GIÁO DỤC TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH CHO ...»ŒC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ...
Transcript of GIÁO DỤC TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH CHO ...»ŒC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ...
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
GIÁO DỤC TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH
CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC
Hà Nội - 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
LÊ CAO VINH
GIÁO DỤC TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH
CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC
Mã số: 62 31 02 04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS. TS. Phạm Ngọc Anh
2. PGS. TS. Hoàng Anh
Hà Nội – 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và đã
được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả
Lê Cao Vinh
MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ....................................... 5
1.1. Những công trình khoa học liên quan đến tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh .................................................................................................... 5
1.2. Một số công trình khoa học liên quan đến giáo dục tư tưởng nhân văn
Hồ Chí Minh ..................................................................................... 14
1.3. Những vấn đề đã được nghiên cứu và những vấn đề đặt ra để luận án
tiếp tục nghiên cứu ........................................................................... 20
Chương 2: TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH – NỘI DUNG, SỰ CẦN
THIẾT VÀ HỆ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC
TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH CHO SINH VIÊN ........... 22
2.1. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh ................................................... 22
2.2. Sự cần thiết giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên các
trường đại học ở Việt Nam hiện nay ............................................. 62
2.3. Hệ tiêu chí đánh giá chất lượng giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh cho sinh viên các trường đại học ở Việt Nam hiện nay ......... 67
Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG GIÁO
DỤC TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH CHO SINH VIÊN
CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM ............................................ 77
3.1. Thực trạng giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên các
trường đại học ở nước ta hiện nay ................................................ 77
3.2. Những vấn đề đặt ra trong giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
cho sinh viên ............................................................................. 104
Chương 4: GIÁO DỤC TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH CHO SINH
VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY -
PHƯƠNG HƯỚNG, VÀ CÁC GIẢI PHÁP ........................................ 112
4.1. Phương hướng giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên
các trường đại học ..................................................................... 112
4.2 Giải pháp giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên các
trường đại học ........................................................................... 117
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 142
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN ...................................................................................... 145
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 146
PHỤ LỤC ............................................................................................................... 156
TÊN CÁC BIỂU ĐỒ TRONG LUẬN ÁN
Biểu đồ 3.1: Giới tính người trả lời……………………………………..
Biểu đồ 3.2: Vị trí, nhiệm vụ trong lớp, trường…………………………
Biểu đồ 3.3: Cơ cấu đoàn thể……………………………………………
Biểu đồ 3.4: Nơi ở hiện nay của sinh viên………………………………
Trang
78
78
79
79
TÊN CÁC BẢNG TRONG LUẬN ÁN
Bảng 3.1: Thống kê các trường ĐH, CĐ trong cả nước triển khai cuộc thi
Olympic các môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Bảng 3.2: Đánh giá của sinh viên về mức độ đáp ứng yêu cầu của hệ thống
cơ sở vật chất nhà trường đối với việc học tập và rèn luyện ….
Bảng 3.3: Đánh giá nhận thức của sinh viên về sự cần thiết của việc học
tập các môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ….
Bảng 3.4: Hoạt động xung kích tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng của
ĐVTN các trường ĐH, CĐ …………………………………...
Bảng 3.5: Tỉ lệ sinh viên tham gia các hoạt động xã hội trong quá trình
học tập ………………………………………………………...
Bảng 3.6: Lý do sinh viên tham gia các hoạt động xã hội trong quá trình
học tập …………………………………………………………
Trang
81
86
89
91
100
101
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống những quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong đó tư tưởng giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người là nội dung cốt lõi và là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt toàn bộ di sản tư tưởng của Người. Đó không có gì khác hơn là một chủ
nghĩa nhân văn đích thực, làm cơ sở tạo nên sức sống và khả năng trường tồn của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, hay chủ nghĩa nhân văn Hồ
Chí Minh là một bộ phận cấu thành quan trọng, giữ vị trí hạt nhân, nền tảng triết học
của toàn bộ hệ thống tư tưởng cũng như sự nghiệp thực tiễn Hồ Chí Minh, là giá trị
tinh túy trong toàn bộ di sản Hồ Chí Minh. Giá trị này có sức nội sinh, ngoại hóa vô
cùng mạnh mẽ, làm nên chiều sâu tư tưởng, sức thuyết phục, cảm hóa, chuyển hóa
của phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh. Cũng chính những giá trị nhân văn
Hồ Chí Minh đã góp phần làm nên bản chất, sức mạnh của Đảng Cộng sản Việt Nam
và sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Vì thế, nghiên cứu tư tưởng nhân văn của Người
một cách toàn diện chính là đi vào chiều sâu bên trong của hệ tư tưởng, từ đó, xác
định rõ hơn cơ chế tồn tại và khả năng lan tỏa đối với mọi tầng lớp nhân dân.
Nhân loại đang bước sang một thiên niên kỷ mới cùng với những cơ hội và
những thách thức đan xen. Loài người đã đạt được những thành tựu to lớn trong mọi
lĩnh vực hoạt động của mình, nhưng cũng đang phải đối đầu với nhiều vấn đề liên
quan đến con người, các giá trị làm người. Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới đất nước
đã đạt được những những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, tạo được những tiền đề
cần thiết cho sự phát triển toàn diện của con người, phát triển các phẩm chất người.
Trong xã hội, bên cạnh việc hình thành những con người biết đồng cảm, chia sẻ, luôn
nghĩ đến người khác còn có một số bộ phận không nhỏ, trong đó có thanh niên – sinh
viên đang suy thoái đạo đức, chạy theo chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cá nhân dẫn
đến sự vô cảm của bản thân đối với con người với xã hội. Thực trạng này được Đảng
ta khẳng định trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016) “Tình
trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa nước
2
ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất là
lớp trẻ” [34, tr 125].
Thanh niên, trong đó có sinh viên đại học, là một lực lượng nòng cốt trong xây
dựng và bảo vệ tổ quốc, là một sứ giả đưa Việt Nam hội nhập quốc tế, là một hiện
thân, đại biểu cho dân tộc Việt Nam, cho nền văn hóa Việt Nam, chính vì thế, họ cần
phải là những con người phát triển toàn diện cả về đức, trí, thể, mỹ, mà cốt cách, bản
chất, không khác gì hơn chính là các giá trị nhân văn. Vì vậy, một trong những nhiệm
vụ trung tâm của giáo dục Việt Nam, đã được Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ, là
“đổi mới chương trình nhằm phát triển năng lực và phẩm chất người học, hài hòa đức,
trí, thể, mỹ; dạy người, dạy chữ và dạy nghề. Đổi mới nội dung giáo dục theo hướng
tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành nghề; tăng thực
hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối
sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân. Tập trung vào những giá trị cơ bản của
văn hóa, truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, giá trị cốt lõi và
nhân văn của của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” [35, tr. 128 ].
Để thực hiện nhiệm vụ đó, việc đi sâu vào nghiên cứu, giáo dục tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh vào cuộc sống để thúc đẩy quá trình nhân văn hóa đời sống xã hội,
nhân văn hóa bản chất con người Việt Nam, trong đó có thanh niên, sinh viên, đồng
thời làm cho các giá trị nhân văn Hồ Chí Minh ngày càng được khẳng định, bồi đắp,
tòa sáng và trường tồn là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách hiện
nay. Vì vậy, nghiên cứu sinh đã chọn đề tài “Giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh cho sinh viên các trường Đại học ở Việt Nam hiện nay” để làm Luận án Tiến
sĩ, chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Phân tích những nội dung cơ bản của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, xây
dựng hệ tiêu chí đánh giá chất lượng giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, phân
tích thực trạng và đề xuất các giải pháp giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho
sinh viên các trường đại học ở nước ta hiện nay.
3
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở hình thành tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh;
- Xây dựng hệ tiêu chí đánh giá chất lượng của hoạt động giáo dục tư tưởng
nhân văn cho sinh viên trong các trường đại học ở nước ta;
- Làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh;
- Đánh giá thực trạng giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh các trường đại
học.
- Đề xuất các giải pháp để nâng cao chất lượng công tác giáo dục tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên tại các trường đại học ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên các trường đại học ở
Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận án tập trung nghiên cứu công tác giáo dục tư tưởng nhân văn cho sinh
viên các trường Đại học ở nước ta hiện nay.
- Giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trong các trường đại
học là một vấn đề rộng. Do đó, trong khuôn khổ luận án, tác giả tập trung vào nghiên
cứu và khảo sát thực tế giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh ở các trường đại
học khu vực miền Bắc.
- Hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên các trường
đại học được luận án nghiên cứu, khảo sát trong khoảng thời gian từ năm 2006 đến
2016.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên nền tảng các quan điểm của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về chủ nghĩa xã hội, về văn
hóa, đạo đức, về con người...
4
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Luận án được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin
- Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học liên ngành và
chuyên ngành, trong đó đặc biệt chú trọng các phương pháp: phương pháp lôgic, lịch
sử, sử dụng phương pháp văn bản học, nghiên cứu các tác phẩm kinh điển của Hồ
Chí Minh, kết hợp các bài nói, bài viết với hoạt động chỉ đạo thực tiễn của người; sử
dụng các phương pháp chuyên biệt: điều tra xã hội học, phân tích, tổng hợp, so
sánh,… để thực hiện đề tài.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
5.1. Ý nghĩa khoa học
- Luận án góp phần làm phong phú thêm vào hệ thống các chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước về công tác giáo dục thanh niên- sinh viên nói chung và
về giáo dục đạo đức, nhân văn nói riêng.
- Luận án là cơ sở lý luận quan trọng để các trường Đại học xây dựng các kế
hoạch, chủ trương trong công tác nghiên cứu đạo đức sinh viên.
- Là tài liệu tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu tư tưởng đạo đức, phong
cách của Hồ Chí Minh ở các trường Đại học nước ta.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án đề xuất các giải pháp căn bản nhằm giúp các trường Đại học đẩy mạnh
công tác giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên hiện nay.
6. Những đóng góp mới của Luận án
- Phân tích các quan điểm trong tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh theo
lôgic, trình tự.
- Luận án đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác
giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên các trường Đại học ở Việt Nam hiện
nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án
gồm 4 chương, 10 tiết.
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN TƯ TƯỞNG
NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH
Nghiên cứu về chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, về tư tưởng nhân văn Hồ
Chí Minh là một nội dung quan trọng trong nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh nói
chung đã được nhiều học giả, nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm, tìm
hiểu, nghiên cứu theo nhóm các tư liệu sau:
1.1.1. Đề tài khoa học
Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Di sản Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay” của
Học viện chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh [59]. Trong Hội thảo, một số
bài tham luận đã tập trung vào làm rõ bản chất, đặc trung tổng quát của tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh, khẳng định tình yêu thương con người vô hạn, lòng khoan dung
rộng lớn là những nội dung quan trọng của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh; tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh được biểu hiện thông qua cách sống và làm việc của Người;
khẳng định tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là một di sản tinh thần to lớn mà Người
để lại cho chúng ta trong tiến trình xây dựng con người mới, xã hội mới.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Giá trị nhân văn trong Di chúc Hồ Chí Minh, của
Bảo tàng Hồ Chí Minh – Trường Đại học Khoa học Xã hội nhân văn, [11]. Trong
công trình này, ngoài việc các tác giả đã đi vào nghiên cứu các mối quan hệ giữa đạo
đức và nhân văn, giữa công tác xây dựng Đảng với xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân, về sự cần thiết trong việc nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ đảng viên,
đặc biệt là thế hệ trẻ trong giai đoạn mới của cách mạng hiện nay; các tham luận đã
nêu bật giá trị lịch sử, tư tưởng nhân văn và ý nghĩa sâu sắc trong bản Di chúc của
chủ tịch Hồ Chí Minh.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc gia “Tư tưởng Hồ Chí Minh- giá trị nhân văn
và phát triển” [60]. Tại hội thảo, các tham luận đã tập trung vào làm sáng tỏ một cách
sâu sắc, toàn diện những giá trị nhân văn và phát triển trong tư tưởng Hồ Chí Minh
6
trên các vấn đề: Giá trị nhân văn và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh trong xác
định mục tiêu và con đường cách mạng Việt Nam; Giá trị nhân văn và phát triển trong
tư tưởng Hồ Chí Minh về động lực của cách mạng Việt Nam; Giá trị nhân văn và phát
triển trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển xã hội trên các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, đối ngoại. Từ đó, góp phần thúc đẩy sự vận dụng
và phát triển sáng tạo những giá trị đó vào trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh” của Học viện
Báo chí và Tuyên truyền, Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch [58],
tại Hội thảo, các tham luận khoa học tập trung trao đổi các vấn đề: Thứ nhất, làm rõ
khái niệm tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, tính
nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh... Sự giống nhau, khác nhau và cần hiểu thế
nào, sử dụng ra sao cho đúng các khái niệm; Thứ hai, tập trung làm rõ những nội
dung, những bình diện tiếp cận khác nhau của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh như
tư tưởng dân chủ, tư tưởng về xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, tư tưởng về
chính trị, ngoại giao, kinh tế... và cách ứng xử đầy tình nghĩa của Hồ Chí Minh đối
với các tầng lớp nhân dân; Thứ ba, làm rõ những nội dung chủ nghĩa nhân văn, tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cần phải vận dụng vào trong công cuộc đổi mới và hội
nhập quốc tế của đất nước hiện nay, cũng như xây dựng mối quan hệ giữa con người
với con người.
1.1.2. Sách chuyên khảo
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh đã được đề cập đến từ rất sớm. Trên thế giới
đã có một số công trình của các học giả nước ngoài nghiên cứu về Hồ Chí Minh như:
Cuốn Đồng chí Hồ Chí Minh của tác giả E. Cô bê lép [22], đây là một cuốn
sách tác giả nghiên cứu, tìm hiểu cuộc đời, sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Trong đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh được đề cập đến như là một con người suốt
đời đấu tranh cho nền độc lập, tư do của tổ quốc, cho cuộc sống tốt đẹp của nhân dân.
Đồng thời tác giả cũng nhấn mạnh đến lòng yêu thương con người vô hạn của Hồ Chí
Minh dành cho các tầng lớp nhân dân, cũng như những chính sách mà Đảng và nhà
nước cần phải chú ý thực hiện để chăm lo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
7
cho các tầng lớp nhân dân khi tác giả nói về bản Di chúc mà Hồ Chí Minh để lại cho
Đảng, Nhà nước và nhân dân trước khi Người qua đời.
Nguyễn Đài Trang, một nhà nghiên cứu Việt Nam đang sống và làm việc tại
Canada với công trình mới được xuất bản Hồ Chí Minh - Nhân văn và phát triển
[130]. Trong cuốn sách, tác giả đã cho chúng ta thấy được những nội dung cơ bản và
ý nghĩa của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh thông qua việc đi sâu vào nghiên cứu
những lý tưởng sâu xa của Người, đó là mong muốn về một nước Việt Nam hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh; mong muốn mưu cầu hạnh phúc cho loài
người, cho nhân loại; chân lý không có gì quý hơn độc lập tự do; nghệ thuật, phương
pháp cách mạng lấy yếu thắng mạnh; chiến lược xây dựng nguồn nhân lực cho sự
phát triển vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người; ham muốn tột bậc đem lại hạnh
phúc, cuộc sống ấm no cho nhân dân; chiến lược đại đoàn kết vì mục tiêu nhân văn.
Đồng thời, tác giả đã khẳng định, những giá trị nhân văn của Hồ Chí Minh chính là
những mục tiêu cao cả nhất mà nhân loại hiện nay đang theo đuổi: đó là phát triển
bền vững mà trọng tâm là phát triển nguồn nhân lực và bảo vệ môi trường; đó là
những ham muốn đem lại hạnh phúc cho nhân dân- một mục tiêu cao nhất của sự
phát triển.
Võ Nguyên Giáp, Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam
[48]. Trong cuốn sách, tác giả đã xác định những vấn đề chung về tư tưởng Hồ Chí
Minh như: quá trình hình thành, phát triển và nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh; khái
quát những luận điểm sáng tạo lớn và những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí
Minh; vận dụng tư tưởng của người vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Trong
các nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về nhân văn đã bước đầu
được đề cập đến trong chương VII “Tư tưởng nhân văn, đạo đức, văn hóa Hồ Chí
Minh” trên các nội dung sau: Thứ nhất, đã chỉ ra được nguồn gốc của tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh đó là sự kế thừa những giá trị tư tưởng văn hóa “vĩnh cửu” của
nhân loại, thấm đượm một chủ nghĩa nhân văn cao cả, đáp ứng những yêu cầu nguyện
vọng bức thiết và sâu xa của dân tộc và loài người. Từ đó tác giả đi đến khẳng định
cả cuộc đời hoạt động của Người là tiêu biểu sáng ngời cho chủ nghĩa nhân đạo cộng
8
sản, chủ nghĩa nhân văn hiện thực. Thứ hai, nội dung của tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh được thể hiện ở những điểm nổi bật sau: một là, lòng yêu thương con người,
yêu thương nhân dân, hết sức bao la, sâu sắc, trước hết là những người nghèo khổ.
Tư tưởng này đã được Hồ Chí Minh khái quát thành triết lý sống: Nghĩ cho cùng, mọi
vấn đề... là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người là phải thương yêu người,
thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức. Hai là, lòng tin mãnh liệt vào sức
mạnh, khả năng chủ động, sáng tạo to lớn của nhân dân, có dân là có tất cả. Ba là,
lòng tôn trọng, kính yêu nhân dân, lắng nghe ý kiến của dân, dân là chủ, chính phủ,
cán bộ là đầy tớ. Bốn là, lòng yêu thương con người gắn với lòng căm ghét, lên án
mọi chế độ bất công, lên án chủ nghĩa đế quốc thực dân, kiên quyết tìm ra con đường
giải phóng. Lên án và xử lý thích đáng những kẻ sâu mọt trong đảng viên, cán bộ, nội
bộ nhân dân, xâm phạm lợi ích của nhân dân, tham ô lãng phí, ức hiếp nhân dân...
Năm là, lòng yêu thương con người bao hàm nội dung rất quan trọng là phải biết
chăm lo bồi dưỡng, phát huy sức mạnh của con người, của nhân dân, của cộng đồng
và của mỗi cá nhân.
Thành Duy, Về chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh [31]. Đây là một công trình
nghiên cứu về chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh khá đầy đủ, toàn diện và có tính hệ
thống: Thứ nhất, trong cuốn sách tác giả đã làm rõ các khái niệm liên quan đến chủ
nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh như: khái niệm nhân văn, chủ nghĩa nhân văn trong
truyền thống văn hóa dân tộc; khái niệm nhân văn và chủ nghĩa nhân văn trong thời
đại phát triển chủ nghĩa tư bản; khái niệm nhân văn gắn với thời đại cách mạng vô
sản trong đó có chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh. Theo tác giả, “chủ nghĩa nhân văn
Hồ Chí Minh không chỉ phản ánh những đòi hỏi của nhân dân các dân tộc thuộc địa
mà nó đã vượt lên trên những yêu cầu hạn hẹp của các dân tộc, đòi hỏi giải phóng
toàn diện con người theo hướng phát triển con người toàn diện[31, tr 47]. Thứ hai,
tác giả đã chỉ ra được chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ sở
tiếp thu các mặt tích cực của chủ nghĩa nhân văn trong truyền thống văn hóa dân tộc
và nhân loại, đồng thời vận dụng sáng tạo chủ nghĩa nhân văn mác-xít để tự tạo cho
mình một chủ nghĩa nhân văn mới – chủ nghĩa nhân văn chiến đấu. Thứ ba, tác giả
đã chỉ ra sự tương đồng và khác biệt giữa chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh với chủ
9
nghĩa nhân văn mác xít. Trong đó tác giả cho rằng sự tương đồng đó là về mặt nguyên
tắc Hồ Chí Minh hoàn toàn thống nhất với chủ nghĩa Mác - Lênin về việc xây dựng
một xã hội mới, xã hội chủ nghĩa, thực sự nhân bản mang lại tự do, hạnh phúc cho
con người, nhưng sự khác biệt đó chính là phương pháp cách mạng để đi đến thực
hiện mục tiêu đó. Sự khác biệt này của Hồ Chí Minh là do chính điều kiện khách
quan và chủ quan của cách mạng Việt Nam quy định. Chính vì vậy theo tác giả, Hồ
Chí Minh “đã tạo cho mình một chủ nghĩa nhân văn mới mang đặc trưng, sắc thái
riêng có những tương đồng về nguyên tắc với chủ nghĩa nhân văn mác-xít, nhưng
cũng có những khác biệt rất cơ bản về phương pháp luận cách mạng” [31, tr. 139].
Thứ tư, đặc điểm và những nội dung cơ bản của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh đó
là: chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh gắn liền với chân lý “Không có gì quý hơn độc
lập, tự do”; chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh hướng tới mục tiêu xây dựng chủ nghĩa
xã hội thích hợp với hoàn cảnh và điều kiện của mỗi dân tộc; chủ nghĩa nhân văn Hồ
Chí Minh hướng tới một thế giới đại đồng, “bốn phương vô sản đều là anh em”. Thứ
năm, bản chất của chủ nghĩa nhân văn được biểu hiện thông qua các sáng tác của
Người, đặc biệt là trong tác phẩm “Nhật ký trong tù” và những ý nghĩa to lớn của tư
tưởng này đối với dân tộc và nhân loại.
Cuốn sách Hồ Chí Minh - vĩ đại một con người của Trần Văn Giàu [51]. Trong
cuốn sách này, ngoài việc tác giả trình bày một cách rõ nét, hệ thống về quá trình tìm
đường cứu nước của Hồ Chí Minh, đưa ra những dữ liệu khách quan để khẳng định
một điều bất biến tư tưởng Hồ Chí Minh là có thực và kiệt xuất, thì tác giả còn khẳng
định sự vĩ đại của Hồ Chí Minh được thể hiện ở những góc đời thường nhất đó là tấm
lòng yêu trẻ, kính già, trọng phụ nữ. Đó còn là tình yêu thiên nhiên, đức giản dị,
khiêm tốn, nhất là đặc điểm về cội nguồn chủ nghĩa nhân văn ở Người.
Cuốn sách Hồ Chí Minh – Nhà văn hóa kiệt xuất của Song Thành [117]. Trong
công trình nghiên cứu, tác giả đã dành một chương để nói về văn hóa khoan dung Hồ
Chí Minh thấm đượm tính nhân văn trong tư tưởng của Người. Theo tác giả, văn hóa
khoan dung Hồ Chí Minh vừa là sự tiếp thu có chọn lọc các giá trị của nhân loại, vừa
là sự kế thừa, cải biến, phát triển tinh thần khoan dung của dân tộc Việt Nam lên một
10
chất mới. Tác giả đã chỉ rõ các đặc trưng của văn hóa khoan dung cũng như các biểu
hiện của tinh thần khoan dung Hồ Chí Minh, đó là, khoan dung đối với kẻ thù, với
các tôn giáo và với nhân dân. Từ đó, tác giả cho rằng, cần thiết phải giáo dục văn hóa
khoan dung Hồ Chí Minh cho con người Việt Nam, đặc biệt là cho thế hệ trẻ hiện
nay. Theo tác giả, giáo dục văn hóa khoan dung là sự mở rộng hiểu biết cho thế hệ
trẻ những giá trị tích cực của các nền văn hóa, tôn giáo, ngôn ngữ, phong tục tập
quán..; giúp cho thế hệ trẻ phát triển năng lực nhận thức có thể phê phán, khả năng
suy nghĩ độc lập, biết lập luận, đánh giá có căn cứ xác đáng dựa trên các tiêu chí của
đạo đức, của khoa học và nhân văn để tránh bị cuốn theo các thủ đoạn tuyên truyền
lừa mị của các thế lực thù địch.
Mạch Quang Thắng, Hồ Chí Minh – Con người của sự sống [122]. Trong cuốn
sách tác giả đã có những phân tích, đánh giá về thân thế, sự nghiệp, nội dung tư tưởng
của Hồ Chí Minh mang tính chất triết lý phát triển dưới góc độ tiếp cận riêng của
mình. Nội dung tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh được đề cập trong cuốn sách thông
qua tấm lòng nhân ái bao la mà Hồ Chí Minh dành cho con người, trong đó Người
đặc biệt lưu tâm đến giải phóng phụ nữ, vì theo Người, giải phóng được phụ nữ thì
sẽ giải phóng được một nửa thế giới.
Trong cuốn sách Bác Hồ - Tấm gương đạo đức sáng ngời của tác giả Song
Thành [118]. Trong công trình này, ngoài việc tác giả đã làm rõ những phẩm chất mà
người cán bộ, đảng viên cần có theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, thì
tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cũng được tác giả bàn đến khi coi lòng nhân ái,
khoan dung, tình yêu thương mênh mông, sâu sắc đối với con người như là một trong
những đức tính quan trọng mà mỗi con người trong xã hội cần phải rèn luyện để có
được.
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh đã được nhiều học giả đầu ngành trong và ngoài
nước quan tâm nghiên cứu. Qua các công trình nghiên cứu trên, các tác giả đã đi sâu
vào tìm tòi, phân tích, đánh giá và bước đầu đã chỉ ra những nguồn gốc và những nội
dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân văn, về con người, phát triển con người.
11
1.1.3. Luận án
Nghiên cứu tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh không chỉ được các học giả, các
nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu trong các cuốn sách chuyên
khảo, mà vấn đề này còn được nghiên cứu trong các đề tài luận án.
Nghiên cứu về tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trong các luận án tiến sĩ có các
công trình sau: Tư tưởng nhân văn trong di sản quân sự Hồ Chí Minh của Trần Đình
Châu [20]; Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng nền văn hóa
nghệ thuật Việt Nam hiện nay của Lê Quý Đức [44]; Vấn đề giải phóng người lao
động Việt Nam bị áp bức trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh của Đoàn Thị Minh
Oanh [100], vv... Đây là những công trình nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh nói
chung và tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh nói riêng được thực hiện từ rất sớm. Trong
các công trình nghiên cứu này, mặc dù tiếp cận tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân văn dưới
nhiều góc độ khác nhau, nhưng các tác giả đều đi đến thống nhất trên các nội dung sau:
Thứ nhất, các công trình đã làm rõ nội dung của các khái niệm tư tưởng nhân
văn, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh và cho rằng tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là
hệ thống các quan điểm, quan niệm, triết lý nhân sinh về con người, hướng con người
vươn tới khát vọng ấm no, hạnh phúc, đặt niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh và phẩm
giá của con người, của nhân dân lao động.
Thứ hai, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ sở Người
kế thừa các giá trị nhân văn truyền thống nhân ái tốt đẹp của gia đình, quê hương và
của dân tộc; tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân văn, nhân ái trong nền văn minh
phương Đông và phương Tây; sự tiếp thu tư tưởng nhân văn mác xít với chủ trương
đấu tranh để giải phóng con người. Sự tiếp nhận tư tưởng nhân văn mác-xít của Hồ
Chí Minh đã đánh dấu một bước phát triển mới về chất trong tư tưởng nhân văn Hồ
Chí Minh.
Thứ ba, đặc điểm cốt lõi của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh: vì sự giải phóng
dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
là sự kết hợp giữa truyền thống văn hóa dân tộc, tinh thần nhân văn trong văn hóa
12
nhân loại với nhân cách Hồ Chí Minh đã trải qua rèn luyện và đấu tranh; tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh là tinh thần nhân văn cách mạng, nhân văn chiến đấu để giải
phóng nhân loại đau khổ bằng chính lực lượng của họ.
Thứ tư, các công trình đã chỉ ra những nội dung tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh: đó là lòng yêu thương và quý trọng con người gắn với lòng yêu dân, yêu nước
nồng nàn; tư tưởng nhân văn Hồ chí Minh đặt niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh và
phẩm giá của con người; tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh nhằm vào hành động đấu
tranh giải phóng con người.
Thứ năm, khẳng định mối quan hệ biện chứng giữa tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh với văn hóa, quân sự và chỉ ra những biểu hiện của tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh trên các lĩnh vực của văn hóa, quân sự.
1.1.4. Bài đăng trên các tạp chí khoa học
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh không chỉ được các các nhà khoa học nghiên
cứu trong các công trình lớn như Hội thảo khoa học quốc gia, đề tài khoa học cấp
Nhà nước, trong các luận án tiến sĩ... mà vấn đề này còn được các nhà khoa học tìm
hiểu, nghiên cứu trong các bài viết đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành.
Từ cách tiếp cận hệ thống di sản tư tưởng Hồ Chí Minh dưới góc độ nhân văn,
những luận điểm, những quan niệm mang tính nhân văn của Hồ Chí Minh đã được
các nhà khoa học đã khái quát, hệ thống lại trong các bài viết: Nét đặc sắc trong chủ
nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh của Trần Văn Phòng [107]; Một số vấn đề về tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh của Mạch Quang Thắng [120]; Về tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh của Mạch Quang Thắng [121]; Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh: Bản chất và
những đặc trưng tổng quát của Phạm Ngọc Anh [5]; Học tập tư tưởng nhân văn Hồ
Chí Minh của Lê Doãn Tá [110]; Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh của Phạm Minh
Hạc [53]; Suy nghĩ về tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, của Nguyễn Sinh Kế [66]; Tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh của Nguyễn Văn Huyên [65]; Giá trị trường tồn của tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh của Nguyễn Hùng Oanh [101]; v.v... Trong các bài viết
này, dưới nhiều góc độ tiếp cận khác nhau về tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, nhưng
13
các tác giả đều đi đến những khẳng định sau: Thứ nhất, tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ hệ thống tư tưởng của người; tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh thuộc dòng tư tưởng nhân văn mác xít, nhưng mang đậm tính Việt
Nam, kế thừa truyền thống văn hóa Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử. Thứ hai,nội
dung tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh đó là: tình yêu thương dành cho những con
người cụ thể mà trước hết đó là những người nghèo khổ, những người bị áp bức bóc
lột trên trái đất này; yêu thương con người phải gắn liền với đấu tranh giải phóng con
người để đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho con người; đề cao vai trò
của con người, coi con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển; khoan
dung, độ lượng với con người đặc biệt là đối với những người lầm lỗi; quan tâm, nâng
đỡ những lớp người dễ bị tổn thương nhất trong xã hội.
Trong các bài viết: Tính nhân văn trong văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh của Cao
Thị Hải Yến [133]; Tình thương-sự cảm hóa và giáo dục con người trong tư tưởng
đạo đức nhân văn Hồ Chí Minh của Lê Đình Lung [76]; Giá trị nhân đạo, nhân văn
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo của Nguyễn Văn Thanh [112]; Ý nghĩa quốc
tế và giá trị nhân văn của tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Thành
Duy [30]; Có một cách tiếp cận với bản chất của Đảng Cộng sản theo tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh của Thành Duy [29]; Tính nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh
về sử dụng bạo lực cách mạng của Lê Văn Quang [109]; Hồ Chí Minh danh nhân
văn hóa của thế kỷ XX của Song Thành [116], v.v... các tác giả đã hệ thống và làm rõ
tư tưởng đề cao, coi trọng con người, tư tưởng đấu tranh cho tự do và hạnh phúc của
con người, tư tưởng về quyền làm chủ của nhân dân, về khoan dung, về quan hệ ứng
xử mang nặng tính người giữa con người với nhau... trong tư tưởng Hồ Chí Minh trên
các lĩnh vực về văn hóa, giáo dục, đạo đức, tôn giáo, về Đảng, về cách mạng giải
phóng dân tộc... Ý nghĩa to lớn của những tư tưởng nhân văn đó trong cách mạng giải
phóng dân tộc cũng như trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay.
Nghiên cứu tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trong bản Di chúc đã được nhiều
nhà khoa học quan tâm, tìm hiểu trong các bài viết: Tư tưởng nhân văn đạo đức trong
Di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh của Nguyễn Thế Thắng [123]; Di chúc – tác phẩm
14
kết tinh chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh của Lại Quốc Khánh [68]; Giá trị nhân văn
trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đinh Xuân Lâm [73]; … Trong các bài
viết này, các tác giả đã phân tích làm nổi bật các giá trị của tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh trong bản Di chúc trên các nội dung sau: Thứ nhất, có những chính sách cụ thể
để chăm lo cho cuộc sống của con người, làm cho con người được phát triển toàn
diện với năng lực vốn có của mình, để con người được làm chủ, có cuộc sống ấm no,
tự do hạnh phúc; Thứ hai, Đảng, Nhà nước, các cán bộ công chức phải tự coi mình là
đầy tớ của nhân dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân; phải giữ gìn sự đoàn kết,
thống nhất trong Đảng, phải có tình đồng chí, yêu thương lẫn nhau; Thứ ba, xuất phát
từ một triết lý nhân sinh sâu sắc, thấm đượm tư tưởng nhân đạo và tính nhân văn với
niềm mong muốn toàn Đảng, toàn dân cùng nhau đoàn kết, phất đấu xây dựng một
“nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần
xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
Như vậy, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh đã được các học giả, các nhà khoa
học, các cá nhân trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu theo các cách tiếp cận
khác nhau, trong những công trình nghiên cứu khác nhau, nhưng tựu chung lại, các
tác giả đều tập trung làm rõ những vấn đề lý luận chung về tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh như khái niệm, nguồn gốc, những nội dung cơ bản của tư tưởng nhân văn Hồ
Chí Minh. Những kết quả này rất đáng trân trọng và đã góp phần làm sáng tỏ nhiều
vấn đề lý luận chung của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân văn. Các công trình khoa
học này đã cung cấp nhiều gợi ý quan trọng, là những tài liệu tham khảo quý giá và
là cơ sở lý luận quan trọng để tác giả kế thừa, tiếp tục đi sâu nghiên cứu: Nội dung tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
1.2. MỘT SỐ CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN GIÁO DỤC TƯ
TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH
Việc giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho các tầng lớp nhân dân là
một nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa sâu sắc trong công cuộc xây dựng nền đạo đức
mới cho con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Vấn đề này đã được các nhà
khoa học, các học giả trong nước nghiên cứu qua các công trình khoa học khác nhau.
15
1.2.1. Đề tài khoa học
Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Định hướng giáo dục đạo đức trong các trường
đại học” của Bộ Giáo dục và Đào tạo [19]. Trong hội thảo, các bài tham luận của các
nhà khoa học đã nêu rõ sự cần thiết phải có định hướng giáo dục đạo đức cho thanh
niên, cho sinh viên các trường cao đẳng, đại học ở nước ta trong điều kiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay.
Các tác giả đã đề xuất các giải pháp nhằm giữ vững bản sắc văn hóa, giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc trong trong giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ hiện nay.
Trong lĩnh vực nghiên cứu về giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh vào
năm 2003, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh công bố kết quả nghiên cứu đề
tài khoa học cấp Bộ “Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh với việc giáo dục đội ngũ cán
bộ đảng viên hiện nay” [61], do tác giả Hoàng Trang làm chủ nhiệm cùng với sự
tham gia của các nhà khoa học: Phạm Ngọc Anh, Nguyễn Khánh Bật, Trần Minh
Trưởng, Song Thành... Đây là công trình khoa học nghiên cứu một cách tương đối hệ
thống tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh và việc giáo dục tư tưởng đó cho cán bộ, đảng
viên ở nước ta hiện nay. Trong công trình khoa học này, các tác giả đã tập trung vào
nghiên cứu, làm rõ các vấn đề sau:
Thứ nhất, đề tài đã phân tích, đưa ra khái niệm tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
khi cho rằng đó là hệ thống các quan điểm lý luận “phản ánh tình yêu thương, quý
trọng, quan tâm, bao dung, độ lượng đến con người và niềm tin vững chắc vào sức
mạnh của con người”, “phản ánh con đường giải phóng con người một cách triệt để”
hướng con người đến “phát huy hết mọi năng lực sáng tạo vốn có của mình”; tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ sở Người đã kế thừa truyền thống
nhân ái của dân tộc, quê hương, gia đình, tiếp thu các giá trị tinh hoa văn hóa nhân
loại về lòng nhân ái, và đặc biệt từ chính tính năng động chủ quan của Hồ Chí Minh;
chỉ ra một số đặc trưng cơ bản của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh khi cho rằng, đó
là chủ nghĩa nhân văn hành động, là một bước phát triển mới về chất so với giá trị
nhân văn truyền thống và tinh hoa nhân văn của nhân loại, có sự thống nhất giữa tính
giai cấp, tính dân tộc và tính quốc tế, đó là chủ nghĩa nhân văn của xã hội mới mà
16
loài người đang hướng đến – xã hội cộng sản chủ nghĩa; khẳng định tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh là nội dung xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống tư tưởng của Người
về cách mạng Việt Nam.
Thứ hai, những nội dung cơ bản của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh đó là:
quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người và sức mạnh vĩ đại của nhân
dân trong quá trình phát triển lịch sử; tình yêu thương, quý trọng, quan tâm đến con
người; tin tưởng ở con người, tin ở nhân dân, đấu tranh giải phóng con người và hạnh
phúc của nhân dân là cốt lõi của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh; tinh thần khoan
dung của Hồ Chí Minh.
Thứ ba, đề tài đã phân tích, làm rõ tầm quan trọng của nhân tố con người (cán
bộ, đảng viên), của việc đẩy mạnh giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho cán
bộ, đảng viên trong công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay. Đề tài đã đưa ra
các phương hướng, nội dung và các giải pháp để nâng cao hiệu quả giáo dục tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh cho cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay như: Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng; Đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục cán bộ, đảng viên.
1.2.2. Sách chuyên khảo
Các công trình nghiên cứu về giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, có
các cuốn sách như: Giáo dục giá trị nhân văn ở trường Trung học cơ sở: tài liệu tham
khảo dùng cho giáo viên dạy giáo dục công dân, cán bộ Đoàn, Đội, giáo sinh các
trường Cao đẳng sư phạm của Phạm Lăng [75]. Trong cuốn sách, tác giả đã nêu lên
những vấn đề chung về các giá trị nhân văn truyền thống; đưa ra mục đích, nội dung,
phương pháp giáo dục một số giá trị nhân văn cho học sinh.
Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh với việc xây dựng nhân cách sinh viên Việt
Nam hiện nay của Lương Gia Ban, Hoàng Trang [10]. Trong cuốn sách, các tác giả
đã đề cập đến ba vấn đề lớn: Thứ nhất, đưa ra khái niệm, cơ sở hình thành tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh và chỉ ra những nội dung cơ bản của tư tưởng nhân văn Hồ
Chí Minh đó là: yêu thương, quý trọng, quan tâm đến con người và có niềm tin vững
chắc vào bản chất tốt đẹp của con người; về vai trò của con người và sức mạnh vĩ đại
17
của nhân dân; tin tưởng ở con người, tin ở nhân dân, đấu tranh giải phóng con người
và phấn đấu hi sinh vì hạnh phúc của con người; tinh thần khoan dung Hồ Chí Minh.
Từ đó, các tác giả đi đến khẳng định, Hồ Chí Minh là nhà nhân văn vĩ đại, tư tưởng
nhân văn của Người sẽ sống mãi với nhân dân Việt Nam và nhân loại. Thứ hai, cuốn
sách đã đi vào phân tích, làm rõ khái niệm, cấu trúc, tính quy luật của sự hình thành
và phát triển nhân cách nói chung và những nhân tố tác động đến xây dựng nhân cách
sinh viên nói riêng; sự cần thiết giáo dục chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh trong xây
dựng nhân cách sinh viên Việt Nam; những vấn đề đặt ra hiện nay trong giáo dục chủ
nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh nhằm xây dựng nhân cách cho sinh viên Việt Nam hiện
nay. Thứ ba, trên cơ sở các phân tích đánh giá, các tác giả đã đưa ra phương hướng
và các giải pháp xây dựng nhân cách sinh viên theo tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
Trong các cuốn sách chuyên khảo này, các tác giả đều đi đến khẳng định sự
cần thiết phải giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh đặc biệt là cho thế hệ trẻ.
Đồng thời chỉ ra các phương hướng và đề xuất các giải pháp để thực hiện hoạt động
giáo dục này ở nước ta hiện nay.
1.2.3. Luận án
Các Luận án tiến sĩ nghiên cứu về giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh
viên như: Giáo dục đạo đức cho thanh niên, học sinh theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở
nước ta hiên nay của Trần Minh Đoàn [40]. Trong công trình này, tác giả đã: phân
tích, làm rõ và khẳng định hệ giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng,
đạo đức của thanh niên học sinh và ý nghĩa to lớn của những giá trị đạo đức đó đối
với việc giáo dục đạo đức cho thanh niên học sinh ở nước ta hiện nay; phân tích thực
trạng công tác giáo dục đạo đức thanh niên học sinh ở nước ta và khái quát những
vấn đề cơ bản, những yếu tố, điều kiện, những mối liên hệ chi phối đến công tác giáo
dục đạo đức cho thanh niên học sinh; đề xuất các quan điểm, phương hướng, giải
pháp lớn để tiếp tục tiến hành công tác giáo dục đạo đức cho thanh niên học sinh theo
tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
Giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng
vùng Tây Bắc trong dạy học môn Tư tưởng Hồ Chí Minh của Lê Thị Vân Anh [6].
18
Tác giả của luận án đã trình bày những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh
về giáo dục đạo đức và thực trạng công tác giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh
viên các trường đại học, cao đẳng vùng Tây bắc trong giảng dạy môn học tư tưởng
Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó tác giả đã đặt ra nhưng yêu cầu và đề xuất các biện pháp
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho sinh viên
các trường đại học, cao đẳng vùng Tây Bắc trong dạy học môn tư tưởng Hồ Chí Minh.
Vấn đề giáo dục đạo đức truyền thống cho sinh viên cũng được các nhà khoa
học quan tâm, nghiên cứu như: Luận án tiến sĩ triết học, Giáo dục đạo đức đối với sự
hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay của
Trần Sĩ Phán [102]. Trong công trình khoa học này này, giả của luận án đã phân tích,
làm sáng tỏ bản chất và vai trò của giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát
triển nhân cách sinh viên như: nâng cao trình độ nhận thức các giá trị đạo đức từ nhận
thức thông thường lên nhận thức khoa học... qua đó góp phần điều chỉnh hành vi của
con người; tạo ra các giá trị đạo đức mới, xây dựng các quan điểm, phẩm chất tích
cực cho đối tượng giáo dục; truyền lại cho thế hệ đang trưởng thành những giá trị đạo
đức mà các thế hệ trước đó tạo ra, trên cơ sở đó giúp họ nhận thức sâu sắc hơn giá trị,
ý nghĩa cuộc sống mang tính nhân bản, nhân ái, nhân văn cao cả, góp phần to lớn vào
việc nhân đạo hóa con người và đời sống xã hội; góp phần phát triển yếu tố tài năng
trong mỗi nhân cách.
Trên cơ sở khái quát thực trạng giáo dục đạo đức cho sinh viên trong các
trường đại học, cao đẳng trên cả nước, luận án nêu lên những luận cứ khoa học cho
việc đề xuất một số giải pháp nhằm đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp giáo
dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam.
1.2.4. Bài đăng trên các tạp chí khoa học
Vấn đề giáo dục tư tưởng nhân văn và những ảnh hưởng của nó đến đạo đức,
lối sống của sinh viên được các nhà khoa học nghiên cứu qua các công trình đăng
trên các tạp chí khoa học như: Thực trạng lựa chọn các giá trị đạo đức nhân văn
trong lối sống của sinh viên thành phố Hồ Chí Minh hiện nay của Huỳnh Văn Sơn
[108]. Trong bài viết, thông qua việc nghiên cứu khảo sát thực tế việc lựa chọn các
19
giá trị đạo đức nhân văn của sinh viên ở thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh kinh
tế thị trường, hội nhập quốc tế. Tác giả đã đi đến khẳng định việc lựa chọn nhóm giá
trị đạo đức nhân văn hiện đại (tự tin, sáng tạo, hết lòng vì công việc...) trong xây dựng
lối sống được đánh giá cao hơn nhóm các giá trị đạo đức nhân văn truyền thống (hiếu
thảo, trung thực, tôn trọng người khác, khoan dung, vị tha...) và cho rằng, đây chính
là sự khác biệt trong việc lựa chọn giá trị sống của sinh viên hiện nay, so với những
nghiên cứu trước đó của tác giả.
Nghiên cứu về giáo dục bồi dưỡng thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí Minh có
bài viêt: Công tác giáo dục thanh niên hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh của Phạm
Văn Thanh [113]. Trong bài viết, bằng cách tiếp cận khác nhau tác giả đã đề cập đến
những nội dung cơ bản cần phải giáo dục cho thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí Minh,
đó là: giáo dục cho thanh niên lòng yêu tổ quốc, yêu nhân dân, có tinh thần dân tộc
vững chắc, đào tạo họ để trở thành những người kế thừa sự nghiệp cách mạng của
các thế hệ cha anh đi trước; thanh niên phải ra sức học tập chính trị, kinh tế, văn hóa,
khoa học kỹ thuật để trở thành những người phát triển toàn diện; phải giáo dục đạo
đức cách mạng cho họ; giáo dục đóng vai trò quang trọng trong công tác bồi dưỡng,
phát triển thanh niên. Đồng thời cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc vận dụng
tư tưởng này của Đảng trong việc trong việc giáo dục bồi dưỡng thanh niên hiện nay.
Như vậy, trong các công trình nghiên cứu trên, vấn đề giáo dục tư tưởng đạo
đức, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho thanh niên, sinh viên đã được phản ánh
dưới nhiều góc độ khác nhau, góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề trong công tác giáo
dục đạo đức, nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên. Các công trình này đã cung cấp
nhiều gợi ý quan trọng, là những tài liệu quý, là cơ sở để tác giả kế thừa, tiếp tục đi
sâu nghiên cứu: Giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên các trường
đại học ở Việt Nam hiện nay.
20
1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐÃ ĐƯỢC NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT
RA ĐỂ LUẬN ÁN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.3.1. Những vấn đề đã được nghiên cứu
Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án của, là những công trình
khoa học vô cùng có giá trị mà tác giả tham khảo và kế thừa, để thực hiện luận án.
Trong các công trình nghiên cứu về tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, về giáo dục tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, các tác giả bước đầu đã làm rõ các vấn đề sau:
Thứ nhất, về nghiên cứu tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh:
- Một là, các tác giả đã bước đầu chỉ ra cơ sở hình thành tư tưởng nhân văn Hồ
Chí Minh là: sự kế thừa các giá trị truyền thống nhân ái của dân tộc, quê hương và
gia đình; các giá trị tinh hoa văn hóa của nhân loại về lòng nhân ái; phẩm chất cá
nhân đặc biệt của Hồ Chí Minh.
- Hai là, những nội dung cơ bản, xuyên xuốt trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh đã được các tác giả khẳng định đó là: tình yêu thương vô hạn đối với con người,
nhất là những người cùng khổ; coi con người là mục tiêu, là động lực của sự nghiệp
các mạng; lòng khoan dung rộng lớn đối với con người; chăm lo bồi dưỡng, phát triển
con người.
Tuy nhiên, những kết quả đạt được trong các công trình nghiên cứu của các
nhà khoa học về nguồn gốc, đặc điểm, nội dung của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh...
được nghiên cứu dưới góc độ đạo đức, văn hóa, xã hội, con người, v.v.. Nhưng đa
phần các công trình này mới chỉ tiếp cận nghiên cứu dưới dạng các bài viết, chưa có
nhiều công trình nghiên cứu chuyên khảo có tính hệ thống, toàn diện, sâu sắc về
nguồn gốc và nội dung tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
Thứ hai, về nghiên cứu giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
- Một là, các tác giả đã làm rõ được sự cần thiết của việc giáo dục tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh cho các tầng lớp nhân dân nhằm hình thành nên những con
người mới phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
21
- Hai là, trong các công trình này, các tác giả đã chỉ rõ những những vấn đề
đặt ra ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn
Hồ Chí Minh. Đó là, các mâu thuẫn giữa yêu cầu không ngừng nâng cao hiệu quả của
hoạt động giáo dục với chất lượng của các chủ thể giáo dục; mâu thuẫn giữa nội dung
giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh với hiện thực cuộc sống; mâu thuẫn giữa
nhu cầu mong muốn vươn lên hoàn thiện nhân cách với sự thiếu ý thức trong tu
dưỡng, rèn luyện của một bộ phận nhân dân...
- Ba là, chỉ ra các phương hướng, nội dung cần thiết giáo dục tư tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh, đồng thời bước đầu đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao
hiệu quả của hoạt động giáo dục này cho các tầng lớp nhân dân trong xã hội.
Tuy nhiên, trong các công trình trên, các tác giả mới chỉ dừng lại ở việc nghiên
cứu giáo dục tư tưởng này cho cán bộ, đảng viên, trong phát huy nhân tố con người
nói chung v.v..., chưa có công trình cụ thể nào đi sâu nghiên cứu có tính hệ thống việc
giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, nhất là trong giai đoạn hiện nay.
1.3.2. Những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục nghiên cứu
Từ những kết quả đạt được cũng như những vấn đề đặt ra trong nghiên cứu tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh và giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh của các
nhà khoa học, là cơ sở quan trọng để tác giả luận án định hướng nghiên cứu và xác
định những nội dung trọng tâm cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án:
- Một là, luận án sẽ tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện các nội dung trong
tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
- Hai là, trên cơ sở phân tích tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, tác giả luận án
sẽ đi vào xây dựng hệ tiêu chí đánh giá chất lượng của hoạt động giáo dục tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trong các trường đại học; để từ đó, đánh giá
thực trạng của hoạt động giáo dục này trong các trường Đại học ở Việt Nam hiện nay.
- Ba là, từ đánh giá thực trạng của hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ
Chí Minh và đề xuất phương hướng, cùng với hệ thống các giải pháp giáo dục tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên các trường đại học ở Việt Nam hiện nay.
