Ephata 635

31
E-mail: [email protected] Website: www.trungtammucvudcct.com "ANH NẰM XUỐNG…" “Em nào mà gặp Soeur này, chắc chắn sẽ xin đi tu thôi”. Người bạn cùng đi với chúng tôi thốt lên như vậy. Hẳn tôi không nghĩ như thế nhưng một ngày làm việc với nhau, người Nữ Tu này đã để lại nơi tôi nhiều cung bậc cảm xúc. Người bạn cùng đi với chúng tôi nói tiếp: “Con đã rất quen với các cơ sở từ thiện, đến nhiều nơi, gặp nhiều người, con muốn nói đến sự quen thuộc, nhưng Soeur này để lại trong con nhiều ấn tượng mạnh mẽ, quả thật diệu kỳ”. Đúng vậy, với các “thành tích”: nuôi các chị em mang thai ngoài ý muốn, nuôi các cháu cô nhi, quy tụ nâng đỡ người già neo đơn, kẻ nghèo khó, mỗi ngày phục vụ 300 tô cháo ở bệnh viện, chôn cất các thai nhi bị phá bỏ… là những hình thức bác ái quen thuộc. Khó khăn có, gian lao có, thách thức có, nhất là công viêc Bảo Vệ Sự Sống những năm khởi đầu khi hiếm có nơi nào làm. Nhưng những khó khăn ấy nhờ ơn Chúa, với thời gian và lòng quảng đại của nhiều người, sẽ không đến nỗi là những ngăn trở hiểm nguy cho lắm đối với chị. Trong sứ mạng của chị, chị cũng đã vượt qua. Nhưng rồi, cách đây vài năm, qua thông tin của dân chúng, chị biết có vài ngôi mộ vùi dập thân xác những người vượt biển chết trôi dạt vào bờ. Người ta bắt đầu cần đất bờ biển để làm du lịch. Không ai là thân nhân của những người xấu số, chị đứng ra nhận rồi cải táng về nghĩa trang Giáo Xứ, ngày ngày thăm viếng, đốt một nén nhang cho ấm áp hương hồn. Tin này truyền đi trong dân chúng quanh vùng. Và thế là một ngày “duyên nợ” lại đến. Người ta dẫn chị đến một ngọn đồi với cái tên thật thơ mộng, “Đồi hoa sim”. Hàng trăm ngôi mộ đất hoàng tàn của những người lính Việt Nam Cộng Hòa năm xưa. Những trận đánh khốc liệt của những ngày tháng tư năm 75, cuộc tan hàng vội vã bỏ lại phía sau những anh em đồng đội đã gục ngã… Rồi thất trận ly tán bốn phương, những ngôi mộ đất rơi vào quên lãng, âm thầm lặng lẽ u buồn theo năm tháng… Rồi lại một nghĩa trang khác của một trại lính, cũng vậy, lác đác vài chục ngôi mộ, trại lính năm xưa chỉ còn là cỏ dại, cô quạnh với những cành sim khô khốc… Rồi lại một trại tù cải tạo, người ta phát hiện ra vài ngôi mộ năm chơ vơ giữa đồng cát. Trại tù đã giải thể, bỏ lại cánh đồng vắng những kẻ chết rũ tù chẳng biết tự bao giờ ! Chị đã bật khóc nhiều lần khi kể lại cho chúng tôi nghe. Chị dẫn chúng tôi đến từng ngôi mộ, kể lể chi tiết, rằng khi đào lên bên trong còn những gì. Thật khó, hơn 400 ngôi mộ vô danh, chị ghi lại lý lịch từng ngôi mộ, cái này xác còn cuốn trong Poncho, cái này đôi giầy còn nguyên vẹn, cái này có răng vàng, cái này còn cái đinh niken ở ống chân... May mắn có tất cả 74 ngôi mộ bên dưới còn giữ được chiếc thẻ bài của người lính. Với các chi tiết có được, chị ghi chép cẩn thận và bày tỏ với chúng tôi nỗi trăn trở làm cách nào đây để thân nhân từng người lính này biết được nơi an nghỉ của họ, làm cách nào để những con người đã nằm xuống có ngày nhận được những nén nhang từ tay người thân của mình cắm trên phần mộ... Chị không mong ước gì hơn và hoàn toàn không có một mục đích nào khác ngoài việc quy tập anh em, cầu kinh khấn nguyện và cùng anh em ngóng đợi người thân... Tôi đi dọc theo những hàng mộ xây dựng thẳng tắp ngay ngắn, xin lỗi chị, dưới con mắt của người biết chút ít về nghệ thuật kiến trúc, tôi thấy việc xây dựng mộ khá thô vụng xét về kiểu dáng, về chất liệu cũng như mầu sắc, nhưng tôi khâm phục chị và các cộng tác viên vô cùng. Làm sao một phụ 1 NĂM THỨ 15 – SỐ 635 – CHÚA NHẬT 4.1.2015

Transcript of Ephata 635

Page 1: Ephata 635

E-mail: [email protected] Website: www.trungtammucvudcct.com

"ANH NẰM XUỐNG…"“Em nào mà gặp Soeur này, chắc chắn sẽ xin đi tu

thôi”. Người bạn cùng đi với chúng tôi thốt lên như vậy. Hẳn tôi không nghĩ như thế nhưng một ngày làm việc với nhau, người Nữ Tu này đã để lại nơi tôi nhiều cung bậc cảm xúc.

Người bạn cùng đi với chúng tôi nói tiếp: “Con đã rất quen với các cơ sở từ thiện, đến nhiều nơi, gặp nhiều người, con muốn nói đến sự quen thuộc, nhưng Soeur này để lại trong con nhiều ấn tượng mạnh mẽ, quả thật diệu kỳ”.

Đúng vậy, với các “thành tích”: nuôi các chị em mang thai ngoài ý muốn, nuôi các cháu cô nhi, quy tụ nâng đỡ người già neo đơn, kẻ nghèo khó, mỗi ngày phục vụ 300 tô cháo ở bệnh viện, chôn cất các thai nhi bị phá bỏ… là những hình thức bác ái quen thuộc. Khó khăn có, gian lao có, thách thức có, nhất là công viêc Bảo Vệ Sự Sống những năm khởi đầu khi hiếm có nơi nào làm. Nhưng những khó khăn ấy nhờ ơn Chúa, với thời gian và lòng quảng đại của nhiều người, sẽ không đến nỗi là những ngăn trở hiểm nguy cho lắm đối với chị. Trong sứ mạng của chị, chị cũng đã vượt qua.

Nhưng rồi, cách đây vài năm, qua thông tin của dân chúng, chị biết có vài ngôi mộ vùi dập thân xác những người vượt biển chết trôi dạt vào bờ. Người ta bắt đầu cần đất bờ biển để làm du lịch. Không ai là thân nhân của những người xấu số, chị đứng ra nhận rồi cải táng về nghĩa trang Giáo Xứ, ngày ngày thăm viếng, đốt một nén nhang cho ấm áp hương hồn. Tin này truyền đi trong dân chúng quanh vùng. Và thế là một ngày “duyên nợ” lại đến.

Người ta dẫn chị đến một ngọn đồi với cái tên thật thơ mộng, “Đồi hoa sim”. Hàng trăm ngôi mộ đất hoàng tàn của những người lính Việt Nam Cộng Hòa năm xưa. Những trận đánh khốc liệt của những ngày tháng tư năm 75, cuộc tan hàng vội vã bỏ lại phía sau những anh em đồng đội đã gục ngã… Rồi thất trận ly tán bốn phương, những ngôi mộ đất rơi vào quên lãng, âm thầm lặng lẽ u buồn theo năm tháng…

Rồi lại một nghĩa trang khác của một trại lính, cũng vậy, lác đác vài chục ngôi mộ, trại lính năm xưa chỉ còn là cỏ dại, cô quạnh với những cành sim khô khốc…

Rồi lại một trại tù cải tạo, người ta phát hiện ra vài ngôi mộ năm chơ vơ giữa đồng cát. Trại tù đã giải thể, bỏ lại cánh đồng vắng những kẻ chết rũ tù chẳng biết tự bao giờ !

Chị đã bật khóc nhiều lần khi kể lại cho chúng tôi nghe. Chị dẫn chúng tôi đến từng ngôi mộ, kể lể chi tiết, rằng khi đào lên bên trong còn những gì. Thật khó, hơn 400 ngôi mộ vô danh, chị ghi lại lý lịch từng ngôi mộ, cái này xác còn cuốn trong Poncho, cái này đôi giầy còn nguyên vẹn, cái này có răng vàng, cái này còn cái đinh niken ở ống chân... May mắn có tất cả 74 ngôi mộ bên dưới còn giữ được chiếc thẻ bài của người lính.

Với các chi tiết có được, chị ghi chép cẩn thận và bày tỏ với chúng tôi nỗi trăn trở làm cách nào đây để thân nhân từng người lính này biết được nơi an nghỉ của họ, làm cách nào để những con người đã nằm xuống có ngày nhận được những nén nhang từ tay người thân của mình cắm trên phần mộ... Chị không mong ước gì hơn và hoàn toàn không có một mục đích nào khác ngoài việc quy tập anh em, cầu kinh khấn nguyện và cùng anh em ngóng đợi người thân...

Tôi đi dọc theo những hàng mộ xây dựng thẳng tắp ngay ngắn, xin lỗi chị, dưới con mắt của người biết chút ít về nghệ thuật kiến trúc, tôi thấy việc xây dựng mộ khá thô vụng xét về kiểu dáng, về chất liệu cũng như mầu sắc, nhưng tôi khâm phục chị và các cộng tác viên vô cùng. Làm sao một phụ

1

NĂM THỨ 15 – SỐ 635 – CHÚA NHẬT 4.1.2015

Page 2: Ephata 635

nữ mỏng manh bình dị như thế, một Nữ Tu lẽ ra bằng lòng với câu kinh tiếng kệ trong bốn bức tường Tu Viện, chị lại xông pha sương gió làm gì, nhận lấy những gian lao khốn khó làm gì, đối đầu với bao rủi ro hiểm nguy đến từ một chế độ quá nhiều ác cảm và phân biệt đối xử làm gì, và bởi đâu chị lại kiên trì âm thầm thực hiện được một công việc quá to lớn như vậy ? Cánh đàn ông chúng tôi có thể biết làm đấy, nhưng có dám làm, có dám chịu trách nhiệm ? Người ta chỉ bằng lòng dừng lại với việc “cầu cho các linh hồn mồ côi”, thế thôi, chớ có dại làm gì ảnh hưởng đến các hoạt động mục vụ khác, thậm chí có khi người ta còn nại đến… vì lợi ích Dân Chúa ! Thật buồn…

Thấy tôi ngạc nhiên về những cành hoa tươi cắm đều trên các phần mộ, chị giải thích: “Có một vị ân nhân ở Đà Lạt, đôi ba ngày lại gởi xuống một giỏ hoa tươi, chúng con chỉ việc nhặt nhạnh rồi cắm vào các ngôi mộ, nhang thì chúng con thắp mỗi ngày”. Vùng giáp biển nên gió thổi rất mạnh, một cái giếng được đào bên rìa nghĩa trang, cứ vài ngày thì các ngôi mộ được bơm nước rửa sạch bụi bặm. Một bức tường cao được xây dựng để ngăn trâu bò len vào giẫm đạp. Lại có hai người thường xuyên ngoài nghĩa trang đến để dọn dẹp quang quẻ sạch sẽ cũng như tiếp tục chôn cất các thai nhi.

Một ngày làm việc trôi qua với nhiều cảm xúc, chúng tôi quây quần quanh nhau để lắng đọng tâm hồn cùng với lời cầu kinh cho những người đã nằm xuống, ráng chiều đã rực lên, gió hoàng hôn đã bắt đầu những cơn quần quật. Mọi người lặng thinh với không gian và với chính mình. Trên đường về không ai bảo ai, lòng như trùng xuống ngậm ngùi, chạnh nhớ một bài hát của Trịnh:

“Anh nằm xuống sau một lần đã đến đây, Đã vui chơi trong cuộc đời này, Đã bay cao trong vòm trời đầy, Rồi nằm xuống, không bạn bè, không có ai, Không có ai, từng ngày, không có ai đời đời Ru anh ngủ vùi, mùa mưa tới trong nghĩa trang này có loài chim thôi !

May quá, ở nghĩa trang này, không chỉ có chim trời và hoa dại, mà vẫn luôn có đó một chị Nữ Tu ân cần tận tụy và những con người tốt bụng chăm sóc gần gũi các anh...

Lm. VĨNH SANG, DCCT, 26.12.2014

MỤC LỤC TÌM BÀI:"ANH NẰM XUỐNG…" ( Lm. Vĩnh Sang ) ............................................................................................. 01THEO ÁNH SAO ( Trầm Thiên Thu ) ..................................................................................................... 02"THÁNH MARIA, ĐỨC MẸ CHÚA TRỜI…" ( Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ ) ........................................... 04TAY TRẮNG LÀM NGƯỜI ( M. Hoàng Thị Thùy Trang ) ...................................................................... 06KỊCH BẢN: GẶP GỠ KITÔ ( Lm. Giuse Lê Quang Uy ) ........................................................................ 07PHONG CÁCH PHANXICÔ – BÀI 29: Con đường đến với người vô thần ( Nguyễn Trung ) ................ 14HÀNH HƯƠNG ĐẦU NĂM ( Việt Quốc ) ............................................................................................... 18HẠNH PHÚC BỊ TỪ BỎ ( VTKT ) .......................................................................................................... 20TRÊN CON ĐƯỜNG VỀ QUÊ ( AM. Trần Bình An ) ............................................................................. 21PHÉP LẠ CỦA MẸ MARIA QUA TRÀNG CHUỖI MAI KHÔI ( Lucia MT ) ............................................. 22TÌNH YÊU VÀ TÌNH CẢM ( Khuyết Danh ) ............................................................................................ 24MỘT TẤM LÒNG ( NVD ) ...................................................................................................................... 25MẸ CHỒNG TÔI ( Phương Lan ) .......................................................................................................... 26NHỊP CẦU BÁC ÁI PHANXICÔ VÀ QUỸ MẸ HẰNG CỨU GIÚP ( Trung Tâm Mục Vụ DCCT ) ................ 30

THEO ÁNH SAONgày nay gọi là Lễ Hiển Linh, ngày xưa gọi là

lễ Ba Vua. Thực ra không chỉ có 3 người mà nhiều người, họ không phải là những quốc vương mà là các đạo sĩ, các nhà thông thái, các chiêm tinh gia, họ từ Đông phương xa lắc xa lơ đi theo dấu Ánh Sao Lạ dẫn đường đến Bêlem để diện kiến chính Vương Nhi Giêsu và Song Thân của Ngài. Ngôi Hai đã hóa thành

2

CÙNG SUY NIỆM

Page 3: Ephata 635

nhục thể, làm người để chia ngọt sẻ bùi với thân phận con người của chúng ta. Quả thật, đó là “độc chiêu” mà Chúa dùng để tỏ mình ra cho muôn dân.

TÌM CHÚA

Thiên Chúa Cha đã hứa ban Ngôi Con từ mấy ngàn năm trước và nay đã hiện thực đúng lời hứa đó: Ngôi Hai làm người.

Chúng ta là những người nô lệ tội lỗi, nhưng “nô tì kiếp” của chúng ta được Đức Giêsu đến tháo gỡ mọi gông cùm của tội lỗi, được thừa nhận là con của Thiên Chúa, vì thế Ngôn Sứ Isaia kêu gọi: “Đứng lên, bừng sáng lên ! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi” ( Is 60, 1-2 ).

Thật hạnh phúc biết bao! Chúng ta không chỉ được giải thoát và trở nên con cái Thiên Chúa, mà chúng ta còn được Ngài quan tâm, chăm sóc và nâng niu: “Con trai từ phương xa tới, con gái được ẵm bên hông” ( Is 60, 4 ). Thế nên chúng ta không thể không vui cười hớn hở, mặt mày rạng rỡ, cõi lòng rạo rực, vui như ngày hội và vui như tết.

Hài Nhi sinh ra nơi hang chiên lừa hôi tanh trong đêm tối ở cánh đồng hoang vu Bêlem kia lại chính là Tân Vương Nhi, là Thái Tử của Thiên Hoàng. Ngài đến để giao hòa đất với trời, đồng thời cũng để “xét xử dân Ngài theo công lý, và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn” ( Tv 72, 6 ). Các vua chúa trần gian được tiền hô hậu ủng, kẻ hầu người hạ, nhưng Ông Vua Nghèo Giêsu lại đến để phục vụ chứ không được ai phục vụ, Ngài “đến không để kêu gọi người công chính mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” ( Lc 5, 32 ), Ngài “đến để tìm và cứu những gì đã mất” ( Lc 19, 9 ), và Ngài “đến để cho con người được sống dồi dào” ( Ga 10, 10 ). Cách làm của Vua Nghèo quá “ngược đời”, nhân loại không thể hiểu hết, thậm chí là không muốn hiểu ! Tại sao ? Vì Chúa biết tỏng tư tưởng chúng ta thế nào, như Ngài đã nói “toạc móng heo”: “Tư tưởng của Tôi không phải là tư tưởng của quý vị, và đường lối của quý vị không phải là đường lối của Tôi” ( Is 55, 8 ).

Thế nhưng triều đại của Vua Nghèo lại “đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn” ( Tv 72, 7 ), để rồi “mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng, muôn dân nước thảy đều phụng sự” ( Tv 72, 11 ). Ngài là Vua các vua, là Chúa các chúa, nhưng Ngài vô cùng nhân từ, Ngài luôn theo sát đồng bào, Ngài luôn tận tụy với đám dân nghèo, Ngài cương quyết bảo vệ công lý, bảo vệ sự thật. Ngài không chỉ tay năm ngón, Ngài trực ngôn và hành động để “giải thoát bần dân kêu khổ và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo. Mạng sống dân nghèo, Ngài ra tay tế độ” ( Tv 72, 12-13 ).

Các nhà hiền triết từ Đông Phương thấy Ánh Sao Lạ, họ biết có một “dị nhân” vừa xuất hiện, thế là họ không quản ngại đường xa hiểm trở, mau mắn và quyết tâm lên đường tìm cho ra “dị nhân” kia. Và ánh sao dẫn đường đã dừng lại trên một hang chiên lừa hẻo lánh bốc mùi hôi tanh.

Thấy vậy, nếu là chúng ta, chưa chắc đã bước vào, thậm chí có thể kéo nhau quay về cho nhanh, thậm chí có thể “chạy mất dép” chứ chẳng chơi đâu ! Các đạo sĩ là những người không chỉ thông thái, có học thức, mà còn giàu có nữa. Họ thấy Bé Giêsu oe oe ngọ nguậy trong máng cỏ, bên cạnh chỉ có hai Cô Chú “nhìn thấy thương”, nghèo kiết xác, và lũ chiên lừa “ngu ngơ” chẳng biết ất giáp gì, có lẽ mới đầu họ cũng “xì xầm” bàn tán với “mắt chữ O, miệng chữ A”, nhưng họ vẫn không hề thất vọng và tin thật rằng Trẻ Sơ Sinh kia là “dị nhân” mà họ muốn tìm gặp, rồi họ can đảm bước vào triều yết Hàn Vương và kính chào Hàn Phu Thê. Thật khó tin, y như cổ tích vậy. Tuy nhiên, đó lại là chuyện thật “chăm phần chăm”. Không chỉ vậy, các đạo sĩ còn dâng những lễ vật cao quý nhất mà họ đã chuẩn bị và đem theo.

Ngày nay, chúng ta được dạy cho biết đó là mầu nhiệm, không thấy cảnh Hàn Gia lúc đó nên chúng ta đã tin. Chứ nếu tận mắt chứng kiến thì chắc chúng ta không thể và không dám tin Em Bé có tên là Giêsu kia lại chính là Ngôi Hai Thiên Chúa giáng thế làm người. Vậy là chúng ta may mắn. Thánh Phaolô viết: “Về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Kitô” ( Ep 3, 2-3 ). Thật đặc biệt, vì “Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết mầu nhiệm này, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông đồ và ngôn sứ của Người” ( Ep 3, 5 ). Thánh Phaolô giải thích: “Mầu

3

Page 4: Ephata 635

nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa” ( Ep 3, 5-6 ).

Một lần nữa, chúng ta lại thật may mắn và hạnh phúc vì được “thừa kế gia nghiệp” của Thiên Chúa, nên “một thân thể” và “cùng chia sẻ” với Thiên Chúa. Vì thế, mỗi chúng ta đều phải “xắn tay áo lên và hành động”. Đó là…

VÀO ĐỜI

Chúa Giêsu là Thiên Vương, tất nhiên Đức Maria là Mẫu Hậu và Đức Thánh Giuse là Phụ Vương – dù ngài là Dưỡng Phụ. Sắp lâm bồn mà tìm không ra chỗ trọ, Chồng đành đưa Vợ ra “cánh đồng hoang”, may còn có cái hang để chui vào. Không người thân thích, không ai giúp đỡ. Chồng vất vả lo cho Vợ từ A đến Z. Chồng không hề than thở, chỉ âm thầm hành động. Vợ sinh xong, được Mẹ tròn Con vuông là mừng húm rồi. Sau đó lại được đám mục đồng ghé thăm, rồi thêm mấy đạo sĩ ghé thăm.

Cũng đỡ tủi thân và được an ủi phần nào nơi đất khách quê người. Thế nhưng chuyện đời chưa hết, bộ phim “khổ” kéo dài nhiều tập…

Thời đó là lúc vua Hêrôđê trị vì, thấy mấy nhà chiêm tinh vào hỏi thăm: “Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu ? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” ( Mt 2, 1-2 ). Nghe vậy, vua Hêrôđê tá hỏa, xay xẩm mặt mày, cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. Nhà vua sợ có kẻ nổi loạn để tiếm ngôi, ông liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: “Tại Bêlem, miền Giuđê, vì trong sách ngôn sứ, có nói về miền đất Giuđa, nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ítraen sẽ ra đời” ( Mt 2, 6 ). Thế là vua Hêrôđê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện, phái họ đi Bêlem và dặn: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy thì về báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người” ( Mt 2, 8 ).

Nghe nhà vua nói thế, họ an tâm ra đi mà không hề biết vua Hêrôđê “khẩu Phật, tâm xà”, mưu mô và thâm độc, chỉ muốn bảo vệ “cái ghế toàn năng” của mình thôi! Các đạo sĩ tiếp tục đi theo ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, dẫn đường họ đến tận nơi. Ngôi sao dừng lại, “họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là cô Maria, liền sấp mình thờ lạy Người” ( Mt 2, 11 ). Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến.

