Ephata 609

43
E-mail: [email protected] Website: www.trungtammucvudcct.com "ĐƯỜNG CHÂN LÝ, NÀY CON ĐÃ CHỌN…" ( Thánh Vịnh 118, 30 ) Trong lịch sử Hội Thánh, một trong những sự kiện quan trọng đầu tiên là việc chọn người thay thế ông Giuđa, kẻ đã phản bội Chúa Giêsu và chia tay với Tông Đồ Đoàn. Vị nào thay thế chỗ của Giuđa cũng có nghĩa là trở nên Tông Đồ, lãnh nhận sứ mạng làm chứng về Chúa Giêsu, sung công hoàn toàn cuộc đời mình và sống chết cho Tin Mừng, thay chỗ Giuđa cũng có nghĩa là nhận lấy vị thế thuộc về Chúa Giêsu hoàn toàn, có đầy đủ uy tín để làm chứng, một chứng xác thực về Chúa Giêsu. "Vậy trong số những anh em đã cùng chúng tôi theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người dẫn đầu chúng ta, kể từ phép rửa của ông Gioan cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên Trời, phải có một người trở thành chứng nhân cùng với chúng tôi về cuộc Phục Sinh của Người" ( Cv 1, 15 – 26 ). Thánh Phêrô đã chia sẻ với Tông Đồ Đoàn về điều kiện thiết yếu để trở nên người làm chứng về Chúa Giêsu, đây là điều kiện quan trọng nhất không thể bỏ qua. Phải là người đã từng theo Chúa Giêsu kể từ khi ông Gioan thực hiện phép rửa, cho đến ngày Ngài lên Trời. Hành trình theo Chúa là hành trình được huấn luyện bởi chính Chúa Giêsu về sự nhận biết chương trình cứu độ của Thiên Chúa và lòng tin vào chính Chúa Giêsu là Đấng Cứu Chuộc nhân loại. Chính Chúa Giêsu huấn luyện bằng phương pháp độc đáo của Ngài chứ không phải bởi ai khác, một giáo huấn tinh tuyền, sống động, không sai chạy, không bị cắt nghĩa hoặc giải thích bởi bất kỳ luồng tư tưởng hay bất kỳ khuynh hướng nào, một giáo huấn được truyền ban và kiểm nghiệm bởi chính Đấng xây dựng giáo huấn, một giáo huấn được đích thân Ngài dạy dỗ một cách sống động, diện đối diện, từng chút một. Chính Chúa Giêsu huấn luyện các Tông Đồ để xây dựng mối tương quan chặt chẽ, gắn bó, đích thực của họ với chính Ngài. Không chỉ là giáo thuyết nhưng là chính con người, chính mối tương giao mật thiết với Chúa, mối tương giao xác 1 NĂM THỨ 14 – SỐ 609 – CHÚA NHẬT

description

Trân trọng giới thiệu Tuần báo điện tử EPHATA của Trung Tâm Mục Vụ Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam

Transcript of Ephata 609

Page 1: Ephata 609

E-mail: [email protected] Website: www.trungtammucvudcct.com

"ĐƯỜNG CHÂN LÝ, NÀY CON ĐÃ CHỌN…"( Thánh Vịnh 118, 30 )

Trong lịch sử Hội Thánh, một trong những sự kiện quan trọng đầu tiên là việc chọn người thay thế ông Giuđa, kẻ đã phản bội Chúa Giêsu và chia tay với Tông Đồ Đoàn. Vị nào thay thế chỗ của Giuđa cũng có nghĩa là trở nên Tông Đồ, lãnh nhận sứ mạng làm chứng về Chúa Giêsu, sung công hoàn toàn cuộc đời mình và sống chết cho Tin Mừng, thay chỗ Giuđa cũng có nghĩa là nhận lấy vị thế thuộc về Chúa Giêsu hoàn toàn, có đầy đủ uy tín để làm chứng, một chứng xác thực về Chúa Giêsu.

"Vậy trong số những anh em đã cùng chúng tôi theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người dẫn đầu chúng ta, kể từ phép rửa của ông Gioan cho đến ngày Người lìa bỏ chúng ta và được rước lên Trời, phải có một người trở thành chứng nhân cùng với chúng tôi về cuộc Phục Sinh của Người" ( Cv 1, 15 – 26 ).

Thánh Phêrô đã chia sẻ với Tông Đồ Đoàn về điều kiện thiết yếu để trở nên người làm chứng về Chúa Giêsu, đây là điều kiện quan trọng nhất không thể bỏ qua. Phải là người đã từng theo Chúa Giêsu kể từ khi ông Gioan thực hiện phép rửa, cho đến ngày Ngài lên Trời.

Hành trình theo Chúa là hành trình được huấn luyện bởi chính Chúa Giêsu về sự nhận biết chương trình cứu độ của Thiên Chúa và lòng tin

vào chính Chúa Giêsu là Đấng Cứu Chuộc nhân loại. Chính Chúa Giêsu huấn luyện bằng phương pháp độc đáo của Ngài chứ không phải bởi ai khác, một giáo huấn tinh tuyền, sống động, không sai chạy, không bị cắt nghĩa hoặc giải thích bởi bất kỳ luồng tư tưởng hay bất kỳ khuynh hướng nào, một giáo huấn được truyền ban và kiểm nghiệm bởi chính Đấng xây dựng giáo huấn, một giáo huấn được đích thân Ngài dạy dỗ một cách sống động, diện đối diện, từng chút một.

Chính Chúa Giêsu huấn luyện các Tông Đồ để xây dựng mối tương quan chặt chẽ, gắn bó, đích thực của họ với chính Ngài. Không chỉ là giáo thuyết nhưng là chính con người, chính mối tương giao mật thiết với Chúa, mối tương giao xác định tính cách môn đệ, mối tương giao CON NGƯỜI với con người. Chúng ta nhận thấy Thánh Phêrô nhấn mạnh yếu tố “theo Chúa Giêsu…” và “Người dẫn đầu chúng ta”.

Mối tương giao với Chúa Giêsu quyết định tính cách làm chứng, bởi người làm chứng phải là người có kinh nghiệm trong cuộc đời mình về các biến cố liên quan, về chính con người mình làm chứng. Ở đây không còn thuần tuý là công việc nữa, nhưng là một dấn thân trọn vẹn, đích thực. Điều mình làm chứng hoàn toàn thuộc về mình, không gì có thể chia tách.

Đối tượng của lời chứng là chính Chúa Giêsu mà biến cố trọng tâm là cuộc Phục Sinh. Phục Sinh là hệ quả tất yếu của cuộc khổ nạn, của thập giá, một hệ quả vượt sức hiểu biết và tiên đoán của con người. Phục Sinh là hệ quả tất yếu của cuộc thương khó trong một chương trình được vận hành bằng quyền năng Thánh Linh.

Biến cố Phục Sinh làm đảo lộn mọi tính toán của thế gian, sức công phá của biến cố Phục Sinh đã làm bật tung Cửa Tử Thần bấy lâu nay tưởng như bất bại. Biến cố Phục Sinh quyết định số phận con người, mở ra cho nhân loại niềm hy vọng bất diệt, giải phóng nhân loại trong tự do, vĩnh cửu.

1

NĂM THỨ 14 – SỐ 609 – CHÚA NHẬT 11.5.2014

Page 2: Ephata 609

Chúng ta nhận ra hình ảnh Mẹ Maria bao trùm lên sự kiện vừa nêu. Mẹ không chỉ có mặt bên Chúa Giêsu kể từ khi Gioan làm phép rửa, nhưng Mẹ hiện diện bên Chúa Giêsu, trong Chúa Giêsu, ngay khi sứ thần ngỏ lời công bố Chúa vào trần gian. Mẹ không chỉ theo chân Chúa ra vào lui tới trên bước đường loan báo Tin Mừng, nhưng Mẹ bao bọc, gần gũi, bồng ẵm và không bao giờ rời xa Con của mình trong bất kỳ tình huống nào.

Nếu hỏi ai là người được nghe Chúa giảng dạy nhiều nhất, lâu nhất và sâu nhất, thì câu trả lời chỉ có thể là chính Mẹ Maria. Khi chưa có một vị Tông Đồ nào biết Chúa thì Mẹ đã nuốt vào lòng mình bao lời yêu thương của Chúa. Khi chưa có

một Môn Đệ nào được mặc khải ý định của Thiên Chúa, thì Mẹ đã ghi nhớ mà suy đi gẫm lại trong lòng. Giáo huấn của Chúa Giêsu in sâu vào lòng mẹ, hình ảnh của Chúa thẫm đượm trong tâm Mẹ, ngôn ngữ của Chúa vang vọng trong lòng Mẹ.

Vâng, không ai gắn bó với Chúa Giêsu hơn Mẹ !

Mẹ theo Con yếu dấu của mình đến tận chân thập giá, chấp nhận đi hết con đường đau khổ, chấp nhận chương trình của Thiên Chúa trong mù tối chỉ với một ánh sáng tin yêu. Mẹ chấp nhận để Thần Khí của Chúa vận hành cuộc đời Mẹ thì lẽ nào trong biến cố Phục Sinh Mẹ lại không được thụ lãnh những gì là cao quý và thẳm sâu nhất ?

Là người theo Chúa Giêsu từng giây từng phút, là người gắn bó mật thiết với Chúa, là người chứng kiến, hiệp thông, tham dự vào toàn bộ biến cố khổ nạn, thập giá và phục sinh của Chúa, chắc chắn Mẹ là người Tông Đồ đích thực, là Tông Đồ của mọi Tông Đồ, là người thu giữ kho tàng Đức Tin của Hội Thánh, là người chia sẻ Đức Tin cho nhân loại.

Công cuộc Tái Phúc Âm Hóa hôm nay cần đặt lại cùng một vấn đề như Hội Thánh xưa, không thể có kẻ nào được sai đi mà đã không từng theo Chúa Giêsu, có mối tương quan gắn bó mật thiết với Ngài, thuộc trọn về Ngài và đi trọn con đường Ngài đã đi. Nếu không đủ các điều kiện đó, chúng ta chỉ có những người hành nghề tôn giáo, một loại… cán bộ dịch vụ tín ngưỡng mà thôi !

Nhìn lên Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ của chúng ta, xin Mẹ trao cho chúng ta kinh nghiệm đi theo Chúa với tất cả lòng cậy trông phó thác. Chúng ta cần kinh nghiệm của Mẹ biết bao khi chúng ta đặt chân bước đi trên Đường Chân lý đã chọn.

"Lạy Nữ Vương, Mẹ nhân lành làm cho chúng con được sống, được vui, được cậy, thân lạy Mẹ…" Amen.

Lm. VĨNH SANG, DCCT

MỤC LỤC TÌM BÀI:"ĐƯỜNG CHÂN LÝ, NÀY CON ĐÃ CHỌN…" ( Lm. Vĩnh Sang ) .......................................................... 01CỬA CHUỒNG CHIÊN ( Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt ) ......................................................................... 03CHỦ CHIÊN HOÀN HẢO DUY NHẤT ( AM. Trần Bình An ) ................................................................... 04ĐỨC GIÊSU LÀ CỬA CHUỒNG CHIÊN ( Tu Sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển ) ................................................ 05NGƯỜI LẠ ( PM. Cao Huy Hoàng ) ........................................................................................................ 07TA ĐẾN ĐỂ CHÚNG ĐƯỢC SỐNG, VÀ SỐNG DỒI DÀO" ( Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ ) ................... 08CỨ THEO LỐI ẤY MÀ VÀO ( M. Hoàng Thị Thuỳ Trang ) ...................................................................... 10MẦU NHIỆM CỨU CHUỘC VÀ MẸ MARIA ( G. Tuấn Anh ) .................................................................. 10ĐỨC MARIA VÀ SỰ HIỆP NHẤT ( Phùng Văn Hoá ) ............................................................................. 11SỐNG TRONG LỜI CẦU CỦA MẸ ( Lm. GB. Nguyễn Minh Đức ) ......................................................... 13HÃY NHỚ MỆNH LỆNH FATIMA ( Bản dịch của Trầm Thiên Thu ) ....................................................... 14GIANNA BERETTA MOLLA NƯỚC Ý VÀ MARIA NGUYỄN THỊ YẾN CỦA VN ( Trần Thị Hường ) .. . . 16VƯỜN HOA ĐỨC MẸ ( Vân Mai ) .......................................................................................................... 17NĂM ĐIỀU BẠN CHƯA BIẾT VỀ ĐỨC GIÊSU ( Lm. James Martin, bản dịch của Nguyễn Trung ) ...... 18BA ĐIỀU RĂN YÊU THƯƠNG TRONG KINH THÁNH – Kỳ 2 ( Lm. Lê Minh Thông ) .......................... 14 KHI CÁI ÁC LÊN NGÔI ( Phỏng vấn Gs. Nguyễn Đăng Hưng ) ............................................................. 23MẸ LÀ BÓNG MÁT ĐỜI CON ( Trần Mỹ Duyệt ) .................................................................................... 26MỘT THOÁNG SUY TƯ ( Người Tôi Tớ Vô Dụng ) ............................................................................... 28CHƯƠNG TRÌNH NHỊP CẦU BÁC ÁI PHANXICÔ VÀ QUỸ MẸ HẰNG CỨU GIÚP ( TTMV DCCT ) .. . 30

2

Page 3: Ephata 609

CỬA CHUỒNG CHIÊN Cửa có hai công dụng. Để đóng vào và để mở ra. Có những

cánh cửa như cửa tù ngục để giam kín phạm nhân. Có những cánh cửa giam hãm, bưng bít con người không cho thông giao với thế giới bên ngoài. Có những cánh cửa lò sát sinh nhốt thú vật để giết chết. Đó là những cánh cửa đóng kín chết chóc, huỷ hoại. Có những cánh cửa mở ra đón gió mát, đón khí trong lành, đón ánh sáng mặt trời tươi vui. Có những cánh cửa mở ra những chân trời xa tắp, khơi lên trong tâm hồn mơ ước cao xa. Có những cánh cửa mở ra đón nhận anh em trong tình huynh đệ thân mến. Đó là những cánh cửa mở ra sự sống.

Hôm nay, Chúa Kitô nói: “Ta là cửa chuồng chiên”, Người đã tự nhận mình là cánh cửa. Chúa Giêsu là cánh cửa không phải để đóng kín giam hãm đàn chiên. Nhưng là cánh cửa mở ra.

Chúa Giêsu là cánh cửa mở ra những chân trời vô tận

Thỉnh thoảng ta nghe có dư luân xôn xao về ngày tận thế. Tất nhiên đó là một tin đồn thất thiệt, nhảm nhí, đượm mầu sắc mê tín dị đoan. Nhưng tin đồn đó cũng nói lên một sự thực là: Thế giới mà chúng

ta đang sống là một thế giới hạn hẹp, sinh mạng con người là bèo bọt, kiếp sống con người là monh manh. Thật đáng buồn nếu con người chỉ có thế, bị kết án chung thân vào một thân xác mau tan rã, bị giam hãm trong một thế giới vật chất mau tàn tạ.

Chúa Giêsu Phục sinh đã phá vỡ vòng vây giam hãm đó. Khi tảng đá lấp cửa mộ lăn ra, Chúa Giêsu đã mở ra cho nhân loại một cánh cửa. Cánh cửa đó dẫn vào một không gian vô tận. Từ nay con người không còn bị kết án chung thân vào thân xác mau tan rã nữa, vì Chúa Giêsu Phục Sinh đã mặc lấy thân xác vinh hiển không bao giờ chết. Từ nay con người không còn bị giam hãm trong thế giới vật chất mau tàn tạ nữa, vì Chúa Giêsu Phục sinh đã mở lối ra thế giới thần linh, trong đó con người sống trong tự do, không còn bị ràng buộc trong không gian. Đó là một thế giới mới, thế giới vĩnh hằng, không bao giờ tàn tạ, thế giới vô biên chẳng có giới hạn.

Khi mở cánh cửa vào thế giới thần linh, Chúa Giêsu đã đẩy lùi ranh giới của thế giới vật chất đến vô hạn. Khi mở cánh cửa vào thế giới thần linh, Chúa Giêsu đã chắp cánh cho ước mơ của con người. Ước mơ ấy chẳng còn hạn hẹp trong những hạn chế của vòng vây thế giới, nhưng bay lên ngang tầm trăng sao để mơ những giấc mơ thần thánh. Khi mở cửa và thế giới thần linh, Chúa Giêsu đã giải phóng con người khỏi cảnh ngộ nô lệ vật chất hư hèn, nâng con người lên cuộc sống tự do của con Thiên Chúa.

Chúa Giêsu là cánh cửa mở ra suối nguồn sự sống

Thật là vô lý nếu con người sống chỉ để chết. Thật là vô lý nếu chết là hết. Nếu định mệnh con người là như thế, thà không sống còn hơn. Mỗi khi vào bệnh viện, ta không khỏi suy nghĩ khi nhìn những bệnh nhân rên xiết, quằn quại đau đớn hoặc thấy những tấm thân gầy còm, những khuôn mặt hốc hác. Đó là cái chết đang sống hay là một sự sống đang chết ? Đời sống như thế còn có ý nghĩa gì không ?

Chúa Giêsu đã bước vào thế giới kẻ chết để chiến đấu chống lại thần chết. Người đã chiến thắng. Và khi Người mở cửa mộ bước ra, Người đã mở cánh cửa dẫn vào một cuộc sống mới. Cuộc sống mới là một cuộc sống trọn vẹn bởi vì không còn bóng dáng Thần chết. Cuộc sống mới là một cuộc sống sung mãn bởi vì chẳng còn vết tích của đau khổ, bệnh tật, đói khát. Cuộc sống mới là một cuộc sống siêu nhiên trong đó con người được nâng lên làm con Thiên Chúa, được tham dự vào chính sự sống của chúa. Cuộc sống mới là một cuộc sống hạnh phúc vì được kết hợp với Thiên Chúa Ba Ngôi trong một tình yêu trọn hảo.

Như thế cuộc sống con người vẫn có một hướng đi lên, để được nâng cao, để được phong phú, để được hoàn hảo. Chính vì thế mà dù biết cuộc sống khổ đau, người ta vẫn vui mừng khi một em bé chào đời. Chính vì thế người ta vẫn ăn mừng sinh nhật, coi đó là ngày trọng đại trong đời người.

Chính Chúa Giêsu đã biến đổi thân phận con người. Con người sinh ra không phải để chết, nhưng để sống, sống sung mãn, sống trọn vẹn, sống vĩnh viễn trong suối nguồn sự sống.

3

CÙNG SUY NIỆM

Page 4: Ephata 609

Nhưng để mở ra cho ta những chân trời vô tận của con Thiên Chúa, chúa Giêsu đã chịu nhận lấy kiếp sống mong manh, phù du, bèo bọt của con người. Để mở ra cho suối nguồn sự sống, Người đã phải đón nhận cái chết đau đớn. Người chính là vị Mục tử chân chính đã thí mạng vì đàn chiên.

Chúa Giêsu quả thật là cánh cửa mở ra cho đàn chiên đi đến những chân trời xa rộng, đi đến những đồng cỏ xanh tươi, đi đến những dòng suối trong lành.

Chúa Giêsu quả là vị mục tử tốt lành luôn chăm sóc đoàn chiên, luôn nuôi dưỡng đoàn chiên bằng những lương thực bổ dưỡng. Chúa Giêsu đã đến cho ta được sống và được sống dồi dào.

Đó là cánh cửa duy nhất dẫn đến sự sống, ta hãy theo sát gót Người. Đó là người mục tử duy nhất, ta hãy nghe tiếng Người. Hãy đến với Người để Người đưa ta đến những chân trời xa rộng. Hãy đến với Người để Người băng bó vết thương, xoa dịu nỗi đau và phục hồi sự sống. Hãy đến với Người để Người đổ tràn tình yêu và sự sống vào tâm hồn ta.

Tgm. Giuse NGÔ QUANG KIỆT

CHỦ CHIÊN HOÀN HẢO DUY NHẤTThuyền trưởng chiếc tàu đầu tiên tiếp cận khu vực chìm phà Sewol ( Hàn Quốc ) đã đinh ninh

rằng ông sẽ thấy hàng trăm hành khách trôi trên mặt nước. Nhưng những thứ ông thấy trên mặt biển chỉ là các kiện hàng. “Chiếc phà lúc ấy đã nghiêng rất nhiều, khoảng 30, 40 độ. Tình trạng của Sewol lúc đó rất tệ, ai cũng mặc nhiên nghĩ là hành khách sắp được sơ tán”. CNN dẫn lời ông Moon Ye-shik, thuyền trưởng tàu Doola Ace, ngày 29.4.2014.

Vào lúc 9 giờ 15 ( giờ địa phương ) sáng 16.4.2014, tàu của ông Moon đang ở cách phà Sewol không quá 200m khi nhận được cuộc gọi cầu cứu. Ngay lập tức, ông cùng thủy thủ đoàn chuẩn bị sẵn phao, xuồng cứu hộ. Nhưng bất chấp chiếc phà đã nghiêng ở một góc đáng báo động, vẫn có rất ít dấu hiệu cho thấy hành khách trên tàu đang được sơ tán, vị thuyền trưởng tàu Doola Ace cho hay. Ông Moon cùng thủy thủ đoàn trên chiếc Doola Ace không biết rằng thủy thủ đoàn của phà Sewol đã yêu cầu hành khách trên phà, bao gồm 325 học sinh của trường Trung Học Danwon, nên ở yên tại chỗ. Ông Moon khi đó đã liên lạc bằng điện đàm với phà Sewol, nói rằng người của ông đã sẵn sàng hỗ trợ cứu hộ ngay lập tức, đồng thời kêu gọi đầu dây bên kia cần yêu cầu hành khách tìm đường thoát ra.