22
Chương 2
TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH – NỘI DUNG, SỰ CẦN THIẾT
VÀ HỆ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC TƯ TƯỞNG
NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH CHO SINH VIÊN
2.1. TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH
2.1.1. Một số khái niệm
2.1.1.1. Khái niệm chủ nghĩa nhân văn
Chủ nghĩa nhân văn là một trào lưu tư tưởng và văn hóa thời kỳ Phục hưng ở
châu Âu (thế kỷ XIV – XVI). Đây là một phong trào đấu tranh chống lại sự cai trị, hà
khắc của chế độ phong kiến nhằm đề cao con người, giải phóng các cá nhân khỏi sự
đè nén, ràng buộc của giáo lý phong kiến, chủ nghĩa kinh viện và giáo hội, hướng con
người vào xây dựng cuộc sống thực tại bằng chính sức mạnh của con người. Trong
nghiên cứu triết học, lý luận chính trị, văn học… bên cạnh khái niệm chủ nghĩa nhân
văn, còn xuất hiện khái niệm chủ nghĩa nhân đạo. Ở nước ta hiện nay, khi nghiên cứu
về vấn đề này cũng đã có những quan điểm khác nhau giữa các khái niệm chủ nghĩa
nhân văn và chủ nghĩa nhân đạo.
Trong công trình nghiên cứu của mình, tác giả Hồng Văn cho rằng: “Phương
tây thường đồng nhất khái niệm nhân văn với nhân đạo. Thuật ngữ Humanism (Anh),
Humanisme (Pháp) và Gumanizm (Nga) có nghĩa chung là nhân văn = “nhân đạo”
[132].
Tác giả Phạm Minh Hạc cũng đề cập đến sự thống nhất về mặt nội hàm giữa
hai khái niệm trên khi cho rằng: “các tiếng dòng La tinh, như tiếng Anh gọi là
“Humanism”, thường chuyển sang tiếng Việt là “chủ nghĩa nhân đạo”; theo từ điển
Trung Quốc định nghĩa “chủ nghĩa nhân văn” hàm chứa nội dung của “chủ nghĩa
nhân đạo” [59, tr. 547].
Theo tác giả Nguyễn Đăng Hai, khái niệm Humanism được chuyển ngữ và sử
dụng phổ biến trong khoa nghiên cứu văn học ở Việt Nam vào nửa cuối thế kỷ XX,
sự chuyển hóa này được thực hiện một cách gián tiếp thông qua Hán ngữ. Do vậy,
trong nghiên cứu ở Việt Nam, khái niệm này thường được chuyển ngữ phổ biến thành
23
các từ ngữ Hán Việt là chủ nghĩa nhân văn và chủ nghĩa nhân đạo. Từ đó tác giả đã
đi đến kết luận:
Hai khái niệm đều có chung điểm quy chiếu là hạnh phúc của con người.
Nhưng giữa hai khái niệm cũng có những điểm khác biệt nhất định. Khái
niệm chủ nghĩa nhân đạo thể hiện tinh thần đạo đức, đề cao lòng yêu
thương con người, đặc biệt là những người lao động, còn khái niệm chủ
nghĩa nhân văn được sử dụng thể hiện tinh thần văn hóa, nhấn mạnh đến
các giá trị người, các quyền cơ bản của con người [54, tr. 154].
Mặc dù khẳng định, khái niệm Chủ nghĩa nhân văn và Chủ nghĩa nhân đạo
khi được hiểu theo truyền thống văn hóa Việt Nam có những nét khác nhau, bị chi
phối bởi quan điểm giai cấp, nhưng tác giả Nguyễn Thế Thắng cũng đi đến khẳng
định: “hai giá trị này có chung một cốt lõi đề cao những phẩm chất, giá trị của con
người với tính cách là một cá nhân, khẳng định quyền con người được tự do phát
triển, thừa nhận các nguyên tắc bình đẳng, công bằng, nhân đạo trong quan hệ giữa
con người với con người” [124, tr. 6].
Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, cho rằng: nhân văn là thuộc về văn
hóa của loài người; nhân đạo là đạo đức thể hiện ở sự yêu thương, quý trọng và bảo
vệ con người [103, tr. 687].
Từ những nghiên cứu trên, tác giả luận án cũng thống nhất với các quan niệm
của các nhà nghiên cứu khi cho rằng, chủ nghĩa nhân văn là khái niệm mà nội hàm
của nó thường nhấn mạnh đến yếu tố văn hóa, các giá trị, quyền của con người. Khái
niệm chủ nghĩa nhân đạo là biểu hiện của tinh thần đạo đức, đề cao tình cảm, lòng
yêu thương con người. Tuy nhiên, hai khái niệm này có sự tương đối đồng nhất về
mặt nội hàm, đó là hướng đến hạnh phúc con người, các giá trị của con người. Từ sự
tương đối đồng nhất về mặt nội hàm như vậy, trong đề tài luận án, tác giả sử dụng
khái niệm chủ nghĩa nhân văn để nhấn mạnh đến tình yêu thương con người, đến giá
trị sống của con người (ấm no, tự do, hạnh phúc) – mục tiêu mà Hồ Chí Minh hướng
đến trong sự nghiệp cách mạng của mình. Hơn nữa, việc sử dụng khái niệm nhân văn
trong nghiên cứu về Hồ Chí Minh còn cho chúng ta thấy được giá trị của di sản tư
24
tưởng Hồ Chí Minh, bởi Người không chỉ là một nhà đạo đức học, mà Hồ Chí Minh
còn là một nhà văn hóa lớn.
2.1.1.2. Khái niệm “Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh”
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh có nội dung rộng lớn, bao quát hết các mặt
của đời sống cá nhân, đời sống xã hội, môi trường tồn tại, cùng những khát vọng làm
chủ cuộc sống của con người...; về hình thức thể hiện, tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh rất phong phú, cô đọng, khái quát, nhưng lại rất cụ thể, gần gũi với cuộc sống,
không trừu tượng, mọi người đều có thể áp dụng để tự hoàn thiện nhân cách làm
người, tính người của mình.
Việc làm rõ nội hàm của khái niệm tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là một
vấn đề không hề đơn giản, cần phải có sự nghiên cứu công phu, lâu dài mới có thể
đưa ra lời giải đáp thỏa đáng. Mặc dù chưa đưa ra định nghĩa tư tưởng nhân văn Hồ
Chí Minh một cách hoàn chỉnh, nhưng dưới các góc độ nghiên cứu khác nhau, các
nhà khoa khọc trong và ngoài nước, cũng có những quan niệm khác nhau về nội hàm
của khái niệm tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
Theo đại tướng Võ Nguyên Giáp:
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh thấm đượm chủ nghĩa yêu nước, tinh
thần nhân ái, truyền thống văn hóa Việt Nam; kế thừa tư tưởng nhân văn,
nhân đạo trong văn hóa phương Đông, phương Tây; phát triển chủ nghĩa
nhân đạo hiện thực của chủ nghĩa Mác. Đó là chủ nghĩa nhân văn “chân
chính”, chủ nghĩa nhân văn hiện thực của con người Việt Nam trong thời
đại Hồ Chí Minh. Trong đó lòng yêu thương nhân dân, yêu thương người
cùng khổ gắn với lòng yêu nhân loại. Lòng yêu thương thống nhất với lòng
tin, sự tôn trọng và ý chí cùng hành động triệt để giải phóng nhân dân,
nhân loại [48, tr. 270].
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng khi nói về tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh lại nhấn
mạnh phẩm chất “rất Người”, “rất giàu tình người, chất người, của người Việt Nam
cũng như của người các nước khác”, “một con người rất tin ở con người” [43, tr. 480].
Một số nhà khoa học khi nghiên cứu về tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh lại
nhấn mạnh đến cuộc đời “vì nghĩa quên mình”, sống khiêm tốn, bình dị, chan hòa với
25
mọi người, không màng danh lợi cho bản thân và xem đó là nội dung cốt lõi của tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Có nhà khoa học khi nghiên cứu về chủ nghĩa nhân
văn Hồ Chí Minh lại nhấn mạnh đến “hành vi hướng thiện”, “chống điều ác”, khẳng
định chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh là “chủ nghĩa nhân văn giải thoát của những
tầng lớp yếu hèn lao khổ, của các dân tộc bị chà đạp, giải thoát bằng chính ý thức lực
lượng của mình” [51, tr. 86]. Nói cách khác, theo các tác giả trên, chiến đấu cho mình,
cho đồng loại đau khổ, chiến đấu vì sự công bằng và nhân phẩm của con người để
đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho con người, vì con người – chủ nghĩa nhân
văn chiến đấu, là nội dung quan trọng hình thành tư tưởng nhân văn của Người. Có
những nhà nghiên cứu đã bước đầu đưa ra khái niệm tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
một cách tương đối đầy đủ, toàn diện khi quan niệm:
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là một bộ phận hợp thành, xuyên suốt tư
tưởng Hồ Chí Minh, bao gồm hệ thống các quan điểm lý luận được rút ra
từ thực tiễn cách mạng, từ sự kế thừa và phát triển những giá trị nhân văn
của dân tộc và thời đại mà đỉnh cao là chủ nghĩa nhân đạo Mác- Lênin,
phản ánh tình yêu thương, quý trọng, quan tâm, bao dung, độ lượng đến
con người và niềm tin vững chắc vào sức mạnh của con người; phản ánh
con đường giải phóng con người một cách triệt để nhằm xây dựng một chế
độ xã hội trong đó con người có điều kiện phát triển toàn diện và phát huy
hết mọi năng lực sáng tạo vốn có của mình. [61, tr. 5-6]
Việc định nghĩa khái niệm “Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh” phải xuất phát
từ khái niệm rộng “Tư tưởng Hồ Chí Minh”. Đồng thời, khi định nghĩa khái niệm
“Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh” cần phải dựa vào nguyên tắc phương pháp luận
mác xít đó là phải xác định rõ nội hàm của khái niệm với các đặc trưng cơ bản; rút ra
được những cái cơ bản, cốt lõi của sự vật, những quy luật vận động tác động đến sự
vật; mối quan hệ giữa nội dung tư tưởng với thực tiễn cuộc sống.
Từ những kết quả nghiên cứu đã đạt được của các nhà khoa học, cũng như các
yêu cầu trong phương pháp luận mác xít, luận án cho rằng: Tư tưởng nhân văn Hồ
Chí Minh là một hệ thống các luận điểm về con người và giải phóng con người được
rút ra từ thực tiễn cách mạng; những luận điểm này được hình thành trên cơ sở kế
26
thừa có chọn lọc các giá trị nhân văn truyền thống dân tộc, các giá trị nhân văn trong
văn hóa nhân loại với đỉnh cao là chủ nghĩa nhân đạo Mác – Lênin, nhằm mục đích
giải phóng và phát triển con người một cách toàn diện. Đó là quan niệm về bản chất
con người; tình yêu thương con người; tinh thần khoan dung; coi con người vừa là
mục tiêu, vừa là động lục của sự nghiệp cách mạng; về chiến lược trồng người... Tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh mang tính định hướng trong việc xây dựng con người mới
ở nước ta hiện nay.
Với quan niệm trên về tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, luận án bước đầu chỉ
rõ nội hàm của khái niệm tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trên các vấn đề sau:
Thứ nhất, xác định rõ cấu trúc của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh đó là một
hệ thống những quan điểm, toàn diện về con người và giải phóng con người trong
cách mạng vô sản.
Thứ hai, xác định nguồn gốc hình thành tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, đó
là sự kế thừa các giá trị nhân văn truyền thống dân tộc, kế thừa tư tưởng nhân văn,
nhân đạo trong văn hóa nhân loại và đặc biệt là chủ nghĩa nhân đạo Mác - Lênin. Sự
kế thừa này là có chọn lọc để phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Thứ ba, xác định các nội dung cơ bản cũng như mục đích của tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh đó là tình yêu thương con người vô tận; đó là lòng khoan dung, độ
lượng; tin tưởng vào sức mạnh to lớn của con người; cần thiết phải chăm lo, bồi
dưỡng, phát triển con người, suốt đời phục vụ nhân dân, sẵn sàng hy sinh để đem lại
hạnh phúc cho nhân dân; hướng con người đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác để đem
lại hạnh phúc, ấm no cho chính con người...
Thứ tư, khẳng định giá trị của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trong định
hướng xây dựng nền văn hóa mới, con người mới ở nước ta hiện nay.
Việc đưa ra định nghĩa khái niệm “Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh” như vậy
đã nêu rõ được cấu trúc, nguồn gốc lý luận, các bộ phận cấu thành nội dung của tư
tưởng nhân văn, cũng như những đặc trưng, mục đích của tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh. Đây cũng chỉ là những nghiên cứu bước đầu, để tiến tới một khái niệm hoàn
chỉnh khoa học cần phải có sự tiếp tục nghiên cứu, bổ sung.
27
2.1.1.3. Khái niệm “Giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh
viên”
Trước hết, để hiểu được nội hàm của khái niệm “Giáo dục tư tưởng nhân văn
Hồ Chí Minh” chúng ta cần phải hiểu khái niệm “giáo dục” là gì?
Theo Từ điển tiếng Việt, giáo dục là hoạt động nhằm tạo ra một cách có hệ thống
đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy
dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra [103, tr. 379].
Qua định nghĩa trên về khái niệm giáo dục, ta thấy rằng, xét về mặt bản chất,
giáo dục là quá trình truyền đạt, tiếp thu những kinh nghiệm của các thế hệ loài người.
Về mặt hoạt động, giáo dục là quá trình tác động đến các đối tượng giáo dục
để hình thành cho họ những phẩm chất nhân cách.
Về mặt phạm vi, khái niệm giáo dục bao hàm nhiều cấp độ khác nhau: Giáo
dục được hiểu theo nghĩa chung – giáo dục xã hội là hoạt động có mục đích của xã
hội, với nhiều lực lượng giáo dục, tác động có hệ thống, có kế hoạch đến con người
để hình thành cho họ những phẩm chất nhân cách. Giáo dục được hiểu theo nghĩa
hẹp là giáo dục trong nhà trường, đó là quá trình tác động có tổ chức, có kế hoạch, có
quy trình chặt chẽ của các nhà sư phạm trong nhà trường nhằm mục đích cung cấp
kiến thức hành vi cho người học, xây dựng và phát triển nhân cách theo quy mô mà
xã hội đương thời mong muốn. Ở cấp độ nhỏ nhất, giáo dục được hiểu là quá trình
bồi dưỡng để hình thành những phẩm chất đạo đức cụ thể, thông qua việc tổ chức
cuộc sống, hoạt động và giao lưu.
Việc làm rõ nội hàm của các khái niệm “Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh”,
khái niệm “giáo dục” là cơ sở để để luận án đi đến nghiên cứu làm rõ nội hàm khái
niệm trung tâm của luận án – khái niệm “Giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
cho sinh viên các trường đại học ở Việt Nam”. Từ việc phân tích nội hàm của khái
niệm “giáo dục” theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp, từ mục đích nghiên cứu của luận án
ta thấy rằng, việc giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên các trường
đại học ở Việt Nạm hiện nay được hiểu theo nghĩa hẹp của khái niệm “giáo dục”. Đó
là quá trình tổ chức tác động có hệ thống, có mục đích, thường xuyên các luận điểm
về con người, tình yêu thương con người, đấu tranh cho hạnh phúc con người theo
28
tư tưởng Hồ Chí Minh với những phương pháp giáo dục phù hợp của các chủ thể
giáo dục trong nhà trường tới nhận thức của sinh viên nhằm trang bị cho sinh viên
những tri thức, kỹ năng và thái độ, hành vi thấm đượm tính nhân văn trong mối quan
hệ với con người, với công việc; từng bước hình thành nhân cách con người mới xã
hội chủ nghĩa cho sinh viên Việt Nam hiện nay.
Như vậy, trong quá trình giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh
viên, các chủ thể giáo dục, đặc biệt là các chủ thể giáo dục trong nhà trường giữ vai
trò quan trọng trong việc xác định mục tiêu, nội dung, phương pháp và những hình
thức giáo dục cho phù hợp với đối tượng giáo dục. Cũng trong quá trình giáo dục này,
sinh viên không chỉ là đối tượng giáo dục mà còn là chủ thể tự giáo dục khi bản thân
các em cũng thường xuyên tiến hành các hoạt động cá nhân, tự giác, tích cực, chủ
động tự giáo dục để từng bước hình thành phẩm chất nhân cách của mình.
Giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trong các trường đại
học là một quá trình, bao gồm các yếu tố cơ bản sau: Một là, mục đích của quá trình
giáo dục nhằm hình thành những con người mới cho xã hội có phẩm chất, có nhân
cách, có năng lực chuyên môn đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế. Hai là, nội dung giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh cho sinh viên: giáo dục tình yêu thương con người, lòng vị tha, nhân ái, khoan
dung độ lượng, lòng tin vào sức mạnh của con người; đấu tranh vì tự do, hạnh phúc,
phát triển của con người. Ba là, phương pháp giáo dục là cách thức để các chủ thể
giáo dục từng bước giúp sinh viên dần chuyển hóa những luận điểm của Hồ Chí Minh
về con người, tình yêu thương con người thành tình cảm, hành vi nhân văn trong cuộc
sống. Bốn là, các chủ thể của quá trình giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho
sinh viên giữ vai trò quan trọng trong việc tổ chức, điều khiển quá trình giáo dục một
cách có mục đích, khoa học, hợp lý. Các chủ thể tham gia vào quá trình giáo dục bao
gồm: các cán bộ, giảng viên trong nhà trường, sinh viên – chủ thể tự giáo dục. Năm
là, hiệu quả của quá trình giáo dục tư tưởng nhân văn cho sinh viên các trường đại
học được biểu hiện bằng sự thay đổi về mặt nhận thức và các hành vi nhân văn của
sinh viên trong trong mối quan hệ với con người, với công việc.
29
2.1.2. Cơ sở hình thành tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ sở kết hợp hài hòa
truyền thống nhân ái của dân tộc Việt Nam, quê hương, gia đình và nhân loại về lòng
nhân ái.
2.1.2.1. Truyền thống nhân ái của dân tộc Việt Nam
Lòng nhân ái là một truyền thống tốt đẹp, lâu đời đứng đầu trong bảng giá trị
tinh thần của người dân Việt Nam, là yếu tố tạo nên bản sắc riêng, độc đáo của dân
tộc Việt Nam. Do hoàn cảnh đặc biệt phải chống gặc ngoại xâm và thiên tai khắc
nghiệt trong suốt chiều dài lịch sử, nên từ rất sớm, người dân Việt Nam đã phải liên
kết với nhau trong công cuộc đấu tranh với thiên nhiên, giặc ngoại xâm để tồn tại và
phát triển. Trong hoàn cảnh đó, các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam sớm hình
thành tư tưởng nhân văn, nhân ái, mang sắc thái riêng của nền văn hóa độc đáo và lâu
đời, đa dạng mà thống nhất như văn hóa Việt Nam. Truyền thống nhân ái đó được
khái quát ở mấy khía cạnh sau:
Tinh thần yêu thương con người, yêu thương đồng loại là đặc điểm nổi bật
trong truyền thống nhân ái của nền văn hóa Việt Nam. Tinh thần này được biểu hiện
trong cuộc sống hàng ngày của người dân thông qua các câu ca dao, tục ngữ như:
“Thương người như thể thương thân”, “một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ”, “lá
lành đùm lá rách”…Tình yêu thương con người này được hình thành một cách tự
nhiên trong công cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước của người dân Việt Nam, nó
phản ánh mối quan hệ tự nhiên và bình đẳng giữa người với người, tức là tình thương
đồng loại. Tình cảm tốt đẹp đó ngày càng phát triển, trở thành một lối sống vị tha,
nhân ái của dân tộc, lối sống “nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước
phải thương nhau cùng”.
Trong lịch sử đấu tranh giữ nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã phải nhiều
lần đương đầu với kẻ thù lớn mạnh. Khi bị tước mọi quyền sống, bị đẩy vào cảnh
nghèo đói, lầm than, người dân Việt Nam đã đoàn kết đứng lên đấu tranh để giành lại
quyền sống, quyền độc lập và tự do cho đất nước mình, bởi họ hiểu rằng, vinh dự,
tiền đồ và hạnh phúc của mỗi con người gắn liền với sự sống còn, hùng cường của
dân tộc. Vì thế đối với người dân Việt Nam yêu nước phải gắn liền với thương người,
30
yêu thương con người, lại càng căm thù giặc ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập của tổ
quốc. Do đó, lòng thương người và căm thù giặc ngoại xâm, sẵn sàng hi sinh vì nền
độc lập, tự do của tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân trở thành nét nổi bật trong
truyền thống nhân ái Việt Nam.
Những giá trị đạo lý truyền thống như tình thương con người, thương yêu đồng
loại, tình nghĩa đồng bào do chính thực tiễn cuộc sống của cộng đồng người Việt
Nam đã hun đúc nên và thấm sâu vào trong tầm hồn, chi phối mọi suy nghĩ và hành
động của Hồ Chí Minh. Xuất phát từ lòng yêu nước, yêu thương con người, yêu
thương đồng loại đã giúp cho Hồ Chí Minh vượt qua mọi gian nguy, khó khăn thử
thách trên hành trình tìm đường cứu nước để “giúp đồng bào mình”, để đem lại cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho họ, Người nói “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu
nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế
thứ ba. Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin,
vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động
trên thế giới khỏi ách nô lệ” [90, tr. 563]. Đồng thời, truyền thống yêu nước, thương
người của dân tộc cũng là cơ sở để Hồ Chí Minh tiếp nhận học thuyết Mác – Lênin,
tạo nên sự hòa quyện giữa tư tưởng cách mạng của thời đại với tinh thần nhân ái của
dân tộc “Nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có nghĩa như thế... Hiểu chủ
nghĩa Mác-Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa” [93, tr. 668].
Yêu nước, thương người trong truyền thống văn hóa dân tộc đã được Hồ Chí
Minh tiếp thu, kế thừa và phát triển trong điều kiện mới. Chủ nghĩa yêu nước truyền
thống và tình yêu thương con người đã chuyển hóa từ lượng thành chất, tạo nên một
chủ nghĩa yêu nước mới kết hợp với chủ nghĩa quốc tế trong sáng trong thời đại Hồ
Chí Minh. Theo Hồ Chí Minh, “không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã mang ý nghĩa
quốc tế trong sáng và giá trị nhân văn sâu sắc. Nó không chỉ là nhu cầu riêng của dân
tộc Việt Nam, mà còn là chân lý của thời đại. Thời đại mà mọi người phải được tự do
suy nghĩ và hành động, tự do có cuộc sống riêng, ấm no và hạnh phúc. Do vậy, Người
đã hiến dâng chọn cả đời mình cho sự nghiệp đấu tranh vì độc lập tự do của dân tộc
và hạnh phúc của nhân dân.
31
Tinh thần khoan dung, yêu chuộng hòa bình một nét đặc trưng trong truyền
thống nhân ái Việt Nam. Với vị trí địa lý đặc biệt cùng với nguồn tài nguyên thiên
nhiên phong phú, Việt Nam luôn trở thành đối tượng xâm lược của các nước lớn.
Lịch sử của dân tộc Việt Nam là lịch sử dựng nước gắn liền với giữ nước, nên người
dân Việt Nam rất thấu hiểu nỗi đau của chiến tranh. Được sống trong hòa bình là khát
vọng cháy bỏng của mỗi người dân Việt Nam, cho nên, dân tộc Việt Nam luôn nêu
cao tinh thần hòa hiếu, không gây chiến tranh. Chỉ khi nào chủ quyền dân tộc bị chà
đạp, khi đó chúng ta mới phải tiến hành chiến tranh. Tinh thần hòa hiếu, yêu chuộng
hòa bình đã trở thành nền tảng cho đường lối đối ngoại “lấy chí nhân thay cường bạo”
của cha ông. Càng yêu chuộng hòa bình, người dân Việt Nam càng khoan dung rộng
lớn. Trong các cuộc chiến tranh chống kẻ thù xâm lược, mặc dù phải chịu bao đau
khổ do kẻ thù gây ra, nhưng khi giành thắng lợi chúng ta không vì thế mà tàn sát kẻ
thù, ngược lại, còn mở đường “hiếu sinh” cho chúng rút về nước an toàn và lấy đó
làm điều kiện để xây dựng mối quan hệ hữu hảo giữa hai bên. Trong lịch sử, các vua
nhà Trần từng đã đảm bảo cho quân Nguyên Mông rút về nước an toàn sau khi chúng
bại trận trên đất nước ta. Lê Lợi, Nguyễn Trãi còn chủ trương cung cấp lương thực,
phương tiện cho quân Minh về nước sau khi chúng bại trận. Tinh thần khoan dung,
hoà hiếu là một nét đặc sắc của truyền thống nhân văn Việt Nam. Tinh thần yêu
chuộng hòa bình, ghét chiến tranh của dân tộc ta thực chất bắt nguồn từ truyền thống
yêu thương con người, bởi chúng ta hiểu rằng, chiến tranh đi liền với chết chóc dù
thắng hay bại, bởi máu của ta hay máu của kẻ thù phải đổ xuống thì đó cũng là điều
không mong muốn với một dân tộc có truyền thống yêu thương con người như Việt
Nam. Như Hồ Chí Minh đã từng nói: “Than ôi, trước lòng bác ái! máu Pháp hay máu
Việt cũng đều là máu, người Pháp hay người Việt cũng đều là người” [82, tr. 510].
Các giá trị truyền thống dân tộc về lòng nhân ái đã được Hồ Chí Minh kế thừa
và phát triển và nâng lên một tầm cao mới trong công cuộc đấu tranh vì độc lập, tự
do và hạnh phúc của con người, là một tiền đề quan trọng trong việc hình thành tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
32
2.1.2.2. Giá trị tinh hoa văn hóa nhân loại về lòng nhân ái
Tinh hoa văn hóa phương Đông
Khi nói đến cơ sở hình thành tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, chúng ta không
thể không nói đến vai trò to lớn của các giá trị văn hóa phương Đông đã được Việt
hóa, trở thành văn hóa dân tộc, đặc biệt là tinh thần nhân văn trong học thuyết của
Nho giáo
Nho giáo là một học thuyết tư tưởng, được du nhập vào nước ta rất sớm. Từ
cuối thế kỷ XIII trở đi, Nho giáo đã từng bước phát triển và giữ vai trò nhất định trong
đời sống văn hóa, tinh thần của người dân Việt Nam, là học thuyết có ảnh hưởng quan
trọng đến việc hình thành tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh xuất thân
trong một gia đình nhà Nho yêu nước, cho nên Người tiếp thu Nho giáo từ rất sớm
qua thân phụ của mình cụ Nguyễn Sinh Sắc và các nhà nho yêu nước cùng thời. Hồ
Chí Minh tiếp thu Nho giáo là nhằm vào mục đích phục vụ cách mạng, cho nên Người
rất trân trọng những giá trị tích cực của Nho giáo, đặc biệt là Nho giáo nguyên thủy
(tức Khổng Mạnh), biết gạn lọc lấy những nhân tố phù hợp với thực tiễn Việt Nam,
Người từng nói: “Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy trong học thuyết của Khổng
Tử có nhiều điều không đúng song những điều hay trong đó thì chúng ta nên học.
“Chỉ có những người cách mạng chân chính mới thu hái được những điều hiểu biết
quý báu của các đời trước để lại”” [84, tr. 356]. Hồ Chí Minh nhấn mạnh mặt tích cực
về đạo đức mà con người cần phải rèn luyện theo Nho giáo. Hồ Chí Minh đặc biệt
coi trọng khái niệm “Nhân” của Nho giáo, Người chỉ rõ “Nhân” là cốt lõi của tất cả.
Nhân vừa có nghĩa là “ái nhân” tức là yêu thương con người, vừa có nghĩa là “thân
dân” tức yêu thương nhân dân. Hồ Chí Minh giải thích “NHÂN là thật thà thương
yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí và đồng bào” [83, tr. 291].
Tư tưởng nhân nghĩa của Khổng Tử được Mạnh Tử phát triển, đặc biệt là thấy
yếu tố dân rõ nét hơn. Mạnh Tử đưa ra thuyết chính nhân, chú trọng đến việc quan
tâm, thương yêu nhân dân để nhân dân no ấm, thì đất nước sẽ thịnh vượng. Do vậy,
theo Mạnh Tử, vua phải thi hành phép cai trị nhân – đức đối với nhân dân.
Khi du nhập vào Việt Nam không chỉ những mặt tiêu cực của Khổng giáo bị
hạn chế nhiều, bị “Việt hóa”, mà những mặt tích cực của nó về lòng nhân ái, về chủ
33
nghĩa nhân văn cũng được phát triển, nâng cao bởi sức mạnh của bản lĩnh dân tộc
Việt Nam, ngay cả khái niệm “nhân nghĩa”, khái niệm “dân”. Bằng lời nói và hành
động của Hồ Chí Minh, ta thấy Người đã nhận thức và chịu ảnh hưởng, kế thừa tinh
hoa văn hóa Khổng giáo đã Việt hóa. Người từng nói: “Chúng ta hãy tự hoàn thiện
mình, về mặt tinh thần bằng cách đọc các tác phẩm của Khổng Tử” [80, tr. 563], Hồ
Chí Minh thường trích dẫn, sử dụng nhiều nội dung tích cực và phê phán những mặt
hạn chế của Nho giáo. Có mệnh đề mà Người thường xuyên sử dụng như “lo trước
thiên hạ, hưởng sau thiên hạ”. Hồ Chí Minh nói: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là
phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân” [82, tr. 272]. Hồ Chí
Minh đã phát triển nội dung của “chính nhân” xưa kia là đặt chính trị trong một nền
tảng triết học nhân nghĩa. Vì vậy, ngay sau khi nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
ra đời, với tư cách là người đứng đầu Nhà nước, Hồ Chí Minh đã nêu bật phương
châm đó của “chính nhân” là làm sao để “đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành” [93, tr. 627]. Trước lúc đi xa, trong Di chúc để lại, Hồ Chí
Minh vẫn khẳng định với đời những điều hết sức giản dị rằng: “đánh thắng giặc Mỹ
rồi thì những việc chính của cách mạng là làm thế nào giải quyết ngày càng tốt hơn
những vấn đề: ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, phòng và chữa bệnh,... tóm lại là không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân” [93, tr. 670].
Cùng với tư tưởng Nhân nghĩa, trong học thuyết của mình Khổng Tử còn đề
cập đến tư tưởng về một thế giới Đại đồng với thuộc tính cơ bản của nó là Tứ hải giai
huynh đệ. Đây là tư tưởng mà Khổng Tử muốn hướng đến xây dựng một xã hội lý
tưởng, mọi người trong thiên hạ như một gia đình, mọi người coi nhau như anh em
một nhà, cùng hưởng thụ các quyền lợi cùng có trách nhiệm với nhau. Giá trị nhân
văn sâu sắc của tư tưởng này trong học thuyết Nho giáo là cơ sở nền tảng để Hồ Chí
Minh hình thành nên tư tưởng nhân văn mới khi Người chủ trương: “Tất cả dân cày,
người thợ trong thế giới bất kỳ nước nào, nòi nào đều liên hợp nhau lại như anh em
một nhà, để đập đổ tất cả tư bản trong thế giới, làm cho nước nào, dân nào cũng được
hạnh phúc, làm cho thiên hạ đại đồng - ấy là thế giới cách mệnh”. Tình yêu thương
con người ở Hồ Chí Minh là một tình cảm rộng lớn mà trước hết là dành cho những
34
người lao động bị áp bức, đau khổ trên toàn thế giới, bởi theo Người: “Quan sơn
muôn dặm một nhà, Bốn phương vô sản đều là anh em” [90, tr. 670].
Một trong những giá trị nhân văn của Nho giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến việc
hình thành tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh đó là thuyết “Kiêm ái” (thương yêu lẫn
nhau) của Mặc Tử. Trong học thuyết của mình, Mặc Tử luôn đấu tranh để đòi quyền
bình đẳng cho các giai tầng trong xã hội. Ông cho rằng, mọi người trong xã hội đều
có quyền lợi như nhau đối với việc thờ cúng quỷ thần, bình đẳng trước quyền lợi về
tín ngưỡng, tôn giáo. Xuất phát từ lập trường của người lao động, Mặc tử cho rằng
“ý trời” là muốn con người trong xã hội cùng thương yêu lẫn nhau, cùng làm lợi cho
nhau, cho nên Mặc Tử đã chủ trương “Kiêm ái” và mơ ước xây dựng một xã hội trong
đó mọi người không có sự phân biệt sang – hèn, trên – dưới (“Thương đồng”) và
“thương yêu nhau, làm lợi cho nhau”. Mặc dù có chứa đựng yếu tố duy tâm, nhưng
Thuyết “Kiêm ái” của Mặc Tử có những tư tưởng tiến bộ, chứa đựng những giá trị
nhân văn đã được Hồ Chí Minh tiếp thu và vận dụng trong sự nghiệp cách mạng và
xây dựng xã hội mới ở nước ta. Với Hồ Chí Minh, yêu thương con người, đấu tranh
để đem lại hạnh phúc cho con người được coi là mục đích sống mà suốt đời Người
theo đuổi, và cho đến khi sắp phải từ biệt cõi đời Người vẫn còn trăn trở “tiếc rằng
không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa” [93, tr. 615].
Có thể nói, Hồ Chí Minh đã tiếp thu và phát triển những giá trị tích cực của
Nho giáo nói chung và Khổng tử nói riêng, để giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân
dân ta phải sống có lòng khoan dung, có tính chân thành, có tình thương và lòng nhân
ái.
Phật giáo được truyền bá vào nước ta từ rất sớm. Bước vào thời kỳ đất nước
độc lập hoàn toàn (thế kỷ X), phật giáo có điều kiện thuận lợi phát triển và đã nhanh
chóng trở thành một tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của người
dân Việt Nam, bên cạnh đạo Nho, đạo Lão và đạo Thiên chúa. Trong hệ thống giáo
lý của phật giáo, thì nhân sinh quan Phật giáo với những quan niệm về con người, về
đời người; quan niệm sống và mục đích sống là những giá trị quan trọng có ảnh hưởng
đến sự hình thành tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
35
Trong nhân sinh quan phật giáo, con người không phải là do “đấng tối cao”,
“thượng đế” sáng tạo ra, mà con người được hình thành bởi hai yếu tố “Sắc” và
“Danh”, trong đó Danh chính là ý thức, tinh thần của con người, yếu tố này là những
dấu hiệu cơ bản để phân biệt giữa con người với các động vật khác. Theo Phật giáo,
bản chất của con người là một tích hợp của nhân duyên do tinh cha, huyết mẹ cộng
với dòng nghiệp thức. Nếu có đầy đủ các nhân duyên mà thiếu vắng dòng nghiệp thức
thì con người không thể hình thành như một sinh vật biết tư duy, có tri giác, biết sáng
tạo và có trái tim yêu thương… Nghiệp chính là tư duy và hành động của chính mỗi
con người. Con người trong trần thế đã tạo nghiệp (nhân) thì phải gánh chịu nghiệp
(quả) đó. Theo Phật giáo, mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới nằm trong dòng chảy
không ngừng nghỉ. Phật giáo phủ nhận linh hồn cá nhân (Atman) và thuyết linh hồn
vĩnh cửu của Unpanisad khi cho rằng không có một cái ngã thường hằng, ổn định,
mọi cái trên thế gian chỉ là phù du, ảo ảnh, nằm trong sự biến đổi khôn cùng của đời
sống. Trong khi đó, con người luôn khát khao một sự thường hằng, cố tìm mọi cách
thỏa mãn những dục vọng tầm thường. Đau khổ chính là từ mâu thuẫn của lòng khát
khao về cái vô hạn, trường cửu trong khi đời người lại hữu hạn. Thuyết nhân quả
trong nhân sinh quan của Phật giáo đã chỉ ra rằng, con người phải tự chịu trách nhiệm
về hạnh phúc hay đau khổ bằng hành vi của chính mình chứ không phải do may rủi,
định mệnh hay thần linh trừng phạt. Vì thế trong giáo lý phật giáo luôn khuyên con
người phải chăm lo làm việc thiện, tránh việc ác.
Nội dung chủ yếu và là cái cốt lõi trong nhân sinh quan của Phật giáo chứa
đựng giá trị nhân văn sâu sắc chính là tìm ra con đường giải thoát, đưa chúng sinh ra
khỏi vòng luân hồi bất tận đó. Để đi đến giải thoát, Phật nêu lên Tứ diệu đế - Bốn
chân lý kỳ diệu; Khổ đế: chân lý về nỗi khổ của chúng sinh; Tập đế (nhân đế): chân
lý về nguyên nhân nỗi khổ; Diệt đế: chân lý về sự diệt trừ nỗi khổ; Đạo đế: chân lý
về con đường diệt trừ nỗi khổ (Bát chính đạo).
Có thể nói, những giá trị tích cực thấm đượm tính nhân văn trong nhân sinh
quan của Phật giáo, khi du nhập vào Việt Nam đã được nhân dân ta tiếp thu những
giá trị tích cực như tư tưởng từ bi, bác ái, chăm lo làm điều thiện, tránh xa điều ác,
tránh làm những việc bất nhân phi nghĩa để xây dựng một cuộc sống tốt đẹp nơi trần thế
36
nhưng không phải theo nghĩa thụ động trông chờ vào đấng tối cao cứu vớt, mà phải
đoàn kết đấu tranh trực diện nhằm hưng lợi, trừ hại, lo lợi ích thiết thực cho dân, cho
nước. Vì lẽ đó, các khái niệm đại từ, đại bi, cứu khổ, cứu nạn của Phật giáo vào Việt
Nam đã được làm giàu thêm, sự thương người vốn có của người Việt Nam cũng được
phát triển hơn bởi tinh thần đấu tranh chống lại cái ác. Muốn có điều thiện không chỉ
tránh cái ác mà quan trọng là phải đấu tranh tiêu diệt cái ác và nguồn gốc sinh ra cái ác.
Tính nhân văn trong nhân sinh quan Phật giáo là đã chỉ ra lẽ sống làm người,
chỉ ra các con đường để cứu chúng sinh nhằm đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc
cho con người. Những giá trị nhân văn trong nhân sinh quan Phật này đã được Hồ
Chí Minh hết sức trân trọng, kế thừa và phát huy trong công cuộc đấu tranh giành độc
lập tự do cho dân tộc và hạnh phúc cho nhân dân. Người nói: “Đức Phật là đại từ đại
bi, cứu khổ cứu nạn, muốn cứu chúng sinh ra khỏi khổ nạn, Người phải hy sinh tranh
đấu, diệt lũ ác ma. Nay đồng bào ta đại đoàn kết, hy sinh của cải xương máu, kháng
chiến đến cùng, để đánh tan thực dân phản động, để cứu quốc dân ra khỏi khổ nạn,
để giữ quyền thống nhất và độc lập của Tổ quốc. Thế là chúng ta làm theo lòng đại
từ đại bi của Đức Phật Thích Ca” [83, tr. 228].
Triết lý “Lợi lạc quần sinh, vô ngã vị tha” trong Phật giáo với hàm nghĩa đem
lại lợi ích vui sướng cho con người, quên mình vì người khác đã được Hồ Chí Minh
kế thừa và vận dụng vào trong công cuộc xây dựng, giáo dục con người mới ở nước
ta. Hồ Chí Minh được coi là một người có cái tâm của nhà Phật, Người suốt đời “vô
ngã” (quên cá nhân mình để dấn thân vào việc chung). Con người không phải ai cũng
vô ngã, không phải ai cũng vị tha được, cái ngã phải rất mạnh mẽ mới vô ngã được.
Muốn vô ngã con người phải khẳng định cái cá tính mạnh mẽ của mình, cho nên Hồ
Chí Minh rất tôn trọng mọi khả năng, phát triển năng lực vốn có của con người với
tư cách là cái bản ngã. Người nói: " Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải
là “giày xéo lên lợi ích cá nhân”. Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng,
đời sống riêng của bản thân và của gia đình mình” [89, tr. 610].
Như vậy, những giá trị nhân văn, nhân ái của Nho giáo và Phật giáo đã kết hợp
hài hòa, hữu cơ với văn hóa dân tộc là một bộ phận quan trọng trong cơ sở hình thành
37
tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Những giá trị nhân văn này đã trở thành nền tảng
để Hồ Chí Minh tiếp thu tinh thần nhân văn trong văn hóa phương Tây sau này.
Tinh hoa văn hóa phương Tây
Trong hành trình ra đi tìm đường cứu nước của mình, Hồ Chí Minh đã chủ
động tiếp xúc, tìm hiểu và tiếp nhận có chọn lọc các giá trị tiến bộ của nền văn hóa
phương Tây. Các giá trị văn hóa phương Tây mà Hồ Chí Minh tiếp nhận, có vai trò
quan trọng trong sự hình thành tư tưởng nhân văn của Người, đó là những tư tưởng
nhân văn thời đại Phục hưng, thời đại Ánh sáng, tư tưởng nhân văn tư sản, nhân văn
thiên chúa giáo và các loại tư tưởng nhân văn tiến bộ khác trong nền văn hóa phương
Tây và thế giới.
Từ trong nền văn hóa phương Tây, Hồ Chí Minh đã cảm nhận sâu sắc vai trò
tiến bộ của văn hóa Phục Hưng ở I-ta-ly-a, ở Anh, ở Pháp. Các giá trị nhân văn trong
văn hóa Phục Hưng đó là khát vọng tự do và một tinh thần chiến đấu mạnh mẽ chống
chế độ nô dịch và sự áp bức bóc lột, chống lại hệ thống giáo lý kinh viện, giáo điều,
chủ nghĩa ngu dân, và hệ thống tòa án hà khắc áp chế xã hội và đè nén con người của
chế độ phong kiến để hướng đến giải phóng con người, đề cao sức mạnh của con
người trong thế giới, tư tưởng tạo ra một thế giới để con người được sống lạc quan,
yêu đời và có quyền hưởng mọi vui thú vật chất lẫn tinh thần. Vì vậy, ngay trong
quãng thời gian này, Người đã viết nhiều bài đăng trên tờ báo “Người cùng khổ”, và
đặc biệt viết cuốn “Bản án chế độ thực dân Pháp” để tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực
dân đối với người dân ở các nước thuộc địa, kêu gọi mọi người dân ở các nước thuộc
địa cùng nhau đoàn kết đấu tranh để đem lại cuộc sống hạnh phúc cho con người.
Các giá trị nhân văn trong tinh hoa văn hóa phương Tây còn được thể hiện
trong học thuyết về chủ nghĩa xã hội không tưởng ở châu Âu thế kỷ XVII-XVIII với
các đại biểu như: Xanh-xi-mông, Phu-ri-ê (Pháp), Ô-oen (Anh) với việc phê phán chủ
nghĩa tư bản, đưa ra tư tưởng về xây dựng mô hình xã hội ý tưởng mới, mà trong mô
hình xã hội đó không có quyền tư hữu tài sản, bình đẳng trong lao động và phân phối
sản phẩm, không có đặc quyền, đặc lợi, con người sống sung sướng, hạnh phúc.
Những trào lưu tư tưởng triết học về quyền con người ở châu Âu thời kỳ Phục
Hưng đã có những ảnh hưởng quan trọng đến sự ra đời của những văn bản pháp luật
38
khẳng định về quyền được sống, được hưởng hạnh phúc của con người trong các cuộc
cách mạng Tư sản thế kỷ XVIII. Những tư tưởng này cũng là một nội dung quan
trọng trong giá trị tinh hoa nhân loại về lòng nhân ái mà Hồ Chí Minh đã tiếp thu.
Người trân trọng các giá trị bất hủ về “Tự do – bình đẳng – bác ái” trong Đại cách
mạng Pháp năm 1789, nghiên cứu kỹ các giá trị trong Tuyên ngôn độc lập năm 1776
của nước Mỹ, Hồ Chí Minh rất coi trọng lý tưởng độc lập, tự do của các văn kiện bất
hủ đó. Việc trích dẫn tư tưởng này vào trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945 khai
sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa khi Người phát triển từ quyền của con người
thành quyền của các dân tộc chính là sự tiếp thu, phát triển các giá trị nhân văn trong
văn hóa phương Tây cho phù hợp với cuộc đấu tranh vì sự tự do, hạnh phúc của nhân
dân Việt Nam và rộng hơn nữa là của nhân loại.
Ra đi với một mong muốn cháy bỏng là tìm con đường cứu nước, cứu nhân
dân thoát khỏi cảnh nô lệ, lầm than, Hồ Chí Minh đã tiếp nhận các giá trị nhân văn
trong tinh hoa văn hóa nhân loại cùng với truyền thống yêu nước nồng nàn, Người đã
nêu lên một chân lý lớn của thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Trong
luận điểm này, các giá trị nhân văn, nhân ái trong văn hóa phương Tây đã được tích
hợp lại tạo nên những biến đổi về chất. Tự do, hạnh phúc của mỗi dân tộc cũng như
của mỗi con người phải được gắn liền với quyền độc lập, tự chủ quyết định vận mệnh
và con đường phát triển của mình không phụ thuộc vào sự áp đặt của của bất kỳ thế
lực nào. Độc lập, tự do, hạnh phúc là quyền thiêng liêng của dân tộc cũng như của
mỗi con người, nếu những quyền đó bị xâm phạm thì mỗi con người cũng như cả dân
tộc sẽ kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ các quyền đó. Tự do trong tư tưởng
này của Người đã “vượt lên khái niệm tự do của các nhà chủ nghĩa nhân đạo phương
Tây vẫn hiểu” [124, tr.12]. Với Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội chính là con đường để đem lại sự tự do triệt để cho dân tộc và con người.
Tóm lại, các giá trị nhân văn trong tinh hoa văn hóa phương Tây trong thời kỳ
phát triển chủ nghĩa tư bản và văn hóa tư sản là thời kỳ đặt nền móng cho việc ra đời
một chủ nghĩa nhân văn mới với ý nghĩa góp phần giải phóng con người, đưa con
người đứng ở vị trí cao nhất, làm chủ trong xã hội. Vì vậy, giá trị nhân văn này là một
nguồn gốc quan trọng trong việc hình thành tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
39
Chủ nghĩa nhân văn Mác – Lênin
Cũng chính trong thời gian tiếp xúc với văn hóa phương Tây, Hồ Chí Minh đã
đến với chủ nghĩa Mác – Lênin mà tư tưởng nhân văn mác-xít là sợi chỉ đỏ xuyên
suốt hệ tư tưởng đó, đây chính là cơ sở quan trọng, trực tiếp hình thành tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa Mác- Lênin cho rằng, bản chất của con người là tổng
hòa các quan hệ xã hội, nó chịu sự tác động và chi phối bởi các quan hệ xã hội. Hiện
thực đau khổ của con người không phải do số phận định sẵn mà chính là do giai cấp
áp bức, bóc lột. Do vậy, con người muốn được giải thoát khỏi áp bức bóc lột đó, muốn
được tự do, hạnh phúc, được trả lại đúng bản chất đích thực của mình thì không còn
con đường nào khác là phải đứng lên đấu tranh xóa bỏ áp bức giai cấp trong xã hội.
Những giá trị nhân văn của chủ nghĩa Mác – Lênin không chỉ dừng lại ở những quan
điểm đúng đắn về con người và bản chất con người, mà còn thể hiện ở chủ trương
hướng con người đến hành động cách mạng nhằm xây dựng một xã hội mới phát triển
hơn xã hội Tư bản chủ nghĩa – xã hội Cộng sản chủ nghĩa. Đồng thời, chủ nghĩa
Mác – Lênin còn cho rằng chủ nghĩa tư bản tất yếu sẽ được thay thế bằng xã hội chủ
nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa trong tương lai. Đó là những tư tưởng chứa đựng
những giá trị nhân văn sâu sắc của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo và phát triển các giá trị nhân văn
của chủ nghĩa Mác – Lênin để hình thành cho mình một chủ nghĩa nhân văn mang
đặc điểm và sắc thái mới – chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh. Với Hồ Chí Minh trong
mỗi con người luôn có sự thống nhất của hai mặt: mặt con người sinh học, tức là con
người có những nhu cầu chính đáng mà bất cứ người nào cũng cần; và mặt con người
xã hội gắn với mỗi xã hội nhất định. Vì vậy, trong quan niệm của Hồ Chí Minh,
Người luôn quan tâm đến những nhu cầu tối thiểu cần thiết như ăn, ở, đi lại, chữa
bệnh và học hành, Người nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là
làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào
ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” [82, tr. 187]. Nhưng bên cạnh đó
Người cũng thấy được những phẩm chất, tài năng của con người được hình thành
trong hoạt động thực tiễn và những điều kiện xã hội nhất định. Đây chính là cơ sở để
40
Hồ Chí Minh hoạch định những chính sách xã hội để phát huy quyền tự do chân chủ
cho nhân dân sau khi nước nhà giành độc lập.
Trên cơ sở kế thừa quan niệm đúng đắn và đầy tính nhân văn về bản chất con
người của chủ nghĩa Mác- Lênin, Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn và sáng tạo
mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc trong cách mạng Việt Nam. Theo
Hồ Chí Minh, một nước thuộc địa nửa phong kiến như Việt Nam với mâu thuẫn dân
tộc diễn ra gay gắt trong xã hội, thì chủ nghĩa dân tộc là một động lực to lớn của cách
mạng. Tuy nhiên, chủ nghĩa dân tộc mà Hồ Chí Minh đề cập đến ở đây không phải là
chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, chủ nghĩa dân tộc tư sản vị kỷ mà là chủ nghĩa dân tộc
chân chính mang nội dung mới, có sự kết hợp nhuần nhuyễn với chủ nghĩa Quốc tế
vô sản trong sáng. Vì vậy, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Người đã
chủ trương: “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản” [81, tr.1].