Sau khi “nựng” Bé Giêsu và trò chuyện với Song Thân của Bé, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên họ đã đi lối khác mà về xứ mình. Các đạo sĩ đã nỗ lực tìm gặp “dị nhân” Giêsu cho bằng được, gặp rồi thì họ tin, can đảm bước vào đời, họ tránh “ác nhân” Hêrôđê là cách hành động tích cực và sống tốt. Sống tốt không chỉ là “làm lành, lánh dữ” mà còn phải tích cực hành động để bảo vệ công lý cho tha nhân.

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết noi gương các đạo sĩ là miệt mài tìm Chúa và can đảm hành động. Xin “ánh sao” Ý Chúa luôn soi đường dẫn lối chúng con suốt hành trình trần thế, để chúng con thực hiện mọi sự theo đúng Tôn Ý Ngài trong từng nhịp thở. Lạy Mẹ Maria và Thánh Giuse, xin nguyện giúp cầu thay. Chúng con cầu xin nhân Danh Đấng Thiên Sai, Thiên Chúa của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

"THÁNH MARIA ĐỨC MẸ CHÚA TRỜI, CẦU CHO CHÚNG CON…"

Tám ngày sau Lễ Sinh Nhật của Đức Giêsu, Chúa chúng ta, Giáo Hội mời gọi con cái mình cử hành Lễ Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa với tất cả lòng kính trọng và biết ơn, vì nhờ Mẹ, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho chúng ta.

Đức Maria đã được các Giáo Phụ ca ngợi, đặc biệt là Thánh Ambrosio thành Milano ( thế kỷ IV ) khi nói: “Đức Maria là Đền Thờ của Thiên Chúa chứ không phải Thiên Chúa của Đền Thờ”. Thánh Ignatiô thành Antiokia ( + 110 ) là người đầu tiên nên tên Đức Maria sau các sách Tin Mừng: “Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô đã được Đức Maria cưu mang trong lòng theo nhiệm cục cứu độ” và “Đức Giêsu cũng được sinh ra bởi Đức Maria và bởi Thiên Chúa”.

4

Page 5: Ephata 635

Tại Đông phương, kể từ năm 350, người ta đã gán cho Đức Maria tước hiệu là “Mẹ Thiên Chúa”, tuyên dương Mẹ là “Mẹ của Ngôi Lời Nhập Thể”. Như Thánh Grégoire de Nazianze ( 330 – 390 ) đã viết: “Đức Kitô sinh bởi một Trinh Nữ, người nữ ấy là Mẹ Chúa Kitô”.

Khi giáo chủ Constantinople là Nestorio công khai chối bỏ thiên chức Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria, thì Công Đồng Chung Êphêsô ( 431 ) đã đuợc triệu tập và tuyên bố tín điều “Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa”. Đó là danh xưng cao trọng nhất của Đức Maria, chính phẩm chức cao cả này là nền tảng mỗi đặc ân khác dành cho Mẹ. Công Đồng Vaticanô II đã trình bày các đặc ân liên kết với phẩm chức Thiên Chúa như sau: Không có gì lạ, nếu các Giáo Phụ đã thường xưng tụng Mẹ là Đấng toàn thánh, không vương nhiễm một tội nào, như một thọ tạo mới do Chúa Thánh Thần uốn nắn và tác thành. Tràn đầy thánh thiện, có một không hai ngay từ lúc thụ thai, Đức Trinh Nữ thành Nadarét được Thiên thần vâng lệnh Chúa đến truyền tin và đã kính chào là “Đầy ơn phước” ( Lc 1, 28 ). ( GH. 59 ).

Thánh Phaolô viết: “Khi đã đến lúc thời gian đầy đủ, Thiên Chúa đã sai Con Ngài sinh hạ bởi người phụ nữ, sinh dưới chế độ Luật, để cứu chuộc những người ở dưới chế độ Luật, hầu cho chúng ta được nhận làm dưỡng tử… mà nếu là con, tất bạn cũng là người thừa kế, nhờ ơn Thiên Chúa” ( Gl 4, 4-7 ). Như thế, chúng ta dưỡng tử của Thiên Chúa và đồng thừa tự với Đức Kitô nhờ ơn Thiên Chúa. Lại nữa, Hội Thánh là Thân Thể của Chúa Kitô, Đức Maria đã là Mẹ Chúa Kitô, Đấng là Đầu của Thân Thể, thì Mẹ cũng là Mẹ của Thân Thể, Mẹ Hội Thánh, Hội Thánh được cấu thành bởi những con người chúng ta, nên Mẹ cũng là Mẹ của mỗi người chúng ta. Vì thế trong Giáo Hội, Đức Trinh Nữ Maria được kêu cầu qua các tước hiệu: trạng sư, vị bảo trợ, Đấng phù hộ và Đấng Trung gian” ( GH. 62 ).

Ngày 21.11.1964, Đức Phaolô VI long trọng tuyên bố Đức Maria Là Mẹ Hội Thánh: “Để vinh danh Đức Trinh Nữ và để chúng ta được an ủi, chúng tôi tuyên bố Rất Thánh Maria là Mẹ Hội Thánh, tức là Mẹ của toàn thể Dân Kitô Giáo, cả giáo dân lẫn mục tử, thành phần gọi Người là một Người Mẹ rất yêu dấu; và vì

thế chúng tôi truyền cho toàn thể Dân Kitô Giáo hãy dâng lên Mẹ Thiên Chúa một niềm kính tôn hơn nữa và hãy nguyện cầu cùng Người bằng tên gọi rất ngọt ngào này”. Và việc Đức Phaolô VI đã “công bố” và “truyền” làm như thế không phải chỉ bằng một văn kiện, mà là bằng lời nói sống động ngay trước mặt toàn thể hàng giáo phẩm thế giới đang tham dự Công Đồng Chung bấy giờ, thành phần đại diện cho toàn thể Dân Chúa.

Đó là những lý do Giáo Hội thúc dục con cái mình cầu nguyện với Mẹ: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử”. Như vậy, long trọng mừng Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, chúng ta hãy tỏ một niềm tin vững chắc vào vai trò của Mẹ trong chương trình cứu rỗi nhân loại. Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa vì Ngài đã sinh ra cho chúng ta Thiên Chúa cứu chuộc.

Trong ngày đầu năm mới và cũng là Ngày Quốc Tế Hòa Bình, chúng ta vui mừng cử hành lễ Đức Maria rất thánh, Mẹ Thiên Chúa. Cả hai sự kiện này cùng diễn ra khi chúng ta đang cử hành Chúa Kitô, Con Thiên Chúa, Vua Thái Bình ( Is 9, 5 ) sinh hạ bởi Đức Trinh Nữ Maria, hòa bình đích thực của chúng ta! Chúng ta mượn lời sách Dân Số mà cầu chúc cho nhau: “Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh chị em” ( x. Ds 6, 26 ). Còn món quà nào cao quí hơn là chính Con Thiên Chúa, Đấng là Hoàng Tử Bình An được Chúa Cha ban tặng cho chúng ta. Vì tình yêu Thiên Chúa đã “ban Người Con duy nhất của Ngài” cho nhân loại ( Ga 3, 16 ). Thiên Chúa đã nhận lấy dung mạo của một con người và Thiên Chúa tỏ dung mạo của Ngài trong Người Con của Đức Trinh Nữ Maria.

Thiên Chúa từ trời cao đã giáng trần và cư ngụ trong lòng Mẹ và nhập thể trong Người Con mà Mẹ đang ẵm trên tay. Mẹ bồng Hài Nhi Giêsu, con nhìn mẹ và mẹ nhìn con âu yếm. Đức Maria trong thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa, và là Mẹ chúng ta, luôn đồng hành để dẫn chúng ta về với Thiên Chúa. Bước theo Mẹ trong cuộc sống của lòng tin bằng thái độ tín thác vào Chúa, hoàn toàn vâng phục thánh ý Ngài, chúng ta sẽ được Mẹ dìu đưa đến với Chúa, đến Nước Trời. Mẹ mời gọi chúng ta mở lòng đón nhận Chúa Giêsu, cưu mang Người bằng cách lắng nghe và sống theo Lời Người, để thực sự trở nên người có phúc, người thân của Chúa như Mẹ.

Mừng Lễ Mẹ hôm nay, với trọn niềm tin tưởng, mến yêu, chúng ta hãy phó thác cho Mẹ thế giới này, đất nước ta, gia đình ta. Hãy để Mẹ hiện diện để yêu thương, chăm sóc và dẫn dắt chúng ta sống theo ý Chúa. Hãy hết lòng yêu Mẹ bằng tình con thảo hiếu !

5

Page 6: Ephata 635

Nhờ Mẹ cầu bầu, xin cho cuộc đời mỗi nguời chúng ta được đổ đầy bình an của Chúa trong năm mới này, để chúng ta cũng trở nên những người xây đắp an bình cho gia đình, cho mọi người bằng đời sống tin yêu phó thác vào Chúa và quên mình phục vụ tha nhân như Mẹ. Ước gì chúng ta không chỉ thành khẩn thưa lên với Mẹ bằng lời, mà bằng trọn cả con tim và cuộc sống chúng ta: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con, là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Amen.”

Lm. Antôn NGUYỄN VĂN ĐỘ

TAY TRẮNG LÀM NGƯỜIMột đứa trẻ ra đời là thành công của ba mẹ, vì đã đón nhận sự hiện diện của con cái trong gia

đình của mình. Và sự xuất hiện của một miệng ăn là dấu hiệu của sự lao nhọc vất vả. Những gia đình có nền kinh tế ổn định thì không có gì để nói, nhưng những gia đình khó khăn chật vật, thì đây là một vấn nạn nan giải, đau đầu không kém.

Gia đình thánh gia chắc chắn không phải là một gia đình giàu có. Vì Tin Mừng hôm nay ghi rõ Mẹ Maria đã sinh con trong máng cỏ, vì không tìm được nhà trọ: “Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ” ( Lc 2, 7 ).

Nếu có ai đó nói rằng gia đình tôi khổ, thì ở đây có thể khẳng định không ai nghèo khổ bằng gia đình thánh gia. Nhiều em bé ra đời nhưng có mấy bé phải sinh nơi chuồng lừa và đặt nơi máng cỏ như Hài Nhi Giêsu. Ngày nay, cũng có rất nhiều em bé phải sinh ra trong những nơi không an toàn nhưng không phải vì gia cảnh khó nghèo mà hơn cả là vì cha mẹ bỏ rơi chúng. Còn đáng thương hơn, có biết bao nhiêu nghìn em bé bị phá bỏ ngay cả khi chưa hình thành đầy đủ trong lòng mẹ nữa kìa.

Như vậy nghèo đói vẫn không phải là nguyên nhân chính khiến người ta từ chối mầm sống, quan trọng hơn cả chính là thái độ sống ích kỉ, hưởng thụ đã khiến nhân loại từ chối mầm sống và hủy diệt nó.

Biết rằng cuộc sống gia đình sẽ không bao giờ thiếu vắng những giây phút phải lao nhọc vất vả, khổ cực nhưng noi gương thánh gia luôn luôn tin tưởng phó thác tuyệt đối vào tình thương, quyền năng và sự quan phòng của Thiên Chúa. Đối với Thiên Chúa giàu nghèo có là chi. Tài năng giỏi giang cũng ý nghĩa gì. Ngài chỉ cần tình yêu và lòng mến đối với Thiên Chúa mà thôi. Những cái đó đều do Ngài tác tạo nên thì Ngài cần gì phải lệ thuộc vào chúng.

Do vậy, dù nghèo dù đói, dù ốm đau, bệnh tật… cho dù chúng ta là gì đi nữa, thì Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương ta. Ngài yêu ta không phải vì những cái ta đang có, mà là vì chúng ta là con của Ngài. Đơn giản có thế thôi.

Có lẽ vì nhân loại hiểu sai ý định Thiên Chúa. Có lẽ vì chúng ta nhầm lẫn mục đích của Ngài. Thế nên qua bao nhiêu ngàn năm qua rồi, con người vẫn cứ mãi lầm lũi đi vào chốn diệt vong, tranh giành chèm giết lẫn nhau chỉ vì đồng tiền tấm áo. Rồi vì thú vui nhục dục, người ta chỉ còn biết sống cho thỏa mãn đam mê mà bỏ rơi trách nhiệm đối với con cái.

Con số phá thai trên thế giới ngày càng báo động. Nhưng một điều may mắn là ai cũng hiểu rằng không phải quá nghèo khổ mà phá, nhưng sâu xa hơn vẫn là sự hưởng thụ ích kỉ. Nếu như gia đình thánh gia ngày trước cũng đầy toan tính hơn thiệt thì ngày nay làm sao nhân loại có được niềm vui cứu độ. Chính nhờ sự vâng phục, lòng can đảm của các ngài mà chúng ta hoan hỉ đón nhận ơn giáng sinh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” ( Lc 1, 14 ).

Lạy Chúa, cảm ơn Ngài đã làm người vì yêu con. Cảm ơn Ngài đã chọn cảnh nghèo mà giáng thế, nếu không con sẽ cảm thấy lạc lõng bơ vơ biết chừng nào khi thế giới con số nghèo đói không phải ít. Mỗi khi trong đời sống lao đao, vất vả, con tìm được niềm bình an trong Chúa vì biết rằng đã có Ngài cùng đồng hành sẻ chia. Là Con Một Thiên Chúa, là Ngôi Hai Thiên Chúa, là Con Đấng Tối Cao mà Ngài lại chịu sinh ra trong cảnh cơ hàn, khiến con vô cùng cảm phục và xúc động. Con có nghèo vậy hay nghèo nữa vẫn không thể như Chúa. Trong khi con là kẻ nghèo tự bản chất, còn Ngài là Đấng giàu sang phú quí, tác tạo nên cả trái đất vũ trụ mà lại cam chịu trở nên nhưng không, tay trắng làm người để đồng hành, sẻ chia kiếp người với con người. Xin giúp

6

Page 7: Ephata 635

con đừng buồn nếu đang là kẻ nghèo khó và can đảm đón nhận cảnh nghèo nếu có phải vì vinh danh Cha. Xin giúp con hiểu rằng bản chất con đã là tay trắng, vào đời dẫu có trắng tay thì Thiên Chúa vẫn luôn mãi yêu con, như thế thì còn sự giàu có nào sánh tày nữa đây.

M. HOÀNG THỊ THÙY TRANG

KỊCH BẢN DÙNG CHO DỊP LỄ HIỂN LINH

GẶP GỠ ĐỨC KITÔCÁC VAI DIỄN:

Ba nhà đạo sĩ: Có thể hóa trang theo kiểu y phục cổ xưa thời Đức Giêsu hoặc theo kiểu y phục thời hiện đại cũng được.

Đạo sĩ thứ tư: Có thể nhập vai một Tu Sĩ mặc áo dòng.

Người mù: Có thể là nam hoặc nữ ( chú ý đổi cách xưng hô trong kịch bản ) y phục của người nghèo, mắt đeo kính đen.

Người hành khất: Có thể là nam hoặc nữ ( chú ý đổi cách xưng hô trong kịch bản ) gầy gò, y phục rách rưới, nón lá tả tơi.

Người phong cùi: Nên là nam, dáng vẻ chán đời, cộc cằn, bất mãn, diễn tả bị bệnh phong cùi cho khéo để không gây cười, hoặc ghê sợ nơi khán giả, sẽ phản tác dụng.

Cô gái điếm: Y phục lòe loẹt, không đứng đắn, cử chỉ lả lơi nhưng lộ vẻ khinh bạc, bất cần đời.

Nhân viên hộ tịch: Nên là nam, dáng vẻ hách dịch, đeo kính trễ gọng, tay cầm một cuốn sổ to và một cây bút lớn.

Đức Giêsu: Vai không xuất hiện trên sân khấu, chỉ đứng sau bức màn trắng, giọng nói dõng dạc, trầm ấm, oai nghiêm và nhân hậu.

CÁC ĐẠO CỤ:

Ba gói quà gói giấy trang trọng làm lễ vật của ba đạo sĩ.

Một cây gậy, một ổ bánh mì, một cây nến to, một chiếc bình cổ thon, tất cả bỏ vào một túi xách làm hành trang cho Đạo Sĩ thứ tư.

Các đồ cần thiết cho các vai còn lại.

Một tấm màn trắng lớn căng trước hậu trường, có thể căng ngang cung thánh nếu diễn trong Nhà Thờ, phía sau màn đặt một đèn rọi ( follow ) để tạo ra bóng của vai Chúa Giêsu dang tay trên thập giá ( silhouette ).

Một đèn ngôi sao nhỏ treo trên trần sân khấu, phía trên bức màn trắng lớn.

Một máy cassette để nhạc đệm, hoặc có một người chơi đàn organ, hoặc đàn guita làm nền nhè nhẹ suốt vở diễn.

Hệ thống đèn sân khấu chỉ mở sáng ở phần mở đầu và phần kết thúc của vở kịch.

Một micro cho vai Đạo Sĩ thứ tư, một micro cho các vai còn lại và một micro cho vai Đức Giêsu sau hậu trường. Hay nhất là dùng micro sans fil để các vai dễ di chuyển và dễ diễn tả cử điệu.

XIN LƯU Ý:

Kịch bản này chúng tôi soạn theo kiểu nói và âm giọng của người miền Bắc, xin tùy nghi thay đổi khi diễn tại các vùng, các miền khác nhau. Có thể diễn vào mùa Giáng Sinh hoặc mùa Chay và mùa Phục Sinh, xin nhớ tùy hoàn cảnh để nhấn mạnh về Mầu Nhiệm Nhập Thể hoặc Mầu Nhiệm Vượt Qua. Có thể cải biên thành dạng hoạt cảnh với các vai diễn động tác cùng các giọng lồng tiếng sau hậu trường.

PHẦN MỞ:

Kính thưa cộng đoàn,

7

CÙNG CHIA SẺ

Page 8: Ephata 635

Mỗi năm vào dịp Lễ Giáng Sinh, chắc cộng đoàn đều nghe nhắc lại câu chuyện về ba ông vua cưỡi lạc đà từ phương xa đến thăm hài nhi Giêsu tại Bêlem. Theo Thánh Mátthêu, họ là các nhà chiêm tinh hoặc còn được gọi là ba nhà đạo sĩ ở phương Đông, bởi vì từ lâu, họ đã theo dõi điềm trời, và phát hiện ra một ngôi sao lạ chói ngời. Họ biết đó là dấu hiệu cho biết có một vị vua người Do Thái mới sinh ra, Người sẽ là Đấng Cứu Tinh của toàn nhân loại.

Người ta nói có 3 nhà đạo sĩ, có lẽ là vì người ta muốn chọn tượng trưng cho 3 màu da chính trên thế giới: da vàng, da trắng và da đen. Thật ra, chính xác mà nói, trong Kinh Thánh, tác giả Mátthêu chỉ ghi: “có mấy nhà đạo sĩ” chứ không hề xác định con số là 3 vị.

Riêng hôm nay, chúng tôi muốn kể cho cộng đoàn nghe một câu chuyện có tới 4 vị đạo sĩ đã tới thăm Chúa Giêsu.

Chắc cộng đoàn đang thầm bảo rằng chúng tôi lại bịa chuyện cho vui. Không, thưa cộng đoàn, câu chuyện chúng tôi sắp kể, rất có thể là câu chuyện có thật ngay trong đời sống của chúng ta, hôm nay, vào những năm cuối cùng của thế kỷ 20 này. Câu chuyện đầu đuôi như thế này. ( Tiếng nói xôn xao, các đạo sĩ xuất hiện cả 4 vị… )

CẢNH MỘT: TẠI NHÀ VỊ ĐẠO SĨ THỨ TƯ

Đạo sĩ 1: Này, anh đã biết gì chưa ?

Đạo sĩ 4: Chuyện gì vậy ?

Đạo sĩ 1: À, hóa ra anh chẳng có biết tý ty gì cả ! Cũng phải thôi, lúc nào anh cũng bận bịu công việc, nào là giới trẻ, nào là công tác xã hội, nào là tập hát ca đoàn… ôi thôi, đủ thứ chuyện ! Thế là anh quên bẵng mất rằng anh đã thỏa thuận với ba anh em chúng tôi một việc…

Đạo sĩ 4: Nhưng... chuyện gì mới được chứ ? Nói mau đi cho rồi, người ta đang bận bù đầu đủ thứ chuyện đây này !

Đạo sĩ 2: Nghe cho rõ đây ( Nhấn mạnh từng chữ ) Một tin vui trọng đại !

Đạo sĩ 4: ( Vẻ kinh ngạc... ) Một tin vui ?

Đạo sĩ 2: Đúng, một tin vui trọng đại ! Vậy chứ anh có nhớ bọn chúng mình từ lâu vẫn nghiên cứu thiên văn, đã dõi tìm các vì sao lạ để phân tích, tiên đoán vận mệnh thế giới. Mặc cho người đời chế giễu, xếp bọn mình vào loại khùng khùng hâm hẩm, ta vẫn cứ khao khát một dấu chỉ, một điềm lạ trên trời khai mở một kỷ nguyên mới, cho thế giới này vơi bớt đi những tuyệt vọng và bất hạnh… Thì đây này, chiều nay, trời mới vừa xập tối, chúng tôi đã phát hiện ra ở phương Đông một vì sao lạ tuyệt đẹp và chói lọi kỳ diệu. Tôi xem bản đồ thì chúng ta hẳn sẽ gặp được Đấng Cứu Tinh ở khu vực các nước Trung Đông như Palestin chẳng hạn. Ba anh em chúng tôi quyết định đến rủ anh, phải lên đường ngay, không thể bỏ qua cơ hội ngàn vàng này để tìm đến chiêm ngắm và thờ lạy Đấng Cứu Tinh của nhân loại. Anh còn chần chừ gì nữa mà không lên đường với chúng tôi ?

Đạo sĩ 4: Trời ơi ! Một vì sao lạ mới xuất hiện ư ? Đúng là Đấng Cứu Tinh đã ra đời rồi ! Phải đi tìm gặp Người cho bằng được chứ. Tôi vào sửa soạn ngay đây. ( Chạy vội vào trong, nhưng rồi lại quay ra ngay, dáng vẻ như chần chư đắn đo, nói với ba vị kia ) Ái chà ! Thật là rách việc ! Lát nữa tôi còn phải dạy một lớp giáo lý ở họ đạo ( Nói rõ tên một họ đạo nhỏ ) Chúa Nhật này bọn trẻ chịu phép Thêm Sức rồi.