Đến 10 phút sau đó, thành viên thủy thủ đoàn trên phà Sewol vẫn cứ hỏi: “Nếu chúng tôi chạy thoát, có thể cứu họ ( hành khách ) được không ?” Ông Moon nói những gì ông chứng kiến rõ ràng là một sự phung phí thời gian và tính mạng con người, một việc hoàn toàn không đáng có. “Có lẽ họ chờ tàu cứu hộ, nhưng trong trường hợp này, bạn còn chờ gì nữa ? Lẽ ra họ nên ra lệnh sơ tán. Rất nhiều sinh mạng lẽ ra đã được cứu sống.” Ông Moon cũng kể lại rằng giọng người liên lạc với ông bên phía phà Sewol nghe rất hoảng loạn và rõ ràng là non kinh nghiệm.

Khi đề cập đến việc thuyền trưởng phà Sewol đã bỏ chạy khi chiếc phà đang sắp chìm, ông Moon trở nên giận dữ, theo CNN. Được biết, thuyền trưởng phà Sewol Lee Joon-seok đã bị truy tố vì hành động bỏ mặc tàu của mình, tắc trách, gây thương tích cho người khác và không tìm kiếm trợ giúp từ tàu thuyền khác. Thuyền trưởng tàu Doola Ace nói thuyền trưởng phà Sewol đã bôi nhọ tên tuổi của toàn bộ các thuyền trưởng ở Hàn Quốc. ( Hoàng Uy, báo Thanh Niên Online )

Chúa Nhật Chúa Chiên Lành hôm nay giới thiệu một siêu thủ lãnh bản lĩnh vô song. Bởi vì Người dám bỏ lại chín mươi chín con chiên, để đi tìm một chiên lạc. Bởi Người dám xả thân, chịu chết cho đoàn chiên được sống, không hề hiếu sanh úy tử, ham sống sợ chết như thuyền trưởng phà Sewol.

Chủ Chiên duy nhất

Đức Giêsu khẳng định công khai là Đấng trung gian độc nhất, là cửa dẫn đàn chiên: “Ta là cửa cho chiên ra vào.” Cánh cửa duy nhất hướng dẫn đến sự sống sung mãn: "Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ” ( Ga 10, 7 và 9 ).

4

Page 5: Ephata 609

Nhân trả lời ông Tôma thắc mắc không biết Người sẽ đi đâu, không biết đường nào mà theo, Người liền mặc khải: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua thầy" ( Ga 14, 6 ). Cửa và đường Người thật chật hẹp, cheo leo, gập ghềnh, khúc khuỷu, quanh co, lên bờ xưống ruộng, chẳng mấy được phẳng phiu, rộng rãi như xa lộ, vi vu tốc độ cao.

Người giải thích vì sao nên dấn thân vào cửa hẹp, đường chật: "Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” ( Mt 7, 13 – 14 ).

Hơn nữa, Người còn đòi hỏi sự dứt khoát, lòng can đảm, dám hy sinh, liều mạng: "Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống Ta, thì sẽ được cứu mạng sống ấy" ( Lc 9, 23 – 24 ).

Người luôn sống và dạy con chiên theo Người, kiên quyết lội ngược dòng đời. Tìm cái khó hơn là cái dễ dàng, tìm cái dại khờ hơn là cái khôn ngoan, giỏi giang trần tục, tìm cái khổ sở, đớn đau hơn là cái thoải mái, sung sướng, dễ chịu. Xả kỷ vị tha, chứ không ve vuốt, chiều chuộng cái tôi đáng ghét, phù du. Vác thánh giá bản thân, gia đình và cả bá nhơn bá tánh, chứ không chạy trốn khó khăn gánh nặng, nếu muốn sống viên mãn thảnh thơi.

Chủ Chiên chí ái

Con chiên hẳn thắc mắc vì sao Chủ Chăn lại chỉ dẫn, đòi hỏi khắc nghiệt đến thế, nếu đã chan chứa yêu thương đàn chiên ? Đơn giản thôi: Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi ! Người khuyên xả kỷ vị tha, sao không đau xót, nhức nhối, tội nghiệp cho tấm thân quen nuông chiều ?

Thực sự, từ khi Ađam ăn trái cấm lìa xa Thiên Chúa, con người đã cảm thấy đau khổ, bất an và sống trong kiếp lầm than, tối tăm. Từ đó, con người cứ bị giam cầm, mù quáng trong đam mê thân xác, trong nhu cầu vị kỷ, trong tham sân si nối tiếp vô tận. Vì yêu thương, nhân từ, chí ái, Đức Giêsu đến giải thoát con người khỏi ngục tù bản thân hẹp hòi, khỏi kiếp nô lệ thế gian, ma quỷ, khỏi cuộc sống phù du hư nát, để được sống dồi dào, viên mãn.

Chủ Chiên chí ái không hoa mắt vì số lượng, đám đông, mà quên chăm sóc đến từng cá thể, từng con chiên. Người luôn tìm kiếm chiên lạc đàn: “Như một mục tử đem chiên đi ăn, bồng bế chiên trong tay, ôm lên ngực, đưa các chiên mẹ đến chỗ nghỉ ngơi” ( Is 40, 11 ).

Chủ Chiên hoàn hảo

”Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu” ( Ga 15, 13 ). Chủ Chiên khiêm tốn hạ mình làm bạn hữu với đàn chiên. Người nhìn nhận vai trò và trách nhiệm cao cả với đàn chiên: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” ( Ga 10, 11 ).

Để cứu chuộc đoàn chiên, Người không những chịu vu oan cáo vạ, đánh đập, mà còn hiến thân mình chịu chết nhục nhã trên thập giá. Người giang hai cánh tay ôm lấy, đoàn tụ những con chiên phân tán, xa lạ thành một đoàn chiên duy nhất được hưởng hồng ân cứu độ.

Con phải tin vào sứ mạng của con, cảm hóa và truyền thông lòng tin tưởng, bầu nhiệt huyết trong con cho kẻ khác" ( Đường Hy Vọng, số 838 ).

Lạy Chúa Chiên Nhân Lành, xin tìm đến và đón nhận chúng con đang còn mê muội lạc đàn về cùng. Xin nâng đỡ, chăm sóc, bồi dưỡng chúng con đang bị suy nhược, thương tích và bệnh hoạn, để chúng con được tái sinh trong đoàn chiên duy nhất.

Lạy Mẹ Maria, kính xin Mẹ thương xót hướng dẫn, bảo vệ chúng con đang lạc bước, bơ vơ, đơn côi, giữa dòng đời tràn đầy cạm bẫy, dối gian, hận thù. Xin Mẹ dẫn chúng con bình an về với đoàn chiên của Chúa Chiên Lành. Amen.

AM. TRẦN BÌNH AN

ĐỨC GIÊSU LÀ CỬA CHUỒNG CHIÊNTrong cuộc sống, nhiều khi chúng ta được hỏi hay chính mình đặt ra cho mình câu hỏi: “Đức

Giêsu là ai ?” Đây có thể là câu hỏi quan trọng nhất trong cuộc đời của con người nói chung và của

5

Page 6: Ephata 609

những người tin Đức Giêsu nói riêng. Tuy nhiên, câu hỏi đó hôm nay chúng ta được chính Đức Giêsu mặc khải khi nói: “Ta là cửa chuồng chiên”. Tại sao lại là “cửa chuồng chiên ?”

1. Cửa chuồng chiên là gì ?

Trước khi nói đến “cửa chuồng chiên”, chúng ta nên nhắc lại hình ảnh người mục tử chăn chiên nơi đất nước Dothái:

Ở đất nước này, người ta thường hay có những đàn gia súc như chiên hoặc cừu. Mỗi đàn như thế thường có người chăn dắt. Bổn phận của các mục tử chăn chiên chính là lo sao tìm được cho chúng những đồng cỏ xanh tươi, những dòng suối mát trong lành. Bảo vệ chúng khỏi bị tấn công bởi những sói dữ, hùm beo... Khi chăm lo cho chúng như thế, người mục tử phải biết rõ từng con: con nào đau ốm; ghẻ lở; con nào đi hoang, lạc đàn... Biết để làm gì ? Thưa để yêu thương, để chăm sóc... để có tương quan thân tình.

Khi đêm về, người mục tử có trách nhiệm dẫn chiên về dàn và cho chúng vào chuồng. Lúc này, họ lại được ví như “cửa chuồng chiên”.

Hình ảnh “cửa chuồng chiên” là một hình ảnh được dùng để biểu đạt cho sự an toàn.

Thật vậy, khi nói đến cửa thì ai cũng hiểu là để đóng vào hoặc mở ra. Khi đóng vào thì như một sự bảo vệ để khỏi bị kẻ thù tấn công và trộm cắp. Đóng vào để tránh sương gió lùa vào. Đóng vào thì mọi người an tâm ngon giấc.

Còn khi cánh cửa mở ra, thì như chào đón một luồng gió mới vào nhà, làm cho nhà khỏi bị ẩm mốc, hôi hám. Mở ra là để cho mọi người và súc vật trong nhà được tự do ra vào, lui tới...

2. Đức Giêsu là Mục Tử và là Cửa Chuồng Chiên

Khi tự cho mình là Mục Tử và Cửa Chuồng Chiên, Đức Giêsu muốn sống những đặc tính của người mục tử và vai trò của cửa chuồng chiên trong khi thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng. Mặt khác, Ngài cũng muốn giới thiệu và trao cho các Tông Dồ và môn đệ những đặc tính của người mục tử nhân lành và cửa chuồng chiên trong Giáo Hội.

Thật vậy, Đức Giêsu chính là Mục Tử Nhân Lành, Ngài đã biết rõ từng con chiên, Ngài đã yêu thương chúng và làm cho chúng được hạnh phúc. Ngài đã chữa lành mọi vết thương thân xác và tâm hồn để cho chiên được bình an, và Ngài đã hy sinh cả mạng sống để cho chiên được sống và sống dồi dào.

Khi mời gọi các Tông đồ, môn đệ và những ai dấn thân trên con đường loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu cũng mời gọi họ hãy đi trên con đường mà Ngài đã đi. Con đường đó là gì, nếu không phải là con đường của hiền lành, khiêm nhường, vâng lời và yêu thương. Con đường đó chính là con đường của hạt lúa mục nát, con đường của thánh giá... ?

Trở nên như Ngài, tức là cũng phải trở nên như những cánh cửa của chuồng chiên. Như vậy, các ngài như là người lính canh chừng. Canh chừng cho khỏi kẻ thù tấn công là những thứ học thuyết vô bổ, tạm thời, chóng qua vô ích. Canh chừng để đàn chiên không bị kẻ thù gian dối, lọc lừa và tội lỗi lôi kéo. Canh chừng như một người cha, người mẹ canh giấc ngủ của con mình. Nếu cần, hình ảnh người Mục Tử hy sinh cả mạng sống của mình cho đoàn chiên cũng là lời mời gọi cho các mục tử ngày nay trong Giáo Hội.

3. Mọi kitô hữu đều là mục tử nhân lành và cửa chuồng chiên

Khi nói đến ngày thế giới cầu nguyện cho ơn Thiên Triệu, nhiều người nghĩ đây là ngày dành riêng cho các Linh Mục và Tu Sĩ. Nghĩ như vậy không sai. Nhưng nếu hiểu theo nghĩa rộng, thì hôm nay cũng là ngày của mỗi chúng ta, những người đã lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy nhân danh Chúa Ba Ngôi để thi hành chức năng Tư Tế, Ngôn Sứ và Vương Dế của Đức Giêsu Kitô.

Vì thế, khi kết hợp với Đức Giêsu là vị Mục Tử Tối Cao, mỗi người đều có thể và như một trách nhiệm phải là mục tử cho mình và gia đình mình.

Mục tử cho mình và gia đình, tức là hãy tự lo cho chính mình. Lo cho chính mình là biết làm điều lành, tránh điều ác. Biết trở nên gương sáng, chứng nhân cho người khác. Những bậc làm cha mẹ khi thi hành sứ vụ mục tử này chính là sống sự chung thủy với nhau, trở thành những người mẫu mực, khôn ngoan, luôn làm gương sáng, yêu thương các con mình. Biết lo cho các con mình được học hành, trao dồi đạo đức cho chúng, dạy cho chúng biết mến Chúa và yêu người... Biết cảnh giác và canh trừng trước những nguy hại của thời buổi kinh tế thị trường, công nghệ thông tin... Biết giáo dục con cái hướng thiện, làm ăn chân chính...

6

Page 7: Ephata 609

Với những người làm con, chúng ta nghĩ ngay đến bổn phận trước tiên phải có chính là sự hiếu kính với ông bà, cha mẹ, tổ tiên... biết làm những gì có lợi cho đời sống thiêng liêng trước rồi mới nghĩ đến các lợi vật chất sau.

Nói chung, mọi thành phần trong gia đình phải lo chu toàn bổn phận cách tốt đẹp trong sự yêu mến Chúa, kính trọng và yêu thương nhau, để xây dựng tình đoàn kết, hiệp nhất trong gia đình.

Làm được như thế, ấy là lúc chúng ta thể hiện vai trò mục tử phổ quát của mình cách rõ nét nhất.

Mong thay, trong năm “Tân Phúc Âm Hóa Gia Đình”, mỗi người hãy trở nên mục tử của chính mình, gia đình và tha nhân... Lấy nền tảng Lời Chúa để hướng dẫn hành vi của chúng ta. Lấy tình thương làm căn cốt. Lấy tình huynh đệ làm động lực...

4. Cầu nguyện cho ơn Thiên Triệu

Hôm nay, Giáo Hội cũng dành riêng Chúa Nhật này để cầu nguyện cho ơn Thiên Triệu; đồng thời Giáo Hội cũng muốn mọi thành phần trong Giáo Hội biết liên đới với nhau để cùng giúp nhau chu toàn sứ mạng đem Chúa đến cho muôn dân.

Vì thế, chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các bạn trẻ, biết quảng đại đáp lại lời mời gọi đầy yêu thương của Chúa, sẵn sàng dấn thân trên con đường loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Xin cũng cầu nguyện cho các Linh Mục đang làm mục vụ khắp nơi trên thế giới, được trở nên mục tử đích thực của Chúa giữa trần gian. Gặp được nhiều điều thuận lợi trong khi thi hành sứ vụ. Xin cũng nhớ đến các linh mục đang gặp khó khăn trên hành trình ơn gọi cũng như sứ vụ loan báo Tin Mừng.

Và mỗi người chúng ta cũng hãy đóng góp phần mình vào trong việc vun trồng ơn gọi bằng cách khuyến khích con em mình tiến bước trên hành trình dâng hiến; sẵn sàng hy sinh dâng con cho Chúa, đồng thời quảng đại giúp đỡ các Chủng Viện, Dòng Tu trong khả năng của mình, để góp phần vào việc đào tạo ơn gọi Linh Mục, Tu Sĩ cho Chúa và cho Giáo Hội.

Lạy Chúa, tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con những mục tử là các linh mục. Xin Chúa tiếp tục thánh hóa các ngài, để các ngài trở nên những mục tử như lòng Chúa ước mong. Xin Chúa cũng đón nhận sự chân thành, cộng tác của mỗi người chúng con trong việc bảo vệ, cổ võ và vun trồng ơn Thiên Triệu. Amen.

Tu Sĩ Jos. Vinc. NGỌC BIỂN

NGƯỜI LẠChúng ta đang sống trong Mùa

Phục Sinh. Phụng Vụ mời gọi chúng ta chiêm niệm hình ảnh Đức Giêsu, Chúa Chiên Lành vào Chúa Nhật thứ IV Phục Sinh này, hẳn là Phụng Vụ muốn làm nổi bật sứ vụ “chết và sống lại của Mục Tử Giêsu Nhân Lành”.

Hơn nữa, Hội Thánh lại chọn ngày này để cầu nguyện cho Ơn Thiên Triệu, hẳn là không ngoài ý hướng cầu cho

những người theo Chúa Kitô trong đời sống dâng hiến được ơn noi gương Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành mà “chết và sống lại cho đoàn chiên được sống lại”.

Hầu hết các bài suy niệm hôm nay đều nói đến tính cách “mục tử nhân lành của Chúa Giêsu”. Riêng tôi, tôi muốn nhìn vào một góc khuất rất thời sự, rất khẩn thiết mà người ta hay tránh né: “Chúng sẽ không theo người lạ, trái lại, còn trốn tránh, vì chúng không quen tiếng người lạ" ( Ga 10, 5 ).

- Người lạ là người không giống Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành, không có lòng nhân, không có lòng lành, vô cảm trước bao cảnh ngộ của con chiên đáng lý ra phải chạnh lòng, dửng dưng trước những nhu cầu đời sống của con chiên, chẳng động lòng cũng chẳng động tay động chân trước những nỗi khốn khổ của con chiên, nhất là những con chiên lâm vòng lao lý vì đấu tranh cho chính nghĩa, cho công bằng, cho sự thật. Nhân Lành không có nghĩa là hiền lành cầu an, mà là làm hết sức mình để con người được thương xót, được sống, được bình an, được hạnh phúc.

- Người lạ là người không dám “hy sinh mạng sống vì đàn chiên”, mà ngược lại, “đàn chiên phải hy sinh mạng sống mình cho họ”. Người lạ đến không với mục đích “cho đàn chiên được sống và sống dồi dào”, mà ngược lại, đàn chiên phải cung phụng hầu hạ họ đủ mọi sự.

7

Page 8: Ephata 609

- Người lạ là người không “ban Bí Tích” nhưng ngược lại, “bán Bí Tích” với đủ mọi giá. Giá nào có bậc nấy: qua loa, trung bình hay long trọng tùy theo phí dịch vụ phải nạp !

- Người lạ là người không biết con chiên mình, không biết đàn có bao nhiêu con, hoặc nếu biết, chỉ quan tâm đến mấy con chiên mập béo, mấy con chiên hay tới lui dâng quà, biếu tiền, tặng xe, tặng nhà, tặng villa… cho mình, còn bấy nhiêu con chiên bệnh hoạn, đau yếu, ghẻ lở thì không hề biết tên, biết tuổi, biết nhà, biết cửa. Vì thế, người lạ ấy không thể gọi “đích danh” được những con chiên mà mình đã chẳng hề ngó ngàng tới làm chi cho thêm rầy rà rách việc lớn !

- Người lạ là người không dám gánh lấy tội trần gian, chỉ toàn đập bàn, xô ghế trong phòng họp khi có ai đó không chiều theo ý mình, hoặc la toáng lên trên tòa giảng rằng kẻ nầy chống đối, kẻ khác cứng đầu hoặc không có cái đầu, kẻ khác lại bất tuân luật Hội Thánh do chính mình lập ra !

- Người lạ là người ăn trộm công khai thành ăn cướp, cướp của con chiên. Đến đâu, cũng chỉ lo xây dựng công trình này, công trình nọ, hết Nhà Thờ, rồi Nhà Xứ, phòng hội… Đang khi xây thì xin chỗ này, xin chỗ kia, không ai biết ai đã cho, đã hiến bao nhiêu cả. Cuối cùng khi xong công trình, thì người lạ phán rằng: “Giáo Xứ còn mắc nợ tôi 700 triệu”. Có ông Hội Đồng nghe vậy thì tự an ủi: “May quá, xứ kia mắc nợ ngài tới 1 tỷ 3 cơ.” Vậy ai mắc nợ ai nhỉ ?

- Người lạ là người không giống Chúa Giêsu Kitô trong cách sống Mục Tử. Rất quen thuộc đấy chứ, nhưng lại rất xa lạ. Bởi vì người lạ ấy là “người khác với Đức Kitô”, chứ không phải là một “Đức Kitô Khác” ( Alter Christus ), lại càng không thể là hiện thân cho “chính Đức Kitô” ( Ipse Christus ).

Thỉnh thoảng, nghe Giáo Xứ này có chuyện bất nhất nội bộ, Giáo Xứ kia có chuyện bất bình, có người bị đuổi việc hoặc bỏ việc, bỏ tham dự Thánh Lễ tại xứ mình… Do đâu ? Vì họ không muốn nghe tiếng người lạ !

Xin chớ vội trách móc, nhưng xin hãy biết rằng, con chiên ở Việt Nam có truyền thống rất ngoan đạo, họ đang vâng nghe theo chủ chiên của mình, nhưng không hẳn là họ đã nể phục, nếu chủ chiên của mình giống người lạ nhiều hơn là mục tử. Họ cũng không có thói quen chống đối mục tử của mình, vì từ ngàn xưa cha ông ta đã dạy: “Chống cha là chống Chúa”. Như thế thật là tốt lành, nhưng không phải vì thế mà các mục tử được miễn giảm cho việc “trở nên mục tử nhân lành theo gương Chúa Giêsu”. Có nơi người ta nói rất lễ độ nhưng thẳng thắn: "Thưa cha, hai chữ "vâng phục" thì chúng con chỉ sẵn sàng xin "vâng", còn "phục" thì chưa chắc ạ !"

