ sở khoa học cho những khái quát về thời kỳ lịch sử này. Những nhận xét mang tính đánh giá thể hiện rõ hơn trong những một số công trình về thông sử Việt Nam. Ví dụ Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, trong đó một mặt tác giả biện giải triều Tây Sơn không phải là "ngụy triều" như cách nhìn nhận chính thống của sử triều Nguyễn, mặt khác nêu cao công cao thống nhất đất nước "đem giang sơn về một mối, nam bắc một nhà, làm cho nước ta thành một nước lớn ở phương nam vậy"[6] Tác giả đánh cao những thành tựu thời Gia Long, Minh Mệnh, nhưng cũng phê phán triều Tự Đức để cho đất nước suy yếu và lâm vào"sự nguy vong.

Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 cho đến năm 1975, trong thời kỳ chiến tranh, công việc nghiên cứu nói chung có bị hạn chế, số lượng các công trình nghiên cứu chuyên đề không nhiều. Nhưng chính trong bối cảnh này đã xuất hiện một khuynh hướng phê phán gay gắt các chúa Nguyễn cũng như các chúa Trịnh và đặc biệt là vương triều Nguyễn thế kỷ XIX. Khuynh hướng này phát triển ở miền Bắc trong thời gian từ 1954 phản ánh trên một số luận văn trên tạp chí Văn sử địa, Đại học sư phạm, Nghiên cứu lịch sử và biểu thị tập trong những bộ lịch sử, lịch sử văn học, lịch sử tư tưởng Việt Nam...

Mỗi tác giả và tác phẩm tuy có mức độ khác nhau, nhưng tựu trung đều chung khuynh hướng phê phán các chúa Nguyễn (cũng như các chúa Trịnh) đã chia cắt đất nước, vương triều Nguyễn mở đầu bằng hành động cần viện tư bản Pháp, phong kiến Xiêm để tiến hành cuộc chiến tranh chống Tây Sơn và kết thúc bằng sự đầu hàng quân xâm lược Pháp. Thời kỳ nhà Nguyễn bị kết án là thời kỳ chuyên chế phản động nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Khuynh hướng đó gần như trở thành quan điểm chính thống trong biên soạn sách giáo khoa đại học và phổ thông.

Thái độ phê phán gay gắt trên có nguyên do sâu xa trong bối cảnh chính trị của đất nước thời bấy giờ và trong cách vận dụng phương pháp luận sử học của các nhà nghiên cứu.

Thành Gia Định (Sài Gòn) vẽ theo tư liệu của bản đồ Bruyn 1795,  Trần Văn Học 1815.

Quan điểm trên nẩy sinh, xác lập trong những năm từ 1954-1956 và phát triển mạnh cho đến những năm 70 của thế kỷ XX. Đó là thời kỳ cả dân tộc đang tiến hành cuộc chiến tranh vô cùng ác liệt hoàn thành nhiệm vụ giải phóng đất nước, thống nhất tổ quốc. Trong thời kỳ đó, độc lập dân tộc và thống nhất quốc gia là mục tiêu cao cả, có ý nghĩa thiêng liêng của cuộc chiến đấu. Vì vậy khi nhìn lại lịch sử, bất cứ hành động nào xúc phạm hay đi ngược lại độc lập và thống nhất đều bị phê phán. Cuộc tranh luận về sự thống nhất đất nước thời Tây Sơn và

Page 3: GS Phan Huy Lê:Khách quan-Trung thực-Công bằng về · Web viewTrong xu hướng canh tân phát triển mạnh thời Tự Đức, một số nhà trí thức cấp tiến

nhà Nguyễn cũng tiến hành trong không khí chính trị đó và đã xuất hiện quan điểm cực đoan cho rằng Tây Sơn đã hoàn thành, thậm chí hoàn thành triệt để nhiệm vụ khôi phục quốc gia thống nhất. Bối cảnh lịch sử của cuộc chiến tranh đã tác động đến thái độ của nhiều nhà sử học trong nhìn nhận và đánh giá về các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn, nhất là các cơ quan khoa học trong hệ thống chính trị đương thời.

Nguyên nhân về vận dụng phương pháp luận là thuộc trách nhiệm của các nhà sử học. Đây là thời kỳ nền sử học hiện đại xây dựng trên hệ tư tưởng Mácxít đang hình thành và trong vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nhĩa duy vật lịch sử phạm những sai lầm của chủ nghĩa giáo điều, công thức, máy móc. Theo lý thuyết về hình thái kinh tế xã hội, thời bấy giờ đang thịnh hình quan điểm cho rằng chế độ phong kiến Việt Nam hình thành trong thời Bắc thuộc, phát triển đạt đến độ cực thịnh ở thời Lê sơ thế kỷ XV và bắt đầu suy vong từ thế kỷ XVI, rồi lâm vào tính trạng khủng hoẳng trầm trọng vào thời cuối Lê và nhà Nguyễn.

Như vậy là thời kỳ các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn được đặt vào khung suy vong, khủng hoẳng của chế độ phong kiến và trong bối cảnh đó thì giai cấp phong kiến không còn vai trò tích cực, không còn đại diện cho lợi ích dân tộc. Áp dụng lý thuyết hình thái kinh tế xã hội và đấu tranh giai cấp một cách giáo điều đã dẫn đến những hệ quả đưa ra những phân tích và đánh giá lịch sử thiếu khách quan, không phù hợp với thực tế lịch sử. Không riêng các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn mà những nhân vật lịch sử liên quan, và rộng ra cả vương triều Mạc trước đó, đều bị đánh giá theo quan điểm chưa được khách quan, công bằng như vậy.

Công cuộc Đổi mới khởi đầu từ năm 1986, bắt đầu từ đổi mới tu duy kinh tế, sau đó dần dần được mở rộng sang các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Năm 1988 Hội Khoa học lịch sử Việt Nam  được tổ chức lại trên phạm vi cả nước và một trong những hoạt động khoa học đầu tiên là tổ chức cuộc Hội thảo khoa học "Sử học trước yêu cầu Đổi mới của đất nước" tại Hà Nội năm 1989 và tại thành phố Hồ Chí Minh năm 1990 với sự tham gia của nhiều nhà sử học và những ngành liên quan của khoa học lịch sử như khảo cổ học, dân tộc học, bảo tàng và bảo tồn học, văn hóa học. .    Hội thảo đã đạt được sự đồng thuận cao trong khẳng định những thành tựu của nền sử học hiện đại Việt Nam, vai trò và cống hiến của sử học trong thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, trong cuộc sống xã hội đồng thời nghiêm khắc nêu lên những mặt hạn chế, những yếu kém và khuyết tật để khắc phục. Về mặt này, hội thảo đã nêu lên ba mặt yếu kém quan trọng nhất về tư duy sử học là: - Khuynh hướng giáo điều, công thức trong vận dụng các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử,  - Khuynh hương "chính trị hóa lịch sử", dùng lịch sử để minh họa một số quan điểm chính trị có sẵn, tự hạ thấp tính độc lập, vai trò sáng tạo của khoa học lịch sử,  - Khuynh hướng "hiện đại hóa lịch sử" theo ý nghĩa là trình bày lịch sử quá khứ như hiện đại, không tôn trọng tính đặc trưng của từng thời kỳ lịch sử[7]

Trong hội thảo, nhiều tham luận và phát biểu cũng đã nêu lên yêu cầu đổi mới tu duy sử học theo hướng tiếp cận và nhận thức đối tượng một cách khách quan, trung thực nhất trong khả năng cao nhất của sử học. Một loạt vấn đề, trong đó có những giai đoạn lịch sử như triều Hồ, triều Mạc, các chúa Nguyễn, triều Nguyễn được đưa ra phân tích để minh chứng cho những nhận định phiến diện, thiếu tính khách quan, khoa học trước đây.

Từ cuối những năm 80, nhất là từ những năm 90 của thế kỷ XX trở lại đây, công việc nghiên cứu về thời kỳ các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn đã được triển khai và đạt nhiều thành tựu mới theo xu hướng tư duy khách quan, trung thực. Ngoài các công trình nghiên cứu của cá nhân, một đề tài Khoa học cấp nhà nước mang tiêu đê " Khảo cứu kinh tế và tổ chức bộ máy nhà nước triều Nguyễn, những vấn đề đặt ra trong thực tiễn đổi mới đất nước hiện nay", mã số KX-ĐL: 94-16 do PGS Đỗ Bang làm chủ nhiệm đã được thực hiện năm 1995-1996 với sự tham gia gần như của giới sử học cả nước. Phạm vi nghiên cứu dần dần được mở rộng trên tất cả lĩnh vực của thời kỳ lịch sử này, từ kinh tế, xã hội đến chính trị, văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật...Nhiều công trình khoa học được xuất bản hay đăng tải trên các tạp chí khoa học, gần hai chục cuộc hội thảo khoa học đã được tổ chức ở thành phố Huế, thành phố Hồ Chí Minh và thủ đô Hà Nội[8]. Một số luận án Tiến sĩ đã chọn đề tài trong thời kỳ lịch sử các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn. Một số học giả nước ngoài cũng quan tâm nghiên cứu thời kỳ này và khá nhiều công trình đã được công bố, trong đó có một số công trình đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam[9]. Trong nhận định và đánh giá về các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX dĩ nhiên còn có những khác biệt giữa các tác giả và còn nhiều vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu, thảo luận. Nhưng mẫu số chung của những công trình nghiên cứu trong vài thập kỷ trở lại đây ở trong nước cũng như nước ngoài là thống nhất cần phải khai thác những nguồn tư liệu phong phú, phân tích và xử lý một cách khoa học để nâng cao nhận thức về thời kỳ này một cách khách quan, trả lại các giá trị đích thực cho các triều vua chúa, các nhân vật lich sử, nêu cao những cống hiến tích cực, đồng thời phân tích cả những mặt hạn chế, tiêu cực. 

Page 4: GS Phan Huy Lê:Khách quan-Trung thực-Công bằng về · Web viewTrong xu hướng canh tân phát triển mạnh thời Tự Đức, một số nhà trí thức cấp tiến

Về cơ sở tư liệu thì trong lịch sử Việt Nam cho đến cuối thế kỷ XIX, chưa có thời kỳ nào có những nguồn tư liệu phong phú, đa dạng như thời kỳ các chúa Nguyễn, nhất là thời kỳ vương triều Nguyễn. Ngoài các bộ chính sử và địa chí của vương triều, còn có nhiều nguồn tư liệu gốc mang giá trị thông tin rất cao như Châu bản[10] , địa bạ[11], văn bia[12], gia phả và các tư liệu do người nước ngoài ghi chép. Các nguồn tư liệu trên đang được sưu tầm và khai thác có hiệu quả cung cấp những dữ liệu mới cực kỳ phong phú để nghiên cứu sâu các vấn đề của thời kỳ lịch sử các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn.

Các nguồn tư liệu và kết quả nghiên cứu cho đến nay đã tạo lập một cơ sở khoa học vững chắc để giới sử học và các nhà khoa học trên các lĩnh vực liên quan cùng nhau nhìn nhận và đánh giá một cách công bằng đối với vai trò và cống hiến của các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, phân tích một cách khách quan mặt tích cực và cả mặt hạn chế, mặt mạnh và cả mặt yếu. Đó chính là lý do và yêu cầu của cuộc Hội thảo khoa học tầm cỡ quốc gia của chúng ta tổ chức nhân dịp 450 năm chúa Nguyễn Hoàng rời quê hương xứ Thanh vào mở cõi phương Nam. 