Đạo sĩ 3: Vậy chứ anh không thể lên đường ngay với chúng tôi được sao ?

Đạo sĩ 4: Thôi, các anh cứ việc đi trước đi. Dạy giáo lý xong chiều nay là tôi đi ngay, hy vọng sẽ theo kịp các anh dọc đường.

Đạo sĩ 3: ( Nói với nhau ) Đây, các anh thấy chưa, tôi đã bảo các anh mà, đâu có sai ! Cái anh chàng này lúc nào cũng công kia việc nọ. Bận bịu như thế rồi làm sao mà có thời giờ đi tìm gặp Đấng Cứu Tinh ? Thôi chúng ta đi trước vậy ! ( Nói với Đạo sĩ thứ tư ) Này, anh đi sau thì nhớ mau mau lên đấy nhé. Chúng tôi sẽ cố đi chậm chậm một chút để đợi anh theo. À, tý nữa thì quên ! Anh có định mang quà gì dâng cho Đấng Cứu Tinh không ? Ba anh em

8

Page 9: Ephata 635

chúng tôi có mang theo Vàng, Nhũ Hương và Mộc Dược rồi, còn anh tính sao ? Gấp quá coi chừng đi tay không, kỳ lắm đấy nhé !

Đạo sĩ 4: Được rồi, được rồi, tôi sẽ nhớ mà, yên tâm đi trước đi, tôi xin hứa danh dự với các anh: dạy giáo lý xong là tôi đi ngay ! ( Ba đạo sĩ ra đi, đạo sĩ thứ tư quay qua làm như phân bua biện giải với khán giả… ).

Cộng đoàn thấy đó, Đấng Cứu Tinh đã giáng trần, chính tôi cũng đã từng ngày đêm trông ngóng tin vui trọng đại này. Vậy mà... giờ đây tôi không thể tức tốc ra đi theo các bạn tôi. Dứt khoát là tôi không thể lỗi hẹn với các học sinh giáo lý của tôi ở họ đạo. Bọn trẻ cũng đang rất cần tôi, mình là giáo lý viên mà. Kẹt quá nhỉ ! Nhưng mà... tôi tin rằng Chúa Cứu Thế sẽ không chấp nhất gì tôi về chuyện này. Người sẽ chờ đợi tôi. Thôi, tới giờ rồi, phải tới điểm dạy giáo lý không thôi trễ ! Rồi, bữa nay, tôi cũng sẽ báo cho bọn trẻ tin vui này: Đấng Cứu Tinh của toàn nhân loại đã ra đời.

( Đèn tắt, nhạc trổi lên rồi từ từ nhỏ lại... Tại lớp giáo lý, Đạo sĩ thứ 4 đọc Kinh Thánh một đoạn trong Sách Ngôn sứ Isaia cho các em nghe... Có thể cho một giọng đọc trong hậu trường thay cho vị đạo sĩ, chậm rãi dõng dạc... )

“Dân đang lần bước giữa tối tăm,đã thấy một ánh sáng huy hoàng;Đám người sống trong vùng bóng tối,nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi ( Is 9, 1 )

Này đây, người trinh nữ sẽ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Emmanuen, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta....” ( Is 7, 14 )

( Nhạc lại trổi lên rồi nhỏ dần… Đạo sĩ thứ tư trở ra, làm như vừa từ nơi dạy Giáo Lý trở về nhà… )

Đạo sĩ 4: Bây giờ thì mình đã có thể lên đường được rồi đó. Để xem mình phải mang theo những gì làm hành trang nào ? Đường xa, lại chắc chắn sẽ rất là khó đi, cần phải có một cây gậy chống này ! Một ít lương khô nữa, thôi, có ổ bánh mì này cũng được ! Thêm một cây nến cầm tay. Còn của lễ nữa chứ, đúng rồi, mẹ mình có cho mình một bình dấu thơm loại quý, mình cất nó từ lâu rồi, bây giờ sẽ dùng để kính dâng Đấng Cứu Tinh, coi như là của ít lòng nhiều. Đi thôi, quá trễ rồi ( Bước tới, ngước nhìn lên cao, làm như dõi tìm ngôi sao lạ. Nhạc nhẹ nền trổi lên một lúc... ) Ta cứ nhìn thẳng ngôi sao ở hướng đông mà đi, ba ông bạn chí cốt của mình chắc là đã đi xa lắm rồi. Chà, đường hôm nay khuya sao mà vắng vẻ quá nhỉ ? ( Mới dợm bước định đi thì chợt dừng lại lắng nghe, vẻ quan tâm thắc mắc... ) Ơ kìa, hình như có ai đang đi tới phía trước mình kìa ! ( Một người mù đang đưa hai tay về phía trước, quờ quạng bước đi về phía đạo sĩ... )

CẢNH HAI: GẶP NGƯỜI MÙ

Đạo sĩ 4: Này, anh ơi, anh đi đâu một mình giữa đêm hôm khuya khoắt như thế này ?

Người mù: Tôi... tôi cũng không biết tôi đi đâu bây giờ nữa…

Đạo sĩ 4: Hình như... anh không nhìn thấy đường thì phải ?

Người mù: Dạ, tôi bị mù từ hồi mới sinh. Rồi bố mẹ tôi lần lượt qua đời, bỏ tôi lại một mình, tứ cố vô thân, nghèo xơ nghèo xác !

Đạo sĩ 4: Rồi anh có làm nghề gì độ nhật không ?

Người mù: Tôi bán vé số ngoài bến xe thị xã.

Đạo sĩ 4: Vậy chứ anh có đủ sống không ?

Người mù: Kể ra thì cũng tạm nuôi thân. Nhưng hồi chiều này, đang lúc tôi cầm xấp vé số trên tay thì một thằng du côn nào đó đã giựt mấp của tôi, lại còn đá văng mất cây gậy của tôi nữa chứ… Tới giờ, đói quá, tôi không biết tìm cái gì mà ăn đây… Trời ơi là trời !

Đạo sĩ 4: Anh này, nói thật với anh, tôi cũng chỉ là khách đi đường thôi, tôi cũng nghèo, nhưng mà tôi cũng muốn giúp anh

9

Page 10: Ephata 635

chút đỉnh. Đây, anh cầm đỡ ít tiền làm vốn và kiếm cái gì ăn lót dạ. Mà nữa, tôi tặng anh luôn cây gậy của tôi nữa này. Kể ra thì tôi cũng cần đấy, nhưng xem ra anh còn cần nó hơn tôi nhiều.

Người mù: Ông thì ít cần tới cây gậy hơn tôi, là vì ông còn có ánh sáng. Đối với ông thì có ngày có đêm, còn với tôi thì…

Đạo sĩ 4: Phần tôi, tôi chỉ có thể cho anh được cây gậy này để dò đường mà đi, chứ làm sao tôi có thể cho anh ánh sáng ? Nhưng tôi biết có một Đấng sẽ trả lại cho anh ánh sáng đã mất, mà hơn vậy nữa, Người còn có thể chỉ cho anh một con đường nào đó để anh tìm được một chỗ nương thân trong bình an hạnh phúc.

Người mù: Ai ? Đấng đó là ai vậy ? Xin hãy cho tôi gặp Người được không ?

Đạo sĩ 4: Đấng ấy mới vừa sinh xuống cõi đời khốn cùng này của chúng ta. Người là Đấng Cứu Tinh của anh, của tôi và của mọi người chẳng trừ ai. Tôi tin điều đó, và anh, anh cũng hãy tin và đi tìm cho được gặp Người một lần thôi cũng đủ để đổi đời. Bệnh tật phần xác của anh sẽ hết và anh sẽ tìm được nơi nương thân tới trọn đời. Trên trời bây giờ hiện đang có một ngôi sao lạ, sáng rực rỡ một cách kỳ diệu, dọc đường, anh cứ nhờ người ta chỉ hướng cho, rồi cứ theo đó mà đi tìm gặp Người.

Người mù: Thật vậy sao ? Được rồi, tôi sẽ cố gắng chống cây gậy mà ông đã cho để đi tìm gặp Đấng Cứu Tinh. Cám ơn ông, ông đã đối xử quá tốt đối với tôi. Tôi hy vọng rất nhiều nơi Đấng mà ông vừa nói, vì thật tình, tôi cũng chẳng còn biết hy vọng vào ai nữa bây giờ… ( Người mù chống gậy ra đi. Nhạc trổi lên dần. Vị đạo sĩ tự thoại… )

Đạo sĩ 4: Một người mù đáng thương ! Mình đã chỉ cho anh ta một con đường mà chính mình cũng đang còn phải đi tìm. Quả thật, chỉ có Lòng Tin mới giúp được anh ta và cả mình nữa, để cố mà đi cho tới cùng. Lạy Thiên Chúa, xin Ngài hãy dẫn bước con đi. Kìa ánh sao vẫn ngời chiếu phía trời đông, mình phải tiếp tục đi thôi ( Bước đi một đoạn chầm chậm, nhạc trổi lên một lúc... Vị đạo sĩ bất chợt dừng lại, nhạc nền tắt ngang, Đạo sĩ thấy một người hành khất quỳ bên vệ đường, chìa tay cầu khẩn )

CẢNH BA: GẶP CHỊ HÀNH KHẤT

Hàng khất: Lạy ngài, xin đoái thương tôi !

Đạo sĩ 4: Tôi có thể giúp được gì cho chị ? Mà chị đừng có gọi tôi bằng ngài một cách trang trọng như vậy.

Hành khất: Không, thưa ngài, nếu tôi không lầm, ngài là một Tu Sĩ, ngài giàu lòng từ bi nhân hậu, xin hãy cho tôi chút gì để ăn. Tôi đói, tôi khát, tôi lạnh, tôi khổ quá, tôi chán sống lắm rồi…

Đạo sĩ 4: Chị ơi, tôi cảm thông thật sự với chị trong cái đói khát giá lạnh, trong cái khổ đau bế tắc của chị, bởi tôi cũng chẳng giàu có gì hơn chị. Nhưng mà thôi, để xem tôi có chút gì chia sẻ với chị không. Đây rồi, tôi có mang theo một ổ bánh mì nhỏ để ăn dọc đường, chị cầm lấy ăn đỡ nhé ! ( Người hành khất giựt mạnh lấy ổ bánh, ăn ngấu nghiến… rồi như chợt nhớ ra, chị bẻ một nửa cất vào cái túi rách đeo trên vai. Đạo sĩ thắc mắc... ) Ơ kìa, sao chị không ăn hết ổ bánh đi mà còn cất làm gì ? Chị đang đói lắm cơ mà ?!?

Hành khất: Hôm nay tôi may mắn gặp được ngài cho tôi ổ bánh, nhưng biết rồi ngày mai tôi có còn gặp được ai cho tôi như vậy nữa không, tôi phải để dành vì sợ sẽ còn nhiều lúc đói nữa chứ…

Đạo sĩ 4: Này, tôi nói chị nghe nhé, tôi biết có một Đấng có thể ban cho chị một điều còn quý giá hơn gấp bội lần cái ăn cái uống đời này nữa.

Hành khất: Đấng đó là ai vậy ? Tôi biết tìm Người ở đâu để gõ cửa để xin Người ban cho điều đó ? Mà điều đó là gì vậy, thưa ngài ?

Đạo sĩ 4: Người mà tôi vừa nói với chị là một em bé mới chào đời, nhưng rồi một mai kia, Người sẽ làm vua dân Do Thái, làm vua của muôn dân, trong đó có tôi và có chị. Người sẽ ban cho chị thứ Bánh Hằng Sống để chị sẽ không bao giờ còn phải lo đói nữa ! Kìa chị nhìn xem, đó là ánh sao sẽ dẫn chị đến gặp Đấng ấy, chắc chắn Người sẽ thết đãi chị cũng như mọi kẻ cùng khổ trên thế gian này một bữa đại tiệc. Nào, chị đã bớt đói chưa ? Hãy nghe tôi mà lên đường tìm gặp Người đi. ( Chị hành khất vội trỗi dậy ra đi... ).

10

Page 11: Ephata 635

Lạy Đấng Cứu Tinh con hằng trông đợi, giờ đây con chẳng còn gì để ăn nữa, con cũng sẽ rơi vào cảnh đói khát cùng quẫn dọc đường. Nhưng, như con đã nói với chị hành khất, con tin Ngài cũng đang chờ gặp con để ban cho con Bánh-Hằng-Sống. Thôi mình tiếp tục đi thôi, trễ lắm rồi ! ( Đạo sĩ dõi nhìn ra xa, nhạc trổi lên nhè nhẹ một lúc rồi nhỏ dần. Vị đạo sĩ lại chợt thấy có ai bên đầu cây cầu nên tiến tới hỏi thăm... Đó là một người cùi đang ngồi gục đầu tuyệt vọng... )

CẢNH BỐN: GẶP NGƯỜI PHONG CÙI

Đạo sĩ 4: Này anh ơi, tại sao giờ này mà anh lại còn ngồi đây một mình thế này ? ( Im lặng... Đạo sĩ tỏ vẻ thắc mắc, tới gần đưa tay lay nhẹ vai người lạ ) Này, anh có nghe tôi hỏi gì không ? Sao anh lại ngồi đây ?

Người cùi: Ông là ai mà hỏi tôi ? Tôi sống, tôi chết, mặc xác tôi, liên quan gì đến ông mà ông hỏi ! Tôi đợi nước thủy triều lên rồi nhảy xuống cầu tự tử có được không ?

Đạo sĩ 4: Tại sao anh lại chán đời và có ý muốn kết thúc đời mình một cách oan uổng như thế nhỉ ?

Người cùi: Oan uổng cái nỗi gì ! Còn sống nữa làm gì nữa khi thân xác tôi cùi hủi như thế này ? Ai cũng ruồng bỏ tôi, kể cả vợ con tôi. Cái xã hội lạnh lùng này không còn chấp nhận tôi nữa, họ cho rằng trời đất đã nguyền rủa tôi, đã trừng phạt tôi. Họ đối xử với tôi còn hơn là với một con chó ghẻ !

Đạo sĩ 4: Rồi anh tính dùng cái chết để chấm dứt mọi thứ đau khổ trên đời này phải không ? Nhưng theo tôi, anh còn có nhiều lý do để sống hơn là chết kiểu đó, anh có biết không ? ( Đạo sĩ lại gần lay mạnh vai người cùi ) Anh phải sống !

Người cùi: ( Cười khảy... ) Anh phải sống ! Bộ ông định đánh lừa tôi đấy hả ? Hừ ! Cái cuộc đời này là một bóng đêm tăm tối, chẳng còn chút hy vọng gì dành cho một kẻ khốn nạn như tôi...

Đạo sĩ 4: Đây ! Nếu anh cần ánh sáng, thì tôi trao cho anh ngọn đèn để đi đường của tôi. Anh thấy đó, chỉ với một chút ánh sáng nhỏ nhoi được thắp lên như thế này thôi, anh đã thấy bớt lẻ loi và u ám rồi. Anh thử nghe tôi một lần xem nào.

Người cùi: Hừ ! Một ngọn nến leo lét như thế này đâu đã là niềm hy vọng đủ cho tôi tìm lại được cuộc sống khỏe mạnh và lành lặn như ngày xưa ?

Đạo sĩ 4: Đúng, tôi không thể làm gì cho anh hơn, nhưng tôi lại có thể chỉ cho anh tìm gặp một Đấng Toàn Năng, không những Người có thể chữa lành được bệnh tật thể xác của anh mà còn tha thứ hết mọi lỗi lầm của anh bấy lâu nay, kể cả cái ý tưởng định giết đi chính mạng sống quý giá của anh. Kìa, anh hãy nhìn lên bầu trời, có một ngôi sao sáng đàng kia, đó là ngôi sao báo hiệu Đấng đó đã đến trong cuộc đời này rồi đó. Anh hãy cố gắng nghe tôi, cầm lấy ngọn nến sáng này mà lên đường tìm gặp Người, một Hài Nhi mới giáng sinh, Người sẽ giải thoát cho anh, cho chúng ta khỏi nỗi ám ảnh của sự chết. ( Người cùi ngước nhìn đăm đăm về phía ánh sao như thể bị thu hút, tay cầm nến lần bước đi… )

Lạy Đấng Cứu Tinh là niềm hy vọng của mọi người trên trần gian này, lại thêm một con người đáng thương đã nghe lời con mà hướng về Ngài. Con mong sẽ gặp được Người cùng với những con người tưởng như đã tuyệt vọng này, để cuối cùng, con và họ cũng sẽ nhận được ơn giải thoát nơi Người. ( Nhạc trổi lên nhè nhẹ... Vị đạo sĩ đứng lên, tiếp tục đi mấy bước thì gặp ngay một cô gái quần áo không đứng đắn và phấn son lòe loẹt đang tiến tới sát bên mình, mở lời với giọng thật lả lơi mời chào... )

CẢNH NĂM: GẶP CÔ GÁI ĐIẾM

Cô gái: Anh Hai ơi, anh đi đâu giữa đêm hôm khuya khoắt thế này ?

Đạo sĩ 4: ( Đạo sĩ lui lại một bước, hơi ngượng nhưng bình tĩnh ) À, tôi đã lỡ khởi hành khá trễ và tôi còn cả một lộ trình rất dài phải đi.

Cô gái: Thế... em đi chung với anh Hai một đoạn đường có được không nào ?

11

Page 12: Ephata 635

Đạo sĩ 4: Vâng, có thêm một người làm bạn đồng hành, chắc cũng vui hơn. Xin mời cô cứ tự nhiên.

Cô gái: Mà... lát nữa, chừng nào tới quán trọ dọc đường, anh Hai cũng dừng lại qua đêm với em nhé ?

Đạo sĩ 4: ( Đạo sĩ chợt hiểu ý cô gái điếm, hơi ấp úng để minh oan ) Ơ... ơ... tôi không hề có ý định như thế, cô... cô hiểu lầm tôi rồi !

Cô gái: ( Cô gái điếm lùi xa ra một bước, nhìn nhà đạo sĩ từ đầu tới chân rồi cười rũ rượi, vẻ mỉa mai khinh bỉ ) Kính thưa quý ông đáng kính, tôi xin lỗi nhé, tôi đã lầm… Một tu sĩ đạo mạo như ông vậy mà tôi lại dám quyến rũ sao chứ ? Thôi, tôi xin ông cút xéo đi chỗ khác cho chị em chúng tôi làm ăn kiếm sống ! Tôi nói thật với ông, tôi khinh bỉ tất cả cái bọn đạo đức giả như ông…

Đạo sĩ 4: Còn tôi, ngược lại, tôi không hề có ý khinh bỉ cô một chút nào cả, cô vẫn là một con người có phẩm giá !

Cô gái: Phẩm giá ? ( Cười sặc sụa… ) Phải, trước đây khi tôi còn có chút nhan sắc thì tôi cũng còn hấp dẫn lôi cuốn được quý ông đáng kính như ông, còn bây giờ thì tôi chỉ còn là một thứ đồ chơi rẻ tiền không hơn không kém. Phẩm giá ? Hừ ! Phẩm giá cái chỗ quỷ quái nào bây giờ ? Tôi thật là không còn tin nổi miệng lưỡi bọn đàn ông các ông một chút nào nữa !

Đạo sĩ 4: Vâng, phần nào đúng là như vậy. Nhưng... dù cho chị không còn tin vào bất cứ người đàn ông nào trên thế gian, kể cả tôi đi nữa, thì... vẫn còn đó một em bé trai vô tội trong trắng. Em bé ấy rồi sẽ là một người đàn ông như mọi người đàn ông, nhưng người đàn ông này sẽ trổi vượt trên tất cả, vì Người sẽ là một Vị Vua Nhân Ái, Người sẽ đón nhận chị như đón nhận một con người xứng đáng với phẩm giá cao quý, Người sẽ mang lại cho chị một cuộc sống mới, Người sẽ tha thứ hết mọi lỗi lầm sa ngã đã qua của chị.

Cô gái: ( Bỡ ngỡ lạ lùng, nhưng vẫn còn bán tín bán nghi... ) Thật vậy sao ? Nhưng tôi biết tìm cậu ấy, cái người đàn ông tuyệt vời ở đâu bây giờ ?

Đạo sĩ 4: Chị hãy cứ theo dấu ánh sao kỳ diệu trên trời đàng kia, rồi chị sẽ tìm gặp được một hài nhi mới sinh. Tôi tin chị sẽ được tất cả những gì chị mong ước.

Cô gái: Nhưng chẳng lẽ tôi lại mang cái tấm thân đã ô uế như thế này làm của lễ để triều bái một Đấng Thánh như Người ?

Đạo sĩ 4: Chỉ cần chị thật lòng sám hối và tin vào Người. Đây, tôi tặng chị chiếc bình đựng đầy dầu thơm rất quý này, để chị kính dâng Người. Thôi, chị hãy lên đường đi kẻo trễ. Chúc chị gặp được Người. ( Cô gái điếm cầm lấy chiếc bình, đi về hướng có ánh sao... Đạo sĩ nói một mình ).

Ừ, đã trễ lắm rồi, chắc ba anh bạn của mình đã đến nơi rồi không chừng, còn mình thì lại cứ mãi bận bịu, dừng lại giúp đỡ người này người kia. Biết sao hơn ? Mình đâu có thể làm khác được, đâu có thể nhắm mắt làm ngơ trước những thảm kịch cuộc đời như thế. ( Nhìn lên trời tìm ánh sao, giựt mình... )

Ơ kìa, ánh sao đã biến mất từ lâu rồi sao ? Thôi ta cứ việc theo hướng đông mà tiến, hy vọng sẽ có người chỉ giúp chỗ Chúa sinh ra cho mình ( Nhạc trổi lên. Vị đạo sĩ bước đi tiếp... Một người đi ngang qua, tay cầm cuốn sổ lớn, Đạo sĩ chặn lại hỏi thăm... )

CẢNH SÁU: GẶP NHÂN VIÊN HỘ TỊCH

Đạo sĩ 4: Ông ơi, làm ơn cho tôi hỏi thăm một chút.

Nhân viên: Ông cần gì ? Hình như ông là người ở xa mới tới thì phải ?

Đạo sĩ 4: Dạ, xin ông chỉ giúp tôi đường đến nhà một em bé mới sinh ra trong vùng này.

