[Full] Các tác động tiêu cực của liên kết kinh tế quốc tế nhỏ

27
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG CƠ SỞ 2 NHỮNG TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA LIÊN KẾT KINH TẾ QUỐC TẾ NHỎ

Transcript of [Full] Các tác động tiêu cực của liên kết kinh tế quốc tế nhỏ

Page 1: [Full] Các tác động tiêu cực của liên kết kinh tế quốc tế nhỏ

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG CƠ SỞ 2

NHỮNG TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA

LIÊN KẾT KINH TẾ QUỐC TẾ NHỎ

Nhóm INTERCONNECTION

Page 2: [Full] Các tác động tiêu cực của liên kết kinh tế quốc tế nhỏ

Giảng viên: Trần Thị Phương Thuỷ

Mã lớp: 09

Danh sách thành viên:

STT Họ tên MSSV

1 Phạm Thuỳ Mỹ Phương 1201017277

2 Tống Ngọc Như Quỳnh 1201017302

3 Trần Nguyễn Diễm Quỳnh 1201017303

4 Nguyễn Thị Lệ Thu 1201017361

5 Nguyễn Ngọc Anh Thư 1201017367

6 Trần Vũ Mai Thư 1201017371

7 Nguyễn Thị Bảo Trâm 1201017392

8 Nguyễn Thị Bích Trâm 1201017394

9 Nguyễn Nhã Trúc 1201017431

10 Trần Thuỵ Hoàng Vy 1201017484

Page 3: [Full] Các tác động tiêu cực của liên kết kinh tế quốc tế nhỏ

iện nay, khi những xu thế tất yếu khách quan của nền kinh tế thế giới như hội nhập

và toàn cầu hóa đã khiến tính phụ thuộc giữa các quốc gia ngày càng tăng cao

trong những mối quan hệ kinh tế, khi các tiến bộ đạt được trên lĩnh vực công nghệ – đặc

biệt là công nghệ truyền thông và tin học – tăng cường ngày một chặt chẽ tính kết nối

giữa các quốc gia, việc hình thành các liên kết kinh tế quốc tế đã trở thành một xu thế

hiển nhiên và nhất quán không chỉ với các quốc gia trên thế giới mà còn với các công ty,

tập đoàn của các nước. Để cùng hỗ trợ nhau về các vấn đề vốn và kỹ thuật trong điều kiện

cạnh tranh, khan hiếm cũng như chống lại các biện pháp bảo hộ mậu dịch giữa các quốc

gia, các công ty, tập đoàn tạo lập nên liên kết kinh tế quốc tế nhỏ. Sự liên kết này ngoài

việc đem lại những hiệu quả kinh tế cho mỗi bên nói riêng và làm vững mạnh nền kinh tế

đất nước nói chung, cũng đồng thời mang đến những tác động tiêu cực. Hiểu rõ những

tác động tiêu cực này sẽ giúp các doanh nghiệp trong nước linh hoạt đối diện với những

bất lợi kinh tế và tìm kiếm biện pháp giảm thiểu tiêu cực, cũng như phát huy mạnh mẽ

hơn các lợi thế kinh tế ở đối cực ngược lại, nhằm cân bằng những hiệu quả mà liên kết

kinh tế quốc tế nhỏ mang lại cho nền kinh tế nói chung.

H

Do đó, nhóm chúng em thực hiện nghiên cứu và phân tích đề tài “Tác động tiêu

cực của liên kế kinh tế quốc tế nhỏ” để làm rõ những quan điểm trên.

I. TỔNG QUAN VỀ LIÊN KẾT KINH TẾ QUỐC TẾ NHỎ:

1. Khái niệm

Liên kết kinh tế quốc tế nhỏ là liên kết kinh tế giữa các công ty, tập đoàn của các

nước trên cơ sở ký kết với nhau các hiệp định và các hợp đồng hợp tác kinh doanh để

hình thành nên các công ty quốc tế.

1

Page 4: [Full] Các tác động tiêu cực của liên kết kinh tế quốc tế nhỏ

Liên kết giữa các công ty được tiến hành ở các khâu khác nhau, ví dụ như liên kết

trong quá trình nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, thử nghiệm sản phẩm, liên kết trong quảng

cáo, tiêu thụ sản phẩm hoặc các dịch vụ khác.

2. Nguyên nhân hình thành các liên kết kinh tế quốc tế nhỏ

- Xu hướng quốc tế đời sống toàn cầu ngày càng phát triển, nền kinh tế của các

nước ngày càng phụ thuộc lẫn nhau nên sự hình thành liên kết kinh tế quốc tế nhỏ là một

điều tất yếu để phù hợp với xu hướng nhất thể hoá thị trường thế giới.

- Sự hình thành liên kết kinh tế quốc tế nhỏ nhằm chống lại sự bảo hộ mậu dịnh

giữa các nước.

- Sự cạnh tranh ngày càng gay gắt thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ thuật,

nhiều ngành nghề mới được ra đời như công nghệ sinh học, điện tử, tin học,… đòi hỏi về

vốn, kỹ thuật cao cấp mà công ty, tập đoàn của một quốc gia không thể đáp ứng. Sự thiếu

hụt này làm tăng nhu cầu liên kết, hợp tác giữa các công ty, tập đoàn của các nước để

nâng cao năng suất, dẫn đến việc hình thành liên kết kinh tế quốc tế nhỏ.

3. Vai trò của liên kết kinh tế quốc tế nhỏ

- Thúc đẩy nhanh quá trình nhất thể hoá kinh tế thế giới, qua đó thúc đẩy thương

mại quốc tế phát triển.