Cái thiểu số “người lạ” kia cũng làm ảnh hưởng không ít đến uy tín của Hội Thánh Công Giáo và uy tín của Chúa Giêsu Mục Tử Nhân Lành. Ảnh hưởng ấy dẫn đến việc “dậm chân tại chỗ của Tin Mừng”, “người ta tin Đạo mà người ta không tin người có Đạo, càng không hẳn phải tin người lãnh Đạo”, hoặc “những người lãnh đạo vô thần cũng có cách sống y như thế, có hơn gì đâu ?”…

Một thiểu số thôi. Không vơ đũa cả nắm ! Không bi quan ! Không mất niềm hy vọng ! Vì chúng ta vẫn còn một tuyệt đại đa số mục tử như lòng Chúa mong ước ! Tuy nhiên, trước trào lưu tục hóa hàng Giáo Sĩ của một xã hội duy vật, vô thần càng gia tăng, mà cụ thể đang có dấu hiệu tục hóa ngay nơi những góc khuất – khuất vì bao che, khuất vì không ai dám nói, khuất vì chưa chắc có tự do ngôn luận trong Hội Thánh, khuất vì đủ thứ lý do… thì Ngày Cầu Nguyện cho Ơn Thiên Triệu càng có ý nghĩa khẩn thiết hơn bao giờ hết:

Lạy Chúa, xin cho TẤT CẢ LINH MỤC của chúng con đều là những MỤC TỬ NHÂN LÀNH NHƯ LÒNG CHÚA MONG ƯỚC. Amen.

PM. CAO HUY HOÀNG, 7.5.2014

"TA ĐẾN ĐỂ CHÚNG ĐƯỢC SỐNG, VÀ SỐNG DỒI DÀO" "Đức Chúa phán thế này: Này Ta chống

lại các mục tử, Ta sẽ đòi lại chiên Ta nơi tay chúng" ( Ed 34, 10 ). Các mục tử đã làm gì để Thiên Chúa nổi giận và đòi lại chiên đây ?

Qua miệng Ngôn Sứ Edêkien, Thiên Chúa còn nói mạnh hơn nữa: "Ta sẽ không để chúng chăn chiên Ta nữa. Các mục tử sẽ không còn được chăn nuôi lấy mình chúng nữa. Ta sẽ giựt lấy chiên khỏi mõm chúng, khiến chiên Ta không còn là mồi ngon cho chúng ăn thịt nữa" ( Ed 34, 10 ).

8

Page 9: Ephata 609

À thì ra, các mục tử chỉ để ý đến lợi ích của mình, không dám xả thân vì để cứu chiên, nay Chúa đòi lại chiên và Ngài tuyên bố: "Chính Ta sẽ tìm kiếm chiên của Ta, và Ta sẽ chăm nom đến chúng" ( Ed 34, 10 ).

Thiên Chúa chăm nom chiên như thế nào ? Ngài phán: "Như người mục tử chăm nom đàn chiên của mình vào ngày nó ở giữa chiên phiêu bạt thế nào, cũng vậy Ta sẽ chăm nom chiên của Ta. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi nơi chúng tán loại, vào ngày mây mù đen tối. Ta sẽ đem chúng ra khỏi các dân. Ta sẽ thâu họp chúng lại từ các xứ. Ta sẽ dẫn chúng về lại thửa đất của chúng. Và Ta sẽ chăn nuôi chúng trên núi Israen" ( Ed 34, 13 – 14 ).

Những "ngọn núi Israen" theo các tác giả Thánh Kinh là nơi an nhàn, có suối nước trong lành, không có gì độc hại và nguy hiểm, nơi ấy có đồng cỏ non xanh tốt, màu mỡ ( x. Ed 34, 13 – 15 ). Nếu ta muốn an toàn thoải mái, hãy đến đó tận hưởng. "Đức Chúa phán: Chiên thất lạc, Ta sẽ tìm kiếm. Chiên tản mác, Ta sẽ lùa về. Chiên xây xát, Ta sẽ băng bó. Chiên bệnh hoạn, Ta sẽ bổ sức" ( Ed 34, 16 ).

Những ngọn núi chúng ta vừa nói ở trên còn ám chỉ dòng suối chảy Tin Mừng được rao giảng từ các Tông Đồ cho đến tận cùng thế giới: "Tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển" ( Tv 18, 5 ).

Thật là hình ảnh cụ thể tuyệt đẹp và đầy cảm động về một Vì Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa đã làm đối với chúng ta là những tạo vật, những con chiên của Ngài. Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, được Chúa Cha phái đến, cũng tuyên bố: "Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta" ( Ga 10, 14 ).

Hôm nay, mỗi người chúng ta tự hỏi: tôi có phải là chiên của Chúa không, nếu phải thì tôi có biết Chúa không, biết thì biết thế nào ? "Biết" ở đây, không có nghĩa là "biết" nhờ Đức Tin, nhưng là "biết" nhờ Đức Mến. "Biết" không có nghĩa là "biết" được diễn tả qua thái độ tin, nhưng là "biết" được diễn tả qua việc làm. Chính Thánh Gioan Tông Đồ đã viết điều này và làm chứng ở nơi khác: "Ai nói mình biết Thiên Chúa mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối" ( 1 Ga 2, 4 ).

Chúa Giêsu còn nói về các con chiên: "Chiên Ta thì nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta, Ta cho chúng được sống đời đời và chúng sẽ không bao giờ hư mất" ( Ga 10, 27 ).

Vậy, ai chân thành đi theo Chúa Giêsu thì được nuôi dưỡng nơi đồng cỏ xanh tươi muôn đời. Đồng cỏ của đoàn chiên đây là gì nếu không phải là cảnh thiên đàng luôn xanh ngắt, khiến tâm hồn ngập tràn niềm vui, nơi có Thiên Chúa luôn hiện diện, nơi đây chiên theo Chúa và làm theo ý Chúa sẽ được hân hoan mừng lễ cùng với bao công dân Nước Trời.

Trên đây là những lý do với nhiều lý do khác mà Giáo Hội gọi Chúa Nhật thứ IV Phục Sinh là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, đồng thời mời gọi con cái mình suy nghĩ đặc biệt về hình ảnh của Thiên Chúa, Chúa Giêsu Kitô, Vị Mục Tử Tối Cao đã hy sinh Mạng Sống Mình vì đoàn chiên. Chúa Giêsu muốn không chỉ có các mục tử tiếp bước, Người muốn những người nam nữ dâng mình cho Chúa trong đời thánh hiến, đến lượt mình, cũng xả thân mình để bảo vệ đàn chiên, đưa các con chiên lạc trở vể. Người mong ước các mục tử với ơn Người trợ giúp sẽ hoàn thành trách nhiệm dẫn dắt đoàn chiên đến đồng cỏ Nước Trời.

Chúa nhật Chúa Chiên Lành cũng là một Chúa Nhật đặc biệt đối với các mục tử khi đặt mình vào vị trí của Chúa Giêsu Mục Tử nhân lành duy nhất. Chúng ta hãy cầu nguyện cho các mục tử thân yêu: nâng đỡ, cám ơn và khuyến khích các ngài ! Chúng ta cũng cầu nguyện cho Giáo Hội Việt Nam có thêm nhiều Linh Mục lành thánh. Ý chỉ này cũng thật khẩn thiết cho Giáo Hội hoàn vũ.

"Ơn gọi, chứng tá cho sự thật" là chủ đề ngày thế giới cầu cho ơn kêu gọi năm nay. Ðức Thánh Cha Phanxicô yêu cầu người Công Giáo hãy "mở lòng chúng ta ra cho những lý tưởng tuyệt vời, cho những điều cao cả với niềm tín thác rằng Chúa không bao giờ bỏ rơi công nghiệp tay Ngài là chúng ta. "Chính Ngài là Ðấng dựng nên ta, ta thuộc về Người; ta là dân Người, là đoàn chiên Người dẫn dắt" ( Tv 100, 3 ).

Và cùng với Ngài, chúng ta có thể tiến bước, trở thành những môn đệ và những chứng nhân cho tình yêu của Thiên Chúa, trong khi mở rộng con tim của chúng ta với những lý tưởng tuyệt vời, và những điều cao cả.

Đức nguyên Giáo Hoàng Bênêđictô XVI viết rằng: "Ngày nay vẫn vậy, sống trong cộng đồng các môn đệ là Giáo Hội, Chúa Giêsu Kitô kêu gọi đi theo Người". Ngài cũng đặc biệt mời giới trẻ "hãy trau dồi nét hấp dẫn các giá trị, các mục tiêu nâng cao, các chọn lựa triệt để, để có thể phục vụ tha nhân theo chân Chúa Giêsu".

Chúa Giêsu không ngừng lặp đi lặp lại "Hãy đến ! Hãy theo ta". Theo Chúa Giêsu "có nghĩa là nhấn chìm ý muốn của chính mình vào thánh ý Chúa Giêsu, dành ưu tiên cho thánh ý Người và đặt

9

Page 10: Ephata 609

Chúa Giêsu ở vị trí đầu so với tất cả những gì làm nên cuộc sống chúng ta: gia đình, công việc, những lợi ích ca nhân và bản thân".

Xin cho giới trẻ hôm nay đang ở giữa biết bao những gợi ý nông cạn và phù phiếm, tạm thời, biết chuyên tâm trau dồi nét hấp dẫn đối với các giá trị, các mục tiêu cao thượng, những chọn lựa triệt để, hầu phục vụ tha nhân theo chân Chúa Giêsu. Đáp trả quảng đại và mau lẹ tiếng Chúa Kitô kêu gọi đi theo Người sát sao hơn nữa, đặc biệt với các thế hệ mới. Amen.

Lm. Antôn NGUYỄN VĂN ĐỘ

CỨ THEO LỐI ẤY MÀ VÀOTrong các bài giảng của Đức Giêsu, hầu như Ngài luôn dùng các hình ảnh ví dụ rất cụ thể sinh

động, được lấy từ sự thật vật thật trong cuộc sống, vì chúng gần gũi và thân thiết với con người giúp cho người thụ huấn dễ hiểu, dễ tin. Hình ảnh người chăn chiên trong bài Tin Mừng hôm nay cũng vậy.

Chiên gắn liền với đời sống du mục của người Do Thái. Họ luôn thay đổi từ cánh đồng này sang cánh đồng khác để chăn dắt bầy chiên của mình. Người chủ chăn chăm lo cho từng con chiên trong đàn của mình, những con vật hiền lành, bé bỏng và đáng yêu, sao cho không bị thú dữ ăn thịt. Và Đức Giêsu tự ví mình là Mục Tử tốt lành, là Cửa chuồng chiên.

Đúng vậy, Đức Giêsu chính là vị Mục Tử nhân lành, Đấng duy nhất có thể mang lại sự sống và bình an cho nhân loại. Những ai không đến từ chân lý và sự thật đều là “kẻ trộm, kẻ cướp” ( Ga 10, 1 ). Đức Giêsu chính là Cửa chuồng chiên, là Cửa chân lý và sự thật, là cửa mang lại hạnh phúc vĩnh cửu và sự sống đời đời.

Những mục tử giả, những người đội lốt là chủ chiên nhưng không đến từ Thiên Chúa, không quy phục Thiên Chúa đều bị coi là trộm cướp, là kẻ tiêu diệt. Ngày nay có rất nhiều mục tử giả không sống đúng vai trò mục tử. Đó là những con người không đến từ Thiên Chúa. Họ chỉ mang đến cho nhân loại sự diệt vong mà thôi.

Đức Giêsu đã khẳng định: “Tôi là cửa cho chiên ra vào. Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp, nhưng chiên đã không nghe theo họ. Tôi là cửa, ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” ( Ga 10, 7 – 10 ).

Mỗi người Kitô hữu chúng ta, đều là đàn chiên và cũng là mục tử. Chúng ta là đàn chiên của Chúa, thuộc về Đức Kitô và đi theo Ngài. Đi theo Đấng là Cửa chuồng chiên, là Cửa dẫn vào cõi phúc, chúng ta được sự sống dồi dào viên mãn trong ân sủng của Thiên Chúa. Khi đã trở thành đàn chiên của Chúa, chúng ta lại trở thành mục tử của chính anh em đồng loại, mang đến niềm vui, hạnh phúc cho mọi người xung quanh.

Cửa, chính là ngõ để dẫn con người đến nơi cần đến, đạt được điều mong muốn. Ngày nay có rất nhiều cửa giúp con người được sung sướng thoả mãn. Nhưng cửa nào cũng cần phải có tiền. Tiền chính là chìa khóa mở toang mọi cánh cửa. Chỉ cần có tiền là cửa nào cũng lọt. Tiền càng nhiều cửa càng cao, càng sâu, càng dẫn đến tột đỉnh danh vọng. Những cánh cửa ấy tưởng chừng như là cửa thiên đàng tại thế, nhưng sự thật lại là cửa dẫn đến hủy diệt, đưa con người sa lầy vào hết vũng bùn này đến tội lỗi khác.

Cánh Cửa Thiên Chúa chỉ mở được bằng tình yêu và lòng mến. Ai thu tích càng nhiều của cải vật chất thì càng không thể nào qua.

Lạy Chúa, có rất nhiều cánh cửa trong đời. Hết cửa này mở ra rồi cửa kia đóng lại. Đường đời trăm vạn nẻo, không biết đâu là cửa thật, đâu là ngõ cụt khiến con sa vào hố diệt vong. Cho dù nhiều cửa, nhiều ngõ, nhiều đường thật đấy, nhưng chỉ có một lối duy nhất đưa con đến hạnh phúc vĩnh cửu, đến nguồn sự sống dồi dào. Đức Kitô chính là Cửa mở ra cho con hạnh phúc ngàn đời. Xin giúp con, hãy biết cứ theo lối ấy mà vào, đừng mất công ngày ngày bôn ba kiếm tìm chi nữa. Amen.

M. HOÀNG THỊ THÙY TRANG

10CÙNG XÁC TÍN

Page 11: Ephata 609

MẦU NHIỆM CỨU CHUỘC VÀ MẸ MARIAKhi bàn về Đức Tin và sự Phục Sinh, Thánh Phaolô viết trong

1 Cr 15, 22: “Quả thế, như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống”. Như vậy, nhu cầu đối với tất cả mọi người cần có về ơn cứu chuộc bởi Đức Kitô qua cuộc thương khó – phục sinh và ân phúc vô nhiễm nguyên tội dành cho Đức Maria đã gây ra các cuộc tranh luận. Đến đầu thế kỷ 16, Chân Phước Gioan Dons Scot đề xuất một giải pháp dung hòa về sự vô nhiễm nguyên tội của Đức Maria và Giáo Lý về sự Cứu Chuộc của Đức Kitô bằng cách phân rõ 2 trường hợp của Ơn Cứu Chuộc: 

- Ơn Cứu Chuộc bằng cách gìn giữ - Ơn Cứu Chuộc bằng cách chữa trị.

Thiên Chúa đã dùng phương cách thứ nhất cho Đức Maria và cách thứ hai cho chúng ta. Và như thế, nếu mọi người đều phạm tội trong Ađam, thì Đức Maria lại được gìn giữ để trở thành một ngoại lệ. Chính Mẹ đã nhận được ân sủng lớn lao này, khi Thiên Chúa lập trình cho chương trình cứu chuộc con người từ muôn đời. Còn chúng ta chỉ được thụ hưởng ơn này sau ngày lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy.

Tín điều Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội có quan hệ mật thiết với chương trình Ngôi Hai nhập thể, chịu khổ nạn và phục sinh. Tổng quát hơn, nhà thần học H. Urs von Balthasar nói rằng: “Toàn bộ Thánh Mẫu học phải được giải thích theo Kitô học, và chính điều này làm nên sự cao cả của Đức Maria”. Thiên Chúa đã chọn Đức Maria cùng hiệp thông cho chương trình cứu rỗi và ban cho Mẹ sự tinh tuyền ban đầu.

Suy niệm về Thánh Mẫu học, chúng ta hay nghiêng về các chủ đề liên quan đến những ân phúc mà Đức Maria được Thiên Chúa trao ban một cách đặc biệt. Nhưng có một quy luật tự nhiên mà chúng ta từng biết và Chúa Giêsu đã nói trong Ga 12, 24: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”. Và Mẹ Maria, để đến bờ vinh quang viên mãn cũng trải qua con đường thập giá, con đường mà Người Con đã chọn lựa. Con đường ấy cũng trở thành một biểu trưng trong đời sống các Kitô hữu trên đường lữ hành về Quê Trời.

Những ai đã từng nhận thiên chức làm cha làm mẹ, chắc sẽ thấu hiểu phần nào nỗi đau của Đức Maria, nếu phải chứng kiến người con duy nhất – đầy quyền năng với vô vàn các phép lạ, bị hành hình, bị treo lên, bị sỉ nhục, bị đóng đinh thập tự giá cho đến chết.

Giáo Hội chọn ngày 15.9 làm Lễ nhớ bảy sự thương khó của Đức Maria, ngay sau ngày 14.9 là Lễ suy tôn Thánh Giá, nhằm nhắc nhở cho chúng ta sự tử đạo tinh thần của Mẹ Thiên Chúa. Đây là một dạng thức Thập Giá mà Mẹ đón nhận, được bao hàm trong cụm từ “fiat – xin vâng” nổi tiếng của Đức Maria, khi đối đáp với thiên sứ Gabriel.

Chính Chúa Giêsu trong vườn cây dầu cũng đã dùng cụm từ “fiat – xin vâng” này để cầu nguyện với Chúa Cha, và nó khởi sự cho một chặng đường khổ nạn: "Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha" ( Mt 26, 33 ). Như thế, xin vâng theo ý Thiên Chúa là con đường thập giá phổ quát của các Kitô hữu.

Đức Hồng Y PX. Nguyễn Văn Thuận chia sẻ như sau: “Bằng cả cuộc sống, Mẹ Maria cũng kết hiệp với cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu cho toàn nhân loại. Một lưỡi gươm đã đâm thâu tâm hồn Mẹ. Nhưng Mẹ vẫn đứng vững, một mình, can đảm”. Một lưỡi gươm mà tiên tri Simeôn đã tiên đoán trong Tin Mừng theo Thánh Luca 2, 33.

Lạy Đức Maria, cứ mỗi Mùa Phục Sinh, phần hồn con lại được sạch nhờ Bí Tích Hòa Giải, sau đó chúng con lại tiếp tục đi trên con đường tội lỗi vì sự yếu đuối và kém Đức Tin. Xin hãy cầm tay dẫn dắt, ủi an vì chúng con luôn mong muốn đi đúng đường và đi bình yên trên con đường ấy, cho dù đó là đường Thập Giá. Amen.

 G. TUẤN ANH

11

CÙNG NHẬN ĐỊNH

Page 12: Ephata 609

ĐỨC MARIA VÀ SỰ HIỆP NHẤTPhong trào Đại Kết tính từ ngày khai sinh đến nay đã hơn một thế kỷ. Vào năm 1910 đại hội của

các Hội Truyền Giáo Tin Lành ( World Missionary Conference ) đã được tổ chức ở Edinburgh ( Scotland ). Lý do đưa tới việc tổ chức Đại Hội là thực trạng chua chát của các xứ truyền giáo khi mà các Giáo Đoàn trẻ chất vấn với những nhóm Thừa Sai: "Tại sao các ông đều rao giảng một Đức Kitô như nhau mà các ông lại chia rẽ thành bao nhiêu là phe nhóm, nào là Metodist, nào là Luteranist, nào là Episcopalist ? Tại sao các ông vừa mang cho chúng tôi Tin Mừng của Đức Kitô mà vừa mang theo các sự phân hóa từ Âu Mỹ sang đây làm gì ?" ( Nguồn Bách Khoa Toàn Thư Mở Wikipedia – Phong Trào Đại Kết ).

Thắc mắc của các Giáo Đoàn trẻ Tin Lành ngày ấy một lần nữa lại được lấy làm chủ đề cho Tuần Lễ cầu Nguyện cho Hiệp Nhất Kitô Giáo đang được nhiều Giáo Hội ở Bắc bán cầu cử hành từ ngày 18 đến 25.1.2014, tập trung vào một câu hỏi đầy thách thức của Thánh Phaolô gửi cộng đoàn Kitô Hữu tiên khởi ở Côrintô: “Thế ra Đức Kitô đã bị chia năm xẻ bảy rồi ư ? ( 1 Cr 1, 13 ) – ( Nguồn Lamhong.org 31.3.2014 – Đức Hồng Y Koch nói về sự hiệp nhất Kitô Giáo và mối quan hệ Do Thái Giáo – Công Giáo ).

Qua câu chất vấn của Thánh Phaolô với giáo đoàn Côrintô cho thấy vấn đề chia rẽ giữa các Kitô hữu là một thực trạng nhức nhối đã có ngay từ thuở sơ khai Giáo Hội. Chính vì nhận thức được tác hại của sự chia rẽ ấy đối với công cuộc truyền giáo, thế nên các Giáo Hội mới lập ra các ủy ban, tổ chức hết hội nghị này đến hội nghị khác chỉ với mục đích là để tiến tới sự hiệp nhất trong Kitô Giáo. Thông qua các hội nghị này người ta đưa ra các chủ trương khác nhau, chẳng hạn tại Hội Nghị Stockholme có phương châm “Đạo lý năng gây chia rẽ còn hành động thì gây đoàn kết”. Tuy nhiên về sau tại Hội Nghị Amsterdam ( Hòa Lan ) năm 1948, nhận ra rằng sự chia rẽ về đạo lý sẽ mang theo chia rẽ về hành động, thế nên đã đề ra một tiêu chuẩn mới là phải chấp nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Mặc dầu vậy phải chờ tới năm 1961, Đại Hội New Delhi mới hoàn chỉnh công thức đạo lý căn bản như sau: Hội Đồng Thế Giới các Giáo Hội tuyên xưng "Chúa Giêsu là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Thế theo Kinh Thánh”.

Giáo Hội Công Giáo không gia nhập Hội Đồng Thế Giới các Giáo Hội này hiện nay đã có tới hơn 300 Giáo Hội, nhưng từ năm 1961 đã gửi các quan sát viên tham dự các đại hội, nhất là từ năm 1961 đã cử 12 đại biểu làm thành viên chính thức của Ủy Ban “Đức Tin và Định Chế” với vai trò là nghiên cứu những khía cạnh thần học nhằm tiến tới sự hợp nhất các Kitô Hữu. Sự cộng tác của Giáo Hội Công Giáo với phong trào Đại Kết ngày càng tỏ ra khăng khít cùng với những bước đi cụ thể. Đặc biệt ngày 30.10.1999, Giáo Hội Công Giáo đã ký kết với Liên Đoàn Quốc tế Giáo Hội Luther một văn bản có nội dung liên quan đến Giáo Lý chung về ơn Công Chính Hóa bởi Đức Tin ( Nguồn Wikipedia đã dẫn ).