Nhân viên: Chà ! Ông hỏi nhằm đúng người đúng chỗ rồi đó ! Chẳng giấu gì ông, tôi là cán bộ thống kê dân số. Tất cả những kẻ chết đi hoặc mới được sinh ra đều được tôi ghi chép đầy đủ và chính xác trong cuốn sổ này. Chẳng hay đứa bé mà ông hỏi, tên là gì ? con cái nhà ai ? sinh quán tỉnh huyện thôn làng xã ấp nào ?

12

Page 13: Ephata 635

Đạo sĩ 4: Rất tiếc là tôi lại chẳng biết rõ lý lịch em bé thế nào. Tôi chỉ biết là em bé mới sinh ra, lớn lên sẽ trở thành Vua dân Do Thái và còn là Đấng Cứu Thế nữa.

Nhân viên: Cái ông này nói chuyện tếu sao chứ… Em bé đó sẽ trở thành Vua dân Do Thái hả ? Nếu vậy, chắc phải là con trai vua Hêrôđê Antipa hiện nay của nước Palestin rồi đó ? Vô lý, mà không thể nào có chuyện đó được, nếu có thì tôi phải biết chứ ! Ông lầm rồi !

Đạo sĩ 4: Không, tôi xin cam đoan, đó là Vua dân Do Thái mà ! Hơn nữa, đó còn phải là Vua của toàn nhân loại ! Ông coi kỹ lại sổ sách giúp tôi với.

Nhân viên: Ừ, thì coi lại sổ cho chắc ăn… Thật, chả có em bé nào như ông vừa nói mà lại sinh ra ở đây, trong những ngày này. Ái chà, hay là ông muốn nói tới một tên tội phạm mới bị kết án tử hình, ban nãy, nó phải vác thập giá ngang qua đây, đi về hướng ngọn đồi gọi là đồi Gôngôtha ở đằng kia kìa ! Tôi áng chừng chính là cái tên đó đó, bởi tôi thấy người ta có đồn rằng: hắn ta dám tự xưng mình tên là “Giêsu, Vua dân Do Thái”.

Đạo sĩ 4: Thôi đúng rồi ! Cám ơn ông, chắc đúng là người đó rồi ! ( Vội quay đi, rảo bước, miệng lẩm bẩm có vẻ còn bán tín bán nghi ) Giêsu, Vua dân Do Thái, Giêsu đó sao ? Một hài nhi mới sinh ra cơ mà ? Sao lại là một người đàn ông, lại còn là một người bị quân lính bắt đưa đi đóng đinh như một tử tội nữa chứ ? Giêsu, Vua dân Do Thái, có thật đúng là Ngài đó chăng ?

Nhân viên: ( Ông cán bộ về dân số lắc đầu ngao ngán... ) Trời đất ơi ! Đúng là một tên khùng ! Sao dạo này có lắm tên khùng khùng quá vậy nhỉ ? Một tên thợ mộc dám tự nhận mình là Vua dân Do Thái, rồi bây giờ lại còn thêm một anh coi bộ cũng trí thức, lại khăng khăng bảo tên thợ mộc đó là Đấng Cứu Thế nữa cơ chứ ? Thật, hết chỗ nói ! Đúng là thời buổi đảo điên có khác ! ( Anh ta nhún vai bĩu môi bỏ đi. Vị đạo sĩ tiến tới phía có bóng của Đức Giêsu dang tay trên thập giá in trên tấm màn căng ).

CẢNH CUỐI: GẶP ĐỨC GIÊSU

Đạo sĩ 4: Thưa Ngài, có thật Ngài chính là ông Giêsu, Vua dân Do Thái không ? ( Đạo sĩ tiến lại gần tấm màn có hình rọi, nhìn kỹ... ) Nhưng không thể nào được, vì ông là một người trung niên, còn tôi thì lại đang cần tìm một em bé sơ sinh, Người đó mới thực sự là Vua dân Do Thái. Chính ngôi sao lạ trời Đông đã dẫn tôi đến nơi đây cơ mà...

Đức Giêsu: Này người bạn đáng yêu, anh quên rằng đã hơn 30 năm trôi qua rồi sao ?

Đạo sĩ 4: Trời ơi ! ( đạo sĩ quay lại phía khán giả, tỏ vẻ bàng hoàng ngẩn ngơ... ) Đã hơn 30 năm tôi đi tìm Người rồi sao ? Vậy mà tôi cứ ngỡ chỉ mới hôm qua ! Vậy Hài nhi năm xưa, giờ đây chính là Ngài ư ? ( Đạo sĩ quay lại phía hình bóng Chúa, quỳ xụp xuống cầu nguyện ) Lạy Ngài, con đã đến quá trễ, xin tha thứ cho con !

Đức Giêsu: Anh không có lỗi gì cả ! Hôm nay anh đã được gặp chính tôi, nhưng tôi thì đã từng... gặp anh rất nhiều lần rồi !

Đạo sĩ 4: Thưa Ngài, thật vậy sao ? Ngài mà lại từng gặp con ở đâu đó rồi sao ?

Đức Giêsu: Tôi đói, anh đã cho tôi ăn. Tôi khát, anh đã cho tôi uống. Tôi là khách lạ, anh đã tiếp rước tôi vào nhà. Tôi mình trần, anh đã cho tôi áo mặc. Tôi ngồi tù, anh đã thăm nuôi tôi...

Đạo sĩ 4: Nhưng thưa Ngài, thiệt ra thì con cũng có đôi lần làm những việc nho nhỏ đó cho người này người nọ mà con gặp trong họ đạo hoặc con tình cờ gặp dọc đường, thế nhưng... thực sự con đã bao giờ gặp Ngài và làm cho Ngài như thế đâu ?

Đức Giêsu: Mỗi lần anh làm như thế cho một trong những người anh em đồng loại là anh đã làm cho chính tôi đó !

Anh đã chỉ đường cho một người mù đến gặp tôi, người ấy đã được tôi chữa cho sáng mắt. Và để tỏ lòng biết ơn, người ấy đã tặng tôi cây gậy làm kỷ niệm, trên đó tôi thấy có khắc tên anh...

Rồi một người hành khất tìm đến với tôi, trao cho tôi một mẩu bánh mì mà anh đã chia sẻ cho chị ấy, chính mẩu bánh nhỏ bé này tôi đã dùng trong bữa Tiệc Ly để hóa nên chính Thịt Máu của tôi đem Sự Sống vĩnh cửu cho muôn người...

13

Page 14: Ephata 635

Rồi một người phong cùi đã đến với tôi với ngọn nến sáng trong tay, và khi anh ta lành mạnh rồi, cũng chỉ có một mình anh là quay trở lại tạ ơn tôi, còn chín người bạn đồng cảnh ngộ với anh ta thì không. Anh ta đã thuật lại đầu đuôi cuộc gặp gỡ với anh trước đó...

Lại còn một chị phụ nữ đã mạnh dạn chạy vào giữa bàn tiệc của một người Pha-ri-sêu đang thết đãi tôi để quỳ xuống, khóc lóc chân thành, lại còn đổ một bình dầu thơm rồi lấy tóc mà lau chân tôi...

Tất cả những con người đáng thương ấy đều đã gặp anh và được anh giúp đỡ, được anh chỉ dẫn cho biết đường mà tìm đến gặp tôi để được đổi đời...

Đạo sĩ 4: Nhưng lạy Ngài, Ngài tốt lành và đầy quyền năng như thế, cớ sao Ngài lại bị đóng đinh như một phạm nhân nhục nhã như thế này ?

Đức Giêsu: Tôi đã đến nơi nhà của mình, nhưng người nhà lại chẳng muốn đón nhận tôi.

Đạo sĩ 4: Vậy là người ta đã nỡ vu cáo và giết chết Ngài chỉ vì Ngài đã quá đỗi yêu thương họ, vì Ngài đã muốn đem lại cho họ Sự Sống vĩnh cửu ư ? Vậy, bây giờ con còn có thể làm được gì cho Ngài đây ?

Đức Giêsu: Anh hãy quay về sống cuộc đời bình thường của mình. Tôi chỉ nhờ anh một việc, anh hãy thuật lại Tin Mừng trọng đại này cho mọi người anh gặp: đó là Đấng Cứu Thế đã giáng sinh, đã sống đời con người như mọi người, đã yêu thương hết mọi người chẳng trừ ai, Người đã chết để làm chứng về Tình Yêu, về mối tình bất diệt muôn thuở ấy, và rồi chắc chắn Người đã Phục Sinh. Nước Của Người sẽ rộng mở và các dân tộc trên toàn thế giới này sẽ biết Người và theo Người... ( Nhạc trổi lên vui tươi, hùng mạnh, vị Đạo sĩ cúi lạy Đức Giêsu rồi bước tới trước khán giả, nói dõng dạc... )

PHẦN KẾT:

Kính thưa cộng đoàn,

Vâng, chính tôi và những anh chị em tật nguyền, bất hạnh và tội lỗi, chúng tôi đã được gặp gỡ Đức Giêsu như thế đó.

Chúng tôi tin chắc rằng: chính quý ông bà anh chị em, chính các bạn trẻ cũng đã hơn một lần gặp gỡ Đức Giêsu Cứu Chúa ngay trong cuộc sống, bởi vì, chính cộng đoàn cũng đã đến quây quần nơi đây, trong ngôi Nhà Thờ thân yêu này ngày hôm nay, như là một dấu chỉ sống động của Tình Yêu Hiệp Nhất.

Vậy, xin cộng đoàn hãy cùng ngẩng cao đầu để đón lấy Ánh Sáng của Chúa Kitô Giêsu, Anh sáng ngôi sao lạ ngày Chúa giáng trần, Ánh Sáng vinh hiển ngày Chúa phục sinh và cũng sẽ là Ánh Sáng cánh chung, ngày Chúa sẽ trở lại đưa chúng ta vào Nước của Người...

( Đèn cung thánh bật sáng, người đóng vai đạo sĩ tiến ra thắp sáng ngọn nến Phục Sinh trên giá, mời cộng đoàn đứng lên hát chung bài Gặp Gỡ Đức Kitô của cha Tiến Lộc, hoặc có thể chọn hát một bài thánh ca nào khác thích hợp với cộng đoàn, miễn là có được bầu khí ấm cúng đỉnh cao của phần kết thúc. Xin lưu ý: Nên dặn cộng đoàn tránh không vỗ tay khi buổi diễn chấm dứt ).

Lm. LÊ QUANG UY, DCCTPhóng tác theo một truyện kể tôn giáo dân gian Tiểu Á

PHONG CÁCH PHANXICÔBài 29. Con đường đến với người vô thần

Phần 1. Danh Giêsu Cứu ĐộVào tháng 4.2013, cựu đại biểu Quốc Hội Nguyễn Minh Thuyết đã từng nêu ý kiến: khi bỏ cụm từ

XHCN, Việt Nam sẽ tranh thủ được cảm tình của quốc tế. http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/doi-lai-ten-nuoc-la-tro-ve-dung-ban-chat-che-do-2657655.html

14

CÙNG NHẬN ĐỊNH

Page 15: Ephata 635

Nhưng sau đó tên nước ta vẫn là CHXHCN Việt Nam và tổ quốc vẫn được cai trị bởi một đảng vô thần. Không thể tránh khỏi trong sinh hoạt hàng ngày, tại khắp nơi khắp chốn, ta vẫn luôn phải tiếp xúc với những cán bộ vô thần tại các cấp các ngành.

Tại Âu Mỹ, vô thần đã trở nên một trào lưu phổ biến. Ngay cả những người vẫn tin vào Chúa thì chỉ còn một số rất ít còn đến Nhà Thờ lãnh nhận các Bí Tích. Có kiểu vô thần cá nhân, vì thành thật với lòng mình và do chưa tìm ra một lời giải đáp thỏa đáng từ phía tôn giáo cho cuộc đời.

Mark Zuckerberg ( sinh năm 1984, hình đính kèm ), người sáng lập và chủ nhân Facebook là một người vô thần công khai. Ngày 22.9.2010, anh hiến tặng 100 triệu đôla cho Học khu công lập tại Newark, New York. Ngày 19.12.2013, anh cùng với Bill Gates và Warren Buffett ký cam kết sẽ hiến tặng từ thiện ít nhất 50% số tài sản khổng lồ lên tới hàng chục tỷ đôla của mình và kêu gọi những người giầu có khác cũng làm như vậy.

Lại có kiểu vô thần vì tìm quyền lợi riêng khi gia nhập một tập thể vô thần, do đó không thể có lập trường cá nhân. Lúc không còn ở trong tập thể đó nữa, nhất là ở tuổi xế chiều, thì nhiều người lại quay về tôn giáo. Bây giờ ta thường gặp các Tăng Ni đến tụng kinh tại các đám táng một số cán bộ đảng viên đã hưu trí.

Truyền giảng Tin Mừng cho những người vô thần vẫn là một nhiệm vụ bắt buộc đối với mọi Kitô Hữu. Điều này chỉ khả thi nếu ta có khả năng dùng ngôn ngữ của đời thường để truyền đạt Tin Mừng. Ta không thể làm được điều này nếu không chỉnh sửa lại một số thuật từ rất lạ lùng ở trong Đạo của ta.

Người có Đạo hay không đều bình đẳng. Mọi người có thể xưng hô với nhau là ông bà cô bác chú cậu dì anh chị em như mọi người Việt Nam khác. Không phàm nhân nào còn là “cha” là “đức” là “ngài” ở trên người khác. Mọi người đều là con của một Cha Chung vì Giêsu chết trên thập giá là cho tất cả mọi người. Giêsu không bao giờ kết án ai, luôn luôn tha thứ. Người cần phải được trình bầy với một khuôn mặt thiết thân và rất đáng yêu mến cho mọi người kể cả những ai vô thần. Không có sự khác biệt giữa người Do Thái và người Hy Lạp, vì tất cả đều có cùng một Chúa, là Đấng quảng đại đối với tất cả những ai kêu cầu Người ( x. Rm 10, 12 ).

Ngày 7.7.2013, nhà báo tiến sĩ Eugenio Scalfari, một người vô thần công khai, viết trên tờ báo La Repubblica có lập trường vô thần do chính ông sáng lập, thánh thức Papa Phanxicô giải thích một số điểm mấu chốt trong Kinh Thánh. Ông viết với tư cách một người vô thần nhưng lại quan tâm và ái mộ những lời dạy của Giêsu Nadarét, con của Maria và Giuse, hậu duệ của Đavít. Vấn nạn của ông Scalfari là: Nếu một người không tin mà phạm vào một điều mà Nhà Thờ gọi là “tội” thì có được Thiên Chúa của Đạo Kitô tha thứ hay không ? Đây là một câu hỏi rất hóc búa, nếu đem áp dụng ở nước ta một cách rất cụ thể có thể là: Nếu một cán bộ lợi dụng quy hoạch treo để chiếm ruộng đất của nông dân nghèo thì có được Đức Chúa tha thứ không ?

Thật bất ngờ, dù bận trăm công nghìn việc, mỗi khi đi đâu cũng có hàng ngàn người vây quanh, Papa Phanxicô vẫn đã hồi đáp cho ông Scalfari với lá thư gồm 2.500 từ được đăng trên tờ báo vô thần La Republica vào ngày thứ hai 12.8.2013.

(Trích): Tôi ( Papa Phanxicô ) không nói riêng cho những người tin mà cho tất cả mọi người ( gồm cả những người vô thần ) về một sự thật tối thượng. Sự thật đó là, theo lòng tin Kitô, tình yêu của Thiên Chúa dành cho ta được cô đọng nơi Giêsu Kitô. Sự thật đó là một mối liên hệ giữa mỗi người và Giêsu theo tầm mức đón nhận và diễn tả ra tùy theo hoàn cảnh lịch sử và văn hóa nơi đời riêng của từng cá nhân. Thiên Chúa tha thứ cho những ai sống theo lương tâm mình.

Đối với tôi, lòng tin được sinh ra từ sự gặp gỡ của cá nhân tôi với Giêsu, người đã đi vào tâm hồn tôi và ban cho tôi một ý nghĩa mới cho cuộc đời. Nhưng đồng thời, lòng tin chỉ được trở thành hiện thực nhờ cộng đoàn Kitô, trong đó tôi sống, nhờ đó tôi đón nhận Tin Mừng một cách trung thực, đó là đời sống mới phát sinh từ nguồn nước Giêsu, qua Bí Tích và tình hiệp thông huynh đệ khi phục vụ người nghèo, họ là hình ảnh trung thực nhất của Chúa. Không có Nhà Thờ thì tôi không thể gặp gỡ Giêsu, đây là một ân huệ vô cùng vĩ đại, tức là lòng tin, được gìn giữ trong những chiếc bình gốm dễ vỡ của bản tính nhân loại ( x. 2 Cr 4, 7 ).

15

Page 16: Ephata 635

Từ cảm nghiệm sống lòng tin trong Nhà Thờ, tôi cảm thấy dạn dĩ lắng nghe các chất vấn của ông ( Scalfari ) và muốn cùng với ông, tìm ra những con đường mà mà chúng ta có thể bắt đầu hành trình chung với nhau trong chốc lát.

Nhà Thờ, xin hãy tin tôi, dù cho có những trì trệ, bất trung, sai lầm và tội lỗi như đã có và vẫn còn sẽ có nơi những người con của mình, không mang một ý nghĩa và một mục đích nào khác ngoài việc sống và làm chứng cho Giêsu, Đấng được Abba sai đến để để “loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, thông báo một năm hồng ân của Chúa” ( Lc 4, 18-19 ).

Trong tình hiệp thông huynh đệ.

Phanxicô. ( Nguyên văn chỉ có ký tên trống, không kèm chức vụ hay tước hiệu. Các danh xưng ở trong đạo không có giá trị bao nhiêu đối với người vô thần, vì thế khi gặp gỡ họ nên tránh đề cập )

( Nguồn: http://www.zenit.org/en/articles/popefrancislettertothefounderoflarepubblicaitaliannewspaper )

Vì đây là lá thư gởi cho một người vô thần, được đăng trên một tờ báo vô thần cho những người vô thần đọc, nên có văn phong đời thường. Ở Phương Tây, khi rất thân thiết với nhau hoặc có sự cho phép của người trên, người ta mới có thể gọi trống tên nhau. Trong nguyên văn lá thư, Papa Phanxicô chỉ gọi một cách đơn giản và thân mật là Giêsu. Truyền giảng Tin Mừng là nói về danh Giêsu, là kể lại kinh nghiệm mà ta có về Giêsu cho người khác nghe. Các thủ lãnh Do Thái cho gọi hai ông Phêrô và Gioan vào và tuyệt đối cấm hai ông không được lên tiếng hay giảng dạy về danh Giêsu nữa. ( x. Cv 4, 18 ).

Trong tất cả các tôn giáo của thế giới, chỉ riêng có Đạo Kitô, mới đòi hỏi người tin phải coi Giáo Chủ Giêsu và Cha của Người: Thiên Chúa Cha, là đối tượng tình yêu lớn nhất của mình. Đây là giới quan trọng nhất. Giêsu đáp: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn quan trọng nhất” ( Mt 22, 37-38 ). Giêsu chất vấn Phêrô đến ba lần trước khi trao cho ông nhiệm vụ chăm sóc chiên: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh có mến Thầy hơn các anh em này không ?” Ông đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.” ( x. Ga 21, 15-19 ).

Trích những lời cuối cùng của một số vị Thánh ngay trước khi chết.

Thánh Tử Đạo Hàn Quốc Andrew Kim Taegon ( hình ): "Chính vì Người mà tôi chịu chết".

Thánh Faustina Kowalska: "Tôi chỉ biết rằng tôi yêu và được yêu. Đối với tôi, điều này đã hoàn toàn đầy đủ rổi".

Thánh Ignatius of Loyola ( lập Dòng Tên ): "Ôi Chúa của con".

Thánh Jeanne d’Arc: "Giêsu, Giêsu, Giêsu".

Thánh Kateri Tekakwitha: "Giêsu, con yêu mến Người".

Chân Phước Tử Đạo Miguel Pro, Dòng Tên, tự ý dang hai tay ra cho giống Chúa Giêsu Thập Giá ( hình ) và hô vang: "Đức Kitô là Vua".

Thánh Têphanô Tử Đạo Tiên Khởi: "Ôi Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con".

Thánh Têrêsa Calcutta: "Giêsu, con yêu mến Người. Giêsu, con yêu mến Người".

Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu: "Chúa của con. Con yêu mến Người".

Thánh Têrêsa Ávila: "Ôi Chúa và Đấng yêu mến của con, giờ mà con luôn mong đợi đã đến". ( O my Lord and my Spouse, the hour that I have longed for has come ).

Một số người có lẽ sẽ dịch Spouse ở đây là Hôn Phu hay Lang Quân. Khái niệm Đức Kitô trở thành Hôn Phu của một cá nhân không có nguồn gốc trong Tin Mừng. Hình ảnh này chỉ được Thánh Phaolô dùng để nói lên mối tương quan giữa Đức Kitô và Hội Thánh: Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh… Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh ( Ep 5, 25-32 ).

http://www.catholicvote.org/the-last-words-of-30-saints/

16

Page 17: Ephata 635

Tin Mừng luôn nói về bước đầu tiên thay đổi cuộc sống của mỗi người là gặp gỡ Giêsu như một con người bình thường.

Hôm sau, ông Gioan lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. Thấy Giêsu đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa.” Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Giêsu ( Ga 1, 35-37 ).

Rồi Anrê dẫn em mình là Simôn đến gặp Giêsu. Giêsu nhìn Simôn và nói: “Anh là Simôn, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha” ( Ga 1, 42 ).

Rồi trải qua những năm dài lặn lội đi theo Giêsu trên mọi nẻo đường, chứng kiến tận mắt các phép lạ Giêsu làm, rồi phải tan nát cõi lòng trước cuộc thương khó và tử nạn của Giêsu, khi gặp được Giêsu Phục Sinh thì Giêsu mới trở thành Chúa, mới là Đức Giêsu và Chúa Giêsu của họ. Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do Thái. Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em !” Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa ( Ga 20, 19-20 ).

Không những thế Người còn phải trở thành Thiên Chúa của họ. Rồi Người bảo Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” Tôma thưa Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !” Bản tiếng Anh có thể giúp hiểu rõ câu này hơn: Thomas answered and said to him, “My Lord and my God !”