Cái đích cuối cùng mà chủ nghĩa nhân văn Mác- Lênin hướng đến đó là con
người được sống hạnh phúc trong một xã hội phát triển. Vì vậy, Hồ Chí Minh cho
rằng, con người không thể có tự do khi mà trong xã hội đang có áp bức dân tộc, do
đó, giải phóng dân tộc sẽ là điều kiện trước tiên để đem lại tự do cho con người,
nhưng khi con người được giải phóng mà vẫn phải sống trong đói rét, nghèo khó thì
nền độc lập đó cũng không có giá trị. Theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc phải gắn
liền với chủ nghĩa xã hội, vì chỉ có chủ nghĩa xã hội mới mang lại sự tự do, hạnh phúc
thật sự cho con người. Chủ nghĩa xã hội mà Hồ Chí Minh đề cập đến đó phải là mô
hình chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện Việt Nam. Vì vậy, giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp và giải phóng con người là tư tưởng sáng tạo thấm đượm tính
nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đó là những giá trị nhân văn sâu sắc của chủ nghĩa Mác – Lênin mà Hồ Chí
Minh đã kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo. Từ đây, truyền thống nhân ái Việt
Nam, các giá trị tinh hoa văn hóa nhân loại được lý luận Mác - Lênin soi sáng, phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc và con người Việt Nam được gắn bó chặt chẽ với
phong trào cách mạng vô sản thế giới. Đây chính là cơ sở quan trọng làm cho tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh được định hình, quyết định bản chất tư tưởng nhân văn của
41
Người thuộc hệ tư tưởng nhân văn cách mạng, tư tưởng nhân văn chiến đấu của giai cấp
vô sản.
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh – đỉnh cao của tư tưởng nhân văn Việt Nam
được hình thành từ những cơ sở vững chắc trong đó có truyền thống nhân ái của dân
tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại về lòng nhân ái và đặc biệt là chủ nghĩa nhân đạo cao cả
của chủ nghĩa Mác - Lênin là những cơ sở quan trọng hình thành tư tưởng nhân văn Hồ
Chí Minh. Người đã dành cả cuộc đời mình cho sự nghiệp đấu tranh vì nền độc lập, tự
do của các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Đối với Hồ Chí Minh, đấu tranh để giải
phóng con người là phải làm cho con người được sống trong độc lập, tự do, hạnh phúc
để phát triển hết khả năng của mỗi người. Hạnh phúc của con người được gắn liền với
đất nước độc lập, dân tộc được tư do, nhân dân có cuộc sống ấm no hạnh phúc.
2.1.2.3. Phẩm chất và nhân cách của Hồ Chí Minh
Chúng ta luôn thấy rằng, tư tưởng bao giờ cũng là tài sản của những cá nhân
cụ thể, do con người sáng tạo và khái quát hóa trên cơ sở nhận thức hiện thực khách
quan. Do vậy, tư tưởng luôn phụ thuộc vào con người sinh ra tư tưởng đó. Cho nên,
một trong những cơ sở quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với sự hình thành tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh đó chính là năng lực, trí tuệ và nghị lực của chính bản
thân con người Hồ Chí Minh, điều này được thể hiện ở những phẩm chất tiêu biểu
sau:
- Hồ Chí Minh là một con người sống có hoài bão, có lý tưởng yêu nước
thương nhân dân sâu sắc, đặc biệt là tình yêu thương vô hạn mà Người dành cho
những người lao động, nghèo khổ không chỉ trong nước mà trên toàn thế giới; là một
con người có bản lĩnh kiên định, có ý chí kiên cường trong đấu tranh để hướng đến
mục tiêu đem lại hạnh phúc cho nhân dân.
- Một con người có tư chất thông minh, sắc sảo, nhạy bén, ham học hỏi; có tư
duy độc lập sáng tạo; có trí tuệ uyên bác, vốn kiến thức sâu rộng.
- Hồ Chí Minh là một con người có lòng tin mãnh liệt ở nhân dân; có ý chí,
nghị lực phi thường.
- Một con người có những phẩm chất đạo đức cách mạng mẫu mực; tác phong
giản dị, khiêm tốn, gần gũi với nhân dân.
42
Với những phẩm chất cá nhân trên, đã làm cho Hồ Chí Minh có khả năng tiếp
nhận một cách nhanh nhạy những tri thức, kho tàng kinh nghiệm lịch sử, tinh hoa chủ
nghĩa nhân văn của các thời kỳ lịch sử cổ kim của nhân loại. Và cũng chính nhờ vào
khả năng này mà Hồ Chí Minh biết cách xử lý, chuyển hóa những tinh hoa của nhân
loại một cách nhuần nhuyễn để biến hóa thành những phẩm chất, tư tưởng, trí tuệ của
mình mà không rơi vào dập khuôn, sao chép. Nhờ vậy mà giữa vô vàn lý thuyết, học
thuyết khác nhau, những người yêu nước Việt Nam cùng thời với Hồ Chí Minh đã
không tìm ra được quy luật vận động của xã hội, mà chỉ có Hồ Chí Minh mới phát
hiện ra được quy luật, chân lý để từ đó đề ra được mục tiêu, lý tưởng cách mạng đúng
đắn và con đường để thực hiện mục tiêu, lý tưởng đó. Nhờ những phẩm chất đó, trong
con người Hồ Chí Minh không chỉ hội tụ được tất cả tinh hoa văn hóa dân tộc và văn
hóa nhân loại mà còn toát lên khả năng biết vận dụng sáng tạo những tinh hoa văn
hóa nhân loại phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam. Bởi vậy, tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh là tư tưởng nhân văn mới của chủ nghĩa nhân văn Việt Nam
và thời đại.
Qua việc tìm hiểu cơ sở hình thành tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh ta thấy
rằng, với những phẩm chất cá nhân đặc biệt của mình, Hồ Chí Minh đã biết kế thừa
những giá trị tốt đẹp nhất của truyền thống nhân ái dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân
loại về lòng nhân ái, đặc biệt là chủ nghĩa nhân văn Cộng sản để hình thành ở mình
một chủ nghĩa nhân văn mới- chủ nghĩa nhân văn cách mạng.
2.1.3. Những nội dung cơ bản của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh có nội hàm rất rộng, phạm vi bao quát trên
nhiều mặt, trong đó tình yêu thương vô hạn dành cho con người, tin tưởng ở khả năng
và sức mạnh ở con người là tiền đề xuất phát của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
2.1.3.1. Quan niệm Hồ Chí Minh bản chất của con người
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, vấn đề con người và bản chất con người luôn
được các học thuyết triết học đặt ra và giải quyết theo những cách khác nhau. Tuy
nhiên, chỉ đến khi học thuyết Mác ra đời thì vấn đề con người và bản chất con người
mới được xem xét và giải quyết một cách khoa học, thấu đáo. Theo C. Mác, con người
là một thực thể thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội, nhưng yếu tố xã hội
43
mới là bản chất đích thực của con người. C. Mác không hề phủ nhận mặt tự nhiên,
mặt sinh học của con người với tư cách là những cá nhân sống. Theo C. Mác, tự nhiên
là cái có trước và con người chính là sản phẩm của quá trình tiến hóa tự nhiên, nhưng
bản thân con người lại không thụ động phụ thuộc vào tự nhiên mà thông qua lao động,
con người đã tạo ra những tư liệu sinh hoạt để phục vụ cho chính nhu cầu sống của
mình. Lao động là cơ sở tạo nên các mối quan hệ xã hội giữa người với người, và
cũng chính các mối quan hệ xã hội này đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành
nên bản chất của con người. Do vậy, trong “Luận cương về Phơbách” C.Mác viết:
“Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa tất cả các quan hệ xã
hội” [78, tr. 11]. Với quan niệm như trên C. Mác đã “cung cấp chìa khóa để phát hiện
“bí mật” của bản thân con người mà lịch sử triết học nhân loại thường tranh luận và
chia ra thành nhiều phe phái” [10, tr. 50]. Theo Mác, không có con người trừu tượng
mà chỉ có những con người cụ thể sống, hoạt động trong một xã hội nhất định, một
thời đại nhất định, trong những điều kiện lịch sử nhất định, nghĩa là những con người
cùng với xã hội mình khai thác thiên nhiên, sinh hoạt xã hội, phát triển ý thức. Việc
chỉ ra bản chất của con người được hình thành từ các quan hệ xã hội là một bước tiến
lớn của học thuyết Mác - Lênin trong nhận thức về con người, có ý nghĩa khai phá
khoa học và tính cách mạng sâu sắc, tự vạch đường đi cho nhân loại. Do vậy, muốn
thay đổi bản chất của con người thì phải thay đổi các quan hệ xã hội, muốn xây dựng
con người mới phải chú ý xây dựng các quan hệ xã hội mới. Đồng thời cần phải biết
thu hút con người tham gia vào các hoạt động thực tiễn để từng bước hình thành bản
chất xã hội cho chính con người.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển lý luận Mác - Lênin về con người, Hồ Chí
Minh đã có cách tiếp cận và những quan niệm riêng, hết sức độc đáo về con người.
Hồ Chí Minh không có một tác phẩm cụ thể nào bàn riêng về con người, nhưng tư
tưởng về con người là một nội dung xuyên suốt, thâm nhập và biểu hiện đa dạng trong
toàn bộ hệ thống tư tưởng của Người, nó là mục tiêu thiêng liêng, cao cả mà Hồ Chí
Minh theo đuổi suốt cuộc đời. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, không có con
người chung chung, trừu tượng theo như quan niệm của các học thuyết tôn giáo, mà
44
chỉ có những con người cụ thể gắn liền với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Lúc
đầu trong hành trình ra đi tìm đường cứu nước, khi bàn đến con người Hồ Chí Minh
chỉ nói đến con Lạc cháu Hồng, con Rồng cháu Tiên. Nhưng từ những năm 1920 của
thế kỷ XX, nhờ trực tiếp chứng kiến cuộc sống khổ cực của nhân dân các nước thuộc
địa dưới ách đô hộ của chủ nghĩa đế quốc, Hồ Chí Minh thường dùng các khái niệm
“người bản xứ”, “người bản xứ bị áp bức”, “người mất nước”, “người lao động bản
xứ”, “người da vàng”, “người da đen”, “người vô sản”, “người vô sản ở thuộc địa”,
“người vô sản ở chính quốc”, “người cùng khổ”... và đối lập với những người này là
những tên “thực dân”, “thực dân độc ác”, “viên chức tàn bạo”, “đức ngài tư bản chủ
nghĩa”... Như vậy, trong quan niệm của Hồ Chí Minh về con người đã có sự phân biệt
rạch ròi giữa một bên là những người lao động bị bóc lột, áp bức nặng nề với một bên
là bọn đế quốc, thực dân tàn bạo. Từ đó Hồ Chí Minh đã đi đến khẳng định: “Dù màu
da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống
người bị bóc lột” [79, tr. 287].
Sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, khi cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp của nhân dân ta bước vào giai đoạn mới, khi bàn về đạo đức cách mạng, Hồ Chí
Minh chia con người ra thành những hạng người đối lập nhau, đó là “người THIỆN và
người ÁC” [84, tr. 129], theo Hồ Chí Minh ngoài bọn Việt gian bán nước, bọn phát xít
thực dân là những người ác mà ta phải kiên quyết đánh đổ, còn đối với tất cả những
người khác (người THIỆN) thì ta phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ. Đồng thời cũng
trong giai đoạn này khi nói về con người, Hồ Chí Minh còn dùng khái niệm “công dân”,
“quốc dân”. Với việc chia con người ra thành từng hạng khác nhau, Hồ Chí Minh chủ
trương thực hành chữ “Bác – Ái”, thực hiện “đại đoàn kết”. Hồ Chí Minh cho rằng, tất
cả những ai bị áp bức, bóc lột, tất cả những ai theo điều “THIỆN” thì chúng ta đều yêu
thương, coi nhau như anh em một nhà và đoàn kết họ lại.
Để làm rõ hơn mối quan hệ “mình đối với người”, Hồ Chí Minh đã nêu ra định
nghĩa: “Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là
đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người” [84, tr. 130]. Chữ “người” theo Hồ Chí
Minh bao gồm tuyệt đại bộ phận dân tộc mà thành phần chủ yếu là nhân dân lao động.
Nó gần với hai chữ “đồng bào” khi Người nói “Đầu tiên là công việc đối với con
45
người” [93, tr. 616], thì Hồ Chí Minh đã gửi gắm tất cả tình cảm của mình đối với
nhân dân, với đồng chí, đồng bào. Với cách tiếp cận về con người như vậy, trong
quan niệm của Hồ Chí Minh, bản chất của con người là sự thống nhất giữa hai mặt:
mặt sinh học và mặt xã hội, trong đó mặt xã hội quyết định bản chất của con người.
Với quan niệm bản chất của con người mang tính xã hội, chịu sự chi phối và
tác động của các quan hệ xã hội, theo Hồ Chí Minh, con người tốt hay xấu, ác hay
lương thiện, không phải do bản tính cố hữu mà chính là do các quan hệ xã hội, môi
trường sống của con người tạo nên. Do vậy, Hồ Chí Minh luôn có cái nhìn nhân văn,
rộng lượng đối với con người khi cho rằng, “Người đời không phải là thánh thần,
không ai tránh khỏi khuyết điểm”. Và “Mỗi con người đều có thiện và ác trong lòng”.
Từ những luận điểm thấm nhuần tính nhân văn đó, Hồ Chí Minh chủ trương giáo dục
con người nhằm phát triển cái tốt, cái thiện để khắc phục, đẩy lùi cái xấu, cái ác trong
bản thân mỗi con người, kể cả những người đã nhất thời lầm đường lạc lối cũng vẫn
phải thức tỉnh họ để hướng họ trở lại với cuộc sống lương thiện. Đó là niềm tin sâu sắc
của Hồ Chí Minh vào khả năng hướng thiện của con người.
Bên cạnh đó, khi nói đến bản chất con người, Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh
đến việc cần phải đáp ứng các nhu cầu, lợi ích tối thiểu của cuộc sống như: ăn, mặc,
ở, đi lại, học hành, chữa bệnh... và những nhu cầu ngày càng tăng về văn hóa, tinh
thần của con người. Việc đáp ứng những nhu cầu này cho con người phụ thuộc vào
bản chất của các quan hệ xã hội trong xã hội mà con người đang sống. Từ đó, Hồ Chí
Minh đã chủ trương phải xây dựng một xã hội mới ở nước ta – xã hội xã hội chủ nghĩa,
sau khi nước nhà giành độc lập, bởi theo Người: chỉ có chế độ xã hội chủ nghĩa mới có
khả năng thỏa mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng tăng của con người. Đó
chính là tính nhân văn sâu sắc mà Người rút ra được khi tìm hiểu về bản chất thật sự
con người. Đây là cơ sở để Hồ Chí Minh dành tình yêu thương vô hạn cho con người.
2.1.3.2. Tình yêu thương con người
Kế thừa những nét đẹp nhân ái trong văn hóa truyền thống Việt Nam, tiếp thu
chọn lọc các giá trị tinh hoa nhân loại về lòng nhân ái và đặc biệt là quan điểm của
chủ nghĩa Mác – Lênin về con người, Hồ Chí Minh đã có những quan niệm riêng, hết
sức độc đáo về con người. Trong tư tưởng của Người, không có con người chung
46
chung, trừu tượng, đó phải là những con người cụ thể, lịch sử. Được sống, tự do, hạnh
phúc là những quyền tự nhiên của mỗi con người khi sinh ra đã có và chính những
quan hệ xã hội bóc lột đã làm cho bản chất con người bị tha hóa, bị khổ đau. Từ cách
tiếp cận khoa học về con người như vậy, Hồ Chí Minh đã dành tình yêu vô hạn đối
với con người. Do đó, đối với Hồ Chí Minh không gì vẻ vang và sung sướng hơn khi
đem cả cuộc đời mình phục vụ cho tự do và hạnh phúc của những con người ấy. Tình
yêu thương này của Hồ Chí Minh được biểu hiện trên các nội dung sau:
Một là, tình yêu thương dành cho những người cùng khổ nhất trong xã hội, đó
là những người công nhân, nông dân, những người thuộc địa bị bóc lột đến tận xương
tủy. Những tình cảm này được hình thành từ rất sớm và ngày càng được củng cố,
nâng cao trong con người Hồ Chí Minh. Sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất nhà
tan, Hồ Chí Minh sớm phải chứng kiến cảnh người dân Việt Nam, trước hết là những
người lao động sống cảnh lầm than, bị áp bức, bóc lột nặng nề dưới chế độ thực dân
phong kiến. Người hiểu sâu sắc sự thống trị tàn bạo của chủ nghĩa thực dân đối với
đồng bào mình, với dân tộc mình, giải phóng những con người đó, đem lại cuộc sống
ấm no, hạnh phúc cho họ là khát vọng cháy bỏng trong tâm thức Hồ Chí Minh, và
chính điều này đã trở thành động lực mạnh mẽ thôi thúc Hồ Chí Minh ra đi tìm con
đường cứu nước để “về giúp đồng bào” [126, tr. 13]. Tình yêu thương con người
trong Hồ Chí Minh ngày càng mãnh liệt và sâu sắc trên mỗi bước đường trong hành
trình tìm đường cứu nước của Người. Trên “Hành trình vạn dặm” đó, Người đã được
chứng kiến những cảnh thương tâm của quần chúng bị áp bức bóc lột. Người đã chứng
kiến cảnh đau đớn của những người da đen quằn quại, rên la dưới sự đánh đập và giết
hại của những người da trắng. Những hình ảnh đau khổ đó của người dân lao động
đã in sâu trong tâm trí Hồ Chí Minh, thường xuyên day dứt tâm can của Người. Người
coi những nỗi đau khổ của người dân các nước thuộc địa đó cũng chính là nỗi đau
của mình. Cũng xuất phát từ tình yêu thương này đã giúp cho Hồ Chí Minh lựa chọn
được hướng đi đúng đắn, khoa học cho cách mạng Việt Nam. Vào những năm 20 của
thế kỷ trước, khi mà những cuộc cách mạng tư sản đang gây tiếng vang lớn, là định
hướng phát triển cho nhiều quốc gia dân tộc thì Hồ Chí Minh lại đi đến khẳng định
một cách dứt khoát, đây là những “cuộc cách mạng không triệt để” [80, tr. 292], và
47
cách mạng Việt Nam không thể đi theo con đường của các cuộc cách mạng này, vì
theo Người, những cuộc cách mạng đó chỉ giải phóng được một bộ phận người dân
ở trong xã hội- giai cấp tư sản, còn đại bộ phận người dân – những người lao động
thì vẫn chưa được giải phóng. Khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, xác định con đường
đi lên cho cách mạng Việt Nam, đó là con đường cách mạng vô sản, Người đã thấy
được giá trị nhân đạo lớn lao mà con đường này sẽ mang lại cho nhân dân Việt Nam,
đó là giải phóng triệt để những người lao động, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc
cho họ.
Hai là, yêu thương con người ở Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở tình cảm,
mà được thể hiện bằng những hành động cụ thể. Hồ Chí Minh mạnh mẽ tố cáo tội ác
của chủ nghĩa đế quốc, vạch rõ âm mưu, thủ đoạn dã man của chúng đối với giai cấp
công nhân, nhân dân lao động ở các nước chính quốc và thuộc địa. Người tố cáo tội
ác của thực dân Pháp ở Việt Nam với chính sách sưu cao, thuế nặng, chính sách ngu
dân, luật lệ hà khắc, “mở nhà tù nhiều hơn trường học”... Từ tình yêu thương con
người vô hạn đó, Hồ Chí Minh đã dành cả cuộc đời mình cho sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc, giải phóng thuộc địa ở Việt Nam và trên thế giới, để thực hiện
điều mong ước duy nhất và ham muốn tột bậc của mình là tự do cho đồng bào, độc
lập cho tổ quốc, mọi người ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.
Khi đã trở thành người đứng đầu Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, tình
yêu thương con người ở Hồ Chí Minh càng có điều kiện phát triển, trở thành tình cảm
rộng lớn, bao la. Yêu thương con người ở Hồ Chí Minh chính là sự kính trọng nhân
dân, chăm lo cuộc sống cho nhân dân, thấy được sức mạnh vô địch của nhân dân.
Chính vì vậy, Người yêu cầu các cán bộ, đảng viên từ Chủ tịch nước đến những người
công chức bình thường đều phải coi mình “là người đầy tớ trung thành của nhân
dân”, là người phục vụ nhân dân, chứ không được coi mình là những ông quan cách
mạng. Ở một cương vị cao nhất của xã hội, nhưng Hồ Chí Minh vẫn nói: “Tôi tuyệt
nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh vác chức chủ
tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng
mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận” [82, tr. 187].
48
Yêu thương con người gắn liền với với sự kính trọng nhân dân, nên Hồ Chí
Minh luôn căn dặn cán bộ, đảng viên phải có thái độ kiên quyết với kẻ thù, nhưng đối
với quần chúng nhân dân thì cúi đầu làm trâu ngựa. Người rất ưa thích khí phách anh
hùng và thái độ tôn trọng con người trong hai câu thơ của Lỗ Tấn:
Hoành mi lãnh đối thiên phu chỉ,
Phủ thủ cam vi nhũ tử ngưu.
(Nghĩa là: Giương lông mi lạnh lùng nhìn vào ngón tay của ngàn người.
Cúi đầu cam làm trâu cho trẻ con) [84, tr. 302].
Trong cuộc kháng chiến trường kỳ của nhân dân ta chống lại bọn thực dân
Pháp, cũng như trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh
giải phóng miền Nam, Hồ Chí Minh luôn đối xử với nhân dân bằng một tấm lòng
nhân ái bao la, tận trung, tận hiếu, nên quần chúng nhân dân cũng luôn kính trọng, tin
yêu Người, dành cho Người những tình cảm thiêng liêng và sâu sắc nhất. Đúng như
đồng chí Phạm Văn Đồng đã nói: “Tình cảm của Hồ Chủ tịch đối với dân tộc và tình
cảm của dân tộc ta đối với Hồ Chủ tịch là điển hình mẫu mực của mối quan hệ giữa
lãnh tụ và quần chúng” [43, tr. 94].
Ba là, tình yêu thương con người được Hồ Chí Minh nêu lên và vận động mọi
người cùng thực hiện. Hiểu được tinh thần tương thân, tương ái là nét đẹp trong truyền
thống nhân văn của con người Việt Nam, vì vậy, sau cách mạng Tháng Tám năm
1945, Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước cùng nhau quyên góp, ủng
hộ cứu giúp những người đói khổ trong xã hội, do hậu quả của chính sách cai trị của
phát xít Nhật – Pháp ngây ra trước đó. Người viết: “Lúc chúng ta nâng bát cơm mà
ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng. Vậy tôi xin đề nghị với đồng
bào cả nước, và tôi xin thực hành trước: Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn
3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo” [82, tr. 33]. Tinh thần này
tiếp tục được Người nêu lên để mọi người cùng thực hiện trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng Việt Nam. Cho tới trước lúc đi xa, trong Di chúc, khi để lại: “muôn
vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh
niên và nhi đồng” và “gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các cháu
thanh niên, nhi đồng quốc tế” [93, tr. 624], Người vẫn ân cần nhắc nhở toàn Đảng
49
phải tiếp tục chăm lo cho con người. Trước hết là những người đã hy sinh một phần
xương máu cho kháng chiến, là cha mẹ, vợ con thương binh, liệt sĩ, là bà con nông
dân, là thanh niên, phụ nữ... lo cho họ hiện tại, lo đào tạo cho tương lai.
Yêu thương con người, đấu tranh vì hạnh phúc con người đã trở thành nội
dung xuyên suốt trong các tác phẩm, lời nói, bài viết cũng như những hoạt động vô
cùng phong phú của Hồ Chí Minh. Đó là điểm xuất phát trên con đường vạn dặm đầy
gian khổ, hy sinh nhưng trong sáng và cao đẹp của Người, là chất keo kết dính làm
nên tính hấp dẫn, trường tồn và sức sống bất diệt của tư tưởng Hồ Chí Minh trong
lịch sử phát triển của dân tộc và nhân loại. Càng yêu thương con người, thì lòng khoan
dung của Hồ Chí Minh đối với con người càng rộng lớn.
2.1.3.3. Tinh thần khoan dung
Tư tưởng khoan dung Hồ Chí Minh chính là sự kế thừa truyền thống khoan
dung tốt đẹp của dân tộc kết hợp với tinh hoa của thời đại. Từ chủ nghĩa yêu nước
đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã tiếp thu tinh hoa văn hóa Đông –
Tây – Kim – Cổ, kết hợp các giá trị đó với chủ nghĩa nhân văn cộng sản của chủ nghĩa
Mác - Lênin – hệ tư tưởng tiến bộ của thời đại, để tạo nên bước ngoặt về chất trong
quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng khoan dung Hồ Chí
Minh nói riêng. Sự kế thừa và kết hợp này đã làm thắm đượm thêm truyền thống
khoan dung của con người Việt Nam và nâng truyền thống đó lên một tầm cao mới.
Khoan dung Hồ Chí Minh là một nét đặc sắc trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh,
đồng thời còn là một vũ khí tinh thần quan trọng trong công cuộc đấu tranh vì mục
tiêu cao đẹp của sự nghiệp cách mạng, tinh thần này được thể hiện trên các nội dung sau:
Tinh thần khoan dung rộng lớn trước những khác biệt trong mỗi con người.
Với tư duy biện chứng, Hồ Chí Minh nhìn nhận con người trong tính đa dạng của nó:
đa dạng trong các quan hệ xã hội (quan hệ dân tộc, giai cấp, tầng lớp, đồng chí, đồng
bào, gia đình, nhà trường...), đa dạng trong tính cách khát vọng, đa dạng trong phẩm
chất và khả năng... Trên cơ sở cách tiếp cận như vậy, Hồ Chí Minh nhận thấy, trong
mỗi con người cũng như trong mỗi cộng đồng người, đều có mặt tốt, mặt xấu, mặt ưu
điểm, mặt khuyết điểm, mặt được, mặt chưa được... hết sức đa dạng và phong phú.
Hồ Chí Minh nhìn nhận sự đa dạng đó là điều hết sức bình thường, bởi theo Người,
50
trong mấy mươi triệu con người Việt Nam cũng có người thế này, thế khác như “Năm
ngón tay cũng có ngón ngắn ngón dài” [82, tr. 280].
Với một tấm lòng nhân ái, bao dung rộng lớn trước những khác biệt đó, Người
cho rằng, tuy dài ngắn khác nhau nhưng cả năm ngón tay đều hợp nhau lại nơi bàn
tay, tuy có người thế này, thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều thuộc “dòng dõi
của tổ tiên ta”, đều cùng nòi giống Lạc Hồng, ai cũng có ít nhiều lòng yêu nước.
Người đã thấy điểm tương đồng trong sự khác biệt giữa con người với nhau trong xã
hội đó chính là lòng yêu nước, điều này đã giúp Hồ Chí Minh có thái độ khoan dung
với con người. Tinh thần yêu nước chính là mẫu số chung để Hồ Chí Minh chủ trương
tập hợp mọi người dân nước Việt, không phân chia đẳng cấp, tôn giáo, dân tộc thành
một khối thống nhất đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, giành lại độc lập dân tộc,
mang lại hạnh phúc cho nhân dân. Do vậy, trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng, Người đã chủ trương: “phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông,
Thanh niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp” [81, tr. 3].
Khoan dung với những người lầm đường lạc lối. Sau cách mạng Tháng Tám
năm 1945, để đưa đất nước vượt qua mối lâm nguy của “thù trong, giặc ngoài”, Hồ
Chí Minh đã tha thiết kêu gọi đồng bào cả nước cùng chung tay xây dựng và bảo vệ
đất nước, giữ vững và củng cố thành quả cách mạng. Xuất phát từ lòng yêu thương
vô hạn đối với con người, Hồ Chí Minh rất khoan dung, độ lượng với con người dù
người đó là ai. Hồ Chí Minh nhắc nhở mọi người cần phải vượt qua được những thành
kiến hẹp hòi để đoàn kết, và phải có tấm lòng độ lượng rộng lớn, vì theo Hồ Chí
Minh: “Sông to, biển rộng, thì bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng nó rộng
và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn, thì một chút nước cũng đầy tràn, vì độ lượng nó
hẹp nhỏ” [84, tr. 130]. Với tấm lòng khoan dung, độ lượng rộng lớn, Người đã tập
hợp và cảm hóa được quanh mình những nhân sĩ trí thức, những quan lại cao cấp của
chế độ cũ như Phan Kế Toại, Bùi Đằng Đoàn, Trần Văn Lai... một lòng một dạ không
ngại gian khổ đi theo cách mạng đến cùng. Đây không chỉ là chiến lược đoàn kết
thêm bạn bớt thù để quy tụ đông đảo các chính khách, các tầng lớp xã hội phụng sự
cho nền độc lập của nước nhà, mà còn là một biểu hiện cao đẹp của chủ nghĩa nhân
51
văn Hồ Chí Minh. Đối với những người đối lập, những người lầm đường lạc lối, Hồ
Chí Minh kiên trì giáo dục, cảm hóa họ trở về với lẽ phải, với chính nghĩa.
Khoan dung với kẻ thù, sẵn sàng đối thoại để tìm giải pháp hòa bình. Đối với
quân đội của Tưởng Giới Thạch, mặc dù biết rõ âm mưu chống phá của chúng, nhưng
Hồ Chí Minh vẫn chủ trương thực hiện khẩu hiệu “Hoa – Việt thân thiện”. Người kêu
gọi nhân dân hãy sẵn sàng hợp tác, giúp đỡ quân đồng minh làm nhiệm vụ giải giáp
quân đội Nhật, đồng thời Người còn viết nhiều bài báo biểu dương tinh thần Hoa – Việt
thân thiện, đánh giá cao sự có mặt của quân đội Tưởng Giới Thạch ở miền Bắc đã góp
phần chặn bước tiến của quân Pháp ở miền Nam, Người viết: “Nhờ có anh em Trung
Hoa, mà miền Bắc nước ta tránh được họa binh đao, đồng bào ta được làm ăn yên ổn,
do đó mà có thể giúp đỡ đồng bào miền Nam. Tinh thần thân thiện đó, chúng ta phải
biết và phải nhớ luôn luôn” [82, tr. 197]. Thái độ mềm mỏng đối với quân đội Tưởng
Giới Thạch trong giai đoạn này là một chủ trương đúng đắn và khôn khéo của Hồ Chí
Minh đã góp phần giữ vững và củng cố nền độc lập non trẻ mà ta vừa giành được.
Khi thực dân Pháp quay trở lại miền Bắc với dã tâm xâm lược trở lại nước ta,
lòng khoan dung của Hồ Chí Minh được thể hiện bằng việc Người sẵn sàng, chấp nhận
đối thoại với kẻ thù xâm lược trên cơ sở sự tôn trọng độc lập chủ quyền, tôn trọng sự
khác biệt trong các giá trị văn hóa để cùng đi đến một giải pháp có thể “chấp nhận được”
cho cả hai bên. Ngay cả khi vào những thời điểm khó khăn nhất, Người vẫn thiết tha
khuyên nhủ, thuyết phục đối phương để vãn hồi hòa bình. Và chỉ không còn con đường
nào khác, khi nào kẻ thù dùng hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu thì khi đó
Người mới kiên quyết định dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách
mạng để giành lại quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân.
Khi kẻ thù buộc chúng ta phải cầm súng để bảo vệ những quyền thiêng liêng,
cơ bản của dân tộc, với tấm lòng bao dung rộng lớn của mình, Hồ Chí Minh luôn
nhắc nhở các chiến sĩ và nhân dân ta là phải có sự phân biệt rõ ràng giữa bọn thực
dân Pháp phản động với nhân dân Pháp – những người yêu chuộng tự do, công lý.
Người viết:
Mong quốc dân Pháp hiểu rằng chúng tôi không thù hằn gì dân tộc Pháp.
Chúng tôi bắt buộc phải chiến đấu, chống bọn thực dân phản động đang
52
mưu mô xẻ cắt Tổ quốc chúng tôi, đưa chúng tôi vào vòng nô lệ và gieo
rắc sự chia rẽ giữa hai dân tộc Pháp và Việt. Nhưng chúng tôi không chiến
đấu chống nước Pháp mới và quốc dân Pháp, chúng tôi lại còn muốn hợp
tác thân ái [83, tr. 3].
Ngay trong hàng ngũ của kẻ thù, Hồ Chí Minh thấy được vẫn có nhiều người
Pháp còn lương tri bên cạnh bọn thực dân phản động. Đây là cơ sở để Người đề ra
chính sách cô lập, phân hóa kẻ thù và tập trung chĩa mũi nhọn về chúng. Do đó, Người
đã làm hết mình để tránh không gây ra mối hận thù với dân tộc Pháp, một dân tộc mà
Người hết sức ngưỡng mộ và yêu mến.
Mục tiêu của chiến tranh là đánh bại ý chí xâm lược của kẻ thù, chứ không
phải là tiêu diệt toàn bộ sinh lực địch. Với bản chất xâm lược, thực dân Pháp ảo tưởng
với sức mạnh của mình có thể đè bẹp sức chiến đấu của nhân dân ta nên chúng đã cự
tuyệt mọi cuộc gặp gỡ, thiện chí hòa bình nên đã buộc chúng ta phải nổ súng. Đối với
Hồ Chí Minh, dụng binh là việc nhân nghĩa, nên Người đã tìm mọi cách để hạn chế
thấp nhất mọi thương vong trên chiến trường cho cả ta và phía địch, với tấm lòng
nhân ái Người hiểu rằng “máu Pháp hay máu Việt cũng đều là máu, người Pháp hay
người Việt cũng đều là người” [82, tr. 510].
Trong chiến tranh, việc tiêu diệt sinh lực địch, làm suy yếu lực lượng địch là
một nhiệm vụ quan trọng để nhằm kết thúc chiến tranh. Xuất phát từ thực tiễn của
cuộc chiến, từ tấm lòng bao dung, Hồ Chí Minh luôn xác định mục tiêu của chúng ta
là đánh bại ý chí xâm lược của chúng, đánh cho chúng thấy không thể thắng nổi nhân
dân ta và buộc phải “cút” khỏi đất nước ta chứ không phải là tiêu diệt chúng hoàn
toàn trên chiến trường. Theo tư tưởng nghệ thuật quân sự của cha ông ta, Hồ Chí
Minh chủ trương: đánh vào lòng người là hơn hết, đánh vào thành trì là thứ hai, do
vậy, Hồ Chí Minh rất coi trọng công tác dân vận và địch vận, coi “khéo ngụy vận thì
đó cũng là một cách tiêu diệt sinh lực địch” [85, tr. 483]. Khi cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước bước vào giai đoạn quyết liệt nhất, với sự tham gia của quân Mỹ và
quân đồng minh trực tiếp trên chiến trường miền Nam, Hồ Chí Minh vẫn đặt niềm tin
vào nhân dân Mỹ, giải thích cho họ hiểu tính chất chính nghĩa của Việt Nam, vạch rõ
tính chất xâm lược của cuộc chiến do Chính phủ Mỹ tiến hành, phân biệt rõ một bộ
53
phận hiếu chiến xâm lược với đa số dân chúng Mỹ yêu chuộng hòa bình, khơi gợi
tình cảm nhân đạo cao quý và lòng thiết tha công lý để thức tỉnh lương tri họ, cho họ
thấy được những hậu quả mà nước Mỹ phải gánh chịu cũng như tính phi nghĩa của
cuộc chiến. Người viết thư cho nhân dân Mỹ bày tỏ thiện chí của nhân dân Việt Nam
tha thiết với hòa bình, Người lên án nhà cầm quyền Mỹ nói hòa bình nhưng thực sự
họ đang tiến hành chiến tranh. Hồ Chí Minh cũng thông qua báo chí tiến bộ, thuyết
phục các trí thức có lương tri để tạo nên những tiếng nói chính nghĩa ủng hộ Việt
Nam. Người luôn nói rõ, nhân dân Việt Nam không bao giờ nhầm lẫn nhân dân Mỹ
yêu chuộng công lý với chính phủ Mỹ đã phạm nhiều tội ác với nhân dân Việt Nam.
Tấm lòng nhân ái, khoan dung rộng lớn của Hồ Chí Minh đã khiến cho hàng triệu
người dân Mỹ và nhân dân thế giới đã xuống đường rầm rộ để phản đối cuộc chiến
tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam.
Hồ Chí Minh là biểu tượng của lòng khoan dung, nhân ái, của việc thực hành
lối sống nhân văn. Mục tiêu lý tưởng chính trị của Hồ Chí Minh là hết sức cao quý:
giải phóng dân tộc và giải phóng con người. Mục tiêu này là sự thống nhất cao độ về
tính nhân văn giữa lý tưởng, mục đích chính trị và các phương pháp, phương tiện đạt
đến mục đích đó. Xuất phát từ tình thương yêu con người, từ tình cảm mãnh liệt, sâu
sắc đối với Tổ quốc và nhân dân, dân tộc và nhân loại, Hồ Chí Minh đã cống hiến cả cuộc
đời mình cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Lòng khoan dung rộng lớn của Hồ Chí
Minh là cơ sở để Người chủ trương đoàn kết, tập hợp mọi người yêu nước Việt Nam cùng
hướng vào sự nghiệp đấu tranh vì mục tiêu nhân văn cao cả: giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp và giải phóng con người. Bởi, Người đã nhìn thấy được sức mạnh tiềm ẩn
to lớn trong mỗi con người Việt Nam.
2.1.3.4. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách
mạng
Với lòng nhân ái bao la, Hồ Chí Minh luôn coi việc giải phóng con người, đem
lại tự do, hạnh phúc cho con người mà trước hết là những người lao động được coi là
mục tiêu lớn nhất mà sự nghiệp cách mạng phải hướng đến. Việc xác định con người
là mục tiêu cao nhất của cách mạng giúp Hồ Chí Minh có được sự lựa chọn đúng đắn
về hướng đi của cách mạng nhằm giải phóng triệt để con người, và xây dựng một xã
54
hội mới đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho con người, đó chính là con đường
giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, cũng
theo Hồ Chí Minh, mục tiêu cao cả của sự nghiệp cách mạng này phải do chính con
người thực hiện, bởi Người thấy: “Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn
kết của nhân dân” [88, tr. 453]. Vì vậy, khi con người đoàn kết, được giáo dục thì họ
sẽ trở thành động lực to lớn trong công cuộc đấu tranh giải phóng chính con người.
Tư tưởng nhân văn này của Hồ Chí Minh được thể hiện trên các nội sung sau:
Thứ nhất, Hồ Chí Minh khẳng định con người là mục tiêu cao nhất mà sự
nghiệp cách mạng hướng đến.
Con người là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng được thể hiện trước hết trong
việc Hồ Chí Minh xác định hướng đi cho cách mạng Việt Nam. Việc tìm một hướng
đi và con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của chủ nghĩa thực
dân, phong kiến gắn liền với giải phóng triệt để con người, đặc biệt sau khi chứng
kiến sự thất bại của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp của nhân dân ta
những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX luôn là vấn đề được Hồ Chí Minh trăn
trở, quan tâm trong suốt hành trình ra đi tìm đường cứu nước của mình. Khi mà các
cuộc cách mạng Tư sản ở phương Tây đang trở thành hình mẫu trong định hướng
phát triển của nhiều quốc gia dân tộc trên thế giới, nhưng bằng con mắt tinh tường,
sự trải nghiệm thực tiễn và đặc biệt từ lòng yêu thương con người sâu sắc, Hồ Chí
Minh cho rằng, đó là những cuộc cách mạng “không triệt để”, bởi theo Người, những
cuộc cách mạng này chỉ hướng đến giải phóng một bộ phận nhỏ trong xã hội – đó là
bộ phận giai cấp tư sản, còn đại đa số người dân lao động thì chưa được giải phóng,
hay những người lao động chiếm số đông trong xã hội không phải là mục tiêu mà các
cuộc cách mạng này hướng đến. Trải qua cuộc sống lao động, học tập, nghiên cứu lý
luận và nhất là qua thực tiễn đấu tranh cách mạng phong phú ở nhiều nước đã làm
giàu văn hóa, mở rộng tầm nhìn và nâng cao trí tuệ của Hồ Chí Minh. Người đã nhận
thấy vấn đề giải phóng dân tộc và giải phóng con người không chỉ là nhu cầu cấp
thiết của dân tộc Việt Nam mà là đòi hỏi của các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc và nhân
dân bị áp bức trên toàn thế giới. Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đi theo con đường
cách mạng Tháng Mười Nga và đặc biệt là sau khi đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất
55
những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin, Hồ Chí Minh
đã tìm ra con đường cứu nước cho cách mạng Việt Nam đó là con đường cách mạng
vô sản. Việc Hồ Chí Minh khẳng định: “muốn cứu nước, giải phóng dân tộc không
có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản” cho thấy, Người đã nhìn
thấy được tính triệt để của con đường cách mạng vô sản, bởi mục tiêu mà con đường
này hướng đến là giải phóng số đông dân chúng ở trong xã hội – những người nghèo
khổ, khỏi ách áp bức bóc lột của giai cấp tư sản, phong kiến, và quyền lực của Nhà
nước cũng được trao vào tay số đông nhân dân ở trong xã hội. Điều này phù hợp với
mong muốn, mục đích của Người khi quyết định ra đi tìm đường cứu nước “Tôi muốn
ra nước ngoài, đến nước Pháp và các nước khác, sau khi xem xét xong tôi sẽ quay trở
về giúp đồng bào” [126, tr. 13]. Như vậy, việc giải phóng triệt để con người, đem lại
cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho con người, mà trước hết là người lao động là mục
đích lớn nhất mà Hồ Chí Minh theo đuổi, chính mục đích này là yếu tố quan trọng
giúp cho Hồ Chí Minh trong việc lựa chọn hướng đi đúng đắn cho cách mạng Việt
Nam trong hành trình ra đi tìm đường cứu nước của mình. Đó là đường lối giương
cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân
chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại nhằm thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội để
tiến tới giải phóng triệt để con người.
Coi con người là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh luôn đòi
hỏi mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước phải hướng đến
mục tiêu cuối cùng là mang lại lợi ích cho nhân dân, với quan điểm: “việc gì có lợi
cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh” [82, tr. 51]. Sau
cách mạng Tháng Tám năm 1945, mặc dù đất nước đang phải đương đầu với vô vàn
khó khăn thử thách bởi thù trong, giặc ngoài, bởi những khó khăn về kinh tế, xã hội
do hậu quả của chế độ cũ để lại, nhưng ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ,
Hồ Chí Minh đã chỉ đạo việc cần phải làm ngay đó là diệt “giặc đói” và diệt “giặc
dốt” để đảm bảo yêu cầu tối thiểu cho hạnh phúc của người dân trong một đất nước
độc lập, đó là được ăn no, mặc ấm. Trong bài viết Sẻ cơm nhường áo, Hồ Chí Minh
đã kêu gọi đồng bào trong cả nước chia sẻ lương thực cho nhau. Ngay sau đó, Hồ Chí
56
Minh đã viết bài Chống nạn thất học để kêu gọi người dân tham gia vào phong trào
diệt “gặc dốt” với việc học đọc và viết chữ quốc ngữ.
Con người luôn là mục tiêu hướng đến của cách mạng, ngay cả khi các nguồn
lực cần thiết để đảm bảo cho sự hạnh phúc của nhân dân bị hạn chế, nhưng không vì thế
mà lợi ích của người dân bị ảnh hưởng. Bằng một cách làm sáng tạo Hồ Chí Minh đã
chủ trương kêu gọi nhân dân phát huy mọi khả năng riêng của mình để đem lại lợi ích,
hạnh phúc cho chính bản thân mình và xã hội thông qua việc phát động phong trào thi
đua yêu nước, Người viết:
Các cụ phụ lão thi đua đốc thúc con cháu hăng hái tham gia mọi công việc,
Các cháu nhi đồng thi đua học hành và giúp việc người lớn, Đồng bào phú
hào thi đua mở mang doanh nghiệp, Đồng bào công nông thi đua sản xuất,
Đồng bào trí thức và chuyên môn thi đua sáng tác và phát minh, Nhân viên
Chính phủ thi đua tận tụy làm việc, phụng sự nhân dân, Bộ đội và dân quân
thi đua giết cho nhiều giặc, đoạt cho nhiều súng [83, tr. 557].
Với việc phát huy phong trào thi đua ái quốc như vậy, Hồ Chí Minh tin rằng phong trào
sẽ ăn sâu và lan rộng khắp mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội, nó sẽ giúp cho chúng ta
vượt qua những khó khăn trước mắt trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp để
mang lại hạnh phúc lâu dài cho nhân dân.
Khi bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Hồ Chí Minh
đã nhìn thấy những khó khăn, thách thức mà chúng ta sẽ gặp phải, đó là sự chống phá
của chủ nghĩa tư bản và đế quốc; thói quen và các truyền thống lạc hậu; chủ nghĩa cá
nhân. Từ những khó khăn đó, Người cho rằng, chúng ta phải có những bước đi phù
hợp, tránh tư tưởng nôn nóng chủ quan trong công cuộc xây dựng xã hội mới để đem
lại hạnh phúc cho nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, người dân chỉ biết được giá trị của
độc lập khi họ có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được thỏa mãn các nhu cầu về
vật chất và tinh thần, cho nên, mô hình xã hội mới mà chúng ta xây dựng sẽ phải
hướng đến mục tiêu cao nhất đó là hạnh phúc cho con người “mục đích của chủ nghĩa
xã hội là không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân” [90, tr. 604].
Giải phóng con người để đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc là mục
tiêu cao nhất của toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước ta. Mục tiêu này được thể hiện
57
trong định hướng đi lên của cách mạng Việt Nam, trong mục tiêu xây dựng xã hội
mới ở nước ta cũng như trong xây dựng một Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân
ở nước ta. Đây là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, khó khăn gian khổ của nhiều thế
hệ người Việt Nam và được thực hiện bằng sự nỗ lực của chính bản thân con người.
Thứ hai, Hồ Chí Minh khẳng định con người là động lực to lớn của cách mạng.
Hồ Chí Minh đã chủ trương phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp cách
mạng. Sớm nhìn nhận được vai trò, sức mạnh của con người trong tiến trình cách
mạng, ngay từ những năm 20 của thế kỷ trước, Người đã khẳng định: cách mạng là
việc chung của cả dân chúng chứ không phải việc riêng của một, hai người, các dân
tộc chỉ có thể trông cậy vào lực lượng của bản thân mình: “công cuộc giải phóng anh
em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em” [80, tr. 13]. Cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, nhưng xuất phát từ điều kiện thực tế
lịch sử xã hội Việt Nam, Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò to lớn của các giai cấp
tiến bộ khác trong xã hội ngoài giai cấp công nhân và nông dân. Do đó, trong Sách
lược vắn tắt của Đảng được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã
chủ trương: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh
niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông,
trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi
dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập” [81, tr. 13]. Sau cách mạng tháng Tám
năm 1945, chính quyền cách mạng non trẻ của chúng ta phải đương đầu với những
khó khăn, thử thách to lớn, nền độc lập bị đe dọa, nhưng với niềm tin mạnh liệt vào
sức mạnh của quần chúng nhân dân Người tin rằng chúng ta sẽ vượt qua được những
khó khăn đó nếu như “Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng,
tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy” [82, tr. 3]. Khi thực dân
Pháp quay trở lại xâm lược nước ta, để đánh thắng kẻ thù lớn mạnh đó và bảo vệ vững
chắc nền độc lập dân tộc, hạnh phúc của người dân, Hồ Chí Minh đã kêu gọi: “Bất
kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân
tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”
[82, tr. 534]. Khi đất nước bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội với vô vàn
những khó khăn, thách thức, nhưng Hồ Chí Minh tin rằng, nhân dân ta chẳng những
58
có khả năng cứu nước, mà còn có có khả năng tiến lên thực hiện thắng lợi cách mạng
xã hội chủ nghĩa sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Vì vậy,
theo Hồ Chí Minh, chúng ta phải biết huy động sức mạnh của các tầng lớp nhân dân
trong xã hội cùng tham gia vào công cuộc xây dựng xã hội mới để đem lại cuộc sống
ấm no, hạnh phúc cho chính bản thân mình. Người khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội là
do quần chúng nhân dân tự mình xây dựng nên” [90, tr. 568]. và “Đó là công trình
tập thể của quần chúng lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng” [89, tr. 609].
Với tình cảm và lòng yêu thương con người vô hạn, Hồ Chí Minh đã gắn liền
mục tiêu của sự nghiệp cách mạng với sự nghiệp giải phóng con người, đó là sự
nghiệp nhân văn cao cả phải do chính con người thực hiện. Để nhân tố con người
phát huy được vai trò của mình trong sự nghiệp cách mạng vĩ đại đó, đòi hỏi chúng
ta phải có chiến lược lâu dài để xây dựng và bồi dưỡng con người, trong đó giáo dục
được Hồ Chí Minh coi là biện pháp quan trọng hàng đầu.
2.1.3.5. Chiến lược “trồng người”
Quan điểm của Hồ Chí Minh về thực hiện chiến lược “trồng người” được thể
hiện trên những nội dung sau:
Thứ nhất, quan điểm về vị trí, vai trò của chiến lược “trồng người”.
Tầm nhìn của Hồ Chí Minh về xây dựng, bồi dưỡng nguồn lực con người cho
sự phát triển bền vững của đất nước mang ý nghĩa chiến lược sâu sắc. Người hiểu
rằng việc chăm lo, bồi dưỡng, phát triển con người không chỉ có vai trò quan trọng
trong công cuộc giữ vững nền độc lập mà còn góp phần vào công cuộc xây dựng nước
nhà. Từ câu nói bất hủ của Quản Trọng thời Đông Chu ở bên Trung Quốc, khi nói về
vai trò này, Người cho rằng: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm
năm thì phải trồng người” [89, tr. 528] nhưng với nội dung và ý nghĩa rộng hơn, sâu
sắc hơn. Trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, “trồng người” không chỉ giới hạn ở
việc bồi dưỡng, giáo dục những người giữ vị trí lãnh đạo, mà còn được “mở rộng đối
với toàn thể nhân dân lao động” [91, tr. 297].