- Liên kết giữa các tập đoàn kinh tế lớn của các nước thúc đẩy nhanh quá trình tích

tụ và tập trung tư bản quốc tế, đó là tiền đề để phát triển cuộc cách mạng khoa học kỹ

thuật trên toàn cầu.

- Giúp thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển kỹ thuật giữa các nước nói

chung và các công ty, tập đoàn nói riêng thông qua việc chuyển giao công nghệ từ các

công ty, tập đoàn của các nước phát triển sang các công ty, tập đoàn của các nước đang

phát triển.

2

Page 5: [Full] Các tác động tiêu cực của liên kết kinh tế quốc tế nhỏ

- Giúp các nước khai thác và sử dụng các lợi thế của mình: tài nguyên, đất đai, sức

lao động một cách có hiệu quả nhất thông qua các công cuộc đầu tư quốc tế.

- Các liên kết nhỏ có vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp vốn cho các nước

đang phát triển thông qua các hình thức đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp.

4. Các hình thức của liên kết kinh tế quốc tế nhỏ

4.1 Căn cứ vào vốn pháp định

- Công ty đa quốc gia (Multinational Corporation - MNC): là công ty quốc tế mà

vốn pháp định của công ty mẹ thuộc quyền sở hữu của các nhà tư bản thuộc hai hay nhiều

quốc gia khác nhau và có mạng lưới công ty con ở nước ngoài.

Ví dụ: Công ty Unilever (Anh - Hà Lan), Dell, Philips…

- Công ty xuyên quốc gia (Transnational Corporation - TNC): là công ty mà vốn

pháp định của công ty mẹ thuộc cùng một nước, còn đi vào hoạt động kinh doanh được

triển khai ở nhiều nước bằng cách phụ thuộc các công ty, xí nghiệp nào đó.

Ví dụ: Công ty D&G, Taiko, Taiwan tobaco & wine…

4.2 Căn cứ vào phương thức hoạt động

- Các-ten quốc tế (Cartel): một nhóm các nhà sản xuất độc lập về sản xuất và tiêu

thụ sản phẩm, có cùng mục đích là tăng lợi nhuận chung bằng cách kiểm soát giá cả, hạn

chế cung ứng hàng hoá hoặc các biện pháp hạn chế khác.

Cartel xuất hiện vào những năm 60 của thế kỷ XIX ở một số nước lớn ở Châu Âu,

đặt biệt phát triển rất rộng rãi ở Đức. Cartel thường xuất hiện ở những thị trường bị chi

phối mạnh bởi một số hàng hoá nhất định, nơi có ít người bán và thường đòi hỏi sản

phẩm có tính đồng nhất cao. Thành công của Cartel sẽ rất lớn khi nó đảm bảo kiểm soát

3

Page 6: [Full] Các tác động tiêu cực của liên kết kinh tế quốc tế nhỏ

được phần lớn sản lượng của một ngành sản xuất nào đó. Khách hàng khó có thể từ bỏ

sản phẩm do Cartel sản xuất và sản phẩm thay thế cũng khó có khả năng phát triển.

- Xanh-đi-ca quốc tế (Syndicate): tổ chức liên minh giữa các nhà tư bản độc lập

về pháp lí nhưng không độc lập về thương mại mà có một ban quản trị chung quản lý

việc tiêu thụ sản phẩm.

Syndicate ra đời vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX ở Đức, Pháp, Áo, Nga. Mục

đích của tổ chức này là tổ chức các hoạt động tiêu thụ tập thể đối với sản phẩm của mình

thông qua hệ thống thương mại chung.

- Tờ-rớt quốc tế (Trust): hình thức liên kết trong đó các thành viên tham gia hoàn

toàn mất tính độc lập, họ chỉ là những công ty cổ phần. Quá trình sản xuất và lưu thông

tập trung vào ban điều hành chung.

Trust có quy mô lớn hơn Cartel và Syndicate. Hình thức này xuất hiện vào những

năm 60 của thế kỷ XIX ở Mỹ. Mục đích của họ là lũng đoạn thị trường tiêu thụ, tranh

cướp nơi sản xuất nguyên liệu và phạm vi đầu tư nhằm làm tăng khả năng cạnh tranh để

thu lợi nhuận lũng đoạn càng cao càng tốt.

- Công-xoóc-xi-om (Consotium): liên minh giữa các nhà tư bản độc quyền đa

ngành.

Khi tham gia vào liên minh này, các công ty vẫn giữ nguyên tư cách pháp nhân

độc lập của mình, đồng thời có mối liên hệ với nhau về mặt kinh tế, kỹ thuật. Công ty mẹ

đầu tư vào các công ty khác thành công ty con nhằm tạo thế mạnh về tài chính để kinh

doanh.

- Công-lô-mê-rat (Conglomerate): tập đoàn kinh doanh đa ngành, các công ty

thành viên có ít mối quan hệ hoặc không có mối quan hệ về công nghệ nhưng có quan hệ

chặt chẽ về tài chính.

4

Page 7: [Full] Các tác động tiêu cực của liên kết kinh tế quốc tế nhỏ

Thực chất đây là hình thức mà một tổ chức tài chính đầu tư vào các công ty kinh

doanh nhằm tạo ra một tổ hợp doanh nghiệp tài chính – công nghiệp để hỗ trợ vốn đầu tư

cho các công ty thành viên hoạt động có hiệu quả.

II. TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC CỦA LIÊN KẾT KINH TẾ QUỐC TẾ NHỎ

1. Tăng thất nghiệp và đẩy mạnh hiện tượng dịch chuyển lao động

Với việc tham gia các liên kết kinh tế quốc tế nhỏ, các công ty, tập đoàn phải đứng

trước áp lực cạnh tranh với các đối thủ trong liên kết. Những doanh nghiệp kinh doanh

các mặt hàng thuộc ngành kinh tế non trẻ, trình độ sản xuất chưa cao sẽ không có khả

năng thắng thế các doanh nghiệp ngoài nước, từ đó dẫn đến làm ăn thua sút, buộc phải

thu hẹp quy mô sản xuất hoặc đối mặt với nguy cơ giải thể, phá sản. Do đó, một số doanh

nghiệp lựa chọn sắp xếp lại sản xuất và kinh doanh, cắt giảm lao động để đương đầu với

cạnh tranh, làm cho một bộ phận người lao động bị mất việc làm. Đồng thời, trước áp lực

cạnh tranh, các doanh nghiệp cũng đòi hỏi trình độ lao động cao hơn, sự chọn lọc lao

động trở nên gắt gao gây áp lực cho lực lượng lao động và có khả năng dẫn đến tỷ lệ thất

nghiệp tăng.

Bên cạnh đó, ở các quốc gia đang phát triển, mức lương cũng như các chính sách

đãi ngộ của các công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia thường tốt hơn so với các công ty

trong nước, từ đó sẽ thu hút được nguồn nhân lực có trình độ cao, góp phần tạo ra sự

cạnh tranh về nhân lực giữa các công ty trong nước đối với các công ty đa/xuyên quốc

gia. Nhờ các ưu đãi có lợi này mà lao động có xu hướng dịch chuyển từ các doanh nghiệp

trong nước sang các công ty, tập đoàn nước ngoài hoặc có liên kết với nước ngoài.

2. Tác động lương và phân hóa giàu nghèo

Liên kết kinh tế quốc tế nhỏ được hình thành tạo nên các công ty quốc tế với quy

mô, trình độ và mức độ chuyên nghiệp cao hơn các công ty thông thường. Do đó, lực

5

Page 8: [Full] Các tác động tiêu cực của liên kết kinh tế quốc tế nhỏ

lượng lao động bị phân hoá thành nhiều bộ phận, trong đó bộ phận có trình độ chuyên

môn, kinh nghiệm dày dạn luôn đóng vai trò chủ chốt trong quá trình hoạt động của công

ty, các bộ phận còn lại sẽ tham gia vào quá trình sản xuất cấp thấp hoặc bị đào thải. Do

yêu cầu lao động, nhóm lao động có trình độ và tay nghề cao sẽ được trả công và hưởng

các đãi ngộ vượt hơn hẳn bộ phận lao động còn lại và do đó, mức tiền lương của một số

lao động có trình độ nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu của công ty sẽ thấp hơn rất nhiều,

ngay cả khi so với mức lương trước lúc có sự liên kết kinh tế. Ngoài ra, khi hình thành

liên kết quốc tế, công nghệ giữa các doanh nghiệp được chuyển giao, do đó các hoạt động

sản xuất của doanh nghiệp phần lớn sẽ chuyển sang tự động hoá gây ra nhu cầu về lao

động giảm, cộng hưởng với nguồn lao động dồi dào từ các bên liên kết sẽ tạo áp lực hạ

thấp mức lương của công nhân.

Khi liên kết kinh tế, việc phát triển của các công ty quốc tế góp phần vào quá trình

phát triển của nền kinh tế. Phân hoá giàu nghèo là kết quả tất yếu của quá trình tăng

trưởng phát triển kinh tế này. Hơn nữa, do có sự chênh lệch lớn trong phân bổ mức lương

cho công nhân như phân tích trên, sự phân hoá giàu nghèo của xã hội càng được hình

thành rõ rệt. Lực lượng có trình độ có đời sống ổn định và có thể có của cải tích luỹ, còn

lực lượng lao động trình độ thấp chỉ nhận được đồng lương ít ỏi, gặp khó khăn trong việc

làm dẫn đến chất lượng cuộc sống giảm dần.

Liên kết kinh tế quốc tế nhỏ được hình thành nhờ vào việc các quốc gia tham gia

vào các liên kết kinh tế quốc tế lớn. Do đó, từ sau khi gia nhập các tổ chức quốc tế, cụ thể

như Việt Nam gia nhập ASEAN năm 1995, sự phân hoá giàu nghèo của Việt Nam tăng

rõ rệt qua các năm. Dưới đây xin trích một vài số liệu mà trang báo mạng tuanvietnam đã

sử dụng theo số liệu của Tổng Cục Thống Kê qua 2 tài liệu (a) Phân tích kết quả điều tra

đời sống, kinh tế hộ gia đình năm 1999 và Điều tra mức sống hộ gia đình 2006 và (b)

Thực trạng giàu nghèo và những vấn đề đặt ra, 03.2006, TBTC 34 của Bộ Tài Chính.

(1) Hệ số chênh lệch thu nhập bình quân đầu người của nhóm 20% cao nhất so

với nhóm 20% thấp nhất trong cả nước. Trong 14 năm, hệ số này tăng lên 2,05 lần.