Tiếng Việt chỉ dùng chung một chữ Chúa cho cả hai nghĩa Chúa trên trần gian ( thủ lãnh mà ta thần phục như Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn ) và Chúa trên trời ( Đấng tạo dựng nên ta và có toàn quyền trên số phận đời đời của ta ). Tiếng Anh gọi Chúa trên trần gian là Lord ( thủ lãnh ) và Chúa Trời là God. Tin Mừng được viết bằng tiếng Hy Lạp, trong đó Chúa trần gian là kurios và Chúa Trời là θεός – theos nhưng trong tiếng Hy Lạp theos không hẳn là Chúa Trời duy nhất mà có thể là bất kỳ thần linh nào.

Trong tiếng Hoa, Chúa 主 chỉ có nghĩa là thủ lãnh trần gian, Chúa Trời được gọi là 上帝 thượng đế hay thiên đế. Nhưng Thượng Đế ấy không khác bao nhiêu với một hoàng đế trần gian, không quan tâm mấy tới người trần, cũng có thiên đình với cung tần mỹ nữ, hay tổ chức yến tiệc linh đình như Hội Bàn Đào, tiên nữ nào mà lỡ làm bể chén ngọc là bị đầy ngay xuống trần gian làm người !

Mỗi người cần phải đi từ gặp gỡ Giêsu ( một con người ) đến đón nhận Người là Đức Giêsu ( Chúa trên trần gian ) và sau cùng xưng tụng Người là Chúa Giêsu ( Chúa Trời ). Đó là sự trình bầy tiệm tiến của Tin Mừng khi mặc khải về Giêsu. Danh Giêsu cô đọng tất cả đặc tính này. Kêu cầu danh Giêsu đã là đầy đủ. Sứ Thần thông báo cho ông Giuse, chồng bà Maria: “Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ.”

Nếu Giêsu thật sự là tất cả tình yêu trong ta thì ta có thể dạn dĩ gọi Người là Giêsu. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần ( Dt 4, 16 ). Mắt ta có thể hướng về Giêsu là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin cho ta ( x. Dt 12, 2 ). Tình yêu không biết đến sợ hãi; trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi ( 1Ga 4, 18 ). Ngay đến một tay đầu trộm đuôi cướp vào phút cuối cuộc đời mà cũng có thể thốt lên: “Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi !” ( Lc 23, 42 ). ( Mt 1, 21 ) Văn phong của Kinh Thánh nói như thế. Các ngôn ngữ khác trên thế giới cũng dùng như thế. Chỉ riêng có người Việt Nam mới luôn phải trịnh trọng xưng là Đức Giêsu, Đức Chúa Giêsu. Cách dịch Kinh Thánh và ngôn từ trong Đạo ở Việt Nam tuy thích hợp với truyền thống văn hóa dân tộc nhưng lại không hoàn toàn đúng với tinh thần của Tin Mừng.

Ngày nay nhiều người Việt Nam thích đọc lời nguyện vắn gọn: Giêsu, Maria, Giuse, con mến yêu, xin cứu rỗi các linh hồn. Rất may kinh này đã không được dịch là Lạy Đức Chúa Giêsu, Lạy Đức Mẹ Maria, Lạy Thánh Cả Giuse . Vì Giêsu, Maria, Giuse đã các Đấng ta yêu mến hết lòng nên ta có thể gọi thẳng tên các ngài một cách thân thương. Kinh này được Tôi tớ Chúa, nữ tu Consolata Betrone ( 1903-1946 ), Dòng Capuchin ( một nhánh của Phanxicô ), cho biết chính Chúa Giêsu đã hiện ra dạy cho chị đọc. Kinh được các Tín Hữu tại Philippines và Bồ Đào Nha đọc chung với chuỗi Mai Khôi, sau kinh Sáng Danh, cùng với Lời nguyện Fatima do chính Mẹ Maria dạy cho ba trẻ nhỏ khi hiện ra tại Fatima: Lạy Chúa

17

Page 18: Ephata 635

Giêsu, xin tha tội cho chúng con; xin cứu chúng con khỏi sa hoả ngục; xin đem các linh hồn lên thiên đàng – nhất là những linh hồn – cần đến lòng Chúa thương xót hơn.

Lạy Chúa Giêsu trong nguyên gốc tiếng Bồ Đào Nha được chính Mẹ Maria nói ra là Ó meu bom Jesus ( Ôi Giêsu nhân lành của tôi, tức là của từng cá nhân ), được dịch sang tiếng Anh là O My

Jesus ( Ôi Giêsu của con ), tiếng Pháp là O mon Jésus ( Ôi Giêsu của con ), tiếng Hoa là 吾主耶穌 wú zhǔ Yēsū ( Chúa Giêsu của con ). Trong trường hợp này cụm từ Lạy Chúa Giêsu trong tiếng Việt không toát lên được tấm thân tình của từng người với Giêsu. Hồng Y Giovanni Saldarini, Tổng Giám Mục Turin, đã khởi sự tiến trình phong Chân Phước cho chị Consolata Betrone từ năm 1995.

NGUYỄN TRUNG ( Còn tiếp phần 2 )

HÀNH HƯƠNG ĐẦU NĂM Em tôi là một cô giáo tiểu học nên cũng có một số bé đến nhà xin học thêm. Trong số những cô

cậu bé láu lỉnh nghịch ngợm này tôi đặc biệt chú ý đến một bé. Bé gái này không xinh xắn, không học giỏi, cũng không có gì nổi bật ngoại trừ việc bé sinh ra trong một gia đình Công Giáo nhưng ba mẹ hiếm khi đưa bé đi Nhà Thờ. Theo như bé kể thì dạo trước ba mẹ cũng cố gắng đưa bé đi Lễ Chúa Nhật – chỉ đưa bé đi thôi chứ ba mẹ thì không dự Lễ – nhưng khoảng một năm nay vì lo bận làm ăn nên không còn đưa bé đi nữa. Vậy là cả gia đình Công Giáo đều không ai dự Lễ Chúa Nhật cả. Và cũng theo lời kể của bé thì ba mẹ bé luôn chú ý đến vấn đề dinh dưỡng nên những bữa ăn của gia đình bé luôn đầy đủ thức ăn ngon lành, bổ dưỡng. Gia đình bé ở trọ nên chỉ "thiếu" căn nhà và "thiếu" chuyện… đi Lễ mà thôi.

Tôi không nói gì nhiều vì sợ bé "chán nghe" nên chỉ tóm tắt là: khi con cái đến thăm cha mẹ thì cha mẹ rất vui, Thiên Chúa cũng như cha mẹ mình vậy, khi chúng ta đến thăm Thiên Chúa để bày tỏ lòng hiếu thảo của mình thì Ngài cũng rất vui. Cứ như vậy, mỗi lần trò chuyện với bé, tôi lại khuyên bảo một chút với vài thí dụ cho bé dễ hiểu, tôi lại có ý định đưa bé đi dự Thánh Lễ một lần, vì như bé nói, đã lâu rồi bé không được đến Nhà Thờ. Phải làm sao để ba mẹ bé đồng ý cho bé đi và chính bản thân bé cũng thích đi nữa. Trong lúc đang suy nghĩ chưa biết sẽ đưa bé đi dự Lễ ở đâu thì trí óc tôi mơ màng trở về thời thơ ấu…

Dạo đó tuổi thơ của tôi may mắn được sống dưới thời được thật sự tự do và hạnh phúc. Lúc đó nhà tôi ở phía ngã tư Bảy Hiền, Sàigòn, khá xa Thủ Đức nhưng ba má tôi hay đưa mấy chị em tôi đi Hành Hương Đức Mẹ Fatima Bình Triệu, Thủ Đức, và chuyến Hành Hương nào cũng kết hợp với một buổi picnic thật vui vẻ và tràn đầy hạnh phúc.

Gia đình tôi luôn đi vào buổi sáng, và khi đến nơi thì vào viếng Mẹ ngay. Ba tôi thì thường im lặng, cầu nguyện một mình. Má tôi hướng dẫn mấy chị em tôi đọc vài bài kinh chung để cầu nguyện cho gia đình. Cầu xin cho ba má luôn khỏe mạnh, cầu cho mấy chị em biết vâng lời ba má, ngoan ngoãn và chăm học. Cầu xin Thiên Chúa và Đức Mẹ chúc lành cho gia đình. Sau khi dặn chị em tôi không được nói chuyện, làm ồn trong trong Nhà Thờ, má tôi ngồi một mình chiêm niệm, cầu nguyện tiếp.

Chị em tôi bắt đầu nhìn ngắm tượng Đức Mẹ, nhìn ngắm bàn thờ và nhìn ngắm chung quanh. Mặc dù thường được đi Hành Hương Viếng Mẹ Fatima nhưng lần nào chị em tôi cũng nhìn ngắm toàn cảnh Nhà Thờ không chán mắt. Có nhiều gia đình cũng từ nơi xa đến viếng Mẹ như gia đình tôi. Trên gương mặt mọi người tràn đầy vẻ tin tưởng, rạng rỡ, hân hoan.

Sau khi đọc kinh, cầu nguyện khoảng gần một tiếng đồng hồ trong Nhà Thờ xong, gia đình tôi đi "thăm" các nhà sách đạo ở quanh đó. Các tượng ảnh Chúa và Đức Mẹ cũng như các chuỗi hạt được bày bán rất nhiều và đẹp. Chị em tôi được tha hồ xem no con mắt và đi mỏi cả chân. Rồi chúng tôi lại vào viếng Mẹ lần hai. Lần này khoảng ba mươi phút. Rồi gia đình tôi đi dạo một vòng xung quanh Nhà

18

CÙNG BỘC BẠCH

Page 19: Ephata 635

Thờ. Chị em tôi bắt đầu chạy tung tăng trong tiếng la ơi ới của ba má tôi phía đằng sau. Sau khi tóm được đứa em út của tôi, má tôi trải tấm bạt trên sân hướng ra phía sông và gia đình tôi quây quần dùng bữa trưa. Bữa picnic của gia đình tôi khi thì là bánh mì patê, thịt, khi là bánh mì bơ, phômai, khi thì bánh mì kẹp lạp xưởng… và má tôi luôn kèm theo một mớ dưa leo, củ sắn đã gọt vỏ và cắt sẵn từng miếng.

Cũng có những gia đình khác trải bạt để ngồi dùng bữa ăn trưa như gia đình tôi. Tất cả dùng bữa trong quang cảnh mây trời lồng lộng, sông nước mênh mông, thật thú vị ! Tiếng trò chuyện nho nhỏ của người lớn, tiếng cười, tiếng khóc, tiếng la hét của mấy em bé tạo thành những âm thanh vui tai, hạnh phúc của một Đại Gia Đình. Vâng, Đại Gia Đình Công Giáo chúng con đến viếng Mẹ. Tất cả lũ chúng con đều là con chiên của Chúa, đều ở trong một đàn chiên do Chúa dẫn dắt…

Vậy là ý định đưa cô bé học trò đi hành hương Đức Mẹ Fatima Bình Triệu nảy sinh trong đầu tôi từ đó. Ba má bé Hạnh – tên cô bé – đều vui lòng cho đi và cô trò chúng tôi khởi hành vào sáng ngày đầu năm mới dương lịch 2014, ngày mồng một tháng một, Lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Chúng tôi phải đi ba chuyến xe buýt mới đến được Trung Tâm Hành Hương Bình Triệu.

Nhà Thờ đang sửa chữa chưa xong nên chỉ để một phần gần cung thánh cho Giáo Dân có thể đến kính viếng và cầu nguyện. Một hang đá rất đẹp mừng Chúa Giáng Sinh cũng được làm gần đó. Cô trò tôi quỳ ở hàng ghế gần cung thánh và tôi chỉ bảo cho bé Hạnh cách cầu nguyện và suy niệm, đặc biệt là cầu nguyện cho ba má bé đừng bỏ Lễ Chúa Nhật nữa. Trên vách trong Nhà Thờ có nhiều bảng Ta Ơn Mẹ, Hạnh hỏi về ý nghĩa của những bảng Tạ Ơn này. Cái gì đối với Hạnh cũng lạ lẫm và tôi phải luôn giải thích cho bé hiểu. Tôi chợt buồn khi nghĩ về sự khô khan nguội lạnh của ba mẹ bé Hạnh, lẽ ra ba mẹ bé phải là người giải đáp những thắc mắc này cho bé và phải giải đáp từ lâu rồi chứ không phải để đến tuổi này - mười tuổi rồi – mà vẫn không biết bảng Tạ Ơn để làm gì.

"Cô ơi ! Gió mát quá cô ơi ! Sông rộng quá cô ơi ! Có mấy cái ghe kìa cô !" Hạnh reo lên khi chúng tôi ra đến bờ sông, cô bé thích thú ngắm nhìn những xà lan chở cát nặng nề, những ghe đò chở người ngang qua… Gió lồng lộng, thổi bay tung tóc của chúng tôi. Tôi chụp cho Hạnh vài tấm hình ở hang đá trong Nhà Thờ và vài tấm nơi tượng Đức Mẹ để kỷ niệm. Thật tiếc là hôm nay không có Thánh Lễ ! Tôi cứ tưởng hôm nay là Lễ Mẹ Thiên Chúa thế nào cũng có Thánh Lễ dành cho khách hành hương. Có lẽ cha Sở lo là đã có Lễ trọng ở

các nơi, sẽ không có đông người dự Lễ buổi sáng ở đây chăng ?

Xin trích đoạn truyện về Đức Mẹ Fatima Bình Triệu Sàigòn trong quyển Kinh Mai Khôi – 100 truyện tích Chuỗi Hạt Mai Khôi của ông Thomas Trần Khắc Khoan – được phép Imprimatur của Đức Cha Dominic Mai Thanh Lương, Giám Mục Phụ Tá Giáo Phận Orange, Hoa Kỳ, để kết thúc bài này.

“Tương truyền vào thời kỳ chiến tranh giữa hai bên Quốc Gia và Cộng Sản, ( xin lược bớt một câu ngắn… ). Để tránh bom đạn, nhiều ghe thuyền đã phải di tản ra vùng ngoại ô theo sông Bình Lợi. Trong lúc chạy loạn, nhiều ghe thuyền bị bắn chìm, nhiều người bị thương tích trầm trọng. Thêm vào đó ban đêm tối trời lại xảy ra giông tố, bão táp, nước sông dâng cao cuồn cuộn chảy xiết, làm cho ghe thuyền tròng trành sắp đổ. Trong lúc hoảng loạn, họ đã phải tìm cách ẩn nấp vào một bãi đất trống sình lầy để họp nhau cầu nguyện, lần chuỗi Mai Khôi, xin Đức Mẹ rủ lòng thương cho tai qua nạn khỏi. Ngay khi ấy, Đức Mẹ hiện ra với Giáo Dân, mang hình Đức Mẹ Fatima, yên ủi mọi người và hứa Mẹ sẽ cứu thoát Giáo Dân qua khỏi tai nạn, ngay trên bãi đất mà họ đang tụ tập cầu nguyện bằng Chuỗi Hạt Mai Khôi. Tức thì sóng yên gió lặng, mọi người được đi về bằng an.

Để cảm tạ Đức Mẹ, một đài kỷ niệm với một tượng Đức Mẹ Fatima cao 3m đã được dựng lên ngay trên bãi đất mà chính Đức Mẹ đã hiện ra năm xưa. Càng ngày càng nhiều phái đoàn hành hương đổ dồn về đây kính viếng Đức Mẹ và cầu nguyện. Nơi đây, Đức Mẹ đã làm nhiều phép lạ ban ơn cho những ai đến kính viếng và cầu khẩn Thánh Danh Mẹ với tước hiệu Fatima.

Và để thỏa mãn nhu cầu thiêng liêng của Giáo Dân, Tòa Tổng Giám Mục Sàigòn đã cho thiết kế xây dựng một trung tâm hành hương vĩ đại, bao bọc Thánh tượng Đức Mẹ Fatima mà ngày nay người ta gọi là Trung Tâm Hành Hương Fatima Bình Triệu, nổi tiếng khắp vùng Đông Nam Á. Ở đây cứ mỗi ngày 13 hàng tháng, người ta lũ lượt từ khắp nơi đổ dồn về Trung Tâm Hành Hương này để cầu khẩn, đọc kinh lần chuỗi Mai Khôi kính Đức Mẹ.

Tượng Đức Mẹ rực sáng với chuỗi hạt Mai Khôi trong tay như đang nhắn nhủ con cái xa gần: Hãy năng lần hạt Mai Khôi kính Đức Mẹ và cầu khẩn thì Mẹ sẽ ban cho tất cả được như ý."

19

Page 20: Ephata 635

VIỆT QUỐC

HẠNH PHÚC BỊ TỪ BỎ9 giờ 30 tối, tôi rời khuôn viên Nhà Thờ trong khi vẫn còn đông người đang cầu nguyện trước

hang đá Đức Mẹ. Đầu tôi nặng trĩu, tim tôi thắt lại, chân tôi bước mà không biết đi đâu nữa. Tôi đang muốn chạy trốn khỏi Nhà Thờ để khỏi nghe lời giảng của cha như đâm vào tim tôi đau xé, nhưng làm sao chạy trốn được... chính tôi ?

Tối nay, tôi nhớ mồn một những năm xa xưa ấy, những năm tôi đã nhúng tay vào tội ác mà trái tim không hề rung động, còn nếu có thì chắc chỉ thoáng qua trong một vài tích tắc mà thôi.

Ngày ấy tôi còn rất trẻ, sống bồng bột, kết hôn vội vàng và có đứa con đầu lòng rất sớm.

Chưa kịp chuẩn bị để làm mẹ, tôi thấy ngán ngẩm cảnh có con mà chỉ một mình nuôi con. Chồng tôi cùng một tuổi, cái tuổi “ăn chưa no lo chưa tới”, suốt ngày cứ đàn đúm bạn bè, nhậu nhẹt, chẳng thiết gì đến vợ con, lại còn đang ăn bám cha mẹ. Con gái tôi vừa đúng thôi nôi thì trời ơi, cả gia tài của tôi ( chỉ gồm những món nữ trang ngày cưới ) cũng theo nhau từ từ bay mất. Giận chồng không biết lo cho vợ con, tôi bồng con về nhà ngoại, kiếm việc làm để nuôi con.

Giá cứ như thế luôn thì tôi đã đỡ khổ ! Chẳng ngờ, chưa được bao lâu, anh ấy qua nhà tôi thề sống thề chết, năn nỉ cha mẹ tôi cho rước vợ con về. Nhưng rồi chứng nào tật nấy, càng ngày anh càng hư đốn. Lại một lần nữa, tôi ôm con trở về nhà cha mẹ ruột sau khi để lại lá đơn ly hôn với chồng tôi.

Một hôm đang làm việc, tôi cảm thấy chóng mặt, đi khám bệnh mới được bác sĩ cho hay là tôi đã có thai. Nghe như sét đánh ngang tai, tôi thẫn thờ như người mất hồn, không biết tính cách nào đây, nếu sinh thêm một đứa nữa thì đồng lương của tôi không sao lo nổi. Chẳng lẽ tôi lại mang thêm gánh nặng về cho cha mẹ ? Ông bà đã khổ vì tôi quá nhiều rồi. Chợt nhớ có cô bạn học đang làm nữ hộ sinh một bệnh viện phụ sản lớn, tôi đến thăm dò ý kiến. Đã quá quen với cảnh nạo hút thai hằng ngày, bạn tôi khuyên nên “điều hoà kinh nguyệt” ngay, sẽ không đau đâu, vì thai của tôi hãy còn nhỏ, còn hơn phải dây dưa với ông chồng vô trách nhiệm suốt đời.

Về nhà, tôi nằm liệt không dám cho ai biết. Nhìn con ngon giấc tôi ôm nó mà khóc. Thức trắng một đêm, sáng dậy tôi cáo bệnh nghỉ làm. Đưa con đến nhà trẻ xong, tôi đi lang thang trong công viên chỉ mong được yên tĩnh để suy nghĩ sáng suốt. Thả mình xuống chiếc ghế đá, tôi nhìn chung quanh thấy có nhiều cặp tình nhân đang tâm sự, chỉ có mình tôi là lạc loài.

Đầu óc tôi rối beng, cứ nghĩ tới cảnh phải tiếp tục sống với anh chồng mà ngao ngán. Nhưng còn những đứa con tôi… hay là tôi thử tha thứ cho anh ta lần nữa để những đứa con của mình được có bố có mẹ đầy đủ… Hết giải pháp này đến giải pháp khác, cách nào cũng không ổn, tôi lê bước chân vô hồn chẳng biết đi đâu.

Trên chiếc ghế đá nọ, đôi tình nhân vội quay mặt đi khi tôi vừa đến gần. Chuyện đó cũng là thường tình thôi, tôi bước qua họ nhưng chợt nghe bên tai có tiếng đàn ông sao quen quá. Tôi quay lại và kịp nhận ra đó chính là... chồng mình, còn cô gái nọ là người yêu cũ của anh ấy. Sững sờ và đau đớn, chân tôi như bị chôn xuống đất, toàn thân toát mồ hôi lạnh.

Không nhớ mình đứng như thế bao lâu nữa, chỉ nhớ sau đó tôi đã chạy, chạy đến lúc té quỵ xuống là hết ! Rồi phải một hồi lâu, nghe chung quanh có tiếng nhiều người lao xao, tôi lơ mơ mở mắt ra và thấy những bộ đồng phục màu trắng. Họ là những y tá, bác sĩ đang lo cấp cứu cho tôi. Thấy tôi đã tỉnh hẳn, bác sĩ cho biết là tôi bị động thai, cần phải dưỡng thì mới giữ được.

Đang cơn chán ngán và gần như bất lực trước những đòn roi tới tấp của nghịch cảnh, tôi buột miệng nói không suy nghĩ: “Xin bác sĩ lấy cái thai ra dùm tôi !” Thoáng chút ngạc nhiên, bác sĩ hỏi lại tôi một lần nữa, nhưng tôi vẫn cương quyết phá bỏ. Sau đó tôi được đưa sang phòng nghỉ, tiếp nước biển cho khoẻ để chờ sẽ hút thai vì lúc đó huyết áp của tôi đang tụt rất thấp.

Tinh thần hoảng loạn, bên cạnh chẳng có ai thân thích, tôi đành phải gọi cô bạn học nhờ trợ giúp. Cô ấy đến gởi gấm tôi cho bác sĩ và an ủi, xoa dịu tôi nhưng vẫn không làm tôi bớt sợ hãi.