Chăm lo, bồi dưỡng, phát triển con người là nhiệm vụ chiến lược xuyên suốt
trong tiến trình cách mạng Việt Nam, bởi, theo Hồ Chí Minh con người là vốn quý
nhất trong sự phát triển xã hội. Hồ Chí Minh sau khi đã tiếp thu tinh hoa văn hóa
59
nhân loại trên nền giá trị văn hóa dân tộc, tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam, Người đã nêu lên một triết lý tổng quát
về vị trí, vai trò của con người đối với sự phát triển của xã hội là: “Trong bầu trời
không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết
của nhân dân” [88, tr. 453], “vô luận việc gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to,
từ gần đến xa” [83, tr. 281]. Vì vậy, theo Hồ Chí Minh con người chính là mục tiêu
cao nhất của sự nghiệp cách mạng, và cũng là lực lượng to lớn nhất để thực hiện thắng
lợi mục tiêu đó. Do vậy, thực hiện chiến lược “trồng người” là yêu cầu khách quan,
vừa cấp bách, vừa lâu dài của sự nghiệp cách mạng.
Hai là, quan điểm về nội dung xây dựng con người mới trong thực hiện chiến
lược “trồng người”.
Hồ Chí Minh cho rằng “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có
những con người xã hội chủ nghĩa” [91, tr. 66]. Vì vậy, thực hiện chiến lược “trồng
người” theo Hồ Chí Minh là để hình thành nên những con người mới phát triển toàn
diện: Đức, trí, thể, mỹ cho xã hội, góp phần vào thực hiện thắng lợi công cuộc xây
dựng và bảo vệ đất nước. Tiêu chuẩn của con người xã hội chủ nghĩa được Hồ Chí
Minh nhiều lần nêu lên, có thể khái quát ở mấy điểm sau:
Một là, có tư tưởng xã hội chủ nghĩa: có ý thức làm chủ, có tinh thần tập thể,
có tư tưởng mình vì mọi người, có tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách
nhiệm, quyết vươn lên hàng đầu.
Hai là, có đạo đức và lối sống xã hội chủ nghĩa: trung với nước, hiếu với dân,
thương yêu con người, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Có tinh thần quốc tế
trong sáng, có lối sống lành mạnh, trong sáng.
Ba là, có tác phong xã hội chủ nghĩa: làm việc có kế hoạch, có biện pháp, có
quyết tâm, có tổ chức, có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất, chất lượng hiệu quả lao
động: lao động quên mình, không sợ khó, không sợ khổ, làm việc vì lợi ích của xã
hội, tập thể và bản thân mình.
Bốn là, có năng lực để làm chủ: bản thân, gia đình và công việc mình đảm
nhiệm, có đủ sức khỏe và tư cách tham gia làm chủ nhà nước và xã hội, thực hiện có
60
kết quả quyền công dân: phải không ngừng nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, khoa
học – công nghệ, chuyên môn nghiệp vụ để làm chủ.
Thứ ba, quan điểm về biện pháp thực hiện chiến lược “trồng người”.
Để thực hiện thành công chiến lược “trồng người” có nhiều biện pháp, nhưng
bằng sự chiêm nghiệm sâu sắc về bản chất con người, Hồ Chí Minh nhận thấy giáo
dục có vai trò to lớn trong việc thực hiện chiến lược “trồng người”, bởi theo Hồ Chí
Minh, “Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn, Phần nhiều do giáo dục mà nên” [81, tr. 413].
Quan điểm về vai trò của giáo dục với việc thực hiện chiến lược “trồng người” của
Hồ Chí Minh được thể hiện trên các nội dung sau:
Một là, xác định mục tiêu của giáo dục. Theo Hồ Chí Minh, nền giáo dục mới
mà chúng ta xây dựng sẽ phải hướng đến mục tiêu đào tạo ra những công dân có ích
cho xã hội, phải làm cho người học phát triển hoàn toàn những năng lực có sẵn trong
bản thân. Trong bức thư gửi học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên khi nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1945, Hồ Chí Minh viết: “Ngày nay, các em được cái
may mắn hơn cha anh là được hấp thụ một nền giáo dục của một nước độc lập, một
nền giáo dục nó sẽ đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt
Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em”
[82, tr. 34]. Mục tiêu giáo dục mà Hồ Chí Minh xác định cho nền giáo dục mới hoàn
toàn phù hợp với triết lý giáo dục hiện đại ngày nay – coi người học là trung tâm.
Theo Hồ Chí Minh, việc xác định nhiệm vụ cho từng đối tượng, từng cấp học phải
được đề ra trên cơ sở mục tiêu của nền giáo dục. Vì vậy, theo Người, đối với sinh
viên đại học, cần dạy cho các em: “kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức
học tập lý luận và khoa học tiên tiến của các nước bạn, kết hợp với thực tiễn của nước
ta”, đối với học sinh trung học thì cần phải đảm bảo cho các em: “những tri thức phổ
thông chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà”,
đối với học sinh cấp tiểu học cần giáo dục cho các em biết: “Yêu Tổ quốc, yêu nhân
dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công. Cách dạy phải nhẹ nhàng và vui vẻ,
chớ gò ép thiếu nhi vào khuôn khổ của người lớn” [88, tr. 186]. Việc xác định nhiệm
vụ cụ thể đối với từng cấp học như vậy, sẽ tránh được lối giảng dạy nhồi nhét kiến
61
thức cho người học, cung cấp những kiến thức thiếu thực tế của đời sống, gò ép người
học… mà hiện nay nền giáo dục của chúng ta đang mắc phải.
Hai là, xác định nội dung giáo dục. Trong nền giáo dục truyền thống, việc giáo
dục thường thiên về giáo dục đạo đức cho người học, để bồi dưỡng hình thành nên
những người “quân tử” cho xã hội. Còn trong nền giáo dục mới, Hồ Chí Minh cho
rằng, chúng ta phải giáo dục, bồi dưỡng để hình thành nên những con người phát triển
toàn diện cả “đức” lẫn “tài” cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Người nói:
“Trong việc giáo dục và học tập, phải chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác
ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hoá, kỹ thuật, lao động và sản xuất” [90, tr. 647]. Con
người được giáo dục toàn diện theo Hồ Chí Minh, đó là con người phải có đạo đức
cách mạng, có lý tưởng sống, có quan hệ đúng mực với mọi người xung quanh, có kỹ
năng sống, có tri thức, có sức khỏe… Đó là con người phát triển toàn diện trên các
mặt: văn – đức – thể - mỹ. Đây là những nội dung giáo dục hết sức căn bản, gắn bó
chặt chẽ, làm nền tảng cho sự phát triển con người Việt Nam toàn diện.
Ba là, xác định vai trò của người thầy trong hoạt động giáo dục. Trong giáo
dục, vai trò của người thầy trong việc truyền thụ kiến thức, hướng dẫn cách học cho
người học là hết sức quan trọng, bởi “nếu không có thầy giáo thì không có giáo dục”
[88, tr. 345], những người thầy giáo, cô giáo được Hồ Chí Minh ví như những chiến
sĩ xung kích trên mặt trận giáo dục. Vì vậy, để hoàn thành tốt những nhiệm vụ vẻ
vang ấy, theo Hồ Chí Minh, mỗi thầy cô giáo phải không ngừng học tập, rèn luyện,
nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức của người giáo viên.
Người nhấn mạnh: “Người huấn luyện phải học thêm mãi thì mới làm được công việc
huấn luyện của mình” [84, tr. 356], về đạo đức thì người giáo viên: “Phải có chí khí
cao thượng, phải "tiên ưu hậu lạc" nghĩa là khó khăn thì phải chịu trước thiên hạ, sung
sướng thì hưởng sau thiên hạ” [92, tr. 403], và đặc biệt người giáo viên phải luôn yêu
trò, yêu nghề: “Thầy cũng như trò, cán bộ cũng như nhân viên, phải thật thà yêu nghề
mình” [92, tr. 402], “Phải thương yêu các cháu như con em ruột thịt của mình” [87,
tr. 499]. Với việc xây dựng đội ngũ giáo viên như vậy sẽ là một nhân tố quan trọng
quyết định sự thành công trong chiến lược “trồng người”.
62
Với một nền giáo dục mới, gắn mục tiêu đào đạo với việc phát huy năng lực
tiềm ẩn trong mỗi con người, với nội dung giáo dục toàn diện, phương pháp học tập
tích cực, Hồ Chí Minh tin rằng sớm muộn gì các em học sinh – những chủ nhân tương
lai của nước nhà, sẽ đưa Việt Nam “bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường
quốc năm châu” [82, tr. 35].
Yêu thương, quý trọng con người, thấy được sức mạnh tiềm ẩn to lớn trong
con người, Hồ Chí Minh không chỉ đề ra chiến lược “trồng người” nhằm chăm lo, bồi
dưỡng, để con người có điều kiện phát triển toàn diện, phát huy hết sức mạnh về vật
chất và tinh thần của mình vào thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng xã hội mới,
mà Người còn chỉ ra các biện pháp để thực hiện thành công chiến lược đó. Trong các
biện pháp mà người đưa ra thì giáo dục – đào tạo là biện pháp quan trọng hàng đầu
để thực hiện thành công chiến lược “trồng người”. Thực hiện chiến lược “trồng
người” trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một chiến lược để hướng đến “lợi ích kép”,
đó là “nhằm tiến đến mục tiêu xây dựng đất nước, kết hợp với việc giải phóng và phát
triển con người” [130, tr. 268–269]. Đây là nội dụng thấm đượm tính nhân văn sâu
sắc trong tư tương Hồ Chí Minh, thể hiện khát vọng của Hồ Chí Minh về sự hoàn
thiện con người.
Tóm lại, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là sự kết tinh những giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc về lòng nhân ái; kế thừa tư tưởng nhân văn, nhân đạo trong
tinh hoa văn hóa nhân loại, trong đó đặc biệt là sự kế thừa và phát triển chủ nghĩa
nhân đạo hiện thực của chủ nghĩa Mác – Lênin. Đó là chủ nghĩa nhân văn mới, chủ
nghĩa nhân văn cách mạng, trong đó lòng yêu thương con người gắn với lòng tin,
khoan dung, và ý chí hành động triệt để giải phóng con người, phát triển con người
là những nội dung cơ bản xuyên suốt trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
2.2. SỰ CẦN THIẾT GIÁO DỤC TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH
CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là một hệ thống các luận điểm về con người,
về đề cao các giá trị người, về tình yêu thương đối với con người… những luận điểm
này có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng, bồi dưỡng con người mới ở nước ta
hiện nay. Do đó, việc giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trong
63
các trường đại học ở nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế là rất cần thiết bởi:
2.2.1. Giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên nhằm đáp
ứng yêu cầu về chất lượng nguồn lao động toàn diện của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang diễn ra ở nước ta hiện nay là
một tất yếu của sự phát triển, trở thành một làn sóng mạnh mẽ tác động đến mọi mặt
của đời sống xã hội. Kinh nghiệm cũng như thực tiễn chỉ ra rằng, quá trình này có
mối liên hệ chặt chẽ với giáo dục – đào tạo. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một quá
trình mà trong đó sử dụng năng lực, kinh nghiệm, trí tuệ, bản lĩnh của con người để
tạo ra các thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại, kết hợp giá trị truyền
thống của dân tộc để đổi mới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm hướng tới một
xã hội văn minh, hiện đại và phát triển bền vững hơn. Chính vì vậy mà quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải có nguồn lao động chất lượng cao để đáp ứng
cho sự phát triển đó. Sinh viên với sức khỏe, lòng nhiệt tình, với tài năng và trí tuệ
của mình đã được học tập, rèn luyện trong các trường Đại học sau khi ra trường sẽ là
một bộ phận đông đảo và quan trọng của nguồn nhân lực chất lượng cao đó.
Mục tiêu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là hướng đến
một xã hội phát triển bền vững, tăng trưởng phải đi đôi với tiến bộ và công bằng, xã
hội phải văn minh. Để đạt được mục tiêu này, đòi hỏi chúng ta phải tạo ra được một
đội ngũ lao động không chỉ giỏi chuyên môn, vững tay nghề mà còn phải có lương
tâm, trách nhiệm với cộng đồng. Thực tế đã chứng minh rằng, những người lao động,
những kỹ sư, những nhà khoa học có tay nghề, trình độ chuyên môn rất cao nhưng nếu
như không có lương tâm, không có trách nhiệm với cộng đồng, với xã hội thì những sản
phẩm, những phát minh, những công trình nghiên cứu mà họ sáng tạo ra lại hướng đến
những mục đích tiêu cực ảnh hưởng đến an ninh, môi trường, sức khỏe của nhân dân...
Sinh viên giỏi về công nghệ thông tin có thể viết ra các phần mền gián điệp xâm nhập
vào tài khoản của các cá nhân, tổ chức, các cơ quan nhà nước để lấy cắp dữ liệu, thông
tin; người giỏi về hóa học có thể điều chế ra các loại hóa chất bảo quản, kích thích tăng
trưởng nhanh đối với động vật, thực vật; người giỏi về kỹ thuật điện tử có thể sáng chế
64
ra các thiết bị làm nhiễu sóng, mất tín hiệu của hệ thống camera an ninh, súng bắn tốc
độ của cảnh sát giao thông để phục vụ cho những hành vi phạm tội của mình, làm ra các
loại máy thu phát sóng để ăn cắp cước viễn thông....
Do vậy, để có được nguồn nhân lực chất lượng cao – vừa có tài, vừa có tâm
để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, các sinh viên cần
phải được giáo dục một cách toàn diện trong các trường Đại học. Nhà trường trong
quá trình giáo dục không chỉ cung cấp cho sinh viên những kiến thức, những kỹ năng
chuyên môn nghiệp vụ mà còn phải tăng cường công tác giáo dục tư tưởng nhân văn
Hồ Chí Minh như giáo dục chủ nghĩa yêu nước, tinh thần tập thể, mình vì mọi người,
mọi người vì mình, giáo dục đạo đức công cộng (xã hội), đạo đức nghề nghiệp... Sinh
viên nếu được giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh – tư tưởng nhân văn hành
động, ngay từ khi còn ngồi trên nghế nhà trường và cùng với tài năng, trí tuệ của mình
sau khi ra trường tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước
sẽ biết đem tài năng của mình để làm ra các sản phẩm, các sáng kiến hướng đến lợi
ích của cộng đồng, hướng đến phục vụ nhân dân, vì nhân dân nhiều hơn. Nói cách
khác là họ sẽ giải quyết tốt vấn đề “phục vụ ai”, “vì ai” mà rèn luyện, học tập, lao
động và sản xuất, như Hồ Chí Minh đã từng nói: “Khoa học phải từ sản xuất mà ra
và phải trở lại phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm nâng cao năng suất lao
động và không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân” [89, tr 97]. Do vậy, giáo dục
tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên các trường đại học sẽ giúp cho họ xác
định được mục đích, thái độ đúng đắn trong quá trình học tập, lao động và sản xuất.
2.2.2. Giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên nhằm đáp
ứng đòi hỏi khách quan của quá trình đổi mới toàn diện giáo dục đại học ở Việt
Nam
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế, việc xây dựng chiến lược con người được đặt ra như một đòi hỏi
tất yếu và cấp bách. Theo đó, giáo dục và đào tạo ngày càng có vị trí, vai trò quan
trọng đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, việc đổi mới giáo dục ở nước ta trong những
năm qua vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém, trong đó nổi bật ở việc duy trì quá
65
lâu một nền giáo dục chủ yếu chú trọng trang bị kiến thức chuyên môn cho người học
là chính, mà “chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng
làm việc” [36, tr. 114] cho sinh viên. Với lượng tri thức lớn được cập nhật liên tục
vào chương trình đã dẫn đến sự quá tải cho sinh viên, các em phải dành nhiều thời
gian để tiếp thu những tri thức từ chương trình, không còn đủ thời gian và sự quan
tâm đúng mức cho việc trau dồi kiến thức, tìm hiểu về cuộc sống, thế giới xung quanh,
dung dưỡng tâm hồn, đạo đức, lối sống… Nói cách khác đó là học cách để làm người.
Từ những hạn chế yêu kém trên của nền giáo dục nước ta, thì việc đổi mới căn
bản, toàn diện nền giáo dục được đặt ra như là một nhu cầu cấp thiết của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đó là, phải “ chuyển mạnh quá trình giáo
dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất
người học” [36, tr. 114], một nền giáo dục phải dành nhiều thời gian dạy người học
về phương pháp, kỹ năng, cách tự học, cách sử dụng, khai thác các thiết bị… và dạy
làm người với mục đích người được đào tạo có khả năng thích ứng nhanh với hoàn
cảnh, có khả năng học tập suốt đời và có trách nhiệm với gia đình, xã hội, và tổ quốc.
Việc giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trong các trường
đại học ở nước ta hiện nay nhằm giúp sinh viên hình thành những phẩm chất tốt đẹp
về nhân cách, đạo đức nghề nghiệp, lối sống có trách nhiệm với bản thân, gia đình và
xã hội. Đây là một giải pháp quan trọng thực hiện đổi mới giáo dục đại học nhằm
hướng đến mục tiêu phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Vì vậy,
việc đẩy mạnh hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên các
trường đại học ở nước ta hiện nay là đòi hỏi khách quan của sự nghiệp đổi mới giáo
đại học ở Việt Nam hiện nay.
2.2.3. Giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên các trường
đại học nhằm đáp ứng chính đòi hỏi nội sinh trong quá trình hoàn thiện nhân
cách của sinh viên
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế đòi hỏi rất cần
có những người trẻ tuổi, có phẩm chất đạo đức, có trình độ và năng lực sáng tạo, có
khả năng tiếp cận nhanh với những cái mới. Không nằm ngoài quy luật phát triển ấy,
sinh viên ngày càng có vai trò quan trọng trong bối cảnh đất nước hiện nay. Sinh thời,
66
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Thanh niên sẽ làm chủ nước nhà. Phải học tập
mãi, tiến bộ mãi, mới thật là thanh niên” [88, tr. 216]. Vì vậy, đối với sinh viên, ngay
từ khi ngồi trên ghế giảng đường đại học là quãng thời gian vô cùng quan trọng để
các em tích lũy kiến thức, phương pháp tư duy, bản lĩnh chính trị. Từ điểm xuất phát
này, nhân cách sinh viên được hoàn thiện và phát triển để xứng đáng với vai trò người
làm chủ tương lai của nước nhà.
Mỗi một cá nhân trong xã hội đều có sự thể hiện nhân cách đặc trưng phù hợp
với vị thế xã hội của mình. Nhân cách sinh viên là trường hợp cụ thể của nhân cách,
là hình thức biểu hiện tính người ở một tầng lớp xã hội đặc biệt. Từ đó chúng ta có
thể hiều rằng nhân cách sinh viên “là tổng thể những phẩm chất đạo đức, tài năng, là
năng lực thể chất và tinh thần được hình thành một cách lịch sử - cụ thể, quy định giá
trị và những hành vi xã hội của sinh viên, được thể hiện, thực hiện trong hoạt động
học tập, hoạt động giao tiếp, ứng xử, hoạt động xã hội của cá nhân mỗi sinh viên”
[2, tr. 41]. Trong quá trình hình thành và phát triển, nhân cách sinh viên chịu tác động
bởi nhiều yếu tố như điều kiện kinh tế - xã hội, giáo dục, hoạt động giao tiếp… trong
đó việc rèn luyện theo tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh giữ vai trò quan trọng.
Sinh viên với trình độ học vấn cao nên nhu cầu tiếp thu các văn hóa tinh thần
của họ được chọn lọc. Điều này giúp các em không những kế thừa các giá trị văn hóa
truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà còn dễ tiếp thu các giá trị về lòng nhân ái, tình yêu
thương con người trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh để làm phong phú tầm hồn,
tình cảm của họ, góp phần nâng cao tính chân, thiện, mỹ trong mỗi sinh viên. Một nhân
cách tốt đẹp chỉ có thể được xây dựng trên một tâm hồn phong phú về tình cảm, giàu
lòng nhân ái. Những giá trị nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ tác động và để lại
những dấu ấn quan trọng trên diện mạo nhân cách mỗi sinh viên, vì tính nhân văn là yếu
tố cơ bản đưa giá trị con người lên vị trí cao nhất trong hệ giá trị của xã hội – con người
là giá trị của mọi giá trị. Vì vậy, việc giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh
viên trong các trường đại học ở nước ta hiện này chính là để nhằm đáp ứng đòi hỏi nội
sinh trong sự pháp triển và hoàn thiện nhân cách của sinh viên.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cùng với quá trình mở cửa hội nhập
quốc tế đang diễn ra ở nước ta hiện nay đã đặt ra vấn đề mang tính cấp thiết, cần phải
67
có nguồn nhân lực chất lượng cao, nguồn nhân lực này không chỉ giỏi về chuyên môn,
kỹ năng nghề nghiệp, làm chủ khoa học công nghệ mà còn phải có lòng yêu nước,
lòng nhân ái, đạo đức nghề nghiệp, có lương tâm, có tinh thần trách nhiệm với cộng
đồng, biết vươn lên trước khó khăn của cuốc sống, có bản lĩnh chính trị vững vàng trước
những tác động tiêu cực của quá trình mở cửa hội nhập quốc tế. Để có được kiến thức
chuyên môn giỏi cùng với những phẩm chất tốt đẹp thấm đượm tính nhân văn thì việc
giáo dục đạo đức nói chung, giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh nói riêng bên
cạnh việc giáo dục kiến thức chuyên môn là vô cùng cần thiết đối với sinh viên.
2.3. HỆ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC TƯ TƯỞNG
NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
Giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trong các trường đại
học là một công việc hết sức khó khăn, phức tạp từ nhận thức đến thực tiễn, từ các
yếu tố điều kiện vật chất giáo dục, chương trình giáo dục đến hành vi của các chủ thể,
đối tượng giáo dục. Vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh cho sinh viên càng khó khăn thì càng cần thiết phải phân loại, đánh giá chất
lượng của hoạt động giáo dục này trong các nhà trường, và muốn vậy cần phải có một
hệ tiêu chí để đánh giá chất lượng của hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh cho sinh viên. Điều này giúp cho các trường đại học nhận thức, đánh giá được
công tác giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên của mình đã đáp ứng
được các yêu cầu, mục tiêu của hoạt động giáo dục hay chưa, và đáp ứng được ở mức
độ nào, để từ đó các trường đại học thấy rằng cần phải làm gì để đáp ứng các yêu cầu
về nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh
viên. Do vậy, việc xây dựng hệ tiêu chí đánh giá chất lượng giáo dục tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trong các trường đại học là rất cần thiết.
Trong Từ điển tiếng Việt, khái niệm tiêu chí được hiểu là tính chất dấu hiệu
làm căn cứ để nhận biết, xếp loại một sự vật, hiện tượng nào đó, hệ tiêu chí là một
tập hợp các tiêu chí theo một căn cứ nào đó để nhận biết, xem xét, phân loại các sự
vật, hiện tượng cùng loại. Trong đề tài luận án, hệ tiêu chí đánh giá chất lượng hoạt
động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trong các trường đại
68
học là tập hợp các tiêu chí cơ bản để đánh giá, hay để nhận biết chất lượng của quá
trình giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên có đáp ứng yêu cầu của
mục đích giáo dục đề ra. Trên cơ sở các tiêu chí cơ bản nhất đánh giá chất lượng đào
tạo đại học do Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quy định khi tiến hành công tác kiểm định
chất lượng đại học, từ thực tiễn hoạt động giáo dục trong các trường đại học, luận án
bước đầu xây dựng những tiêu chí đánh giá chất lượng giáo dục tư tưởng nhân văn
Hồ Chí Minh cho sinh viên trong các trường đại học ở nước ta hiện nay.
Tiêu chí 1: Chủ thể của quá trình giáo dục
Quá trình giáo dục là quá trình tác động có mục đích, có tổ chức chặt chẽ của
các chủ thể giáo dục với người người được giáo dục thông qua con đường dạy học và
các biện pháp giáo dục chuyên biệt khác, nhằm đạt mục tiêu đề ra của hoạt động giáo
dục. Như vậy, trong quá trình giáo dục, chủ thể giáo dục giữ vai trò quan trọng quyết
định đến chất lượng của quá trình giáo dục, bởi họ là những người định hướng mục
đích giáo dục, lựa chọn nội dung giáo dục, các phương pháp giáo dục và thống nhất
các yếu tố của quá trình giáo dục. Trong hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ
Chí Minh cho sinh viên các trường đại học, chủ thể của quá trình giáo dục này là các
cán bộ quản lý, các giảng viên trực tiếp tham gia vào quá trình giáo dục, các tổ chức
đoàn thể trong nhà trường, và chính bản thân sinh viên. Trong quá trình giáo dục,
sinh viên vừa là đối tượng, vừa là khách thể tiếp nhận sự tác động có định hướng của
nhà giáo dục. Nhưng bản thân sinh viên trong quá trình giáo dục không phải là một
thực thể thụ động, trái lại họ đã tiếp thu những tác động từ các lực lượng giáo dục
khác nhau một cách chủ động tùy theo mục đích rèn luyện, tự giáo dục của bản thân
họ. Điều đó có nghĩa là, dưới tác động giáo dục khách quan của các chủ thể giáo dục
trong nhà trường, mỗi sinh viên biết tiếp nhận những tác động giáo dục một cách có
chọn lọc, có ý thức, tự giác, tích cực – quá trình tự giáo dục. Mục tiêu của giáo dục
tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên các trường đại học chỉ đạt được khi
các chủ thể giáo dục trong nhà trường đáp ứng các yêu cầu (về nhận thức; về năng
lực chuyên môn, nghiệp vụ; về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống;...) của hoạt
động giáo dục. Do vậy, chỉ số trọng tâm được đưa ra để đánh giá về chất lượng của
các chủ thể giáo dục trong nhà trường bao gồm các nội dung sau:
69
STT Nội dung Chỉ số trọng tâm đánh giá
1
Cán bộ quản lý trong
trường đại học
- Nhận thức về tầm quan trọng của hoạt động giáo
dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên.
- Tỉ lệ văn bản ban hành về giáo dục tư tưởng đạo đức,
nhân văn Hồ Chí Minh/tổng số văn bản ban hành.
- Chỉ đạo tổ chức tổng kết, đánh giá hoạt động giáo
dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trên tổng số các
hoạt động tổng kết, đánh giá hoạt động đào tạo
2
Giảng viên
- Nhận thức về tầm quan trọng của hoạt động giáo
dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên.
- Học hàm, học vị phù hợp với công việc.
- Số các công trình khoa học được công bố (đề tài
khoa học các cấp, bài báo, giáo trình...).
- Tỉ lệ giảng viên là đảng viên / tổng số giảng viên.
- Phẩm chất đạo đức, lối sống, lòng nhân ái... của
giảng viên.
- Sự công tâm trong đánh giá năng lực của người học.
- Tinh thần phối hợp với đồng nghiệp và sinh viên
trong thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa
học và các hoạt động giáo dục khác.
3
Sinh viên
- Năng lực xét tuyển đầu vào đáp ứng yêu cầu tối
thiểu của Bộ Giáo dục và đào tạo
- Nhận thức về tầm quan trọng của hoạt động giáo
dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
- Năng lực tự học tập, nghiên cứu, rèn luyện
70
4
Tổ chức Đoàn thể
- Triển khai tổ chức học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh (thực hiện Chỉ thị
05 CT/TW)
- Các hình thức tổ chức thi tìm hiểu về chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho sinh viên.
- Tổ chức các hoạt động nhân đạo, tình nguyện vì
cộng đồng, các công trình thanh niên.
- Có các mô hình, giải pháp thực hiện chương trình
nâng cao chất lượng đoàn viên
- Công tác tổng kết, đánh giá, tuyên dương các cá
nhân, đơn vị tiêu biểu trong hoạt động.
- Công tác kiểm tra, giám sát trong các hoạt động.
Tiêu chí 2: Các yếu tố tham gia vào quá trình giáo dục tư tưởng nhân văn
Hồ Chí Minh
Quá trình giáo dục là sự tương tác giữa các yếu tố mục đích, nhiệm vụ giáo
dục, nội dung, phương pháp, phương tiện giáo dục, chủ thể, đối tượng giáo dục trong
mối quan hệ mật thiết với nhau. Vì vậy, để đánh giá chất lượng của hoạt động giáo
dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên, ngoài các yêu cầu đặt ra đối với
các chủ thể giáo dục, thì các yếu tố tham gia vào quá trình giáo dục (chương trình, giáo
trình, môi trường giáo dục, phương tiện hỗ trợ giáo dục, mối liên hệ giữa nhà trường
với gia đình và xã hội trong giáo dục...) cũng giữ vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ,
nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
Do vậy, yêu cầu đặt ra đối với các yếu tố này được cụ thể qua các tiêu chí đánh giá sau:
STT Nội dung Chỉ số trọng tâm đánh giá
- Sự phù hợp giữa mục tiêu giáo dục và chương trình
đào tạo, giữa yêu cầu thực tiễn giáo dục với chương
trình đào tạo.
71
1
Chương trình
- Tính khoa học, hợp lý, chuẩn xác, tính hệ thống của
lượng kiến thức cung cấp cho sinh viên trong chương
trình đào tạo.
- Mức độ phù hợp trong phương pháp giảng dạy, các
điều kiện hỗ trợ, sự phân bố thời gian hợp lý giữa lý
thuyết và thảo luận... với yêu cầu kiến thức, kỹ năng,
thái độ của sinh viên cần đạt được học tập.
- Độ tin cậy của quy trình kiểm tra, đánh giá kết quả
học tập, rèn luyện của sinh viên
2
Giáo trình
- Có quy trình trong công tác xây dựng, biên soạn,
thẩm định, phê duyệt
- Giáo trình xây dựng phù hợp với đối tượng các sinh
viên chuyên ngành và không chuyên ngành Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sinh viên khối tự nhiên
và khối khoa học xã hội nhân văn.
- Chuyên đề tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh được
xây dựng, kết cấu trở thành một chuyên đề riêng biệt
trong giáo trình.
- Định kỳ tổ chức đánh giá của giảng viên, của các
chuyên gia, của sinh viên về chất lượng của giáo
trình có đáp ứng yêu cầu của công tác giáo dục tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
- Giáo trình được chỉnh sửa, bổ sung theo định kỳ các
Hội nghị Trung ương, đại hội Đảng.
3
Môi trường giáo dục
- Tính hợp lý, khoa học, kỷ cương trong hoạt động
quản lý.
- Môi trường giáo dục bên trong các trường đại học
đảm bảo tính an toàn, lành mạnh, văn hóa và nhân văn.
- Sứ mạng, mục tiêu, tầm nhìn của cơ sở giáo dục.
72
4
Các điều kiện vật
chất hỗ trợ hoạt
động giáo dục
- Tổng diện tích dành cho hoạt động giáo dục.
- Số phòng học công nghệ (trang bị máy tính, máy
chiếu Projecter, kết nối Internet...)/ tổng số phòng học.
- Xây dựng tủ sách học tập và làm theo tư tưởng, tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh và số lượng giáo trình,
sách tham khảo về Hồ Chí Minh/ 1 sinh viên và trên 1
giảng viên.
- Thiết bị hỗ trợ giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh (tranh, ảnh, phim tư liệu, máy chiếu phim, ti-
vi... về Chủ tịch Hồ Chí Minh, về các hoạt động nhân
đạo, tình nguyện vì cộng đồng)/ Tổng số các thiết bị
hỗ trợ hoạt động giáo dục, đào tạo chung.
- Phòng truyền thống hoạt động thường xuyên,
phong phú về nội dung và hình thức trưng bày các
hình ảnh, tư liệu về Hồ Chí Minh, về các hoạt động
nhân đạo, tình nguyện vì cộng đồng.
5
Sự kết hợp giữa nhà
trường với gia đình
và xã hội trong quá
trình giáo dục
- Kết quả học tập và rèn luyện hàng năm của sinh
viên được thông báo cho gia đình.
- Có sự phối hợp với các tổ chức chính trị, xã hội tại
địa phương trong các hoạt động giáo dục.
- Tổ chức định kỳ lấy ý kiến phản hồi của các cơ
quan, doanh nghiệp về năng lực, phẩm chất của sinh
viên sau khi ra trường.
Tiêu chí 3: Đánh giá kết quả của quá trình giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ
Chí Minh cho sinh viên
Chất lượng của của quá trình giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho
sinh viên phản ánh kết quả vận động tổng hợp của các yếu tố trong quá trình giáo
dục. Cụ thể là, với sự định hướng của mục đích giáo dục, nhiệm vụ giáo dục, với
những yêu cầu của nội dung, với sự vận dụng phối hợp khéo léo các phương pháp,
73
các phương tiện của các chủ thể giáo dục, cùng với sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà
trường với gia đình và xã hội trong quá trình giáo dục, những nét tính cách, những
hành vi, thói quen về đạo đức, lối sống nhân văn sẽ dần được hình thành trong sinh viên.
Kết quả của quá trình giáo dục này được thể hiện đậm nét nhất ở sự biến đổi về thế giới
quan, nhân sinh quan và các hành vi nhân văn của sinh viên trong hoạt động thực tiễn.
Trang bị thế giới quan nhân văn Hồ Chí Minh sẽ giúp sinh viên nhìn nhận,
đánh giá sự vật, hiện tượng của thế giới xung quanh cũng như tự xem xét chính mình,
và điều quan trọng là từ đó sinh viên xác định thái độ, hành vi nhân văn của mình
trong cuộc sống. Thế giới quan đúng đắn sẽ là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích
cực. Vì thế, sự thay đổi về thế giới quan, nhân sinh quan và hành vi nhân văn sẽ là
một tiêu chí quan trọng đánh giá chất lượng, hiệu quả của quá trình giáo dục tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên các trường đại học. Nội dung cụ thể của tiêu chí
này được thể hiện như sau:
STT Nội dung Chỉ số trọng tâm đánh giá
1
Thế giới quan,
nhân sinh quan
nhân văn
- Lượng tri thức về giá trị nhân văn truyền thống, nhân
loại nhân văn Hồ Chí Minh sinh viên tiếp thu (thông
qua kết quả đánh giá học phần; kết quả trong các cuộc
thi, các hoạt động phong trào về tìm hiểu tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh...).
- Niềm tin vào thắng lợi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội, vào sự nghiệp giải phóng con người ở nước ta.
- Niềm tin vào khả năng của bản thân.
- Niềm tin vào bản tính hướng thiện của con người
trong xã hội.
- Thái độ trong đấu tranh với những biểu hiện, hành
động tiêu cực, vi phạm pháp luật, phi nhân văn.
- Thái độ sẵn sàng tham gia vào những công việc khó
khăn nếu tổ quốc và nhân dân cần.
74
2
Hành vi nhân văn
- Mức độ tham gia vào các hoạt động nhân đạo, hoạt
động từ thiện.
- Mức độ tham gia vào các hoạt động tình nguyện vì
cộng đồng.
- Việc chấp hành nội quy, quy chế của Nhà trường;
pháp luật Nhà nước.
- Mức độ tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học,
các sáng kiến trong học tập, trong công việc nhằm đáp
ứng yêu cầu thực tiễn trong lao động, sản xuất.
- Mức độ tham gia học tập, bồi dưỡng nâng cao trình
độ chuyên môn, trình độ văn hóa, chính trị đáp ứng yêu
cầu của công việc.
- Kết quả học tập, rèn luyện của sinh viên.
Hiệu quả lao động của sinh viên trong công việc
Căn cứ vào thực tiễn hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trong
các trường đại học, luận án bước đầu xây dựng bộ 3 tiêu chí đánh giá chất lượng giáo
dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên. Đây được coi là những tiêu chí,
những chỉ số trọng tâm để đề tài đi vào đánh giá, khảo sát thực trạng công tác giáo
dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trong các trường đại học ở nước
ta trong giai đoạn hiện nay.
Kết luận chương 2
Nghiên cứu tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là cơ sở lý luận quan trọng để đi
vào nghiên cứu việc giáo dục tư tưởng này cho sinh viên các trường đại học ở nước
ta hiện nay. Trong chương này, luận án đã đi vào làm rõ những vấn đề sau:
Thứ nhất, luận án bước đầu đã đưa ra và làm rõ nội hàm khái niệm “Tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh” và khái niệm “Giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho
sinh viên các trường đại học”.
75
Thứ hai, khẳng định tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ
sở kết hợp hài hòa giữa các yếu tố: một là, truyền thống nhân ái của dân tộc nổi bật
là tinh thần yêu thương con người, yêu thương đồng loại, tinh thần khoan dung, yêu
chuộng hòa bình. Đây là cơ sở tiền đề để hình thành nên tư tưởng nhân văn của Người;
hai là, các giá trị tinh hoa nhân loại về lòng nhân ái, trong đó nổi bật là thuyết “Nhân”,
thuyết “Kiêm ái” của Nho giáo, nhân sinh quan nhân văn của Phật giáo, tư tưởng đề cao
con người trong văn hóa Phục hưng, thời kỳ Ánh sáng, tư tưởng tự do, dân chủ trong
cách mạng tư sản thế kỷ XVIII; ba là, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản với mục tiêu hướng
đến giải phóng triệt để con người trên toàn thế giới khỏi áp bức, bóc lột. Đây là cơ sở
quan trọng, quyết định trực tiếp đến việc hình thành tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
Thứ ba, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh được biểu hiện trên các nội dung sau:
một là, quan niệm của Hồ Chí Minh về con người và bản chất của con người. Trong
quan niệm của Hồ Chí Minh khái niệm con người dùng để chỉ những con người cụ
thể như gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn, đồng bào cả nước, loài người. Bản chất
của con người mang tính xã hội, nó được hình thành bởi sự tác động của các quan hệ
xã hội; hai là, tình yêu thương con người. Đó là tình yêu thương dành cho những
người cùng khổ trong xã hội, gắn liền với tình yêu thương là phải đấu tranh giải phóng
con người, tạo điều kiện cho con người phát triển; ba là, tinh thần khoan dung rộng
lớn. Đó là tinh thần khoan dung rộng lớn với nhân dân, với những người lầm đường
lạc lối, khoan dung với kẻ thù, tính nhân văn trong tư tưởng bạo lực cách mạng; bốn
là, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Giải phóng triệt để con
người, đem lại tự do, hạnh phúc cho con người là mục tiêu cao nhất của cách mạng,
mục tiêu này được thực hiện bằng sự nỗ lực của chính bản thân con người với tất cả
sức mạnh vật chất và tinh thần của mình; năm là, thực hiện chiến lược “trồng người”.
Coi con người là vốn quý nhất trong xã hội, là lực lượng có sức mạnh to lớn, là nhân
tố quyết định sự thành công của cách mạng, do vậy phải chăm lo, bồi dưỡng phát
triển con người cho sự nghiệp cách mạng, trong đó giáo dục là biện pháp quan trọng
hàng đầu để thực hiện thắng lợi chiến lược.
Thứ tư, việc giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh Việt Nam hiện
nay là rất cần thiết, nhằm: đáp ứng yêu cầu về chất lượng nguồn lao động toàn diện
76
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; từ đòi hỏi khách quan của quá
trình đổi mới giáo dục đại học ở nước ta; nhằm đáp ứng chính đòi hỏi nội sinh trong
sự pháp triển và hoàn thiện nhân cách của sinh viên.
Thứ năm, bước đầu xây dựng hệ tiêu chí để đánh giá chất lượng của hoạt động
giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trong các trường đại học. Chất lượng của
hoạt động này được đánh giá dựa trên các tiêu chí sau: tiêu chí về chất lượng chủ thể
của quá trình giáo dục; tiêu chí các yếu tố tham gia vào quá trình giáo dục tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh; tiêu chí đánh giá về kết quả của quá trình giáo dục tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh.
Đó là những nội dung cơ bản những vấn đề về tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
được luận án nghiên cứu, tìm hiểu trong nội dung chương 2. Việc giáo tư tưởng này
được thực hiện như thế nào cho sinh viên trong các trường đại học sẽ được luận án
tiếp tục làm rõ trong chương tiếp theo.
77
Chương 3
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG GIÁO DỤC
TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH CHO SINH VIÊN
CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM
3.1. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH
CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
3.1.1. Một vài đặc điểm về mẫu khảo sát của đề tài
3.1.1.1. Đặc điểm của địa bàn khảo sát
Từ phạm vi nghiên cứu của luận án, tác giả luận án đã lựa chọn địa bàn khảo
sát là khu vực miền Bắc. Đây là khu vực tập trung nhiều trường đại học với khối
lượng sinh viên đông nhất của cả nước. Về cách thức tiến hành khảo sát thực tế, để
đảm bảo tính khoa học, phù hợp với nội dung nghiên cứu, luận án đã tiến hành khảo
sát thông qua phiếu điều tra thực tế cho 1.120 sinh viên, 108 phiếu hỏi cho giảng viên
trực tiếp tham gia vào hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
Tỉ lệ sinh viên được phân theo mẫu điều tra khá đồng đều. Đồng đều trên khu
vực địa bàn được chọn khảo sát và đồng đều ở số lượng sinh viên được hỏi trên mỗi
khu vực.
Về cơ cấu trường đại học: Sinh viên từ 15 trường đại học tham gia vào mẫu
điều tra. Số trường và số sinh viên đảm bảo đúng tiêu chí chọn mẫu trong điều tra xã
hội học: tính ngẫu nhiên và tính đại diện. Số trường được chọn đảm bảo đại diện cho
các khu vực của miền Bắc. Số sinh viên được chọn tham gia vào mẫu điều tra đủ đại
diện cho các ngành khoa học tự nhiên, kỹ thuật; khoa học xã hội nhân văn; và khoa
học quân sự. Các trường khảo sát cụ thể là: Đại học Xây dựng, đại học Giao thông
Vận tải, đại học Kinh tế quốc dân, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, đại học Sư
phạm Hà Nội, đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Học viện Nông nghiệp Việt
Nam, đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên, đại học Chính trị, đại học Công nghiệp
Quảng Ninh, đại học Hải Phòng, đại học Sư phạm đại học Thái Nguyên, đại học Tây
Bắc, đại học Y dược thái Bình, đại học Vinh.
78
3.1.1.2. Đặc điểm về nhân khẩu học
Về đặc điểm của nhân khẩu học của nhóm sinh viên tham gia trong mẫu điều
tra (biểu đồ 3.1) cho thấy có 58,4% sinh viên là nữ, số lượng nam sinh viên ít hơn
41,6%. Cơ cấu này phù hợp với số liệu thống kê về cơ cấu giới tính trong đào tạo đại
học ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt ở những trường khoa học xã hội và
nhân văn thì số lượng nữ sinh viên chiếm tỉ số % cao hơn so với nam sinh.
Biểu đồ 3.1: Giới tính người trả lời
Về vị trí, nhiệm vụ đảm nhiệm trong lớp của nhóm sinh viên tham gia trong
mẫu điều tra là có 84,6% số sinh viên là thành viên bình thường ở trong lớp, có 15,4%
số thành viên trong lớp tham gia công tác trường, lớp, đoàn thể như ban chấp hành
Đoàn trường, Ban cán sự lớp, Ban chấp hành chi đoàn. Đây là một tỉ lệ khá cao số
sinh viên tham gia vào các vị trí trong trường, lớp.
Biểu đồ 3.2: Vị trí, nhiệm vụ trong đơn vị lớp, trường
41,6%
58,4%
Nam Nữ
6.69% 5.71%3%
84.60%
0.00%
10.00%
20.00%
30.00%
40.00%
50.00%
60.00%
70.00%
80.00%
90.00%
Cán bộ lớp Cán bộ Đoàn ở lớp Cán bộ Đoàn trường
Sinh viên bình thường
79
Về cơ cấu đoàn thể: Biểu đồ 3.3 cho thấy, các sinh viên đều tham gia các tổ
chức đoàn thể. Họ đều là những đoàn viên, một số sinh viên suất sắc, chịu khó rèn
luyện, tu dưỡng để được đứng trong hàng ngũ của Đảng
Biểu đồ 3.3: Cơ cấu đoàn thể
Về nơi ở hiện tại của sinh viên trong mẫu phiếu điều tra là khá đa dạng: ở cùng
bố mẹ, ở ký túc xá, thuê nhà trọ và một số phương án khác như ở nhà người quen.
Biểu đồ 3.4: Nơi ở hiện nay của sinh viên
Kết quả khảo sát thu được từ hoạt động điều tra thực tế là một cơ sở quan trọng
để luận án đi vào đánh giá thực trạng hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh cho sinh viên trong các trường đại học ở nước ta hiện nay.
15.30%
30.50%
47.50%
6.60%
0.00%
5.00%
10.00%
15.00%
20.00%
25.00%
30.00%
35.00%
40.00%
45.00%
50.00%
Nhà của bố mẹ Ký túc xá Nhà trọ Nới khác
60.20%11.70%
4.80%
11.20%
4.40%7.70% Đoàn viên
Hội viên Hội sinh viên
Thanh niên tình nguyện
Sinh viên bình thường
Đảng viên
Cảm tình đảng
80
3.1.2. Thực trạng
Thực trạng của hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh
viên trong các trường đại học đó là những thành tựu đạt được và những hạn chế còn
tồn tại trên một số mặt cơ bản trong hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh cho sinh viên trong các trường đại học. Trong khuôn khổ đề tài luận án, tác giả
tập trung vào đánh giá thực trạng của hoạt động này trên một số mặt cơ bản như: chất
lượng của các chủ thể giáo dục trong nhà trường; chất lượng các yếu tố tham gia vào
quá trình giáo dục và những kết quả đạt được của quá trình giáo dục tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trong các trường đại học ở nước ta hiện nay.
3.1.2.1. Những thành tựu chủ yếu và nguyên nhân
* Thành tựu
- Thứ nhất, về chất lượng của các chủ thể giáo dục
Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước và ngành Giáo dục đã rất quan tâm,
chú trọng tới giáo dục và đào tạo, nâng cao nhận thức về công tác giáo dục tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh cho các tầng lớp nhân dân nói chung và giáo dục tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh cho sinh viên nói riêng. Việc nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí
Minh nhằm thuấn nhuần sâu sắc hệ thống quan điểm và phương pháp cách mạng Hồ
Chí Minh, nâng cao lòng yêu nước, tinh thần phục vụ nhân dân, đạo đức cách mạng
của mỗi người để làm cho chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự trở
thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Trên tinh thần đó, Đảng, Nhà
nước và ngành giáo dục đã yêu cầu phải đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy
các môn khoa học Mác – Lênin, tiến hành biên soạn giáo trình mới về các bộ môn
khoa học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để có tài liệu giảng dạy thống nhất
trong cả nước nhằm nâng cao chất lượng học tập, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh cho
sinh viên trong cả nước. Việc coi trọng hoạt động giáo dục chủ nghĩa Mác – Lê nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh nói riêng của
Đảng, Nhà nước, của Ngành giáo dục đã tác động sâu sắc đến nhận thức và hành động
của các chủ thể giáo dục trong các trường đại học.
Sự nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng hoạt động giáo dục tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh cho sinh viên của bộ phận lãnh đạo, cán bộ quản lý trong các
81
trường đại học đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng của hoạt động
này trong các trường đại học ở nước ta. Từ việc nhận thức đó, Ban Giám hiệu, lãnh
đạo quản lý các Khoa, Phòng, Ban các trường đại học luôn quan tâm, chỉ đạo đến các
hoạt động dạy và học các môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các
cuộc vận động, cuộc thi liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh. Việc tổ chức các cuộc
thi tìm hiểu về tư tưởng Hồ Chí Minh với các hình thức sinh động, phong phú sẽ lôi
cuốn được đông đảo sinh viên tham gia tìm hiểu về tư tưởng và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh, góp phần rèn luyện phẩm chất đạo đức. Do đó, các trường đã
thường xuyên chỉ đạo việc triển khai tổ chức cuộc vận động học tập và làm theo tư
tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cho toàn thể cán bộ, giảng viên và sinh viên
trong toàn trường. Cùng với đó là việc lôi cuốn sinh viên tham gia vào tìm hiểu,
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh với những hình thức đa dạng, phong phú đã được
nhiều trường quan tâm thông qua việc triển khai, tổ chức cuộc thi Olympic các môn
khoa học Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh thường xuyên hàng năm cho sinh viên.
Bảng 3.1: Thống kê các trường ĐH, CĐ trong cả nước triển khai cuộc
thi Olympic các môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
TT Năm học Số trường triển khai
cuộc thi
Số lượng sinh viên
tham gia
1 2014-2015 359 355.140
2 2015-2016 352 541.674
Nguồn: [37], [38].
Sự quan tâm của đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý trong các trường đại học đến
công tác giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh nói riêng thông qua việc thường xuyên chỉ đạo, tổ chức các cuộc vận động học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, các cuộc thi Olympic các môn khoa
học Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học đã góp phần
quan trọng vào việc đẩy mạnh hoạt động, nâng cao chất lượng giáo dục tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trong các trường đại học.
Đội ngũ giảng viên trong các trường đại học đã không ngừng nâng cao nhận
thức, trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp để đáp ứng yêu cầu sự
82
nghiệp giáo giáo dục, đào tạo nói chung và giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
nói riêng trong các trường đại học. Theo khảo sát có 67,8% số giảng viên được hỏi
khẳng định rất cần thiết phải giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên
trong bối cảnh hiện nay và 16,5% cho rằng là cần thiết. Việc nhận thức đó làm cho
các giảng viên trong quá trình giảng dạy đã thấy trách nhiệm của mình trong việc
nâng cao chất lượng giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên, từ đó
họ đã chủ động, sáng tạo trong quá trình giáo dục, biết lồng ghép các nội dung giáo
dục vào trong bài giảng của mình khi giảng bài cho sinh viên.