6

Page 9: [Full] Các tác động tiêu cực của liên kết kinh tế quốc tế nhỏ

Năm 1990 1991 1993 1994 1995 1996 1999 2002 2004

Số lần 4,2 4,2 6,2 6,5 7,0 7,3 7,6 8,1 8,4

(2) Một chỉ số khác về khoảng cách giàu nghèo trong xã hội là tỷ trọng tổng thu

nhập của 40% số hộ có thu nhập thấp nhất trong tổng thu nhập. Theo quy ước mà Bộ Tài

chính sử dụng, nếu tỷ trọng này nhỏ hơn hay bằng 12% thì bất bình đẳng là cao, nằm

trong khoảng 12 - 17% là bất bình đẳng vừa, nếu lớn hơn hay bằng 17% là tương đối bình

đẳng.

Trong 9 năm, sự chênh lệch về thu nhập giữa các nhóm hộ từ tương đối bình đẳng

đang tiến dần về bất bình đẳng vừa.

Năm 1995 1996 1999 2002 2004

Tỷ trọng tổng thu nhập 21,1% 21% 18.7% 18% 17,4%

(3) Ngoài ra, hệ số Gini (G) là một chỉ số khác thể hiện sự bình đẳng hay bất bình

đẳng trong xã hội. Hệ số G có trị số nằm trong khoảng từ 0 đến 1. G = 0 là trường hợp

bình đẳng hoàn hảo, trong khi đó G = 1 là bất bình đẳng hoàn hảo.

Các số liệu thống kê Việt Nam cho thấy, sự bình đẳng đang giảm dần, sự bất bình

đẳng đang lớn dần.

Năm 1994 1995 1996 1999 2002 2004

G 0,350 0,357 0,362 0,390 0,420 0,423

3. Gia tăng sức ép cạnh tranh đối với các doanh nghiệp trong nước

Việc tham gia vào các liên kết kinh tế quốc tế không chỉ mang tới những thuận lợi

mà còn tạo sức ép cạnh tranh ngày càng lớn đối với các doanh nghiệp ở các nước đang

phát triển. Phân tích trên chính trường hợp của Việt Nam, ta thấy trên thực tế, các doanh

nghiệp Việt Nam với trình độ quản lí còn non kém, công nghệ sản xuất còn thấp, thông

tin chưa được cập nhật và hệ thống hóa sẽ không chiếm ưu thế trước những công ty nước

7

Page 10: [Full] Các tác động tiêu cực của liên kết kinh tế quốc tế nhỏ

ngoài đang phát triển ngày càng vững mạnh và hoàn hảo hơn. Các sản phẩm xuất khẩu

của Việt Nam còn thiếu tính độc đáo, tính năng lạc hậu hơn so với các sản phẩm từ nước

khác nên tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế còn thấp. Hơn nữa, xuất khẩu của Việt

Nam dễ bị tổn thương do chỉ dựa vào một số mặt hàng chủ lực, các thế mạnh xuất khẩu

của Việt Nam lại khá tương đồng với các nước, làm cho hàng hóa xuất khẩu của Việt

Nam gặp khó khăn trên thị trường quốc tế, dẫn đến việc thâm nhập các thị trường mới và

nâng cao thị phần tại các thị trường sẵn có không hề dễ dàng.

Cùng với đó, việc tham gia vào liên kết kinh tế quốc tế buộc các nước đang phát

triển phải tuân thủ các luật chơi chung như giảm thuế, cắt giảm hàng rào phi thuế quan,

bỏ trợ cấp, mở cửa thị trường dịch vụ,… Do vậy các nước đang phát triển phải thực hiện

chính sách bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước. Do các rào cản thương mại, đầu tư dần

được dỡ bỏ, các doanh nghiệp nước ngoài lại được cơ hội phát triển hoàn hảo hơn trên thị

trường Việt Nam. Với chất lượng sản phẩm chưa cao mà chi phí sản xuất lại lớn, doanh

nghiệp Việt Nam rất khó để có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài ngay trên

thị trường nước mình.

Doanh nghiệp các nước đang phát triển có quy mô nhỏ, vốn ít, khả năng tổ chức

thị trường yếu. Nếu không tổ chức, sắp xếp lại, tăng cường khả năng tích tụ và tập trung

vốn, hoàn thiện cơ chế quản lý thì sẽ rất khó khăn trong việc cạnh tranh với các doanh

nghiệp nước ngoài, đặc biệt khi phải áp dụng chế độ đãi ngộ quốc gia.

Trong những năm gần đây, sức cạnh tranh giữa hàng hóa Việt Nam và hàng hóa

nước ngoài diễn ra hết sức quyết liệt, đặc biệt là các sản phẩm có xuất xứ từ các công ty

đa quốc gia hiện đang có mặt và thống lĩnh trên thị trường Việt Nam. Điển hình, ta so

sánh khả năng cạnh tranh giữa bột giặt Việt Nam (Lix, Daso, Net, Viso,...) và bột giặt

nước ngoài của các công ty đa/xuyên quốc gia như Unilever, P&G (Omo, Tide, Surf..) ở

thị trường nội địa Việt Nam. Trước khi Omo và các loại bột giặt nước ngoài thâm nhập

Việt Nam, Daso và Net là 2 thương hiệu bột giặt chiếm lĩnh thị trường. Tuy nhiên, những

doanh nghiệp này tài chính còn eo hẹp, ít đầu tư sản phẩm hay con người và thương hiệu