2. Phạm vi và nội dung chủ yếu của hội thảo

2.1. Về khung thời gian

Thời kỳ các chúa Nguyễn bắt đầu từ năm 1558 khi chúa Nguyễn Hoàng rời quê hương xứ Thanh vào nhậm chức Trấn thủ xứ Thuận Hóa rồi năm 1570 kiêm Trấn thủ xứ Quảng Nam. Vương triều Nguyễn khởi đầu từ khi chúa Nguyễn Ánh sáng lập vương triều năm 1802. Giữa thời kỳ các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn có thời kỳ Tây Sơn tính từ khi cuộc khởi nghĩa bùng nổ năm 1771 cho đến khi chính quyền Tây Sơn cuối cùng là triều vua Nguyễn Quang Toản thất bại năm 1802. Rõ ràng thời Tây Sơn nằm giữa liên quan đến sự thất bại của chúa Nguyễn cuối cùng là Nguyễn Phúc Thuần năm 1776, Nguyễn Phúc Dương năm 1777 và sự thắng lợi của Nguyễn Ánh năm 1802. Tuy nhiên, vừa rồi nhân dịp kỷ niệm 320 năm lễ đăng quang Hoàng đế của Quang Trung Nguyễn Huệ (1788-2008), Ủy ban nhân dân và Hội khoa học lịch sử tỉnh Thừa Thiên-Huế đã tổ chức Hội thảo khoa học tại thành phố Huế ngày 06-06-2008 nên trong Hội thảo này chúng ta không bàn về thời Tây Sơn để tập trung vào nội dung chủ yếu của Hội thảo. Nhưng dĩ nhiên trong những mối quan hệ như sự thất bại của chúa Nguyễn, kháng chiến chống Xiêm, thắng lợi của Nguyễn Ánh, chúng ta vẫn đề cập đến thời Tây Sơn trong mức độ cần thiết.

Vương triều Nguyễn còn kéo dài cho đến năm 1945, kết thúc với thắng lợi của Cách mạng tháng 8 và sự thóai vị của vua Bảo Đại năm 1945. Nhưng từ khi đất nước đã bị chủ nghĩa thực dân Pháp thống trị thì vai trò và tính chất của triều Nguyễn đã thay đổi hoàn toàn. Vì vậy trong Hội thảo này, vương triều Nguyễn chỉ giới hạn trong thời kỳ độc lập của vương triều cho đến khi bị thất bại trước cuộc xâm lược của thực dân Pháp năm 1858-1884. Tuy nhiên trong Hội thảo chúng ta cũng không đi sâu vào cuộc kháng chiến chống chủ nghĩa thực dân mà chỉ làm sáng tỏ nguyên nhân và trách nhiệm của triều Nguyễn trong thất bại của cuộc kháng chiến.

Như vậy về thời gian, chúng tôi đề nghị giới hạn từ giữa thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XIX, trong phạm vi thời kỳ trị vì của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong và vương triều Nguyễn trên cương vị quốc gia Việt Nam rồi Đại Nam độc lập, có chủ quyền. Thời gian trước và sau ranh giới thời gian này cũng như thời Tây Sơn ở giữa chỉ đề cập trong mức độ liên quan cần thiết.

Trong giới hạn thời gian như trên, dĩ nhiên cũng cần đặt Việt Nam trong mối quan hệ với các nước trong khu vực và thế giới. Thế kỷ XVI-XIX là thời kỳ phát triển mạnh mẽ của hệ thống thương mại châu Á và cũng là thời kỳ bành trướng dữ dội của chủ nghĩa tư bản phương Tây sang phương Đông. Bối cảnh lịch sử đó tác động đến mọi nước Đông Nam Á và Đông Á, nhưng mỗi nước lại có cách ứng phó khác nhau và dẫn đến hệ quả khác nhau, ảnh hưởng đến sự tồn vong của mỗi quốc gia-dân tộc.       

2.2. Về thời kỳ các chúa Nguyễn

Những kết quả nghiên cứu đã cho phép khẳng định công lao mở mang bờ cõi từ Thuận Hóa, Quảng Nam vào đến vùng đồng bằng sông Cửu Long của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong trong thời gian từ giữa thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XVIII. Công cuộc khai phá với những chính sách và biện pháp tích cực của chính quyền chúa Nguyễn, đã biến vùng Thuận Quảng còn hoang sơ vào giữ thế kỷ XVI, trở thành một vùng kinh tế phát triển làm bàn đạp cho công cuộc mở mang bờ cõi về phía nam. Vào thế kỷ XVII-XVIII, vùng đồng bằng sông Cửu Long là một vựa lúa của Đàng Trong với năng xuất đạt tới 100, 200, 300 lần như Lê Quý Đôn đã ghi chép. Các nghề thủ

Page 5: GS Phan Huy Lê:Khách quan-Trung thực-Công bằng về · Web viewTrong xu hướng canh tân phát triển mạnh thời Tự Đức, một số nhà trí thức cấp tiến

công, quan hệ hàng hóa tiền tệ trong nước và quan hệ mậu dịch với nước ngoài đều phát triển nhanh chóng.

Một loạt đô thị, thương cảng ra đời thu hút nhiều thuyền buôn và thương gia nước ngoài, kể cả các công ty tư bản phương Tây như Hà Lan, Anh, Pháp...trong đó nổi lên các cảng thị Phú Xuân-Thanh Hà (Thừa Thiên-Huế), Hội An (Quảng Nam), Nước Mặn (Bình Định), Vũng Lấm (Phú Yên), Gia Định (thành phố Hồ Chí Minh), Cù Lao Phố (Đồng Nai), Mỹ Tho, Hà Tiên... Các chúa Nguyễn Hoàng (Chúa Tiên, Đoan Quận công: 1558-1613), Nguyễn Phúc Nguyên (Chúa Sãi, Thụy Quận công:1613-1635), Nguyễn Phú Lan (Chúa Thượng, Nhân Quận công: 1635-1648), Nguyễn Phú Tần (Chúa Hiền, Dũng Quận công: 1648-1687)...có công lớn trong sự nghiệp khai phá và phát triển vùng đất mới, mở rộng lãnh thổ phía nam bao gồm cả các hải đảo ven bờ và quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trên Biển Đông.

Vấn đề cần đi sâu nghiên cứu làm sáng tỏ là phương thức khai phá có hiệu quả kinh tế cao kết hợp với việc xây dựng và củng cố chủ quyền quốc gia trên vùng đất mới của các chúa Nguyễn. Đối với vùng đất Nam Bộ, cần chú trọng vai trò của các lớp lưu dân người Việt, sự tham gia của một số người Hoa và các cộng đồng cư dân tại chỗ như người Khmer, người Mạ, Xtiêng, Chơ Ro...cùng quá trình cộng cư và giao thoa văn hóa tạo nên sắc thái đặc trưng của vùng đất phương nam này.

2.3. Về vương triều Nguyễn 

Từ khoảng giữa thế kỷ XVIII, chính quyền chúa Nguyễn thời chúa Nguyễn Phúc Thuần (Định vương: 1765-1776) trở nên suy yếu và bị phong trào Tây Sơn lật đổ. Nhưng cuộc chiến tranh giữa Tây Sơn với người kế tục chúa Nguyễn là Nguyễn Ánh vẫn tiếp tục và cuối cùng kết thúc bằng thắng lợi của Nguyễn Ánh năm 1802. Hội thảo không đi sâu vào lịch sử Tây Sơn, nhưng không thể không đề cập và xem xét một số vấn đề liên quan với Tây Sơn, cụ thể là ba vấn đề sau đây:

- Cắt nghĩa sự thành bại của mỗi bên trong cuộc chiến tranh giữa Tây Sơn với chúa Nguyễn. Từ năm 1771 khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ và cho đến năm 1777 đã đánh bại toàn bộ hệ thống chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong mà đại diện cuối cùng là chúa Nguyễn Phúc Thuần và Nguyễn Phúc Dương. Đây là cuộc chiến tranh giữa một bên là phong trào Tây Sơn tiêu biểu cho sức mạnh quật khởi của nhân dân Đàng Trong và bên kia là thế lực suy đồi của một chính quyền phong kiến đã bị nhân dân óan ghét, bất bình. Thắng lợi của Tây Sơn trong thời gian này là thắng lợi của một cuộc khởi nghĩa nông dân, một phong trào đấu tranh mang tính nhân dân rộng lớn, đang tập hợp được các lực lượng của mọi tầng lớp xã hội bất bình với chế độ chúa Nguyễn thời suy vong.

Trên cơ sở thắng lợi của phong trào Tây Sơn, một vương triều phong kiến mới được thiết lập gồm chính quyền Đông Định vương Nguyễn Lữ ở Gia Định, Trung Ương Hoang đế Nguyễn Nhạc ở Qui Nhơn và Bắc Bình vương Nguyễn Huệ ở Phú Xuân. Trong ba chính quyền Tây Sơn, chỉ có chính quyền Nguyễn Huệ tồn tại vững vàng nhưng sau khi vua Quang Trung Nguyễn Huệ mất năm 1792, vương triều Nguyễn Quang Toản cũng suy yếu rất nhanh. Cuộc chiến tranh Nguyễn Ánh - Tây Sơn đã thay đổi tính chất và chuyển hóa thành cuộc đấu tranh giữa hai thế lực phong kiến mà thất bại của Nguyễn Lữ, rồi Nguyễn Nhạc và Quang Toản là thất bại của những chính quyền phong kiến đã suy yếu và mất lòng dân.

- Trong cuộc đấu tranh chống Tây Sơn, thời gian bị thất bại nặng nề ở trong nước, Nguyễn Ánh phải nhờ vào sự cứu viện của nước ngoài biểu thị tập trung trong Hiệp ước Versailles ký kết năm 1787 với Pháp và việc cầu cứu vua Xiêm đưa 5 vạn quân Xiêm vào Gia Định năm 1784. Dù cho Hiệp ước Versailles không được thực thi và lực lượng viện trợ do Bá Đa Lộc vận động không bao nhiêu, quân xâm lược Xiệm cũng bị quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy, đánh tan trong trận Rạch Gầm-Xoài Mút đầu năm 1785, nhưng hành động của Nguyễn Ánh cần được đặt trong bối cảnh cụ thể lúc bấy giờ và phân tích, đánh giá một cách công minh. 

- Giữa năm 1786 quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy tiến ra bắc, đánh bại quân Trịnh và phong trào Tây Sơn đã làm chủ cả nước. Tiếc rằng sau đó, do bất hòa và mâu thuẫn giữa các thủ lĩnh Tây Sơn dẫn đến việc thành lập ba chính quyền Tây Sơn. Vấn đề đặt ra và đã từng gây cuộc tranh luận trong năm 1960, 1963 là công lao thống nhất đất nước của Tây Sơn và Nguyễn Ánh[13]. Lúc bấy giờ xuất hiện hai quan điểm hoàn toàn đối lập, phủ định hay khẳng định công lao thống nhất thuộc về Tây Sơn hay Nguyễn Ánh. Hai quan điểm đối lập theo lối cực đoan đó không có sức thuyết phục cao và gần đây xu hướng chung là không ai có thể phủ nhận được công lao thống nhất đất nước của vương triều Nguyễn mà người sáng lập là vua Gia Long Nguyễn Ánh, nhưng từ đó phủ nhận luôn cả những cống hiến của Tây Sơn thì cũng cần trao đổi thêm.