Chất lượng của hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh
viên trong các trường đại học phụ thuộc rất lớn vào chất lượng của các chủ thể giáo
dục trong nhà trường, trong đó đặc biệt là chất lượng của đội ngũ giảng viên trực tiếp
tham gia vào hoạt động giáo dục – giảng viên lý luận chính trị. Chất lượng của đội
ngũ giảng viên trong hoạt động giáo dục được thể hiện ở: phẩm chất chính trị, đạo
đức, lối sống; năng lực chuyên môn.
Về trình trình độ chuyên môn: các trường đại học luôn tạo điều kiện để đội
ngũ giảng viên lý luận chính trị được tham gia vào hoạt động học tập nâng cao trình
độ chuyên môn ở trong và ngoài nước. Do vậy, số lượng giảng viên lý luận chính trị
trong các trường đại học có trình độ sau đại học ngày càng đông. Tại các trường đại
học được đề tài tiến hành khảo sát, giảng viên lý luận chính trị có trình độ sau đại học
chiếm 85,8% tổng số giảng viên. Bên cạnh đó, các trường đại học luôn tạo điều kiện
để đội ngũ giảng viên lý luận chính trị được tham gia vào các chương trình tập huấn,
bồi dưỡng ngắn hạn, bồi dưỡng kiến thức theo chuyên đề do Bộ giáo dục, Ban Tuyên
giáo Trung ương tổ chức. Theo khảo sát thực tế của luận án, có 95,8% các trường đại
học thường xuyên cử các giảng viên lý luận chính trị tham gia vào các lớp tập huấn
hè do Bộ giáo dục kết hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức hàng năm. Điều
này làm cho đội ngũ giảng viên lý luận chính trị trong các trường đại học không chỉ
nâng cao trình độ chuyên môn mà còn giúp họ cập nhật những kiến thức, những chủ
trương mới của Ngành, của Đảng, Nhà nước về công tác giáo dục đào tạo, trong đó
có công tác giáo dục sinh viên.
83
Về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của đội ngũ giảng viên: đây là một
yếu tố giữ vị trí quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục tư tưởng Hồ Chí
Minh nói chung, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh nói riêng, bởi tấm gương sáng về
đạo đức, nhân văn, lối sống của chính các giảng viên có tác động tích cực đến việc
rèn luyện của sinh viên. Do vậy, các trường đại học đã luôn chú ý đến công tác giáo
dục, bồi dưỡng, phát huy tinh thần tự giác rèn luyện đạo đức, lối sống của giảng viên.
Điều này đã làm cho chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị trong các trường
đại học được nâng cao, họ luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng; không hoang
mang dao động về chính trị tư tưởng; tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới của đất nước,
có bản lĩnh chính trị nhạy bén; không ngừng trau dồi, củng cố và phát triển đạo đức
cách mạng, thấm nhuần ý thức về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; tích cực
tham gia vào các hoạt động xã hội vì cộng đồng... Khảo sát thực tế tại các trường đại
học cho thấy, tỉ lệ giảng viên lý luận chính trị là đảng viên chiếm 75,6%, trong đó
giảng viên lý luận chính trị có trình độ lý luận cao cấp hoặc tương đương cao cấp
chiếm 35,8% số giảng viên. Có 60,5% số giảng viên lý luận chính trị đã từng tham
gia vào các hoạt động nhân đạo, từ thiện, tình nguyện vì cộng đồng, trong đó 27.2%
giảng viên thường xuyên tham gia các hoạt động trên. Những kết quả trên về phẩm
chất chính trị, đạo đức, lối sống của đội ngũ giảng viên lý luận chính trị đã góp phần
quan trọng vào việc nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ
Chí Minh cho sinh viên, bởi các thầy cô là tấm gương sáng về đạo đức, nhân văn để
sinh viên noi theo rèn luyện.
Đối với sinh viên trong các trường đại học, các em vừa là đối tượng của hoạt
động giáo dục, nhưng đồng thời các em cũng là chủ thể của hoạt động giáo dục khi
các em biết phát huy vai trò tự giáo dục trong nhà trường. Trong những năm qua,
Đảng, Nhà nước và Ngành giáo dục đã tiến hành đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo
dục nước nhà, làm cho mặt bằng chung chất lượng sinh viên đầu vào của các trường
đại học được nâng lên, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao chất lượng giáo dục,
đào tạo của các trường đại học trong cả nước.
Các tổ chức Đoàn thể, trong nhà trường đã phát huy tốt vai trò của mình trong
các hoạt động giáo dục chính trị, truyền thống, đạo đức, lối sống cho sinh viên, từng
84
bước trở thành môi trường sinh hoạt lành mạnh giúp sinh viên tiếp nhận được những
lý tưởng cao đẹp của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đoàn Thanh
niên, Hội Sinh viên trong các trường đại học đã tạo ra sức hút lớn đối với sinh viên
thông qua các phong trào tình nguyện vì cộng đồng, các hoạt động nhân đạo, từ thiện,
các phong trào nghiên cứu khoa học… Theo khảo sát thực tế của tác giả luận án, có
đến 68,7% sinh viên được hỏi thích tham gia các hoạt động đoàn thể bởi các hoạt
động của Đoàn Thanh niên sôi nổi, hiệu quả và thiết thực, đội ngũ cán bộ đoàn đã thể
hiện được năng lực và khả năng thu hút sinh viên trong tổ chức các hoạt động. Với
các hoạt động ngoại khóa của các tổ chức Đoàn thể, đã làm cho việc giáo dục chính
trị tư tưởng trở nên không khô khan, cứng nhắc và phù hợp với sở thích của sinh viên.
Đây chính là những kết quả quan trọng mà các tổ chức Đoàn thể trong các trường đại
học đã phát huy được trong hoạt động giáo dục chính trị, tư tưởng nói chung và giáo
dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh nói riêng trong các trường đại học ở nước ta.
- Thứ hai, chất lượng các yếu tố tham gia vào hoạt động giáo dục được nâng
lên.
Về xây dựng chương trình môn học.
Chương trình môn học không chỉ là yếu tố cốt lõi, cơ bản của quá trình dạy
học, mà còn tạo nên nội dung cơ bản của hoạt động dạy của giảng viên, tác động đến
việc lĩnh hội kiến thức và rèn luyện kỹ năng cho sinh viên. Việc xây dựng chương
trình môn học trong các trường đại học phải phù hợp với mục tiêu của giáo dục đại
học ở nước ta hiện nay, ngoài việc giúp trang bị kiến thức chuyên ngành, nội dung
chương trình còn chú trọng đến đào tạo sinh viên có kỹ năng thực hành, khả năng tự
học, có phẩm chất đạo đức, nhân văn. Chính vì vậy việc xây dựng chương trình môn
học Mác - Lênin nói chung và môn học tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng đã được các
trường đại học trong cả nước đặc biệt quan tâm xây dựng để phù hợp với mục tiêu
giáo dục, không chỉ trang bị cho sinh viên nhưng kiến thức chuyên môn mà còn bồi
dưỡng cho họ những phẩm chất đạo đức, nhân văn.
Thành tựu lớn nhất về xây dựng chương trình môn học tư tưởng Hồ Chí Minh
trong các trường đại học là việc Bộ giáo dục và đào tạo đã xây dựng chương trình
môn học Tư tường Hồ Chí Minh dùng cho sinh viên khối không chuyên ngành Mác
85
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, được ban hành kèm theo quyết định số 52/2008/QĐ-
BGDĐT ngày 19/8/2008. Việc Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành chương trình môn
học tư tưởng Hồ Chí Minh chung cho sinh viên khối không chuyên ngành Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trình độ đại học cao đẳng là cơ sở để tạo nên sự thống
nhất về chương trình môn học này, nó là cơ sở pháp lý và khoa học để các trường xây
dựng chương trình môn học tư tưởng Hồ Chí Minh với các nội dung phù hợp với đối
tượng sinh viên, với ngành học của trường mình.
Sự thống nhất trong xây dựng chương trình môn học, đã làm cho mục tiêu môn
học tư tưởng Hồ Chí Minh khi giáo dục cho sinh viên được thống nhất, đó là hướng
đến cung cấp cho sinh viên những hiểu biết có tình hệ thống về tư tưởng, đạo đức,
giá trị văn hóa của tư tưởng Hồ Chí Minh; cung cấp những kiến thức cơ bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin; góp phần xây dựng nền tảng đạo đức nhân văn cho con người
mới ở nước ta hiện nay. Ngoài ra, chương trình môn học tư tưởng Hồ Chí Minh đã
được các trường thường xuyên bổ sung nội dung cho phù hợp với tình hình thực tiễn
của đất nước, phù hợp với sự bổ sung và phát triển đường lối của Đảng trong các nghị
quyết, văn kiện của Đảng, cũng như phù hợp với từng đối tượng, ngành học của sinh
viên các trường.
Về xây dựng giáo trình
Giáo trình chính là tài liệu quan trọng cho sinh viên sử dụng trong quá trình
học tập môn học, giáo trình không chỉ cung cấp kiến thức môn học cho sinh viên mà
còn có vai trò định hướng trong việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cho sinh viên. Để
tạo sự thống nhất trong giảng dạy môn học tư tưởng Hồ Chí Minh cho sinh viên trên
cả nước, Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa
học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã xuất bản cuốn “Giáo trình tư tưởng Hồ
Chí Minh” do nhà xuất bản chính trị quốc gia xuất bản năm 2003. Giáo trình đã trình
bày một cách hệ thống, toàn diện các luận điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh về cách
mạng Việt Nam và được sắp xếp thành 12 chương theo trình tự logic. Đây là một tài
liệu quan trọng nhằm tạo sự thống nhất về mặt nội dung, khiến thức của môn học tư
tưởng Hồ Chí Minh trong giảng dạy và nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta.
Trên cơ sở cuốn giáo trình quốc gia này, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã biên soạn cuốn
86
giáo trình môn học tư tưởng Hồ Chí Minh dùng cho sinh viên khối không chuyên
ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các trường đại học đã lựa chọn nội dung
chuyên đề phù hợp với đối tượng, ngành đào tạo của trường mình để biên soạn giáo
trình, tập bài giảng giêng cho sinh viên của trường.
Việc bổ sung, sửa đổi giáo trình môn học tư tưởng Hồ Chí Minh cũng đã được
các trường thực hiện một cách thường xuyên, định kỳ nhằm cập nhật những nội dung
nghiên cứu mới về Hồ Chí Minh, những chủ trương, chính sách, đường lối mới của
Đảng trong các Nghị quyết, văn kiện, điều này làm tăng tính thực tiễn trong giảng
dạy và học môn học tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên các trường đại học hiện nay.
Những điều kiện vật chất hỗ trợ công tác giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh trong các trường đại học, là một nhân tố không kém phần quan trọng trong việc
nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục nói chung, giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ
Chí Minh cho sinh viên trong các trường đại học nói riêng.
Các điều kiện hỗ trợ công tác giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho
sinh viên như thư viện, phòng học, các phương tiện, giáo cụ trực quan (tranh ảnh, sơ
đồ, phim tư liệu...)... phục vụ cho giảng dạy học tập, sinh hoạt đã được các trường đại
học chú trọng đầu tư, đáp ứng yêu cầu của hoạt động giáo dục, góp phần không nhỏ
vào việc nâng cao chất lượng giáo dục nói chung, giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh cho sinh viên nói riêng. Chất lượng này được thể hiện thông qua sự đánh giá
của chính sinh viên, qua bảng số liệu sau:
Bảng 3.2: Đánh giá của sinh viên về mức độ đáp ứng của yêu cầu của hệ
thống cơ sở vật chất đối với việc học tập rèn luyện.
Đơn vị tính: %
TT Hệ thống cơ sở vật chất
Mức độ đánh giá
Đáp ứng tốt Đáp ứng Không đáp
ứng
1 Hệ thống phòng học công nghệ 20,5 55,4 24,1
2 Thư viện 17,5 47,7 34,8
3 Phòng truyền thống 15,3 30,2 54,5
87
4 Khu sinh hoạt VH, TDTT 20,8 40,5 38,7
5 Ký túc xá 7 23,5 69,5
(Nguồn: kết quả khảo sát thực tế của tác giả luận án)
Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của các điều kiện hỗ trợ công tác
giáo dục nói chung, giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh nói riêng cho sinh viên,
các trường đại học đã rất chú trọng đến công tác xây dựng và nâng cao chất lượng
hiệu quả phục vụ của hệ thống thư viện nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho việc cung cấp
môi trường học tập, nghiên cứu, cung cấp giáo trình, tài liệu, thông tin cho việc học
tập, tìm hiểu, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh. Việc cung cấp thêm các tư tiệu, sách
tham khảo về Hồ Chí Minh cho sinh viên đã được các trường quan tâm. Trong hệ
thống thư viện của các trường đại học, có 35% hệ thống thư viện có tủ sách, khu trưng
bày sách, hình ảnh, các tư liệu về Hồ Chí Minh phục vụ cho việc thực hiện cuộc vận
động học tập và làm theo tư tưởng tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong nhà trường.
Hệ thống thư viện điện tử cũng được các trường đầu tư thực hiện, 65% số trường có
hệ thống thư viện điện tử giúp người học có điều kiện tìm hiểu thông tin, tư liệu đã
góp phần nâng cao hiệu quả học tập và rèn luyện theo tư tưởng đạo đức nhân văn Hồ
Chí Minh của sinh viên trong nhà trường.
Trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, các trường đại học
đã không ngừng đầu tư phòng học hiện đại, các trang thiết bị, máy móc phục vụ công
tác giảng dạy và học tập trong nhà trường. Với các phương tiện công nghệ hỗ trợ
giảng dạy như máy chiếu Projector, máy tính, mạng Internet, hệ thống âm thanh… sẽ
giúp giảng viên truyền tải nội dung môn học với những hình thức sinh động, tạo hứng
thú cho người học, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học trong các trường đại
học ở nước ta hiện nay. Đặc biệt còn có một số trường còn có phòng chiếu phim tư
liệu để phục vụ công tác giảng dạy và học tập của sinh viên.
Phòng truyền thống nhà trường nơi lưu giữ các hiện vật lịch sử, nơi trưng bày
những hiện vật liên quan đến quá trình hình thành và phát triển. Đây cũng là nơi để
giáo dục đạo đức cách mạng, giáo dục lý tưởng cho sinh viên. Vì vậy, phòng truyền
thống trong các trường đại học có vai trò hết sức quan trọng trong công tác giáo dục
đạo đức, truyền thống cho sinh viên nói chung và giáo dục tư tưởng nhân văn nói
88
riêng. Nhận thức được vai đó, các trường đại học đã quan tâm và chú trọng đẩy mạnh
công tác sưu tầm, bảo quản các tài liệu, hiện vật, tranh ảnh… và duy trì hoạt động
thường xuyên của phòng truyền thống, qua đó đã thu hút đông đảo sinh viên đến tham
quan, tìm hiểu truyền thống, lịch sử của nhà trường, góp phần nâng cao chất lượng
của hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Theo khảo sát thực tế của
luận án, có 45,5% sinh viên cho rằng phòng truyền thống của trường mình đã đáp
ứng yêu cầu cho việc thăm quan, giáo dục truyền thống cho sinh viên.
Như vậy, những điều kiện vật chất hỗ trợ hoạt động giáo dục đã được các
trường đại học quan tâm, đặc biệt là việc đầu tư, xây dựng hệ thống thư viện, nhà
truyền thống, phòng học hiện đại với các phương tiện, công nghệ hỗ trợ giảng dạy.
Điều này góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo nói
chung, giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên nói riêng.
Việc phối hợp giữa Nhà trường và gia đình trong hoạt động giáo dục đã được
quan tâm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục sinh viên. Sự kết hợp này được thể
hiện ở việc các trường đã xây dựng mối liên hệ gữa nhà trường với gia đình thông
qua việc gửi kết quả học tập, rèn luyện định kỳ hàng năm về cho gia đình; kết quả
học tập, rèn luyện của sinh viên được đưa lên mạng Internet trên các trang Web của
nhà trường. Sự phối hợp giữa nhà trường với các tổ chức chính trị, đoàn thể tại địa
phương thông qua các hoạt động xã hội như tuyên truyền giáo dục pháp luật, tìm hiểu
lịch sử, truyền thống địa phương, giao lưu văn hóa, văn nghệ… cũng được các trường
quan tâm tổ chức thực hiện. Việc xây dựng được mối quan hệ, sự phối hợp giữa nhà
trường với gia đình, tổ chức đoàn thể chính trị xã hội… đã góp phần vào việc nâng
cao chất lượng giáo dục của nhà trường nói chung, giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ
Chí Minh nói riêng.
- Thứ ba, kết quả đạt được của quá trình giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh trong các trường đại học
Một trong những thành tựu lớn nhất và có ý nghĩa quan trọng mà các trường
đại học đã đạt được trong hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho
sinh viên chính là sự thay đổi về đổi về thế giới quan, nhân sinh quan và những hành
89
vi nhân văn trong hoạt động thực tiễn của sinh viên sau một quá trình được giáo dục,
rèn luyện. Thành tựu về kết quả này được thể hiện trên những nội dung sau:
Đã có sự thay đổi theo hướng tích cực về thế giới quan, nhân sinh quan nhân
văn trong sinh viên. Qua khảo sát cho thấy, hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ
Chí Minh cho sinh viên đã giúp các em có nhận thức đúng đắn về sự cần thiết của
vệc tu dưỡng, rèn luyện theo tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Đa số sinh viên hiện
nay đều cho rằng việc học tập các môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
nói chung, chuyên đề tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh nói riêng là cần thiết đối với
bản thân. Nhận thức này được thể hiện ở bảng số liệu sau:
Bảng 3.3: Đánh giá nhận thức của sinh viên về sự cần thiết của việc học
tập các môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Đơn vị tính: %
TT Nội dung nhận thức Mức độ đánh giá
Rất cần
thiết
Cần
thiết
Không
cần thiết
1
Cần thiết học tập các môn khoa học Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh 26,5 37,8 35,7
2 Cần thiết học tập chuyên đề tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh 52 40 8
(Nguồn: kết quả khảo sát thực tế của tác giả luận án)
Từ nhận thức về sự cần thiết phải học tập các môn khoa học Mác – Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh đối với việc tu dưỡng, rèn luyện của bản thân, nên các em đều
có ý thức nghiêm túc, tự giác trong việc học tập các môn học này. Cũng theo kết quả
khảo sát của luận án, có 82,3% số sinh viên cho rằng mình tham gia học trên 80%
thời lượng các môn học này.
Khi được giáo dục về tri thức nhân văn Hồ Chí Minh sẽ giúp cho sinh viên có
được thái độ đúng đắn, niềm tin vững chắc vào thắng lợi của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta, niềm tin vào khả năng của bản thân, cũng như có thái độ phê
phán, đấu tranh trước những cái xấu, sự vô cảm trong xã hội… Đây là một kết quả
quan trọng của công tác giáo dục tư tưởng nhân văn cho sinh viên mà các trường đã
đạt được trong những năm vừa qua. Bước đầu, các trường đại học đã bồi dưỡng, hình
90
thành được ở một bộ phận sinh viên sống có hoàn bão, có niềm tin vào những điều
tốt đẹp trong cuộc sống. Theo kết quả khảo sát của luận án, với câu hỏi, “Trước những
biểu hiện, hành động tiêu cực, phi nhân văn,… bạn sẽ làm gì?”, có 29,2% sinh viên
cho rằng mình sẽ hành động và lên tiếng trước những biểu hiện, hành động tiêu cực
đó. Khi được giáo dục về các giá trị nhân văn Hồ Chí Minh, đặc biệt là tấm gương
đạo đức, nhân văn vì nước, vì dân sáng ngời của Người đã tác động sâu sắc đến nhận
thức của sinh viên, với câu hỏi: “Bạn có sẵn sàng tham gia vào những công việc khó
khăn nếu tổ quốc và nhân dân cần?” có 30,9% sinh viên cho rằng mình sẵn sàng
tham gia. Như vậy, với những kết quả khảo sát trên cho thấy, công tác giáo dục tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trong các trường đại học bước đầu đã tạo
sự chuyển biến trong nhận thức, thế giới quan, nhân sinh quan nhân văn sinh viên.
Sự thay đổi về nhận thức, về thế giới quan, nhân sinh quan nhân văn trong sinh
viên là cơ sở quan trọng đóng vai trò định hướng cho toàn bộ hoạt động của sinh viên.
Vì vậy, thế giới quan nhân văn đúng đắn là tiền đề để xác định hành vi nhân văn đúng
đắn trong sinh viên. Từ việc giáo dục cho sinh viên nhận thức về tầm quan trọng của
việc rèn luyện theo tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, số lượng sinh viên các trường
đại học tham gia ngày càng đông đảo vào các hoạt động tình nguyện vì cộng đồng,
các hoạt động từ thiện, hoạt động nhân đạo... do nhà trường hay các tổ chức đoàn thể
phát động. Theo kết quả khảo sát của tác giả luận án, với câu hỏi: “Trong quá trình
học tập, bạn có tham gia vào hoạt động tình nguyện vì cộng đồng, hoạt động hiến
máu nhân đạo, hoạt động từ thiện không?”. Đối với hoạt động tình nguyện vì cộng
đồng có 23,5% sinh viên cho rằng mình thường xuyên tham gia, 35,7% số sinh viên
cho rằng mình đã từng tham gia hoạt động này. Hoạt động hiến máu nhân đạo, có
13,7% sinh viên trả lời rằng mình thường xuyên tham gia, có 38,5% số sinh viên cho
rằng mình đã từng tham gia hoạt động này. Hoạt động từ thiện như ủng hộ người
nghèo, đồng bào bị thiên tai có 55,8% sinh viên trả lời rằng mình thường xuyên tham
gia, có 40,3% số sinh viên cho rằng mình đã từng tham gia hoạt động này.
91
Bảng 3.4: Hoạt động xung kích, tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng của
đoàn viên thanh niên các trường ĐH, CĐ
STT Năm học
Nội dung hoạt động 2014 - 2015 2015 - 2016
1 Hỗ trợ, tu sửa nhà
tình nghĩa
Số nhà 1.662 1.684
Trị giá
Tr.đ 18.594 70.208
2 Hỗ trợ gia đình
TBLS, gia đình CS
Số gia đình 10.300 8.971
Kinh phí hỗ trợ
(Tr.đ) 10.727 57.198
3 Chiến dịch tình
nguyện hè
Số HSSV tham gia 961.173 811.551
Đội
hình tập
trung
Số đội 4.498 3.942
Số thành
viên 257.944 201.518
Tổng kinh phí huy
động (Tr.đ) 86.387 19.783
4 Tiếp sức đến trường
Số HSSV được hỗ
trợ 140.168 247.767
Tổng kinh phí huy
động (Tr.đ) 136.465 57.845
5 Hiến máu tình nguyện
Số ĐVTN tham gia
(lượt) 226.627 277.589
Tổng số đơn vị
máu thu được 215.458 357.247
(Nguồn: [37], [38]).
Số liệu khảo sát thực tế trên cho thấy rằng phần lớn sinh viên trong các trường
đại học đã và thường xuyên tham gia các hoạt động tình nguyện vì cộng đồng, hoạt
động nhân đạo, hoạt động từ thiện để giúp đỡ những người gặp khó khăn, các em đã
biết sống có trách nhiệm với cộng đồng. Điều đó cho thấy, công tác giáo dục tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trong các trường đại học đã đạt được hiệu quả
92
nhất định, đã tác động đến nhận thức và tình cảm của sinh viên về tình yêu thương
con người, đồng loại, ngày càng lôi cuốn đông đảo sinh viên tham gia.
Như vậy, công tác giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên
bước đầu đã đạt được những kết quả nhất định, các cán bộ quản lý, giảng viên và đặc
biệt là sinh viên trong các trường đại học đã nhận thức được tầm quan trọng của công
tác giáo dục tư tưởng nhân văn trong sự hình thành nhân cách của người học; các
trường đã chú ý đến công tác xây dựng xây dựng đội ngũ giảng viên, xây dựng chương
trình, giáo trình nhằm lồng ghép nội dung giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
trong quá trình học tập; đặc biệt là các trường đã chú trọng đầu tư, hỗ trợ các điều
kiện vật chất cần thiết nhằm nâng cao chất lượng công tác giáo dục tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh cho sinh viên; sự nỗ lực của sinh viên trong học tập, tham gia tích
cực vào các hoạt động tình nguyện vì cộng đồng, hoạt động nhân đạo, từ thiện. Không
ngừng phấn đấu cho lý tưởng vì sự tự do, hạnh phúc của con người.
* Nguyên nhân của thành tựu
Thứ nhất, do Đảng, Nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã kịp thời ban hành
những chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn để định hướng cho hoạt động giáo
dục nói chung, hoạt động giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong đó có giáo dục tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh nói riêng. Đồng thời Đảng, Nhà nước đã có những đầu
tư kinh phí lớn cho các hoạt động liên quan đến công tác giáo dục tư tưởng Hồ Chí
Minh nói chung, giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh nói riêng trong các trường
đại học, tổ chức các lớp tập huấn cho các giảng viên lý luận chính trị, công tác đổi
mới, biên soạn giáo trình, chương trình môn học tư tưởng Hồ Chí Minh...
Thứ hai, Trong các trường Đại học, Đảng ủy, Ban Giám hiệu nhà trường đã
bước đầu có sự nhận thức cần thiết phải giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
cho sinh viên. Cùng với quá trình giáo dục các kiến thức chuyên môn, công tác giáo
dục phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh
viên cũng được Ban Giám hiệu nhà trường quan tâm. Các trường đều đẩy mạnh việc
học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, thi Olympic các
môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh tổ chức thường xuyên các hoạt
động tình nguyện, nhân đạo, từ thiện vì cộng đồng.
93
Để nâng cao trình độ chuyên môn cũng như kiến thức thực tế cho sinh viên,
các trường đã tổ chức cho sinh viên đi thực tập, sản xuất, thực tế, tham quan, dã ngoại
tại các địa phương để tìm hiểu văn hóa, cuộc sống lao động sản xuất của nhân dân.
Vì vậy, tính thực tiễn trong công tác giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho
sinh viên được tăng lên.
Thứ ba, những giá trị đạo đức, nhân văn truyền thống yêu thương con người,
nhân ái, sống có tình có nghĩa cũng là một trong những nguyên nhân góp phần quan
trọng trong việc giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên, khơi dậy
trong sinh viên lòng nhân ái, tình yêu thương đồng loại, giúp họ nhận thức rõ tình yêu
thương, quý trọng con người, thấy được sức mạnh to lớn trong nhân dân, đấu tranh
vì sự hạnh phúc của con người không chỉ là trách nhiệm mà còn là tình cảm đạo đức,
phẩm chất của người lao động trong sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay.
Thứ tư, về phía sinh viên, đa số sinh viên đã nhận thức được tầm quan trọng
của của việc giáo dục, rèn luyện theo tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trong quá trình
học tập của mình. Do vậy, việc học tập, tìm hiểu làm theo tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh đã trở thành nghĩa vụ đạo đức đối với họ. Bên cạnh việc học tập, trau dồi kiến
thức chuyên môn, sinh viên đã chủ động chú trọng rèn luyện các phẩm chất đạo đức,
lòng nhân ái, biết quan tâm chia sẻ với người khác, tham gia vào các hoạt động nhân
đạo, từ thiện... theo tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
3.1.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ
Chí Minh cho sinh viên trong các trường đại học cũng còn tồn tại nhiều hạn chế, ảnh
hưởng đến hiệu quả của hoạt động giáo dục này.
* Hạn chế
- Thứ nhất, một bộ phận các chủ thể tham gia vào quá trình giáo dục chưa
nhận thức sâu sắc về vai trò, vị trí của hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh cho sinh viên.
Cán bộ quản lý
Vẫn còn một bộ phận cán bộ quản lý chưa thực sự nhận thức đúng về vai trò
của hoạt động này, từ đó dẫn đến việc tổ chức, chỉ đạo, triển khai thực hiện cuộc vận
94
động học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh ở một số trường
còn chưa thường xuyên, thực hiện mang tính hình thức. Việc định kỳ tổng kết đánh
giá hiệu quả của cuộc vận động này vẫn chưa được nhiều trường thực hiện. Tổ chức
cuộc thi Olympic các môn khoa học Mác – Lênin cho sinh viên vẫn chưa được thực
hiện ở nhiều trường đại học. Thực trạng trên cho thấy thấy rằng, sự nhận thức về tầm
quan trọng của hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên ở
một một bộ phận cán bộ quản lý trong các trường đại học chưa được sâu sắc.
Đội ngũ giảng viên
Là chủ thể trực tiếp tham gia vào hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ
Chí Minh cho sinh viên, nhưng đội ngũ giảng viên vẫn còn một bộ phận coi các môn
lý luận chính trị là những môn phụ, cần rút ngắn thời lượng của môn học trong chương
trình đào tạo… Do đó, hiệu quả của hoạt động giáo dục này ở một số trường còn chưa
cao, các giảng viên trong quá trình giảng dạy chưa thật sự chủ động trong việc lồng
ghép nội dung giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh vào bài giảng cho người học.
Về chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị, mà trước hết là giảng viên
tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế. Tư
tưởng Hồ Chí Minh với tư cách là một môn học riêng biệt được đưa vào giảng dạy
trong các trường cao đẳng đại học trong cả nước từ năm học 2003, do đó, đội ngũ
giảng viên giảng dạy môn học tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học một
số chưa được đào tạo chính quy, bài bản về chuyên môn. Qua tìm hiểu thực tế tại các
trường đại học, một số giảng viên giảng dạy môn học tư tưởng Hồ Chí Minh là tốt
nghiệp từ các chuyên ngành như: Lịch sử Đảng, xây dựng Đảng, Triết học, Kinh tế
chính trị; Chủ nghĩa xã hội khoa học. Số giảng viên giảng viên giảng dạy tư tưởng
Hồ Chí Minh có trình độ sau đại học, đặc biệt là giảng viên có trình độ tiến sĩ đúng
chuyên ngành còn ít. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng hoạt động
giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trong các trường đại học.
Bên cạnh năng lực về chuyên môn, phẩm chất về chính trị, đạo đức, nhân văn
của một bộ phận giảng viên trong các trường đại học cũng ảnh hưởng rất lớn đến chất
lượng của hoạt động giáo dục này. Vẫn còn các giảng viên trong các trường đại học,
trong đó có giảng viên lý luận chính trị do ảnh hưởng của cơ chế thị trường, cùng với
95
đời sống còn nhiều khó khăn, đã chạy theo vật chất đơn thuần, thiếu tu dưỡng, rèn
luyện, vi phạm đạo đức nghề nghiệp, làm ảnh hưởng đến hoạt động giáo dục đạo đức,
nhân văn cho sinh viên trong các trường đại học. Sự suy thoái về phẩm chất chính trị,
đạo đức, nhân văn của một bộ phận giảng viên trong các trường đại học đã làm cho
bản thân các thầy, cô giáo không còn là tấm gương sáng trong việc tu dưỡng, rèn
luyện để sinh viên noi theo trong quá trình rèn luyện.
Việc năng lực, phẩm chất của một bộ phận đội ngũ giảng viên trong các trường
đại học còn hạn chế là một thực trạng ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động giáo
dục nói chung và giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên nói riêng
trong các trường đại học ở nước ta hiện nay.
Sinh viên
Do áp lực của chỉ tiêu tuyển sinh, đa số các trường đại học thuộc nhóm 2 lấy
điểm trúng tuyển bằng điểm sàn do Bộ Giáo dục và đào tạo quy định, và sử dụng hình
thức xét tuyển học bạ để tuyển sinh. Với chất lượng đầu vào của sinh viên thấp như
vậy đã dẫn đến việc nhiều sinh viên không chủ động, tự giác trong việc tu dưỡng, rèn
luyện, thờ ơ với các phong trào xã hội, hoạt động nhân đạo, một bộ phận còn mắc vào
các tệ nạn xã hội... Điều này đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng của hoạt
động giáo dục nói chung, hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh nói riêng.
Các tổ chức đoàn thể
Sự hoạt động của các tổ chức đoàn thể trong việc phối hợp giáo dục tư tưởng,
chính trị, đạo đức nói chung, giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh nói riêng trong
một số trường đại học vẫn còn biểu hiện hình thức, tính thiết thực, sáng tạo trong việc
xác định nội dung giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh còn hạn chế, chưa tác
động sâu sắc đến nhận thức của sinh viên. Năng lực của đội ngũ cán bộ đoàn còn hạn
chế, cơ sở vật chất còn thiếu thốn, chưa đồng bộ, đa phần cán bộ đoàn trong các
trường đại học là cán bộ kiêm nhiệm. Hạn chế này đã làm ảnh hưởng đến hiệu quả
hoạt động của các tổ chức đoàn thể trong nhà trường. Theo khảo sát thực tế của luận
án, có 31,3% số sinh viên được hỏi cho rằng hoạt động của tổ chức đoàn thể nhà
trường chưa thu hút được đông đảo sinh viên tham gia sinh hoạt.
96
- Thứ hai, chất lượng của các yếu tố tham gia vào quá trình giáo dục chưa
đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của hoạt động giáo dục.
Chương trình môn học tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học, đặc
biệt là các trường khối không chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ít
được bổ sung, chỉnh sửa cho phù hợp với thực tiễn. Chương trình môn học tư tưởng
Hồ Chí Minh dùng cho sinh viên khối không chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh được Bộ Giáo dục và đào tạo ban hành theo Quyết định số 52/2008/QĐ-
BGDĐT ngày 18 tháng 9 năm 2008 cho đến nay vẫn chưa có sự bổ sung, chỉnh sửa.
Các trường đại học thường coi đây là chương trình “chuẩn quốc gia” để thực hiện
giảng dạy mà ít có sự bổ sung, chỉnh sửa cho phù hợp với đối tượng sinh viên, ngành
đào tạo của mình. Việc chương trình môn học tư tưởng Hồ Chí Minh không được
thường xuyên cập nhật, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn mục tiêu đào tạo đã làm ảnh
hưởng đến chất lượng của hoạt động giáo dục này trong các trường đại học.
Về giáo trình môn học chưa phong phú và ít được bổ sung, cập nhật cho phù
hợp với thực tiễn, với ngành đào tạo của các trường đại học. Việc học tập, nghiên cứu
môn học tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học, đặc biệt các trường đại học
đào tạo sinh viên khối không chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh hiện
nay vẫn chủ yếu sử dụng cuốn giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh do Bộ Giáo dục và
đào tạo ban hành, việc tham khảo, sử dụng giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh của các
tác giả khác trong giảng dạy còn hạn chế. Việc bổ sung, chỉnh sửa giáo trình môn học
tư tưởng Hồ Chí Minh cũng chưa được các trường thực hiện thường xuyên. Theo kết
quả khảo sát cho thấy, ngoài một số trường có đào tạo sinh viên chuyên ngành Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh có biên soạn giáo trình riêng, còn lại các trường đều sử
dụng cuốn giáo trình do Bộ Giáo dục và đào tạo ban hành làm “giáo trình chuẩn” để
giảng dạy. Vì vậy, việc học tập, nghiên cứu tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh của sinh
viên còn hạn chế.
Thực hiện chủ trương của Bộ Giáo dục và đào tạo khuyến khích cán bộ, giảng
viên biên soạn giáo trình, sách giáo khoa, tài liệu tham khảo cho phù hợp với mục
tiêu và nội dung đào tạo của từng trường. Một số trường đã chỉ đạo việc biên soạn
giáo trình, tài liệu phục vụ giảng dạy môn học tư tưởng Hồ Chí Minh làm tài liệu
97
giảng dạy của đơn vị mình. Nhưng số đầu sách, giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh có
bổ sung thêm chuyên đề tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh còn quá ít, nội dung, chất
lượng giáo trình chưa đáp ứng được yêu cầu của hoạt động giáo dục tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trong các trường đại học ở nước ta hiện nay.
Việc xây dựng môi trường văn hóa trong các trường đại học vẫn còn hạn chế.
Các hiện tượng tiêu cực trong thi cử, đạo văn, mục đích và thái độ học tập chưa đúng
đắn của một bộ phận sinh viên đã ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường học tập của
sinh viên. Những biểu hiện vi phạm đạo đức, pháp luật, nội quy như: sống thử, vô
cảm, đánh nhau, chơi lô đề, sử dụng ma túy, mại dâm… diễn ra thường xuyên và có
chiều hướng gia tăng, điều này đã làm ảnh hưởng đến môi trường sống và rèn luyện
của sinh viên. Một bộ phận cán bộ giảng viên còn thiếu gương mẫu, lối sống, đạo
đức, trong các mối quan hệ với đồng nghiệp và sinh viên còn chưa thực sự chuẩn
mực. Đời sống xã hội còn nhiều tiêu cực như tham nhũng, xa rời nhân dân của cán
bộ, đảng viên, sự vô cảm trước những nỗi đau của người khác, các hiện tượng vi
phạm pháp luật… ngày càng có chiều hướng gia tăng. Những biểu hiện trên trong
nhà trường và ngoài xã hội đã ảnh hưởng tiêu cực đến đến môi trường sống, học tập
và rèn luyện theo tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh của sinh viên trong các trường đại
học ở nước ta hiện nay.
Trong hoạt động giáo dục nói chung và giáo dục tư tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh nói riêng cho sinh viên, các trường đại học đã rất chú trọng phát triển các điều
kiện hỗ trợ công tác giáo dục. Tuy nhiên, các điều kiện vật chất hỗ trợ hoạt động giáo
dục này ở các trường đại học còn nhiều hạn chế, chưa đồng bộ. Hệ thống thư viện ở
các trường đại học là nơi cung cấp giáo trình, tài liệu, thông tin cho việc học tập, tìm
hiểu, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh. Mặc dù các trường đã cố gắng trong việc
cung cấp các đầu sách về Hồ Chí Minh để giúp công tác giáo dục tư tưởng nhân văn
Hồ Chí Minh đạt hiệu quả, nhưng các đầu sách chuyên sâu về Hồ Chí Minh vẫn còn
hạn chế. Qua tìm hiểu thực tế tại các trường đại học cho thấy, vẫn còn trên 65% số
thư viện trong các trường đại học chưa có tủ sách, khu trưng bày, hình ảnh, tư liệu về
Hồ Chí Minh. Vẫn còn nhiều trường chưa xây dựng hệ thống thư viện điện tử kết nối
với cơ sở dữ liệu của thư viên quốc gia để giúp sinh viên có điều kiện tìm hiểu thông
98
tin, tư liệu về Hồ Chí Minh. Theo khảo sát thực tế của luận án, có 34,8% số sinh viên
được hỏi cho rằng, hệ thống thư viện của nhà trường nơi mình học chưa đáp ứng được
tốt yêu cầu của việc học tập.
Hệ thống phòng học với các trang thiết bị, máy móc phục vụ công tác giảng
dạy cũng góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục cho sinh viên.
Tuy nhiên do khó khăn về kinh phí, nên việc trang bị những phương tiện hiện đại như
máy chiếu Projector, máy tính, kết nối Internet, hệ thống âm thanh trong các phòng học
để hỗ trợ quá trình giảng dạy ở nhiều trường còn rất hạn chế. Theo khảo sát thực tế của
luận án, có 24,1% số sinh viên được hỏi cho rằng, hệ thống phòng học công nghệ, giảng
đường nơi mình học chưa đáp ứng được tốt yêu cầu của việc học tập. Điều này đã làm
ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập của sinh viên.
Phòng truyền thống trong các trường đại học là nơi trưng bày các hình ảnh,
các tư liệu về quá trình hình thành và phát triển của nhà trường, đây cũng là một yếu
tố đóng vai trò quan trọng trong hoạt động giáo dục nói chung, giáo dục tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh trong các trường đại học nói riêng, yếu tố này tác động trực
tiếp đến tư tưởng, tình cảm của sinh viên. Tuy nhiên, qua khảo sát thực tế cho thấy,
hệ nhà trưng bày, phòng truyền thống ở các trường đại học chưa được chú trọng đầu
tư, hiện vật trưng bày còn đơn điệu, hoạt động còn mang tính hình thức, có đến 54,5%
số sinh viên được hỏi cho rằng phòng truyền thống của nhà trường nơi mình học chưa
đáp ứng được vai trò của việc giáo dục truyền thống cho sinh viên.
- Thứ ba, những kết quả đạt được của hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn
Hồ Chí Minh cho sinh viên chưa đáp ứng được yêu cầu của việc xây dựng nguồn
nhân lực phát triển toàn diện cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Sự thay đổi về nhận thức, thế giới quan, nhân sinh quan nhân văn trong một
bộ phận sinh viên các trường đại học còn chưa đúng đắn. Thái độ trong học tập các
môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn còn diễn ra chưa nghiêm túc,
theo kết quả khảo sát của tác giả luận án, có đến 35,7% số sinh viên được hỏi cho
rằng, việc học tập các môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là không
thiết thực đối với bản thân và chuyên môn của mình, từ đó, hiện tượng sinh viên
không tham gia đầy đủ thời lượng học tập của các môn này diễn ra rất phổ biến, cũng
99
theo kết quả khảo sát có 17,7% số sinh viên được hỏi cho rằng mình chỉ tham gia
dưới 80% thời lượng học tập của các môn học này. Vì vậy, việc tiếp thu các tri thức
nhân văn Hồ Chí Minh chưa được đầy đủ, tính hệ thống trong một bộ phận sinh viên.
Do nhận thức chưa đúng về vị trí, vai trò của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
đối với bản thân trong quá trình tu dưỡng, rèn luyện, nên thái độ đúng đắn, niềm tin
vào thắng lợi vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội vì hạnh phúc của con người
trong một bộ phận sinh viên bị dao động. Theo kết quả khảo sát của luận án, có 31,1%
số sinh viên cho rằng mình vần còn băn khoăn về sự tin vào thắng lợi của công cuộc
đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh do Đảng
lãnh đạo, và có 28,7% số sinh viên rằng mình chưa thực tin tưởng. Thái độ vô cảm,
thờ ơ, né tránh trước những cái xấu, cái sai, hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật,
lối sống thực dụng, ngại khó, ngại gian khổ… vẫn còn diễn ra khá phổ biết trong đời
sống và nhận thức của sinh viên. Với câu hỏi “Trước những biểu hiện, hành động
tiêu cực, phi nhân văn,… bạn sẽ làm gì?”, có đến 61.3% số sinh viên được hỏi cho
rằng mình sẽ xem xét nếu không ảnh hưởng đến bản thân thì mới hành động, có 9,5%
cho rằng mình sẽ không làm gì. Với câu hỏi “Bạn có sẵn sàng tham gia vào những
công việc khó khăn nếu tổ quốc và nhân dân cần?” có 62.7% số sinh viên trả lời rằng
phải xem có ảnh hưởng đến đến tương lai, lợi ích bản thân rồi mới quyết định, có
6,4% số sinh viên được hỏi cho rằng mình sẽ không làm. Thực tế trên cho thấy rằng,
ở một bộ phận không nhỏ sinh viên trong các trường đại học vẫn còn thái độ vô cảm,
dao động, lưỡng lự trong việc đấu tranh trước những cái xấu, cái sai trong đời sống
xã hội; sống ích kỷ, chỉ biết đặt lợi ích của bản thân lên trên hết. Điều này chứng tỏ
hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trong các trường
đại học ở nước ta hiện nay chưa đem lại tác động tốt đến nhận thức của sinh viên.
Tính nhân văn Hồ Chí Minh chưa biểu hiệt rõ nét trong hoạt động học tập và
sinh hoạt cuộc sống hàng ngày của một bộ phận sinh viên các trường đại học. Việc
học tập, rèn luyện theo tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh sẽ giúp cho sinh viên có được
thế giới quan khoa học trong quan niệm về cuộc sống, về bản thân con người, về vị
trí của con người trong xã hội thấm đượm tính nhân văn trong các mối quan hệ. Tuy
nhiên, chất lượng của hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trong các
100
trường đại học vẫn còn nhiều hạn chế làm ảnh hưởng tiêu cực đến nhận thức, thế giới
quan, nhân sinh quan nhân văn, từ đó dẫn đến những hành động chưa thấm đượm tính
nhân văn trong hoạt động của một bộ phận sinh viên.
Hành động nhân văn của sinh viên được biểu hiện cụ thể thông qua các hoạt
động trong học tập, nghiên cứu, tình nguyện vì cộng đồng, nhân đạo... Tuy nhiên,
những kết quả đạt được này chưa phải là phổ biến trong phong trào sinh viên, việc
hình thành nhân cách người sinh viên phát triển toàn diện vẫn chưa đáp ứng được yêu
cầu đặt ra của nguồn nhân lực chất lượng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Tình yêu thương con người của sinh viên theo tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
trước hết được biểu hiện thông qua việc sinh viên hăng hái tham gia vào các hoạt
động từ thiện, hoạt động nhân đạo giúp đỡ những người gặp khó khăn, hoạn nạn, hoạt
động tình nguyện vì sự phát triển của cộng đồng. Tuy nhiên, trong các trường đại học
vẫn còn nhiều sinh viên thờ ơ, nhận thức chưa đúng đắn đối với các hoạt động, các
phong trào xã hội này. Thực trạng này được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 3.5: Tỉ lê sinh viên tham gia vào các hoạt động xã hội trong quá
trình học tập
Đơn vị tính: %
TT Nội dung hoạt động
Mức độ Tình nguyện
Hiến máu
nhân đạo Từ thiện
1 Thỉnh thoảng tham gia 35,7 38,5 40,3
2 Chưa từng tham gia 40,8 47,8 3,9
(Nguồn: kết quả khảo sát thực tế của tác giả luận án)
Việc tham gia thường xuyên vào các hoạt động xã hội vì cộng đồng trong quá
trình học tập, là môi trường thực tế quan trọng trong việc rèn luyện theo tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh của sinh viên. Tuy nhiên, trên thực tế, tỉ lệ sinh viên trong các
trường đại học thờ ơ, chưa tham gia vào các hoạt động này vẫn còn cao. Đối với
những sinh viên đã tham gia, và thường xuyên các hoạt động này thì động cơ ở một
bộ phận các em cũng chưa thật sự đúng đắn, các em tham gia hoạt động chưa xuất
101
phát từ tình cảm thật sự của bản thân đối với những hoàn cảnh khó khăn. Với câu hỏi,
lý do bạn tham gia các hoạt động trên, kết quả thu được qua bảng số liệu sau:
Bảng 3.6: Lý do sinh viên tham gia vào các hoạt động xã hội trong quá
trình học tập
Đơn vị tính: %
TT Nội dung
hoạt động Lý do tham gia Tỉ lệ
1 Tình nguyện vì cộng đồng
Vì trách nhiệm của bản thân vì sự
phát triển của cộng đồng 25
Vì được rèn luyện kỹ năng sống
cho bản thân 48,7
Vì được mở rộng quan hệ với bạn
bè và các chuyến đi xa 26,3
2
Hiến máu nhân đạo, giúp
đỡ người ngèo, nạn nhân
chất độc màu da cam…
Vì tình yêu thương đối với con
người 32,6
Vì yêu cầu phát động của các tổ
chức Đoàn thể, Nhà trường 67,4
(Nguồn: kết quả khảo sát thực tế của tác giả luận án)
Những kết quả khảo sát trên cho thấy rằng: vẫn còn một bộ phận lớn việc sinh
viên trong các trường đại học còn thờ ơ, chưa thấy được ý nghĩa của việc tham gia
vào các hoạt động nhân đạo, từ thiện, tình nguyện vì cộng đồng; động cơ, mục đích
của các em khi tham gia vào các hoạt động trên phần lớn chưa thực sự xuất phát từ
tình yêu, sự cảm thông, chia sẻ đối với con người trong xã hội. Điều này thể hiện chất
lượng hiệu quả hoạt động giáo dục tư tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên
trong các trường đại học ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế.
Bên cạnh đó, vẫn còn một bộ phận sinh viên trong các trường đại học có lối
sống thực dụng, chạy theo những giá trị vật chất mà bỏ quên những giá trị tinh thần
tốt đẹp của dân tộc. Tình trạng sinh viên sống buông thả, không coi trọng các giá trị
đạo đức đang diễn ra trong các trường đại học. Hiện tượng sinh viên đánh nhau, vi
phạm pháp luật, mắc các tệ nạn xã hội diễn ra ngày càng phổ biến. Đó là những biểu
102
hiện cụ thể về hiệu quả của hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho
sinh viên trong các trường đại học chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng của
nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Mặc dù đã được các trường đặc biệt quan tâm, tuy nhiên, công tác giáo dục tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trong các trường đại học ở nước ta vẫn
còn nhiều hạn chế. Sự nhận thức về tầm quan trọng của hoạt động giáo dục này trong
một bộ phận sinh viên, chủ thể giáo dục chưa cao; hệ thống chương trình, giáo trình
còn nặng về lý thuyết; phương pháp giáo dục còn mang tính áp đặt... từ đó dẫn đến
hiệu quả của hoạt động giáo dục đối với sinh viên chưa cao, sinh viên chưa thấy được
trách nhiệm của mình trong học tập, thờ ơ với các phong trào tình nguyện, các hoạt
động nhân đạo, từ thiện, đặc biệt một bộ phận có thái độ vô cảm trước cuộc sống và
lỗi đau của người khác.