Việc ký kết này cho thấy Giáo Hội Công Giáo vô hình chung đã làm mất đi bốn tính chất quan trọng cần tuyên xưng, đó là: Duy Nhất – Thánh Thiện – Công Giáo và Tông Truyền. Bốn tính chất ấy có quan hệ mật thiết với nhau mà nếu tách đi bất cứ tính chất nào thì ba tính chất còn lại sẽ không thể thành tựu. Lý do bởi vì toàn thể Kitô hữu chúng ta đều có chung một ơn gọi: “Chỉ có một thân thể, một Thánh Linh cũng như trong sự kêu gọi mình mà anh em đã được gọi đến một hy vọng, một Chúa, một Đức Tin, một Phép Rửa, một Đức Chúa Trời là Cha mọi người, Ngài vượt trên mọi người, suốt qua mọi người, và ở trong mọi người” ( Ep 4, 4 – 6 ).

Chỉ có một ơn gọi và ơn gọi đó là để trở về với Đấng Cha ở nơi mình, và cũng chính trong sự trở về ấy, chúng ta mới có được niềm hy vọng vào cái chưa thấy: “Vì chúng ta được cứu trong sự hy vọng, nhưng sự hy vọng đã thấy được thì chẳng phải là sự hy vọng, vì có ai lại hy vọng điều mình đã thấy rồi ư ?

Song nếu chúng ta hy vọng điều mình chưa thấy thì chúng ta mới nhẫn nại mà đợi trông ( Rm 8, 24 – 25 ). Để có và sống với niềm hy vọng đó thì cũng chỉ có một Chúa là Đức Kitô, Ngài là con đường dẫn tới Chúa Cha “Ta là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” ( Ga 14, 6 ).

Đức Kitô tự nhận mình là con đường và con đường đây chính là Đạo Công Giáo Tông Truyền đã được thiết lập dựa trên nền tảng các Tông Đồ với Phêrô là đại diện: “Còn Ta lại bảo ngươi rằng ngươi là Phêrô, Ta sẽ lập Hội Thánh Ta trên tảng đá này. Cửa Hỏa Ngục cũng chẳng thể thắng được nó. Ta sẽ trao chìa khóa Nước Trời cho ngươi, điều gì ngươi cầm buộc dưới đất thì trên Trời cũng cầm buộc. Điều gì ngươi cởi mở dưới đất thì trên Trời cũng cởi mở” ( Mt 16, 18 – 19 ).

12

Page 13: Ephata 609

Lời Chúa trên đây cho thấy một điều hết sức rõ ràng không thể cắt nghĩa theo bất cứ cách nào khác, đó là Đức Kitô đã thiết lập Giáo Hội và trao cho Giáo Hội ấy tất cả quyền bính. Tuy nhiên có một câu hỏi nhất thiết cần đặt ra: Tại sao Chúa chỉ thiết lập một Giáo Hội duy nhất lại còn trao quyền bính tối thượng như thế để làm gì ? Câu trả lời chỉ có thể có được khi nào nhận ra bản chất đích thực của Giáo Hội chính là Thân Mầu Nhiệm Chúa Kitô và cũng chỉ khi ấy chúng ta mới thấy được vai trò của Đức Maria quan trọng đến bực nào đối với công cuộc hiệp nhất mà Giáo Hội đã và đang theo đuổi từ bấy lâu nay.

Hàng năm phong trào Đại Kết đều có tổ chức tuần cầu nguyện cho sự hiệp nhất Kitô Giáo. Thế nhưng sau nhiều thập kỷ, việc hiệp nhất ấy vẫn là một thách đố không thể vượt qua. Lý do không thể vượt là bởi ý nghĩa đích thực của hiệp nhất không phải là giữa các Giáo Hội mệnh danh Kitô Giáo với nhau nhưng là giữa các chi thể trong Thân Mầu Nhiệm Đức Kitô. Trước khi nộp mình chịu chết, Chúa Giêsu đã dâng lời cầu nguyện: “Con chẳng những vì họ mà cầu xin thôi đâu, nhưng cũng vì kẻ nhân lời họ mà tin Con nữa để họ thảy hiệp làm một như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, lại để họ cũng ở trong chúng ta hầu thế gian tin rằng Cha đã sai Con” ( Ga 17, 20 – 21 ).

Đối tượng cầu nguyện cho sự hiệp nhất ở đây trước hết là các Tông Đồ và sau nữa là cho những ai tin vào lời giảng dạy của các ngài. Nhận ra như thế để thấy rằng sự hiệp nhất trong Giáo Hội tức giữa các chi thể với nhau là vô cùng quan hệ đến phần rỗi đời đời của mỗi người. Mặt khác tính chất hiệp nhất ấy còn là giữa các chi thể với Đức Kitô là đầu Hội Thánh: “Ta là cây nho các ngươi là cành. Ai cứ ở trong Ta và Ta ở trong họ thì người ấy kết quả nhiều. Vì ngoài Ta các ngươi không thể làm chi được. Nếu ai không ở trong Ta thì bị ném ra như cành kia khô héo rồi người ta lượm lấy quăng vào lửa mà đốt đi” ( Ga 15, 5 – 6 ).

Cũng như tất cả cành nhánh phải gắn chặt vào thân để được chuyển thông nhựa sống thế nào thì chúng ta là những chi thể cũng phải “ở” trong Chúa như vậy. Mỗi một Kitô Hữu từ khi lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy đều đã trở nên chi thể của Đức Kitô. Thế nhưng việc trở nên ấy hoàn toàn không như một điều gì đó mặc nhiên mà cần phải được Đức Mẹ cưu mang và chăm sóc trong suốt cả cuộc đời tín hữu. Lại nữa sự cưu mang và chăm sóc của Đức Mẹ với từng mỗi chi thể cũng không khác nào với Chúa Giêsu. Nếu Chúa là đầu được sinh ra bởi Đức Maria thì chúng ta là những chi thể, chẳng lẽ lại không được sinh ra bởi Đức Maria sao ?

Nói cách khác, Đức Maria hạ sinh và chăm sóc linh hồn chúng ta cũng chính là hạ sinh nuôi dưỡng chăm sóc Chúa Con ở trong ta: “Chính Người lãnh đạo sự đào luyện và tăng tiến của Kitô Bí Nhiệm và gầy tạo Hội Thánh và các Thánh. Vì chính Giêsu hạt cải nhỏ đang lớn lên trong Hội Thánh và chính Maria chăm nom cho lớn lên như đã chăm nom cho thân thể Chúa Giêsu lớn lên những ngày sống ở Bêlem và Nadarét” ( MV. Bernadot, OP. – Mẹ Trong Đời Tôi ).

Đức Maria sinh ra chúng ta và tận tình chăm sóc từng người bằng các Ơn Thánh mục đích là để cho ta được hiệp nhất trong Chúa: “Như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha” Hiểu như thế thì hiệp nhất chỉ có thể là hiệp trong Chúa thông qua con đường duy nhất là Đức Maria bởi vì Ngài là Đấng Thiên Chúa ở cùng ( Lc 1, 28 ).

PHÙNG VĂN HÓA

SỐNG TRONG LỜI CẦU CỦA MẸTất cả các ông đều đồng tâm nhất trí,

chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Đức Giêsu ( Cv 1, 14 )

Có lần tôi trông thấy một người cha nóng giận đánh con túi bụi, người mẹ chẳng dám làm gì, chỉ ôm mặt khóc. Tàn cơn giận, người cha bỏ đi, đứa con chạy lại ôm lấy mẹ, người mẹ vừa khóc vừa lấy dầu bôi cho con những vết bầm tím... Thường trong gia đình Việt Nam chúng ta, cha là người giữ kỷ cương, nề nếp nên được gọi là nghiêm đường, còn mẹ thì nhân từ bao dung, lắm khi thương con chẳng suy nghĩ hơn thiệt, nên gọi là từ đường. Tại sao cha mẹ lại yêu thương con cái ? Câu hỏi này phải hỏi ông Trời,

13

CÙNG NGHIỆM SINH

Page 14: Ephata 609

đã là cha là mẹ thì tự nhiên là thương con, không ai dạy, chẳng ai bắt, cứ thương thôi mà chẳng được trả xu nào.

Thế Đức Mẹ có thương Chúa Giêsu không ? Câu hỏi xem ra thừa. Có mỗi một con trai, lại là một bà góa thời điểm Chúa Giêsu bị giết, Chúa Giêsu là tất cả những gì Đức Mẹ có. Ở phương Đông này, một bà mẹ góa mà mất đứa con trai duy nhất là mất cả cuộc đời.

Bước vào cuộc thương khó, Chúa Giêsu biết mình sẽ chết, bỏ lại mẹ mình, bỏ lại các môn đệ yêu quý. Rồi đây sẽ có Chúa Thánh Thần thay thế Ngài lo cho các môn đệ. Ngài ở lại với họ bằng Mình và Máu là sự hiện diện cách cụ thể cầm được chạm được. Nhưng như thế vẫn là chưa đủ, vẫn còn thiếu một... từ đường. Khi còn ở dương gian, Chúa Giêsu đã nếm hưởng một tình mẹ thật ngọt ngào mà chúng ta vẫn ca ngợi là "khoan thay, nhân thay, dịu thay", thì khi từ giã cõi đời, ngài cũng muốn các môn đệ yêu dấu của mình có được người mẹ đó.

Vì vậy cho nên khi hấp hối, Chúa Giêsu trao mẹ mình cho Thánh Gioan: "Này là mẹ của anh". Từ đó Hội Thánh đã ca tụng Mẹ của mình với bao nhiêu là tước hiệu cao sang: Mẹ Thiên Chúa, Nữ Vương Thiên Đàng, Mẹ Phù Hộ các Giáo Hữu, Mẹ Chỉ Bảo Đàng Lành, Mẹ Hằng Cứu Giúp... nhưng không có danh hiệu nào đơn giản mà cảm động hơn danh hiệu chính Chúa Giêsu nói: "MẸ CỦA ANH". Nghĩa là khi chúng ta cầu nguyện với Đức Mẹ, chúng ta chỉ cần nói "Lạy Mẹ CỦA CON". Thế là đủ ! Một đứa con nhỏ nó không gọi mẹ nó là Mẹ nhà giáo ưu tú, Mẹ nghệ sĩ nhân dân... nó chỉ gọi mẹ của nó là Mẹ ơi, Má ơi... và mẹ nó bế nó lên, chỉ vậy thôi là nó hạnh phúc rồi.

Chúa Giêsu muốn để mẹ mình lại cho các môn đệ vì ngài biết rằng thật phúc cho ai được người khác cầu nguyện cho mình, bảo bọc mình bằng kinh nguyện. Có bà mẹ nào mà trong lòng lại không có những đứa con của mình. Bà sinh lũ con ra đời rồi đấy, chúng chạy nhảy tung tăng, chúng cưới vợ lấy chồng, chúng làm ông này bà nọ... nhưng cho đến chết, cả đến khi bà về với Chúa trên Trời, chúng vẫn cứ còn ở trong dạ mẹ, ở trong lòng bà. Đơn giản vì đã là mẹ thì không thể quên con, đã là mẹ thì thương con. Thế nên đâu có cần nhắc các bà mẹ phải cầu nguyện cho con cái mình, chuyện đó các bà mẹ làm y như chuyện phải ăn cơm uống nước, không có không sống được. Thế nên xưa nay người ta chỉ cần nhắc con cái phải cầu nguyện cho cha mẹ chứ cần gì phải dặn dò các bà mẹ cầu nguyện cho con.

Các môn đệ cần một người mẹ bên cạnh vì chính Chúa Giêsu biết thế gian này ác tâm đến thế nào. Chính nó lập mưu giết chết Ngài. Các môn đệ cần có Mẹ để như đứa con nhỏ chạy vào lòng mẹ khi nó sợ hãi, để được nâng đỡ, chở che bằng sự cầu bầu thần thế của Mẹ.

Các môn đệ phải có một bà mẹ cầu nguyện cho họ vì họ cũng là những kẻ có tội, những kẻ gây chia rẽ bất hòa, họ đều có thể là những Augustino cần có bà mẹ Monica trong đời. Mỗi ngày họ đều xin “cầu cho chúng con là kẻ có tội”.

Mẹ của các môn đệ Chúa chính là Mẹ chúng ta.

Lm. GB. NGUYỄN MINH ĐỨC, DCCT

HÃY NHỚ MỆNH LỆNH FATIMA

Đức Mẹ đã hiện ra nhiều lần, nhưng nổi bật là những lần hiện ra tại Fatima, Bồ Đào Nha, nổi bật vì các sứ điệp quan trọng dành cho nhân loại. Các sứ điệp Fatima thuộc phạm vi rộng đến nỗi không thể ghi trong một cuốn sách. Các chủ đề như sự tận hiến, lòng sùng kính ngày Thứ Bảy Đầu Tháng, cuộc nổi dậy và lan rộng của Cộng Sản vô thần, Chuỗi Mai Khôi là khí cụ hòa bình, lòng sùng kính Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ, thị kiến về Hỏa Ngục, Bí Mật Thứ Ba,… Tất cả những điều này có thể thấy trong các sứ điệp Fatima.

Một sứ điệp nổi bật là cuộc nổi dậy của chủ nghĩa Cộng Sản vô thần do Nga tuyên truyền. Với sự sụp đổ của Cộng Sản Soviet năm 1990 – 1991 và việc tiết lộ Bí Mật Thứ Ba Fatima ngày 13.5.2000, chúng ta có thể nói rằng các Mệnh Lệnh Fatima đã trọn vẹn chưa ? Vẫn tiếp tục nhắc nhở nhân loại.

Trong chuyến viếng thăm Fatima ngày 13.10.2010, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã nói: “Những người tự lừa dối mình đều nghĩ rằng Mệnh Lệnh Fatima đã kết thúc”.

14

CÙNG GHI NHỚ

Page 15: Ephata 609

Tầm quan trọng của việc tận hiến đã rõ khi chúng ta muốn có hòa bình trên thế giới và sự hoán cải của nước Nga, Đức Mẹ nói rằng Thiên Chúa muốn dâng nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm Đức Mẹ. Đây là lời Đức Mẹ nói năm 1917: “Để ngăn cản điều đó ( sự trừng phạt thế giới bằng chiến tranh, nạn đói khát, sự bách hại Giáo Hội ), Mẹ sẽ xin tận hiến nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm và rước lễ các ngày Thứ Bảy đầu tháng. Nếu họ vâng lời Mẹ, nước Nga sẽ hoán cải và sẽ có hòa bình; nếu không, nó sẽ lan truyền sự sai lầm tới khắp thế giới, thúc đẩy chiến tranh và bách hại Giáo hội…”

Rõ ràng nhân loại đã không lắng nghe, đa số không vâng lời Đức Mẹ. Thế chiến thứ nhất đã xảy ra ( 1914 – 1918 ), và chỉ 21 năm sau lại xảy ra thế chiến thứ hai. Hồi đó, đại sứ tại Tòa Thánh là Howard Dee đã viết trong cuốn “God’s Greatest Gift to Mankind Today” ( Tặng Phẩm Lớn Nhất của Thiên Chúa Dành Cho Nhân Loại Ngày Nay ): “Từ nước Nga, chứng ung thư Mácxít lan rộng mau chóng. Nước này tới nước khác, các lãnh địa và các quốc gia sụp đổ… Ngày nay, gần một nửa nhân loại bị cộng sản thống trị và nửa kia chịu đau khổ vì bệnh tật dữ dội” .

Tháng 6 năm 1929, Đức Mẹ nói với Nữ Tu Lucia: “Đã đến lúc Thiên Chúa yêu cầu Đức Giáo Hoàng, cùng với các Giám Mục trên thế giới, tận hiến nước Nga cho Trái Tim Vô Nhiễm của Mẹ. Chúa hứa cứu nước Nga bằng cách này”.

Trong khi đó, các hội tông đồ quốc tế như Đạo Binh Xanh Đức Mẹ Fatima ( Blue Army of Our Lady of Fatima ) loan truyền Mệnh Lệnh Fatima. Đối với việc hoán cải của nước Nga và hòa bình thế giới, những người sùng kính hứa hằng ngày đọc Kinh Sáng, dâng những hy sinh theo nhiệm vụ hằng ngày, lần Chuỗi Mai Khôi, dâng mình cho Đức Mẹ và đeo Áo Đức Bà Camêlô làm dấu hiệu tận hiến. Nữ Tu Lucia nói rằng Thiên Chúa sẽ cho phép tận hiến nước Nga khi đủ số người hoàn tất yêu cầu nói trên.

Sau nhiều cố gắng, việc dâng hiến nước Nga được thực hiện ngày 25.3.1984 với văn bản của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II xin các Giám Mục trên thế giới cùng ngài tận hiến cho Đức Mẹ, mỗi Giám Mục thực hiện tại Giáo Phận của mình. Khi nước Nga chưa được trực tiếp đề cập, Đức Giáo Hoàng cầu nguyện: “Chúng con tận hiến cho Mẹ mọi người và mọi nước có nhu cầu đặc biệt là tận hiến cho Mẹ theo cách này. Xin soi sáng cho các dân tộc mà Mẹ chờ họ tận hiến”. Nữ Tu Lucia nói với Sứ Thần Tòa Thánh rằng việc tận hiến này đã được Thiên Chúa chấp nhận.

Tháng 3 năm 1985, ông Mikhail Gorbachev là chủ tịch Liên Sô. Ông đã bắt đầu cuộc cải cách và về sau dẫn tới sự sụp đổ khối cộng sản Soviet. Sau đó là Năm Đức Mẹ tại Philippines, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã khai mạc Năm Đức Mẹ đặc biệt này và kết thúc vào ngày 15.8.1988, lễ Đức Mẹ Mông Triệu.

Trong những năm tiếp theo – có thể nhờ lời cầu nguyện của Đạo Binh Xanh Đức Mẹ Fatima và của những người đạo đức trên thế giới, các Giám Mục đã cùng tận hiến và công bố Năm Đức Mẹ Đặc Biệt – khối Cộng Sản Soviet bắt đầu tan rã, khởi đầu là Cộng Sản của nước Ba Lan. Ngày 13.5.1991, Thánh Gioan Phaolô II hành hương Đức Mẹ Fatima và công khai tạ ơn Đức Mẹ đã giải thoát Đông Âu và Trung Âu thoát khỏi ách Cộng Sản vô thần. Trong những năm tiếp theo, thế giới tương đối hòa bình. Phải chăng vì “lò lửa” Nga đã dịu bớt ?

Nên lưu ý rằng nước Nga ngày nay trở nên quả quyết dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Vladimir Putin, cựu trưởng tổ chức KGB của Soviet. Về chính trị thế giới, nó có tầm ảnh hưởng mạnh. Nga giàu nguồn năng lượng như dầu hỏa và khí thiên nhiên, trong những năm gần đây, các nguồn này được sử dụng làm đòn bẩy chính trị tại Đông Âu. Các

cuộc tập trận gồm đến 160.000 binh sĩ, hơn 1.000 xe tăng, 130 máy bay, và 70 tàu chiến. Khi ông Putin biết các kế hoạch của Hoa Kỳ và EU về chiến tranh đối với Bắc Mỹ, với Phi Châu và Á Châu, bao gồm cả Trung Đông, ông tuyên bố “chuẩn bị cuộc chiến quyết liệt” ( Prepare for Armageddon ).

Rõ ràng, sự hoán cải của Ngà đã được Đức Mẹ tiên báo vẫn chưa hoàn tất. Điều Đức Mẹ ban cho chúng ta là sự sụp đổ của khối Cộng Sản Soviet tại Đông Âu và sự giải thoát nhiều nước khỏi ách vô thần. Nhưng mối đe dọa vẫn còn đó, và thế giới lại có một lực lượng cộng sản khác cần lưu ý là Trung Cộng. Nếu hai tên khổng lồ cộng sản này liên kết với nhau thì sao đây ?

Chúng ta thấy rõ các mối đe dọa đối với hòa bình thế giới. Chúng ta không chỉ nói về Trung Đông, mà đặc biệt là Syria. Hãy lần Chuỗi Mai Khôi cầu xin hòa bình cho thế giới !

15

Page 16: Ephata 609

Đây là lúc ghi nhớ các Mệnh Lệnh Fatima và và kế hoạch hòa bình của Đức Mẹ cũng có trong đó. Với lời cầu nguyện bằng Chuỗi Mai Khôi, Đông Âu đã thoát ách Cộng Sản vô thần. Tại sao chúng ta không cầu nguyện nhiều cho hòa bình thế giới ? “Vũ khí” của Đức Mẹ rất đơn giản, luôn được Đức Mẹ nhấn mạnh không chỉ tại Fatima mà còn ở hầu hết các lần hiện ra tại các nơi khác: Chuỗi Mai Khôi.

LOURDES R. POLICARPIOTRẦM THIÊN THU chuyển ngữ từ all-about-the-virgin-mary.com

GIANNA BERETTA MOLLA NƯỚC Ý VÀ MARIA NGUYỄN THỊ YẾN CỦA VIỆT NAM

Chúng ta nghe nói nhiều về gương hy sinh của một bác sĩ bên nước Ý tên là Gianna Beretta Molla mới được phong Thánh cách đây không lâu. Chị đã hy sinh chính mạng sống của mình để giữ lại thai nhi con yêu dấu của mình khi bác sĩ chẩn đoán chị bị ung thư, và nền y khoa dù hết sức tiên tiến hiện đại của nước Ý cũng chỉ bảo đảm cứu sống được chỉ một trong hai mẹ con. Cũng phải nói thêm, nếu quyết định giữ lại em bé, người mẹ phải ngưng tất cả mọi liệu pháp chữa trị nên có nguy cơ cuối cùng là mẹ sẽ chết vì ung thư trước khi kịp sinh con.