Page 6: GS Phan Huy Lê:Khách quan-Trung thực-Công bằng về · Web viewTrong xu hướng canh tân phát triển mạnh thời Tự Đức, một số nhà trí thức cấp tiến

Phong trào Tây Sơn đã đánh bại chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong, chính quyền vua Lê- chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và đã xóa bỏ tình trạng phân chia đất nước kéo dài trên hai thế kỷ, đánh tan quân xâm lược Xiêm ở phía nam và quân xâm lược Thanh ở phía bắc, đó là những thành tựu của Tây Sơn đã đặt cơ sở cho công cuộc khôi phục quốc gia thống nhất mà sau này Nguyễn Ánh và triều Nguyễn đã kế thừa. Như vậy là hai kẻ thù không đội trời chung lại góp phần tạo lập nên sự nghiệp thống nhất đất nước của dân tộc, bề ngoài như một nghịch lý nhưng lại nằm trong xu thế phát triển khách quan của lịch sử và yêu cầu bức thiết của dân tộc.

Vương triều Nguyễn trong thời gian tồn tại độc lập từ khi thành lập cho đến khi bị thất bại trong cuộc kháng chiến chống Pháp, đã có nhiều cống hiến tích cực trên nhiều phương diện. Thời phát triển của vương triều bao gồm các đời vua Gia Long (1802-1820), Minh Mệnh (1820-1841) và Thiệu Trị (1841-1847), tức khoảng nửa đầu thế kỷ XIX, thời thịnh đạt nhất là dưới triều vua Minh Mệnh.   

Nước Việt Nam, quốc hiệu đặt năm 1804, và Đại Nam năm 1838, là một quốc gia thống nhất trên lãnh thổ rộng lớn gần như tương ứng với lãnh thổ Việt Nam hiện nay, bao gồm cả Đàng Trong và Đàng Ngoài cũ. Trên lãnh thổ thống nhất đó, triều Nguyễn đã xây dựng một cơ chế quân chủ tập quyền mạnh mẽ với một bộ máy hành chính và một thiết chế vận hành qui củ, chặt chẽ, nhất là sau cải cách hành chính của Minh Mệnh năm 1831-1832. Các công trình nghiên cứu gần đây đều đánh giá cao công lao thống nhất đất nước của triều Nguyễn và hệ thống tổ chức chính quyền với qui chế hoạt động có hiệu lực của nhà Nguyễn. Trong lịch sử chế độ quân chủ Việt Nam, cải cách của vua Minh Mệnh năm 1831-1832 và vua Lê Thánh Tông năm 1471 là hai cải cách hành chính có qui mô toàn quốc và đạt hiệu quả cao nhất.

Các nhà nghiên cứu cũng ghi nhận một số thành tựu khai hoang, thủy lợi, phát triển nông nghiệp thời Nguyễn, nhất là vùng đồng bằng Nam Bộ và vùng đồng bằng ven biển Bắc Bộ. Hệ thống giao thông thủy bộ phát triển mạnh, nhất là hệ thống kênh đào ở Nam Bộ và hệ thống đường dịch trạm nối liền kinh đô Huế với các trấn/tỉnh thành trên cả nước. Các trạm dịch được tổ chức rất chặt chẽ với những qui định về thời hạn chuyển văn thư phân làm ba loại: tối khẩn, khẩn, thường. Ví dụ loại "tối khẩn", từ kinh đô Huế vào đến Gia Định là 9 ngày, ra đến Hà Nội là 4 ngày 6 giờ.

Về phương diện văn hóa, giáo dục, triều Nguyễn cũng lập Quốc tử giám, mở khoa thi Hương và thi Hội để đào tạo nhân tài. Từ khoa thi Hội đầu tiên năm 1822 đến khoa thi cuối cùng năm 1919, triều Nguyễn tổ chức được 39 khoa thi Hội, lấy đỗ 292 Tiến sĩ và 266 Phó bảng, cộng 558 người. Khu Văn Miếu tại kinh đô Huế còn lưu giữ 32 tấm bia Tiến sĩ thời Nguyễn. Cùng với các kỳ thi tuyển chọn Tiến sĩ Văn, nhà Nguyễn còn nâng cấp đào tạo võ quan từ Cử nhân lên Tiến sĩ Võ. Tại khu Võ Miếu còn bảo tồn hai tấm bia Tiến sĩ Võ. Công việc biên soạn quốc sử, các bộ chính sử của vương triều, các bộ tùng thư và địa chí được đặc biệt quan tâm và để lại một di sản rất đồ sộ. Có thể nói, trong thời quân chủ, chưa có Quốc sử quán của vương triều nào hoạt động có hiệu quả và để lại nhiều công trình biên soạn đến như thế.

Trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản phương Tây đang đe dọa chủ quyền của các nước trong khu vực, vua Gia Long và Minh Mệnh ý thức sâu sắc về nguy cơ đó và đã tiến hành những hoạt động điều tra, thăm dò, đồng thời lo củng cố quốc phòng, cố gắng tiếp thu thành tựu kỹ thuật phương Tây. Từ thời chiến tranh với Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã học tập được khá nhiều kỹ thuật phương tây, nhất là kỹ thuật xây thành kiểu Vauban, đóng tàu, đúc vũ khí, phát triển thủy quân. Vua Minh Mệnh là người có tầm nhìn xa và hướng biển khá cao. Nhà vua đã cử nhiều phái đoàn vượt biển đến các căn cứ phương Tây ở Đông Nam Á như Batavia (Jakarta, Indonesia), Singapore, Pinang (Malaysia), Semarang (Java), Luçon (Philippines), Tiểu Tây Dương; ở Ấn Độ như Bengale, Calcutta; ở Trung Hoa như Macao...Những chuyến vượt biển đó, bề ngoài là mua hàng hóa cho triều đình nhưng chủ yếu nhằm thăm dò tình hình.

Cầm đầu các phái đoàn thường là những quan chức cao cấp, những trí thức có tầm hiểu biết rộng như Lý Văn Phức, Hà Tông Quyền, Phan Thanh Giản, Phan Huy Chú, Cao Bá Quát...Vua Minh Mệnh cho đo đạc độ sâu các cảng biển, lập hệ thống phòng thủ ven biển, chế tạo vũ khí, đóng thử tàu hơi nước kiểu phương Tây, phát triển thủy quân, cho dịch một số sách kỹ thuật phương Tây sang chữ Hán, đo đạc, vẽ bản đồ và cắm cột mốc trên quần đảo Hoàng Sa, tăng cường quản lý các hải đảo...Hình như vua Minh Mệnh đang nuôi dưỡng một ý tưởng canh tân nào đó, nhưng đang ở trong tình trạng hình thành, chưa thực hiện được bao nhiêu.

Những cống hiến tích cực của vương triều Nguyễn đã được nhìn nhận và đánh giá lại một cách khách quan, công bằng. Nhưng bên cạnh đó, còn tồn tại một số vấn đề cần nghiên cứu và thảo luận để đi đến những nhận

Page 7: GS Phan Huy Lê:Khách quan-Trung thực-Công bằng về · Web viewTrong xu hướng canh tân phát triển mạnh thời Tự Đức, một số nhà trí thức cấp tiến

xét toàn diện:

- Nhà Nguyễn chủ trương phục hội và củng cố hệ tư tưởng Nho giáo. Không ai phủ nhận trong học thuyết Nho giáo chứa đựng nhiều nội dung tích cực, nhất là về mặt giáo dục và xử thế, coi trọng học vấn, đề cao nhân cách, nhưng đứng về phương diện tư duy triết học, vào thế kỷ XIX có còn khả năng giúp con người nhận thức và giải thích thế giới trong bối cảnh mới của thời đại hay không? Về vấn đề này còn những quan điểm khác nhau. Có người cho đến thế kỷ XIX hệ tư tưởng Nho giáo đã trở nên bảo thù và chủ trương phục hồi Nho giáo của triều Nguyễn đã cản trở sự tiếp nhận những tư tưởng và thành tựu mới của thế giới. Nhưng cũng có người cho rằng vấn đề không phải là bản thân Nho giáo mà là người vận dụng hệ tư tưong đó.

- Một thực trạng cần lưu ý khi nghiên cứu về vương triều Nguyễn là dù ban hành nhiều chính sách khẩn hoang tích cực, kể cả một số chính sách giảm nhẹ tô thuế, nhưng xã hội thời Nguyễn không ổn định. Trong gần như suốt thòi Nguyễn, khởi nghĩa nông dân nổ ra triền miên và triều Nguyễn không thể nào giải quyết nổi. Tại sao và đánh giá thực trạng đó như thế nào cho thỏa đáng.

- Từ triều Tự Đức (1848-1883), vương triều Nguyễn càng ngày càng bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, làm cho thế nước càng ngày càng suy yếu và cuối cùng thất bại trước cuộc xâm lược của thực dân Pháp. Ở đây có hai vấn đề quan trọng đặt ra là thái độ của triều Nguyễn đối với xu hướng canh tân phát triển khá mạnh dưới triều Tự Đức và trách nhiệm của triều Nguyễn trong kết quả bi thảm của cuộc kháng chiến thất bại. Canh tân đất nước và chống chủ nghĩa thực dân là hai yêu cầu bức xúc, quan hệ mật thiết với nhau. Vấn đề đặt ra không chỉ ở Việt Nam mà gần như cả phương Đông và khi phân tích cũng cần nhìn rộng ra trong góc nhìn so sánh với một số nước tương tự trên phạm vi phương Đông, nhất là khu vực gần gụi của Đông Nam Á và Đông Á.

Làm sáng rõ những vấn đề trên sẽ đưa đến một cách nhìn nhận và đánh giá toàn diện, cả mặt tích cực lẫn mặt hạn chế đối với vương triều Nguyễn trong tiến trình lịch sử Việt Nam.

2.4. Về di sản văn hóa

Trong thời gian trên 3 thế kỷ từ giữa thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XIX, thời kỳ các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn đã để lại cho dân tộc một di sản lớn lao nhất là một giang sơn đất nước thống nhất bao gồm cả đất liền và hải đảo về cơ bản tương ứng với lãnh thổ Việt Nam hiện đại. Lãnh thổ đó vừa kế thừa công lao xây dựng và bảo vệ của các thế hệ tổ tiên từ khi dựng nước Văn Lang - Âu Lạc cho đến giữ thế kỷ XVI, vừa tiếp tục mở mang, khai phá về phía nam cho đến tận đồng bằng sông Cửu Long. Trên lãnh thổ quốc gia đó, thời kỳ lịch sử này còn để lại một di sản văn hóa đồ sộ bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể. Di sản đó một phần đang hiện hữu trên đất nước Việt Nam với những di tích kiến trúc, thành lũy, lăng mộ... và tất cả đã hòa đồng với toàn bộ di sản dân tộc cùng đồng hành với nhân dân, với dân tộc trong cuộc sống hôm nay và mãi mãi về sau, góp phần tạo nên bản sắc và bản lĩnh dân tộc, sức sống và sự phát triển bền vững của đất nước.