* Nguyên nhân của những hạn chế
Những hạn chế trên của hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
cho sinh viên được xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản sau:
- Thứ nhất, xuất phát từ đặc thù tâm lý, ngành học của của một bộ phận lớn
sinh viên, giảng viên trong các trường đại học. Để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây
dựng và phát triển đất nước, cho nên trong cơ cấu hệ thống các trường đại học ở nước
ta hiện nay, các trường đào tạo ngành kinh tế, kỹ thuật chiếm tỉ lệ lớn so với các
trường đào tạo ngành xã hội, nhân văn. Đối với sinh viên ngành kinh tế, kỹ thuật các
em thường thích nghiên cứu tìm hiểu những vấn đề cụ thể, ngắn gọn, rõ ràng, hiệu
quả phải được xác định bằng định lượng... Với tư duy và tâm lý như vậy các em các
em rất ngại học các môn lý luận chính trị nói chung, môn tư tưởng Hồ Chí Minh nói
riêng, thậm chí có nhiều sinh viên còn cho rằng những môn này không quan trọng
đối với cuộc sống và công việc của mình sau này. Từ nhận thức như vậy đã dẫn đến
việc sinh viên học tập theo hình thức đối phó, thiếu động cơ học tập, ít tham gia vào
các hoạt động xã hội. Tâm lý này cũng có trong một bộ phận giảng viên, kể cả giảng
viên giữ vị trí quản lý trong các trường đại học. Bên cạnh đó, việc thay đổi theo triết
lý giáo dục hiện đại, chuyển từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực
và phẩm chất người học chưa được các trường đại học thực hiện hiệu quả. Đây là một
103
nguyên nhân quan trọng đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng của hoạt động
giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trong các trường đại học ở
nước ta hiện nay.
- Thứ hai, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trong các trường đại học còn mang nặng tính hình
thức. Hoạt động giáo dục này trong các trường đại học được thông qua việc học tập
môn tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh nói riêng;
thông qua các cuộc thi, tìm hiểu về tư tưởng đạo đức, nhân văn Hồ Chí Minh; thông
qua các phong trào xã hội do các tổ chức đoàn thể trong nhà trường tổ chức... Tuy
nhiên, những hoạt động tình nguyện, nhân đạo, từ thiện của Đoàn thanh niên, Hội
sinh viên chưa thiết thực, sức thu hút, lan tỏa còn hạn chế, nặng về nhiệm vụ chính
trị, hình thức đơn điệu nên chưa phát huy được tính tự giác của sinh viên khi tham
gia. Đồng thời các hoạt động trên của Đoàn, Hội trong các trường chưa được tiến
hành một cách thường xuyên, liên tục. Do vậy, chưa khơi dậy, thôi thúc được ý thức
cũng như sự tự nguyện, tự giác trong việc làm theo tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
Nội dung giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên thông qua
việc học tập môn học tư tưởng Hồ Chí Minh còn chưa đáp ứng được yêu cầu về nội
dung, thời lượng học tập. Đối với sinh viên trong các trường đại học, đặc biệt là sinh
viên khối không chuyên ngành Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh việc học tập tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh chỉ được thông qua sự lồng ghép trong các nội dung tư
tưởng, cuộc đời, sự nghiệp của Hồ Chí Minh chứ chưa được nghiên cứu đầy đủ về
nguồn gốc, nội dung, giá trị của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh thông qua một
chuyên đề riêng biệt. Vì vậy, việc rèn luyện, tu dưỡng theo tư tưởng nhân văn của
Người chưa thực sự được thấm nhuần, sâu sắc trong nhận thức và hành động của sinh
viên.
- Thứ ba, mặt trái của kinh tế thị trường cùng với quá trình mở cửa hội nhập
đã tác động sâu sắc đến ý thức, hành vi đạo đức của sinh viên. Kinh tế thị trường đã
kích thích lợi ích cá nhân, lợi ích vật chất một cách thái quá. Lối sống chạy theo đồng
tiền đã làm cho một số người bất chấp pháp luật, đạo đức, nhân cách... đã tác động
không nhỏ đến quá trình tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, nhân văn theo tư tưởng Hồ Chí
104
Minh của sinh viên. Mặc dù còn đang ngồi trên ghế nhà trường, nhưng sinh viên cũng
bị tác động sâu sắc của mặt trái kinh tế thị trường đến đạo đức, nhân cách, lối sống.
Từ những ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế thị trường, một số sinh viên chưa có ý thức
tự giác trong việc rèn luyện, các em chỉ biết sống vì mình hơn là sống vì người khác,
sống vô cảm trước những hiện thực đau khổ của người khác. Hơn nữa, quá trình mở
cửa, hội nhập quốc tế của đất nước đã đạo điều kiện cho các thế lực thù địch thực
hiện âm mưu diễn biến hòa bình nhằm mua chuộc, lôi kéo sinh viên vào con đường
sa đọa về tư tưởng, đạo đức, lối sống.
- Thứ tư, bản thân sinh viên – với tư cách là đối tượng được giáo dục. Bên
cạnh những sinh viên có ý thức học tập, tu dưỡng rèn luyện tốt, vẫn còn một bộ phận
sinh viên thiếu ý thức học tập, tu dưỡng rèn luyện theo tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh, không biết trân trọng các đạo lý, giá trị nhân văn truyền thống, giá trị nhân văn
Hồ Chí Minh. Vẫn còn những sinh viên tỏ thái độ thờ ơ, lạnh nhạt trước sự giảng giải
của người thầy về tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, thờ ơ với các phong trào xã hội,
hoạt động nhân đạo, thậm chí một số sinh viên còn lười học tập, vi phạm nội quy,
quy chế trong nhà trường, xa vào các tệ nạn xã hội như rượi chè, cờ bạc, sử dụng ma
túy... Đó là những nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trong các trường đại học ở nước ta hiện nay.
3.2. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG GIÁO DỤC TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN
HỒ CHÍ MINH CHO SINH VIÊN
Những vấn đề đặt ra trong giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh
viên trong các trường đại học ở nước ta hiện nay, là tổng hợp các mâu thuẫn cần được
giải quyết trong quá trình giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên để
giúp họ trở thành nguồn nhân lực phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.
3.2.1. Mâu thuẫn giữa yêu cầu chất lượng của hoạt động giáo dục tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên với những hạn chế, bất cập của các
chủ thể giáo dục
Từ thực trạng đáng lo ngại hiện nay, của một bộ phận sinh viên suy thoái về
đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, sống thiếu trách nhiệm, thiếu hoài bão lập thân, lập
105
nghiệp vì tương lai của đất nước. Do đó, nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục
hướng đến là: “Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt
nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu tổ quốc, yêu
đồng bào, sống tốt và làm việc có hiệu quả” [36, tr. 115]. Để đạt được mục tiêu trên,
Đảng đã chủ trương, phải “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản
của giáo dục” [36, tr. 115].
Thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu giáo dục, đòi hỏi các trường đại học không chỉ
đào tạo ra những sinh viên có tri thức, giỏi về chuyên môn mà còn phải có đạo đức,
có lòng yêu nước, nhân ái, có trách nhiệm, trung thành với sự nghiệp đổi mới của đất
nước. Vì vậy, đòi hỏi hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trong các
trường đại học phải không ngừng nâng cao chất lượng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên các chủ thể giáo dục trong các
trường đại học hiện nay còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu của hoạt động
giáo dục như chất lượng đội ngũ giảng viên trong các trường đại học còn hạn chế về
năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức; các tổ chức đoàn thể trong nhà trường
tham gia vào quá trình giáo dục còn mang tính hình thức, thụ động; gia đình chưa có
sự phối hợp chặt chẽ với nhà trường trong quá trình giáo dục. Cụ thể:
- Thứ nhất, về phía đội ngũ giảng viên:
Giảng viên là một nhân tố quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục
tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, họ là những tấm gương sáng về đạo đức, nhân cách,
năng lực để sinh viên noi theo. Nhưng trên thực tế, nhiều giảng viên trong các trường
đại học chưa làm tốt vai trò này. Nhiều hiện tượng vi phạm đạo đức, lối sống, vi phạm
thuần phong mỹ tục tốt đẹp của dân tộc, vi phạm pháp luật... vẫn xảy ra trong đội ngũ
giảng viên ở các trường đại học. Đáng tiếc là những vi phạm đạo đức nghề nghiệp
này đang có chiều hướng gia tăng, trở thành mối lo ngại lớn trong nhà trường và trong
dư luận xã hội. Đây là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động
giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trong các trường đại học.
Bên cạnh đó, việc đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên giảng dạy
môn tư tưởng Hồ Chí Minh là rất cần thiết. Thực tế công tác giáo dục cho thấy, để
nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, trước hết
106
đòi hỏi sinh viên phải hiểu, nắm vững các luận điểm, quan điểm, nội dung tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh để làm cơ sở cho việc vận dụng vào trong cộc sống. Tuy
nhiên, việc giảng dạy môn học tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học ở
nước ta hiện nay còn nhiều bất cập bởi một bộ phận giảng viên chưa được đào tạo cơ
bản, nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng dạy môn tư tưởng Hồ Chí Minh
cho sinh viên trong các trường đại học ở nước ta hiện nay.
Giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên không có đội ngũ
giảng viên chuyên sâu, được đào tạo cơ bản sẽ dẫn đến hiệu quả giáo dục không đáp
ứng được yêu cầu thực tế, thậm chí còn làm giảm hiệu của của hoạt động giáo dục tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Vì vậy vấn đề đặt ra là muốn nâng cao hiệu quả của
hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trong các trường
đại học cần phải đào tạo, bồi dưỡng cho được đội ngũ giảng viên dạy tư tưởng Hồ
Chí Minh cả về số lượng và chất lượng nhằm đáp ứng đòi hỏi nguồn nhân lực chất
lượng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Thứ hai, về phía các tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội trong nhà trường:
Các tổ chức, đoàn thể chính trị - xã hội trong các trường đại học cũng đóng
vai trò to lớn trong việc nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn
Hồ Chí Minh cho sinh viên. Tuy nhiên, qua khảo sát thực tế tại một số trường, các tổ
chức đoàn thể chính trị - xã hội, chưa thực sự quan tâm đến công tác giáo dục tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên. Một số trường còn chưa có kế hoạch,
chương trình hành động cụ thể cho hoạt động giáo dục này cho sinh viên, nếu có cũng
chỉ là hình thức, mang tính phong trào.
Đoàn thanh niên, Hội sinh viên trong các trường đại học là nơi tập hợp và đoàn
kết rộng rãi sinh viên, song các tổ chức này còn bộc lộ nhiều hạn chế trong công tác
giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Trong hoạt động còn mang nặng hình thức
như: sự chỉ đạo của tổ chức đoàn thể chủ yếu bằng văn bản, hoạt động tập huấn, trong
khi các tổ chức đoàn cấp dưới còn thiếu chủ động; các hoạt động, các phong trào do
Đoàn, Hội tổ chức chưa được thường xuyên, chủ yếu tập trung vào các ngày lễ lớn,
theo đợt; các hoạt động do Đoàn, Hội tổ chức còn nghèo nàn, đơn điệu chưa có nhiều
nội dung phong phú hấp dẫn về nội dung và hình thức nên chưa lôi cuốn được đông
107
đảo sinh viên tham gia. Do đó, để nâng cao chất lượng giáo dục tư tưởng nhân văn
Hồ Chí Minh cho sinh viên, đòi hỏi các tổ chức, đoàn thể chính trị-xã hội trong các
trường đại học cần phải khắc phục những tồn tại trên.
- Thứ ba, về phía gia đình:
Gia đình là nơi có ảnh hưởng to lớn đến nhân cách, lối sống của sinh viên, đó
cũng là môi trường đầu tiên sinh viên tiếp nhận các giá trị nhân văn truyền thống của
dân tộc. Tuy nhiên, tác động của cơ chế kinh tế thị trường đã làm cho chức năng quan
trọng này của gia đình, đặc biệt là chức năng truyền dạy những giá trị nhân văn truyền
thống gặp nhiều khó khăn. Tập trung phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất
của gia đình đã làm cho nhiều bậc cha mẹ không chú trọng đến việc dạy con cái mình
các đạo lý, lễ nghĩa. Thêm vào đó, kiểu gia đình hiện đại với hai thế hệ đã dần thay
thế kiểu gia đình truyền thống nhiều thế hệ cùng sinh sống, làm cho sinh viên ít có cơ
hội gần gũi, tiếp xúc với ông bà để được ông bà trực tiếp truyền dạy cho các đạo lý,
các giá trị nhân văn truyền thống của dân tộc vốn được tiếp thu từ thế hệ trước.
Bên cạnh đó, mặt trái của kinh tế thị trường đã làm cho một bộ phận những
ông bố, bà mẹ với lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền sẵn sàng làm những việc
vi phạm pháp luật, trái với luân thường đạo lý đã trở thành những tấm gương xấu cho
sinh viên, những hành vi đó của cha mẹ đã vô tình dẫn dụ con cái mình dần quay lưng
lại với các giá trị nhân văn tốt đẹp ngàn đời của dân tộc.
Để nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
cho sinh viên trong các trường đại học, vấn đề đặt ra ở đây là khắc phục những bất
cập của các chủ thể tham gia vào quá trình giáo dục, trong đó cần phải tập trung đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên tư tưởng Hồ Chí Minh vững về chuyên môn, sáng
về đạo đức. Bên cạnh đó, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình với
xã hội trong giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên có như vậy thì
các chủ thể giáo dục mới đáp ứng được yêu cầu của hoạt động giáo dục đặt ra.
3.2.2. Mâu thuẫn giữa nội dung giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
trong nhà trường với hiện thực đời sống xã hội
Trong giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên đại học hiện
nay, vấn đề gây khó khăn, trở ngại cho hoạt động này là mâu thuẫn giữa nội dung
108
giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trong nhà trường với thực tiễn cuộc sống
xã hội. Tiếp nhận các giá trị tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh để xây dựng nền đạo
đức mới, con người mới cho sinh viên là một yêu cầu cấp thiết của công cuộc đổi mới
hiện nay. Các chủ thể của hoạt động giáo dục cũng như chính bản thân sinh viên đang
nỗ lực, tích cực thực hiện nhiệm vụ quan trọng này. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh
tế thị trường ở nước ta hiện nay, hiện thực cuộc sống diễn ra phức tạp, nhiều bất cập,
thậm chí đi ngược lại các giá trị nhân văn Hồ Chí Minh mà sinh viên đã được học
trong nhà trường, điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng hoạt động giáo
dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trong các trường đại học.
Công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những những thành tựu to lớn có ý
nghĩa lịch sử, tạo được những tiền đề cần thiết cho sự phát triển toàn diện của con
người, phát triển các phẩm chất người. Trong xã hội, bên cạnh việc hình thành những
con người biết đồng cảm, chia sẻ, luôn nghĩ đến người khác thì vẫn còn có một số bộ
phận không nhỏ những con người mà giá trị đạo đức lại đang bị xói mòn bởi chủ
nghĩa thực dụng dẫn đến sự vô cảm của bản thân đối với con người, với xã hội. Đó là
sự thờ ơ trước niềm vui và nỗi buồn của người khác, thái độ lạnh lùng đến tàn nhẫn
trước những đau thương mất mát của đồng loại như: trẻ mồ côi, người già không nơi
nương tựa, người khuyết tật, nạn nhân của thiên tai bão lụt.., thái độ dửng dưng hoặc
cố tình né tránh khi chứng kiến người gặp tai nạn trên đường. Ở mức độ cao hơn, sự
vô cảm trong xã hội đồng nghĩa với thái độ vô trách nhiệm, gây hậu quả nghiêm trọng
cho xã hội, cho đất nước. Đó là những người có chức, có quyền ký duyệt những dự
án công trình lớn mà không nghĩ đến hậu quả sau mười năm hai mươi năm, người
dân trong vùng sẽ sống ra sao. Hiện tượng “rút ruột công trình” đến mức nguy hiểm
là hậu quả không chỉ của thói tham lam mà còn là hậu quả của thái độ thờ ơ, vô trách
nhiệm trước con người. Trong lĩnh vực y tế, những quy định về y đức đã bị không ít
thầy thuốc coi nhẹ hoặc lãng quên trước những giá trị vật chất. Thái độ vô cảm trước
những nỗi đau về thể xác, về tinh thần của người bệnh và người thân của họ. Việc kê
đơn thuốc vô tội vạ, móc ngoặc với các nhà thuốc, các hãng dược để hưởng lợi bất
chính trên sức khỏe và tính mạng bệnh nhân... Những biểu hiện của sự vô cảm đó
được diễn ra thường xuyên trong xã hội. Điều này đã gây ảnh hưởng tiêu cực đến
109
hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trong nhà trường khi các thầy cô
giáo dục cho các em sinh viên các giá trị nhân văn, về tình yêu thương con người, về
tinh thần tương thân tương ái, giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn để hướng đến cuộc
sống tốt đẹp trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
Mong muốn lớn nhất của Hồ Chí Minh đó là đất nước được độc lập, nhân dân
được tự do, đồng bào cả nước ai cũng có cơm ăn, áo mặc và được đi học, mong muốn
này của Người chính là hướng đến xây dựng một xã hội công bằng trên các lĩnh vực.
Đây là mong muốn thấm đượm tính nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh và cũng
là nội dung cần giáo dục cho sinh viên trong các trường đại học. Tuy nhiên, những
bất cập trong xã hội hiện nay như sự phân hóa giầu nghèo, bất bình đẳng trong xã hội,
nhất là trong việc tiếp cận cơ hội phát triển và dịch vụ xã hội đã và đang trở thành
một nhân tố gây cản trở đến việc giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh
viên. Thực tế cho thấy, nhiều hiện tượng tiêu cực, bất bình đẳng trong xã hội, trong
đời sống sinh viên vẫn diễn ra thường xuyên như: nhiều người làm ăn phi pháp, buôn
gian bán lận, nhiều cán bộ đảng viên tham ô, tham nhũng thì càng giầu lên, cuộc sống
sung túc, xa hoa. Còn những người làm ăn chân chính, những đảng viên cán bộ liêm
khiết thì cuộc sống còn rất nhiều khó khăn. Không ít sinh viên trong học tập nỗ lực
phấn đấu để đạt kết quả tốt nhưng khi ra trường đi xin việc còn gặp nhiều khó khăn.
Trong khi đó, một bộ phận sinh viên là con em trong ngành, đặc biệc là con em cán
bộ có chức, có quyền thì dễ dàng được nhận vào công tác ở bất kỳ cơ quan ban ngành
nào, cho dù năng lực có hạn chế, không đáp ứng đòi hỏi của công việc.
Thực tiễn đời sống xã hội hết sức da dạng, phong phú, muôn màu muôn vẻ,
những hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội mà sinh viên thường xuyên chứng
kiến như sự vô cảm giữa con người với nhau, sự vô cảm giữa con người với tự nhiên,
với xã hội; những hiện tượng tiêu cực, sự bất bình đẳng trong xã hội... là những vấn
đề đối lập với tình yêu thương con người, lòng nhân ái, vị tha, bao dung trong tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh mà sinh viên được các thầy cô giảng giải trong nhà
trường. Thực tế này đã gây khó khăn lớn trong việc giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ
Chí Minh cho sinh viên trong các trường đại học đòi hỏi cần phải được giải quyết để
nâng cao chất lượng của hoạt động giáo dục này.
110
3.2.3. Mâu thuẫn nội tại trong sinh viên giữa nhu cầu mong muốn hoàn
thiện nhân cách với sự thiếu ý thức rèn luyện tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
trong một bộ phận sinh viên
Hoàn thiện nhân cách không chỉ là mong muốn của bản thân sinh viên, mà còn
là yêu cầu khách quan của xã hội. Nhân cách là một bộ mặt tâm lý xã hội của người
sinh viên được hình thành và phát triển trong quá trình sống, giao tiếp, học tập, lao
động, hoạt động xã hội, vui chơi…, trong đó học tập là môi trường quan trọng giúp
hình thành nhân cách sinh viên. Tham gia học tập tại các trường đại học, điều đó đã
tự khẳng định mong muốn được hoàn thiện nhân cách của sinh viên. Tuy nhiên, hiện
nay trong các trường đại học vẫn còn một bộ phận không nhỏ sinh viên thiếu ý thức
rèn luyện, tu dưỡng với các biểu hiện tiêu cực trong học tập, rèn luyện như: thiếu
trung thực trong học tập, thi cử; xa rời các giá trị nhân văn Hồ Chí Minh, chạy theo
lối sống thực dụng, thiếu trách nhiệm với cộng đồng. Một bộ phận sinh viên quen
được luông chiều, quen hưởng thụ, trở nên ích kỷ, ít quan tâm đến mọi người xung
quanh, đến cộng đồng xã hội; hiện tượng vi phạm pháp luật như vi phạm luật giao
thông, mắc vào các tệ nạn xã hội như sử dụng ma túy, cờ bạc, rượu chè, trộm cắp,
mại dâm... vẫn còn diễn ra phổ biến. Sự thiếu ý thức rèn luyện, tu dưỡng trong một
bộ phận sinh viên là biểu hiện rõ nét của sự xuống cấp đạo đức xã hội, của sự xa rời
tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Đây thực sự là vấn đề đặt ra cho công tác giáo dục
tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trong các trường đại học ở nước ta.
Trong hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trong
các trường đại học, những mâu thuẫn nảy sinh giữa việc nâng cao chất lượng của hoạt
động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh với các chủ thể giáo dục còn nhiều
bất cập; giữa nội dung giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trong nhà trường với
hiện thực xã hội còn nhiều bất cập; giữa nhu cầu mong muốn với sự thiếu ý thức trong
việc rèn luyện của một bộ phận sinh viên là những vấn đề đặt ra trong giáo dục tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên, đòi hỏi cần phải giải quyết đồng bộ để
nâng cao chất lượng của hoạt động giáo dục này trong các trường đại học ở nước ta.
111
Kết luận chương 3
Đi vào đánh giá thực trạng của hoạt động giáo động giáo dục tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trong các trường đại học, trong chương này, luận án
đã tập trung vào một số vấn đề sau:
Một là, làm rõ thực trạng của hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh cho sinh viên, trên cơ sở chỉ ra những thành tựu mà các trường đã đạt được trên
các mặt về chủ thể giáo dục, các điều kiện hỗ trợ giáo dục, kết quả cụ thể của hoạt
động giáo dục, cũng như chỉ ra những nguyên nhân của việc đạt được các thành tựu
trên. Đồng thời luận án cũng chỉ rõ những hạn chế trên các mặt như: chủ thể giáo dục;
các điều kiện hỗ trợ hoạt động giáo dục; kết quả của hoạt động giáo dục; nguyên nhân
chính của những hạn chế trên đó là: công tác giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh cho sinh viên ở một số trường chưa quán triệt sâu sắc các chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách của nhà nước; tác động mặt trái của kinh tế thị trường đã tác
động sâu sắc đến ý thức, hành vi đạo đức của sinh viên; vẫn còn một bộ phận sinh
viên thiếu ý thức học tập, tu dưỡng rèn luyện theo tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
Hai là, bước đầu, luận án đã chỉ ra được những mâu thuẫn nảy sinh làm ảnh
hưởng đến chất lượng của hoạt động giáo dục tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh
viên, đó là những mâu thuẫn: Mâu thuẫn giữa yêu cầu chất lượng của hoạt động giáo
dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh với sự hạn chế bất cập của các chủ thể tham gia
vào quá trình giáo dục trong các trường Đại học; mâu thuẫn giữa nội dung giáo dục
tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trong nhà trường với hiện thực đời sống xã hội; mâu
thuẫn nội tại trong sinh viên giữa nhu cầu mong muốn hoàn thiện nhân cách với sự
thiếu ý thức trong học tập và rèn luyện của một bộ phận sinh viên.
Việc đánh giá thực trạng của hoạt động giáo dục này, là cơ sở quan trọng để
luận án đưa ra các phương hướng và đề xuất các giải pháp cụ thể nâng cao chất lượng
hoạt động tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trong sinh viên các trường đại học ở nước
ta hiện nay trong chương tiếp theo.
112
Chương 4
GIÁO DỤC TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH
CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY -
PHƯƠNG HƯỚNG, VÀ CÁC GIẢI PHÁP
4.1. PHƯƠNG HƯỚNG GIÁO DỤC TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH
CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC
4.1.1. Giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên gắn với
mục tiêu xây dựng “con người mới xã hội chủ nghĩa”
Trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, đội ngũ trí thức luôn là lực
lượng nòng cốt sáng tạo, họ không chỉ là lực lượng lao động đặc biệt quan trọng trong
tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, mà còn góp phần nâng
cao tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của nhà nước, năng lực lãnh đạo của Đảng và
chất lượng của hệ thống chính trị. Do đó, xây dựng đội ngũ trí thức mới phát triển
toàn diện cả “đức” lẫn “tài”- con người mới xã hội chủ nghĩa, là một nhiệm vụ quan
trọng đặt ra trong tiến trình xây dựng xã hội mới ở nước ta hiện nay.
Mong muốn lớn nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhân dân Việt Nam ai cũng
có cơm ăn, áo mặc và được đi học, mong muốn này chi phối, tư tưởng, hành động
của Người trong suốt quá trình thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam, vì theo Người,
nước nhà được độc lập mà nhân dân vẫn còn đói khổ thì nền độc lập đó cũng chẳng
có nghĩa lý gì. Do vậy, theo Hồ Chí Minh sau khi nước nhà giành được độc lập thì
phải đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa mới đem lại một nền độc lập thật sự, cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc thật sự cho nhân dân. Tuy nhiên, để xây dựng được xã hội
mới – xã hội chủ nghĩa là một công việc vô cùng khó khăn, để vượt qua cần phải có
những con người mới trong xã hội. Xã hội mới sẽ được xây dựng bằng chính những
con người này, và những con người mới này cũng chính là mục tiêu cao nhất mà xã
hội mới hướng đến. Người nói: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có
những con người xã hội chủ nghĩa” [91, tr. 66].
Con người xã hội chủ nghĩa mà Hồ Chí Minh nhắc đến ở đây, là những con
người được hình thành không chỉ gắn với tiến trình cách mạng của nhân dân ta, mà
113
nó còn phải đại diện cho các giá trị đạo đức mới, lý tưởng xã hội mới. Đó là những
con người kiên quyết chống áp bức và bóc lột; coi lao động là nguồn sống, là trách
nhiệm, là vinh dự, là nguồn tạo ra hạnh phúc. Đó là những con người yêu nước sâu
sắc kết hợp với yêu đồng loại, yêu những người lao động và nghèo khổ trên thế giới.
Con người mà Chủ tịch Hồ Chí Minh hướng đến xây dựng trong xã hội mới trước hết
là những con người vừa phải có đức, vừa phải có tài, vừa “hồng”, vừa “chuyên”.
Theo Hồ Chí Minh giáo dục chính là biện pháp quan trọng để giúp xã hội hình
thành những con người mới xã hội chủ nghĩa. Do đó, Hồ Chí Minh luôn quan tâm
đến việc giáo dục toàn diện, sự cân bằng về giáo dục “đức” lẫn “tài” và mối quan hệ
giữa hai mặt đó trong sự hoàn thiện nhân cách, lối sống của con người mới. Đó là nền
giáo dục nhằm phát triển con người toàn diện, vừa “hồng” vừa “chuyên” trong thời
đại mới. Chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục ở nước ta hiện nay mục
tiêu hướng đến không nằm ngoài lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong công tác giáo dục, đào tạo ở nước ta hiện nay, Đảng và Nhà nước luôn
coi trọng vấn đề giữ gìn và phát huy những giá trị nhân văn truyền thống của dân tộc,
trong đó có giá trị nhân văn Hồ Chí Minh trong xây dựng nhân cách, lối sống mới
cho sinh viên trong các trường đại học, nhằm mục tiêu xây dựng nguồn nhân lực chất
lượng cao phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Mục tiêu xây dựng thế hệ thanh niên Việt Nam,
trong đó lực lượng nòng cốt là sinh viên được Đảng ta hướng đến trong giai đoạn
hiện nay đó là: Xây dựng thế hệ thanh niên Việt Nam phát triển toàn diện, giàu lòng
yêu nước, có đạo đức cách mạng, ý thức công dân và lý tưởng xã hội chủ nghĩa; có
văn hóa, sức khỏe, ý chí vươn lên; xung kích sáng tạo, làm chủ khoa học công nghệ
tiên tiến; hình thành nguồn nhân lực trẻ có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; phát huy vai trò trách
nhiệm của thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Đây là mục tiêu quan trọng Đảng đã định hướng cho hoạt động giáo dục, đào
tạo trong các trường đại học để bồi dưỡng toàn diện cho sinh viên, từ thể chất đến
tinh thần, từ ý thức công dân đến lý tưởng sống, từ năng lực, trình độ kỹ năng, khả
114
năng làm chủ công nghệ... để hình thành nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu
cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay.
Vì vậy, việc đẩy mạnh giáo dục các giá trị nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh
viên trong các trường đại học ở nước ta hiện nay là một vấn đề hết sức quan trọng,
góp phần xây dựng nhân cách mới, tạo ra những lớp người trí thức mới, có tình thần
cao đẹp, có trình độ khoa học kỹ thuật cao, vừa có đức, vừa có tài cũng chính là hướng
đến mục tiêu xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp cách mạng
xây dựng xã hội mới ở nước ta hiện nay.
Giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trong các trường đại
học giúp sinh viên hình thành nên các phẩm chất, nhân cách con người Việt Nam mới
được tiến hành đồng thời với việc giáo dục các kiến thức chuyên ngành, kỹ năng thực
hành nhằm hình thành nên nguồn nhân lực phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế là định hướng quan trọng
trong hoạt động giáo dục ở các trường đại học hiện nay.
4.1.2. Giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trách nhiệm
với bản thân, gia đình và với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Trách nhiệm chính là sự tự ý thức về việc mình cần phải làm mà không cần
đến người khác hướng dẫn hay bắt buộc phải làm. Đồng thời đó còn là khả năng ra
quyết định và chịu trách nhiệm về những quyết định đó. Trong xã hội, nếu con người
sống không có trách nhiệm sẽ dẫn đến một xã hội vô cảm. Không có trách nhiệm con
người không biết sống để làm gì, sẽ chây lười. Trong gia đình cha mẹ chẳng cần nuôi
con cái, sống chết mặc bay. Con cái cũng chẳng thèm quan tâm đến cha mẹ, anh chị
em thân ai nấy lo. Ngoài xã hội, không còn sự giúp đỡ, cái gì là của chung xem như
không cần giữ gìn, pháp luật là con số không, đứng ngoài sự phát triển của xã hội,
của đất nước... Mất đi trách nhiệm, con người sẽ trở nên vô cảm, lạnh lùng.
Hiện nay đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế, đây là một quá trình đấu tranh, vận động toàn diện các
mặt của xã hội. Để sự nghiệp này đi đến thành công, Việt Nam trở thành một quốc
gia phát triển sánh ngang với các cường quốc trong khu vực và trên thế giới, đòi hỏi
toàn thể nhân dân Việt Nam mà trước hết là tầng lớp thanh niên, phải nỗ lực phấn đấu
115
không ngừng trong học tập, lao động, sản xuất và đồng thời cũng phải thấy được trách
nhiệm của bản thân đối với sự nghiệp cách mạng đó.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò to lớn, cũng như trách
nhiệm của thanh niên nói chung, sinh viên nói riêng trong sự nghiệp đấu tranh cách
mạng cũng như trong công cuộc xây dựng xã hội mới, Người nói: “Thanh niên là
người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh
một phần lớn là do các thanh niên” [83, tr. 216]. Do vậy, ngay sau khi nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa ra đời (8/1945), Hồ Chí Minh đã căn dặn thế hệ trẻ về trách
nhiệm của bản thân đối với đất nước là phải nỗ lực học tập, chiếm lĩnh tri thức của
nhân loại để kiến thiết đất nước, Người nói: “Trong công cuộc kiến thiết đó, nước
nhà trông mong chờ đợi ở các em rất nhiều. Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp
hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường
quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công lao học tập của
các em” [82, tr. 35]. Sau khi miền Bắc được giải phóng và đi lên xây dựng chủ nghĩa
xã hội, một cuộc cách mạng mới, to lớn được thực hiện ở nước ta, Hồ Chí Minh cũng
đã chỉ rõ trách nhiệm của thanh niên đối với sự nghiệp cách mạng lớn lao đó: “Thanh
niên ta có vinh dự lớn thì cũng phải có trách nhiệm lớn” [88, tr. 489]. Trách nhiệm
của thanh niên theo Hồ Chí Minh là thanh niên không phải đòi hỏi đất nước đã cho
mình những gì, mà mình phải làm thế nào cho lợi ích của nước nhà nhiều hơn.
Việc chăm lo giáo dục, bồi dưỡng thanh niên về tri thức khoa học, về đạo đức
cách mạng để họ trở thành một lực lượng quan trọng kế thừa sự nghiệp cách mạng vĩ
đại mà các thế hệ đi trước để lại, đồng thời giáo dục cho họ thấy được trách nhiệm to
lớn đối với bản thân, với gia đình và với xã hội là nội dung thấm đượm tính nhân văn
trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì vậy, hơn bao giờ hết, hoạt động giáo dục tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trong các trường đại học hiện nay phải
hướng vào việc làm cho sinh viên thấy rõ được trách nhiệm đối với bản thân, đối với
gia đình và xã hội hơn nữa đó là trách nhiệm đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
116
Để nâng cao chất lượng giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh
viên các trường đại học trong giai đoạn hiện nay, cần gắn nội dung giáo dục với việc
nâng cao trách nhiệm của sinh viên trong cuộc sống, trước hết là:
Trách nhiệm đối với bản thân: Đây là trách nhiệm tối thiểu, đồng thời cũng là
giá trị nhân cách, đạo đức mà mỗi sinh viên cần phải cần phải có, bởi nếu không có
trách nhiệm với chính mình thì cũng chẳng bao giờ có ý thức trách nhiệm với gia đình
và xã hội. Do vậy, trách nhiệm với bản thân chính là nền tảng để mỗi cá nhân gắn
trách nhiệm cao hơn. Giáo dục trách nhiệm đối với chính bản thân cho sinh viên là
làm cho các em thấy được trách nhiệm của mình phải nỗ lực trước những khó khăn
để học tập đạt kết quả cao nhất; giáo dục cho các em ý thức dám chịu trách nhiệm,
dám nói và dám làm; biết đặt ra mục tiêu trong cuộc sống và hoàn thành mục tiêu;
biết trân trọng những gì mà mình đang có. Suy cho cùng, sinh viên sống có trách
nhiệm đối với bản thân mình được biểu hiện ở suy nghĩ và phản ứng của mình. Nếu
suy nghĩ, dung nạp những việc tốt nó sẽ trở nên tốt, suy nghĩ của mình ngụy biện, che
đậy nó sẽ trở nên xấu.
Trách nhiệm đối với gia đình: gia đình chính là cái nôi nuôi dưỡng con người,
là môi trường quan trọng để hình thành vào giáo dục nhân cách cho sinh viên, trong
đó, công lao nuôi dưỡng của cha mẹ là vô cùng to lớn, do vậy, bản thân mỗi người
sống cũng phải có trách nhiệm đối với chính gia đình mình. Giáo dục tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh cho sinh viên theo hướng gắn trách nhiệm của họ đối với gia đình
là phải giáo dục cho họ tinh thần trách nhiệm yêu lao động chứ không phải là hưởng
thụ; sống chân thành và thật thà với cha mẹ; sống vui vẻ với gia đình, dành thời gian
gắn kết và thời gian chăm sóc gia đình và phải có trách nhiệm đối với tình cảm tinh
thần, vật chất mà cha mẹ dành cho mình.
Trách nhiệm đối với đất nước: Giáo dục trách nhiệm của sinh viên đối với bản
thân, đối với gia đình sẽ giúp họ thấy được trách nhiệm to lớn của mình đối với sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Trách nhiệm đối với đất nước không chỉ là
nghĩa vụ đạo đức của mỗi con người, mà nó còn là tư tưởng, chuẩn mực đạo đức hàng
đầu trong bản giá trị tinh thần của mỗi người dân Việt Nam. Sinh viên là lực lượng
xung kích, năng động, sáng tạo, họ được thừa hưởng nhiều giá trị tốt đẹp của các thế
117
hệ cha anh đi trước, đó là truyền thống yêu nước, cần cù, sáng tạo, lạc quan, thương
người, vì nghĩa... Do đó, chính bản thân sinh viên phải ý thức rõ hơn ai hết vai trò và
trách nhiệm của mình trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Trong giai đoạn
đất nước đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế trách nhiệm của sinh viên trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc càng nặng nề hơn.
Giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên theo hướng gắn trách nhiệm
của sinh viên đối với đất nước là làm sao cho các em thấy được cần phải có trách
nhiệm đối với mọi người xung quanh, có trách nhiệm sống và làm việc theo pháp
luận, coi pháp luật là thượng tôn; có lòng tự hào dân tộc; nỗ lực học tập chiếm lĩnh
tri thức để làm chủ khoa học công nghệ; nâng cao tình thần cảnh giác, ý thức bảo vệ
tổ quốc, xung kích đi đầu trong mọi lĩnh vực.
Với tư cách là đội ngũ dự bị, lực lượng kế cận hùng hậu của sự nghiệp cách
mạng, và là những người chủ nhân tương lai của nước nhà, thế hệ trẻ - trước hết là
sinh viên, có trách nhiệm kế tục sự nghiệp cách mạng, thực hiện sứ mệnh lịch sử vẻ
vang mà thế hệ đi trước đã chuyển giao vào tay mình. Vận mệnh của nước nhà thịnh
hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do thanh niên. Do vậy, trong các trường đại
học ở nước ta hiện nay, phương hướng nâng cao hiệu quả giáo dục tư tưởng nhân văn
Hồ Chí Minh cho sinh viên chính là làm cho họ thấy được trách nhiệm to lớn của
mình đối với bản thân, đối với gia đình và cao hơn nữa là trách nhiệm của một người
công dân, một người trí thức trẻ đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
4.2. GIẢI PHÁP GIÁO DỤC TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH CHO
SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC
Xuất phát từ vị trí, vai trò, yêu cầu, thực trạng công tác giáo dục tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trong các trường đại học ở nước ta hiện nay, việc giáo
dục này cần được tiến hành đồng bộ, bằng nhiều giải pháp khác nhau. Tuy nhiên,
trong đề tài này, tác giả bước đầu đề cập đến một số giải pháp cơ bản sau:
118
4.2.1. Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của hoạt động giáo dục tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên các trường đại học ở Việt Nam hiện nay
Ngành giáo dục và các chủ thể giáo dục trong nhà trường có vai trò quan trọng,
trực tiếp trong hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên. Vì
vậy, việc nâng cao nhận thức của Ngành giáo dục, các chủ thể giáo dục trong nhà
trường sẽ là một giải pháp quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này. Để
nâng cao nhận thức về hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh
viên các trường đại học ở nước ta hiện nay của Ngành và các chủ thể giáo dục trong
nhà trường, cần thực hiện tốt các giải pháp sau:
Bộ giáo dục và đào tạo, là cơ quan nhà nước trực tiếp quản lý các hoạt động
giáo dục, nên có vai trò quan trọng đối với hoạt động giáo dục nói chung, hoạt động
giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trong các trường đại học nói
riêng. Do vậy, Bộ giáo dục và đào tạo cần phải chủ động tiếp nhận toàn diện chỉ đạo
của Đảng, Nhà nước về công tác giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh
viên, trong đó cần xác định rõ đối tượng, nội dung và thời lượng giáo dục tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh cho người học, nhằm tạo điều kiện để hoạt động giáo dục này
đạt hiệu quả cao trong các trường đại học.
Đối với Đảng ủy, Ban Giám hiệu và lãnh đạo quản lý các Khoa, Phòng, Ban,
đây là những chủ thể trực tiếp tham gia quản lý, lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động giáo dục
tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trong nhà trường. Sự nhận thức sâu sắc về vai trò vị
trí của hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên của các chủ
thể này phải được thể hiện ở việc: Trực tiếp lên kế hoạch, tổ chức chỉ đạo thực hiện,
giám sát kiểm tra, xử lý kết quả của hoạt động giáo giáo dục nói chung, giáo dục tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên nói riêng; quán triệt những chỉ thị, nghị
quyết của Đảng, Nhà nước, Ngành giáo dục về công tác giáo dục đạo đức, tư tưởng
Hồ Chí Minh cho sinh viên; chỉ đạo các chủ thể giáo dục khác trong nhà trường (giáo
viên, Đoàn thanh niên, Hội sinh viên...) trong công tác giáo dục, để từ đó các chủ thể
này (đặc biệt là giáo viên) truyền đạt đến từng sinh viên những quy định của Nhà
trường về mục đích, nội dung giáo dục, về tiêu chuẩn đánh giá... Thiết lập các kế
hoạch phố hợp chặt chẽ với các tổ chức chính trị xã hội ngoài nhà trường.
119
Triển khai thường xuyên Chỉ thị 05/CT-TW (15-05-2016) của Bộ chính trị về
đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh để sinh
viên nhận thức đúng, tích cực chủ động rèn luyện theo tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh; cuộc vận động “Dân chủ - kỷ cương – trách nhiệm” nhằm nâng cao nhận thức
của các chủ thể tham gia giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên, để
mỗi thầy cô giáo tự hoàn thiện mình, xứng đáng là tấm gương để học sinh noi theo.
Đảng ủy, Ban giám hiệu cần thống nhất và đưa nội dung giáo dục vào trong
nội dung kế hoạch năm học một cách cụ thể. Kết hợp hài hòa trong việc thực hiện các
phong trào thi đua. Bên cạnh đó, nhà trường cần kịp thời biểu dương các tập thể hoặc
cá nhân giáo viên và sinh viên có thành tích xuất sắc trong việc giáo dục, học tập, rèn
luyện theo tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
Xác định rõ trách nhiệm của các tổ chức đoàn thể trong hoạt động giáo dục.
Coi việc quán triệt và thực hiện công tác giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là
nhiệm vụ thường xuyên và quan trọng của gia đình, nhà trường và toàn xã hội. Khẳng
định việc giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là nội dung quan trọng của cuộc
cách mạng tư tưởng, đấu tranh tư tưởng, nhằm xây dựng nền văn hóa mới, con người
mới đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc
tế ở nước ta hiện nay.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền làm cho cán bộ, giảng viên, sinh viên nhận
thức rõ hơn, đầy đủ vị trí, vai trò, yêu cầu của việc giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ
Chí Minh với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đảng ủy, Ban giám hiệu, lãnh
đạo Khoa, Phòng, Ban phải xem đây là khâu mở đường, là giải pháp quan trọng để
tạo ra sự chuyển biến lớn về nhận thức và thói quen trong hoạt động trong nhà trường.
Đối với Đoàn thanh niên, Hội sinh viên, cần xác định rõ trách nhiệm trong
việc quán triệt và thực hiện giáo dục chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh, coi đây là
nhiệm vụ thường xuyên và quan trọng của gia đình, nhà trường và toàn xã hội. Khẳng
định giáo dục chủ nghĩa yêu nước là một nội dung quan trọng của cuộc cách mạng tư
tưởng, đấu tranh tư tưởng, nhằm xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa và xây dựng gia đình văn hoá mới.
120
Đối với giảng viên, là những người trực tiếp tham gia vào hoạt động giáo dục
tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trong các trường đại học, sự nhận thức
của giảng viên về cần thiết của hoạt động này sẽ làm cho họ tích cực, chủ động, có
những sáng kiến cũng như phương pháp sáng tạo trong quá trình giáo dục. Do đó, tạo
sự nhận thức về việc cần thiết giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên
của của giảng viên là một nhân tố quyết định đến chất lượng, hiệu quả của hoạt động
giáo dục này trong nhà trường. Vì vậy, giải pháp đối với chủ thể giáo dục này là:
Thứ nhất, giảng viên trong các trường đại học phải coi công tác giáo dục đạo
đức, nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên không chỉ là nhiệm vụ về chuyên môn, mà
còn phải coi đây là nhiệm vụ chính trị trong hoạt động công tác của mình.
Thứ hai, bản thân giảng viên phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện theo tư
tưởng đạo đức, nhân văn Hồ Chí Minh để trở thành những tấm gương sáng về đạo
đức nhân văn cho sinh viên noi theo, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “một
tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” [79, tr. 284].
Thứ ba, giảng viên phải biết nồng ghép nội dung giáo dục tư tưởng nhân văn
Hồ Chí Minh vào trong các môn học, trong các hoạt động ngoại khóa, trong quá trình
giảng dạy. Đặc biệt là đối với những giảng viên giảng dạy các môn khoa học Mác-
Lênin nói chung, môn tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng cần phải xác định rõ ràng,
đúng đắn những nội dung của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cần được tăng cường
giáo dục hiện nay và trong từng thời điểm cụ thể. Làm sao cho những nội dung giáo
dục phù hợp với lứa tuổi, đặc điểm sinh viên của từng trường.
Nâng cao nhận thức của các chủ thể giáo dục về tầm quan trọng của hoạt động
giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trong các trường đại học,
chính là làm cho các chủ thể giáo dục có được ý thức và tinh thần trách nhiệm cao
trong quá trình chỉ đạo, tổ chức, đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục nhằm đem
lại chất lượng cho hoạt động này trong các trường đại học ở nước ta hiện nay.
121
4.2.2. Đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục tư tưởng nhân văn
Hồ Chí Minh cho sinh viên trong các trường đại học ở nước ta thông qua
môn học tư tưởng Hồ Chí Minh
Việc giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trong các trường đại
học ở nước ta hiện nay được thực hiện thông qua nhiều hình thức, nhưng quan trong hơn
cả là việc giáo dục thông qua hoạt động học tập môn học tư tưởng Hồ Chí Minh. Môn
học tư tưởng Hồ Chí Minh được đưa vào giảng dạy trọng các trường đại học, cao đẳng
ở nước ta từ năm 2003 đã phát huy được vị trí, vai trò của nó trong mục tiêu giáo dục đại
học. Đây là môn khoa học tạo lập những hiểu biết về nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
hành động của Đảng và của cách mạng nước ta; góp phần xây dựng nền tảng đạo đức
con người mới ở nước ta hiện nay. Vì vậy, việc đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục
môn học này trong các trường đại học là giải pháp quan trọng nhằm nâng cao chất lượng
của hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trong các trường
đại học ở nước ta hiện nay.
4.2.2.1. Đổi mới nội dung môn học tư tưởng Hồ Chí Minh hướng tới việc
trang bị những tri thức nền mang tính khoa học cao, tính Đảng, tính tư tưởng sâu
sắc cho sinh viên
Việc vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ
thể nước ta là một cơ sở lý luận quan trọng góp phần hình thành nên tư tưởng
Hồ Chí Minh. Vì vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, sự thống nhất giữa thế gới quan
duy vật và phương pháp biện chứng là một thuộc tính đặc thù. Với cơ sở lý luận cơ
bản ấy, tư tưởng Hồ Chí Minh mang thuộc tính vốn có là phát triển. Tuy vậy sự phát
triển này đòi hỏi chúng ta phải không ngừng bổ sung, hoàn thiện. Vì vậy, việc bổ
sung phát triển lý luận là bản chất cách mạng vốn có, là yêu cầu phát triển nội tại của
tư tưởng Hồ Chí Minh. Do đó, khi bổ sung, đổi mới nội dung môn học tư tưởng
Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng nhân văn của Người nói riêng cần chú ý đến một
số nội dung sau:
122
Thứ nhất, việc đổi mới cần tuân thủ nguyên tắc: kết hợp biện chứng giữa “tính
mới” và “tính kế thừa”.
Các tri thức về tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh phần nào đã được lồng ghép
cung cấp cho sinh viên khi các em học học các chuyên đề trong môn học tư tưởng Hồ
Chí Minh, trong các môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin,
môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy việc biên soạn giáo
trình tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, chuyên đề tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
nói riêng cần có sự kế thừa những tri thức đã dạy ở các chuyên đề tư tưởng Hồ Chí
Minh khác, ở các môn học khác để tránh sự trùng lặp không cần thiết, tạo sự hưng
phấn cho sinh viên khi cập nhật những tri thức mới. Mặc khác, giữa các chuyên đề
trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giữa các môn lý luận chính trị đều có mối quan hệ biện
chứng với nhau, tri thức của chuyên đề này, của môn học này làm tiền đề để hiểu tri
thức tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh được rộng hơn, rõ hơn, sâu hơn và ngược lại.
Nhận thức rõ điều này có ý nghĩa quan trọng khi biên soạn giáo trình tư tưởng Hồ
Chí Minh nói chung, chuyên đề tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh nói riêng.
Hai là, nội dung đổi mới trong môn học tư tưởng Hồ Chí Minh phải là những
nội dung có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính khoa học, tính Đảng và tính tư tưởng
sâu sắc.
Sự thống nhất không thể tách rời giữa tính khoa học với tính cách mạng tạo
thành đặc trưng, bản chất của tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự thống nhất giữa hai yếu tố
này bởi chủ nghĩa Mác – Lênin chính là cơ sở lý luận quan trọng hình thành nên tư
tưởng Hồ Chí Minh. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tính khoa học được thể hiện rõ từ
tổng thể cấu trúc đến các bộ phận hợp thành trên cơ sở thế giới quan duy vật, phép
biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Tính khoa học trong tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng nhân văn của
Người nói riêng được thể hiện ở việc các quan điểm, luận điểm của Người được hình
thành từ chính thực tiễn của phong trào cách mạng Việt Nam, và được kiểm nghiệm
bởi chính thực tiễn thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đó chính là sự thống nhất
biện chứng giữa tính khoa học và tính cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh. Do đó,
123
tư tưởng Hồ Chí Minh được coi là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của
Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng việt Nam.
Vì vậy, một nguyên tắc qua trọng khi trình bày nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh
nói chung, tư tưởng nhân văn của Người nói riêng cho sinh viên là phải đảm bảo tính
khoa học cao, tính Đảng và tính tư tưởng sâu sắc.