8

Page 11: [Full] Các tác động tiêu cực của liên kết kinh tế quốc tế nhỏ

(không đa dạng, bao bì không bắt mắt, chiến lược quảng bá sản phẩm đến với người tiêu

dùng không được đầu tư, chú trọng,…). Ngược lại, các loại bột giặt nước ngoài khi thâm

nhập thị trường Việt Nam có chất lượng và giá cạnh tranh với hàng trong nước, được đa

dạng hóa chất lượng, mẫu mã sản phẩm. Đặc biệt, các công ty đa quốc gia luôn chú trọng

chiến lược marketing sản phẩm, đưa sản phẩm đến gần hơn với người Việt Nam. Do vậy,

các sản phẩm bột giặt Việt Nam dễ bị hạ gục kể cả tại thị trường trong nước. Không chỉ

có bột giặt Việt Nam mà các sản phẩm khác như kem đánh răng P/S, Dạ Lan, nước rửa

chén Mỹ Hảo,… đã từng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam đều bị soán ngôi và thâu tóm

bởi các công ty đa quốc gia dưới hình thức liên doanh. Vì vậy, việc tham gia liên kết kinh

tế quốc tế góp phần làm tăng sức ép cạnh tranh của những doanh nghiệp trong nước với

những doanh nghiệp khác.

4. Thu hẹp quyền quyết định của các doanh nghiệp thuộc các quốc gia phát

triển

Trong liên kết kinh tế quốc tế nhỏ, các công ty, tập đoàn thuộc các quốc gia trong

liên kết sẽ phải đồng bộ hóa việc sử dụng các chính sách kinh tế cần thiết trong suốt quá

trình kinh doanh. Thế nhưng tại các nước đang phát triển, hệ thống chính sách kinh tế còn

nhiều bất cập, kỹ thuật xây dựng còn thô sơ, hệ thống chính sách chưa đồng bộ - đặc biệt

những chính sách tạo lợi thế cho kinh tế thương mại trong nước mà các tổ chức kinh tế

quốc tế và khu vực thừa nhận thì các nước đang phát triển lại chưa có. Do đó, những hạn

chế về chính sách này đã ảnh hưởng rất lớn tới quá trình hoạt động, sản xuất của các công

ty, doanh nghiệp thuộc các quốc gia phát triển tại các nước đang phát triển. Họ gặp nhiều

khó khăn trong việc đưa ra những quyết định kinh doanh của mình vì gặp các trở ngại

trong chính sách về thuế, bảo vệ môi trường, luật lao động,…

Để hiểu rõ hơn về những hạn chế mà các doanh nghiệp thuộc các quốc gia phát

triển gặp phải, chúng ta hãy đến với ví dụ sau:

Theo số liệu thống kê của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), năm

2012, nước ta thu hút 13,013 tỷ USD vốn FDI đăng ký, bằng 84,7% (giảm 15,30%) so

9

Page 12: [Full] Các tác động tiêu cực của liên kết kinh tế quốc tế nhỏ

với cùng kỳ năm 2011. Một trong những nguyên nhân chính là chính sách thường xuyên

thay đổi, gây bất lợi cho doanh nghiệp, làm tăng chi phí đầu vào; có những thay đổi chính

sách khiến doanh nghiệp không thể dự tính được chi phí sản xuất nên không tính được

giá thành của sản phẩm đầu ra. Cụ thể là:

- Việc thắt chặt cho các doanh nghiệp đầu tư xây dựng hạ tầng khu công nghiệp

vay vốn xây dựng kết cấu hạ tầng theo Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của

Chính phủ đã khiến một số khu công nghiệp đang xây dựng dở dang phải tạm ngừng

hoặc giãn tiến độ thi công xây dựng công trình do chủ đầu tư thiếu vốn, vì vậy dự án

không phát huy được hiệu quả của nguồn vốn đầu tư.

- Theo Quy định tại Nghị định số 18/2012/NĐ-CP ngày 13/3/2012 của Chính phủ

có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2013, các phương tiện giao thông đường bộ trên cả nước sẽ

phải đóng phí bảo trì đường bộ, trong khi giá bán xăng, dầu đã bao gồm khoản phí giao

thông đường bộ. Mức phí này sẽ làm phát sinh thêm chi phí vận tải cho doanh nghiệp,

làm cho doanh nghiệp vốn đã khó khăn nay lại càng khó khăn hơn.

- Kể từ ngày 25/02/2013, việc công chứng các hợp đồng, giao dịch về bất động sản

của doanh nghiệp phải thông qua đơn vị công chứng thay cho việc Ban Quản lý các khu

kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất xác nhận như trước đây. Khi cần công chứng, chủ

đầu tư hạ tầng khu công nghiệp và doanh nghiệp phải trực tiếp ra phòng công chứng ký

tên với sự chứng kiến của công chứng viên, quy định này khiến các chủ đầu tư hạ tầng

mất rất nhiều thời gian, gây ảnh hưởng lớn đến công việc kinh doanh của doanh nghiệp.

Ngoài ra, việc này cũng khiến các doanh nghiệp phải gánh thêm khoản lệ phí công

chứng, tăng chi phí sản xuất.

- Công tác quản lý môi trường tại các khu công nghiệp hiện nay được quản lý

thông qua hai đầu mối là Sở Tài nguyên và Môi trường và Ban Quản lý khu công nghiệp,

khu chế xuất, khu kinh tế được quy định tại thông tư số 48/2011/TT-BTNMT ngày

28/12/2011 của Bộ Tài nguyên và Môi trường dẫn đến tình trạng thiếu sự thống nhất

chung trong công tác quản lý.