Đó là bên nước Ý. Bên Việt Nam mình, chúng tôi xin được thuật lại câu chuyện tương tự. Chị Maria Nguyễn Thị Yến, sinh ngày 19.7.1981, lập gia đình với một người không Công Giáo, hiện ngụ tại xóm 1, thôn Đông Lao, xã Đông La, huyện Hoài Đức, Hà Nội 2 ( tỉnh Hà Tây cũ ). Đến một ngày, tự dưng chị thấy đau đầu dữ dội và khó thở vô cùng, đi khám thì phát hiện đã bị ung thư vòm họng di căn lên não, mà cùng lúc chị lại đang mang thai con đầu lòng hơn 5 tháng rồi. Các bác sĩ quân đội của Bệnh Viện 103 yêu cầu: muốn chữa trị bệnh ung thư và được cứu sống, chị buộc phải phá bào thai đang tăng trưởng trong tử cung… Chị gần như tuyệt vọng trong nỗi day dứt giằng co, còn cả gia đình chị thì khẩn nguyện trong đau buồn, cùng hiệp ý làm Tuần Cửu Nhật xin Chúa và Đức Mẹ soi sáng cho biết phải quyết định ra sao, có nên phá thai, bỏ em bé theo yêu cầu của bác sĩ để cứu người mẹ hay không ?

Sau khi làm xong Tuần Cửu Nhật, chính bản thân chị dường như tìm được một sức mạnh lạ lùng, chị cương quyết giữ lại thai nhi bằng mọi giá ! Chị can đảm chịu mọi cơn đau đớn của căn bệnh, ngưng mọi liệu pháp chữa trị để quà tặng vô giá mà Thiên Chúa trao ban cho chị được bảo vệ an toàn. Còn đến 4 tháng thai kỳ ( 120 ngày ), không được hoá trị hay xạ trị, căn bệnh ung thư di căn liên tục gây ra những cơn kinh khủng, hoàn toàn ngoài sức chịu đựng của chị… Tất cả đã nghĩ đến giải pháp mong manh cuối cùng, đó là nếu bệnh trạng chuyển nhanh đến mức trầm trọng nguy hiểm, người mẹ sẽ không cầm cự được thêm, có thể chết bất cứ lúc nào, đồng thời đã đến một thời hạn tối thiểu để em bé có thể sống được bên ngoài dạ mẹ, chị và cả gia đình sẽ tự nguyện xin các bác sĩ cho phẫu thuật "bắt con", nói trắng ra là chấp nhận hy sinh mẹ để ưu tiên cứu lấy con.

Với hoàn cảnh gia đình quá neo đơn, cô Hiến là chị ruột của chị Yến, đang tu tại Tu Hội Thánh Tâm, phải xin nghỉ việc để cùng gia đình chăm sóc thuốc thang cho em gái tại Bệnh Viện 103 cách xa nhà chừng 40 cây số chờ đến ngày sinh em bé, đồng thời cô Hiến cũng phụ lo cho các chị em bầu tại Mái Ấm BVSS của các cha DCCT Thái Hà ngay trong làng…

Thế rồi đến ngày 5.11.2013, chị Yến phải chịu một cơn đau dữ dội chưa từng thấy, có nguy cơ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự an toàn của em bé, bác sĩ trực đã quyết định phải cho sinh mổ lấy em bé ra ngay… Tạ ơn Chúa, “mẹ tròn con vuông”, bé gái nặng 1,9Kg, khóc váng lên trong niềm vui mừng khôn tả của chị Yến và mọi người thân trong gia đình, của cả Nhóm BVSS Thái Hà…

16

CÙNG TRÂN TRỌNG

Page 17: Ephata 609

Sau khi sinh mổ, chị Yến tỉnh lãi thì ung thư di căn đã làm hai mắt của chị không còn nhìn thấy gì nữa. Được ôm con mình phải sinh ra là một hạnh phúc lớn của người phụ nữ, hoàn thành thiên chức làm mẹ, vậy mà bây giờ chị Yến lại không còn được tận mắt ngắm nhìn con của mình. Thế nhưng chị đã không hề cảm thấy chút bất hạnh nào, chị một tay bế con, một tay nhẹ nhàng sờ soạng vuốt ve khuôn mặt bé bỏng xinh xắn của con, nước mắt hạnh phúc cứ lã chã rơi xuống ướt đầm mặt con, cả ngực áo con, trong khi con thì oe oe khóc thật hồn nhiên vô tự… Mọi người vây quanh, nhìn cảnh ấy ai cũng nghẹn ngào xúc động trước tình yêu cao cả người mẹ đã dũng cảm hy sinh cho con mình được cất tiếng khóc chào đời… Cháu bé đã được cha xứ địa phương, cử hành Bí Tích Thánh Tẩy và đặt tên: Giêrađô Maria Lê Hoàng Cẩm Tú.

Cháu bé sinh được tròn một tháng rưỡi, thì cha Lê Quang Uy, cùng với hai bạn trẻ Nhóm Fiat có dịp ra miền Bắc, đã cùng chúng tôi đến thăm chị và cháu bé tại gia đình bên ngoại, cháu đã nặng 4kg. Tăng được 2kg100. Gia đình xin bệnh viện cho chị xin về mừng Lễ Noel 2013, đầu năm 2014 chị mới trở lại bệnh viện. Chị và gia đình cũng xác định không nạo phá thai để cứu em bé xong rồi sẽ đến bệnh viện xạ trị chữa bệnh ung thư vòm của chị theo phác đồ điều trị của bác sĩ Quân Y Viện 103… Nhưng tất cả đều tín thác nơi Chúa trong việc chữa trị ung thư của chị. Hiện mắt chị đã không nhìn thấy gì do ung thư đã di căn sau khi mổ sinh con.

Chúng tôi đến thăm chị và con chị trong một chiều đông giá lạnh. Lòng quặn đau khi nhìn thấy chị quờ quạng tìm con bên cạnh chị đang khát sữa khóc oe oe… để tìm hơi ấm, tìm bầu sữa mẹ khi bé đói… Thật đáng tiếc, đã gần hai tháng từ khi chị bé Giêrađô sinh ra, căn bệnh ung thư đã làm cạn dòng sữa nuôi con của chị và bé Cẩm Tú đã phải bú sữa bình…

Để kỷ niệm 5 năm ngày thành lập Nhóm BVSS Thái Hà, tôi xin ghi lại vài suy nghĩ: Người thật việc thật và những hình ảnh của chị Maria Nguyễn Thị Yến có thể nói là một chứng tá sống động cho sự hy sinh cao quý vô bờ bến của một người mẹ Việt Nam dứt khoát không nạo phá thai để cứu con mình, chị đã quyết định ngưng việc chữa trị ung thư nghĩa là sẵn sàng chịu chết để con mình được sống… Chị đã chịu đựng đau đớn vì căn bệnh nan y nghiệt ngã, chịu cả cảnh mù loà xót xa để bây giờ được ôm con trong vòng tay hạnh phúc chan hoà.

Chúng tôi tin chị Yến sẽ là tấm gương sống động cho nhiều bà mẹ khác cũng biết hy sinh tất cả cho con mình, cho sự sống, cho quà tặng vô giá mà Thiên Chúa đã trao ban để không nạo phá thai trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Viết nhân kỷ niệm 5 năm thành lập nhóm BVSS Hà Nội Maria TRẦN THỊ HƯỜNG

VƯỜN HOA ĐỨC MẸTháng Năm về, vườn hoa Đức Mẹ nở rộ trăm sắc hương hoa, từ thành thị tới nông thôn, từ các

Thánh Đường lớn tới những ngôi Nhà Thờ bé nhỏ thân thương, từ người thành phố đến từng nông dân, tất cả mọi Kitô hữu trong muôn màu sắc của những đóa hoa lòng kính về Mẹ mến yêu, Mẹ Maria Mẹ Thiên Chúa, Mẹ đồng trinh, Mẹ của tất cả chúng sinh, Mẹ hiền, Mẹ đẹp, Mẹ là biểu tượng của tất cả các loài hoa, Mẹ là máng thông ơn Thiên Chúa đến với từng người con tin Mẹ.

Ai đó đã ví von Mẹ qua các đóa hoa thế này:

Mẹ là hoa thủy tiên, sáng trong muôn đời… Mẹ tựa đóa hướng dương, tỏa ánh sáng mặt trờiMẹ thật lòng khiết trinh như bông huệ, bông sen Mẹ dịu dàng nhân ái như mộc lan thắm tìnhMẹ đầy tình trong Chúa tựa trúc thủy xanh tươiMẹ mến yêu nồng nàn như hoa hồng đỏ thắmMẹ lộng lẫy huy hoàng tựa ngàn sắc đào mai

17

CÙNG HIỆP THÔNG

Page 18: Ephata 609

Mẹ xinh xắn mỹ miều giống ngọc lan tố nữMẹ tỏa ngát hương lòng của dạ lý hương tinh tếMẹ chung thủy một lòng như màu tím hoa bâng khuângMẹ từ ái phúc hậu như mẫu đơn bền thắm lâu dàiMẹ đơn sơ khó nghèo như ngàn hoa đồng nộiMẹ thân tình dịu ái tựa hoa tigôn leo thành giànMẹ hiền lành dễ mến tựa các đóa hồng bạch,vàng ươmMẹ mỉm cười ban phước như cam đỏ hoa cúc tàu lai.Mẹ sầu bi ôm thi hài Chúa, ôi, màu tím buồn hoa sim.Mẹ đau khổ thấy loài người tội lỗi, ôi, hoa gai xương rồng…

Mẹ Maria, hai tiếng thật gần gũi thân yêu với từng người Kitô hữu chúng ta, chỉ nhờ ơn Mẹ chúng ta mới có thể đến gần với Chúa, được Chúa thương yêu. Người ta làm sao hiểu hết được tình Mẹ Maria, chỉ có thể diễn đạt mối tình bao la đó qua một bà mẹ trần gian, tấm lòng mẹ được biết bao thơ ca nói đến: “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình…”, “Mẹ tôi tóc xanh nhuộm bạc tháng ngày…”, “Cây chuối sau hè…”

Ước chi mỗi chúng ta sẽ là một đóa hồng xinh ( một tràng Hoa Mai Khôi ) đầy lòng yêu mến Mẹ chân thành, vì chỉ có lòng yêu mến mới có thể biến đổi con người tội lỗi xấu xa thấp hèn của chúng ta, để quy phục “cải tà, quy chánh” thật tâm quay về làm con thảo của Chúa và của Mẹ được.

Mẹ không cần ta dâng những đóa hoa màu mè trần tục, những bó hoa hình thức bề ngoài mà trong lòng thì trống rỗng. Mẹ cần ta với bông hoa thật lòng yêu mến, bông hoa khiêm nhu ẩn sâu trong cõi lòng như chính những bông hoa mà con người đã ví von cho Mẹ. Vâng ! cầu mong chúng ta, mỗi tâm hồn sẽ liên kết với nhau thành một vườn hoa lòng xinh thắm, để chúng ta dâng kính Mẹ Maria trong năm Tân Phúc Âm Hóa gia đình, và sẽ dâng lên Mẹ mãi mãi trong suốt cuộc đời của mỗi gia đình chúng ta.

VÂN MAI

NĂM ĐIỀU BẠN CHƯA BIẾT VỀ ĐỨC GIÊSUBài viết riêng cho CNN của Lm. James Martin, Dòng Tên, Tổng Biên Tập tạp chí America, tác giả

tác phẩm "Đức Giêsu là một cuộc hành hương" ( Jesus: A Pilgrimage ) nhân mùa Phục Sinh 2014.

Mỗi khi đến mùa Phục Sinh là Đức Giêsu lại được nhắc đến rất nhiều kể cả theo lối tiêu cực do một số người mang nhiều thành kiến là Người chưa bao giờ thực sự hiện hữu. Hầu hết những gì chúng ta biết về Người thì đã được biết đến trong 2.000 năm qua. Nhưng nhờ có những tiến bộ trong sử liệu và ngành khảo cổ, các Kitô hữu nhiệt thành vẫn có những khám phá đầy kinh ngạc và mới mẻ về cuộc đời và thời đại của Người.

Đây là 5 điều có lẽ bạn chưa biết về Người:

1. Đức Giêsu xuất thân từ một làng quê hẻo lánh

Hầu hết các nhà khảo cổ bây giờ đồng ý rằng Nazareth chỉ có từ 200 đến 400 nhân khẩu. Toàn bộ Cựu Ước và sách Talmud không hề nhắc đến Nazareth. Còn trong Tân Ước nó thường được nhắc đến với một sự châm biếm, Tin Mừng theo Thánh Gioan kể rằng khi Nathanael nghe về một Đấng Messiah có tên là “Giêsu Nazareth”, ông đã hoài nghi ngay: “Ở Nazareth thì làm sao có gì hay ho ?”

2. Đức Giêsu không biết tất cả mọi sự

Đây là một nan đề gai góc của thần học. Nếu Người mang thần tính thì Người phải am tường tất cả. Thật vậy, trong nhiều dịp Người đã tiên báo về cái chết và sự trỗi dậy của mình. Tin Mừng theo Thánh Máccô ghi lại thoạt tiên Đức Giêsu thẳng thừng từ chối chữa bệnh theo yêu cầu của một phụ nữ không phải Do Thái: “Không thể lấy bánh của con cái mà ném cho chó được.” Nhưng khi chị ta trả lời rằng chó cũng được ăn mảnh vụn rớt xuống gầm bàn thì Người đã kinh ngạc và chữa lành cho đứa con gái của chị ta. Dường như Người nhận ra sứ vụ của mình không dừng ở nơi người Do Thái.

3. Đức Giêsu đã sống đời dầm mưa giãi nắng

Từ năm 12 đến 30 tuổi, Đức Giêsu làm công việc của một người thợ mộc tại Nazareth. Khi Người bắt đầu rao giảng dân chúng đã ngỡ ngàng: “Đây có phải là anh thợ mộc không ?” Nghề nghiệp

18

CÙNG TÌM HIỂU

Page 19: Ephata 609

của Người theo nguyên gốc Hy Lạp là tekton. Xưa nay vẫn quen dịch là thợ mộc. Nhưng hầu hết các học giả bây giờ đều cho rằng đó là một thứ tạp vụ, một số còn dịch là “người làm công nhật”. Một tekton có thể làm cửa, bàn ghế, giá đèn, lưỡi cầy. Nhưng có lẽ người cũng còn xây tường gạch hay phụ giúp vào việc xây nhà ( thợ hồ – Người thường đưa vào dụ ngôn những vật liệu này ). Đó là một nghề nghiệp cơ cực, phải kéo lê dụng cụ, các thanh gỗ và tảng đá trên toàn miền Galilê.

Đức Giêsu đâu có phải là loại người nổi đình nổi đám, nhảy vào hí trường thế giới sau một cuộc đời nhàn hạ của một bác phó mộc chỉ sống thoải mái tại nhà, hàng ngày chỉ ngắm nghía và trau truốt một vài thanh gỗ đâu. Trong 18 năm, Người đã làm việc cật lực và nặng nề. ( Thánh Luca đã nói về giai đoạn này một cách vắn gọn: "Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nazareth và hằng vâng phục các ngài. Có lẽ ta cần hiểu rằng Người đã chấp nhận gia cảnh nghèo hèn của cha mẹ, tức là từ khi còn rất trẻ Người đã phải làm lụng quần quật để mưu sinh ).

4. Đức Giêsu cần đến thời gian riêng

Tin Mừng thường nói về nhu cầu của Đức Giêsu tách khỏi đám đông và ngay cả các môn đệ nữa. Nếu có dịp đến thăm khu vực biển Galilê nơi Đức Giêsu thực hiện hầu hết các sứ vụ của Người, các bạn sẽ thấy các thị xã nằm rất san sát nhau. Tìm được một khoảng trống riêng cho mình là điều rất khó. Tại đó vẫn còn một cái hang nằm trên bờ biển gần với Capharnaum, khu vực tập trung các hoạt động của Người. Có lẽ Người đã thường đến đó để cầu nguyện. Hang đó có tên Eremos, nghĩa là hẻo lánh hay cô tịnh, từ đó phát xuất ra từ ẩn sĩ.

Dù là Con Thiên Chúa, Đức Giêsu vẫn cần có thời gian sống một mình để cầu nguyện với Cha của Người.

5. Đức Giêsu không muốn chết

Khi gần đến cuộc thương khó, Người đã xin “cất chén này đi”. Đó là một lời cầu nguyện thống thiết với Cha mà Người gọi một cách trìu mến là Abba. Rõ ràng Người không muốn chết. Một số Kitô Hữu cho rằng Đức Giêsu yêu mến và mong chờ cái chết. Nhưng như tất cả mọi người khác, cái chết là một nỗi kinh hoàng đối với Người. Tâm hồn Thầy buồn đến chết được ( Mt 26, 38 ). Buồn đến chết tức là buồn ghê gớm vì không có gì ghê gớm bằng cái chết. Nhưng khi Người nhận ra đó là ý muốn của Cha thì Người bằng lòng đón nhận cái chết, ngay cả một cái chết trên thập giá.

Người ta thường nói về những khát vọng của họ khi xuyên tạc cuộc đời của Đức Giêsu. Nào là Người lấy Maria Mácđala làm vợ, sinh ra nhiều đứa con, ngao du qua Ấn Độ…

Chung cuộc lại Đức Giêsu không bao giờ là một vấn nạn lịch sử để người ta tìm hiểu, nhưng Người luôn luôn là một huyền nhiệm mời gọi mọi người đào sâu.

Lm. JAMES MARTIN, Dòng Tên, bản dịch của NGUYỄN TRUNGNguồn: http://religion.blogs.cnn.com/2014/03/15/five-things-you-didnt-know-about-jesus/

BA ĐIỀU RĂN YÊU THƯƠNG TRONG KINH THÁNH – Kỳ 2

III. Điều răn yêu thương trong Tin Mừng Gioan

“Điều răn yêu thương” trong Tin Mừng Gioan được Đức Giêsu gọi là “điều răn mới” ( Ga 13, 34 ). Điều răn này có ý nghĩa thần học độc đáo riêng so với điều răn “yêu thương người thân cận” đã phân tích trên đây. Tin Mừng Gioan không nói đến “yêu thương người thân cận ( plêsion )” mà là “yêu thương lẫn nhau ( allêlous )” giữa các môn đệ. Phần sau sẽ phân tích “điều răn yêu thương” trong Tin Mừng Gioan qua năm mục: ( 1 ) Điều răn mới, nền tảng đời sống các môn đệ, ( 2 ) Điều răn mới so với Cựu Ước, ( 3 ) “Điều răn mới” là “điều răn cũ” trong thư Gioan, ( 4 ) Điều răn của Đức Giêsu, ( 5 ) Cách thức yêu thương trong điều răn mới.

1. Điều răn mới, nền tảng đời sống các môn đệ

Trước khi bước vào cuộc Thương Khó, Đức Giêsu nói với các môn đệ ở Ga 13, 34 – 35: “34 Thầy ban cho anh em một điều răn mới ( entolên kainên ) là anh em hãy yêu mến nhau ( hina agapate allêlous ),

19

CÙNG HỌC HỎI

Page 20: Ephata 609

như Thầy đã yêu mến ( êgapêsa ) anh em anh em hãy yêu mến nhau ( agapate allêlous ). 35 Ở điều này mọi người sẽ nhận biết rằng: Anh em là môn đệ của Thầy, nếu anh em có tình yêu mến ( agapên ) lẫn nhau ( allêlois ).” Đức Giêsu lặp lại điều răn này với các môn đệ ở 15, 12 – 13.17: “12 Đây là điều răn của Thầy ( hê entolê hê emê ): Anh em hãy yêu mến nhau ( hina agapate allêlous ) như Thầy đã yêu mến ( êgapêsa ) anh em. 13 Không ai có tình yêu ( agapên ) cao cả hơn người đã hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu ( tôn philôn ) của mình” ( 15, 12 – 13 ); “Những điều này, Thầy truyền dạy anh em, để anh em yêu mến nhau ( hina agapate allêlous )” ( 15, 17 ).

“Điều răn mới” ( 13, 34 ) là đặc trưng quan trọng của “điều răn yêu thương” và điều răn này là trọng tâm đời sống của các môn đệ. Theo Cha Jean-Pierre Lémonon: “[Điều răn mới] làm nên hiến chương của thời cuối cùng, được khởi đầu với cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Đức Giêsu” ( J.-P. LÉMONON, “Agapè dans le Nouveau Testament”, dans B.-M. DUFFÉ, ( dir. ), AGAPÈ, sources et interprétation de la charité, 1999, p. 78. ) Như thế, “điều răn mới” trở thành căn tính ( identité ) của người môn đệ. Điều răn này làm nên dân mới của Thiên Chúa và khi người tin giữ điều răn này thì mọi người sẽ nhận biết họ là môn đệ Đức Giêsu ( 13, 35 ).