Ba là, bổ sung, phát triển và hoàn thiện tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp
với thực tiễn đất nước và thời đại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành trong một bối cảnh lịch sử nhất định,
nó mang tính chất định hướng cho cách mạng. Do vậy, việc bổ sung, phát triển những
luận điểm của Người cho phù hợp với thực tiễn xã hội là rất cần thiết cho việc giáo
dục sinh viên trong các trường đại học ở nước ta hiện nay. Đây là vấn đề quan trọng
trong đổi mới nội dung môn học tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong thực tiễn giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng nhân văn
của Người nói riêng cho sinh viên các trường đại học ở nước ta hiện nay, có nhiều
vấn đề cần phải được bổ sung và phát triển cho phù hợp với thực tiễn như:
- Tình yêu thương của Hồ Chí Minh dành cho những người tù binh Pháp bị
bắt, tình cảm Người dành cho những người nước ngoài tự nguyện đứng trong hàng
ngũ của chúng ta chống lại đế quốc, coi họ như những người chiến sĩ Việt Nam mới…
Đây là những nội dung quan trọng cần được đẩy mạnh giáo dục cho sinh viên trong
bối cảnh đất nước đang đẩy mạnh công cuộc mở cửa và hội nhập quốc tế hiện nay.
- Về giáo trình môn học tư tưởng Hồ Chí Minh dùng cho sinh viên khối không
chuyên ngành Mác - Lênin không có riêng chuyên đề tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh. Vì vậy, việc học tập tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh của sinh viên được thực
hiện thông qua sự lồng ghép trong chuyên đề tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và các
chuyên đề khác, đã ảnh hưởng đến việc học tập, tìm hiểu tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh của sinh viên. Do đó, để nâng cao chất lượng giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ
Chí Minh giải pháp đưa ra là phải bổ sung chuyên đề tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
vào trong môn học tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm tạo thuận lợi cho việc học tập tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh của sinh viên đạt kết quả cao.
124
- Cần phải đấu tranh chống lại các luận điểm thù địch, xuyên tạc về tư tưởng
Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng nhân văn của Người nói riêng. Trong quá trình
giảng dạy, cũng như biên soạn giáo trình môn học tư tưởng Hồ Chí Minh, sự phê
phán này phải dựa trên cơ sở khoa học chứ không phê phán tùy tiện, phiến diện chủ
quan theo kiểu “phê phán lấy được”. Có như vậy, những thông tin mà người thầy cung
cấp cho sinh viên mới mang nặng giá trị khoa học và niềm tin vào những tri thức đó.
4.2.2.2. Đổi mới chương trình đào tạo môn học tư tưởng Hồ Chí Minh
Trong quá trình giảng dạy, các trường cần tuân thủ tính lôgic của môn học để
đảm bảo tính hệ thống, chỉnh thể của các tri thức cung cấp cho sinh viên. Giữa môn
học tư tưởng Hồ Chí Minh với các môn học lý luận chính trị có đối tượng, phương
pháp nghiên cứu đặc thù, nhưng giữa chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Vì
vậy, việc bố trí thứ tự học tập các môn học này các trường cần phải thực hiện nghiêm
chỉnh Quyết định số 52/2008/QĐ-BGDĐT BGDĐT (18-09-2008) về điều kiện tiên
quyết khi học tập các môn lý luận chính trị. Theo đó, để đảm bảo tính lôgic, khoa học
và tính hệ thống của môn học lý luận chính trị, sinh viên sẽ lần lượt được học các
môn: Nguyên lý 1, Nguyên lý 2, Tư tưởng Hồ Chí Minh và môn Đường lối cách mạng
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Qua thực tế tìm hiểu tại một số trường đại học thấy
rằng, vì những lý do khác nhau như thiếu giảng viên, phòng học, kế hoạch đào tạo
của nhà trường... sinh viên không được học các môn lý luận chính trị theo điều kiện
tiên quyết chương trình môn học đặt ra, đặc biệt có những trường đến năm thứ 4 sinh
viên mới được học môn tư tưởng Hồ Chí Minh.
Để nâng cao chất lượng giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh
viên sát hợp với yêu cầu thực tiễn giảng dạy của từng trường, chương trình cần được
cấu tạo cho phù hợp với tính đặc thù của từng trường, của từng khối ngành đào tạo.
Tuy nhiên, trong chương trình môn học tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại
học đều có tính hướng đích, có số lượng tiết học như nhau, nhưng giữa các trường
cần có sự khác biệt tương đối như giáo viên có thể đưa ra các chuyên đề bổ trợ, nhưng
kiến thức bổ trợ phục vụ cho kiến thức chuyên ngành của người học.
125
4.2.2.3. Đổi mới phương pháp giảng dạy môn học tư tưởng Hồ Chí Minh
giúp sinh viên chủ động, sáng tạo, tự giác học, biến các tri thức nhân văn Hồ Chí
Minh thành những phẩm chất cần thiết cho bản thân
Chất lượng môn học tư tưởng Hồ Chí Minh phụ thuộc nhiều vào các yếu tố
như chủ thể, khách thể dạy và học; nội dung, chương trình môn học, phương pháp,
điều kiện vật chất phục vụ quá trình học tập… Trong đó, phương pháp giảng dạy phù
hợp với đối tượng, trình độ nhận thức của sinh viên là một yêu tố quan trọng góp
phần nâng cao chất lượng giảng dạy môn học. Đổi mới phương pháp học tập môn
học tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học cần tuân theo một số biện pháp
sau:
- Đổi mới quy trình thực hiện những thao tác cơ bản trong lộ trình giảng dạy
môn học tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cấu tạo chương trình cần thay đổi theo xu thế giáo dục mới trên thế giới là
phải trang bị cho người học một thái độ học tập môn học đúng đắn, một tình cảm đối
với môn học, một phương pháp học tập tốt, sau đó mới trang bị kiến thức và các kỹ
năng của môn học. Với môn học tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, chuyên đề tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh nói riêng, cần phải hướng dẫn các em tự học bài trước,
tìm hiểu những nội dung kiến thức có liên quan, rồi mới đến giảng bài trên lớp,
seminnar, kiểm tra đánh giá kết quả môn học. Với quy trình giảng dạy này sẽ giúp
cho sinh viên chủ động sáng tạo khi tiếp cận bài mới, tạo ra nhiều thao tác tư duy và
hành vi nhằm chuyển dịch những tri thức từ lĩnh vực tự học thành năng lực và phẩm
chất của người học. Đây là thao tác đầu tiên và quan trọng để nâng cao chất lượng
dạy và học môn học tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học ở nước ta hiện nay.
- Đổi mới phương pháp dạy theo hướng tạo tính chủ động, độc lập, sáng tạo
cho sinh viên trong việc chuyển hóa những tri thức nhân văn Hồ Chí Minh thành
những phẩm chất cần thiết của bản thân.
Trong hoạt động giảng dạy môn học tư tưởng Hồ Chí Minh, các giảng viên
cần kết hợp sử dụng nhuần nhuyễn các phương pháp thuyết trình, nêu vấn đề, đối
thoại với sinh viên trong giảng dạy môn học này. Thông qua những tình huống trong
bài giảng người thầy có nhiệm vụ gợi mở, định hướng giúp sinh viên tự vận động,
126
tìm tòi, tháo gỡ tình huống. Như vậy, giúp sinh viên hiểu nội dung bài giảng sâu sắc
hơn, đồng thời giúp họ biết vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh vào trong cuộc sống.
Sử dụng phương pháp này, người học liên tục phải động não, từng bước khắc phục
tính thụ động trong quá trình tiếp nhận kiến thức từ người thầy và phát huy tốt năng
lực tư duy, năng lực sáng tạo trong mỗi sinh viên.
- Tiếp tục đổi mới các phương pháp giảng dạy cơ bản khác.
+ Đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức lớp học. Để áp dụng các phương
pháp giảng dạy mới trong học tập, phát huy vai trò chủ động của sinh viên trong giờ
học, thì số lượng sinh viên bố trí trong một lớp học chỉ nên từ 30 đến 50 em. Thời
lượng tối ưu của một buổi giảng là 3 tiết. Với thời lượng vừa phải như vậy sẽ giúp
cho các em tránh được tâm trạng căng thẳng, mệt mỏi, nâng cao hiệu quả trong học
tập tiếp thu tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Tổ chức nhiều hình thức phụ khóa, ngoại khóa: Đây là một biện pháp quan
trọng của đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng hiện đại hóa. Cuộc đời, tư
tưởng, sự nghiệp của Hồ Chí Minh gắn liền với những địa danh, những sự kiện lịch
sử, với các nhân chứng lịch sử. Vì vậy, việc nghe những nhân chứng lịch sử, tổ chức
tham quan những địa danh lịch sử, gắn liền với cuộc đời, sự nghiệp cách mạng của
Hồ Chí Minh sẽ giúp cho các em hiểu và có tình cảm sâu sắc về tư tưởng và con
người Hồ Chí Minh. Điều này không chỉ giúp các em học tập tốt môn học tư tưởng
Hồ Chí Minh, mà còn góp phần nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên.
+ Đổi mới phương pháp Seminnar, viết tiểu luận trong giảng dạy môn học tư
tưởng Hồ Chí Minh làm cho sinh viên phải chủ động suy nghĩ trong giờ học, giúp
sinh viên huy động tối đa năng lực tích cực tư duy của mình trong trong học tập.
+ Đổi mới phương pháp ôn luyện, kiểm tra, thi hết học phần nhằm đánh giá
chất lượng học tập môn học tư tưởng Hồ Chí Minh của sinh viên. Thực hiện việc đổi
mới này cần chú ý các vấn đề sau: việc kiểm tra, ôn luyện cần phải được duy trì
thường xuyên thông qua kết thúc các buổi học, giảng viên cần khái quát, chốt lại
những kiến thức cơ bản của môn học để sinh viên có thể tự ôn luyện tại nhà; giảng
viên có thể biên soạn lại phần hướng dẫn ôn tập cho phù hợp với đặc thù của trường
127
mình; thi kết thúc học phần môn học có thể đổi mới bằng hình thức thi trắc nghiệm
để tránh cho sinh viên học tủ, học vẹt. Với cách tiếp cận môn học từ nhiều hình thức
khác nhau tạo cho sinh viên hứng thú, niềm say mê được khám phá, có cái nhìn tổng
thể và sâu sắc hơn đối với môn học.
4.2.2.4. Tăng cường các điều kiện hỗ trợ hoạt động giáo dục tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh
Để nâng cao chất lượng giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh
viên, các trường đại học cần tăng cường đầu tư các điều kiện hỗ trợ hoạt động giáo
dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên như: nhà truyền thống, thư viện
điện tử, phòng học công nghệ, các phương tiện, giáo cụ trực quan (tranh ảnh, sơ đồ,
phim tư liệu...) phục vụ cho giảng dạy, học tập, sinh hoạt. Đây chính là những phương
tiện giúp cho giảng viên, sinh viên hoàn thành tốt công việc của mình trong quá trình
giảng dạy, học tập và rèn luyện theo tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Để phát huy
vai trò của các yếu tố về cơ sở vật chất trong hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn
Hồ Chí Minh cho sinh viên, các trường đại học cần phải thực hiện các vấn đề sau:
- Xây dựng tủ sách Hồ Chí Minh, bao gồm các tác phẩm của Hồ Chí Minh,
các công trình nghiên cứu về tư tưởng, cuộc đời, sự nghiệp cách mạng Hồ Chí Minh
của các học giả trong và ngoài nước. Với tủ sách về Hồ Chí Minh, sẽ là nguồn tài liệu
chính thống, phong phú về Hồ Chí Minh giúp cho việc học tập, nghiên cứu về Hồ
Chí Minh theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng.
- Xây dựng các phòng học công nghệ với các bị hỗ trợ hoạt động dạy và học
như máy tính được kết nối Internet, các phần mền giảng dạy, máy chiếu Projecter,
đầu đĩa DVD, ti vi, hệ thống âm thanh, ánh sáng... nhằm giúp giảng viên từng bước
ứng dụng công nghệ thông tin vào trong giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung,
tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh nói riêng.
- Xây dựng các khẩu hiệu tuyên truyền về tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
trong nhà trường. Khẩu hiệu về tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là những đoạn trích
trong các bài viết, bài nói của Hồ Chí Minh hàm chứa các giá trị nhân văn sâu sắc về
trách nhiệm của con người trong xã hội, về tình yêu thương giữa con người với con
người. Những khẩu hiệu tuyên truyền này được thể hiện ở khuôn viên nhà trường, ký
128
túc xá, ở trong lớp học hàng ngày tác động đến trực giác sinh viên và dần tạo thành
tình cảm, mục tiêu, phương trâm sống trong quá trình học tập và rèn luyện của sinh
viên.
- Phát huy vai trò của Nhà truyền thống của nhà trường trong việc giáo dục tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên. Nhà truyền thống trong các trường đại
học có vai trò quan trọng trong việc giáo dục truyền thống nói chung và giáo dục tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên nói riêng thông qua hoạt động nghiên cứu
và giáo dục bằng hiện vật, hình ảnh, tư liệu. Đó là con đường đi từ nhận thức đến tác
động và hình thành, hoàn thiện nhân cách sinh viên. Với những hình ảnh và hiện vật
được trưng bày trong nhà truyền thống, sinh viên có thể nhận thức một cách tổng thể,
khái quát về quá trình hình thành và phát triển của nhà trường. Điều quan trọng hơn
cả là những hình ảnh, hiện vật đó sẽ đặt ra những vấn đề cho sinh viên phải suy nghĩ
về trách nhiệm của bản thân mình với nhà trường, với nhân dân, với xã hội để từ đó
điều chỉnh hành vi của mình trong hiện tại và tương lai.
- Bên cạnh đó, việc xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong nhà trường
góp phần quan trọng trong giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên.
Khi được giáo dục trong môi trường văn hóa thấm đượm tính nhân văn, các em không
những hình thành được những hành vi chuẩn mực mà quan trọng hơn là ẩn chứa
trong tiềm thức các em là niềm tin nội tâm sâu sắc vào những điều tốt đẹp trong các
giá trị nhân văn Hồ Chí Minh mà các em đã được học, từ đó, khao khát cuộc sống
hướng thiện và sống có trách nhiệm với bản thân và xã hội.
Việc các trường đại học tăng cường đầu tư vào việc hiện đại hóa các điều kiện
cơ sở vật chất, những phương tiện, trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học môn tư
tưởng Hồ Chí Minh của giảng viên và sinh viên, cũng như xây dựng môi trường văn
hóa trong các trường đại học sẽ giúp cho sinh viên chủ động, tích cực, sáng tạo độc
lập trong suy nghĩ, tìm tòi, trau dồi khả năng tư duy, từ đó sẽ giúp các em nắm vững,
hiểu sâu nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng nhân văn của Người
nói riêng là giải pháp quan trọng nhằm nâng cao chất lượng giáo dục tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trong các trường đại học.
129
4.2.3. Phát huy tính tự lập, tự giác của sinh viên trong việc rèn luyện theo
tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
Trong hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh ở các trường đại
học, sinh viên vừa là đối tượng giáo dục, đồng thời cũng vừa là chủ thể giáo dục –
quá trình tự giáo dục của sinh viên. Kết quả học tập rèn luyện của sinh viên không
chỉ từ việc tiếp thu các giá trị nhân văn do quá trình học tập đem lại, mà còn do quá
trình tự rèn luyện, đúc kết từ thực tiễn cuộc sống của từng cá nhân sinh viên tạo thành.
Với tư cách là chủ thể của hoạt động giáo dục sinh viên sẽ tự học tập rèn luyện để
biến những tri thức nhân văn Hồ Chí Minh thành tình cảm nhân văn, hành vi nhân
văn và khi đó nó sẽ trở thành nội lực định hướng, hướng dẫn sinh viên sống, học tập,
rèn luyện theo xu hướng tích cực, tiến bộ mà xã hội yêu cầu, như lúc sinh thời Hồ
Chí Minh thường nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải biết kết hợp cả hai mặt giáo dục
và tự giáo dục, trong đó việc học phải “Lấy tự học làm cốt” [83, tr. 312]. Vì vậy, phát
huy tính tự giác trong học tập, rèn luyện theo tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh của
sinh viên là giải pháp có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình nâng cao chất
lượng hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trong các
trường đại học ở nước ta hiện nay.
Nâng cao chất lượng giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên
là quá trình chuyển hóa từ tri thức về các giá trị nhân văn Hồ Chí Minh của sinh viên
thành tình cảm và những hành vi nhân văn của mỗi sinh viên. Công tác giáo dục, đào
tạo trong nhà trường chỉ được nâng cao khi mỗi sinh viên tiếp nhận nó một cách tự
giác, biến nó thành động cơ bên trong, thôi thúc sinh viên phấn đấu học tập, rèn luyện.
Điều này cho thấy, hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên
trong các trường đại học chỉ đạt được chất lượng khi mỗi sinh viên tự ý thức, thực
hiện tốt quá trình chuyển hóa nhận thức thành tự nhận thức, tự giáo dục, tích cực chủ
động rèn luyện thông qua hoạt động thực tiễn. Để phát huy tính tự lập, tự giác của
sinh viên trong việc rèn luyện theo tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, cần thực hiện
một số biện pháp chủ yêu như:
Một là, giáo dục, thuyết phục để mỗi sinh viên hiểu được, các em là những
chủ nhân tương lai của nước nhà, là nguồn lực quan trọng để thực hiện thành công sự
130
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đòi hỏi khách quan về chất lượng
nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là cần phải có
những cong người phát triển toàn diện cả “đức” lẫn “tài”. Vì vậy, việc tự giác học tập
kiến thức chuyên môn và rèn luyện, tu dưỡng theo tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
là con đường quan trọng để các em rèn luyện “đức”, “tài” trong môi trường đại học.
Hai là, cùng với việc động viên, khuyến khích sinh viên tích cực tự giác học
tập, rèn luyện theo tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, các trường đại học cần xây dựng
một cơ chế kiểm tra, đánh giá. Mỗi trường đại học, mỗi khoa chủ quản cần phải tích
cực trong việc đổi mới, kiểm tra, đánh giá bằng những hình thức đa dạng, phù hợp để
sinh viên tăng cường tinh thần tự giác học tập, tự giác rèn luyện theo tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh, chứ không chỉ bằng những giờ học ở trên lớp.
Ba là, các trường cần đề ra các Quy chế khen thưởng, kỷ luật nghiêm minh và
dân chủ đối với những sinh viên có thành tích tốt trong việc học tập, rèn luyện theo
tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, cũng như những cá nhân có những biểu hiện vi
phạm đạo đức, lối sống. Ví dụ: Với những sinh viên tích cực tham gia các hoạt động
tình nguyện, nhân đạo, có kết quả tốt trong các cuộc thi Olympic các môn khoa học
Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh có thể coi đó là một tiêu chí quan trọng xét học
cảm tình Đảng, tham gia bầu vào các Ban chấp hành Hội sinh viên, Đoàn hanh niên…
Việc phát huy tính tự giác trong học tập, rèn luyện theo tư tưởng nhân văn Hồ
Chí Minh của sinh viên sẽ làm cho các em từng bước hình hành những khả năng tự
đánh giá, tự điều chỉnh theo những yêu cầu, những phẩm chất nhân văn Hồ Chí Minh
mà nhà trường đang hướng tới giáo dục cho các em. Đây chính là quá trình sinh viên
tự biểu hiện, tự khẳng định. Đó cũng chính là quá trình giáo dục mà sinh viên từ
khách thể giáo dục đến chỗ thống nhất biện chứng giữa khách thể và chủ thể giáo dục
trong bản thân sinh viên. Khi sinh viên phát huy tính tự giác trong học tập, rèn luyện,
thì những tri thức về nhân văn Hồ Chí Minh sẽ nhanh chóng chuyển thành tình cảm,
niềm tin, lý tưởng và cao hơn hết là hình thành một thế giới quan khoa học, nhân sinh
quan nhân đạo cộng sản chủ nghĩa.
131
4.2.4. Đa dạng hóa các phong trào chính trị - xã hội thực tiễn, đặc biệt
phát huy phong trào “Mùa hè xanh”, “Hiến máu nhân đạo” cho sinh viên trong
các trường đại học hiện nay
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng công tác giáo dục thanh niên muốn
có kết quả trước hết phải tổ chức cho thanh niên tham gia vào các hoạt động thực tiễn
xã hội. Từ trong môi trường này, thanh niên sẽ được rèn luyện, từng bước trưởng
thành, Người nói: “Giáo dục thanh niên không thể tách rời mà phải liên hệ chặt chẽ
với những cuộc đấu tranh của xã hội”[87, tr. 265]. Hoạt động giáo dục trong nhà
trường gắn với “cuộc đấu tranh xã hội” mà Hồ Chí Minh đã đề cập chính là các phong
trào chính trị - xã hội thực tiễn do các tổ chức, đoàn thể trong và ngoài nhà trường
phát động như: “Mùa hè xanh”, “Hiến máu nhân đạo”, “Tiếp sức mùa thi”... Các
phong trào chính trị - xã hội này là môi trường thực tiễn quan trọng để sinh viên rèn
luyện theo tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Để lôi cuốn sinh viên tham gia các phong
trào chính trị - xã hội thực tiễn, các trường đại học cần triển khai một số biện pháp cơ
bản sau:
Một là, cần phát huy tốt hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đoàn thanh niên, Hội
sinh viên trong việc tổ chức và thu hút sinh viên vào các phong trào chính trị - xã hội
thực tiễn. Muốn vậy, đội ngũ cán bộ đoàn, cán bộ hội trong các trường đại học cần
bồi dưỡng cho mình có được những phẩm chất, năng lực nhất định để có thể nắm bắt
thực chất, diễn biến tư tưởng, tình cảm của đoàn viên, hội viên của mình một cách
chính xác. Đồng thời, đội ngũ này phải có khả năng tìm ra những giải pháp khả thi
để giáo dục, rèn luyện cho sinh viên theo tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trước sự
tác động hai mặt của nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
Hai là, các tổ chức Đoàn, Hội trong các trường đại học cần có nội dung và
hình thức giáo dục sinh động, phong phú. Cụ thể là:
- Giáo dục cho sinh viên trách nhiệm đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước trong học tập thông qua các phong trào: “Học vì ngày mai lập
nghiệp”, “Tuần khoa học”, “Triển lãm sáng tạo”… Thông qua các phong trào này,
sẽ hướng mục tiêu học tập, nghiên cứu khoa học của sinh viên vào những vẫn đề đặt
ra trong thực tiễn lao động sản xuất, nhằm cải tiến tăng năng suất lao động, đẩy nhanh
132
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Đó chính là trách nhiệm của người
sinh viên trong giai đoạn hiện nay.
- Đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao... cho sinh viên nhân
các ngày kỷ niệm, ngày lễ của đất nước như: ngày giải phóng miền Nam 30-4, ngày
thương binh liệt sĩ 27-7, ngày vì người ngèo 17-10, ngày toàn dân tình nguyện hiến
máu 7-4, ngày vì nạn nhân chất độc da cam 10-8… Thông qua các hoạt động này sẽ
tác động đến tình cảm của sinh viên, làm cho các em thấy được trách nhiệm của bản
thân với cộng đồng, với những hoàn cảnh khó khăn trong xã hội.
Đoàn, Hội nên tổ chức những buổi nói chuyện, định hướng nghề nghiệp, hội
trợ việc làm, những trung tâm tư vấn, giới thiệu việc làm cho sinh viên…Việc thực
hiện cầu nối giữa đào tạo và sử dụng lao động mà một số Đoàn trường đã làm, tạo
được sự ủng hộ đông đảo của sinh viên. Thông qua các hoạt động đó, sẽ giúp cho
sinh viên tìm kiếm được những công việc phù hợp với năng lực chuyên môn, tạo hiệu
quả trong lao động sản xuất.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới và phát triển phong trào “Thanh niên tình nguyện”,
“Tiếp sức mùa thi”, “Hiến máu nhân đạo”… trong sinh viên. Giải pháp để thực hiện là:
- Đưa các phong trào “Thanh niên tình nguyện”, “Tiếp sức mùa thi” trở thành
một yêu cầu thực tế ngoại khóa trong chương trình đào tạo.
- Việc thực hiện hoạt động tình nguyện trong sinh viên không chỉ diễn ra trong
một tháng hè mà có thể thực hiện rải rác các tháng trong năm học. Địa bàn tình nguyện
không chỉ hướng đến những vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa mà có thể thực hiện
tình nguyện ngay tại trường, những vùng lân cận trường… Thông qua các hoạt động
tình nguyện như vậy, sinh viên hình hành tình cảm, trách nhiệm của bản thân đối với
mọi người xung quanh, đối với xã hội. Đây chính là môi trường thực tiễn quan trọng
giúp sinh viên rèn luyện các phẩm chất nhân văn theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Thành lập những tổ công tác có tính tổng hợp. Trong mỗi tổ có nhiều thành
viên ở các trường đại học hợp lại để cùng nhau giải quyết các vấn đề khó khăn tại cơ
sở đến làm công tác tình nguyện. Như vậy sẽ tăng cường sự giao lưu giữa các trường
và đạt hiệu quả cao trong các hoạt động tình nguyện.
133
- Cần có cơ chế khen thưởng kịp thời và công bằng đối với những sinh viên có
đóng góp hiệu quả trong phong trào tình nguyện và có thể coi đây là một tiêu chí cơ
bản để xếp loại đoàn viên ưu tú kết nạp Đảng.
Thứ tư, trong quá trình triển khai các hoạt động chính trị - xã hội thực tiễn,
Đoàn thanh niên, Hội sinh viên dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, Ban Giám hiệu cần có
sự liên hệ chặt chẽ với phòng Công tác chính trị, Khoa Lý luận chính trị... để có sự
phối hợp chặt chẽ trong toàn trường, nâng cao chất lượng của hoạt động giáo dục tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên.
Đoàn thanh niên phải góp phần quan trọng trong xây dựng môi trường văn
hóa. Ở đây, mọi người sống có văn hóa, có tình người, giúp nhau định hướng cuộc
sống, say mê lý tưởng, hoài bão, vượt qua mọi khó khăn gian khổ trong học tập, cuộc
sống. Lúc sinh thời, Hồ Chí Minh rất quan tâm và đòi hỏi Đoàn phải làm tròn nhiệm
vụ là nơi đoàn kết, tập hợp thanh niên, sinh viên để giúp Đảng giáo dục họ thành
những chủ nhân tương lai của đất nước. Người đòi hỏi Đoàn khi đề xuất một phong
trào thi đua phải có định hướng đúng, có kế hoạch thực hiện cụ thể, có nội dung thi
đua thiết thực, rõ ràng, có sự lãnh đạo, chỉ đạo theo dõi thường xuyên. Làm được như
vậy phong trào Đoàn mới thực sự phát triển, thực sự là cánh tay phải, đội hậu bị tin
cậy của Đảng trong công tác giáo dục, rèn luyện sinh viên.
4.2.5. Kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong quá
trình giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên
Giáo dục là một hoạt động mang tính xã hội cao. Do đó, muốn nâng cao chất
lượng của hoạt động này chúng ta cần phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục trong
nhà trường với giáo dục gia đình và xã hội. Đây là một giải pháp hữu hiệu nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trong các
trường đại học. Đúng như Hồ Chí Minh đã nói: “Giáo dục trong nhà trường chỉ là
một phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình, để giúp cho việc
giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường dù tốt đến mấy,
nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn
toàn” [88, tr. 591]. Quá trình kết hợp này sẽ tạo nên sự thống nhất trong tư tưởng và
hành động đối với hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên.
134
Trong mối quan hệ biện chứng này, mỗi chủ thể giáo dục (nhà trường, gia
đình, xã hội) đều có vai trò, vị trí, chức năng riêng. Nếu buông lỏng hay xem nhẹ bất
kỳ một yếu tố nào sẽ làm ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình giáo dục tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh cho sinh viên và kết quả đạt được sẽ không cao.
Trong việc tổ chức kết hợp các chủ thể giáo dục, gia đình có vai trò quan trọng,
là trọng tâm của các hoạt động kết hợp. Gia đình là nơi sinh viên được sinh ra, lớn
lên và hình thành nhân cách của mình. Ảnh hưởng giáo dục của gia đình đối với sinh
viên là đầu tiên và sớm nhất tiếp nhận các giá trị nhân văn, tất cả những gì được hình
thành trong sinh viên từ gia đình thường để lại trong tâm hồn các em những ấn tượng
khó phai mờ và có ảnh hưởng quan trọng đến các em trong suốt cuộc đời. Nhưng thực
tế, không phải gia đình nào cũng làm tốt chức năng giáo dục của mình, vẫn còn nhiều
gia đình cha mẹ còn bất hòa, chưa gương mẫu, thực dụng, chạy theo đồng tiền... đang
trở thành những tấm gương xấu làm cho con cái quay lưng với các giá trị nhân văn,
đi ngược với những giá trị tốt đẹp ngàn đời của dân tộc. Từ thực trạng vấn đề giáo
dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh của gia đình hiện nay, để gia đình hoàn thành
tốt chức năng giáo dục này, đòi hỏi Đảng, Nhà nước cần có chiến lược lâu dài, toàn
diện về gia đình, nâng cao chất lượng gia đình, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến giải
pháp đẩy mạnh phong trào xây dựng gia đình văn hóa trong nhân dân; đánh giá đúng
đắn vị trí, chức năng và vai trò của gia đình hiện nay, đặc biệt là chức năng giáo dục
truyền thống nhân văn dân tộc nói chung và nhân văn Hồ Chí Minh nói riêng.
Bên cạnh vai trò của gia đình, vai trò giáo dục của nhà trường và các đoàn thể
xã hội, trước hết là tổ chức đảng, Đoàn thanh niên, Hội sinh viên đối với việc giáo
dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên cũng không kém phần quan trọng.
Bởi nhà trường là một tổ chức chuyên biệt đối với công tác giáo dục, được sự lãnh
đạo trực tiếp của Đảng và Nhà nước, nắm vững đường lối, mục tiêu đào tạo con người
mới. Mặt khác, nhà trường luôn có đội ngũ thầy cô giáo – những chuyên gia sư phạm
có trình độ, năng lực đạo đức... đã được đào tạo có hệ thống, đã được tuyển chọn kỹ
càng. Vì vậy, giáo dục trong nhà trường sẽ trang bị cho các em những kiến thức cơ
bản, chính thống và cũng là nơi giáo dục lý tưởng sống, rèn luyện cho sinh viên những
phẩm chất đạo đức cần thiết của công dân, tạo dựng cho các em những ước mơ hoài
135
bão lớn lao đồng thời cũng là cơ sở để các em biến ước mơ đó thành hiện thực. Do
vậy, để hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trong nhà trường đạt hiệu
quả cao thì bản thân các giảng viên phải là những tấm gương sáng về đạo đức-nhân
văn để sinh viên noi theo. Đồng thời người giảng viên phải biết tìm tòi các hình thức
dạy học phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của thanh niên. Việc giáo dục tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên không chỉ bằng sách vở, câu chữ mà phải liên
kết các hình thức hoạt động khác nhau như: lao động, sinh hoạt, dã ngoại, giao lưu
văn hoá... Thông qua những hoạt động như vậy giúp sinh viên hiểu thêm nhiều vấn
đề trong cuộc sống, trong lao động và trong học tập, hiểu thêm những truyền thống
nhân văn tốt đẹp của quê hương, đất nước. Trang bị cho họ một thế giới quan và phương
pháp luận khoa học để họ tự giải quyết những vấn đề đặt ra trong cuộc sống của họ.
Bên cạnh đó, quá trình giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh không những
chịu sự chi phối của gia đình, nhà trường mà môi trường xã hội cũng là mảnh đất
không kém phần quan trọng để nuôi dưỡng hình thành tinh thần nhân văn trong mỗi
sinh viên. Xã hội giữ vai trò hết sức to lớn trong việc hình thành nhân cách, lối sống
của sinh viên, là môi trường rộng lớn mà ở đó có các cá nhân, các đoàn thể, các mối
quan hệ giao tiếp với nhau trong lao động học tập và sinh hoạt. Do vậy, đối với xã
hội, trực tiếp là Nhà nước cần có những định hướng toàn diện về mọi mặt kinh tế,
tư tưởng, văn hoá, đạo đức, pháp luật, hệ thống chính sách, chế độ đãi ngộ đối với
công tác thanh niên nói chung, sinh viên nói riêng.
Ngày nay, thanh niên nói chung và sinh viên nói riêng đang được sống trong
môi trường văn hoá phong phú và đa dạng, đang được tiếp cận với nhiều nguồn
thông tin trong nước và quốc tế bằng nhiều kênh khác nhau, được giao lưu học hỏi
với nhiều nền văn hoá khác nhau. Điều đó có tác động to lớn đến đời sống văn
hoá, tinh thần và lối sống của sinh viên, những người hết sức nhạy cảm, dễ tiếp
thu cái mới và quên đi những giá trị nhân văn truyền thống của dân tộc. Do vậy,
gia đình, nhà trường cần phối hợp với chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội,
các tổ chức kinh tế, các đơn vị vũ trang nhân dân tổ chức tìm hiểu truyền thống
quê hương, đất nước, bằng các hoạt động cụ thể... để sinh viên tham gia. Đây là
những hoạt động bổ ích, giúp sinh viên tự rèn luyện, nâng cao ý thức và nghĩa vụ
136
của mình đối với cộng đồng. Qua đó chúng ta có thể kết hợp giáo dục tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh cho sinh viên một cách thiết thực nhất.
Như vậy, kết hợp giữa giáo dục gia đình, nhà trường, đoàn thể với xã hội, để
tạo ra sự tác động nhiều chiều, tạo nên sức mạnh tổng hợp nhằm nâng cao hiệu quả
giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên, yêu cầu của quá trình kết
hợp này là:
Thứ nhất, việc kết hợp giữa giáo dục trong gia đình với nhà trường và xã hội
trong công tác giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên phải đảm bảo
sự nhất quán về mục tiêu, nội dung giáo dục. Sự thống nhất về mục tiêu, nội dung
giáo dục là điều kiện quan trọng nhằm đem lại hiệu quả của sự kết hợp giữa gia đình,
nhà trường và xã hội trong hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho
sinh viên, như Hồ Chí Minh đã nói: “Trẻ em trong như tấm gương, cái tốt dễ tiếp thu,
cái xấu cũng dễ tiếp thu. Nếu nhà trường dạy tốt mà gia đình dạy ngược lại, sẽ có
những ảnh hưởng không tốt tới trẻ em và kết quả cũng không tốt” [90, tr. 76].
Trong các chủ thể giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên, nhà
trường là lực lượng chính, giữ vị trí trung tâm, là lực lượng có đủ khả năng và điều
kiện để trang bị cho sinh viên những hiểu biết, những tri thức về nhân văn Hồ Chí
Minh ở tầm lý luận. Vì lẽ đó mà gia đình và xã hội cần phải hiểu, nắm vững và thống
nhất những yêu cầu của nhà trường trong việc giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh cho sinh viên. Tránh tình trạng do không nắm bắt đầy đủ thông tin mà tạo ra
mâu thuẫn, phản tác dụng giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội trong quá trình
giáo dục sinh viên.
Thứ hai, xây dựng mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường
và xã hội trong quá trình giáo dục. Trong mối liên hệ mật thiết này, nhà trường
phải thường xuyên liên lạc với gia đình, thông báo cho gia đình về các hoạt động
giáo dục của nhà trường, cũng như tình hình học tập rèn luyện của sinh viên, ngược
lại gia đình cũng phải thiết lập và duy trì mối quan hệ với nhà trường mà trước
tiên là với giáo viên chủ nhiệm, thường xuyên nắm bắt tình hình học tập, rèn luyện
của sinh viên ở lớp. Đồng thời nhà trường cần xây dựng mối quan hệ gắn bó, chặt
chẽ với các tổ chức xã hội, các cơ quan kinh tế, văn hóa đóng trên địa bàn để
137
hướng sinh viên tích cực, tự giác tham gia các hoạt động văn hóa xã hội như: xóa
đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, hoạt động nhân đạo, từ thiện... do các lực lượng
giáo dục này tổ chức. Đây sẽ là những hoạt động bổ ích, giúp sinh viên tự rèn
luyện, nâng cao ý thức và trách nhiệm của mình đối với cộng đồng. Qua đó chúng
ta có thể kết hợp với giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên một
cách thiết thực nhất.
Như vậy, việc kết hợp giáo dục giữa gia đình, nhà trường và xã hội là một
trong những giải pháp quan trọng đối với việc giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh cho sinh viên. Đây là giải pháp cần được đặc biệt quan tâm, nhằm nâng cao
chất lượng của sự nghiệp giáo dục nói chung và giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ
Chí Minh nói riêng.
4.2.6. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Nhà trường, các phòng
ban, tổ chức Đoàn thế đối với công tác giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
cho sinh viên
Công tác kiểm tra, giám sát là chức năng quan trọng trong quản lý giáo dục,
đào tạo của các trường đại học, đồng thời đây cũng là công cụ sắc bén góp phần nâng
cao hiệu quả chất lượng công tác giáo dục, đào tạo nói chung, công tác giáo dục tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên nói riêng. Việc kiểm tra, xem xét, đánh
giá, giám sát các hoạt động giáo dục, các điều kiện dạy và học của các chủ thể giáo
dục trong phạm vi nhà trường với quá trình tổ chức, thực hiện hoạt động giáo dục tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên nhằm mục đích đảm bảo các hoạt động
giáo dục diễn ra theo đúng yêu cầu để nâng cao chất lượng, hiệu của của hoạt động
giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên.
Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến công tác kiểm tra,
giám sát, Người coi đây là một khâu quan trọng trong công tác lãnh đạo. Theo Hồ
Chí Minh, lãnh đạo đúng không phải chỉ biết viết nghị quyết, ra chỉ thị mà còn phải
tổ chức thi hành và kiểm tra thực hiện, Người khẳng định: “Chính sách đúng là nguồn
gốc của thắng lợi. Song từ nguồn gốc đi đến thắng lợi thực sự, còn phải tổ chức, phải
đấu tranh. Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách
138
đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ, và do nơi kiểm tra. Nếu ba
điều ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích. [83, tr. 636].
Trong hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trong
các trường đại học, các chủ thể giáo dục, đặc biệt là Đảng ủy, Ban Giám hiệu trong các
trường đại học cần phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đồi với hoạt động giáo
dục này nhằm nâng cao tính tự giác trong hoạt động, nắm bắt chính xác các thông tin
về thực trạng của hoạt động giáo dục đó cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình
giáo dục, để từ đó tìm ra các nguyên nhân và đề ra các giải pháp kịp thời, hiệu quả để
nâng cao chất lượng giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên.
Đối với Đảng ủy, Ban giám hiệu, đây là chủ thể giữ vai trò lãnh đạo, tổ chức
công tác giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trong nhà trường, do đó cần phải
thường xuyên kiểm tra, giám sát hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
của các đơn vị, các giảng viên trong nhà trường. Mục đích của việc kiểm tra, giám
sát là xem xét các chủ thể giáo dục có nghiêm túc thực hiện sự chỉ đạo, các chủ trương
của nhà trường đối với hoạt động giáo dục này; xem xét những khó khăn vướng mắc
để có những điều chỉnh kịp thời trong hoạt động giáo dục, đồng thời xử lý những sai
phạm cũng như kịp thời biểu dương những những cá nhân, tập thể có thành tích trong
hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Để việc kiểm tra, giám sát của
Đảng ủy, Ban Giám hiệu nhà trường phát huy hiệu quả trong việc nâng cao chất lượng
công tác giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trong các trường đại
học, hoạt động kiểm tra, giám sát phải được tiến hành thường xuyên, liên tục; kế
hoạch kiểm tra phải được xây dựng phù hợp với điều kiện, yêu cầu của nhà trường,
công tác kiểm tra phải được tiến hành toàn diện.
Các phòng, Ban trong nhà trường, đặc biệt là phòng Đào tạo cần phát huy vai
trò của mình trong việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện chương trình đào tạo, chương
trình môn học các môn lý luận chính trị nói chung, môn học tư tưởng Hồ Chí Minh
nói riêng đối với các khoa, các giảng viên xem các chủ thể giáo dục này có đảm bảo
các yêu cầu của hoạt động giảng dạy, giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Các
tổ chức Đoàn thanh niên, Hội sinh viên trong nhà trường cũng cần phát huy vai trò
139
kiểm tra, giám sát việc rèn luyện, làm theo tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh của sinh
viên thông qua các hoạt động thực tiễn, trong sinh hoạt đoàn thể.
Đối với giảng viên là những những chủ thể trực tiếp tham gia vào hoạt động
giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên, chất lượng hoạt động giáo
dục này phần lớn phụ thuộc vào sự gương mẫu, tự giác của của giảng viên trong hoạt
động giáo dục. Do vậy, phát huy sự giám sát của các giảng viên đối với giảng viên,
sự giám sát của sinh viên đối với giảng viên thông qua phiếu đánh giá giảng viên là
biện pháp quan trọng để nâng cao sự gương mẫu, tự giác, nghiêm túc trong việc thực
hiện nhiệm vụ giáo dục của mình góp phần nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên.
Để giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên các trường đại học
ở nước ta hiện nay, chúng ta cần có những giải pháp cụ thể như đã nêu và thực hiện
các giải pháp đó một cách đồng bộ. Các giải pháp trên đây có ý nghĩa thiết thực nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên các
trường đại học ở nước ta. Mỗi giải pháp có vị trí, vai trò khác nhau, nhưng có quan
hệ chặt chẽ, hỗ trợ nhau, là điều kiện, môi trường để nâng cao chất lượng trong công
tác giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Do đó khi vận dụng thực hiện, các
trường phải tiến hành đồng bộ và kết hợp chặt chẽ các giải pháp, không nên xem nhẹ
hoặc bỏ qua một giải pháp nào. Quá trình thực hiện cần phân tích sâu sắc tình hình
cụ thể của từng trường, ở từng giai đoạn cụ thể mà vận dụng cho phù hợp để phát huy
cao độ mọi tiềm năng của mỗi nhà trường để nâng cao chất lượng giáo dục tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh, góp phần đào tạo ra các thế hệ thanh niên vừa “hồng” vừa
“chuyên” đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội, phấn đấu xây dựng đất nước
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công băng, văn minh.
Kết luận chương 4
Việc phát huy các giá trị nhân văn Hồ Chí Minh Thông qua giáo dục đạo
đức, xây dựng nhân cách mới cho sinh viên là một trong những biện pháp cơ bản,
lâu dài hướng đến xây dựng một xã hội nhân văn, phát triển ở nước ta. Hoạt động
giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên các trường đại học ở nước
ta trong những năm vừa qua tuy đã đạt được một số kết quả nhất định trong việc
140
xây dựng nhân cách, đạo đức mới cho sinh viên, nhưng công tác này còn tồn tại
nhiều hạn chế. Để phát huy những kết quả đạt được, đồng thời khắc phục những
hạn chế trong hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên
trong các trường đại học ở nước ta hiện nay, cần giáo dục các giá trị nhân văn Hồ
Chí Minh cho sinh viên bằng những định hướng lâu dài và một hệ thống đồng bộ
các giải pháp giáo dục, nhằm từng bước nâng cao nhận thức của sinh viên về việc
rèn luyện, tu dưỡng theo tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, từng bước hình thành
thói quen, sự tự giác, nhu cầu trong việc rèn luyện theo tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh, trước hết, các trường đại học phải nâng cao nhận thức về tầm quan trọng
của hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên của các chủ
thể giáo dục, từ đó phát huy tính chủ động, tự giác trong quá trình giáo dục, rèn
luyện theo tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh; Đổi mới nội dung và các hình thức
giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh đối với sinh viên, thực hiện việc giáo
dục thông qua đổi mới nội dung, chương trình môn học Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, thông qua đổi mới phương pháp giảng dạy, thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng, thông qua việc đa dạng hóa các loại hình văn hóa văn nghệ, thông
qua các hoạt động xã hội, nhân đạo và thông qua chính tấm gương nhân văn của người
giáo viên, thông qua tăng cường sự hỗ trợ của các điều kiện vật chất cho hoạt động
giáo dục, cũng như xây dựng môi trường văn hóa ứng xử nhân văn giữa các chủ thể
giáo dục trong nhà trường; Kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong
việc giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên. Trong đó, mỗi chủ thể
giáo dục này có vị trí, vai trò khác nhau, song cùng hướng đến mục tiêu chung là
nhằm hình thành những con người phát triển toàn diện, giàu lòng nhân ái; Nâng cao
ý thức tự giác trong học tập, rèn luyện theo tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh của sinh
viên bao gồm xây dựng mục đích, động cơ học tập rèn luyện đúng đắn. Nâng cao
năng lực tự giáo dục, rèn luyện toàn diện của sinh viên. Quá trình tự giáo dục, rèn
luyện phải gắn với các hoạt động thực tiễn; đa dạng hóa các phong trào chính trị - xã
hội thực tiễn, đặc biệt pháp huy phong trào “Mùa hè xanh”, “Hiến máu nhân đạo”
cho sinh viên trong các trường đại học hiện nay; tăng cường công tác kiểm tra, giám
141
sát của Đảng ủy, Ban hiệu nhà trường, các Phòng, Ban, tổ chức đoàn thể, của giảng
viên, sinh viên đối với hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
Vì vậy, để nâng cao chất lượng giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho
sinh viên các trường đại học nhằm tạo ra nhưng con người phát triển toàn diện, giàu
lòng nhân ái đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế, cần thiết phải thực hiện đồng bộ các giải pháp trên với sự phối hợp, liên
kết của các chủ thể giáo dục trong nhà trường với giáo dục gia đình và xã hội.
142
KẾT LUẬN
Hiếm có một lãnh tụ nào mà tư tưởng của họ lúc sinh thời cũng như sau khi
qua đời có ảnh hưởng to lớn, sâu rộng, tỏa sáng đến mọi tầng lớp nhân dân như tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hòa
giữa truyền thống nhân ái của dân tộc, với tư tưởng nhân văn, nhân ái của nhân loại,
đặc biệt là chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Đó là chủ nghĩa nhân văn chân chính, chủ
nghĩa nhân văn hiện thực của con người Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh mà nổi bật là quan niệm về bản chất tốt đẹp của con
người, ở lòng nhân ái yêu thương con người vô hạn, ở sự khoan dung, độ lượng với
con người, ở việc quan tâm, tin tưởng vào sức mạnh to lớn của con người, ở việc coi
trọng giáo dục, “trồng người”, đặc biệt là chăm lo, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho
đời sau.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi vào cõi vĩnh hằng, nhưng tư tưởng của Người nói
chung, những giá trị tư tưởng nhân văn của Người nói riêng vẫn là ngọn đuốc soi
sáng con đường phát triển tương lai của dân tộc, là nền tảng lý luận giúp Đảng Cộng
sản Việt Nam xác định đúng vị trí, vai trò của công tác giáo dục, đào tạo, để từ đó
nghiên cứu, xây dựng, phát triển chiến lược giáo dục và đào tạo một cách sáng tạo,
đồng bộ, có hệ thống ở các cấp bậc học, để nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài, bồi
dưỡng nguồn nhân lực đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi của thời kỳ mới cách mạng
nước ta.
Đất nước ta hiện nay đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế để hướng tới mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh. Đây là một sự nghiệp cách mạng vô cùng khó khăn, gian khổ
và lâu dài. Để sự nghiệp cách mạng này đi đến thành công chúng ta phải phát huy
tổng hợp các nguồn lực, trong đó đặc biệt là việc chăm lo, bồi dưỡng nguồn lực con
người, hình thành nên những con người mới phát triển toàn diện cho xã hội, mà trong
đó, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là nền tảng, là gốc dễ cho việc định hướng xây
dựng con người mới đó.
143
Sinh viên là một lực lượng xã hội to lớn, là những người chủ nhân tương lai
của nước nhà. Để xứng đáng với vai trò đó, đòi hỏi sinh viên không chỉ giỏi chuyên
môn, vững tay nghề mà còn có lương tâm, trách nhiệm với cộng đồng, đó phải là
những con người phát triển toàn diện cả “đức” lẫn “tài”thấm đượm các giá trị nhân
văn Hồ Chí Minh. Phẩm chất nhân văn trong mỗi người sinh viên được hình thành ở
rất nhiều môi trường, trong đó đặc biệt là môi trường đại học và trực tiếp là những
nội dung tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Trong những năm qua, hoạt động giáo dục
tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên các trường đại học ở nước ta đã góp
phần hình thành ở sinh viên những phẩm chất tốt đẹp ở sinh viên như: sống biết đồng
cảm, chia sẻ, có trách nhiệm, luôn nghĩ đến người khác. Nhưng xét trên bình diện xã
hội vẫn còn một bộ phận không nhỏ sinh viên đang suy thoái đạo đức, chạy theo lối
sống thực dụng, chủ nghĩa cá nhân dẫn đến sự vô cảm của bản thân đối với con người,
với xã hội. Cho nên, việc nghiên cứu về giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
cho sinh viên là hết sức cần thiết và cấp bách cả về lý luận và thực tiễn.