10

Page 13: [Full] Các tác động tiêu cực của liên kết kinh tế quốc tế nhỏ

5. Nguy cơ biến các nước đang phát triển trở thành bãi rác thải của các nước

phát triển

Trong vòng liên kết kinh tế, bên cạnh việc tiếp nhận những công nghệ tiên tiến hay

nguồn vốn đầu tư có lợi, các nước đang phát triển cũng đang phải đối mặt với tình trạng

chuyển dịch rác thải công nghệ nói chung, rác thải điện tử nói riêng và nhiều hàng hóa

kém chất lượng từ một số nước có nền kinh tế phát triển. Liên Hiệp Quốc ước tính hiện

có khoảng 50 triệu tấn mặt hàng điện và điện tử bị vứt bỏ hằng năm. Theo tổ chức Hòa

bình Xanh (Greenpeace), chỉ có khoảng 10% lượng máy tính cũ được tái chế, tỷ lệ điện

thoại di động cũ được tái chế còn thấp hơn - chỉ khoảng 2-3%. Như vậy, tỷ lệ rác thải

điện tử không được tái chế chiếm trên 90%, lượng rác khổng lồ này phần lớn được

chuyển đến các nước kém phát triển để tiếp tục được “tận dụng”.

Các nước như Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia và châu Phi đã trở thành những

trung tâm xử lý rác thải của Phương Tây. Theo nhận định của New York Times, trong

khoảng thời gian từ năm 1995 đến năm 2007, lượng xuất khẩu giấy, phế phẩm nhựa và

rác thải kim loại từ các nước Phương Tây sang các nền kinh tế đang phát triển đã tăng lên

10 lần. Việc xuất khẩu rác thải phi pháp của các nước Phương Tây sang các nước nghèo

đã trở thành những nghiệp vụ quốc tế ngày một lớn và đang tăng nhanh. Theo thông tin

từ Liên Hiệp Quốc, khoảng 70% rác thải điện tử toàn cầu thải ra đều về Trung Quốc, hay

nói cách khác, Trung Quốc được xem là “bãi rác công nghệ” lớn nhất thế giới. Ở Việt

Nam thời gian gần đây, các cơ quan chức năng liên tiếp phát hiện các vụ nhập chất thải

núp bóng việc nhập nguyên vật liệu như: nhập sắt thép lẫn săm lốp và thùng đựng hóa

chất, nhập linh kiện điện tử cũ, bình ắc-quy đã qua sử dụng,... tại Hải Phòng, Quảng

Ninh, TP.HCM và một số địa phương khác.

Trên tâm lý không muốn bỏ qua mối lợi kinh tế đồng thời giảm thiểu chi phí cho

các công tác xử lý phế phẩm, những doanh nghiệp thuộc các nước phát triển thực hiện

bán những hàng hóa kém chất lượng có công nghệ cũ, lỗi thời với giá cao cho các nước

đang phát triển. Đồng thời đó, sự quản lý yếu kém từ các cơ quan chức năng, hệ thống

11

Page 14: [Full] Các tác động tiêu cực của liên kết kinh tế quốc tế nhỏ

chính sách hay pháp luật về bảo vệ môi trường chưa đồng bộ, tình trạng thiếu chế tài và

các quy định chỉ mang tính hình thức đối với việc thu phí bảo vệ môi trường của chính

phủ các nước đang phát triển cũng là nguyên nhân khuyến khích vấn nạn này tiếp diễn.

Việc làm của những doanh nghiệp thuộc các quốc gia phát triển đã biến các nước

đang phát triển thành “bãi rác” công nghệ và hàng hóa kém chất lượng, việc tiếp nhận

hàng hóa công nghệ cũ, lỗi thời làm các nước này đã phát triển chậm nay còn chậm hơn

so với các quốc gia phát triển. Cùng với đó, việc thu nhận những hàng hóa kém chất

lượng gây ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của các doanh nghiệp trong nước với các đối

tác nước ngoài, cũng như tín nhiệm của người dân trong nước đối với hàng hóa nước

mình.

6. Giảm nguồn thu ngân sách

Các liên kết kinh tế quốc tế dù lớn hay nhỏ cũng làm gia tăng các mối liên hệ phụ

thuộc lẫn nhau giữa các thành viên và hình thành nên cơ cấu kinh tế mới trong quá trình

liên kết. Việc tham gia liên kết kinh tế quốc tế nói chung và các liên kết kinh tế quốc tế

nhỏ nói riêng là một quá trình xóa bỏ một số khác biệt kinh tế giữa các nước, xác lập

những tiêu chí phát triển chung. Điều này cũng có nghĩa là các quốc gia tham gia vào liên

kết kinh tế quốc tế sẽ bắt đầu dỡ bỏ dần các ngăn trở thương mại, đặc biệt là hàng rào

thuế quan và phi thuế quan giữa các bên. Việc làm này tạo nên tính khuôn khổ kinh tế

cũng như củng cố và mở rộng quan hệ thị trường, tuy nhiên với một số quốc gia, đặc biệt

là các quốc gia đang phát triển, việc dở bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan là một tổn

thất không nhỏ đến ngân sách nhà nước.

Thuế quan là khoản thuế đánh vào hàng hóa và dịch vụ khi chúng được chuyển

qua biên giới quốc gia, có thể được áp dụng đối với cả hàng hóa xuất khẩu lẫn nhập khẩu.