Thế rồi chuyện gì đến phải đến. Trèo lên chiếc giường nạo thai, ý muốn leo xuống cứ trở đi trở lại trong tôi nhưng không còn kịp nữa, bác sĩ

20

Page 21: Ephata 635

đã chuẩn bị đầy đủ dụng cụ cả rồi. Ông bảo tôi hãy nhắm mắt lại, thở đều và... sẽ nhanh thôi, không đau đâu. Nhưng chiếc que nạo inox cứ xoáy vào bên trong người tôi, tôi thét lên từng cơn “Đau ! Đau quá !” Mà nào người ta có chịu buông tha, người ta mặc kệ, cứ “vừa đánh vừa xoa” cho đến lúc cả cơ thể và tâm trí tôi rã rời thì hoàn tất.

Con tôi, trời ơi còn đâu ! Người ta đã xé nát thịt da con rồi ! Mẹ là người mẹ khốn nạn nhất trần đời. Con ơi ! Con ơi !

Sau trận ấy tôi suy kiệt cả tinh thần lẫn thể chất. Mẹ tôi vẫn túc trực bên giường bệnh, trong khi bà còn phải lo cho con gái nhỏ của tôi. Con tôi ngây thơ quá, nó cứ chạy đến ôm hôn tôi mà không biết gì về nỗi mất mát vừa xảy đến. Tôi xấu hổ thấy mình không xứng đáng làm mẹ nó nữa.

Ngày qua ngày, bé con đầu lòng của tôi lớn dần lên, nó đã đi học, vết thương trong lòng tôi cũng nguôi ngoai. Tôi sống khép kín, chỉ biết lao đầu vào công việc, các bạn nữ đồng nghiệp gọi tôi là “bà cụ non”, còn nam đồng nghiệp nhiều người cũng thích làm quen với tôi nhưng chỉ vài câu xã giao là họ đã thấy chán ngắt, hoặc có người đeo đuổi dai dẳng hơn thì rồi cũng đành bỏ cuộc khi đụng phải cái “mu rùa biết đi”.

Tôi dành hết thời giờ cho con, vui mừng vì nó rất ngoan và học giỏi…

Từ ngày tôi được ơn trở lại Đạo cho đến nay, được thấm nhuần Giáo Lý của Thiên Chúa là Tình Yêu, và khi yêu là người ta yêu đến cùng, dù có phải hy sinh mạng sống cho người mình yêu. Tôi đã đi xưng tội và dành hết thời giờ rảnh rỗi giúp bất kỳ một ai khốn khổ mà tôi biết. Tôi đã từng theo nhóm Bảo Vệ Sự Sống vào tận các bệnh viện phụ sản lớn nhỏ để khuyên can các cô gái lỡ lầm khỏi sa vào cảnh nạo phá thai, góp phần vào việc giúp các em làm lại cuộc đời, nuôi con…

Thế nhưng, chưa bao giờ lương tâm tôi lại ray rứt và bị v xé như tối nay. Trong Thánh Lễ, cha giảng đã nói đến thảm kịch phá thai hiện nay. Nghe những lời cảnh báo và kêu gọi hãy bảo vệ lấy Sự Sống là Quà Tặng vô giá của Thiên Chúa đã trao cho con người, tất cả trong tôi bừng tỉnh mọi ký ức tưởng đã chôn vùi sâu kín. Phải chăng tôi vẫn canh cánh bên lòng một món nợ không nguôi. Tôi nợ con tôi sự sống ư ? Hay tôi nợ Thiên Chúa một lần yêu ? Hay tôi nợ đời tôi một hạnh phúc ? Hạnh phúc Chúa ban đến đã bị tôi từ khước và gạt bỏ không thương tiếc.

“Bà… ba… bum… bum…”, tiếng bập bẹ của thằng Cu Tý làm tôi chợt tỉnh. Nó nhào tới ôm cứng lấy tôi và tì cái miệng bé xíu hôn lên khắp mặt tôi. Chao ôi ! Cháu ngoại tôi ! Cưng quá ! Căn nhà tôi lại vang tiếng cười của trẻ thơ sau bao năm vắng lặng. Mẹ nó đi làm suốt ngày gởi con cho tôi chăm sóc, ba nó lại còn ở phương xa, nhưng nó ngây thơ chẳng biết buồn. Đối với nó, tôi vừa là bố vừa là mẹ. Nó cứ bấu lấy tôi, tiếng bập bẹ đầu tiên của nó là “ba… bà” khiến tôi sướng run người.

Bây giờ hạnh phúc của tôi là nó. Tôi đau khi nó khóc và tôi khóc khi nó đau. Niềm hạnh phúc nhỏ bé lại trở về với tôi. Chắc chắn, Chúa nhân hậu từ bi và hay thương xót, Ngài không còn giận tôi nữa, Ngài đã tha thứ cho tôi từ lâu rồi. Còn con, con có tha cho mẹ không ?

Giờ con đang ở đâu ? Linh hồn con chơi vơi ở chốn nào ? Mẹ chỉ còn biết ăn năn sám hối và cầu nguyện. Nếu Chúa cho mẹ biết con đang ở đâu và bắt mẹ phải chịu những hình phạt nào để chuộc con về trong Vườn Chúa, mẹ cũng vui lòng nhận lãnh. Nhưng chính mẹ sao cứ phải chịu một hình phạt nặng nề là suốt đời cứ mang trong lòng một tội ác, một Món Nợ Tình Yêu không bao giờ trả được ?

Chắc là tôi đã khóc nên có chút nước gì đó mằn mặn ở môi. Tôi thấy Cu Tý mở to mắt nhìn tôi ngơ ngác, rồi nó mếu máo theo tôi. Ôm khuôn mặt thiên thần của nó trong đôi tay, tôi cứ tưởng tượng ra hình dáng đứa con mà tôi không bao giờ được thấy. Tôi khóc trong vui sướng.

Ôi Chúa ơi ! Tình Yêu Ngài thật lớn lao, con sẽ không bao giờ dám phí phạm nữa.

Và trong sâu thẳm, tôi được ơn Chúa cho cảm nhận được rằng con tôi nó đã tha thứ cho mẹ nó. Linh hồn nó chắc là vẫn hiện hữu thật gần gũi bên tôi dù tôi xác tín Chúa đã đón nó về Nhà Chúa ngay từ dạo ấy. Còn phần tôi, Món Nợ Tình Yêu tôi sẽ phải trang trải với cuộc đời không biết đến bao giờ mới thôi chẳng còn vấn vương ?

VTKT, Sàigòn

TRÊN CON ĐƯỜNG VỀ QUÊ"Trên con đường về quê mà có bóng Mẹ, con vững một niềm tin, vững niềm cậy trông. Trên

con đường về quê mà có bóng Mẹ, con vững một niềm tin, tiến lên bình an…"

Chẳng biết bài thánh ca Trên Con Đường Về Quê cải biên, qua giọng ca đầm ấm, chân tình và thành kính của ca sĩ Nguyễn Hồng Ân, có được cố nhạc sĩ Nguyễn Khắc Xuyên ( 1923-2005 ) chấp

21

CÙNG HIỆP THÔNG

Page 22: Ephata 635

thuận hay chưa ? Nhưng có lẽ thính giả đều chẳng ai phàn nàn về chuyện lời nhạc đã sửa khác đi. Thay vì “Trên con đường về quê mà vắng bóng Mẹ, trên con đường về quê mà vắng bóng Mẹ, con biết cậy vào ai, biết nương nhờ ai ?” vừa chưa đúng tín lý, vừa sơ sót, đã được cải lại thành: “Trên con đường về quê mà có bóng Mẹ…”

Từ thể phủ định, nghi vấn trở thành thể khẳng định, xác tín, ai cũng cảm nhận được niềm tin tích cực hơn, nồng nàn hơn và cậy trông, phó thác hơn vào Mẹ.

Khẳng định cũng là một phương pháp tự kỷ ám thị, tin tưởng và hân hoan, dễ dàng phấn đấu, tiến thân trên đường thành công trong đời, mặc bao gian khó, trở ngại và hiểm nguy. Vậy áp dụng phác đồ điều trị tâm lý phục vụ tâm linh, chẳng hề sai trái, hay phù phiếm, mê tín dị đoan, mà trái lại còn hữu ích và đáng khuyến khích áp dụng.

Sự thật, niềm tin vào Mẹ đã được khẳng định qua hơn 20 thế kỷ. Biết bao người đã và đang chạỵ đến cùng Mẹ, đã không phải thất vọng ra về. Ở những linh địa Lourdes ( Lộ Đức ), Fatima, La Salette, Mễ Du ( Medjugorja ), hay La Vang, Trà Kiệu, Tà Pao, Bến Tre, Măng Đen,… chẳng bao giờ thiếu vắng người đến xin khẩn cầu Mẹ, không phân biệt tôn giáo, giàu nghèo hay sang hèn.

Đường xa vắng sao, sương mờ, đường xa thăm thẳm khuất bóng quê, con bâng khuâng đưa mắt trông tìm đây đó, có ai bạn đường cùng đi khỏi lo. Mẹ ơi bóng đêm rợn rùng, vực sâu đang gầm dưới lá rung, con lao đao sắp ngã trên đường nguy khố, đoái thương con cùng, Mẹ Đấng Chí Tôn.

Bơ vơ, cô đơn, lạc lõng, lo sợ, khiếp đảm giữa chốn ba đào, nhiều khi tín hữu cảm thấy bị bỏ rơi, bị chạm trán sự dữ, bị cạm bẫy đón chờ, thế mà chẳng có ai đồng hành, an ủi, cứu giúp ! Thân nhân đâu rồi ? Bạn bè, người thương, kẻ mến đâu cả rồi ? Không còn ai nương tựa. Chẳng một lời đáp lại. Chỉ còn biết kêu xin Mẹ và Con Mẹ đoái thương cứu vớt.

Mẹ Maria ân tình, Mẹ như ánh trăng chiếu bóng đêm, con lo chi vấp ngã khi Mẹ dìu dắt chúng con trên đường dù muôn khó nguy. Mẹ ơi hãy đưa con về, về quê dấu yêu, chốn ước mơ, con tin yêu dõi mắt theo Mẹ nhân ái, hãy thương con cùng, Mẹ Chúa Chí Nhân.

Mẹ tỏa sáng hơn ánh trăng rằm, đến nắm tay tín hữu, ân cần dìu qua thung lũng đầy nước mắt. Con há sợ chi nữa, khi được Mẹ đồng hành trên đường về quê Trời. Kính dâng lên Mẹ những đoa hồng đủ sắc màu. Cầu xin Mẹ luôn hiện diện cùng con trong lời nguyện cầu với Thiên Chúa, luôn phù hộ con đến với tha nhân, cũng như chăm sóc con luôn vững Tin Cậy Mến trong từng giây phút hiện tại.

"Trên con đường về quê mà có bóng Mẹ, con vững một niềm tin, vững niềm cậy trông. Trên con đường về quê mà có bóng Mẹ, con vững một niềm tin, tiến lên bình an…"

Hòa vào những hợp âm sâu lắng, nhẹ nhàng, du dương, kết hợp kỹ thuật phối khí nhuần nhuyễn của nhạc sĩ Minh Thụy, nhóm bè Tú Uyên – Cadillac cất lên điệp khúc thật da diết, thành khẩn, kết thúc lời cầu nguyện thiết tha khẩn cầu. Xin hiệp thông cùng…

AM. TRẦN BÌNH AN

PHÉP LẠ CỦA MẸ MARIA QUA TRÀNG CHUỖI MAI KHÔI Sau đây là chuyện của đứa con hoang đàng mà Mẹ Maria tìm được và đưa nó trở về bên

lòng Thiên Chúa nhân từ. Mẹ đã "trói" nó lại bằng giây xích tình yêu để nó không bao giờ xa lìa Thiên Chúa nữa. "Giây xích" ấy được Mẹ kết bằng những đóa hồng Mai Khôi.

Tôi được sinh ra trong một gia đình Công Giáo và được cha mẹ cho đi học trường các Dì Phước. Dạo ấy, tôi vẫn còn nhỏ lắm nên chưa ý thức được thế nào là giữ đạo. Chỉ đi Lễ Chúa Nhật và các ngày lễ buộc vì cha mẹ bắt phải đi và vì sợ mắc tội trọng.

Tôi tiếp tục sống cuộc sống như thế sau khi rời khỏi Việt Nam. Thời gian trôi qua, với những thú vui, những quyến rũ của thế gian đã dần dần kéo tôi xa Chúa. Thánh Lễ Chúa Nhật đối với tôi lúc ấy như là một

22

CÙNG LÀM CHỨNG

Page 23: Ephata 635

cái gì dư thừa và vô ích; vui thì đi Nhà Thờ, buồn thì tôi ở nhà hoặc đi chơi với bạn bè. Những ý thức về tội cũng dần dần biến đi. Tôi thanh thản kéo dài cuộc sống trong tăm tối như thế cho đến một ngày...

Mẹ Maria vẫn hằng theo dõi bước chân tôi trên mọi nẻo đường tôi đi để đưa tôi trở về cùng Chúa mà tôi nào có hay ! Ngày nọ, vào khoảng năm 1993, anh tôi đến thăm vợ chồng tôi, và trước khi ra về, anh ấy hỏi chúng tôi có biết lần hạt Mai Khôi không. Tôi nói rằng lần chuỗi thì biết nhưng không biết suy gẫm các Mầu Nhiệm. Mấy ngày sau anh tôi trở lại và cho chúng tôi mượn quyển sách có tựa đề là "Bí Mật Kinh Mai Khôi" của Thánh Louis-Marie de Montfort. Tôi nhận lấy vì sợ nếu tôi từ chối sẽ làm anh tôi buồn. Trong lòng thì chẳng thiết tha đọc thứ sách mà tôi cho là chán nhất, vì tôi chỉ đọc tiểu thuyết mà thôi.

Một ngày kia, vợ chồng tôi rủ nhau đi bơi, vì không có sách nào khác để mang theo đọc nên đành lấy theo cuốn sách Bí Mật Kinh Mai Khôi.

Thấy những phép lạ Mẹ Maria làm qua Kinh Mai Khôi, chúng tôi nói với nhau rằng: "Mình đọc thử Kinh Mai Khôi xem sao". Động từ "đọc thử" bao gồm ý nghĩa rằng tôi không tin và còn muốn thử thách Mẹ Maria nữa. Vậy mà Mẹ không quở phạt và như là âu yếm tươi cười thách đố vợ chồng tôi: "Thì hai con cứ thử đọc kinh Mai Khôi đi..."

Sau tám tháng trời lần hạt Mai Khôi, ban đầu chỉ một chuỗi một ngày, nhưng thật là nhạt nhẽo và nặng nề, lại còn thêm chia trí, nhưng chúng tôi vẫn kiên trì, hình như là do lòng tò mò thúc đẩy. Thế rồi 2 chuỗi, 3 chuỗi một ngày, cho đến lúc việc lần hạt Mai Khôi giống như là cơm bánh hằng ngày, không có thì thấy thiếu thốn điều gì đấy.

Cuộc đời chúng tôi dần dần thay đổi, những thú vui trần thế mà lâu nay tôi cho là niềm hạnh phúc thì giờ đây lại trở thành hư vô. Nào là những buổi tối đi xem phim, những buổi họp bạn, ca hát Karaoke thâu đêm... Tất cả giờ đây đều làm tôi chán ngán, tôi thầm nghĩ sao hồi đó mình ngu thế không biết, những thứ đó có gì đâu mà vui, khiến cho mình phải tốn thì giờ, tốn tiền và tổn hại sức khỏe. Và đó là phép lạ mà Mẹ Maria đã làm cho linh hồn tôi.

Nhưng Mẹ lại còn củng cố Đức Tin của tôi bằng một phép lạ bên ngoài. Ngày nọ, đang lúc ngủ mê, tôi bỗng giựt mình thức giấc vì một mùi thơm nồng nàn của hoa hồng loan ra khắp cả phòng tôi. Nửa mê nửa tỉnh, tôi ngỡ rằng có lẽ tôi làm rơi chai dầu thơm hoa hồng chăng, nhưng nào có phải, tôi đâu bao giờ xài dầu thơm hoa hồng !

Mùi hoa hồng là sự hiện diện của chính Mẹ Maria, mùi thơm của hoa hồng trên Thiên Quốc chứ không phải của thế gian này, và rồi chuỗi Mai Khôi của tôi cũng thơm, cả năm trời như thế.

Tôi vui mừng lắm vì hiểu rằng có lẽ Mẹ thật vui lòng vì thấy tôi trở về cùng Chúa. Dần dần Mẹ dẫn tôi đến Chúa. Lúc nào Mẹ cũng thế, không bao giờ Mẹ giữ điều gì cho riêng mình, mục đích của Mẹ vẫn là Chúa Giêsu. Mẹ dẫn tôi đến Nhà Thờ, nơi mà tôi đã xa cách từ lâu lắm rồi. Bắt đầu bằng Thánh Lễ Chúa Nhật, dĩ nhiên là Mẹ dẫn tôi đến Toà Giải Tội trước tiên. Tôi còn nhớ, chưa bao giờ tôi xưng tội tha thiết như vậy, nước mắt cứ lăn dài trên má. Hết Thánh Lễ Chúa Nhật rồi thì Thánh Lễ Thứ Bảy, cứ thế mà tiếp tục, cho đến bây giờ thì vợ chồng tôi khao khát Chúa Giêsu Thánh Thể đến nỗi không bỏ một Thánh Lễ nào, kể cả những ngày trong tuần.

Một đêm nọ tôi nằm mơ thấy Mẹ Mai Khôi, tay cầm tràng hạt như trong những bức tượng mà tôi thường thấy qua, tôi thấy cả chính tôi trong giấc mơ, đang cầm sợi giây roi và quất vào một cái gì đó. Mẹ nói với tôi: "Mỗi một kinh Kính Mừng con đọc trong tràng hạt Mai Khôi là mỗi lằn roi đòn con quất Satan đó".

Có những đêm thức trắng, ngồi bên bàn thờ nhỏ trong phòng, tôi chẳng cầu nguyện được gì, nhưng chỉ biết khóc, cho đến lúc mặt trời mọc. Những giọt lệ ăn năn sao mà ngọt ngào quá ! Nó là những thuốc thơm xoa dịu những vết thương trên thân thể Chúa tôi. Phải, những roi đòn, mão gai và đinh sắt vẫn còn in sâu trên mình Chúa bởi những tội lỗi tôi đã phạm... Và Chúa đã nhận lấy những giọt nước mắt thống hối này. Ngài đã tỏ ra bằng một mùi thơm trầm hương pha lẫn hoa huệ, toả ra từ bàn thờ. Mùa hương đó thật nồng nàn, và được tái diễn cả tháng này qua tháng nọ; mỗi khi tôi lần hạt Mai Khôi và tâm sự với Chúa, ngay cả những lúc tôi ngủ say, y như Chúa nói với tôi: "Cha luôn ở bên con, đừng lìa xa Cha nữa".

Chúa ôi, con cảm tạ Chúa đã nhẫn nại chờ đợi con quay trở về cùng Chúa mà không để con chết trong lúc linh hồn còn đắm chìm trong bóng đêm tội lỗi.

Lạy Mẹ Maria, không có Mẹ thì con sẽ ra sao ? Vì con thật sự chẳng đáng được Chúa thứ tha, chỉ đáng bị luận phạt mà thôi.

23

Page 24: Ephata 635

Bạn đọc thân mến, những dòng chữ này được viết bằng nước mắt của một linh hồn thống hối ăn năn. Tôi khóc vì tội lỗi mình gây bao nhiêu đau đớn cho Chúa và Mẹ Maria, tôi còn khóc vì cảm nghiệm thế nào là Lòng Thương Xót vô bến bờ của Chúa dành cho linh hồn tôi nói riêng, và Lòng Thương Xót đó còn trải dài và tuôn đổ xuống mỗi linh hồn chúng ta. Hãy trở về ! Hãy trở về cùng Cha nhân từ, Ngài đang mỏi mắt trông chờ chúng ta từng phút từng giây.

Còn một điều tôi muốn tỏ cùng bạn đọc. Trong thời gian tôi lần hạt Mai Khôi và được Mẹ ban ơn trở về cùng Chúa, Satan rất tức giận, hắn ta tung ra những mánh lới xảo quyệt hòng làm cho vợ chồng tôi hoảng sợ mà bỏ không lần hạt nữa. Rất nhiều hiện tượng xảy ra nhưng vì để tránh dài dòng nên tôi không viết ra chi tiết. Chỉ xin bạn đọc đặt câu hỏi: "Vì sao hắn ta lại làm như thế ?"

Cũng chỉ vì Kinh Mai Khôi đã phá tan mưu chước của nó, và giật khỏi tay nó biết bao nhiêu là linh hồn ! Nhưng đừng sợ, đã có Mẹ Maria là sức mạnh của chúng ta, hãy "trở nên những gót chân của Mẹ để đạp đầu Satan" ( lời Mẹ nói với cha Stephano Gobbi, Phong Trào Linh Mục Đức Mẹ ).

Hỡi những linh hồn đau khổ, cô đơn, không tìm được hạnh phúc của cuộc đời và không định được hướng đi. Bạn đừng chán nản, hãy đến bên Mẹ Maria bằng việc lần hạt Mai Khôi. Mẹ sẽ ban cho bạn hạnh phúc tuyệt hảo là chính Chúa Giêsu, con Chí Thánh của Mẹ. Chúa Giêsu sẽ lấp đầy khoảng trống trong tâm hồn bạn bằng chính Ngài. Rồi đây bạn sẽ chẳng còn mơ ước gì nữa, ngoài việc yêu mến Chúa và Mẹ Maria và làm cho các Ngài được mến yêu.

Hỡi những linh hồn thánh thiện, bạn có muốn làm vui lòng Chúa Giêsu không ? Còn gì làm vui lòng Chúa hơn là khi Chúa thấy người Mẹ dấu yêu của Chúa được các con cái yêu mến và cậy tin !

Vậy hãy sùng kính Mẹ Maria hơn nữa, hãy nghe lời Mẹ dạy trong những lần Mẹ hiện ra đây đó trên khắp thế giới: "Các con hãy lần hạt Mai Khôi". Tôi xin bạn đừng xem thường việc lần hạt Mai Khôi và cho rằng đó là những lời kinh vô nghĩa, mất thì giờ. Kinh Mai Khôi là khí giới của bạn đấy ! Cha Thánh Pio Năm Dấu khi đau đớn trên giường, gọi một thầy đến và nói: "Hãy đưa cho tôi khí giới của tôi". Vật gì mà ngài gọi là khí giới của ngài ? Đó là xâu chuỗi đó các bạn.