Cố đô Huế là nơi hội tụ và kết tinh các giá trị văn hóa dân tộc trong một thời kỳ lịch sử khi mà kinh đô này lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc trở thành trung tâm chính trị, văn hóa của một quốc gia với lãnh thổ thống nhất trải dài từ bắc chí nam, từ đất liền đến hải đảo. Quần thể di tích cố đô Huế đã được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới ngày 11-12-1993 và ngày 7-11-2003 Nhã nhạc cung đình lại được công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.   Trong số các đô thị hình thành và phát đạt trong thời kỳ này, Hội An là cảng thị tiêu biểu nhất và Khu di tích phố cổ Hội An cũng đã được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới ngày 4-12-1999.        

Chưa có một thời kỳ lịch sử nào để lại cho dân tộc ba di sản văn hóa được thế giới công nhận và tôn vinh với những giá trị mang ý nghĩa toàn cầu như vậy.

 Trong di sản văn hóa phi vật thể, có thể nói rất nhiều đình, đền, miếu, nhà thờ họ trong tín ngưỡng dân gian, chùa tháp của Phật giáo, đạo quán của Đạo giáo..., còn lại đến nay phần lớn đều được xây dựng hay ít ra là trung tu trong thời nhà Nguyễn. Nhiều nhà thờ của Kitô giáo, trong đó có Nhà thờ Phát Diệm nổi tiếng cũng được xây dựng trong thời kỳ này. Tất cả di sản này rải ra trên phạm vi cả nước từ bắc chí nam.

Về di sản chữ viết, thời kỳ các chúa Nguyễn, nhất là thời kỳ vương triều Nguyễn, để lại một kho tàng rất lớn với

Page 8: GS Phan Huy Lê:Khách quan-Trung thực-Công bằng về · Web viewTrong xu hướng canh tân phát triển mạnh thời Tự Đức, một số nhà trí thức cấp tiến

những bộ chính sử, những công trình biên khảo trên nhiều lĩnh vực, những sáng tác thơ văn của nhiều nhà văn hóa lớn, những tư liệu về Châu bản triều nguyễn, văn bia, địa bạ, gia phả, hương ước, những sắc phong, câu đối trong các kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng, những văn khắc trên hang núi, vách đá...

Văn học truyền khẩu của thời kỳ này cũng vô cùng phong phú, gắn liền với ký ức của các thế hệ và hòa quyễn vào các lễ hội dân gian, các phong tục tập quán của các dân tộc mà gần đây công việc sưu tầm đã đạt nhiều kết quả khả quan.

Bàn về chúa Nguyễn và triều Nguyễn, không thể không trở về Thanh Hóa, nơi có Quý Hương (Hà Trung), có Gia Miêu Ngọai trang là quê hương của chúa Nguyễn Hoàng, gốc tích của dòng họ Nguyễn Gia Miêu và xứ Thanh cũng là quê hương của nhiều bề tôi trung thành, nhiều người dân lao động đã theo chúa Nguyễn vào mở cõi ở phương Nam trong những năm tháng khởi nghiệp gian truân nhất. Vì vậy trên đất Thanh Hóa còn để lại nhiều dấu tích về chúa Nguyễn và triều Nguyễn, đặc biệt là Khu lăng miếu Triệu Tường với nhiều kiến trúc nghệ thuật thời Nguyễn, mang ý nghĩa linh thiêng của đất phát tích một vương triều. Nhưng rất tiếc các di tích này hầu như đã bị phá hủy, chỉ còn lại phế tích và gần đây, năm 2007 đã được xếp hạng di tích quốc gia để mở đầu một kế hoạch nghiên cứu, phục hồi, tôn tạo và phát huy giá trị.

Các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn đã đi vào lịch sử, nhưng di sản văn hóa mà thời kỳ lịch sử đó đã tạo dựng nên, kết tinh những giá trị lịch sử và văn hóa của dân tộc, thì mãi mãi trường tồn cùng non sông đất nước. Đó là bộ phận quan trọng của di sản văn hóa dân tộc luôn luôn giữ vai trò động lực tinh thần nội tại của công cuộc phục hưng dân tộc, của sự phát triển bền vững của đất nước, nhất là trong thời kỳ công ngiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập của đất nước hiện nay.             

 Phan Huy Lê

Chú thích:

[1] Đại Nam thực lục, tiền biên và chính biên, nguyên bản chữ Hán lưu giữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm, bản dịch 38 tập, NXB Sử học và Khoa học xã hội, Hà Nội 1962 đến 1978[2] Đại Nam liệt truyện, tiền biên, chính biên sơ tập và nhị tập, nguyên bản chữ Hán lưu giữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm, bản dịch 4 tập, NXB Thuận Hóa, Huế 1993[3] Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lược, NXB Tân Việt, Hà Nội 1949, tr.405[4] Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lược, Sđd, tr. 486[5] Charles Maybon: Histoire moderne du pays d’ Annam, Paris 1919[6] Ch. Maybon, H. Rusiser: Lecture sur l’ histoire d’ Annam., Hà Nội 1919 [7] Phan Huy Lê: Sử học Việt Nam trên đường đổi mới, tóm tắt tổng kết hội thảo, báo Nhân dân ngày 15-1-1992.[8] Tham khảo Thư mục triều Nguyễn của đề tài KX-ĐL:94-16 do PGS Đỗ Bang làm chủ nhiệm, gồm hai tập. Huế 1997. Thời chúa Nguyễn có 414 đơn vị, thời vua Nguyễn có 607 đơn vị, cộng 1.021 đơn vị thư mục[9] Một số ví dụ:

   Yu Insun: Political Centralisation and Judicial Administration in 17 century Vietnam, Journal of Asitic Studies , Seoul 1-1980

   Yoshiharu Tsuboi: Nước đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, Luận án Tiến sĩ bảo vệ tại Trường Cao đẳng thực hành về khoa học xã hội, Paris năm 1982, bản dịch tiếng Việt, thành phố Hồ Chí Minh 1990

   Yang Baoyun: Contribution à l’ histoire de la principauté des Nguyen au Vietnam méridional (1600-1775), Etudes Orientales, Genève1992.

   Li Tana: Xứ đàng Trong, lịch sử kinh tế-xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, Luận án Tiến sĩ bảo vệ tại Đại học quốc gia Australia năm 1992, bản dịch tiếng Việt, NXB Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh, 1999

   Li Tana, Anthony Reid: Southern Vietnam under the Nguyen, Singapore 1993

   Choi Byung Wook: Southern Vietnam under the Reign of Minh Mang (1820-1841), Luận án Tiến sĩ bảo vệ tại

Page 9: GS Phan Huy Lê:Khách quan-Trung thực-Công bằng về · Web viewTrong xu hướng canh tân phát triển mạnh thời Tự Đức, một số nhà trí thức cấp tiến

Đại học quốc gia Australia, New York 2004.  

[10] Châu bản triều Nguyễn đang được lưu giữ tại Cục Văn thư - Lưu trữ Nhà nước gồm 734 tập và 40 tập bị kết dính đang xử lý. [11] Hai sưu tập địa bạ lớn nhất hiện lưu giữ tại Cục văn thư - Lưu trữ Nhà nước và Viện Nghiên cứu Hán Nôm, gồm 10.570 tập với 18.884 đia bạ các thôn ấp, phần lớn thuộc thời nhà Nguyễn.[12] Viện Viễn đông bác cổ Pháp (EFEO) đã dập được 11.651 tấm bia với 20.980 thác bản, năm 1958 chuyển giao cho Thư viện Trung ương, sau chuyển cho Viện nghiên cứu Hán Nôm quản lý. Sau đó Viện Nghiên cứu Hán Nôm tiếp trục công việc dập văn bia, đưa tổng số thác bản lên đến trên 5 vạn, trong đó số văn bia thời Nguyễn chiếm một tỷ lệ quan trọng. Xem:

 Thư mục thác bản văn khắc Hán Nôm Việt Nam, 4 tập, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội 2007

 Tổng tập thác bản văn khắc Hán Nôm, 10 tập, Hà Nội 2005.   

[13] Xem:

Văn Tân: Trả lời ông Lê Thành Khôi, tác giả sách "Nước Việt Nam, lịch sử và văn minh", Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 12, 1960 

Văn Tân: Ai đã thống nhất Việt Nam, Nguyễn Huệ hay Nguyễn Ánh? Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 51, 1963

Nguyễn Phương: Chung quanh vấn đề ai đã thống nhất Việt Nam, Nguyễn Huệ hay Nguyễn Ánh? Tap chí Đại học số 35-36, 1963

Đột phá trong nhận thức về chúa Nguyễn, triều Nguyễn21:26' 16/10/2008 (GMT+7)

- Đi sâu vào thời kỳ Nguyễn còn nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu thảo luận, nhưng quan điểm trong hội thảo này sẽ xích lại gần nhau qua không khí học thuật tự do, tranh luận cởi mở, để qua cọ xát sẽ tiếp cận sự thật trung thực nhất.

Đến giờ chúng ta mới tổ chức hội thảo để nhìn nhận, đánh giá lại một thời kỳ lịch sử đã bị ứng xử không công bằng, liệu có muộn không? Nhất là khi, rất nhiều thế hệ học sinh, sinh viên đã học qua SGK và có cái nhìn lệch lạc, một chiều về các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn?

- Nói chậm thì cũng đúng, vì quan điểm phê phán thời kỳ chúa Nguyễn, nhà Nguyễn gần như trở thành quan điểm chính thống. Quan điểm này xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1954, đỉnh cao là năm 1960 - 1962, từ đó thành quan điểm ảnh hưởng đến tất cả những công trình nghiên cứu, kể cả sách giáo khoa phổ thông cũng như đại học, dù không có sự chỉ đạo cụ thể nào như thế, nhưng một số cuốn sách được xem là chính thống đưa ra quan điểm đó và nhiều người cứ hướng theo.

Quan điểm này có bối cảnh khách quan, hình thành trong thời kỳ chiến tranh, khi mục tiêu sống còn là dành độc lập và thống nhất tổ quốc. Bối cảnh chính trị đó tác động mạnh đến nhận thức của giới Sử học, nhưng bản thân giới sử học cũng phải chịu trách nhiệm về mặt phương pháp luận.

Đứng về mặt thời gian là chậm, nhưng trong cái chậm đó có những lý do của nó. Trong suốt thời gian từ 1990 trở về đây có rất nhiều công trình nghiên cứu, trên dưới 20 hội thảo về vấn đề này, nhưng chưa có quy mô quốc gia mà mới là những hội thảo cấp trường ĐH (ĐH Huế, ĐH Sư phạm TPHCM, ĐH Sư phạm Hà Nội), cấp Viện hay Trung tâm nghiên cứu. Những hội thảo đó về chủ đề thì chưa tập trung, hoặc chưa đi cả thời kỳ dài, mà thường đi vào một phương diện nào đó, như thảo luận riêng về tình hình bảo tồn di sản văn hóa, tình hình kinh tế và bộ máy quản lý hành chính...