Tuy nhiên, trên thế giới thuế quan nhập khẩu vẫn là chủ yếu. Hàng rào thuế quan là

những biện pháp kinh tế và quản lý kinh tế mà chính phủ một nước đặt ra đối với hàng

nhập khẩu từ nước khác, nhằm hạn chế việc nhập hàng hóa đó vào nước mình để bảo vệ

nền kinh tế và an ninh quốc gia, giảm sự phụ thuộc. Nói một cách khác, thuế quan sẽ tạo

12

Page 15: [Full] Các tác động tiêu cực của liên kết kinh tế quốc tế nhỏ

lợi thế về giá cho các sản phẩm nội địa, tăng tính cạnh tranh của hàng nội địa và cũng

đóng vai trò là một nguồn thu cho ngân sách nhà nước.

Một ví dụ cụ thể, các công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia khi đặt chi nhánh và

công ty con tại Việt Nam, sẽ làm phát sinh một số nguyên, nhiên vật liệu phải nhập khẩu

từ nước ngoài. Chẳng hạn công ty mô tô Suzuki - một công ty đa quốc gia của Nhật

chuyên sản xuất các loại xe máy, xe ô tô, xe địa hình,… - vẫn nhập khẩu một số chi tiết

máy, linh kiện xe vào thị trường Việt Nam để tiến hành lắp ráp và bán sản phẩm. Việc

nhập khẩu này dẫn đến một số mặt hàng sẽ đi qua biên giới quốc gia Việt Nam và phải

chịu một khoản thuế quan, và vì đó việc dở bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan sẽ

làm mất đi một khoản thu không nhỏ cho ngân sách nhà nước Việt Nam.

Sau khi chính thức gia nhập WTO, Việt Nam đã chủ động thực hiện cam kết cắt

giảm 1.812 dòng thuế nhập khẩu với mức thuế suất giảm bình quân là 14,5%. Sau 6

tháng thực hiện cam kết nêu trên, theo số liệu thống kê của các ngành có liên quan thì

thấy: so với cùng kỳ, tổng kim ngạch nhập khẩu tăng 30,4%, xuất khẩu tăng 19,4%,

nhưng số thu thuế xuất nhập khẩu (XNK) chỉ tăng 21,68% và tổng số thu các loại thuế

XNK, tiêu thụ đặc biệt, giá trị gia tăng, phí, lệ phí đối với hàng XNK mới đạt 49,8% mức

kế hoạch năm. Như vậy, tổng giá trị hàng nhập khẩu tăng rất cao, nhưng tốc độ tăng thu

thuế thấp hơn đáng kể. Những con số khách quan cho thấy do giảm thuế suất theo cam

kết WTO mà cơ cấu thuế trong giá hàng nhập khẩu giảm đáng kể và ngân sách nhà nước

cũng giảm một nguồn thu tương ứng.

Không dừng lại ở đó, việc dở bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan làm cho

doanh nghiệp trong nước phải đối mặt với sức ép cạnh tranh gia tăng. Đặc biệt với các

nước đang phát triển, với tổng GDP còn ít, tích lũy từ nội bộ nền kinh tế thấp hơn so với

nhịp độ phát triển và yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa, cơ sở hạ

tầng, thông tin liên lạc đòi hỏi nhiều sự đầu tư làm đẩy chi phí sản xuất lên cao. Thêm

vào đó, phần lớn các sản phẩm của các nước đang phát triển, đặc biệt về công nghệ, điện

tử thường lạc hậu và thiếu tính độc đáo hơn những sản phẩm được nhập từ các nước tiên

13

Page 16: [Full] Các tác động tiêu cực của liên kết kinh tế quốc tế nhỏ

tiến. Hệ lụy của việc dở bỏ hàng rào thuế quan là điều dễ thấy khi sức cạnh tranh của

hàng hóa nước ngoài vốn đã quá mạnh nay lại được tiếp thêm sức bởi lộ trình giảm thuế,

việc này gây ra khó khăn không nhỏ cho các doanh nghiệp trong nước khi tìm kiếm thị

trường. Do vậy doanh thu cũng như lợi nhuận của các doanh nghiệp nội địa sẽ giảm một

cách đáng kế. Việc thu thuế thu nhập doanh nghiệp, theo luật hiện hành là 25% lợi nhuận

của doanh nghiệp, sẽ làm giảm nguồn thu từ thuế của ngân sách nhà nước do doanh

nghiệp hiện gặp nhiều khó khăn vì cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu trên thị trường.

Việc dở bỏ hàng rào thuế quan khi tham gia các liên kết kinh tế, một phần trực tiếp làm

giảm nguồn thu thuế từ các hàng hóa nhập khẩu, đồng thời cũng gián tiếp làm giảm

nguồn thu thuế nội địa từ các doanh nghiệp và tổ chức kinh doanh.

Một nền kinh tế quốc gia lành mạnh phải dựa vào nguồn thu nội bộ của nền kinh

tế quốc dân. Theo tài liệu điều tra gốc “ADB Key Economic Indicator for Asia and the

Pacific (2011) của Ngân hàng phát triển châu Á” trình bày số liệu so sánh số thu thuế so

với GDP của 48 nước trên thế giới, tỷ lệ số thu thuế của Việt Nam so với GDP ở mức

23,1%. Như vậy, Việt Nam ở vào nhóm trung bình cao. Trong điều kiện thuế vẫn là

nguồn thu chủ yếu quan trọng của ngân sách nhà nước, thì với số liệu trên, việc dở bỏ

hàng rào thuế và cắt giảm các loại thuế xuất nhập khẩu phục vụ cho mục tiêu thương mại

khi tham gia các liên kết kinh tế quốc tế, dù nhỏ hay lớn, sẽ gây tổn thất không nhỏ cho

ngân sách nói riêng và GDP nói chung.