Hãy yêu mến Mẹ đi, Mẹ sẽ làm bạn nên Thánh như Mẹ đã từng làm cho các Thánh khi các ngài còn trên dương thế. Mẹ sẽ dẫn chúng ta đến tận Thánh Tâm Chúa Giêsu bằng con đường tắt, vừa ngắn gọn, vừa êm ái.

Tôi xin chấm dứt bài viết này bằng lời nguyện mà Chúa đã dạy tôi trong một giấc mơ: "Lạy Chúa, con ví mình như cánh lục bình kia, còn Chúa là giòng sông. Lục bình không thể nào sống tách rời con nước kia được. Dù bao nhiêu bão táp, cuối cùng rồi Chúa cũng đưa con về đến bến bình yên".

Lạy Mẹ Maria, con nguyện đền đáp ơn Mẹ bằng cách khuyến khích mọi người con quen biết lần hạt Mai Khôi và nhất là yêu mến Mẹ, sẵn sàng tận hiến cho Trái Tim Vẹn Sạch Mẹ, để Mẹ dạy dỗ chúng con luôn sống sao đẹp lòng Chúa, và cuối cùng được hưởng phúc Thiên Đàng, là nơi Chúa dọn sẵn chỗ chờ đợi mỗi người chúng con. Xin cho con nguyện "lấy tình đáp tình", Mẹ nhé.

Lucia MT, Canada, từ thanhlinh.net

TÌNH YÊU VÀ TÌNH CẢM1. Tình yêu thì trường tồn và mãnh liệt.

Tình cảm thì chóng đến và cũng chóng đi.

2. Tình yêu thì sâu sắc và tỏa lan mạnh mẽ.Tình cảm thì mờ nhạt và co cụm.

3. Tình yêu làm muôn người hiệp thông.Tình cảm chia người ta thành từng cụm nhỏ yếu ớt và đầy bao thứ bất ổn.

4. Tình yêu dắt người ta đi suốt cuộc đời.Tình cảm chỉ dẫn người ta đi hết một ngày với biết bao sự mệt mỏi và buồn phiền.

5. Tình yêu là cội nguồn và là tất cả.Tình cảm là mớ dây nhợ lùng nhùng, rắc rối.

6. Tình yêu là lối mở cho mọi con đường và là kim chỉ nam của cuộc sống.Tình cảm đôi khi che khuất mất tình yêu và làm cho người ta lạc hướng, đi lung tung.

7. Tình yêu trọn vẹn chính bản chất của nó, và đó là Thiên Chúa.

24

CÙNG NGHIỆM SINH

Page 25: Ephata 635

Tình cảm hoàn toàn không phải là một mức độ của tình yêu, hay là một sự mở đầu dẫn vào tình yêu. Tình cảm là một khái niệm hoàn toàn phân biệt với tình yêu.

8. Tình yêu luôn luôn muốn hiến dâng.Tình cảm luôn luôn muốn chiếm hữu cho riêng mình,

chẳng muốn buông tay ra để người kia sống cuộc sống của riêng họ.

9. Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa và nhất mực quy hướng về Thiên Chúa.Tình cảm chỉ đi xung quanh cái vòng lẩn quẩn do chính mình tạo ra.

Ôi ! Tình yêu và tình cảm !

KHUYẾT DANH

MỘT TẤM LÒNGThời buổi này còn cái gì là không hạ

giá nhỉ ? Sách vở, quần áo, đồ điện tử v.v... hạ giá ! Tôi cầm mảnh bằng đại học cạ cục mãi chưa tìm ra việc làm, cũng nhào ra vỉa hè bán sách đại hạ giá. Từ Victor Hugo, Leon Tolstoy, Rabindranath Tagore, Dostoievski... đến Khái Hưng, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng... cả thảy đều bị “hạ” nằm la liệt. Lắm lúc ngồi chồm hổm nhìn xuống các tên tuổi từng “vang bóng một thời”, tôi thầm hỏi: “Nên cười hay nên khóc, thưa chư liệt vị ?”

Cách đây ít lâu, một ông lão hình dáng tiều tụy mang đến bán hai pho sách dày. Một cuốn là “Hán Việt Từ Ðiển” của Ðào Duy Anh do Khai Trí tái bản. Cuốn kia là “Petit Larousse Illustré” in tại Paris năm 1973. Sách còn tinh tươm lắm, hẳn chủ nhân đã xài rất kỹ. Thấy giá rẻ, tôi mua. Loại ấn bản này đây, gặp loại khách biên biết, bán cũng được lời.

Ngoài bìa và một số trang ruột của mỗi cuốn, đều có ấn dấu son hình ellipse: “Bibliothèque – Ðô Bi – Professeur”. À, té ra ông lão vốn từng là giáo chức. Thảo nào! Cất tiền vào ví rồi, mà ông cứ dùng dằng nuối tiếc, ngoảnh lại nhìn những tài liệu – tài sản phải đứt ruột bán đi. Ngoái mãi mấy lần rồi, ông mới dắt chiếc xe đạp cà tàng đạp về. Mắt ông đỏ hoe. Lòng tôi chợt se lại !

Chiều 25 Tết. Ngồi cạnh các danh tác, tôi vẫn lim dim, thấp thỏm, chồm hổm ra đấy. Qua đường không ai thấy, lá vàng rơi trên giấy. Sàigòn chả có mưa bụi cho đủ khổ thơ Vũ Ðình Liên. Nhưng bụi đường thì tha hồ, đủ khổ thứ dân lê lết vệ đường như tôi.

- Anh mua bánh bò, bánh tiêu ?

Một chị hàng rong đến mời. Tôi lắc đầu. Bỗng chị sững người, chăm chú nhìn vào hai bộ từ điển. Chị ngồi thụp xuống, đặt sề bánh bên cạnh, cầm hết cuốn này đến cuốn kia lật lật. Rồi chị hỏi giá cả hai. Ngần ngừ lúc lâu, chị nói:

- Anh có bán... trả góp không ?

- Trời đất ơi ! Người ta bán trả góp đủ thứ, chứ sách vở, sách đại hạ giá ai đời bán trả góp ? Vả lại, tôi nào biết chị là ai, ở đâu ?

- Tôi cần mua cả hai – chị nói tiếp – xin anh giữ, đừng bán cho người khác. Khi nào góp đủ, tôi sẽ lấy trọn. Anh thông cảm làm ơn giúp tôi.

Thấy lạ, tôi hỏi chuyện mới vỡ lẽ. Ðô Bi chính là thầy cũ của chị hàng rong. Chị Tám, tên chị, bất ngờ thấy có dấu son quen, hiểu ra hoàn cảnh của thầy, bèn nảy ý chuộc lại cho người, mình từng thọ ơn giáo dục. Song, bán bánh bò bánh tiêu nào được bao nhiêu, lại còn nuôi con nhỏ, không đủ tiền mua một lần nên chị xin trả góp.

Tôi cảm động quá, trao ngay hai bộ từ điển cho chị Tám:

- Chị hãy cầm lấy, kịp làm quà Tết cho thầy. Tôi cũng xin lại đúng số vốn mà thôi, chị à.

- Nhưng...

- Ðừng ngại, chị trả góp dần sau này cũng được.

25

CÙNG TRÂN TRỌNG

Page 26: Ephata 635

Chị lấy làm mừng rỡ, cuống quít trả tôi một ít tiền :

- Chao ôi, quý hóa quá ! Cảm ơn... cảm ơn... anh nhá !

Mai lại, chị Tám trả góp tiếp. Chị kể:

- Thầy bi thảm lắm... Gần Tết, cô lại ngã bệnh... Thầy nhận sách, mừng mừng tủi tủi tội ghê, anh à!... Thầy cũ trò xưa khóc, khóc mãi!

Tôi vụt muốn nhảy cỡn lên và thét to: “Hỡi ông Victor, ông Lev, ông Dostoievski... ơi ! Ông Khái, ông Vũ, ông Ngô... ơi ! Có những thứ không bao giờ hạ giá được! Có những người bình thường, vô danh tiểu tốt, nhưng có những kiệt tác không hạ giá nổi, đó là: Tấm lòng”.

NVD. http://dantri.com.vn

MẸ CHỒNG TÔITôi sanh con đầu lòng được hai tháng thì chồng tôi báo tin mẹ chàng ở Việt Nam sắp qua đoàn

tụ với chàng. Bình vui mừng nói: "Thật là đúng lúc, mẹ sẽ trông con cho em đi làm."

Tôi giật mình lo sợ, biến cố này tôi chưa bao giờ nghĩ tới, mặc dù trước khi cưới, Bình có cho biết chàng đang làm thủ tục đón mẹ chàng qua. Bình và tôi lấy nhau đã bốn năm rồi, tôi chỉ biết về mẹ chồng qua những tấm hình và qua lời kể của Bình. Bà Thân, mẹ chàng là một thiếu phụ quê mùa, hiền lành, không may goá chồng từ năm chưa tới ba mươi tuổi, bà ở vậy, cực nhọc nuôi hai con ăn học nên người. Bình được đi du học bên Mỹ từ năm mười tám tuổi và ở lại luôn, sau biến cố 1975. Cô Thu, em Bình, năm nay hai mươi ba tuổi, trước đây vẫn ở với mẹ, nhưng cô mới lấy chồng là một Việt kiều, và theo chồng về Mỹ từ năm ngoái, ở khác tiểu bang với chúng tôi.

"Không thể để mẹ ở một mình." Bình nói: "Cả đời mẹ hy sinh cho các con, khi về già ai nỡ để mẹ sống trong cô đơn. Trước đây mẹ ờ với cô Thu, anh yên tâm, nhưng Thu đi lấy chồng, bây giờ mẹ có một mình. Chúng ta sẽ đón mẹ về ở chung, em nhé ?"

Tôi chưa kịp trả lời, dường như Bình đọc được vẻ lo ngại trên nét mặt tôi, nên vội vã trấn an: "Đừng sợ, mẹ anh hiền lành, dễ tính lắm. Bà rất thương anh, tất nhiên cũng sẽ thương em, nhất là em vừa sanh cho bà đứa cháu đích tôn nối dòng."

Tôi sanh ra và lớn lên trên nước Mỹ, nên chưa có khái niệm về những cảnh mẹ chồng, nàng dâu trong những gia đình Việt Nam cổ xưa, nghe thấy thế thì cũng xiêu lòng. Qua phút bối rối lúc đầu, tôi dễ dàng chấp nhận ngay, thầm nghĩ sẽ an tâm biết bao nếu bé Danny được bà nội trông nom trong lúc Bình và tôi phải đi làm.

Luơng kỹ sư điện toán của Bình chỉ đủ trả tiền nhà, và tiền mua trả góp hai cái xe, mọi thứ chi tiêu khác đều trông vào đồng lương của tôi, hai vợ chồng cùng chung sức gây dựng một gia đình ấm no, hạnh phúc. Tôi yêu Bình và chưa bao giờ làm trái ý chàng, lần này cũng vậy, thông cảm hoàn cảnh mẹ goá, con côi của Bình, tôi vui vẻ sửa soạn nhà cửa đón mẹ chồng. Chúng tôi quyết định sẽ dành cho bà căn phòng ở tầng dưới, có cửa sổ trông ra vuờn có nhiều cây to có bóng mát.

"Còn nhiều đất trống, mẹ có thể trồng rau nếu mẹ muốn." Tôi nói với Bình: "Em mồ côi mẹ từ nhỏ nên rất thèm tình mẫu tử, mẹ anh cũng như mẹ em." Tôi nói rất thật lòng, Bình nhìn tôi bằng cặp mắt vô cùng thương yêu: "Cám ơn em, mẹ anh chắc vui lắm có cô con dâu hiền hậu, biết điều như em."

Nhưng thực tế không đúng như ý chúng tôi mong muốn, mẹ chồng tôi hiền lành, nhưng quen sống theo xưa, và nhất định không chịu thay đổi những thói quen cố hữu. Bất chấp phong tục của dân bản xứ, mẹ chồng tôi thản nhiên mặc quần áo ngủ nhàu nhè đi ra đường, hoặc đánh bộ áo cánh, quần đen, chân đi đôi guốc mộc, loẹt quẹt đi dạo phố trước những cái nhìn khó chịu của người địa phương. Tôi cắt nghĩa mãi, nhưng bà vẫn bướng bỉnh: "Mặc kệ tôi ! việc gì phải bắt chước Mỹ ? Tôi bận đồ tây không quen, vướng víu, khó chịu lắm." Bà xầm mặt tỏ vẻ bất bình: "Chị không phải dạy khôn tôi, ăn bận miễn sao kín đáo là được rồi, đàn bà Mỹ để hở ngực, lòi rốn ra mới đáng nói chớ."

26

Page 27: Ephata 635

Thấy không khí căng thẳng, Bình kéo vội tôi ra chỗ khác, thì thầm: "Phận làm dâu không nên bắt bẻ mẹ chồng. Mẹ đã quen ăn mặc như thế rồi, bắt bà phải thay đổi liền không được đâu. Cứ để từ từ, lâu dần rồi bà cũng sẽ nhận ra."

Mẹ chồng tôi không nói gì nữa, nhưng từ đó bà cố tránh không đi ra ngoài một mình với tôi. Cuộc sống của vợ chồng tôi đang yên vui, bắt đầu xáo trộn. Thường ngày, ăn cơm xong, Bình vẫn phụ với tôi rửa chén. Hai vợ chồng cùng đi làm vất vả như nhau, nên công việc nhà chia đều, tôi đi chợ nấu ăn, lau chùi nhà cửa, chàng rửa chén, hút bụi, giặt quần áo… Nhưng bây giờ khác, mẹ chồng tôi tỏ ra khó chịu, khi thấy con trai phải làm những công việc mà bà cho rằng, chỉ dành cho đàn bà. Bà không nói tôi, nhưng mắng con trai: "Hồi ở với mẹ, có bao giờ anh phải làm gì động đến móng tay đâu? Bây giờ bị vợ bắt rửa bát, lau nhà, trông hèn cả người đi."

Bình cười vui với mẹ, nhưng vẫn bênh vực tôi: "Xưa khác, ngày xưa người vợ được ở nhà, nên mới có nhiều thì giờ lo việc nội trợ. Bây giờ phụ nữ cũng phải ra ngoài xã hội bon chen với đời, vất vả ngang với chồng, về đến nhà còn chợ búa, nấu ăn, dọn dẹp nhà cửa, chăm sóc con cái… Bao nhiêu là việc, một mình cô ấy làm đâu có xuể, nên công việc cần phải chia đều."

Mẹ chồng tôi nói dỗi: "Anh lúc nào chẳng bênh vợ. Thôi, nếu anh sợ chị ấy mệt thì để tôi làm." Và bà làm thật, vừa làm vừa dằn hắt, khua bàn, kéo ghế rầm rầm. Tôi sợ quá, vội vã nói: "Để đó con làm, mẹ đi nghỉ đi."

Thế là tôi phải kiêm thêm nhiệm vụ mới. Thôi cũng được, tôi ráng cực nhọc thêm một chút để Bình có thì giờ nghỉ ngơi, dạo này chàng hơi bị xuống cân, có lẽ đêm không ngủ được vì con khóc. Nhưng mẹ chồng lại nghĩ khác, bà thường nhìn tôi bằng cặp mắt xoi mói, và nói bóng gió xa gần đến cái chuyện “tốt mái hại trống” con dâu bắt thằng bé phục vụ quá nhiều. Tôi vừa xấu hổ, vừa tức giận nên cấm Bình chuyện gối chăn. Mặc chàng cực lực phản đối, tôi ôm chăn gối sang phòng khác, nhất định ngủ riêng, khiến Bình phải theo năn nỉ gãy lưỡi. Mẹ chồng biết được, tha hồ lườm nguýt: "Cái thằng ngu, đội vợ lên đầu. Mẹ đẻ ra mày nói chẳng nghe, con đó mới ho lên vài tiếng thì đã sợ rúm !"

Không dám đối đáp với mẹ chồng, tôi trút tất cả sự giận dữ lên Bình, chàng cắn răng chịu đựng không dám than một tiếng. Thấy tội nghiệp, tôi thôi không cằn nhằn nữa, nhưng trong bụng ấm ức, không vui...

Ngày giỗ cha chồng tôi, cô Thu từ tiểu bang Georgia qua chơi, mẹ chồng tôi ngỏ ý muốn nhờ sư sãi tụng kinh cầu siêu cho người quá cố. Bình lái xe đưa cả nhà đi chùa, lúc về, cô Thu đòi ghé tiệm chuyên bán đồ phụ nữ để mua một đôi giầy. Cô ở chơi ba ngày rồi mới về, ngay tối hôm đó, Bình gọi tôi vào phòng rìêng, hầm hầm nói: "Em ăn ở với mẹ chồng ra sao để anh phải xấu hổ với cô Thu ?"

Tôi giật mình: "Anh nói cho rõ trắng đen ! Em đã làm điều gì không phải ?"

Không nói không rằng, Bình quăng hộp giầy xuống đất, hằn học: "Một đôi giầy đáng giá bao nhiêu mà em hà tiện không sắm cho mẹ, để mẹ phải mang đôi dép cũ ? Hôm đi chùa về, cô Thu đã phải ghé tiệm mua cho mẹ một đôi giầy mới, thay cho đôi dép nhựa rẻ tiền. Em làm anh nhục quá !"

Tôi há miệng không nói được lời nào, hai hàng nước mắt chảy dài. Mẹ chồng tôi nghe lớn tiếng nên chạy vào can, khi hiểu đầu đuôi câu chuyện, bà mỉm cười nói với Bình: "Không phải như con nghĩ đâu. Vào chùa thì phải bỏ dép, mẹ sợ người ta lấy cắp, nên đi đôi dép cũ, có mất cũng chẳng tiếc."

Thì ra mẹ chồng tôi tưởng như hồi còn ở Việt Nam, bị mất trộm cả từng đôi dép. Hiểu ra, Bình vội vàng xin lỗi, nhưng tôi làm mặt lạnh, không thèm trả lời, Bình tự ái nên cũng không năn nỉ thêm. Cuộc chiến tranh lạnh kéo dài cả mấy tuần, hình như đã có một đám mây mù che phủ hạnh phúc của hai vợ chồng.

Trước đây, sau mỗi lần cãi nhau, Bình thường làm lành bằng cách bế bổng tôi lên, ôm thật chặt, chọc cho tôi cười, và phủ kín mặt tôi bằng những cái hôn nóng bỏng. Bây giờ thì không còn nữa, trừ phòng riêng, chúng tôi đâu còn nơi chốn nào để mà riêng tư ?

Trước đây, sau bữa ăn, tôi thích được mặc quần áo ngủ mỏng manh, nằm gối đầu lên đùi chàng để xem TV. Bây giờ thì không dám, trước mặt mẹ chồng phải ngồi ngay ngắn, ăn mặc phải kín đáo, hở hang một chút bị coi là suồng sã. Muốn hôn nhau cũng phải mắt trước, mắt sau, cứ như là đi ăn trộm sợ bị bắt gặp, âu yếm công khai trước mặt mẹ chồng là vô lễ… Chao ôi là khó thở ! Còn đâu những ngày trẻ trung vui vẻ như xưa ?

Những ngày cuối tuần, hai vợ chồng thường chở nhau đi xem xinê hay đi picnic ở vùng quê, hít thở không khí trong lành, bù lại suốt tuần làm việc mệt nhọc. Bây giờ thứ bảy phải đưa mẹ đi lễ chùa, đi thăm bà con, hay đi bác sĩ, chủ nhật phải đưa bà đi chợ…

Mẹ chồng chê tôi nấu ăn nhạt nhẽo, bà muốn tự nấu lấy những món ăn khoái khẩu để tẩm bổ cho cậu con cưng. Phải công nhận mẹ chồng tôi nấu ăn rất ngon, nhưng bà hay cho cả vốc bột ngọt, và mỡ màng thì nhiều vô kể. Kết quả là chồng tôi lên cân vù vù, máu, mỡ cũng lên vù vù, bác sĩ phải lên tiếng cảnh

27

Page 28: Ephata 635

cáo. Bình giải thích mãi bà mới chịu hiểu, từ đó bà giao công việc bếp núc lại cho tôi. Ở không mãi cũng chán, bà muốn đảm nhận việc coi cháu, bà cưng thằng cháu đích tôn như cưng trứng mỏng, tôi cũng mừng.

Danny được sáu tháng, tôi đi làm trở lại. Danny đã quen với bà nội, hai bà cháu quyến luyến nhau lắm, hai vợ chồng tôi đi làm đều yên tâm.

Danny lớn nhanh, bụ bẫm, dễ thương vô cùng, nó đã biết làm nhiều trò rất tức cười. Nhưng sao dạo này thằng bé hay thức đêm đòi bú và không chịu ngủ. Một lần chẳng hiểu đau ốm gì mà nó quấy suốt đêm, hôm sau đi làm về, thấy thằng bé mệt lả, nằm trên giuờng, tay chân lạnh ngắt. Bình và tôi hoảng hồn, vội đem con đi bệnh viện, thì ra thằng bé bị kiệt sức vì tiêu chảy đã hai ngày rồi, bệnh viện phải truyền nước biển mới cứu kịp. Hỏi ra mới biết là bà nội chiều cháu, cho nó uống nước xay trái cây của người lớn, thấy cháu tiêu chảy, bà tự chữa cho nó bằng cách ra vườn hái mấy lá ổi, nấu lên cho cho cháu uống. Cũng may đưa đi nhà thương kịp, nên chưa nguy đến tính mệnh.

Từ sự việc này, tôi cũng khám phá ra là mẹ chồng tôi cho cháu ăn bất kể giờ giấc, hễ thấy thằng bé khóc là nhét ngay chai sữa vào miệng. Ăn không ra bữa nên mỗi bữa ăn Danny bú rất ít, nhưng lại bú làm nhiều lần, nhất là ban đêm. Ngoài ra bà lại hát ru cho cháu ngủ, thằng bé chỉ ngủ khi có tiếng hát ru của bà, tôi không biết hát ru nên không tài nào dỗ nó ngủ được. Hai vợ chồng lục đục, thức suốt đêm với nó, nên cả hai đều hốc hác. Tình trạng này không thể kéo dài, chúng tôi bàn với nhau, và Bình nói với mẹ chàng, chẳng những bà không nghe, mà còn dài giọng mỉa mai: "Anh bảo tôi không biết cách nuôi trẻ con ? Thế ai đã nuôi anh nên vai nên vóc như ngày nay, để bây giờ anh văn minh, anh dạy lại mẹ ?"