GS Phan Huy Lê "Hy vọng hội thảo này gây được chuyển biến khá căn bản trong nhận thức đánh giá, cả về mặt công tích lẫn hạn chế về thời kỳ chúa Nguyễn và triều Nguyễn. Đứng về phương diện khoa học thì đây là thời điểm chín mùi cho cuộc hội thảo tầm quốc gia, vì đã có quá trình chuẩn bị, vài thập kỷ nghiên cứu..."

Page 10: GS Phan Huy Lê:Khách quan-Trung thực-Công bằng về · Web viewTrong xu hướng canh tân phát triển mạnh thời Tự Đức, một số nhà trí thức cấp tiến

Có những cuộc hội thảo quan điểm xung đột khá gay gắt (nhất là thời kỳ đầu), nhưng tiếng nói của những kết quả nghiên cứu mới ngày càng thu hút sự quan tâm của giới khoa học và đã góp phần tạo nên một xu hướng mới trong nhận thức. Hy vọng hội thảo này gây được chuyển biến khá căn bản trong nhận thức đánh giá, cả về mặt công tích lẫn hạn chế về thời kỳ chúa Nguyễn và triều Nguyễn. Đứng về phương diện khoa học thì đây là thời điểm chín mùi cho cuộc hội thảo tầm quốc gia, vì đã có quá trình chuẩn bị, vài thập kỷ nghiên cứu, để trên cơ sở các thành quả đó, đi tới nhìn nhận có tính chất tổng hợp, hệ thống trên một số vấn đề cơ bản, còn dĩ nhiên một số vấn đề cụ thể còn phải tiếp tục thảo luận, nhưng có định hướng chung.

Nghĩa là, ta chính thức thừa nhận quan điểm phê phán và phủ định trước đây là không khách quan?

- Đúng vậy, ta có thể nhìn thấy những thành tựu rất rõ ràng và to lớn của chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn, của cả thời kỳ lịch sử trên ba thế kỷ đó để lại. Ví dụ như mở rộng lãnh thổ vào tận đồng bằng sông Cửu Long, xác lập chủ quyền trên vùng đất mới, rồi trên cơ sở đó đi tới thống nhất quốc gia trên một lãnh thổ rộng lớn tương ứng với lãnh thổ Việt Nam hiện đại, bao gồm cả đất liền và hải đảo. Xác lập lãnh thổ hiện đại là mốc cực kỳ quan trọng trong lịch sử mỗi quốc gia – dân tộc. 

Hay những thành tựu văn hóa của thời Nguyễn cũng là một cống hiến to lớn. Có tới ba di sản văn hóa được UNESCO công nhận có giá trị toàn cầu thuộc về thời kỳ này: Cố đô Huế, Hội An và Nhã nhạc cung đình Huế. Cố đô Huế tuy thời gian tồn tại chỉ từ 1802 - 1945, trước đó là Phú Xuân của chúa Nguyễn, Phú Xuân của Tây Sơn, nhưng về phương diện khác đây là trung tâm chính trị, văn hóa, quyền lực của một nhà nước Việt Nam thống nhất từ Bắc đến Nam, phản ánh được bước phát triển cao hơn của lãnh thổ quốc gia, quy tụ được các giá trị văn hóa của cả lãnh thổ rộng lớn. Hội An cũng là sản phẩm của thời kỳ này, thuộc loại hình thương cảng, trung tâm kinh tế, mậu dịch đối ngoại, giao lưu quốc tế trong thời kỳ hội nhập mạnh.

Chưa có Quốc sử quán nào hoạt động hiệu quả như triều Nguyễn, để lại cho ta một di sản cực kỳ đồ sộ. Di sản văn hóa chữ viết của thời kỳ này vô cùng phong phú với khối lượng lớn các bộ quốc sử, địa chí, hội điển, văn bia, châu bản, địa bạ, gia phả... Một phần rất quan trọng nữa là các di sản văn hóa vật thể không những của thời kỳ này mà của cả thời đại  trước đều được bảo tồn, trùng tu vào thời Nguyễn, kể cả những di sản lâu đời (có từ thời Lý đến Hậu Lê) như chùa Một Cột, chùa Trấn Quốc, chùa Dâu... nhờ đó lưu giữ được nhiều di sản trước Nguyễn.

Tất nhiên đi sâu vào thời kỳ Nguyễn còn nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu thảo luận, nhưng quan điểm trong hội thảo này sẽ xích lại gần nhau qua không khí học thuật tự do, tranh luận cởi mở, để qua cọ xát sẽ tiếp cận sự thật trung thực nhất. Ví dụ như công lao thống nhất đất nước là của nhà Nguyễn nhưng còn có vai trò của Tây Sơn?

Trước đây có hai xu hướng đối nghịch nhau, có lúc nhìn nhận tất cả công lao cho Tây Sơn, sau lại phủ nhận Tây Sơn, ghi hết công lao cho nhà Nguyễn. Cả hai quan điểm cục đoan đều không đúng, vì lịch sử là sự tiếp nối và phát triển trong mâu thuẫn và có lúc có vẻ như nghịch lý.

Thành Gia Định (Sài Gòn) vẽ theo tư liệu của bản đồ Bruyn 1795,  Trần Văn Học 1815

Page 11: GS Phan Huy Lê:Khách quan-Trung thực-Công bằng về · Web viewTrong xu hướng canh tân phát triển mạnh thời Tự Đức, một số nhà trí thức cấp tiến

Còn những hạn chế của vương triều Nguyễn thì sao, thưa GS? Nguyễn Ánh có tội hay không, khi đưa quân Xiêm vào để chống lại nhà Tây Sơn? Hay vua Tự Đức có bán nước?

- Đúng là trong cuộc đấu tranh chống Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã đưa quân Xiêm vào. Trước đây có quan điểm cực đoan gọi đây là hành động "cõng rắn cắn gà nhà", là "bán nước". Đúng là không thể biện hộ cho hành động "không sáng" này, cũng có thể coi là một tì vết trong sự nghiệp của Nguyễn Ánh, nhưng phải nhìn nhận công bằng. Trong những cuộc đấu tranh bên trong quyết liệt, việc nhờ đến ngoại viện là chuyện thường xảy ra  trong lịch sử. Nhưng điều quan trọng nhất là người cầu ngoại viện phải giữ được độc lập chủ quyền của dân tộc, đưa lại lợi ích cho đất nước, còn nếu cầu ngoại viện mà bất lực để mất nước thì có tội lớn.

Trong tình thế của Nguyễn Ánh lúc đó, bị đánh bật khỏi đất Gia Định, lưu vong, nên phải nhờ ngoại viện để chống Tây Sơn. Có thực tế là thế lực Nguyễn Ánh yếu, không kiềm chế nổi quân Xiêm, chính ông đã có lúc than thở: Ta đưa quân Xiêm vào thế này, giờ nó cướp bóc giết hại nhân dân, nhân dân oán thán như vậy, ta được nước còn có nghĩa gì? Cũng có thực tế nữa là quân Xiêm đã bị quân Tây Sơn đánh tan trong trận Rạch Gầm - Xoài Mút. Nhưng người ta có thể suy luận rằng, nếu quân Xiêm không bị Tây Sơn đánh bại, thì chắc gì Nguyễn Ánh đã kiềm chế được quân Xiêm, nhất là đặt trong tham vọng của vương triều Xiêm lúc bấy giờ đang muốn khống chế cả Chân Lạp và Gia Định. Hành động của Nguyễn Ánh cần phân tích và đánh giá một cách công minh.

Một vấn đề nữa cũng phải thảo luận, là việc nhà Nguyễn (thời Tự Đức) để mất nước trước cuộc xâm lăng của đế quốc Pháp. Kết luận trước đây cho rằng Tự Đức bạc nhược đầu hàng, phản bội dân tộc là chưa thỏa đáng, chưa khách quan. Ông và triều Nguyễn đã tìm mọi cách bảo vệ đất nước và cũng là bảo vệ vương triều đến cùng, nhưng do năng lực và nhãn quan chính trị nên không đề ra được đối sách đúng để giành thắng lợi trước một thế lực xâm lược hoàn toàn mới, mà lịch sử trước đây chưa để lại kinh nghiệm.

Trong cả khu vực Đông Nam Á và Đông Á, tất cả các quốc gia đều mất nước, hoặc thành thuộc địa, hoặc thành nửa thuộc địa. Chỉ riêng Nhật Bản và Thái Lan giữ được độc lập. Nhật Bản thời Minh Trị thực hiện cuộc cải cách lớn, nhưng tình hình kinh tế xã hội của Nhật có khác các nước phương Đông, bắt đầu từ TK XVII khi đóng cửa với bên ngoài nhưng bên trong phát triển kinh tế rất mạnh, tạo lập những tiền đề cho cuộc cải cách.

Thái Lan thì có cách ứng xử rất khôn ngoan, tận dụng được vị thế vùng đệm nằm giữa 2 thế lực đế quốc rất mạnh, Anh ở phía Ấn Độ, Pháp ở phía Đông Dương, lợi dụng được mâu thuẫn và cạnh tranh gay gắt này để duy trì thế độc lập tương đối, thực hiện được đường lối mềm mỏng trong bảo vệ chủ quyền quốc gia, tuy cũng có lúc phải chấp nhận sự lệ thuộc nào đó với thế lực đế quốc này hay đế quốc khác nhưng không bị mất nước. Vương triều Thái Lan sau đó cũng cải cách khá mạnh, duy trì chế độ quân chủ nhưng đi vào khuynh hướng phát triển tư bản chủ nghĩa khá sớm. Chỉ hai quốc gia đó thoát khỏi sự xâm chiếm và thống trị của đế quốc phương Tây.

Chúng ta cần có cái nhìn so sánh để làm sáng rõ hơn nguyên do mất nước cuối thế kỷ XIX. Nghĩa là, trong việc mất nước cuối TK XIX không thể phủ nhận trách nhiệm của triều Nguyễn là nhà nước quản lý đất nước, nhưng lúc phân tích nguyên nhân mất nước thì phải hết sức khách quan, toàn diện, đặt trong bối cảnh lịch sử mới của khu vực và thế giới, không nên quy kết một cách giản đơn.

Có xu hướng nhìn nhận rằng nhà Nguyễn không "mặn mà" với canh tân, đi ngược lại xu thế của thời đại thì sao, thưa GS?

- Nhiều nhà sử học đã đặt ra vấn đề này, và cách giải thích, phân tích, đánh giá cũng còn có sự khác biệt. Trong bối cảnh mới của thời đại thì canh tân là nhu cầu rất bức xúc. Chế độ nhà Nguyễn vẫn là quân chủ, trên hệ tư tưởng Nho giáo, kinh tế xã hội vẫn mang tính tiền tư bản – tiền công nghiệp, nên trên bình diện phát triển của thời đại đã bộc lộ sự chậm tiến, nếu không canh tân thì không đưa đất nước vượt ra khỏi tình trạng lỗi thời, không đủ tiềm lực để tồn tại độc lập. Canh tân thành nhu cầu quyết định sự tồn vong của đất nước, nhất là khi phải đầu đương đầu với một thế lực xâm lược hoàn toàn mới đến từ các đế quốc phương Tây ở trình độ chủ nghĩa tư bản và văn minh công nghiệp cao hơn hẳn ta.