7. Gây khó khăn về lĩnh vực tài chính

Việc tham gia liên kết kinh tế quốc tế nhỏ sẽ làm cho các công ty, tập đoàn doanh

nghiệp của các nước trong liên kết đó phụ thuộc lẫn nhau. Nếu một công ty, tập đoàn hay

doanh nghiệp bị suy sụp về tài chính hoặc bị phá sản sẽ dễ dàng kéo theo cả khu vực liên

kết bị ảnh hưởng, gây ảnh hưởng xấu đến các công ty, tập đoàn của các nước khác. Cụ

thể hơn, ví dụ đối với các công ty đa quốc gia (MNCs), khi công ty mẹ gặp khó khăn về

vấn đề tài chính thì các công ty con ở các quốc gia trong khu vực liên kết sẽ bị ảnh hưởng

nặng nề, thậm chí sẽ dẫn đến việc phá sản một số công ty con.

14

Page 17: [Full] Các tác động tiêu cực của liên kết kinh tế quốc tế nhỏ

Các công ty quốc tế bao gồm nhiều cổ phần đóng vào của các tập đoàn ở các nước

khác nhau trong khu vực liên kết. Vì thế, khi một tập đoàn hay một công ty, doanh nghiệp

ở một nước rút cổ phần của mình và không tham gia hoạt động nữa, công ty quốc tế đó sẽ

gặp nguy cơ thâm hụt về tài chính và vốn đầu tư, gây ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động

của công ty.

KẾT LUẬN:

Qua tìm hiểu nghiên cứu các tác động tiêu cực của liên hệ kinh tế quốc tế nhỏ nêu

trên, có thể thấy rằng việc tham gia vào liên kết kinh tế quốc tế nhỏ ngoài việc đem lại

những hiệu quả kinh tế nhất định cho các thành viên tham gia liên kết, cũng mang lại

những thiệt hại không nhỏ cho các quốc gia.

Về mặt xã hội: trước áp lực cạnh tranh tăng cao do sự xâm nhập của các doanh

nghiệp tiên tiến ngoài nước, các công ty tập đoàn trong nước buộc phải thu hẹp quy mô

sản xuất, cắt giảm lao động hoặc tinh lọc đội ngũ sản xuất, mức lương cho công nhân

viên cũng từ đó có sự phân hóa rõ rệt. Do đó, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, khoảng cách giàu

– nghèo bị kéo giãn và tốc độ phân giữa cực các nhóm lao động khác nhau về trình độ

được đẩy mạnh. Mặt khác, môi trường tại các quốc gia đang phát triển có nguy cơ bị phá

hủy trầm trọng bởi lượng rác thải công nghệ và hàng kém chất lượng mà doanh nghiệp

thuộc các quốc gia phát triển chuyển dịch vào.

Về mặt kinh tế: sự xuất hiện của các tập đoàn hùng mạnh với trình độ phát triển

ngày càng hoàn hảo gây ra áp lực lớn cho các doanh nghiệp trong nước, sản phẩm nhập

khẩu dần chiếm lĩnh thị trường nội địa. Bên cạnh đó, thuế quan và thuế thu nhập doanh

nghiệp - nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước – bị rút giảm bởi các cam kết xóa

bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan giữa các bên trong liên kết, gây tổn hại không

nhỏ đến GDP đất nước. Mặt khác, đối với những doanh nghiệp thuộc các quốc gia phát

triển, vì phải chấp nhận việc sử dụng đồng bộ hóa các chính sách kinh tế mà các doanh

nghiệp này gặp khó khăn trong việc đưa ra quyết định kinh doanh, bởi vướng phải các trở

15

Page 18: [Full] Các tác động tiêu cực của liên kết kinh tế quốc tế nhỏ

ngại trong chính sách về thuế, bảo vệ môi trường, luật lao động,… Hơn thế nữa, việc tạo

lập liên kết giữa các công ty, tập đoàn đồng nghĩa với việc nối liền tình trạng tài chính

của các bên, tăng cường tính phụ thuộc lẫn nhau, do đó sự suy sụp hay rút lui của một

thành viên sẽ dễ dàng kéo theo sự suy sụp hoặc thâm hụt tài chính cho các doanh nghiệp

liên quan.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

- Giáo trình quan hệ kinh tế quốc tế do TS. Bùi Thị Lý chủ biên, nhà xuất bản giáo

dục Việt Nam năm 2009.

- Khóa luận của Đoàn Thị Hường, lớp Nhật 5, K45F, Đại học Ngoại thương (Đề

tài: Những xu hướng, tác động của liên kết kinh tế quốc tế và một số đề xuất cho Việt

Nam trong quá trình tham gia vào các liên kết kinh tế quốc tế)

- Cổng thông tin điện tử Bộ Tài Chính: http://www.mof.gov.vn

- Tổng cục Thống kê Việt Nam: http://www.gso.gov.vn

- Và các nguồn khác:

http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2010-05-23-ban-them-ve-khoang-cach-giau-ngheo-o-viet-nam

http://www.tbvtsg.com.vn/show_article.php?id=15951&ln_id=96

http://www.baomoi.com/Trung-Quoc-tro-thanh-bai-rac-cua-Phuong-Tay/119/3267112.epi

http://www.fes-sgu.edu.vn/tin-tuc/tin-trong-nuoc/87-nguy-co-viet-nam-thanh-bai-rac-cong-nghiep

http://phochungkhoan.vn/chitiet/cam-nuoc-giau-xuat-chat-thai-sang-nuoc-ngheo.html

16