Cực chẳng đã, chúng tôi mới phải đem con đi gởi nhà trẻ. Bị rứt thằng cháu cưng ra khỏi tay, mẹ chồng tôi giận dỗi, ở miết trong phòng ba, bốn ngày liền, không ra ăn cơm, làm Bình phải năn nỉ muốn gãy lưỡi.

Nhưng bà không thể dỗi mãi, rồi vì nhớ cháu nên sáng nào bà cũng ra cửa nhìn theo tôi bồng cháu ra xe với cặp mắt buồn bực và không nén được tiếng thở dài. Dần dà, bà lân la giúp tôi soạn giỏ xách đựng đồ chơi, tã lót, quần áo, đồ ăn của Danny bỏ vô giỏ. Tôi để cho bà làm những việc đó, khiến bà vui được một chốc. Bà soạn tỉ mỉ lắm, không quên món nào, hình như bà đem tất cả tình thương cho cháu dồn vào những cử chỉ săn sóc nhỏ nhoi đó.

Mấy tháng sau thì Danny đã quen ăn ngủ có giờ giấc. Càng lớn nó càng xinh đẹp, bụ bẫm nhưng mặt mày ngơ ngác trông rất tội nghiệp. Hình như nó nhớ bà, mỗi lần được mẹ đón về, nó xà ngay vào đôi tay chờ đón của bà, hai bà cháu ôm chầm lấy nhau hôn hít...

Thấm thoát Danny sắp lên hai tuổi, càng lớn nó càng dễ thương và giống bố in hệt, cháu đã biết đi và nói bi bô vài câu ngắn. Hai tuần sau sinh nhật, Danny bị ấm đầu. Dạo này nó hay bị những cơn sốt nhẹ nên chúng tôi cũng không để ý, con nít đến tuổi mọc răng hay bị sốt là chuyện thường. Nhưng lần này Danny có vẻ mệt, nên phải để cháu ở nhà cho bà nội trông. Trước khi đi làm, Bình căn dặn mẹ thật kỹ lưỡng những điều phải làm, và những lần cho cháu uống thuốc, bà gật đầu lia lịa: "Mẹ nhớ, mẹ nhớ mà."

Lúc này mẹ chồng tôi có vẻ dễ chịu hơn, không hay can thiệp vào những chuyện riêng tư của vợ chồng của chúng tôi như trước. Sau hai năm sống trên nước Mỹ, được tiếp xúc với những bạn bè lớn tuổi đồng cảnh ngộ, từ từ bà cũng đã hiểu. Mỗi lần được trông cháu, bà sung sướng ra mặt, bao nhiêu tình thương của bà đều dồn cho cháu, bao nhiêu thì giờ của bà đều dành cho cháu. Danny mới hơi ọ ẹ một chút là bà đã chạy ngay lại, bế nó lên dỗ dành: "Bà đây, cháu đừng sợ."

Bà kiên nhẫn đút cho nó ăn, có khi cả tiếng đồng hồ. Mấy lúc gần đây Danny biếng ăn vì nướu răng bị sưng và hay chảy máu. Kỳ này không hiểu sao Danny sốt vài ngày rồi khỏi, rồi lại sốt trở lại, nó quấy khóc cả ngày lẫn đêm. Bà nội thương cháu, nên bế cháu đi rong suốt đêm cho cháu dễ chịu, Danny lại được thiếp ngủ trên vai bà nội trong tiếng ru buồn vời vợi. Thấy con cứ sốt dai dẳng mãi không dứt, chúng tôi cũng hơi lo, cho tới một hôm Danny bỗng lên một cơn sốt cao và chảy máu mũi khá nhiều, hai vợ chồng hoảng sợ vội đem con đi bác sĩ. Sau khi lấy máu thử nghiệm, thấy số bạch cầu khá cao, bác sĩ nghi là nhiễm trùng, nên biên toa thuốc trụ sinh và thuốc sốt, dặn cho nó uống đều đặn, hai tuần sau trở lại tái khám. Ông dặn thêm: "Nếu có gì bất thường, ông bà có thể đem cháu đến bất cứ lúc nào."

Hai ngày sau, Danny bớt nóng và không có triệu chứng gì khác lạ. Nhưng mặc dù uống thuốc rất đều, mà hai tuần sau những cơn sốt nhẹ vẫn chưa dứt hẳn. Khi tái khám, bác sĩ lại cho thử máu, lần này số bạch cầu tăng tới mức đáng ngại, bác sĩ nói: "Bệnh của cháu nghiêm trọng hơn là tôi vẫn tưởng. Bây giờ phải cho xét nghiệm để truy tầm ung thư máu."

28

Page 29: Ephata 635

"Ung thư à ?" Bình nhảy nhỏm, kêu lên sợ hãi. Còn tôi thì bủn rủn, tim đập tưởng như sắp vỡ lồng ngực. Bác sĩ nhìn khuôn mặt tái xanh của cả hai vợ chồng, trấn an: "Tôi chỉ nghi ngờ vậy thôi, chưa có gì chắc chắn cả. Bây giờ tôi sẽ gởi cháu đi xét nghiệm."

Ông biên giấy giới thiệu Danny đến bệnh viện để rút một ít bone marrow ở tủy sống đem đi thử. Ông nói với vẻ mặt áy náy: "Khi có kết quả, chúng tôi sẽ báo tin ngay cho ông bà."

Xong xuôi, chúng tôi đem cháu về, lòng hồi hộp không thể tả. Mẹ chồng tôi suốt ngày đọc kinh cầu nguyện cho cháu tai qua nạn khỏi. Năm ngày trôi qua trong yên tịnh, tôi hơi mừng với ý nghĩ “ no news is good new ”, nếu có gì bất thường thì người ta phải báo tin liền. Nhưng trưa thứ bảy, chúng tôi nhận được điện thoại từ văn phòng bác sĩ cho mời hai vợ chồng đến gấp. Ruột tôi nóng như lửa đốt, linh tính cho biết có điều gì chẳng lành. Quả vậy, khi gặp bác sĩ, chúng tôi được báo tin: "Sáng nay mới có kết quả của phòng thử nghiệm. Tôi rất buồn cho ông bà hay là cháu Danny bị ung thư máu."

Tôi nghe như có tiếng sét nổ ngang đầu, ôm mặt gục xuống, mơ hồ có tiếng chồng tôi hỏi thật nhỏ, giọng thều thào như người sắp đứt hơi: "Bây giờ phải làm thế nào, bác sĩ ?" – "Xét nghiệm cho thấy bone marrow của cháu có vấn đề. Cách chữa trị tốt nhất là phải thay bone marrow. Chúng tôi sẽ ghi tên cháu lên danh sách những người chờ được hiến tủy. Trong khi chờ đợi, tôi sẽ giới thiệu cháu đến một bác sĩ oncologist chuyên về ung thư trẻ em để làm chemo."

Ông còn nói nhiều nữa, nhưng tôi không muốn nghe tiếp. Trời ơi ! có thể như thế được sao ? con tôi mới được hai tuổi, bé Danny xinh đẹp, bụ bẫm thế kia mà lại mắc chứng bệnh ung thư quái ác, ông trời thật quá bất công. Tôi nhắm mắt lại, trong một lúc tôi tưởng như đây chỉ là một giấc mơ, khi tỉnh dậy tôi sẽ thở phào sung sướng. Nhưng không, khi tôi mở mắt ra, chỉ thấy bộ mặt thiểu não của chồng tôi và cái nhìn xót thương của bác sĩ…

Hôm đó là một ngày buồn nhất, tôi khóc như mưa, Bình thở dài không dứt, còn mẹ chồng tôi không nói một lời, nhưng mặt tái xám, trông bà rũ rượi như một tàu lá héo.

Những ngày sau đó thật thê thảm, ai có người thân bị ung thư mới hiểu thấu những thống khổ mà gia đình phải chịu đựng. Thật tội nghiệp cho con tôi, mặc dù được truyền một loại hoá chất nhẹ, nhưng với sức vóc của một đứa bé hai tuổi, Danny cũng vật vã, khó chịu, nó khóc ngầy ngật cả ngày lẫn đêm. Ba người thay phiên nhau chăm sóc cháu, nhưng phải công nhận mẹ chồng tôi tốn nhiều công sức nhất, kiên nhẫn nhất…

Trong hoạn nạn, mọi người xích lại gần nhau hơn, tị hiềm mẹ chồng nàng dâu không còn nữa, mọi người chỉ chung mục đích là lo cho đứa bé bệnh hoạn.

Danny bắt đầu xuống cân, trông nó xanh xao, èo uột rất tội nghiệp. Cứ đà này con tôi sẽ chết trước khi tìm được người cho tủy thích hợp với nó. Bình và tôi đều tình nguyện hiến tủy cho con, nhưng kết quả thử nghiệm đều không hợp. Chúng tôi đau đớn nhìn thằng bé mỗi ngày một yếu đi dần mòn.

Mẹ chồng tôi có vẻ suy nghĩ lung lắm, một hôm bà dụt dè đề nghị: "Hãy để mẹ hiến tủy cho cháu nhé ?" Cả Bình và tôi đều giật mình sửng sốt, thật chưa bao giờ chúng tôi tưởng đến chuyện này. Bình nhìn dáng mẹ tiều tụy, bơ phờ, lắc đầu: "Mẹ lớn tuổi quá, không đủ điều kiện hiến tủy đâu. Người hiến tủy phải ở trong khoảng từ 18 đến 60 tuổi, còn mẹ đã 63 rồi."

"Nhưng trong giấy tờ thì mẹ mới 59." Bà nài nỉ, "cứ để cho mẹ thử xem sao, mẹ không đành nhìn nó đi vào cõi chết." "Nhưng hiến tủy hại sức khoẻ lắm mẹ ạ." Bình nói, "người trẻ thì không sao, chứ người già khó lấy lại sức lắm." – "Kệ ! mẹ già rồi, mạng sống đâu có quí bằng trẻ thơ ? Cứ để mẹ cho cháu nốt quãng thời gian còn lại của mẹ." Bình nhìn mẹ một hồi, giọng thương cảm: "Không phải cứ hiến tuỷ là chết đâu mẹ, nhưng trông mẹ gầy ốm quá, sợ không đủ cân lượng." – "Chuyện đó đâu có khó gì ?" Bà cố gượng cười, "mẹ ăn uống tẩm bổ là sẽ lên cân ngay."

Được sự đồng ý của gia đình, mẹ chồng tôi sung sướng ra mặt. Tội nghiệp mẹ, để đủ điều kiện sức khoẻ hiến tủy cho cháu, bà cố gắng ăn uống thật nhiều cho đủ số cân lượng. Nhiều lúc thấy mẹ trợn trạo cố nuốt thức ăn, tôi ứa nước mắt. Hai tháng sau bà lên được bẩy pounds.

Hôm đi thử máu về, chúng tôi cũng không hy vọng gì lắm, cha mẹ ruột còn không thích hợp, huống chi bà nội ? Nhưng bất ngờ làm sao, kết quả cho thấy hoàn toàn phù hợp. Cả nhà mừng như chết đi sống lại, mừng nhất là mẹ chồng tôi, cặp mắt già long lanh những tia

29

Page 30: Ephata 635

hy vọng. Mẹ bất kể những đau đớn mà bà sẽ phải chịu khi hiến tuỷ, bà bất chấp tuổi già sức yếu, bà chỉ nghĩ đến cháu…

Mẹ chồng tôi, một người đàn bà quê mùa chất phác, tư tưởng còn chậm tiến như người thời xưa. Mẹ rất sợ nhà thương, rất sợ dao kéo mổ xẻ, thế mà mẹ đã tình nguyện vào nhà thương, tình nguyện lên bàn mổ để hiến tuỷ cho cháu. Tiến trình hiến tuỷ chắc là đau đớn lắm, nhưng mẹ cắn răng chịu đựng, không rên la, hình như bà sợ rên la người ta sẽ từ chối không cho bà cứu cháu ( !?! ) Nhìn nét mặt tái xanh vì sợ của bà khi bước vào phòng mổ, chúng tôi không sao cầm được nước mắt. Ôi tình cốt nhục thiêng liêng làm cảm động đến cả trời đất, ca thay tủy thành công mỹ mãn, Danny hồi phục nhanh như có phép lạ, mẹ chồng tôi cũng lại sức sau vài tháng tẩm bổ.

Thời gian qua nhanh như gió thoảng, mới đây mà đã bốn năm, chúng tôi có thêm một cháu gái, bé Rebecca mới được năm tháng. Mẹ chồng tôi gần bảy chục tuổi, tóc bạc gần hết, nhưng vẫn khoẻ mạnh, hồng hào. Bà sống rất thoải mái, sung sướng trong sự yêu kính của con cháu, trong một gia đình tam đại đồng đường, trên dưới thuận thảo, thương yêu nhau.

Mẹ vẫn trải tình thương cho con cháu bằng những săn sóc nho nhỏ, bằng những bữa ăn ngon lành, bằng những tiếng ru à ơi buồn vời vợi, dỗ cho cháu ngủ... Trên nước Mỹ này, có bao nhiêu bé thơ Việt Nam may mắn được dỗ giấc ngủ êm trong tiếng ru của mẹ Việt Nam ? Tiếng mẹ thấm vào hồn từ lúc còn nằm nôi, mong bé lớn lên sẽ không quên cội nguồn. Sao trước kia tôi không nhận ra như vậy nhỉ ? Xin mẹ tha lỗi cho đứa con dâu trẻ người non dạ này.

Danny đã đến tuổi đi học và đang học lớp mẫu giáo. Nhìn con sởn sơ lớn lên như bao đứa trẻ bình thường khác, tôi thầm cám ơn thượng đế, cám ơn khoa học, cám ơn các bác sĩ, y tá trong bệnh viện, và nhất là cám ơn mẹ chồng tôi. Mẹ ơi ! Chẳng những mẹ sanh ra chồng con, mà mẹ đã tái sinh ra cháu Danny một lần nữa, vì Danny sống được là nhờ mẹ. Suốt đời chúng con nhớ ơn mẹ...

PHƯƠNG LAN, 2014( viết theo một chuyện thật, chỉ đổi tên nhân vật )

548. HOÀN TẤT QUỸ MẸ HẰNG CỨU GIÚP ĐIỀU TRỊ NHỒI MÁU CƠ TIM

CHO ÔNG LÂM XUÂN TRANG Ở LÂM ĐỒNGLm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT, Giáo Xứ Phú Sơn, Giáo Phận Đà Lạt, giới thiệu ông

LÂM XUÂN TRANG, sinh năm 1964, hiện ngụ tại thôn Bằng Tiên 1, xã Phú Sơn, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng, điện thoại: 0984.426.014.

Ông Trang có ba con, người con lớn sinh năm 1989 làm công nhân, hai con nhỏ còn đi học. Hai vợ chồng làm nghề thợ may nên chỉ đủ sống. Ông Trang phát bệnh vào tháng 10 năm 2014, nhập viện ngày 24.11.2014, bác sĩ chẩn đoán ông bị chứng nhồi máu cơ tim, tắc nghẽn mạch máu, phải cấp cứu ngay, đặt Stent trong động mạch vành của tim. Trong một tháng ông đã phải nhập viện 3 lần, gia đình đã cạn kiệt, nay phải vay mượn để lo liệu cho ông được mổ gấp, tổng chi phí là 70 triệu đồng, hoàn toàn ngoài khả năng của gia đình.

Ngày 27.12.2014, chúng tôi xin mở Quỹ Trợ Giúp điều trị nhồi máu cơ tim cho ông Lâm Xuân Trang với số tiền là 35.000.000 VND. Mọi liên hệ trợ giúp xin gửi về cho Lm. Giuse Lê Quang Uy, TTMV DCCT, 38 Kỳ Đồng, P. 9, Q. 3, Sàigòn. Email: [email protected]

Danh sách các ân nhân gần xa:

Hội Bác Ái Phanxicô ( Hoa Kỳ ): 4.000.000 VNDChuyển từ Quỹ giúp bà Nguyễn Thị Lý: 3.700.000 VNDBà Trần Thị Niên ( Hoa Kỳ ): 3.000.000 VNDÔng Nguyễn Cao Huynh ( Sàigòn ): 500.000 VNDAnh Tòng ( Sàigòn ): 1.000.000 VNDHai người ẩn danh ( Sàigòn ): 1.000.000 VNDCô Sâm, Nhóm BVSS ( Sàigòn ): 500.000 VNDCô Maria Hồ Mỹ Linh ( Sàigòn ): 500.000 VNDCô Anna Phan Thị Ngọc Liễu ( Sàigòn ): 1.000.000 VNDHai người ẩn danh ( Tây Ninh ): 1.500.000 VND

30

CÙNG TƯƠNG TRỢ

Page 31: Ephata 635

Gia đình anh Hồ Duy Hải ( Long An ): 1.000.000 VNDHai bạn Fiat Thái Sơn – Minh Tâm ( New Zealand ): 6.000.000 VNDCô Đỗ Thị Kim Hồng ( Đức ): 200 EURBạn Fiat Bích Uyên ( Sàigòn ): 500.000 VNDNhóm Fiat ( các tỉnh ): 500.000 VNDCô Jennifer Đinh Hà ( Hoa Kỳ ): 300 USD

Tổng kết đến 23g30 khuya thứ ba 30.12.2014: 24.700.000 VND + 200 EUR + 300 USD = 36.350.000 VND

Như vậy trong 4 ngày quyên góp, chúng ta đã có được 35 triệu đồng giúp ông Lâm Xuân Trang. Số tiền 1.350.000 VND dôi ra xin chuyển sang cho trường hợp ngặt nghèo kế tiếp là bà Đỗ Thị Như Thủy ở Đồng Nai. Xin tạ ơn Chúa, biết ơn Mẹ và cám ơn quý ân nhân gần xa.

DANH SÁCH CÁC ÂN NHÂN TRỢ GIÚP CHƯƠNG TRÌNH BẢO VỆ SỰ SỐNG THÁNG 12.2014

Gia đình bé Nguyễn Thị Thương ( Sàigòn ) góp 1.12 .......................................................... 300.000 VNDGia đình ông Giuse, Xóm Giáo 1 ( Sàigòn ) góp 1.12 .......................................................... 500.000 VNDGia đình bé Trần Thiên ( Sàigòn ) góp 2.12 ......................................................................... 100.000 VNDGia đình bé Têrêsa Anh Thư, Giáo Xứ Tân Hương ( Sàigòn ) góp 3.12 .............................. 500.000 VNDGia đình hai bé Hiếu Hiền – Hiếu Thuận ( Sàigòn ) góp 5.12 ............................................... 200.000 VNDÔng Vũ Thanh Phương và các ân nhân ( Hòa Lan ) gửi về 5.12 ................................................ 650 EURVợ chồng Fiat Thiên Phước – Hồng Duyên ( Sàigòn ) góp 6.12 ......................................... 200.000 VND Hai người ẩn danh ( Đồng Tháp ) góp 6.12 .......................................................................... 300.000 VNDAnh Đặng Hoàng Thiện ( Sàigòn ) góp 7.12 ........................................................................ 200.000 VND Một người ẩn danh ( Sàigòn ) góp 7.12 ............................................................................... 300.000 VNDGia đình bé Trần Thiên Phúc ( Sàigòn ) góp 8.12 ................................................................ 300.000 VNDAnh Phan Xuân Bửu ( Sàigòn ) góp 9.12 .......................................................................... 1.500.000 VNDMột người ẩn danh Giáo Xứ Phước Tỉnh ( Bà Rịa ) góp 12.12 ......................................... 2.000.000 VNDHai người ẩn danh ( các tỉnh ) góp 13.12 ............................................................................ 200.000 VND Bạn Fiat Anh Thi ( Sàigòn ) góp 14.12 .............................................................................. 1.000.000 VNDHai bạn Fiat Phi Hùng – Kim Loan ( Sàigòn ) góp 14.12 ........................................................ 50.000 VNDGia đình bé Giuse Maria Nguyễn Anh Châu, Gò Vấp ( Sàigòn ) góp 15.12 ......................... 200.000 VNDMột người ẩn danh ( Phú Yên ) góp 17.12 .......................................................................... 150.000 VND Một ân nhân ẩn danh ( Sàigòn ) qua cha Đình Phương, góp 17.12 ................................ 10.000.000 VNDGia đình em Nguyễn Minh Phúc ( Sàigòn ) góp 18.12 ......................................................... 250.000 VNDBạn Maria Phương Thảo ( Sàigòn ) góp 18.12 .................................................................... 500.000 VNDGia đình bé Tường Vi ( Sàigòn ) góp 18.12 ......................................................................... 200.000 VNDNăm người ẩn danh ( Sàigòn ) giúp BVSS .......................................................................... 500.000 VNDChị Nguyễn Thị Mỹ Dung ( Sàigòn ) góp 20.12 ................................................................. 1.500.000 VNDChị Xuân Quyên ( Sàigòn ) góp 20.12 .................................................................................. 500.000 VNDAnh chị Học – Nga ( Đồng Nai ) góp 20.12 ..................................................................... 10.000.000 VNDGia đình Nho – Na ( Sàigòn ) góp 20.12 .............................................................................. 500.000 VNDBà Maria Đỗ Kiều Vinh ( Hoa Kỳ ) qua cha Minh Phương, gửi 21.12 .......................................... 500 USDGia đình cháu Nguyễn Tiến Lâm ( Sàigòn ) góp 22.12 ......................................................... 200.000 VNDChị Phương Thủy ( Sàigòn ) góp 25.12 ............................................................................ 1.000.000 VNDMột bạn trẻ ẩn danh ( Đà Lạt ) góp 25.12 ............................................................................ 500.000 VNDHai người ẩn danh ( Sàigòn ) góp 27.12 .............................................................................. 750.000 VNDHai người ẩn danh ( các tỉnh ) góp 28.12 ............................................................................ 150.000 VND Một người ẩn danh ở Gx. Phú Trung ( Sàigòn ) qua cha Quốc, góp 30.12 ......................... 500.000 VND

Tổng cộng các ân nhân đã giúp BVSS trong tháng 12 ......... 650 EUR + 500 USD + 35.050.000 VND

31