Trong những đề nghị cải cách thời nhà Nguyễn cần phân biệt làm hai loại. Một loạt cải cách trên nền tảng không có gì đụng chạm tới kết cấu kinh tế xã hội đương thời, như khai hoang, làm thủy lợi, chẩn cứu dân nghèo... nghĩa là một số sửa đổi trên nền tảng bảo tồn của chế độ phong kiến, rất cần thiết nhưng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mới của đất nước phù hợp với xu thế của thời đại..

Có những đề xuất canh tân vượt quá tầm nhìn trên, vươn tới sự phát triển cao của thời đại, tập trung chủ yếu thời Tự Đức, như những điều trần của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Đặng Huy Trứ, ba nhà cải cách có hệ thống nhất. Những cải cách đó không phủ định triều Nguyễn, chưa đụng chạm đến sự tồn tại của chế độ quân chủ, những người đề xuất cải cách đều trung thành với vương triều Nguyễn. Họ đề nghị mở cửa thông thưong, học tập công nghệ phương Tây, phát triển công thương nghiệp, cải cách giáo dục, củng cố quốc phòng...Những đề nghị canh tân đó sẽ tạo nên những chuyển biến về kinh tế xã hội để đưa đất nước vượt qua tình trạng lạc hậu và mở ra xu thế phát triển mới. Nhưng rất tiếc những đề nghị đó không

Page 12: GS Phan Huy Lê:Khách quan-Trung thực-Công bằng về · Web viewTrong xu hướng canh tân phát triển mạnh thời Tự Đức, một số nhà trí thức cấp tiến

được chấp nhận.

Trong các vua nhà Nguyễn, người có ý tưởng canh tân tương đối sớm với những suy tư về tình hình trong nước và cả tầm nhìn khu vực là Minh Mạng. Ông gửi nhiều phái đoàn ra ngoài, lý do là để mua hàng hóa, nhưng những nơi tới đều là căn cứ thương mại - quân sự của phương Tây. Ông có tầm nhìn hướng biển, có những thử nghiệm thành công  kỹ thuật phương Tây như đóng tàu chạy hơi nước, dịch nhiều sách kỹ thuật phương Tây ra chữ Hán, mua vũ khí, củng cố hệ thống thành lũy... , rất chú ý đến việc phòng vệ ven biển. Đó là tầm nhìn chiến lược, nhưng Minh Mạng mới có những ý tưởng chứ chưa cụ thể hóa thành chủ trương biện pháp có hệ thống và chưa tập hợp được trong triều những người có đầu óc canh tân nên chưa thể biến ý tưởng thành hiện thực.

Còn những vấn đề khác nữa cũng sẽ được đề cập trong hội thảo, nhưng thời gian không cho phép đi sâu, chẳng hạn như về vai trò Nho giáo trong bối cảnh TK 19 thì đánh giá thế nào? Hay việc nhà Nguyễn có những thành tựu trong việc thống nhất đất nước, cải cách bộ máy hành chính tiến bộ,... nhưng lại không thu phục được lòng dân, tình hình xã hội bất ổn định triền miên, khởi nghĩa nông dân nhiều nhất so với các thời kỳ trước đây... Hay chính sách của nhà Nguyễn với tôn giáo thế nào? Còn rất nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.

Hội thảo này không tham vọng giải quyết quá nhiều vấn đề, mà tập trung vào những vấn đề lớn để tạo sự chuyển biến trong nhận thức và đánh giá một cách khách quan với chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn, còn những vấn đề khác sẽ tiếp tục nghiên cứu và thảo luận.

So với thời vương triều Nguyễn đang cần sự định hướng lại, thời kỳ chúa Nguyễn có vẻ ít được quan tâm hơn? Tư liệu về các chúa Nguyễn dường như khuyết thiếu?

- Thật ra thời kỳ này rất quan trọng. Lãnh thổ nước ta trước thời các chúa Nguyễn mới đến dinh Quảng Nam (đơn vị hành chính rộng gồm từ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định vào đến Bắc Phú Yên), giữa thế kỷ 16 chúa Nguyễn Hoàng tập trung khai phá vùng đất Thuận Quảng cho sự tồn tại của chính quyền mới, vừa lo đối phó với Trịnh ở Đàng Ngoài. Công cuộc mở rộng vào đồng bằng sông Cửu Long được đẩy mạnh trong TK XVII, đầu TK XVIII, đến giữa thế kỷ XVIII thì đến toàn bộ vùng đất Nam Bộ hiện nay, xác lập chủ quyền trên vùng đất mới. Những chúa Nguyễn như Nguyễn Hoàng, Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Lan, Nguyễn Phúc Tần, Nguyễn Phúc Thái, Nguyễn Phúc Chu... tư tưởng không bị Nho giáo ảnh hưởng nặng nề, nên mang tính thực tế, cởi mở, khai phóng, cái gì có lợi cho xứ sở, cho sự tồn tại và phát triển của vương triều thì thực thi ngay, không bị ràng buộc. 

Tôi lấy một ví dụ. Chúa Nguyễn Phúc Nguyên chủ trương mở cửa giao thương với nước ngoài, thu hút các thuyền buôn, các công ty tư bản phương Tây đến buôn bán. Thương cảng hội An (Quảng Nam) ra đời trong bối cảnh đó. Tại đây chính quyền chúa Nguyễn cho phép người nước ngoài cư trú lâu dài, lập phố xá, thương điếm, làm ăn và chung sống với cư dân tại chỗ. Điều cần nêu lên là cho phép người Nhật, người Hoa sống thành hai khu phố riêng với tính tự quản khá cao, mỗi khu phố có trưởng khu do người nước ngoài cử ra, họ được quản lý khu phố và phải hoàn thành nhiệm vụ với nhà nước (chủ yếu là thuế), cư dân nước ngoài trong khu phố được sống theo phong tục, tập quán, lối sống…. như tại quê hương.

Nước ta thời phong kiến không có thành thị tự do mà ở đó tần lớp thị dân giữ vai trò quản lý đô thị, nhưng mức độ tự quản mà chúa Nguyễn dành cho cư dân nước ngoài tại đô thị biểu thị thái độ cởi mở và tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động thương mại cũng như đời sóng của cộng đồng cư dân nước ngoài, từ đó tạo nên sức cuốn hút thương gia ngoại quốc, thúc đẩy sự phát triển nhanh của các cảng thị Đàng trong. 

Trước đây việc nghiên cứu với thời kỳ chúa Nguyễn chưa nhiều, nhưng trong vài thập kỷ gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu có giá trị trên nhiều phương diện, ở trong nước và cả ở nước ngoài, đặc biệt công việc nghiên cứu vùng đất Nam Bộ đưọc giới khoa học rất quan tâm. Và dĩ nhiên nghiên cứu Nam Bộ thì phải đi sâu vào thời kỳ khai phá, mở mang bờ cõi, xác lập chủ quyền thời các chúa Nguyễn và triều Nguyễn.

Liệu ta có chấm dứt được cách nhìn nhận lịch sử theo góc nhìn chính trị? Còn nhiều nhân vật, nhiều triều đại khác phải nhìn nhận lại?

- Giờ thì không ai ép buộc, nhưng có "chính trị hóa" hay không thì tùy thuộc vào bản lĩnh và năng lực của các nhà khoa học, có thể giữ vai trò chủ động trong sáng tạo khoa học, và chính những kết quả nghiên cứu khoa học bảo đảm tính khách quan và chân xác đó là cơ sở khoa học đáng tin cậy để nhà quản lý đưa ra các chủ trương và giải pháp chính trị cũng như kinh tế, văn hóa, xã hội hữu hiệu nhất. Đấy mới là mới quan hệ đúng đắn giữa khoa học và chính trị.

"Đúng là trước đây ta ít nghiên cứu thời kỳ chúa Nguyễn, nhưng gần đây tập trung khá nhiều, vì nghiên cứu Nam Bộ thì phải đi sâu vào thời các chúa Nguyễn cũng như triều đình nhà Nguyễn... "

Page 13: GS Phan Huy Lê:Khách quan-Trung thực-Công bằng về · Web viewTrong xu hướng canh tân phát triển mạnh thời Tự Đức, một số nhà trí thức cấp tiến

Sử học là quá trình nhận thức lại lịch sử, vấn đề này chưa xong thì vấn đề khác đặt ra, thời gian vừa qua, không chỉ thời kỳ chúa Nguyễn và triều Nguyễn mà cả thời kỳ nhà Hồ, thời nhà Mạc.. đều được nhìn nhận và đánh giá lại một cách khách quan hơn. Đối với thời kỳ chúa Nguyễn và triều Nguyễn, ngoài mổt số vấn đề cơ bản liên quan đến định hướng nhận thức chung, còn rất nhiều vần đề cần tiếp tục đặt ra và tiếp tục công việc nghiên cứu, thảo luận... GS có hy vọng, hội thảo lần này sẽ thay đổi định hướng chung cho cách nhìn nhận, đánh giá lịch sử? Tại hội thảo quốc gia này, hiện đã có 91 báo cáo khoa học (trong đó có 8 báo cáo của nước ngoài), quy tụ tất cả những chuyên gia hàng đầu nghiên cứu về thời Nguyễn, đại diện cho giới sử học và một số ngành khoa học liên quan của cả nước, sẽ đưa ra những nhận thức mới và định hướng cho việc nghiên cứu cũng như quảng bá những hiểu biết về thời kỳ lịch sử các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn.

Tôi nghĩ rằng, có những vấn đề có thể đi đến kết luận, nghĩa là đạt được sự đồng thuận cao, có những vấn đề chưa hoàn toàn nhất trí nhưng nhận thức có thể xích lại gần nhau, tạo nên cơ sở chung để tiếp tục nghiên cứu. Từ kết quả hội thảo, các cơ quan chức năng có thể tiếp nhận để đưa ra những chỉ đạo mới trong công việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa thời kỳ này, cũng như điều chỉnh và cập nhật những nội dung liên quan trong SGK lịch sử. Giới sử học cũng từ đây có thể rút ra những kinh nghiệm bổ ích trong nâng cao trình độ lý luận và phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu lịch sử nói chung.

GS có hy vọng, hội thảo lần này sẽ thay đổi định hướng chung cho cách nhìn nhận, đánh giá lịch sử?

- Tại hội thảo quốc gia này, hiện đã có 91 báo cáo khoa học (trong đó có 8 báo cáo của nước ngoài), quy tụ tất cả những chuyên gia hàng đầu nghiên cứu về thời Nguyễn, đại diện cho giới sử học và một số ngành khoa học liên quan của cả nước, sẽ đưa ra những nhận thức mới và định hướng cho việc nghiên cứu cũng như quảng bá những hiểu biết về thời kỳ lịch sử các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn. Tôi nghĩ rằng, có những vấn đề có thể đi đến kết luận, nghĩa là đạt được sự đồng thuận cao, có những vấn đề chưa hoàn toàn nhất trí nhưng nhận thức có thể xích lại gần nhau, tạo nên cơ sở chung để tiếp tục nghiên cứu. Từ kết quả hội thảo, các cơ quan chức năng có thể tiếp nhận để đưa ra những chỉ đạo mới trong công việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa thời kỳ này, cũng như điều chỉnh và cập nhật những nội dung liên quan trong SGK lịch sử. Giới sử học cũng từ đây có thể rút ra những kinh nghiệm bổ ích trong nâng cao trình độ lý luận và phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu lịch sử nói chung.