Trong Tin Mừng Gioan, bản chất của người môn đệ Đức Giêsu là hoà vào dòng chảy tình yêu giữa Chúa Cha và Đức Giêsu, giữa Đức Giêsu và các môn đệ và giữa các môn đệ với nhau. Đức Giêsu nói đến dòng chảy tình yêu này với các môn đệ ở Ga 15, 9 – 10: “9 Như Cha đã yêu mến Thầy ( kathôs êgapêsen me ho patêr ), Thầy cũng yêu mến anh em ( kagô humas êgapêsa ). Anh em hãy ở lại trong tình yêu của Thầy ( meinate tê i agapêi têi emêi ). 10 Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình yêu ( meneite en tê i agapêi ) của Thầy, như chính Thầy, Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình yêu ( menô en tê i agapêi ) của Người.” Dòng chảy tình yêu này chỉ trọn vẹn khi các môn đệ sống điều răn yêu thương Đức Giêsu ban tặng: “Đây là điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến anh em” ( 15, 12 ). ( Xem bài viết: “ Ga 15, 9 – 13: Dòng chảy tình yêu giữa Chúa Cha, Đức Giêsu và các môn đệ” ).

2. Điều răn mới so với Cựu Ước

Tính từ “mới” ( kainos ) trong “điều răn mới” ( Ga 13, 34 ) đánh dấu bước ngoặt mang tính quyết định trong lịch sử cứu độ. Khi nói đến “điều răn mới” giả thiết là đã có “điều răn cũ.” “Điều răn yêu thương” trong Tin Mừng Gioan gợi đến điều răn yêu thương trong Cựu Ước ở Lv 19, 18b: “Ngươi phải yêu ( agapêseis ) người thân cận ( plêsion ) như chính mình.” Tuy nhiên, “điều răn mới” trong Tin Mừng Gioan vừa tiếp nối, vừa mới mẻ so với điều răn yêu thương trong Lv 19, 18b. “Điều răn mới” tiếp nối điều răn yêu thương trong Cựu Ước, vì “điều răn mới” ( Ga 13, 34 ) có cội nguồn trong tình yêu Chúa Cha dành cho thế gian ( Ga 3, 16 ) và tình yêu Chúa Cha dành cho Đức Giêsu ( Ga 15, 9 ). Đồng thời, “điều răn mới” mới mẻ so với “điều răn cũ” ( Lv 19, 18b ), qua hai đặc điểm chính:

( 1 ) Điều mới của “điều răn yêu thương” trong Tin Mừng Gioan so với Lv 19, 18b không phải là “tình yêu” nhưng là “đối tượng của tình yêu”: trong Tin Mừng Gioan là “yêu thương lẫn nhau ( allêlous )” giữa các môn đệ Đức Giêsu; còn trong sách Lêvi là “yêu thương người thân cận ( plêsion )” trong dân Ítraen.

( 2 ) Chủ thể ban điều răn thay đổi. Trong Cựu Ước, ĐỨC CHÚA ban điều răn cho dân, còn trong Tin Mừng Gioan, chính Đức Giêsu ban điều răn mới cho các môn đệ. Đức Giêsu ban điều răn mới với tư cách là Con Thiên Chúa, là Đấng Chúa Cha sai đến, và là vị trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và con người như Người đã nói với các môn đệ ở 14, 6b: “Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.” Với sự xuất hiện của Đức

Giêsu, bước ngoặt quyết định trong lịch sử cứu độ đã xảy ra. Từ nay con người chỉ có thể hiệp thông với Thiên Chúa và đón nhận tình yêu của Thiên Chúa qua trung gian Đức Giêsu. Với tư cách là Đấng trung gian duy nhất, Đức Giêsu ban điều răn yêu thương cho các môn đệ.

Tin Mừng Gioan còn cho phép nói đến cái mới, so với điều răn “yêu mến ĐỨC CHÚA” ở Đnl 6, 5. Trong Tin Mừng Gioan Đức Giêsu mời gọi các môn đệ “yêu mến và giữ các điều răn của Người” ( Ga 14, 15 – 23 ), “ở lại trong tình yêu của Người” ( 15, 9 – 10 ). Ai yêu mến Đức Giêsu sẽ được Chúa Cha yêu mến ( 14, 21.23; 16, 27 ). Như thế “yêu mến ĐỨC CHÚA” trong Cựu Ước, trở thành “yêu mến Đức Giêsu” trong Tân Ước. Những điều mới mẻ này làm cho “điều răn mới” trong Tin Mừng Gioan đánh dấu giai đoạn mới trong lịch sử cứu độ.

3. “Điều răn mới” là “điều răn cũ” trong thư Gioan

20

Page 21: Ephata 609

Trong truyền thống Tin Mừng và ba thư Gioan, “điều răn mới” ( Ga 13, 34 ) có vị trí đặc biệt. Tác giả thư thứ nhất Gioan nói về “điều răn mới” ( Ga 13, 34 ) bằng cách chơi chữ giữa “cũ” và “mới”. Tác giả thư thứ nhất Gioan viết ở 1 Ga 2, 7 – 8: “Anh em thân mến, không phải là một điều răn mới ( entolên kainên ) tôi viết cho anh em, nhưng là một điều răn cũ ( entolên palaian ) mà anh em đã có từ khởi đầu. Điều răn cũ ấy ( hê entolê hê palaia ) là lời mà anh em đã nghe. Tuy nhiên, đó là một điều răn mới ( entolên kainên ) tôi viết cho anh em, – điều ấy là sự thật nơi Người và nơi anh em – vì bóng tối đang đi qua và ánh sáng thật đã tỏa sáng rồi.” Trong thư thứ hai Gioan, tác giả viết ở 2 Ga 4 – 6: “Tôi rất vui mừng vì đã tìm thấy trong số con cái của Bà, những người bước đi trong sự thật, như điều răn ( entolên ) chúng ta đã nhận được từ nơi Cha. Thưa Bà, bây giờ tôi xin Bà điều này – đây không phải là một điều răn mới ( entolên kainên ) tôi viết cho Bà, nhưng là điều răn chúng ta đã có từ khởi đầu – là chúng ta yêu mến nhau ( hina agapômen allêlous ). Đây là tình yêu: Chúng sống theo các điều răn ( tas entolas ) của Người. Đây là điều răn ( hê entolê ) như anh em đã được nghe từ khởi đầu: Anh em sống trong tình yêu.” Những kiểu nói: “Điều răn mới”, “điều răn cũ” và “yêu mến nhau” ở 1 Ga 2, 7 – 8 và 2 Ga 5 gợi đến “điều răn mới” trong Tin Mừng Gioan ( Ga 13, 34; 15, 12 ).

Vào thời điểm các thư Gioan được viết ra, “điều răn yêu thương” trong Tin Mừng Gioan vừa “cũ” lại vừa “mới”. Thư thứ nhất Gioan được viết trong bối cảnh khác với Tin Mừng Gioan. Nội dung thư thứ nhất Gioan cho thấy khủng hoảng trầm trọng đã xảy ra ngay giữa cộng đoàn các môn đệ, nguyên nhân là do cách hiểu khác nhau về căn tính của Đức Giêsu. Vấn đề sai lạc Kitô học ở đây là tách rời nhân tính và thiên tính của Đức Giêsu ( x. 1 Ga 2, 21 – 22; 4, 2-3 ). Xem bài viết: “ ‘Chia rẽ và hiệp thông’ – ‘sự thật và dối trá’ trong thư thứ nhất Gioan.” Trong bối cảnh đó, tác giả kêu gọi cộng đoàn hiệp thông và tuân giữ điều răn yêu thương. Điều răn này không phải là điều răn mới, bởi vì điều răn này đã có ngay từ khởi đầu, từ lúc cộng đoàn đầu tiên được thiết lập. Đó là cộng đoàn các môn đệ được Đức Giêsu trao ban điều răn yêu thương ở Ga 13, 34; 15, 12. Vì thế, tác giả thư thứ nhất viết ở 1 Ga 2, 7b: “Điều răn cũ ( entolên palaian ) mà anh em đã có từ khởi đầu.” Thư thứ hai Gioan cũng dùng kiểu nói này: Đó là điều răn “mà chúng ta đã có từ lúc khởi đầu” ( 2 Ga 5b ).

Việc chơi chữ giữa hai tính từ: “cũ”, “mới” trong thư thứ nhất Gioan đề cao “điều răn mới”. Thật vậy, trước hết tác giả viết: “Không phải là một điều răn mới ( entolên kainên ) tôi viết cho anh em, nhưng là một điều răn cũ ( entolên palaian )” ( 1 Ga 2, 7a ). Kế đến, tác giả nhắc lại một lần nữa: “Điều răn cũ ấy là lời mà anh em đã nghe” ( 1 Ga 2, 7b ). Cuối cùng, tác giả kết luận cách nghịch lý: “Nhưng đó cũng là một điều răn mới tôi viết cho anh em” ( 1 Ga 2, 8a ). Khi nhấn mạnh tính chất “cũ” của điều răn, tác giả thư Gioan không nói điều gì mới mà chỉ nhắc lại điều đã có từ khởi đầu của cộng đoàn người tin. Tác giả thư thứ nhất dựa vào mặc khải trong sách Tin Mừng Gioan để kêu gọi hiệp thông trong cộng đoàn ở 1 Ga 1, 3: “Điều chúng tôi thấy và chúng tôi nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em, để chính anh em cũng có sự hiệp thông với chúng tôi. Sự hiệp thông của chúng tôi với Cha và với Con của Người, Đức Giêsu Kitô.” Sự hiệp thông này trong cộng đoàn dựa trên điều răn yêu thương mà Đức Giêsu đã ban cho các môn đệ trong Tin Mừng Gioan ở Ga 13, 34; 15, 12. Đồng thời “điều răn cũ” trên đây là “điều răn mới” ( 1 Ga 2, 7 – 8 ), bởi vì “điều răn yêu thương” trong Tin Mừng Gioan có tên gọi là “điều răn mới” ( Ga 13, 34a ). Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới ( entolên kainên ) ...” ( Ga 13, 34a ). Theo tác giả thư thứ nhất Gioan, “điều răn cũ” là cũ về thời gian, vì đã có ngay từ đầu, nhưng đó là “điều răn mới”, vì tên gọi của “điều răn yêu thương” là “điều răn mới.”

4. Điều răn của Đức Giêsu

Trong Tin Mừng Nhất Lãm ( Mt 22, 36 – 40 // Mc 12, 28-34 // Lc 10, 25 – 28 ), Đức Giêsu lấy lại các điều răn của ĐỨC CHÚA trong Cựu Ước ( Đnl 6, 5; Lv 19, 18b ), còn trong Tin Mừng Gioan, chính Đức Giêsu ban điều răn yêu thương cho các môn đệ và đó là điều răn của Người chứ không phải của ai khác. Đức Giêsu nói với các môn đệ ở Ga 13, 34a; 15, 12a: “Thầy ban cho ( didômi ) anh em một điều răn mới:...” ( 13, 34a ); “Đây là điều răn của Thầy ( hê entolê hê emê ):...” ( 15, 12a ). Điều răn mới này là điều răn của Đức Giêsu chứ không phải của ĐỨC CHÚA. Nói đúng hơn, Đức Giêsu đã lãnh nhận điều răn từ nơi Cha của Người và Người ban cho các môn đệ như Người nói ở Ga 12, 49 – 50: “Vì chính Tôi đã không nói tự mình, nhưng là Cha, Đấng đã sai Tôi, chính Người cho Tôi mệnh lệnh ( entolên ) để Tôi nói điều gì và tuyên bố điều gì. Và Tôi biết rằng: Mệnh lệnh ( hê entolê ) của Người là sự sống đời đời. Vậy những điều Tôi nói, thì như Cha đã nói với Tôi thế nào, Tôi nói như vậy.” Danh từ “mệnh lệnh” ở 12, 49 – 50 tiếng Hy Lạp là danh từ “entolê” được dùng ở 13, 34 và 15, 12 để nói về “điều răn” yêu thương.

Như thế “Anh em hãy yêu mến nhau ( hina agapate allêlous ) như Thầy đã yêu mến ( êgapêsa ) anh em” ( 13, 34; 15, 12 ) là điều răn của Đức Giêsu và chính Người đã

21

Page 22: Ephata 609

ban cho các môn đệ. Đây là những đặc điểm Kitô Học quan trọng của “điều răn mới.” Với tư cách là “người sở hữu” và là “người ban” điều răn yêu thương, Đức Giêsu được đặt song song với ĐỨC CHÚA là đấng sở hữu và ban các điều răn cho dân Ítraen trong Cựu Ước.

5. Cách thức yêu thương trong điều răn mới

Vế thứ hai của “điều răn mới”: “...NHƯ Thầy đã yêu thương anh em” ( 13, 34c; 15, 12c ) chỉ ra cách thức yêu thương trong điều răn này. Từ “như” ( kathôs ) trong điều răn: “Anh em hãy yêu mến nhau như ( kathôs ) Thầy đã yêu mến anh em” ( 13, 34; 15, 12 ) có nghĩa thần học, từ này diễn tả “nền tảng” ( le fondement ), “nguồn gốc” ( l’origine ) và “nguồn mạch” ( la source ) tình yêu của các môn đệ dành cho nhau. Nói cách khác, từ “như” ( kathôs ) khẳng định rằng tình yêu Đức Giêsu dành cho các môn đệ vừa là nền tảng vừa là nguồn mạch cho hành động “yêu thương lẫn nhau” của các môn đệ. Có thể nói, tình yêu của Đức Giêsu “sinh ra” ( engendre ) liên lỷ tình yêu giữa các môn đệ. “Yêu thương lẫn nhau” giữa các môn đệ chỉ có thể tồn tại “trong”, “nhờ” và “với” tình yêu của Đức Giêsu dành cho họ.

Như thế, mệnh đề thứ hai của “điều răn mới”: “...như Thầy đã yêu thương anh em” ( 13, 34c; 15, 12c ) là yếu tố cấu thành và không thể tách rời với mệnh đề thứ nhất: “Anh em hãy yêu thương nhau” ( 13, 34b; 15, 12b ). Nếu không có mệnh đề thứ hai thì mệnh đề thứ nhất cũng không tồn tại. Mệnh đề thứ hai làm rõ bản chất của tình yêu thương lẫn nhau giữa các môn đệ qua hai yếu tố: ( 1 ) Cách thức yêu thương: các môn đệ yêu thương nhau “như” ( bằng, với ) tình yêu của Đức Giêsu dành cho họ. ( 2 ) Nền tảng của tình yêu thương lẫn nhau: Tình yêu của các môn đệ dành cho nhau phải không ngừng đặt trên nền tảng tình yêu của Đức Giêsu dành cho họ. Tình yêu này được Đức Giêsu định nghĩa rõ ràng ở 15, 13: “Không ai có tình yêu ( agapên ) cao cả hơn người đã hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu của mình.”

“Điều răn mới” là điều răn Đức Giêsu ban cho các môn đệ và chỉ dành cho các môn đệ Đức Giêsu mà thôi. Bởi vì các môn đệ được mời gọi yêu thương nhau bằng tình yêu mà Đức Giêsu đã dành cho họ. Yêu thương như thế thì chỉ có người tin vào Đức Giêsu mới cảm nhận và sống tình yêu của Đức Giêsu dành cho mình và yêu thương nhau bằng tình yêu ấy. “Yêu thương nhau như Đức Giêsu đã yêu thương” là dấu chỉ tuyệt hảo để mọi người nhận ra môn đệ Đức Giêsu và để phân biệt “tình yêu” trong “điều răn mới” với các thứ “tình yêu” khác như “yêu mến bóng tối” ( 3, 19 ), “yêu mạng sống mình” ( 12, 25 ) hay “yêu mến vinh quang của con người” ( 12, 43 ). Xem trình bày về “tình yêu nẩy sinh sự sống” và “tình yêu dẫn đến sự hư mất” trong bài viết: “Đề tài tình yêu và tình bạn trong Tin Mừng Gioan.”

Kết luận

Qua những phân tích trên về các điều răn: “Yêu mến Thiên Chúa và yêu thương người thân cận như chính mình” trong Cựu Ước và trong Tin Mừng Nhất Lãm, nhất là “điều răn mới” trong truyền thống Gioan ( Tin Mừng và ba thư ), có thể nói đến ba điều răn yêu thương trong Kinh Thánh:

1. Điều răn kép: “Yêu mến ĐỨC CHÚA” ( Đnl 6, 5 ) và “yêu thương người thân cận như chính mình” ( Lv 19, 18 ) theo truyền thống Cựu Ước. Trong đó, nói chung “người thân cận” là đồng bào Ítraen.

2. Điều răn kép: “Yêu mến ĐỨC CHÚA” và “yêu thương người thân cận như chính mình” theo thần học Tân Ước ( Lc 10, 25 – 28 ). Trong đó, định nghĩa “người thân cận” là tất cả mọi người, không loại trừ bất kỳ ai. Các môn đệ được mời gọi làm cho mình trở thành người thân cận của người khác.

3. Điều răn mới: “Yêu thương nhau như Đức Giêsu đã yêu thương” ( Ga 13, 34; 15, 12 ). Đây là điều răn của Đức Giêsu, Người ban cho các môn đệ và chỉ dành cho các môn đệ ( người tin ).

Đặc biệt, điều răn mới trong Tin Mừng Gioan cho thấy sự nối kết và sự mới mẻ của Tân Ước so với Cựu Ước. Tân Ước nối kết với Cựu Ước vì “điều răn yêu thương” Đức Giêsu trao ban cho các môn đệ bắt nguồn từ tình yêu giữa Đức Giêsu và Cha của Người ( Ga 10, 18; 12, 49.50; 15, 9 – 10 ). Tân Ước mới mẻ so với Cựu Ước qua ba thay đổi sau: ( 1 ) “Tình yêu” giữa các thành viên Dân Thiên Chúa trong Cựu Ước nay trở thành “tình yêu” giữa các môn đệ Đức Giêsu. ( 2 ) Điều răn yêu thương của ĐỨC CHÚA ( Lv 19, 18b ) nay trở thành điều răn yêu thương của Đức Giêsu ( Ga 15, 12 ). ( 3 ) “Yêu thương người thân cận như chính mình” ( Lv 19, 18b ) trở thành “yêu thương nhau như Đức Giêsu đã yêu thương” ( Ga 13, 34; 15, 12 ). Như thế, “điều răn mới” trong Tân Ước đi xa hơn và mở rộng hơn so với điều răn yêu thương trong Cựu Ước ( Lv 19, 18b ).

Điều quan trọng khác trong “điều răn mới” là cách thức yêu thương: “yêu thương nhau như Đức Giêsu đã yêu thương.” Đặc điểm này làm cho “điều răn mới” trong Tin Mừng Gioan chỉ ban

22

Page 23: Ephata 609

cho các môn đệ, bởi vì tình yêu trong điều răn mới không thể tách rời khỏi tình yêu của Đức Giêsu dành cho họ, để từ nay bất kỳ ai cũng có thể trở thành môn đệ Đức Giêsu và sống điều răn mới. Nhờ đó, người môn đệ được hiệp thông trọn vẹn với Đức Giêsu và với Chúa Cha. Sống và thực hành điều răn mới là lời chứng tuyệt hảo về tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại và về tình yêu của người môn đệ dành cho Đức Giêsu. Xem phân tích chi tiết về “điều răn yêu thương” trong tập sách Tình yêu và tình bạn trong Ga 15, 9 – 17, tr. 97-180.

Lm. Giuse LÊ MINH THÔNG, OP.

KHI CÁI ÁC LÊN NGÔIĐây là bài phỏng vấn đột xuất và chớp nhoáng do nhà báo Yên Trang, báo Pháp Luật, thực hiện

tại sân bay Tân Sơn Nhất trung tuần tháng 11.2013, ngày tôi lấy máy bay trở sang Bỉ. Bài đã được biên tập lại. Có lẽ vì sự hạn hẹp của báo giấy, nhiều đoạn đã không thấy xuất hiện. Nay trên sổ tay cá nhân này, xin xuất bản nguyên văn. Gs. Nguyễn Đăng Hưng.

Khi thiện và ác đổi ngôi

Phóng Viên: Thưa ông, điều gì khiến ông cho rằng xã hội hiện nay biến loạn đến mức trầm trọng ?

Gs. Nguyễn Đăng Hưng:

Hằng ngày trên các trang thông tin đại chúng, đâu đâu cũng có những chuyện cướp của, giết người, vô nhân tính. Cái ác hoành hành khắp nơi, khắp chốn một cách ngang nhiên. Điều đó cho thấy kháng thể của xã hội trong cuộc chiến chống cái xấu cái ác đang bị xuống cấp trầm trọng.

Chính bản thân tôi cũng có kinh nghiệm chẳng lành. Một lần khi đi rút tiền từ ngân hàng, trên đường về bằng xe gắn máy có người cố tình ép sát tôi làm tôi té ngả. Họ là một đám chuyên trấn lột người đi đường gồm 4 thành viên. Người thứ tư thừa lúc tôi đôi co với kẻ gây tai nạn lặng lẽ làm động tác móc ví. Những kẻ côn đồ này đã hành động nhanh chóng trên một đoạn đường đông đúc người đi qua lại. Đó là đoạn đường giữa ngã tư Nguyễn Đình Chiểu và Cách Mạng tháng 8 vào lúc hơn 2 giờ chiều chứ không phải đêm hôm khuya khoắt.

Rất nhiều bạn bè tôi cũng từng bị như vậy. Một vị giáo sư Bỉ qua đây dạy, ngày nghỉ ông tranh thủ đi chụp hình kỷ niệm tại sân Tao Đàn. Khi vừa đặt chiếc camera xuống để mở túi, ông bị giật luôn. Kẻ cướp hành xử ngay chốn đông người, còn vị giáo sư nọ cũng không kịp than vãn và phi bác. Ông tự an ủi với tôi rằng: “Thôi thì cái máy của tôi cũ quá rồi, đây là dịp để mua cái mới”. Một người bạn khác, ra chợ Bến Thành bị móc ví. Ông ấy hớt ha hớt hải vì mất hộ chiếu và giấy tờ tùy thân. Được một lúc sau có người vỗ vai nói nhỏ bằng tiếng Anh hẳn hoi, rằng ví của ông đang ở góc bên kia đường. Ông đi đến và thấy ví của mình đó, tiền mất nhưng may mắn là còn giấy tờ. Ông ấy hài hước: “Đám ăn cướp Việt Nam văn minh đấy”

Phóng Viên: Nhưng ở đất nước nào cũng có những chuyện tương tự như vậy thưa ông ?