Để khắc phục những thực trạng nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động giáo
dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trong các trường đại học ở nước
ta hiện nay, trước hết cần thực hiện các phương hướng chủ yếu như: Giáo dục tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên gắn với mục tiêu xây dựng “con người
mới xã hội chủ nghĩa” và giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên
trách nhiệm với bản thân, gia đình, với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Thứ hai, một số giải pháp theo tác giả có tính khả thi cao trong việc giáo dục
tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên, đó là: Một là, nâng cao nhận thức về
vị trí, vai trò của hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên
các trường đại học ở Việt Nam; hai là, đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trong các trường đại học thông qua môn
học tư tưởng Hồ Chí Minh; ba là, phát huy tính tự lập, tự giác của sinh viên trong
việc rèn luyện theo tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh; bốn là, đa dạng hóa các phong
trào chính trị - xã hội thực tiễn, đặc biệt pháp huy phong trào “Mùa hè xanh”, “Hiến
máu nhân đạo” cho sinh viên trong các trường đại học hiện nay; năm là, kết hợp chặt
chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội trong quá trình giáo dục tư tưởng nhân
144
văn Hồ Chí Minh cho sinh viên; sáu là, tăng cường công tác kiểm tra giám sát của
Nhà trường, các Phòng, Ban, tổ chức doàn thể đối với công tác giáo dục tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên.
Đất nước ta hiện nay đang bước vào thời kỳ đẩu mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế đòi hỏi thế hệ thanh niên Việt Nam nói chung, sinh viên
Việt Nam nói riêng phải có đủ năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức đáp ứng yêu
cầu mới. Vì vậy, việc giáo dục, đào tạo những thế hệ sinh viên phát triển toàn diện
đức – trí – thể - mỹ, sống có trách nhiệm, biết đồng cảm, chia sẻ, luôn nghĩ đến người
khác, sống có lý tưởng, niềm tin, có hoài bão lập nghiệp vì tương lai của bản thân và
tiền đồ của đất nước theo tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là một vấn đề mang tính
cấp bách hiện nay. Nhiệm vụ ấy đòi hỏi sự quan tâm, phối hợp đồng bộ của các cấp,
các ngành nhưng trước hết thuộc về công tác giáo dục trong các trường đại học ở
nước ta hiện nay.
145
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
I. CÁC BÀI ĐĂNG TẠP CHÍ
1. Lê Cao Vinh (2015), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng con người”, Tạp chí
Khoa học và công nghệ trường Đại học sư phạm kỹ thuật Hưng Yên, (5).
2. Lê Cao Vinh (2016), “Yêu thương con người – Nội dung cốt lõi trong tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (242)
3. Lê Cao Vinh (2016), “Chiến lược trồng người trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (245).
4. Lê Cao Vinh (2016), “Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách
mạng – nội dung cơ bản và xuyên suốt trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh”,
Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, (12).
II. CÁC BÀI ĐĂNG TRONG KỶ YẾU HỘI THẢO VÀ SÁCH
1. Lê Cao Vinh (2015), “Tính nhân văn trong tư tưởng đoàn kết tôn giáo của Hồ
Chí Minh”, in trong Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học do Sở văn hóa
thể thao và du lịch, Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế và Trường Đại học
Khoa học Huế tổ chức, Huế.
2. Lê Cao Vinh (2016), “Tầm quan trọng của các giá trị đạo đức truyền thống trong
việc xây dựng đạo đức mới cho thanh niên Việt Nam hiện nay” (viết chung),
in trong Giáo dục giá trị trong bối cảnh hội nhập, Kỷ yếu Hội thảo khoa học
quốc tế, do Hội đồng nghiên cứu giá trị và triết học - Đại học Catholic Hoa
Kỳ, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Viện Triết học - Viện Hàn lâm
khoa học xã hội Việt Nam phối hợp tổ chức, Hà Nội.
3. Lê Cao Vinh (2016), “Hội Chữ thập đỏ Việt Nam thực hiện Cuộc vận động
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” (viết chung), in trong
Học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác nhân đạo , Kỷ
yếu Hội thảo khoa học do Hội Chữ thập đỏ Việt Nam tổ chức Nxb, Hà Nội.
4. Lê Cao Vinh (2016), “Hồ Chí Minh với việc xây dựng con người trong xã hội
mới”, in trong Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng xã hội mới – Giá trị lý luận
và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
146
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (1996), Từ điển Hán Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
2. Hoàng Anh (chủ biên) (2012), Giáo dục với việc hình thành và phát triển nhân
cách sinh viên, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
3. Hoàng Anh (2014), Xây dựng con người Việt Nam hiện nay theo Di chúc của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Phạm Ngọc Anh (chủ biên) (2008), Triết lý phát triển Hồ Chí Minh – Giá trị lý
luận và thực tiễn, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
5. Phạm Ngọc Anh (2010), “Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh: Bản chất và đặc
trưng tổng quát”, Tạp chí Lý luận chính trị, (8), tr. 12-17.
6. Lê Thị Vân Anh (2014), Giáo dục đạo đức cho sinh viên các trường đại học,
cao đẳng vùng Tây Bắc trong day môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh, Luận án tiến
sĩ Giáo dục học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội
7. Ban Quản lý lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh (2001) “Hồ Chí Minh sống mãi với
dân tộc Việt Nam và bầu bạn quốc tế”, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
8. Lương Gia Ban, Nguyễn Thế Kiệt (Đồng chủ biên) (2013), Giáo dục đạo đức
mới cho sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Lương Gia Ban, Nguyễn Thế Kiệt (Đồng chủ biên) (2014), Giá trị văn hóa
truyền thống dân tộc với việc xây dựng nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
10. Lương Gia Ban, Hoàng Trang (2014), Chủ nghĩa nhân văn Hồ CHí Minh với
việc xây dựng nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
11. Bảo tàng Hồ Chí Minh, Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội
(2010), Giá trị nhân văn của Di chúc Hồ Chí Minh: Kỷ yếu Hội thảo khoa học,
NXB Thanh Niên, Hà Nội.
12. Hoàng Chí Bảo (1998), “Hồ Chí Minh, biểu tượng của văn hóa làm người”, Tạp
chí Lịch sử Đảng, (7).
147
13. Hoàng Chí Bảo (2006), Văn hóa và con người Việt Nam trong tiến trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa theo tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
14. Hoàng Chí Bảo (2013), Văn hóa đạo đức Hồ Chí Minh, NXB Hà Nội, Hà Nội.
15. Hoàng Chí Bảo, Trần Thị Minh Tuyết (2014), Góp phần tìm hiểu tư tưởng và
đạo đức Hồ Chí Minh, NXB Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
16. Hoàng Chí Bảo, Trần Thị Minh Tuyết (2016), 5 tác phẩm tiêu biểu – 5 bảo vật
quốc gia, NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội.
17. Nguyễn Khánh Bật (1998), “Những quan điểm cơ bản về giải phóng phụ nữ
trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Tạp chí Thông tin lý luận, (2).
18. Trương Khuê Bích (1982), “Hồ Chủ tịch và chủ nghĩa nhân đạo”, Tạp chí Triết
học, (2).
19. Bộ giáo dục và đào tạo (1996), Kỷ yếu Hội thảo khoa học - Định hướng giáo
dục đạo đức trong các trường đại học, Hà Nội.
20. Trần Đình Châu (1994), Tư tưởng nhân văn trong di sản quân sự Hồ Chí Minh,
Luận án Phó tiến sĩ khoa học triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
21. Vũ văn Châu (1997), “Hồ Chí Minh – hiện thân của khát vọng hòa bình trong
độc lập, tự do”, Tạp chí nghiên cứu lý luận, (5)
22. E. Cô-bê-lép (1985), Đồng chí Hồ Chí Minh, NXB Thanh niên, Hà Nội, NXB
Tiến bộ, Mát-xcơ-va
23. Nguyễn Hữu Công (2010), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn
diện, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Nguyễn Thế Cường (2007), “Nhân văn Hồ Chí Minh”, Tạp chí Xây dựng Đảng,
(5), tr. 5-6.
25. Thành Duy (1999), Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà tư tưởng danh nhân văn hoá thế
giới, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
26. Thành Duy (2001), Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người
Việt Nam phát triển toàn diện, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
148
27. Thành Duy (2004), Văn hóa đạo đức-mấy vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt
Nam, NXB Văn hóa-Thông tin, Hà Nội.
28. Thành Duy (2005), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính sách đối với
con người”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (12), tr. 24-30.
29. Thành Duy (2006), “Có một cách tiếp cận với bản chất của Đảng Cộng sản theo
tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (3), tr. 23-29
30. Thành Duy (2006), “Ý nghĩa quốc tế và giá trị nhân văn của tư tưởng "Không
có gì quý hơn độc lập, tự do", Tạp chí Lịch sử Đảng, (5), tr. 10-15.
31. Thành Duy (2008), Về chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, NXB khoa học xã hội,
Hà Nội.
32. Thành Duy, Lê Quý Đức (2007), Học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh xây
dựng nền văn hoá đạo đức ở nước ta hiện nay, NXB lý luận chính trị, Hà Nội.
33. Đoàn Nam Đàn (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục Thanh niên, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Đảng cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiện đại Hội nghị lầm thứ Tám Ban Chấp
hành Trung ương Khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
36. Đảng cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2015), Tài liệu Hội nghị Cán bộ Đoàn
trường học toàn quốc năm học 2014-2015, Quảng Ninh.
38. Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2016), Tài liệu Hội nghị Cán bộ Đoàn
trường học toàn quốc năm học 2015-2016, Cần Thơ.
39. Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (2016), Báo cáo Kết quả Chiến dịch
Thanh niên tình nguyện Hè 2016, Hà Nội.
40. Trần Minh Đoàn (2010), Giáo dục đạo đức cho thanh niên, học sinh theo tư
tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
149
41. Phạm Văn Đồng (1990), Hồ Chí Minh một con người, một dân tộc, một thời
đại, một sự nghiệp, NXB Sự thật, Hà Nội.
42. Phạm Văn Đồng (1998), Những nhận thức cơ bản vể tư tưởng Hồ Chí Minh,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Phạm Văn Đồng (2012), Hồ Chí Minh – Tinh hoa và khí phách của dân tộc,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
44. Lê Quý Đức (1994), Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng
nền văn hoá nghệ thuật Việt Nam hiện nay, Luận án phó tiến sĩ khoa học Triết
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
45. Hà Huy Giáp (2007), Bác Hồ người Việt Nam đẹp nhất, NXB Thanh niên, Hà Nội.
46. Võ Nguyên Giáp (1997), “Một số nội dung trong tư tưởng nhân văn, đạo đức,
văn hóa Hồ Chí Minh”, Tạp chí Cộng sản, (9).
47. Võ Nguyên Giáp (2015), Thế giới còn thay đổi nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh
sống mãi, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. Võ Nguyên Giáp (chủ biên) (2015), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách
mạng Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
49. Trần Văn Giàu (1992), Góp phần tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Sự thật,
Hà Nội.
50. Trần Văn Giàu (1997), Sự hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
51. Trần Văn Giàu (2010), Hồ Chí Minh vĩ đại một con người, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
52. Phạm Minh Hạc (chủ biên) (2001), Về phát triển toàn diện con người thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
53. Phạm Minh Hạc (2010), “Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh”, Tạp chí Nghiên
cứu con người, (3/48), tr. 3-9.
54. Nguyễn Đăng Hai (2015), “Khái niệm chủ nghĩa nhân văn và chủ nghĩa nhân
đạo trong khoa nghiên cứu văn học ở Việt Nam từ 1945 đến nay”, Tạp chí Khoa
học Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, (1-66), tr. 143-155.
150
55. Lại Ngọc Hải (2009), “Tính nhân văn trong di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”,
Tạp chí Lý luận chính trị, (5).
56. Nguyễn Thị Mai Hoa (2009), “Giá trị nhân văn trong Di chúc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh”, Tạp chí Triết học, (11/222), tr. 78-82
57. Hồ Trọng Hoài (2003), “Hồ Chí Minh về sự khoan dung tôn giáo”, Tạp chí
Nghiên cứu tôn giáo, (1), tr 9-14.
58. Học viện Báo chí và tuyên truyền, Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh (2015),
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh – Kỷ yếu hội thảo khoa học, Hà Nội.
59. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2010), Di sản Hồ Chí
Minh trong thời đại ngày nay – Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế kỷ niệm 120
năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5-1890 – 19-5-2010), NXB Chính trị
- Hành chính, Hà Nội.
60. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2015), Tư tưởng Hồ Chí Minh, giá
trị nhân văn và phát triển, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
61. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, bộ khoa học và công nghệ (2003),
Báo cáo tổng quan đề tài khoa học cấp Bộ: Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
với việc giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay, Hà Nội.
62. Nguyễn Hòa Hới (1998), “Tìm hiểu một vài đặc điểm của tư tưởng nhân văn
Hồ Chí Minh”, Tạp chí Triết học, (4).
63. 64Nguyễn Văn Huyên (1996), “Cội nguồn và bản chất tư tưởng nhân văn Hồ
Chí Minh”, Tạp chí Triết học, (4).
64. Nguyễn Văn Huyên (1999), “Giáo dục nhân văn vì sự phát triển con người Việt
Nam, Tạp chí triết học, (5).
65. Nguyễn Văn Huyên (2004), “Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh”, Tạp chí Cộng
sản, (3), tr. 20.24.
66. Nguyễn Sinh Kế (2011), “Suy nghĩ về tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh”, Tạp
chí Khoa học chính trị, (3), tr. 17-22.
67. Lại Quốc Khánh (2005), “Bản chất nhân đạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về giải
phóng con người, Tạp chí Cộng sản, (14), tr. 27-30.
151
68. Lại Quốc Khánh (2009) “Di chúc - Tác phẩm kết tinh chủ nghĩa nhân văn Hồ
Chí Minh”, Tạp chí Cộng Sản, (803), tr. 21-24,70.
69. Vũ Khiêu (2012), Hồ Chí Minh, ngôi sao sáng mãi trên bầu trời Việt Nam, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
70. Trần Hậu Kiêm, Đoàn Đức Hiếu (2004), Hệ thống phạm trù đạo đức và giáo
dục đạo đức cho sinh viên, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
71. Nguyễn Thế Kiệt (1996), “Chủ nghĩa nhân văn cao cả trong tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (9).
72. Đặng Xuân Kỳ (Chủ biên) (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hóa
và con người, NXB Chí trị quốc gia, Hà Nội.
73. Đinh Xuân Lâm (2009), “Giá trị nhân văn trong Di chúc của chủ tịch Hồ Chí
Minh”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (7), tr. 9-11
74. Đinh Xuân Lâm, Bùi Đình Phong (1996), Về Danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh,
NXB Lao Động, Hà Nội.
75. Phạm Lăng (1997), Giáo dục giá trị nhân văn ở trường trung học cơ sở: Tài
liệu tham khảo dùng cho giáo viên dạy giáo dục công dân, cán bộ Đoàn, Đội,
giáo sinh các trường cao đẳng sư phạm, NXB Giáo dục, Hà Nội.
76. Lê Đình Lung (2009), “Tình thương - sự cảm hoá và giáo dục con người trong tư
tưởng đạo đức nhân văn Hồ Chí Minh”, Tạp chí Giáo dục Lý luận, (2/143), tr. 7-11
77. Trường Lưu (1996), Chủ nghĩa nhân văn và văn hóa dân tộc, NXB Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
78. C.Mác, Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
79. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
80. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
81. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
82. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
83. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
84. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
85. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
86. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
152
87. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
88. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
89. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
90. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
91. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
92. 92Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 14, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
93. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
94. Đoàn Thị Minh (2000), Vấn đề giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức
trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
95. Phạm Xuân Nam (Chủ biên) (2005), Triết lý phát triển ở Việt Nam – Mấy vấn
đề cốt yếu, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
96. Trần Thanh Nam (2003), “Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh trong giáo dục
thanh niên hiện nay”, Tạp chí Tư tưởng văn hoá, (10)
97. Phạm Đình Nghiệp (2000), Giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ Việt
Nam trong tình hình mới, NXB Thanh Niên, Hà Nội
98. Lê Hữu Nghĩa, Nguyễn Đức Lữ (Đồng chủ biên) (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh
về tôn giáo và công tác tôn giáo, NXB Tôn giáo, Hà Nội.
99. Nhiều tác giả (2014), Giá trị nhân văn trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Nxb Văn – văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh.
100. Đoàn Thị Minh Oanh (2000), Vấn đề giải phóng con người lao động Việt Nam
bị áp bức trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, Luận án tiến sĩ Triết học, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
101. Nguyễn Hùng Oanh (2009), “Giá trị trường tồn của tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh”, Tạp chí Giáo dục lý luận (6/147), tr. 9-11.
102. Trần Sĩ Phán (1999), Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân
cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, luận án tiến sĩ triết học, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội
103. Hoàng Phê (chủ biên) (1997), Từ điển tiếng Việt, Nx Đà Nẵng – Trung tâm Từ
điển học, Hà Nội.
153
104. Bùi Đình Phong (1993), “Chủ nghĩa nhân đạo – một nội dung lớn trong các bài
viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Hà Tĩnh”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (1)
105. Bùi Đình Phong (1994), “Giải phóng con người và mưu cầu hạnh phúc cho mọi
người- cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh”, Tạp chí Lịch sử Đảng (3).
106. Bùi Đình Phong (2009), “Vấn đề con người trong Di chúc của Bác Hồ”, Tạp
chí Nghiên cứu con người, (2), tr. 12-16.
107. Trần Văn Phòng (2010), “Nét đặc sắc trong chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh”,
Tạp chí Lịch sử Đảng, (5), tr. 95-99,107.
108. Huỳnh Văn Sơn (2009), “Thực trạng lựa chọn các giá trị đạo đức nhân văn trong
lối sống của sinh viên thành phố Hồ Chí Minh hiện nay”, Tạp chí Tâm lý học,
(5), tr. 7-12
109. Lê Văn Quang (2005), “Tính nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh về sử dụng
bạo lực cách mạng”, Tạp chí Triết học, (5), tr. 5-9.
110. Lê Doãn Tá (2004), “Học tập tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh”, Tạp chí Tư
tưởng – văn hóa, (5), tr. 29-31.
111. Nguyễn Thanh (2008), “Bản chất nhân văn của triết học Mác, chủ nghĩa Mác”
Tạp chí Triết học, (10), tr. 10-16.
112. Nguyễn Văn Thanh (2009), “Giá trị nhân đạo, nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về tôn giáo”, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo,(5 /71), tr. 8-10.
113. Phạm Văn Thanh (2002), “Công tác giáo dục thanh niên hiện nay theo tư tưởng
Hồ Chí Minh”, Tạp chí Lý luận chính trị.
114. Song Thành (1998), “Văn hóa khoan dung Hồ Chí Minh với nhiệm vụ xây dựng
văn hóa và con người Việt Nam”, Tạp chí lịch sử Đảng (7)
115. Song Thành (2005), Hồ Chí Minh nhà tư tưởng lỗi lạc, NXB Lý luận chính trị,
Hà Nội.
116. Song Thành (2008), “Hồ Chí Minh danh nhân văn hóa của thế kỷ XX”, Tạp chí
Lý luận chính trị, (6), tr. 14-21.
117. Song Thành (2015), Hồ Chí Minh – Nhà văn hóa kiệt xuất, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
154
118. Song Thành (2016), Bác Hồ - Tấm gương đạo đức sang ngời, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
119. Hà Nhật Thăng (1998), Giáo dục hệ thống giá trị đạo đức-nhân văn cho học
sinh trung học cơ sở: Giáo trình đào tạo giáo viên trung học cơ sở hệ Cao đẳng
sư phạm, NXB Giáo dục, Hà Nội.
120. Mạch Quang Thắng (2004), “Một số vấn đề về tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (1), tr. 25-28.
121. Mạch Quang Thắng (2007) “Về tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh”, Tạp chí Lịch
sử Đảng, (7), tr. 43-45
122. Mạch Quang Thắng (2014), Hồ Chí Minh, con người của sự sống, NXB Tổng
hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh
123. Nguyễn Thế Thắng (2009), “Tư tưởng nhân văn, đạo đức trong Di chúc của Chủ
tịch Hồ Chí Minh”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (9/150), tr. 19-23.
124. Nguyễn Thế Thắng (2016), “Giá trị nhân văn, nhân đạo của dân tộc Việt Nam
và của nhân loại với việc hình thành tư tưởng nhân đạo Hồ Chí Minh”, Hội thảo
khoa học học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác nhân đạo,
Hội chữ thập đỏ Việt Nam, Hà Nội, tr. 4-19.
125. Hồ Bá Thâm (2007), “Đạo và đời với truyền thống nhân văn Việt Nam”, Tạp
chí Nghiên cứu tôn giáo (10), tr. 3-10.
126. Trần Dân Tiên (1994), Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch,
Nxb Chính trị quốc gia - NXB Thanh Niên, Hà Nội.
127. Đặng Hữu Toàn (2004), “Chủ nghĩa nhân đạo và tư tưởng nhân văn trong Di
chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh”, Tạp chí Cộng sản, (16), tr. 28-31
128. Phạm Hồng Tung (2011), Thanh niên và lối sống của thanh niên Việt Nam trong
quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
129. Nguyễn Đài Trang (2010), Hồ Chí Minh – Tâm và tài của một nhà yêu nước,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
130. Nguyễn Đài Trang (2013), Hồ Chí Minh, nhân văn và phát triển, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
155
131. Hoàng Trinh (chủ biên), Lưu Liên (1996) Chủ nghĩa xã hội với tư cách là một
chủ nghĩa nhân văn và văn hoá, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
132. Hồng Văn, Những vấn đề cơ bản và sự biểu hiện của chủ nghĩa nhân văn trong
thời đại Phục hưng (thế kỷ XIV – XVI) ở châu Âu, Hà Nội, tại trang
http://huc.edu.vn/vi/spct/id161/, [truy cập ngày 12/9/2016].
133. Cao Thị Hải Yến (2004), “Tính nhân văn trong văn hóa ứng xử Hồ Chí Minh”,
Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, (5), tr. 7-12.
156
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1:
CÂU HỎI ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC NHẬN THỨC VÀ HÀNH ĐỘNG THEO
TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN HỒ CHÍ MINH TRONG SINH VIÊN
Thưa các bạn sinh viên!
Tôi là ……………., nghiên cứu sinh Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Hiện
nay tôi đàng làm luận án tốt nghiệp với đề tài “Giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
cho sinh viên các trường đại học ở Việt Nam hiện nay”. Vì vậy, tôi xây dựng bảng câu hỏi
dưới đây nhằm tìm hiểu nhận thức và hành động theo tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh của
các bạn. Những ý kiến của các bạn sẽ là những thông tin qúy báu giúp tôi hoàn thiện đề tài
trên. Vì vậy, tôi rất mong được sự hợp tác từ các bạn. Tôi xin đảm bảo những thông tin của
các bạn chỉ phục vụ mục đích nghiên cứu. Xin ám ơn các bạn!
Bạn hãy trả lời các câu hỏi sau đây bằng việc đánh dấu “x” vào các ô tương ứng.
A. Thông tin cá nhân
1. Xin bạn vui lòng cho biết đôi nét về bản thân ?
- Bạn là: Nam Nữ
- Bạn là sinh viên năm thứ mấy (xin ghi cụ thể):………………………………….
2. Bạn cho biết nơi ở của bạn hiện nay ?
a. Ở nhà của bố mẹ
b. Ký túc xá
c. Nhà trọ
d. Nơi khác
3. Hiện tại bạn đang tham gia những nhiệm vụ gì ở lớp ?
a. Cán bộ lớp
b. Cán bộ đoàn của lớp
c. Cán bộ đoàn trường
d. Là sinh viên
4. Hiện tại bạn là ?
a. Đảng viên
b. Đối tượng cảm tình đảng
c. Đoàn viên
d. Hội viên hội sinh viên
e. Thanh niên tình nguyện
f. Bình thường
157
B. Nhận thức và hành động theo tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
5. Việc học tập các môn khoa học Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh có cần thiết với
bạn không ?
a. Rất cần thiêt
b. Cần thiết
c. Không cần thiết
6. Thời lượng bạn tham gia học tập trên lớp đối với các môn khoa học Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh
a. Trên 80% thời lượng môn học
b. Dưới 50% thời lượng môn học
7. Việc học tập chuyên đề tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh có vai trò đối với việc rèn luyện
đạo đức của sinh viên ?
a. Rất quan trọng
b. Quan trọng
c. Không quan trọng
8. Theo bạn, những phẩm chất nào hiện nay sinh viên phải rèn luyện theo tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh ?
a. Yêu thương con người
b. Sống có trách nhiệm
c. Khoan dung, độ lượng
d. Cả ba phẩm chất trên
9. Để việc giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trong nhà trường đạt hiệu quả, theo
bạn cần phải ?
a. Đổi mới nội dụng, cách giảng của giáo viên
b. Bản thân mỗi giảng viên cần là một tấm gương sáng về tinh thần nhân văn
c. Cả hai nội dung trên
d. Ý kiến khác (xin ghi cụ thể)……………………………………………………
10. Bạn có tin vào thắng lợi của công cuộc đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, văn minh do Đảng lãnh đạo hiện nay không không ?
a. Tin tưởng
b. Băn khoăn
c. Không tin tưởng
11. Bạn có tham giao các hoạt động tình nguyện vì cộng đồng không ?
a. Thường xuyên
b. Thỉnh thoảng
c. Chưa bao giờ
158
12. (dành cho những bạn chọn đáp án a, hoặc b của câu 7) Lý do khi bạn tham gia vào
hoạt động tình nguyện vì cộng đồng là gì ?
a. Vì trách nhiệm của bản thân vì sự phát triển của cộng đồng
b. Vì được rèn luyện kỹ năng sống cho bản thân
c. Vì được mở rộng quan hệ với bạn bè và các chuyến đi xa
13. Bạn có tham giao hoạt động hiến máu nhân đạo không ?
a. Thường xuyên
b. Thỉnh thoảng
c. Chưa bao giờ
14. Bạn có tham gia hoạt động từ thiện khác như ủng hộ người nghèo, đồng bào bị thiên
tai, nạn nhân chất độc màu da cam… không ?
a. Thường xuyên
b. Thỉnh thoảng
c. Chưa bao giờ
15. (dành cho những bạn chọn đáp án a, hoặc b của câu 9, 10) Lý do khi bạn tham gia vào
hoạt động nhân đạo, từ thiện là gì là gì ?
a. Vì tình yêu thương đối với con người
b. Vì yêu cầu phát động của các tổ chức Đoàn thể, Nhà trường
c. Lý do khác(xin ghi cụ thể)……………………………………………………
16. Trước những biểu hiện, hành động tiêu cực, phi nhân văn bạn sẽ làm gì ?
a. Sẽ hành động và lên tiếng đấu tranh
b. Xem xét có ảnh hưởng đến bản thân không rồi mới quyết định hành động
c. Không làm gì cả
17. Bạn có sẵn sàng tham gia vào những công việc khó khăn nếu tổ quốc và nhân dân cần ?
a. Sẵn sàng tham gia
b. Xem xét có ảnh hưởng đến tương lai rồi mới quyết định
c. Không tham gia
18. Thứ tự mục đích học tập, rèn luyện của bạn là gì ?
a. Có công việc nuôi sống bản thân; để trở thành người tốt; để làm cán bộ
b. Để làm cán bộ; có công việc nuôi sống bản thân; để người tốt
c. Để làm người tốt; có công việc nuôi sống bản thân; để làm cán bộ
d. Ý kiến khác(xin ghi cụ thể)……………………………………………………
19. Hoạt động của tổ chức đoàn thể của nhà trường có thu hút được bạn tham gia không ?
a. Có
b. Không
159
20. Hệ thống cơ sở vật chất của nhà trường có đáp ứng yêu cầu học tập và rèn luyện của
bạn ?
TT Hệ thống cơ sở vật chất Mức độ đánh giá
Đáp ứng tốt Đáp ứng Không đáp ứng
1 Hệ thống phòng học công nghệ
2 Thư viện
3 Phòng truyền thống
4 Khu sinh hoạt VH, TDTT
5 Ký túc xá
Cám ơn bạn đã trả lời câu hỏi !
160
PHỤ LỤC 2:
CÂU HỎI ĐIỀU TRA XÃ HỘI HỌC
HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC TƯ TƯỞNG NHÂN VĂN
HỒ CHÍ MINH CHO SINH VIÊN TRONG NHÀ TRƯỜNG
Thưa các Thầy giáo, Cô giáo!
Tôi là……………., nghiên cứu sinh Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Hiện
nay tôi đàng làm luận án tốt nghiệp với đề tài “Giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
cho sinh viên các trường đại học ở Việt Nam hiện nay”. Vì vậy, tôi xây dựng bảng câu hỏi
dưới đây nhằm tìm hiểu nhận thức và ý kiến đánh giá của các thầy, cô giáo về hoạt động
giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên trong nhà trường. Những ý kiến của
các thày, cô sẽ là những thông tin qúy báu giúp tôi hoàn thiện đề tài trên. Vì vậy, tôi rất
mong được sự hợp tác, giúp đỡ từ các thầy, cô. Tôi xin đảm bảo những thông tin của các
thày, cô chỉ phục vụ mục đích nghiên cứu. Xin ám ơn !
Thầy, cô hãy trả lời các câu hỏi sau đây bằng việc đánh dấu “x” vào các ô tương ứng.
1. Xin các thầy, cô vui lòng cho biết một số thông tin về bản thân ?
- Họ và tên:......................................................................
- Trường:………………………………………………..
2. Hiện tại thầy, cô đang tham gia vào nhiệm vụ gì của nhà trường ?
a. Cán bộ quản lý cấp trường
b. Cán bộ quản lý cấp Khoa, bộ môn
c. Giảng viên
3. Trình độ lý luận của thầy, cô là gì ?
a. Cao cấp, tương đương cao cấp
b. Trung cấp
c. Sơ cấp
4. Trình độ chuyên môn của thầy, cô là gì ?
a. Tiến sĩ
b. Thạc sĩ
c. Cử nhân
5. Thầy, cô đã là đảng viên chưa ?
a. Đảng viên
b. Quần chúng
161
6. Các thầy, cô có tham gia các lớp tập huấn hè do Bộ Giáo dục và đào tạo tổ chức không ?
a. Tham gia thường xuyên hàng năm
b. Tham gia không thường xuyên
d. Chưa tham gia
7. Các thầy, cô có tham gia vào các hoạt động nhân đạo, từ thiện không ?
a. Thường xuyên
b. Đã từng tham gia
c. Chưa bao giờ
8. Theo các thầy, cô, việc giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên hiện nay
là:
a. Rất cần thiêt
b. Cần thiết
c. Không cần thiết
9. Để nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh
viên, theo các thầy, cô cần phải làm gì ?
1 Nâng cao nhận thức của các chủ thể giáo dục trong nhà trường
2 Đa dạng hóa các hình thức giáo dục trong nhà trường
3 Tăng cường đầu tư hệ thống cơ sở vật chất, công nghệ cho hoạt động giáo
dục
4 Xây dựng môi trường văn hóa, nhân văn trong nhà trường
5 Đổi mới chương trình,nội dung, phương pháp giảng dạy môn học tư tưởng
Hồ Chí Minh
6 Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên
7 Phát huy tính tự giác, tự lực của sinh viên trong việc rèn luyện theo tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh
8 Kết hợp giữa nhà trường với gia đình trong quá trình giáo dục
9 Đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động làm theo tư tư tưởng Hồ Chí Minh trong
nhà trường
10
Ý kiến khác (ghi cụ thể)…………………………………………………………….
…………………………………………………………………………………………..
………………………………………………………………………………………….
Cám ơn thầy, cô đã trả lời câu hỏi !
162
PHỤ LỤC 3: Các hoạt động Chiến dịch Thanh niên tình nguyện hè 2016
STT Nội dung chiến dịch Số lượng
1 Hoạt động tham gia xây
dựng nông thôn mới
Công trình thanh niên 12.650
Kinh phí 178.876.540.000
2 Khám chữa bệnh
Lượt đoàn viên tham gia 50.807
Số buổi khám 2.205
Cấp phát thuốc miễn phí cho
người dân
389.572
Tặng thẻ bảo hiểm y tế 6.259
3 Hiến máu nhân đạo Lượt TN tham gia 212.345
Đơn vị máu 163.701
4 Đến ơn đáp nghĩa
Thăm, tặng quà GĐ chính
sách
87.928
Thăm, tặng quà GĐ thương
binh
54.121
Thăm, tặng quà GĐ mẹ VN
anh hùng
7.384
Sửa chữa và xây mới nhà
tình nghĩa
1.787
5 Dạy học phụ đạo, phổ cập
kiến thức, xóa mù chữ
Xóa mù chữ 4.930
Phổ cập GD tiểu học 28.159
Phổ cập GD trung học 11.314
6 Bảo vệ môi trường, ứng
phó với biến đổi khí hậu
Đội hình tham gia 12.208
Lượt TN tình nguyện tham
gia
605.300
Buổi ra quân 18.512
7 Hoạt động chăm lo cho
thiếu nhi
Sửa chữa, xây mới điểm vui
chơi
3.478
Tổ chức sinh hoạt hè 139.296
Giúp đỡ trẻ em khó khăn 183.281
8
Hoạt động tham gia giữ
gìn trật tự an toàn giao
thông
Đoàn viên, TN tham gia
tuyên truyền ATGT
707.188
Đội hình TN tình nguyện
tham gia giữ gìn trật tự
ATGT
6.350
9 Hoạt động tình nguyện
quốc tế
Đội hình tham gia 47
Lượt TN tình nguyện tham
gia
1.581
Nguồn: [39].
163
PHỤ LỤC 4: Hoạt động của ĐV TN năm học 2014-2015
Phụ lục 4.1: Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, truyền thống, pháp luật, đạo đức, lối sống
Học tập CN Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh Các hoạt động đền ơn
đáo nghĩa Giáo dục truyền thống
Tuyên truyền về chủ
quyền tổ quốc, biên giới,
biển đảo
Giáo dục pháp luật
Cuộc thi Hội thảo, tọa đàm Số ĐVTN
đăng ký thực
hiện tiêu chí,
phần việc
học tập và
làm theo
TGĐĐ Hồ
Chí Minh
Tổng số
hoạt động
thăm hỏi,
tặng quà Mẹ
VNAH, GĐ
có công với
CM, thăm
thương
bệnh binh
Tổng số
hoạt động
Thắp nến
tri ân dịp
27/7/2014
Số hoạt
động
Số đoàn
viên thanh
niên tham
gia (lượt)
Số chương
trình
Số ĐVTN
tham gia
(lượt)
Số lớp/ đợt
tổ chức
Số ĐVTN
tham gia
(lượt
Số
trường
CĐ, ĐH
tổ chức
thi
Olympic
Số sinh
viên
tham gia
Số
chương
trình
Tổng số
HSSV
tham gia
(lượt)
359 355.140 3.479 1.010.976 2.510.663 14.637 4.405 15.594 3.430.517 5.682 2.133.269 11.512 3.019.84
Nguồn: [37].
Phụ lục 4.2: Hoạt động xung kích, tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng
Hỗ trợ, tu sửa nhà tình
nghĩa
Hỗ trợ gia đình TBLS,
gia đình CS Chiến dịch tình nguyện hè Tiếp sức đến trường Hiến máu tình nguyện
Số nhà Trị giá
Tr.đ
Số gia
đình
Kinh phí
hỗ trợ
(Tr.đ)
Số HSSV
tham gia
Đội hình tập trung Tổng kinh
phí huy động
(Tr.đ)
Số HSSV
được hỗ
trợ
Tổng kinh
phí huy động
(Tr.đ)
Số ĐVTN
tham gia
(lượt)
Tổng số đơn
vị máu thu
được Số đội Số thành viên
1.662 18.594 10.300 10.727 961.173 4.498 257.944 86.387 140.168 136.465 226.627 215.458
Nguồn: [37].
164
Phụ lục 4.3: Hoạt động xung kích lao động sáng tạo làm chủ khoa học công nghệ
Công trình, đề tài NCKH của sinh viên CLB sinh viên NCKH Chuyển giao tiến bộ KHCN Cuộc thi sáng tạo
Tổng số Số CT, đề tài
được tuyên
dương
Giá trị làm
lợi (Tr.đ)
Số trường
CĐ, ĐH có
CLB
Số lượng
CLB
Số sinh viên
tham gia
Số lớp tập
huấn KHCN
Số sinh viên
tham gia
Số mô hình
chuyển giao
KHCN
Số lượng Số sinh viên
tham gia
18.030 4.734 35.893 452 949 74.046 821 54.919 655 2.597 192.405
Nguồn: [37].
Phụ lục 4.4: Phong trào “sinh viên 5 tốt”
Số trường
ĐH, CĐ triển
khai
Số lượng SV
đăng ký đạt
danh hiệu
Số sinh viên đạt danh hiệu Số lượng tập thể đạt danh
hiệu Số buổi tổ chức lễ tôn vinh CLB, đội, nhóm sinh viên 5 tốt
Cấp trường Cấp tỉnh Cấp trường Cấp tỉnh Cấp trường Cấp tỉnh
Số trường
ĐH, CĐ có
mô hình
Tổng số
CLB, đội,
nhóm
Số thành viên
449 466.038 26.589 1.803 1.162 46 428 45 322 515 18.039
Nguồn: [37].
165
PHỤ LỤC 5: Hoạt động của ĐV TN năm học 2015-2016
Phụ lục 5.1: Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, truyền thống, pháp luật, đạo đức, lối sống
Học tập CN Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh Các hoạt động đền ơn
đáo nghĩa Giáo dục truyền thống
Tuyên truyền về chủ
quyền tổ quốc, biên giới,
biển đảo
Giáo dục pháp luật
Cuộc thi Hội thảo, tọa đàm Số ĐVTN
đăng ký thực
hiện tiêu chí,
phần việc
học tập và
làm theo
TGĐĐ Hồ
Chí Minh
Tổng số
hoạt động
thăm hỏi,
tặng quà Mẹ
VNAH, GĐ
có công với
CM, thăm
thương bệnh
binh
Tổng số
hoạt động
Thắp nến
tri ân dịp
27/7/2015
Số hoạt động
Số đoàn
viên thanh
niên tham
gia (lượt)
Số chương
trình
Số ĐVTN
tham gia
(lượt)
Số lớp/ đợt
tổ chức
Số ĐVTN
tham gia
(lượt
Số
trường
CĐ, ĐH
tổ chức
thi
Olympic
Số sinh
viên
tham gia
Số
chương
trình
Tổng số
HSSV
tham gia
(lượt)
352 541.674 2.981 717.377 1.951.585 11.712 3.882 14.264 3.990.158 5.148 1.757.886 9.741 2.711.084
Nguồn: [38].
Phụ lục 5.2: Hoạt động xung kích, tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng
Hỗ trợ, tu sửa nhà tình
nghĩa
Hỗ trợ gia đình
TBLS, gia đình CS Chiến dịch tình nguyện hè Tiếp sức đến trường
Khám bệnh, cấp phát
thuốc miễn phí Hiến máu tình nguyện
Số nhà Trị giá
Tr.đ
Số gia
đình
Kinh phí
hỗ trợ
(Tr.đ)
Số HSSV
tham gia
Đội hình tập trung Tổng kinh
phí huy
động (Tr.đ)
Số HSSV
được hỗ
trợ
Tổng kinh
phí huy
động (Tr.đ)
Số người Kinh phí
(Tr.đ)
Số
ĐVTN
tham gia
(lượt)
Tổng số
đơn vị
máu thu
được Số đội
Số thành
viên
1.684 70.208 8.971 57.198 811.551 3.942 201.518 19.783 247.767 57.845 152.104 410.419 277.589 357.247
Nguồn: [38].
166
Phụ lục 5.3: Hoạt động xung kích lao động sáng tạo làm chủ khoa học công nghệ
Công trình, đề tài NCKH của sinh viên CLB sinh viên NCKH Chuyển giao tiến bộ KHCN Cuộc thi sáng tạo
Tổng số Số CT, đề tài
được tuyên
dương
Giá trị làm
lợi (Tr.đ)
Số trường
CĐ, ĐH có
CLB
Số lượng
CLB
Số sinh viên
tham gia
Số lớp tập
huấn KHCN
Số sinh viên
tham gia
Số mô hình
chuyển giao
KHCN
Số lượng Số sinh viên
tham gia
18.395 4.520 19.562 475 1.414 102.215 819 74.855 645 1.132 77217
Nguồn: [38].
Phụ lục 5.4: Phong trào “sinh viên 5 tốt”
Số trường
ĐH, CĐ triển
khai
Số lượng SV
đăng ký đạt
danh hiệu
Số sinh viên đạt danh hiệu Số lượng tập thể đạt danh
hiệu Số buổi tổ chức lễ tôn vinh CLB, đội, nhóm sinh viên 5 tốt
Cấp trường Cấp tỉnh Cấp trường Cấp tỉnh Cấp trường Cấp tỉnh
Số trường
ĐH, CĐ có
mô hình
Tổng số
CLB, đội,
nhóm
Số thành viên
477 531.574 64.260 3.524 2.103 229 560 66 404 1.240 27.271
Nguồn: [38].
167
PHỤ LỤC 6: BẢNG XỬ LÝ SỐ LIỆU THỐNG KẾ CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM
Tổng số phiếu sử dụng để hỏi: 1120 TT Nội dung câu hỏi Đáp án trả lời Số lựa chọn Tỉ lệ % Ghi chú
1 Xin bạn vui lòng cho biết đôi nét về bản
thân
Bạn là nam 466 41.6%
Bạn là nữ 654 58.4%
2 Bạn cho biết nơi ở của bạn hiện nay
Ở nhà của bố mẹ 171 15.3%
Ký túc xá 341 30.5%
Nhà trọ 534 47.7%
Ở nơi khác 74 6.6%
3 Hiện tại bạn đang tham gia những nhiệm
vụ gì ở trên lớp
Cán bộ lớp 75 6.7%
Cán bộ đoàn của lớp 64 5.7%
Cán bộ đoàn trường 33 3%
Là sinh viên 948 84.6%
4 Hiện tại bạn là
Đảng viên 49 4.4%
Đối tượng cảm tình đảng 86 7.7%
Đoàn viên 674 60.2
Hội viên hội sinh viên 131 11.7%
Thanh niên tình nguyện 54 4.8%
Bình thường 126 11.2%
5
Việc học tập các môn khoa học Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh có cần
thiết với bạn không ?
Rất cần thiêt 297 26,5%
Cần thiết 423 37,8%
Không cần thiết 400 35.7%
6
Thời lượng bạn tham gia học tập trên lớp
đối với các môn khoa học Mác – Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh
Tham gia trên 80% thời lượng môn học 922 82.3%
Tham gia dưới 80% thời lượng môn học 198 17.7%
7 Rất quan trọng 582 52%
168
Việc học tập chuyên đề tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh có vai trò đối với việc
rèn luyện đạo đức của sinh viên ?
Quan trọng 448 40%
Không quan trọng 90 8%
8
Theo bạn, những phẩm chất nào hiện nay
sinh viên phải rèn luyện theo tư tưởng
nhân văn Hồ Chí Minh ?
Yêu thương con người 137 12.2%
Sống có trách nhiệm 97 8.7%
Khoan dung, độ lượng 132 11.8%
Cả ba phẩm chất trên 754 67.3%
9
Để việc giáo dục tư tưởng nhân văn Hồ
Chí Minh trong nhà trường đạt hiệu quả,
theo bạn cần phải ?
Đổi mới nội dụng, cách giảng của giáo viên 117 10.4%
Bản thân mỗi giảng viên cần là một tấm
gương sáng về tinh thần nhân văn 108 9.6%
Cả hai nội dung trên 895 79.9%
Ý kiến khác 0 0%
10
Bạn có tin vào thắng lợi của công cuộc
đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, văn minh do Đảng lãnh
đạo hiện nay không không ?
Tin tưởng 450 40,2%
Băn khoăn 348 31,1%
Không tin tưởng 322 28,7%
11 Bạn có tham giao các hoạt động tình
nguyện vì cộng đồng không ?
Thường xuyên 263 23.5%
Thỉnh thoảng 400 35.7%
Chưa bao giờ 457 40.8%
12
(dành cho những bạn chọn đáp án a,
hoặc b của câu 7) Lý do khi bạn tham gia
vào hoạt động tình nguyện vì cộng đồng
là gì ?
Vì trách nhiệm của bản thân vì sự phát triển
của cộng đồng 166 25%
Vì được rèn luyện kỹ năng sống cho bản
thân 323 48.7%
Vì được mở rộng quan hệ với bạn bè và các
chuyến đi xa 174 26.3%
13 Bạn có tham giao hoạt động hiến máu
nhân đạo không ?
Thường xuyên 153 13.7%
Thỉnh thoảng 432 38.5%
Chưa bao giờ 535 47.8%
14
Bạn có tham gia hoạt động từ thiện khác
như ủng hộ người nghèo, đồng bào bị
thiên tai, nạn nhân chất độc màu da
cam… không ?
Thường xuyên 625 55.8%
Thỉnh thoảng 451 40.3%
Chưa bao giờ 44 3.9%
169
15
(dành cho những bạn chọn đáp án a,
hoặc b của câu 9, 10) Lý do khi bạn tham
gia vào hoạt động nhân đạo, từ thiện là gì
là gì ?
Vì tình yêu thương đối với con người 351 32.6%
Vì yêu cầu phát động của các tổ chức Đoàn
thể, Nhà trường 725 67.4%
16 Trước những biểu hiện, hành động tiêu
cực, phi nhân văn bạn sẽ làm gì ?
Sẽ hành động và lên tiếng đấu tranh 327 29.2%
Xem xét có ảnh hưởng đến bản thân không
rồi mới quyết định hành động 687 61.3%
Không làm gì cả 106 9.5%
17
Bạn có sẵn sàng tham gia vào những
công việc khó khăn nếu tổ quốc và nhân
dân cần ?
Sẵn sàng tham gia 346 30.9%
Xem xét có ảnh hưởng đến tương lai rồi mới
quyết định 702 62.7%
Không tham gia 72 6.4%
18 Thứ tự mục đích học tập, rèn luyện của
bạn là gì ?
Có công việc nuôi sống bản thân; để trở
thành người tốt; để làm cán bộ 442 39.5%
Để làm cán bộ; có công việc nuôi sống bản
thân; để người tốt 345 30.8
Để làm người tốt; có công việc nuôi sống
bản thân; để làm cán bộ 333 29.7%
Ý kiến khác 0 0%
19 Hoạt động của tổ chức đoàn thể của nhà
trường có thu hút được bạn tham gia
không ?
Có 769 68.7%
Không
351 31.3%
20
Hệ thống cơ sở vật chất của
Nhà trường có đáp ứng yêu
cầu học tập, rèn luyện của
bạn
Mức độ đánh giá
Đáp ứng tốt Đáp ứng Không đáp ứng
Trả lời Tỉ lệ %
Trả
lời Tỉ lệ %
Trả lời Tỉ lệ %
Hệ thống phòng học công nghệ 230 20,5% 620 55,4% 270 24,1%
Thư viện 196 17,5% 534 47,7% 390 34,8%
Phòng truyền thống 172 15,3% 338 30,2% 610 54,5%
Khu sinh hoạt VH, TDTT 233 20,8% 454 40,5% 433 38,7%
Ký túc xá 78 7% 263 23,5% 777 69,5%
170
(Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án)
PHỤ LỤC 7: BẢNG XỬ LÝ SỐ LIỆU THỐNG KẾ CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM GIẢNG VIÊN
Tổng số phiếu sử dụng để hỏi: 108
TT Nội dung câu hỏi Đáp án trả lời Số lựa chọn Tỉ lệ % Ghi chú
1 Hiện tại thầy, cô đang tham gia vào nhiệm vụ
gì của nhà trường ?
Cán bộ quản lý cấp trường 8 7,4%
Cán bộ quản lý cấp Khoa, bộ môn 32 29,6%
Giảng viên 68 63%
2 Trình độ lý luận của thầy, cô là gì ? Cao cấp, tương đương cao cấp 39 36,1%
Trung cấp 69 63,9%
Sơ cấp 0 0%
3 Trình độ chuyên môn của thầy, cô là gì ? Tiến sĩ 30 27.8%
Thạc sĩ 63 58.3%
Cử nhân 15 13.9%
4 Thầy, cô đã là đảng viên chưa ? Đảng viên 81 75%
Quần chúng 27 25%
5 Các thầy, cô có tham gia các lớp tập huấn hè
do Bộ Giáo dục và đào tạo tổ chức không ?
Tham gia thường xuyên hàng năm 28 25.9%
Tham gia không thường xuyên 63 58.4%
Chưa tham gia 17 15.7%
6 Các thầy, cô có tham gia vào các hoạt động
nhân đạo, từ thiện không ?
Thường xuyên 30 27.8%
Đã từng tham gia 36 33.3%
Chưa bao giờ tham gia 42 38.9%
7 Theo các thầy, cô, việc giáo dục tư tưởng nhân
văn Hồ Chí Minh cho sinh viên hiện nay là:
Rất cần thiêt 73 67.6%
Cần thiết 18 16.7%
Không cần thiết 17 15.7%
8 Nâng cao nhận thức của các chủ thể giáo dục
trong nhà trường 94 87%
171
Để nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục tư
tưởng nhân văn Hồ Chí Minh cho sinh viên,
theo các thầy, cô cần phải làm gì ?
Đa dạng hóa các hình thức giáo dục trong nhà
trường 78 72,2%
Tăng cường đầu tư hệ thống cơ sở vật chất,
công nghệ cho hoạt động giáo dục 88 81,5%
Xây dựng môi trường văn hóa, nhân văn trong
nhà trường 86 79,6%
Đổi mới chương trình,nội dung, phương pháp
giảng dạy môn học tư tưởng Hồ Chí Minh 87 80,6%
Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên 88 81,5%
Phát huy tính tự giác, tự lực của sinh viên
trong việc rèn luyện theo tư tưởng nhân văn
Hồ Chí Minh
90 83,3%
Kết hợp giữa nhà trường với gia đình trong
quá trình giáo dục 92 85,2
Đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động làm theo
tư tư tưởng Hồ Chí Minh trong nhà trường 78 72,2%
Ý kiến khác (ghi cụ
thể)…………………………………
……………………………………………………
………...
12 11,1%
(Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả luận án)