Xin cảm ơn GS.

Khánh Linh (thực hiện)

Soạn Quốc sử VN và sửa đổi sách giáo khoa lịch sử21:36' 19/10/2008 (GMT+7)

- Dù còn nhiều vấn đề chưa đồng thuận, cần tiếp tục nghiên cứu trên tinh thần "mở", nhưng hội thảo đã là cơn gió mới khách quan - trung thực - công bằng khi nhìn nhận lịch sử và đã tạo được sự thay đổi nhận thức về thời kỳ chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn.

> GS Phan Huy Lê:Khách quan-Trung thực-Công bằng về chúa Nguyễn, triều Nguyễn> Đột phá trong nhận thức về chúa Nguyễn, triều Nguyễn

Chiều 19.10, Hội thảo quốc gia về "Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến TKXIX" kết thúc tại Thanh Hóa.

Trong 2 ngày, hàng trăm nhà khoa học đã thảo luận và đã thống nhất được nhiều vấn đề cơ bản mang tính thay đổi nhận thức lịch sử về thời kỳ này. 

Các nhà khoa học đã thống nhất ghi nhận công lao to lớn chúa Nguyễn trong việc khai phá vùng Thuận Quảng, mở rộng lãnh thổ vào tận đồng bằng sông Cửu Long, xác lập chủ quyền trên vùng đất mới... Công lao thống nhất quốc gia là sự tiếp nối của cả quá trình lịch sử cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX chính thức được ghi nhận là của

Các nhà khoa học tham dự Hội thảo"Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến TKXIX" 

Page 14: GS Phan Huy Lê:Khách quan-Trung thực-Công bằng về · Web viewTrong xu hướng canh tân phát triển mạnh thời Tự Đức, một số nhà trí thức cấp tiến

Nguyễn Ánh, dù có sự tiếp nối kết quả của phong trào Tây Sơn.

Những thành quả của vương triều Nguyễn trong việc xây dựng nhà nước quân chủ phong kiến tập quyền thống nhất trên toàn lãnh thổ cũng được ghi nhận từ việc quản lý đất nước (đặc biệt là những thành tựu trong cải cách hành chính dưới triều Minh Mạng),

Những di sản văn hóa vật thể cũng như phi vật thể mà thời kỳ lịch sử này đã để lại cho hậu thế, tiêu biểu là 3 di sản văn hóa mang ý nghĩa toàn cầu (Cố đô Huế, phố cổ Hội An, nhã nhạc cung đình Huế), hàng trăm công trình văn hóa mang đậm dấu nhà Nguyễn, các bộ quốc sử, địa chí, hội điển, văn bia, châu bản, địa bạ, gia phả... thay thế hoàn toàn quan niệm thờ ơ hoặc phủ nhận (do cả triều đại bị đánh giá tiêu cực) trước đây.

Bên cạnh đó, nhiều vấn đề còn đang tranh luận sôi nổi như mối quan hệ giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh, hành động của Nguyễn Ánh khi cầu viện quân Xiêm và tư bản Pháp trong "bước đường cùng" dù là hành động "không thể biện hộ", là "tì vết" trong sự nghiệp của Nguyễn Ánh, thì vẫn cần sự nghiên cứu và đánh giá sâu sắc.

Hai vấn đề liên quan chặt chẽ là thái độ của triều Nguyễn trước xu thế canh tân và trách nhiệm của triều Nguyễn khi để Việt Nam mất vào tay thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX chưa đạt đồng thuận về nhận thức, tuy có sự nhất trí khi phân tích bối cảnh thế giới, xu thế thời đại trong thời kỳ này. GS Phan Huy Lê đã đề nghị tiếp tục nghiên cứu và phải dựa trên căn cứ, sử liệu: "Trách nhiệm không thể chối cãi của nhà Nguyễn dưới triều Tự Đức khi để mất nước, nhưng về nguyên nhân thì phải phân tích kỹ hơn, cả những nguyên nhân khách quan và chủ quan, cả những chính sách không đáp ứng được yêu cầu canh tân và quá trình 26 năm kháng chiến chống Pháp (1858 - 1884) với nhiều hạn chế trong đối sách - điều hành. Do triều Nguyễn bế tắc không kết hợp được hai yêu cầu này, nên đã không giữ được nước".

Với thành công của hội thảo này, giới Sử học đã đủ tự tin để bắt tay biên soạn bộ Quốc sử Việt Nam, cũng như kiến nghị với Chính phủ để sửa đổi sách giáo khoa Lịch sử, không chỉ đính chính lại về toàn bộ thời kỳ nhà Nguyễn, mà còn là thay đổi cách tiếp cận lịch sử và tư duy làm sách, để học sinh sẽ yêu lịch sử nước nhà.

Khánh Linh

Nhìn nhận lại vương triều Nguyễn:  Cần khách quan với lịch sử 

  20/10/2008 0:21 

Đình Gia Miêu tại xã Hà Long, huyện Hà Trung, Thanh Hóa, quê hương của chúa

Nguyễn Hoàng - Ảnh: Ngọc MinhSau hơn nửa thế kỷ tranh luận, phê phán, chỉ trích gay gắt các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn, giới sử học đã tìm

được tiếng nói đồng thuận, khách quan, trung thực trong việc nhìn nhận lịch sử triều Nguyễn nói riêng và diễn trình lịch sử

Việt Nam nói chung.

Những nhận định mới

Page 15: GS Phan Huy Lê:Khách quan-Trung thực-Công bằng về · Web viewTrong xu hướng canh tân phát triển mạnh thời Tự Đức, một số nhà trí thức cấp tiến

Trước đây, nhiều nhà sử học đồng loạt phê phán nặng nề vương triều Nguyễn, rằng "bọn sử thần nhà Nguyễn làm công

việc biên soạn Đại Nam thực lục đã cố gắng rất nhiều để tô son vẽ phấn cho triều đại nhà Nguyễn... Nhưng bọn sử thần ấy

vẫn không che giấu nổi các sự thật của lịch sử.

Dưới ngòi bút của họ, sự thật lịch sử vẫn phơi bày cho mọi người biết tội ác của bọn vua chúa phản động, không những đã

cõng rắn cắn gà nhà mà chúng còn cố kìm hãm, đày đọa nhân dân Việt Nam trong một đời sống tăm tối đầy áp bức" (Lời

giới thiệu Đại Nam thực lục, Viện Sử học, xuất bản năm 1961, tập I), hoặc tỏ thái độ gay gắt, thiếu bình tĩnh khi nhận xét:

"vương triều Nguyễn tàn ác và ngu xuẩn", "tên chúa phong kiến bán nước số 1 là Nguyễn Ánh... Nguyễn Ánh cầu cứu các

thế lực ngoại bang giúp hắn thỏa mãn sự phục thù giai cấp" (Lịch sử Việt Nam, tập II, Nxb KHXH, Hà Nội, 1985).

Thế nhưng, tại hội thảo khoa học quốc tế về chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn (thế kỷ XVI - XIX) tổ chức tại Thanh Hóa,

ngày 18-19.10, với nguồn sử liệu toàn diện, phong phú và phương pháp tiếp cận khách quan, khoa học, cộng với độ lùi thời

gian cần thiết, các nhà sử học đã công bố nhiều nhận định mới (so với trước đây). Chẳng hạn, bộ máy quan lại triều Nguyễn

không thực sự hủ bại, thối nát, bởi các nguồn tài liệu đã chứng minh từ Gia Long (1802-1820) đến Minh Mạng (1820-1840),

nhà Nguyễn đã thực hiện công cuộc cải cách hành chính theo xu hướng đơn giản, hợp lý, hiệu quả, chú trọng xây dựng đội

ngũ quan lại có năng lực, đáp ứng yêu cầu của đất nước, và đặc biệt quan tâm đến chế độ lương bổng đảm bảo cuộc sống

ổn định, khá giả cho đội ngũ quan lại nhằm hạn chế tệ tham nhũng. PGS - TS Vũ Văn Quân (khoa Lịch sử, ĐH KHXH-NV,

Hà Nội) đã tỉ mỉ thống kê bảng lương của đội ngũ quan lại cấp trung ương từ Chánh nhất phẩm, Tòng nhất phẩm, Chánh nhị

phẩm đến Chánh cửu phẩm, Tòng cửu phẩm, cấp địa phương từ Tổng đốc, Tuần phủ đến các lại mục và thổ lại mục để

chứng minh.

Một trong những vấn đề gây tranh cãi gay gắt - nguyên nhân mất nước dưới thời Nguyễn đã được PGS-TS Phạm Xanh

(khoa Lịch sử, ĐH KHXH-NV, Hà Nội) giải đáp một cách công tâm trong Diễn trình sự mất nước dưới triều Nguyễn. Theo đó,

sự mất nước dưới triều Nguyễn là cả một câu chuyện dài, mà hạt nhân của nó là phép biện chứng giữa cái không thể thành

cái có thể, giữa cái không tất yếu thành tất yếu. Bởi, nếu truy tìm những nguyên nhân khách quan thì sự mất nước của triều

Nguyễn là có thể, tức tất yếu (bối cảnh chủ nghĩa tư bản trên thế giới đang chuyển nhanh sang giai đoạn tột cùng - giai đoạn

đế quốc chủ nghĩa). Song, cái có thể, cái tất yếu sẽ trở thành cái không thể, cái không tất yếu nếu như triều Nguyễn thống

nhất ý chí, biết tổ chức kháng chiến và biết lợi dụng, biết khoét sâu những điểm yếu của đối phương (thực dân Pháp)...

PGS-TS Vũ Văn Quân (khoa Lịch sử, ĐH KHXH-NV) nhận định nhà Nguyễn thừa hưởng những thành quả, nỗ lực phấn đấu

suốt mấy trăm năm của nhiều thế hệ người Việt Nam, cai trị đất nước với một lãnh thổ rộng lớn nhất. Cho dù trong cuộc

chiến chống lại nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh có nhờ vả người phương Tây, người Xiêm và sau này, Tự Đức để đất nước rơi

vào tay thực dân Pháp, nhưng về khách quan, các vua đầu triều Nguyễn vẫn là những người ít nhiều có tinh thần dân tộc.

Điều này thể hiện rõ trong ý thức về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không chỉ trên đất liền mà còn đối với các hải đảo, nhất

là với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. 

Tránh từ cực đoan này sang cực đoan khác

Không phải bây giờ - khi tổ chức hội thảo về thời kỳ chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn - vấn đề nhận thức lại lịch sử mới

được đặt ra. Thực tế, những năm gần đây, cùng với sự thay đổi bối cảnh chính trị - xã hội, giới sử học Việt Nam dần thoát

khỏi khuynh hướng giáo điều, máy móc, công thức, "chính trị hóa lịch sử". Bằng chứng là đã có nhiều công trình chuyên

luận, đề tài luận án mổ xẻ lại lịch sử triều Nguyễn. Gần đây nhất, giáo trình Tiến trình lịch sử Việt Nam (PGS-TS Nguyễn

Quang Ngọc chủ biên) đang được giảng dạy tại khoa Lịch sử (ĐH KHXH-&NV Hà Nội) có thể coi là công trình nghiên cứu

mới nhất và khách quan nhất (tính đến thời điểm hiện nay) về các vấn đề "nhạy cảm" như nhà nước Chămpa, Phù Nam,

Chân Lạp và triều Nguyễn. Và cũng không phải trong lịch sử Việt Nam từ cổ trung đại đến cận hiện đại, chỉ thời kỳ chúa

Page 16: GS Phan Huy Lê:Khách quan-Trung thực-Công bằng về · Web viewTrong xu hướng canh tân phát triển mạnh thời Tự Đức, một số nhà trí thức cấp tiến

Nguyễn và vương triều Nguyễn mới tồn tại những "khoảng mờ", "khoảng tối", mà vẫn còn rất nhiều vấn đề cần nhận thức lại

về các triều đại nhà Hồ, nhà Mạc, về các nhân vật lịch sử.