Gs. Nguyễn Đăng Hưng:

Ở Châu Âu những năm 1960, 1970 dường như rất ít tệ nạn. Cho tới khi bức tường Berlin sụp đổ, dân Đông Ấu có thể tràn qua các nước Châu Âu và từ đó tệ nạn xuất hiện nhiều hơn. Bởi tệ nạn xã hội thường xuất phát nhiều ở các nước Đông Âu. Các quốc gia ở Đông Âu kinh tế kém phát triển, nền giáo dục cũng chưa cao. Khi sang Tây Âu họ thấy ở đây giàu quá, dân hiền quá, xe đạp để ngoài đường không cần khóa nên họ lấy. Nhưng vấn đề của chúng ta lại khác, tình trạng đến mức trầm trọng khi người ta sẵn sàng giết cha mẹ vì vài trăm ngàn. Hay những hành động côn đồ xảy ra giữa chợ mà không ai phản đối… Đó là sự băng hoại về đạo đức.

Phóng Viên: Vậy thưa ông, cái ác bắt đầu đến từ đâu ?

Gs. Nguyễn Đăng Hưng:

Trộm, cướp… đến từ cuộc sống khó khăn nhưng sự chiếm đoạt của các ác lại nằm ở giáo dục và khi giá trị đạo đức bị hủy hoại, tha hóa rõ ràng. Bởi kinh tế khó khăn thì sau thời gian suy thoái sẽ vực dậy. Địa ốc đóng băng thì có ngày phục hồi. Đồng tiền mất giá và từ giá mới sẽ vươn lên.

23

CÙNG TRĂN TRỞ

Page 24: Ephata 609

Nhưng nền giáo dục của Việt Nam đang lầm đường lạc lối. Nền giáo dục không tạo được con người có nhân cách, có niềm tin đạo đức, biết sống lương thiện, biết sống thương yêu… Thay vào đó là ngay từ tấm bé, trẻ con đã thấy một xã hội vị kỷ, thực dụng, chỉ thấy tiền là chính.

Một chuyện nhỏ thế này, cô bạn tôi kể rằng, con gái mình về nhà bảo mẹ sao không mua quà bánh trung thu đến tặng cô giáo. Nếu cô giáo không tìm cách để hối thúc học sinh và phụ huynh phải cung phụng mình thì tại sao đứa trẻ lại lại hỏi mẹ như vậy. Thay vì chúng ta đem ánh trăng vàng, câu chuyện về chị Hằng Nga, chú Cuội, để con nít biết mơ mộng sáng tạo thì lại dạy cho chúng về lòng tham muốn vật chất. Đứa trẻ sẽ nghĩ gì về cô của nó và trong tương lai chắc chắn nếu có điều kiện đứa trẻ đó sẽ móc tiền, của bằng địa vị và chỗ đứng của mình. Đây là những chuyện mà khi chúng tôi còn học phổ thông không hề có. Và chính cô giáo kia vì hoàn cảnh xã hội, vì điều kiện kinh tế, đã vô tình tiếp tay phá hoại nền giáo dục quốc dân.

Đây là không còn là câu chuyện nhỏ mà là một vấn đề trầm trọng. Các em lớn lên trong một môi trường giáo dục như thế, xã hội biến chất, đảo điên như thế. Bởi vậy nên mới có chuyện con giết cha mẹ để có tiền chơi game. Đây là đỉnh điểm của sự bấn loạn rất khó tưởng tượng là có thể đi đến điểm nào tệ hơn nữa.

Khi con người không được bảo vệ

Phóng Viên: Vậy ông có nhận xét gì khi gần đây trên nhiều tờ báo có viết về những hành động “tự xử” của người dân thay vì báo công an ?

Gs. Nguyễn Đăng Hưng:

Đó là hậu quả phải chờ đợi. Tội phạm không sợ bị trừng trị, không sợ bị lên án, chúng đánh mất lòng tự trọng nên thay vì xấu hổ và lo sợ, chúng lại quay ra thách thức xã hội, hành hung những người dám ngăn cản mình.

Từ năm 2007 khi ấy tôi tham gia giảng dạy cho lớp cao học khoa quốc tế của Trường đại học Bách Khoa. Trong số đó có một sinh viên luận văn yếu quá nên không đạt điểm. Bởi vậy tôi đề nghị ra các em làm lại để chấm lại. Tuy nhiên trong số đó có một học sinh không chịu làm mà muốn qua môn. Phụ huynh đã đến gặp nhưng tôi từ chối. Tôi bảo tôi chỉ có thể tiếp khi đã thi xong. Nhưng cũng từ đó ngày nào tôi cũng bị mấy cuộc điện thoại dọa giết, dọa đâm xe… Sau một thời gian không chịu nổi tôi báo công an, kèm với các đoạn băng ghi âm cuộc nói chuyện dọa nạt để công an làm rõ. Nhưng kết cục công an có làm hay không tôi không biết nhưng mặc tôi cứ giải trình vụ việc vẫn không dừng lại và ngày càng nhiều cuộc điện thoại hơn.

Sau mấy tháng như vậy tôi cảm thấy rất mệt mỏi và đành tự giải quyết. Hôm ấy có vị giáo sư bạn từ Hà Nội vào, tôi đã kể về chuyện này. Sau đó tôi nhờ ông nếu có cuộc điện thoại dọa nạt đến, ông hãy nghe dùm tôi. Ông hãy nói mình là công an từ Hà Nội vào giúp tôi giải quyết sự việc.Và xác định với đầu giây bên kia rằng ông đã ghi lại tất cả các cuộc điện thoại dọa nạt và biết tác giả là ai, địa chỉ ở đâu. Cho nên sắp tới sẽ có những cuộc thăm hỏi từ phía công an. Sau đó bên kia cúp máy và từ đó không bao giờ tôi còn bị làm phiền và dọa giết nữa. Tuy nhiên, cũng mất ròng rã 4 tháng trời.

Câu chuyện của tôi tương tự như sự việc vừa qua, người dân Nghệ An đã đốt xe tên trộm chó. Qua những điều này cho thấy công an dần dần xa rời nhiệm vụ chính của mình là bảo vệ người dân lương thiện. Hiện trạng này ngày càng nguy ngập…

Phóng Viên: Nghĩa là lòng tin từ dân bị mất mát thưa ông ?

Gs. Nguyễn Đăng Hưng:

Đúng vậy, chưa bao giờ lòng tin của người dân mất mát ghê gớm đến thế. Từ anh lái taxi, đến anh đi xe ôm hay người thợ xắt tóc… đều mang tâm trạng lo âu về cuộc sống. Người ta lo không biết mình sẽ sống thế nào đây, thu nhập thế này có đủ sống không. Họ cũng theo dõi báo đài, họ cũng đặt niềm tin vào việc chống tham nhũng của Chính Phủ. Nhưng mọi chuyện dường như lại đâu vào đó. Điều đó cho thấy họ chờ đợi sự thay đổi mà sự thay đổi ở đây không phải thay đổi căn cơ chế độ mà ít ra thay đổi nhân sự. Những người không kiềm chế được

tham nhũng, không làm được gì với tham nhũng, phải được thay thế, nhường chỗ cho những người giỏi hơn với quyết tâm cao hơn, với tinh thần vì dân tỏ rõ nét hơn…

Phóng Viên: Nhưng không phải tất cả mọi câu chuyện đều giống nhau thưa ông ?

24

Page 25: Ephata 609

Gs. Nguyễn Đăng Hưng:

Thời điểm Pháp thuộc, đất nước ta bị bóc lột, dân Việt bị bần cùng hóa. Đây là lý do chính nghĩa của cuộc đấu tranh giành độc lập, giải phóng dân tộc. Hiện thực xã hội lúc đó cũng có thể là thời điểm đen tối nhưng cũng có nhà văn phản tỉnh, trí thức tả chân. Cụ thể như Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố trong tác phẩm của họ tố cáo trước dư luận những tội ác của thực dân và sự cùng cực của dân tộc bị trị. Nhưng những cuốn sách ấy được xuất bản, và truyền lại cho hậu thế. Còn bây giờ tôi không thấy những cuốn sách như vậy. Không phải không có những người tài mà những cuốn sách đó khó được in ấn xuất bản một cách chính diện. Người tốt giờ đây phải co cụm lại, im lặng…

Phóng Viên: Nghĩa là giá trị và quy luật thiện thắng ác đang bị đảo ngược thưa ông ?.

Gs. Nguyễn Đăng Hưng:

Đúng, nhưng cái ác hành hoành, người tốt, người có đạo đức, vốn là rường cột của xã hội họ lại phải lui về thúc thủ, bàng quan. Bởi vì nếu can thiệp họ sẽ gặp tai họa, gặp rắc rối. Chúng ta vẫn biết những câu chuyện về những nhà báo viết về chống tiêu cực phải vào tù, chúng ta biết những người viết ca khúc chống Trung Quốc bị bắt. Còn những người làm thất thoát hàng trăm tỷ đồng chẳng bị sao cả, có chăng cũng chỉ đi tù sơ sơ. Điều đó làm xã hội đang đi xuống chứ không phải đi lên.

Phóng Viên: Nhưng tại sao nhiều người nước ngoài tới Việt Nam lại bảo an ninh ở đây tốt thưa ông ?

Gs. Nguyễn Đăng Hưng:

Ở một số nước như Philippines, Indonesia, Pakistan, Thái Lan… thường hay có các phe quá khích Hồi Giáo, chống phương Tây. Người có đạo Hồi Giáo theo phe quá khích oán hận các nước phương Tây vì nhiều lý do lịch sử. Họ tổ chức khủng bố trên bình diện quốc tế, nhất là trong thế giới Hồi Giáo. Còn ở Việt Nam chính trị ổn định, Phật Giáo hiền hòa, Công Giáo cũng vậy, nên người nước ngoài tới đây yên tâm là không bị khủng bố. Nhưng chuyện cướp, giật đường phố, bạo lực học đường thì ngày càng trầm trọng.

Nền giáo dục tự hoại

Phóng Viên: Nhưng chúng ta không thể đổ hoàn toàn cho giáo dục. Bởi trong ca dao vẫn dạy “anh em như thể chân tay, thương người như thể thương thân…” Và vẫn còn nhiều tấm gương tốt trong xã hội ?

Gs. Nguyễn Đăng Hưng:

Hồi cách mạng năm 1789 ở bên Pháp, giáo dục nằm trong tay Nhà Thờ. Cách mạng thành công, trường học được giải phóng, việc giáo dục trở thành lĩnh vực của thế nhân, chính quyền dân sự. Tuy nhiên, người Công Giáo vẫn có có quyền mở lớp riêng cho họ… Những người theo đạo có quyền đi học ở mọi trường lớp và đức tin của những con chiên được Nhà Nước đảm bảo và tôn trọng.

Xin kể một kinh nghiệm cá nhân mà tôi đã thâu thập tại Bỉ. Tôi là người theo đạo Phật, vợ tôi là người Công Giáo. Các con tôi theo đạo bố nhưng vì trường Công Giáo rất nghiêm, tôi ghi tên các con theo học tiểu và trung học tại đây. Nhưng không vì thế mà chúng bị phân biệt. Ở trường con tôi đứng đầu lớp về môn học giáo lý Công Giáo, tuy chúng nó thưa với thầy cô là chúng nó theo đạo Phật. Nhưng các thầy cô ở đây nói rằng: "Con tin vào điều gì hãy giữ vừng niềm tin đó".

Đằng này chúng ta đưa chính trị vào trường học, nhồi nhét quan điểm một chiều trong trường học. Thay vì khuyến khích yêu thương nâng đỡ nhau để giải quyết các vấn đề thì có một thời ta lại khuyến khích đấu tranh để sống còn. Mà đấu tranh giai cấp là tiêu diệt kẻ thù, tiêu diệt thế lực thù địch… Thói ghen ghét, đố kỵ ở đâu cũng có, nhưng tôi có cảm nhận tại Việt Nam ngày nay, những tật xấu này có phần gay gắt một cách không bình thường.

Phóng Viên: Nghĩa là dù thế nào con người cũng phải sống với một niềm tin thưa ông ?

Gs. Nguyễn Đăng Hưng:

Vâng tôi có cảm tưởng niềm tin ở con người, ở tổ chức xã hội bị đánh mất. Khoảng trống không có gì bồi đắp nhất là khi lòng tin ở tâm linh bị phá vỡ hay không được vun xén nữa. Hậu quả nhãn tiền là người ta ngày càng coi trọng vật chất hơn là những giá trị tinh thần. Đã có một thời, không xa lắm, những giá trị tâm linh, tôn giáo bất cứ từ xu hướng nào bị bài bác. Thái độ vị kỷ, thực dụng trở thành bao trùm. Phạm trù thần linh phai mờ trong tâm thức con người và dần dần lòng tham lam của thân xác, của dục vọng sẽ không có gì ngăn cản nữa. Lương tâm con người chìm xuống, cái ác lên ngôi. Chẳng những kỷ cương xã hội bị phá vỡ mà luân thường đạo lý gia đình tan biến. Đây chính là hậu quả phải chờ đợi của việc đánh mất niềm tin, xoá bỏ đức tin…

Phóng Viên: Nghĩa là vấn đề nằm từ gốc chứ không phải ngọn thưa ông ?

Gs. Nguyễn Đăng Hưng:

Đúng thế. Một một lớp học tiểu học, sự giàu nghèo thể hiện ngay trong ăn mặc, trong những tiệc sinh nhật của từng đứa trẻ. Những đứa trẻ con nhà giàu có nếu không được dạy phải thương bạn, tôn

25

Page 26: Ephata 609

trọng bạn, chúng sẽ ra sao khi trưởng thành ? Những đứa trẻ nghèo khó luôn tự hỏi tại sao mẹ không mua cho con áo đẹp, tại sao mẹ không mua cho con cặp đẹp ? Tất cả những cái đó nếu không được giải tỏa bằng các bài học thường trực hàng ngày thì lâu dần sẽ ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách của một đời người. Giáo dục thường thức, giáo dục công dân đang có vấn đề. Tuổi trẻ xao nhãng học văn, ngán ngẩm học sử vì bài học, vì sách giáo khoa quá ư cứng nhắc, một chiều, không hấp dẫn, không sinh động. Giới trẻ ngày nay không biết sử ta, nhưng khi mở tivi lên, khắp mọi kênh chiếu toàn phim Trung Quốc. Tình trạng này đang dẫn đến tai hoạ trước mắt là tuổi trẻ ta hiểu biết lịch sử Trung Quốc hơn là lịch sử Việt Nam. Đó là điều không thể chấp nhận được.

Phóng Viên: Bởi vậy ông cho rằng xã hội hiện nay giống một câu chuyện cổ tích mà kết thúc là thảm họa ?

Gs. Nguyễn Đăng Hưng:

Tôi nói có ngoa đâu. Ba tôi, những người cùng thời với ông cả đời đi theo cách mạng. Trên đôi vai của họ là những vì sao, là khát vọng về một xã hội công bằng, là dân tộc độc lập, tự do và hạnh phúc. Lý tưởng sống ngày đó là tổ quốc trên hết, mình vì mọi người mọi người vì mình. Còn bây giờ mọi thứ lại dường như đi ngược lại hết. Ai có nhiều quyền người ấy có nhiều lợi ích nhất. Chứ người dân chân lấm tay bùn thì chẳng có gì để tham nhũng.

Phóng Viên: Vậy theo ông, bài học trường trực trong nhà trường phải nói về yêu thương ?

Gs. Nguyễn Đăng Hưng:

Đúng vậy, ở trường hiện nay tôi thấy ít có chủ trương dạy con thương yêu cha mẹ. Chỉ thấy dạy yêu tổ quốc nhưng người Việt Nam cũng như các dân tộc khác, căn bản là gia đình. Trẻ con phải được dạy yêu thương cái nôi là yêu cha mẹ, yêu anh em, yêu ông bà rồi mới yêu cái cây đa, yêu cái đình làng, cánh đồng lúa chin, con sông nho nhỏ uốn quanh làng quê, con đường phố rợp bóng mát cây xanh, rồi mới đến yêu tổ quốc với tất cả những yếu tố văn hoá, lịch sử đi theo: Tuyên Ngôn Độc Lập của Lý Thường Kiệt trên sông Như Nguyệt, Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi, Truyện Kiều của Nguyễn Du…

Vì với trẻ con tổ quốc là điều gì rất mông lung. 5, 6 tuổi biết thế nào là tình yêu tổ quốc. Tuổi này nó cần bàn tay ấm áp của mẹ, sự vuốt ve của cha, sự nâng đỡ của anh và bài học giáo dục mỗi ngày ở nhà, ở trường cũng phải thường xuyên như vậy. Nhưng dường như bài học thương yêu, đề cao những tâm hồn cao thượng, tình tương thân tương ái, nhiễu điều phủ lấy giá gương, thương người như thể thương thân, đã bị làm cho mờ nhạt từ lâu. Một môi trường như vậy mà bạo lực không xuất hiện mới là điều lạ.

MẸ LÀ BÓNG MÁT ĐỜI CONRiêng tặng K.L. và các bà mẹ nhân ngày Hiền Mẫu

Có lẽ hình ảnh đem lại nhiều ấn tượng nhất mỗi khi về thăm quê hương, và đặc biệt là lần về thăm gần đây năm 2013 là hình ảnh mẹ tôi, một người mẹ già, tóc bạc, lưng gù, và hàm răng cái còn, cái mất. Một người mẹ quê ngày ngày ngồi đó bên chiếc võng ru mấy đứa cháu và chắt. Ngày xưa thì mẹ đưa võng ru con, bây giờ con khôn lớn thì đưa võng ru cháu và chắt. Một người mẹ mà những nét nhăn nheo, cằn cỗi theo thời gian và tuổi đời đang hằn sâu trên khuôn mặt xinh đẹp thuở nào của một thời xuân trẻ. Một người mẹ mà nụ cười như mếu mỗi khi thấy con về từ xa xa. Nhưng dù vẻ đẹp của mẹ có phai nhòa theo tháng năm, nét tinh anh của mẹ có bị dòng đời xói mòn, nhưng tình yêu mẹ dành cho con vẫn nguyên vẹn, vẫn như thuở nào khi con còn bé nhỏ.

Như người cha già mỏi mòn chờ con và sung sướng, vui mừng, vội vã ôm choàng lấy đứa con sau bao ngày xa vắng trở về thế nào, thì cái tâm tình nôn nao và niềm vui hạnh phúc của mẹ tôi cũng òa vỡ như vậy mỗi lần tôi trở về thăm mẹ. Mỗi lần như thế là mẹ tôi vồn vã ra lệnh cho đứa con này, đứa cháu nọ:

- Mau bổ trái dừa tươi cho bác uống vì bác đi đường xa khát nước. - Mau mở quạt máy mạnh lên một chút để căn phòng khách mát. - Mau xịt thuốc muỗi để muỗi khỏi đốt bác. - Mau dọn cơm lên vì bác đi đường xa mệt và đói…

26

CÙNG CHIA SẺ

Page 27: Ephata 609

Và còn nhiều cái mau mau như thế khiến cho người con xa nhà bỗng trở nên quan trọng, được ưu đãi một cách đặc biệt.

Nhưng nếu để ý quan sát, thì qua những đối xử đặc biệt ấy hoàn toàn không phải vì người con mới từ Mỹ về. Không phải vì người con mang nhiều quà, bánh về cho mẹ; càng không phải vì người con ấy có chút ít tiền bạc để biếu mẹ. Nhưng tất cả chỉ vì “tình mẹ thương con.” Tình người mẹ thương và dành cho đứa con sau nhiều ngày vắng nhà như một đền bù vì đã không được mẹ quan tâm, săn sóc. Tôi học được và biết được tâm tình này sau những giờ phút mẹ con trao đổi, tâm sự.

Trong những ngày tháng ít ỏi, và trong những giờ phút chỉ có hai mẹ con ấy, mẹ tôi thường kể cho tôi nghe những chuyện đã qua, những chuyện có liên quan đến thầy tôi, đến tuổi thơ của tôi, nhất là những chuyện xảy ra sau khi thầy tôi qua đời khiến mẹ tôi phải cô đơn vì không những không còn thầy tôi mà còn không có tôi bên cạnh. Hoàn toàn không một lời than van ! Không một tiếng trách móc. Hoàn toàn không một tiếng “tiền”, tiếng “giàu có”… trong những trao đổi ấy. Nếu có nhắc đến tiền thì đại khái những mẩu đối thoại ấy như thế này:

“Những lần anh chị và các cháu gửi tiền về, mẹ không tiêu xài vào việc gì hết. Mẹ chỉ để dành mua mấy hộp sữa, còn bao nhiêu là cất đi để hễ có chuyện cần thì lại mang ra mà dùng.” Vừa nói, mẹ vừa chỉ tay lên chỗ này, chỗ nọ xem như có chút hãnh diện về cái tài tháo vát, xoay xở, dành dụm, và nhất là sự hy sinh cho con, cho cháu:

“Đây này cái trần nhà kia mới sửa mất hơn 4 triệu, cái bàn thờ kia mới sơn lại gần 2 triệu. Mộ của thầy và của bà ngoại mới sửa lại cũng tốn hơn 3 triệu. Còn dư chút nào nữa thì đứa này, đứa khác lâu lâu lại đến bà. Đấy có được đồng nào thì cũng chỉ lo cho con, cho cháu, cho nhà cửa thôi. Mẹ mà không dè xẻn thì làm gì có được như vầy, như vầy…”

Cũng trong những lúc chỉ có hai mẹ con như thế, tôi lại nghiệm ra thêm cái chân lý “làm mẹ” của người phụ nữ, dĩ nhiên, ở nơi mẹ của mình. Khi còn là sinh viên, khi đọc nhận xét của Freud: “không biết phụ nữ muốn gì” cứ tưởng là một nhận xét tiêu cực hay một nhận xét có vẻ coi thường người hỏi. Nhưng nay càng lớn, càng hiểu sâu hơn về lý lẽ cuộc đời, về tâm lý sống con người, mới hiểu rằng biết về người phụ nữ quả là khó, càng khó đo lường hơn tấm lòng bao la của một người mẹ. Có thể nói như Y Vân về lòng mẹ: “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình”. Tình thương của bà chiếu tỏa như ánh trăng rạng ngời trên bầu trời thanh bình của lòng con: “Tình mẹ thương con như vừng trăng tròn mùa thu”.