Tuy nhiên, để có sự thống nhất về nhận thức, tạo cơ sở khoa học (và có thể cả cơ sở pháp lý) cho việc

sửa lại những nhận định sai lầm trong sách giáo khoa và cho các chiến lược, quyết sách về bảo tồn di

sản lịch sử văn hóa thì lại cần đến một hội thảo. Song, cũng cần tránh việc nhảy từ cực đoan này sang

cực đoan khác. Nói như PGS-TS Phạm Xanh (Chủ nhiệm bộ môn Lịch sử cận đại, khoa Lịch sử, ĐH

KHXH-NV Hà Nội), cần có một thái độ sòng phẳng với "công" và "tội" của lịch sử. Mặt khác, cũng

cần thận trọng, bởi "tiếp cận đến chân lý là một quá trình, bởi chân lý, sự thật lịch sử bao giờ cũng đi

trước nhận thức của nhà sử học. Rất có thể vài chục năm sau, những kiến thức, nhận định bây giờ, tại

hội thảo này, đã trở thành lạc hậu, nhưng ở thời điểm này thì đó là những nhận định tương đối khách

quan hơn cả", PGS-TS Phạm Xanh nói.

Kết luận hội thảo, GS Phan Huy Lê (ảnh) đánh giá: Với hơn 90 tham luận, các nhà khoa học và sử học đã đi đến một sự đồng thuận về quan điểm nhận thức giai đoạn lịch sử này theo hướng khách quan - trung thực và công bằng, nó làm thay đổi quan điểm, nhận thức trước đây của giới sử học về các chúa Nguyễn và các vương triều Nguyễn. Đó là sự công nhận khách quan về công lao của các chúa Nguyễn trong việc mở mang bờ cõi, xác lập nên bản đồ hiện đại của nước ta. Vương triều Nguyễn đã thống nhất được đất nước sau nhiều thế kỷ bị chia cắt với sự kế thừa những thành quả của phong trào Tây Sơn và chính quyền Tây Sơn, xây dựng một quốc gia tập quyền và quy củ. Vương triều này cũng đã để lại nhiều di sản văn hoá đồ sộ, trải dài suốt từ Bắc đến Nam... (Ngọc Minh ghi)

Y.Nguyên

Đánh giá lại các Chúa Nguyễn và Vương Triều Nguyễn:

Sòng phẳng với quá khứ để giải tỏa tâm lý xã hội

TT - Tại hội thảo về “Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử VN” ở Thanh Hóa, suốt hai ngày (18 và 19-10) làm việc nghiêm túc và có lúc khá căng thẳng, các nhà sử học đã trình bày những nghiên cứu mới nhất của mình về một giai đoạn lịch sử đặc biệt của dân tộc.

Các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn suốt gần bốn thế kỷ tồn tại của mình vẫn để lại ngổn ngang những vấn đề khiến hậu thế phải tranh cãi. Suốt gần 40 năm sau 1945 là những phê phán, phủ nhận, thậm chí mạt sát kết tội.

Từ những năm 1990, nhu cầu nhìn nhận và đánh giá lại đã khiến nhiều nhà nghiên cứu chuyển sang ca ngợi tất cả những gì thuộc về nhà Nguyễn, thậm chí cả việc cầu viện người Pháp - thông qua linh mục Bá Đa Lộc. Tất

 

Ảnh: N.Minh

GS Phan Huy Lê (thứ hai từ trái sang) - chủ tịch Hội Khoa học lịch sử VN - và các đại biểu chụp ảnh lưu niệm trong buổi bế mạc hội thảo chiều 19-10 - Ảnh: Việt Dũng

Page 17: GS Phan Huy Lê:Khách quan-Trung thực-Công bằng về · Web viewTrong xu hướng canh tân phát triển mạnh thời Tự Đức, một số nhà trí thức cấp tiến

cả thái cực đó được đặt lên bàn hội thảo và tạo một không khí học thuật thật sự, như GS Phan Huy Lê tổng kết: tranh luận khoa học để sòng phẳng với quá khứ và giải tỏa tâm lý nặng nề đã đè nặng xã hội từ lâu nay.

Những công lao của nhà Nguyễn được đánh giá thống nhất

Tuy mức độ và chi tiết có khác nhau nhưng các nhà sử học đã tương đối thống nhất về những công lao của các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn: khai phá và xây dựng miền Thuận - Quảng, mở mang lãnh thổ xuống phía Nam và xây dựng chính quyền, phát triển kinh tế hàng hóa và mở mang các đô thị lớn, thống nhất đất nước trên cơ sở kế thừa sự chấm dứt chia cắt về mặt lãnh thổ mà nhà Tây Sơn đã đạt được trong một thời gian ngắn, xây dựng bộ máy chính quyền tập trung, xác lập chủ quyền lãnh thổ và thực thi chủ quyền VN trên một lãnh thổ tương đương lãnh thổ VN hiện đại (bao gồm cả biển, các quần đảo - trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa).

Chính sách ruộng đất tiến bộ và chủ trương “nhu viễn” đối với các dân tộc thiểu số: miễn thuế, công nhận các tù trưởng tự trị như một quốc gia trong lòng lãnh thổ VN, công nhận quyền sở hữu tài sản và tự do mua bán với Hoa kiều... cũng được các nhà nghiên cứu ghi nhận như những chính sách tiến bộ, mềm dẻo và khôn ngoan trong tình hình đất nước nhiều biến động thời đó.

Sự thống nhất cũng đạt được khi đánh giá các di sản văn hóa mà triều Nguyễn để lại: ba di sản văn hóa thế giới; hệ thống thư tịch khổng lồ; hệ thống giáo dục, kho lưu trữ châu bản khổng lồ; hàng ngàn đình, chùa miếu, nhà thờ... trải dài từ Nam chí Bắc... Có nhiều di sản mà có thời kỳ dài người ta quên đi, thậm chí không muốn nhắc tới vì coi như một thứ tàn dư của phong kiến thối nát, nay được khơi lại, phủi bụi, tôn vinh.

Và còn rất nhiều vấn đề tranh cãi

Dù ghi nhận công lao của nhà Nguyễn, không ít nhà khoa học đã phản ứng gay gắt khi có báo cáo khoa học “bào chữa” cho việc Nguyễn Ánh cầu viện Xiêm. Cũng đánh giá khá cao những ý tưởng cải cách của vua Minh Mạng, nhưng nhiều báo cáo chỉ ra được sự nửa vời, bất lực trong những ý đồ canh tân không hiệu quả của ba đời vua Nguyễn từ Minh Mạng đến Tự Đức.

Nói như GS Đinh Xuân Lâm: “Việc đàn áp phong trào nông dân trong nước và tiếp tục tiến hành xâm lược các nước lân bang đã khiến tiềm lực kinh tế trong nước suy sụp nghiêm trọng, lòng dân ly tán, nhà Nguyễn không tìm được chỗ dựa vững chắc để canh tân, mà không canh tân kịp thời thì không thể đủ sức mạnh từ hạ tầng xã hội để đối phó với một cuộc xâm lược lớn của kẻ địch mạnh hơn nhiều lần về tiềm lực kinh tế và quân sự”.

Các nghiên cứu cũng cho thấy những ý kiến đòi hỏi canh tân thường xuất phát từ các quan đại thần là các bậc đại trí thức, có điều kiện đi ra nước ngoài (vì nhiều lý do: ngoại giao, buôn bán, tuần tiễu...), so sánh với tình hình đất nước mà lo ngại và sốt ruột đòi hỏi canh tân, chứ không xuất phát từ nhu cầu nội tại xã hội và ý chí của người cầm quyền cao nhất (trừ vua Minh Mạng), nên khi gặp phải lực cản của các thế lực bảo thủ đã lập tức bị tắt ngấm từ trong trứng nước.

Chính vì thế, tranh luận với các ý kiến đề cao cuộc cải cách của các vua Nguyễn, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng những ý chí canh tân mới chỉ thể hiện trên văn bản mà chưa đưa vào thực thi và chưa được sự đồng thuận của xã hội thì chưa gọi là canh tân được, đó chỉ là sự thay đổi nhỏ trên nền tảng bảo thủ có sẵn.

Giải tỏa những ức chế trong tâm lý xã hội

Có mặt và chăm chú theo dõi suốt hai ngày hội thảo, nguyên tổng bí thư Lê Khả Phiêu tâm sự với các nhà sử học: “Từ những năm 2004-2006, cố thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nói với tôi: phải đề nghị Viện Sử học, Hội Khoa học lịch sử và khoa sử các trường ĐH phối hợp với các địa phương liên quan tổ chức một hội thảo quốc gia về triều Nguyễn để xác định lại các giá trị lịch sử. Đó sẽ là những bài học lớn mà chúng ta có thể rút ra cho công cuộc đổi mới hôm nay. Không may là anh Võ Văn Kiệt đã qua đời trước khi chúng ta tổ chức được cuộc hội

Những đánh giá khoa học tại hội thảo này chỉ thật sự có ý nghĩa xã hội khi được công bố rộng rãi bởi các phương tiện thông tin đại chúng, biến kết quả nghiên cứu thành tri thức, tác động đến tâm lý xã hội. Những kết quả nghiên cứu này sẽ được tổng hợp lại để Hội Khoa học lịch sử và Viện Sử học có ý kiến chính thức với Bộ GD-ĐT về việc chỉnh sửa sách giáo khoa phổ thông trong thời gian gần nhất, đồng thời tạo tiền đề cho việc biên soạn một bộ quốc sử của thời đại mới.

Page 18: GS Phan Huy Lê:Khách quan-Trung thực-Công bằng về · Web viewTrong xu hướng canh tân phát triển mạnh thời Tự Đức, một số nhà trí thức cấp tiến

thảo này. Suốt một thời gian dài chúng ta phải dành thời gian và trí tuệ, công sức để giành độc lập, chưa có lúc nào bình tĩnh khách quan mà xem xét lại. Bây giờ thật đúng lúc”.

GS Phan Huy Lê thay mặt Hội Khoa học lịch sử tổng kết những ý kiến cơ bản của hội thảo: “Quá khứ vốn phức tạp và nặng nề, những đánh giá sai lầm của nhà khoa học càng làm cho nó nặng nề hơn. Cách đánh giá không thỏa đáng về cha ông đã đè nặng lên tâm tư của nhiều người. Hội thảo này đã giải tỏa được tâm lý nặng nề đó. Chúng ta sòng phẳng với quá khứ thì sẽ giải tỏa được trọn vẹn”.

THU HÀ