Ôi ! Tấm lòng của một người mẹ là tấm lòng của cả biển trời bao la cộng lại. Nó bao la, nó man mát, và nó vời vợi đến độ khó lòng mà hiểu nổi. Và như Y Vân đã diễn tả, dù đứa con sau này có đi đâu chăng nữa, chân trời góc biển, nơi mà nó muốn quay về vẫn là bóng mát của tấm lòng người mẹ:

Dù ai xa vắng trên đường sớm chiều về đâu.Dù khi mưa gió tháng ngày trong đời bể dâu.Dù cho phai nắng nhưng lòng thương chẳng lạt mầu.Vẫn mong quay về vui vầy dưới bóng Mẹ yêu.

Và văn hào Pháp Honoré de Balzac đã viết về trái tim của người mẹ: “Trái tim của người mẹ là một vực thẳm vô tận, ở đáy của nó luôn luôn tìm thấy sự tha thứ.” ( The heart of a mother is a deep abyss at the bottom of which you will always find forgiveness ).

Tổng Thống Abraham Lincoln thì suy tôn lời cầu nguyện của mẹ ông: “Tôi ghi nhớ những lời cầu của mẹ tôi và chúng luôn theo tôi. Những lời cầu đã bám sát tôi trong suốt cuộc đời tôi.” ( I remember

my mother’s prayers and they always followed me. They have clung to me all my life ).

Công nương Diana đã viết về vòng tay của người mẹ: “Vòng tay của người mẹ dịu dàng hơn bất cứ vòng tay của ai khác.” ( A mother’s arms are more comforting than anyone else’s ).

Những cử chỉ lo lắng của người mẹ dành cho con không chỉ là vòng tay vỗ về êm ái, và không chỉ lo cho con khi còn còn nhỏ. Mấy ngày ở với mẹ quả là hạnh phúc. Vòng tay săn sóc của mẹ luôn bao phủ và đầy ắp yêu thương.

Một hôm đang còn nằm nướng trong phòng để tránh cái nóng như thiêu như đốt bên ngoài, thì mẹ đập cửa và nói to: “Dậy mà đi tắm cho nó mát đi chứ ?” Hôm sau, sau bữa cơm trưa đang còn vui với mấy cháu nhỏ, thì mẹ lại giục: “Đi nghỉ trưa một chút cho nó khỏe đi chứ. Thức trưa mệt chết à !” Nghe sao mà nó thấm thía tình mẫu tử đến thế. Trước những tâm tình ấy, tự nhiên tôi liên tưởng đến

27

Page 28: Ephata 609

những lần bà xã vẫn thường nhắc mình sau mỗi lần đi làm về: “Anh đi tắm cho mát rồi ăn cơm !” Không lẽ cách thức chăm sóc con của bà mẹ và cách thức lo lắng của người vợ đối với chồng cũng có cùng một mẫu số như nhau ?

Chắc chắn là thế ! Trái tim người phụ nữ dù mẹ hay vợ, là nơi ngự trị của tình mẫu tử, một thiên chức thiên phú đã được ban cho họ. Bất ngờ thấy nhớ bà xã quá chừng. Nhớ lại mỗi lần được nhắc đi tắm, tôi thường tìm lý do này, lý do khác kéo dài cái lười của mình. Nhưng lười hay không thì vẫn thua cái tình mẫu tử thiêng liêng tiềm ẩn bên trong sự săn đón của một người vợ hiền. Vì một nghĩa nào đó, mình cũng như một “baby” mà nàng rất lấy làm hạnh phúc để săn sóc. Không biết các đấng ông chồng có hiểu ra chân lý này để yêu thương và đền đáp lại tình thương săn sóc của vợ hay không. Nếu vô tình mà không nhận ra được điều này thì thật là một thiếu sót, một sự lơ là đáng trách !

Mẹ tôi bây giờ đã già. Như một gốc cây cằn cỗi nhưng lại là một gốc cây hiếm quý. Trong những vườn cây bonsai mà người Nhật thường nuôi trong nhà, những gốc bonsai quí và hiếm là những gốc già và lâu năm. Người chơi cảnh thích những gốc cây già, cổ và lâu năm vì cái giá trị thời gian và sức sống tiềm ẩn của nó. Tôi cầu xin cho mẹ tôi sống lâu, bởi tôi chỉ sợ rằng sẽ có một lúc nào đó gốc cây cổ thụ ấy được cất đi khỏi phần đất nhân sinh này, và khi ấy bóng mát tinh thần của nó sẽ không còn để tôi nương tựa nữa.

Tổng Thống George Washington đã nói rất đúng: “Mẹ tôi là người phụ nữ tuyệt vời nhất tôi đã gặp. Tất cả những gì tôi có tôi đều nợ từ mẹ tôi. Tôi quy hướng mọi thành công trong đời cho nền giáo dục trí, đức và thể dục tôi nhận được từ người.” ( My mother was the most beautiful woman I ever saw. All I am I owe to my mother. I attribute all my success in life to the moral, intellectual and physical education I receive from her )

Hôm nay nhân Ngày Hiền Mẫu, hướng nhìn về bên kia bờ Thái Bình nơi đó có người mẹ hiền đang chờ đợi tôi, tự nhiên tôi thấy nhớ mẹ, thương mẹ. Tôi muốn như những ngày còn thơ trẻ, chạy về ôm choàng lấy mẹ, hôn lên trán mẹ, và nói với mẹ một câu: “Mẹ ơi ! Con yêu mẹ !”

TRẦN MỸ DUYỆT, Ngày Hiền Mẫu 11.5.2014

MỘT THOÁNG SUY TƯMột tuần trước Tết Giáp Ngọ vừa qua, gia đình tôi

gói bánh tét chung với người anh họ. Cùng quây quần ngồi gói bánh có một thầy Chủng Sinh sắp chịu chức Linh Mục. Thầy hớn hở: “Vui quá ! Cả đời con chưa bao giờ được gói bánh ngày xuân...”

Gói được nửa chừng, tiếng chuông gọi cửa báo cho biết có hai vợ chồng già thuộc giáo phái Nhân Chứng Jehovah ( The Jehovah's Witnesses ) đến thăm. Anh tôi dặn đừng cho vào, còn thầy Chủng Sinh hớn hở: “May quá, con vừa học được một mớ, muốn cùng tranh luận với họ.” Tôi chỉ mỉm cười: ”Vậy là thầy không biết về Nhân Chứng Jehovah rồi. Họ rất hạnh phúc khi có dịp đàm đạo về Kinh Thánh với bất cứ ai gặp trên đường. Cái mình mới tiếp thu khác xa với điều đã được mang ra thực hành nhiều năm: họ đọc Kinh Thánh hàng ngày...”

Việc từ chối mở cửa của anh tôi cũng dễ hiểu: anh có một người bạn thân hiện làm chủ hai nhà hàng khá nổi tiếng ở Montréal, bên Canada. Một gia đình Công Giáo gương mẫu có 6 người con. Nhưng từ khi người con gái thứ hai vào Đại Học, quen và kết hôn với người chồng thuộc Nhân Chứng Jehovah, gia đình bạn của anh tôi có nhiều xáo trộn: cô trở về nhà rủ anh chị em gia nhập Chứng Nhân, phê phán Đức Tin cổ truyền…

Tôi quen biết với các Chứng Nhân đã nhiều năm qua. Sự hiện diện của hai ông bà là một hạnh phúc trong gia đình: tôi ngồi nghe giảng Lời Chúa thân tình như bạn bè. Mỗi khi ra về họ đều biếu miễn phí những tờ báo để đọc thêm. Đọc xong tôi mang ra thư viện để người khác cũng có dịp hấp thụ. Những tài liệu ấy là do các Chứng Nhân đóng góp bằng số tiền chân chính vắt từ mồ hôi nước mắt. Đa số họ đều là những người nghèo. Những đồng tiền dành dụm cho việc in báo phát miễn phí thường lưu luyến không muốn rời đôi bàn tay thô nhám của người chủ cần cù lao động, nhưng vì giá trị của Tin Mừng nên đành buông lời vĩnh biệt.

28

CÙNG NGẪM NGHĨ

Page 29: Ephata 609

Tôi yêu thích và kính trọng những người đi rao giảng Tin Mừng ( dù là khác mình ) nên chưa bao giờ để họ về tay không: lúc nải chuối, vài quả cam, táo, hoa trái hoặc mớ rau hái trong vườn. Lúc ra về tôi hay dẫn họ đến trước tượng Mẹ Maria đặt trước cửa nhà ( BBT: Ảnh Mẹ Maria do chính tác giả chụp gửi kèm theo bài viết này ) rồi kể chuyện:

Đây là bức tượng Mẹ Maria bị gãy cổ, tôi xin được của một gia đình người Mỹ muốn vứt đi. Khi mang về, tôi dùng super glue ráp đầu lại.

Một dạo, vào mỗi buổi chiều, tôi thường thấy có anh thương binh người hàng xóm, Mỹ trắng, mới được giải ngũ từ chiến trận Irak trở về, dẫn hai đứa con gái, 6 và 7 tuổi, đến cầu nguyện trước tượng Mẹ. Cầu nguyện xong, anh dẫn hai con đến rờ đầu Mẹ, chúng lần theo vết nứt nơi cổ rồi đặt vào những nụ hôn tinh tuyền thánh thiện. Có lần thấy anh mếu máo tay chậm nước mắt, tôi đến hỏi chuyện. Anh kể vợ anh có bạn trai mới, đang làm đơn xin ly dị, đòi bắt hai đứa con. Anh ta nhờ tôi thêm lời cầu nguyện mong người vợ chuyển lòng tìm về mái ấm… Mãi từ đó đến hôm nay, tôi chưa bao giờ gặp lại ba cha con dễ thương ấy nữa.

Tôi cũng kể: dù Mẹ Maria của tôi là một người... tàn tật, nhưng sẽ luôn mãi là người Mẹ yêu dấu của gia đình tôi. Giáo Hội Công Giáo đã đón nhận tôi từ lúc mới chào đời, dìu tôi ra khỏi cõi đời u minh vắng bóng Thượng Đế, đồng hành những chặng đời lưu vong cho đến ngày nằm xuống giữa lòng đất lạnh. Giáo Hội ấy dù để cả cuộc đời nghiên cứu cũng không thể hiểu thấu Giáo Lý huyền nhiệm… lẽ nào lại đón nhận niềm tin mới dù chỉ mới nghe qua sau vài lần hội kiến ?!?

Càng gặp gỡ những người khác tôn giáo tôi càng thêm yêu mến và xót xa cho Giáo Hội Công Giáo của mình. Yêu mến vì nhận biết Giáo Hội của tôi đang sở hữu một nền tảng Đức Tin nguyên vẹn từ thời các Tông Đồ, khởi đi từ Thánh Phêrô cho đến tận thế: Đức Tin Công Giáo như sợi chỉ đỏ không bao giờ thay đổi, ngay cả Đức Giáo Hoàng cũng phải luôn giữ mình nương theo sợi chỉ đó trong các lời giáo huấn. Nhưng cũng không kém chua xót khi đọc những nhận định của các vị có uy tín trong Giáo Hội quê nhà viết:

“… Sợ đi truyền giáo đó là tình trạng chung của các tín hữu Giáo Dân… Có thể nói họ rất gương mẫu và nhiệt tình trong mọi công việc của Giáo Xứ, nhưng khi đề cập đến việc truyền giáo hay mời gọi đi truyền giáo thì họ trả lời là bận nhiều việc, và không biết phải truyền giáo như thế nào…

… Trong các dịp lễ lớn, cụ thể là Lễ Chúa Giáng Sinh, các Xóm Đạo đua nhau làm hang đá, đèn ngôi sao; các xóm đua nhau xem xóm nào, nhà nào hoành tráng hơn... ! Hội đoàn này tổ chức lễ làm sao phải to hơn hội đoàn kia. Phải chăng đó là “căn bệnh trầm kha” trong nếp sống Đạo tại Việt Nam ? Và nếp sống

Đạo ấy có liên quan đến “tính đoàn lũ”, nghĩa là người ta đi Lễ thì mình cũng đi Lễ, người ta làm cái này thì mình cũng làm theo mà không biết là mình làm vì cái gì ?...

… Cỡi ngựa xem hoa, làm qua loa đại khái đang là tình trạng phổ biến tại các Giáo Xứ và trong các tổ chức khác. Giáo Hội mở Năm Thánh Truyền Giáo, lễ ra quân rất là hoành tráng, nhưng xong rồi thì đâu vào đấy, tướng chẳng thấy mà quân cũng chẳng còn !...

…Họ họ, xứ xứ... lo xây cất Nhà Thờ Nhà Thánh. Không biết bao nhiêu tiền của tập trung vào các công trình xây cất ! Liệu có thừa giấy vẽ voi khi một Giáo Xứ ở vùng quê nghèo có khoảng 1.000 Giáo Dân mà lại xây dựng một ngôi Thánh Đường ngốn hết 4 – 6 tỉ... ? Thử hỏi Giáo Xứ ấy dành tiền cho việc truyền giáo được bao nhiêu ?” ( Thiếu lửa truyền giáo tại Việt Nam ? – FX. Trần Kim Ngọc, OP ).

“…Kết thúc Năm Thánh Truyền Giáo 2004, Văn Phòng Thư Ký Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã từng làm bản thống kê về các hoạt động truyền giáo và con số người tòng giáo trên toàn quốc và đã kết luận: “Qua những số liệu trên chúng con thấy rằng kết quả của Năm Thánh Truyền Giáo vừa qua còn hạn chế, chưa gây được ý thức truyền giáo cho nhiều người, số người theo Đạo còn thấp, số người lớn được rửa tội năm vừa qua chưa được 30.000 người, những hoạt động xã hội còn ít… ( Hiệp Thông số 26-27, trang 118 ). Trong số chưa được 30.000 người trên thử hỏi có được bao nhiêu người vào Công Giáo không vì lý do hôn nhân ?...

… Mưa dầm, thấm sâu. Đời sống Đạo của Kitô hữu Việt Nam vì thế cũng dường như bị giới hạn nơi các hình thức “kinh, lễ, rước xách”. Khi trở về với đời thường, người ta sao thì tôi vậy. Lắm khi người ta làm bậy, tôi làm thinh mà có khi cũng làm theo. Cuộc sống vì thế như bị tách hai phần, phần Đời và phần Đạo khá rõ rệt và ít có liên hệ đến nhau… Một hiện thực của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam: Giữ Đạo thì xem ra khá kỹ, khá nghiêm, còn truyền giáo thì hình như bị xem nhẹ nếu không muốn

29

Page 30: Ephata 609

nói là xao nhãng không chỉ ở một vài nơi mà có thể là tại nhiều Giáo Phận… ( Mạn bàn về việc Truyền Giáo – Lm. Nguyễn Văn Nghĩa ).

Bạn thân mến,

Tôi không có thói quen phê phán những niềm tin khác dù biết rằng đã mang thân phận con người, khuyết điểm nơi từng cá nhân, tôn giáo nào cũng có. Biết tri ân đón nhận những lời phê phán thiện ý của người khác về mình và khắc phục sửa chữa không bao giờ là điều quá muộn. Đây là cũng là điều tôi muốn viết cho chính mình.

Đức Giáo Hoàng Gioan 23, hồi Ngài còn là Hồng Y Giáo Chủ Venezia, một Linh Mục trong Tổng Giáo Phận đã bất bình về cung cách đường lối làm việc của ngài. Vị Linh Mục đó đã viết thư thẳng thừng phê bình chỉ trích bằng những lời rất nặng. Nhưng ngài không nói gì cả, chỉ âm thầm đem bức thư đó ghép vào sách kinh nguyện đọc hằng ngày để nhớ cầu nguyện cho vị Linh Mục đó. Khi ngài được bầu chọn trở thành Đức Giáo Hoàng, chính vị Linh Mục đó cùng với Giáo Dân trong xứ về Vatican xin vào triều yết chúc mừng vị Cha Chung ngày xưa và hôm nay của mình. Sau buổi triều yết, ngài gọi riêng vị Linh Mục đó vào phòng, mở sách kinh nguyện lấy bức thư cũ ra và nói lời cám ơn vị Linh Mục đó trong tâm tình khiêm nhượng: “Tôi cám ơn cha, vì bức thư của cha, mà tôi biết lỗi sửa mình hằng ngày cho nên người tốt. Tôi ghép giữ thư của cha trong sách nguyện, và đọc nó hằng ngày để xét mình. Tôi cám ơn cha”. Nói xong Đức Gioan 23 ôm hôn vị Linh Mục đó với lòng biết ơn rất thân ái.

Lạy Mẹ Maria, xin đốt lên lửa khao khát truyền giáo trong lòng chúng con. Và rồi xin Mẹ đồng hành với chúng con trong việc cưu mang và hạ sinh Chúa Giêsu cho mọi người…

NGƯỜI TÔI TỚ VÔ DỤNG, Boston, 4.2014

466. HOÀN TẤT QUYÊN GÓP QUỸ MẸ HẰNG CỨU GIÚP ĐIỀU TRỊ LAO MÀNG NÃO CHO

ANH LÊ THÀNH NAM Ở AN GIANGCô Isave Nguyễn Thị Nỡ, cộng tác viên Trung Tâm Mục Vụ DCCT, giới thiệu anh LÊ THÀNH

NAM, sinh năm 1981, hiện ngụ tại ấp Voi 1, xã Núi Voi, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang, điện thoại: 01657.899.608. Vợ chồng anh Nam sống chung với mẹ, có một con mới 5 tuổi, vợ lo nội trợ, còn anh làm nghề cắt tóc, thu nhập chỉ tạm đủ sống. Anh Nam bị lao màng não, lại thêm suy hô hấp. Từ lúc anh nhập viện ngày 16.11.2014, gia đình đã bán đi tất cả những gì có giá trị, vay mượn và cầm cố luôn căn nhà để chữa trị cho anh. Chi phí đã lên đến 177 triệu đồng. Hiện tại gia đình đã xin chuyển anh về bệnh viện tỉnh để tiếp tục điều trị vì không đủ tiền, anh lại bị liệt cần được chăm sóc tại nhà.

Ngày 3.5.2014, chúng tôi xin mở Quỹ Trợ Giúp điều trị lao màng não cho anh Lê Thành Nam với số tiền là 40.000.000 VND. Mọi liên hệ trợ giúp xin gửi về cho Lm. Giuse Lê Quang Uy, TTMV DCCT, 38 Kỳ Đồng, P. 9, Q. 3, Sàigòn. Email: [email protected]

Danh sách các ân nhân gần xa:

Hội Bác Ái Phanxicô ( Hoa Kỳ ): 4.000.000 VNDChuyển từ Quỹ giúp chị Thu Thuỷ: 400.000 VND4 ân nhân ẩn danh ( Sàigòn ): 2.000.000 VND2 ân nhân ẩn danh ( Sàigòn + Cali ): 200 USD + 500.000 VNDBạn Fiat Lily Phạm Uyên ( Sàigòn ): 500.000 VND5 người dự Lễ Xa Quê DCCT ( Sàigòn ): 3.700.000 VND1 em bé 13 tuổi ( Sàigòn ) để dành tiền lì xì: 1.500.000 VNDGia đình Fiat Bảo Ngọc ( Đồng Nai ): 1.000.000 VNDAnh Hùng ( Đà Nẵng ): 500.000 VNDBạn Vũ Thị Phương Trang ( Sàigòn ): 1.500.000 VNDMột người ẩn danh ( Phú Yên ): 500.000 VNDCô Liên và một người bạn ( Na Uy ): 400 USDMột người quen cô Vân ( Sàigòn ): 1.000.000 VNDCô Phượng, Khoá Agape 34 ở DCCT ( Sàigòn ): 200.000 VNDMột ân nhân ẩn danh ở Boston ( Hoa Kỳ ): 200 USDCô Trung ở quận Tân Phú ( Sàigòn ): 200 CNDTrích chia sẻ của bà Trần Thị Tuyết Mơ ở Newpel ( Úc ): 100 AUD

30

CÙNG TƯƠNG TRỢ

Page 31: Ephata 609

Tổng kết đến 17g thứ bảy 10.5.2014: 19.300.000 VND + 800 USD + 200 CND + 100 AUD = 40.000.000 VND

Như vậy, sau 8 ngày quyên góp, chúng ta đã có được 40 triệu đồng giúp anh Lê Thành Nam. Xin tạ ơn Chúa, biết ơn Mẹ và cám ơn quý ân nhân gần xa

31